ephata 601

48
E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com "BIỂN NHỚ TÊN EM GỌI VỀ..." Vào Mùa Chay, Hội Thánh giới thiệu với chúng ta những gương mặt, qua đó, tình thương và quyền năng của Chúa được biểu lộ một cách rõ rệt trong cuộc đời của họ. Một trong những gương mặt tiêu biểu đó, chính là Môsê. Bài đọc thứ nhất trong Kinh Sách ngày thứ sáu sau Lễ Tro đã bắt đầu giới thiệu gương mặt này. Môsê được nói đến trong sách Xuất Hành. Ông sinh ra trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, Pharaô đã ra lệnh giết chết tất cả các bé trai Do Thái khi chào đời, mẹ ông lén lút nuôi ông, nhưng không thể kéo dài lâu được nữa, bèn bỏ con mình vào một cái giỏ thả trôi sông, xuôi theo giòng nước, nơi có công chúa của Ai Cập đang tắm. Cô chị khôn ngoan của em bé vẫn lần mò theo dõi cái giỏ đang lững lờ trôi trên sông. Công chúa Ai Cập đã vớt được cái giỏ có chú bé nằm trong đó, nàng nhận bé làm con nuôi, qua trung gian của chị bé, công chúa nhờ chính mẹ bé cho bé bú với tư cách là người vú nuôi. Tên Môsê của em bé có ý nghĩa là được vớt từ nước lên ( Xh 2, 1 – 10 ). Câu 11 – 13, chương 2, sách Xuất Hành kể lại rằng: Môsê lớn lên trong triều đình của người Ai Cập, nhưng lòng ông vẫn nhớ và hướng về đồng bào ruột thịt của mình đang chịu cảnh nô lệ khổ đau, chính giòng sữa mà mẹ ông cho ông bú đã nuôi tâm hồn ông vẫn mãi là người Do Thái chứ không phải là người Ai Cập. Kình Thánh nói vỏn vẹn một câu: “Ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm” ( c. 11 ), chỉ một câu ấy thôi đủ để diễn tả lòng ông Môsê. Ra ngoài, ông ra khỏi chăn êm nệm ấm, ra ngoài, ông ra khỏi sự phú quí giàu sang, ra ngoài, ông ra khỏi quyền cao chức trọng, ra ngoài, ông ra khỏi những đặc ân đặc lợi. Xướng đáp Kinh Sách còn nhận định như sau: “Nhờ Đức Tin, ông Môsê khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của con gái vua Pharaô; ông thà chịu ngược đãi cùng với dân Thiên Chúa còn hơn được hưởng cái sung sướng chóng qua“. Môsê đã chọn lập trường khổ chung cái khổ của dân, đau chung cái đau của dân, chia sẻ nỗi đằng cay với dân của mình nhờ đức tin, cho dù ông đang đầy đủ điều kiện sống trong 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 601 – CHÚA NHẬT

Upload: vu-mai-jmv

Post on 27-Jun-2015

89 views

Category:

Spiritual


0 download

DESCRIPTION

Trân trọng giới thiệu Tuần báo điện tử EPHATA của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

TRANSCRIPT

Page 1: Ephata 601

E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com

"BIỂN NHỚ TÊN EM GỌI VỀ..."Vào Mùa Chay, Hội Thánh

giới thiệu với chúng ta những gương mặt, qua đó, tình thương và quyền năng của Chúa được biểu lộ một cách rõ rệt trong cuộc đời của họ. Một trong những gương mặt tiêu biểu đó, chính là Môsê.

Bài đọc thứ nhất trong Kinh Sách ngày thứ sáu sau Lễ Tro đã bắt đầu giới thiệu gương mặt này. Môsê được nói đến trong sách Xuất Hành. Ông sinh ra trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, Pharaô đã ra lệnh giết chết tất cả các bé trai Do Thái khi chào đời, mẹ ông lén lút nuôi

ông, nhưng không thể kéo dài lâu được nữa, bèn bỏ con mình vào một cái giỏ thả trôi sông, xuôi theo giòng nước, nơi có công chúa của Ai Cập đang tắm. Cô chị khôn ngoan của em bé vẫn lần mò theo dõi cái giỏ đang lững lờ trôi trên sông. Công chúa Ai Cập đã vớt được cái giỏ có chú bé nằm trong đó, nàng nhận bé làm con nuôi, qua trung gian của chị bé, công chúa nhờ chính mẹ bé cho bé bú với tư cách là người vú nuôi. Tên Môsê của em bé có ý nghĩa là được vớt từ nước lên ( Xh 2, 1 – 10 ).

Câu 11 – 13, chương 2, sách Xuất Hành kể lại rằng: Môsê lớn lên trong triều đình của người Ai Cập, nhưng lòng ông vẫn nhớ và hướng về đồng bào ruột thịt của mình đang chịu cảnh nô lệ khổ đau, chính giòng sữa mà mẹ ông cho ông bú đã nuôi tâm hồn ông vẫn mãi là người Do Thái chứ không phải là người Ai Cập. Kình Thánh nói vỏn vẹn một câu: “Ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm” ( c. 11 ), chỉ một câu ấy thôi đủ để diễn tả lòng ông Môsê. Ra ngoài, ông ra khỏi chăn êm nệm ấm, ra ngoài, ông ra khỏi sự phú quí giàu sang, ra ngoài, ông ra khỏi quyền cao chức trọng, ra ngoài, ông ra khỏi những đặc ân đặc lợi.

Xướng đáp Kinh Sách còn nhận định như sau: “Nhờ Đức Tin, ông Môsê khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của con gái vua Pharaô; ông thà chịu ngược đãi cùng với dân Thiên Chúa còn hơn được hưởng cái sung sướng chóng qua“. Môsê đã chọn lập trường khổ chung cái khổ của dân, đau chung cái đau của dân, chia sẻ nỗi đằng cay với dân của mình nhờ đức tin, cho dù ông đang đầy đủ điều kiện sống trong bình an, sung sướng. Ông không cần tìm, không cần thỏa hiệp, không cần chạy theo tâng bốc kẻ quyền thế, không cần vào hùa chà đạp người khác, ông vẫn có đầy đủ điều kiện để sống giàu sang phú quí.

Nhớ cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ với mọi người về sứ mạng mục tử của ngài là: “mang lấy mùi chiên”. Chắc chắn mùi chiên không lấy gì là thơm tho, vì hiện nay rất nhiều chiên bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp. Chẳng có chiên nào bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp mà lại thơm tho cả, chúng mang đầy thương tích, thân mình bị ứa máu, lở loét, lấm lem và dơ bẩn. Nhưng mang lấy mùi chiên cũng là mang lấy mùi của Con Chiên Thiên Chúa, Con Chiên của vinh quang, chiến thắng sự dữ, đem lại sự sống đời dời, Con Chiên thơm mùi cây gỗ hồng phúc, Con Chiên thơm mùi máu cứu độ, Con Chiên thơm mùi bánh trường sinh. Bánh trường sinh, máu cứu độ, gỗ hồng phúc từ thân mình đầy những vết thương.

1

NĂM THỨ 14 – SỐ 601 – CHÚA NHẬT 9.3.2014

Page 2: Ephata 601

Ông Môsê không thể nào quên mình từ đâu tới, mình ở đâu ra, nơi nào là cội nguồn của mình, ông không thể nào quên mà quay lưng với anh em cốt nhục của mình. Tiếng sóng của giòng sông vẫn vang dội trong ông, trong hồn ông, nhắc ông quay về với đất nước, với dân tộc, với lòng tin, với cội nguồn. Nhắc ông chấp nhận sự chịu ngược đãi để được đồng hành với cội nguồn của ông. Chính ý thức này đưa ông tới sứ mạng mà Chúa sẽ chọn ông.

Có tiếng sóng biển của cội nguồn nào thức tỉnh những ai đang tìm thỏa hiệp, đon đả quỵ luỵ, và cấu kết với sự dữ không nhỉ ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 9.3.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:"BIỂN NHỚ TÊN EM GỌI VỀ..." ( Lm. Vĩnh Sang ) ................................................................................ 01SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2014 CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ ( Bản dịch Lm. Trần Đức Anh ) ....... 02TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – Chương 4 ( ĐTC. Phanxicô – Bản dịch Joseph C. Pham ) ... 05TÊN CÁM DỖ ( Charles Singer, Prier ) ................................................................................................... 08CHIẾN THẮNG CÁM DỖ ........................................................................................................................ 09ĐỨNG VỀ PHÍA THIÊN CHÚA ĐỂ CHỐNG LẠI TÊN CÁM DỖ ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............. 11PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) .............................................. 12PARAGUAY – TÂM TÌNH MÙA CHAY 2014 ( Lm. Antôn Trần Xuân Sang ) ......................................... 15CHAY TỊNH THEO NỀN TẢNG KINH THÁNH ( Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) ................................... 17THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC VÀ HOẠT ĐỘNG TÍNH DỤC – Kỳ 4 ( Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn ) .......... 20TẤM GƯƠNG MỤC TỬ ( Trần Mạnh Trác ) ........................................................................................... 24PHONG CÁCH PHANXICÔ – Bài 6: ( Nguyễn Trung ) ........................................................................... 25NGƯỜI CÔNG GIÁO TỐT MỌI THỜI ( Phùng Văn Hoá ) ..................................................................... 27“HÃY ĐỒNG HÀNH, ĐỪNG KẾT ÁN NHỮNG NGƯỜI ĐỔ VỠ HÔN NHÂN” ( ĐTC Phanxicô ) ........... 30TÂM TÌNH VỚI NGƯỜI HỌC TRÒ CŨ ( Hạnh Nguyên ) ....................................................................... 34

SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2014 CỦA ĐỨC THÁNH CHA "Ngài đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta

được giàu có nhờ cái nghèo của Ngài” ( Xc. 2 Cr 8, 9 )

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp Mùa Chay, tôi muốn cống hiến anh chị em vài suy tư có thể giúp anh chị em trong hành trình hoán cải bản thân và cộng đồng. Tôi lấy hứng từ câu nói của thánh Phaolô: "Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài” ( 2 Cr 8, 9 ). Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu Kitô thành Côrintô để khích lệ họ quảng đại trong việc giúp đỡ các tín hữu thành Giêrusalem ở trong tình trạng

túng thiếu. Những lời này của Thánh Phaolô nói gì với các Kitô hữu chúng ta ngày nay ? Lời nhắn nhủ trở nên nghèo khó, sống thanh bần theo tinh thần Tin Mừng có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay ?

Ân sủng của Chúa Kitô

Trước tiên những lời ấy nói với chúng ta đâu là đường lối của Thiên Chúa. Thiên Chúa không tỏ mình bằng những phương thế quyền lực và giàu sang của trần thế, nhưng bằng những phương thế yếu đuối và nghèo nàn: "Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em..." Chúa Kitô, Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha về quyền năng và vinh quang, đã trở nên nghèo; Ngài đã xuống giữa chúng ta, trở nên gần gũi với mỗi người chúng ta; Ngài đã cởi bỏ, "trở nên trống rỗng", để trở nên giống chúng ta hoàn toàn ( Xc. Pl 2, 7; Dt 4, 15 ).

2

CÙNG LẮNG NGHE

Page 3: Ephata 601

Mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa cao cả dường nào ! Chính tình yêu của Thiên Chúa là nguyên nhân mầu nhiệm ấy, một tình yêu là ân sủng, lòng quảng đại, ước muốn trở nên gần gũi, và không do dự hiến thân và hy sinh vì những thụ tạo mà Ngài yêu mến. Lòng bác ái, tình yêu, có nghĩa là chia sẻ trong mọi sự số phận của người mình yêu. Tình yêu làm cho trở nên giống nhau, kiến tạo sự bình đẳng, phá đổ các bức tường và những ngăn cách. Và đó là điều Thiên Chúa đã làm với chúng ta. Thực vậy, Chúa Giêsu "đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người trong chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi" ( Gaudium et Spes, 22, 2 ).

Lý do thúc đẩy Chúa Giêsu trở nên nghèo không phải là sự nghèo nàn tự nó, nhưng, như Thánh Phaolô đã nói, "...là để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài". Đây không phải là một kiểu chơi chữ, một kiểu nói để gây ấn tượng ! Trái lại đó là một sự tổng logic của Thiên Chúa, logic yêu thương, lôgic Nhập Thể và Thập Giá. Thiên Chúa đã không làm cho Ơn Cứu Độ rơi xuống chúng ta từ trên cao, như kẻ thương người lấy của dư thừa của mình mà làm phúc bố thí. Đó không phải là tình yêu của Chúa Kitô !

Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Giođan và chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Ngài không hành động vì thấy cần phải thống hối, hoán cái; Ngài làm như thế để nhập hàng giữa dân chúng là những người đang cần ơn tha thứ, Ngài ở giữa chúng ta là những người tội lỗi, và gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Đó chính là con đường Ngài chọn để an ủi chúng ta, cứu thoát chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi tình trạng lầm than. Chúng ta có ấn tượng mạnh vì Thánh Tông Đồ nói rằng chúng ta đã được giải thoát không phải nhờ sự giàu sang của Chúa Kitô, nhưng nhờ cái nghèo của Ngài. Tuy Thánh Phaolô biết rõ "những sự phong phú khôn lường của Chúa Kitô" ( Ep 3, 8 ), "là người được thừa tự mọi sự" ( Dt 1, 2 ).

Như thế, cái nghèo mà Chúa Giêsu dùng để giải thoát chúng ta và làm cho chúng ta trở nên giàu sang, là gì ? Thưa đó chính là cách thức Ngài yêu thương chúng ta, Ngài trở nên người thân cận của chúng ta như Người Samari nhân lành đến gần người bị bỏ mặc giở sống giở chết bên vệ đường ( Xc. Lc 10, 25tt ). Điều mang lại cho chúng ta tự do chân thực, Ơn Cứu Độ thực sự và hạnh phúc đích thực chính là tình yêu thương xót, dịu dàng và chia sẻ của Ngài.

Cái nghèo của Chúa Kitô làm cho chúng ta được giàu sang chính là sự kiện Ngài làm người, gánh lấy những yếu đuối của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, thông truyền cho chúng ta lượng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Cái nghèo của Chúa Kitô là sự giàu sang lớn nhất: Chúa Giêsu giàu lòng tín thác vô biên nơi Thiên Chúa Cha, tín thác nơi Cha trong mọi lúc, luôn luôn và chỉ tìm kiếm thánh ý và vinh danh Thiên Chúa. Ngài giàu sang như một trẻ em giàu sang khi cảm thấy được yêu thương và mến yêu cha mẹ, và không nghi ngờ một giây phút nào về tình thương và sự dịu dàng của cha mẹ.

Sự giàu sang của Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa; tương quan có một không ai với Chúa Giêsu chính là đặc ân cao cả nhất của Đấng Messia nghèo khó này. Khi Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy mang lấy "ách nhẹ nhàng" của Ngài, Ngài mời gọi chúng ta hãy trở nên giàu có bằng "cái nghèo giàu sang" và "sự giàu sang nghèo" của Ngài, chia sẻ với Ngài tinh thần con thảo và huynh đệ, trở nên con cái trong Con của Ngài, là anh em trong người Anh Trưởng Tử ( Xc. Rm 8, 29 ).

Người ta nói rằng có một điều sầu muộn duy nhất, đó là sầu muộn vì không được nên thánh ( L. Bloy ); chúng ta cũng có thể nói rằng có một sự lầm than đích thực duy nhất, đó là: không sống như con cái Thiên Chúa và như những người em của Chúa Kitô.

Chứng tá của chúng ta

Chúng ta có thể nghĩ rằng "con đường" nghèo như thế là con đường của Chúa Giêsu, trong khi chúng ta, là những người đến sau Ngài, chúng ta có thể cứu vớt thế giới bằng những phương thế thích hợp của con người. Không phải như vậy. Trong mọi thời đại và mọi nơi, Thiên Chúa tiếp tục cứu vớt con người và thế giới nhờ cái nghèo của Chúa Kitô, Đấng trở nên nghèo trong các Bí Tích, trong Lời Chúa và trong Giáo Hội của Ngài, là một dân tộc gồm những người nghèo. Sự giàu sang của Thiên Chúa không thể đến với chúng ta qua sự giàu sang của chúng ta, nhưng luôn luôn và chỉ qua cái nghèo của chúng ta, bản thân và cộng đoàn, được Thần Khí của Chúa Kitô linh hoạt.

Noi gương Thầy Chí Thánh, các Kitô hữu chúng ta được kêu gọi hãy nhìn đến tình cảnh lầm than của anh chị em chúng ta, động chạm đến, gánh lấy và hoạt động cụ thể để thoa dịu những lầm

3

Page 4: Ephata 601

than ấy. Lầm than ( miseria ) không đồng nghĩa với nghèo ( povertà ); lầm than là sự nghèo nàn không có lòng tín thác, không có tình liên đới, không có hy vọng.

Chúng ta có thể phân biệt ba loại lầm than: lầm than vật chất, lầm than luân lý và lầm than tinh thần. Lầm than vật chất vẫn thường được gọi chung là sự nghèo khổ và đè nặng trên những người sống trong hoàn cảnh không xứng đáng với con người: những người bị thiếu các quyền cơ bản và nhu yếu phẩm như lương thực, nước, những điều kiện vệ sinh, công ăn việc làm, khả năng phát triển và tăng trưởng về văn hóa.

Đứng trước lầm than này, Giáo Hội cống hiến dịch vụ của mình, diakonia, để đi gặp gỡ những người túng thiếu và chữa lành những vết thương làm xấu xí khuôn mặt của nhân loại. Nơi những người nghèo và những người rốt cùng, chúng ta nhìn thấy tôn nhan của Chúa Kitô; khi

yêu thương và giúp đỡ những người nghèo, chúng ta yêu mến và phụng sự Chúa Kitô. Sự dấn thân của chúng ta cũng nhắm làm sao để chấm dứt những vụ vi phạm phẩm giá con người trên thế giới, những kỳ thị và lạm dụng là nguồn gốc gây ra lầm than trong bao nhiêu trường hợp. Khi quyền lực, sa hoa và tiền bạc trở thành thần tượng, thì người ta coi chúng quan trọng hơn đòi hỏi phải phân phối công bằng những của cải. Vì thế, lương tâm cần hoán cải, trở về với công lý, sự bình đẳng, sự điều độ và chia sẻ.

Điều không kém phần gây lo âu chính là lầm than luân lý, nó hệ tại trở nên nô lệ cho những tật xấu và tội lỗi. Bao nhiêu gia đình lo âu vì có một trong những phần tử của mình, thường là người trẻ, nghiện ngập rượu, ma túy, cờ bạc và dâm ô ! Bao nhiêu người đã đánh mất ý nghĩa cuộc sống, thiếu những viễn tượng tương lai và mất hy vọng ! Và bao nhiêu người bị bó buộc sống trong lầm than luân lý do những điều kiện xã hội bất công, thiếu công ăn việc làm, khiến họ không còn phẩm giá mang cơm bánh về nhà, thiếu bình đẳng trong các quyền giáo dục và sức khỏe.

Trong những trường hợp ấy, lầm than luân lý có thể được gọi là một sự bắt đầu tự sát. Hình thức lầm than này cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế suy sụp, nó luôn gắn liền với lầm than tinh thần khi chúng ta xa lìa Thiên Chúa và từ khước tình thương của Ngài. Nếu chúng ta cho rằng mình không cần Thiên Chúa, Đấng đang giơ tay cho chúng ta trong Chúa Kitô, vì chúng ta nghĩ mình tự mãn, thì chúng ta đang đi vào con đường thất bại. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu vớt và giải thoát chúng ta thực sự.

Tin Mừng là thuốc giải độc đích thực chống lại lầm than tinh thần: Kitô hữu được mời gọi mang vào mọi môi trường lời loan báo giải thoát, theo đó có sự tha thứ tội lỗi đã phạm, Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta một cách nhưng-không, luôn luôn, và chúng ta được dựng nên để hiệp thông và sống vĩnh cửu. Chúa mời gọi chúng ta hãy trở thành những người hân hoan loan báo sứ điệp từ bi và hy vọng ấy !

