issn 1859-0144 9/2014- công nghệ sinh học ứng dụng quy mô công nghiệp trong việc...
TRANSCRIPT
Trong số này:
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
Hướng đi mới trong hoạt động nghiên cứu khoa học và
công nghệ phục vụ kinh tế-xã hội vùng Bắc Trung Bộ
Một số giải pháp phát triển sản phẩm nông lâm thủy sản
của vùng Bắc Trung Bộ
Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn quốc gia
TCVN ISO 9001:2008
Công tác khuyến nông góp phần xây dựng nông thôn mới
Bố trí tối đa kinh phí cho chương trình khoa học và công
nghệ cấp quốc gia
Quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng
Phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong
các đơn vị thuộc lĩnh vực nguyên tử
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Nâng cao hiệu quả về hoạt động khoa học và công nghệ
theo đặc thù của từng địa phương
Quy trình sản xuất vật liệu từ zeolite 4A từ tro trấu và ứng
dụng để xử lý nước ao hồ nuôi trồng thủy sản
Đánh giá kết quả thử nghiệm ảnh hưởng của nhịp độ kích
thích ở các chế độ cạo khác nhau đến sản lượng và chất
lượng mủ cao su tại Hương Trà
Giải pháp phát triển bền vững nuôi tôm thẻ chân trắng
trên cát ở vùng ven biển Bắc miền Trung
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
Thử nghiệm thành công giống lúa mới
Hoàng Anh Tiến-gương mặt trí thức trẻ tiêu biểu về
học tập và nghiên cứu khoa học
Hiệu quả từ mô hình nuôi lợn trên đệm lót sinh học tại xã
Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy
Kết quả thực hiện mô hình sản xuất hành lá vụ hè thu 2014
Niềm vui của bà con Hải Dương được mùa dưa hấu
Hiệu quả từ mô hình nuôi ba ba ở phường Thủy Dương,
thị xã Hương Thủy
Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm bằng thức ăn công nghiệp
từ nguồn giống sinh sản nhân tạo
VĂN HÓA-XÃ HỘI
Đồng bào các dân tộc A Lưới ngày càng ấm no Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa cồng chiêng trong xây
dựng nông thôn mới
TRANG TIN HOẠT ĐỘNG
2
7
14
18
20
21
23
24
30
33
38
42
44
46
48
49
51
52
54
57
Chịu trách nhiệm xuất bản:
PGS.TS TRẦN NGỌC NAM
Ban biên tập:
TRẦN NGỌC NAM
NGUYỄN ĐỨC PHÚ
NGUYỄN KHOA DIỆU HÀ
Trình bày:
NGUYỄN KHOA DIỆU HÀ
Địa chỉ tòa soạn:
24 Lê Lợi, thành phố Huế
Điện thoại:
054.3825453-3849266
Fax: 054.3838038
Email: [email protected]
Website: http://skhcn.hue.gov.vn
Giấy phép xuất bản số: 01-10/GP-XBBT
ngày 01/12/2010 do Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Thừa Thiên Huế cấp.
In tại Công ty Cổ phần In và Dịch vụ
Thừa Thiên Huế, nộp lưu chiểu tháng 9
năm 2014.
ISSN 1859-0144
9/2014
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Ảnh bìa: Hội nghị nghiệm thu đề tài KH&CN cấp tỉnh
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 2
1. Công nghệ sinh học
Vùng Bắc Trung Bộ có tài nguyên thiên
nhiên trên rừng và dưới biển phong phú là
tiền đề cho các nghiên cứu và sản xuất các
sản phẩm có tính ứng dụng cao nhờ vào công
nghệ sinh học hiện đại. Công nghệ sinh học
cần được xác định là mũi nhọn chính trong
hình thành các sản phẩm hàng hóa mới có
tính ứng dụng cao mang đặc trưng của vùng.
Về định hướng nghiên cứu
- Tách chiết các hoạt chất có hoạt tính
sinh học cao từ nguồn tài nguyên thiên nhiên
rừng và biển của phục để phục vụ cho các
ứng dụng trong nông nghiệp, dược liệu;
- Tìm kiếm các chủng vi sinh vật cố định
nitơ, phân giải lân khó tan, vi sinh vật sinh
các chất kích thích sinh trưởng cho cây trồng
và ức chế các vi sinh vật gây bệnh. Cung cấp
chế phẩm cho các cơ sở phục vụ xử lý phụ
phế phẩm hữu cơ và chế biến phân bón hữu
cơ vi sinh;
- Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng
thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng,
trong đó có nghiên cứu di thực các cây có giá
trị kinh tế cao và khả năng chống chịu tốt vào
vùng Bắc Trung Bộ;
- Tìm kiếm các tài nguyên dược liệu có
trong rừng tự nhiên ở vùng Bắc Trung Bộ;
- Xây dựng ngân hàng gen để bảo lưu các
giống địa phương quý giá có nguy cơ tuyệt
chủng cao;
- Công nghệ sinh học ứng dụng quy mô
công nghiệp trong việc sản xuất cây giống,
con giống, chế phẩm sinh học, phân bón sinh
học;
- Ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra
các chế phẩm phòng trừ sâu bệnh và bảo
quản sản phẩm nông nghiệp;
- Đẩy mạnh ứng dụng về công nghệ sinh
học để tạo ra các sản phẩm thân thiện môi
trường và giải quyết được các bài toán về
nguyên liệu đầu vào trong sản xuất tại đây.
LTS: Như chúng tôi đã đưa tin, vào ngày 14-15/8/2014, Hội nghị Giao ban Khoa học
và Công nghệ (KH&CN) các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ lần thứ XI đã diễn ra tại tỉnh Thừa
Thiên Huế. Tại hội nghị, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các đại biểu tham dự đã
dành nhiều thời gian cho việc bàn về các nhiệm vụ giải pháp nhằm định hướng hoạt động
KH&CN trong thời gian tiếp theo, đồng thời từng bước khẳng định vai trò của các địa
phương thuộc vùng Bắc Trung Bộ trong việc phát triển tiềm năng và khai thác kết quả
nghiên cứu phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng. Bản tin Khoa học và Công nghệ số
này xin lược trích giới thiệu một số nội dung từ các báo cáo tham luận tại hội nghị liên
quan đến chủ trương, chính sách, quản lý mang tính chiến lược của ngành KH&CN trong
việc phát triển kinh tế-xã hội ở Thừa Thiên Huế cũng như khu vực Bắc Trung Bộ.
HƯỚNG ĐI MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI VÙNG BẮC TRUNG BỘ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 3
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
Về chuyển giao công nghệ sinh học
Các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ cần
tiếp nhận các công nghệ sau để phục vụ phát
triển kinh tế-xã hội:
- Công nghệ sản xuất phân bón vi sinh từ
phế liệu của công nghiệp mía đường tại nhà
máy đường công suất từ 10 đến 30.000 tấn/
năm và dây chuyền xử lý vỏ cà phê, than bùn
làm phân bón POLYFA công suất 5.000-
10.000 tấn/năm;
- Công nghệ sản xuất các chế phẩm phục
vụ xử lý phế phẩm hữu cơ và chế biến phân
bón hữu cơ vi sinh; chống bệnh cho cây trồng
như bệnh thối rễ, héo xanh;
- Công nghệ sản xuất các chế phẩm vi sinh
vật giữ nước giúp cây trồng có thể phát triển
tại các vùng khô hạn để cải tạo đất và xây
dựng mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững
cho vùng chuyên canh rau; xử lý chế phẩm vi
sinh vật để xử lý rạ làm phân bón tại đồng
ruộng vừa nhằm cải tạo đất, giảm phân bón
hóa học, tăng năng suất và bảo vệ môi trường;
- Công nghệ chọn, tạo giống vật nuôi và
các chế phẩm sinh học phục vụ chăn nuôi:
(1) Ứng dụng các kỹ
thuật hiện đại của công
nghệ sinh học như: công
nghệ tạo phôi nhân tạo,
công nghệ thụ tinh ống
nghiệm, công nghệ bảo
quản lạnh tinh trùng và
phôi nhằm bảo tồn và
nhân nhanh các giống
vật nuôi có giá trị kinh
tế; (2) Công nghệ kích
thích sinh sản đồng loạt
theo ý muốn cho đàn bò
(thịt, sữa) và một số
động vật khác;
- Công nghệ hỗ trợ phát triển ngành nuôi
trồng và chế biến thủy sản: (1) Chế phẩm vi
sinh vật xử lý môi trường nuôi trồng thủy
sản; (2) Công nghệ sản xuất chế phẩm cải
thiện môi trường nuôi tôm, cá, công nghệ sản
xuất chế phẩm thức ăn chức năng NEO-
PLYNUT tăng sức đề kháng, tăng trọng cho
động vật nuôi và nuôi trồng thủy sản. Công
nghệ này đã được chuyển giao cho một số
nơi và sản phẩm đã lưu thông trên thị trường;
(3) Công nghệ sản xuất KIT xác định vi khuẩn
vibrio và virus gây bệnh đốm trắng ở tôm cá có
triển vọng trong công tác kiểm tra con giống
sạch bệnh cho các cơ sở nuôi tôm cá;
- Công nghệ nuôi trồng và chế biến nấm;
- Các công nghệ sinh học trong y dược để
sản xuất thực phẩm chức năng và nâng cao
dược tính của các hoạt chất có hoạt tính sinh
học cần trong điều trị và chăm sóc sức khỏe.
2. Địa lý-tài nguyên
Bắc Trung Bộ là vùng chịu nhiều tác động
của biến đổi khí hậu (mực nước biển dâng,
mặn hóa, lũ lụt, xói mòn, lũ quét, bồi lấp cửa
biển, sóng thần), môi trường thiên nhiên của
Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất (ảnh minh họa)
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 4
vùng sẽ có nhiều biến động. Do đó hướng
nghiên cứu về lĩnh vực địa lý-tài nguyên cần
gắn chặt với các giải pháp phòng tránh và thích
ứng giảm nhẹ tác động của thiên tai, đề xuất
các giải pháp sử dụng lãnh thổ hợp lý trong bối
cảnh biến đổi khí hậu.
Hiện nay, các nghiên cứu về điều tra, xây
dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp dùng để đánh giá
các nguồn lợi, tài nguyên thiên nhiên và môi
trường ở vùng Bắc Trung Bộ vẫn chưa hoàn
chỉnh. Do đó, thời gian tới, hướng địa lý-tài
nguyên cần tập trung hoàn thiện hệ thống cơ sở
dữ liệu làm cơ sở khoa học cho việc lập quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng
Bắc Trung Bộ. Các gói cơ sở dữ liệu phải được
xây dựng dưới dạng WebGIS để mở rộng đối
tượng chia sẻ và khai thác nguồn dữ liệu này.
Để ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu
cho toàn vùng Bắc Trung Bộ, các tỉnh cần xây
dựng một hành lang đa dạng sinh học chung
trên cơ sở tính liên tục của các dải rừng để
nâng cao chức năng sinh thái cho rừng và tạo
ra các lợi ích sinh thái và kinh tế phục vụ cho
các mục tiêu phát triển bền vững. Do đó,
hướng nghiên cứu địa lý-tài nguyên cần chú
trọng các giải pháp nâng cao chất lượng rừng
toàn vùng Bắc Trung Bộ thông qua các cơ hội
hợp tác quốc tế hoặc từ các nhà tài trợ. Hiện
nay, Việt Nam đã có vệ tinh VINASAT-1,
máy bay không người lái phục vụ cho các mục
đích nghiên cứu lãnh thổ, do đó hướng tận
dụng các dữ liệu ảnh viễn thám từ các thiết bị
này sẽ đem lại nhiều ứng dụng tốt trong quản
lý lãnh thổ cho vùng Bắc Trung Bộ.
Hướng địa lý-tài nguyên cần chú ý vào
vùng ven bờ để giúp các tỉnh xây dựng được
các phương án quản lý tổng hợp đới bờ phù
hợp với tình hình địa phương và nâng cao
năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu cho
vùng Bắc Trung Bộ đồng thời thúc đẩy kinh
tế biển nhanh chóng phát triển và hội nhập
kinh tế thế giới.
Các hướng nghiên cứu về điều tra, đánh
giá tài nguyên đa dạng sinh học tại các hệ
sinh thái còn lại như thủy vực nước ngọt nội
địa cần được triển khai để xây dựng hoàn
chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu đa dạng sinh
học tại vùng Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, các
hướng nghiên cứu về sử dụng hợp lý tài
nguyên nước ngọt cần được tiếp tục triển
khai để giải quyết vấn đề thiếu hụt nước ở
một số vùng do biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, các hướng nghiên cứu về quy
hoạch môi trường, gồm quy hoạch môi
trường chiến lược và các quy hoạch môi
trường ngành, cần được chú trọng để định
hướng hoạt động phát triển kinh tế-xã hội
cho vùng Bắc Trung Bộ theo một cơ sở khoa
học vững chắc và hướng đến các mục tiêu
phát triển bền vững.
Đối với tài nguyên biển, vùng Bắc Trung
Bộ có bờ biển dài nhưng chưa có nhiều
nghiên cứu điều tra về tài nguyên các vùng
biển, do đó, hướng địa lý-tài nguyên trong
thời gian tới cần mở rộng ra phía biển để xây
dựng các luận cứ cho việc sử dụng vùng biển
Bắc Trung Bộ có hiệu quả cao và bền vững
về mặt sinh thái. Đặc biệt, vùng Bắc Trung
Bộ nằm trong vùng cửa vịnh của vịnh Bắc
Bộ, trung tâm là đường trục kéo từ đảo Cồn
Cỏ đến Đảo Hải Nam, nơi đây có nhiều tài
nguyên chưa được nghiên cứu và khai thác
một cách triệt để.
3. Công nghệ môi trường
Trong thời gian tới, vùng Bắc Trung Bộ
có sự bùng nổ các hoạt động phát triển kinh
tế-xã hội: các khu công nghiệp sẽ được xây
dựng và đi vào hoạt động, các nhà máy năng
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 5
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
lượng có công suất lớn, nhà máy chế biến
khoáng sản và hàng nghìn các khu chế xuất
ra đời sẽ kéo theo nhiều hệ lụy về mặt môi
trường. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về công
nghệ môi trường trở nên cấp bách và cần
thiết đối với vùng để đảm bảo phát triển kinh
tế-xã hội và các mục tiêu phát triển bền vững.
Do đó, các đơn vị nghiên cứu ứng dụng
cần chuyển dịch hướng nghiên cứu theo các
hướng công nghệ môi trường như sau: Xây
dựng công nghệ xử lý nước thải công nghiệp,
sinh hoạt và sản xuất; Lò đốt chất thải rắn
độc hại; Công nghệ hoạt hóa điện hóa để xử
lý môi trường; Công nghệ xử lý môi trường
bằng phương pháp sinh học; Công nghệ môi
trường cung cấp nước sạch cho các vùng dân
cư và khu công nghiệp và các nhà máy; Công
nghệ môi trường xử lý ô nhiễm môi trường
không khí ở các khu công nghiệp và các nhà
máy; Chuyển giao các công nghệ xử lý môi
trường quy mô nhỏ cho các hộ gia đình hoặc
doanh nghiệp sản xuất...
4. Công nghệ vật liệu mới
Hiện nay, công nghệ vật liệu mới chưa
thật sự phát triển tại vùng Bắc Trung Bộ,
nhưng nhu cầu phát triển dịch vụ và du lịch
của vùng trong thời gian tới đòi hỏi ngành
vật liệu phải phát triển sang các hướng sau:
- Công nghệ sản xuất các vật liệu cao cấp
từ khai thác và chế biến titan;
- Phát triển công nghệ nano, vật liệu vô cơ,
vật liệu hữu cơ, vật liệu xúc tác, vật liệu quang
hóa, vật liệu phụ gia, nhiên liệu, vật liệu phục
vụ sản xuất ở quy mô công nghiệp;
- Phát triển các vật liệu xử lý môi trường,
tạo ra các hương liệu và các chất có hoạt tính
sinh học có tính ứng dụng cao trong các nhà
máy và khu chế xuất;
- Phát triển các vật liệu hấp phụ và xúc tác
cho ngành công nghiệp chế biến và các khu
chế xuất sản phẩm nông nghiệp;
- Hình thành các trung tâm triển khai, chế
tạo, sản xuất thử nghiệm và ứng dụng các sản
phẩm nghiên cứu vật liệu mới vào đời sống.
5. Công nghệ cơ khí và tự động hóa
Vùng Bắc Trung Bộ có xuất phát điểm rất
thấp, chủ yếu là từ các ngành nghề nông
nghiệp nên phần lớn các quy trình sản xuất
hiện có là lạc hậu và gây ra ô nhiễm môi
trường và lãng phí tài nguyên. Với việc
chuyển dịch các ngành nghề sản xuất theo
hướng công nghiệp và dịch vụ, các dây
chuyền sản xuất ở vùng Bắc Trung Bộ cần
được thay mới hoàn toàn. Do đó, ngành cơ
khí và tự động hóa cần được phát triển để
đáp ứng nhu cầu về cơ giới hóa và tự động
hóa trong các dây chuyền sản xuất nhỏ lẻ của
các hộ gia đình làm nghề truyền thống hoặc
các doanh nghiệp nhỏ.
6. Khoa học y dược
Thừa Thiên Huế là trung tâm y học của
miền Trung chỉ đứng sau Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh cần tập trung đi sâu nghiên cứu
phát triển các phương pháp hiện đại trong
chuẩn đoán và điều trị.
Theo các định hướng trên, thì tác giả đã
đề xuất, kiến nghị một số giải pháp thúc đẩy
phát triển KH&CN phục vụ phát triển kinh tế
-xã hội vùng Bắc Trung Bộ như sau:
1. Vốn và công nghệ là hai nhân tố quyết
định của sự phát triển, nên cần hình thành và
tăng cường tổ chức các diễn đàn kinh tế tài
nguyên Bắc Trung Bộ để tạo cơ hội cơ hội
giới thiệu và quảng bá các sản phẩm khoa
học công nghệ có tính ứng dụng cao tới các
nhà kinh tế và hình thành phương thức
thương mại hóa sản phẩm. Diễn đàn là nơi
thảo luận các thách thức về KH&CN đối với
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 6
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở Bắc Trung
Bộ. Diễn đàn cũng là nơi thảo luận và sắp
xếp lại các hoạt động kinh tế liên quan đến
các sản phẩm cụ thể trong vùng.
2. Vùng Bắc Trung Bộ cần hình thành
một Hiệp hội KH&CN Bắc Trung Bộ với
lực lượng nòng cốt là các đơn vị nghiên cứu
đang đóng trên địa bàn. Hiệp hội có chương
trình hội nghị hàng năm được tổ chức ngay
sau diễn đàn kinh tế tài nguyên Bắc Trung
Bộ để thảo luận các giải pháp KH&CN và
chia sẻ các nhiệm vụ nghiên cứu tập trung
vào các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
của vùng.
3. Các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ cần
thắt chặt mối quan hệ hợp tác với Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiêp và các trường đại học để thực hiện
các nhiệm vụ nghiên cứu phục vụ trực tiếp
cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của
Vùng. Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã
và tiếp tục cung cấp kinh phí sự nghiệp khoa
học để hỗ trợ các nghiên
cứu liên ngành và liên
tỉnh phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội
của các tỉnh và của vùng.
4. Cần mở rộng các
nghiên cứu chính sách tại
vùng Bắc Trung Bộ để
thúc đẩy khả năng ứng
dụng các sáng kiến từ các
nhà khoa học vào thực
tiễn.
5. Các trường đại học ở
vùng Bắc Trung Bộ cần
hình thành Khoa Hải
dương học để đẩy mạnh
hướng nghiên cứu khai thác và sử dụng tài
nguyên biển ở vùng. Đội ngũ các nhà khoa
học về biển sẽ là những nhà tư vấn phát triển
kinh tế biển và góp phần đào tạo nguồn nhân
lực có đủ kiến thức về khai thác tài nguyên
biển cho vùng.
6. Các tỉnh cần huy động mọi nguồn vốn
cho sự nghiệp khoa học phục vụ phát triển
kinh tế-xã hội ở địa phương mình.
BBT
(Lược trích tham luận “Tiềm năng và thế
mạnh trong phát triển kinh tế-xã hội vùng
Bắc Trung Bộ” của PGS, TS Phạm Việt
Cường-Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa
học miền Trung)
Cần khẳng định vai trò và vị thế của KH&CN tại các địa phương nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của Vùng
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 7
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM NÔNG LÂM THỦY SẢN
CỦA VÙNG BẮC TRUNG BỘ Từ thực trạng
Nông lâm thủy sản giữ vị trí quan trọng
trong đời sống kinh tế-xã hội các tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ. Năm 2012, tỷ trọng ngành
nông lâm thủy sản vẫn chiếm khoảng 22,7%
trong tổng giá trị sản phẩm toàn vùng Bắc
Trung Bộ.
Sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển
đáng kể, từ đó hình thành những vùng sản xuất
tập trung các cây công nghiệp quy mô khá lớn
như: mía, lạc và gần đây là chè, cao su…
Ngoài lúa vẫn được coi là cây quan trọng bảo
đảm an nình lương thực. Vùng Bắc Trung Bộ
có tiềm năng sản xuất nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thực phẩm và hàng xuất khẩu.
Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của
vùng Bắc Trung Bộ: (1) Về trồng trọt: lúa,
ngô, đậu đỗ (lạc, vừng), cây ăn quả (cam,
bưởi), cây công nghiệp (mía); (2) Về chăn
nuôi: lợn, gia cầm (gà, vịt, ngan), gia súc (bò);
(3) Về thủy sản: cá rô phi đơn tính, cá truyền
thống (các chép, cá trắm, cá trôi, cá mè), tôm
nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), cá biển
(cá giò, các hồng Mỹ, cá song), nhuyễn thể
(ngao, hàu); (4) Về lâm nghiệp: các loài cây
trồng rừng chủ lực bao gồm: keo (keo tai
tượng, keo lá tràm, keo lai), bạch đàn (bạch
đàn uro, bạch đàn trắng, bạch đàn lai), thông
(thông nhựa, thông caribê).
1. Ngành trồng trọt
Lúa gạo
Bắc Trung Bộ tuy không phải là vùng
trồng lúa tập trung của cả nước nhưng lại
được trồng ở tất cả các địa phương trong
vùng để đảm bảo an ninh lương thực. Trong
giai đoạn 2010-2012, sản xuất lúa của vùng
không ngừng tăng cả về diện tích, năng suất
và sản lượng. Tính đến năm 2012, diện tích
lúa toàn vùng đạt 698,3 nghìn ha (chiếm
9,01% tổng diện tích trồng lúa của cả nước),
năng suất trung bình đạt 52,04 tạ/ha (bằng
92,43% năng suất trung bình cả nước) cho
sản lượng 3.736,5 nghìn tấn (chiếm 8,56%
tổng sản lượng lúa cả nước).
Sản xuất ngô
Bắc Trung Bộ là vùng sản xuất ngô lớn
thứ 3 của cả nước sau vùng trung du miền
núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên. Năm
2012, diện tích ngô của toàn vùng chiếm
10,85% tổng diện tích ngô của cả nước, cung
cấp 4.803,6 nghìn tấn (chiếm 9,51% tổng sản
lượng ngô cả nước). Tuy nhiên, năng suất
ngô bình quân của vùng còn thấp, chỉ đạt
36,35 tạ/ha và bằng 84,53% so với năng suất
bình quân cả nước.
Sản xuất lạc, vừng
Với diện tích đất pha cát rộng lớn thích
hợp cho việc trồng cây lạc, Bắc Trung Bộ là
vùng trồng lạc lớn nhất cả nước, chiếm
26,97% diện tích và 24,94% sản lượng lạc
của toàn quốc (2012). Tuy nhiên, trong một
vài năm gần đây diện tích lạc của vùng có xu
hướng giảm nhẹ do canh tranh đất với một số
cây trồng khác. Diện tích lạc của vùng giảm
từ 65,16 nghìn hecta năm 2010 xuống 59,46
nghìn hecta năm 2012.
Bên cạnh cây lạc, Bắc Trung Bộ còn là
một vùng sản xuất vừng lớn nhất cả nước.
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 8
Năm 2012, diện tích vừng của vùng là 8,63
nghìn ha, trong đó tập trung chủ yếu ở tỉnh
Nghệ An với 5,41 nghìn hecta.
Sản xuất cây ăn quả có múi (cam, quýt)
Diện tích trồng cây ăn quả đang giữ vững
diện tích và bước đầu tạo vùng nguyên liệu
cho ngành công nghiệp chế biến và xuất
khẩu. Một số loại cây ăn quả có giá trị kinh
tế cao như : cam, bưởi, quýt, thanh trà…
được tập trung phát triển nhưng diện tích nhỏ
vì chỉ phù hợp với điều kiện của một số tỉnh
trong vùng. Vùng cây ăn quả đặc sản: Bưởi
Phúc Trạch (Hà Tĩnh), cam Bù và cam Xã
Đoài ở Phủ Quỳ (Nghệ An), Hương Sơn và
Hương Khê (Hà Tĩnh), Thanh Trà (Thừa
Thiên Huế)…
Sản xuất chè
Tính đến năm 2012, diện tích chè của
vùng Bắc Trung Bộ là 10,9 nghìn ha, chiếm
8,5% tổng diện tích chè cả nước, với năng
suất trung bình năm 2012 là 71,5 tạ/ha, cung
cấp 90,5 nghìn tấn búp tươi. Trong những
năm trở lại đây, diện tích chè của vùng đang
có xu hướng giảm dần, trong khi đó việc đưa
vào sản xuất nhiều giống chè mới đã cải
thiện được năng suất chè từ 52,8 tạ/ha năm
2010 lên 71,5 tạ/ha năm 2012. Vì vậy năng
suất chè bình quân của vùng mới chỉ bằng
78,8% năng suất bình quân cả nước.
Sản xuất mía
Là một vùng nguyên liệu phục vụ các
nhà máy chế biến đường lớn nhất cả nước
nên diện tích đất trồng mía liên tục tăng
trong giai đoạn 2010-2012, năm 2012 diện
tích trồng mía tăng 6,5 nghìn ha so với năm
2010, tăng bình quân 2,89%. Sản lượng mía
năm 2012 đạt 3453,1 nghìn tấn, bình quân
tăng 5,04%/năm trong toàn bộ giai đoạn
2008-2012.
Hiện nay trên toàn vùng có 7 nhà máy
đường công nghiệp với tổng công suất
khoảng trên 22,2 nghìn tấn mía cây/ngày,
trong đó sản xuất công nghiệp chiếm 80%.
