a vĂn phÒng chÍnh phỦ cỤc kiỂm soÁt thỦ tỤc hÀnh...

27
a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐIỂM BÁO Ngày 09 tháng 3 năm 2017

Upload: others

Post on 05-Sep-2019

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

a

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ

CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

ĐIỂM BÁO

Ngày 09 tháng 3 năm 2017

Bộ, ngành

1. Nỗi lo hỗn loạn thị trường gạo và cải cách tư pháp

2. Bỏ hộ khẩu: Tại sao không?

3. Những vấn đề đặt ra từ việc cấp phù hiệu xe tải

4. Dự thảo Thông tư quy định về thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu

5. Chưa thỏa mãn với dịch vụ công trực tuyến

6. Lối thoát pháp lý cho giao dịch viết tay

7. Biểu mẫu thuế hay thay đổi gây phiền hà nhất cho doanh nghiệp

Địa phương

8. Thách thức trong xây dựng chính quyền điện tử: Đi tìm công dân điện tử, cách nào?

9. Thuận tiện như cấp điện online

10. Nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua bưu điện

1. Nỗi lo hỗn loạn thị trường gạo và cải cách tư pháp

Những động thái mới từ Bộ Công Thương trong việc sửa các điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng gỡ bỏ những rào cản vô lý tạo ra sự phân biệt đối xử với doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) là những tín hiệu tích cực cho thị trường xuất khẩu gạo. Nhưng trong dài hạn, muốn phát triển bên vững thị trường gạo nói riêng và thị trường nông sản nói chung, một yếu tố thể chế quan trọng nữa cần phải được cải cách, đó là hệ thống tòa án và các thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại.

Một trong những “căn cứ” được viện dẫn chủ yếu cho việc đặt ra các điều kiện kinh doanh, hạn chế SMEs tham gia thị trường, đó là những lo ngại về việc “doanh nghiệp gây hỗn loạn thị trường”. Logic cho lập luận này là: nhiều SMEs tham gia thị trường, tranh mua nguyên liệu xuất khẩu, khiến người sản xuất phá vỡ cam kết từ trước để bán cho doanh nghiệp khác với giá cao hơn, gây hỗn loạn thị trường trong ngắn hạn. Đây là những lo ngại xác đáng. Trên thực tế nó đã xảy ra và cũng đang xảy ra với nhiều ngành hàng nông sản khác, chứ không riêng gì gạo. Tuy nhiên, vấn đề phá vỡ cam kết hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp cần có một cách tiếp cận khác chứ không phải là can thiệp hành chính vào thị trường bằng điều kiện kinh doanh.

Trong dài hạn, muốn phát triển bên vững thị trường gạo nói riêng và thị trường

nông sản nói chung, một yếu tố thể chế quan trọng nữa cần phải được cải cách, đó

là hệ thống tòa án và các thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại.

Vi phạm cam kết hợp đồng mua bán nông sản và hệ quả với thị

trường

Các thỏa thuận mua bán giữa người sản xuất, mà đa phần là nông dân

sản xuất nhỏ, với doanh nghiệp là một hợp đồng kinh tế. Vì thế, khi một

bên giao kết vi phạm các điều khoản hợp đồng, bên vi phạm có trách

nhiệm phải bồi thường thiệt hại. Về nguyên tắc, nếu người trồng lúa đã

ký hợp đồng bán lúa cho doanh nghiệp với giá cam kết nhưng lại đem

lúa đó bán cho bên khác (vì giá bán cao hơn, chẳng hạn) tức là người

đó đã phá vỡ hợp đồng, sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên mua. Ở

chiều ngược lại, nếu doanh nghiệp đã ký hợp đồng mua sản phẩm của

người nông dân với giá cam kết mà không thực hiện, doanh nghiệp cũng

vi phạm hợp đồng.

Tuy nhiên, trong các khảo sát thực tế của người viết, cũng như quan sát

qua báo chí, có hai vấn đề trong quan hệ mua bán ở đây. Thứ nhất, việc

giao kết hợp đồng bằng giấy tờ chưa phải là hành vi phổ biến của các

bên. Thứ hai, kể cả khi có hợp đồng thì tình trạng vi phạm hợp đồng xảy

ra rất thường xuyên. Và khi vi phạm hợp đồng, ít thấy trường hợp nào

mà bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại, dù đó là doanh nghiệp hay

người sản xuất. Hệ quả của việc vi phạm hợp đồng mà không bị trừng

phạt là doanh nghiệp, nếu giá thị trường tại thời điểm mua thấp hơn cam

kết ban đầu, sẵn sàng ép giá nông dân, vi phạm cam kết giá ban đầu.

Và ngược lại, với người nông dân, nếu giá thị trường cao hơn, họ cũng

sẵn sàng phá hợp đồng, bán cho bên khác trả giá cao hơn. Chuyện

“mua tranh, bán cướp”, chạy theo lợi ích ngắn hạn cũng vì thế mặc

nhiên diễn ra. Kết quả là thị trường hỗn loạn, cả người sản xuất lẫn bên

mua đều chịu thiệt hại.

Trên thị trường nông sản xuất khẩu, các doanh nghiệp có cung cách làm

ăn chuyên nghiệp tham gia ngày càng nhiều hơn. Nhưng với quy mô

vùng nguyên liệu thường là hạn chế, hầu hết doanh nghiệp không tự chủ

hoàn toàn nguyên liệu mà cần mua bổ sung. Họ chú trọng đến việc giao

kết hợp đồng với người sản xuất nhỏ lẻ trong vùng nguyên liệu. Tuy

nhiên, chuyện nông dân cam kết bán, rồi không bán vẫn diễn ra phổ

Gỡ bỏ những rào cản tạo môi trường độc quyền cho doanh

nghiệp lớn mới chỉ là những bước đi đầu tiên. Để các bên tham

gia thị trường hành xử chuyên nghiệp, tôn trọng và bảo vệ lợi

ích lâu dài của nhau, cần đến cả những thiết chế tư pháp hiệu

quả.

biến. Và doanh nghiệp vẫn phải chịu thiệt hại, bởi việc chế tài vi phạm

vượt ra ngoài khả năng của họ.

Hệ thống tư pháp yếu kém

Hệ thống tư pháp kém phát triển là yếu tố căn bản khiến vấn đề này

chưa có những thay đổi tích cực trong suốt thời gian qua. Khi xảy ra

tranh chấp, các bên thường không tìm đến tòa hoặc một thiết chế giải

quyết tranh chấp thương mại để giải quyết. Lý do được viện dẫn khá

nhiều: trong khi giá trị hợp đồng nhỏ, thời gian và chi phí giải quyết tranh

chấp tại tòa có khi còn lớn hơn giá trị bồi thường nhận về. Rồi nữa, kể

cả khi tòa xử bên vi phạm bồi thường, việc thi hành án thường kéo dài,

và chưa chắc cơ quan thi hành án đã thực hiện được thành công phán

quyết của bản án. Sự thiếu vắng một thiết chế tư pháp hiệu quả, rốt

cuộc đã trở thành yếu tố cản trở sự phát triển theo xu hướng chuyên

nghiệp của thị trường nông sản nói chung, thị trường lúa gạo nói riêng.

Gỡ bỏ những rào cản tạo môi trường độc quyền cho doanh nghiệp lớn

mới chỉ là những bước đi đầu tiên. Để các bên tham gia thị trường hành

xử chuyên nghiệp, tôn trọng và bảo vệ lợi ích lâu dài của nhau, cần đến

cả những thiết chế tư pháp hiệu quả.