Thật là đẹp khi cảm nghiệm niềm vui loan truyền Tin Mừng đó, chia sẻ kho tàng đã được ủy thác cho chúng ta, để an ủi những con tim tan vỡ và mang lại hy vọng cho bao nhiêu anh chị em chúng ta đang bị bóng đêm bao phủ. Vấn đề ở đây là đi theo và noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã đi đến với người nghèo và tội nhân như một mục tử đi tìm con chiên bị lạc mất, và Ngài đến gặp chúng ta với đầy tình yêu thương. Khi hiệp nhất với Chúa, chúng ta có thể can đảm mở ra những con đường mới để loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người.

Anh chị em thân mến, ước gì Mùa Chay này thấy được toàn thể Giáo Hội sẵn sàng và mau mắn làm chứng cho những người đang sống trong tình trạng lầm than vật chất, luân lý và tinh thần: làm chứng về sứ điệp Tin Mừng, được tóm tắt trong việc loan báo tình thương của Chúa Cha từ bi, sẵn sàng ôm lấy mỗi người trong Chúa Kitô. Chúng ta có thể thi hành điều ấy theo mức độ chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo và làm cho chúng ta được giàu sang bằng cái nghèo của Ngài.

Mùa Chay là mùa thích hợp để cởi bỏ, làm cho chúng ta tự hỏi đâu là điều chúng ta có thể chịu thiếu để giúp đỡ và làm cho người khác trở nên phong phú nhờ cái nghèo của chúng ta. Chúng ta đừng quên rằng sự nghèo nàn đích thực gây đau khổ: một sự cởi bỏ mà không có chiều kích thống hối thì không có giá trị. Tôi không tín nhiệm việc làm phúc mà chẳng làm cho chúng ta mất mát hoặc không gây đau đớn nào.

4

Page 5: Ephata 601

Xin Chúa Thánh Linh, nhờ Ngài "chúng ta vốn là người nghèo, nhưng có khả năng làm bao nhiêu điều phong phú: như người không có gì cả, nhưng lại sở hữu tất cả" ( 2 Cr 6, 10 ), nâng đỡ những quyết tâm trên đây của chúng ta và củng cố trong chúng ta mối quan tâm và trách nhiệm đối với sự lầm than của con người, để chúng ta trở nên từ bi và là những người thực thi lòng từ bi.

Với lời cầu chúc ấy, tôi hứa cầu nguyện cho anh chị em, để mỗi tín hữu và mỗi cộng đoàn Giáo Hội tiến bước một cách hiệu quả trong hành trình Mùa Chay, và tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ gìn giữ anh chị em.

Vatican, 26.12.2013Lễ Thánh Stephano, Phó Tế và là Vị Tử Đạo tiên khởi

Lm. TRẦN ĐỨC ANH, OP, chuyển ý, nguồn: Vietcatholic.org

TÔNG HUẤN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – Kỳ 12

"NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM"CHƯƠNG IV – CHIỀU KÍCH XÃ HỘI CỦA VIỆC PHÚC ÂM HOÁ

Nền kinh tế và sự phân bố thu nhập 

202. Nhu cầu cần giải quyết các căn nguyên có tính hệ thống về sự nghèo nàn không thể bị trì hoãn thêm nữa, không chỉ vì lý do thực tế về tính cấp bách của nó cho một trật tự tốt đẹp của xã hội, nhưng còn do bởi xã hội cần phải được chữa lành khỏi một căn bệnh vốn đang làm suy yếu và băng hoại xã hội, và vốn chỉ có thể dẫn đến những cuộc khủng khoảng mới.

Các dự án phúc lợi, vốn đáp ứng những nhu cầu cấp bách nhất định, được xem như những đáp ứng tạm thời. Chừng nào những vấn đề của người nghèo chưa được giải quyết cách triệt để bằng việc từ chối cơ chế tự động hoá tuyệt đối của các thị trường và việc đầu cơ tài chính và bằng việc đánh đổ những căn nguyên có tính hệ thống về sự bất bình đẳng, thì không giải pháp nào có thể được tìm ra cho các vấn đề của thế giới hoặc, cũng vì thế mà chẳng giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Sự bất bình đẳng là cội rễ của các căn bệnh xã hội. 

203. Căn tính của mỗi một người và việc theo đuổi hạnh phúc là những mối quan tâm nên có trong việc xây dựng tất cả các chính sách kinh tế. Tuy rằng đôi khi chúng có vẻ như là một phần phụ lục được thêm vào từ bên ngoài để lấp đầy một bài diễn văn mang tính chính trị nhưng lại khiếm khuyết trong các cách tiếp cận hoặc các kế hoạch cho sự phát triển thực sự và toàn diện. Biết bao nhiêu lời nói cho thấy sự khó chịu đối với hệ thống này ! Nó trở thành khó chịu khi vấn đề về đạo đức được nêu lên, khi sự đoàn kết toàn cầu được thỉnh nguyện, khi vấn đề phân bổ hàng hoá được đề cập, khi sự ưu tiên được tạo ra để bảo vệ người lao động và bảo vệ căn tính của những người thấp cổ bé họng, khi ám chỉ được tạo nên để nói về Thiên Chúa Đấng đòi hỏi một sự cam kết dấn thân cho công lý.

Ở những thời điểm khác những vấn đề này được khai thác bởi một lối hùng biện nhằm làm hạ thấp giá trị của chúng. Sự thờ ơ hiện nay khi đối diện với những vấn đề như thế làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên trống rỗng và làm cho ngôn từ của chúng ta mất hết ý nghĩa. Việc kinh doanh là một ơn

5

CÙNG ĐÓN NHẬN

Page 6: Ephata 601

gọi, một ơn gọi cao quý, nếu những người đang làm trong lãnh vực này thấy bản thân họ đang bị thách đố bởi ý nghĩa quan trọng nhất trong cuộc sống; thì điều này sẽ làm cho họ thật sự phục vụ thiện ích chung bằng việc nỗ lực để gia tăng của cải trên thế giới này và làm cho những của cải ấy được tiếp cận dễ dàng hơn. 

204. Chúng ta không còn có thể tin vào những thế lực ngầm và bàn tay vô hình của thị trường nữa. Sự tăng trưởng về sự công bằng thì quan trọng hơn là sự tăng trưởng về kinh tế, mặc dù giả thiết có sự tăng trưởng như thế này: nó đòi hỏi những quyết định, những chương trình, các cơ chế và tiến trình đặc biệt hướng tới một sự phân bổ tốt hơn về thu nhập, sự tạo ra các nguồn lao động và một sự thăng tiến toàn diện dành cho người nghèo vượt ra khỏi não trạng phúc lợi thuần tuý. Tôi tránh xa việc đề xuất một thứ chủ nghĩa dân tuý vô trách nhiệm, nhưng là một nền kinh tế không hướng về những liệu pháp vốn là một thứ chất độc mới, sự nỗ lực như thế để làm gia tăng lợi nhuận bằng việc cắt giảm lực lượng lao động và từ đó gia tăng thêm những con người bị loại trừ. 

205. Tôi cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều hơn nữa các chính trị gia có khả năng đối thoại chân thành và hiệu quả hướng đến việc chữa lành những căn nguyên sâu xa nhất – và không chỉ đơn giản là bề mặt – của những tội ác trên thế giới của chúng ta ! Chính trị, mặc dù thường bị phỉ báng, vẫn có một ơn gọi cao quý và là một trong những hình thức cao nhất của bác ái, vì nó tìm kiếm thiện ích chung. Chúng ta cần phải tin rằng bác ái "là nguyên lý chứ không chỉ là những mối quan hệ vi mô ( với bạn hữu, với các thành viên trong gia đình, hoặc trong những nhóm nhỏ ) nhưng còn là những mối quan hệ vĩ mô ( xã hội, các vấn đề kinh tế và chính trị )". 

Tôi khẩn xin Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều hơn nữa các chính trị gia thực sự bị đánh động bởi tình trạng xã hội, dân tộc, và cuộc sống của người nghèo ! Thật là chính đáng khi các nhà lãnh đạo chính quyền và các lãnh đạo tài chính biết chú tâm và biết mở rộng các chân trời của họ, làm việc để đảm bảo rằng tất cả mọi công dân đều có được việc làm, giáo dục, và hưởng sự chăm sóc sức khoẻ theo đúng phẩm giá của mình. Tại sao lại không hướng về Thiên Chúa và xin Ngài tác động trên các kế hoạch của họ ? Tôi vững tin rằng sự mở lòng ra với Đấng siêu việt có thể mang lại một tâm thức chính trị và kinh tế mới sẽ đánh sập bức tường của sự phân cách giữa nền kinh tế và thiện ích chung của xã hội. 

206. Kinh tế, đúng như bản chất của từ này, cần phải hiểu là nghệ thuật đạt tới được trình độ quản trị thích hợp cho ngôi nhà chung của chúng ta, nghĩa là cả thế giới này. Mỗi một quyết sách kinh tế có ý nghĩa được đưa ra ở một nơi trên thế giới đều có những âm hưởng đến tất cả những nơi khác; do đó, không một chính phủ nào được hành động mà không xem xét đến trách nhiệm chung.

Theo đó, ngày càng trở nên khó để tìm ra những giải pháp mang tính địa phương cho những vấn đề lớn lao mang tính toàn cầu vốn đang làm choáng váng các chính trị gia địa phương với hàng mớ khó khăn cần giải quyết. Nếu chúng ta thật sự muốn đạt tới một nền kinh tế thế giới khoẻ mạnh, thì điều cần thiết ở ngay tại ngã rẽ lịch sử này là một đường lối hiệu quả hơn của việc tương tác, hướng đến việc tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia, đảm bảo sự khoẻ mạnh về kinh tế ở tất cả các quốc gia, chứ không phải chỉ ở một vài nước. 

207. Bất cứ cộng đồng Giáo Hội nào, nếu cộng đồng ấy nghĩ rằng có thể thoải mái đi theo đường lối của riêng mình mà không có một sự quan tâm mang tính sáng tạo và sự hợp tác hiệu quả trong việc giúp đỡ người nghèo được sống đúng phẩm giá của họ và mở ra hướng đến với mọi người, thì sẽ có nguy cơ sụp đổ, bất luận là nó đang nói nhiều bao nhiêu về các vấn đề xã hội hoặc phê phán các chính phủ nhiều bao nhiêu. Nó sẽ dễ dàng trượt dài vào tinh thần thế tục được nguỵ trang bởi các việc cử hành tôn giáo, các buổi họp không sinh hoa trái và các bài nói chuyện sáo rỗng. 

208. Nếu có ai đó cảm thấy bị xúc phạm bởi những lời của tôi, tôi sẽ trả lời rằng tôi nói những lời này bằng tất cả lòng trìu mến và bằng những ý ngay lành nhất, chứ không phải bằng những hứng thú riêng hay một ý thức hệ chính trị. Những lời của tôi không phải là những lời của kẻ thù hoặc của một kẻ chống đối. Tôi chỉ yêu thích việc giúp những người đang làm nô lệ cho một não trạng duy cá nhân, thờ ơ, và hướng về bản thân được giải thoát khỏi những xiềng xích không xứng đáng đó và đạt tới một lối sống và nghĩ mang tính nhân bản, cao quý và sinh hoa trái hơn, và đạt tới điều sẽ mang lại phẩm giá cho sự hiện hữu của họ trên mặt đất này.

Sự quan tâm dành cho những người yếu thế

209. Chúa Giêsu, nhà truyền giáo tuyệt vời và là Tin Mừng hiện hữu nơi con người cụ thể, đồng hoá một cách đặc biệt với những kẻ bé mọn ( x. Mt 25, 40 ). Điều này nhắc nhở chúng ta là các Kitô hữu rằng chúng ta được mời gọi để quan tâm chăm sóc những người yếu thế ở trái đất này. Nhưng khuôn mẫu hiện tại, với sự đề cao về thành công và sự tự lực, dường như không hứng thú lắm cho việc đầu tư vào những nỗ lực để giúp người chậm chạp, người yếu đau, hoặc người kém năng lực để có được những cơ hội trong cuộc sống.

6

Page 7: Ephata 601

210. Thật là chính đáng để đến gần với những hình thức mới của sự nghèo nàn và yếu thế, ở nơi ấy chúng ta được mời gọi để nhận ra được nỗi thống khổ của Đức Kitô, ngay cả khi điều này có vẻ như không mang lại cho chúng ta những lợi ích hữu hình và tức thì. Tôi nghĩ về những người vô gia cư, những người nghiện, những người tị nạn, các dân tộc thiểu số, những người già yếu những con người vốn bị bỏ rơi và bị cô lập ngày càng nhiều và nhiều những con người khác nữa. Những người di dân đặt ra cho tôi một thách đố đặc biệt, kể từ khi tôi làm mục tử của một Giáo Hội mà không có biên giới, một Giáo Hội tự nhìn nhận mình là mẹ của tất cả mọi người.

Vì lý do này, tôi kêu gọi tất cả các quốc gia mở rộng tấm lòng, thay vì sợ mất đi căn tính địa phương mình, sẽ cho thấy khả năng có thể tạo ra được những hình thức tổng hợp văn hoá mới. Thật đẹp biết bao các thành phố vượt thắng được sự ngờ vực làm tê liệt, nối kết mọi người khác biệt và làm cho sự nối kết rất tuyệt này trở thành một nhân tố mới cho sự phát triển ! Thật cuốn hút biết bao những thành phố này, ngay cả trong việc thiết kế kiến trúc hạ tầng của họ, cũng đã đầy tràn không gian nối kết, liên hệ và hứng thú trong việc nhận ra người khác !

211. Tôi luôn luôn cảm thấy đau buồn về nhiều người là nạn nhân của nhiều loại buôn bán người khác nhau. Tôi khao khát biết bao nhiêu tất cả chúng ta nghe được tiếng than khóc của Thiên Chúa: "Em ngươi đâu rồi ?" ( St 4, 9 ). Anh chị em của con đang làm nô lệ đâu rồi ? Anh chị em con đang bị giết mỗi ngày trong những nhà xưởng ám muội, trong những ổ mại dâm, nơi những trẻ em bị dùng để xin ăn, và trong việc khai thác lực lượng lao động bất hợp pháp đâu rồi ? Chúng ta đừng bịt mắt làm ngơ như không có gì xảy ra. Có một sự đồng loã lớn lao hơn chúng ta tưởng. Mạng lưới tội ác bẩn thỉu này hiện nay đang được thiết lập trong các thành phố của chúng ta, và nhiều người đã nhuốm máu đôi tay của mình vốn là kết quả của một sự đồng loã trong sự thoải mái và âm thầm của chính họ.

212. Những người nghèo khổ gấp đôi là những người phụ nữ phải kinh qua những hoàn cảnh của sự loại trừ, cư xử bất nhân và bạo hành, bởi vì họ là những người thường xuyên là ít có khả năng để bảo vệ các quyền của họ. Mà ngay cả như thế, chúng ta vẫn cứ luôn là những chứng tá ở giữa họ bằng những tấm gương ấn tượng từ những công việc anh hùng mỗi ngày trong việc bảo vệ và đấu tranh cho các gia đình yếu thế của họ.

213. Giữa những người yếu thế mà Giáo Hội đang khao khát chăm sóc bằng một tình yêu và sự quan tâm đặc biệt là các thai nhi, những con người không có khả năng tự vệ và vô tội nhất trong số chúng ta. Những nỗ lực ngày nay được thực hiện để chối bỏ căn tính con người của các bé và làm mọi thứ trên mạng sống của các bé nếu người ta thích, lấy đi sự sống của các bé và thông qua các đạo luật nhằm ngăn chặn bất kỳ ai ngáng lối đi của họ về việc làm này. Rất thường, như một cách thế của những nỗ lực ngớ ngẩn của Giáo Hội nhằm bảo vệ sự sống của các bé, những nỗ lực được thực hiện để trình bày về vị trí của Giáo Hội như là điều gì đó mang tính ý thức hệ, che giấu và bảo thủ.

Tuy nhiên việc bảo vệ sự sống này thì liên hệ gần gũi đến quyền con người của mỗi người và mọi người. Nó liên quan đến sự xác tín rằng một con người luôn luôn là thánh và bất khả xâm phạm, trong mọi hoàn cảnh và ở mọi giai đoạn phát triển. Hữu thể con người là cùng đích của chính nó và chưa bao giờ là những phương tiện để người ta giải quyết các vấn đề khác. Một khi niềm xác tín này tan biến, thì cũng không còn những nền tảng bền vững và lâu dài về việc bảo vệ quyền con người, vốn luôn luôn là chủ thể cho những động cơ vô chừng chóng qua của các thế lực quyền bính vốn cứ là như thế. Chỉ cần lý luận thôi cũng đã đủ để nhận biết giá trị bất khả xâm phạm của mỗi sự sống con người, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn vào vấn đề dưới nhãn quan của Đức Tin thì, "mọi sự xâm phạm đến phẩm giá mang tính nhân vị của con người đang kêu than lên trong sự báo thù trước nhan Thiên Chúa và là một tội chống lại Đấng Tạo Thành mỗi nhân vị".

214. Rất rõ ràng là bởi vì điều này liên hệ đến tính nhất quán mang tầm quốc tế của thông điệp của chúng ta về giá trị con người, nên người ta không được phép mong đợi Giáo Hội thay đổi vị trí của mình trong vấn đề này. Tôi muốn hoàn toàn trung thực trong việc xem xét này. Đây không phải là một điều gì đó là chủ thể của những chủ trương cải cách hoặc "những vấn đề hiện đại hoá". Nó cũng không phải là "tư tưởng cấp tiến" cố gắng để giải quyết các vấn đề bằng việc loại trừ sự sống con người.

Mặt khác, cũng là sự thật rằng chúng ta đã thực hiện quá ít để đồng hành cách đầy đủ cùng những người phụ nữ trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, nơi mà sự phá thai dường như là giải pháp nhanh nhất cho nỗi đau sâu sắc của họ, đặc biệt là khi sự sống đang phát triển trong lòng họ lại là

7

Page 8: Ephata 601

kết quả của nạn hiếp dâm hoặc của một hoàn cảnh quá bĩ cực trong sự nghèo. Ai có thể vẫn bình chân như vại trước những hoàn cảnh đau đớn thế này ?

215. Cũng có những con người mất khả năng tự vệ và yếu kém khác vốn thường được đặt dưới sự xót thương của các lợi ích kinh tế và nạn khai thác cách bừa bãi. Tôi đang nói đến toàn thể tạo vật. Chúng ta là những con người không chỉ là người thừa hưởng nhưng còn là những quản gia của các tạo vật khác. Nhờ vào thân xác của chúng ta, mà Thiên Chúa đã gắn kết chúng ta cách gần gũi với thế giới xung quanh chúng ta để chúng ta có thể cảm nhận được tình trạng sa mạc hoá đất đai gần giống như một căn bệnh thể lý của chúng ta, và nạn diệt chủng các loài giống như một sự mất đi cách đau đớn một phần vẻ đẹp thân thể của chúng ta. Chúng ta đừng để lại trong cuộc sống của chúng ta những lằn cắt của sự huỷ diệt và chết chóc vốn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta và của những thế hệ tương lai.

Ở đây tôi muốn mượn lời than van có tính lay động và tiên tri được nói lên vài năm về trước bởi Hội Đồng Giám Mục Philipines: "Một sự phong phú không thể tin được các loài côn trùng sống trong rừng và đang bận rộn với rất nhiều nhiệm vụ... Các loài chim thì bay trên bầu trời, những bộ lông sặc sỡ của chúng và những ơn gọi khác nhau của chúng mang thêm sắc mầu và tiếng ca cho sắc xanh của các cánh rừng... Thiên Chúa đã tiền định vùng đất này cho chúng ta, các thọ tạo đặc biệt của Ngài, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể huỷ diệt nó và biến nó thành một mảnh đất hoang... Sau một đêm mưa, hãy nhìn những dòng sông nâu mầu

sôcôla ở địa phương của các bạn và hãy nhớ rằng chúng mang dòng máu sự sống của đất đổ ra biển... Làm sao cá có thể bơi lội trong các hệ thống thoát nước giống như sông Pasig và nhiều con sông khác mà chúng ta đã làm ô nhiễm ? Ai đã biến thế giới kỳ diệu của biển cả thành những nghĩa trang dưới nước bị tước mất màu sắc và sự sống ?" ( Ảnh chụp sông Pasig bị ô nhiễm, lấy từ Google ).

