tailieu.vncty.com thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

155
Khoá luận tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển kinh tế xã hội toàn cầu. Chính trên nền tảng đó, một phương thức thương mại mới đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng, đó là thương mại điện tử. Thương mại điện tử chính là một công cụ hiện đại sử dụng mạng Internet giúp cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, thu thập thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn. Với thương mại điện tử, các doanh nghiệp cũng có thể đưa các thông tin về sản phẩm của mình đến các đối tượng khách hàng tiềm năng khác nhau ở mọi nơi trên thế giới với chi phí thấp hơn nhiều so với các phương pháp truyền thống. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ phận chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam, Lê Thu Phương 1 A5 - K38B

Upload: tran-duc-anh

Post on 21-Jan-2015

90 views

Category:

Internet


0 download

DESCRIPTION

http://tailieu.vncty.com

TRANSCRIPT

Page 1: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài

Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong

những thập niên cuối của thế kỷ 20 đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển

kinh tế xã hội toàn cầu. Chính trên nền tảng đó, một phương thức thương mại

mới đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng, đó là thương mại điện tử.

Thương mại điện tử chính là một công cụ hiện đại sử dụng mạng Internet giúp

cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, thu thập thông

tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn. Với thương mại điện tử, các

doanh nghiệp cũng có thể đưa các thông tin về sản phẩm của mình đến các

đối tượng khách hàng tiềm năng khác nhau ở mọi nơi trên thế giới với chi phí

thấp hơn nhiều so với các phương pháp truyền thống.

Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trên thế giới,

các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ phận

chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam, cũng đã bước đầu

nhận thức được Ých lợi và tầm quan trọng của việc ứng dụng thương mại

điện tử. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong nhận thức của bản thân các

doanh nghiệp cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng, việc ứng dụng thương

mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể nói mới ở

mức độ sơ khởi. Vì thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xây dùng cho mình

một chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay nhằm tiếp

cận nhiều hơn nữa với thương mại điện tử để có thể khai thác tối đa lợi Ých

mà phương thức kinh doanh này đem lại. Đây cũng là lý do để tác giả lùa

chọn đề tài “Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử

trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” làm đề tài cho khoá luận tốt

nghiệp của mình.

2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Lê Thu Phương 1 A5 - K38B

Page 2: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thứ nhất, bước đầu tìm hiểu một số khái niệm về thương mại điện tử để

tiến tới một nhận thức toàn diện hơn về thương mại điện tử, điều mà các

doanh nghiệp vừa và nhỏ nên biết khi quan tâm đến việc ứng dụng thương

mại điện tử.

Thứ hai, nhấn mạnh xu thế tất yếu phải tham gia vào thương mại điện tử

qua vài nét phác hoạ về tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới,

một số khu vực kinh tế và một số nước điển hình.

Thứ ba, phân tích tình tình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam nói

chung và ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói riêng, qua đó đưa ra

một vài đánh giá sơ bộ về thực trạng áp dụng thương mại điện tử trong các

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.

Thứ tư, trên cơ sở phân tích đánh giá, đưa ra một số phương hướng phát

triển ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,

đồng thời đề cập đến một số giải pháp về phía chính phủ và về phía bản thân

các doanh nghiệp để có thể phát triển hơn nữa ứng dụng thương mại điện tử.

Thương mại điện tử đã và đang bắt đầu được áp dụng trong nhiều doanh

nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp lớn có điều kiện thuận lợi về vốn

và công nghệ. Tuy nhiên, trong điều kiện giới hạn về thời gian và tài liệu,

khoá luận này chỉ xin tập trung nghiên cứu việc ứng dụng thương mại điện tử

trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu sử dụng cho đề tài bao gồm phân tích, tổng

hợp, so sánh, kết hợp lý thuyết với thực tiễn. Đồng thời, để cung cấp thông tin

được chính xác, cập nhật, đề tài có sử dụng một số sách, đề tài nghiên cứu về

các vấn đề có liên quan, các tạp chí và thông tin trên Internet.

4. Kết cấu của đề tài:

Lê Thu Phương 2 A5 - K38B

Page 3: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu

của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử.

Chương 2: Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp

vừa và nhỏ ở Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ứng dụng thương mại

điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới

thầy giáo, ThS. Nguyễn Quang Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong

quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài khoá luận tốt nghiệp này. Đồng thời,

em còng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại

thương cùng các bạn đã giúp đỡ em thực hiện đề tài.

Lê Thu Phương 3 A5 - K38B

Page 4: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG I:

TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

I. KHÁI NIỆM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Khái niệm thương mại điện tử

Thương mại điện tử từ khi ra đời đã có nhiều tên gọi khác nhau như

“thương mại trực tuyến”(online trade) (hay còn gọi là “thương mại tại

tuyến”), “thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh doanh điện tử”

(electronic business), “thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce

hoặc paperless trade)…Tuy nhiên, cho đến nay, tên gọi “thương mại điện tử”

(electronic commerce) được sử dụng nhiều nhất rồi trở thành quy ước chung

và được đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có

thể được dùng và hiểu với cùng một nội dung.