Đáng tiếc, hệ thống tư pháp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cải

cách kinh tế trong suốt giai đoạn vừa qua. Điều đó góp phần tạo ra một

vòng luẩn quẩn: vì thiếu thiết chế tư pháp, những quan hệ dân sự - kinh

tế bị rối loạn mà không khắc phục được (dẫn đến những rối loạn của thị

trường trong ngắn hạn). Điều đó rốt cuộc lại tạo căn cứ cho “cơ quan

quản lý” viện dẫn lý lẽ phải can thiệp bằng hành chính: đặt ra các điều

kiện kinh doanh. Mà hệ quả của điều kiện kinh doanh là giấy phép, là xin

- cho và làm méo mó thêm thị trường.

Cải cách và hoàn thiện hệ thống thị trường lâu nay đang thiếu quan tâm

đến một mảnh ghép quan trọng - hệ thống tòa án, thiết chế giải quyết

tranh chấp thương mại. Đổi mới hệ thống tư pháp, do đó là yêu cầu bức

thiết khi đi vào chiều sâu của kinh tế thị trường. Bởi không chỉ riêng thị

trường lúa gạo, mọi loại thị trường khác không thể vận hành hiệu quả

nếu thiếu hệ thống tư pháp mạnh và hiệu quả.

Theo thesaigontimes.vn

2. Bỏ hộ khẩu: Tại sao không?

Nhiều quốc gia khác thường chỉ cần thẻ căn cước là đủ. Sổ hộ

khẩu là khái niệm xa lạ với quản lý hành chính tiên tiến.

Cuộc khảo sát do Ngân hàng thế giới và Viện hàn lâm khoa học xã hội

Việt Nam thực hiện tại 5 tỉnh, thành phố là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng,

Bình Dương và Đắk Nông công bố đã cho thấy, có ít nhất 5,6 triệu người

không có hộ khẩu thường trú ở nơi cư trú, trong đó tỉ lệ ở TP.HCM lên

tới 36% dân cư, còn tại Hà Nội là 18%...

70% người dân được khảo sát cho rằng, cuốn sổ này làm hạn chế

quyền lợi, khiến họ không bình đẳng với người có hộ khẩu thường trú và

tạo cơ sở cho tiêu cực, tham nhũng.

Nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, việc nhiều loại giấy tờ hành chính yêu

cầu có số hộ khẩu là không cần thiết. Trong trường hợp có quy định

pháp lý thì chỉ cần xác nhận đích danh cá nhân nào, không cần xác định

cả hộ gia đình. Khi truy ra người đó sinh sống ở đâu, nếu người một nơi,

sổ hộ khẩu một nơi thì cũng không có giá trị cao. Nhiều quốc gia khác

thường chỉ cần thẻ căn cước là đủ. Sổ hộ khẩu là khái niệm xa lạ với

quản lý hành chính tiên tiến.

Cái lỗi dễ nhận thấy là lâu nay chính do suy nghĩ cục bộ đã biến hộ khẩu

thành một thứ “giấy phép”. Dùng hộ khẩu để quản lý nhân khẩu, nhưng

cần xác định đây chỉ là nghiệp vụ của ngành công an. Nhiều ngành,

nhiều nơi đang lợi dụng hộ khẩu như một điều kiện và đã đẩy hộ khẩu

vượt ra mục đích quản lý con người mà ngành công an đặt ra.

Đơn cử như, muốn dùng điện nước theo giá tiêu chuẩn thì phải có hộ

khẩu. Công an đâu đặt ra thủ tục đó? Muốn đặt đồng hồ điện, đồng hồ

nước phải là chủ nhà. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải có giấy chứng nhận

nhà ở - đất ở, chứ đâu cần phải hộ khẩu. Chẳng qua là từng ngành cứ

muốn xác định vị trí của ngành mình rồi ra điều kiện. Chuyện tuyển nhân

lực cũng vậy, nếu lấy tiêu chí chọn nhân tài phù hợp với nhiệm vụ mà

địa phương đang cần thì không cần hộ khẩu gì hết, chỉ cần xác định

bằng cấp chuyên môn và năng lực thực tế. Nhưng thực tế nhiều địa

phương vẫn muốn vin vào hộ khẩu. Như vậy lỗi cũng đâu phải do hộ

khẩu?.

Hộ khẩu không là cái gì cả, nhưng vì từng ngành lại không biết căn cứ

vào loại giấy tờ nào để xét duyệt và cứ chọn hộ khẩu cho chắc ăn. Bản

thân hộ khẩu không có lỗi gì mà chính suy nghĩ cục bộ của từng ngành,

từng địa phương đã biến hộ khẩu thành một thứ "giấy phép".

Có những bất cập nhất định trong quản lý các vấn đề kinh tế - xã hội. Ví

dụ như chuyện giải quyết vấn đề học hành. Đúng ra phải dựa vào tình

trạng cư trú thực tế, khả năng, nhu cầu của người dân cũng như khả

năng của các cơ sở giáo dục thì người ta lại dựa vào hộ khẩu để phân

bổ, điều tiết khu vực. Thực tế này tạo ra áp lực, tạo ra nhận thức không

đúng về hộ khẩu, xem hộ khẩu là thứ giấy phép đầu tiên, trong khi thực

chất không phải như vậy.

Có thể nói dùng hộ khẩu làm điều kiện vô hình trung làm hạn chế quyền

công dân, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của địa phương, của

quốc gia.

Thật ra bản chất của hộ khẩu chỉ là một loại giấy tờ chứng nhận thực

trạng người dân đang cư trú để cơ quan chức năng quản lý. Các thủ tục

về quản lý cư trú là chỉ để ghi nhận thực trạng cư trú của công dân ở

những mức độ và hình thức khác nhau. Ta thống kê, quản lý là để nắm

thực trạng chứ không phải để phân biệt công dân hạng 1, công dân

hạng 2, không phải là cấp phép cho ở hay không cho ở. Còn người ta có

ở được hay không lại phụ thuộc công ăn việc làm, chỗ ở, điều kiện của

nơi họ cư trú.

Quy định như vậy là hướng tới quyền lợi của công dân nhiều hơn chứ

không phải chỉ vì nhu cầu quản lý của cơ quan nhà nước. Xét từ mục

đích quản lý của cơ quan chức năng, việc không cho người dân thực tế

sinh sống ổn định trên địa bàn đăng ký hộ khẩu đã đi ngược lại mục đích

quản lý. Đây là một việc làm, cách hành xử chứa đựng đầy mâu thuẫn.

Có ý kiến cho rằng vì mục đích bảo đảm an ninh trật tự xã hội nên hạn

chế nhập hộ khẩu vào thành phố. Ý kiến này xem ra không ổn. Dù sao

người nơi khác đến thành phố cư trú mà không cho đăng ký hộ khẩu

thường trú thì họ vẫn có quyền ở, lao động, học tập... bình thường. Vì

quyền này đã được Hiến định. Cho nên ngược lại rất cần cho đăng ký hộ

khẩu để quản lý nhằm bảo đảm an ninh trật tự.

Thật tình người muốn được đăng ký hộ khẩu là người mong muốn yên

ổn, làm ăn lương thiện, được sống minh bạch như mọi người trong cộng

đồng. Trái lại những phần tử có nguy cơ gây bất ổn an ninh trật tự, hay đã

từng gây tiền án tiền sự thì không dại gì chường mặt ra đăng ký hộ khẩu.