216. Nhỏ bé nhưng mạnh mẽ trong tình yêu của Thiên Chúa, giống như Thánh Phanxicô Assisi, tất cả chúng ta, là các Kitô Hữu, đều được mời gọi để chăm sóc và bảo vệ thế giới mỏng manh này mà chúng ta đang sống, và tất cả mọi dân tộc của trái đất này.

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, bản dịch của JOSEPH C. PHẠM ( còn tiếp nhiều kỳ )

TÊN CÁM DỖHắn đã đến gặp tôi, chính hắn, TÊN XẢO QUYỆT, Hắn luôn sục sạo quanh đây, bày mưu lập kế mà lừa gạt mọi người.

Hắn bảo tôi:

“Này anh, người-con-của-nhân-loại, Anh phải sống cho đúng với địa vị, nhà cao cửa rộng khang trang.Anh phải có đầy đủ tiện nghi cho bạn bè anh họ thán phục trầm trồ.Công việc hằng ngày làm chai cứng chân tay thật không xứng với anh.Anh chẳng là con cái của Thiên Chúa đó sao ?Anh phải hưởng các lạc thú, phải nếm mọi sự của thế gian.Anh phải ra sức mà làm giàu, vì nghèo túng thì khó coi lắm.Nhìn vào cơ nghiệp của anh, người ta sẽ biết anh đang hiện hữu...”

Tôi bèn trả lời hắn:

“Người ta không đánh giá theo tiêu chuẩn giàu nghèo, Nhưng theo một nguồn sáng trong đôi mắt,

8

CÙNG SUY NIỆM

Page 9: Ephata 601

Nguồn sáng ấy xuất phát từ một cõi khác...”

Hắn lại đến gặp tôi, chính hắn, TÊN LỪA BỊP, Hắn lê gót khắp mọi nơi, khéo nói, hay nịnh bợ, vô cùng hiểm độc.

Hắn bảo tôi:

“Này anh, người-con-của-nhân-loại, Anh phải nên cao trọng nhất, Từ thuở ban đầu, từ ngày khai thiên lập địa, Tất cả thế giới cùng muôn loài muôn vật đã thuộc trọn về anh, Đến các thiên thần mà còn phải nâng đỡ anhCho đôi gót chân anh không phải mòn chai vì sỏi đá.Anh chẳng là con cái của Thiên Chúa đó sao ?Những đức tính của anh phải được người người ca tụng.Chẳng ai lại đi che giấu ngọn đèn của mình, Nhưng đặt nó trên giá cao soi sáng cho những kẻ tối dạ.Chính anh, anh mới là cao trọng nhất.Kẻ khác ư ? Họ là chiếc ghế cho anh kê chân.Nhìn vào quyền lực của anh, người ta sẽ biết anh đang hiện hữu...”

Tôi bảo hắn:

“Người ta không đánh giá theo tiêu chuẩn quyền lực, Nhưng là theo nguồn lửa thiêng bừng sáng trong tâm hồn, Ngọn lửa thiêng ấy xuất phát từ một cõi khác...”

Hắn lại tìm đến gặp tôi, chính hắn, TÊN CÁM DỖ.Chỗ nào hắn cũng có mặt, chuyên dụ dỗ người ta vào con đường sai trái.

Hắn thì thầm với tôi:

“Anh không phải xấp mình thờ lạy ai cả.Anh biết điều lành điều dữ, chỉ anh mới có quyền phê phán.Anh tự do, anh có quyền sống phóng túng.Hãy để Thiên Chúa sang một bên, Thiên Chúa chỉ là dành cho những kẻ cùng kiếp mạt vận, Chỉ dành riêng cho hạng người cần có chỗ bám víu mới dám sống.Còn anh, anh mới là chúa tể, vua cõi địa cầu, thượng đế vũ trụ càn khôn.Nhìn vào dấu chỉ ấy, người ta sẽ biết anh hiện hữu...”

Tới đây thì tôi mắng vào mặt hắn:

“Ngươi biết gì mà nói, hỡi TÊN DỐI TRÁ !Mắt ngươi lệch lạc, ngươi chỉ có được cái bộ tịch bề ngoài.Còn ta đây, hạnh phúc của ta đến từ cõi khác.Bởi vì có một Đấng là Thiên Chúa đã đến với loài người.Cùng với anh em đồng loại của ta, Ta đã được nhập tiệc, ta đã đồng bàn với Ngài...”

CHARLES SINGER, trích trong PRIER

CHIẾN THẮNG CÁM DỖThánh Bênêđitô sinh năm 480 tại Nursia, nước Ý. Thánh nhân là con trai của một gia đình người Ý

giàu có. Khi còn nhỏ, Bênêđitô tới Rôma và học nơi các trường công cộng. Lúc trưởng thành, ngài cảm thấy phẫn nộ với nếp sống đồi bại của thành Rôma ngoại đạo. Bênêđitô rời bỏ thành phố và đi tìm một nơi khả dĩ được ở một mình với Thiên Chúa. Và ngài đã tìm thấy một địa điểm tốt. Đó là một cái hang ở trong núi Subiacô. Một đan sĩ tên là Rômanô đã dạy cho Bênêđitô học biết về đời sống của một ẩn sĩ và trao cho Bênêđitô một bộ tu phục. Mỗi ngày, Rômanô cũng đem đến cho Bênêđitô một ít thực phẩm.

Thánh Bênêđitô đã trải qua 3 năm sống một mình trong núi. Ma quỷ thường hay cám dỗ ngài trở về quê nhà với đời sống tiện nghi và thoải mái. Tuy nhiên, thánh nhân đã vượt qua những cám dỗ này bằng các việc cầu nguyện và đền tội. Một ngày kia, ma quỷ lại tiếp tục cám dỗ Bênêđitô nghĩ tưởng đến một phụ nữ xinh đẹp mà có lần Bênêđitô đã gặp thấy ở thành Rôma. Ma quỷ cố gắng làm cho thánh

9

Page 10: Ephata 601

nhân trở về tìm lại bà ấy. Bênêđitô dường như sắp nhượng bộ cơn cám dỗ này. Nhưng thay vào đó, thánh nhân đã sốt sắng cầu nguyện và đền tội nhiều hơn. Và từ đó trở đi, đời sống của Bênêđitô rất bình an. Bênêđitô không còn cảm thấy những cơn cám dỗ cuồng loạn như thế nữa.

Sau ba năm, người ta nhận biết Bênêđitô sống trong hang núi và họ bắt đầu kéo đến với ngài. Họ muốn ngài chỉ cho họ cách thức nên thánh. Cũng có vài đan sĩ, mà đan phụ của họ đã qua đời, đến xin Bênêđitô làm linh hướng cho họ. Nhưng khi thánh nhân bắt họ làm việc đền tội, họ lại bực tức. Người ta nói rằng thậm chí có lần họ đã đầu độc Bênêđitô. Thánh nhân đã làm dấu Thánh Giá trên ly rượu có độc và ly rượu đã vỡ tan thành từng mảnh.

Bênêđitô rời bỏ các đan sĩ ấy và quay về lại chiếc hang của ngài. Từ đó, thánh nhân thiết lập thêm mười hai đan viện nữa. Rồi Bênêđitô trẩy tới núi Cassinô nơi thánh nhân xây cất một Đan Viện rất danh tiếng. Và chính tại đây Bênêđitô đã viết một bộ luật tuyệt vời cho hội Dòng Bênêđitô. Thánh nhân về trời ngày 21 tháng 3 năm 547. Đến năm 1966, Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn tặng Bênêđitô danh hiệu thánh Bổn Mạng của Âu Châu. ( Đa Minh Maria Nguyễn Phúc Lộc, CMC, dịch )

Thánh Bênêđitô trung kiên noi gương Đức Giêsu. Người đã chịến thắng ba cơn cám dỗ điển hình, toàn tâm toàn ý theo Thánh Ý Thiên Chúa. Thánh nhân đã học hỏi nơi Đức Giêsu bí quyết để chiến thắng những cơn cám dỗ nặng nề. Đó chính là Lời Chúa, cầu nguyện và ăn chay hãm mình.

Bí quyết I: Lời Chúa

Đáp trả lại ba cơn cám dỗ, Đức Giêsu đều viện dẫn đến Lời Chúa trong Kinh Thánh, khiến cho tên cám dỗ đành phải bó tay chào thua. Bởi chưng: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 119, 105 ).

Tuy nhiên tên cám dỗ cũng viện đến Lời Chúa để tấn công Người trong cơn cám dỗ thứ hai, qua Thánh Vịnh 91, 11 – 12: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ, tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.

Thánh Vịnh 91 vốn được gọi là Nương bóng Thiên Chúa toàn năng. Đây là một Thánh Vịnh tín nhiệm nói về Thiên Chúa là Đấng bảo vệ tín hữu của Người. Vốn gian trá chuyên lọc lừa, đánh lận con đen, như thói quen cắt xén, thêm bớt của kẻ bá đạo, tên cám dỗ đánh tráo ý nghĩa của Thánh Vịnh 91. Thay vì tung hô, ngợi khen sự quan phòng chu đáo của Thiên Chúa, thì hắn biến thành ra cái bẫy êm ái hòng tìm kiếm hư danh.

Bí quyết II: Cầu nguyện

Thánh Bênêđitô thoát khỏi những cơn cám dỗ ghê hồn chính là nhờ tận tụy noi theo Đức Giêsu chuyên tâm cầu nguyện. Điều quan trọng này, Đức Giêsu hằng thiết tha nhắn nhủ các môn đệ và cộng đoàn tín hữu. Chính Người nêu tấm gương cầu nguyện vào mỗi chiều tối, sau một ngày tận tụy giảng dạy. Người thường lui vào chỗ thánh vắng nguyện cầu. Người luôn cập nhật sự kết hợp chan hòa với Đức Chúa Cha qua lời cầu nguyện hằng ngày.

Cầu nguyện không chỉ là lắng nghe mà còn là đáp lời. Cầu nguyện không chỉ là hướng về Chúa, mà còn là đón nhận Chúa đi vào trong con người và cuộc sống. Cầu nguyện là thú nhận thân phận yếu hèn ti tiện trước mặt Thiên Chúa vô cùng cao cả siêu việt. Cầu nguyện là xác nhận chủ quyền tuyệt đối của Chúa trên ta, và ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Cầu nguyện là sẵn sàng và quyết tâm thi hành ý muốn của Chúa, lời Chúa dạy, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời. Cầu nguyện là noi gương Trinh Nữ Maria, thưa vâng với Chúa mỗi ngày trong mọi lúc, và kiên trì thưa vâng với Chúa cho đến hơi thở cuối đời. ( Lm. Gioan Nguyễn Như Yêng, 40 Bài Tin Mừng về Cầu Nguyện ).

“Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh ? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: Họ bỏ cầu nguyện từ lâu.“ ( Đường Hy Vọng, số 125 )

Bí quyết III: Chay tịnh

Trong xã hội hiện nay, thiên hạ đang hô hào điều chỉnh chế độ dinh dưỡng, tránh bớt dầu mỡ, tinh bột, đường, để khỏi béo phì, những bệnh tim mạch, cũng như chăm sóc, duy trì vóc dáng cân đối xinh đẹp. Vì sức khỏe và sắc đẹp, người ta đành phải chấp nhận hy

sinh thói tham ăn vô độ, thói sa đọa vô chừng. Thân xác còn đòi hỏi thế, thì tinh thần cũng đòi hỏi hy sinh vật chất, hy sinh các đam mê, cám dỗ hưởng lạc, cám dỗ hư danh, cám dỗ quyền lực, để thanh thoát hướng thượng, thăng hoa theo các giá trị muôn đời cao cả, can trường dấn thân theo Chúa.

10

Page 11: Ephata 601

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” ( Mc 8, 34 ). Từ bỏ mình là xả kỷ vị tha, quên mình đi mà chuyên tâm phục vụ tha nhân. Là ăn chay hãm mình, là hy sinh từng phút, từng giờ, từng ngày để quyết tâm theo Đường Hy Vọng.

“Không hy sinh, không có nhân đức thánh thiện. Ai chưa”bỏ mình vác thánh giá” thì chưa “theo Thầy” được. Điều kiện tiên quyết” ( Đường Hy Vọng, số 157 ).

Lạy Chúa Giêsu, Người đã từng nếm trải thân phận con người mỏng dòn yếu đuối, xin thương xót, giúp chúng con chiến đấu can trường với những chước cám dỗ ngày càng nguy hiểm và tinh vi. Xin Người luôn nâng đỡ và nhắc nhủ chúng con những bí quyết chiến thắng cám dỗ, để chúng con luôn được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Người chiến thắng ác xà. Mẹ đã oanh liệt đạp dập đầu tên cám dổ. Kính xin Mẹ luôn che chở, bảo vệ chúng con chiến thắng vẻ vang ba thù. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

ĐỨNG VỀ PHÍA CHÚA GIÊSU ĐỂ CHỐNG LẠI TÊN CÁM DỖBước vào Mùa Chay Thánh, Giáo Hội quen gọi là mùa tập

luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Chúa Nhật thứ I Mùa Chay hôm nay, Thánh Matthêu trình bày cho chúng ta cơn cám dỗ của Chúa Giêsu: "Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ" ( Mt 4, 1 ), cho thấy dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã nhận lấy thử thách, chiến đấu với chống lại tội lỗi để cứu chúng ta là kẻ có tội. Sau khi Chúa Giêsu đã nhịn chay bốn mươi đêm ngày, Ngài cảm thấy đói, ma quỷ bắt đầu cám dỗ ( x. Mt 4, 2 ), nó bắt Ngài lựa chọn giữa những gì có thể. Cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa Giêsu thể hiện rõ căn tính và nguồn gốc của Chúa Giêsu trong lịch sử Israel.

Ba phen cám dỗ

Trình thuật ghi rõ: "Ma quỷ lìa bỏ Người" ( Mt 4, 11 ) Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được lặp lại, nhưng chắc chắn kết thúc và phần thắng thuộc về Chúa Giêsu qua việc thánh hiến, hoàn tất bằng cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu theo một trình tự rõ ràng. Một bên Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Cả hai nhân vật không cần giới thiệu. Chúa Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài. Ma quỷ là thành phần của thế giới quen thuộc nơi người Do Thái. Ma quỷ tiếng Do Thái là "Satan" ( tiếng Hy Lạp là "Quỷ" ) ám chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai ? Với Thiên Chúa trước hết.

Phen thứ nhất ( c. 1 – 4 )

Khung cảnh diễn ra tại sa mạc. Sa mạc tự nhiên gợi lên thời Xuất Hành và sự đối diện giữa Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong sa mạc và 40 ngày Môsê ở trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Chúa Giêsu đang ở trong tình trạng cần thiết "Người cảm thấy đói" ( Mt 4, 2 ). Ma quỷ đặt vấn đề: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh" ( Mt 4, 3 ). Như là một gợi ý cho Con Thiên Chúa.

- Ma quỷ cám dỗ Chúa về quyền lực: "hãy khiến những hòn đá này..." Đá chỉ đá và bánh chỉ là bánh, Ma Quỷ yêu cầu Chúa làm trái tự nhiên "khiến đá thành bánh". Khi từ chối khiến đá thành bánh, Chúa Giêsu mạc khải rõ Ngài là Con Thiên Chúa.

- Chúa ra lệnh: "Có lời chép rằng: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi’" ( Mt 4, 10 ). Nó ẩn chứa một cách hành văn theo kiểu Sách Thánh để làm sáng tỏ thái độ. Đây là cả một chương trình, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đúng như lời Kinh Thánh, Ngài đã trở nên người vâng lời Thiên Chúa Cha, chấp nhận đói để mạc khải cho con người biết rằng, cuộc sống của họ còn đói một thứ rất quan trọng, đó là: đói Lời Chúa. Thật vậy, "Người ta sống không nguyên bởi bánh" ( Mt 4, 4 ).

Phen thứ hai ( c. 5 – 7 )

Ma Quỷ đưa Chúa Giêsu lên nóc Đền Thờ Giêrusalem, đặt Chúa vào một vị trí ngược lại với bản chất của Ngài: mục tiêu tối hậu của nó là chỉ cho Ngài thấy rõ Đền Thờ Giêrusalem, thử thách Ngài về thực

11

Page 12: Ephata 601

tại quyền lực, yêu cầu Ngài gieo mình từ Đền Thờ xuống để chiếm được ngay lập tức với sự giúp đỡ tuyệt vời của các Thiên Thần, và qua sự thể hiện uy quyền đó, người Do Thái nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa.

Ma Quỷ biện minh rõ về danh tính của nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Lời đề nghị của nó rất thô thiển. Khi ấy, phải đặt sự cám dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ ? Nếu Chúa Giêsu chịu thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, họ đi tìm một Đấng Mêsia huy hoàng và quyền lực. Chúa Giêsu đã từ chối Mêsia theo kiểu trên. Con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong nhân thế. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật tuyệt vời lạ thường khi đặt ra một khoảng cách căn bản giữa quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa .

Phen thứ ba ( c. 8 – 11 )

Cuối cùng ma quỉ đưa Chúa Giêsu lên núi cao. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất về kinh tế, lần thứ hai về tôn giáo và lần thứ ba cám dỗ về chính trị. Tư thế ở đây chuyển biến cách đột ngột. Từ trên cao sấp mình xuống ( trả lại ) sự thống trị cho Ma Quỷ. Ma Quỷ chỉ cho Đức Giêsu xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang trong chốc lát, nó hứa: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi" ( Mt 4, 9 ). Nếu ông là con Thiên Chúa ( 4, 3 ). Nếu ông thờ lạy tôi ( 4, 9 ). Ở đây, Ma Quỷ tự vạch trần trước Con Thiên Chúa mà nó thách thức và mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt Chúa Giêsu tôn thờ thần tượng thế gian. Với lời đề nghị này, Chúa Giêsu đặt ma quỷ vào đúng vị trí của nó: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa người, và chỉ phụng sự một mình Ngài" ( Mt 4, 10 ).

Phần kết:

Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: "Ma quỷ lìa bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại hầu hạ Người".

Đứng về phía Chúa Giêsu

Chúa Giêsu bị Ma Quỷ cám dỗ đủ cả ba phen, đó cũng là những cơn cám dỗ của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta được Thiên Chúa phú ban cho tự do lựa chọn giữa ý Chúa và ý chúng ta, chúng ta ngần ngại giữa thiện và ác. Chúa Giêsu hoàn toàn chiến thắng điều ác vì Ngài đã vâng lời Chúa Cha vô điều kiện.

Chúa Nhật này đưa chúng ta vào ngay trung tâm của mầu nhiệm Vượt Qua: "Cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội" ( Rm 12, 17 ). Và đây, phía sau của mầu nhiệm: Nhưng "Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thi do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế" ( Rm 12, 19 ).

Tất cả lịch sử nhân loại trải dài giữa hai sự kiện này: trước là tội nguyên tổ, ảnh hưởng đến chúng ta; sau là mầu nhiệm cứu chuộc được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế.

Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa chiến đấu thiếng liêng, vậy chúng ta đứng về phía nào, đứng về phía Chúa Giêsu là chắc rồi. Đứng về phía Ngài, lắng nghe lời Ngài để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống lại thần dữ, ba thù: Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.

Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, xin giúp sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Phụng Vụ Giáo Hội đã bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay trải dài 40 ngày. Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất Hứa, 40 ngày Ngôn Sứ Êlia ở trên núi Khôrép, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa. Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện. Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày chay tịnh thật

quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.

12

Page 13: Ephata 601

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

1. Chịu cám dỗ

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Luxiphe, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.

Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai Cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavít sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này. Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng một nụ hôn giả dối… Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.

Thiên Chúa cho phép ma quỷ cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể chứng minh Đức Tin của mình.

Thiên Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma quỷ cũng lợi dụng triệt để mà cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.

Thiên Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ quá sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma quỷ với những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.

2. Ma quỷ thường cám dỗ như thế nào ?

Ma quỷ lừa dối con người. Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu, là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma quỷ lừa dối cho rằng việc làm đó là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma quỷ không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói rằng ăn trái này thì bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai dám phạm tội.

