ephata 625

41
E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Mấy hôm nay trên các trang báo, các đài truyền hình, các websites, các blog và facebook nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất ( 1946 – 1955 ) tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60 năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng xuống và trôi vào dĩ vãng ? Cuộc cải cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia đình tôi, cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc. Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam Thanh ( hội Thanh Niên Công Giáo trong Giáo Xứ thời bấy giờ ), bị xem là lực lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”. Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành Nam theo bố, ông nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để “hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng "đánh tháo" đứa con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn "chiến dịch" ly kỳ ấy, vì không chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”. 1 NĂM THỨ 15 – SỐ 625 – CHÚA NHẬT

Upload: vu-mai-jmv

Post on 17-Jul-2015

113 views

Category:

Spiritual


1 download

TRANSCRIPT

E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤTMấy hôm nay trên các trang báo, các

đài truyền hình, các websites, các blog và facebook nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất ( 1946 – 1955 ) tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60 năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng xuống và trôi vào dĩ vãng ?

Cuộc cải cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia

đình tôi, cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc.

Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam Thanh ( hội Thanh Niên Công Giáo trong Giáo Xứ thời bấy giờ ), bị xem là lực lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”.

Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành Nam theo bố, ông nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để “hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng "đánh tháo" đứa con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn "chiến dịch" ly kỳ ấy, vì không chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”.

Cuộc "bắt cóc" đứa con trai được thực hiện đúng ngày lễ Đức Mẹ lên Trời, bổn mạng của Giáo Họ, mọi người vui vẻ tham gia cuộc rước kiệu, ông nội tôi mải mê đọc kinh đi theo kiệu, anh tôi thoát ra sau mật lệnh của thím út, hai mẹ con gặp nhau ở bãi tha ma rồi cắm đầu chạy. Cuộc đào thoát diễn ra ban đêm, hai mẹ con băng qua các cánh đồng chứ không dám chạy trên mặt lộ sợ bị bắt lại. Khi đến được nơi an toàn là bến đò, hai mẹ con xuống núp ở một canô chở chiếu đi buôn. Lúc này mẹ tôi mới phát hiện ra túi bánh kẹo cha tôi mua, dặn trao cho thím út mang về làm quà cho mọi người, vẫn còn đeo nguyên bên người… Sau này, năm 1975, các anh tôi phải đi tù cải tạo xa, nhiều tháng ngày không tin tức, một lần nữa mẹ tôi lại nhiều phen băng rừng tìm con, bà lồng lộn lên như con thú bị mất con, quyết tâm dành lại cho bằng được.

Di cư vào miền Nam rồi, ngày được tin ông nội tôi mất, cả nhà bao trùm một bầu khí thê lương. Bố tôi ngồi rầu rĩ không nói gì, mấy ngày trôi qua trong im lặng đáng sợ, chỉ có tiếng thở dài của bố và của mẹ, thỉnh thoảng các chú tôi đến nhà, mấy anh em lại ngồi vò đầu thở dài với nhau. Mấy ngày sau bố tôi tổ chức phát tang rồi đi dâng lễ ở Nhà Thờ, tối tối đọc kinh trong nỗi buồn hiu hắt. Sau này nhờ Ủy

1

NĂM THỨ 15 – SỐ 625 – CHÚA NHẬT 14.9.2014

Hội Quốc Tế, các danh thiếp liên lạc Bắc – Nam cho chúng tôi biết rõ hơn về cái chết của ông. Sau 30 tháng 4, chính cô tôi vào Nam kể lại nhiều chi tiết đau xót hơn nữa.

Ông tôi, một nông dân nghèo, sở hửu 2 công ruộng, bị xếp loại địa chủ lôi ra đầu tố. Cả cuộc đời chân lấm tay bùn, cày cấy trên chính mảnh ruộng của mình còn không đủ ăn lấy ruộng đâu ra mà cho tá điền làm thuê ? Tính tình ông nhân hậu, cho người hàng xóm mượn vài yến thóc, thế cũng đủ là nguyên nhân để bị kết tội địa chủ. Người ta vin vào việc ông có thóc cho vay, chính người hàng xóm từng được vay thóc đã quay ngược lại vu cáo ông tôi, rồi mấy người trong xóm theo phong trào, nhảy dựng lên mà kể tội, bảo “lắm của nhiều bạc nên mới phè phỡn sáng chiều chỉ mỗi một việc đến nhà thờ đọc kinh” !?!

Tòa Án Nhân Dân quyết định xử tử hình ông tôi. Đêm trước ngày thi hành án, cô tôi nắm một nắm cơm bò vào sân đình nơi nhốt ông tôi để ông ăn đỡ đói, khi bò vào đến nơi trói ông tôi, sờ vào người thì ông tôi đã mất rồi, người cứng đờ không còn biết gì nữa, cô tôi sợ quá không dám phản ứng gì, lẳng lặng bò ra. Hôm sau họ đem xác ông ra vùi ngoài bãi tha ma, đến con ruột cũng không dám thắp nén hương cho bố, mãi sau này mới đem cải táng về chung trong lăng mộ của gia tộc.

Cũng sau năm 75, người hàng xóm từng cầm đầu đám đông đứng lên đấu tố ông tôi tìm vào Nam, ông ta tìm đến thăm gia đình tôi và ngỏ lời xin lỗi, cha tôi lẳng lặng không một lời trách cứ. Sau bữa cơm mời khách, cha tôi bảo mẹ tôi cho họ ít tiền xe.

Khách về rồi, cha mẹ tôi bùng nổ xung đột, khi có khách bà nhịn không nói, khách đi rồi, bà bảo sao lại có thể dọn cơm đãi đằng kẻ đã vô ơn bất nghĩa, đã góp phần làm hại cha của mình cơ chứ. Cha tôi vẫn không một lời, gương mặt ông hằn lên nỗi đau khổ. Sau này khi ông đau nặng, những ngày tôi kề cận bên ông, nghe ông tâm sự, tôi mới hiểu ông bị dằn vặt về tội bất hiếu, đã vắng mặt trong những ngày khốn khổ của cha mình.

Không ai có thể đo được sự tàn phá của một chính sách tàn ác và sai lầm, nỗi đau len lỏi vào tận từng tâm hồn con người nạn nhân, di chứng đến nhiều thế hệ. Cái cách thi hành chính sách "cải cách ruộng đất" làm sụp đổ cả một hệ thống đạo đức xã hội, phá tan tình làng nghĩa xóm, gia đình anh em họ hàng ruột thị, nó cắt nghĩa tại sao tội ác về sau này sẽ hoành hành hung tợn, con người sẽ chém giết nhau không gớm tay.

Người tin vào Chúa đứng trước thách đố vô cùng to lớn, nếu thật sự vững tin vào Chúa, phải chứng minh được rằng Tin Mừng có sức hàn gắn, chữa lành và thay đổi mọi sự. Mỗi người tùy theo lương tâm mách bảo mà dấn thân cho sự sống của dân tộc mình, dấn thân để không chỉ mang lại sự sống, nhưng còn là Sự Sống dồi dào bất diệt ( x. Ga 10, 10 ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 13.9.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ( Lm. Vĩnh Sang ) ............................................................................................ 01THÁNH GIÁ, DẤU ẤN TÌNH YÊU KHẢI HOÀN ( AM. Trần Bình An ) ..................................................... 03NHÌN LÊN THÁNH GIÁ ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ........................................................................... 04VINH QUANG THẬP GIÁ ( Trầm Thiên Thu ) ......................................................................................... 07THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN PHÚC VINH ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) .................................................... 10THẬP GIÁ NỞ HOA ( M. Hoàng Thị Thùy Trang ) .................................................................................. 11THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG ( Tu Sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển ) ................................ 12PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 19: Đức Kitô là một Con Đường ( Nguyễn Trung ) .......................... 13CHA ĐẠO ( Phay Van ) ........................................................................................................................... 18TƯỞNG DỄ MÀ SAO LẠI KHÓ VÔ CÙNG ?!? ( Khuyết Danh ) ............................................................. 19TỊ NẠN GIÁO DỤC: CÒN ĐI NHIỀU, ĐI TRỐNG RỖNG, ĐI HẾT ( Phù Sa ) ............................................. 20NGƯỜI 3 LẦN TỪ CHỐI CỨU LẤY MẠNG MÌNH ( Từ www.chungta.com ) ............................................. 21CA SĨ CELINE DIAZ TỪ BỎ DANH TIẾNG ĐỂ THỜ PHƯỢNG CHÚA… ( Đặng Tự Do ) ........................ 22NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA DIỄN GIẢ DỊ TẬT ĐẦU LỘN NGƯỢC ( Phúc Thịnh ) ............................. 23 BÁT BÚN RIÊU ( Lê Bảo Trân ) ................................................................................................................ 24NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 27

2

THÁNH GIÁ, DẤU ẤN TÌNH YÊU KHẢI HOÀN"Sáng thứ năm 17.7.2014, công an Ôn Châu ( Wenzhou ) cưa

cây Thánh Giá ở Nhà Thờ Cứu Chuộc, các nhân chứng cho biết, họ đã dẹp đoàn biểu tình Giáo Dân xung quanh Nhà Thờ. Rồi ngày 21.7.2014, hàng trăm công an đã thất bại khi gỡ bỏ Thánh Giá trong cuộc đối đầu với Giá o Dân khiến hơn 50 người bị thương. Hôm thứ ba, công an ở thành phố Hàng Châu ( Hangzhou ) đã hạ cây Thánh Giá ở Nhà Thờ, theo một nhân viên quản lý Nhà Thờ cho biết.

Sau khi vụ đụng độ ở Nhà Thờ Cứu Chuộc vào tháng bảy, Giáo Dân đã thay phiên nhau canh gác Nhà Thờ. Nhưng sau khi lãnh đạo Nhà Thờ, ông Zhang Zhengchuang, đạt được thỏa thuận với chính quyền địa phương thì các cơ quan chức năng lấy các chìa khóa Nhà Thờ và phong tỏa khu vực.

Hôm thứ năm, không giống như trong cuộc đối đầu đẫm máu hồi tháng bảy, nhân viên an ninh gần 200 người, bao gồm cả công an mặc thường phục, không mang vũ khí khi họ bao vây Nhà Thờ. “Chúng tôi không thể đi vào Nhà Thờ, vì họ giữ chìa khóa,” một Giáo Dân chứng kiến sự việc họ gỡ bỏ Thánh Giá cho biết. “Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung bên ngoài, hát thánh ca và cầu nguyện.” Một Giáo Dân không dám nêu tên vì sợ chính quyền trả thù, nói rằng hơn 200 Kitô hữu đã tụ tập bên ngoài Nhà Thờ Cứu Chuộc vào sáng thứ năm…

Từ đầu năm nay, chính quyền tỉnh Chiết Giang ( Zhejiang ) đã thực hiện chiến dịch chống lại các công trình kiến trúc của Nhà Thờ. Tuy nhiên, theo một tài liệu nội bộ của chính phủ, chiến dịch được nhắm đặc biệt đến các tòa nhà và các biểu tượng Kitô giáo, trong đó có Thánh Giá. Nhiều Nhà Thờ đã nhận được lệnh sẽ bị phá hủy hoặc thông báo phải gỡ bỏ Thánh Giá, không chỉ các Nhà Thờ thuộc “Giáo Hội Thầm Lặng” từ chối sự kiểm soát của chính quyền.

Trong tháng tư năm 2014, Nhà Thờ Sanjiang ở Ôn Châu đã bị phá bỏ, bất chấp sự phản đối từ các Kitô hữu địa phương. Trong tháng sáu, Nhà Thờ Cứu Chuộc cùng với hai chục Nhà Thờ Tin Lành khác ở Ôn Châu cũng đã nhận được thông báo từ chính quyền địa phương là phải gỡ bỏ Thánh Giá.

“Lòng tôi thực sự rất buồn khi chứng kiến cảnh này”, một Kitô hữu cũng tên là Zhang, người đi trong đoàn và canh thức qua đêm tại Nhà Thờ nói. Tại đây, một Kitô hữu khác cũng cho biết: “Nhiều người đã khóc và cầu nguyện khi họ nhìn thấy Thánh Giá bị hạ xuống.” ( Kiki Zhao, Sinosphere, Ucan ).

Cây thập tự kết hợp vuông góc hai trục tung và hoành, dọc và ngang, chiều cao và chiều rộng. Đồng thời cây thập tự hội tụ hai chiều kích khác nhau của cuộc đời. Qua cuộc khổ nạn, chịu chết và phục sinh, Đức Giêsu

thánh hóa cây thập tự trở nên Thánh Giá, biểu tượng cao quý vô ngần của Kitô giáo. Cây Thánh Giá hàm chứa biết bao ý nghĩa sâu sắc, đã trường tồn hơn hai ngàn năm và sẽ còn tiếp tục được tôn kính mãi mãi, dù đã và đang trải qua bao thách đố, bị phá hoại, trừ khử, chống báng và xúc phạm.