Cũng có lập luận rằng, cho nhập cư nhiều quá vào thành phố sẽ ảnh

hưởng đến phúc lợi vốn có của người dân thành phố. Phải nhìn nhận

rằng, thật ra người từ nơi khác đến thành phố là những người năng

động, dám đương đầu với thách thức, có chí tiến thủ, một bộ phận chấp

nhận làm những việc xã hội có nhu cầu mà dân gốc thành phố không

muốn làm... Nói chung họ đóng góp nhiều hơn cái họ được hưởng. Xét

trên bình diện kinh tế, đóng góp của họ góp phần cho tăng trưởng của

thành phố. Công bằng mà nói, luồng người nhập cư vào thành phố

mang theo lối sống nông thôn của nông dân không phù hợp lối sống của

một đô thị của thị dân. Nhưng những điều này không đủ sức kéo đô thị

xuống mà đô thị sẽ kéo họ lên theo một quy luật cá thể phải thích nghi

với môi trường nếu muốn tồn tại.

Đã đến lúc phải thay đổi tư duy về hộ khẩu. Nếu cơ quan nhà nước

muốn quản lý được người dân của mình, biết họ đang sinh sống ở đâu,

làm gì... thì phải thay đổi quan niệm và phương thức đăng ký hộ khẩu.

Có nên chăng ta sử dụng “thẻ cư trú cá nhân” dạng thẻ từ, có đầy đủ

các chi tiết cần thiết về nhân thân của người dân, dùng để đăng ký chỗ

đang cư trú thường xuyên, tạm trú, tạm vắng, thay cả cho chứng minh

thư; dùng phương thức đăng ký tự động hay tại các trạm đăng ký, nối

mạng toàn quốc... Trình độ ngày nay hoàn toàn có thể làm được khi sử

dụng triệt để công nghệ thông tin...

Muốn quản lý một xã hội để nó phát triển hài hòa, phát triển theo hướng

công bằng, dân chủ và văn minh, trước tiên và tiên quyết phải tạo sự

đồng thuận giữa cơ quan quản lý và đối tượng chịu sự quản lý. Vấn đề

hộ khẩu xử lý như thế nào để tạo sự đồng thuận trong xã hội hiện nay là

một thách thức không nhỏ cho chính quyền các đô thị. Điều quan trọng

là không thể tránh né trì hoãn mà phải đối mặt với thách thức.

Theo thanhnien.vn

3. Những vấn đề đặt ra từ việc cấp phù hiệu xe tải

Theo Nghị định 86 của Chính phủ, trước ngày 1-1-2017, xe ô tô kinh

doanh vận tải (KDVT) hàng hóa có tải trọng thiết kế từ 3,5 tấn đến

dưới 7 tấn phải gắn phù hiệu xe tải và thiết bị giám sát hành trình.

Đến nay, sau hơn 2 tháng thực hiện, nhiều phương tiện đã chấp

hành tốt song vẫn còn không ít phương tiện có trọng tải từ 3,5 đến

dưới 7 tấn chưa được cấp phù hiệu.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ GTVT, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Sở

GTVT đã có văn bản đề nghị các địa phương phối hợp tăng cường trên

hệ thống loa truyền thanh, các buổi sinh hoạt tập thể tại khu dân cư… và

yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện. Đặc biệt, Sở phối hợp với lực

lượng CSGT tập trung rà soát tất cả các tổ chức, cá nhân KDVT có xe

tải trọng từ 3,5 đến dưới 7 tấn (kể cả các hộ kinh doanh cá thể) để

hướng dẫn các thủ tục, điều kiện cụ thể phải thực hiện để được cấp giấy

phép KDVT và phù hiệu xe KDVT hàng hóa theo quy định. Theo thống

kê, đến thời điểm này đã có 540 xe tải trên 10 tấn, 670 xe tải từ 7 đến

dưới 10 tấn và 490 xe vận tải hàng hóa có tải trọng từ 3,5 đến dưới 7 tấn

của các đơn vị, doanh nghiệp, HTX được cấp giấy phép kinh doanh vận

tải và đăng ký phù hiệu. Hiện tại, Sở GTVT tỉnh đang triển khai việc cấp

phù hiệu vận tải theo hình thức dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4, nghĩa

là người dân, doanh nghiệp có thể khai báo các thủ tục qua môi trường

mạng internet và không thu phí. Ông Nguyễn Hồng Hải, Phó Giám đốc

Công ty Đại Tân TNHH (xã Phù Lãng, huyện Quế Võ) cho biết, hiện tại

Công ty có 170 xe tải, trong đó có 140 xe từ 3,5 tấn trở lên. Đến nay

100% số xe từ 3,5 tấn trở lên đã được Công ty làm thủ tục cấp phù hiệu

xe tải theo quy định. Đặc biệt, từ thời điểm Sở GTVT áp dụng hình thức

dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với việc cấp phù hiệu vận tải, việc

làm thủ tục, hồ sơ của doanh nghiệp đã đơn giản và thuận tiện hơn

nhiều. Đây cũng là đánh giá của anh Dương Văn Bách, Trưởng phòng

Giao nhận vận tải, Công ty TNHH Tiếp vận Thái Dương (thành phố Bắc

Ninh) cũng như đại diện nhiều doanh nghiệp, chủ xe khác.

Thanh tra giao thông kiểm tra việc cấp phù hiệu xe tải.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc cấp phù hiệu cho xe tải có tải

trọng từ 3,5 tấn trở lên vẫn tồn tại không ít những bất cập, khó khăn. Cụ

thể, theo Nghị định 86/2014/NĐ-CP, tất cả các xe tải từ 3,5 tấn trở lên

khi lưu thông phải có giấy phép kinh doanh và dán phù hiệu khi lưu

thông. Thế nhưng theo Điều 50, Thông tư 63/2014/TT-BGTVT quy định:

Đối tượng được cấp giấy phép kinh doanh và phù hiệu phải có từ 5 xe ô

tô trở lên. Trong khi đó, trên địa bàn có khá nhiều đơn vị KDVT chỉ có từ

1 đến 3 xe nên việc phổ biến đến các chủ phương tiện về các quy định

gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, theo quy định thì các doanh nghiệp

khi xin cấp phép phải có “Người điều hành vận tải phải có trình độ

chuyên môn về vận tải từ trung cấp trở lên hoặc trình độ từ cao đẳng trở

lên đối với các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật khác và có thời gian công

tác liên tục tại đơn vị vận tải từ 3 năm trở lên”. Điều này cũng khá khó

khăn đối với các hộ kinh doanh cá thể. Ngoài ra, đối với những trường

hợp xe đã thực hiện sang tên, đổi chủ nhiều lần cũng gặp khó khăn

trong việc xác định quyền sử dụng hợp pháp của phương tiện khi làm

thủ tục xin cấp phù hiệu.

Dù đã có nhiều phương tiện vận tải có tải trọng từ 3,5 tấn trở lên được

cấp phù hiệu vận tải, song trên thực tế số xe chưa được cấp giấy phép

kinh doanh vận tải và phù hiệu còn rất lớn. Chính vì thế, trong thời gian

tới, Sở GT-VT sẽ chỉ đạo Thanh tra Giao thông tiếp tục phối hợp với lực

lượng chức năng trên địa bàn thắt chặt kiểm tra giám sát cũng như

thông báo, tuyên truyền cho người dân về lộ trình gắn phù hiệu cho xe ô

tô kinh doanh vận tải hàng hoá. Đồng thời, chỉ đạo các Trung tâm Đăng

kiểm xe cơ giới tăng cường tuyên truyền về việc thực hiện gắn phù hiệu

cho xe tải đối với các xe này khi đến thời hạn đăng kiểm. Đề nghị Cảnh

sát giao thông, Công an tỉnh tăng cường tuần tra kiểm soát, phát hiện,

hướng dẫn người dân làm thủ tục cấp phù hiệu vận tải, đồng thời xử lý

nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm. Bên cạnh đó, Sở tiếp tục triển

khai dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với hoạt động vận tải, xây

dựng hệ thống phần mềm quản lý, phân tích số liệu và thống kê chính

xác tình hình các phương tiện vận tải. Từ đó, góp phần quản lý, giám sát

phương tiện, đảm bảo an toàn giao thông trên địa bàn.