Ma quỷ khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn trộm một quả trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma quỷ cũng vậy, nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới chỗ phạm vào những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không ai nghiện rượu ngay khi uống chén ban đầu. Nhưng dần dần nếu lập đi lập lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập ( x. Buồn vui cùng kiếp người, Đức Tgm. Ngô Quang Kiệt, trang 33 ).

Chuyện kể rằng: khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:

- Ông đang trồng cây gì thế ?

- Cây nho.

- Nó có lợi gì không ?

- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ăn ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

- Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu uống thêm nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy ! ( Truyện cổ Nước Pháp ).

Ma quỷ luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.

3. Phương thế chiến thắng cám dỗ

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.

13

Page 14: Ephata 601

a. Lời Chúa

Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đỗi bình thường. Ma quỷ lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.

Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng theo Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỷ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời của Thiên Chúa nữa ( Lc 4, 5 ).

- Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người ( Lc 4, 8 ).

- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi ( Lc 4, 11 ).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ". Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”.

Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Ghêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nỗi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” ( Mt 26, 39b ); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” ( Mt 26, 42b ).

Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta" ( Dt 4, 15 ). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban Sự Sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.

b. Ăn chay cầu nguyện

Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.

Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ. Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta !

Cần phải cầu nguyện ( Lc 22, 40; Cv 2, 42; GLGH # 2612, 2742 ). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” ( Mt 4, 1 ). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên Trời. Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng… hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” ( Ga 14, 26 ).

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ

14

Page 15: Ephata 601

ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ". Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.

Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: "Hãy tỉnh thức". Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt. Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

PARAGUAY – TÂM TÌNH MÙA CHAY 2014Nhiều người Công Giáo Việt Nam nói rằng năm nay vào

Chay khá trễ vì thường thì mọi năm thứ Tư Lễ Tro rơi đúng vào những ngày Tết nên các Giám Mục sở tại rộng phép dời vào một ngày khác thích hợp để Giáo Dân Công Giáo đón Tết cổ truyền vui vẻ hơn. Tết Nguyên Đán đã đi qua hơn một tháng nên giờ đây không ai có thể vịn vào lý do “Tết nhứt” để tránh né việc giữ chay.

Chúng tôi còn nhớ ngày xưa khi còn đi học với chúng bạn thời Trung Học phổ thông, ngày Thứ Tư Lễ Tro là ngày học trong tuần nên dễ quên việc giữ chay lắm. Vả lại trong lớp trường chuyên năm ấy của chúng tôi chỉ có một bạn nữ và tôi là người Công Giáo nên chẳng ai nhắc đến lễ nghi Công Giáo làm gì. Sau 2 tiết học buổi sáng chúng tôi có giờ giải lao. Cảm thấy trong bụng cồn cào quá nên vào căng-tin mua một cái bánh tiêu để lót bụng. Vừa ăn được nửa cái bánh tiêu thì chợt nhớ hôm nay là Thứ Tư Lễ Tro, giữ chay và

kiêng thịt nên vội chạy ngay vào phòng vệ sinh để nôn ra hết những gì mình mới ăn vào để giữ trọn ngày chay. Ngày hôm ấy chúng tôi đã giữ chay một cách rất hình thức !

Mãi đến khi chúng tôi bước vào Học Viện Liên Dòng để bắt đầu những năm Triết và Thần, chúng tôi mới dần khám phá ý nghĩa đích thực của Mùa Chay và việc giữ chay và nhận ra một điều rằng ngày xưa mình ngốc nghếch thật. Nhưng chính nhờ cái “ngốc nghếch đáng thương” đó mà dần dần Chúa soi sáng cho chúng tôi để chúng tôi biết cảm thông, yêu thương những người đã từng “ngốc nghếch” như tôi.

Mùa Chay, theo tiếng Tây Ban Nha là “Cuaresma” hay tiếng Latinh “Quadragesimanae” hay còn gọi là Mùa 40, đây là mùa ăn năn thống hối, cầu nguyện, bố thí, mùa chịu nạn, thương khó, chuẩn bị cho biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mùa Chay được bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc với Chúa Nhật Phục Sinh. Nó chứa đựng 40 ngày chay tịnh để tưởng nhớ đến biến cố Chúa vào trong hoang địa ăn chay, cầu nguyện và sau đó chịu sự cám dỗ trong 40 đêm ngày; là thời gian của thương khó và thống hối.

Thực sự là 46 ngày, nếu tính từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Phục Sinh, nhưng theo nghĩa hẹp, Mùa Chay tính từ Chúa Nhật thứ nhất đến chiều Thứ Năm Tuần Thánh, nghĩa là cho tới lúc cử hành Thánh Lễ Tiệc Ly vào ban chiều "in Caena Domini", trong đó Chúa lập Bí Tích Thánh Thể, rửa chân cho 12 môn đệ và truyền lại Giới Răn mới. Thời gian 40 ngày cũng để nhớ lại 40 đêm ngày Môsê, vị thủ lãnh Dân Chúa thời Cựu Ước cầu nguyện trên Núi Sinai và được Chúa trao cho 10 Giới Răn. Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của Ngôn Sứ Elia, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của hoàng hậu Giêsaben, để tiến về núi Khôrép, cũng là núi Sinai, kế Biển Ðỏ và kênh đào Suez bây giờ, nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới ( 1 V 19 ).

Công Đồng Vatican II dạy rằng: “Mùa Chay có hai đặc tính là hồi tưởng lại Bí Tích Rửa Tội và nhấn mạnh đến tinh thần ăn năn, sám hối. Bởi những ý nghĩa đặc biệt này, Mùa Chay chuẩn bị cho các tín hữu sẵn sàng cử hành mầu nhiệm Vượt Qua sau thời gian tiếp cận, gần gũi hơn với Lời Chúa và nồng nhiệt hơn trong sự cầu nguyện. Trong chính bản thân phụng tự và trong những hướng dẩn từ trung tâm của phụng tự, những chủ đề về rửa tội và thống hối được tuyên bố cách sâu sắc hơn” ( SC 109 ).

15

CÙNG TRUYỀN GIÁO

Page 16: Ephata 601

Như vậy Mùa Chay không có nghĩa là việc giữ chay hình thức như chúng tôi đã từng làm cách ngốc nghếch thời thơ bé, nhưng là cần một cuộc hoán cải nội tâm để quay về với Chúa. Đối với những ai lầm đường, lạc lối, Chúa mời gọi qua ngôn sứ Giôen: "Hãy xé lòng, đừng xé áo" ( Ge 2, 13 ). Chúa muốn chúng ta sống thành thật, đừng sống bề ngoài như những người Pharisêu giả hình, nhưng hãy hết lòng quay trở về, đổi mới, và tìm gặp Người: "Hãy trở lại với Giavê, Thiên Chúa của người ! Vì Người nhân thứ, từ tâm, khoan dung và nhân nghĩa bao la”.

Mùa Chay cũng có thể nói là mùa bận rộn của các vị mục tử vì các ngài phải lo ngồi tòa cho Giáo Xứ mình cũng như các Giáo Xứ bạn lân cận để các hối nhân có dịp làm hòa với Chúa. Tuy nhiên cũng có một số vị mục tử vì thiếu kiên nhẫn hay vì cách hành xử “quan liêu” cố hữu, đã đánh mất đi dung mạo của Chúa Kitô ngay trong tòa giải tội, khi la mắng, xúc phạm đến các hối nhân. Chúng tôi không dám bênh vực hay khích bác anh em Linh Mục đồng môn của mình vì trong đời tu, chúng tôi đã từng là học trò của rất nhiều Linh Mục uyên bác và thánh thiện, nhưng bên cạnh đó chúng tôi cũng đã gặp và tiếp xúc với các Linh Mục “rất đời” và “rất thường” khiến nhiều Giáo Dân phải thốt lên: “Ông này mà là Linh Mục à ? ! ?”

Tôi chân thành nhận thấy chính bản thân mình nhiều lúc cũng có nhiều khiếm khuyết nên dễ làm cho người ta ngộ nhận khuôn mặt của Chúa Kitô cách méo mó qua hình ảnh các Linh Mục chưa tốt ấy. Chúng tôi có đọc một bài liệt kê về những lời gièm pha, chỉ trích các Linh Mục từ một trang Web tiếng Tây Ban Nha và muốn chuyển ngữ ra đây đê mọi người thấy được để trở thành Linh Mục của Chúa Kitô không dễ dàng tí nào và hãy cầu nguyện cho các Linh Mục đặc biệt trong Mùa Chay này:

NHỮNG LỜI CHỈ TRÍCH LINH MỤC

Nếu đẹp trai thì thắc mắc: sao không chịu lấy vợ ?Nếu xấu quá thì cho là không ma nào thèm lấy mới đi tu !Nếu ăn mặc đồ thường thì bị cho là quá trần tục, bụi đời.Nếu lúc nào cũng mặc chùng thâm thì bị cho là quá bảo thủ.Nếu không tiếp chuyện ân cần với mọi người thì bị cho là lạnh lùng thấy mà gớm !Nếu nói chuyện ân cần, tử tế thì bị cho là có dụng ý xấu. Nếu để tóc dài thì bị cho là đang làm cách mạng đây !Nếu lúc nào cũng để tóc ngắn như quân đội thì bị cho là quá cù lần !Nếu lúc nào cũng ở nhà xứ thì thắc mắc là sao không thăm viếng các gia đình.Nếu đang bận đi thăm các gia đình, Giáo Dân đến không gặp

thì lại lớn tiếng là chẳng bao giờ thấy mặt cha ở nhà xứ !Nếu sửa sang nhà cửa đã xuống cấp thì bị chỉ trích là ném tiền qua cửa sổ.Nếu không làm gì thì bị cho là để nhà xứ bị bỏ hoang.Nếu rửa tội và làm đám cưới nhiều thì bị chỉ trích là thích phô trương Bí Tích.Nếu yêu cầu các thủ tục và hồ sơ nghiêm ngặt thì bị gán là hay làm khó.Nếu có tổ chức Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ: bị người khác xỏ lỗ mũi mất rồi !Nếu không có Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ: quá cá nhân chủ nghĩa, muốn thâu tóm tất cả… !Nếu xây lại Nhà Thờ quá cũ kỹ: Điều gì đang xảy ra đây ?Nếu vẫn giữ y nguyên Nhà Thờ xập xệ: Giáo Xứ này không bao giờ tiến lên được !Nếu cha giảng quá 20 phút: Bao giờ nói mới nói xong đây ?Nếu bài giảng quá ngắn: Cha này chẳng biết giải thích gì cả, quá vội vàng !Nếu cha giảng với giọng dõng dạc: Cha này thích làm diễn viên.Nếu cha giảng với cung điệu bình thường:

Chẳng nghe được gì cả, không biết ông cha này đang nói gì !Nếu đụng đến vấn đề xã hội: Cha này đang xen vào chính trị đây !Nếu nói nhiều về Chúa: Cha này đang bay và không biết lúc nào hạ cánh đây !Nếu cha thui thủi một mình: Cha này không chịu chia sẻ với ai cả.Nếu nói chuyện chỉ với cánh đàn ông: Cha này trọng nam khinh nữ.Còn nếu hàn huyên với các bà:

Cha này đang có ý đồ và chẳng bao lâu sẽ cởi áo Dòng cho mà xem !

16

Page 17: Ephata 601

Nếu cha quá trẻ: Không có kinh nghiệm, ai mà thèm nghe đây ?Nếu cha quá già: Xin về hưu và nghỉ ngơi là vừa !Nhưng… nếu cha sẽ chuyển đi xứ khác hay qua đời:

Tất cả mọi người lúc đó sẽ khóc thương và nói đủ thứ chuyện tốt đẹp về cha.

Anh chị em thân mến ! Linh Mục cũng chỉ là những con người tầm thường như bao người khác nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành những người hướng dẫn chúng ta về đời sống tâm linh. Có những vị rất thánh thiện, tuy nhiên cũng có những vị không được thánh thiện cho lắm. Nhưng nếu chúng ta muốn làm một điều gì đó để giúp họ, hãy cầu nguyện cho họ và hãy cộng tác với họ trong sứ vụ. Nếu ai đó biết rõ một Linh Mục đang trong tình trạng tội trọng công khai thì hãy đi gặp cha Bề Trên hay Giám Mục của Linh Mục đó để các ngài giúp đỡ và giải quyết. Đừng lên án hay xét xử cách bất công khi chỉ nghe tin đồn hay vì một chút tư thù cá nhân. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua thừa tác vụ Linh Mục của Chúa Kitô chúng ta có các Linh Mục để thi hành các Bí Tích trong đời sống tinh thần của chúng ta.

( Dịch từ nguồn: http://www.catolico.org/sacramentos/orden_sac/criticas.htm )

Hôm nay là ngày “Thứ Ba Béo” theo cách nói đùa của những Giáo Dân bợm nhậu vì họ cho rằng ngày mai là thứ Tư Lễ Tro giữ chay và kiêng thịt, nên hôm nay cần chén một bữa cho thật no say.

Chúa cho chúng ta cơ hội hàng năm để chuộc lại lỗi lầm vì Ngài biết chúng ta mỏng dòn, yếu đuối. Chúa mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là chúng ta phải tránh xa tội lỗi mà trở về với Chúa đồng thời chúng ta phải để Chúa thay đổi thực sự tâm hồn mỗi người chúng ta.

Xin Chúa củng cố Đức Tin còn non yếu của chúng con để chúng con luôn sẵn sàng vâng theo Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong đời sống của chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con Đức Tin vững mạnh để chúng con biết sống khiêm nhường: "Hãy xé lòng, đừng xé áo”.

Paraguay, Thứ Ba Béo 4.3.2014, Lm. Antôn TRẦN XUÂN SANG, SVD

CHAY TỊNH THEO NỀN TẢNG KINH THÁNHĐến hẹn lại lên, như mặt trời lặn rồi lại mọc. Mùa Chay lại về. Càng sống lâu càng trải qua nhiều

Mùa Chay. Cứ sám hối lại tái phạm. Con người thật khốn nạn quá ! Vì thế mà chúng ta phải không ngừng cầu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” ( Lc 18, 13 ).

Mùa Chay về, lòng người chợt tím sắc màu sám hối. Không chỉ ăn chay phần xác mà còn phải ăn chay tinh thần, thế mới thực sự là chay tịnh. Chúng ta cùng tìm hiểu về chay tịnh theo nền tảng Kinh Thánh.

1. Gương Chúa Giêsu

Không có cách nào tốt hơn là noi gương Con-Chúa-làm-người – Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Theo truyền thống, chúng ta ghi nhớ phép lạ đầu tiên khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana. Nhưng trước đó, Chúa Giêsu đã lãnh nhận Phép Rửa từ Ngôn Sứ Gioan để “giữ trọn đức công chính”, trời mở ra và Chúa Ba Ngôi tỏ hiện !

Từ Galilê, Chúa Giêsu đến sông Giođan để Ngôn Sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài. Ông Gioan không chịu, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” ( Mt 3, 15 ). Sau khi chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu lên khỏi nước, các tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần có hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Có tiếng phát ra từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” ( Mt 3, 17 ). Rồi Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ.

Tại đó, Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày đêm, sau đó Ngài thấy đói. Mt 4, 3 – 10 tường thuật chi tiết:

Ma quỷ đến gần Ngài và đặt vấn đề: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi !” Nhưng Người đáp: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.

17

CÙNG TÌM HIỂU

Page 18: Ephata 601

Sau đó, ma quỷ đem Ngài đến thành thánh và đặt Ngài trên nóc đền thờ, rồi thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đức Giêsu vặn lại ngay: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.

Ma quỷ cũng chẳng vừa, nó lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, chỉ cho thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước, rồi nó dụ: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Đúng là ma quỷ ranh mãnh ! Nhưng Đức Giêsu liền đuổi thẳng: “Satan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Ma quỷ cùng đường, câm họng và “bó tay”, nó đành cụp đuôi chạy mất dạng. Và rồi các thiên thần đến hầu hạ Ngài.

Để chuẩn bị sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã chịu Phép Rửa, dù Ngài không cần làm vậy. Nhưng sau khi chịu Phép Rửa, Ngài bị ma quỷ cám dỗ đủ kiểu. Chúng ta bắt đầu cuộc sống trong Đức Kitô qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được Thiên Chúa ban ơn thánh hóa và trở nên công chính. Khác với Đức Kitô, chúng ta cần lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy làm chúng ta thanh sạch mọi tội lỗi, cả tội nguyên tổ lẫn tội riêng. Chúng ta thấy Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ.  Khi chiến thắng mọi cơn cám dỗ, Chúa Giêsu đã cứu dân Ítraen và hoàn tất điều mà họ không hoàn tất. Ân sủng của Đức Kitô làm cho các Kitô hữu có thể hành động tương tự.

2. Từ khước cơ thể để làm mạnh linh hồn

Trước khi bị cám dỗ, Chúa Giêsu đã ăn chay 40 ngày, và cơ thể Ngài suy yếu. Kinh Thánh cho biết rằng sau 40 ngày chay, Ngài cảm thấy đói – đó là lúc Ngài bị cám dỗ. Điều Ngài cho chúng ta biết là sự đói mà chúng ta trải nghiệm sau khi từ khước cơ thể, các nhu cầu không còn đủ mạnh để chiến thắng chúng ta như trước. Mặc dù Chúa Giêsu không phạm tội như chúng ta, nhưng chúng ta noi gương Ngài để được ơn chống cơn cám dỗ. Như vậy chúng ta cũng ăn chay để chuẩn bị sứ vụ công khai của chúng ta với tư cách là Kitô hữu.

3. Cần thiết từ bỏ chính mình

Ăn chay và kiêng thịt không chỉ là biểu hiện sám hối mà còn tốt cho cơ thể: Giảm béo phì, giảm bệnh tật. Ăn chay để xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu nên công chính và hợp tác với ân sủng để nên thánh. Cách hợp tác đó là từ bỏ chính mình.

Có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ? Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” ( Mt 16, 24 – 27 ).

Tội kiêu ngạo là “cửa ngõ” dẫn tới các tội khác. Người công chính phải khiêm nghường và kiểm soát nhu cầu và ước muốn của mình để càng ngày càng trưởng thành trong Đức Kitô. Chúng ta phải nhỏ bé để Ngài lớn lên trong chúng ta. Ăn chay là một dạng “thu nhỏ” mình. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để giáo huấn chúng ta. Đây là một ví dụ điển hình:

“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà.

Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. Muối quả là một cái gì tốt. Nhưng chính muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó cho mặn lại ? Dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp, nên người ta quăng nó ra ngoài. Ai có tai nghe thì nghe” ( Lc 14, 27 – 35 ).

Chúa Giêsu không bảo chúng ta nên vác thập giá, nhưng Ngài bảo đừng né tránh nếu chúng ta muốn thành công trên đường lữ hành về Nước Trời.

18

Page 19: Ephata 601

4. Ăn chay và cầu nguyện

Lời cầu nguyện của chúng ta phải khiêm nhường, và lòng khiêm nhường của chúng ta phải là lời cầu nguyện. Những gì chúng ta làm đều phải là lời cầu nguyện và để đền tội.  Ăn chay và các động thái từ bỏ khác đều phải kết hợp với lời cầu nguyện. Mc 9, 14 – 29 kể câu chuyện này:

Một lần nọ, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. Thấy Đức Giêsu, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Ngài. Ngài hỏi các môn đệ: “Anh em tranh luận gì với họ thế ?” Một người trong đám đông trả lời: “Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi”. Ngài nói: “Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin ! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa ? Đem nó lại đây cho tôi”.

Người ta đem nó lại cho Ngài. Vừa thấy Ngài, quỷ liền lay nó thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. Ngài hỏi cha nó: “Cháu bị như thế từ bao lâu rồi ?”. Ông ấy đáp: “Thưa từ thuở bé. Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi”. Đức Giêsu nói với ông ta: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể ? Mọi sự đều có thể đối với người tin”. Lập tức, cha đứa bé kêu lên: “Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi !”

Khi thấy đám đông tuôn đến, Đức Giêsu quát mắng tên quỷ: “Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa !”. Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người nói: “Nó chết rồi !” Nhưng Đức Giêsu cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy, và nó đứng lên.