Các nhà máy có công nghệ và thiết bị hiện
đại chiếm 67% tổng công suất. Chất lượng
đường sản xuất công nghiệp đạt tiêu chuẩn
Việt Nam và xuất khẩu, một số nhà máy đạt
tiêu chuẩn ISO-9002 như: Công ty Cổ phần
Mía đường Lam Sơn (Thọ Xuân-Thanh
Hóa), Nhà máy Mía đường Việt-Đài (Thạch
Thành-Thanh Hóa).
Sản xuất cây cao su
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính
đến nay, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã trồng
vượt quy hoạch, với 80.470 ha cao su theo
mô hình đại điền và tiểu điền. Diện tích cây
cao su tăng nhanh là do cao su tiểu điền phát
triển vượt kiểm soát của địa phương, nhất là
giai đoạn từ năm 2009-2011 khi giá cao su
đạt mức cao kỷ lục (120 triệu đồng/tấn).
Vùng trồng cao su tập trung ở các huyện: Bố
Trạch (Quảng Bình); Vĩnh Linh, Gio Linh
(Quảng Trị); Nghĩa Đàn (Nghệ An); Như
Xuân (Thanh Hóa).
Hiệu quả thực tế từ cây cao su có thể
khẳng định chủ trương phát triển cây cao su
trên địa bàn vùng là hoàn toàn đúng đắn, hợp
lòng dân. Khai thác được tiềm năng lợi thế,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội,
xóa đói giảm nghèo… Tuy nhiên, để đảm
bảo phát triển bền vững hơn, các tỉnh đang rà
soát lại quy hoạch chi tiết các vùng trồng cây
cao su. Không mở rộng thêm diện tích cây
cao su ở vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp với
gió bão. Khuyến cáo, hỗ trợ bà con nông dân
chuyển đổi một số diện tích bị thiệt hại sang
trồng hồ tiêu, sắn, khoai, trồng cỏ nuôi bò,
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 9
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
trồng rừng ít chịu ảnh hưởng của gió bão.
Tăng cường trồng và bảo vệ các vành đai
rừng chắn gió cho các vườn cây cao su và
vành đai rừng phòng hộ ven biển. Nghiên
cứu các biện pháp trồng, chăm sóc cây cao su
cho phù hợp với điều kiện khí hậu thời tiết
miền Trung.
2. Ngành chăn nuôi
Ngành chăn nuôi là ngành quan trọng
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của
vùng Bắc Trung Bộ nhưng do dịch bệnh,
thiên tai và giá cả đầu vào tăng cao nên việc
phát triển chăn nuôi trong giai đoạn 2010-
2012 gặp nhiều khó khăn, tỷ trọng chăn nuôi
trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp
giảm từ 25,2% năm 2010 giảm xuống còn
20% vào năm 2012. Tuy nhiên, ngành chăn
nuôi bước đầu đã phát triển theo hướng sản
xuất hàng hóa, các tiến bộ về giống được ứng
dụng đã nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện
nay, một số vùng chăn nuôi trâu, bò tập trung
ở các huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Quảng Bình.
Mặc dù có tiềm năng lớn nhưng ngành
chăn nuôi của vùng chưa phát huy được sức
mạnh do ngành chế biến sản phẩm chăn nuôi
chưa phát triển, đầu ra phụ thuộc chủ yếu vào
thị trường nội địa, toàn vùng hiện nay mới
chỉ có 4 cơ sở/nhà máy chế biến thịt gia súc
giết mổ quy mô 4.000 tấn/năm, còn lại chỉ là
cơ sở chế biến nhỏ lẻ, trình độ công nghệ thủ
công. Mặt khác chất lượng sản phẩm của
ngành chăn nuôi chưa cao nên chưa có khả
năng đáp ứng được nhu cầu thị trường và
xuất khẩu.
3. Ngành lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một thế mạnh của vùng
Bắc Trung Bộ, với đặc điểm địa lý, địa hình
hẹp bề ngang, núi dốc và có đường bờ biển
kéo dài. Nên rừng có vai trò quan trọng trong
việc ngăn lũ từ thượng nguồn và giảm thiệt
hại do mưa bão gây ra.
Trong phạm vi 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
với diện tích 2.852,2 nghìn ha rừng các loại,
trong đó có 24% là rừng trồng, độ che phủ
đạt khoảng 42,1%. Năm 2012, diện tích rừng
tăng nhanh với tốc độ bình quân khoảng
3,4% chủ yếu là do khoang nuôi và tái sinh
rừng tự nhiên.
Diện tích rừng phân bố không đều, tập
trung chủ yếu ở các tỉnh Thanh Hóa (565,2
nghìn hecta), Nghệ An (888,6 nghìn hecta),
Quảng Bình (574,2 nghìn hecta). Đây cũng là
vùng có diện tích rừng tự nhiên đứng thứ hai
cả nước (2167,1 nghìn ha), chỉ sau vùng Tây
Nguyên. Trong công tác trồng rừng, bảo vệ
rừng vùng Bắc Trung Bộ thực hiện đạt hiệu
quả cao nhất, năm 2012 đã trồng mới được
43,5 nghìn hecta, chiếm gần 60% diện tích
rừng trồng toàn vùng, cao nhất là Nghệ An
và Thanh Hóa. Các loại cây trồng mới chủ
yếu là: thông, keo, bạch đàn, phi lao, mỡ và
cây bản địa vùng ven biển; ở các vùng đầu
nguồn là: lát hoa, lim, huỳnh, gối, trám, giẻ,
trầm, quế… Các loại rừng đặc dụng, phòng
hộ và rừng sản xuất đã mang lại hiệu quả
hoạt động.
Khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ, tính
đến năm 2012 sản lượng gỗ khai thác trên
toàn vùng đạt khoảng 902,3 nghìn m3, gấp
1,04 lần so với năm 2010 và một sản phẩm
lâm sản ngoài gỗ như: Nhựa thông, tre, nứa,
luồng… Với đặc điểm vị trí địa lý thuận lợi
của Bắc Trung Bộ như có các tỉnh : Thanh
Hóa, Nghệ An gần Hà Nội; có cảng biển
nước sâu: Vũng Áng, Chân Mây, Nghi
Sơn… rất thuận tiện cho việc vận chuyển
hàng hóa lâm sản sang các vùng khác và xuất
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 10
khẩu đến các nước trong khu vực và thế giới.
Ngoài ra, việc phát triển lâm nghiệp ở Bắc
Trung Bộ còn có tác dụng phòng chống lụt
bảo, chống sa mạc hóa và sự di chuyển của
các cồn cát lấn đất nông nghiệp và tạo nguyên
liệu cho các nhà máy giấy phát triển.
Sản xuất tre, luồng: Ngoài một số loại cây
lâm nghiệp khác… thì cây tre, luồng ở vùng
Bắc Trung Bộ cũng là một trong những loại
cây trồng tập trung với diện tích lớn mang lại
nguồn thu cho người sản xuất lâm nghiệp. Hiện
nay, cây tre, luồng được trồng nhiều ở Nghệ
An, Thanh Hóa, Hà Tỉnh, cung cấp cho thị
trường 137.112 nghìn cây (số liệu năm 2012).
4. Ngành thủy hải sản
Giai đoạn 2010-2012, ngành thủy sản của
vùng có mức tăng trưởng tương đối khá. Diện
tích nuôi trồng tăng bình quân 0,53%/năm, sản
lượng nuôi trồng tăng 5,09%/năm (bình quân cả
nước tăng 6,01%/năm), sản lượng khai thác
tăng 4,57%/năm (cả nước tăng 3,11%/năm).
Nổi bật có những tỉnh đạt mắc tăng trưởng cao
như: Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Nghệ An,…
Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy
sản vùng Bắc Trung Bộ năm 2012 đạt xấp xỉ
55.000 hecta, trong đó tập trung nhiều ở:
Thanh Hóa, Nghệ An. Một số tỉnh còn lại
diện tích tương đối thấp như : Quảng Bình,
Quảng Trị. Hầu hết các tỉnh Bắc Trung Bộ
nuôi trồng thủy sản trên bãi triều, mặt nước
ao hồ, diện tích các lưu vực sông suối, mặt
nước lợ, đầm phá nước ngọt với diện tích lớn
nên rất thuân lợi cho việc nuôi trồng thủy sản.
Năm 2012, diện tích nuôi trồng thủy sản đã
tăng 1,14 nghìn ha (gấp 1,02 lần) so với năm
2010. Sản lượng nuôi trồng năm sau cao hơn
năm trước, năm 2010 tổng sản lượng nuôi
trồng đạt 99,3 nghìn tấn, đến năm 2012 đã
tăng lên 121,1 nghìn tấn (gấp 1,21 lần).
Các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung
dọc theo các huyện ven biển từ Thanh Hóa
trở vào Thừa Thiên Huế, chiếm trên 50% diện
tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng.
Năm 2012, sản lượng khai thác toàn vùng
đạt hơn 301,8 nghìn tấn. Các tỉnh như Thanh
Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế
có lợi thế bờ biển dài với nhiều cửa lạch nhỏ,
trữ lượng hải sản lớn nên hàng năm khả năng
khai thác trên 40 nghìn tấn, chiếm trên 70%
trữ lượng khai thác toàn vùng, nhiều loài thủy
hải sản có giá trị kinh tế cao như : cá thu, cá
ngừ, các mú, mực… và các loại đặc sản như:
tôm, cua, hải sâm, rong câu chỉ vàng,…Tỉnh
có sản lượng khai thác hàng năm lớn nhất là
Nghệ An với sản lượng trên 90 nghìn tấn/năm
và Thanh Hóa với trên 83,7 nghìn tấn/năm.
Trong những năm gần đây, việc phát triển
nuôi tôm và mô hình lúa-cá được phát triển
rất mạnh ở khắp các tỉnh trong vùng. Diện
tích nuôi tôm tăng nhanh, chuyển từ sản xuất
nhỏ sang sản xuất hàng hóa để tạo giá trị xuất
khẩu, bước đầu mang lại thu nhập cho người
dân. Đây cũng là một hướng chuyển đổi cơ
cấu nông nghiệp, tăng thu nhập và xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn. Tuy nhiên, nhiều
tỉnh sử dụng diện tích bãi triều, rừng ngập
mặn, cửa sông chưa hợp lý, thống nhất với
quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết của từng
tiểu vùng, đầu tư chưa đúng mức, chưa đồng
bộ nên phát huy hiệu quả chưa tốt, có một số
nơi sử dụng diện tích mặt nước quá mức, tác
động tiêu cực tới sinh thái môi trường.
Năng lực chế biến thủy sản hiện tại được
đánh giá là dư thừa so với nguồn nguyên liệu
hiện có, đây là một nguyên nhân dẫn đến việc
cạnh tranh trong thu mua nguyên liệu giữa
các doanh nghiệp trong vùng. Giá nguyên liệu
bị đẩy lên cao làm cho giá thành các sản
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 11
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
phẩm thủy sản của vùng nói riêng và cả nước
nói chung cao hơn giá thành sản xuất của các
sản phẩm tương ứng của các nước trong khu
vực làm lợi thế cạnh tranh suy giảm.
Đến giải pháp
1. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa và xây dựng
vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Về quy hoạch, tập trung rà soát lại các
quy hoạch đã xây dựng để điều chỉnh và bổ
sung cho phù hợp với quy hoạch chung của
toàn vùng trên cơ sở quy hoạch chung của
từng tỉnh. Quy hoạch các vùng sản xuất
nông nghiệp hàng hóa và nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao trong từng địa phương
và trong vùng.
Khảo sát, đánh giá hiệu quả kinh tế những
diện tích cây trồng chủ yếu (bao gồm cả
nông, lâm nghiệp) trước đây, từ đó tiến hành
xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, tạo các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung cho thu nhập cao, ổn định. Khai thác
tiềm năng của cảnh quan vùng nông nghiệp
ven đô, ven khu công nghiệp và khu kinh tế,
để phát triển du lịch là những hướng cần
được khuyến khích và có chính sách ưu đãi
để hình thành hệ thống đô thị nông thôn
trong quá trình phát triển của vùng.
Giải pháp về đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho sản xuất hàng hóa và
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Thủy lợi: Quy hoạch các lưu vực sông
làm cơ sở xây dựng các hồ chứa thủy lợi có
tác dụng tổng hợp, đập dâng, đập ngăn mặn
nhằm mục đích chống hạn, cắt lũ phục vụ
sản xuất, sinh hoạt cho nhân dân: Cửa Đạt
(Thanh Hóa), Bản Mòng, Thác muối Vệ
Vừng (Nghệ An), Ngàn Trươi, sông Trí, Đũ
Điểm (Hà Tĩnh), Rào Đá, Bang (Quảng
Bình), Ái Tử (Quảng Trị), Tả Trạch, Bình
Điền (Thừa Thiên Huế)…, các công trình
phát điện Bản Vẻ, Khe Bố (Nghệ An), Rào
Quán (Quảng Trị), tiếp tục xây dựng các hồ
chứa vừa và nhỏ để chủ động điều tiết nước
tưới, cấp nước, phát điện giảm lũ cho hạ du.
Có giải pháp thủy lợi góp phần chống sa
mạc hóa các vùng cát ven biển. Tập trung
nghiên cứu nguồn nước và phương thức cấp
nước, quy trình cấp nước cho các hộ kinh tế
ven biển, nhất là công nghiệp, thủy sản.
- Giao thông: Quy hoạch các đường
ngang nối quốc lộ 1 với đường Hồ Chí
Minh tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu
hàng hóa và đi lại. Kết hợp vào đó là quy
hoạch các khu thị trấn, thị tứ ở những nơi
giao cắt làm đầu mối cho các dịch vụ thu
gom, chế biến, trao đổi các sản phẩm nông
nghiệp, thông tin khoa học và công nghệ.
Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến,
bảo quản nông sản
Đổi mới công nghệ chế biến tại các nhà
máy chế biến trong vùng nhằm năng cao
năng lực chế biến, nâng cao giá trị nông sản.
Tập trung xây dựng các nhà máy chế
biến ở các tỉnh trọng điểm sản xuất cà phê,
cao su, nguyên liệu giấy, thủy hải sản,….
- Đối với Thanh Hóa: Xây dựng Nhà
máy giấy Hậu Lộc, giấy Lam Sơn, Mộc
Sơn, nhà máy chế biến cao su tại Khu công
nghiệp Lễ Môn.
- Đối với Hà Tĩnh: Xưởng chế biến dầu
thực vật, chế biến chè tại thành phố Hà
Tĩnh, chế biến cao su tại Hương Khê,…
- Đối với Quảng Bình: Xây dựng cơ sở
chế biến đồ hộp và gỗ ván dăm tại Khu
công nghiệp Đồng Hới, kết hợp nâng cấp
một số cơ sở chế biến hiện có.
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 12
- Đối với Quảng Trị: Xây dựng cơ sở
chế biến thủy sản đông lạnh tại Khu công
nghiệp Cửa Việt, nhà máy chế biến cao su
tại Gio Linh, chế biến cà phê tại Hướng
Hóa, Cam Lộ, chế biến gỗ ván dăm tại
Đông Hà.
- Đối với Thừa Thiên Huế: Xây dựng
nhà máy chế biến hải sản tại Thuận An...
Ngoài ra khuyến khích các thành phần
kinh tế xây dựng các cơ sở chế biến vừa và
nhỏ ở các địa phương để thu gom sơ chế, làm
vệ tinh cho các nhà máy chế biến trong vùng.
Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp
- Các địa phương cần có định hướng
chiến lược nghiên cứu, tìm hiểu, khai thác
thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa nông sản. Đồng thời
chủ động hợp tác, khuyến khích các thành
phần, tổ chức kinh tế tham gia thiết lập các
mạng lưới thu mua rộng khắp nhằm thu
mua trực tiếp từ nông dân, bao tiêu sản
phẩm nông sản hàng hóa, gắn chế biến với
tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng các chợ đầu mối để làm nơi
giao lưu trao đổi hàng hóa nông sản, trao
đổi thông tin đầu vào-đầu ra ở những vùng
có sản phẩm hàng hóa tập trung, trước mắt
cần ưu tiên bố trí xây dựng ở những trung
tâm huyện lỵ, thị xã ở các tỉnh trong vùng.
- Tăng cường công tác tiếp thị, hội chợ
triển lãm nhằm quảng bá các sản phẩm có
khả năng xuất khẩu trong vùng. Xúc tiến
nghiên cứu, đăng ký thương hiệu sản phẩm
hàng hóa trên thị trường quốc tế như các
sản phẩm: bưởi Phúc Trạch, cam Xã Đoài,
lạc, cà phê Hướng Hóa, tiêu Tân Lâm…).
2. Giải pháp về đầu tư thâm canh, tăng
năng suất cây trồng, vật nuôi
Trồng trọt
Nghiên cứu chọn tạo giống và công nghệ
sản xuất giống cây trồng có năng suất cao và
chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường
trong nước và xuất khẩu, chống chịu điều
kiện bất lợi (hạn, mặn, ngập, nóng, lạnh…),
tập trung vào các cây trồng có lợi thế cạnh
tranh: lúa gạo, cây trồng có tiềm năng phát
triển: hồ tiêu, cà phê, chè; các cây trồng thay
thế nhập khẩu: ngô, đậu tương, mía đường.
Nghiên cứu đồng bộ các biện pháp kỹ
thuật thâm canh tăng năng suất các loại cây
trồng mới được chọn tạo ở từng vùng sinh
thái, ưu tiên nghiên cứu các biện pháp tiết
kiệm đầu vào, tăng hiệu quả, thân thiện môi
trường và bền vững. Nghiên cứu các biện
pháp bảo vệ, chống xói mòn, tăng hiệu quả
sử dụng đất, trước hết là đất trồng cây lương
thực, cây công nghiệp và đất rừng trồng.
Chăn nuôi
Đối với lợn, nghiên cứu lai tạo các dòng
lợn mới có năng suất và chất lượng thịt cao,
nghiên cứu xác định các tổ hợp đực lai cuối
cùng để tạo con lai thương phẩm; đánh giá
tiềm năng sinh học của các giống lợn nội,
giống đặc sản.
Đối với gà, nghiên cứu chọn tạo bộ giống
gà công nghiệp chuyên thịt, chuyên trứng,
các dòng gà lông màu chất lượng cao; chọn
lọc, phục tráng các dòng gà đặc sản có nhu
cầu của thị trường.
Đối với bò thịt, bò sữa, nghiên cứu lai tạo,
chọn lọc nâng cao năng suất, chất lượng
giống phù hợp với từng vùng sinh thái và điều
kiện chăn nuôi. Đối với các giống bò khác,
kết hợp chọn lọc giống nhập nội, lai tạo giống
mới, chọn lọc nhân thuần giống địa phương.
Thủy sản
* Nuôi trồng thủy sản
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 13
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
- Nghiên cứu chọn tạo giống các loài chủ
lực của vùng (tôm sú, tôm thẻ chân trắng,
nghêu, cá rô phi, cá giò, cá chẽm, sá song,
hàu, tu hài) và hoàn thiện qui trình sản xuất
giống tôm thẻ chân trắng, tôm sú, rô phi,
nghêu, cá biển sạch ...
- Nghiên cứu quy trình công nghệ tiên tiến
nuôi thâm canh, công nghiệp các loài chủ
lực, chú trọng tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá
rô phi, nghêu, cá giò, cá chẽm, cá song hiệu
quả, bền vững và đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm.
* Khai thác, nguồn lợi và công nghệ sau
thu hoạch
- Nghiên cứu vật liệu thay thế gỗ để đóng
tàu cá và thiết kế các mẫu tàu cá hoạt động
hiệu quả, an toàn ở vùng biển xa bờ; thiết kế
và chế tạo hệ thống thiết bị, máy móc phục
vụ có khí hóa và tự động hóa các thao tác
khai thác hải sản;
- Nghiên cứu các giải pháp hiện đại hóa
tàu cá, tổ chức sản xuất và phát triển chuỗi
giá trị các nghề khai thác hải sản xa bờ; và
nghiên cứu hệ thống thiết bị và đề xuất các
giải pháp giảm thất thoát sau thu hoạch các
sản phẩm trên tàu cá xa bờ.
Lâm nghiệp
* Quản lý và quy hoạch đất lâm nghiệp
Cần xây dựng quy hoạch tổng thể và chi tiết
phân định rõ ràng, chính xác ranh giới giữa các
loại rừng để sử dụng có hiệu quả cao nhất.
Khẩn trương hoàn thành quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng đến năm
2020 từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã để làm
căn cứ triển khai thực hiện.
Tăng cường rà soát và đẩy mạnh giao, cho
thuê rừng cho các tổ chức, cộng đồng dân cư,
hộ gia đình, cá nhân, đảm bảo tất cả diện tích
rừng có chủ quản lý cụ thể.
* Đối với rừng và đất rừng tự nhiên
Cần phải ổn định quy hoạch, có kế hoạch
chuyển hóa rừng nghèo và nương rẫy thành
rừng sản xuất có giá trị lớn hơn.
* Đối với rừng trồng
Rừng trồng chuyển đổi sang hướng kinh
doanh gỗ lớn, việc trồng rừng phải được tổ
chức thâm canh cao, sử dụng cây gỗ lớn mọc
nhanh hoặc cây bản địa mọc nhanh.
* Đối với rừng ngập mặn
Cần có sự thống nhất về tổ chức quản lý
rừng ngập mặn tại các tỉnh để tăng hiệu quả
của công tác quản lý, bảo vệ và là đầu mối
tiếp nhận, triển khai các dự án đầu tư cho
rừng ngập mặn.
* Đối với rừng phòng hộ trên cát
Đối với vùng cát bay, cát nhảy cần tiếp
tục tiến hành trồng rừng phòng hộ cố định
cát, cải tạo đất và nước ngầm.
Đối với vùng cát nội đồng, ngoài những
thành công trong việc trồng rừng (như đối
với loài keo lá liềm…) cần tiếp tục nghiên
cứu thêm một số loài cây khác. Tiếp tục cải
tạo những diện tích rừng trên cát có chất
lượng thấp, chưa hiệu quả bằng việc trồng bổ
sung thêm các loài cây có giá trị phòng hộ và
giá trị kinh tế cao hơn.
Tiếp tục xây dựng quy hoạch chi tiết phân
cấp rừng phòng hộ cho vùng đất cát (rất xung
yếu, xung yếu, ít xung yếu) để có kế hoạch
trồng rừng mới, cảo tạo và quản lý hiệu quả.
BBT
(Lược trích tham luận “Đặc điểm, tiềm năng,
lợi thế liên quan đến sản xuất nông nghiệp và
phát triển nông thôn của vùng Bắc Trung Bộ”
của Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng)
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 14
ISO là tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa
(The International Organization for
Standardization). ISO được thành lập năm
1947, trụ sở tại Geneva, áp dụng hơn 150
nước. Việt Nam là thành viên chính thức từ
năm 1977 và hiện nay đã được bầu vào ban
chấp hành ISO.
ISO 9001 là tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống
quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn hóa
quốc tế (ISO) ban
hành, có thể áp dụng
trong mọi lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh, dịch
vụ và cho mọi quy mô
hoạt động.
ISO 9001 đưa ra
các chuẩn mực cho hệ
thống quản lý chất
lượng, không phải là
tiêu chuẩn cho sản
phẩm. Việc áp dụng
ISO 9001 vào doanh
nghiệp đã tạo được
cách làm việc khoa
học, tạo ra sự nhất
quán trong công việc,
chuẩn hóa các quy trình hoạt động, loại bỏ
được nhiều thủ tục không cần thiết, rút ngắn
thời gian và giảm chi phí phát sinh do xảy ra
những sai lỗi hoặc sai sót trong công việc,
đồng thời làm cho năng lực trách nhiệm cũng
như ý thức của cán bộ công nhân viên nâng
lên rõ rệt.
ISO 9001:2008 là một tiêu chuẩn quy định
chuẩn mực cho một hệ thống quản lý khoa
HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG PHÙ HỢP TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN ISO 9001:2008
LTS: Ngày 28/8/2014, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ
công bố Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO
9001:2008. Theo đó, các lĩnh vực hoạt động của Sở KH&CN tỉnh Thừa Thiên Huế được
công bố bao gồm 26 quy trình thuộc lĩnh vực thực hiện thủ tục hành chính và 24 quy trình
thuộc các lĩnh vực nội bộ, phục vụ cho công tác quản lý và điều hành.
Nhân sự kiện này, Bản tin Khoa học và Công nghệ xin chia sẻ một vài nội dung liên
quan đến ISO 9001:2008 cũng như những thông tin quan trọng để bạn đọc hiểu rõ hơn về
hệ thống quản lý chất lượng này.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 15
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
học, chặc chẽ đã được quốc tế công nhận,
ISO 9001:2008 dành cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp, từ doanh nghiệp rất lớn như
các tập đoàn đa quốc gia đến những doanh
nghiệp rất nhỏ với nhân sự nhỏ hơn 10
người. Một doanh nghiệp muốn liên tục tăng
trưởng, đạt được lợi nhuận cao và liên tục
duy trì tỷ suất lợi nhuận cao, doanh nghiệp
đó nhất định phải có một hệ thống quản lý
khoa học chặc chẽ như ISO 9001:2008 để sử
dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực hiện có.
Tổ chức cần xây dựng Hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 là
tổ chức muốn khẳng định khả năng cung cấp
các sản phẩm một cách ổn định đáp ứng các
yêu cầu khách hàng và các yêu cầu chế định
thích hợp. Tổ chức muốn nâng cao sự thoả
mãn của khách hàng. Tổ chức cần cải tiến
liên tục kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm đạt được các mục tiêu. Tăng lợi
nhuận, tăng sản phẩm và giảm sản phẩm hư
hỏng, giảm lãng phí.
Các yêu cầu cần kiểm soát của tiêu chuẩn
ISO 9001:2008:
- Kiểm soát tài liệu và kiểm soát hồ sơ:
Kiểm soát hệ thống tài liệu nội bộ, tài liệu
bên ngoài, và dữ liệu của công ty
- Trách nhiệm của lãnh đạo: Cam kết của
lãnh đạo; Định hướng khách hàng; Thiết lập
chính sách chất lượng, và mục tiêu chất
lượng cho các phòng ban; Xác định trách
nhiệm quyền hạn cho từng chức danh; Thiết
lập hệ thống trao đổi thông tin nội bộ; Tiến
hành xem xét của lãnh đạo;
- Quản lý nguồn lực: Cung cấp nguồn
lực; Tuyển dụng; Đào tạo; Cơ sở hạ tầng; Môi
trường làm việc;
- Tạo sản phẩm: Hoạch định sản phẩm;
Xác định các yêu cầu liên quan đến khách
hàng; Kiểm soát thiết kế; Kiểm soát mua
hàng; Kiểm soát sản xuất và cung cấp dịch
vụ; Kiểm soát thiết bị đo lường;
- Đo lường phân tích và cải tiến: Đo lường
sự thoả mãn của khách hàng; Đánh giá nội bộ;
Theo dõi và đo lường các quá trình; Theo dõi
và đo lường sản phẩm; Kiểm soát sản phẩm
không phù hợp; Phân tích dữ liệu; Hành động
khắc phục; Hành động phòng ngừa.