Theo quan niệm phổ biến, thương mại điện tử (Electronic Commerce),

một yếu tố hợp thành của “nền kinh tế số hoá”, là hình thái hoạt động thương

mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại

thông qua các công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy

trong bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn gọi là “thương

mại không có giấy tờ”)

Trong định nghĩa trên, chữ “thông tin” (information) không được hiểu

theo nghĩa hẹp là “tin tức” mà là bất cứ cái gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật

điện tử, bao gồm cả thư từ, các tập tin văn bản (text-based file), các cơ sở dữ

liệu (database), các bảng tính (spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính

điệ tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ hoạ (graphical image), quảng

cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động(video

image), âm thanh,...

Lê Thu Phương 4 A5 - K38B

Page 5: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Theo Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban thuộc Liên hợp

quốc về Luật thương mại quốc tế soạn thảo và đã được Liên hợp quốc thông

qua thì “Thương mại” (Commerce) trong “thương mại điện tử” (Electronic

Commerce) bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính

chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính

thương mại (commercial) bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch

sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá,

dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa

hồng (factoring); cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn;

kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả

thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác

công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá, hành khách bằng đường

biển, đường không, đường sắt hoặc đường bé.

Uỷ ban châu Âu cũng đưa ra định nghĩa thương mại điện tử như sau:

Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện kinh doanh qua các phương

tịên điện tử. Nó dùa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn

bản, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm

nhiều hành vi, trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận

các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu

điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên mạng; mua sắm công

cộng; tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối

với thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên

dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ

pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo

dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).

Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Thương mại điện tử bao gồm

việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và

thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả

Lê Thu Phương 5 A5 - K38B

Page 6: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

các sản phẩm được giao nhận cũng như các thông tin số hoá qua mạng

Internet.

Còn theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Thương mại

điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dùa trên truyền dữ

liệu qua các mạng truyền thông như Internet.

Như vậy, “thương mại” trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn

bán hàng hoá (trade) theo cách hiểu thông thường mà còn bao quát một phạm

vi rộng hơn nhiều, do đó, việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi

cách thức hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện

nay, thương mại điện tử có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn

bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.

2. Sù ra đời của thương mại điện tử

Thương mại điện tử ra đời trên cơ sở sự ra đời và phát triển của Internet -

mạng máy tính toàn cầu. Ý tưởng về Internet xuất hiện từ những năm 1960

khi Bộ quốc phòng Mỹ bắt tay vào thực hiện việc nghiên cứu kết nối các máy

tính thành một mạng lưới chằng chịt để khi một mối liên kết bị phá háng thì

các máy tính vẫn có thể nối kết với nhau bằng các mối liên hệ khác. Trong

thời gian này, Cơ quan nghiên cứu các dự án quốc phòng cao cấp của Mỹ

(ARPA) đã tìm kiếm các công nghệ truyền thông cho phép truyền thông liên

tục thậm chí cả khi các trung tâm điều khiển không hoạt động được. Điều này

dẫn tới việc nghiên cứu các công nghệ chuyển mạch gói. Kết quả là, tới năm

1977, hai giao thức chuyển mạch gói là Giao thức điều khiển truyền thông

(TCP) và Giao thức Internet (IP) được phát minh và trở thành hai giao thức cơ

bản của Internet.

Một bước quan trọng trong cuộc cách mạng Internet là việc Trung tâm

khoa học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) thiết lập ra một số trung tâm siêu máy tính

quốc gia vào năm 1986. NSF đã liên kết các siêu máy tính và cho phép các

Lê Thu Phương 6 A5 - K38B

Page 7: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

mạng máy tính của khu vực và các trường đại học được kết nối vào. Hơn thế

nữa, để sử dụng mạng truy cập từ xa các siêu máy tính của NSF, người ta đã

phát triển các chương trình ứng dụng như là thư điện tử, giao thức truyền tệp

và các nhóm tin để việc chia sẻ thông tin được thuận tiện hơn. Liên kết của

các trường đại học với mạng của NSF để kết nối được với các siêu máy tính

chính là nguồn gốc của Internet ngày nay.

Internet tiếp tục phát triển rộng thành mạng toàn cầu khi các nước khác

cũng xin gia nhập mạng. Đặc biệt, khi có sự phát triển của World Wide Web

(www) và sự ra đời của các trình duyệt web đồ hoạ, Internet đã nhanh chóng

thu hót được sự quan tâm chú ý của những người ở ngoài cộng đồng giáo dục

và chính phủ. Với tính chất quốc tế và những tiện Ých của các dịch vụ

Internet, các nhà quảng cáo và sau đó là các doanh nghiệp đã không bỏ lỡ cơ

hội làm ăn trên mạng. Từ đó, một phương thức kinh doanh mới của thương

mại toàn cầu xuất hiện và khái niệm thương mại điện tử ra đời. Sau đó, Đạo

luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về thương mại

quốc tế (UNCITRAL: United Nations Comission on International Trade Law)

soạn thảo đã được Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua, trở thành một cơ sở

pháp lý chính thức cho thương mại điện tử trên thế giới.