Giao hòa

Trục tung, chiều dọc của Thánh Giá từ dưới đất hướng thẳng lên trời cao, giúp Kitô hữu luôn ý thức công cuộc cứu độ của Đức Giêsu đã từ trời cao xuống thế làm người, chịu nạn và đã Phục Sinh về trời: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời mà xuống” ( Ga 3, 13 ).

Với Giao Ước Mới bằng mầu nhiệm Thánh Giá, Người tái thiết lại mối tương quan, giao hòa, liên kết giữa Thiên Chúa và con người, mà từ ngàn xưa Ađam và Eva đã phá vỡ, chia cách, xa lìa. Thánh Phaolô hân hoan ngợi khen: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” ( Gl 6, 14 ).

3

CÙNG SUY NIỆM

Bằng chính máu của mình với thập giá, Đức Giêsu đã tái lập Giao Ước mới vĩnh cửu cho con người được đoàn tụ về với cội nguồn, là Thiên Chúa: “Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh mẽ hơn cả máu Aben” ( Dt 12, 24 ).

Chí ái

Với trục hoành, chiều ngang, Đức Giêsu giang hai cánh tay ôm lấy toàn thể nhân loại, không phân biệt xấu tốt, lành dữ, thân hay thù. Người chí ái, chí nhân, ôm lấy tất cả niềm vui lẫn đau khổ của

kiếp nhân sinh, lẫn hy vọng và thất vọng. “Khi nào tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi” ( Ga 12, 32 ).

Còn tình yêu nào quý giá hơn chết cho người mình yêu, như Đức  Giêsu đã toàn tâm hiến thân: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ). Để có thể đón nhận tình yêu tuyệt vời ấy, hồng ân cứu độ, cuộc sống viên mãn, mọi người cần phải ngước mắt nhìn lên, phó thác, đặt hẳn niềm trông cậy vào Đức Giêsu.“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 14 – 15 ).

Tin vào Người, đồng nghĩa thoát khỏi sự kềm tỏa của xác thịt, thế gian và ma quỷ, người Kitô hữu tích cực thể hiện niềm tin sống động qua việc bỏ mình, vác thập giá cùng đồng hành, chịu đóng đinh thân xác với Người.“Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” ( Rm 6, 6 ).

Chiến thắng

In hoc signo vinces, ( HIS ) với dấu chỉ này con sẽ chiến thắng. Khẩu hiệu của Hoàng Đế Constantine Cả đã nhận, khi ông thị kiến trên trời, vẫn là sự thật vĩnh cửu, mà không có ai bác bỏ được. Thánh Giá Đức Giêsu là chiến thắng vĩ đại vô song, chiến thắng xác thịt, chiến thắng cám dỗ ma quỷ và sự chết, vì Người khiêm tốn, trung kiên vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chịu chết thay cho nhân loại. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” ( Pl 2, 8 – 9 ).

Người chiến thắng vẻ vang, khi gánh tội trần gian, chịu chết khổ nhục cho con người, để con người được trở nên công chính, hưởng ơn cứu độ, như Thánh Phêrô xác quyết: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ).

Hội Thánh được sinh ra trên Thánh Giá. Hội Thánh lớn lên bằng tiếp tục sự thương khó Chúa Giêsu đến tận thế. Con lầm lạc, nếu tin vào tiền bạc, ngoại giao, quyền thế, vận động” ( Đường Hy Vọng, số 258 ).

Lạy Chúa Giêsu, Người đã khải hoàn phục sinh từ cõi chết, kính xin Người thương xót, ban hồng ân cho chúng con can đảm bước theo đường Thánh Giá hàng ngày, hoàn toàn bỏ mình, đóng đinh tính xác thịt và chịu chết, hầu được phục sinh với Người mãi mãi.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã can trường đồng hành với Con Mẹ trên Via Dolorosa, Đường Thánh Giá. Khấn xin Mẹ cùng đồng hành với chúng con trên đường hy vọng. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

NHÌN LÊN THÁNH GIÁBài đọc 1 sách Dân Số kể chuyện, dân Do Thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông

Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ?…” Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.

4

Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.

Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt Lịch Sử Cứu Độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc ( Ds 21, 6 ), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống ( St 3 ), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô ( Ga 3, 14 ) và vươn xa tới tận thời cánh chung ( Kh 12, 7 – 10 ).

Dịp hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh Địa và dâng lễ tại Nhà Nguyện trên núi.

1. Núi Nebo

Núi Nebo là một dãy núi ở vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu Ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêrikhô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cả cổ thành Giêrusalem.

Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêrikhô để nhìn về Đất Hứa. Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacóp rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi ! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó ! Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor ( Đnl 34, 4 – 6 ).

Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi nào. Một vài truyền thống Hồi Giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ lại cho là ở Maqam El-Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêrikhô 11km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ Kinh của Cựu Ước không.

Theo sách Maccabê ( 2 Mcb 2, 4 – 7 ): Ngôn Sứ Giêrêmia đã giấu Nhà Tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một

cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.

Ngày 20.3.2000, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh Địa. Ngài đã trồng một cây ôliu bên cạnh Nhà Thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.

Ngày 9.5.2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đến thăm nơi này, đọc bài diễn văn và hướng nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.

Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn ( Ds 21, 4 – 9 ) và là Thánh Giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh ( Ga 3, 14 ).

Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi Nhà Thờ và một Tu Viện vào năm 1933. Ngôi Nhà Thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế Nhà Thờ theo phong cách một Vương Cung Thánh Đường ( Basilic ). Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà Thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của Nhà Thờ.

5

Trong ngôi Nhà Nguyện hiện đại được xây dựng để bảo vệ nơi này và cũng dùng để thờ phượng Thiên Chúa, người ta có thể nhìn thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.

2. Tại sao lại treo con rắn ?

Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ ( St 3, 1 – 7 ), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Ađam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu ! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng: Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình. Đó là nghĩ rằng: Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết ( St 2, 17 ).

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.

3 . Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?

Trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có hai cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.

Bài đọc 1 là “lời tiên báo” của sách Dân Số, một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thập Giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời ( x. Ga 3, 16 ). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người chúng ta, trở

nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.

Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Đức Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá. Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Theo Thánh

6

Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” ( Rm 8, 3 ) và Ngài “đồng hóa mình với tội” ( 2 Cr 5, 21; Gl 3, 13 ).

Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” ( Rm 7, 13 ). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, ( chứ không phải báo trước ) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người ( Mc 8, 31 ).

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:

- Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.

- Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính; và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, Tình Yêu, Lòng Thương Xót, sự Thiện, sự Hiền Lành và cả Sự Sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng !

4 . Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành ?

Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống. Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” ( Ga 19, 37 ) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các Giáo Phụ gọi là Cây Sự Sống, vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.

Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Thì giờ đây, sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại ( bài đọc 2 ).

Vì tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách

tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên cho Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì những người mình yêu".

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng Thánh Giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn Tình Yêu, Sự Sống của Chúa Kitô.

 Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

VINH QUANG THẬP GIÁNgày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu

nhục hình này vì người ta liệt Ngài vào dạng tương tự “dân anh chị khét tiếng” hoặc “tội phạm nguy hiểm”. Nhưng với Đức Kitô, thế cờ bị Ngài đảo ngược, chính thập-giá-khổ-đau đó lại trở thành “đòn

7

bẩy”, là đường tới vinh quang, là lối vào ánh sáng, là vũ khí chiến thắng. Thập giá được Ngài biến thành biểu tượng cứu độ và là phương cách giải thoát. Một Saolê đã từng bách hại “tới bến” đối với những ai yêu mến Thánh Giá, nhưng nhờ cú ngã ngựa, bị mù mắt thể lý mà lại sáng mắt tâm linh, rồi trở thành một Phaolô “không giống ai” với niềm ước mong: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” ( Gl 6, 14 ).

Việt ngữ thật kỳ diệu, có thể hiểu THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH. Đó là điều mà Đức Giêsu Kitô đã xác định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi thì không xứng với Tôi, không thể làm môn đệ của Tôi” ( Mt 10, 38; Lc 14, 27 ).

Hơn 1.600 năm sau, Đức Giám Mục Pierre Lambert de la Motte ( 1624 – 1679, Hội Thừa Sai Pháp ) cũng hóa thành “dị nhân”, không giống ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu mến Thánh Giá mà thôi, bằng chứng là ngài đã lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam – bắt đầu từ Hải Phòng ( Bắc Việt ). Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích Thánh Giá đều bị coi là “ngược đời” hoặc “điên loạn”. Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến cáo chúng ta phải “mình ên vác thập giá mà theo Ngài” ( x. Mt 16, 24 ). Thật là “căng” dữ nghen ! Quả thật, phải thực sự tin tưởng và can đảm mới có thể bước trên Đường Thập Giá – liên lỉ từng giây phút chứ không chỉ trong thoáng chốc, trong vài ngày hoặc vài tháng.

Thập giá là dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước tiên, sau đó người Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những

người thấp hèn và những kẻ phạm các tội nặng nhất như trộm cướp, ít khi áp dụng cho công dân Rôma. Về thập giá, nhà hùng biện trứ danh Cicéron ( Rôma ) đã mô tả là “cực hình ghê rợn và độc ác nhất” ( crudelissimum et teterrimum supplicium ).

Theo nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh, cây Thánh Giá được làm bằng gỗ tùng rất nặng, thanh dọc dài 4,5m, thanh ngang dài 2,5m, cả Thập Giá nặng khoảng 100kg. Vác kéo lê thì giảm sức nặng khoảng 30kg. Như vậy, Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70kg đè trên thân xác đã yếu ớt vì đòn vọt, vác khệ nệ trên con đường dài 700m, và Ngài đã phải ngã quỵ 3 lần. Thông thường, khoảng giữa thập giá có một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh.  Ngày nay các nhà kỹ thuật đã đưa miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân và hai chân đóng chụm lại, đó vì tính mỹ thuật – tức là để nhìn cho “đẹp mắt” mà thôi.

Chúa Giêsu chịu hàm oan và đau khổ tột cùng trên Chặng Đàng Thánh Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng là Hành trình Thập Giá, có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi chúng ta để chúng ta phải cố gắng “chết” vì yêu mến Đức Kitô. Hành trình đó là hành trình tử đạo liên lỉ, rất cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh Giá như dân Ítraen xưa ngước nhìn lên conrắn đồng để được chữa lành ( Ga 3, 13 – 15 ).

Trình thuật Ds 21, 4 – 9 cho biết: Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Vì họ cứng đầu cứng cổ, Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết.

Ngày nay, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ítraen xưa, thậm chí còn ngang bướng và tinh vi hơn nhiều. Ca dao Việt Nam nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, Khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Có lẽ chúng ta quen “xin – cho” nên cứ mở miệng cầu nguyện là xin này, xin nọ, xin tới tấp, xin đủ thứ, Chúa nghe không kịp mà vẫn bị đầy lỗ tai. Chúa cũng mệt với lũ phàm nhân lắm ! Chúng xin được thì cười trừ rồi thôi, xin không được thì quay ngoắt 180 độ, đôi khi còn dám ngang nhiên trách “trời mù” nữa đấy. To gan thật!

Dân xưa ngang ngược đến nỗi bỏ Chúa, đi đúc bò vàng mà tôn thờ. Nhưng họ chịu khổ hết xiết, đành quay về với Chúa. Họ đến năn nỉ với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi”. Ông Môsê thương tình mà khẩn cầu Thiên Chúa cho dân thoát ách tai ương. Thiên Chúa giàu lòng thương xót liền nói với ông Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Quả thật, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống ngay.

Chúng ta ngày nay có nhiều loại “bò vàng” lắm, đủ cỡ và đủ kiểu. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã có kinh nghiệm “xương máu” về chuyện tôn thờ ngẫu tượng: Mê tiền, ham lợi, ưa “chảnh”, khoái chức, đòi quyền,... Đó là chưa nói đến đắm chìm trong tội lỗi đấy ! Chu choa, nhiều kiểu lắm, nhiều dạng lắm, nhiều

8

mức độ lắm ! Và cuối cùng, chúng ta gặp đau khổ, đành quay về với Chúa, nhưng rồi chẳng được bao lâu, chúng ta lại như con ngựa quen đường cũ. Thế mà Thiên Chúa vẫn thương xót và tha thứ. Vô cùng may mắn cho chúng ta. Nhưng quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi lòng thương xót của Ngài !

Tác giả Thánh Vịnh bày tỏ Thánh Ý Chúa từ xưa: “Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi. Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa” ( Tv 78, 1 – 2 ). Thiên Chúa biết phàm nhân chúng ta là những “hạt bụi nhỏ nhoi” nhưng lại vô cùng kiêu ngạo. Tuy nhiên, Ngài vẫn yêu thương, khuyên nhủ, dỗ dành, chỉ mong chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa toàn năng duy nhất.

Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta có cái đầu cứng và đầy máu kiêu ngạo, khoái đi đường tắt hơn đi đường chính. Nhưng rồi cũng có lúc “giật mình” khi phải đương đầu với đau khổ: “Khi Chúa giết họ,

họ mới đi tìm Chúa, mới trở lại và mau mắn kiếm Người, mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân, Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ” ( Tv 78, 34 – 35 ).

