a vĂn phÒng chÍnh phỦ cỤc kiỂm soÁt thỦ tỤc hÀnh...
TRANSCRIPT
Bộ, ngành
1. Cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng: Còn bất cập?
2. “Sáp nhập sở ngành thậm chí phải làm mạnh hơn“
3. Nâng đời thành doanh nghiệp: Hộ kinh doanh vấp nhiều rào cản
4. Cải cách thủ tục hành chính hải quan có nhiều cải thiện
5. Khi nào nhà nước nhường chỗ cho tư nhân?
6. “Bội thực” văn bản quản lý chuyên ngành
7. Bổ sung Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển
Địa phương
8. Hiệu quả bước đầu của mô hình khu dân cư điện tử
9. Tiêu hủy 20.000 viên thuốc đặc trị ung thư: Bộ Y tế vào cuộc
10. Hoàn thành mục tiêu cấp nước sạch nông thôn: Quyết liệt tháo gỡ khó khăn
1. Cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng: Còn bất cập?
Theo ý kiến của Hội Kiến trúc sư tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, việc quy
định cứ sau 5 năm cá nhân phải thi, xét cấp lại chứng chỉ hành
nghề xây dựng gây tốn kém, không cần thiết. Chỉ nên xét cấp lại với
trường hợp muốn lên hạng, hoặc bổ sung chức năng hành nghề.
Hội Kiến trúc sư tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng cho rằng, cơ quan cấp
chứng chỉ hành nghề nên giao cho địa phương thay vì là Bộ Xây dựng
để tránh phiền hà về thủ tục hành chính. Ngoài ra, theo quy định trước
đây, để được cấp chứng chỉ hành nghề hạng cao hơn thì cá nhân cần
tham gia làm 5 công trình tương tự hoặc chủ trì 3 hoặc 5 công trình cấp
thấp hơn. Tuy nhiên theo quy định hiện nay, để được cấp chứng chỉ
hành nghề cao hơn phải chủ trì công trình cấp đó.
Theo Hiệp hội, quy định này sẽ tạo ra tình trạng độc quyền do chỉ một
vài viện của Bộ Xây dựng mới có thể có chứng chỉ hành nghề loại 1.
Việc quản lý bằng quá nhiều bằng cấp và chứng chỉ mà quên đi quyền
hành nghề tự do sẽ làm giảm tính cạnh tranh quốc tế của các kiến trúc
sư trong nước.
Về vấn đề này, Bộ Xây dựng có thông tin phản hồi như sau:
Vì sao chứng chỉ hành nghề có thời hạn 5 năm?
Khoản 2 Điều 149 Luật Xây dựng năm 2014 quy định, cá nhân được
cấp chứng chỉ hành nghề phải đáp ứng được đồng thời các điều kiện
về trình độ chuyên môn, thời gian và kinh nghiệm tham gia công việc
phù hợp với nội dung đề nghị cấp chứng chỉ và đã qua sát hạch kiểm
tra kinh nghiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh
vực hành nghề.
Việc quy định chứng chỉ hành nghề có hiệu lực trong thời gian 5 năm
theo quy định hiện hành có xét đến yếu tố thay đổi của pháp luật, chính
sách và sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng
dẫn đến cá nhân phải nghiên cứu, cập nhật, bổ sung kiến thức để duy
trì, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xây dựng.
Về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề, theo quy định tại Điều
149 Luật Xây dựng năm 2014 đã bao gồm việc phân cấp cho các địa
phương và tổ chức xã hội nghề nghiệp cấp chứng chỉ hành nghề.
Quy định về chứng chỉ hành nghề chỉ bắt buộc đối với các chức danh,
cá nhân hành nghề độc lập theo quy định tại Điều 148 Luật Xây dựng
năm 2014. Việc cấp và quản lý chứng chỉ hành nghề của cá nhân nước
ngoài hiện nay thực hiện theo quy định tại Điều 44 Nghị định
số 59/2015/NĐ-CP và Điều 18 Thông tư số 17/2016/TT-BXD.
Trường hợp cá nhân hành nghề hoạt động xây dưng ở Việt Nam từ 6
tháng trở lên, phải chuyển đổi chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
tại Bộ Xây dựng. Trường hợp cá nhân nước ngoài chưa được cơ quan,
tổ chức nước ngoài cấp chứng chỉ hành nghề thì khi có nhu cầu tham
gia hoạt động xây dựng tại Việt Nam phải thực hiện thủ tục sát hạch, cấp
chứng chỉ hành nghề như cá nhân trong nước.
Như vậy, điều kiện để cá nhân là người nước ngoài có được chứng chỉ
hành nghề tại Việt Nam là công bằng với cá nhân trong nước.
Có thể thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề qua mạng
Thực hiện Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về
Chính phủ điện tử, Bộ Xây dựng đã tổ chức thực hiện việc tiếp nhận và
giải quyết thủ tục hành chính cấp độ 3 và cấp chứng chỉ hành nghề qua
mạng Internet.
Như vậy, ngoài việc thực hiện thủ tục thông qua đường bưu điện hoặc
nộp hồ sơ trực tiếp tại cơ quan cấp chứng chỉ như trước đây, cá nhân có
thể thực hiện việc nộp và nhận kết quả giải quyết thủ tục về cấp chứng
chỉ hành nghề qua mạng.
Hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ được quy định theo hướng đơn giản hóa
và tạo điều kiện cho cá nhân thông qua việc nộp đơn kèm theo các tệp
tin chứa bản chụp các tài liệu theo quy định. Công tác sát hạch phục vụ
cấp chứng chỉ hành nghề hiện nay được quy định theo hướng tạo điều
kiện tối đa cho cá nhân khi đăng ký tham gia sát hạch; kết quả sát hạch
của cá nhân được bảo lưu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày sát hạch
làm cơ sở đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề.
Theo baochinhphu.vn
2. “Sáp nhập sở ngành thậm chí phải làm mạnh hơn“
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh ủng hộ việc sáp
nhập sở đa ngành, nhưng theo ông cần nghiên cứu để có cách
thức quản lý phù hợp.
Bộ Nội vụ đang có đề xuất với Chính phủ về hợp nhất 2 Sở Tài chính và
Kế hoạch - Đầu tư thành Sở Kế hoạch-Tài chính; hợp nhất Sở Giao
thông, Sở Xây dựng, Sở Quy hoạch và kiến trúc của Hà Nội và TPHCM
thành Sở Hạ tầng và phát triển đô thị.
Trao đổi với phóng viên VOV.VN về vấn đề này, nguyên Thứ trưởng Bộ
Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh đánh giá cao đề xuất này và cho rằng vấn đề
sáp nhập sở ngành cần phải tiến hành mạnh hơn nữa.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh.
PV: Nhiều ý kiến chuyên gia đánh giá việc sáp nhập sở ngành này sẽ là
bước đột phá về cải cách bộ máy hành chính, nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của nền công vụ. Còn quan điểm của ông về đề xuất này ra
sao?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Công tác cải cách hành chính trong nhiều năm
nay chúng ta đưa ra một trong những mục tiêu quan trọng đó là sắp xếp
lại bộ máy cho gọn nhẹ và đơn giản các thủ tục hành chính. Bộ máy
càng cồng kềnh, thủ tục hành chính sẽ càng nhiều. Càng nhiều sở
ngành, đương nhiên thủ tục hành chính sẽ nhiều lên. Tôi rất đồng tình
và mong muốn phải nhanh chóng đẩy mạnh việc sắp xếp lại bộ máy gọn
nhẹ hơn.
Đề xuất của Bộ Nội vụ theo tôi là rất tốt, thậm chí tôi thấy cần phải làm
mạnh hơn. Thực tế ở nhiều nước có nền kinh tế phát triển chỉ có 12-13
bộ; còn ở ta hiện nay là 22 bộ ngành và 8 đơn vị thuộc Chính phủ, như
vậy vẫn còn rất cồng kềnh.
Để làm được việc sắp xếp lại bộ máy, mấu chốt là phải rà soát lại chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước; Nhà nước chỉ nắm những
công việc trọng yếu, còn những công việc cơ quan Nhà nước không cần
thiết làm hoặc làm không hiệu quả thì chuyển giao cho các tổ chức tư
nhân, tổ chức xã hội. Thông qua việc rà soát các chức năng nhiệm vụ
mới tinh giản được bộ máy cũng như sắp xếp lại tổ chức.