Tiêu chuẩn ISO 9001:2008 có tên gọi đầy
đủ là “các yêu cầu đối với hệ thống quản lý
chất lượng”. ISO 9001:2008 là tiêu chuẩn
ISO 9001 được ban hành lần thứ 4 vào năm
2008 và cũng là phiên bản mới nhất của tiêu
chuẩn ISO 9001.
ISO 9001 hiện nay được xem là một trong
những giải pháp căn bản nhất, là nền tản đầu
tiên để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý
doanh nghiệp. Chính vì vậy hầu hết các
doanh nghiệp khi muốn cải tổ bộ máy, nâng
cao năng lực cạnh tranh đều chọn áp dụng
ISO 9001:2008 cho doanh nghiệp mình rồi
sau đó lần lượt áp dụng các hệ thống tiên
tiến hơn như TQM (quản lý chất lượng
toàn diện), Lean production (sản xuất tinh
gọn), 6 sigma (triết lý cải tiến theo nguyên
lý 6 sigma),…
Tiêu chuẩn ISO 9001:2008 là quyển tiêu
chuẩn trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2008
(ISO 9000:2008 series). Doanh nghiệp muốn
triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2008
cần phải đọc và làm theo 2 quyển tiêu chuẩn
sau của bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2008:
- ISO 9000:2005 (tiêu chuẩn Việt Nam
tương đương: TCVN ISO 9000:2007) để có
thể hiểu ý nghĩa của những thuật ngữ dùng
trong tiêu chuẩn ISO 9001:2008. Tên của
tiêu chuẩn ISO 9000:2005 là “Cơ sở và từ
vựng của hệ thống quản lý chất lượng”.
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 16
- ISO 9001:2008 (tiêu chuẩn Việt Nam
tương đương: TCVN ISO 9001:2008) để biết
được những yêu cầu gì mà hệ thống quản lý
của Doanh nghiệp mình cần phải đáp ứng.
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả của hệ
thống quản lý chất lượng, doanh nghiệp có
thể nghiên cứu và vận dụng theo hướng dẫn
của tiêu chuẩn ISO 9004:2009.
Mục đích của tiêu chuẩn ISO 9001:2008:
Tiêu chuẩn ISO 9001:2008 quy định các yêu
cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng cho
tổ chức: Cần chứng tỏ khả năng cung cấp
một cách ổn định sản phẩm đáp ứng các yêu
cầu của khách hàng cũng như các yêu cầu
của luật định liên quan đến sản phẩm. Muốn
nâng cao sự thỏa mãn của khách hàng thông
qua việc áp dụng và duy trì hệ thống quản lý
chất lượng theo theo tiêu chuẩn ISO
9001:2008. Việc duy trì bao gồm việc cải
tiến liên tục hệ thống nhằm đảm bảo sự phù
hợp với các yêu cầu của khách hàng, yêu cầu
luật định liên quan đến sản phẩm.
8 nguyên tắc quản lý chất lượng là những
nguyên tắc cơ bản hình thành nên nội dung
của tiêu chuẩn ISO 9001. ISO 9001 là một
tiêu chuẩn được hình thành nhờ tích lũy kinh
nghiệm thực tiễn từ nhiều trường hợp thành
công lẫn thất bại của nhiều công ty trên toàn
thế giới. Qua nghiên cứu, các chuyên gia của
tổ chức ISO đã nhận thấy có 8 nguyên tắc
quản lý chất lượng cần được xem là nền tảng
để xây dựng nên chuẩn mực cho một hệ
thống quản lý chất lượng, đó là: Nguyên tắc
1: Định hướng vào khách hàng; Nguyên tắc
2: Trách nhiệm của lãnh đạo; Nguyên tắc 3:
Sự tham gia của mọi người; Nguyên tắc 4:
Tiếp cận theo quá trình; Nguyên tắc 5: Tiếp
cận theo hệ thống; Nguyên tắc 6: Cải tiến
liên tục; Nguyên tắc 7: Quyết dịnh dựa trên
sự kiện; Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng
có lợi với nhà cung ứng. 8 nguyên tắc quản
lý chất lượng này được nêu trong tiêu chuẩn
ISO 9000:2005 (TCVN 9000:2007) nhằm
giúp cho lãnh đạo của doanh nghiệp nắm
vững phần hồn của ISO 9001:2008 và sử
dụng để dẫn dắt doanh nghiệp đạt được
những kết quả cao hơn khi áp dụng ISO
9001:2008 cho doanh nghiệp của mình.
Triết lý về quản lý chất lượng:
- Hệ thống chất lượng quyết định chất
lượng sản phẩm, sản phẩm tạo ra là một quá
trình liên kết của tất cả các bộ phận, là quá
trình biến đầu vào thành đầu ra đến tay người
tiêu dùng, không chỉ có các thông số kỹ thuật
bên sản xuất mà còn là sự hiệu quả của bộ
phận khác như bộ phận hành chính, nhân sự,
tài chính.
- Làm đúng ngay từ đầu là chất lượng
nhất, tiết kiệm nhất. Chú trọng phòng ngừa
ngay từ ban đầu đảm bảo giảm thiểu sai hỏng
không đáng có, tiết kiệm thời gian, nhân
lực... Có các hoạt động điều chỉnh trong quá
trình hoạt động, đầu cuối của quá trình này là
đầu vào của quá trình kia.
- Làm đúng ngay từ đầu là biện pháp
phòng ngừa tốt nhất. Như đã nói ở trên, mỗi
thành viên có công việc khác nhau tạo thành
chuỗi móc xích liên kết với nhau, đầu ra của
người này là đầu vào của người kia.
- Quản trị theo quá trình và ra quyết đinh
dựa trên sự kiện, dữ liệu. Kết quả mong
muốn sẽ đạt được một cách có hiệu quả khi
các nguồn lực và các họat động có liên quan
được quản lý như một quá trình. Mọi quyết
định có hiệu lực được dựa trên việc phân tích
dữ liệu và thông tin.
Nội dung của tiêu chuẩn ISO 9001:2008:
Điều khoản 0: Giới thiệu. Điều khoản 1.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 17
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
Phạm vi áp dụng. Điều khoản 2. Tài liệu viện
dẫn. Điều khoản 3: Thuật ngữ và định nghĩa.
Điều khoản 4: Yêu cầu chung đối với hệ
thống quản lý chất lượng. Điều khoản 5:
Trách nhiệm lãnh đạo; Điều khoản 6: Quản
lý nguồn lực. Điều khoản 7: Tạo sản phẩm.
Điều khoản 8: Đo lường, phân tích, cải tiến.
Theo yêu cầu của tiêu chuẩn khi xây dựng
ISO 9001:2008, doanh nghiệp phải ban hành
và áp dụng tối thiểu các tài liệu sau: Chính
sách chất lượng; Mục tiêu chất lượng của
công ty và mục tiêu chất lượng của từng cấp
phòng ban chức năng; Sổ tay chất lượng;
Có 6 thủ tục (quy trình) cơ bản sau: kiểm
soát tài liệu; kiểm soát hồ sơ; đánh giá nội
bộ; kiểm soát sản phẩm không phù hợp; hành
động khắc phục; hành động phòng ngừa.
Thông thường có thể kết hợp thủ tục hành
động khắc và hành động phòng ngừa vào một
thủ tục là thủ tục hành động khắc phục và
phòng ngừa.
Ngoài ra, để chứng minh doanh nghiệp có
áp dụng và duy trì việc áp dụng ISO
9001:2008, doanh nghiệp phải lập và lưu giữ
tối thiểu các hồ sơ để cung cấp cho các tổ chức
chứng nhận cấp chứng nhận ISO 9001:2008.
Ngoài những thủ tục,
hồ sơ bắt buộc phải có
theo yêu cầu của tiêu
chuẩn ISO 9001:2008,
doanh nghiệp có thể xây
dựng thêm các thủ tục,
hướng dẫn công việc và
lập các hồ sơ cần thiết
nhằm đảm bảo hệ thống
quản lý có hiệu lực và
hiệu quả.
Tóm lại, hệ thống
quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9001:2008 không thể bảo
đảm rằng các quá trình và sản phẩm không
có lỗi. Nhưng chắc chắn rằng hệ thống này
tạo nên sức mạnh và sự tin cậy của tổ chức,
nhờ vào việc có được chính sách và mục tiêu
chất lượng rõ ràng, có sự quan tâm của Lãnh
đạo cao nhất thông qua việc xem xét định kỳ
về toàn bộ hệ thống. Xây dựng được cơ cấu
tổ chức và phân bổ nguồn lực hợp lý để thực
hiện từng công việc tăng khả năng đạt yêu
cầu mong muốn. Các quy trình làm việc rõ
ràng và nhất quán, đảm bảo mỗi công việc sẽ
được thực hiện thích hợp và khoa học. Một
hệ thống mà ở đó luôn có sự phản hồi, cải
tiến để các sai lỗi, sai sót ở tất cả các bộ phận
ngày càng ít đi và hạn chế không lặp lại sai
lỗi, sai sót với nguyên nhân cũ đã từng xảy
ra. Một cơ chế để có thể định kỳ đánh giá
toàn diện nhằm liên tục cải tiến toàn bộ hệ
thống. Xây dựng được một quá trình bảo đảm
mọi yêu cầu của khách hàng đều chắc chắn
đạt được trước khi chấp nhận yêu cầu của
khách hàng.
PV
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 18
Xác định nhiệm vụ trọng tâm trong xây
dựng nông thôn mới là tăng thu nhập cho
nông dân thì công tác khuyến nông đóng vai
trò quan trọng trong việc giúp cho các địa
phương xây dựng và thực hiện có hiệu quả các
dự án phát triển sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả…
nhằm giúp cho người dân nâng cao thu nhập,
giảm tỷ lệ hộ nghèo, sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm mang tính bền vững, ổn định, góp phần
quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến trình
thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới ở địa phương.
Trong 2 năm 2013, 2014,
huyện đã đầu tư kinh phí hơn
800 triệu đồng đưa vào khảo
nghiệm 8 mô hình như: Mô
hình trồng rau mùi sạch, mô
hình hành lá, mô hình giống
lạc mới, mô hình khảo nghiệm
lúa chất lượng cao RVT, mô
hình nuôi gà an toàn sinh học,
mô hình làm nấm rơm; mô hình
“cánh đồng mẫu lúa chất
lượng”. Các mô hình thuộc các
lĩnh vực sản xuất đã được khảo
sát, đánh giá đúng năng lực,
phù hợp với nhu cầu, điều kiện
đất đai, vị trí địa lý, có ưu thế
về tiềm năng, thế mạnh của từng xã. Trong
đó, phải kể đến các mô hình khảo nghiệm các
giống lúa chất lượng cao, nuôi gà sử dụng
đệm lót sinh học, mô hình sản xuất nấm rơm
và phân bón hữu cơ tại nông hộ... Sau khi đưa
vào thử nghiệm và mang được hiệu quả, các
hộ dân đã từng bước nhân rộng mô hình.
Cùng với các mô hình được triển khai từ
nguồn kinh phí của huyện, trong năm 2013,
huyện Quảng Điền cũng đã tranh thủ sự hỗ
trợ của các dự án để triển khai các mô hình
như: Phục tráng và mở rộng diện tích lúa địa
phương (gạo đỏ) tại HTX Nông nghiệp Tam
Giang. Ngoài ra, mô hình nhân giống lạc mới
CÔNG TÁC KHUYẾN NÔNG GÓP PHẦN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành, trong thời gian qua, Trạm Khuyến nông
lâm ngư (KNLN) huyện Quảng Điền đã đưa vào thực hiện các mô hình phát triển cây trồng,
vật nuôi trọng điểm của ngành như: Mô hình lúa xác nhận RVT, mô hình hành lá, mô hình
hầm khí sinh học biogas… Các mô hình này không những mang lại hiệu quả kinh tế cho
người sản xuất mà còn góp phần rất lớn trong thúc đẩy xây dựng nông thôn mới.
Quảng Điền chung tay xây dựng nông thôn mới
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 19
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
vụ hè thu tại Quảng Phú; mô hình nuôi trồng
nấm sò bằng nguyên liệu mùn cưa tại xã
Quảng Phú; mô hình nuôi thương phẩm cá
trắm đen ở xã Quảng Thọ cũng được triển
khai thực hiện. Kết quả không chỉ mang lại
thu nhập cao cho người dân, góp phần
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi mà
còn tạo nên sự đồng thuận giữa người dân và
chính quyền địa phương.
Bên cạnh nguồn kinh phí khuyến nông từ
ngân sách nhà nước, các địa phương còn
tranh thủ, thu hút kinh phí, nguồn lực trong
nhân dân để hoạt động đã góp phần tăng
cường năng lực, đổi mới phương thức hoạt
động khuyến nông các cấp, nhất là cơ sở.
Mỗi mô hình hoạt động khuyến nông nói
trên, kinh phí đầu tư của người nông dân
chiếm tỷ lệ trên 40%. Qua các lần đánh giá,
tổng kết các mô hình cho thấy, các mô hình
đều được triển khai đạt kết quả tốt, phù hợp
với điều kiện, tiềm năng, thế mạnh của từng
địa phương, nông dân được tập huấn, đào tạo
nghề và phát triển sản xuất theo hướng tổ,
nhóm hợp tác. Qua trao đổi với bà Trần Thị
Hồng Vân, Phó trưởng Trạm KNLN huyện
Quảng Điền được biết: “Hầu hết các mô
hình khuyến nông trên địa bàn huyện Quảng
Điền đều triển khai thực hiện có hiệu quả. Để
nâng cao hiệu quả các mô hình khuyến nông,
Trạm Khuyến Nông Lâm Ngư huyện đã phối
hợp các xã, thị trấn, các đơn vị chuyển giao
khoa học kỹ thuật cần xem xét điều kiện thực
tế ở cơ sở, đặc tính của từng loại cây trồng,
vật nuôi, nhờ vậy hiệu quả kinh tế trên đơn vị
diện tích canh tác mang lại khá cao và rất
triển vọng phát triển trên địa bàn huyện”.
Bên cạnh đó, thông qua nguồn vốn
khuyến nông, đã hỗ trợ người dân 150 triệu
xây dựng 20 hầm khí sinh học biogas. Tâm
sự với chúng tôi về những tác dụng của hầm
khi sinh học biogas mang lại trên địa bàn
huyện, bà Trần Thị Hồng Vân, cho biết thêm:
“Qua điều tra, khảo sát của xã và các cơ quan
chuyên môn cho thấy, nếu một gia đình có 5
người, khi sử dụng khí sinh học BIOGAS,
mỗi tháng sẽ tiết kiệm được trên 250 ngàn
đồng”. Đối với một huyện có thế mạnh chăn
nuôi như Quảng Điền, sử dụng hầm khí BIO-
GAS sẽ tạo điều kiện phát triển kinh tế cho
mỗi gia đình, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường… Có thể khẳng định, chương trình
tiết kiệm năng lượng, sử dụng hầm khí sinh
học xử lý chất thải chăn nuôi đã góp phần rất
lớn trong việc xử lý môi trường tại chỗ ở
nông thôn, hạn chế ô nhiễm không khí, giữ
gìn cảnh quan, tăng cường sự đoàn kết, gắn
bó trong cộng đồng đân cư, cải thiện chất
lượng cuộc sống, giảm thiểu áp lực đối với
phụ nữ ở nông thôn...Mặt khác, chương trình
cũng đã góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát
triển, mở rộng quy mô, hạn chế dịch bệnh gia
súc, gia cầm, đồng thời tiết kiệm chi phí chất
đốt trong sinh hoạt và thay thế một phần
nguồn điện thắp sáng.
Với tinh thần chủ động, tích cực đồng
hành cùng phong trào xây dựng nông thôn
mới, Trạm Khuyến nông lâm ngư huyện đã
và đang phối hợp với các cấp, các ngành, các
địa phương và bà con nông dân tập trung mọi
nguồn lực, trí tuệ và quyết tâm đẩy mạnh
phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo
hướng nâng cao năng suất, sản lượng, giá trị
thu nhập cho bà con nông dân, làm nền tảng
vững chắc cho việc hiện thực các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới như kế hoạch của huyện
đã đề ra..
Công Cường
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 20
BỐ TRÍ TỐI ĐA KINH PHÍ CHO CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP QUỐC GIA
Thủ tướng Chính phủ vừa có chỉ
đạo yêu cầu Bộ Tài chính bố trí tối đa
kinh phí cho Chương trình khoa học và
công nghệ (KH&CN) cấp quốc gia.
Để đảm bảo phù hợp với khả năng cân
đối của ngân sách nhà nước trong năm
2015, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ
Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ:
Kế hoạch và Đầu tư, KH&CN dự kiến
kinh phí cho năm 2015 ở mức tối đa
phù hợp với khả năng cân đối của ngân
sách nhà nước để hoàn thành ở mức
cao nhất Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn 2011-2015. Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu việc phối hợp xây dựng dự toán ngân sách cho KH&CN hàng năm phải thực hiện theo
quy định tại Luật Ngân sách nhà nước, Luật KH&CN và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
Theo quy định hiện hành, Chương trình KH&CN cấp quốc gia phải có mục tiêu, nội dung và
sản phẩm dự kiến phù hợp với khung chương trình, góp phần giải quyết những vấn đề
KH&CN ở tầm quốc gia, liên ngành và liên vùng; không trùng lặp về nội dung với các nhiệm
vụ KH&CN đã và đang thực hiện; có khả năng huy động nguồn lực từ các tổ chức
KH&CN, doanh nghiệp, các nhà khoa học trong nước và nước ngoài tham gia thực hiện; Tác
động đến sự phát triển của ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế; thời gian thực hiện đề tài, dự án phù
hợp với yêu cầu của chương trình. Trường hợp đặc biệt do Bộ trưởng Bộ KH&CN quyết định.
Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở một trong các yêu cầu sau: Đưa ra luận cứ khoa học
cho việc giải quyết vấn đề thực tiễn trong hoạch định và thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, pháp luật của nhà nước; Tạo ra công nghệ mới, sản
phẩm mới có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và an sinh xã hội, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực hoặc quốc tế; Có giá trị ứng
dụng cao, tạo sự chuyển biến về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Yêu cầu đối với dự án: Kết
quả nghiên cứu của đề tài KH&CN đã được hội đồng KH&CN đánh giá, nghiệm thu và kiến
nghị triển khai áp dụng; Kết quả khai thác sáng chế; sản phẩm KH&CN khác. Công nghệ
hoặc sản phẩm tạo ra có tính mới, tính tiên tiến so với công nghệ hiện có ở Việt Nam, có khả
năng thay thế nhập khẩu; Có khả năng huy động được nguồn kinh phí ngoài ngân sách để thực
hiện và có địa chỉ ứng dụng sản phẩm; Sản phẩm của dự án có khả năng áp dụng rộng rãi để
tạo ngành nghề mới, tăng thêm việc làm và thu nhập cho cộng đồng.
PV (Nguồn: Báo Giáo dục và thời đại)
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 21
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
Đó là Quy định của Thông tư số 22/2014/
TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ
vừa ban hành ngày 25/8/2014 và có hiệu lực
kể từ ngày 01/11/2014.
Thông tư này quy định nguyên tắc và yêu
cầu đối với quản lý chất thải phóng xạ và
nguồn phóng xạ đã qua sử dụng, trách nhiệm
của tổ chức cá nhân liên quan trong quản lý
chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua
sử dụng, trừ các nội dung sau đây: Quản lý
nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; Quản lý
chất thải chứa các nhân phóng xạ có nguồn
gốc tự nhiên (chất thải NORM) phát sinh từ
các hoạt động khai thác, chế biến quặng,
khoáng sản và khai thác dầu khí; Chôn cất
chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua
sử dụng. Thông tư này được áp dụng đối với
các tổ chức, cá nhân có các hoạt động tại
Việt Nam liên quan tới việc phát sinh chất
thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử
dụng và tiến hành các hoạt động liên quan
trong quản lý chất thải phóng xạ, nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng.
Chất thải phóng xạ phải được quản lý bảo
đảm an toàn cho con người và môi trường kể
từ khi phát sinh cho đến khi được phép thải
bỏ như chất thải không nguy hại hoặc chôn
cất hoặc tái chế đối với vật thể nhiễm bẩn
phóng xạ là kim loại. Nguồn phóng xạ đã qua
sử dụng phải được quản lý bảo đảm an toàn
cho con người và môi trường cho đến khi
được chuyển trả cho nhà sản xuất, nhà cung
cấp nước ngoài hoặc chôn cất. Chất thải
phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng
phải được quản lý chặt chẽ để bảo đảm
không gây hại cho con người và môi trường
cả ở hiện tại và tương lai, bảo đảm sao cho
tổng liều bức xạ đối với nhân viên bức xạ và
công chúng không vượt quá giá trị giới hạn
liều quy định. Nguồn phóng xạ đã qua sử
dụng phải được trả lại cho nhà sản xuất hoặc
nhà cung cấp nước ngoài trong trường hợp
nhà sản xuất, nhà cung cấp có chính sách
nhận lại nguồn phóng xạ đã qua sử dụng.
Việc quản lý chất thải phóng xạ trong thành
phần còn chứa các chất nguy hại không
phóng xạ, ngoài việc phải tuân thủ các quy
định của Thông tư này, phải tuân thủ các quy
định pháp luật khác liên quan đến quản lý
chất thải nguy hại. Chất thải có chứa các
nhân phóng xạ phát sinh trong một công việc
bức xạ có thể được phép thải trực tiếp vào
môi trường với điều kiện nồng độ hoạt độ
phóng xạ trong chất thải không lớn hơn mức
thanh lý hoặc tổng hoạt độ các nhân phóng
xạ trong thành phần chất thải dạng khí, dạng
lỏng không vượt quá mức hoạt độ phóng xạ
cho phép để được thải vào môi trường do cơ
quan quản lý nhà nước quy định và phải
được cho phép theo giấy phép tiến hành công
việc bức xạ.
Vật thể nhiễm bẩn phóng xạ là kim loại
sắt, đồng, chì, nhôm (sau đây gọi là kim loại
nhiễm bẩn phóng xạ) và sản phẩm nấu chảy
trực tiếp từ các kim loại này có thể được sử
dụng cho tái chế nếu nồng độ hoạt độ các
nhân phóng xạ có trong kim loại và mức
nhiễm bẩn phóng xạ bề mặt của kim loại nhỏ
hơn hoặc bằng mức cho phép tái chế quy
định. Cấm bổ sung thêm các thành phần
không chứa chất phóng xạ vào chất thải
phóng xạ nhằm mục đích giảm nồng độ hoạt
QUẢN LÝ CHẤT THẢI PHÓNG XẠ VÀ NGUỒN PHÓNG XẠ ĐÃ QUA SỬ DỤNG
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 22
độ phóng xạ trong chất thải phóng xạ để đạt
được tiêu chuẩn cho phép thải ra môi trường
hoặc tiêu chuẩn cho phép tái chế.
Chất thải phóng xạ dạng rắn phải được thu
gom, phân tách khỏi chất thải không phóng xạ
và phân loại dựa trên chu kỳ bán rã của các
nhân phóng xạ, hoạt độ phóng xạ có trong chất
thải và đặc tính hóa lý của chất thải (đốt được,
nén được, kim loại hay chất thải sinh học) .
Chất thải phóng xạ dạng lỏng phải được thu
gom tách khỏi nước thải không phóng xạ vào
các bể chứa hoặc các bình đựng.
Chất thải dạng khí có chứa các nhân
phóng xạ phát sinh từ nhà máy điện hạt nhân,
cơ sở lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu được
xử lý loại bỏ các thành phần phóng xạ bảo
đảm sao cho liều bức xạ đối với công chúng
do phát thải khí và nước thải ra môi trường từ
mỗi cơ sở không vượt quá 100µSv/năm. Phát
thải khí ra môi trường từ các cơ sở này phải
được cho phép theo giấy phép tiến hành công
việc bức xạ và lượng khí thải phát thải ra môi
trường, hoạt độ phóng xạ trong khí thải phải
được đo kiểm tra, lập thành hồ sơ. Chất thải
phóng xạ dạng rắn thuộc loại mức thấp, sống
rất ngắn được lưu giữ tại cơ sở để phân rã
đến mức nồng độ hoạt độ nhỏ hơn hoặc bằng
mức thanh lý theo quy định. Nước thải
phóng xạ từ các cơ sở y tế, công
nghiệp và nghiên cứu có sử dụng chất
phóng xạ được lưu giữ tại cơ sở để
chờ phân rã hoặc được xử lý loại bỏ
thành phần phóng xạ để bảo đảm sao
cho lượng nhân phóng xạ trong nước
thải khi thải ra môi trường không vượt
quá mức cho phép. Nước thải phóng
xạ từ nhà máy điện hạt nhân, lò phản
ứng hạt nhân nghiên cứu được xử lý
loại bỏ các thành phần phóng xạ bảo
đảm để nước thải từ mỗi cơ sở ra môi trường
tuân thủ quy định về liều bức xạ công chúng.
Chất thải phóng xạ dạng rắn sau khi xử lý
phải được điều kiện hóa để tạo thành kiện
chất thải phóng xạ điều kiện hóa và nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng phải được điều kiện
hóa tạo thành khối điều kiện hóa nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng hoặc lưu giữ trong
contenơ chứa nguồn để thuận tiện cho quá
trình vận chuyển, lưu giữ lâu dài, hạn chế
đến mức thấp nhất sự rò rỉ chất phóng xạ ra
môi trường và giảm mức độ gây nguy hiểm
đối với con người. Chất thải phóng xạ thuộc
các loại khác nhau phải được điều kiện hóa
thành khối điều kiện hóa riêng biệt...
Ngoài ra, Thông tư cũng đã quy định việc
lưu giữ chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã
qua sử dụng; Cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ;
Hồ sơ quản lý chất thải phóng xạ, nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng. Trách nhiệm của
chủ nguồn chất thải phóng xạ, của chủ nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng, của tổ chức, cá nhân
vận chuyển chất thải phóng xạ, nguồn phóng
xạ đã qua sử dụng, của chủ cơ sở lưu giữ chất
thải phóng xạ, của cơ quan quản lý nhà nước
về an toàn bức xạ và hạt nhân...