Khi Ngài vào nhà, các môn đệ mới hỏi nhỏ: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy ?” Ngài đáp: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”.

Cầu nguyện được củng cố nhờ ăn chay. Thánh Phaolô nói đến việc cầu nguyện cho người khác và cầu nguyện cho mình: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” ( Cl 1, 24 ).

Thánh Phaolô giải thích với cách ví dụ cụ thể: “Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” ( 1 Cr 9, 24 – 27 ).

Được kết hợp với lời cầu nguyện, đau khổ của Thánh Phaolô đem lại ơn cứu độ cho ngài và cho Giáo Hội. Đau khổ là điều cần thiết – đau khổ mang tính cứu độ khi được nối kết với tình yêu vì Đức Kitô, kết hợp với đau khổ của Đức Kitô vì đời sống tâm linh của chúng ta và của người khác. Đây là bằng chứng hùng hồn:

“Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống. Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Ápba ! Cha ơi !” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” ( Rm 8, 12 – 17 ).

5. Khi nào cần ăn chay ?

Cuối cùng, hãy nghe Chúa Giêsu trả lời khi người ta hỏi Ngài về việc các môn đệ không ăn chay:

19

Page 20: Ephata 601

Khi các môn đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay, có người đến hỏi Đức Giêsu: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay ?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó” ( Mc 2, 18 – 20 ).

Giáo Hội thời Tân Ước có ăn chay ? Đây là nền tảng Kinh Thánh:

“Các ông các ông Banaba, Simêôn biệt hiệu là Đen, Lukiô người Kyrênê, Manaen, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hêrôđê, và Saolô. Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Banaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”. Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi” ( Cv 13, 1 – 3 ).

Bạn có muốn tăng nạp đời sống Đức Tin ? Hãy noi gương Chúa Giêsu, Giáo Hội thời Tân Ước và các Thánh. Hãy tuân thủ giáo lý của Tân Ước và giáo huấn của Giáo Hội. Hãy vui chịu đau khổ vì Đức Kitô – từ bỏ chính mình để chúng ta có thể được tràn đầy Đức Kitô.

TRẦM THIÊN THU, chuyển ngữ từ IntegratedCatholiclife.org

THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC VÀ HOẠT ĐỘNG TÍNH DỤC – Kỳ 4

3. Ngừa thai

Ngừa thai hay chống thụ thai ngày nay có nhiều kiểu thức khác nhau. Ví dụ như, đàn ông cho xuất tinh ngoài âm đạo người phụ nữ khi giao hợp. Hoặc có thể mang bao cao su phủ dương vật để cản tinh trùng đi vào trong cơ thể người phụ nữ. Đàn ông cũng có thể nhờ một phẫu thuật y khoa để triệt sản, gọi là cắt ống dẫn tinh. Đàn bà thì dùng thuốc uống tránh thụ thai, hay chọn trong số những dụng cụ khác nhau đặt vào trong âm đạo, hoặc cũng có thể nhờ phẫu thuật y khoa để triệt sản, gọi là buộc ống dẫn trứng. Và còn có nhiều hình thức khác nữa.

Ngừa thai là một hành vi can thiệp có thể trước, hoặc trong khi, hoặc sau khi giao hợp với ý định ngăn cản thụ thai một sự sống mới 1. Giáo Hội luôn dạy rằng ngừa thai là trái phép, nhưng lý do được viện dẫn khác nhau tùy theo thời đại. Ở đây chúng tôi xin trình bày hai lý lẽ dựa trên Thần học về Thân xác.

Thứ nhất, quan hệ tình dục là hành động có thể dẫn đến một hậu quả là sự thụ thai một mầm sống con người mới. Sự kiện đó nếu có nhất thiết phải là việc Thiên Chúa tạo dựng từ hư không một linh hồn cho sinh linh mới này vốn là một nhân vị. Nói cách khác, kết hợp tính dục là không gian thiêng thánh của Thiên Chúa. Đó là nơi mà Thiên Chúa muốn tiếp tục gia ân tạo dựng. Trong kết hợp tính dục, vốn là hành vi của tình yêu, người cha người mẹ góp phần trứng và tinh trùng của họ, Thiên Chúa thì tạo dựng linh hồn. Do đó, mỗi nhân vị là tuyệt đối duy nhất và độc đáo, không chỉ về mặt di truyền, nhưng còn về phương diện thiêng liêng nữa. Tất cả mọi sự đó xảy ra trong

hành động kết hợp vợ chồng. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo trong khung cảnh tình yêu con người, cho nên đôi vợ chồng không thể chủ tâm loại trừ Thiên Chúa ra khỏi sự kết hợp của họ được. Do đó, họ không thể làm bất cứ hành động nào có ý hướng chống thụ thai, nhưng phải mở ngỏ sẵn sàng đón nhận một sự sống mới có thể được ban cho.

Có phải như vậy là chúng ta không được phép phát triển và sử dụng các thành quả của kỹ thuật mới hay chăng ? Tại sao chúng ta không thể sử dụng các phương tiện ngừa thai để điều hòa sinh sản ? Ta có thể dùng viên thuốc aspirine để chữa cơn nhức đầu. Nhưng nhức đầu là một điều xấu ( thể lý ),

1 Chúng ta phải lưu ý ở đây rằng có một số cách thức được gọi không chính xác là ngừa thai, trong khi thực ra đó có thể là hành vi phá thai, vì chúng can thiệp sau khi diễn ra sự thụ tinh và như thế giết chết mầm sống mới hình thành trong cơ thể người phụ nữ. Đó là trường hợp của vòng tránh thai ( IUD: Intra-Uterine Device ), và trường hợp của «viên thuốc ngày hôm sau». Cho dù không có hiệu quả phá thai thực sự từng lần, thì người ta cũng đã có ý và chấp nhận hủy bỏ một sự sống nếu nó có được tạo ra.

20

CÙNG PHÂN TÍCH

Page 21: Ephata 601

trong khi khả năng sinh sản hay phong nhiêu lại là một phúc lành. Các phương tiện ngừa thai hoàn toàn không so sánh được với thuốc thang. Thuốc thang để chữa bệnh, còn các phương tiện ngừa thai thì ngăn chặn phúc lành, là sự sống một con người đang được hạ sinh.

Hơn nữa, thân xác con người mang tính "biểu tượng", kết hợp mật thiết với thế giới tâm linh. Vì là những tạo vật mang tính biểu tượng, chúng ta không thể tách biệt thế giới vật lý khỏi thế giới tâm linh. Nếu làm thế, chúng ta đánh mất ý nghĩa cuộc sống con người. Cội nguồn của thế giới vật lý cũng như tâm linh là chính Thiên Chúa. Chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật để củng cố thêm cho thế giới biểu tượng này, chứ không bao giờ để mà ngăn chặn hay phá hủy, điều mà các phương tiện ngừa thai đang làm.

Con người khác hẳn con vật. Tính dục con người cốt yếu ở tính biểu tượng, và chúng ta không thể tùy tiện loại bỏ đi ý nghĩa tự thân của nó. Con vật thì sản sinh ra con vật, con người thì sáng tạo thay cho Chúa một con người. Điểm dị biệt ấy rất quan trọng. Qua sự kết hợp vợ chồng, đôi bạn mở ngỏ không để sản xuất mà là để sáng-tạo-thay-thế ( pro-creation ). Nói cách khác, họ mở ngỏ đồng thời đón mừng một con người trưởng thành khác, vốn là một “nhân vị có thân xác”, và cũng mở ngỏ với chính Thiên Chúa: Tình yêu diễn tả nơi hành vi tính dục vợ chồng của họ có thể đạt tới hiệu quả là sáng tạo nên một nhân vị mới hoàn toàn độc đáo.

Lý do thứ hai cũng liên quan đến ý nghĩa hôn phối của thân xác. Như đã nói, ý nghĩa ấy hệ tại ở chỗ thân xác con người được tạo dựng cho tình yêu. Người đàn ông, khi khám phá ra ý trung nhân, quyết định trở nên “một xương một thịt” với vợ mình. Người ấy đón nhận vợ mình và tự hiến cho nàng, và người phụ nữ cũng làm như thế đối với người đàn ông. Đó là một hành vi tương hỗ, và tự do.

Để yêu thương thật sự, người đàn ông phải đón nhận vợ mình với tất cả sự thật của bản thân nàng. Người ấy phải yêu thương nàng cách vô điều kiện. Yêu cầu nàng uống viên thuốc tránh thai, hay đặt vòng, hoặc buộc ống dẫn trứng, có nghĩa là từ chối đón nhận đầy đủ con người của cô ấy. Và như thế cũng là coi thường chiều kích “biểu tượng” của thân xác và kết hợp tính dục. Thực hiện hành vi kết hợp vợ chồng, đồng thời sử dụng các phương tiện với chủ tâm chống thụ thai, thì mâu thuẫn với ý nghĩa hôn phối của thân xác con người chúng ta. Làm như thế có nghĩa là họ “dùng” nhau như những đồ vật, chứ không phải là yêu nhau.

4. Điều hòa sinh sản tự nhiên

Hai vợ chồng mỗi lần giao hợp có cần phải có ý hướng sẽ thụ thai, tức có con hay không ? Không. Họ chỉ cần tôn trọng hành vi tính dục, cởi mở với nhau, và mở ngỏ đón nhận sự truyền sinh nếu có xảy ra cách tự nhiên như kết quả của sự giao hợp vợ chồng. Ý hướng của họ cần thiết phải là kết hợp với nhau trọn vẹn trong tình yêu. Họ có thể giao hợp để tạo cho nhau hạnh phúc, để quên đi một lần cãi vã, hay để giải tỏa bớt căng thẳng... Họ có thể giao hợp chỉ đơn giản để mà hợp hoan, vì tính dục là một thiện hảo. Vợ chồng không nhất thiết phải có một lý do hay động lực nào khác.

Hội Thánh không hề đưa ra một chỉ thị nào về số con cái vợ chồng cần phải có. Vợ chồng tự do quyết định. Nếu họ có những lý do chính đáng để chưa muốn có con lần này, nghĩa là muốn trì hoãn sự thụ thai, họ được yêu cầu sử dụng các phương pháp gọi là Phương pháp Điều Hòa Sinh Sản Tự Nhiên ( PĐST ). Những phương pháp này tôn trọng ý nghĩa hôn phối của thân xác con người. Ngược với những Phương pháp nhân tạo, PĐST bảo vệ và tăng cường các kinh nghiệm hợp nhất nguyên thủy và trần truồng nguyên thủy. Khi vợ chồng dùng PĐST, họ tự hiến cho nhau và đón nhận nhau không chút dè dặt. Họ sống và tôn trọng kinh nghiệm hợp nhất nguyên thủy. Dùng tới các phương pháp nhân tạo là phá hủy kinh nghiệm hợp nhất này vì đôi bạn không tôn trọng ý nghĩa hôn phối của thân xác như đã nói. Chống thụ thai dẫn đến chia rẽ, trong khi dùng PĐST tạo thuận lợi cho sự thân mật, hợp nhất, và yêu thương vợ chồng.

Hơn nữa, trong PĐST vợ chồng sống kinh nghiệm trần truồng nguyên thủy. Điều quan trọng là kinh nghiệm nguyên thủy giúp cho các nhân vị khám phá và thực hiện sự tự do của mình: sự tự do của tặng phẩm bản thân dành cho nhau. Trong sự trần truồng nguyên thủy, ta có thể nhận ra dấu hiệu của sự tự do trong thông giao. Đó chính là điều được tạo nên nhờ PĐST.

PĐST giúp đôi vợ chồng thông giao, trao đổi với nhau, cách hoàn toàn trong sáng và riêng tư, chuyện tình dục và sinh sản. Đàn ông thì “phong nhiêu” hai mươi bốn giờ một ngày và bảy ngày một tuần. Phụ nữ chỉ có khả năng thụ thai trong một số ngày nào đó trong chu kỳ kinh nguyệt của chị mà thôi. Vợ chồng sử dụng PĐST trao đổi với nhau: chị sẽ nói với chồng mình những ngày nào có thể và những ngày nào không thể thụ thai, và người chồng lắng nghe. Sự đối thoại làm gia tăng tình vợ chồng thân mật và củng cố dây liên kết hôn phối của họ. Những con số thống kê gần đây càng khẳng định thực tế này. Những cặp vợ chồng sử dụng PĐST ít có ly dị, chỉ chiếm có 1%, trong khi tỉ lệ ly dị hiện nay trong các nước phương Tây lên đến 40 đến 50%, ở Việt Nam con số ấy cũng gần xấp xỉ.

Có bốn lý do để sử dụng PĐST này khi chưa hay không muốn có con:

21

Page 22: Ephata 601

- khi gặp vấn đề thể lý: sức khỏe của một trong hai người... ;

- những lý do tâm lý: một trong hai người có thể đang trong thời kỳ có nhiều lo âu hay bị suy nhược, trầm cảm... ;

- những lý do kinh tế: khó khăn về tài chánh... ;

- những lý do xã hội: chiến tranh, hạn hán, căng thẳng gia đình...

Những lý do này phải là chính đáng, và điều đó phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhưng, thế nào là lýdo chính đáng ? Không muốn có con vì một chuyến du lịch muốn làm theo ý thích, vì muốn mua sắm một chiếc xe hay một đồ đạc tiện nghi hay máy móc điện tử gia dụng chẳng hạn, thì không là lý do chính đáng. Đó chỉ là do tính toán ích kỉ. Để biết đâu là lý do chính đáng, đôi vợ chồng phải cầu nguyện và suy nghĩ đến trách nhiệm của họ trước mặt Chúa và đối với nhau. Các cặp kết hôn phải xét đến những nghĩa vụ của họ đối với nhau. Người chồng phải quan tâm đến những nhu cầu của vợ, và vợ cũng phải quan tâm như thế đến chồng mình. Hơn nữa, cả hai còn phải chăm lo cho con cái, những đứa con hiện có. Họ cũng phải xét tới cả những nghĩa vụ đối với xã hội. Hai vợ chồng phải quyết định theo lương tâm liệu họ có những lý do có chính đáng hay không để trì hoãn sinh con. Họ có thể xin tham vấn nơi một Linh Mục, một người bạn hay một ai đó được cho là bậc khôn ngoan, nhưng chính họ là người cuối cùng phải quyết định. Và để cho rõ ràng, vợ chồng có thể nhờ tới PĐST để trì hoãn việc sinh con nếu họ có lý do chính đáng cho quyết định đó, nhưng không bao giờ được dùng các loại phương pháp chống thụ thai.

4. “Văn hóa” khiêu dâm và sự thủ dâm

Tình dục có thể bị biến dạng nên xấu xa. Thay vì giải thoát con người, giúp họ nên những nhân vị tự do như trong hôn nhân lành mạnh, thì lại biến người ta thành nô lệ. “Văn hóa” khiêu dâm và nạn thủ dâm hủy diệt đi ý nghĩa hôn phối của thân xác con người. Hình ảnh khiêu dâm hướng cái nhìn tập chú vào sắc tướng bên ngoài và kích thích dục vọng. Nhân vị bị giảm thiểu chỉ còn là những gì thuộc bề ngoài của thân xác có thể xem thấy được. Không có dấu chỉ nào hướng đến mặt vô hình của tình thân và sự thiêng liêng của nhân vị. Cũng nên lưu ý rằng trong thế giới của các thứ văn hóa khiêu dâm “không hề có nhân vị”. Con người ta sống trong một thế giới huyễn tưởng của bóng hình, không thực sự có con người. Có thể là những cái bóng phi ngã vị, chứ không là nhân vị.

Một người dành hầu hết thời gian để xem phim ảnh, sách báo khiêu dâm, sẽ khó mà thiết lập được các mối quan hệ thực sự với tha nhân trong đời thường. Người ấy, nếu là nam nhân, sẽ quen nhìn các chị em phụ nữ như những đồ vật để mà hưởng dùng, và ngược lại, nếu là người nữ, cũng thế. Họ chấp nhận sống thường xuyên với cái nhìn dục vọng trên thân xác người khác, và như thế họ huỷ diệt ý nghĩa hôn phối của thân xác con người. Thèm khát thay vì yêu thương, và ảo tưởng thay thế thực tại.

Cũng có thể nói tương tự như thế đối với hiện tượng thủ dâm. Đó cũng là sống trong thế giới huyễn tưởng của những bóng hình mờ ảo, không thực. Thủ dâm cũng xóa bỏ ý nghĩa hôn phối của thân xác. Thật vậy, Thiên Chúa ban cho mọi người nam cũng như nữ một năng lực dục tính, thường được gọi là những xung năng tình dục. Năng lực này là điều tốt, vốn là một yếu tố hấp dẫn lẫn nhau giữa người nam và người nữ, và được tham phần vào ý nghĩa hôn phối của thân xác con người. Bởi thế, năng lực dục tính này phải được lưu thoát ra qua ngõ tình yêu chứ không phải trong dâm ô. Năng lực dục tính hướng đến một ngã vị khác, phục vụ cho tình yêu. Đối với người đàn ông, nó được tiền định dành hướng về người đàn bà, và ngược lại. Trong hành vi thủ dâm, năng lực ấy quay hướng về chính bản thân chủ thể. Đó là một thứ khuyết tật tình dục: cái lẽ ra để cho một ngã vị khác trong tình yêu lại xoay hướng về bản thân để tìm thỏa mãn. Hành vi thủ dâm, như thế, không biểu hiện tình yêu, mà là nỗi cô đơn. Để tự giải thoát khỏi tình trạng này, ngoài việc làm chủ bản thân khi chọn đọc, xem, hoặc tiếp xúc với các phương tiện văn hóa phẩm và môi trường xã hội, người ta cần tìm cơ hội thuận tiện để phát triển các tương quan với bạn hữu đích thật.

5. Đồng tính luyến ái

Nhiều người trong chúng ta biết những anh chị em đang sống xu hướng bị thu hút bởi người đồng giới, có khi họ là một trong các thành viên của chính gia đình chúng ta. Tình cảnh này có thể gây đau khổ nhiều, và cũng khó để mà đưa ra làm đề tài trao đổi cởi mở, thẳng thắn. Về đề tài quan trọng này, chúng tôi xin giới thiệu một bài báo khá hay về Đồng tính: “The origins and healing of homosexual attractions and behaviors” của Dr Richard Fitzgibbons 2. Ở đây, chỉ xin đưa ra vài nhận định có thể có ích.

2 R. FITZGIBBONS, “The origins and healing of homosexual attractions and behaviors”, 2nd Pan American Conference on Family and Education, Toronto, Ontario, tháng 5 / 1996.

22

Page 23: Ephata 601

Trong số những người đồng tính luyến ái, một số là đồng tính do mình lựa chọn, số khác thì không. Chúng ta cần phải phân biệt hai nhóm này. Đức Hồng Y George Pell, Địa Phận Sydney nước Úc, nói những người thuộc nhóm thứ hai là “những người cảm thấy mình như bị giam trong ngục tù mà không do chính mình xây dựng nên”. Nghĩa là, có một nguyên nhân, về văn hóa hay gia đình, hoặc từ cả hai phía, vượt ngoài tầm kiểm soát của một con người, đặt người ấy ở trong tình thế bị hấp dẫn bởi một người khác cùng giới.

Một nhận định sau đây có thể giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề hơn, đó là: chúng ta sinh ra đời với một giới tính có sẵn, là nam hay là nữ, nhưng đồng thời, nam tính hay nữ tính ấy của chúng ta vẫn còn ở phía trước chúng ta như một nhiệm vụ còn phải hoàn thành. Chủ thể nam giới có nhiệm vụ phải phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nam giới, và chủ thể nữ giới thì phải lo phát triển và nuôi dưỡng một nhân cách nữ giới. Vì nhiều lý do, nhiệm vụ này có thể gặp khó khăn chưa hoàn thành. Một khuyết điểm hay thất bại nào đó có thể cuối cùng dẫn tới có khuynh hướng chịu sự hấp dẫn đồng tính.