Nếu vẫn giữ chức năng nhiệm vụ cũ thì không thể sắp xếp được. Các cơ
quan sẽ còn tiếp tục kêu nhiều việc, nếu sáp nhập hoặc tinh giản biên
chế, khối lượng công việc của họ sẽ càng nặng.
PV: Đề xuất việc sáp nhập sở ngành của Bộ Nội vụ tập trung vào các địa
phương, tuy nhiên TPHCM - một trong 2 thành phố lớn nhất nước, lại
không đồng tình với đề xuất này. Theo ông, vì sao TPHCM không đồng
tình với đề xuất này, khúc mắc nằm ở đâu?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Chức năng nhiệm vụ của các sở ngành, cơ
quan địa phương rất lớn, vì chúng ta cứ muốn quản hết các đầu việc,
trong khi không nhất thiết phải làm thế. Nghị quyết của Đảng và chương
trình cải cách hành chính đã nêu rất rõ, phải rà soát lại, việc gì không
cần quản, việc gì làm không hiệu quả thì chuyển giao mạnh cho các tổ
chức xã hội và tư nhân, kể cả các dịch vụ.
Thực tế, các cơ quan Nhà nước đang trực tiếp thực hiện rất nhiều dịch
vụ công mà chưa tập trung vào việc hoạch định chính sách. Việc chúng
ta tập trung quá nhiều vào tác nghiệp và tổ chức các dịch vụ công, dẫn
tới tình trạng quá tải ở nhiều cơ quan Nhà nước. Nếu sắp xếp lại và tinh
giản biên chế mà không rà soát lại chức năng nhiệm vụ thì sẽ tạo gánh
nặng cho cơ quan Nhà nước. Khi rà soát lại chức năng nhiệm vụ, những
việc Nhà nước cần tập trung làm thì giữ, việc gì cần chuyển giao thì phải
chuyển sớm, có như vậy mới có thể thực hiện việc sắp xếp lại bộ máy
cũng như tỉnh giản đội ngũ có hiệu quả.
PV: Trước đây ta đã từng tiến hành sáp nhập bộ đa ngành, nhưng thực
tế mục tiêu tinh giảm, nhỏ gọn trong bộ máy, tránh chồng chéo dường
như vẫn chưa thực hiện tốt?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Cho đến nay, Đảng vẫn khẳng định Bộ đa
ngành, đa lĩnh vực là rất đúng và sẽ tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
Tuy nhiên, quá trình triển khai việc sắp xếp đa ngành, đa lĩnh vực cũng
cần rà soát kết cấu của các bộ, sở đa ngành cũng như mối quan hệ và
cách thức quản lý Nhà nước đối với bộ đa ngành cho phù hợp. Nếu
không làm, coi như việc sáp nhập của chúng ta đã không thành công.
PV: Liên quan đến vấn đề sáp nhập sở ngành sẽ dẫn đến dư thừa lãnh
đạo, cấp phó. Vậy theo ông bài toán này cần được giải quyết ra sao?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Cần có một chế độ chính sách, giống như Hà
Nội vừa rồi. Khi sáp nhập sẽ thừa rất nhiều cán bộ cấp phó, Hà Nội đã
có chính sách để giải quyết tình trạng này, để không ảnh hưởng đến tâm
tư, tình cảm của các cán bộ. Do yêu cầu sắp xếp lại bộ máy nên phải
thôi không làm ở vị trí lãnh đạo nữa, do vậy cần có chính sách với
những đối tượng đó, có thể bảo lưu hay sắp xếp một vị trí công việc
khác. Tôi thấy Hà Nội đã làm tốt việc sắp xếp này.
Còn trong quá trình sắp xếp bộ đa ngành, đa lĩnh vực cũng như ở cấp
sở, cần có sự tính toán, nghiên cứu việc vận hành bộ máy đa ngành, đa
lĩnh vực ra sao chứ không chỉ sáp nhập một cách cơ học.
PV: Có ý kiến cho rằng khi giải quyết vấn đề nhân sự cấp phó dôi dư cần
thi tuyển công khai để những người được ở lại và người ra đi đều thấy
thoải mái. Ông nghĩ sao về ý kiến này?
Ông Nguyễn Tiến Dĩnh: Trước mắt, tôi cho rằng, vẫn giữ đội ngũ cán
bộ cũ để đảm bảo sự ổn định. Trường hợp thiếu thì nên tổ chức thi
tuyển. Vấn đề thi tuyển không phải bây giờ mới đặt ra, thực tế rất nhiều
địa phương thời gian qua đã tổ chức thi tuyển, không chỉ cấp phó, mà cả
cấp trưởng (như ở Quảng Ninh-PV).
PV: Xin cảm ơn ông./.
Theo vov.vn
3. Nâng đời thành doanh nghiệp: Hộ kinh doanh vấp nhiều rào cản
Cơ quan quản lý đang khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi
thành doanh nghiệp nhưng đa số họ không muốn “lớn”. Việc
chuyển đổi này đã và đang gặp không ít khó khăn, thách thức từ cơ
chế, chính sách thuế, thanh kiểm tra, sổ sách kế toán...
Hộ kinh doanh ngại lên doanh nghiệp vì vướng nhiều rào cản.
Tranh thủ ưu đãi và Ngại thủ tục thuế
Chị Nguyễn Thị Liễu, chủ một đại lý bánh kẹo cấp 1 tại quận Đống Đa
(Hà Nội) cho biết, gia đình chị có vốn kinh doanh gần 3 tỷ đồng, hằng
ngày thuê 6 nhân viên giao, nhận hàng hoá và vận chuyển cho các cửa
hàng nhỏ hơn ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận. Nhiều lần, gia
đình chị dự định chuyển đổi sang DN để tiện xuất hoá đơn chứng từ khi
bán buôn cho các đại lý. Nhưng khi tìm hiểu, chị Liễu thấy thủ tục kế
toán, thuế khá phức tạp, chị Liễu giữ nguyên hình thức hộ gia đình.
“Thủ tục thành lập DN đơn giản, nhanh gọn nhưng tôi sợ nhất việc kiểm
tra thuế, hoá đơn. Hơn nữa, chuyển thành DN, tôi phải thuê nhân viên
kế toán tốn thêm khoảng 3-5 triệu đồng/tháng. Nếu không thuê, mình
làm không đúng thủ tục, lại bị phạt thì tốn kém hơn”, chị Liễu nói về lí do
không chuyển đổi từ hộ kinh doanh thành DN.
Tại nghiên cứu “Chính thức hóa hộ kinh doanh ở Việt Nam”, mới đây,
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đã chỉ ra quy mô hộ
kinh doanh rất nhỏ. Số lao động bình quân chỉ 1,7 người; 7,5 % số hộ
kinh doanh có vốn từ 1 tỷ đồng trở lên, chỉ có 1,3% số hộ có mức vốn
kinh doanh từ 5 tỷ đồng trở lên. Bà Nguyễn Thị Luyến, Trưởng ban thể
chế (CIEM) đánh giá, con số về tài sản của hộ như trên không phản ánh
chính xác giá trị tài sản thật. Không ít hộ kê khai vốn kinh doanh và tài
sản cố định thấp hơn nhiều so với giá trị thực để “giảm sự để ý” của cơ
quan chức năng.
Nguyên nhân khiến hộ kinh doanh không muốn thành DN do được
hưởng nhiều ưu đãi như chi phí tuân thủ pháp luật (thuế, kế toán…) ít
hơn. “Hộ kinh doanh ngại chuyển đổi sang DN vì phải bổ sung nhân lực,
hồ sơ, kế toán phát sinh nhiều chi phí. Thậm chí nhiều chủ hộ kinh
doanh e ngại gây đảo lộn hoạt động, thường xuyên bị thanh tra, kiểm
tra”, bà Luyến cho biết.
Theo Tổng cục Thống kê (Bộ KH&ĐT) cả nước có 4,75 triệu hộ sản
xuất, kinh doanh, gấp 10 lần số doanh nghiệp (DN) đang hoạt động. Số
hộ kinh doanh tạo việc làm cho hơn 8 triệu lao động, trung bình cứ 19,3
người dân có 1 hộ kinh doanh. Năng suất lao động hộ kinh doanh hạn
chế, mô hình kinh doanh hẹp, chỉ nằm trong một số nhóm ngành. Đa số
hộ kinh doanh sử dụng vốn tự có, bởi không có khả năng tiếp cận các
nguồn vốn vay.