Theo baobacninh.vn

4. Dự thảo Thông tư quy định về thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu

Tổng cục Hải quan được Bộ Tài chính giao chủ trì sửa đổi Thông tư

số 38/2015/TT-BTC, trong đó có quy định các chứng từ thuộc bộ hồ

sơ hải quan, doanh nghiệp không phải nộp trực tiếp dưới dạng bản

giấy cho cơ quan hải quan mà gửi dưới dạng dữ liệu điện tử hoặc

bản scan qua Hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử.

Có 11 nhóm vấn đề về thủ tục hải quan được sửa đổi, bổ sung Thông tư

38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan.

Cụ thể, tại dự thảo Thông tư, có 11 nhóm vấn đề về thủ tục hải quan

được sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy

định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu

(XK), thuế nhập khẩu (NK) và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu đang được lấy ý kiến rộng rãi cộng đồng doanh nghiệp và

người dân.

Về hồ sơ hải quan, dự thảo thông tư bổ sung quy định “Hồ sơ người

khai hải quan phải lưu giữ, cụ thể như sau:

Quy định Hồ sơ hải quan bao gồm: Tờ khai hải quan hàng hóa XK,

NK; Giấy phép XK, NK đối với hàng hóa phải có giấy phép; Giấy thông

báo miễn kiểm tra hoặc giấy thông báo kết quả kiểm tra của cơ quan

kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật; Hợp đồng mua bán

hàng hóa hoặc các hình thức có giá trị tương đương; Chứng từ xác

nhận tổ chức, cá nhân đủ điều kiện XK hàng hóa theo quy định của pháp

luật về đầu tư: 01 bản chụp;

Ngoài ra hồ sơ còn có Chứng từ xác nhận hàng hóa đủ điều kiện XK

theo quy định của pháp luật chuyên ngành: 01 bản chụp; Hóa đơn

thương mại trong trường hợp người mua phải thanh toán cho người

bán; Vận tải đơn hoặc các chứng từ vận tải khác có giá trị tương đương;

Chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa; Phiếu đóng gói hàng hóa (nếu

có); Tài liệu kỹ thuật, catalogue, bản phân tích thành phần, chứng thư

giám định liên quan đến hàng hóa XK, NK (nếu có);

Danh mục máy móc thiết bị và Phiếu theo dõi trừ lùi khi khai báo mã số

đối với trường hợp phân loại máy liên hợp hoặc tổ hợp máy thuộc các

Chương 84, 85 và 90 của Danh mục hàng hóa XK, NK Việt Nam và

trường hợp phân loại máy móc, thiết bị ở dạng chưa lắp ráp hoặc tháo

rời; Sổ, chứng từ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán;

Quy trình sản xuất; các quy trình kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp

(nếu có); Kế hoạch sản xuất; Báo cáo quyết toán nhập-xuất-tồn về tình

hình sử dụng nguyên liệu vật tư, máy móc, thiết bị, hàng hóa XK và

chứng từ, tài liệu liên quan đến định mức thực tế để gia công, sản xuất

sản phẩm XK.

Quy định về các chứng từ, hồ sơ có liên quan đến việc kiểm tra, xác

định trị giá hải quan theo quy định tại Thông tư số 39/2015/TT-BTC ngày

25/3/2015 của Bộ Tài chính;

Về hồ sơ liên quan đến việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, không thu

thuế XK, thuế NK, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo

vệ môi trường.

Đồng thời Dự thảo Thông tư quy định người khai hải quan chịu trách

nhiệm lưu giữ bản chính các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan quy định tại

khoản 1 Điều này, nộp, xuất trình cho cơ quan Hải quan khi kiểm tra sau

thông quan, thanh tra chuyên ngành.

Trường hợp đã nộp bản chính cho cơ quan Hải quan thì phải lưu bản

sao hoặc trường hợp cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và các tổ

chức có liên quan thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan đến

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông qua Cổng thông tin một cửa quốc

gia thì người khai hải quan lưu giữ dưới dạng điện tử hoặc chuyển đổi ra

chứng từ giấy theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.”.

Hiện nay, Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3 Thông tư số 38/2015/TT-

BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính về nộp, xác nhận và sử dụng các

chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, hồ sơ thuế, có quy định về trường hợp

bản chụp hoặc các chứng từ do người nước ngoài phát hành bằng hình

thức điện tử, fax, telex hoặc các chứng từ, tài liệu do người khai hải

quan, người nộp thuế phát hành thì người khai hải quan, người nộp thuế

phải xác nhận, ký tên, đóng dấu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về

tính chính xác, trung thực và hợp pháp của các chứng từ đó. Nên việc

sử dụng chữ ký điện tử dạng khắc sẵn trên các chứng từ thuộc hồ sơ

hải quan không được chấp nhận.

Theo tapchitaichinh.vn

5. Chưa thỏa mãn với dịch vụ công trực tuyến

Một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho biết đến thời điểm hiện

tại, có nhiều thủ tục hành chính dù được cơ quan chức năng công

bố tiếp nhận và trả lời qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến nhưng

thực tế thì vẫn… thủ công.

Doanh nghiệp vẫn chưa thỏa mãn với hệ thống dịch vụ công trực tuyến.

Ảnh minh họa: TL

Mới đây nhất, Tổng cục Hải quan thông báo từ ngày 1-3 có 41 thủ tục

hành chính được xử lý trực tuyến ở khâu tiếp nhận và trả kết quả. Đây là

các thủ tục được đánh giá là có số lượng sử dụng nhiều, phân cấp xử lý

từ chi cục đến Tổng cục Hải quan.

Trao đổi với TBKTSG Online, trưởng phòng một công ty logistics chuyên

làm dịch vụ hải quan tại TPHCM, cho biết mọi thứ vẫn nửa trực tuyến,

nửa thủ công, nghĩa là nộp hồ sơ thì bằng đường điện tử nhưng phần

kết quả thì vẫn phải in ra giấy mới được giải quyết.

Chẳng hạn, với thủ tục bổ sung thông tin tờ khai sau thông quan, cơ

quan chức năng hướng dẫn doanh nghiệp khai theo mẫu 03 rồi truyền

vào cổng thông tin một cửa để lãnh đạo hải quan ở chi cục ký duyệt và

cán bộ thực thi tự vào, tự xem, ngược hẳn với quy trình trước đó là khai

giấy, chờ đợi ký duyệt.

Tuy nhiên, trên thực tế, doanh nghiệp chỉ mới có thể khai theo mẫu,

scan để truyền lên cổng. Công việc tiếp theo vẫn là in lại ra giấy, xin ký

duyệt. “Truyền thông tin lên cổng trực tuyến nhưng họ không giải quyết

nên cuối cùng lại phải in ra giấy xin ký duyệt”, vị này cho biết.

Tương tự, mẫu chứng nhận xuất xứ (C/O) của Hàn Quốc, theo quy định

là cơ quan hải quan Việt Nam sẽ tự lên hệ thông và nhìn thấy thông tin

này nhưng thực tế, doanh nghiệp vẫn phải in và mang nộp bản giấy mới

được chấp nhận.

Lãnh đạo phòng nghiệp vụ của một cục hải quan phía Nam chia sẻ, có

những thủ tục được đưa lên hệ thống dịch vụ công trực tuyến nhưng

đúng là chỉ mới được tiếp nhận rồi… để đó. Ví dụ như chuyện hoàn

thuế.