Dưới ánh sáng của Thần Học về Thân Xác, chúng ta hiểu rằng chịu sự thu hút giới tính từ người đồng giới là một hoàn cảnh đau thương. Thiên Chúa muốn đàn ông và đàn bà hấp dẫn nhau về giới tính. Họ được tạo dựng để cho nhau. Thân xác họ và con người họ bổ túc cho nhau. Họ tự thích ứng với nhau như thế nào đó để có thể “hợp nhất”, nên “một xương một thịt”.

Nhưng người đồng tính hay người chịu sự thu hút đồng giới ( SSA: Same Sex Attraction ) phải chịu hai nỗi thống khổ lớn.

Thứ nhất, người ấy đau khổ bởi chính tình trạng mình bị hấp dẫn bởi người cùng giới. Đó thực là một nỗi đau. Trong họ có một cảm giác phân rã nào đó. Theo một nghĩa nào đó, người ấy đau đớn bởi cảm thấy như mình thiếu một căn tính cá nhân. Người ấy tự hỏi, tại sao tôi lại bị thu hút bởi người đồng giới trong khi đại đa số những người khác thì không như thế ?

Thứ hai, người đồng tính đau khổ vì biết rằng hành vi tính dục đồng giới của họ không bao giờ có thể hoàn tất sự kết hợp họ “nên một xương một thịt” được. Một quan

hệ tính dục đồng giới không bao giờ có thể hoàn thành được điều đó. Có hôn phối, nghĩa là sự kiện “hai người” kết hợp nên “một xương một thịt”, thực sự là khi mà hai người diện đối diện, diễn tả tình yêu của họ và hợp hoan trên thân xác. Điều đó thì lại không thể xảy ra được nơi một quan hệ đồng tính. Hai người đàn ông, hay hai người đàn bà không thể đối diện với nhau, kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt” được, vì các bộ phận sinh dục của họ không làm được chuyện đó. Đó là một dữ kiện cốt yếu, bởi lẽ, như chúng ta đã thấy, thân xác có tính “biểu tượng”. Thân xác kết hợp chúng ta cả về mặt thế lý lẫn tâm linh: kết hợp thân xác diễn tả sự hiệp thông bên trong của các ngã vị.

Vì thế Hội Thánh dạy rằng 3 sự nghiêng chiều về đồng tính luyến ái là “vô trật tự cách khách quan” và những hành vi vi đồng tính là tội lỗi. Hội Thánh cũng lưu ý rằng đối với phần lớn những người bị sự thu hút đồng giới sự nghiêng chiều này là “một thử thách”. Những anh chị em này, cũng như mọi người bình thường khác, phải sống khiết tịnh phù hợ,p biết kiêng khem các hành vi tính dục đồng giới, và nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho họ sống sự tự do nội tâm. Hơn nữa, Hội Thánh còn khẳng định rõ ràng rằng họ “phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị”.

Có một trị liệu pháp nào khả dĩ giúp những anh chị em này hay không ? Từ hai mươi năm qua có rất nhiều những nghiên cứu và khảo sát về Đồng Tính. Bài báo của Fitzgibbons không chỉ bàn về những nguyên nhân của Đồng Tính Luyến Ái, mà còn phác thảo một viễn tượng cho sự chữa lành và hướng trị liệu hữu ích cho những người nam cũng như nữ trong lãnh vực này.

Kết luận

Trong bối cảnh văn hóa hiện nay, chúng ta không dễ sống khiết tịnh. Nhưng không phải là không thể, vì như Đức Giêsu đã nói, điều đối với con người là không thể thì Thiên Chúa có thể làm được. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể ( Mt 19, 26 ). Một đời sống cầu nguyện sâu sắc, năng tham dự các Bí Tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể là những phương thế hiệu nghiệm giúp giải phóng thân xác được tự do sống những kinh nghiệm nhân bản nguyên thủy. Tất cả các Kitô hữu đều được kêu gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống riêng của mình. Khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu đã cam kết điều khiển sức mạnh tình cảm của mình trong đức khiết tịnh 4.

3 GLHTCG 2357-2358.4 GLHTCG 2348.

23

Page 24: Ephata 601

Thánh Ambrôsiô dạy rằng: “Có ba hình thức sống đức khiết tịnh: một là của bậc phu phụ, thứ đến là của người góa bụa và thứ ba là của kẻ đồng trinh. Chúng ta không ca tụng hình thức này mà loại bỏ hình thức khác... Chính ở điểm này, kỷ luật của Hội Thánh rất phong phú” 5.

Những anh chị em bị thu hút đồng giới được mời gọi kết hợp các khó khăn gặp phải do hoàn cảnh của mình, thâm sâu hơn với hy lễ thập giá của Chúa Kitô. Cũng như Đức Kitô đã hiến dâng những đau khổ của Người làm hy lễ, những người này cũng có thể hiến tế chính mình như vậy.

Lm. Luy NGUYỄN ANH TUẤN

TẤM GƯƠNG MỤC TỬTrong hai tháng bạo loạn có máu

đổ của cuộc biểu tình chống chính phủ ở Ukraina, đã có một hàng rào được dựng lên giữa những lực lượng cảnh sát dữ tợn và một đám dân biểu tình cũng không kém hung hăng. Hàng rào này không phải làm bằng sắt, cũng không là những chướng ngại bằng cát gỗ hay bằng lửa, nhưng làm bằng những con người mỏng dòn với hai bàn tay trắng, cầm cuốn sách Thánh Kinh, mặc áo chùng thâm, vai đeo dải khăn lễ.

Đó là những Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraina, là Giáo Hội lớn nhất trong số các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương. Sự hiện diện của họ đã ngăn cản nhiều cuộc bạo động phát xuất từ đám dân chúng nổi giận, và ít ra đã một lần chấm dứt một cuộc nổ súng tấn công từ phía cảnh sát. Giữa cơn khói lửa, hình ảnh của họ nổi bật và tương phản sâu sắc với những hàng lá chắn màu bạc và mũ sắt của đội hình cảnh sát, và cũng nổi bật một cách bi thảm trước một đoàn người biểu tình ô hợp ăn mặc rách rưới tả tơi.

Mỗi sáng sớm tinh sương, với cái lạnh dưới không độ của mùa Đông Ukraina, các Linh Mục này đã xuất hiện và cất lên những bài Thánh Vịnh, trang trọng và nhẹ nhàng... để rồi không lâu sau đó, bị lấn át đi bởi những chiếc loa phóng thanh của những khẩu hiệu chống chính quyền kịch liệt, của những bài phát biểu kêu gọi "cách mạng".

Nhắc lại, vào cuối năm 1991, Ukraina trở thành một quốc gia độc lập tách rời khỏi Liên Bang Xô Viết. Tuy thế những người Nga ( một phần tư dân số ), là những di dân được Liên Xô đưa tới để chiếm đất và để kềm hãm sự nổi dậy của dân địa phương, vẫn tiếp tục nắm giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền và kinh tế.

Cuộc "cách mạng" đã bắt đầu khi Tổng Thống Viktor Yanukovych bất ngờ chấm dứt giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán với Liên Hiệp Châu Âu và muốn đưa đất nước Ukraina trở lại quỹ đạo của Moscowa.

Người dân Ukraina muốn đoạn tuyệt với Nga và hội nhập vào Liên Hiệp Châu Âu, đã tổ chức những cuộc biểu tình khổng lồ tại quảng trường Maidan Nezalezhnosti. Ngày nay cuộc "cách mạng" đó đã lan rộng ra không những ở phần phía Tây là nơi có đa số dân Ukraina, mà còn lây qua miền Đông là nơi dân Nga chiếm đa số và từng là thành trì cho các chính quyền thân Nga.

Các Linh Mục đã tới đây để cử hành Thánh Lễ cho hàng vạn người đang tham dự các cuộc biểu tình. "Tôi ở đây để xoa dịu bạo lực. Tất cả đoàn Chiên của tôi đang ở đây hết", một Linh Mục với dáng mệt mỏi, với một cây Thánh Giá lớn đeo trên cổ, nói với báo The Guardian của Anh Quốc như thế. Chủ chăn là người sống giữa đàn chiên, và theo như Đức Thánh Cha Phanxicô thì họ phải có mùi của đàn chiên của họ.

5 Thánh Ambrôsiô, De viduis, 23: Sancti Ambrosii Episcopi Mediolanensis opera, v. 141 ( Milano-Roma 1989 ) 266 ( PL 16, 241-242 ). X. GLHTCG 2349.

24

CÙNG KHÂM PHỤC

Page 25: Ephata 601

Những Thánh Lễ như thế đã gây ảnh hưởng rất lớn trong dân chúng, kể cả những người không phải là tín hữu Công Giáo. Vì thế, Bộ Trưởng Tôn Giáo của Ukraina là ông Mykhailo Moshkola đã tức giận phát biểu rằng: “Các Linh Mục không có quyền cử hành Thánh Lễ tại các cuộc biểu tình. Thái độ xem thường luật pháp một cách có hệ thống này cần phải bị trừng trị”. Và ông ta gửi thư đe dọa rút giấy phép hoạt động và đặt Giáo Hội Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật.

Tuy nhiên, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo đã trả lời thẳng thừng với ông ta: “Mặc dù Giáo Hội không làm chính trị, nhưng Giáo Hội không thể khoanh tay đứng nhìn khi các tín hữu yêu cầu được chăm sóc tinh thần. Giáo Hội của chúng tôi luôn luôn đứng về phía sự thật bất chấp tất cả các mối đe dọa và sẽ làm như vậy vì đó là sứ mệnh đã được Chúa Cứu Thế trao phó. Chúng tôi nghĩ rằng thời áp bức đã trôi qua, nhưng lá thư này khiến chúng tôi đâm ra nghi ngờ. Chúng tôi không xấu hổ về sự hiện diện của chúng tôi tại quảng trường Maidan và sẽ tiếp tục ở lại đó".

Không thể bắt nạt được Giáo Hội, Tổng Thống Viktor Yanukovych đành tuyên bố: "Chúng ta cần phải du di các yêu cầu pháp luật để bảo đảm rằng các tín hữu có cơ hội cầu nguyện bất cứ nơi nào họ muốn." Và như thế, các Linh Mục đã trở thành một yếu tố xoa dịu và an ủi. Họ cung cấp nơi trú ẩn cho những người biểu tình bị cảnh sát đánh đuổi. Họ cũng đàm phán để cứu thoát các cảnh sát bị đám đông vây khốn.

Các Linh Mục cũng lặng lẽ cung cấp một ví dụ cho xã hội xao động bên ngoài về việc hợp tác với nhau trong bối cảnh căng thẳng. Tại Ukraina có bốn Giáo Hội, gồm ba phái Chính Thống Giáo và một phái Công Giáo, các Giáo Hội cạnh tranh ảnh hưởng với nhau, tuy thế, trong những ngày này, mọi giáo sĩ của tất cả bốn Giáo Hội đều có mặt tại các cuộc biểu tình.

"Bây giờ, đặc biệt là ở Ukraina, chúng ta có thể thấy rằng các nhà thờ và các tổ chức tôn giáo có thể khác nhau ở một số điểm, nhưng như mọi người, chúng tôi đều là con người", theo lời Cha Ivan, Công Giáo, nói với phóng viên hãng AP.

"Thiên Chúa nói: "Phúc cho ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được Nước Trời. Đó là lý do tại sao tất cả các Giáo Hội đều chống lại sự đối đầu và đổ máu", Cha Igor, cũng Công Giáo, nói thêm.

TRẦN MẠNH TRÁC

PHONG CÁCH PHANXICÔBÀI 6. CHÚA GIÊSU CHỈ LẬP NÊN MỘT HỘI THÁNH DUY NHẤT, THÁNH

THIỆN, CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN

Hiện nay có khoảng 41.000 hệ phái Kitô trên khắp thế giới.

Hệ phái Mormon có 7 triệu tín hữu, tên chính thức là The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints ( Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô của các Thánh thời Cánh Chung ). Ông Mitt Romney, ứng cử viên thất cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2012, ở trong hệ phái này. Họ tự thêm cả một bộ sách riêng của họ vào Thánh Kinh, nhưng lại phủ nhận một số điều căn bản của Lòng Tin. Thí dụ: có nhiều Chúa. Tín đồ Mormon sẽ trở nên các Chúa sau khi chết, vì thế họ tự gọi mình là các Thánh thời Cánh Chung. Đa số tín hữu đều có rất đông con, một số lại có rất nhiều vợ. Brigham Young ( 1801 – 1877 ), Giáo Chủ thứ nhất, được tín đồ tôn kính như một Môsê mới vì có công dẫn dắt họ đến lập nghiệp tại Salt Lake City, bang Utah, đã có 55 vợ.

Rất nhiều Kitô hữu thường thay đổi hệ phái nhiều lần. Tổng Thống Obama đã 3 lần thay đổi hệ phái, nay ông không thuộc về một nhóm nào cả. Ông đi Nhà Thờ thuộc nhiều hệ phái khác nhau. Nhà Nguyện ( chapel ) trong tòa Bạch Ốc được trở thành phi hệ phái.

25

CÙNG KHÂM PHỤC

Page 26: Ephata 601

Không nên sa đà vào cuộc tranh luận vô ích như Tin Lành và Công Giáo, đạo nào mới thực là Hội Thánh Chúa Kitô ? Có một thực tế khó chối cãi là các quốc gia có đa số tín hữu Tin Lành như các nước Bắc Âu, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Canada lại có mức sống cao và phát triển hơn các nước có đa số Công Giáo như các nước Nam Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Philippines. Riêng Ý và Mexico còn nổi bật với nhiều băng đảng tung hoành giết người không gớm tay.

Nhưng Chúa Giêsu chỉ lập nên một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.

Các sách Cựu Ước nói về sự can dự liên tục vào đời sống dân Do Thái của Đức Chúa thông qua các Ngôn Sứ. Qua bàn tay, môi miệng cụ thể của nhiều Ngôn Sứ, Đức Chúa thiết lập và thi hành Lề Luật. 

Thứ nhất, Chúa Giêsu chỉ chọn riêng một mình Phêrô để làm thủ lãnh hữu hình của Hội Thánh. “Anh là Đá, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây lên Hội Thánh của

Thầy” ( Mt 16, 18 ). Câu này có thể dịch theo đúng với ngôn ngữ Thánh Kinh: “Thầy sẽ xây lên Đền Thờ của Thầy”. ( Phần sau sẽ bàn tới lý do nên gọi Hội Thánh hay Giáo Hội là Nhà Thờ hay Đền Thờ cho đúng với truyền thống của Hội Thánh trong 2.000 năm qua ).

Thứ nhì, Chúa Giêsu trao cho Phêrô và các Tông Đồ năng quyền thi hành sứ vụ của Người. “Thầy sẽ trao cho anh ( Phêrô ) chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" ( Mt 16, 19 ). Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( Ga 20, 23 ).

Thứ ba, Chúa Giêsu ra lệnh cho Phêrô và các Tông Đồ phải làm những gì. Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” ( Lc 22, 19 ). Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" ( Mt 28, 19 – 20 ). Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" ( Mc 16, 15 ).

Hội Thánh tiên khởi đã hình thành với phẩm trật như thế và liên tục cho đến tận hôm nay. Sách Công Vụ, chương 15 nói về các Tông Đồ và các Trưởng Lão hội họp dưới quyền lãnh đạo của Thánh Phêrô để quyết định xem Dân Ngoại phải làm gì khi gia nhập Hội Thánh. Thánh Phaolô, tuy được gọi một cách rất đặc biệt để trở nên người loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại, vẫn phải tùng phục Phêrô như lãnh đạo duy nhất của Hội Thánh. “Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện kiến ông Kêpha, và ở lại với ông mười lăm ngày” ( Gl 1, 28 ).

Toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước không hề nói về các giáo đoàn độc lập nào cả. Vì thế, chỉ có Hội Thánh Công Giáo có thể tự nhận mình là Hội Thánh duy nhất do Chúa Giêsu trực tiếp lập nên. Các Hội Thánh khác chỉ bắt đầu thành hình với một cá nhân nổi bật, do đó mang tên nhân vật đó như Hội Thánh Luther do Martin Luther lập nên, hoặc Hội Thánh Methodist ( Tin Lành Giám Lý ) do John Wesley thành lập và đặt tên.

Chỉ có Hội Thánh Công Giáo mới có sự tông truyền liên tục từ Chúa Giêsu, Người đã đặt Phêrô làm Giáo Hoàng đầu tiên, và ngài đã được kế tục liên tiếp qua 266 triều đại trong hơn 2.000 năm qua. Giáo Hoàng thứ 38 là Thánh Siricius ( nhiệm kỳ 384 – 399 ) là người đầu tiên có danh xưng Papa. Danh xưng này được duy trì liên tục cho tận tới Papa Phanxicô hiện nay.

Thiên Chúa dẫn dắt, dạy dỗ và thánh hiến Dân Người qua Hội Thánh. Với năng quyền dạy dỗ, Hội Thánh Công Giáo duy trì Lời Thiên Chúa qua các thời đại. Dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, Hội Thánh bảo vệ, loan báo, cắt nghĩa các Lời Dạy của Đức Kitô cho mọi thời đại.

Điều khắc khoải nhất trong cuộc đời Phanxicô thành Assisi là xây lại Đền Thờ Thiên Chúa. Qua thời gian, anh đã nhìn ra Đền Thờ Thiên Chúa không hẳn chỉ là những ngôi Nhà Thờ vật chất, nhưng còn là Hội Thánh, và còn phải đi xa hơn nữa, vì Đền Thờ Thiên Chúa còn lớn lao hơn thế nhiều.

NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp )

26

Page 27: Ephata 601

NGƯỜI CÔNG GIÁO TỐT MỌI THỜITrong cuộc họp của tổ công tác hỗn hợp Tòa Thánh Vatican và Việt Nam ngày 28.2.2012, câu nói

của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô 16 trích trong huấn từ gửi các Giám Mục Việt Nam nhân chuyến Ad Limina năm 2009: “Một người Công Giáo tốt và là một người công dân tốt" lần nữa được nhắc lại trong Bản Thông Cáo Chung: “Cả hai bên đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô 16 về việc sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc và những lập trường của ngài về việc là một người Công Giáo tốt và là một công dân tốt, nhấn mạnh cần tiếp tục có sự hợp tác giữa Giáo Hội Công Giáo và chính quyền, để thực thi những giáo huấn ấy một cách cụ thể và thiết thực trong mọi hoạt động” ( Nguồn: LTCG ngày 6.3.2012 )

Đánh giá bản Thông Cáo Chung này, Linh Mục Gioan Nguyễn Ngọc Nam Phong, DCCT, cho rằng đây không phải là lần đầu tiên câu nói của Đức Giáo Hoàng cũng như của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: "Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc" được chính quyền Hà Nội sử dụng như “lá bùa” trong các cuộc gọi là “đối thoại” giữa Giáo Hội Công Giáo với chính quyền với nhiều hàm ý” ( Nguồn đã dẫn ).

Nói đến “bùa” hay bùa phép, bùa chú người ta liên tưởng ngay đến một thứ gì đó mờ ám mang tính lừa gạt. Tuy nhiên đối với cái “bùa” mà cha Nam Phong nói, nó lại có một tác dụng không nhỏ trong hàng ngũ cả Giáo Sĩ lẫn Giáo Dân. Đại đa số người Công Giáo chúng ta vẫn kính trọng và tin tưởng vào Đức Thánh Cha, cũng như các Giám Mục, bởi vậy một khi các ngài đã nói như thế thì phải đúng là như thế. Tin vào các đấng các bậc là điều tốt, thế nhưng cũng cần phải… tỉnh táo để khỏi bị người ta… bỏ bùa mà không biết !

Trong câu nói của Đức Bênêđitô 16: “Một người Công Giáo tốt và một người công dân tốt” dường như có ngụ ý rằng để có thể là

người Công Giáo tốt thì cũng phải là người công dân tốt. Thế nhưng thật sự thì không hẳn như vậy, bởi vì khái niệm công dân ở đây đã bị người ta bẻ quặt đi, hiểu như là những người tán đồng chủ trương đường lối chính sách của Đảng. Từ cách hiểu như thế suy ra: để có thể được gọi là người Công Giáo tốt thì phải nhất mực tán đồng đường lối chính sách của Đảng, ngược lại thì không ! ? !