Tại diễn đàn Chuyển đổi hộ kinh doanh thành DN được tổ chức ở
TPHCM ngày 26/4, ông Lê Minh, hộ kinh doanh cá thể ngụ Q.Tân Bình
băn khoăn: “Bất kỳ ai kinh doanh cũng nghĩ đến quyền lợi của mình, khi
chuyển đổi lên DN mà quyền lợi giảm đi, liệu họ có tha thiết chuyển hay
không? Hiện tôi chưa cần vay vốn ngân hàng để mở rộng kinh doanh
nhưng khi chuyển lên thành DN sẽ phải thực hiện nhiều thủ tục như báo
cáo thuế, phải thuê kế toán... và nhiều thủ tục rườm rà khác. Những
khoản này sẽ làm tăng chi phí mà cũng chưa chắc khiến việc kinh doanh
hiệu quả hơn. Đó là lý do tôi chưa muốn lên DN”.
Bà Hằng - tiểu thương kinh doanh tại chợ đầu mối nông sản Thủ Đức
kể, trước đây bà được vận động nếu nâng đời lên DN sẽ thuận lợi hơn
trong việc xuất hóa đơn khi giao dịch, được khấu trừ thuế… “Bùi tai”, bà
lên DN. Kinh doanh vài năm, bà bị cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện
nhiều mặt hàng kê khai không đúng hóa đơn, chứng từ… xử phạt cả
chục triệu đồng. Chịu hết xiết, bà làm đơn xin giải thể, rồi quay trở lại
kinh doanh cá thể. “Không phải tôi muốn trốn thuế, tôi ít học, chỉ rành
bán buôn chứ có biết gì về sổ sách, kế toán; hơn nữa nhiều mặt hàng tại
chợ rất khó khớp với hóa đơn chứng từ dẫn đến làm sai. Ở vai trò hộ cá
thể, mỗi tháng tôi tốn chừng 5-6 triệu đồng tiền thuế khoán. Đóng thuế
đầy đủ thì cứ yên tâm kinh doanh. Đỡ mệt đầu”- bà bộc bạch.
Trong khi đó, ông Huỳnh Tấn Cường, hộ kinh doanh tại Q. Bình Tân cho
rằng, chúng tôi dù nhỏ nhưng có ai muốn trốn tránh trách nhiệm nộp
thuế đâu. Ngành thuế cần có ưu đãi như miễn giảm thuế 3 - 5 năm
chẳng hạn, thì bất cứ hộ kinh doanh nào cũng muốn lên DN.
Ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI.
Ông Phan Đức Hiếu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương chia sẻ, mặc dù hộ cá thể có nhiều khó khăn nhưng vẫn có
những lợi thế nhất định so với DN. Chẳng hạn nếu là DN, môi trường
kinh doanh tại VN ghi nhận thời gian và chi phí khởi sự mất ít nhất 24
ngày. Gặp khó khăn, muốn rút khỏi thị trường mất 60 tháng. Mất đến
540 ngày cho việc trả thuế. Chưa kể, khó khăn trong thuê tuyển, sa thải
lao động. Đây thật sự là “ác mộng” với DN. Trong khi đó, nếu là hộ cá
thể thì hồ sơ, trình tự, thủ tục thành lập, lệ phí thành lập chỉ bằng 50% lệ
phí thành lập doanh nghiệp; chỉ có 6 loại sổ sách kế toán so với vài chục
loại của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ chỉ cần đóng thuế môn bài, nộp
kê khai hoặc thuế khoán, không phải đóng VAT, thu nhập cá nhân hoặc
thu nhập doanh nghiệp, thuê, tuyển lao động dễ dàng hơn...
Ông Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh
nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, điều kiện cũng như thủ tục để
chuyển đổi hộ kinh doanh sang DN không có gì phức tạp. Tuy nhiên, chi
phí tốn kém chính là lý do khiến nhiều hộ kinh doanh không muốn lên
DN. “Chủ hộ kinh doanh muốn tránh nghĩa vụ thuế, vì hiện nay khu vực
kinh doanh cá thể vẫn được thực hiện theo chế độ thuế khoán, nên việc
khai báo thuế đơn giản hơn. Mặt khác, họ ngại vượt qua các thủ tục
hành chính, do còn rườm rà, chi phí thời gian, hoạt động sổ sách kế
toán... phức tạp. Nếu tháo gỡ được nút thắt này thì hộ kinh doanh nào
cũng sẽ tự nguyện lên DN” - ông Nam chia sẻ.
Cần “cuộc chơi” sòng phẳng
Thống kê của ngành thuế cho thấy, cả nước chỉ khoảng 1,6 triệu hộ kinh
doanh nộp ngân sách hàng năm xấp xỉ 2% tổng nguồn thu ngân sách
nhà nước. Con số này chênh lệch rất lớn so với thống kê của Tổng cục
Thống kê (4,6 triệu hộ và người kinh doanh cá thể, đóng góp khoảng 11-
13% GDP).
Khảo sát về thuế của VCCI chỉ ra, 70% hộ kinh doanh (thực hiện khảo sát)
cho biết thoả thuận với cán bộ thuế về mức thuế khoán. “Hộ kinh doanh
đóng khoản thuế khoán thấp nên thoả thuận với cán bộ thuế. Thậm chí có
nơi, cán bộ thuế địa phương còn hướng dẫn hộ kinh doanh lách thuế”, ông
Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban pháp chế VCCI, từng cho biết.
Ông Phan Đức Hiếu, Viện phó CIEM đưa ra cảnh báo, chương trình
khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi lên DN phải được xây dựng sao
cho không tiềm ẩn nguy cơ rơi vào bẫy “khoác áo” DN cho hộ kinh
doanh, để đủ chỉ tiêu 1 triệu DN vào năm 2020. Muốn thúc đẩy chính
thức hóa hộ kinh doanh thì nên dùng các đòn bẩy kinh tế hơn là mệnh
lệnh hành chính. Điều quan trọng nhất là để họ thấy được “lợi ích” lớn
hơn“chi phí” khi thành DN.
Góp thêm ý kiến vào giải pháp để hộ kinh doanh chuyển thành DN, ông
Hồ Sỹ Hùng – Cục trưởng Cục quản lý DN (Bộ KH&ĐT) bổ sung giải
pháp như: Bắt buộc hộ kinh doanh phải sử dụng hóa đơn, chứng từ, nộp
thuế như DN nộp thuế, được tham gia đấu thầu các dịch vụ công…
TS Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng CIEM, nói: “Nếu thấy thành lập DN
có lợi hơn thì không ai xui họ cũng thành DN. Vậy chính sách phải làm
sao cho họ thấy họ có lợi hơn”. Ông Bá cũng chỉ ra, các chính sách
khuyến khích hộ kinh doanh trở thành DN phải để hộ kinh doanh lớn lên,
để làm ăn lớn, từ bỏ tư duy nhỏ lẻ, để mang lại lợi ích cho cả nền kinh
tế; số lượng DN ít cũng được nhưng DN cho ra DN.
Để minh bạch, sòng phẳng với các DN, vấn đề quan trọng hiện nay theo
các chuyên gia là mở khung pháp lý, cơ chế chính sách để hoạt động hộ
kinh doanh khi thành DN được thuận lợi hơn. Theo đó, cần phải quy
định rõ về loại hình hộ kinh doanh cá thể, có cơ quan quản lý phù hợp
với từng đối tượng; không nên áp dụng quản lý kiểu “đánh đồng” DN
siêu nhỏ có doanh thu vài trăm triệu đồng với DN có doanh thu hàng
chục tỷ đồng.
Bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội Tư vấn thuế VN, nguyên Phó Tổng
cục trưởng Tổng cục Thuế cho rằng, quy định bất hợp lý về thuế suất
cũng là “rào cản” trong việc chuyển đổi DN. Cụ thể, thuế suất thuế thu
nhập DN từ năm 2014 đến 31/12/2015 quy định DN có doanh thu đến 20
tỷ đồng/năm có thuế suất 20%, doanh thu khác thuế suất 22%. Tuy
nhiên, từ 1/1/2016, mức thuế suất thuế thu nhập DN áp dụng chung cho
các doanh nghiệp, không phân biệt quy mô. “Điều này không công bằng
cho các DN khởi nghiệp, DN chuyển đổi từ hộ cá thể”- bà Cúc nói và cho
rằng, để khuyến khích DN chuyển đổi cần tạo điều kiện tốt nhất, kết hợp
yếu tố khuyến khích, tự nguyện chuyển đổi của họ…
Bà Tạ Thị Phương Lan - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế thu nhập cá
nhân (Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính) nêu thực trạng, tại TPHCM và Hà
Nội, có những hộ kinh doanh có doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm và số
lượng sử dụng hóa đơn gấp nhiều lần DN. Đó mới chính là đối tượng
mà cơ quan thuế nhắm đến trong đợt vận động chuyển đổi thành DN.
“Hộ kinh doanh không muốn chuyển lên DN có hai nhóm: Kinh doanh
chân chính ngại lên DN vì sợ thủ tục, nhóm thứ 2 là núp bóng, lợi dụng
thuế khoán để xuất hóa đơn bất hợp pháp. Tới đây, cơ quan thuế sẽ áp
dụng quản lý điện tử với hộ kinh doanh khi đó sẽ không còn, toàn bộ là
khoán theo cách buông lỏng như hiện nay mà sẽ quản lý điện tử, khai
điện tử, nộp thuế điện tử, sử dụng hóa đơn điện tử, đặc biệt là những hộ
kinh doanh lớn” - bà Lan khẳng định.
“Hộ kinh doanh có vẻ như đang đứng trước “ngã ba đường”, lưỡng lự
không biết có nên chuyển đổi lên DN hay không. Điều này, phụ thuộc rất
lớn vào những chính sách mà nhà nước bắt buộc phải thiết kế cho phù
hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của 5 triệu hộ kinh doanh, vốn
rất tiềm năng để trở nên lớn mạnh trong tương lai”.
Ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI
Theo tienphong.vn
4. Cải cách thủ tục hành chính hải quan có nhiều cải thiện
Thực hiện nhiệm vụ tại Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 18/3/2016 của
Chính phủ, thời gian qua, ngành hải quan đã tích cực thực hiện cải
cách hành chính. Qua đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, theo đánh giá
từ các doanh nghiệp bên cạnh những hiệu quả tích cực vẫn còn
một số tồn tại đặt ra.
Ảnh minh họa (Ảnh: M.P)
Thủ tục kiểm tra chuyên ngành vẫn còn chỗ vướng
Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa công bố khảo
sát chọn mẫu năm 2016 với 3.500 doanh nghiệp (có 1035 doanh nghiệp
phản hồi) nhằm đánh giá phản hồi của cộng đồng doanh nghiệp đối với
việc thực hiện thủ tục hành chính hải quan trong năm vừa qua, cũng như
những kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp đối với ngành Hải quan
trong thời gian tới.
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI, đại diện cơ quan khảo
sát, đánh giá, ngành Hải quan trong thời gian qua đã có nhiều nỗ lực cải
cách quan trọng theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu
của cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh những nỗ lực cải cách thủ tục
hành chính nói chung, ngành Hải quan còn là một trong những đơn vị
tiên phong ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hành
chính (TTHC).
Đến nay, các doanh nghiệp đã có thể thực hiện các thủ tục hải quan
điện tử với 100% thủ tục hải quan được tự động hóa tại toàn bộ các cục
hải quan và chi cục hải quan. Nhiều thủ tục hải quan đã được cung cấp
các dịch vụ công trực tuyến ở cấp độ 3 và 4. Cơ chế một cửa quốc gia
cũng đang được triển khai mạnh mẽ… Những nỗ lực này cũng góp phần
quan trọng trong việc cải thiện 15 bậc của Chỉ số thành phần “Thương
mại qua biên giới của Việt Nam” từ vị trí 108 năm 2016 lên vị trí 93 trong
Chỉ số Môi trường kinh doanh thuận lợi năm 2017 do Ngân hàng Thế
giới công bố cuối năm 2016 vừa qua.
Tuy nhiên, qua khảo sát thu thập ý kiến, phản ánh từ các doanh nghiệp
cho biết các quy định về kiểm tra chuyên ngành còn quá nhiều, trong đó
lại có nhiều quy định không phù hợp thực tế, thời gian kiểm tra chuyên
ngành còn quá dài, các cơ quan phối hợp chưa tốt trong việc giải quyết
các thủ tục cho doanh nghiệp.
Theo khảo sát của VCCI, mặc dù các doanh nghiệp tiếp cận thông tin
TTHC hải quan tương đối dễ dàng nhưng với những quy định pháp luật
còn nhiều phức tạp, nên vẫn còn tới 47% doanh nghiệp cho biết họ từng
gặp vướng mắc trong quá trình tìm hiểu pháp luật hải quan. Tỷ lệ này đã
giảm đáng kể so với con số 54% của năm 2015. Mức độ hài lòng với kết
quả phản hồi từ các cơ quan có sự khác nhau rõ rệt. Với các cục hải
quan địa phương, 85% doanh nghiệp hài lòng/hoàn toàn hài lòng với kết
quả giải đáp nhưng đối với Tổng cục Hải quan, tỷ lệ hài lòng là 76%.
Đáng chú ý, khảo sát cho thấy, trong quátrình thực hiện thủtục kiểm tra
sau thông quan, khó khăn hàng đầu đối với doanh nghiệp là nội dung
kiểm tra bị chồng chéo, trùng lặp (38% đồng ý). Tiếp đến là thời gian
kiểm tra luôn bị kéo dài hơn so với kế hoạch đã thông báo cho doanh
nghiệp (36%). Đáng lưu ý, có tới 35% doanh nghiệp cho biết họ phải chi
trả chi phí không chính thức trong các lần kiểm tra này.
So với kết quả điều tra năm 2015, tỉ lệ chi trả chi phí không chính thức đã
tăng từ 28% lên 31%. Trong khi đó, nhóm không chi thêm chi phí ngoài quy
định chỉ tăng thêm 1 điểm % so với năm 2015. Nhưng điểm ghi nhận là
việc có 44% doanh nghiệp cho biết không bị phân biệt đối xử, 17% nhận
thấy rõ bị phân biệt và 39% doanh nghiệp không biết.
Theo ông Đặng Thế Lưỡng – Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp quận
Hải An – TP Hải Phòng phản ánh, những phiền hà phát sinh nhiều không
hẳn ở khâu hải quan mà là do vấn đề kiểm tra chuyên ngành quá nhiều.
Việc kiểm hoá, thủ tục cấp phép, ví dụ như, kiểm dịch, kiểm tra chất lượng,
vệ sinh thực phẩm…) nhiêu khê, thời gian kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ
thông quan, tờ khai, tăng thêm các chi phí lưu container, lưu bãi, lưu kho
của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất.
Mặc dù cũng đã áp dụng khai báo điện tử nhưng do quá tải nên cũng
không đáp ứng được thời gian, chất lượng công tác chuyên môn, muốn
làm nhanh lại phải thêm các chi phí bên ngoài.
Có cùng quan điểm về việc kiểm tra chuyên ngành quá phức tạp, đại diện
hiệp hội doanh nghiệp logistics dẫn chứng có những mặt hàng như sắt
thép nhập về thường xuyên lần nào cũng cắt đoạn đi kiểm tra, hay hàng
hoá hoa quả nhập từ Nhật, Australia lần nào cũng phải lấy mẫu đi thử.
Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa hải quan với các cơ quản quản lý
chuyên ngành
Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp để việc cải cách thủ tục hải quan
thực sự hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hải quan với các cơ
quản quản lý chuyên ngành nên gây khó khăn cho doanh nghiệp khi
chưa có đủ chứng từ để hoàn thiện hồ sơ thông quan.
Nhiều doanh nghiệp FDI cho rằng không có sự đồng nhất trong triển
khai giữa các chi cục hải quan, có nơi thuận lợi có nơi rất khó khăn, gây
phiền hà cho doanh nghiệp, do đó, có lô hàng ở càng này thì chấp nhận
sang cảng khác lại bị ách tắc.
Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng bày tỏ, cộng đồng doanh
nghiệp cũng kỳ vọng rất lớn vào những nỗ lực cải cách sắp tới của
ngành Hải quan. Theo các doanh nghiệp tham gia khảo sát 2016, ngành
Hải quan cần tiếp tục có nhiều cải cách hơn nữa trong thời gian tới.