II. CÁC PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Các phương tiện kỹ thuật sử dụng trong thương mại điện tử

1.1 Điện thoại

Điện thoại là một phương tiện được sử dụng nhiều trong giao dịch

thương mại bởi tính dễ sử dụng và sự phát triển rộng rãi của mạng điện thoại

trên toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển của điện thoại di động và liên lạc qua

vệ tinh. Qua điện thoại, các đối tác có thể liên lạc, trao đổi trực tiếp với nhau

bằng giọng nói. Với đặc điểm này, nhiều loại dịch vụ có thể cung cấp trực

Lê Thu Phương 7 A5 - K38B

Page 8: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

tiếp qua điện thoại như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí...

Tuy nhiên, hạn chế của điện thoại là chỉ truyền tải được âm thanh, giao dịch

chính thức vẫn phải thực hiện trên giấy tờ. Ngoài ra, chi phí cho giao dịch qua

điện thoại, nhất là điện thoại đường dài trong nước và quốc tế vẫn còn cao

nên hiệu quả kinh tế thấp.

1.2 Máy Fax

Ưu điểm lớn nhất của máy fax là cho phép truyền các văn bản trên giấy

trong thời gian rất ngắn, giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian so với cách

gửi thư và công văn truyền thống, đặc biệt là khi các đối tác giao dịch ở các

nước khác nhau. Tuy nhiên, máy fax có một số hạn chế như không thể truyền

tải được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều nên Ýt hấp dẫn đối với

người sử dụng. Hơn nữa, giá thiết bị và chi phí sử dụng còn cao nên việc sử

dụng máy fax có tính kinh tế thấp.

1.3 Truyền hình

Mức độ phổ thông của máy thu hình trên toàn thế giới và tầm phủ sóng

rộng rãi của vô số các kênh truyền hình đặc biệt là với sự phát triển của hệ

thống cáp quang và truyền hình phủ sóng qua vệ tinh đã khiến các nhà kiinh

doanh tìm thấy ở truyền hình một phương tiện kinh doanh hữu hiệu với việc

thực hiện các chương trình quảng cáo trên truyền hình. Tuy nhiên, điểm hạn

chế là truyền hình chỉ là công cụ viễn thông một chiều. Qua truyền hình,

những khách hàng quan tâm đến sản phẩm được quảng cáo không thể tìm

kiếm các dịch vụ chào hàng cũng như đàm phán với người bán về các điều

khoản cụ thể. Hiện nay, nhờ được kết nối với máy tính điện tử, công dụng của

máy thu hình đã được mở rộng hơn và nhược điểm này có thể được khắc

phục.

1.4 Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử

Trong thương mại điện tử việc thanh toán có thể được thực hiện thông

qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử. Đây thực chất là

Lê Thu Phương 8 A5 - K38B

Page 9: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

các phương tiện cho phép tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản

khác. Những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán điện tử là

máy rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), các loại thẻ tín dụng

(credit card), thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card - là

một loại thẻ từ có gắn vi chíp điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất

nhá)...

1.5 Intranet và Extranet

Mạng nội bộ (Intranet) theo nghĩa rộng là mạng thông tin trong nội bộ

một cơ quan, mét doanh nghiệp. Bằng sự nối kết giữa các máy tính điện tử

trong cơ quan, doanh nghiệp cùng với các liên lạc di động , các thành viên

trong cơ quan, doanh nghiệp đó có thể liên lạc, trao đổi thông tin và phối hợp

hoạt động với nhau thông qua mạng này. Theo nghĩa hẹp, mạng nội bộ có thể

là mạng kết nối các máy tính ở gần nhau, gọi là mạng cục bộ (LAN: Local

Area Network), hoặc mạng kết nối các máy tính trong mét khu vực rộng lớn

hơn, gọi là mạng miền rộng (WAN: Wide Area Network). Hai hay nhiều

mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành một liên mạng nội bộ hay còn gọi

là mạng ngoại bộ (Extranet) và tạo ra một cộng đồng điện tử liên xí nghiệp

(inter-enterprise electronic community) .

1.6 Internet và Web

Khi nói Internet là nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau

trên phạm vi toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ

Internet chỉ thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức

chuẩn quốc tế HTTP (HyperText Transfer Protocol - Giao thức truyền siêu

văn bản) với các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản

HTML (HyperText Markup Language), tạo ra hàng chục dịch vụ khác nhau,

nhưng nổi bật nhất tới nay là dịch vụ World Wide Web ra đời năm 1991

(thường gọi tắt là web, viết tắt là WWW). Web là công nghệ sử dụng các siêu

liên kết văn bản (hyper link, hyper text), là một giao thức để tạo ra các liên

Lê Thu Phương 9 A5 - K38B

Page 10: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

kết động trong hoặc giữa các văn bản, hay nói cách khác là tạo ra các văn bản

chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác. Nó cho phép người sử dụng tự

động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang một cơ sở dữ liệu khác. Bằng cách

đó, người sử dụng có thể truy cập các thông tin thuộc nhiều lĩnh vực khác

nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, đồ hoạ, âm thanh...

Web với tư cách là một không gian ảo cho thông tin đã được toàn thế giới

chấp nhận làm tiêu chuẩn giao tiếp thông tin.