Nguyễn Khoa
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 23
CHÍNH SÁCH VÀ QUẢN LÝ
Ngày 15/8/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45/2014/QĐ-
TTg về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp đối với người làm việc trong các đơn vị thuộc
lĩnh vực năng lượng nguyên tử của bộ Khoa học và Công nghệ, cụ thể là những người
hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc tại Cục Năng lượng nguyên tử, Cục An
toàn bức xạ và hạt nhân, Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Mức phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp được tính trên mức lương theo ngạch, bậc hiện
hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) gồm các
mức sau đây: (1) Mức phụ cấp 70% áp dụng đối với người làm việc trực tiếp, thường
xuyên tiếp xúc với nguồn bức xạ. (2) Mức phụ cấp 50% áp dụng đối với người làm việc
hành chính, phục vụ trực tiếp tại các cơ sở mà có nguy cơ nhiễm xạ. (3) Mức phụ cấp
40% áp dụng đối với người làm việc gián tiếp, không thường xuyên tiếp xúc với nguồn
bức xạ. (4) Mức phụ cấp 20% áp dụng với người làm việc hành chính, phục vụ không
thuộc đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều này.
Thời gian không được tính hưởng phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp của người làm việc
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đối với người đi công tác, làm việc, học tập ở nước
ngoài hưởng 40% tiền lương theo quy định tại Khoản 4 Điều 8 Nghị định số 204/2004/
NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang. Đi công tác, học tập trong nước không trực tiếp làm các
công việc được phân công thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử liên tục từ 06 tháng trở
lên. Nghỉ việc riêng không hưởng lương liên tục từ 03 tháng trở lên, trừ trường hợp nghỉ
để chữa bệnh. Nghỉ việc hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội (tính tròn tháng). Bị tạm giữ, tạm giam theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền hoặc thời gian bị đình chỉ công tác (tính tròn tháng). Đi công tác, làm các
công việc khác không thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử liên tục từ 06 tháng trở lên
theo quyết định điều động của cơ quan có thẩm quyền.
Kinh phí thực hiện chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp quy định tại Quyết định này
được bảo đảm bằng nguồn ngân sách nhà nước bố trí trong dự toán chi thường xuyên
hàng năm của Bộ Khoa học và Công nghệ theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và
các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2014.
Nguyễn Khoa
PHỤ CẤP ƯU ĐÃI NGHỀ NGHIỆP ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM VIỆC TRONG CÁC ĐƠN VỊ
THUỘC LĨNH VỰC NGUYÊN TỬ
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 24
Thành tựu chung
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế là 6 tỉnh ven biển thuộc vùng
Bắc Trung Bộ được đánh giá là vùng có nền kinh tế giàu
tiềm năng, đang trên đà phát triển năng động, với 5 khu
kinh tế và cảng biển đang phát triển trên các lĩnh vực nổi
bật như hóa dầu, công nghệ cao, khai thác, chế biến
khoáng sản. Thời gian qua, với chức năng và nhiệm vụ
được giao, một số tỉnh trong vùng như Quảng Trị, Quảng
Bình, Nghệ An đã có những đề xuất về cơ chế hỗ trợ,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức,
cá nhân, doanh nghiệp tham gia nghiên cứu khoa học và
ứng dụng công nghệ mới vào thực tiễn. Qua đó tạo môi
trường và điều kiện để phát huy tiềm lực KH&CN trên
địa bàn, nâng cao năng lực nội sinh, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa-
hiện đại hóa của từng tỉnh, của vùng và của đất nước.
Công tác đầu tư tài chính cho hoạt động KH&CN của
các tỉnh đã được chú trọng đầu tư (tăng bình quân từ 8-
14%/năm). Hướng đầu tư đã tập trung vào các mục tiêu
chiến lược phát triển KH&CN quốc gia và vùng; phục vụ
việc nâng cao năng lực và hiệu quả trong quản lý nhà
nước về KH&CN. Cơ cấu đầu tư đang dịch chuyển dần
cân đối giữa vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà
nước và vốn huy động từ xã hội; việc phân bổ vốn đảm
bảo 60-65% cho nghiên cứu ứng dụng và triển khai sản
xuất thử nghiệm, điều tra cơ bản, KH&CN và khoa học
xã hội, nhân văn, khoa học quản lý.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ đã được thực hiện theo đặt hàng nhằm giải quyết
các vấn đề xuất phát từ nhu cầu thực tế, 65% các nhiệm
vụ KH&CN đã tập trung vào chuyển giao, ứng dụng
công nghệ. Các quy trình quản lý nhiệm vụ KH&CN đã
Tháng 8 vừa qua, tỉnh Thừa
Thiên Huế đã tổ chức Hội nghị
giao ban Khoa học và Công
nghệ (KH&CN) các tỉnh vùng
Bắc Trung Bộ lần thứ XI. Tại
hội nghị này, nhiều ý kiến tâm
huyết xung quanh việc làm thế
nào để hoạt động KH&CN các
tỉnh vùng Bắc Trung Bộ phát
triển một cách toàn diện, hay
như cần giải quyết những
vướng mắc trong việc thực hiện
các đề tài, dự án; trong việc lựa
chọn và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN để phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội... đã được các đại biểu tham
gia thảo luận. Bài viết này đánh
giá lại những kết quả đạt được
cũng như những nỗ lực của các
địa phương trong hoạt động
KH&CN để phát huy hiệu quả
và thế mạnh của Vùng trong
thời gian tiếp theo.
NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
THEO ĐẶC THÙ CỦA TỪNG ĐỊA PHƯƠNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 25
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
được thực hiện theo Hệ thống quản lý tiêu
chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008 và quy định
về đơn giản hóa thủ tục hành chính nên đã rút
ngắn thời gian thẩm định, hợp đồng và cấp
kinh phí. Nhiệm vụ được triển khai với sự
phối hợp giữa Sở KH&CN tỉnh và các sở,
ban, ngành ở địa phương; các tổ chức
KH&CN; các trường đại học, viện nghiên
cứu và các đơn vị ứng dụng ngày càng quan
tâm chặt chẽ, nhưng chưa có các nhiệm vụ
phối hợp giữa các sở trong vùng.
Kết quả, trong 2 năm qua cấp quốc gia có
18 nhiệm vụ KH&CN được thực hiện thuộc
các chương trình Nông thôn miền núi; chương
trình 68, cấp thiết mới phát sinh tại địa phương.
Cấp tỉnh có 463 nhiệm vụ được thực hiện, bao
gồm: lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 105
nhiệm vụ, (chiếm 22,7%); lĩnh vực khoa học tự
nhiên có 17 nhiệm vụ (chiếm 3,7 %); lĩnh vực
khoa học kỹ thuật và công nghệ có 110 nhiệm
vụ (chiếm 23,8%); lĩnh vực y tế-giáo dục có 47
nhiệm vụ (chiếm 10,1%); lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản có 172 nhiệm vụ
(chiếm 37,1%) các lĩnh vực khác là 12 nhiệm
vụ (chiếm 2,6%).
Có thể kể đến
một số kết quả điển
hình như ứng dụng
hệ thống chụp mạch
kỹ thuật số trong
chẩn đoán và điều trị
bệnh động mạch
vành tại Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Thanh
Hóa; Nghiên cứu các
mô hình bệnh tật
nhằm nâng cao sức
khỏe cho trẻ em
dưới 16 tuổi; Ứng
dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình sinh
sản giống nhân tạo và nuôi thương phẩm cá
Vược tại Nghệ An; Nghiên cứu rút ngắn thời
gian chế biến nước mắm bằng hệ thống cấp
nhiệt sử dụng năng lượng mặt trời, Ứng dụng
chế phẩm HATIMIC sản xuất phân ủ hữu cơ
vi sinh từ phế phụ phẩm nông nghiệp và chất
thải hữu cơ tỉnh Hà Tĩnh; Nghiên cứu, điều
tra, xác định thực trạng các loại sâu, bệnh hại
chủ yếu trên cây cao su tại Quảng Bình và đề
xuất biện pháp phòng trừ tổng hợp; Xây
dựng mô hình trồng cỏ nuôi bò lai Sind ở
thôn Bắc Bình xã Cam Tuyền tỉnh Quảng
Trị; Nghiên cứu giá trị của các kỹ thuật nội
soi tiêu hóa can thiệp mới trong chẩn đoán và
điều trị các bệnh lý tiêu hóa Trường Đại học
Y Dược Huế...
Tại hội nghị, Vụ Phát triển KH&CN địa
phương cũng đã cho biết, trong giai đoạn
2012-2014 hoạt động KH&CN các tỉnh đạt
được kết quả: Thực hiện chức năng tham
mưu, Sở KH&CN các tỉnh đã tham mưu cho
Tỉnh ủy, UBND ban hành 115 văn bản cụ thể
hóa các văn bản của trung ương nhằm nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 26
KH&CN theo đặc thù địa phương; Công tác
quản lý nhà nước về KH&CN được các tỉnh
trong vùng triển khai luôn đạt và vượt chỉ tiêu
kế hoạch (3 tỉnh vượt 120% là Nghệ An, Hà
Tĩnh và Quảng Bình). Nguồn nhân lực
KH&CN trong vùng đã có bước phát triển
mạnh đạt tỷ lệ 10 cán bộ KH&CN/vạn dân.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ đã có 481 nhiệm vụ KH&CN được
thực hiện, trong đó 65% các nhiệm vụ
KH&CN tập trung vào chuyển giao, ứng dụng
công nghệ. Số lượng các kết quả nghiên cứu,
các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng và triển khai
nhân rộng được tăng lên rõ rệt (đạt khoảng 50-
70% trên tổng số kết quả nghiên cứu ứng dụng
theo các lĩnh vực nghiên cứu).
Đối với hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất
lượng, 217.989 phương tiện đo lường đã được
kiểm định; 334 sản phẩm được công bố tiêu
chuẩn; 47.547 mẫu sản phẩm hàng hóa được
thử nghiệm nhằm phục vụ công tác quản lý nhà
nước; 248 cơ quan hành chính nhà nước đã
triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008…
Về hoạt động sở hữu trí tuệ, toàn vùng
đã có 642 đơn đăng ký bảo hộ và 502 văn
bằng bảo hộ đã được cấp. Bên cạnh đó, các
tỉnh trong vùng đã triển khai thực hiện các
dự án xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, nhãn
hiệu tập thể cho các sản phẩm đặc sản, làng
nghề truyền thống nhằm nâng cao giá trị
kinh tế, góp phần phát triển thương hiệu,
gìn giữ, phát huy giá trị của các sản phẩm
đặc sản của làng nghề truyền thống trong
tiến trình hội nhập.
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, các sở đã
chú trọng đẩy mạnh hợp tác với Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, đồng thời kết nối với
12 đơn vị, trong đó có 3 doanh nghiệp
KH&CN tham gia triển khai kết quả
KH&CN… và còn một số kết quả nổi bật
khác trong hoạt động KH&CN tại các tỉnh
trong vùng.
Vướng mắc cần giải quyết
Có thể thấy rằng, thực hiện kế hoạch hoạt
động KH&CN hàng năm và kết luận giao
ban vùng lần thứ X tại Hà Tĩnh, với sự nỗ lực
của các Sở KH&CN, các tổ chức của Bộ
KH&CN được giao nhiệm vụ, 8 kết luận giao
ban đã được triển khai thực hiện trong đó
việc hỗ trợ các địa phương tham gia các
chương trình KH&CN cấp nhà nước do Bộ
KH&CN trực tiếp quản lý thực hiện được
38% do việc đặt hàng của địa phương chưa
sát, do nguồn kinh phí thuộc các chương
trình bị hạn chế. Tổ chức bộ máy và nguồn
nhân lực KH&CN của vùng được tăng
cường. Các Sở KH&CN được kiện toàn đầy
đủ bộ máy theo hướng dẫn, KH&CN cấp
huyện được quan tâm cả về kinh phí và cán
bộ. Số lượng các kết quả nghiên cứu, các tiến
bộ kỹ thuật được áp dụng và triển khai nhân
rộng được tăng lên rõ rệt đạt khoảng 50-70%
trên tổng số kết quả nghiên cứu ứng dụng theo
lĩnh vực nghiên cứu. Năng lực công nghệ của
một số lĩnh vực được đổi mới...
Song song đó cũng có thể đưa ra một vài
nguyên nhân tồn tại trong hoạt động KH&CN
mà tại Hội nghị giao ban KH&CN các tỉnh
Vùng Bắc Trung Bộ, các nhà quản lý, lãnh đạo
các địa phương đã thẳng thắn nhìn nhận để
có thể khắc phục trong thời gian tiếp theo.
Về hoạt động nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ, việc phân bổ kinh phí
sự nghiệp khoa học cho các nhiệm vụ
KH&CN vẫn gia tăng theo chiều rộng như
giai đoạn 2010-2012 nhưng chưa đầu tư
thành chuỗi giá trị cho sản phẩm chủ lực
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 27
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
của địa phương. Thiếu các nhiệm vụ có tính
liên tỉnh, liên vùng. Hệ thống cung cấp, trao
đổi thông tin giữa các tỉnh về danh mục, kết
quả các nhiệm vụ KH&CN vận hành chưa
tốt nên còn sự trùng lắp. Công tác xã hội
hóa hoạt động KH&CN thiếu các giải pháp
để đạt mục tiêu của chiến lược, nguồn kinh
phí ngoài ngân sách nhà nước còn khá thấp.
Hiện nay, một số địa phương đã có Quỹ
Phát triển KH&CN nhưng hoạt động còn
“dè dặt”. Quỹ Phát triển KH&CN của
doanh nghiệp chưa được thực hiện rộng.
Hoạt động nghiên cứu triển khai trong các
doanh nghiệp chưa được đẩy mạnh. Năng
lực công nghệ của các doanh nghiệp trong
địa phương chưa được đánh giá đều trong
các tỉnh. Số doanh nghiệp có đầu tư, đổi
mới công nghệ chưa đáp ứng mục tiêu chiến
lược. Sản phẩm chủ lực của vùng chưa
được liên kết, chưa được đầu tư một cách
thỏa đáng như công nghệ chế biến sâu
khoáng sản; công nghệ bảo quản chế biến
nông, lâm sản; phát triển bền vững cây
dược liệu…
Đồng cảm và tiếp thu những ý kiến về tồn
tại chung đó, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần
Quốc Khánh khẳng định, mặc dù còn khó
khăn và tồn tại, nhưng hoạt động KH&CN
trong Vùng đã đóng góp đáng kể cho phát
triển kinh tế-xã hội, trong đó đã đưa nhanh
các kỹ thuật tiến bộ vào trồng trọt, chăn nuôi
và nuôi trồng thủy sản cũng như ứng dụng
các dịch vụ KH&CN vào đời sống và bảo vệ
môi trường; nhiều mô hình hợp tác mới trong
phát triển kinh tế giữa các trường đại học và
địa phương, doanh nghiệp đã được hình
thành… Trong thời gian tới, hoạt động
KH&CN của các tỉnh Bắc Trung Bộ cần tập
trung triển khai thực hiện một cách đồng bộ.
Tiếp tục triển khai các hoạt động nghiên cứu,
ứng dụng công nghệ vào sản xuất, trong đó
cần tập trung vào tiềm năng, thế mạnh của
từng tỉnh và phải có tính liên kết vùng để
nâng cao tỷ lệ các đề tài/dự án được triển
khai và nhân rộng vào thực tế sản xuất, đời
sống, phục vụ tốt các nhiệm vụ, mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Tại hội nghị, các đại biểu cũng đã thảo luận,
đề xuất với Bộ KH&CN một số vấn đề như:
Làm việc với Bộ Tài chính nhằm đảm bảo các
địa phương thực hiện đúng việc bố trí dự toán
chi ngân sánh nhà nước cho lĩnh vực KH&CN
tỉnh đạt tối thiểu 2% chi ngân sánh nhà nước
của tỉnh, thành phố theo Thông tư số 83/2011/
TT-BTC ngày 16/6/2011của Bộ Tài chính
hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà
nước năm 2012. Cụ thể là tăng cường bố trí
nguồn vốn đầu tư tiềm lực cho ngành KH&CN
từ nguồn vốn đầu tư phát triển trung ương cân
đối qua ngân sách địa phương hàng năm của
tỉnh. Đề nghị Bộ KH&CN sớm ban hành các
Nghị định, Thông tư thực hiện Luật KH&CN
sửa đổi và hướng dẫn các địa phương triển khai
thực hiện, đặc biệt là thực hiện tài chính theo
cơ chế Quỹ, hướng dẫn thành lập Quỹ Phát
triển KH&CN trong các doanh nghiệp; hướng
dẫn về cơ chế đặt hàng thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN theo tinh thần của Luật KH&CN...
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách để
huy động các nguồn lực trong việc thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN, đặc biệt là các doanh
nghiệp ứng dụng đổi mới công nghệ.
Đối với hoạt động tiêu chuẩn đo lường
chất lượng, các Sở KH&CN các tỉnh Thanh
Hóa, Quảng Trị, Hà Tĩnh đề nghị Bộ
KH&CN tiếp tục quan tâm hơn nữa trong
việc hỗ trợ các đơn vị, các doanh nghiệp của
tỉnh tham gia các dự án thuộc các chương
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 28
trình cấp Bộ, cấp Nhà nước nhất là về lĩnh
vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng; tiếp tục
tạo điều kiện để các tổ chức KH&CN, các
doanh nghiệp của tỉnh được tham gia các
chương trình KH&CN cấp Quốc gia về nâng
cao năng suất, chất lượng, tạo điều kiện phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh...
Khai thác và phát huy lợi thế để thúc
đẩy và phát triển kinh tế-xã hội
Phát triển KH&CN tạo động lực quan
trọng nhất để nâng cao sức mạnh tổng hợp
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh của tỉnh. Để hoạt động
KH&CN các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai
đoạn tiếp theo phát huy hiệu quả, tiếp tục
tuyên truyền nâng cao nhận thức về quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát
triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa-hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, chính quyền về phát triển KH&CN
theo định hướng chỉ đạo của Bộ KH&CN
được đông các đại biểu quan tâm.
Trên cơ sở các quy định mới của Luật
KH&CN năm 2013 và văn bản hướng dẫn
Luật, các Sở KH&CN sẽ chủ động tham mưu
cho lãnh đạo tỉnh ban hành các cơ chế, chính
sách, giải pháp quản lý và thúc đẩy phát triển
KH&CN, nhất là giải pháp khuyến khích hỗ
trợ cho việc thành lập các doanh nghiệp và
phát triển doanh nhân công nghệ từ kết quả
nghiên cứu, doanh nghiệp đầu tư đổi mới
công nghệ... Lựa chọn và tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế đặt hàng
nhằm phục vụ trực tiếp các mục tiêu phát
triển phát triển kính tế-xã hội của từng địa
phương và ứng dụng các kết quả nghiên cứu
khoa học vào thực tiễn sản xuất, đời sống
thực hiện đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả
hàng năm báo cáo Bộ KH&CN. Các tỉnh cần
khai thác và phát huy lợi thế để đẩy nhanh
quá trình nghiên cứu ứng dụng vào mở rộng
sản xuất. Nâng cao năng lực tiếp thu từng
bước đổi mới và làm chủ công nghệ trong
các ngành, các lĩnh vực. Tiếp thu có chọn lọc
để ứng dụng công nghệ cao vào một số lĩnh
vực tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị, chất
lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước, tham gia xuất khẩu.
Thực hiện đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ
chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH&CN; thể
chế hóa các quy định về đổi mới cơ chế quản
lý tài chính theo hướng tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, tạo động lực để các thành
phần kinh tế đổi mới, nâng cao trình độ công
nghệ trong sản xuất, kinh doanh; các tổ chức
sự nghiệp KH&CN hoạt động theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm. Đổi mới cơ chế xây
dựng kế hoạch và dự toán ngân sách đối với
hoạt động KH&CN phù hợp với đặc thù của
lĩnh vực KH&CN và nhu cầu phát triển của
địa phương; bảo đảm đồng bộ, gắn kết giữa
định hướng phát triển dài hạn, chương trình
phát triển trung hạn với kế hoạch nghiên cứu,
ứng dụng KH&CN hàng năm. Thực hiện cơ
chế đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH&CN và
cơ chế khoán kinh phí. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát; hình thành cơ chế đánh
giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã
hội đối với các hoạt động KH&CN.
Kết thúc Hội nghị, Thứ trưởng Trần Quốc
Khánh đã nhấn mạnh, để hoạt động KH&CN
các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ ngày càng phát
triển thì cần tập trung tổng kết các công trình
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ,
cung cấp luận cứ khoa học và cơ sở thực tiễn
phục vụ công tác xây dựng văn kiện đại hội
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 29
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đảng các cấp nhiệm kỳ 2016-2020; cung cấp
căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá chủ lực của tỉnh, của vùng. Phát triển
mạnh các loại hình dịch vụ và thị trường
KH&CN. Đẩy nhanh việc ứng dụng chuyển
giao và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp;
hỗ trợ việc trao đổi, kết nối cung cầu công
nghệ; tích cực hỗ trợ việc hợp đồng chuyển
giao công nghệ... Mở rộng liên kết và tăng
cường hợp tác về KH&CN liên tỉnh, liên
vùng và mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế
về KH&CN. Tăng cường công tác quản lý về
đảm bảo thực thi sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn
chất lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên
thị trường, công tác an toàn bức xạ hạt nhân,
thông tin, thống kê về KH&CN, quản lý công
nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
trong các cơ quan hành chính...
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin đưa
ra ý kiến của PGS, TS Phạm Việt Cường,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học
miền Trung để chúng ta
có cái nhìn tổng quát hơn
về hoạt động KH&CN
của các tỉnh vùng Bắc
Trung Bộ cũng như
những định hướng cho
thời gian tiếp theo: “Bắc
Trung Bộ có tài nguyên
thiên nhiên phong phú và
đa dạng, gồm đầy đủ tất
cả các tài nguyên cần
thiết cho phát triển kinh
tế-xã hội. Vùng có lợi thế
về cả tài nguyên trên đất
liền và tài nguyên biển,
đặc biệt là vùng Cửa
Vịnh, tạo tiền đề khai thác các tài nguyên
phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã
hội của vùng. Trong xu hướng phát triển về
ứng dụng KH&CN trên thế giới, các tài
nguyên này ngày càng có nhiều ứng dụng và
tiềm năng sử dụng hơn, nhờ đó, tạo ra nhiều
giá trị kinh tế hơn. Do đó, KH&CN chính là
yếu tố then chốt trong khai thác các tiềm
năng và lợi thế về tài nguyên thiên nhiên
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội vùng Bắc
Trung Bộ... Các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung
Bộ cần thắt chặt mối quan hệ hợp tác với
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiêp và các trường đại học để
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu phục vụ
trực tiếp cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội của vùng”.
Ý An
Triển lãm Sản phẩm KH&CN nằm trong khuôn khổ Hội nghị Giao ban KH&CN các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ lần thứ XI
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 30
Hiện nay, trong ngành nông nghiệp, loại
phân bón được tổng hợp từ chất mang zeolite
sẽ nhả từ từ chất dinh dưỡng N, P, K... cho
cây trồng, giúp hạn chế tối đa sự rửa trôi, tiết
kiệm lượng phân bón. Trong chăn nuôi, zeo-
lite được trộn vào thức ăn của vật nuôi, chế
phẩm sẽ hấp thụ các chất độc trong cơ thể vật
nuôi, tăng khả năng kháng bệnh, kích thích
tiêu hóa và tăng trưởng. Việt Nam là nước có
nền nông nghiệp lúa nước phát triển, mỗi
năm ngành nông nghiệp thải ra hàng triệu tấn
vỏ trấu. Hiện nay nước ta đang tập trung đầu
tư nghiên cứu chế biến vỏ trấu thành sản
phẩm hữu ích. Vì vậy, nhóm nghiên cứu
thuộc Khoa Hóa, Trường Đại học Khoa học
Huế đã được giao chủ trì thực hiện đề tài cấp
tỉnh “Xây dựng quy trình sản xuất vật liệu
zeolite 4A từ tro trấu và ứng dụng để xử lý
nước ao hồ nuôi trồng thủy sản”, mã số:
TTH.2012-KC.03. Mục tiêu của đề tài là có
được quy trình sản xuất vật liệu zeolite 4A tinh
khiết từ tro trấu quy mô pilot (5kg zeolite 4A/
mẻ), sản phẩm thu được có chất lượng và giá
thành tương đương với zeolite 4A tinh khiết
sản xuất trong nước và nhập ngoại; xây dựng
được quy trình xử lý ô nhiễm tổng nitơ
amoni (TAN) trong nước hồ nuôi thủy sản
bằng zeolite quy mô phòng thí nghiệm.
Zeolite là các aluminosilicat có công thức
phân tử: M2/n.Al2O3.xSiO2.mH2O. Trong đó:
M là cation có hóa trị n dùng để trung hòa
điện tích âm của mạng lưới aluminosilicate.
Đơn vị cấu trúc cơ bản của zeolite là các tứ
diện [SiO4]4- và [AlO4]
5- nối với nhau qua các
đỉnh oxi chung. Các tứ diện [SiO4]4- và
[[AlO4]5- thường được viết là TO4 (trong đó T
là Si hoặc Al). Để phân loại zeolite, thường
dựa vào nguồn gốc, đường kính mao quản, tỷ
lệ Si/Al và chiều hướng không gian của các
kênh trong cấu trúc mao quản zeolite. Zeolite
là một loại chất hấp phụ có bề mặt phát triển
và hệ thống cửa sổ cứng chắc có kích thước
phân tử. Vì bề mặt trong của zeolite phát
triển hơn bề mặt ngoài nhiều lần, nên hiện
tượng hấp phụ chủ yếu xảy ra trên bề mặt
trong, tức là các phân tử hấp phụ phải đi qua
được cửa sổ của zeolite. Những phân tử có
kích thước nhỏ hơn hay bằng kích thước cửa
sổ mới đi vào được bề mặt trong, còn những
phân tử có kích thước lớn hơn kích thước của
cửa sổ zeolite thì bị đẩy ra ngoài không bị
hấp phụ trên zeolite. Lượng chất bị hấp phụ
QUY TRÌNH SẢN XUẤT VẬT LIỆU TỪ ZEOLITE 4A TỪ TRO TRẤU VÀ ỨNG DỤNG ĐỂ XỬ LÝ
NƯỚC AO HỒ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Như chúng ta đã biết, zeolite là loại vật liệu aluminosilicat có cấu trúc xốp, hệ thống
mao quản đồng đều, được sử dụng rộng rãi trong thực tế làm chất hấp phụ, chất xúc tác,
trao đổi ion. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, khi nạo vét ao hồ, các hạt zeolite với
những lỗ rỗng chứa đầy chất độc hại sẽ được tái chế để làm phân bón. PGS, TS Trần Ngọc
Tuyền, Khoa Hóa, Trường Đại học Khoa học Huế đã nghiên cứu thành công quy trình sản
xuất vật liệu zeolite từ tro trấu, vừa khai thác sử dụng một cách có hiệu quả nguồn phế
thải vỏ trấu khổng lồ, giảm thiểu khả năng gây ô nhiễm môi trường để xử lý nước ao hồ
nuôi trồng thủy sản.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 31
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
trên zeolite phụ thuộc vào nhiệt độ, áp suất,
bản chất của chất bị hấp phụ và của zeolite.