Nguyên nhân của tình trạng này, theo những người trực tiếp thực hiện,

nằm ở nhiều yếu tố.

Đại diện doanh nghiệp cho rằng, đó là vì công chức hải quan thực thi

trực tiếp vẫn thiếu tự tin, sợ trách nhiệm nên “cứ phải giấy trắng mực

đen cho chắc ăn”. Doanh nghiệp, dù viện dẫn quy định, vẫn không được

chấp nhận và tất nhiên không thể "cãi lý" khi còn làm ăn, kinh doanh.

Vị cán bộ ngành hải quan thì lý giải, mức độ sẵn sàng và hợp tác của

các bộ, ngành liên quan đến các thủ tục hải quan đến thời điểm này là

không đồng đều. Có bộ rất nhiệt tình nhưng lại cũng có bộ chỉ làm cho

có. Chính vì vậy, doanh nghiệp vẫn chưa thể thông suốt.

Theo thesaigontimes.vn

6. Lối thoát pháp lý cho giao dịch viết tay

Từ trước tới nay, hoạt động chuyển nhượng nhà, đất thông qua

hình thức giao dịch viết tay luôn có sức sống bền bỉ, bất chấp

những rủi ro đi kèm cho người mua. Mới đây, theo Nghị định 01 của

Chính phủ, từ ngày 3/3/2017, đất chuyển nhượng bằng giấy viết tay

sẽ được cấp sổ đỏ đã thắp lên hy vọng cho rất nhiều chủ sở hữu.

Nghị định 01 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định chi tiết

thi hành Luật Đất đai được đánh giá đã giải quyết hàng loạt vướng mắc

cho người dân. Đặc biệt, một trong những nội dung người dân kỳ vọng

là cơ quan chức năng sẽ cấp sổ đỏ cho đất chuyển nhượng bằng giấy

viết tay.

Không còn cảnh “trọ trong nhà mình”

Phạm vi xét cấp sổ đỏ cho trường hợp chuyển nhượng đất bằng giấy

viết tay sẽ được điều chỉnh theo hướng “dễ thở” hơn. Thông tin từ Văn

phòng đăng ký đất đai Hà Nội (Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội)

cho biết, quận, huyện sẽ có trách nhiệm kiểm tra, ký cấp sổ đỏ cho

những thửa đất mua bán bằng giấy viết tay.

Đồng thời, sau khi xác minh tình trạng của những thửa đất liên quan,

chính quyền sở tại sẽ gửi thông tin sang văn phòng đăng ký đất đai. Từ

đây, văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm in thông tin trên phôi sổ

đỏ và gửi lại cho quận, huyện ký cấp cho người dân.

Bên cạnh đó, quy định điều kiện để cấp sổ đỏ dạng này khá rõ ràng. Cụ

thể: nhà, đất hiện sử dụng ổn định, phù hợp quy hoạch và không có

tranh chấp, khiếu nại; đảm bảo yêu cầu về công khai, minh bạch, đồng

thời thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật.

Chưa hết, việc rút ngắn thủ tục hành chính trong Nghị định 01 cũng

được người dân đón nhận tích cực do phần lớn thủ tục được rút ngắn từ

1/3 đến 1/2 thời gian thực hiện so trước đây.

Đơn cử, thủ tục đăng ký, cấp sổ đỏ cho cá nhân và tổ chức tối đa 15 ngày

(quy định cũ là 30 ngày); đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền trên

đất; xử lý hợp đồng thế chấp, góp vốn; kê biên bán đấu giá tài sản…

không quá 10 ngày (quy định hiện hành không quá 15 ngày); cấp lại sổ đỏ

bị mất không quá 10 ngày (quy định hiện nay không quá 30 ngày)…

Được biết, hiện nay đã ghi nhận hàng chục nghìn trường hợp người dân

gặp vướng khi xin cấp sổ đỏ bằng giấy viết tay. Với Nghị định 01 đi vào

thực thi, những thửa đất nông nghiệp, đất thổ cư giao dịch viết tay sẽ

được xem xét cấp sổ đỏ.

Đồng thời, khớp với quy định cũ (vốn chỉ cho phép những trường hợp

mua bán nhà đất bằng giấy viết tay đến trước ngày 01/7/2004 được cấp

sổ đỏ), chính sách mới đã cho phép mở rộng biên độ thời gian áp dụng

cho các giao dịch dạng này được thực hiện đến trước ngày 01/1/2008.

Đã có lối thoát pháp lý cho giao dịch viết tay đất thổ cư, còn hàng nghìn

căn hộ chung cư vẫn “ngóng” sổ đỏ

Nghĩ về ác mộng “ngóng” sổ đỏ

Thời gian trước, tình trạng người dân dọn về ở cả chục năm nhưng

chưa được cấp sổ tại nhiều chung cư Hà Nội đã được nhắc tới nhiều

lần. Nguyên nhân có đủ, nhưng lỗi chính vẫn đến từ việc chấp hành luật

pháp của chủ đầu tư trong quá trình triển khai, kinh doanh dự án.

Cơ quan đầu ngành lẫn nhà chức trách sở tại đều nỗ lực, rốt ráo bằng

nhiều quyết sách, chế tài nghiêm ngặt, song dường như bài toán sổ đỏ

chung cư chưa được giải trọn vẹn.

Rất nhiều trường hợp chủ đầu tư bị cư dân đấu tố vì “nợ” sổ đỏ kéo dài,

thậm chí đâm đơn kiến nghị tới các cấp. Gần đây, có thể kể tới dự án

tòa nhà CT3 Lê Đức Thọ (C’Land làm chủ đầu tư) giàu tai tiếng, hay

trong năm 2016 là Meco Complex (ngõ 102 Trường Chinh) đã khiến

nhiều khách hàng chán nản và tự đi làm hồ sơ sổ đỏ…

Trong một phát ngôn với báo giới giữa năm 2016, đại diện Sở Tài

nguyên và Môi trường Hà Nội đã cho biết, Hà Nội còn khoảng 50 tòa

nhà chủ đầu tư chây ỳ làm sổ đỏ cho người dân.

Điều đáng nói là, không chỉ thiếu trách nhiệm trong việc cấp sổ đỏ cho

người mua nhà, nhiều chủ đầu tư còn cản trở, gây khó cho người mua

nhà ở khâu hồ sơ xin cấp sổ đỏ, ví dụ không xác nhận đã hoàn thành

nghĩa vụ tài chính cho người mua nhà.

Thực tế này một lần nữa cản trở chính sách mà Sở Tài nguyên và Môi

trường Hà Nội đã đưa ra nhằm tạo điều kiện cho người dân, bằng

phương án cho phép người dân tự nộp hồ sơ căn hộ để thực hiện xét

cấp sổ đỏ, dù chỉ một người.

Theo thoibaokinhdoanh.vn

7. Biểu mẫu thuế hay thay đổi gây phiền hà nhất cho doanh nghiệp

Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa công bố kết

quả báo cáo “Đánh giá cải cách thủ tục hành chính thuế: Mức độ

hài lòng của doanh nghiệp năm 2016”. Cuộc khảo sát như một kênh

giúp doanh nghiệp (DN) phản ánh những khó khăn trong quá trình

áp dụng các chính sách thuế và đưa ra kiến xuất để cải cách, hoàn

thiện thủ tục hành chính (TTHC) thuế.

Theo ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI , năm nay, các DN tích cực tham

gia cuộc khảo sát, có tới 3.500 DN ở 63 tỉnh thành phố tham gia. Kết quả

khảo sát của năm 2016 có những chuyển biến tích cực so với năm

2014. Trước hết là thông tin về thuế và TTHC dễ tiếp cận hơn và

phương thức tìm hiểu thông tin cũng tiến bộ hơn trong việc công khai,

minh bạch của cơ quan thuế. Bên cạnh đó, việc thực hiện TTHC thuận

lợi cho DN do thời gian thực hiện đã cắt giảm, thủ tục đơn giản hơn.