Cụ thể, ngành Hải quan cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hải quan, nâng
cao chất lượng thông tin cung cấp cho doanh nghiệp; tăng cường quan
hệ đối tác doanh nghiệp-hải quan; tiếp tục tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin; và đẩy mạnh công khai, minh bạch trong thực hiện thủ
tục hải quan cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng mong muốn ngành Hải quan tiếp tục nâng cao
kỷ cương, kỷ luật và năng lực giải quyết công việc của cán bộ, công
chức hải quan. Đặc biệt, cần có sự vào cuộc hơn nữa của các bộ, ngành
và các cơ quan có liên quan trong việc đơn giản hóa, minh bạch hóa
cũng như điện tử hóa các thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Đại diện các doanh nghiệp kiến nghị, ngành hải quan cần có sự cải cách
hơn nữa, tăng cường thanh tra, giám sát thực hiện tại các đơn vị hải
quan địa phương, xây dựng các chính sách bền vững, có tính ứng dụng
lâu dài để giúp cho doanh nghiệp thiết lập các qui trình thực hiện hiệu
quả và mang tính cam kết, tuân thủ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
cũng mong muốn cần có thêm nhiều thủ tục hành chính được đưa lên
Cổng cơ chế một cửa quốc gia, do đây là phương thức thực hiện công
khai, minh bạch và tiết giảm nhiều thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Theo dangcongsan.vn
5. Khi nào nhà nước nhường chỗ cho tư nhân?
“Cai sữa cho 55.000 đơn vị sự nghiệp công và 2,1 triệu viên chức”
là thông điệp mạnh mẽ phát đi từ cuộc họp của Ban Chỉ đạo Nhà
nước về đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập vào tuần trước.
Dịch vụ công cần hiệu quả hơn
Làm thế nào để các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ được, không “ăn
bám” ngân sách là vấn đề đã được bàn bạc suốt hơn 2 thập niên qua,
được đưa vào nhiều chương trình cải cách.
Nhưng hiệu quả các chương trình cải cách vẫn là dấu hỏi bởi càng cải
cách, càng hô hào “tinh giản”, “tự chủ” thì biên chế càng tăng. Ngân
sách nhà nước cung cấp cho khối này thay vì giảm thì ngày càng nặng
gánh hơn.
Càng “tinh giản” lại càng phình to
Một điểm nổi bật phải lưu ý là bất chấp những kêu gọi, quyết tâm và các
chương trình cải cách hành chính, càng “tinh giản”, số lượng biên chế lại
càng tăng ở tất cả các nhóm nhân sự, trong đó tăng mạnh nhất chính là
nhóm viên chức.
Viên chức là những người được tuyển dụng để làm việc cho các đơn vị
sự nghiệp công lập nhằm cung cấp các dịch vụ công như giáo dục, y tế,
nghiên cứu khoa học...
Trong 10 năm, từ 2002 - 2012, trong khi số lượng công chức tăng từ
200.784 người năm 2002 lên 273.617 người (thêm 72.833 người) thì số
lượng viên chức tăng từ 1.269.337 người năm 2002 lên 1.872.041 năm
2012 và đến nay là 2.161.000 người [1].
Tuy nhiên trong 2 nhóm nêu trên, sự gia tăng của lực lượng công chức
là cần thiết và có thể chấp nhận được.
Cùng với sự gia tăng quy mô và tính phức tạp của nền kinh tế, các dịch
vụ hành chính công gia tăng, yêu cầu điều tiết thị trường của Nhà nước
gia tăng, mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp và công dân cũng
sẽ gia tăng.
Do đó, số lượng công chức nhằm thực hiện các dịch vụ hành chính công
giữa Nhà nước - người dân, doanh nghiệp tăng thêm là xu thế hợp lý.
Thậm chí nếu tính về tỉ lệ số lượng công chức hành chính (thời điểm
2012) so sánh với dân số chỉ ở mức 0,6% còn là một tỉ lệ thấp so với các
quốc gia khác (chẳng hạn tỉ lệ này ở Mỹ là 2,4% [2]).
Điều đáng lo ngại nhất chính là sự tăng mạnh của nhóm viên chức trong
khu vực sự nghiệp. Đối với nhóm này, mục tiêu tinh giản không những
không đạt được mà “biên chế” càng ngày lại càng phình lên. Do đó, lựa
chọn cải cách khối sự nghiệp công là lựa chọn đúng đắn.
Trong đó xác định bảy nhóm đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh
vực: kinh tế; giáo dục - đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao và du
lịch; thông tin truyền thông và báo chí; khoa học và công nghệ làm lĩnh
vực ưu tiên cho cải cách như nghị định số 16/2015/NĐ-CP đề ra là lựa
chọn đúng.
Tuy nhiên, sự thất bại của các nỗ lực giảm biên chế cho thấy cách tiếp
cận giải quyết bằng cơ chế “tự chủ ngân sách” mới chỉ là giải pháp tình
thế nhằm giải quyết phần nổi vấn đề.
“Tự chủ” nhưng nếu số lượng các đầu mối - các đơn vị sự nghiệp công
lập - vẫn tăng, số lượng viên chức vẫn tăng đều đặn như suốt thời gian
dài vừa qua thì “vấn đề khu vực sự nghiệp công” vẫn còn nguyên đó.
“Tự chủ” không làm khu vực dịch vụ công nhỏ đi, không làm tiết kiệm
ngân sách.
Tự chủ - đơn giản chỉ giúp ngân sách tạm thời không bị nặng gánh thêm.
Còn bộ máy, còn con người - tức là vẫn tiêu tốn ngân sách - hãy còn
nguyên đó.
Do đó, cái gốc của vấn đề là xác định lại vai trò của Nhà nước trong việc
cung cấp các dịch vụ công. Câu hỏi căn bản là dịch vụ công gì, ở địa
bàn nào bắt buộc Nhà nước phải cung cấp. Trên nguyên tắc đó, dịch vụ
nào không cần Nhà nước làm cần kiên quyết cắt bỏ, chứ không chỉ là
giao “tự chủ”.
Kinh nghiệm thế giới
Thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, đã bắt đầu chuyển từ nền hành
chính công truyền thống (Public Administration) sang quản lý công mới
(New Public Management) từ những năm 1980. Triết lý cốt lõi của nó là
một nhà nước mạnh là một nhà nước tinh gọn và hiệu quả.
Nhà nước thay vì đóng vai trò “chèo thuyền” thì chuyển sang vai trò
“cầm lái”. Tức là nhà nước, thay vì đứng ra ôm đồm làm mọi việc, nay
chỉ tập trung vào việc cốt lõi: “lái thuyền” - tức là điều phối, là lãnh đạo và
dẫn dắt.
Còn “chèo thuyền” - tức cung cấp các dịch vụ công trực tiếp - sẽ do khu
vực tư đảm nhiệm. Cũng phải thôi, “vừa bế em vừa thổi cơm” thì không
thể làm việc gì tốt. Nhà nước chỉ tập trung vào chức năng cốt lõi của nhà
nước. Còn chuyện cung cấp dịch vụ thì khu vực tư năng động và hiệu
quả có thể làm tốt hơn khu vực công rất nhiều.
Dựa trên triết lý đó, các nhóm cải cách chính yếu đã được thực thi. Thứ
nhất, đó là tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Ở Úc, hệ thống
đường sắt, bưu điện, hàng không... từ chỗ là doanh nghiệp quốc doanh
đã được tư nhân hóa trong giai đoạn này.
Thứ hai, thực hiện thuê khoán (contracting-out) các dịch vụ công cho
khu vực tư làm. Nhà nước có thể là “chủ đầu tư” - người bỏ tiền ra chi
trả cho chi phí dịch vụ công, nhưng người cung cấp dịch vụ (contractors)
là các doanh nghiệp tư nhân.
Để tăng hiệu quả, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng, các gói thầu
cung cấp dịch vụ được đấu thầu công khai; doanh nghiệp nào làm tốt
nhất sẽ được xét nhận thầu. Và cuối cùng, dùng cách tiếp cận coi người
dân, doanh nghiệp như là khách hàng của hệ thống hành chính.
Các dịch vụ hành chính công được thiết kế để đáp ứng dựa trên nhu cầu
của khách hàng (là người dân, doanh nghiệp); dùng các tiêu chí đo đếm
sự hài lòng của khách hàng với chất lượng dịch vụ làm thước đo để
đánh giá hiệu quả của bộ máy hành chính.