Zeolite thể hiện nhiều tính chất xúc tác
quan trọng mà các chất xúc tác vô định hình
không có. Thông thường các chất xúc tác vô
định hình được điều chế ở mức độ phân tán
cao để tăng diện tích bề mặt, nhằm tạo nhiều
tâm xúc tác. Nhưng đối với zeolite thì sự có
mặt các khoang trống làm xuất hiện diện tích
bề mặt bên trong rất lớn có thể giữ được số
phân tử nhiều gấp trăm lần lượng xúc tác vô
định hình tương đương.
Zeolite có nhiều ứng dụng, như trong trong
sản xuất chất giặt rửa, trong xúc tác. Cho đến
nay, zeolite là vật liệu được sử dụng rộng rãi
nhất làm xúc tác trong công nghiệp. Zeolite có
những ưu điểm như diện tích bề mặt lớn, khả
năng hấp phụ cao, tính chất hấp phụ của zeolite
có thể kiểm soát được và có thể biến đổi từ vật
liệu ưa nước đến vật liệu kị nước. Những trung
tâm hoạt động trong mạng lưới zeolite có thể
thay đổi về nồng độ và cường lực tương ứng
với yêu cầu của những phản ứng khác nhau.
Kích thước của các mao quản và cửa sổ trong
zeolite tương thích với nhiều loại phân tử
thường gặp trong thực tế công nghiệp lọc hóa
dầu, công nghiệp hóa chất. Ứng dụng của zeo-
lite trong hấp phụ: Trấu ngoài việc được sử
dụng làm chất đốt trong sinh hoạt hàng ngày,
còn được sử dụng như một nguồn nguyên liệu
thay thế cung cấp nhiệt trong sản xuất với giá
rất rẻ. Khi chế biến, cứ mỗi tấn lúa tạo ra
khoảng 200kg vỏ trấu và lượng vỏ trấu này sau
khi đốt tạo ra khoảng 40kg tro. Như vậy, trung
bình hàng năm thế giới tạo ra khoảng 130 triệu
tấn vỏ trấu. Từ lâu, vỏ trấu đã là một loại chất
đốt rất quen thuộc với bà con nông dân, đặc
biệt là bà con nông dân ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Chất đốt từ vỏ trấu được sử dụng rất
nhiều trong cả sinh hoạt (nấu ăn, nấu thức ăn
gia súc) và sản xuất (làm gạch, sấy lúa). Trấu
có khả năng cháy và sinh nhiệt tốt do thành
phần có 75% là chất xơ, 1kg trấu khi đốt sinh
ra 3.400 Kcal, bằng 1/3 năng lượng được tạo
ra từ dầu nhưng giá lại thấp hơn đến 25 lần.
Thành phần chính của vỏ trấu là chất xơ cao
phân tử rất khó cho vi sinh vật sử dụng nên
việc bảo quản, tồn trữ rất đơn giản, chi phí
đầu tư ít.
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, zeolite
được dùng để xử lý ô nhiễm NH3 (một dạng
khí độc do vi khuẩn yếm khí sinh ra ở tầng đáy
hồ nuôi trồng thủy sản, rất độc đối với tôm và
là một nguyên nhân gây ra dịch bệnh ở tôm).
Trong nông nghiệp, zeolite được sử dụng làm
phân bón bằng cách trộn thêm các loại phân
đạm, lân, kali và các nguyên tố vi lượng, giúp
hạn chế tối đa sự rửa trôi, tiết kiệm lượng phân
bón, tăng độ phì nhiêu, xốp, ẩm cho đất.
Trong đề tài này, để lựa chọn loại tro trấu
phù hợp làm nguyên liệu sản xuất thủy tinh
lỏng, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát 03
nguồn tro trấu: nguồn thứ nhất được tạo ra
bằng cách đốt vỏ trấu cháy tự nhiên trong
không khí; nguồn thứ hai là tro trấu được đốt
cháy trong lò điện ở nhiệt độ xác định và
nguồn thứ ba là tro trấu thải ra từ lò sấy
nguyên liệu tại Công ty Cổ phần Prime-
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Các tác
giả đã lựa chọn tro trấu phế thải từ lò sấy
công nghiệp của Công ty Cổ phần Prime-
Phong Điền làm nguyên liệu để sản xuất thủy
tinh lỏng nhằm tận dụng triệt để phế thải
trong sản xuất, giảm giá thành của sản phẩm
thủy tinh lỏng, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm
môi trường do tro trấu gây ra. Để ổn định số
liệu trong suốt quá trình thực hiện, các tác giả
đã chuẩn bị 200kg tro, mẫu tro được bảo quản
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 32
trong túi nhựa PE, tránh hiện tượng hút ẩm.
Trong quá trình sản xuất natri aluminat, việc sử
dụng chế độ khuấy trộn trong quá trình phản
ứng có thể làm tăng khả năng phản ứng do tăng
khả năng tiếp xúc giữa Al(OH)3 và NaOH.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng zeolite để xử lý
ô nhiễm nước trong lĩnh vực nuôi trồng thủy
sản ở nước ta khá lớn. Sản phẩm dạng hạt có
màu xám hoặc màu xanh nhạt, được dùng để
xử lý nước cứng, xử lý TAN trong nước nuôi
trồng thủy sản, sa lắng các chất lơ lửng làm
trong nước, ổn định pH, hấp thụ các chất độc
hại trong nước, tăng nồng độ oxy hòa tan, cải
thiện chất lượng nước, cải tạo đáy ao giúp tôm
dễ lột xác, phát triển tốt. Để đánh giá khả năng
sử dụng zeolite 4A tinh khiết tổng hợp từ tro
trấu trong lĩnh vực xử lý ô nhiễm TAN trong
hồ nuôi thủy sản, chúng tôi tiến hành điều chế
zeolite thủy sản bằng cách phối trộn zeolite 4A
tinh khiết sản xuất từ tro trấu với phụ gia đất
sét. Mỏ đất sét Phú Bài có trữ lượng khá lớn,
hiện đang được khai thác để làm nguyên liệu
sản xuất gạch ốp lát tại Công ty gạch men sứ
Thừa Thiên Huế. Đất sét Phú Bài có độ dẻo
cao, thích hợp để làm chất kết dính trong quá
trình vo viên. Do vậy, đề tài đã sử dụng đất sét
Phú Bài làm phụ gia để điều chế zeolite thủy
sản. Từ đó xác định được các điều kiện thích
hợp để sản xuất thủy tinh lỏng từ tro trấu; đã
xác định được các điều kiện thích hợp để kết
tinh zeolite 4A ở quy mô pilot (5,0kg zeolite
4A/mẻ) từ thủy tinh lỏng và dung dịch natri
aluminat; đã xây dựng được quy trình sản xuất
zeolite 4A quy mô pilot (5kg zeolite 4A/mẻ)
với hệ thống thiết bị tương đối hoàn chỉnh, hoạt
động ổn định qua các mẻ sản xuất khác nhau;
đã xác định các chỉ tiêu cơ lý đặc trưng của sản
phẩm zeolite 4A sản xuất từ tro trấu; Đã xây
dựng được quy trình sản xuất zeolite dạng bột
và dạng viên dùng để xử lý nước trong nuôi
trồng thủy sản từ zeolite 4A tinh khiết và phụ
gia đất sét; đã thử nghiệm khả năng xử lý và
xây dựng được quy trình xử lý ô nhiễm TAN
trong nước hồ nuôi tôm sú nước lợ và hồ nuôi
cá nước ngọt của zeolite thủy sản sản xuất từ
tro trấu ở quy mô phòng thí nghiệm.
Theo PGS, TS Trần Ngọc Tuyền, việc sử
dụng tro trấu làm nguyên liệu để sản xuất
zeolite cùng một lúc giải quyết được 2 vấn đề:
thứ nhất là, quá trình sản xuất thuận lợi hơn so
với đi từ các nguyên liệu thông thường khác
như khoáng sét, cát, giá thành sản phẩm rẻ, đáp
ứng nhu cầu to lớn trong thực tiễn đặc biệt là
trong lĩnh vực xử lý nước hồ nuôi trồng thủy
sản. Thứ hai là sẽ khai thác sử dụng một cách
hiệu quả nguồn phế thải vỏ tro trấu khổng lồ,
giảm thiểu khả năng gây ô nhiễm môi trường.
Đề tài cũng đã xây dựng được quy trình sản
xuất zeolite dạng bột và dạng viên dùng để xử
lý nước trong nuôi trồng thủy sản từ zeolite 4A
tinh thiết và phụ gia. Sản phẩm này được thử
nghiệm khả năng xử lý ô nhiễm TAN (tổng
NH3 và NH4+) trong hồ nuôi tôm sú nước lợ ở
xã Điền Môn, huyện Phong Điền và hồ nuôi cá
nước ngọt ở Phường Thủy Dương, thị xã
Hương Thủy, đạt hiệu quả rất tốt, các mẫu
nước sau khi xử lý đều có nồng độ TAN giảm
đạt yêu cầu chất lượng nước nuôi trồng thủy
sản theo QCVN 38-2011.
Có thể nói, sau 4 năm thực hiện, công trình
nghiên cứu đã được nghiệm thu và được đánh
giá là đề tài mang tính khả thi cao, hạn chế tình
trạng nhập khẩu các vật liệu từ nước ngoài và
mở ra một hướng đi mới trong việc giảm thiểu
nạn ô nhiễm môi trường.
Nguyễn Khoa
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 33
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
I. Đặt vấn đề
Hiện nay, ở Việt Nam sử dụng thuốc kích thích mủ cao su bôi lên lớp vỏ cạo nhằm tăng
sản lượng từ 20-40 % tùy giống cây và điều kiện dinh dưỡng. Việc sử dụng chất kích thích
mủ kết hợp giảm chế độ cạo là giải pháp tốt để giảm chi phí lao động khoảng 20%, tiết kiệm
vỏ cạo 2,5-3cm/năm.
Theo quy trình kỹ thuật Tiêu chuẩn ngành 10 TCN đã đưa ra chế độ khai thác có sử dụng
chất kích thích mủ ở Bắc Trung Bộ trở ra. Tuy nhiên, quy trình trên chưa được áp dụng vào
thực tiễn sản xuất tại Thừa Thiên Huế. Vì vậy, để áp dụng quy trình khai thác, kích thích mủ
phù hợp với thực tiễn của địa phương cần nghiên cứu, xác định chế độ cạo và nhịp độ kích
thích nhằm hoàn thiện quy trình phù hợp với điều kiện canh tác của địa phương.
II. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
- Thử nghiệm được tiến hành trên cao su khai thác từ năm cạo thứ 3-10, đang thực hiện
chế độ cạo ngửa trên mặt cạo BO-1 và BO-2 trên các DVT (PB 260, PB235), tại huyện
Hương Trà. Sử dụng chất kích thích Ethephon 2,5%.
- Mủ nước của mỗi lần cạo được đong gộp các cây trên cùng ô cơ sở. Mủ tạp thu và cân
ngày hôm sau. Sản lượng mủ quy khô trung bình mỗi cây trong một lần cạo được tính 2lần/
tháng theo công thức:
Trong đó: Vmủ nước là tổng thể tích mủ nước, Mmủ tạp là tổng lượng mủ tạp, Ncạo/ô là tổng
số cây cạo của ô cơ sở.
- Năng suất vườn cây (kg/ha/năm): lượng toán từ sản lượng cá thể trung bình năm; số lần
cạo/năm và số cây theo dõi thực tế qui đổi.
- Hàm lượng mủ khô (DRC) được xác định hai lần/ tháng. Mủ tạp được tính x 50%. Xác
định DCR (%) bằng phương pháp xác định hàm lượng chất rắn trong mủ nước (TSC). Công
thức tính DRC = 90% TSC.
III. Kết quả và thảo luận
1. Ảnh hưởng của nhịp độ kích thích đến sản lượng và chất lượng mủ trên cao su cạo
từ năm thứ 3 đến năm thứ 5
* Năng suất, sản lượng của các nghiệm thức:
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA NHỊP ĐỘ KÍCH THÍCH Ở CÁC CHẾ ĐỘ CẠO
KHÁC NHAU ĐẾN SẢN LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG MỦ CAO SU TẠI HƯƠNG TRÀ (*)
g/c/c =
(Vmủ nước x DRC %) + (Mmủ tạp x 50 %)
Ncạo/ô
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 34
Bảng 1: Trung bình năng suất, sản lượng tại Hương Trà (3-5)
Các giá trị trên cùng chỉ tiêu của các nghiệm thức có cùng chữ cái không có khác biệt
thống kê.
Số cây cạo/ ha= 400 cây. Số lần cạo/ năm: d2= 78lát cạo, d3= 52 lát cạo
* Năng suất cá thể gram trên cây/lần cạo (g/c/c):
Kết quả bảng 1 cho thấy, năng suất cá thể của các nghiệm thức cạo d/2 có sử dụng kích
thích ET 2,5% 2-4 lần /năm cao hơn hẳn so với cạo d/2 không kích thích. Trung bình từ tháng
8/2012-2/2013 của các nghiệm thức cạo d/2 ET 2,5% Pa 2-3/y đạt 42,03-42,88g tăng từ 13,01
-13,53% so với đối chứng d/2 ET 2,5% Pa 0/y (37,16g). Các nghiệm thức cạo d/3 có sử dụng
ET 2,5% 2-4 lần /năm rất cao . Cao nhất là nghiệm thức d/3 ET 2,5%Pa 3/y đạt 49,72 g. Như
vậy, việc sử dụng kích thích ET 2,5% đã làm gia tăng năng suất cá thể g/c/c so với không kích
thích trên cao su cạo ở giai đoạn cạo miệng ngửa (BO-1).
Bảng 2: Năng suất cá thể g/c/c qua các tháng tại Hương trà (3-5)
Nghiệm thức TB g/c/c
TB kg/ha (7 tháng)
CV%
DRC%
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 0/y 37,19 a 1.150,73 cd 3,71 31,16
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 2/y 42,88 bcd 1.337,92 e 4,79 30,71
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 3/y 42,03 abc 1.311,42 e 8,77 30,35
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 4/y 39,04 ab 1.218,04 de
7,38 30,10
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 0/y 42,20 abc 889,17 a 6,58 31,45
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 2/y 46,83 cde 974,05 ab
7,83 30,89
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 3/y 49,72d 1.034,12 bc
6,24 30,73
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 4/y 47,58 de 1.005,16 ab
6,45 30,52
LSD 0,05 4,91 129,42 0,56
Nghiệm thức Tháng
8 9 10 11 12 1 2
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 0/y 30,47 38,17 40,89 40,30 37,96 37,12 34,29
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 2/y 41,45 55,34 44,14 41,33 40,33 37,80 33,05
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 3/y 43,57 52,84 43,55 40,65 38,63 35,51 31,38
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 4/y 40,22 47,82 40,56 38,31 35,84 32,90 31,35
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 0/y 31,86 47,16 43,72 45,31 46,38 40,79 37,72
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 2/y 43,63 58,50 49,60 47,05 44,67 40,69 34,37
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 3/y 45,90 60,29 58,56 50,23 43,40 41,86 37,50
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 4/y 43,72 57,94 51,52 48,00 43,57 43,59 38,03
LSD 0,05 6,22 7,60 7,02 3,48 6,60 4,80 6,86
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 35
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
* Kết quả bảng 2 cho thấy lần kích thích thứ nhất và thứ hai của các nghiệm thức cạo
d/2 có sử dụng kích thích ET 2,5% 2-4 lần/năm cao hơn hẳn so với d/2 không kích thích.
- Lần kích thích thứ nhất Các nghiệm thức d/2 ET 2,5% Pa 2-4/y đạt 40,22 - 43,57g,
tăng 32 -32,57% so với cạo d/2 không kích thích (30,47g). Các nghiệm thức cạo d/3 ET
2,5% Pa 2-4/y đạt 43,63-45,90g, tăng so với d/2 không kích thích và d/3 không kích thích
lần lượt là 32,17-36,94%.
- Lần kích thích thứ hai: Các nghiệm thức d/2 ET 2,5% Pa 2-4/y đạt 52,84-55,34 g
tăng 26,5 - 44,98 % so với d/2 không kích thích (38,17g). Các nghiệm thức cạo d/3 ET
2,5% Pa 2-4/y đạt 57,94- 60,29 g cao hơn hẳn so với d/2 không kích thích và d/3 không
kích thích.
- Lần kích thích thứ 3: Sự khác biệt của tất cả các nghiệm thức cạo d/2 có sử dụng
kích thích ET2,5% so với d/2 không kích thích là thấp và không có ý nghĩa thống kê.
Riêng các nghiệm thức cạo d/3 ở lần kích thích thứ 3 tăng so với d/2 không kích thích và
d/3 không kích thích lần lượt là 43,21% và 33,94%.
- Lần kích thích thứ 4: Sự khác biệt của tất cả các nghiệm thức cạo d/2 và d/3 có sử
dụng kích thích ET2,5% so với không kích thích là thấp và không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, chứng tỏ trong phạm vi của thử nghiệm này thì khả năng đáp ứng với chất
kích thích ET 2,5 % ở chế độ cạo d/2 với nhịp độ kích thích ≤ 2 và ở chế độ cạo d/3 với
nhịp độ kích thích ≤ 3 làm tăng năng suất cá thể.
* Năng suất của các nghiệm thức kg/ha:
Kết quả bảng 1 và đồ thị 2 cho thấy, hai nghiệm thức cạo d/2 kết hợp kích ET 2,5%
với nhịp độ 2-3/y tương đương nhau và cao hơn so với đối chứng d/2 không kích thích.
Các nghiệm thức cạo d/3 tuy có năng suất cá thể g/c/c cao nhưng do có số lần cạo/năm ít
hơn d/2 (52/78 lát cạo) nên sản lượng cộng dồn qua 7 tháng ít hơn d/2. Nghiệm thức d/2
ET 2,5% Pa 2/y có năng suất thu được sau 7 tháng đạt 1.337,92 kg/ha tăng 16,26% so với
đối chứng cạo d/2 không kích thích (1.150,73 kg/ha).
* Hàm lượng cao su khô DRC:
Hàm lượng cao su khô DRC tương đương 90% hàm lượng chất khô (TSC), TSC thấp
phản ánh sự tái tạo không đầy đủ giữa hai lần cạo và có thể dẫn đến việc cạo không có
mủ. Ngược lại TSC cao phản ánh sự tái sinh tích cực, tuy nhiên trong trường hợp tái sinh
quá mạnh làm tăng độ nhầy gây cản trở dòng chảy.
2. Ảnh hưởng của nhịp độ kích thích đến sản lượng và chất lượng mủ trên cao su
cạo từ năm thứ 6 đến năm thứ 10
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 36
Bảng 3: Trung bình năng suất, sản lượng tại Hương Trà (6-10)
Các giá trị trên cùng chỉ tiêu của các nghiệm thức có cùng chữ cái không có khác biệt
thống kê
Số cây cạo/ha = 420 cây. Số lần cạo/ năm: d2 = 76 lát cạo, d3 = 51 lát cạo
* Năng suất cá thể gram trên cây/lần cạo (g/c/c):
Kết quả bảng 3 cho thấy, năng suất cá thể của các nghiệm thức cạo d/2 có sử dụng
kích thích ET 2,5% 3-4 lần /năm cao hơn hẳn so với cạo d/2 không kích thích. Trung
bình từ tháng 8/2012- 2/2013 của các nghiệm thức cạo d/2 ET 2,5% Pa 3-4/y đạt 41,43-
44,43 g tăng từ 7,62-12,36% so với đối chứng d/2 ET 2,5% Pa 0/y (39,54g). Các nghiệm
thức cạo d/3 có sử dụng ET 2,5% 2-4 lần /năm rất cao đạt 49,17-50,19g. Cao nhất là
nghiệm thức d/3 ET 2,5%Pa 3/y đạt 49,66 g. Như vậy, việc sử dụng kích thích ET 2,5%
đã làm gia tăng năng suất cá thể g/c/c so với không kích thích trên cao su cạo ở giai đoạn
cạo miệng ngửa (BO-2).
* Năng suất của các nghiệm thức kg/ha:
Kết quả bảng 3 cho thấy, hai nghiệm thức cạo d/2 kết hợp kích ET 2,5 % với nhịp độ 3-
4/y tương đương nhau và cao hơn so với đối chứng d/2 không kích thích. Các nghiệm thức
cạo d/3 tuy có năng suất cá thể g/c/c cao nhưng do có số lần cạo / năm ít hơn d/2 (51/76 lát
cạo) nên sản lượng cộng dồn qua 7 tháng ít hơn d/2. Nghiệm thức d/2 ET 2,5% Pa 3/y có năng
suất thu được sau 7 tháng đạt 1.418,15 kg/ha tăng 13,35% so với đối chứng cạo d/2 không
kích thích (1.251,07 kg/ha).
Hàm lượng cao su khô DRC: Qua bảng 3, nhận thấy tất cả các nghiệm thức có sử dụng ET
2,5% đều có DRC thấp hơn so với d/2 và d/3 không kích thích. Nghiệm thức d/2 ET 2,5% 5/y
có DRC thấp nhất đạt 30,02% thấp hơn so đối chứng 3,75%, kế đến là nghiệm thức d/2 ET
2,5% 4/y có DRC 30,26 thấp hơn so đối chứng 2,98 %.
Nghiệm thức TB g/c/c TB
kg/ha/7 tháng CV%
DRC%
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 0/y 39,54 a 1.251,07 c 7,10 31,19
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 3/y 44,43 b 1.418,15d 5,84 30,71
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 4/y 42,93 ab 1.370,39 d 7,16 30,26
S/2↓d/2 ET 2,5% Pa 5/y 41,43 ab 1.322,29 cd
3,65 30,02
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 0/y 43,07 ab 939,19 a 3,51 31,45
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 3/y 50,19 c 1.075,13 b 4,25 30,89
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 4/y 49,66 c 1.063,80 b 3,81 30,65
S/2↓d/3 ET 2,5% Pa 5/y 49,17 c 1.053,31 b 4,20 30,45
LSD 0,05 4,07 110,42 0,55
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 37
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
4. Kết luận và đề nghị
Việc sử dụng kích thích ET 2,5% đã làm gia tăng năng suất cá thể g/c/c so với không kích
thích trên cao su cạo ở giai đoạn cạo miệng ngửa (BO-1 và BO-2).
Đối với cao su cạo từ năm thứ 3-5: Năng suất ở chế độ cạo d/2 có kích thích ET 2,5% ở
nhịp độ 2 và 3 lần tương đương nhau và cao hơn hẳn so với đối chứng, nhưng DRC của chế
độ cạo d/2 kích thích 3 lần trở lên giảm đi rõ rệt.
Đối với cao su cạo từ năm thứ 6-10: Năng suất ở chế độ cạo d/2 có kích thích ET 2,5% ở
nhịp độ 3 và 4 lần tương đương nhau và cao hơn hẳn so với đối chứng, nhưng DRC của chế
độ cạo d/2 kích thích 4 lần trở lên giảm đi rỏ rệt.
Các nghiệm thức cạo d/3 tuy có năng suất cá thể g/c/c cao nhưng do có số lần cạo / năm ít
hơn d/2 nên năng suất thấp hơn chế độ cạo d/2.
Như vậy chế độ cạo hợp lý nhấtđối với cao su tiểu điền tại Thừa Thừa Thiên Huế:
* Đối với cao su cạo từ năm thứ 3-5: áp dụng chế độ cạo S/2↓d/2 7d/7ET 2,5% Pa 2/y ( 8,9).
* Đối với cao su cạo từ năm thứ 6-10: áp dụng chế độ cạo S/2↓d/2 7d/7 ET 2,5% Pa 3/y
(8,9,10).
Trên cơ sở kết quả thử nghiệm và theo quy trình kỹ thuật của Tiêu chuẩn ngành 10 TCN,
nhóm thực hiện đề tài đề nghị áp dụng các chế độ cạo trên vào sản xuất diện rộng tại tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Trần Quang Phước, Nguyễn Văn Dương
(Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư tỉnh Thừa Thiên Huế)
* Đây là kết quả của đề tài KH&CN cấp tỉnh “Thử nghiệm ứng dụng chất điều hòa sinh
trưởng để tăng năng suất, chất lượng mủ cao su khai thác trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”
do ngân sách tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư hỗ trợ.
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 38
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TRÊN CÁT Ở VÙNG VEN
BIỂN BẮC MIỀN TRUNG
1. Nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới
Tôm thẻ chân trắng được nuôi vào
khoảng thập niên 80. Đến năm 1992, chúng
đã được nuôi phổ biến trên thế giới, nhưng
chủ yếu tập trung ở các nước Nam Mỹ. Đến
năm 2003 thì các nước châu Á bắt đầu nuôi
đối tượng này và sản lượng tôm thẻ chân
trắng liên tục tăng nhanh qua các năm, đến
năm 2010 sản lượng tôm đạt khoảng 2,7 triệu
tấn. Đến năm 2012 sản lượng tôm đạt khoảng
4 triệu tấn. Hình thức nuôi chủ yếu là thâm
canh và siêu thâm canh. Dự kiến sản lượng
tôm thẻ chân trắng đạt sản lượng khoảng 6
triệu tấn vào năm 2015.
Tình hình dịch bệnh: So với tôm sú thì
tôm thẻ chân trắng có nhiều ưu điểm hơn về
chất lượng con giống vì loài này đã được gia
hóa qua nhiều thế hệ để tạo được con giống
chất lượng cao như tăng
trưởng nhanh, chịu đựng tốt
với môi trường và quan trọng
là tôm sạch bệnh, kháng được
một số bệnh đặc thù từ đó mà
các nước trên thế giới tập
trung nuôi đối tượng này.
Trong những năm gần đây thì
bệnh hội chứng hoại tử cấp
tính gây thiệt hại lớn cho
nghề nuôi tôm thẻ chân trắng
trên thế giới. Bệnh này xuất
hiện ở Trung Quốc năm
2009, Việt Nam 2010, Thái
Lan và Malaysia năm 2011
và Mexico năm 2013. Tuy
bệnh hội chứng hoại tử cấp tính đã xuất hiện
nhiều năm nhưng tới tháng 6 năm 2013 thì
Lightner và cộng sự tại Đại học Arizona mới
phát hiện được tác nhân gây bệnh hội chứng
hoại tử cấp tính AHPNS trên tôm là do một
dòng đặc biệt của vi khuẩn Vibrio para-
haemolyticus đã nhiễm bởi một loại virus
được biết đến như một thể thực khuẩn
(phage), virus này xâm nhiễm đã làm vi
khuẩn sản xuất ra một loại độc tố cực mạnh
gây rối loạn chức năng cơ quan tiêu hóa đặc
biệt là hệ gan tụy của tôm, kết quả gan tụy sẽ
bị hoại tử. Theo nhận định của các chuyên
gia thủy sản trên thế giới hội chứng hoại tử
cấp tính còn xuất hiện trong vài năm tới và
hiện nay các nước đang tìm cách khắc phục
bệnh này để duy trì nghề nuôi tôm phát triển
bền vững.