“Đặc biệt, chúng tôi đánh giá rất cao ngành thuế trong việc triển khai việc

thực hiện nộp thuế điện tử đang mang lại hiệu quả cao. Năm nay, tỉ lệ

DN gặp phiền hà trong TTHC thuế đã giảm 10% so với năm 2014”, ông

Vũ Tiến Lộc cho hay.

Trước đây, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, ngành thuế VN đang

“đội sổ” trong ASEAN về phiền toái, thủ tục phức tạp, tốn kém thời gian,

tiền bạc (872 giờ nộp thuế trong đó có cả BHXH).

Để có được thành công tưởng chừng rất “xa vời” này, trong 2 năm gần

đây, Bộ Tài chính là bộ tiên phong của VN “đặt hàng” cho một tổ chức

độc lập là VCCI với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới để tiến hành cuộc

khảo sát lấy ý kiến của cộng đồng DN để đo mức độ hài lòng của DN đối

với ngành thuế và hải quan và công bố công khai trên phương tiện

truyền thông đại chúng.

Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cũng cho biết: Bộ Tài

chính đã xây dựng trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản

quy phạm pháp luật các quy trình nghiệp vụ về thuế để cắt giảm TTHC,

tháo gỡ khó khăn cho DN, thúc đẩy DN phát triển. Qua đó cắt giảm còn

117 giờ nộp thuế cho DN, giảm 8 lần kê khai thuế GTGT, giảm 4 lần nộp

tờ khai thuế thu nhập DN tạm tính.

Bên cạnh những điểm sáng của cuộc khảo sát thì vẫn có rất nhiều DN

gặp phiền hà, khó khăn trong TTHC thuế. “Chính sách thuế thay đổi quá

nhiều lần trong một năm, DN chưa kịp thông suốt thông tư, nghị định này

thì đã có thông tư, nghị định khác xuất hiện. Thông tư có những từ ngữ

đọc gây khó hiểu hoặc hiểu sai dẫn đến thực hiện sai. Bên cạnh đó, còn

quá nhiều công văn hướng dẫn đi kèm khiến DN không biết. Do vậy, sai

sót là khó tránh khỏi vì quá nhiều văn bản mới”, một DN được khảo sát

cho biết.

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI - cho rằng: Điều gây

phiền hà nhất cho các DN khi thực hiện các TTHC về thuế là biểu mẫu

hay thay đổi, thời gian giải quyết thủ tục quá dài và DN thường bị yêu

cầu cung cấp thêm giấy tờ. Ngoài ra, việc cán bộ không hướng dẫn đầy

đủ, tận tình cũng là một trong những yếu tố tăng thêm phiền hà cho DN.

Ý kiến bức xúc của 1 DN được VCCI khảo sát cho hay: “Hiện nay, việc

thay đổi thường xuyên biểu mẫu quyết toán, sổ sách chỉ tạo cơ hội cho

các DN sản xuất phần mềm hưởng lợi còn DN thì phải bỏ thêm chi phí.

Chỉ cập nhật theo thông tư mới mà riêng công ty phần mềm X đã thu

thêm phí cho 1 phiên bản là 5 triệu đồng. Thử hỏi cả nước có bao nhiêu

DN cần phải cập nhật và toàn quốc phải mất khoản tiền rất lớn”.

Qua đó, để rút gọn TTHC tránh gây phiền toái cho DN, ông Phạm Sỹ

Danh – Chủ tịch Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) - kiến

nghị: Đối với hệ thống chính sách thuế hiện nay cần tiếp tục sửa đổi các

quy định chưa rõ ràng, hệ thống mẫu biểu kê khai thuế vẫn cần được cắt

giảm về mặt số lượng và đơn giản hóa về mặt nội dung. Nhiều doanh

nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng, so các nước trong ASEAN hiện

đang có sức cạnh tranh cao với VN như Indonesia và Thái Lan đều có

chính sách thuế đơn giản và dễ thực hiện hơn.

Theo laodong.com.vn

8. Thách thức trong xây dựng chính quyền điện tử: Đi tìm công dân điện tử, cách nào?

Trong khi dịch vụ công trực tuyến tại các quận, huyện TPHCM hoạt

động èo uột vì thiếu sự đồng hành của người dân, thì nhiều ứng

dụng tại các sở, ngành TPHCM lại phát huy hiệu quả. Nguyên nhân

vì sao? Có phải “công dân điện tử” - sự góp sức của người dân và

doanh nghiệp là nhân tố quyết định?

Quyết tâm

TPHCM đề ra mục tiêu từ nay đến năm 2025 cơ bản xây dựng TPHCM

trở thành đô thị thông minh. Chính quyền điện tử là phần lõi của đô thị

thông minh. Muốn có chính quyền điện tử thì phải có công dân điện tử.

Nói điều này để thấy rằng, một khi người dân còn đứng ngoài bộ máy

dịch vụ hành chính công thì vẫn còn trở ngại lớn đối với chính quyền

TPHCM trong xây dựng chính quyền điện tử. Cùng với đó, sự quyết tâm

làm trong sạch bộ máy, cải cách con người chính là yếu tố quan trọng để

cải cách hành chính mang lại hiệu quả.

Dịch vụ trực tuyến của Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh, Công an TPHCM

được nhiều người dân sử dụng

Không phải là đơn vị đi tiên phong trong việc áp dụng dịch vụ công trực

tuyến nhưng kết quả mà Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an

TPHCM (PA72) đạt được rất ấn tượng. Theo lãnh đạo PA72, sau gần 2

năm thực hiện cấp hộ chiếu qua Internet ở cấp độ 3, đến nay tỷ lệ hồ sơ

kê khai trực tuyến qua mạng đã lên đến 74% với 153.000/220.000 hồ

sơ được cấp trong năm 2016.

“Tỷ lệ này vượt qua sự mong đợi ban đầu của chúng tôi. Rõ ràng việc áp

dụng tờ khai điện tử trong cấp hộ chiếu đã tạo cho người dân có nhiều

sự chọn lựa về cách thức nộp hồ sơ. Người dân có thể khai hộ chiếu tại

cơ quan, tại nhà, qua mạng, qua điện thoại thông minh, qua hệ thống

máy tính đặt tại phòng quản lý xuất nhập cảnh đều được giải quyết”, Đại

tá Nguyễn Văn Anh, Trưởng phòng PA72, chia sẻ.

Theo kinh nghiệm của lãnh đạo đơn vị này, muốn áp dụng tờ khai điện

tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách thủ tục hành chính thì

việc quan trọng đầu tiên là cần có kinh phí đầu tư cơ sở vật chất và

nguồn nhân lực. “Một khi tất cả cán bộ, nhân viên cũng như lãnh đạo

đều quyết tâm chuyển mình thì khó mấy cũng vượt qua”, Đại tá Nguyễn

Văn Anh nhấn mạnh.

Thêm nữa, theo Đại tá Nguyễn Văn Anh, cái được lớn nhất khi thực hiện

dịch vụ hành chính công qua mạng là công khai minh bạch thủ tục hành

chính cho người dân, kế đến là việc phòng ngừa tiêu cực nội bộ rất hiệu

quả. “Tất cả hồ sơ đều hiển thị trên màn hình máy tính. Cả mức phí, số

thứ tự cũng rõ ràng nên không còn tình trạng chen lấn, cò chụp hình, cò

bán hồ sơ, cò khai hồ sơ. Văn minh công sở cũng thay đổi hoàn toàn”,

Đại tá Nguyễn Văn Anh phân tích.