Lúc đau khổ thì tỏ vẻ chân thành hối lỗi, nhưng lúc an bình thì lại thích nổi loạn, nói hay mà làm chẳng ra gì, Thiên Chúa biết chúng ta lọc lừa mà Ngài vẫn xót thương: “Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người; còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó, chẳng trung thành giữ giao ước của Người. Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí” ( Tv 78, 36 – 38 ). Nhưng rồi sẽ có ngày Thiên Chúa không còn dành thời gian chờ đợi chúng ta sám hối nữa. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng, thời gian thương xót cuối cùng, ai không sám hối và không chân thành tín thác vào Đức Kitô thì hậu quả sẽ thê thảm đời đời !

Thánh nữ Faustina nhận định: “Mọi sự bắt đầu bằng Lòng Thương Xót của Ngài và cũng kết thúc bằng Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi ân sủng tuôn chảy từ Lòng Thương Xót của Ngài, và những giờ khắc cuối cùng đầy tràn Lòng Thương Xót của Ngài. Đừng để ai nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa; mặc dù tội lỗi của con người đen tối như màn đêm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn nỗi đau khổ của chúng ta” ( Nhật Ký, số 1506 ).

Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 2 – 8 ). Trí tuệ và lý luận của chúng ta không thể phân tích để hiểu hết tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, có tất cả những gì cao quý nhất, thế mà Ngài lại bỏ tất cả, thậm chí là thí mạng, để tìm kiếm và cứu chúng ta đem về cho Chúa Cha.

Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” ( Pl 2, 9 – 11 ). Ngược lại, ai không chân nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người thì chắc chắn không được Ngài đưa về Quê Trời vĩnh hằng: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” ( Ga 3, 18 ). Thánh Gioan đã cho chúng ta biết chắc chắn có sự sống đời đời ( x. 1 Ga 5, 13 ).

Thập giá là vinh quang, là chiến thắng, chứ không là thất bại như loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm kịch tác gia Pièrre Corneille ( 1606 – 1684, Pháp quốc ) đã có nhận xét thú vị và rất đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh quang”. Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy rằng không có niềm hạnh phúc nào mà lại không có dấu vết của sự đau khổ.

Truyện “Hoàng tử và Thanh kiếm” kể thế này: Một hôm, Vua Charles V kêu hoàng tử đến và cho quyền lựa chọn. Trên bàn, nhà vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên. Vua cha hỏi: “Con chọn cái nào ?” Chần chừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Thấy lạ, vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiếm ?” Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện và đáp: “Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được triều thiên kia”. Câu chuyện ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa thâm thúy, cho thấy rằng đau khổ luôn đi trước hạnh phúc.

Một hôm, khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 13 – 15 ). Chính Chúa Giêsu đã xác định việc tin vào Ngài là mối phúc, vì ai tin Ngài sẽ được lên trời với Ngài.

9

Và rồi chính Chúa Giêsu lại tiếp tục xác định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 16 – 17 ). Rõ ràng rồi, không còn gì khả nghi nữa. Tuy nhiên, tin Chúa Giêsu thì phải kiên trì đồng hành với Ngài hết chặng đường thập giá: Một nhánh vươn lên trời đưa chúng ta đến với Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô; một nhánh đưa chúng ta đến với tha nhân, nhất là những người hèn mọn và đau khổ nhất. Không thể tách rời hai nhánh của thập giá.

Ước gì mỗi chúng ta luôn tâm niệm: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH.

Lạy Chúa Kitô, chúng con xin tôn vinh Thánh Giá bằng cách chấp nhận đau khổ hằng ngày để vinh danh Thiên Chúa, để cứu các linh hồn và để đền tội của chúng con. Xin cho chúng con được nên một với Ngài trong Mầu Nhiệm Thập Giá. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

THÁNH GIÁ CHÚA LÀ NGUỒN PHÚC VINHNgày 14 tháng 9, Phụng Vụ Hội Thánh mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa

với niềm vui vì được cứu độ. Ngày hôm nay, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay những nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc. Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là cung hiến Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ của vua Constantin, đế quốc Rôma ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ), đã cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày kỷ niệm tìm được Thánh Giá thật vào năm 326.

Cuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thánh Giá vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian.

Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để tán dương Đức Kitô: "Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang" ( Pl 2, 8 – 11 ).

Thánh Gioan lại đề cập đến Thập Giá là khí cụ để cứu độ con người: "Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời" ( Ga 3, 14 ).

Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại các ân sủng và sự tha thứ. Nên "chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta" ( Ca nhập lễ ).

Hội Thánh cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự Thiện trên trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá, niềm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu.

Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá, vì chính nhờ cây Thánh Giá, nguồn vinh phúc, ơn cứu độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên giá gỗ, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cạnh sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra.

Thánh Giá thật cao cả và quí giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thắng khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ Thánh Giá, Chúa Giêsu đã hoàn toàn chịu chết; là khí giáp, vì ma quỉ đã bị đánh bại, sự chết đã bị Chúa Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới.

10

Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, để tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

THẬP GIÁ NỞ HOA

Không biết từ bao giờ, thập giá bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống nhân loại. Có lẽ ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ, đứa trẻ khóc vì biết rằng kể từ đây mình bắt đầu vác thập giá. Cuộc đời không gì khác hơn là cuộc khổ nạn. Ai ai cũng có một cây thập giá riêng biệt trên vai của mình. Và tất nhiên, thập giá của ai vừa vai người nấy. Nói vậy cũng có nghĩa chẳng ai có thể vác thập giá cho ai. Thập giá gắn liền với đời sống con người là vậy. Còn sống là còn vác, cho đến khi nào lên đến đỉnh đồi Canvê và trút hơi thở ở đó, thập giá mới chính thức rời khỏi đời sống. Thánh giá sẽ thành khổ giá nếu như không đón nhận thập giá đời mình cách tích cực. Ngược lại, thập giá sẽ trổ hoa với những ai can đảm bước đi đến cùng theo chân Đức Giêsu trên đường khổ giá.

Nếu nói thập giá không thể tách rời đời sống nhân loại. Làm người cũng có nghĩa là vác thập giá, thì con người chỉ có thể gánh vác thập giá cho nhau ở thời điểm nào đó, giai đoạn nào đó mà thôi. Không ai có thể từ chối thập giá đời mình và cũng chẳng ai có

thể hy sinh gánh vác thập giá thay thế cho người khác cả đời được. Có yêu thương nhau lắm cũng chỉ là ghé vai gánh vác dùm ai đó, thay cho ai đó… một đoạn đường, một vài khoảnh khắc mà thôi.

Tại sao vậy ? Vì tất cả chúng ta đều là con người. Đã là người cũng có nghĩa là tội nhân. Không ai công chính, chẳng ai vẹn toàn cả. Thập giá là gì nếu không phải chính là hành trình làm người mà chúng ta được trao phó sứ mệnh khi hiện diện trên trần gian. Thập giá cuộc đời còn gì khác hơn là hành trình làm người của chúng ta qua từng giai đoạn, từng khoảnh khắc. Thập giá thật ra chỉ là những thách đố, cam go, gian lao, vất vả hay khổ cực mà chúng ta cần phải vượt qua để hoàn thiện và phát triển chính mình mà thôi. Thánh giá cuộc đời cũng chính là thập giá làm người.

Ngoài ra vẫn còn những loại thập giá mà người khác đem lại cho ta. Đó là những trái ý, những phiền toái, những ý riêng, những xúc phạm... Cho dù thập giá nào đi nữa thì con người cũng chẳng thích. Chẳng ai muốn vác thập giá cả. Chẳng qua không từ khước được thì đành nín nhịn thôi. Như đã nói, ai bước đi trên đường khổ giá với tâm tình hướng thiện, chắc chắn thập giá của họ sẽ trổ hoa, đó là sự phục sinh, vinh quang bất diệt. Nước mắt khổ giá lúc này đã trổ hoa chân lý.

Chỉ có Đức Giêsu là Đấng vô tội, Ngài mới có thể vác thập giá thay cho nhân loại. Đó là thập giá của sự bất toàn, và tội lỗi mà con người vấp phạm. Đức Giêsu đã gánh hết trên vai của mình để cứu chuộc nhân loại. Chỉ cần tin vào Người, chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ: “Như ông Mô sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15)

Chính vì yêu thương nhân loại lầm than khổ cực trong tội lỗi, bất trung Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài đến vác thập giá, chịu chết thay cho muôn người để chuộc mọi tội lỗi. Chỉ Con Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài mới có thể làm được điều ấy. Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho kẻ có tội. Chỉ có Đấng vô tội mới có thể vác thay cho kẻ có tội. Nói vậy, nhân loại là kẻ diễm phúc nhất.

Vậy mà biết bao người vẫn không tin và không đón nhận. Thiên Chúa đâu dựng nên nhân loại, trao thánh giá cho họ, rồi để họ bị hủy diệt. Nhưng thánh giá xuất hiện là chính con người tự tạo ra khi bất tuân lệnh Chúa, sống tự do, buông thả theo đam mê, dục vọng và ý muốn riêng mình.

Hôm nay Giáo hội hân hoan suy tôn thánh giá là để kêu gọi con cái biết ý thức đón nhận thập giá đời mình với tâm tình tin tưởng, cậy trông, phó thác… bước đi theo chân Đức Giêsu đến cùng cho dẫu có phải gặp gian nan, thử thách. Vì thánh giá không phải là gánh nặng, cũng chẳng phải là hình phạt, mà là khí cụ để hoàn thiện mình, trở nên con cái tinh tuyền của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, biết rằng đã làm người, con không thể tránh khỏi thập giá, nhưng không biết bao lần, chỉ mỗi cây thánh giá ấy, con hết cất lên rồi hạ xuống, đổi qua đổi lại… trong chán chường, mệt mỏi. Thánh giá nào đâu là khổ giá, nếu như con hiểu rằng đó chính là phương thuốc giúp con nên trọn lành.

11

Xin giúp con, giả như vác thập giá đời mình chưa nổi, thì đừng nên chuốc thêm thánh giá cho ai. Ước gì, mỗi người trên thế giới biết ghé vai vác thập giá giúp người cho dẫu chỉ một đoạn đường, thì nước mắt khổ đau sẽ đâu còn rơi nhiều đến thế. Xin giúp con, đừng bao giờ phàn nàn từ chối thập giá Chúa gửi đến, nhưng hãy biết san sẻ gánh nặng cho tha nhân bên cạnh: yếu sức, nghèo nàn, bất hạnh hơn con.

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN TÌNH YÊU VÀ HY VỌNGNgày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư,

trên từng nấm mộ ở nghĩa trang... Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá... Và người ta cũng có thể đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay...

Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.

Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc... Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta. Tại sao vậy ? Thưa ! Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ. Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.

1.Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa

Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( Ga 3, 16 ). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.

Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “...vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 6 – 8 ).

Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế

trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” ( Ga 15, 13 ); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 7 – 8 ).

Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là "Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" ( Gl 2, 20 ). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" ( Gr 31, 3 ); và: "Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung" ( Tv 89, 34 ).

Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên "mới mẻ và sống động". 

Vì thế, đó là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.

2. Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ

Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.

12

Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.

Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Ai Cập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống" ( Ds 21, 8 ). 

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 14 – 15 ).

Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu độ, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.

Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.

Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.

Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do Thái thì đòi phép lạ, dân Hy Lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá [...]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” ( x. 1Cr 1, 18 – 25 ).

3. Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha

Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” ( x. Ga 13, 3 – 35 ). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù ( x. Lc 6, 27 – 35 ).

Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" ( Cl 3, 12 – 13 ). 

Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá.

Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.

Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.

Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

13

PHONG CÁCH PHANXICÔBài 19. Đức Kitô là một con đường

Đức Kitô sống cách đây 2.000 năm vào thời đại khoa học kỹ thuật còn thô sơ. Người không lưu lại một hình chụp hay bút ký trên giấy, một lời nói hay hoạt động nào trên băng từ. Cuộc đời của Người kết thúc bằng một cái chết trần truồng ô nhục trên thập giá. Ấy thế mà trong thời buổi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão cùng với trào lưu duy vật hưởng thụ tràn lan như hiện nay, tại Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới theo Chủ Nghĩa Cộng Sản, dù có sự

kiểm soát chặt chẽ mọi phương tiện thông tin, số người muốn tìm về hiểu về Thiên Chúa trên internet nhiều gấp 10 lần Chủ tịch Mao Trạch Đông, về Thập Giá gấp muôn lần về Búa Liềm, về Chúa Giêsu gấp 4 lần Tổng bí thư Tập Cận Bình, về Papa ( Giáo Hoàng ) gấp 2 lần Thủ tướng Lý Khắc Cường.

Thống kê của Nhà Nước vào năm 2004 cho biết có 18 triệu Kitô Hữu đã nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Nhà Thờ Yêu Nước, thành phần không công nhận quyền tối thượng của Vatican nhưng lại tự đặt mình dưới quyền lãnh đạo của Đảng vô thần. Luật pháp quy định người chưa đủ 18 tuổi không được nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Các nhà quan sát dựa trên con số này cộng thêm tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên sau 10 năm, cùng với số Tín Hữu nhiều hơn không được nhìn nhận của các Nhà Thờ Thầm Lặng ( không chịu tuyên thệ trung thành với Đảng Cộng Sản ) để tìm ra con số Kitô Hữu thực tế là 60 triệu, thậm chí có thể lên tới 200 triệu, tức là 12% dân số, một tỷ lệ gấp đôi Việt Nam trong khi đời sống đạo ở nước ta dễ chịu hơn nhiều

( Nguồn: http://www.billionbibles.org/china/how-many-christians-in-china.html ).