Thực ra để phân định thế nào là người Công Giáo tốt hay không tốt, chẳng những tại Việt Nam mà còn cho cả thế giới là điều hoàn toàn không dễ. Lý do bởi vì Giáo Hội hầu như đang bị chìm ngập trong tục hóa. Có vị đã chỉ dẫn rành mạch cần phải sống đạo thế nào trong một thế giới Giải Thiêng ( Lm. Nguyễn Hồng Giáo ). Có vị khác lại còn mạnh miệng khẳng định: “Suy cho kỹ, chính Đức Giêsu mới là ông tổ của chủ nghĩa thế tục” ( Lm. Thiện Cẩm – Nguyệt san CG và DT số 205 tháng 1/2012 )...

Một khi đã bước vào con đường tục hóa thì việc thỏa hiệp với thế gian là điều không thể tránh. Đang khi đó Chúa kêu gọi chúng ta ra khỏi thế gian: “Nếu các ngươi thuộc về thế gian thì thế gian chắc yêu mến kẻ thuộc về mình. Nhưng các ngươi không thuộc thế gian, song Ta đã lựa chọn các ngươi ra khỏi thế gian nên thế gian ghét bỏ các ngươi” ( Ga 15, 19 ). Những người sống niềm tin tôn giáo thì không thể thỏa hiệp với thế gian bởi vì nó trái ngược nhau về chí hướng. Người đời bám chặt lấy thế gian, lấy nó làm cứu cánh, còn người có đạo thì coi thế gian là chốn khách đày, tất cả hy vọng của họ đặt ở đời sau. Cùng một chí hướng với thế gian thì như Chúa nói sẽ được thế gian yêu mến, ngược lại sẽ bị ghét bỏ.

Dù bị thế gian ghét bỏ nhưng người có đạo thà vâng lời Chúa để phải chết còn hơn là sống mà trái lời Ngài. Trong buổi sơ khai Giáo Hội, Phêrô và các Tông Đồ đã bị điệu đến trước Công Hội và bị thầy tế lễ thượng phẩm cật vấn: “Chúng ta đã nghiêm cấm các ngươi chớ lấy Danh đó ( Kitô ) mà dạy dỗ. Nhưng kìa các ngươi lại làm cho Giêrusalem đầy dẫy sự dạy dỗ của các ngươi và toan khiến máu người đó đổ lại trên chúng ta. Phêrô và các Tông Đồ đáp lại:"Chúng tôi cần phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời” ( Cv 5, 28 – 29 ).

Các Tông Đồ khi xưa cũng như biết bao con người có đạo kể cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước đã biết khẳng khái vâng lời Thiên Chúa để rồi đã bị thế gian ruồng rẫy bách hại. Trường hợp của vị Kinh Sư Do Thái cho thấy điều ấy, khi sắp chết vì đòn vọt, ông vừa rên vừa nói: "Đức Chúa là Đấng thông

27

CÙNG PHÂN TÍCH

Page 28: Ephata 601

suốt mọi sự, hẳn người biết là dù có thoát chết nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác còn trong tâm hồn tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người” ( 2 Mcb 6, 30 ).

Vì lòng kính sợ Chúa mà can đảm chịu chết, những chứng cớ như vậy thì không sao kể xiết. Thế nhưng đối với thế gian thì đây vẫn là điều không sao hiểu nổi, và cũng chính vì vậy mà họ căm ghét người có đạo. Lý do sâu xa của sự căm ghét đó là bởi họ đã không tin sự hiện hữu của Thiên Chúa. Còn về phần những người tự nhận mình là có đạo, chúng ta có tin sự hiện hữu ấy không ? Nếu tin thì phải vâng lời Thiên Chúa mới thật sự là tin, ngược lại cái gọi là lòng tin ấy chỉ vu vơ không thật. Chỉ nói tin mà không vâng lời Thiên Chúa thì không thể gọi là tin ? Mặc dầu vậy, để có được lòng tin ấy là điều rất khó, bởi lẽ Đức Tin luôn phải đi đôi với việc làm: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 ). Đức Tin cần có việc làm, vậy việc làm ấy là những gì ?

I. Tin và theo Chúa Giêsu Tin Thiên Chúa hiện hữu thì phải biết vâng nghe lời Ngài,

và sự vâng nghe ấy không phải điều gì khác mà đó chính là sống ơn gọi làm Con Chúa: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một hy vọng, một Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa, một Đức Chúa Trời là Cha của mọi người, suốt qua mọi người và ở trong mọi người” ( Ep 4, 4 – 6 ). Làm sao để sống ơn gọi làm Con Chúa, đó phải là toàn bộ chí hướng của người Công Giáo chúng ta.

Sống ở đời cần có chủ đích, nếu không sẽ là bất định. Một người tâm trí bình thường mỗi khi ra khỏi nhà cần biết mình đi đâu, với mục đích gì, nếu không chỉ là đi lang thang vơ vẩn. Lại nữa, một người muốn sống cuộc sống thật tốt thì cần có lý tưởng, bởi như vậy mới có thể vượt qua được những gian lao khổ cực. Trái lại sẽ dễ rơi vào chỗ thất vọng buông xuôi cho hoàn cảnh. Mặt khác, lý tưởng càng cao bao nhiêu thì mục đích đạt được càng lớn bấy nhiêu. Một người chỉ ra sức làm giàu thì không thể sánh với người hoạt động chính trị đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc v.v…

Tuy nhiên tất cả nỗ lực của người đời suy cho cùng đó chỉ là ảo tưởng, nếu không muốn nói nó chỉ đem đến những điều tệ hại. Một người cố gắng làm giàu dù bằng cách chính đáng đi nữa, nhưng khi đã đạt được mục đích rồi, giàu có rồi, thì khó mà tránh khỏi kiêu căng ngạo mạn, đồng thời sinh ra biết bao tật xấu, đam mê tửu sắc, vợ nọ con kia lu bù. Là chiến sĩ đấu tranh nhưng khi cách mạng thành công rồi lại trở thành những tên độc tài đấu đá, tranh dành quyền lợi địa vị cho bản thân cho phe nhóm, đảng phái của mình để rồi gây ra biết bao oán cừu v.v…

Bám giữ vào những cái không thể bám giữ đó chẳng phải là ảo tưởng sao ? Thử hỏi trước cái chết thì tiền bạc danh giá địa vị có giúp ích được chi cho mình ? Người tốt phải sống có lý tưởng, thế nhưng lý tưởng ấy cần siêu xuất thế gian, đó mới thực là tốt. Cuộc đối đáp giữa anh thanh niên với Chúa Giêsu đã cho thấy sự khác biệt giữa cái tốt của thế gian với cái tốt của siêu xuất thế gian. Anh thanh niên muốn tìm cho mình con đường cứu rỗi nhưng đã thoái lui khi nghe Chúa nói: “Anh còn thiếu một điều: Hãy về bán hết của cải ngươi mà cho kẻ nghèo thì ngươi sẽ có của báu ở trên Trời rồi hãy đến theo Ta” ( Mc 10, 21 ). Anh thanh niên là đặc trưng cho hạng người tốt ở thế gian, anh đã giữ tất cả mọi điều răn: không trộm cắp giết người, không gian dâm, lại còn có lòng hiếu thảo với mẹ cha ngay khi còn nhỏ tuổi. Đối với thế gian đó đã là quá tốt, nhưng với Chúa thì chưa đủ: cần phải bố thí tất cả gia sản rồi theo Chúa. Chính việc theo Chúa ấy mới làm cho con người được cứu rỗi chứ không phải là sống tốt theo nghĩa luân lý thế tục.

Phải bán hết gia tài sản nghiệp bố thí cho kẻ nghèo mới có thể theo Chúa, điều kiện ấy xem ra thật quá khó với chàng thanh niên ngày ấy cũng như tất cả chúng ta ngày nay. Chẳng những chúng ta mà ngay cả các Tông Đồ cũng lấy làm kinh ngạc hỏi Chúa: “Vậy thì ai mới được cứu ? Chúa đáp: Đối với loài người thì bất năng nhưng với Đức Chúa Trời thì chẳng vậy, vì mọi sự đều khả năng cho Đức Chúa Trời” ( Mc 10, 26 – 27 ). Mọi sự đều khả năng, điều ấy không có nghĩa Thiên Chúa sẽ cứu độ hết thảy, bất kể họ là người vô thần không tin có Thiên Chúa, hoặc chống phá Giáo Hội cách này cách khác, sống gian tham độc ác… Hoàn toàn không phải vậy, bởi như Chúa nói muốn được cứu thì phải theo Chúa, có nghĩa phải hết lòng yêu mến và vâng giữ các giới răn của Ngài: “Ai có các điều răn của Ta và giữ lấy ấy là kẻ thương yêu Ta. Còn ai thương yêu Ta sẽ được Cha Ta thương yêu lại. Ta cũng thương yêu và tỏ chính mình Ta cho người” ( Ga 14, 21 ).

Ai thương yêu Chúa thì giữ các giới răn Chúa và giới răn Chúa tất cả chỉ gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa và yêu người: “Cả luật pháp và tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn ấy” ( Mt 22, 40 ).

28

Page 29: Ephata 601

Mặc dầu theo Chúa chỉ cần giữ hai giới răn, thế nhưng để giữ cho trọn vẹn lại là điều bất khả, nếu không có Đức Mẹ là Đấng Trung Gian Các Ơn.

II. Qua Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu

Người Công Giáo Việt Nam nói chung hiện nay có lòng kính mến Đức Mẹ, điều ấy thật là tốt. Thế nhưng cũng cần xét lại, đó có phải là lòng sùng kính chân thật hay chỉ là những cảm tính nhất thời ? Là cảm tính khi người ta cứ chạy tới hết đền này đền kia để xin ơn này ơn kia cho mình, cho người thân của mình. Xin ơn nếu được ơn thì tạ ơn nhưng nếu không được thì có khi lại… mất Đức Tin. Tuy nhiên cứ thực mà nói thì những người ấy họ chưa từng có Đức Tin mà đã không có thì sao có thể nói là mất được ?

Con người chỉ có Đức Tin chân thật khi niềm tin ấy đặt ở nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Độ mình. Đức Tin không do người khác nhưng phải tự mình chứng nghiệm đó mới thực là tin.

Người phụ nữ xứ Samari sau khi được trò chuyện với Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp

bèn về báo lại cho dân làng. Họ ra gặp Chúa và mời Ngài ở lại hai ngày; trong thời gian đó giữa Chúa Giêsu và dân làng tất nhiên đã có những cuộc trò chuyện thân tình nhưng hết sức bổ ích. Họ nói với người phụ nữ: “Nay chúng tôi tin không còn phải vì lời ngươi nói, mà chính chúng tôi đã nghe và biết rằng ấy thật là Cứu Chúa của thế gian” ( Ga 4, 42 ).

Qua câu chuyện của dân xứ Samari cho thấy Đức Tin chân thật vào Đấng Cứu Độ không thể do người khác truyền đạt nhưng phải tự mình nghe và biết. Về sự nghe, biết ở đây là gặp gỡ chính con người Giêsu bằng xương bằng thịt chứ không như một hình ảnh, một khái niệm.

Gặp gỡ một con người hoàn toàn khác với việc được người khác diễn tả về con người ấy. Dù cách diễn tả có hay ho chính xác đến đâu thì trước sau đó vẫn chỉ là một thứ khái niệm không hơn không kém. Khái niệm tất nhiên không phải thực tại, bất cứ ai dù là đứa trẻ con cũng biết phân biệt sự khác nhau giữa bức tranh vẽ bát phở với một bát phở đang bốc mùi thơm ngào ngạt. Bức tranh phở chỉ là một thứ khái niệm về phở. Không ai có thể nhìn ngắm bức tranh phở ( khái niệm ) để no bụng, mà chỉ có ăn bát phở ( thực tại ) mới làm cho người ta no. Cùng một lẽ ấy chúng ta chỉ có thể sống trong thực tại bằng cách gặp gỡ đích thực với Chúa Giêsu chứ không phải bằng những khái niệm, những khoa thần học này khác…

Gặp gỡ Chúa Giêsu trong thực tại Ngài Là, đó là điều bất khả với con người nhưng không bất khả đối với Thiên Chúa, bởi vì ngay từ muôn thuở Ngài đã ban Đức Maria cho nhân loại qua lời hứa: “Ta sẽ làm cho ngươi cùng Người Nữ, dòng dõi ngươi cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu ngươi còn ngươi thì sẽ rình cắn gót chân Người” ( St 3, 15 ).

Mặc dù trình thuật không hề nhắc nhở đến Đấng Cứu Thế nhưng các nhà chú giải Thánh Kinh vẫn gọi đó là Giao Ước Hứa Ban Đấng Cứu Thế, bởi vì Đấng ấy chỉ có thể ra đời thông qua cuộc giao tranh dữ dội giữa Người Nữ ám chỉ Đức Nữ Trinh Maria và con rắn tức quỷ Satan. Đức Maria nhận lời cưu mang sinh hạ Đấng Cứu Thế bằng tiếng Xin Vâng: “Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” ( Lc 1, 38 ).

Một khi Đức Mẹ đã nhận lời cưu mang sinh hạ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, thì cùng một thể ấy Ngài cũng nhận lời cưu mang sinh hạ chúng ta những kẻ được ơn gọi làm Con Chúa: “Cùng một năng lực Đấng Chí Cao, cùng một tác động của Thánh Thần đã làm cho Maria sinh ra Đấng Cứu Chuộc, cũng làm cho người tín hữu sinh ra trong nước tái sinh” ( Mv. Bernado OP, Mẹ Trong Đời Tôi ).

Từ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, người Công Giáo chúng ta đã nhận được Ơn Tái Sinh. Thế nhưng ơn ấy chỉ có thể mang lại hiệu quả nếu có Đức Maria làm Mẹ. Tại sao ? Bởi vì Ơn Tái Sinh ấy không phải là ơn nào khác mà là Chúa Giêsu được sinh ra trong tâm hồn mỗi người. Nếu khi xưa Mẹ hoài thai và sinh hạ Chúa thế nào thì giờ đây Mẹ cũng hoài thai và sinh hạ Chúa trong ta như vậy. Mẹ đã sinh thì Mẹ cũng dưỡng để ta được lớn lên trong ơn Thánh do việc lãnh nhận các Bí Tích.

Chúa Giêsu thực sự sống trong ta ( In Christo Jesu ) đó là thực tại mầu nhiệm vô cùng cao cả và chỉ trong thực tại ấy mà người Công Giáo mới có thể sống tốt mọi nơi, mọi thời.

PHÙNG VĂN HÓA, 3.2014

29

Page 30: Ephata 601

Đ Ứ C GIÁO HOÀNG PHANXICÔ: HÃY ĐỒNG HÀNH, ĐỪNG KẾT ÁN NHỮNG NGƯỜI ĐANG TRẢI NGHIỆM SỰ ĐỔ VỠ TRONG HÔN NHÂNĐức Giáo Hoàng Phanxicô cử hành Thánh Lễ sáng nay tại Nguyện Đường Casa Santa Marta.

Trong phần bài chia sẻ của mình theo những bài đọc trong ngày, ngài tập trung vào vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và cảnh tỉnh rằng Giáo Hội cần phải đồng hành – đừng kết án – những người đã trải qua một sự thất bại trong đời sống hôn nhân. Ngài giải thích rằng Đức Kitô là Chàng Rể của Hội Thánh, và do đó các bạn không thể hiểu được người này mà không có người kia.

Đức Thánh Cha cũng cảnh tỉnh chống lại việc rơi vào cơn cám dỗ vui hưởng “sự biện hộ đặc biệt” khi đặt các vấn đề liên quan đến hôn nhân. Các người Pharisêu, Ngài lưu ý, trình bày với Chúa Giêsu về vấn đề ly dị. Phương pháp của họ, Đức Giáo Hoàng nói, luôn luôn giống nhau: “dùng trò quỷ thuật” – “điều này hợp pháp hay không ?”

“Luôn luôn là một trường hợp nhỏ. Và đây là cái bẫy, phía sau trò quỷ thuật, phía sau những tư tưởng quỷ quái, luôn luôn có một cái bẫy: chống lại con người, chống lại chúng ta, và chống lại Thiên Chúa, luôn luôn. ‘Nhưng có được phép làm điều này không ? Rẫy vợ mình ?’ Và Chúa Giêsu trả lời, hỏi họ về Luật đã nói gì, và giải thích vì sao Môsê đưa ra Luật như thế. Nhưng Ngài không dừng ở đó. Từ việc nghiên cứu một trường hợp cụ thể, Ngài đi thẳng vào vấn đề của tâm hồn, và tại đây Ngài đi thẳng về những ngày Tạo Dựng. Rằng ý định của Thiên Chúa thì thật là tốt đẹp: Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”. 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp tục chia sẻ, “Thiên Chúa yêu thích tuyệt tác của Công Trình Tạo Dựng”, công trình mà rõ ràng con người nhân loại, được tạo dựng là nam và nữ. Thiên Chúa nói Ngài “không muốn người đàn ông ở một mình”, Ngài muốn người đàn ông ở cùng với “người bạn đồng hành của mình trên suốt con đường”. Khoảnh khắc mà Adam gặp Eva, Đức Thánh Cha nói, là một khoảnh khắc thơ: “Đấy là khởi đầu của tình yêu: một cặp hoà quyện với nhau thành một xương một thịt”. Thiên Chúa luôn luôn bắt lấy tư tưởng quỷ thuật và đưa nó về với khởi đầu của việc mặc khải”. Trái lại, Đức Thánh Cha giải thích, “tuyệt tác này của Thiên Chúa thì không hoàn thành ở đó, ở thời điểm của những ngày Tạo Dựng, bởi vì Thiên Chúa đã chọn biểu tượng này để giải thích tình yêu mà Ngài có dành cho con người của Ngài”. Ngay tại điểm này “khi con người không trung thành thì Thiên Chúa lại nói với con người bằng chính ngôn từ của tình yêu”:

 “Thiên Chúa lấy tình yêu của tuyệt tác Tạo Dựng này để giải thích tình yêu mà Ngài có cho người của Ngài. Và đi xa hơn nữa: khi Thánh Phaolô cần giải thích mầu nhiệm về Đức Kitô, thì Ngài đã giải thích nó bằng một mối quan hệ, trong sự tham chiếu với Vị Hôn Thê của Ngài: bởi vì Đức Kitô kết hôn, Đức Kitô đã kết hôn, Ngài kết hôn cùng Hội Thánh, dân của Ngài. Đây là một chuyện tình, đây là lịch sử của tuyệt tác Tạo Dựng – và trước con đường này của tình yêu, biểu tượng này, thì trò quỷ thuật này thất bại và trở nên sầu khổ. Tuy nhiên, khi việc rời bỏ cha mẹ của một người này, và việc kết hợp bản thân với một người phụ nữ, và tiếp tục đi về phía trước… khi tình yêu này đổ vỡ – bởi vì nhiều lần nó đổ vỡ – chúng ta phải cảm thấy được nỗi đau của sự đổ vỡ, chúng ta phải đồng hành cùng những người đã trải nghiệm sự đổ vỡ này trong tình yêu của họ. Đừng kết án. Hãy đi với họ – và đừng áp dụng trò quỷ thuật vào trong hoàn cảnh của họ”. 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nói về bản văn Tin Mừng khích lệ chúng ta suy tư “về kế hoạch tình yêu này, về hành trình này của tình yêu trong hôn nhân Kitô Giáo, rằng Thiên Chúa đã chúc phúc cho tuyệt tác Tạo Dựng của Ngài”, một phúc lành, Đức Giáo Hoàng nói, “mà chưa bao giờ bị lấy đi mất. Thậm chí cả tội nguyên tổ cũng không phá huỷ nó”. Khi chúng ta nghĩ về điều

30

CÙNG CẢM THÔNG

Page 31: Ephata 601

này, chúng ta có thể “thấy được tình yêu đẹp biết bao, hôn nhân đẹp biết bao, gia đình đẹp biết bao, hành trình này đẹp biết bao, và cũng như chúng ta yêu nhiều biết bao, chúng ta cần phải gần gũi anh chị em mình biết bao những anh chị em mà cuộc đời họ đã gặp phải sự bất hạnh của sự đổ vỡ trong tình yêu”.