Nuôi tôm thẻ chân trắng là một hình thức nuôi đặc trưng tại các tỉnh ven biển miền Trung
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 39
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở
Việt Nam
Sự phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng ở
Việt Nam: Tôm thẻ chân trắng được đưa vào
Việt Nam năm 2001. Từ đó đến nay diện tích
và sản lượng tôm thẻ chân trắng không ngừng
được tăng lên. Dự kiến đến năm 2015 sản
lượng tôm thẻ chân trắng đạt khoảng 449.500
tấn. Hiện nay, tôm thẻ chân trắng được nuôi
với hình thức thâm canh năng suất đạt từ
2.980kg/ha vào năm 2005 và tăng lên 4.460kg/
ha vào năm 2012.
Tình hình dịch bệnh: Dịch bệnh thật sự
bùng phát từ năm 2010 đến năm 2012 với diện
tích thiệt hại lên đến 7.068ha, chủ yếu là do
bệnh hội chứng hoại tử cấp tính. Hội chứng
hoại tử cấp tính xảy ra chủ yếu ở các vùng
nuôi tôm thân canh và bán thâm canh, xảy ra ở
hầu hết các tháng trong năm, nhưng mức độ
dịch bệnh trầm trọng nhất từ tháng 4 đến tháng
7, chiếm 75% tổng diện tích bị bệnh trong cả
năm. Đến năm 2013 tình hình dịch bệnh đốm
trắng và hội chứng hoại tử cấp tính đã giảm đi
đáng kể so với năm 2011 và 2012, nhưng vẫn
còn gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. Vì vậy
ngành thủy sản đang tìm mọi cách để kiềm chế
bệnh này bộc phát như những năm qua.
3. Thực trạng nuôi tôm thẻ chân trắng
trên cát ở các tỉnh Bắc miền Trung
Nuôi tôm trên cát là hình thức nuôi đặc
trưng tại các tỉnh ven biển miền Trung, với các
ao nuôi được lót bạc chống thấm. Năng suất
bình quân nuôi tôm thẻ trên cát đạt 10-15 tấn/
ha/vụ. Cá biệt có một số mô hình nuôi đạt 50-
60 tấn/ha/vụ ở Thừa Thiên Huế, Quảng Bình.
Nuôi tôm trên cát mang nhiều lợi ích như sử
dụng đất bỏ hoang, góp phần xóa đói giảm
nghèo, tăng lợi nhuận, tạo công ăn việc làm
cho nhiều người... Nuôi tôm còn đóng góp vào
việc tăng sản lượng tôm xuất khẩu của nước ta,
tạo điều kiện cho một số ngành nghề phát triển
như sản xuất vật liệu chống thấm, con giống
thức ăn, các chế phẩm sinh học...
Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng có thể đem
lại hiệu quả kinh tế rất cao nhưng cũng có thể
mất trắng do tình hình dịch bệnh thường xuyên
xảy ra. Trong những năm gần đây bệnh đốm
trắng và hội chứng hoại tử cấp tính (chưa có
thuốc đặc trị) thường xuyên xảy trên phạm vi
cả nước làm nhiều địa phương thiệt hại rất lớn
dẫn đến nhiều ao nuôi bị bỏ trống hoặc chuyển
sang nuôi cá. Bên cạnh đó phát triển nuôi tôm
trên cát ở nhiều nơi mang tính tự phát, thiếu
quy hoạch đồng bộ, hầu hết cá hộ nuôi nhỏ lẻ
chưa có ao lắng, ao xử lý nước nuôi tôm thải
trực tiếp ra môi trường... Nghề nuôi tôm phát
triển kéo theo nhiều diện tích rừng đặc dụng bị
tàn phá, nhiều vùng biển bị ô nhiễm, nguồn
nước ngầm bị ô nhiễm, cạn kiệt và mặn hóa,
thiên tai lũ lụt trở nên nguy hiểm hơn. Do vậy
để phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng bền vững
cần phải có những giải pháp hiệu quả và đồng
bộ, để tránh nguy cơ tác động tiêu cực đến môi
trường tự nhiên nhiên và nguồn nước trong
hiện tại và tương lai.
* Điều kiện thuận lợi:
- Các tỉnh Bắc miền Trung có đường bờ
biển kéo dài hơn 550km, với diện tích lớn cồn
cát ven biển trải dài qua các tỉnh từ Thừa
Thiên Huế cho đến Thanh Hóa. Những cồn cát
ven biển này là điều kiện hết sức thuận lợi để
phát triển nuôi tôm trên cát.
- Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp chính quyền, các ngành từ trung ương
đến địa phương. Sự phối hợp kết hợp giữa các
ngành và địa phương được thực hiện chặt chẽ.
- Nhiều tỉnh các quy hoạch về nuôi tôm
trên cát đã được phê duyệt góp phần to lớn và
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 40
tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển
đầu tư sản xuất.
- Khoa học và công nghệ và các dịch vụ
hậu cần đáp ứng khá đầy đủ cho nhu cầu phát
triển nuôi tôm chân trắng trên cát.
- Nuôi tôm trên cát sử dụng nguồn nước
trong sạch trực tiếp từ biển cùng với việc sử
dụng ao lót bạc ni lông chống thấm nên việc
làm sạch ao triệt để hạn chế được dịch bệnh.
- Có nguồn lực lao động đồi dào và có
nhiều kinh nghiệm nuôi tôm.
- Có sự đóng góp của nhiều công ty trong
và ngoài nước tham gia sản xuất hỗ trợ tư
vấn kỹ thuật cho người nuôi đồng thời cung
cấp con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học,
thu mua sản phẩm... tạo điều kiện thuận lợi
và ổn định để người dân phát triển nuôi tôm
chân trắng ở trên cát.
* Tồn tại, thách thức đối với việc phát
triển nuôi tôm chân trắng:
- Nhiều hộ nuôi phát triển theo quy mô
nhỏ, không thực hiện theo quy hoạch, chưa
có ao lắng, ao xử lý nước thải. Việc xả thải
nguồn nước chưa qua xử lý, quy trình nuôi
chưa đúng kỹ thuật làm cho dịch bệnh lây lan
gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt và mặn hóa
nguồn nước ngầm.
- Việc quản lý nhà nước về thủy sản chưa
thống nhất giữa các địa phương, công tác chỉ
đạo chưa sát với thực tế, chưa được đầu tư hỗ
trợ tương xứng để đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn sản xuất và xã hội.
- Ý thức của người dân còn nhiều hạn chế
trong việc tuân thủ các qui định của nhà nước
về quy trình kỹ thuật nuôi, xử lý nước thải,
sử dụng thuốc hóa chất...
- Việc quy hoạch và quản lý quy hoạch
còn nhiều bất cập, tình trạng nuôi ngoài vùng
qui hoạch. Tự ý chuyển đổi ao chứa, ao xử lý
sang ao nuôi làm tăng mức độ ô nhiễm môi
trường, nguy cơ dịch bệnh cao.
- Việc ban hành các văn bản quản lý, các
tiêu chuẩn, qui chuẩn về điều kiện vùng nuôi,
con giống, về điều kiện của cơ sở sản xuất
giống chưa hoàn chỉnh gây khó khăn trong
công tác quản lý.
- Nguồn cung ứng giống, thức ăn chưa
được kiểm soát chặt chẽ. Thị trường đầu ra
thiếu ổn định, khi sản lượng cao thường bị tư
thương ép giá.
- Cơ sở vật chất và cán bộ kỹ thuật
chuyên trách chưa đáp ứng đầy đủ và hiệu
quả cho việc kiểm tra con giống, phát hiện
dịch bệnh kịp thời.
4. Đề xuất các giải pháp
Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đem
lại lợi nhuận rất cao những cũng tiểm ẩn rất
nhiều rủi ro. Vì vậy, để phát triển nuôi tôm trên
cát bền vững, cần phải có những giải pháp phù
hợp:
* Giải pháp của Công ty Cổ phần Chăn
nuôi C.P Việt Nam đã thực hiện
- Thiết kế ban đầu đã bố trí ao nuôi, ao
lắng, ao xử lý, ao bùn hợp lý.
- Quy trình nuôi tôm không sử dụng kháng
sinh và hạn chế thay nước.
- Tất cả hệ thống ao hồ, kênh mương đều
được lót bạc chống thấm hoặc bê tông hóa để
tránh nước biển xâm nhập vào đất cát làm ô
nhiễm nguồn nước ngầm.
- Không sử dụng nguồn nước ngầm để
cung cấp nước ngọt cho ao nuôi mà chỉ sử
dụng nước biển nước mưa và nước bề mặt.
- Áp dụng hệ thống green house cho việc
ương tôm PL12 trong khoảng thời gian 30
ngày nhằm phòng ngừa dịch bệnh và tăng
nhiệt độ môi trường nước nuôi vào các tháng
mùa đông.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 41
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
- Xây dựng hệ thống green house đối với
các ao nuôi tôm ở khu vực bắc miền Trung.
Quy trình nuôi đảm bảo an toàn sinh học, bền
vững từ khâu chuẩn bị ao đến thu hoạch và xử
lý nước thải.
Các giải pháp mà Công ty Cổ phần Chăn
nuôi C.P Việt Nam, thực hiện đã chứng minh
được tính ổn định qua thực tiễn sản xuất, góp
phần vào việc phát triển nuôi tôm chân trắng
bền vững và có hiệu quả. Tuy nhiên, chi phí
quá lớn nên khó để thực hiện đồng loạt. Chính
vì vậy, cần tổ chức đánh giá đầy đủ thực trạng
và những tác động của nuôi tôm trên cát đến
môi trường sinh thái, đời sống kinh tế-xã hội
của vùng nuôi tôm. Trên cơ sở đó, đề xuất các
giải pháp tổng thể phù hợp để có thể vừa phát
triển nghề nuôi tôm chân trắng trên cát vừa
đảm bảo môi trường cho thế hệ mai sau.
* Đề xuất các giải pháp
- Nghiên cứu tạo đàn tôm bố mẹ phù hợp
với điều kiện nuôi ở Việt Nam. Mục tiêu:
nhanh chóng tạo được đàn tôm bố mẹ đáp ứng
nhu cầu sản xuất giống nhằm giảm tối đa phụ
thuộc nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu.
- Nghiên cứu nâng cao chất lượng con
giống. Mục tiêu: hoàn thiện quy trình sản
xuất giống trong điều kiện an toàn
sinh học để tạo được con giống
chất lượng cao sạch bệnh
- Nghiên cứu kiểm soát dịch
bệnh. Mục tiêu: giảm thiểu ảnh
hưởng của dịch bệnh đến tôm nuôi,
có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu
các bệnh thường gặp, đặc biệt là
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.
- Đầu tư các công trình cấp
nước ngọt cho vùng nuôi tôm trên
cát, hệ thống xử lý nước thải tập
trung, hệ thống kênh cấp và thoát
nước tập trung.
- Thường xuyên giám sát chất lượng
nước thải trước khi thải ra môi trường
- Các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây
dựng hoàn thiện hệ thống ao nuôi đảm bảo
điều kiện cho việc áp dụng quy trình nuôi
sạch theo tiêu chuần VietGap.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ
làm công tác thủy sản. Xây dựng các phòng
thí nghiệm kiểm tra chất lượng giống, dịch
bệnh thủy sản đối với tôm nuôi chân trắng
trên cát.
- Các địa phương cấp huyện triển khai, ra
soát điều chỉnh và bổ sung qui hoạch chi tiết
nuôi trồng thủy sản của địa phương trên cơ
sở qui hoạch của tỉnh, lập kế hoạch để cụ thể
hóa định hướng quy hoạch.
- Xây dựng quy chế quản lý quy hoạch
nuôi trồng thủy sản và qui chế quản lý các
vùng nuôi tập trung, tổ chức công bố các quy
chế để các tổ chức, cá nhân nuôi trồng thủy
sản tuân theo.
TS Lê Văn Dân
(Trường Đại học Nông lâm Huế)
Người dân thu hoạch mùa tôm
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 42
Thích nghi cao
Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp Phú Lương
3, ông Lê Thẻo đánh giá cao năng suất và
chất lượng giống lúa Thiên ưu 8. Mô hình
giống lúa mới trên được khảo nghiệm trong
vụ hè thu 2014 với diện tích 6ha, tại HTX
Nông nghiệp Phú Lương 3, do Công ty Cổ
phần Giống cây trồng Trung ương phối hợp
với Trạm Khuyến Nông Lâm Ngư huyện Phú
Vang thực hiện. Nông dân Nguyễn Đức
Thành cũng như 15 hộ tham gia mô hình đều
cho rằng, giống lúa Thiên ưu 8 có nhiều ưu
điểm, thích hợp với điều kiện đất đai đồng
ruộng tại địa phương. Giống lúa mới này
chống chịu rất tốt trong điều kiện thời tiết
khắc nghiệt, sâu bệnh
gây hại và tạo ra sản
phẩm chất lượng,
thơm ngon, dẻo...
Năng suất lúa bình
quân đạt 72 tạ/ha, cao
hơn 7 tạ, thu nhập
bình quân khoảng 47
triệu đồng/ha, lãi gần
23 triệu đồng, cao
hơn 6 triệu đồng so
với Khang Dân 18.
Tại HTX Nông
nghiệp Lâm Lý và
Đông Vinh (huyện Quảng Điền), Công ty Cổ
phần Giống cây trồng và vật nuôi tỉnh thực
hiện mô hình cánh đồng mẫu lúa NA2 với
diện tích 30 ha trong vụ hè thu 2014. Phó
Giám đốc công ty, ông Trần Đức Tôn tỏ ra
vui mừng trước những thành quả bước đầu
của giống lúa NA2, năng suất đạt 70-75 tạ/
ha. Đây không chỉ là điều kiện nâng cao uy
tín trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, mà còn là cơ hội đối với nông dân
nâng cao năng suất và chất lượng lúa gạo
trong xu thế hội nhập. Giống lúa NA2 không
chỉ đạt năng suất cao, mà còn tạo ra sản
phẩm thơm ngon, chất lượng, thích hợp với
nhiều chân đất, thời gian sinh trưởng ngắn
THỬ NGHIỆM THÀNH CÔNG GIỐNG LÚA MỚI
Được chọn để gieo cấy khảo nghiệm là những vùng đất khó sản xuất, chua phèn nhưng
các giống lúa mới đều thích ứng tốt, đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao. Nông dân
Nguyễn Đức Thành, xã viên Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Phú Lương 3 (Phú Vang)
phấn khởi: “Giống lúa Thiên ưu 8 thật sự “bén duyên” trên vùng đất khó tại địa phương.
Đồng ruộng được chọn để gieo cấy thường bị chua phèn, thấp trũng nhưng giống lúa trên
vẫn phát triển tốt, không bị đổ ngã. Mật độ ché bông, hạt vào chắc cao hơn so với nhiều
giống lúa thông thường nên đạt năng suất cao”.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 43
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
chỉ 93-95 ngày, thân
cây cứng, gọn khóm,
không đổ ngã, ít xảy ra
sâu bệnh. Sản phẩm sau
khi thu hoạch đều được
công ty thu mua theo
giá thị trường nên nông
dân không lo đầu ra.
Giống lúa Ma Lâm
214 và 48 được Trung
tâm Khuyến Nông Lâm
Ngư tỉnh đưa vào gieo
cấy khảo nghiệm trong
vụ hè thu 2014 tại HTX
Mỹ Phú (huyện Phong
Điền), cho thấy nhiều
ưu điểm vượt trội so
với nhiều giống thông thường. Năng suất không chỉ đạt cao trên 60 tạ/ha, giống lúa Ma Lâm
214 và 48 còn có thời gian sinh trưởng cực ngắn, chỉ 88-90 ngày nên hạn chế tối đa rủi ro do
bão lũ. Bà Bùi Thị Hải Yến, Giám đốc Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư tỉnh cho hay, các
giống lúa trên có nhiều triển vọng vì thích hợp với nhiều chân đất, có thể nhân rộng trên địa
bàn tỉnh. Hai giống lúa này rất dễ sản xuất, thích nghi tốt cả những vùng đất chua phèn, chống
chịu rất tốt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt và có khả năng đẻ nhánh khỏe, số bông trên
khóm đều. Chất lượng và giá trị sản phẩm khá cao, được thị trường trong và ngoài tỉnh ưa
chuộng, có thể hướng đến xuất khẩu.
Bao tiêu sản phẩm
Ông Trần Quang Phước, Trưởng phòng Trồng trọt, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tỉnh đánh giá rất cao kết quả các giống lúa mới mang lại. Đây là việc mà các cơ quan,
ban ngành tiếp tục tìm tòi, chọn lựa những giống lúa mới phù hợp, chất lượng cao để sản xuất
thử nghiệm. Đối với những giống lúa đã sản xuất thành công, các đơn vị phối hợp với các địa
phương, HTX tiến hành khảo sát đồng ruộng để nhân rộng, thay thế các giống thông thường
năng suất và chất lượng thấp; đồng thời có phương án thu mua, bao tiêu sản phẩm cho nông
dân với giá ổn định.
Vụ hè thu này, Công ty Cổ phần Giống cây trồng và vật nuôi tỉnh không chỉ sản xuất thành
công mô hình cánh đồng mẫu với giống lúa chất lượng cao, mà còn tổ chức bao tiêu toàn bộ
sản phẩm là tín hiệu vui đối với bà con nông dân.
Thế Hoàng
Đánh giá năng suất giống lúa mới tại đồng ruộng
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 44
Sinh ra trong một gia đình trí thức, từ nhỏ
Hoàng Anh Tiến đã được đón nhận một nền
giáo dục tốt từ những thầy cô giáo của trường
Nguyễn Tri Phương, Quốc Học, Đại học Y
Dược Huế. Thừa hưởng được sự đam mê
khoa học từ bố là GS,TS Huỳnh Văn Minh,
sự ủng hộ nhiệt tình của mẹ, anh luôn có
nhiều động lực để phấn đấu, đạt nhiều thành
tích cao trong cuộc sống. Không chỉ học tập
và nghiên cứu giỏi mà còn là một người năng
động trong các hoạt động xã hội.
Thủ khoa khối B vào Đại học Huế trong
kỳ thi tuyển năm 1997 và theo học Trường
Đại học Y khoa (nay là Trường Đại học Y
Dược Huế), Hoàng Anh Tiến sớm có những
thiên hướng đam mê nghiên cứu khoa học và
từ năm thứ 3, Hoàng Anh Tiến cùng các bạn
dưới sự hướng dẫn thầy cô đã nghiên cứu đề
tài “Đặc điểm điện tâm đồ ở vận động viên
thành phố Huế” giúp phát
hiện và cảnh báo sớm các bất
thường tim mạch nguy hiểm
cho các vận động viên. Với
những đóng góp của công
trình nghiên cứu này anh đã
đạt giải nhì “Sinh viên nghiên
cứu khoa học Vifotec” vào
năm 2002.
Năm 2003, Hoàng Anh
Tiến vinh dự được kết nạp
vào Đảng khi mới 24 tuổi.
Đạt bằng đỏ, Á khoa của
khóa 1997-2013 cùng nhiều
thành tích trong hoạt động
chuyên môn và xã hội với vai
trò là lớp trưởng, Ủy viên Ban chấp hành
Đoàn trường, Hoàng Anh Tiến được giữ lại
làm cán bộ giảng dạy bộ môn Nội và được
chuyển thẳng cao học.
Ngoài giảng dạy ở trường, Hoàng Anh
Tiến còn tham gia khám và điều trị tại Bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế, Khoa Nội
tim mạch Bệnh viện Trung ương Huế. Với
môi trường làm việc thuận lợi này đã giúp
Hoàng Anh Tiến có điều kiện để nghiên cứu
nhiều đề tài có giá trị như: “Đánh giá sự biến
đổi nồng độ NT-ProBNP ở đợt cấp của suy
tim mạn” (2005). Đề tài được giải nhì tại Hội
nghị tim mạch miền Trung mở rộng lần thứ 3
và được đánh giá cao do chất chỉ điểm tim
mạch NT-ProBNP rất mới và hiệu quả trong
tiên lượng suy tim, nhằm có thái độ xử trí
tích cực để hạn chế tần suất tái nhập viện và
nguy cơ tử vong, đề tài này sau đó được đăng
Hoàng Anh Tiến-gương mặt trí thức trẻ tiêu biểu về học tập và nghiên cứu khoa học
TS, BS Hoàng Anh Tiến được tuyên dương tại Lễ trao giải thưởng Quả cầu vàng năm 2012
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 45
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
trên tạp chí nước ngoài Circulation Journal.
Đề tài: “Xây dựng chương trình đánh giá
kiến thức sinh viên y khoa hệ 6 năm bằng
phần mềm lập trình authorware” đã đạt giải
nhất Hội nghị khoa học trẻ các trường Đại
học Y Dược toàn quốc 2004.
Năm 2007, có lẽ là năm thành công nhất
của người bác sĩ vừa tròn 28 tuổi khi anh
“được mùa” về nghiên cứu khoa học. Cùng lúc
đạt 3 giải thưởng: hướng dẫn sinh viên nghiên
cứu khoa học đạt giải nhì Vifotec với đề tài
“So sánh giá trị tiên lượng của N-Terminal Pro
B-type Natriuretic Peptide (NT-ProBNP) và
phân độ Killip ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim
cấp”, giải nhất cuộc thi Sáng tạo khoa học kỹ
thuật tỉnh Thừa Thiên Huế với giải pháp: “Kết
hợp máy ghi âm với ống nghe để phát hiện hội
chứng ngưng thở lúc ngủ (Sleep Apnea
Syndrome)”, giải xuất sắc hội nghị khoa học
trẻ các trường Đại học Y Dược toàn quốc lần
thứ 14 với đề tài: “Nghiên cứu hội chứng
ngưng thở lúc ngủ bằng máy SASD-07 tự tạo”.
Đặc biệt với đề tài này, Hoàng Anh Tiến đã
đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân: Dùng
máy theo dõi nhịp thở tự tạo SASD-07 (Sleep
Apnea Syndrome Detective) để phát hiện hội
chứng ngưng thở lúc ngủ (một hội chứng còn
rất mới mẻ ở Việt Nam). Đề tài đã được đăng
ký tiến hành cấp tỉnh và đã nghiệm thu chính
thức với sự đánh giá cao của các thành viên
trong hội đồng để mở ra khả năng triển khai
rộng rãi những thành tựu nghiên cứu về máy
SASD-07 này.
Với những thành tích nêu trên, Hoàng Anh
Tiến vinh dự được Trung ương Đoàn, Quỹ hỗ
trợ tài năng trẻ Việt Nam bình chọn một trong
mười gương mặt trẻ tiêu biểu Việt Nam năm
2007, được Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
tặng huy chương và bằng lao động sáng tạo.
Hoàng Anh Tiến đã hoàn thành xuất sắc
luận án tiến sỹ vào tháng 11/2011 với đề tài
“Nghiên cứu vai trò tiên lượng của NT-
ProBNP huyết thanh và luân phiên sóng T
điện tâm đồ ở bệnh nhân suy tim”. Không
dừng lại ở những thành tích đạt được, Hoàng
Anh Tiến tiếp tục với sự nghiệp nghiên cứu
của mình với đề tài “Nghiên cứu ứng dụng
điện tâm đồ nội mạch vành trong đánh giá
hiệu quả can thiệp động mạch vành qua da”
đạt giải nhì Giải thưởng sáng tạo Khoa học
và Công nghệ tỉnh năm 2012. Các danh hiệu
xuất sắc khác như: Thầy thuốc trẻ tiêu biểu
Việt Nam 2011, Quả cầu vàng về khoa học
và công nghệ năm 2012, Bằng khen của Ban
chấp hành Trung ương Đảng về Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
(2013). Với những thành tích đặc biệt này,
hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược-GS, TS,
NGƯT Cao Ngọc Thành luôn đánh giá cao
những nỗ lực mà TS, BS Hoàng Anh Tiến
đóng góp cho nhà trường.
Bận rộn với công việc giảng dạy nghiên
cứu khoa học tại bộ môn nội, điều trị tại
Khoa Nội tim mạch với vai trò Phó trưởng
khoa, TS, BS Hoàng Anh Tiến cũng là Phó
Bí thư đoàn trường vẫn thường theo đoàn bác
sĩ của trường đi khám bệnh, cấp thuốc miễn
phí cho dân nghèo vùng sâu vùng xa ở A
Lưới, tỉnh Salavan (Lào). Với TS, BS Hoàng
Anh Tiến, chặng đường trước mắt của anh
vẫn đầy những thách thức. Ẩn sâu bên trong
niềm đam mê nghề nghiệp vẫn là tấm lòng
của một trí thức trẻ muốn góp phần nhỏ bé
cống hiến cho quê hương, cho đất nước… và
cũng để tri ân vùng đất đã sinh ra, nuôi
dưỡng anh thành tài.
Trần Minh Phong
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 46
Ô nhiễm môi trường do chất thải chăn nuôi là vấn đề đang gây bức xúc ở nông thôn. Mặc
dù các hộ chăn nuôi đã thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày nhưng do nguồn phân thải
không được quản lý và xử lý đúng cách đã gây ra mùi hôi, ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng
không tốt đến sức khỏe cộng đồng người dân cũng như bản thân vật nuôi.
Nuôi lợn trên đệm lót sinh học là một tiến bộ kỹ thuật mới để giải quyết vấn đề trên. Kỹ
thuật này đã được Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư Thừa Thiên Huế ứng dụng chuyển giao
cho nông dân trong tỉnh từ cuối năm 2013. Trong vụ Đông Xuân 2013-2014 đã triển khai cho
20 hộ ở xã Phong Mỹ và xã Quảng Phước, mô hình đã mang lại kết quả rất tốt được bà con
nông dân hưởng ứng áp dụng.
Từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tháng 6/2014
Trung tâm tiếp tục triển khai mô hình nuôi lợn trên đệm lót sinh học cho 7 hộ tại xã Thủy
Thanh- thị xã Hương Thủy nhằm khẳng định tính hiệu quả của nuôi lợn trên đệm lót sinh học
trong điều kiện mùa hè, kết quả sẽ là cơ sở để tổ chức nhân rộng mô hình trên địa bàn toàn
tỉnh. Các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình nuôi lợn
trên đệm lót sinh học tại xã Thủy Thanh được đánh giá tóm tắt như sau:
Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đạt được của mô hình
- Tỷ lệ nuôi sống: Tỷ lệ nuôi sống đạt 100%.