Tín Hữu thuộc Nhà Thờ Thầm Lặng hay Tại Gia bị sách nhiễu mọi mặt, nhiều Giáo Sỹ và Kitô Hữu bị bắt và chết trong tù. Vào bất cứ thời gian nào cũng có trên 300 Tín Hữu sống đời lao tù. Giám Mục Giáo Phận Thượng Hải Joseph Fan Zhongliang, Dòng Tên ( hình chụp đen trắng ) sau trên 20 năm bị cầm tù ( Hồng Y Nguyễn Văn Thuận bị 13 năm tù ) rồi bị quản thúc tại gia thêm mấy năm, trong thời gian đó ngài đã qua đời, hưởng thọ 95 tuổi. Vào tuổi 70, lúc mà đa số người khác đang chuẩn bị nghỉ hưu thì ngài lại phải đi lao động khổ sai.

Các Tín Hữu Tại Gia phải sống đạo ra sao ?

( Trích ) Một Linh Mục Hoa Kỳ sau chuyến du lịch dấu kín tông tích của mình tại Trung Quốc, đã kể lại cho tôi câu chuyện này. Tôi kể lại hàng trăm lần vì ngưỡng mộ những nhân vật trong truyện.

Vào giữa đêm của ngày thứ hai trong chuyến đi, anh giật mình tỉnh giấc vì có nhiều người đi lại chung quanh nhà nơi anh tạm trú. Hơi sợ hãi, anh trỗi dậy đi ra cửa và dò la sự tình. Chủ nhà cho biết là người ta chuẩn bị đi đến một bức tường. "Bức tường là cái gì ?" – "Xin anh đi theo thì sẽ biết."

Có khoảng 20 người sống trong gia đình này. Không ai biết đây là một Linh Mục nhưng họ cảm thấy anh là một người đáng tin. Anh đi xuống tầng dưới và hỏi một người phụ nữ: "Có gì xẩy ra vậy ?" – "Chúng tôi đi đến một bức tường." Bà ta thì thầm trả lời.

Anh thay vội quần áo và đi theo họ trong bóng đêm dầy đặc. Họ đi bộ khoảng hai cây số. Trên đường có nhiều người khác nhập bọn. Số người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em lên tới 120. Họ đi vào một khu rừng và đến một khu đất trống. Anh nhận ra có nhiều người trèo lên các cành cây. Tại đó có một mảnh tường cao độ 1m mang ra từ một ngôi nhà cũ kỹ đã bị đập bỏ. Khuôn mặt của người phụ nữ bừng sáng hân hoan. Mặc dù cảm thấy một nét thành kính lạ thường nơi những người này, anh vẫn không hiểu họ đang

14

CÙNG SUY NIỆM

làm gì và đâm ra hoảng hốt. Người ở xa thì leo lên trên các cành cây còn người ở gần bức tường thì cung kính quỳ xuống.

Một lát sau có một người đàn ông đứng lên và tiến gần lại bức tường, ông gỡ ra một viên gạch, đàng sau viên gạch là một mặt nhật nhỏ bé đựng Mình Thánh Chúa. Mọi người quỳ thinh lặng trong một giờ để cầu nguyện. Sau đó người đàn ông lại đặt viên gạch vào vị trí cũ.

Ngày hôm sau, cha nói cho mọi người biết mình là một Linh Mục. Người ta cho biết ở đây chưa hề có Thánh Lễ nào trong 10 năm qua. Nhưng hàng tuần họ đều có một hay hai buổi chầu Thánh Thể

như thế. Vào đêm sau, cha đến dâng Thánh Lễ tại bức tường và đặt một Mình Thánh Chúa mới vào mặt nhật. Cha ý thức rằng nếu việc này bị bại lộ, cha và nhiều người sẽ bị bắt, bị tra tấn, tù đầy lâu năm, có khi bị xử tử. Mọi người đều biết như thế, nhưng vì lòng yêu mến Mình Thánh Chúa, họ sẵn lòng liều mình chấp nhận tất cả. ( Nguồn: Matthew Kelly, http://dynamiccatholic.com/rediscover-catholicism )

Ta thường nói “Tôi theo Công Giáo”, có khi còn nhấn mạnh “Công Giáo La Mã”. Ta đã quá quen thuộc, không cần thắc mắc làm chi cho nó mệt, với khái niệm ta đang theo một tôn giáo đặc thù với các nghi thức cần chu toàn. Khi mới sinh ra ta được rửa tội, lớn lên học giáo lý để Xưng Tội, Thêm Sức, ta nhận Bí Tích Hôn Phối trong Nhà Thờ, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội hàng năm, đóng góp đầy đủ vào việc xây Nhà Thờ, cầu nguyện cho các linh hồn… Ta sẽ đón chịu Bí Tích Xức Dầu và sẽ an nghỉ tại đất thánh. Ta đang theo Công Giáo, một tôn giáo

có tổ chức chặt chẽ với các cơ sở vật chất bề thế và phẩm trật Giáo Phẩm quy củ, cũng như đồng bào ta theo Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo…

Nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu và Tin Mừng, có vẻ như Người không có ý lập nên một tôn giáo mới với các lễ nghi cúng bái giống như các tôn giáo khác. Người không bao giờ phủ nhận gốc gác Do Thái Giáo của mình mà còn còn khẳng định phần đóng góp cho Do Thái Giáo: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” ( Mt 5, 17 )

Thờ phượng ở Nhà Thờ, ở nhà, ở núi này hay núi kia, hay ở đâu đi chăng nữa, không quan trọng. Chúa Giêsu phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” ( x. Ga 4, 21 – 24 ).

Chúa Giêsu không hề tự xây lên hay dạy phải xây dựng lên Thánh Đường. Trái lại, Người còn nói Đền Thờ vĩ đại Giêrusalem sẽ bị phá hủy. Đang khi Đức Giêsu ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật ! Công trình kiến trúc vĩ đại thật !” Đức Giêsu

đáp: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư ? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” ( Mc 13, 1 – 2 ).

Không lúc nào Chúa Giêsu tỏ ra giận dữ hơn là ở tại Đền Thờ. "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” ( Ga 2, 14 – 16 ).

Một số người có khuynh hướng chú giải rằng Chúa Giêsu muốn đề cao sự linh thánh của nơi thờ phượng. Nhưng thật ra Đền Thờ mà Chúa Giêsu nhắm

15

tới chính là thân thể Người, chỉ có Người mới chính là Nhà Thờ đích thực và duy nhất. Do đó cách gọi thân thể của Người như là một cái hội ( Giáo Hội hay Hội Thánh ) như quen dùng và chỉ có ở Trung Quốc và Việt Nam là không chính xác.

Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?” Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. ( Ga 2, 18 – 21 ).

Những biến cố quan trọng nhất trong đời của Chúa Giêsu đều xẩy ra ở ngoài đường. Người chào đời tại một chuồng súc vật. Sau đó gia đình Người bôn ba trôi dạt qua Ai Cập trước khi về định cư tại Nagiarét. Năm lên 12 tuổi, Người “đi lạc” vào Đền Thờ Giêrusalem để nghe và đặt câu hỏi với các thầy dạy. Cứ theo phong cách sống lang thang trên đường của Người thì rất khó tin rằng Người chỉ ru rú tại Nagiarét trong suốt 30 năm. Ngày nay các nhà chú giải tìm ra việc chính của thợ mộc vào thời đó là làm nhà bằng đá và người hành nghề này luôn phải đi tìm và vận chuyển đá trên khắp miền Galilê.

Chúa Giêsu bị cám dỗ với đá. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi !” ( Mt 3, 3 ). Người đặt Phêrô làm Đá. Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy ( Mt 16, 18 ). Ở đây có sự không thông về cách gọi thân thể của Người là Hội Thánh. Trên một tảng đá thì chỉ có thể xây lên một Nhà Thờ chứ không phải một cái hội. Chúa Giêsu cũng tự nhận mình là Đá. Đức Giêsu bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” ( Mt 21, 42 ). Khi người tắt thở thì: Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ ( Mt 27, 51 ). Đá vỡ tức là Đền Thờ vật chất đã bị phá hủy, từ nay thân thể Chúa Giêsu trở thành Đền Thờ duy nhất của Dân Thiên Chúa.

Muốn đi theo Chúa Giêsu, ta cũng phải luôn đi trên đường. "Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp: “Thưa Rápbi ( nghĩa là thưa Thầy ), Thầy ở đâu ?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. ( Ga 1, 38 – 39 ).

Giờ thứ mười theo cách tính thời gian của người Rôma là 10 giờ sáng, tức là thời gian trong ngày còn rộng rãi, nhưng theo cách tính của người Do Thái lại là 4 giờ chiều, tức là chỉ còn có 2 giờ nữa là đêm xuống, đây là thời gian mà người Do Thái hàng ngày mang các con chiên ra tế lễ. Gioan dùng chi tiết này để nhấn mạnh Chúa Giêsu mang thân phận Chiên Thiên Chúa bị mang ra sát tế. Hãy đến mà xem tức là đến để xem thấy Người bị hiến tế như thế nào. Hỏi Người ở đâu không phải là hỏi chỗ ở của Người vì Người không có địa chỉ cố định, nhưng chính là xin phép đi theo Người tới thập giá. Vì vào ngay ngày hôm sau, Chúa Giêsu quyết định đi tới miền Galilê ( x. Ga 1, 43 ).

Tuyệt đại đa số những việc chiếm thời gian của Chúa Giêsu nhiều nhất như rao giảng, chữa bệnh, cầu nguyện với Chúa Cha, Người luôn thực hiện ngoài đường. Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi ( x. Mc 6, 56 ).

Mỗi khi gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo thì Chúa Giêsu lại tỏ ra bực dọc và không tiếc lời công kích họ: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác !" ( Mt 23, 27 – 28 ). Thậm chí Người còn gọi cha của họ là quỷ. ( x. Ga 8, 44 ).

Thế nhưng Chúa Giêsu lại trở nên dễ chịu bao dung với những thành phần bị coi là tội lỗi phải sống ngoài đường bên lề xã hội. Người chịu ngồi nói chuyện bên giếng nước rất lâu với người phụ nữ Samari đã có 5 đời chồng nhưng lại đang chung chạ với một người không phải là chồng. Người còn lưu lại nơi này đến hai ngày ( x. Ga 4, 1 – 44 ).

Chúa Giêsu chấp nhận dễ dàng việc người phụ nữ có tiếng tội lỗi đụng chạm vào thân thể Người ( tức là toàn thể Dân Thánh của Người ). Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pharisêu ấy và vào bàn ăn. Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng

16

dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên Thấy vậy, ông Pharisêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi !” ( Lc 7, 36 – 39 ).

Chúa Giêsu không muốn áp dụng luật Môsê ném đá người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, trái lại Người khiến cho những người muốn thi hành án chết cho chị phải cảm thấy xấu hổ ( x. Ga 8, 2 – 11 ).

Sau chặng đường vác thập giá ngoài đường Chúa Giêsu chết trên đồi trống giữa hai tên đầu trộm đuôi cướp thứ thiệt. Sự vượt lên trên lề thói giữ đạo thông thường, thưởng phạt phân minh, được tỏ rõ qua việc Người cho luôn cả một anh từng là dân ăn cướp gian ác, nay thật sự hồi tâm, được cùng vào Thiên Đàng với Người ngay trong ngày hôm đó.

Phong cách sống trên đường của Chúa Giêsu vẫn còn sau khi Người trỗi dậy từ cõi chết. Người chủ động xuất hiện và cùng đi đường Emmau cùng với hai môn đệ mang tâm trạng hoang mang rối bời bởi cái chết của Người để giải thích Thánh Kinh, Bẻ Bánh, và tỏ mình ra cho họ. ( x. Lc 24, 13 – 35 )

Sau hết, Chúa Giêsu về trời sau khi dẫn các môn đệ trên một đoạn đường cuối cùng: "Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" ( Lc 24, 50 – 53 ).

"Ở trong Đền Thờ" được ghi nhận ở đây không hề có nghĩa là vào Đền Thờ Giêrusalem vật chất để cầu nguyện. Mãi đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần thì các môn đệ vẫn còn trốn ru rú ở trong nhà ( x. Cv 2, 1 ). Đoạn Cv 1, 12 – 14 nói rõ: "Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ôliu trở về Giêrusalem. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Chúa Giêsu."

Đền Thờ nay chính là Chúa Phục Sinh hằng ở với họ, chỗ nào cũng có thể là Đền Thờ, từ nay họ đã có Chúa Phục Sinh làm trung tâm cuộc đời mình, và đời họ đã thay đổi.