Ngày nay, do công nghệ Internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây

dựng các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ nên càng ngày người ta càng hiểu

các mạng này là các “phân mạng” (subnet) của Internet. Sù ra đời và phát

triển của Internet đã tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, tạo ra

bước phát triển mới của ngành truyền thông và đã trở thành công cụ quan

trọng nhất của thương mại điện tử. Dù có hay không có Internet/Web, ta vẫn

có thể làm thương mại điện tử (qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ cùng

với các phương tiện điện tử khác), song ngày nay, nói tới thương mại điện tử

thường có nghĩa là nói tới Internet/Web, vì thương mại đã và đang trong tiến

trình toàn cầu hoá và hiệu quả hoá, nên cả hai xu hướng Êy đều đòi hỏi phải

sử dụng triệt để Internet và Web như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao

độ và có hiệu quả sử dụng cao.

2. Các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử

2.1 Thư điện tử (e-mail)

Các đối tác (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử

dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua

mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, gọi tắt là e-mail). Đây là một thứ

thông tin ở dạng “phi cấu trúc” (unstructured form), nghĩa là thông tin không

phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận trước.

2.2 Thanh toán điện tử (electronic payment)

Lê Thu Phương 10 A5 -

K38B

Page 11: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử

(electronic message). Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử đã

hướng thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới , đó là:

Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính ( FEDI - Financial Electronic Data

Interchange) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty

giao dịch với nhau bằng điện tử.

Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát

hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi tự do sang

các đồng tiền khác thông qua Internet. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ

thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital

cash), công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hoá

khoá công khai/bí mật” (Public/Private Key Crypto-graphy). Thanh toán bằng

tiền mặt Internet đang trên đà phát triển nhanh vì có hàng loạt ưu điểm nổi

bật:

- Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ;

- Có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ mà không

đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận trước, các thanh toán là vô hình;

- Tiềnmặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được nguy cơ tiền giả.

Tói tiền điện tử (electronic purse, còn gọi là “ví điện tử”) nói đơn giản

là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (smart card, hay còn

gọi là thẻ giữ tiền - stored value card); tiền được trả cho bất cứ ai đọc được

thẻ đó; kỹ thuật của tói tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hoá khoá công

khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.

Thẻ thông minh (smart card) nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng,

nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có

một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền Êy chỉ được chi trả khi người sử

dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán hoá đơn) được xác thực là

Lê Thu Phương 11 A5 -

K38B

Page 12: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

“đúng”.

Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) và giao dịch chứng

khoán số hoá (digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân

hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống:

- Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại, tại các

điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách

hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng...);

- Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu

thị...);

- Thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng;

- Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.

2.3 Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange)

Trao đổi dữ liệu điện tử là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu

trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác

trong nội bộ công ty, hay giữa các công ty hoặc tổ chức đã thoả thuận buôn

bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp

của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc vì các bên đối tác phải thoả thuận từ

trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin). Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật

thương mại quốc tế đã đưa ra định nghĩa pháp lý sau: “Trao đổi dữ liệu điện

tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính

điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn đã được

thoả thuận về cấu trúc thông tin”.

EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu và chủ yếu

được thực hiện thông qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ.

Thương mại điện tử qua biên giới (Cross-border electronic commerce) về

bản chất là trao đổi dữ liệu điện tử giữa các doanh nghiệp được thực hiện giữa

các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung: giao dịch kết nối, đặt

Lê Thu Phương 12 A5 -

K38B

Page 13: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

hàng, giao dịch gửi hàng (shipping) và thanh toán. Trên bình diện này, nhiều

khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có quan

điểm, chính sách và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải

có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do

hoá thương mại và tự do hoá việc sử dụng Internet. Chỉ như vậy mới có thể

đảm bảo được tính khả thi, tính an toàn và tính hiệu quả của trao đổi dữ liệu

điện tử.

2.4 Giao gửi số hoá các dung liệu (Digital delivery of content)

Giao gửi số hoá các dung liệu là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà

người ta cần nội dung, tức là hàng hoá, chứ không cần tới vật mang hàng hoá

như phim ảnh, âm nhạc, các chương trình truyền hình, phần mềm máy tính...

Các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm...

nay cũng đã được đưa vào danh mục các dung liệu (content). Đồng thời, trên

giác độ kinh tế - thương mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên

Internet đều có ở mức phong phó, do đó một nhiệm vụ quan trọng của công

tác thông tin ngày nay là khai thác trực tiếp được lượng thông tin trên Web và

phân tích tổng hợp lượng thông tin này sao cho phù hợp với mục đích sử

dông.

2.5 Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods)

Để tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web

và Java, người bán xây dựng trên mạng các cửa hàng ảo (virtual shop) để

thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa

hàng, xem hàng háo hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiền bằng

thanh toán điện tử. Vì là hàng hoá hữu hình nên tất yếu sau đó cửa hàng phải

dùng các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. Điều

quan trọng nhất là khách hàng có thể mua hàng tại nhà (home shopping) mà

không cần phải đích thân đi tới cửa hàng.