Như vậy, một trong những đặc trưng quan trọng của tiến trình chuyển
sang hệ thống quản lý công mới là cải cách dịch vụ công qua hai cách
thức.
Thứ nhất, nhà nước rút lui khỏi một số dịch vụ mà tư nhân làm tốt, nhà
nước không cần tham gia: tiêu biểu đó là rút khỏi dịch vụ vận tải đường
sắt, hàng không, viễn thông, bưu điện... Và thứ hai, nếu vẫn cần nhà
nước thì dùng hợp đồng giao khoán, cho khu vực tư tham gia cung cấp
dịch vụ.
Mạnh dạn học cái mới
Việt Nam đang chịu áp lực lớn về cải cách khu vực sự nghiệp công - tức
là khu vực dịch vụ công, theo ngôn ngữ các nước phát triển, với rất nhiều
Ở Việt Nam, một phần lớn đơn vị sự nghiệp, khối viên chức đang cung
cấp các dịch vụ công ích mà khu vực tư nhân có thể tham gia hiệu quả.
Vì vậy, cải cách không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tự chủ, quan trọng và
lâu dài hơn cần chuyển giao căn bản các chức năng này cho khu vực tư
thực hiện.
đặc điểm chung mà các quốc gia phát triển đã trải qua. Do vậy, những bài
học cải cách và cách làm hay hoàn toàn có thể được áp dụng.
Trên thực tế, hai lĩnh vực dịch vụ công chiếm số lượng nhân sự nhiều
nhất và chi phí lớn nhất ở Việt Nam là dịch vụ giáo dục và y tế. Nhưng
chính trong hai khu vực này, năng lực của doanh nghiệp tư ở Việt Nam
có thể tham gia rất tốt và giảm tải hiệu quả gánh nặng cho Nhà nước.
Với giáo dục thì đã rõ, hệ thống trường tư từ giáo dục mầm non đến giáo
dục đại học ngày càng san sẻ tốt gánh nặng cho hệ thống trường công.
Điểm mấu chốt là hệ thống trường nghề cũng cần được tạo điều kiện
cho khu vực tư tham gia.
Chỉ khi trường nghề tư được cạnh tranh bình đẳng với trường nghề công
trong tiếp cận các gói ngân sách từ chương trình hỗ trợ đào tạo nghề của
Nhà nước, hệ thống “đơn vị sự nghiệp” này mới có thể thay đổi.
Trong lĩnh vực y tế, cởi trói cho tư nhân tham gia bình đẳng vào thị
trường dịch vụ y tế. Người dân có thể dùng thẻ bảo hiểm để khám ở
bệnh viện công cũng như ở bệnh viện tư, trong những gói bảo hiểm
khác nhau, điều đó sẽ tạo ra sự cạnh tranh và tạo sự phát triển cho dịch
vụ y tế.
Tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành bệnh viện công là mấu chốt ở đây.
Nhóm dịch vụ công thứ ba là dịch vụ liên quan đến nghiên cứu khoa
học. Nhóm viên chức chiếm số lượng lớn thứ ba hiện nay là nhóm làm
việc trong các viện nghiên cứu hoặc các trường đào tạo của từng bộ
ngành.
Hầu hết bộ ngành, mỗi bộ đều có vài viện, trường làm chức năng nghiên
cứu khoa học và đào tạo chuyên môn nghề nghiệp dưới các hình thức
viện nghiên cứu chiến lược chính sách; viện nghiên cứu khoa học kỹ
thuật ngành, trường đào tạo cán bộ ngành...
Đây là nhóm dịch vụ công có thể áp dụng phương thức “contracting out”
để nâng cao hiệu quả. Theo đó, cần kiên quyết giải thể phần lớn các
viện này. Nhà nước khi cần sử dụng dịch vụ nghiên cứu, đào tạo có thể
áp dụng phương thức “giao thầu”.
Theo đó, thực hiện theo cách thức “ra đề bài”, mời thầu nghiên cứu công
khai và trả tiền theo kết quả. Cách tiếp cận này có thể giúp cắt giảm
được một số lượng lớn đầu mối đơn vị sự nghiệp lẫn biên chế viên
chức, đồng thời nâng cao được hiệu quả sử dụng ngân sách cho lĩnh
vực nghiên cứu, đào tạo ở các bộ ngành hiện nay.
Tinh giản biên chế phải căn cứ trên tư duy lại, định nghĩa lại về chức
năng của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công.
Từ đó kết hợp với đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ (thị trường
hóa, cho phép tư nhân tham gia cạnh tranh cung cấp các gói thầu dịch
vụ công...).
Đó là một khối lượng công việc lớn với nhiều trở lực. Tuy nhiên để phát
triển một nhà nước kiến tạo với một nền hành chính tinh gọn, mạnh và
hiệu quả, những cải cách mạnh mẽ là không thể không làm.■
(1): Số liệu trích dẫn từ báo cáo của Bộ Nội vụ.
(2): Dẫn theo số liệu tính toán của tác giả Vũ Quang Việt. Xem thêm:
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai35/201635_VuQuangViet.pdf.
Theo tuoitre.vn
6. “Bội thực” văn bản quản lý chuyên ngành
Thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã có rất nhiều chỉ đạo liên
quan đến cải cách công tác quản lý chuyên ngành. Tuy nhiên, theo
ghi nhận của ngành hải quan, số lượng văn vản quản lý chuyên
ngành, kiểm tra chuyên ngành không những không tinh gọn mà
còn gia tăng với 334 văn bản tính đến tháng 6/2016 và 414 văn bản
tính đến tháng 4/2017.
Qua công tác quản lý hải quan đối với hàng hóa XNK và quá trình thực
hiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc quản lý,
kiểm tra chuyên ngành cho thấy, có nhiều mặt hàng NK phải đồng thời
chịu nhiều hình thức quản lý, kiểm tra chuyên ngành do một bộ hoặc
nhiều bộ quy định.
Một mặt hàng chịu 2-3 loại quản lý
Ví dụ, một mặt hàng thực phẩm vừa phải kiểm dịch vừa phải kiểm tra an
toàn thực phẩm hoặc kiểm tra chất lượng do vậy vừa phải chịu quản lý
của của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, vừa phải chịu sự quản
lý của Bộ Công Thương.
Có hàng hóa lại vừa phải kiểm tra chất lượng, vừa phải được cấp Giấy
chứng nhận hợp quy (Ví dụ: Giống cây trồng, các sản phẩm xây dựng
(gạch, đá, kính) hay vừa phải xin giấy phép nhập khẩu vừa kiểm tra chất
lượng (Ví dụ: Trang thiết bị y tế, thuốc, nguyên liệu sản xuất thuốc)…
Kiểm tra hàng hóa XNK tại Chi cục Hải quan Bắc Phong Sinh (Quảng
Ninh). Ảnh: Q.Hùng.
Có một số trường hợp phải chịu ba loại quản lý như mặt hàng phân bón:
Giấy phép nhập khẩu tự động, kiểm tra chất lượng, chứng nhận hợp quy.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng chồng chéo trong hoạt
động kiểm tra chuyên ngành được cơ quan Hải quan chỉ ra là các bộ
quản lý chuyên ngành chưa thống nhất trong phương thức quản lý; việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chưa có sự đánh giá tác
động đầy đủ của các đối tượng có liên quan dẫn đến một mặt hàng chịu
sự quản lý của nhiều bộ, ngành hoặc chịu sự điều chỉnh của nhiều văn
bản quy phạm pháp luật. Danh mục hàng hóa thuộc diện phải kiểm tra
quá rộng, không chi tiết tên hàng, không có mã số HS. Bên cạnh đó, có
nhiều văn bản ban hành đã lâu, không còn phù hợp với thực tế nhưng
chưa được bãi bỏ.
Cần sự giám sát, thúc đẩy của bên thứ 3
Tại buổi khảo sát, làm việc tại Cục Hải quan Hà Nội về chương trình
giám sát thực hiện nhiệm vụ, giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực Thuế và
Hải quan của Đoàn giám sát Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam vừa tổ chức đầu tháng 4, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan
Vũ Ngọc Anh cho rằng vướng mắc lớn hiện nay ảnh hưởng tới hoạt
động XNK của DN là công tác kiểm tra chuyên ngành.