Đền Thờ còn có nghĩa là cầu nguyện cùng với Mẹ Maria. Vào chính lúc này họ mới hiểu ra lời Chúa Giêsu nói khi trục xuất con buôn ra khỏi Đền Thờ: "Nhà Cha Ta là Nhà cầu nguyện" ( Ga 2, 16 ); "Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật" ( Ga 4, 24 ).

Sau đó, liên tục trong hơn 300 năm đầu tiên, các Kitô Hữu đều

phải đi trên con đường của Chúa Giêsu đã đi qua. Không có gì ổn định trong hành trình Lòng Tin của họ ngoại trừ một điều là sớm muộn gì họ cũng bị bắt và mang ra hí trường để trước sự cười cợt hò reo hả hê của dân chúng, họ bị đóng đinh, thiêu sống, phanh thây bởi thú dữ. Phaolô đã tóm tắt con đường Kitô là: Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên thần và loài người ! ( 1 Cr 4, 9 ) Câu này nên dịch rõ ràng là Thiên Chúa đặt Tông Đồ chúng tôi đi cuối đoàn người bị điệu ra xử tử ngoài hí trường để trở thành trò tiêu khiển cho toàn vũ trụ, cho thiên thần và loài người. ( For it seems to me that God has put us apostles on display at the end of the procession, like those condemned to die in the arena. We have been made a spectacle to the whole universe, to angels as well as to human beings. NIV ).

Sử liệu ghi lại, vào năm 107 Thánh Inhatiô Tử Đạo, Giám Mục Antiôkia, là người đầu tiên sử dụng danh xưng Công Giáo trong lá thư viết cho Tín Hữu tại Smyrna để kêu gọi họ hợp nhất với Giám Mục. "Nơi nào có Giám Mục thì nơi đó có cộng đoàn Dân Chúa, cũng như nơi nào có Đức Giêsu Kitô thì nơi đó có Nhà Thờ Công Giáo" ( Wherever the bishop shall appear, there let the multitude of the people also be; even as, wherever Jesus Christ is, there is the Catholic Church ).

Từ hậu bán thế kỷ thứ hai trở đi, Công Giáo có nghĩa là chính thống ( orthodox ), không bị lạc đạo ( non-heretical ), bởi vì người Công Giáo phải rao giảng toàn bộ chân lý và phản ánh toàn thể Nhà Thờ, trong khi sự lạc đạo phát nguồn từ sự đề cao quá đáng một bộ phận của chân lý, mang nhiều

17

thành kiến hẹp hòi của địa phương. Năm 380, hoàng đế Rôma Theodosius I giới hạn danh xưng Kitô Hữu Công Giáo vào những ai có cùng Lòng Tin với Papa Damasus I của thành Rôma. Giáo Phụ Cyril thành Giêrusalem ( 315 – 386 ) và Giáo Phụ Augustine thành Hippo ( 354 – 430 ) sử dụng từ Công Giáo trong tương quan với Kitô Giáo.

Công Giáo là cách dịch lệ thuộc hoàn toàn rập khuôn từ tiếng Hoa 公教 Gōng-jiào, Tôn Giáo

Chung của mọi người; Công Giáo La Mã cũng rập khuôn từ 羅馬公教 La Mã Công Giáo. Cách dịch ăn theo này rất ngô nghê vì người Hoa không dùng mẫu tự Latinh, không thể viết xuống từ Rôma, nên phải tìm âm gần giống là La Mã ( La là cái lưới để bắt chim, thiên la địa võng là lưới trời đất lồng lộng, dù đi đến đâu cũng bị bủa vây không thể thoát được; Mã là con ngựa. Tại sao ta không thể gọi thẳng là Rôma mà cứ phải đi đường vòng gọi là La Mã: Lưới Ngựa. Kết hợp Việt Hoa còn kỳ khôi nữa là con la và con ngựa ).

Công Giáo có nguồn gốc Catholicism ( tiếng Hy Lạp καθολικισμός, katholikismos, nghĩa là thuộc về chung của mọi người ) để chỉ truyền thống có từ ban đầu và được duy trì liên tục của Nhà Thờ về Thần Học, Tín Lý, Phụng Vụ, Giáo Lý, Tu Đức. Công Giáo còn để phân biệt với các phong trào ly giáo Cải Cách ( Reform ) phát triển rầm rộ vào thế kỷ 16 chỉ coi Thánh Kinh là nguồn mặc khải duy nhất và tối thượng, mà bác bỏ Thánh Truyền.

NGUYỄN TRUNG, 31.8.2014 ( Còn tiếp nhiều kỳ )

CHA ĐẠONgười ta đang an táng một nhân vật của Còn Dấu Chân Người ( * ). Tôi không muốn tin những

việc đang xảy ra là sự thật. Thật như việc văng vẳng lời ca bên tai: “Sự sống không mất nhưng chỉ đổi thay. Đã qua bao ngày trọn một kiếp này. Dù sống hay chết tin vào ngày mai. Sự sống không mất nhưng chỉ đổi thay.”

Thật như việc thêm một nhánh phong lan trắng, thêm một nắm cát thả xuống huyệt, những giọt lệ thổn thức trong tim và lời thưa: Cha ơi, cái này là phần của Chị Cam Li, xin được tạm biệt Cha.

Tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được email cáo phó về sự ra đi của những người quen biết thân sơ, có khi chỉ là những vị từng nghe tiếng mà chưa hề được vinh dự giáp mặt. Ngày 18.8.2014 vừa qua cũng thế, Email gởi đến là bản cáo phó của Tòa Giám Mục Phan Thiết. Tôi đọc lướt qua tiểu sử người quá cố, bàng hoàng vì nhận ra Cha Đạo.

Tại sao chỉ đến khi Người nhắm mắt xuôi tay tôi mới được đọc tiểu sử của Người ? Khiêm nhường thẳm sâu. Nghèo khó đến tột cùng. Người ta chỉ có thể thực sự mặc lấy tinh thần nghèo khó khi không màng danh vọng lợi lộc trần gian nhưng nhận chính Chúa là gia nghiệp, như một câu trong Thánh Vịnh 15 dùng làm đáp ca trong lễ an táng Cha sáng ngày 21.8.2014.

Cha được thụ phong Linh Mục vào một ngày cuối tháng tư 1965, chỉ mười năm trước ngày Sàigòn thất thủ. Ngay sau đó vị tân Linh Mục được điều đến vùng sát vĩ tuyến 17 làm phó xứ Đông Hà, Quảng Trị. Hai năm sau Cha lập cô nhi viện và trường Trung Học Tư Thục Đắc Lộ. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Cha gồng gánh trường Đắc Lộ và cô nhi viện vào Bình Tuy, lập nên xứ Đông Hà, lập làng Thiếu

nhi Bồ Câu Trắng.

Tiểu sử của Cha không phải là tiểu sử của một người khoa bảng với nhiều bằng cấp, học vị, chức tước, nhưng là tiểu sử của một người khai phá. Khai phá vùng rừng núi hoang vu cằn cỗi thành vườn tược trồng trọt và chăn nuôi trù phú. Khai phá những tâm hồn, những phận đời nghèo khổ vì chiến tranh, gieo vào đó những hạt mầm nhân ái bằng cuộc sống tận tụy, hy sinh phục vụ.

Cỗ quan tài đơn sơ được đặt gần sát nền nhà thể hiện sự khiêm nhường vâng phục của Cha lúc sinh thời, cuộc đời ấy vì người nghèo và mở ra cho người nghèo, như cuốn Kinh Thánh đặt trên nắp quan tài Cha đang lật đến những trang cuối, như

18

CÙNG TRI ÂN

khẩu hiệu Cha chọn khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục phó địa phận Phan Thiết vào năm 2001: Tin Mừng cho người nghèo khó. Ngày ấy, lễ tấn phong do vị tiền nhiệm của Cha là Đức Giám Mục Nicolas chủ phong, hai vị phụ phong là Đức Giám Mục Đà Lạt và Đức Giám Mục Phụ tá địa phận Xuân Lộc. Hôm nay, ngoài Đức Cha Nicolas già yếu, hai Đức Cha phụ phong ngày ấy cũng đến hiện diện trong lễ an táng Cha, vì tình nghĩa, dù gánh nặng công việc và tuổi tác đè nặng trên vai các Ngài: một vị đã nhận trọng trách làm Tổng Giám Mục ngoài Bắc xa xôi, còn một vị được bổ nhiệm làm Giám Mục tiên khởi một địa phận vùng duyên hải, láng giềng với Phan Thiết.

Xin cùng với quý vị độc giả của Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh tạm biệt Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan bằng lời ca kết lễ: “Người còn mãi trong tim anh, Người còn mãi trong tim tôi, Người còn mãi trong giáo phận Phan Thiết. Người còn mãi trong tim người, Người còn mãi trong đất trời, Người còn mãi trong Giáo Hội.”

PHAY VAN

( * ) một truyện dài của Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh chưa kịp xuất bản vì biến cố 30.4.1975.

TƯỞNG DỄ MÀ SAO LẠI KHÓ VÔ CÙNG !?!Chuyện về loài chim ó:

Nếu đặt một con chim ó vào trong một chiếc lồng với kích thước khoảng 2m x 25m nhưng hoàn không có nóc, tức là phần trên được mở toang, con chim này sẽ vẫn hoàn toàn bị cầm tù trong chiếc lồng đó. Ấy là vì con chim ó luôn bắt đầu bay “chạy đà” khoảng 3, 4m đầu tiên. Không có quãng đường để chạy theo thói quen, chim ó không thể bay lên và sẽ chấp nhận bị tù suốt đời trong một “nhà giam” nhỏ không có mái !

Câu chuyện con dơi:

Một con dơi thường bay ra ngoài kiếm ăn vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi và bay chính xác. Tuy nhiên nó không thể cất cánh mà lại thả người rớt xuống rồi mới bay. Nếu nó được đặt trên sàn nhà hoặc một mặt phẳng nào đấy thì nó chỉ có thể lê bước loanh quanh một cách vô vọng và tất nhiên không thể bay đi. Cho đến khi nó được rơi từ một độ cao nhỏ thôi thì nó mới có thể tung mình bay vào không trung.

Câu chuyện về con ong nghệ:

Con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái ly lớn không đậy nắp, cũng sẽ ở mãi mãi trong đó cho đến chết. Nó không bao giờ nhìn thấy đường thoát ở phía trên mà chỉ cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt ngang bên cạnh hoặc qua... đáy ly.

Và câu chuyện về con người...

Trong rất nhiều trường hợp, con người cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ ở trên. Ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối của mình mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể có một giải pháp ở rất gần trước mắt, vì từ lâu ta đã thường tự giam mình trong những cái lồng của thói quen, sự cố chấp, sự ích kỷ, tham lam... và sự lệ thuộc vào người khác...

Nhìn ngược lại có thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy nhìn lên cao, và nhìn tới phía trước, đó là cách sống lạc quan. Và tinh thần tích cực, nhiều hy vọng chính sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết các trường hợp.

Có một tác giả đã viết: “Khi không có giải pháp nào xuất hiện ngay trước mắt, thì con người rất dễ kết luận rằng không có một giải pháp nào cả. Nhưng thực tế đã chứng minh, từ lần này sang lần khác, rằng giả thuyết đó là sai lầm”.

Chỉ cần bạn nhìn lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi ngay trước mắt mình.

KHUYẾT DANH, nguồn: 51Deal.vn

19

CÙNG NGHIỆM SINH

TỊ NẠN GIÁO DỤC: CÒN ĐI NHIỀU, ĐI TRỐNG RỖNG, ĐI HẾT...

Nhà văn, nhà báo Dạ Ngân sinh năm 1952, từng tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du. Là tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết nổi tiếng. Trong đó, đặc biệt và gây tiếng vang nhất là tiểu thuyết "Gia đình bé mọn" đã đoạt giải thưởng của Hội Nhà Văn Hà Nội. Nhà văn Dạ Ngân nói nếu cứ đùa dai với truyền thống hiếu học thì sẽ còn chuyện học sinh đi du học hết.

Du học để “tị nạn giáo dục”

Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt ? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay ? Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài. Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm ? Là vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm.

Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học nếm mãi.

Ở khía cạnh giáo dục, chị lý giải hiện tượng này như thế nào ?

Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để… tị nạn giáo dục. Tình hình đã mười mươi như vậy, nhưng hình như phía vĩ mô không muốn thay đổi. Làm giáo dục mà không triết lý giáo dục thì sao thiết kế được ? Sao các môn xã hội không có sức hấp dẫn mà còn khiến học sinh bội thực, ngán ngẩm ? Các em không thích môn văn, không yêu môn sử, không thiết tha môn địa, không “vào” với môn đạo đức công dân ? Vậy thì giỏi toán và giỏi các môn tự nhiên để làm gì, để làm người Việt ngô ngọng hay làm rôbốt ?

Tôi thấy bất an với kiểu làm sách giáo khoa, tôi ngạc nhiên với sự im lặng của chính các thầy cô trong ngành giáo dục. Họ biết cả đấy, họ chán đấy mà họ không làm gì, không ai lên tiếng, họ sợ, họ hèn hay họ đã chai lì cả rồi ?