- Khả năng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn của lợn sau 90 ngày nuôi: Lợn tăng trọng bình
quân 542g/ngày (16kg/tháng). Tiêu tốn thức ăn bình quân/kg tăng trọng: 2,5kg.
- Lợn khỏe mạnh, tăng trọng nhanh, không có bệnh tật nghiêm trọng.
Hiệu quả kinh tế
- Tiết kiệm tiền nước vệ sinh chuồng trại: Ước tính tiết kiệm được 27m3 nước tương ứng
108.000đ/hộ nuôi 7 con lợn/lứa.
- Tiết kiệm công dọn chuồng: Nuôi lợn chuồng bê tông phải dọn chuồng 2 lần ngày, nuôi
đệm lót chỉ xới đệm 1 lần/ngày, ước tính tiết kiệm được 2 công lao động/90 ngày nuôi, tương
ứng 300.000 đồng tiền công.
- Chi phí làm đệm lót ban đầu/hộ nuôi: 450.000đ.
Như vậy số tiền chi phí làm đệm lót tương ứng với số tiền tiết kiệm nước và công lao động
trong 1 lứa nuôi. Ngoài ra phần trên của đệm lót là nguồn phân sạch và có giá trị dinh dưỡng
cao và dễ hấp thu đối với cây trồng, sử dụng nguồn phân này vừa nâng cao năng suất vừa giảm
chi phí mua phân vô cơ, thuốc trừ sâu.
- Hạch toán lãi bình quân/con lợn nuôi trên đệm lót của mô hình tại thời điểm xuất chuồng
hiện nay đạt: 500.000đ/con (bình quân mỗi hộ tham gia mô hình lãi 3.500.000đ).
Hiệu quả xã hội và môi trường
- Toàn bộ phân và nước tiểu lơn thải ra hàng ngày được lên men phân hủy trong đệm lót vì
vậy không có mùi hôi, giảm ruồi muỗi.
HIỆU QUẢ TỪ MÔ HÌNH NUÔI LỢN TRÊN ĐỆM LÓT SINH HỌC TẠI XÃ THỦY THANH, THỊ XÃ HƯƠNG THỦY
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 47
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
- Khắc phục được sự
mâu thuẩn trong cộng
đồng do chăn nuôi gây
ra ô nhiễm.
- Giảm thiểu ô nhiễm
môi trường do phân
thải lợn gây ra ảnh
hưởng đến sức khỏe
của vật nuôi cũng như
con người, chuồng nuôi
hầu như không có ruồi
nên hạn chế lây truyền
bệnh cho con người
cũng như vật nuôi.
- Mô hình thành công đã tạo điều kiện để phát chăn nuôi lợn ngay ở những vùng dân cư
đông đúc mà trước đây không thể phát triển được do ô nhiễm. Tạo ra sinh kế cho nông dân ở
các vùng này nhằm tăng thêm thu nhập.
- Thông qua mô hình, hộ chăn nuôi đã tiếp thu được tiến bộ kỹ thuật mới về chăn nuôi lợn
trên đệm lót sinh học.
Qua kết quả theo dõi từ mô hình nuôi lợn trên đệm lót sinh học trong vụ Đông Xuân năm
2013-2014 và vụ Hè Thu 2014, bước đầu có thể kết luận như sau:
- Đệm lót sinh học để nuôi lợn đã giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường do phân thải
gây ra, không còn mùi hôi như trước đây, hạn chế ruồi muỗi. Nuôi lợn trên đệm lót rất phù
hợp với các vùng dân cư đông đúc, vùng chăn nuôi ô nhiễm, vùng có nhu cầu sử dụng phân
bón cho cây trồng.
- Lợn sống thoải mái trên đệm lót, sinh trưởng và phát triển tốt, ít bị bệnh.
- Tiết kiệm được nước rửa chuồng và công dọn chuồng hàng ngày.
- Nếu nuôi trong mùa đông lợn được làm ấm nhờ nhiệt phát sinh từ đệm lót sinh học. Nuôi
lợn trên đệm lót sinh học trong mùa hè vẫn đạt kết quả tốt, biện pháp chống nóng đơn giản.
Mô hình nuôi lợn trên đệm lót sinh học đem lại hiệu qủa kinh tế- xã hội và môi trường rất
lớn, cần thiết phải có một chương trình hỗ trợ cho nông dân áp dụng đại trà nhằm phát triển
chăn nuôi bền vững và an toàn sinh học, góp phần xây dựng thành công chương trình nông
thôn mới.
ĐT
(Nguồn: Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư)
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 48
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, quy hoạch phát triển
các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung
theo hướng hàng hóa đang là hướng đi
đúng với chủ trương của tỉnh. Cây hành lá
đã và đang khẳng định rõ nét về hiệu quả
kinh tế, tiến tới phát triển theo hướng hàng
hóa, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập
cho bà con nông dân phường Hương Long,
thành phố Huế.
Hành lá là một trong những loại rau màu
được trồng phổ biến ở Thừa Thiên Huế.
Hành lá có thể trồng quanh năm, thích hợp
trên nhiều loại đất. Thời gian sinh trưởng chỉ
khoảng 45-60 ngày; năng suất bình quân 2
tấn/ha, hiệu quả kinh tế mang lại khá cao.
Nếu như trước đây hành lá chỉ được trồng rải
rác ở một vài nơi, thì nay nó đã được trồng ở
nhiều địa phương trong khu vực, thậm chí có
nơi còn phát triển thành vùng chuyên canh
loại rau màu này như ở phường Hương An,
thị xã Hương Trà.
Tại phường Hương Long,
với diện tích sản xuất rau màu
khoảng 130ha, trồng chủ yếu
các loại cây như đậu xanh, bắp,
kiệu ,…một ít diện tích trồng
hành lá. Tuy vậy, với cách làm
tự phát, phân tán, chưa nắm bắt
được quy trình kỹ thuật, thâm
canh chưa tốt, năng suất cây
hành đạt thấp. Chính vì vậy,
việc giúp người dân tăng năng
suất, chất lượng sản phẩm hành
lá; đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm; nâng cao tính cạnh tranh
trên thị trường…, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của người tiêu dùng, tiến tới phát triển cây
hành theo hướng hàng hóa là hết sức cần thiết.
Vụ hè thu năm 2014, được sự chỉ đạo của
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh,
Trung tâm Khuyến Nông Lâm Ngư đã phối
hợp với HTX Nông nghiệp Hương Long triển
khai thực hiện mô hình sản xuất hành lá với
quy mô 02ha, với sự tham gia của 43 hộ.
Cán bộ Trung tâm đã phối hợp với HTX
tiến hành khảo sát chọn ruộng, chọn hộ làm
mô hình trên cơ sở tiêu chí đặt ra là mô hình
phải đại diện cho vùng sản xuất rau màu của
địa phương; là vùng tập trung; thuận lợi trong
việc quản lý, tưới tiêu, chăm sóc... Ngoài ra,
trong suốt quá trình sản xuất, cán bộ kỹ thuật
của Trung tâm bám sát địa bàn, trực tiếp chỉ
đạo các biện pháp thâm canh; theo dõi tình
hình sinh trưởng, phát triển của cây hành và
diễn biến sâu bệnh hại để cùng bà con nông
dân có giải pháp xử lý kịp thời...
(xem tiếp trang 50)
KẾT QUẢ THỰC HIỆN MÔ HÌNH SẢN XUẤT HÀNH LÁ VỤ HÈ THU 2014
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 49
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
Chị Phạm Thị Thanh Thúy, người trồng
dưa ở thôn 2 xã Hải Dương cho biết: Để
trồng dưa hấu có chất lượng ngon, năng suất
thu hoạch cao như mong muốn thì điều quan
trọng nhất là chú trọng khâu chăm sóc, luôn
quan tâm theo dõi sát sao từ khi trỉa hạt cho
đến các công đoạn tỉa cành, tưới phân, phun
thuốc phòng bệnh đầy đủ. Riêng khâu tưới
nước là quan trọng nhất.
Hiện nay đất được đưa vào sử dụng trồng
dưa hấu dọc theo bờ biển và các ruộng lúa đã
thu hoạch xong vụ hè thu. Đối với vùng đất
cát dọc bờ biển thì công đầu tư làm đất ít hơn
đất trồng lúa. Người trồng dưa phải chọn loại
đất tơi xốp, hệ thống thoát nước tốt, không bị
bóng râm che phủ; diện tích đất đã trồng vụ
trước thì không sử dụng lại lần hai vì dưa hấu
quen chất đất vụ sau năng suất không cao.
Sau khi dọn sạch cỏ bắt đầu cày xới và lên
luống đồng thời gieo hạt ở 2 bên mép luống,
mỗi hốc từ 2 đến 3 hạt, bón lót phân và che
đậy các loại vải phủ để hạn chế lượng
nước bốc hơi giữ độ ẩm cho đất, tránh
xói mòn lớp đất và phân lót phía trên
luống. Phân được bón cho dưa hấu là
loại NPK 16.16.8 KCl, khi bón đầy
đủ, cân đối, đúng thời điểm sẽ mang
lai hiệu quả cao.
Các công đoạn chăm sóc dưa cũng rất
công phu từ khi gieo hạt khoảng thời
gian từ 15 đến 20 ngày lúc đó cây ra
khoảng 3 đến 5 lá. Thời gian này phải
bấm ngọn và số định số cây của mỗi gốc để
dây bò thẳng hàng theo luống. Theo chị Thúy
thì nên để lại 1 dây chính và 2 nhánh 2 bên.
Sau thời gian 20 ngày kế tiếp khi nở hoa rộ
thì phải thực hiện công đoạn thụ phấn. Mỗi
ngày vào lúc 8 đến 9h sáng khi mặt trời lên
cao chọn những hoa đực tốt úp vào các nhụy
hoa cái. Muốn có luống dưa đều trái to và
láng mịn thì nên kiên trì ở khâu thụ phấn.
Đa số các giống dưa hấu đưa vào trồng ở
vùng đất Hải Dương là loại giống lai có kẻ
sọc, trái thon dài mà người dân thường gọi là
dưa “Thái”. Đối với dưa hấu chọn loại thuốc
trừ sâu thích hợp để phun cũng phải rất cẩn
thận và kỹ lưỡng. Phun vào giai đoạn từ khi
trồng cho tới khi thu hoạch, trước ngày trổ
hạt 10 ngày và sau khi trái to bằng quả trứng
thì cứ cách từ 7-10 ngày lại phun vào lá dưa
một lần. Dưa hấu là loại cây rất cần nước do
đó cần tưới nước đầy đủ, lượng nước tưới
phụ thuộc vào tính chất của từng loại đất, khí
Niềm vui của bà con Hải Dương được mùa dưa hấu
Toàn xã Hải Dương (thị xã Hương Trà) có 10 hộ trồng dưa hấu trên diện tích 5ha. Dưa
năm nay được mùa sản lượng ước tính 1 tấn/sào, thu nhập bình quân lãi mỗi hecta 20
triệu đồng/vụ.
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 50
hậu, thời tiết và từng thời kỳ phát triển nhất
là thời điểm cây sinh trưởng và ra trái. Cần
tưới nhiều nước vào lúc trái còn non, sau đó
giảm dần. Nên chú ý tưới nước vào buổi sáng
giúp rễ phát triển nhanh hơn, đồng thời hạn
chế việc sâu lên ăn hại lá. Tuyệt đối tuân thủ
nghiêm ngặt việc pha phân bón ure vào nước
để tưới vì sẽ ảnh hưởng tới ruột dưa không
đặc, nhạt màu và hay bị úng.
Ông Nguyễn Liêm, Chủ tịch UBND xã
Hải Dương cho biết: “Năm nay, các hộ trồng
dưa hấu đều thắng lợi, giá thị trường 6.000
đồng-8.000 đồng/kg”. Theo nhiều bà con
nông dân, sở dĩ năm nay dưa hấu vụ hè-thu
“hốt bạc” là do nguồn cung bị thiếu, hút
hàng. Một nguyên nhân nữa, trong những
năm gần đây, nông dân Hải Dương đã
chuyển lối canh tác theo hình thức chuyển
đổi mùa vụ: 2 lúa-1 bắp, 2 lúa-1 dưa hoặc 2
lúa-1 loại cây trồng nào đó. Tùy từng thời vụ,
xã có cách chuyển đổi canh tác phù hợp.
Nhìn những quả dưa có vỏ màu xanh tươi,
ruột dưa đỏ thắm có trái nặng trên 5kg khi ăn
sẽ cảm nhận được vị ngọt, mát, ruột dưa ít hạt
từ sản phẩm được làm ra của những người
nông dân Hải Dương một nắng hai sương mà
lòng yên tâm phần nào. Thiết nghĩ trong tương
lai các cơ quan chức năng quan tâm hỗ trợ các
hộ trồng dưa về kỹ thuật cũng như đăng ký
nhãn hiệu để nhiều người tiêu dùng biết đến
sản phẩm sạch này rộng rãi hơn. Đồng thời
xem đây là loại cây mang lại giá trị kinh tế (thu
nhập gấp 2 đến 3 lần trồng lúa); nhân rộng mô
hình cho nhiều người để tăng nguồn thu ổn
định cho người nông dân, người tiêu dùng có
sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trương Huyền-Thu Hương
KẾT QUẢ THỰC HIỆN MÔ HÌNH...
(tiếp theo trang 48)
Vụ hè thu năm nay, diễn biến thời tiết khá
phức tạp, nhiều đợt nắng nóng kéo dài, đã tạo
điều kiện thuận lợi cho nhiều đối tượng gây
hại trên hành lá. Do thường xuyên kiểm tra
đồng ruộng, dự tính dự báo và thực hiện các
biện pháp phòng trừ sâu bệnh đồng bộ, kịp
thời có hiệu quả nên đã hạn chế thiệt hại do
sâu bệnh gây ra.
Qua mô hình, người dân nắm bắt và áp
dụng tốt quy trình thâm canh hành lá vào sản
xuất, đồng thời giữa các hộ trong mô hình có
cơ hội chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau nhằm
nhân mở rộng diện tích trồng hành trong
những năm tiếp theo.
Mô hình sản xuất hành lá thật sự đem lại
hiệu quả kinh tế cao, có thể trồng quanh năm,
thích hợp trên nhiều loại đất. Đây là một
hướng đi mới cho sản xuất nông nghiệp ở các
vùng ven đô, trong điều kiện quỹ đất nông
nghiệp ngày càng thu hẹp do nhu cầu phát
triển đô thị và công nghiệp - dịch vụ. Thực tế
này đòi hỏi ngành nông nghiệp, địa phương
cũng như các hộ nông dân phải thay đổi tư
duy trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện
chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng -vật
nuôi, mở ra hướng phát triển cho nông
nghiệp đô thị. Phường Hương Long cần có
định hướng quy hoạch, bố trí sản xuất cây
hành lá với diện tích đủ lớn, tạo ra sản phẩm
mang tính hàng hóa cao, có khả năng canh
tranh, phục vụ cho nhu cầu thị trường trong
và ngoài tỉnh. Nếu đầu tư thâm canh hợp lý,
có thể phát triển phường thành vùng chuyên
canh sản xuất loại rau ăn lá gia vị này, góp
phần giúp người dân tăng thu nhập, cải thiện
đời sống.
PV
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 51
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
Ba ba là loài thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao, không chỉ là một loại đặc sản khoái khẩu
mà còn có khả năng hỗ trợ chữa các bệnh như mồ hôi trộm, viêm thận mạn tính... Trước đây,
nghề nuôi ba ba chưa phổ biến, người ta chỉ bắt được ở những ao, hồ, những con lớn đem bán,
những con nhỏ để nuôi. Ngày nay, khi ba ba đã trở thành hàng hóa, trở thành nghề kinh doanh
của nhiều người, thì phong trào nuôi ba ba đã và đang phát triển dần để đáp ứng nhu cầu của
thị trường.
Ông Lê Bá Khuê ở xã Thủy Dương nay là phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy kể:
Năm 1995, ông ra Hải Hưng làm ăn thấy một số hộ dân nuôi ba ba bằng nguồn giống bắt tự
nhiên, ông thấy thích và đã học cách thức nuôi. Sau đó ông đã mua 100 con ba ba giống (1
lạng/con) đem vào nuôi thử. Sau một năm nuôi thấy ba ba lớn nhanh, không bệnh tật. Đến
đây ông cười bảo “Thế là từ đó tôi có thêm nghề tay trái”. Nghề thợ hồ là nghề chính của ông.
Ông lại kể tiếp, ban đầu ông chỉ nuôi ba ba thịt để bán, nhưng khi ông thấy một vài quả trứng
xuất hiện trên chổ cho ba ba ăn, nên ông đã nảy sinh ra sản xuất giống ba ba. Qua 6 năm sản
xuất giống, hiện nay trong hồ ông có khoảng 200 con ba ba bố mẹ, con to nhất 20kg/con, con
nhỏ nhất được 5-7 lạng/con. Một năm ông bán khoảng 1000 con baba giống, trừ chi phí ông
lãi được hơn 20 triệu đồng/năm. Ông nói nếu vừa nuôi ba ba thịt vừa sản xuất giống thì lợi
nhuận sẽ cao hơn.
Là nông dân với nghề tay trái, một tháng ông kiếm khoảng 2 triệu đồng, một số tiền cũng
không nhỏ. Sở dĩ nghề nuôi ba ba của ông đến nay vẫn là nghề tay trái là do có một số khó
khăn nhất định đó là: diện tích đất của nhà ông chật hẹp chỉ có cái hồ khoảng 100m2 trở lại,
không có đất và vốn để phát triển sản xuất và đầu ra vẫn còn hạn chế.
Trước đây ông nuôi ba ba thịt chủ yếu bán cho các nhà hàng, khách sạn có khi giá lên đến
300 ngàn đồng/kg, nhưng lượng tiêu thụ vẫn còn ít bởi vì ba ba thịt là thứ thực phẩm cao cấp,
chỉ những người giàu mới tiêu thụ. Ba ba có 3 loại: baba trơn, ba ba gai và ba ba đinh, trong
đó giống ba ba đinh nhanh lớn nhất. Ba ba mẹ đẻ trứng tự nhiên, sau đó lấy trứng đem đi ấp
khoảng 60 ngày thì trứng nở thành ba ba con. Ông kể đa số những người mua giống ba ba của
ông đều phải dặn trước, khi có ba ba giống thì gọi điện thoại họ đến lấy, giá một con ba ba
giống cỡ bằng cái muổng cà phê là 30.000đ/con.
Hiện nay, ông đang chuẩn bị mua một miếng đất để đầu tư phát triển nghề nuôi này. Đó là
dự định mà ông Khuê đã ấp ủ mấy năm nay giờ cũng sắp thành hiện thực. Để phát triển một
nghề nuôi thành công như ông Khuê đó cũng là mơ ước của bao người nông dân.
PV
HIỆU QUẢ TỪ MÔ HÌNH NUÔI BA BA Ở PHƯỜNG THỦY DƯƠNG, THỊ XÃ HƯƠNG THỦY
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 52
Cách đây 3 năm, với nghề nuôi cua xanh
người dân chủ yếu thu gom từ nguồn giống tự
nhiên trong đầm phá để nuôi và phụ thuộc vào
tự nhiên nên không đảm bảo về chất lượng và
số lượng. Hiện nay, cua xanh đã có con giống
sinh sản nhân tạo nên giá giống rẻ và chủ động
hơn trước. Thức ăn cho cua là cá tạp, tuy nhiên
trong nuôi thương phẩm cua ăn được thức ăn
công nghiệp. Mặc khác, việc sử dụng thức ăn
công nghiệp để thay thế thức ăn cá tạp trong
nuôi cua thương phẩm giúp người dân chủ
động trong tìm kiếm thức ăn, giảm áp lực đối
với việc khai thác nguồn cá nhỏ để làm thức ăn
cho cua, giảm thiểu ô nhiễm đáy ao nuôi, giữ
được môi trường ao nuôi sạch, hướng tới mô
hình nuôi bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế
cho người nuôi.
Vì vậy để giúp người dân nắm bắt quy trình
nuôi cua sử dụng thức ăn công nghiệp từ nguồn
giống sinh sản nhân tạo, sau đây, Bản tin Khoa
học và Công nghệ xin giới thiệu quy trình kỹ
thuật nuôi cua thương phẩm bằng thức ăn công
nghiệp từ nguồn giống sinh sản nhân tạo.
1. Lựa chọn và xây dựng ao nuôi
Ao nuôi cua có diện tích từ 500m2 đến
5.000m2, độ sâu từ: 1-1,5m, có cống cấp và
thoát nước riêng. Nên chọn nuôi ở những ao
vùng triều để giảm chi phí cho việc cấp và thay
nước. Chọn ao ở vùng chất đất ít bị nhiễm
phèn, chất đáy là bùn pha cát, thịt pha sét,
không có quá nhiều bùn nhão, lớp bùn <10cm,
pH từ 7.5-8.2 và độ mặn từ 10-25‰. Bờ ao: bờ
cần được nén kỹ để chống mọi, rò rỉ và sạt lở.
Bờ ao cao hơn mực nước triều cao nhất ít nhất
là 0,5m. Xung quanh ao cần làm đăng chắn
(rao lưới mùng) quanh bờ không cho cua vượt
bờ ra ngoài, đăng chắn cao từ 0,8-1m. Trong ao
có thể đào các mương sâu 0,3-0,5m từ cống
cấp đến cống thoát. Mương có độ dốc xuôi từ
cống cấp đến cống tiêu nước. Có thể tạo nhiều
gờ nổi diện tích mỗi gờ từ 10-100m2 tuỳ diện
tích ao. Mỗi ao nuôi nên có hai cống ở hai đầu
đối diện nhau, nếu ao hình chữ nhật thì hai
cống sẽ đặt ở hai bờ thuộc chiều rộng. Cống
thoát đặt sát đáy và thông với mương trong ao.
2. Cải tạo ao nuôi
Tháo cạn nước, vét bớt bun đáy, lấp hết lỗ
mội quanh bờ. Tiến hành bón vôi nông nghiệp
với lượng 7-10kg/1.000m2. Sau đó phơi đáy ao
3-5 ngày. Cấp nước vào ao qua hệ thống lưới
lọc, mức nước là 0,6-0,8m. Dung phân urê và
NPK với lượng 2-3kg/1.000m2, hòa tan với
nước ngọt, tạt xuống ao vao khoảng thời gian
từ 9-10 giờ sáng. Sau 3-5 ngày nước lên mau,
tiến hành đo các yếu tố môi trường đảm bảo độ
mặn lớn hơn 10%, pH7.5 đến 8.5, nhiệt độ
250C thì tiến hành thả giống.
3. Chọn và thả giống
- Chọn giống: Nên mua giống tại các trại
giống có uy tín, quen biết để đảm bảo chất
lượng. Chọn cua đồng đều kích cỡ, màu sắc
tươi sáng, cua hoạt động tốt không có dấu hiệu
bệnh, cua đầy đủ que càng không bị tổn
thương, mất mát các phần phụ. Nguồn giống
thả nuôi là cua sinh sản nhân tạo. Có thể chọn
giống cở C2 đến C5 là thích hợp.
- Thả giống: Trước khi thả cần cung cấp độ
mặn của ao nuôi cho trại giống để trại giống
thuần hóa độ mặn. Sự thay đổi độ mặn của cua
giống tại trại giống và ao nuôi tốt nhất không
KỸ THUẬT NUÔI CUA THƯƠNG PHẨM BẰNG THỨC
ĂN CÔNG NGHIỆP TỪ NGUỒN GIỐNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 92014 53
KHOA HỌC VÀ ĐỜI SỐNG
nên quá 5%. Thời gian thả cua là vào lúc sáng
sớm hoặc chiều mát. Tiến hafnh khoát nước
của ao nuôi từ từ vào khay giống để cua quen
với nhiệt độ và độ mặn sau đó từ từ thả cua ra
ao hoặc ra giai. Vì cua có tập tính vùi xuống
đáy nên khi thả cua cần rải đều trong ao tránh
thả tập trung một chỗ cua dễ ăn thịt lẫn nhau
làm giảm tỉ lệ sống, chọn những điểm ở trong
ao có nền đáy sạch cát nhiều để thả giống. Mật
độ thả: 1,5 con/m2.
4 Thức ăn và cách cho ăn
Sử dụng thức ăn công nghiệp loại chìm (là
sản phẩm thức ăn cho tôm có chất lượng, độ
đạm >=22%) để cho cua ăn. Khẩu phần cho ăn:
Tháng nuôi thứ nhất ngày cho ăn 4 lần: 6 giờ
sáng, 10 giờ trưa, 5 giờ và 9 giờ đêm. Tăng gấp
đôi lượng thức ăn khi cho cua ăn vào chiều tối.
Tháng nuôi thứ 2 trở đi cho cua ăn ngày 3 lần
sáng, chiều và tối. Giai đoạn từ lúc thả giống
đến 30 ngày tuổi: Lượng cho ăn đối với 5.000
cua giống. Tuần 1: 0,3-0,5kg/ngày; tuần 2: 0,5-
1,0kg/ngày; tuần 3: 1,0-1,5kg/ngày; tuần 4: 1,5
-2,0 kg/ngày. Giai đoạn sau 15 ngày: Định kỳ
15 ngày/lần dùng chà hoặc rớ để kiểm tra cua,
xác định tỷ lệ sống và trọng lượng đan, cân đối
lượng thức ăn cho phù hợp. Sau 15 ngày đến
hết tháng nuôi thứ 2: Lượng thức ăn cho ăn 10-
7%/ngày/tổng đàn cua nuôi trong ao.
Tháng nuôi thứ 3 trở đi: Lượng thức ăn cho
ăn 7-3%/ngày/tổng đàn cua nuôi trong ao.
Ngoai ra, cho cua ăn thêm thức ăn cá tạp 1
tuần/2 lần. Khi cho cua ăn, rải đều thức ăn đều
khắp hồ để chúng khỏi tranh thức ăn với nhau.
Trong quá trình nuôi định kỳ 15 ngày ăn bổ
sung thêm Vitamin C với liều lượng 3-5g/kg
thức ăn để cho cua ăn liên tục trong 5 ngày
nhằm tăng sức đề kháng cho cua nuôi. Ngoài
ra, vào những thời điểm thời tiết nằng nóng
nhiệt độ nước tăng cao cần bổ sung thêm
Vitamin C, khoáng và men tiêu hóa nhằm tăng
cường sức đề kháng và ngừa bệnh cho cua
nuôi. Kiểm tra lượng thức ăn mà chúng sử
dụng để điều chỉnh tăng giảm bằng cách dùng
vó cho vào sàng 1-2% lượng thức ăn cho mỗi
lần, tránh dư thừa làm ô nhiễm môi trường
nước. Đặc biệt là không để thiếu thức ăn sẽ
tăng nguy cơ ăn thịt lẫn nhau, tỷ lệ sống rất
thấp, khả năng phân đàn cao.
5. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Quản lý các yếu tố môi trường: Hai tuần
đầu, định kỳ 3-5 ngày thay nước 1 lần, mỗi lần
thay từ 20-30% lượng nước trong ao. Từ tuần
nuôi thứ 3 trở đi định kỳ 10 ngày thay nước 1
lần, mỗi lần thay 30-50% lượng nước trong ao.
Định kỳ hàng tuần kiểm tra các yếu tố môi
trường như: độ mặn, pH, độ kiềm, nhiệt độ để
kịp thời điều chỉnh.
Định kỳ hàng tuần, khi trời mua hoặc khi
cua lột xác tiến hành bón vôi với liều lượng
2kg/100m2 để nâng cao và ổn định pH cho ao
nuôi, đồng thời cung cấp Canxi giúp cua tạo vỏ
tốt hơn. Thường xuyên kiểm tra lưới chắn xung
quanh ao, bờ ao, cống nhất là khi trời mưa, lũ
để tránh cua thoát ra ngoài. Quản lý tỉ lệ sống
và tốc độ tăng trưởng của cua nuôi. Định kỳ 15
ngày/lần kiểm tra trọng lượng va ước tỷ lệ sống
cua để điều chỉnh lượng thức ăn cho vừa đủ và
bắt cua lên kiểm tra tốc độ sinh trưởng và tình
trạng sức khỏe của cua để có giải pháp xử lý
kịp thời.
6. Thu hoạch
Khi cua đạt kích cỡ thương phẩm 0,25-
0,3kg/con, ta tiến hành thu cua. Có thể thu tỉa
bằng cách thả rập hoặc thu toàn bộ bằng cách
thu hết giá thể mà cua trú ẩn, rồi tiến hành xả
cạn để bắt cua.
PV (tổng hợp giới thiệu)
VĂN HÓA-XÃ HỘI
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 54
Huyện A Lưới có 5 dân tộc anh em chung
sống trên địa bàn, bao gồm Pacô, Tà ôi, Cơtu,
Pahy và Kinh. Trong những năm qua, đồng
bào các dân tộc ở A Lưới luôn nêu cao truyền
thống đại đoàn kết, quyết tâm thực hiện công
tác ổn định định canh, định cư, thay đổi tập
quán sản xuất và sinh hoạt, từng bước phát
triển kinh tế theo hướng bền vững. Để góp
phần nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc
thiểu số, UBND tỉnh đã thực hiện dự án xóa
nhà tạm cho các hộ nghèo huyện A Lưới. Từ
đó đến nay, toàn huyện đã xây được 2.663
ngôi nhà mới cho người nghèo có nơi ở ổn
định, đạt tiêu chuẩn. Đồng thời, đã tiến hành
giao đất cho các hộ dân trồng mới hơn 6.000ha
rừng, phát triển hơn 600ha cây cao su; hoàn
thành cấp 9.496 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất lâm nghiệp cho đồng bào 20 xã, thị
trấn; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho 2.589 hộ nghèo thuộc chương trình 134;
giải quyết đất sản xuất cho 1.627 hộ với diện
tích 212ha khai hoang; thực hiện hoàn thành
11 công trình cấp nước sinh hoạt, với 5.944
triệu đồng, đảm bảo chất lượng và cung cấp
đầy đủ nhu cầu nước sinh hoạt cho nhân dân.
Nhờ chủ động đẩy mạnh chuyển giao khoa
học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm và
khuyến ngư, trên địa bàn huyện xuất hiện
nhiều mô hình làm kinh tế hiệu quả như gia
đình ông Quỳnh Rê, xã Bắc Sơn điển hình
trong phát triển kinh tế khai hoang, trồng rừng,
hiến đất; gia đình ông Đoàn Minh Liệt, xã A
Ngo phát triển kinh tế vườn, ao, chuồng; gia
đình ông Hồ Văn A Crước, thôn A Chi, xã A
Roàng phát triển cao su, chăn nuôi; gia đình bà
Hồ Thị Thất, thôn Pa Đu, xã Hồng Quảng phát
triển kinh tế và nuôi con một bề (gái); gia đình
ông Phạm Xuân Sơn, xã Hương Phong phát
triển kinh tế; gia đình ông Hoàng Văn Rỏ, thôn
Ka Nôn 1, xã Hương Lâm phát triển chăn nuôi
lợn thịt; gia đình ông Hồ Xuân Thiêng, thôn
Ka Leng, xã Nhâm điển hình trong việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc như làm nỏ, sử
dụng nỏ; gia đình ông Hoàng Văn Lệ và bà
Trần Thị Lưu, xã Sơn Thủy phát triển sản
xuất giỏi.
Bên cạnh đó, thực hiện dự án hỗ trợ phát
triển sản xuất cho các hộ nghèo, huyện đã tiến
hành cấp 35,87 tấn giống lúa; 1,25 tấn ngô;
63.000 cây công nghiệp; 301.000 cây lâm
nghiệp; 28.600 con gia súc...; hỗ trợ cho các hộ
mua sắm thiết bị phục vụ sản xuất như máy
cày, máy tuốt lúa với kinh phí 8.686 triệu
đồng. Ngoài ra, huyện còn đầu tư hơn 54.000
triệu đồng cho hàng chục công trình hạ tầng:
14km đường giao thông, 15 trường học, 11
trạm y tế và các công trình phụ trợ... Đến nay,
100% các xã có đường ô tô đến tận trung tâm,
các thôn, bản đều có đường giao thông đi lại
thuận lợi, góp phần cho phát triển kinh tế, trao
đổi hàng hóa giữa các vùng miền, rút ngắn thời
gian và khoảng cách đi lại của nhân dân.
ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC A LƯỚI NGÀY CÀNG ẤM NO
Cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, huyện miền núi A Lưới trong những năm qua đã huy động được mọi nguồn lực,
phối hợp với các ban, ngành tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác hiệu quả
tiềm năng, thế mạnh, chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền
thống… không ngừng chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào nơi đây.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 55
VĂN HÓA-XÃ HỘI
Đến nay, A Lưới đã giảm tỷ lệ hộ nghèo
xuống còn 13,64%, 9 xã đã thoát nghèo. Hơn
70% hộ có xe máy và một số gia đình đồng
bào ở đây đã có ô tô riêng. Công tác hỗ trợ cải
thiện và nâng cao đời sống của người dân cũng
được huyện quan tâm. Học sinh là con em hộ
nghèo được hỗ trợ đúng chế độ, góp phần nâng
tỷ lệ học sinh huy động đến trường ngày càng
cao, đạt trên 90%. Toàn huyện đã có 13 trường
đạt chuẩn quốc gia và 14 xã được công nhận
đạt chuẩn quốc gia về y tế, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên còn 1,52%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng giảm còn 19,57%. Người dân tộc
thiểu số ở A Lưới trước đây chỉ biết lên nương
rẫy, đi rừng, thì nay đã được học hành, đào tạo
nghề để lập nghiệp. Không ít chàng trai, cô gái
ở các bản, làng đã trở thành những kỹ sư, bác
sĩ, thầy giáo, những cán bộ của tỉnh, huyện, xã.
Những thạc sĩ, bác sĩ, cử nhân đại học, kỹ sư
nông nghiệp là người Pacô, Tà ôi... không còn
là điều hiếm, họ đang là chủ nhân để làm đổi
thay vùng đất này.
Cùng với chăm lo phát triển kinh tế cho
đồng bào, lĩnh vực văn hóa đã được huyện A
Lưới quan tâm đúng mức. Những năm qua,
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” trên địa bàn huyện có nhiều
chuyển biến tích cực góp phần đẩy lùi các tập
tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tạo sự phát triển
đồng bộ giữa kinh tế với văn hóa, góp phần
giữ vững quốc phòng-an ninh và trật tự an toàn
xã hội. Hiện tại, 21 xã, thị trấn của A Lưới đều
đăng ký xây dựng 100% làng, thôn, tổ dân cư
đạt tiêu chuẩn văn hóa, cơ quan văn hóa, gia
đình văn hóa.
Các loại hình văn hóa phi vật thể như dân
ca, dân vũ, dân nhạc, các lễ hội… và các di sản
văn hóa được giữ gìn, bảo tồn và phát huy.
Đến nay, huyện đã tổ chức thành lập được các
đội văn nghệ truyền thống ở các xã, đại diện
cho các dân tộc trong huyện. Cùng đó, huyện
tiến hành mời các nghệ nhân dân gian truyền
dạy lại cho thế hệ trẻ những làn điệu dân ca cổ,
những điệu múa cổ; truyền lại các nghề truyền
thống như dệt dzèng thổ cẩm, đan lát, mộc,
rèn, chạm khắc mỹ nghệ… Hợp tác xã dệt
dzèng A Đớt đã biết vận dụng thời gian lao
động nhàn rỗi trong chị em phụ nữ để tập trung
dệt dzèng phục vụ du lịch và trao đổi hàng
hóa. Chị A Viết Thị Tâm, Chủ tịch Hội Phụ nữ
xã A Đớt, Chủ nhiệm Hợp tác xã cho biết:
“Hiện nay, hầu hết chị em phụ nữ trong xã đều
nhận sợi, cườm, mẫu mã về nhà để dệt, đến
tháng thì đem sản phẩm đến nộp cho ban chủ
nhiệm. Chúng tôi kiểm tra sản phẩm và trả tiền
công cho họ hoặc có thể cho họ ứng trước tiền.
Chúng tôi đi nhập hàng ở Huế, Hà Nội và
Quảng Nam rồi mua lại nguyên vật liệu về để
các chị em làm. Nhờ nguồn thu nhập ổn định
từ 2-2,5 triệu đồng/tháng từ thời gian nông
nhàn mà các hộ nghèo nhờ đó dần dần thoát
nghèo, chị em phụ nữ được mở mang kiến
thức góp phần vào phong trào xây dựng nông
thôn mới”.
Lĩnh vực văn hóa ẩm thực như cơm lam,
rượu cần, rượu đoác, các món ăn đặc sản
truyền thống được phổ biến và đã đưa vào
phục vụ khách du lịch khi đến tham quan. Các
thiết chế văn hoá cũng được chú trọng đầu tư
xây dựng, tính đến đầu năm 2014, toàn huyện
đã xây dựng được 132 nhà sinh hoạt cộng
đồng, khôi phục và dựng được 15 nhà Rông
truyền thống của dân tộc Tà ôi, 3 nhà Gươl
truyền thống của dân tộc Cơtu và 1 nhà Moòng
truyền thống của dân tộc Pacô, 1 nhà sàn du
lịch tại trung tâm thị trấn A Lưới. Dịch chuyển
20 ca khúc hát về Đảng, Bác Hồ, quê hương A
Lưới từ lời Việt sang lời Pacô với nội dung, ý
VĂN HÓA-XÃ HỘI
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 56
nghĩa thiết thực, mang tính nhân văn và giá trị tinh thần sâu sắc cho đồng bào các dân tộc thiểu
số huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là việc làm mang nét giá trị mới, nhằm nâng cao
mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, để họ có thể dễ dàng tiếp cận những thành
quả trong công cuộc đổi mới đất nước như hiện nay. Tiếp tục tạo động lực thúc đẩy tinh thần yêu
nước, nâng cao ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
xây dựng phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, để trân trọng lưu
lại những giá trị tinh hoa ngôn ngữ của dân tộc, giá trị văn hóa nghệ thuật, tuyên truyền, phổ biến
cho đồng bào dân tộc thiểu số hiểu sâu và vững tin hơn về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác kiện toàn bộ máy và đào tạo cán bộ làm công tác văn hóa cũng được cấp ủy, chính
quyền từ huyện đến cơ sở rất quan tâm. Tính đến nay, 100% cơ sở có trưởng ban chuyên trách về
công tác văn hóa được đào tạo đảm bảo theo yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn
hóa ở cả cấp huyện và cơ sở đều tích cực với sự nghiệp văn hóa, được đào tạo đúng chuyên
ngành, nên nhiều người có trình độ, tâm huyết với nghề, có nhiều sáng tạo trong việc khai thác,
dàn dựng, biểu diễn các chương trình nghệ thuật quần chúng, nghệ thuật dân gian, góp phần đưa
sự nghiệp phát triển văn hóa của A Lưới ngày càng tiến bộ.
Khánh Phong
UBND huyện A Lưới vừa tổ chức Hội nghị triển khai đề án Khôi phục và phát triển nghề
truyền thống huyện A Lưới giai đoạn 2014-2020.
Cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết số 05/2014/NQ-HĐND10 ngày 03/7/2014 của HĐND
huyện A Lưới; Quyết định số 1415/QĐ-UBND ngày 25 tháng 7 năm 2014 của UBND huyện
A Lưới về việc phê duyệt Đề án khôi phục và phát triển nghề truyền thống huyện A Lưới giai
đoạn 2014-2020. UBND huyện xây dựng Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 29/8/2014 về triển
khai thực hiện đề án Khôi phục và phát triển nghề truyền thống huyện A Lưới giai đoạn 2014-
2020 với chỉ tiêu, nhiệm vụ và kinh phí thực hiện cụ thể cho từng giai đoạn. Từ năm 2014 đến
năm 2018, xây dựng và hoàn thành hồ sơ thủ tục trình UBND tỉnh công nhận các nghề truyền
thống và làng nghề truyền thống có đủ điều kiện theo quy định. Thành lập các HTX trong các
làng nghề và tiến hành xây dựng nhãn hiệu, đăng ký thương hiệu hàng hóa cho sản phẩm; từ
năm 2019 đến năm 2020, tập trung chỉ đạo phát triển, nâng cao chất lượng cho các nghề
truyền thống để đảm bảo các điều kiện cho việc hình thành một số làng nghề truyền thống trên
địa bàn huyện...
Đề án Khôi phục và phát triển nghề truyền thống triển khai, sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ
phát triển kinh tế-xã hội huyện A Lưới; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông
thôn; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng dần tỷ trọng lao động phi nông nghiệp trong
nông thôn; góp phần bảo tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc của huyện A Lưới.
HT
Khôi phục và phát triển nghề truyền thống huyện A Lưới
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 57
VĂN HÓA-XÃ HỘI
Sứ mệnh và đam mê
Đã đến cái tuổi gần 80 và có hơn 60 năm
gắn bó với cồng chiêng. Già làng Ra Pát Gróoc
ở xã Thượng Long, huyện Nam Đông quý cái
cồng, cái chiêng như chính bản thân mình. Đó
không đơn thuần chỉ là niềm đam mê mà còn
là “sứ mệnh” được lưu truyền từ thế hệ này
đến thế hệ khác. Ông luôn mong muốn sớm
được truyền dạy lại cho thế hệ con cháu những
nét tinh hoa và kinh nghiệm thực tiễn của
chính bản thân mình đúc kết được khi chơi loại
nhạc khí độc đáo này. Già làng Ra Pát Gróoc
bộc bạch: “Mình già rồi, chân tay yếu đi nhiều,
không còn linh hoạt như ngày xưa nữa. Mình
mong muốn truyền lại cho con cháu biết
truyền thống của dân tộc mình. Cái cồng, cái
chiêng là nhạc cụ có từ lâu đời, nó đã chứng
kiến nhiều Lễ hội vui, cũng như buồn của
người đồng bào Cơ Tu chúng tôi”.
Nét đẹp truyền thống
Cồng chiêng là nét đẹp văn hóa truyền
thống đã gắn bó với cuộc sống của người đồng
bào dân tộc thiểu số nói chung và người Cơ Tu
nói riêng từ bao đời nay. Cồng chiêng không
chỉ là tiếng nói của tâm linh, thể hiên tâm hồn
của con người, mà nó còn diễn tả niềm vui, nổi
buồn trong cuộc sống, lao động và sinh hoạt
hàng ngày. Nhưng nay nét đẹp độc đáo đó
đang đứng trước nguy cơ mai một do nhiều
nguyên nhân. Trước hết là bắt nguồn từ những
biến đổi trong đời sống vật chất tinh thần của
cư dân, sự thay đổi trong phương thức canh
tác, mối quan hệ giữa con người với môi
trường tự nhiên; sự bùng nổ công nghệ thông
tin… Trước thực trạng đó, huyện Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên Huế đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, thông qua các nghệ nhân mở lớp truyền
đạt các loại nhạc cụ truyền thống của người Cơ
Tu, qua đó người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ đã
phần nào ý thức hơn công tác bảo tồn và phát
huy giá trị của loại nhạc khí này. Anh A Rét
Châu, học viên lớp cồng chiêng thổ lộ: “Tham
gia lớp học, trước hết là trách nhiệm, sau nữa
là để nối tiếp truyền thống của cha ông mình.
Đây là việc làm ý nghĩa, bổ ích giúp thế hệ trẻ
hiểu thêm và gìn giữ nét đẹp truyền thống của
dân tộc mình”.
Bảo tồn
Trước thực trạng nhiều bản sắc văn hóa tốt
đẹp của dân tộc Cơ Tu bị thất truyền, mai một
và lãng quên, không được người dân, đặc biệt
là thế hệ trẻ quan tâm; trong đó có văn hóa
cồng chiêng. Những lớp truyền dạy cồng
chiêng cần sớm được nhân rộng đến nhiều địa
phương khác để bà con nhân dân tiếp tục gìn
giữ, phát huy giá trị văn hóa, nghệ thuật bản
sắc dân tộc. Qua đó người dân sẽ có điều kiện
tìm tòi, học hỏi thêm những làn điệu cồng
chiêng của các dân tộc anh em trong và ngoài
huyện, góp phần tạo them nhiều màu sắc về
văn hóa của dân tộc Cơ Tu trên địa bàn
huyện Nam Đông.
HT
(Nguồn: website UBND huyện Nam Đông)
Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa cồng chiêng trong xây dựng nông thôn mới
Với “sứ mệnh” của mình, các nghệ nhân ở huyện miền núi Nam Đông, tỉnh Thừa
Thiên Huế đang ngày đêm hăng say, tích cực “truyền lửa” cho thế hệ con cháu để bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng của dân tộc Cơ tu.
TRANG TIN HOẠT ĐỘNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 58
CHUYỂN GIAO THÀNH CÔNG PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG VÀ 02 GÓI KỸ THUẬT KHÁC CHO BỆNH VIỆN ĐA KHOA
THỪA THIÊN HUẾ
Ngày 04/9, ThS, BS Nguyễn Đình Khoa, Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thừa
Thiên Huế cho biết, vừa qua, Bệnh viện Trung ương Huế đã trực tiếp chuyển giao 3 gói kỹ
thuật cao cho khoa Ngoại Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh là: Phẫu thuật thay khớp háng
nhân tạo; Phẫu thuật cắt túi mật nội soi; Phẫu thuật mổ mở lấy sỏi san hô thận. Với trang thiết
bị hiện đại sẵn có cùng với sự giúp đỡ về mặt chuyên môn của Bệnh viện Trung ương Huế,
các phẫu thuật phức tạp này đã được chuyển giao thành công và hiện nay Bệnh viện Đa khoa
tỉnh đã làm chủ, thực hiện độc lập được các phẫu thuật này.
Được biết, theo kế hoạch thì trong thời gian tới Bệnh viện Trung ương Huế sẽ tiếp tục chuyển
giao, triển khai thêm nhiều kỹ thuật mới tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Đây là giải pháp hiệu quả
nhằm tăng cường chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, sử dụng hiệu
quả các trang thiết bị y tế đã được đầu tư, đáp ứng và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người bệnh
ngay trên địa bàn cũng như giảm tình trạng quá tải bệnh nhân cho tuyến trung ương.
Xuân Trường
Cuối tháng 8 vừa qua, Cục An toàn
bức xạ và hạt nhân phối hợp với Sở Khoa
học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế
tổ chức khóa huấn luyện an toàn bức xạ
trong y tế và công nghiệp cho các học
viên là nhân viên bức xạ của các cơ sở
bức xạ trong y tế và công nghiệp.
Tại lớp tập huấn, đại diện Trung tâm
Hỗ trợ kỹ thuật An toàn bức xạ và ứng phó
sự cố, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã
trình bày một số nội dung liên quan trong
lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân như: Bức xạ ion hóa-Khái niệm cơ bản; Các đại lượng và
đơn vị đo dùng trong lĩnh vực an toàn bức xạ và các nguyên lý an toàn bức xạ cơ bản; Hiệu ứng
sinh học của bức xạ; Quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân; An toàn bức xạ trong X-
quang chẩn đoán...
Kết thúc khóa huấn luyện, các học viên đã làm bài kiểm tra và được cấp Giấy chứng nhận
về nhân viên an toàn bức xạ và hạt nhân.
Vỹ Khang
HUẤN LUYỆN AN TOÀN BỨC XẠ TRONG Y TẾ VÀ TRONG CÔNG NGHIỆP
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 59
TRANG TIN HOẠT ĐỘNG
KHỞI ĐỘNG DỰ ÁN “XÂY DỰNG NĂNG LỰC CHO CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM VÀ
THÀNH LẬP TRUNG TÂM ĐÀO TẠO CẤP CỨU Y KHOA”
Ngày 25/8/2014, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế phối hợp với Trường Đại học
Cheju-Halla, Hàn Quốc đã tổ chức hội thảo giới thiệu dự án “Xây dựng năng lực cho chương
trình đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam và thành lập trung tâm đào tạo cấp cứu y khoa” tại
Trường Đại học Y Dược Huế (2014-2018) thuộc chương trình dự án “Hợp tác quốc tế đóng
vai trò định hướng các chương trình của trường đại học” do Bộ Giáo dục Hàn quốc, Quỹ
Nghiên cứu Hàn quốc và Trường Đại học Cheju Halla (CHU) tài trợ.
Các hoạt động chính của dự án tại bao gồm: Xây dựng năng lực giảng dạy điều dưỡng dựa
vào thực hành; Thiết kế hệ thống đào tạo điều dưỡng trực tuyến; Thành lập trung tâm đào tạo
cấp cứu y khoa; thành lập trung tâm nghiên cứu giáo dục cộng đồng và trao đổi văn hoá Việt
Nam-Hàn quốc.
Đây là hợp tác chính thức đầu tiên giữa Trường Đại học Y Dược Huế và Đại học Cheju-
Halla, Hàn Quốc với mục tiêu nâng cao năng lực đội ngũ điều dưỡng tại tỉnh Thừa Thiên Huế
nói chung và Trường Đại học Y Dược nói riêng, đồng thời, tăng cường giao lưu văn hóa giữa
Việt Nam-Hàn Quốc.
ĐT
Ngày 18/9, UBND huyện A Lưới tổ chức lớp tập huấn phổ biến kiến thức về chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn huyện.
Trong thời gian 2 ngày (18-19/9), các học viên đã được truyền đạt nội dung các văn bản,
quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Trung ương về công tác xây dựng nông thôn mới
gồm: Quyết định 342/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về sửa đổi một số tiêu chí trong Bộ
Tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới; Quyết định 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Đồng thời, hướng dẫn việc đăng ký, rà
soát, công nhận hộ gia đình nông thôn mới; xây dựng báo cáo định kỳ và đột xuất về việc
triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới theo mẫu yêu cầu thống nhất của
Trung ương và một số kỹ năng vận động tuyên truyền.
Thông qua tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trên địa
bàn huyện về triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
qua đó tạo sự đồng thuận trong xã hội và phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động khắc
phục khó khăn của các tầng lớp nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn.
HT
TẬP HUẤN CÔNG TÁC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRANG TIN HOẠT ĐỘNG
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 9/2014 60
UBND huyện Phú Lộc vừa ban hành kế hoạch phòng chống dịch bệnh thủy sản năm 2015
với mục tiêu cụ thể khống chế diện tích dịch bệnh nguy hiểm dưới 5% diện tích thả nuôi.
Theo kế hoạch, sẽ kiểm dịch 90% giống thủy sản sản xuất trong huyện; kiểm tra 80%
giống tôm nhập từ ngoài huyện về trước lúc thả nuôi; phấn đấu 100% mẫu tôm bệnh, tôm
giống được lấy mẫu gửi đến xét nghiệm tại Trạm chẩn đoán xét nghiệm và điều trị bệnh động
vật; đào tạo, tập huấn công tác thú y thủy sản cho 80% cán bộ thú y tại các huyện, xã vùng
đầm phá; tập huấn công tác phòng, chống dịch bệnh cho trên 100 hộ nuôi thủy sản…
Nội dung thực hiện sẽ tập trung vào công tác giám sát dịch bệnh và xử lý ổ dịch; kiểm
dịch, kiểm soát vận chuyển giống thủy sản; kiểm tra điều kiện vệ sinh thú y thủy sản…
Tiến hành giám sát thường xuyên, tất cả các đối tượng thủy sản nuôi mắc các bệnh nguy
hiểm đều phải được phát hiện và báo cáo kịp thời. Sau đó được kiểm tra và xử lý nhanh, gọn,
không để lây lan trên diện rộng. Trong trường hợp nghi mắc bệnh cần thu mẫu bệnh phẩm đưa
về Trạm Chẩn đoán xét nghiệm và điều trị bệnh động vật để xác định tác nhân gây bệnh và có
hướng xử lý phù hợp, hiệu quả.
Giám sát chủ động tôm chân trắng và tôm sú để phát hiện sự lưu hành của virus bệnh đốm
trắng, bệnh hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV) thông qua thu mẫu giám sát và xét
nghiệm định kỳ ở vùng nuôi và các trại giống. Chọn 2 xã: Lộc Điền, Vinh Hưng, mỗi xã 4 hộ,
mỗi hộ thu 2 mẫu/tháng; thời gian lấy mẫu: Từ tháng 2 đến tháng 5, tại trại giống: 5 ngày/lần,
tại vùng nuôi 15 ngày/lần. Khi xác định hồ nuôi bị dịch bệnh nguy hiểm phải tiến hành xử lý
ngay không để lây lan trên diện rộng.
HT
PHÚ LỘC: CHỦ ĐỘNG CHỐNG DỊCH BỆNH THỦY SẢN NĂM 2015
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế đang hoàn tất hồ sơ khoa học
trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận nghề dệt zèng (thổ cẩm) của người Tà Ôi
ở huyện miền núi A Lưới là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Hiện hồ sơ này đã được xây dựng khá đầy đủ, gồm hình ảnh mô tả quy trình kỹ thuật dệt
zèng, nghệ nhân dệt zèng, các sản phẩm và mẫu hoa văn, phim tư liệu khoa học về những
giá trị đặc trưng của nghề dệt zèng Tà Ôi...
Đây là hoạt động nhằm khôi phục, phát triển nghề dệt zèng truyền thống đang đứng
trước nguy cơ thất truyền, qua đó gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của đồng
bào Tà Ôi.
ĐT
ĐƯA DỆT ZÈNG THÀNH DI SẢN QUỐC GIA