Ngành Hải quan đã tiên phong trong việc phát hiện, kiến nghị những bất
cập trong hoạt động này. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có nhiều chỉ đạo
cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK nhưng
thực tế, sự chuyển biến ở các bộ, ngành rất chậm.
Phó Tổng cục trưởng Vũ Ngọc Anh kiến nghị, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam với vai trò giám sát việc thực hiện Luật Hải quan cần đôn đốc bộ,
ngành để triển khai tích cực Cơ chế một cửa quốc gia, kiểm tra chuyên
ngành, qua đó giúp giảm thời gian thông quan hàng hóa.
Hiện tại, trong thực hiện các quy định pháp luật về tạo thuận lợi thương
mại thì thủ tục Hải quan chiếm 28%, 72% còn lại thuộc các bộ ngành liên
quan. Tuy nhiên, World bank đánh giá, năm 2016, phần liên quan đến
thủ tục hải quan đã giảm còn 20%. Nếu như các bộ, ngành khác cũng
tích cực tham gia cải cách bằng các hành động cụ thể thì việc kiến tạo
được môi trường kinh doanh thông thoáng, thúc đẩy thuận lợi hóa
thương mại tại Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 19 của Chính phủ
không phải là nhiệm vụ quá nặng nề.
Theo enternews.vn
7. Bổ sung Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành quyết định 13/2017/QĐ-
TTg sửa đổi, bổ sung Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu
tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến
khích phát triển ban hành kèm theo Quyết định 66/2014/QĐ-
TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, bổ sung Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát
triển gồm: Công nghệ Internet kết nối vạn vật (IoT); Công nghệ thực tại
ảo (Virtual Reality); công nghệ thực tại tăng cường (Augmented Reality);
công nghệ vô tuyến thông minh; công nghệ in 3 chiều (3D).
Công nghệ Internet kết nối vạn vật (IoT) được ưu tiên đầu tư phát triển
Bên cạnh đó, bổ sung Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến
khích phát triển gồm: Mô-đun, thiết bị, phần mềm, giải pháp tích hợp IoT;
phần mềm, thiết bị, giải pháp, dịch vụ ảo hóa và điện toán đám mây;
phần mềm, thiết bị, giải pháp, dịch vụ cho chính quyền điện tử, doanh
nghiệp điện tử, thương mại điện tử, đào tạo điện tử, quảng cáo điện tử;
phần mềm, thiết bị, giải pháp, dịch vụ thực tại ảo, thực tại tăng cường;
dịch vụ quản trị hệ thống công nghệ thông tin; dịch vụ xử lý, phân tích,
khai thác cơ sở dữ liệu lớn (Big Data); dịch vụ chứng thực chữ ký điện
tử; dịch vụ đánh giá, kiểm định an ninh, an toàn mạng và bảo mật thông
tin;...
Quyết định có hiệu lực thi hành từ 15/6/2017.
Theo baochinhphu.vn
8. Hiệu quả bước đầu của mô hình khu dân cư điện tử
Mô hình khu dân cư điện tử đang giúp chính quyền quận Thanh
Xuân, Hà Nội, gần gũi với dân hơn, đồng thời giúp tiết kiệm thời
gian chi phí cho toàn xã hội.
Với những người dân khu dân cư số 6, phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân, TP Hà Nội, việc kê khai thủ tục hành chính chưa bao giờ dễ dàng
như hiện tại. Chỉ cần vài bước chân, xuống phòng sinh hoạt chung ngay
tầng 1, bà con đã có thể thực hiện các giao dịch hành chính thông
thường.
Tất cả các thủ tục liên quan đến giấy khai sinh, khai tử, trích lục hộ tịch,
đăng ký kết hôn, đăng ký giám hộ, chỉ cần khai ở đây và sau đó chỉ cần
một lần duy nhất đến phường để nhận kết quả.
Tận dụng không gian sinh hoạt chung của khu dân cư, phường Hạ Đình
trang bị thêm máy tính, máy scan, giúp dân thực hiện 19 loại hồ sơ hành
chính thuộc lĩnh vực tư pháp.
Các tình nguyện viên cũng đã được đào tạo để thay phiên nhau trực tại
nơi này. Họ còn sẵn sàng đến tận nhà giúp người dân kê khai qua máy
tính nếu cần làm thủ tục gấp ngoài giờ.
Những người cao tuổi trong phường Hạ Đình giờ cũng đã quen với việc
kê khai thủ tục qua mạng. Các cụ cũng thường xuyên nhận được những
tin nhắn thông báo họp thay cho giấy mời, và sắp tới là tin nhắn báo lĩnh
lương qua mạng.
Từ thành công tại Hạ Đình, hiện quận Thanh Xuân đã có kế hoạch nhân
rộng để mọi người dân đều được hưởng lợi ích.
Cùng với mô hình khu dân cư điện tử, quận Thanh Xuân cũng đang thí
điểm nhiều tiện ích, như nhắn tin thông báo tình trạng hồ sơ được giải
quyết đến đâu, nhắn tin thông báo về nhiều vấn đề liên quan đến từng
hộ gia đình trong quận.
Những mô hình như vậy đang giúp chính quyền gần gũi với dân hơn,
đồng thời giúp tiết kiệm thời gian chi phí cho toàn xã hội.
Theo vtv.vn
9. Tiêu hủy 20.000 viên thuốc đặc trị ung thư: Bộ Y tế vào cuộc
Bộ Y tế có công văn hoả tốc yêu cầu Sở Y tế TP.HCM báo cáo vụ
tiêu huỷ 20.000 viên thuốc đặc trị ung thư do hết hạn sử dụng.
Văn bản hoả tốc phát đi từ Cục Quản lý dược, Bộ Y tế chiều nay yêu
cầu Sở Y tế TP.HCM làm rõ vụ BV Huyết học và truyền máu TP.HCM
phải tiêu huỷ 20.000 viên thuốc tài trợ Tasgina đặc trị ung thư hết hạn sử
dụng. Nguyên do chậm trễ trong thủ tục xác nhận viện trợ của các cơ
quan có thẩm quyền.
Cục yêu cầu Sở Y tế TP.HCM báo cáo ngay về Bộ trước ngày 7/5.
Trước đó, Thanh tra TP.HCM đã kiểm tra việc sử dụng và quyết toán
thuốc viện trợ tại khoa Dược, BV Huyết học và truyền máu TP, phát hiện
trong kho còn tồn 19.997 viên Tasgina (trên tổng số 34.607 viên) trị ung
thư bạch cầu mãn dòng tuỷ đã hết hạn sử dụng từ tháng 5/2015.
Toàn bộ số thuốc này được nhập về dưới hình thức viện trợ phi dự án với
giá hơn 700.000 đồng/viên. Mỗi bệnh nhân sẽ sử dụng 3-4 viên/ngày.
Theo giải thích của BV, sở dĩ thuốc bị hết hạn sử dụng do thời gian hoàn
tất các thủ tục hành chính lên tới 13 tháng.
Bắt đầu từ 15/7/2013, BV nhận được thư hiến tặng thuốc. Ngày
28/11/2013, BV có văn bản gửi Cục quản lý dược xin được tiếp nhận số
thuốc viện trợ trên và giấy phép lưu hành được ban hành sau đó 1 tháng.
Ngày 30/12/2013, BV có văn bản gửi Sở Y tế TP.HCM xin chấp thuận
được thực hiện chương trình thuốc Tasigna.
Tuy nhiên 2,5 tháng sau, Sở Y tế mới có văn bản gửi UBND TP và Liên
hiệp các tổ chức hữu nghị TP chấp thuận cho BV được tiếp nhận lô
hàng viện trợ.
2,5 tháng sau, UBND TP.HCM mới có quyết định phê duyệt. Đến ngày
14/7/2016, Cục Quản lý dược có văn bản đồng ý để BV tiếp nhận lô
hàng trên.
Thời điểm này, hạn sử dụng của lô thuốc nói trên còn dưới 12 tháng nên
Hải quan TP.HCM không cho thông quan. Sở Y tế sau đó đã có tờ trình
nhờ Hải quan hỗ trợ giải quyết.
Đến 13/8/2014, lô thuốc trên về đến BV, khi chỉ còn 10 tháng hạn sử dụng.