Quay trở lại với Thánh Phaolô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến vẻ đẹp của “tình yêu Đức Kitô dành cho nàng dâu của Ngài, Hội Thánh”:

“Cũng vậy, ở đây, chúng ta phải cẩn thận rằng tình yêu không thất bại: Thật là nguy hiểm để nói về một Đức Kitô – cử nhân ( Cristo troppo scappolo ): Đức Kitô đã kết hôn Hội Thánh. Bạn không thể hiểu về Đức Kitô mà không có Hội Thánh, và bạn không thể hiểu Hội Thánh mà không có Đức Kitô. Đây là một mầu nhiệm lớn lao về tuyệt tác Tạo Dựng. Xin Chúa ban cho tất cả chúng ta ân sủng để hiểu mầu nhiệm này và cũng ban cho chúng ta ân sủng để không bao giờ rơi vào những thái độ quỷ quái này của những người Pharisêu, của những luật sĩ”.

JOSEPH C. PHAM, chuyển ngữ từ News.va

TÂM TÌNH VỚI NGƯỜI HỌC TRÒ CŨNiềm hạnh phúc những ngày lễ nhộn

nhịp, sốt sắng của tín hữu Boston dần qua đi, lắng đọng trong từng người chút kỷ niệm khó quên, dư âm ngọt ngào sau ngày lễ truyền chức bốn tân Linh Mục DCCT Boston. Riêng tôi, hạnh phúc đến quá bất ngờ trong ngày hội ngộ, gặp lại người học trò cũ hơn 25 năm xa cách.

Sáng Chúa Nhật tuần trước Noel, đang sửa soạn đi Lễ, chuông điện thoại reng… reng… Từ đầu dây bên kia, một giọng hơi lạ: “Cô có nhận ra ai không ?” Nói theo kiểu ngôn ngữ Việt Nam bây giờ “biết chết liền !” Lần mò lại vùng ký ức khi đầu óc chớm u mê vì tuổi tác, sau mấy câu nói dồn dập cũng chẳng thể đoán được ai trong trí nhớ. Theo cách xưng hô chỉ đoán chừng là học trò cũ, nhưng từ ngày bỏ nghề bỏ xứ ra đi đã hơn 20 năm, làm sao mà nhớ được !

Tôi chưa kịp trả lời thì nghe tiếp: “Thắng đây, cô có còn nhớ Thắng không ?” Tôi vẫn chưa kịp nhận ra người gọi, nhưng sau đó em nói cả tên đệm là Tất Thắng thì tôi nhớ ngay. Em mới biết số điện thoại qua người anh họ tôi, khi gặp anh đi tĩnh tâm tại cộng đoàn Việt Nam tiểu bang Colorado. ( Lm. Tất Thắng hiện là Giám Đốc Ơn Gọi Tỉnh DCCT Denver, Hoa Kỳ ).

Nhiều người đã từng đi dạy có cùng tâm trạng và kinh nghiệm như tôi, thường nhớ những học trò có nét đặc biệt về cá tính như nghịch ngợm, xuất sắc… còn những em không có gì nổi bật, trầm tính có muốn nhớ cũng không thể nhớ hết. Mỗi năm phụ trách chừng 200 học sinh, 14 năm đi dạy là một dẫy dài danh sách đã đi vào phần đời của mình, bộ nhớ gần như tê liệt. Hơn 25 năm qua chưa hề gặp lại, nghe giọng nói làm sao hình dung nổi, mà nói thật, dù em có đứng trước mặt chắc cũng không thể nhận ra.

Tôi “may mắn” hơn những đồng nghiệp khác, cả đời đi dạy chưa bao giờ được dạy lớp “điểm”. Những lớp điểm này ưu tiên chọn lựa đoàn viên làm chủ nhiệm, là bộ mặt nổi của trường để thi đua với những trường khác mong dành danh hiệu lá cờ đầu thành phố. Từ ngày rời trường Sư Phạm đến khi hết tuổi gia nhập đoàn Thanh Niên Cộng Sản, tôi “lạc hậu” vẫn chỉ ở trình độ cảm tình Đoàn, bởi vì ngày ấy muốn gia nhập Đoàn, điều kiện lý lịch phải không Công Giáo. Cũng vì thế, tôi luôn phải dạy những lớp học sinh thành tích nổi cộm, chiến công biêu đầu sứt trán, với sức học thường trung bình trở xuống hạng đại ngu, nghịch ngợm, chuyên chọc phá các bạn gái, chấp hành kỷ luật kém...

Cuộc nói chuyện điện thoại say sưa nhắc lại từng khuôn mặt học trò, bè bạn cũ nơi mái trường xưa, Thắng nói với tôi: “Cô còn nhớ nhiều quá !” Làm sao quên được những khuôn mặt học trò đáng thương lẫn đáng ghét đã làm thành một phần đời mình với buồn vui kỷ niệm mang theo suốt đời.

Thắng cho biết đến tháng 2 này sẽ qua Boston, gặp lại tôi tha hồ mà trò chuyện. Tôi gặng hỏi: “Vậy chắc em có thân nhân bên này, sao không qua vào mùa hè ?” Tôi nghĩ Thắng qua Boston thời gian đó không phải vì muốn chiêm ngưỡng tuyết vùng Đông Bắc, nơi em ở còn nhiều khu vui chơi trượt tuyết

31

CÙNG BỘC BẠCH

Page 32: Ephata 601

trên núi hấp dẫn hơn nên thắc mắc như thế. Em cho biết qua để dự lễ truyền chức Linh Mục, tôi lại điều tra thêm ( vẫn quen thói điều tra và giải quyết những vụ lộn xộn của học trò ngày xưa ): “Vậy chắc em đi tu ?” Lúc này cậu mới thú nhận đã chịu chức Linh Mục được 7 năm. Thắng hỏi: “Cô có đi làm không ?” Tôi bảo: “Chỉ ở nhà trông con, thời gian gần đây rảnh rang hơn có viết bài cho báo điện tử Ephata”. Thắng đáp: “Vậy là cô có họ hàng với DCCT đấy !” Tôi nghĩ câu này cũng hơi đúng.

Ký ức trường xưa trở về trong tôi sau lần nói chuyện qua điện thoại và gặp lại em trong lễ truyền chức Linh Mục của bốn thầy DCCT. Hơn 25 năm về trước khi được phân công chủ nhiệm lớp 9A-4, một lớp có gần hai phần ba nam sinh. Nhận danh sách lớp tới 60 em, tôi phát hoảng, lên gặp ngay hiệu trưởng khiếu nại xin chuyển bớt sĩ số sang lớp khác nhưng ông đã biến mất tăm mấy ngày trước. Khi gặp lại ông bảo: "Sở dĩ lớp cô đông hơn, vì có vài phụ huynh muốn chuyển con em trực tiếp vào lớp, mấy người này lại có công với nhà trường nên tôi phải nể nang, giờ này thì không đổi gì được nữa vì đã đâu vào đấy !"

Đó là đường lối một vị hiệu trưởng theo kiểu “con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”. Ở trường tôi dạy, giáo viên rất sợ làm chủ nhiệm những lớp có con em các bậc phụ huynh quen thân với ban giám hiệu vì không muốn sau này phải nể nang… rồi bị mang tiếng thiên vị. Lớp chủ nhiệm tôi nhận năm ấy, nếu biết về địa phương các em, nhiều giáo viên ngần ngại vì gia đình lao động, ít thời gian quan tâm nên các em thường học kém. Riêng tôi lại thích những lớp ấy, có lẽ vì chính mình xuất thân từ gia đình nghèo nên có thiện cảm, và cũng một phần qua kinh nghiệm, học sinh kém thường có lòng biết ơn hơn những học sinh giầu giỏi hay kiêu căng.

Lớp tôi chủ nhiệm đông các em Công Giáo cùng chung một Xứ Đạo, gia đình sinh sống bằng nghề trồng rau cải, diếp, xà lách… gần Tết thêm nghề trồng hoa. Nhiều sĩ quan đi học tập trở về mất nhà cửa, phải tìm về ở nơi này vì giá nhà giảm so với những vùng khác. Cũng vì có gốc gác cha mẹ như thế nên phần nhiều các em chán nản học tập, vào lớp phá phách. Bổn phận của giáo viên chủ nhiệm là phải đi thăm gia đình học sinh, nhất là loại cá biệt để có phương pháp giúp đỡ và đánh giá đúng mức.

Ở điểm này xin nói thêm cho rõ, thời tôi đi dạy, theo phương pháp của trường Sư Phạm của Việt Nam, những học sinh bị xếp loại là cá biệt thường chỉ do căn cứ qua các biểu hiện bên ngoài, như: quá nghịch ngợm, hay trốn học, đánh nhau, hỗn láo... Sau này khi qua nước ngoài, hiểu biết thêm về đường lối giáo dục Hoa Kỳ, tôi thấy theo cách đánh giá học sinh như vậy là thiếu sót, không giúp đỡ được học sinh mà chỉ dùng mọi biện pháp để trừng trị. Có nhiều em do bệnh về tâm lý hoặc ảnh hưởng di truyền từ người thân trong gia đình, không thể làm chủ hành động của chính mình.

Nhiều lần đến nhà học sinh, tôi không ngăn được xúc động, nhiều cha mẹ tiếp tôi lúng túng mặc cảm khi không kiếm được chiếc ghế mời ngồi cho đàng hoàng. Gia đình tôi đã nghèo, học trò tôi còn thê thảm hơn, kiếm miếng ăn hàng ngày không nổi lo gì đến tương lai học hành, bảo các em chịu khó học tập sao được ! Lúc tôi đến nhà thăm, có em không ở nhà vì đang đi nhặt giấy vụn và ny-lông nơi bãi rác Tân Thới Hiệp, em thì đang ở ngoài đồng tưới rau, nhổ cỏ…

Vài gia đình khác cho con ở luôn với cha xứ, vì em có ý hướng đi tu, nhờ cha giúp đỡ, phụ huynh nói thêm: “Cháu có chuyện gì không phải, cô cứ gặp cha, tôi đã giao hết cho cha !” Nhóm giúp lễ này còn nghịch ngợm hơn các em khác, mang tiếng xấu mỗi khi hiệu trưởng đem Đạo ra nhiếc móc, một lần vì quá tức giận nhóm này, tôi uống thuốc liều đến gặp cha phó xứ Thạch Đà. Khi gặp cha, cơn nóng giận vẫn chưa nguôi, tôi trút lên đầu cha hết tội em này đến em khác, cha ngồi im lặng sau đó chỉ thở dài và bảo: “Cô thử giúp tôi xem có phương pháp nào để kiểm soát các em, hay là tôi làm mỗi em một cuốn sổ, có điều gì cô ghi vào hàng ngày để tôi biết kịp thời ?” Đến bây giờ nghĩ lại tôi vẫn buồn

cười xen lẫn hối hận vì sự ngớ ngẩn và lòng nhiệt thành đến vô duyên của mình khi trách móc cha.

Cho đến nay đã hơn 25 năm, rời mái trường cấp Hai, vào cấp Ba, Tất Thắng đi nước ngoài năm 1993, nay tôi gặp lại em trên đất Mỹ quả là hạnh ngộ. Lớp 9A-4 năm 1987 – 1988 của em với nhóm lễ sinh nghịch ngợm để cô chủ nhiệm luôn bị mắng vốn và mất thật nhiều nước mắt. Nhớ mãi lần tổ chức đi cắm trại vườn cao su Tân Thới Hiệp, cũng nhóm này cố tình đi lạc hết vào hội chợ Quang Trung, phải nhờ giáo viên khác đi tìm… Riêng em, một nam sinh khá hiền, không mấy xuất sắc so với các bạn, ngồi bàn thứ hai cạnh cửa sổ dãy sát tường với cái tên thật đặc biệt: Hoàng Trương Tất Thắng.

32

Page 33: Ephata 601

Năm học đó, tôi đã gặp gia đình em khi đến thăm nhà đầu năm và lần nữa đến chia buồn cùng các bạn ngày bà nội em mất. Còn ba em, dáng cao gầy nhanh nhẹn, cưỡi trên chiếc mobylette xanh, đôi lần đến gặp tôi hỏi thăm về em, cũng dáng dấp đó nhiệt tình trong các buổi liên hoan nhà trường khi làm ban đại diện phụ huynh, nhớ mãi về ông như thế cho dù ông đã ra đi.

Những ngày còn ở nhà, tôi có nghe các học trò cũ nói Phi Toàn, anh trai của em, đang tìm hiểu ơn gọi, nhưng không nghe nói gì về em. Nếu so với Phi Toàn, sự thông minh nhanh nhẹn em thua hẳn. Toàn là đứa học trò đầu đời đi dạy của tôi, các bạn hay gọi đùa là… “Phi Thoàn” tên một diễn viên hài nổi tiếng trước 75 ở miền Nam. Xứ Đạo cũ của em, cha Lôrenxô Nguyễn Văn Viễn được giới trẻ yêu mến vì lòng chân thành giản dị và là Linh Mục có thiện chí nâng đỡ ơn kêu gọi, nhưng rất tiếc là ngài về với Chúa quá sớm năm ngài mới có 42 tuổi. Tôi cũng không biết thêm nhóm lễ sinh cha giúp đỡ hồi ấy, có ai đi trọn cuộc đời dâng hiến hay không ?

“Chiếc áo chùng thâm, chết cho đời tục lụy, Những ngọn sóng trong tim, Những ước mộng xuân tình.Trọn một lòng, vững ý chí, trung trinh, Trước những thách đố, Chết một lần cho mối tình dâng hiến”

( Alter Christus – Hoa Ngâu )

Cậu học trò nhỏ ngày xưa 25 năm về trước, lóc chóc, hiếu động bây giờ đã lột xác thành một Linh Mục hoạt bát, bạo dạn, tuổi 40. Ngày dạy em, tôi còn nhỏ tuổi, thiếu chững chạc hơn nhiều so với chính em hôm nay. Với mớ kiến thức ít ỏi trong chương trình đào tạo cắt xén dành chỗ cho học chính trị, quân sự, lao động, đi thủy lợi… khi ra trường tôi bị hụt hẫng kiến thức chuyên môn, chỉ có lòng nhiệt thành, yêu mến tuổi thơ, đến với học trò. Giờ đây khi nhìn lại quãng đời xưa, càng thương học trò hơn, dù cố gắng thế nào tôi cũng để lại nhiều thiếu sót qua cuộc đời các em, những tâm hồn đơn sơ trong trắng mà Thiên Chua đã giao cho chúng tôi: thiên chức người thầy Công Giáo. Tôi vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn vẽ những đường thẳng trên những đường cong,

Thắng mến,

Tôi cảm thấy thật gần với em trên con đường lý tưởng mà em chọn. Nói như thế chính là vì tôi hết sức coi trọng thiên chức Linh Mục cao cả Chúa giao nơi em. Nghĩ về người thầy yếu kém bất toàn năm xưa nơi tôi để hiểu và thông cảm, cầu nguyện cùng em. Em đang rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho giới trẻ, mời gọi họ can đảm dấn thân theo Chúa qua nhiệm vụ phụ trách ơn gọi Tỉnh DCCT Denver. Nơi đó em sẽ tìm gặp lại hình ảnh tuổi trẻ trong em như ngày xưa học với tôi, và chắc chắn sẽ có những khó khăn, có thể còn hơn tôi. Người ta nói thầy giáo là kỹ sư tâm hồn, sống đúng danh hiệu này đã khó khi học trò đòi hỏi thầy giáo quá nhiều điều cao cả. Người Linh Mục còn hơn thế, người thầy của linh hồn. Ngày xưa tôi vẫn nhìn những mẫu Linh Mục đạo đức, Tu Sĩ thánh thiện như thần tượng, muốn bắt chước và luôn mong ước những con người ấy thật hoàn hảo. Sẽ buồn thay nếu giới trẻ hôm nay thật khó khăn khi tìm được những thần tượng nơi Linh Mục hay Tu Sĩ như thế hệ của tôi ngày xưa. Ước mong em vẫn luôn mãi nhiệt thành như những ngày qua tôi gặp em:

“Lạy Chúa, Chúa đã gọi con từ khi con trong lòng mẹ.Không, không, Chúa đã gọi con, Chúa đã chọn con từ thủa đời đời.Chúa đã gọi con nên tông đồ, như ánh nến giữa trần gian, để ra đi làm chứng tá, làm muối đất cho đời, làm ánh sáng cho muôn dân…”

( Chúa đã chọn con – Tất Hoàng )

Gặp em trong hai ngày Thánh Lễ truyền chức và Tạ Ơn vội vã, không nói chuyện được nhiều, em xin lỗi vì không thể ghé thăm nhà tôi, tôi biết em còn nhiều việc phải làm, nhiều nơi cần đến.

Tạ ơn Thiên Chúa đã thương chọn, gìn giữ và phát triển ơn gọi nơi em. Cầu chúc em mãi vui tươi, hạnh phúc trên con đường tận hiến. Ước mong em sẽ thu phục được nhiều tâm hồn trẻ đi theo tiếng gọi dấn thân rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô hôm nay và mãi mãi.

HẠNH NGUYÊN, BostonViết riêng tặng học trò cũ,

Hoàng Trương Tất Thắng, Linh Mục DCCT

33

Page 34: Ephata 601

446. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP MỔ TIM CHO EM HOÀNG XUÂN QUANG Ở BÌNH PHƯỚC

30.000.000 VND

Lm. Phaolô Ngô Anh Tuấn, Giáo Xứ Long Điền, Giáo Hạt Phước Long, Giáo Phận Buôn Ma Thuột, giới thiệu em Augustino HOÀNG XUÂN QUANG, sinh năm 1993, con của ông Augustino Hoàng Bường và bà Maria Đặng Thị Dâu, hiện ngụ tại số 25 đường Tôma Khuông, khu phố Long Điền 1, phường Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước, điện thoại: 01223.737.011. Gia đình làm nghề nông nuôi 4 người con đều đang độ tuổi ăn học.

Em Quang phát hiện bị tim bẩm sinh từ khi được 5 tuổi, nhưng gia đình quá khó khăn, không đủ điều kiện để cho em được mổ. Sức khỏe của em ngày càng yếu đi, các bác sĩ yêu cầu phải mổ gấp để thay van tim, chi phí mổ là 95.865.000 đồng, Bảo Hiểm Y Tế chi trả được 30%, gia đình vay mượn bà con hàng xóm thêm được 30 triệu đồng, vẫn còn thiếu khoảng 30 triệu đồng.

Ngày 1.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp mổ tim cho em HOÀNG XUÂN QUANG với số tiền là 30.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Chuyển từ Quỹ giúp anh Mai Đăng Sơn: 1.200.000 VNDHội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( Hoa Kỳ ): 200 USDGia đình bạn Fiat Minh Khoa: 2.000.000 VNDCô Hồ Mỹ Linh ( Sàigòn ): 500.000 VNDTrích chia sẻ của cô Bích Nguyệt ( Sàigòn ): 5.000.000 VNDCô Hoàng Mai ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDCô Thanh Hương, Melbourne ( Úc ): 100 AUDAnh Bùi Minh Thế ( Sàigòn ): 1.300.000 VNDGia đình bé Xuân Phương ( Sàigòn ): 300.000 VNDMột người ẩn danh ( Hậu Giang ): 200.000 VNDAnh Phan Xuân Bửu ( Sàigòn ): 4.500.000 VNDBạn Fiat Hoàng Chính ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDGia đình bà Têrêsa ( Úc ): 50 USD4 người ẩn danh ( các tỉnh ): 450.000 VNDHai bạn Fiat Trung Hiếu - Trúc Thuỷ ( Sàigòn ): 500.000 VNDMột Linh Mục ( gốc Bắc Ninh ): 400.000 VND

Tổng kết đến 21g30 tối thứ tư Lễ Tro 5.3.2014: 23.350.000 VND + 250 USD + 100 AUD = 30.550.000 VND 

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 30 triệu đồng giúp em Hoàng Xuân Quang. Số tiền 550.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là em Phạm Anh Bảo Cường ở Kontum bị tai nạn. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

34

CÙNG TƯƠNG TRỢ