Nếu tôi là một quan chức trong ngành giáo dục thì chắc chắn tôi sẽ từ chức. Không làm gì nổi nữa, chỉ có cách cho con cho cháu “tị nạn” mà thôi.

Không phải chép văn mẫu đã là “được làm người”

Một gia đình có con trúng học bổng Singapore năm 14 tuổi đã phấn khích thốt lên: “Ôi, cháu tôi đã được làm người”… “Ôi, cháu tôi được làm người” là một câu nói có vẻ quá lên nhưng bên trong nó có sự thật đó chứ !

Hãy xem trường điểm và trường chuyên đã làm cho cha mẹ các em phải chạy chọt và gây thêm ách tắc giao thông như thế nào ? Hãy xem tuổi thơ của các em nhỏ đang được chơi hay đang bị học kiểu “nhồi thức ăn cho ngỗng” ? Một cô cháu họ của tôi kể, trong thực hành môn Văn lớp 4 của con nó có thứ đề đại loại: “Hãy viết một bức điện tín”. Chính tôi đã từng giúp cho đứa cháu ngoại học lớp 5 ở Hà Nội làm đề ngoại khóa là “Hãy viết suy nghĩ của em về chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không ?”

Có phải bắt các em làm chính trị gia hay làm công dân sớm ? Sao không để cho các em tiểu học được phát triển tự nhiên cả trong tình yêu đất nước, gia đình, thầy cô và tiếng Việt mà cứ làm cho chúng chán ngấy lên vậy ?

Cho con du học là xu hướng đã có từ thời thuộc Pháp, để con cái được học cái văn minh, được sống và được thụ hưởng môi trường văn hóa cao. Tại sao người ta thích cho con đi Singapore, đảo quốc ấy có đúng là thiên đường ở châu Á mà chúng ta đang mơ ước không ?

Nhưng chị có nghĩ rằng bọn trẻ sẽ có những tổn thương tâm lý vì xa bố mẹ từ khi còn quá nhỏ ?

Tôi không có con nhỏ nhưng tôi đã khuyến khích và đóng góp cho cháu ngoại của tôi vào trường quốc tế từ đầu cấp II. Vì sao ? Vì ở đó nó được học chương trình giảm tải, nó được học tiếng Anh bằng phương pháp đúng và không phải làm văn mẫu.

A ha ! Riêng việc không phải làm văn kiểu học thuộc lòng và chép nguyên xi văn mẫu đã là “được làm người” rồi. Nó học văn một cách hào hứng và tiếng Việt của nó dậy hương là vì nó được làm văn theo suy nghĩ của mình. Cả nhà xúm nuôi một đứa bé, cực nhưng mà vui, không bị sốc, không bị stress vì “né” được nhiều “ngón hành hạ” của ngành giáo dục trong nước.

20

CÙNG TRĂN TRỞ

Các trường ở Singapore họ hay nhảy vào các trường điểm và trường chuyên của chúng ta để “hớt váng” từ năm lớp 9 hoặc lớp 10. Số đi du học tự túc thì đủ lứa tuổi. Các em phải chịu thiệt thòi nhưng nền giáo dục của các nước văn minh rèn người khá hay. Theo tôi, đi từ đầu cấp III là vừa, cho đi sớm hơn là sẽ có hậu quả.

Con mình nuôi lớn mà người ta “dùng"

Việc mỗi gia đình tự lo cho tương lai của con cái như vậy sẽ tạo ra một nguồn nhân lực tốt cho đất nước ? Rõ ràng là nhân tài sẽ thất thoát. Con cái mình nuôi lớn mà người ta dùng, toàn là người thông minh và nhiều người tài đấy chứ. Có đau không, có ức không ? Đành chịu.

Các vị ở trên cao có xót không, xót sao không tìm cách và không thay đổi ? Liệu gia đình và chính các em học sinh đó có phải trả cái giá nào không ? Đừng có mà đùa dai với truyền thống hiếu học của người Việt. Sẽ còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi bằng hết, nếu những người cầm trịch của chúng ta không giật mình thì sẽ không cứu vãn được làn sóng tị nạn này đâu.

Rồi sẽ có thêm những thế hệ Việt kiều không biết tiếng Việt, quê hương đất nước xa vời. Đừng nghĩ người Việt sẽ cố kết tình quê hương và đất nước như cộng đồng người Tàu. Chúng ta là những người Việt trần ai, rất dễ bời rời và mất gốc khi ở xứ người.

PHÙ SA, từ niemtin.free.fr

NGƯỜI BA LẦN TỪ CHỐI CỨU LẤY MẠNG MÌNHYanush Korchak, tên thật là Hendric Goldschmit, nhà sư phạm,

nhà văn, bác sĩ và nhà hoạt động xã hội xuất sắc của Ba Lan, gốc Do Thái. Ông đã ba lần từ chối cứu mạng sống của mình...

Lần đầu tiên đó là lúc Yanush quyết định không di tản sang Palestin, trước khi Ba Lan bị chiếm, trước khi các sự kiện kinh khủng của thế chiến thứ hai xảy ra, để không bỏ rơi “Trại trẻ mồ côi” do ông thành lập từ 1911 ở Warschau, dành cho trẻ con đường phố không gia đình.

Lần thứ hai, từ chối trốn khỏi "nhà tù lớn" Varsava.

Lần thứ ba, khi tất cả những con người từ “Trại trẻ mồ côi” lên tàu hỏa đi về trại tập trung, có một sĩ quan SS đến hỏi ông: "Có phải ông đã viết quyển “Ông vua Matiush đệ nhất” không ? Tôi đã đọc từ bé, quyển sách rất hay. Ông được tự do !" – "Thế còn các cháu ?" – "Trẻ em sẽ phải đi !" – "Thế thì ông nhầm ! Không phải tất cả mọi người đều khốn nạn..."

Sau đó vài ngày, tại trại tập trung Treblinka, Korchak cùng với tất cả trẻ em của mình, 196 đứa bé và hơn chục người giúp việc, bảo mẫu... đã đi vào lò hơi ngạt. Trên đường đi ông dắt tay hai cháu bé nhỏ nhất và kể cho chúng câu chuyện cổ tích còn dở, để chúng không để ý gì khác. Cảnh sát Ba Lan theo phát xít, đứng thành hàng, giơ tay chào, bọn Đức thắc mắc hỏi người đàn ông này là ai, còn bọn họ nhiều kẻ không cầm được nước mắt...

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: "Một mình với Chúa" trong đó có "18 lời cầu nguyện của những kẻ không cầu Chúa".

Sau khi Đức phát xít chiếm Ba Lan, ông vẫn đi lại ở Warshau trong quân phục sĩ quan Ba Lan, ông nói: “Đối với tôi không có chuyện Đức chiếm Ba Lan, và tôi vẫn làm những việc gì tôi muốn làm”. Trong trại tập trung ông vẫn tiếp tục giáo dục các trẻ em “của mình”, vẫn chăm lo kiếm cho chúng từ thức ăn đến thuốc men. Trước khi bị hành quyết không lâu, theo tục lệ của người Do Thái, ông tập trung những học trò của mình tại nghĩa địa và làm nghi lễ tuyên thệ, để từng đứa trẻ hứa sẽ lớn lên làm người tốt và người Do Thái lương thiện. Các học viên của “Trại trẻ mồ côi” của Korczak nhiều người hiện nay vẫn còn sống và ở khắp thế giới...

Năm 1978 UNESCO tuyên bố là năm kỷ niệm Yanush Korchak. Về con người ông, có thể không cần kể thêm gì, ngoài 10 điều răn ông để lại về đề tài giáo dục trẻ em:

1. Đừng chờ đợi con bạn sẽ giống mình, hay sẽ như mình muốn. Hãy giúp trẻ không trở thành bạn, mà là chính mình.

21

CÙNG TƯỞNG NHỚ

2. Đừng đòi con trẻ trả lại tất cả những gì bạn đã làm cho nó. Bạn cho nó cuộc sống, nó sẽ lại cho sinh linh khác cuộc sống, và cứ tiếp diễn như thế-quy luật bất biến của sự biết ơn.

3. Đừng trút giận lên trẻ em, để tránh ăn trái đắng lúc về già. Vì gieo gì, gặt nấy !

4. Đừng coi thường các vấn đề của trẻ. Mỗi người có một số phận, và hãy tin rằng: cuộc sống của nó cũng sẽ nặng nề không kém, có khi còn hơn ấy chứ, vì trẻ không có kinh nghiệm.

5. Đừng chà đạp trẻ em !

6. Đừng quên rằng những cuộc gặp gỡ quan trọng nhất của một con người, đó là gặp gỡ trẻ em. Hãy chú ý hơn nữa đến trẻ em, ta không biết đang gặp ai trong hình hài đứa trẻ đâu.

7. Đừng dày vò bản thân, nếu bạn không làm được việc gì đó cho trẻ, đơn giản hãy nhớ rằng: ta chưa làm hết cho trẻ, nếu chưa làm được tất cả mọi thứ trong khả năng !

8. Con trẻ không phải là bạo chúa chiếm đoạt hết cuộc sống của ta,cũng không phải là sản phẩm của thể xác, máu thịt ta. Đấy là một cái bình quý, mà cuộc sống ban cho ta để giữ và nuôi dưỡng ngọn lửa sáng tạo. Đó là tình yêu được chắp cánh của bố mẹ, những người sẽ nuôi dưỡng không phải con “tôi”, con “chúng ta” mà là một tâm hồn được trao cho ta để gìn giữ.

9. Hãy yêu quý trẻ con nhà khác. Đừng bao giờ làm gì với chúng điều mà ta không muốn người khác làm với con mình.

10. Hãy yêu con mình bất kể nó thế nào: bất tài, không may mắn, đã lớn rồi... Hãy giao lưu với chúng, hãy vui với con trẻ, đó là ngày lễ mà hiện nay ta đang có !

Ước gì tất cả các thầy, cô giáo nước ta cũng đọc qua câu chuyện nhỏ này…

Nguồn: www.chungta.com

CA SĨ CELINES DIAZ TỪ BỎ DANH TIẾNG ĐỂ THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA QUA ÂM NHẠC CỦA CÔ

Khi lên 10 tuổi Celines Diaz đã viết bài hát đầu tiên của cô. Kể từ đó, cô đã dành cuộc sống của mình cho sân khấu. Diaz bắt đầu sự nghiệp của mình với việc viết nhạc đời, và vào năm 2001, cô đã ký một hợp đồng thu âm quốc tế. Tuy nhiên, cô nhanh chóng nhận ra rằng một cái gì đó đã mất tích trong cuộc sống của cô. Sau khi tham dự một cuộc tĩnh tâm, cô quyết định từ bỏ mọi sự để chỉ hát cho Thiên Chúa thôi.

Celines Diaz tâm sự: "Tôi đã dành riêng đời mình cho âm nhạc thế tục. Nhưng

trong một buổi tĩnh tâm, cảm nghiệm của tôi với Thiên Chúa, với sự tha thứ và tình yêu của Ngài, rất tuyệt vời. Tôi phát hiện ra Chúa Giêsu vẫn sống động. Kể từ lúc đó, tôi muốn dành cho Chúa cuộc sống của tôi, âm nhạc của tôi."

Tiếng hát Celines Diaz một sớm một chiều tắt ngúm trên các sân khấu đời gây ngỡ ngàng cho nhiều người hâm mộ và đặc biệt cho các bầu show. Nhưng hiện nay người ta gặp gỡ cô dễ hơn. Diaz và ban nhạc của cô lưu diễn trên khắp nước Mỹ và các nước Mỹ Châu La tinh, sử dụng lời bài hát và âm nhạc của mình để truyền bá Lời Chúa.

Celines Diaz cho biết thêm: "Năm 2014, chúng tôi đang làm việc cật lực để tung ra album thứ hai của mình với tựa đề ‘Chúa luôn trung tín’. Chúng tôi rất vui, rất hạnh phúc để có thể chia sẻ tất cả mọi thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi trong những năm qua. Chúng tôi muốn sử dụng âm nhạc để chia sẻ những hồng ân đó."

ĐẶNG TỰ DO, nguồn: vietcatholic.org

22

CÙNG TRÂN TRỌNG

NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA DIỄN GIẢ DỊ TẬT ĐẦU LỘN NGƯỢC

Anh Claudio Vieira de Oliveira, 37 tuổi, sinh ra đã bị dị tật khiến cổ gập ngược, đôi chân biến dạng, tay và cánh tay hầu như không thực hiện được chức năng gì. Khi đó, các bác sĩ tin rằng anh hầu như không có cơ hội sống sót. Thế nhưng, người đàn ông tới từ Monte Santo, Brazil này đã vượt qua mọi khó khăn cùng cực để tốt nghiệp kế toán và trở thành một diễn giả.

Claudio chia sẻ: "Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn muốn bản thân mình phải bận rộn làm việc. Tôi không muốn dựa dẫm hoàn toàn vào người khác. Tôi đã học cách bật tivi, cầm điện thoại, bật đài, dùng máy tính và Internet. Tôi làm kế toán và nghiên cứu cũng như tư vấn cho khách hàng."