Theo vietnamnet.vn
10. Hoàn thành mục tiêu cấp nước sạch nông thôn: Quyết liệt tháo gỡ khó khăn
Hiện nay, để thực hiện mục tiêu 61% người dân còn lại ở khu vực
nông thôn Hà Nội được sử dụng nước sạch, thành phố và các cơ
quan hữu quan đang khẩn trương tháo gỡ những vấn đề còn khó
khăn, vướng mắc. Trong đó, nhiều giải pháp như đẩy mạnh đầu tư
các dự án khả thi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện về
nguồn vốn và xem xét mô hình quản lý phù hợp... sẽ được tập
trung triển khai đồng bộ, quyết liệt.
Nhà máy nước Nam Dư cung cấp nước sạch cho các huyện Thanh
Trì, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, một phần huyện Mê Linh và 9
quận nội thành. Ảnh: Khánh Nguyên
Thiếu vốn, "vướng" thủ tục
Những năm gần đây, vấn đề nước sạch phục vụ người dân vùng ngoại
thành được đặc biệt quan tâm, triển khai mạnh mẽ. Theo Sở NN&PTNT,
Hà Nội hiện có 86/119 công trình cấp nước sạch nông thôn (NSNT) hoạt
động ổn định, cung cấp nước đạt quy chuẩn cho hơn 300.000 người
dân. Nhờ vậy, đến nay tỷ lệ người dân khu vực nông thôn Hà Nội được
sử dụng nước sạch đạt 39%. Tuy nhiên, kết quả này so với các tỉnh,
thành phố trong cả nước còn khá "khiêm tốn".
Nguồn vốn đầu tư công trình NSNT, ngoài ngân sách nhà nước, thành
phố đã huy động nhiều nguồn, trong đó có vốn từ các tổ chức, cá nhân
và doanh nghiệp. Hướng đi này đã "hóa giải" được một số vấn đề tồn
đọng. Điển hình, từ năm 2012, thành phố đã chỉ đạo dừng đầu tư bằng
vốn ngân sách và bàn giao cho các doanh nghiệp có đủ khả năng tiếp
tục thực hiện 16 công trình NSNT trong tình trạng bỏ hoang do thi công
dở dang. Đến nay, 16 công trình này đã được các doanh nghiệp như
Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ Hải Âu, Công ty TNHH Đầu tư Nhất Phát,
Công ty cổ phần Sản xuất và thương mại Ngọc Hải, Công ty cổ phần
Cấp nước Sơn Tây, Công ty TNHH MTV Nước sạch Hà Đông… tiếp tục
đầu tư, quản lý, khai thác và vận hành.
Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư công trình NSNT, nhiều nhà đầu tư
gặp không ít khó khăn, cần sự tháo gỡ. Ông Ngô Xuân Hải - Giám đốc
Công ty cổ phần Sản xuất và thương mại Ngọc Hải cho biết: Công ty đã
và đang triển khai 5 dự án nước sạch tại thị trấn Quốc Oai, xã Ngọc Mỹ
và Thạch Thán (huyện Quốc Oai); xã Ninh Hiệp và Kim Lan (huyện Gia
Lâm). Trong đó, 3 dự án đã hoàn thành và đang cấp nước sạch cho
nhân dân. 2 dự án ở xã Thạch Thán và Kim Lan được triển khai từ năm
2014, đã hoàn thành 80% tiến độ nhưng đến cuối tháng 3-2017 dự án ở
xã Kim Lan mới được thành phố phê duyệt đầu tư; còn dự án tại xã
Thạch Thán đến thời điểm này vẫn đang chờ phê duyệt.
Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi
trường nông thôn (Sở NN&PTNT Hà Nội) Đỗ Quý Hùng cho biết: Đầu tư
vào công trình nước sạch đòi hỏi vốn lớn từ hàng chục đến hàng trăm tỷ
đồng. Trong khi đó, theo quy định để được thành phố phê duyệt đầu tư
dự án, doanh nghiệp phải có 20% tổng nguồn vốn, số còn lại vay ngân
hàng. Tuy nhiên, do doanh nghiệp thiếu tài sản bảo đảm, việc tiếp cận
các nguồn vốn gặp nhiều khó khăn. Hiện, ngân hàng không nhận tài sản
bảo đảm bằng nguồn vốn đã đầu tư vào công trình của doanh nghiệp;
doanh nghiệp không được dùng trạm cấp nước làm tài sản thế chấp.
Các "nút thắt" này khiến doanh nghiệp không chứng minh được năng lực
tài chính, là nguyên nhân chính dẫn đến chậm được phê duyệt dự án.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp mong được vay vốn từ Quỹ Đầu tư phát
triển thành phố hoặc đàm phán với ngân hàng thương mại "linh động"
cho phép dùng tài sản bảo đảm là vốn đã đầu tư vào công trình. Ngoài
ra, liên quan đến tiến độ cấp phép, còn một nguyên nhân nữa là vấn đề
thủ tục hành chính. Để được phê duyệt đầu tư, doanh nghiệp phải có...
“7 lá phiếu đồng thuận” là: UBND cấp huyện, Sở NN&PTNT, Sở Xây
dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch và Kiến trúc, Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính.
Gỡ "nút thắt" bằng giải pháp mạnh
Một trạm cấp nước sạch nông thôn quy mô hộ gia đình ở xã Hợp Đồng,
huyện Chương Mỹ.
Để tháo gỡ khó khăn cho các dự án cấp NSNT, tại cuộc họp ngày 4-3
vừa qua, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung chỉ đạo: Đối với
các dự án nước sạch phải khoan mới, khi đã xác định được vị trí, được
sự đồng thuận của các cơ quan chức năng và người dân thì cho phép
doanh nghiệp vừa làm thủ tục, vừa thiết kế, thi công. Đồng thời, các cơ
quan chuyên môn cần xem xét, thẩm định chuẩn xác về tổng mức đầu
tư, dây chuyền công nghệ, hệ thống đường dẫn, chất lượng nước tại
vòi... bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định.
Liên quan đến kiến nghị của các doanh nghiệp về nguồn vốn, Chủ tịch
UBND thành phố Nguyễn Đức Chung cho biết: Đây là lĩnh vực ưu tiên từ
nguồn xã hội hóa nên khó áp dụng theo kiến nghị nêu trên. Tuy nhiên,
các doanh nghiệp cần liên hệ với Ngân hàng VP Bank để đàm phán lãi
suất vay ưu đãi theo thỏa thuận hợp tác giữa UBND TP Hà Nội và Ngân
hàng VP Bank về chương trình NSNT. Trong trường hợp nhà đầu tư huy
động vốn trong dân cùng thực hiện dự án thì cần bàn bạc, thỏa thuận,
công khai các vấn đề về phương án khấu trừ qua sản phẩm, thời gian
khấu trừ, số tiền huy động...
Liên quan đến thủ tục cấp phép, UBND thành phố đã giao Sở Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì, triển khai hoạt động của Tổ công tác liên ngành nhằm
sớm giải quyết các thủ tục đầu tư dự án ngoài ngân sách và tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Việc các doanh nghiệp đang đầu
tư dự án cấp nước sạch cần làm là chủ động liên hệ trực tiếp với Tổ
công tác để giải quyết các thủ tục liên quan.
Việc thành phố đã chấp thuận hướng tháo gỡ vướng mắc cho các
doanh nghiệp bằng cách cho phép các nhà đầu tư vừa làm thủ tục, vừa
thiết kế, thi công, đồng thời khi đánh giá năng lực tài chính của nhà đầu
tư, cho phép xem xét giá trị khối lượng mà nhà đầu tư đã thực hiện để
tính vào năng lực tài chính là những giải pháp “mạnh” của thành phố để
tháo gỡ "nút thắt" cho doanh nghiệp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp nước
sạch cho khu vực nông thôn.
Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết: Trên địa bàn thành phố
hiện có 4 mô hình quản lý NSNT do doanh nghiệp, HTX,
UBND các xã và cộng đồng tự quản. Tuy nhiên, trên thực
tế chỉ có 2 mô hình quản lý hiệu quả là doanh nghiệp và
HTX. Tại Thông báo 136/TB-UBND, ngày 2-3-2017, kết
luận về Đề án quản lý, vận hành các công trình cấp NSNT
Hà Nội có sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước,
UBND thành phố thống nhất, trong thời gian tới, việc quản
lý, vận hành công trình NSNT sẽ chủ yếu giao cho doanh
nghiệp và các HTX quản lý...
Theo hanoimoi.com.vn