TPHCM là trung tâm kinh tế lớn của cả nước, với gần 300.000 doanh

nghiệp (DN) đăng ký hoạt động, chiếm hơn 30% số DN cả nước. Do

vậy, nhu cầu giải quyết thủ tục đăng ký DN cũng rất cao. Để tạo điều kiện

cho DN thực hiện thủ tục đăng ký thành lập thuận lợi, Sở Kế hoạch và

Đầu tư đã đi đầu khi triển khai dịch vụ đăng ký DN qua mạng. Theo đó, cá

nhân, tổ chức chỉ cần ngồi tại nhà để thực hiện thủ tục qua mạng. Về phía

cơ quan chủ quản, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ phản hồi, hướng dẫn

không nhiều hơn 2 lần để hoàn chỉnh hồ sơ đăng ký kinh doanh cho DN

trong ngày. Qua thống kê trong năm 2016, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã

hướng dẫn cho gần 50.000 lượt DN đăng ký thành lập qua mạng, trong

đó có hơn 23.000 lượt DN đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký DN.

Không thể yên tâm với kết quả đạt được, Sở Kế hoạch và Đầu tư

TPHCM tiếp tục nghiên cứu để mô hình dịch vụ công qua mạng ngày

càng hoàn thiện hơn. Một lãnh đạo của sở này thừa nhận: “Thực tế qua

theo dõi, chúng tôi nhận định đối tượng đăng ký DN qua mạng không

phải do DN đó trực tiếp thực hiện mà đa phần là thông qua các dịch vụ

làm thay như hội luật gia, công ty tư vấn, các công ty dịch vụ…”.

Cũng theo phân tích của vị lãnh đạo này, để thực hiện các loại thủ tục

qua mạng đòi hỏi DN cần có am hiểu cơ bản về pháp luật, chuyên môn,

sử dụng công nghệ… Do đó, nếu DN không quen thao tác, kê khai thủ

tục qua mạng rất dễ sai sót hay làm đi làm lại hồ sơ. “Để đỡ tốn thời gian

khi xin giấy phép kinh doanh, DN thường thực hiện thông qua dịch vụ

hay đơn vị tư vấn. Đây cũng là nhu cầu có thật, có lợi cho DN bởi suy

cho cùng, yếu tố quan trọng của DN vẫn là tiết kiệm thời gian và mang

lại hiệu quả”, đại diện Sở Kế hoạch và Đầu tư chia sẻ.

Xác định được đối tượng “công dân điện tử của mình” trong lĩnh vực

đăng ký DN đa phần là đơn vị dịch vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư đang tích

cực và chủ động làm việc với các tổ chức làm vai trò cầu nối trong quá

trình tham gia dịch vụ hành chính công trực tuyến như Hội Luật gia TP,

các quận huyện, các công ty tư vấn, công ty dịch vụ để lắng nghe họ

trình bày những thuận lợi, khó khăn cũng như đề xuất các giải pháp

nhằm đẩy mạnh việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến. “TPHCM có thế

mạnh phát triển các loại hình dịch vụ nên nếu tháo gỡ, tạo điều kiện cho

các tổ chức này hoạt động cũng là cách thức thúc đẩy một loại hình dịch

vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội”, lãnh đạo Sở

Kế hoạch và Đầu tư nêu quan điểm.

Chọn dịch vụ nhu cầu lớn để phát triển

Nhìn ở góc độ tổng thể, ông Trương Văn Lắm, Giám đốc Sở Nội vụ

TPHCM, cho rằng lâu nay khi nói đến việc ứng dụng công nghệ thông tin

để giải quyết thủ tục hành chính cho dân, chúng ta cứ ngại rằng, người

dân thiếu trình độ về công nghệ để tham gia thực hiện. Tuy nhiên, đây

không phải là nguyên nhân chính mà mấu chốt chính là chính quyền các

cấp, các sở ngành chưa cung cấp đầy đủ thông tin, tổ chức hướng dẫn

một cách kịp thời và khoa học cho người dân. Và một khi những tồn tại

này được giải quyết thì người dân sẽ chọn cách kê khai qua mạng thay

vì đến tận nơi để làm thủ tục như hiện nay. “Đặt trường hợp làm thủ tục

qua mạng nhưng người dân không có máy tính và cũng không biết thao

tác thì có thể đến UBND phường, vì vậy, UBND phường, xã phải có bộ

phận hướng dẫn người dân thực hiện. Đơn giản hơn, hiện nay hầu như

mỗi người dân đều có điện thoại thông minh nên việc thao tác, kê khai

qua mạng lại càng thuận tiện và dễ dàng hơn”, ông Lắm đề nghị.

Đồng tình quan điểm này, Phó Chủ tịch UBND TP Trần Vĩnh Tuyến cho

biết: Để khuyến khích cũng như hỗ trợ người dân sử dụng các dịch vụ

công trực tuyến, TP sẽ nghiên cứu triển khai lắp đặt hệ thống máy tính

kết nối mạng tại UBND phường, xã, đi kèm cán bộ hướng dẫn cách thực

hiện để người dân làm quen hơn với các thiết bị điện tử. Chẳng hạn như

khi đến trụ sở UBND phường, người dân sẽ được cán bộ hướng dẫn kê

khai các thủ tục qua mạng đối với những lĩnh vực mà quận, huyện, TP

có áp dụng dịch vụ công trực tuyến, bất kể thẩm quyền giải quyết là của

quận huyện, sở ngành hay UBND TP.

Ở một góc nhìn khác, ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng

Chính phủ, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông

tin, cho rằng, để việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến được tiết kiệm,

trọng tâm và không dàn trải, TPHCM cần tiến hành khảo sát, đánh giá

để phân loại những dịch vụ công nào người dân, DN có nhu cầu sử

dụng qua mạng cao thì tập trung đầu tư cải tiến. Tránh những trường

hợp chỉ có vài chục lượt người sử dụng một năm mà đầu tư, dẫn đến

lãng phí.

Theo sggp.org.vn

9. Thuận tiện như cấp điện online

Từ 1/3, Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội (EVN HANOI) đã chính thức đưa ra dịch vụ Cấp điện mới trên hệ thống điện tử cho khách hàng sử dụng điện trên địa bàn Thủ đô.

Đây là một bước đột phá của EVN HANOI trong việc cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh công nghệ hóa, hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng nhằm đưa tới cho khách hàng dịch vụ ngày càng hoàn hảo hơn.

Theo đó, khách hàng có nhu cầu cấp điện mới chỉ cần gọi điện đến Tổng đài chăm sóc khách hàng (19001288/04.22222000) hoặc đăng ký trực

tuyến trên website evnhanoi.com.vn, cskh.evnhanoi.com.vn của EVN HANOI. Đối với hình thức đăng ký trực tuyến qua Ứng dụng Chăm sóc khách hàng (EVNHANOI CSKH) trên các thiết bị di động, EVN HANOI sẽ đưa vào triển khai trong tháng 4/2017 đối với các thiết bị sử dụng hệ điều hành iOS và trong tháng 5 đối với hệ điều hành Android, Windowsphone.

Giao diện đăng ký trực tuyến trên website chăm sóc khách hàng của EVN HANOI

Ngay sau khi khách hàng đăng ký thành công, nhân viên ngành điện có trách nhiệm tiếp nhận, xác nhận yêu cầu cấp điện mới của khách hàng và chuyển sang hệ thống quản lý cấp điện trực tuyến của EVN HANOI đảm bảo các khâu nghiệp vụ tiếp theo của công tác cấp điện mới diễn ra nhanh chóng, đúng quy định.