Claudio gõ bàn phím bằng một cây bút ngậm trong miệng, sử dụng điện thoại và chuột máy tính bằng môi, thậm chí còn làm ra một đôi giày đặc biệt giúp mình đi lại quanh thị trấn. Sự tự lập đầy quyết tâm đã giúp anh hoàn thành việc học với tấm bằng kế toán của trường Đại học bang Feira de Santana.

Bà Marie Jose, mẹ anh Claudio chia sẻ: "Mọi người nói rằng thằng bé sẽ chết vì đến việc hít thở với nó còn khó khăn, huống chi… Một vài người còn nói: Đừng cho nó bú nữa, nó sắp chết rồi. Nhưng giờ thì thật là hạnh phúc, Claudio đã giống như những người bình thường khác, đó là cách mà nó đã được chúng tôi nuôi dạy. Chúng tôi luôn khuyến khích nó làm những điều bình thường mà những người khác làm. Thế nên bây giờ thằng bé rất tự tin. Nó không còn xấu hổ khi đi ra ngoài nữa, nó hát và nhảy múa."

Năm 8 tuổi, anh Claudio đã bắt đầu tự mình đi lại sau thời gian dài luôn được người khác đưa đi. Bố mẹ anh đã sửa lại sàn nhà để anh có thể đi mà không tự làm mình bị thương. Giường, ổ điện và đèn ở phòng Claudio cũng được chuyển xuống thấp hơn để anh có thể tự làm mọi việc mà không cần nhờ người khác giúp.

Mặc dù không thể dùng xe lăn do cơ thể khuyết tật của mình, nhưng Claudio vẫn xin mẹ cho đến trường đi học cùng những đứa trẻ khác.

Các bác sĩ gần đây đã chẩn đoán Claudio mắc một chứng bệnh hiếm gặp là co cứng khớp bẩm sinh. Cơ tay và chân của anh có nhiều chỗ co lại, nối với nhau khiến chúng không thể duỗi ra đúng cách.

Claudio cho biết: "Cơ thể tôi đã thích nghi được với thế giới xung quanh. Hiện giờ tôi không còn cảm thấy mình khác biệt so với mọi người nữa, tôi đã là một người bình thường. Tôi cũng không nhìn mọi thứ lộn ngược – đây là một trong những điều tôi hay nói khi tham gia diễn thuyết… Bây giờ tôi thấy dễ dàng hơn khi đứng trước đám đông. Tôi không còn thấy sợ nữa, và tôi tự tin nói rằng mình là một diễn giả chuyên nghiệp với rất nhiều lời mời từ khắp nơi trên thế giới."

PHÚC THỊNH tổng hợp theo Vietnam Plus, www.giadinh.net.vn

 

23

BÁT BÚN RIÊUTừ Auclair, theo đường Liên Tỉnh 53, ngược lên mạn Bắc là Salon Springs thì rẽ phải theo

Hương Lộ “P” nhỏ hẹp ngoằn ngoèo lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, tiếp tục thêm vào dăm vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, Louisiana, trạm đặc khu của người da đỏ.

Trời vào thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu. Hơn nửa giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật. Đồi lại đồi liền liền tiếp nối nhau sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có Viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.

Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời. Trung Tâm An Dưỡng Lakeview như tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất rộng.

Quay lưng vô rừng thông nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn chọn làm viện dưỡng lão thì hơi tàn nhẫn.

Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài.

Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là 1 lão ông hoặc lão bà độ bảy, tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kính. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất tới đây chăng ?

Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi bèn nhoẻn miệng cười: "Ông ngạc nhiên lắm sao ?" Tôi ngập ngừng: "Bộ họ biết hôm nay tôi đến đây nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt tôi ?" Cô y tá khẽ lắc đầu: "Mỗi ngày đều như vậy, sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ." – "Chờ thân nhân tới đón ?" – "Dạ thưa không." – "Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm ?"

Cô y tá phì cười pha trò: "Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn gái sao ?" – "Không, ý tôi là bạn thông thường đấy." – "Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó thôi, rồi ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong ký ức.

Rồi cô khẽ thở dài: "Tôi làm việc ở đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh, tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi." – "Chắc ít nhiều, lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không cô ?" – "Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng mà bây giờ tôi đã quen rồi…" – "Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm ?" – "Chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó ông !"

Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá nhìn ông ta và hỏi: "Ông đi lên thang máy hay là đi xuống ?" Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe: "Đi… đi xuống, rồi đi… đi lên, rồi đi... đi xuống, đi lên…"

Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời vô định. Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên nói: "Vậy thì xin ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang bận."

24

CÙNG CẢM NHẬN

Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa. Tôi thắc mắc: "Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao cô ?" – "Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều gắn rất cao người già không thể với tới." – "À thì ra vậy !"

Công tác xong trời cũng về chiều, tôi từ giã, cô y tá tiễn tôi ra cửa. Đoàn xe lăn vẫn còn dàn chào. Chợt trông thấy trong góc tối một ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hoà nhập vào toán dàn chào. Da ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ loà xoà trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì.

Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá: "Và vị dưỡng lão này cũng là người Indian hở cô ? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của chính phủ liên bang chứ ?" Cô ta ngạc nhiên: "Ủa sao ông lại hỏi vậy ?" Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn: "Vậy không phải Indian là gì ?" Cô y tá phì cười: "Ông ta là người Á Đông đó ông ạ." Tôi giật mình: "Người Á Đông ?" – "Dạ phải, dường như là Việt Nam đó…"

Thêm một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng có người Việt cư trú. Tôi bèn hỏi dồn: "Sao cô biết ông ta là người Việt ?" – "Dạ thưa ông hồ sơ có ghi đó ông ạ." – "Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô ?" – "Hơn 10 năm."

Rồi cô khẽ lắc đầu: "Tội nghiệp, ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quý mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình không có bạn." – "Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm ông ấy không ?" – "Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây…"

Không cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu tôi cũng là người Việt Nam. Cô ta trố mắt: "Ồ thế mà tôi cứ đinh ninh ông là người Trung Hoa." Tôi cười: "Trong mắt người Tây Phương, thì bất cứ ai da vàng cũng là người Tàu." Cô ta pha trò: "Cũng đâu phải lạ, nhiều anh Tàu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên miền Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon vừa rẻ nhưng phải cái là…"

Tôi nhoẻn miệng cười: "Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều phải không cô ?" Cô ta cười xoà: "Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi còn thặng dư là khác." Tôi quay lại vấn đề: "Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để mà chào hỏi làm quen, có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp."

Cô y tá mừng rỡ: "Hay lắm, đó cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông dịch, nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng không ?" – "Vâng, tôi sẽ cố gắng làm điều đó cô…"

Thấy tôi đi tới ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hom hem nhìn chầm chập, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu chào: "Dạ thưa chào cụ ạ." Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động: "Dạ chào, chào thầy, thầy người Việt à ?" Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông. "Thưa cụ, cháu cũng là người Việt như cụ đấy ạ." Ông lại nghẹn ngào: "Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Đức Mẹ Từ Bi đã cho tôi gặp được ông."

Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện. "Thưa cụ, vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Đức Mẹ sắp đặt ?" – "Tại đêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng hương." – "Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ ?" – "Để được nói chuyện bằng tiếng Việt mình thôi." Cụ thở dài: "Lâu lắm rồi tôi chưa được nói hay là nghe tiếng mẹ đẻ."

Nhức trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:

“Tên tôi là Tỉnh, Nguyễn Văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá. Tuy không giàu, nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, ba con trai, đứa lớn nhất còn sống thì giờ này cũng đã gần năm mươi. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay tôi chở vợ con vượt thoát, nhưng chẳng may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tàu chìm. Tôi và đứa con út lên sáu được may mắn đã gặp tàu Mỹ nó vớt, còn vợ và hai đứa con lớn thì mất tích thầy ạ. Sau đó thì tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi

25

ước mong thằng bé sẽ theo cha mà học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ, kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố, thế nên thầy biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để mà tiếp tục theo đại học”.

Ông ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:

“Tôi chỉ có mình nó, không thể sống xa con, nên quyết định là bán hết tài sản để mà dọn theo, bạn bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến cái tiểu bang này mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn chút ít thì gửi vào trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng chẳng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe càng yếu, năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già thì không có lành được và phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có việc làm ở New York.

Tự biết là khó có thể theo con và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó nên tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm ăn yên ổn nó sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ quen Út mách cho tôi nơi này. Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: nơi nào cũng là quê người, cũng giống nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi. Thế là cả ngôi nhà lẫn tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được nhận.”

Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang soải cánh ông chép miệng: "Chà nhanh quá, mới đó đã mười năm rồi." – "Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm cụ chứ ?" – "Ừ, một năm thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nó nói, dâu tương lai của bố đó. Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm luôn." – "Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao ?" – "Không, mà thật tình tôi cũng không muốn biết nữa." – "Tại sao, anh ấy là con trai duy nhất của cụ mà ? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé ?" Ông lão rơm rớm nước mắt: "Tôi sợ lắm, thầy ơi, thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất còn hơn là biết tin buồn. Quả tình tôi không kham nổi."

Tôi nghẹn lời nói không được, lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn hỏi: "Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì thì cụ cho cháu biết, cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng của mình thưa cụ." Ông lão thở dài: "Già rồi còn được mấy năm trước mặt hở thầy ?" Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng: "À, mà tôi thèm một bát bún riêu quá."

Hai tuần sau, vào Chúa Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm hai bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi còn đặc biệt có thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào túi xách đem vào viện dưỡng lão Lakeview. Mất hơn bốn giờ, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông vẫn ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng.

Bất ngờ trông thấy tôi, ông mừng rỡ kêu lên: "Ồ kìa thầy, thầy lại về đây công tác hở thầy ?" Tôi chạy tới nắm tay ông: "Dạ thưa, lần này thì cháu chỉ đến đây thăm cụ và cháu có một món quà đặc biệt mang biếu cụ đây." Lộ vẻ cảm động ông cụ nhoẻn cười đôi mắt nhăn nheo: "Bày vẽ làm chi hở thầy, đến thăm tôi là quý rồi, thầy ơi…"

Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm tôm nên tôi phải mang theo một lọ cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm trên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba trái ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt.

Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng: "Cám ơn thầy, không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn cho vui ạ." – "Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà, xin cụ dùng tự nhiên, bún riêu còn nhiều, hết tô này cháu sẽ hâm tô khác."

Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon, chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn miệng khen tấm tắc: "Trời ơi,

26

bún riêu ngon quá mà mắm ruốc thơm quá, thầy ơi." Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ: "Thưa nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út và thường xuyên thăm viếng cụ nhé."

Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má hóp: "Trời ơi, sao tôi có được diễm phúc như vậy sao trời !"

Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi. Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp có cả trà thơm, mứt ngọt dự định sáng hôm sau Mồng Một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ.

Đang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu dây tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão Lakeview: "Dạ thưa hỏi, có phải ông là ông Trần không ?" – "Dạ vâng ạ, là chính tôi đây." – "Dạ thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng." – "Tình trạng thế nào, có nguy không cô ?" – "À, đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố đó, thưa ông." – "Cám ơn cô rất nhiều, ngày mai tôi sẽ đến cụ." – "À ông nên đi sớm hơn đi là vì sợ không còn dịp nữa…"

Tôi rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xoá một màu, tuyết phủ lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố. Sau cùng cũng tới được bệnh viện Hayward.

Cô y tá nhìn tôi ái ngại: "Thưa ông, suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không ạ." – "Cô còn nhớ là ông gọi tên gì không ?" – "Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là Work hay Út gì đó." Tôi đã hiểu đó là ông gọi anh Út.

Tôi hé cửa lách vào trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường, người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào: "Út… Út." Nước mắt chực trào ra, giờ phút nầy tôi phải làm một điều gì để ông được mỉm cười khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay gầy guộc và nghẹn ngào: "Thưa cha, con đã về đây thưa cha."

Mi mắt ông động đậy, cố nhướng nhìn lên. Rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy: "Út.. Út, Út con." – "Phải thưa cha, con là Út đây cha. Con là đứa con bất hiếu đã quay về bên cha để xin cha tha thứ cho con." Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng tay tôi, cố nắm giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.

Gia tài ông để lại là một bọc vải nhỏ trong ấy có một tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út…

Những năm sau, mỗi lần có dịp lên mạn Bắc, tôi đều ghé nghĩa trang thăm ông. Hôm nay, trời vào thu ! Nghĩa trang chiều hoang vắng quá ! Lá vàng từng chiếc rơi trên mộ. Tôi lặng người nghe khóe mắt rưng rưng...

Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai...

LÊ BẢO TRÂN

CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ

TRỢ GIÚP ÔNG NGUYỄN VĂN HIỆP Ở SÀIGÒN, BỊ SUYỄN

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu ông NGUYỄN VĂN HIỆP, sinh năm 1950, vợ là bà Nguyễn Thị Tỵ, hiện ngụ tại 154/1 Tùng Thiện Vương, P. 11, Q. 8, Sàigòn, điện thoại: 0902.772.651. Ông Hiệp bị bệnh suyễn lại thêm huyết áp cao, đã điều trị tại phòng cách ly, giường 11, khu A, Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch. Chúng tôi xin trợ giúp 1.300.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 9 biên lai ).