Lê Thu Phương 13 A5 -

K38B

Page 14: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

3. Các loại giao tiếp trong thương mại điện tử

- Giao tiếp giữa người với người: qua điện thoại, thư điện tử, máy fax;

- Giao tiếp giữa người với máy tính điện tử: trực tiếp hoặc qua các mẫu

biểu điện tử (Electronic form) và qua mạng Internet;

- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với người: qua thư tín do máy tính tự

động sinh ra, qua máy fax và thư điện tử;

- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với máy tính điện tử: qua việc trao đổi

dữ liệu có cấu trúc, thẻ thông minh, các dữ liệu mã hoá bằng vạch (barcoded

data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch).

4. Các giao dịch thương mại điện tử

4.1 Căn cứ theo đối tượng giao dịch

Các giao dịch thương mại điện tử hiện nay được xây dựng dùa trên các

mối quan hệ giữa các chủ thể bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu

dùng. Do vậy, căn cứ theo đối tượng giao dịch, trong thương mại điện tử có

thể có các giao dịch sau:

- B to B (Business to Business): là giao dịch giữa các doanh nghiệp với

nhau và giao dịch bên trong doanh nghiệp (Business to Employee). Các doanh

nghiệp thường sử dụng hình thức giao dịch này để trao đổi chứng từ, thanh

toán tiền hàng và trao đổi thông tin. Hình thức trao đổi này thường được các

doanh nghiệp sử dụng mạng Intranet và Extranet để giao dịch.

- B to C (Business to Consumer): là giao dịch giữa doanh nghiệp và

người tiêu dùng, minh hoạ cụ thể là việc bán hàng qua mạng, làm cho việc

mua sắm của người tiêu dùng trở nên thuận tiện hơn vì người tiêu dùng có thể

thực hiện việc xem hàng, mua hàng và thanh toán tại nhà mà không cần phải

đến tận cửa hàng. Đây chính là sự thể hiện việc điện tử hoá tiêu thụ khi mạng

toàn cầu ra đời và phát triển.

Lê Thu Phương 14 A5 -

K38B

Page 15: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- B to G (Business to Government): giao dịch giữa doanh nghiệp với

chính phủ, bao gồm việc trao đổi thông tin, mua sắm chính phủ theo kiểu trực

tuyến (online government procurement) và quản lý nhà nước về thuế, hải

quan...

- C to G (Consumer to Government): giao dịch giữa người tiêu dùng với

các cơ quan chính phủ nhằm trao đổi các thông tin về thuế, dịch vụ hải quan

và các thông tin khác.

- G to G (Government to Government): giao dịch giữa các chính phủ

nhằm mục đích trao đổi thông tin.

Trong các giao dịch trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp (B to B hoặc

B2B) và giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (B to C hoặc B2C) là hai

dạng giao dịch phổ biến trong thương mại điện tử đặc biệt là nếu xét trên góc

độ thuần tuý kinh doanh.

<1> Giao dịch bên trong doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp

Thư tín điện tử trong nội bộ doanh nghiệp

Xuất bản trực tuyến (trên Web) các tài liệu của công ty

Tra cứu các tài liệu, các dự án và các thông tin khác

Truyền gửi các thông tin khẩn cấp tới nhân viên

Quản lý tài chính và nhân sự

Quản lý vật tư

Phục vụ hậu cần

Gửi các thông tin hoặc báo cáo về xử lý đơn hàng cho người cung

cấp hàng.

<2> Giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng

Tra cứu thông tin về sản phẩm và hàng hoá (trên Web)

Đặt hàng

Thanh toán các hàng hoá và dịch vụ

Lê Thu Phương 15 A5 -

K38B

Page 16: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Cung cấp các lao vụ trực tuyến cho khách hàng

Trước hết, về giao dịch B2B, đây là quan hệ giao dịch chiếm tỷ lệ chủ

yếu trong tổng số các giao dịch thương mại điện tử hiện nay. Khi áp dụng

B2B, các doanh nghiệp xây dùng cho mình các Website trên mạng Internet

nhằm giới thiệu về doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của doanh nghiệp

cho các đối tác, đồng thời những đối tác quan tâm có thể giao dịch trực tiếp

với doanh nghiệp ngay trên Website này. Bên cạnh đó, Website cũng là mạng

nội bộ giữa doanh nghiệp với một số khách hàng đã và đang làm việc với

doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với đa số các công ty, các Website này cũng kiêm

luôn chức năng bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng khi họ truy cập tìm hiểu

sản phẩm và đặt hàng như các khách hàng là doanh nghiệp khác.

Trong phương thức B2B, thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp có

thể theo dõi, quản lý được quá trình cung cấp nguyên liệu, dịch vụ từ phía nhà

cung cấp cũng như việc giao hàng hoá cho các đại lý tiêu thụ của mình và các

nhà phân phối độc lập khác. Đồng thời, trong quá trình này, doanh nghiệp

cũng liên tục được cập nhật thông tin từ phía các đối tác do đó có thể nhanh

chóng nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Về phía nội bộ doanh nghiệp,

tất cả các thành viên trong doanh nghiệp đều được quản lý, được tham gia vào

sản xuất một sản phẩm bằng cách truy cập thông tin về sản phẩm, đóng góp ý

kiến về sản phẩm, được thông báo cũng như đóng góp ý kiến về các quyết

định của doanh nghiệp thông qua mạng nội bộ của doanh nghiệp đó. Với

nguồn thông tin từ nhiều phía cả bên trong lẫn bên ngoài, doanh nghiệp có thể

bổ sung, hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của thị trường từ đó

nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh.