CBCNV EVN HANOI sử dụng máy tính bảng: Khảo sát, lập phương án cấp điện,

chụp ảnh hiện trường…

Như vậy, khách hàng không phải phô-tô bất kỳ giấy tờ, hồ sơ liên quan.

Công ty Điện lực sẽ thực hiện việc lưu trữ điện tử hồ sơ, giấy tờ cấp

điện mới của khách hàng trên phần mềm quản lý cấp điện điện tử của

EVN HANOI. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tạo thêm nhiều thuận

tiện, không làm mất thời gian và chi phí của khách hàng.

Các thủ tục, trình tự, chi phí thực hiện cấp cấp điện mới của EVN HANOI

đều được niêm yết trên website evnhanoi.com.vn,

cskh.evnhanoi.com.vn, tại trụ sở các Phòng Giao dịch khách hàng của

Công ty Điện lực, trụ sở các Đội quản lý điện. Bên cạnh đó, tất cả các

yêu cầu của khách hàng đều được kiểm tra, xác nhận đồng thời cập

nhật đầy đủ vào hệ thống điện tử giám sát trực tuyến đảm bảo tính chính

xác, công khai và minh bạch.

Hồ sơ cấp điện của khách hàng được cập nhật vào hệ thống điện tử và thực hiện

giám sát trực tuyến

Trong thời gian tới, EVN HANOI sẽ tiếp tục xây dựng các chức năng

thanh toán linh hoạt giúp khách hàng dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc

thanh toán chi phí cấp mới như: thanh toán tại Phòng giao dịch của

các ngân hàng, chuyển khoản hoặc thanh toán qua internet banking

thông qua 12 ngân hàng hợp tác với EVN HANOI.

Theo congly.vn

10. Nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua bưu điện

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính (CCHC), tiến

tới một nền hành chính hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng,

hiệu quả dịch vụ hành chính công; ngày 19/10/2016, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45 về việc tiếp nhận hồ sơ,

trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) qua dịch vụ Bưu

chính công ích. Theo đó người dân chỉ cần đến điểm giao dịch Bưu

điện gần nhất để nộp hồ sơ và đăng ký nhận kết quả giải quyết

TTHC theo địa chỉ yêu cầu.

Bảng niêm yết thủ tục hành chính quan dịch vụ Bưu chính công ích

Trước khi có Quyết định số 45 của Thủ tướng Chính phủ, những năm

qua, thực hiện công tác CCHC, Bưu điện tỉnh Sóc Trăng đã triển khai 9

dịch vụ chuyển phát giấy tờ hành chính công, gồm: Chứng minh nhân

dân; Giấy đăng ký xe; Giấy phép lái xe; Hộ chiếu; Hộ khẩu; Tiếp nhận

trực tuyến và trả kết quả cấp phiếu lý lịch tư pháp; Hồ sơ Bảo hiểm Xã

hội; Hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất; Thu, nộp tiền phạt và chuyển

phát giấy tờ tạm giữ trong lĩnh vực giao thông. Với mạng lưới bưu cục

và điểm Bưu điện - Văn hóa xã rộng khắp, những năm qua, Bưu điện

tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện tốt công tác

chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh được người

dân đánh giá cao. Riêng năm 2016, Bưu điện đã chi trả lương hưu và

trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng cho 8.150 người, với tổng số chi là

302 tỉ 114 triệu đồng. Đặc biệt, từ tháng 10/2016, Bưu điện đã thực hiện

chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho 35.000 người, với tổng số tiền 22 tỉ

đồng, đảm bảo chi trả an toàn, đủ tiền, đúng đối tượng.

Tại bộ phận một cửa các cơ quan hành chính có phối hợp với Bưu điện,

công dân, doanh nghiệp chỉ mất thời gian đến cơ quan đăng ký làm thủ

tục, sau khi hoàn tất các thủ tục, người dân chỉ cần đăng ký dịch vụ với

nhân viên của Bưu điện là kết quả sẽ được Bưu điện tỉnh giao đến tận

tay người nhận. Qua đó, đã giúp cho người dân ở các xã vùng sâu tiết

kiệm được thời gian, chi phí đi lại, chờ đợi, với mức phí hợp lý. Bà Phan

Thị Tố Quyên, Phó Chánh văn phòng UBND huyện Long Phú, cho biết:

“Từ tháng 10/2015, Văn phòng đã tham mưu cùng UBND huyện cho

phép thực hiện trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ Bưu

chính công ích. Qua đó đã có 366 trường hợp thực hiện dịch vụ này. Tuy

kết quả chưa nhiều vì mô hình này mới triển khai, nhưng đã mang lại

hiệu quả tích cực, nhận được sự đồng tình của các tổ chức và công dân

rất cao”.

Người dân làm thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa điện tử.

Hiện tại, theo Quyết định số 45 về việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải

quyết TTHC qua dịch vụ Bưu chính công ích do Thủ tướng Chính phủ

mới ban hành, các tổ chức, cá nhân có yêu cầu gửi trả kết quả TTHC qua

Bưu điện sẽ được nhân viên chuyển phát tại địa chỉ theo yêu cầu. Trước

đó, đại diện của cơ quan có thẩm quyền và nhân viên Bưu chính sẽ cùng

kiểm đếm hồ sơ và lập Phiếu gửi hồ sơ để gửi trả cho các tổ chức, cá

nhân đã đăng ký sử dụng dịch vụ. Trong đó sẽ ghi rõ tên, địa chỉ người

gửi là cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính; tên, địa chỉ

người nhận; danh mục tài liệu cùng các văn bản khác. Nhân viên Bưu

chính sẽ trực tiếp đóng gói, niêm phong hồ sơ có sự chứng kiến của đại

diện cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc chuyển phát. Hồ sơ và kết

quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích sẽ

được chuyển trả kịp thời cho các tổ chức, cá nhân theo quy định.

Cũng theo Quyết định số 45 của Thủ tướng Chính phủ, người dân chỉ

cần đến điểm giao dịch Bưu điện gần nhất hoặc nhân viên Bưu điện sẽ

tới tận địa chỉ khách hàng đăng ký để mang hồ sơ đó nộp cho cơ quan

giải quyết TTHC. Khi có kết quả, Bưu điện sẽ nhanh chóng mang trả kết

quả cho người dân và doanh nghiệp. Ông Nguyễn văn Ít, Giám đốc Bưu

điện tỉnh Sóc Trăng, cho biết: “Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp cận các

Sở, ban ngành còn lại để thực hiện tốt hơn công tác chuyển phát những

giấy tờ, thủ tục hành chính và mở các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp

vụ, thái độ phục vụ cho nhân viên Bưu điện để phục vụ người dân chu

đáo hơn. Vì đây là dịch vụ khá mới mẻ đối với người dân, nên chúng tôi

rất cần sự quan tâm, hỗ trợ, góp ý của tổ chức, ban ngành để ngày càng

hoàn thiện hơn trong việc thực hiện dịch vụ công ích này”.

Cán bộ một cửa tiếp nhận hổ sơ thủ tục hành chính của công dân

Việc triển khai tiếp nhận, trả kết quả qua dịch vụ Bưu điện đã giảm được

thời gian đi lại, công sức, chi phí cho người dân, nhất là bà con ở vùng

sâu, vùng xa. Việc giải quyết TTHC qua Bưu điện không chỉ tiếp tục tạo

chuyển biến mạnh mẽ trong giải quyết TTHC, nâng cao chất lượng dịch

vụ hành chính, mà còn tăng cường trách nhiệm cả cán bộ, công chức và

nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước, góp phần xây

dựng nền hành chính phục vụ, văn minh, hiện đại./.

Theo thst.vn