27

CÙNG TƯƠNG TRỢ

TRỢ GIÚP CHÁU TRẦN PHƯƠNG VY Ở SÀIGÒN, BỊ VIÊM PHỔI

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu cháu bé TRẦN PHƯƠNG VY, sinh 9.12.2013, con ông Trần Ngọc Thao và bà Lê Thị Bích Đông, hiện ngụ tại 125 Lưu Bình Hương, KP. 6, thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi, Sàigòn, điện thoại: 01693.460.149. Cháu Vy bị viêm phổi và nhiễm trùng phổi, nhập viện ngày 23.8.2014, đã được xuất viện ngày 1.9.2014. Ba cháu làm công nhân xưởng gỗ, Mẹ làm công nhân may, nhưng đã nghỉ để sinh và chăm sóc cháu. Chúng tôi xin trợ giúp 2.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 3 biên lai ).

TRỢ GIÚP EM TRẦN VĂN TUẤN Ở SÀIGÒN, BỊ TAI NẠN

Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, giới thiệu em TRẦN VĂN TUẤN, sinh năm 1993, con ông Trần Văn Phúc và bà Nguyễn Thị Thọ, hiện ngụ tại 64/57/47 A Nguyễn Khoái, P. 2, Q. 4, Sàigòn. Cha mẹ đều bị bệnh nên em là lao động chính, mưu sinh bằng nghề thợ hồ. Tuấn bị tai nạn, xương đùi bị gãy 3 khúc, phải mổ để nối xương bằng nẹp và vít. Chúng tôi xin trợ giúp 6.200.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

TRỢ GIÚP LẦN 2 CHO BÀ LÊ ÁNH TUYẾT Ở VĨNH LONG, BỊ UNG THƯ VÀ BƯỚU CƯỜNG GIÁP

Lm. Phêrô Phạm Đức Thanh, , phụ trách Họ Đạo Mỹ Thuận, điện thoại: 070.3816.673, giới thiệu bà LÊ ÁNH TUYẾT, sinh năm 1977, chồng là ông Nguyễn Ngọc Anh, hiện ngụ tại 94c ấp Mỹ Thuận, xã Tân Hội, thành phố Vĩnh Long, điện thoại: 01683.852.526 hoặc 01659.441.419. Ông bà có 3 người con, chồng bà làm nghề bẻ dừa mướn, còn bà bán vé số và trái cây. Bà Tuyết bị bướu cường giáp và ung thư vú, phải điều trị cùng lúc tại Bệnh Viện Gia Định và Bệnh Viện Ung Bướu, Sàigòn. Bà đã được phẫu thuật và hiện đang được xạ trị. Chúng tôi xin trợ giúp lần thứ hai 1.300.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 6 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ NGUYỄN THỊ LAN Ở ĐỒNG NAI, BỊ TIỂU ĐƯỜNG

Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, giới thiệu bà NGUYỄN THỊ LAN, sinh năm 1955, ngụ tại thôn 14, ấp 1, xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, Đồng Nai, điện thoại: 0948.636.479. Lúc trước bà Lan tu ở Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, nhưng do anh trai và chị dâu đều chết để lại 3 cháu nhỏ không ai chăm sóc, bà đã xin nhà Dòng cho về chăm sóc các cháu. Hiện tại bà vẫn tiếp tục hoạt động ở Dòng Mến Thánh Giá tại thế. Bà Lan bị bệnh tiểu đường, chân trái bị hoại tử phải cưa, hoàn cảnh sống rất khó khăn. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được

trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

TRỢ GIÚP BÀ NGUYỄN THỊ KIM HỒNG Ở BÌNH THUẬN, BỊ RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu bà NGUYỄN THỊ KIM HỒNG, sinh năm 1970, hiện ngụ tại thôn 6, xã Đức Tín, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, điện thoại: 01286.016.030 hoặc 0945.852.829. Bà Hồng có 6 người con, một người đã chết, một người đi tu Dòng Cát Minh, một người sắp lập gia đình, còn 3 người con nhỏ đang đi học. Bà Hồng bị rối loạn tiền đình, các bác sĩ ở bệnh viện tâm thần cho thuốc uống về uống 2 tuần nhưng không bớt và lên cơn động kinh phải cấp cứu ở Bệnh Viện 115, Sàigòn. Chúng tôi xin trợ giúp 1.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 5 biên lai ).

TRỢ GIÚP EM ĐỖ THỊ THANH BÌNH Ở ĐĂK LĂK, BỊ LUPUS BAN ĐỎ

Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, giới thiệu em ĐỖ THỊ THANH BÌNH, sinh 1998, con ông Đỗ Ngọc Sơn và bà Trần Thị Kim Yến, điện thoại: 01276.424.799. Ba làm công nhân cầu đường, mẹ đã bỏ đi khi em được 1 tuổi. Em Bình bị bệnh Lupus ban đỏ, viêm cầu thận, viêm phổi đa kháng, em đang được điều trị tại phòng B4, lầu 3, Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch. Chúng tôi xin trợ giúp 450.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 3 biên lai ).

28

510. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP MỔ TIM CHO EM RAHLAN H'MRIM Ở GIA LAI

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu em RAHLAN H'MRIM, sinh 1987, người dân tộc J'rai, hiện ngụ tại buôn K'ting, xã Ia Rsai, huyện Krôngpa, tỉnh Gia Lai. Nhiều năm qua, em H'Mrim bệnh tật yếu đau, không có sức để lao động, mọi sự đều nhờ vào cố gắng bươn trải mưu sinh của người chồng, thu nhập rất thấp và bấp bênh.

Em H'Mrim bị bệnh tim đã 5 năm nhưng hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, không đủ điều kiện để được mổ tim. Gia đình đã nhiều lần đưa em đi khám bệnh và mua thuốc tại Bệnh Viện Đa Khoa tỉnh Gia Lai. Đến nay bệnh tình càng nặng, em được đưa về Sàigòn khám đi bệnh viện Tim Tâm Đức, các bác sĩ cho biết phải phẫu thuật gấp, chi phí ca mổ là 40 triệu đồng. Ân nhân Lương Trung Thành, với tư cách cá nhân, đã trợ giúp 10 triệu đông, cha Nguyễn Vân Đông, trưởng ban Caritas Giáo Phận Kontum, hỗ trợ thêm 10 triệu đồng, vẫn còn thiếu 20 triệu đồng, chưa kể các khoản tiền phát sinh sau khi mổ.

Ngày 1.9.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị ung thư tử cung cho chị Rahlan H'Mrim với số tiền là 20.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, phường 9, quận 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp chị Huỳnh Ngọc Hiệp: 1.700.000 VNDHai người, qua cha Hồ Đắc Tâm ( ? ): 100 USD + 100 EUR Trích chia sẻ của cô Tuyết Lê ( Hoa Kỳ ): 400 USDÔng bà Khanh – Nhung ( Hoa Kỳ ): 5.000.000 VNDCô Maria Hòa, Q. Phú Nhuận ( Sàigòn ): 300.000 VNDMột người làm ở Hotel Movenpick ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDAnh Ngô Văn Quảng ( Sàigòn ): 500.000 VNDChị Lý Mỹ Yến ( Sàigòn ): 2.100.000 VNDBà Nguyễn Thị Bích Nguyệt ( Úc ): 2.000.000 VND

Tổng kết đến 16g45 chiều thứ năm 4.9.2014: 16.600.000 VND + 500 USD + 100 EUR = 30.000.000 VND

Như vậy sau 4 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 30 triệu đồng giúp chị Rahlan H'Mrim. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

512. MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ NHIỀU BỆNH NGẶT NGHÈO CHO ÔNG NGUYỄN VĂN KHÔI Ở GIA LAI

Anh Đaminh Đinh Quang Minh, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu trường hợp ông NGUYỄN VĂN KHÔI, sinh năm 1965, vợ là bà Hồ Thị Mau, hiện ngụ tại đội 4, thôn 1, xã Nam Yang, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai, điện thoại số 01686.092.293. Ông bà có bốn người con, con gái lớn đã có gia đình, hai con kế phụ ông bà làm rẫy, con út còn đi học.

Ông Khôi bị nhiễm Toxocara máu, rối loạn tích lũy Lipid, ngoài ra ông còn bị gan nhiễm mỡ, thiểu năng tuần hoàn não, thoái hóa cột sống cổ và viêm dạ dày. Ông đã điều trị từ tháng 7.2013 ở nhiều bệnh viện khác nhau, từ Bệnh Viện Gia Lai, vào Bệnh Viện Hòa Hảo, chuyển Bệnh Viện Đại Học Y Dược và hiện đang được theo dõi và điều trị tại Bệnh Viện Chợ Rẫy, Sàigòn. Chi phí điều trị đã hết hơn 90 triệu đồng, gia đình đã bán hết những gì có giá trị và phải vay mượn thêm 80 triệu đồng để lo liệu cho ông.

Ngày 6.9.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị nhiều bệnh ngặt nghèo cho ông Nguyễn Văn Khôi với số tiền là 30.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp anh Nguyễn Văn Sáu: 2.750.000 VNDCa đoàn Việt Linh, California ( Hoa Kỳ ): 200 USDCác bạn Nhóm Fiat ( các tỉnh ): 750.000 VNDTrích chia sẻ của cô Tuyết Lê ( Hoa Kỳ ): 200 USDQuán Chè 75 ( Sàigòn ): 500.000 VND

29

Anh chị Mẫn – Phương, Q. 8 ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDBà Têrêsa Lan ( Sàigòn ): 300.000 VNDCô Anh Thư ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDBác PHP, Gx. Bình Thọ ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDChị Bích Ngọc, Minnesota ( Hoa Kỳ ): 100 USDBạn Phương Thúy ( Sàigòn ): 500.000 VNDCô Yến, quận Tân Phú ( Sàigòn ): 5.000.000 VNDMột người ẩn danh ( Kiên Giang ): 100.000 VNDTrích chia sẻ của gia đình anh Sơn ( Sàigòn ): 500.000 VND

Tổng kết đến 10g30 trưa thứ ba 9.9.2014: 19.300.000 VND + 500 USD = 30.000.000 VND

Như vậy sau 4 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 30 triệu đồng giúp ông Nguyễn Văn Khôi. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

513. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ BỆNH RỐI LOẠN MÁU DI TRUYỀN BETA-THALASSEMIA CHO

CHÁU TỐNG THỊ HIẾU THẢO Ở HUẾLm. Bênêđitô Ngô Văn Tài, Giáo Xứ Ngọc Hồ, Giáo Phận Huế, điện thoại: 0905.848.809, giới

thiệu cháu Anna TỐNG THỊ HIẾU THẢO, sinh ngày 21.10.2005, con của ông Anrê Tống Viết Hiếu và bà Maria Đặng Thị Ngọc Chi, hiện ngụ tại thôn Ngọc Hồ, tổ 12, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, thành phố Huế, điện thoại: 01692.361.860. Cháu Hiếu Thảo là con duy nhất, gia đình làm nông, trồng xả và trà. Ông Tống Viết Hiếu là người chôn cất hằng trăm ngàn thai nhi và chăm sóc Nghĩa Trang Anh Hài tại ba quả đồi thuộc Giáo Xứ Ngọc Hồ hơn 20 năm qua.

Từ lúc cháu Hiếu Thảo mới được 8 tháng tuổi, gia đình đã phát hiện cháu bị bệnh rối loạn máu di truyền, dạng Beta-Thalassemia, đến nay cháu đã gần tròn 9 tuổi. Mỗi tháng cháu phải vào bệnh viện để được truyền máu và thuốc thải sắt trong máu. Máu thì được bệnh viện giúp cho, còn thuốc thải sắt phải mua ở ngoài, chi phí mỗi tháng gần 2 triệu đồng. Hiện tại sức đề kháng của cháu rất yếu do lá lách đã bị cắt bỏ, cháu bị thêm nhiều chứng bệnh ngặt nghèo khác.

Ngày 5.9.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị bệnh Beta-Thalassemia cho cháu Tống Thị Hiếu Thảo với số tiền là 25.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDTiền bán báo ĐMHCG ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDBạn Ngọc Hiên ( Sàigòn ): 800.000 VNDMột người ẩn danh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDTrích chia sẻ của cô Tuyết Lê ( Hoa Kỳ ): 200 USDChị Têrêsa Thu Diễm, Xóm Giáo 4 ( Sàigòn ): 200.000 VND Bà Matta Ludewig Huong, Bayern ( Đức ): 300 USDAnh Nguyễn Văn Phương, quận Bình Thạnh ( Sàigòn ): 300.000 VND

Tổng kết đến 12g trưa thứ tư 10.9.2014: 16.300.000 VND + 500 USD = 26.900.000 VND

Như vậy sau 2 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 25 triệu đồng giúp cháu Tống Thị Hiếu Thảo. Số tiền 1.900.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là em Lê Văn Tuấn ở Phú Yên. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

30