Về giao dịch B2C, đây là một phương thức giao dịch ngày càng phổ biến

bởi những tiện Ých mà nó đem lại cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng.

Lê Thu Phương 16 A5 -

K38B

Page 17: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Với sự phát triển của Internet, người tiêu dùng ngày càng quen dần với việc

mua hàng trên mạng, một thị trường điện tử nơi người bán và người mua gặp

nhau mà trong tương lai có thể dần thay thế cho các thị trường truyền thống.

Khi mua hàng trên mạng, hạn chế về khoảng cách địa lý được xoá bỏ, người

tiêu dùng có thể tự do lùa chọn các sản phẩm, dịch vụ cũng như các nhà cung

cấp chỉ bằng việc truy cập các Website đang xuất hiện ngày một nhiều hơn

trên mạng.

Giao dịch B2C có ảnh hưởng nhiều đến kênh bán lẻ bởi thông qua

Internet, người sản xuất và người tiêu dùng có thể trực tiếp gặp nhau. Do chi

phí trung gian được giảm bớt, người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá hay

dịch vụ mình mong muốn với giá thấp hơn và tin tưởng rằng sẽ được hưởng

các dịch vụ hỗ trợ kèm theo đầy đủ hơn. Việc trao đổi trực tiếp giữa người

bán và người mua giúp người bán nắm được yêu cầu chi tiết của khách hàng

từ đó cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu đó, đồng thời, thông

tin phản hồi trực tiếp từ phía khách hàng cũng giúp doanh nghiệp khảo sát

được thị trường một cách chính xác, hiệu quả và kinh tế.

4.2 Căn cứ theo nội dung giao dịch

Hiện nay, nếu căn cứ theo nội dung giao dịch, thương mại điện tử có thể

có các loại giao dịch sau:

- Mua hàng điện tử: là hoạt động thương mại với chức năng bán sản

phẩm. Đối với hoạt động thương mại này, những thông tin như tìm hiểu về

sản phẩm, đặt hàng, thanh toán tiền đều có thể thực hiện qua mạng. Nhưng

hàng hoá đưa đến tay người dùng sẽ được thực hiện thông qua các dịch vụ

bưu điện đã có hoặc các cơ sở, công ty vận tải. Lợi điểm của loại hình này là

giảm thiểu đến mức tối đa các khâu trung gian trong quá trình lưu thông hàng

hoá.

Lê Thu Phương 17 A5 -

K38B

Page 18: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Cung cấp thông tin: là giao dịch thương mại điện tử mà đối tượng mua

bán là sản phẩm hoặc dịch vụ thông tin. Toàn bộ quá trình thương mại này

hoàn toàn có thể thực hiện qua mạng.

- Thanh toán điện tử (e-Cash và e-Cheque): là hoạt động cung cấp việc

thanh toán điện tử nhanh chóng nhất thông qua hệ thống thanh toán điện tử

(Electronic Payment System - EPS). Hoạt động này nhằm bổ sung cho hai

hoạt động thương mại kể trên để được một hệ thống hoàn chỉnh trong kinh

doanh. Đây là yếu tố quan trọng và cần có để hoạt động thương mại điện tử

mang đúng bản chất của thương mại. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân cơ

bản thúc đẩy việc điện tử hoá tiền tệ.

III. LỢI ÝCH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Giúp doanh nghiệp nắm được thông tin phong phó

Nhờ các phương tiện điện tử sử dụng trong thương mại điện tử, điển hình

là truy cập các trang web trên Internet và liên lạc qua Internet, các doanh

nghiệp có điều kiện tiếp cận với nguồn thông tin khổng lồ trên Internet cũng

như nắm bắt kịp thời thông tin thị trường để từ đó xây dựng chiến lược sản

xuất kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu

vực và quốc tế. Đồng thời, việc nắm bắt thông tin chính xác và kịp thời cũng

giúp doanh nghiệp nhanh chóng phản ứng được trước những thay đổi của thị

trường. Hơn thế nữa, việc nắm bắt thông tin cũng giúp doanh nghiệp chủ

động đi trước các đối thủ cạnh tranh, đây là một yếu tố rất quan trọng cho sự

tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay,

khi các doanh nghiệp luôn phải chịu sức Ðp cạnh tranh vô cùng gay gắt. Điều

này đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng được

nhiều quốc gia quan tâm và coi là một trong những động lực phát triển chủ

Lê Thu Phương 18 A5 -

K38B

Page 19: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

yếu của nền kinh tế hiện nay.

2. Giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc lùa chọn khi mua hàng

Thương mại điện tử đã và đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho cả người

tiêu dùng cá lẻ và các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thương mại

điện tử, ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức kinh doanh trực tuyến bằng

cách quảng cáo trên mạng, bán hàng và thanh toán trên mạng. Việc quảng cáo

trên mạng giúp khách hàng có thể dễ dàng tìm hiểu thông tin chi tiết và chính

xác về mặt hàng mình quan tâm. Thêm vào đó, do không phải mất nhiều thời

gian tìm đến tận cửa hàng nơi có trưng bày và bán sản phẩm, khách hàng có

điều kiện thăm quan cùng lúc nhiều trang web của nhiều doanh nghiệp khác

nhau và do đó có thể dễ dàng so sánh để chọn lùa sản phẩm và nhà sản xuất

mà mình ưng ý nhất.

3. Giảm chi phí sản xuất

Nhờ thương mại điện tử, chi phí sản xuất có thể được giảm bớt mà trước

hết là chi phí văn phòng, một nhân tố cấu thành trong chi phí sản phẩm. Cụ

thể là chi phí in Ên hầu như được loại bỏ, chi phí cho việc tìm kiếm và chuyển

giao tài liệu được giảm bớt bởi việc tài liệu được lưu trữ và chuyển giao trên

máy tính cho phép tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức. Cũng vì thế mà

số nhân viên văn phòng được giảm thiểu giúp doanh nghiệp tiết kiệm được

chi phí tiền lương mà lẽ ra phải trả cho số lượng nhân viên lớn hơn nhiều.

Ngoài ra, các văn phòng không giấy tờ (paperless office) cũng chiếm diện tích

nhỏ hơn rất nhiều so với các văn phòng truyền thống. Quan trọng hơn, các

nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ nên có thể

tập trung thời gian và năng lực vào nghiên cứu phát triển và do đó đem lại

nhiều lợi Ých hơn cho doanh nghiệp xét về mặt lâu dài, chiến lược.

4. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị

Lê Thu Phương 19 A5 -

K38B

Page 20: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thương mại điện tử cũng giúp giảm bớt chi phí bán hàng và chi phí tiếp

thị. Nhờ có Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất

nhiều khách hàng - những người thăm quan và đặt hàng trên trang web của

doanh nghiệp, chưa kể việc nhận các đơn đặt hàng có thể được máy tính tự

động xử lý và vì thế chi phí nhân viên bán hàng được giảm đi đáng kể . Với

số lượng người truy cập Internet ngày một nhiều như hiện nay, việc quảng cáo

trên Internet là vô cùng hiệu quả bởi doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi

quảng cáo mà không tốn thêm quá nhiều chi phí. Hơn thế nữa, các catalogue

điện tử mà doanh nghiệp sử dụng để quảng cáo có nội dung phong phó, sinh

động, hấp dẫn hơn nhiều và dễ dàng cập nhật thường xuyên so với các

catalogue in Ên vốn có nhiều hạn chế về in Ên, phát hành.

5. Giảm chi phí giao dịch

Thương mại điện tử thực hiện qua Internet giúp người tiêu dùng và các

doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Một giao dịch

trong thương mại điện tử được tính bao gồm các công đoạn từ quảng cáo, tiếp

xúc ban đầu cho đến giao dịch đặt hàng, giao hàng và thanh toán. Sử dụng

Internet, thời gian giao dịch chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax và bằng

0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ

bằng 5% chi phí giao dịch qua fax hay qua bưu điện hoặc chuyển phát nhanh.

Chi phí thanh toán điện tử qua Internet cũng chỉ bằng 10% đến 20% nếu so

với chi phí thanh toán theo lối thông thường.

Thời gian tiết kiệm được do giảm bớt thời gian giao dịch có ý nghĩa rất

quan trọng với doanh nghiệp vì việc nhanh chóng đưa thông tin sản phẩm đến

với người tiêu dùng cũng như việc sớm nắm bắt được nhu cầu thị trường từ

thông tin phản hồi của khách hàng giúp doanh nghiệp dễ dàng chủ động thay

đổi để theo kịp sự biến động của nhu cầu thị trường.

Lê Thu Phương 20 A5 -

K38B

Page 21: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

6. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác

Thương mại điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập và củng cố

mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Thông qua

mạng, từ các mạng nội bộ cho đến Internet, người tiêu dùng, các doanh

nghiệp và cả các cơ quan chính phủ có thể trực tiếp liên lạc với nhau mà

không có bất cứ hạn chế nào về thời gian cũng như khoảng cách địa lý bởi

việc liên lạc trên mạng Internet mang tính toàn cầu. Hầu như mọi giao dịch

đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Do vậy, các chủ thể của hoạt

động thương mại điện tử đặc biệt là các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm

nhiều bạn hàng mới, nhiều cơ hội kinh doanh mới trên phạm vi toàn quốc,

toàn khu vực và toàn thế giới.

7. Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá

Nền kinh tế số hoá (digital economy) hay còn gọi là nền kinh tế ảo

(virtual economy) là xu thế phát triển trong tương lai gần của nền kinh tế thế

giới. Việc nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế số hoá có ý nghĩa rất quan trọng

đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, để tránh nguy cơ

tụt hậu. Trước mắt, thương mại điện tử kích thích sự phát triển của ngành

công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng

lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, từ đó, thương mại điện tử tạo điều

kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá. Đây là một lợi Ých mang

tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và liên quan đến chính sách phát

triển của các quốc gia, bởi một quốc gia, đặc biệt là nước đang phát triển, sớm

tiếp cận được với nền kinh tế số hoá có thể tạo ra cho mình một bước phát

triển nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong thời gian ngắn.

IV. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI

Lê Thu Phương 21 A5 -

K38B

Page 22: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu. Tuy

hiện nay thương mại điện tử được áp dụng chủ yếu ở các nước phát triển,

trong đó riêng Mỹ đã chiếm khoảng 1/2 tổng doanh số thương mại điện tử

trên thế giới, các nước đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia ngày càng

nhiều vào hoạt động kinh doanh này. Tuỳ đặc điểm kinh tế xã hội và định

hướng phát triển riêng mà mỗi quốc gia có cách nhìn nhận, đánh giá, cách

chuẩn bị, triển khai và có các bước đi khác nhau trong quá trình tham gia vào

thương mại điện tử. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy,

để có thể tham gia có hiệu quả vào thương mại điện tử và hạn chế đến mức

thấp nhất các rủi ro, mỗi nước đều phải có chiến lược chung về thương mại

điện tử, có chương trình tổng thể, phương án hành động từng bước và phải có

tổ chức chuyên trách cho công việc này.

Sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới

Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên nền tảng của sự phát triển

công nghiệp công nghệ thông tin trên thế giới. Công nghệ thông tin ngày nay

đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.

Đặc biệt, sự kết hợp hữu cơ ba bộ phận công nghiệp là máy tính (mạng, máy

tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện thoại

hữu tuyến, vô tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản

phẩm nghe, nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin v.v.) đang

tạo ra vai trò và tính chất mới của công nghiệp công nghệ thông tin.

Nền tảng cho sự phát triển của thương mại điện tử thế giới là Internet,

bao gồm cả các phân mạng do đó bao quát toàn bộ các máy tính điện tử đang

hoạt động trên toàn thế giới, và các phương tiện truyền thông hiện đại bao

gồm vệ tinh viễn thông, cáp, vô tuyến và các khí cụ điện tử.

Lê Thu Phương 22 A5 -

K38B

Page 23: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Internet đang phát triển rất nhanh cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng

dụng và chất lượng vận hành. Nếu như năm 1991 mới có 31 nước nối mạng

vào Internet thì tới giữa năm 1997 đã có 171 nước. Số trang web vào giữa

năm 1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng

Internet/Web vào giữa năm 1991 là 1600, tới giữa năm 1997 đã lên 1,3 triệu.

Giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa chỉ Internet (chủ yếu là ở

Mỹ và mỗi địa chỉ có thể có nhiều trang web do sử dụng các lĩnh vực khác

nhau, dùng nhiều cổng khác nhau), tới giữa năm 1996 đã lên 12,9 triệu địa chỉ

với khoảng 67,5 triệu người sử dụng ở khắp các châu lục và tới giữa năm

1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Số

người sử dụng Internet toàn thế giới đã tăng lên trên 350 triệu vào năm 2000

và theo các nhà dự báo, vào năm 2005 sẽ có khoảng 1 tỷ người trên thế giới

sử dụng Internet.

Trước đây, kiểu tiêu biểu mà một cá nhân ở gia đình truy cập vào

Internet là thông qua một máy tính cá nhân (PC: Personal Computer) và một

đường dây điện thoại. Cách truy cập này có tốc độ rất chậm, ví dụ, nếu dùng

một modem 28,8 kbps (nghìn bit/sec) thì phải mất 46 phót mới tải xuống

được một chương trình video dài 3,5 phót. Hiện nay, các công ty điên thoại,

vệ tinh và cáp đã tạo ra các phương tiện truy cập Internet với tốc độ cao hơn

rất nhiều. Công nghệ “đường thuê bao số hoá không đồng bộ” (ADSL:

Asynchronous Digital Subscriber Line), với modem 8 Mbps (triệu bit/sec),

cho phép chương trình video nói trên được tải xuống chỉ trong 10 giây. Khi

các công ty Mỹ phát triển công nghệ dùng ti vi để truy nhập vào Internet (gọi

là HDTV: high-definition television) dùng cáp, với modem 10 Mbps sẽ chỉ

mất 8 giây cho việc tải chương trình đó. Các công ty mà chủ yếu là các công

ty Mỹ đã có chương trình 5 năm 1998-2002 xây dựng một mạng viễn thông

băng rộng toàn cầu thông qua các vệ tinh, cho phép với tới hầu hết số dân 2 tỷ

Lê Thu Phương 23 A5 -

K38B

Page 24: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

người đang sống ở các vùng không có điện thoại trên toàn thế giới. Hệ thống

cáp ở các nước đã và đang chuyển thành hệ thống lưu thông Internet 2 chiều

(two-way internet traffic) dùng cáp quang, có hộp giải mã các âm thanh, mã

hình ảnh và dữ liệu truyền gửi dưới dạng số hoá. Các phương tiện liên lạc vô

tuyến cũng đều đang hội nhập vào Internet. Các tuyến cáp quang đang được

rải trên khắp các nước, các châu lục để liên kết tất cả các khí cụ điện tử vào

Internet, sẽ cho phép truy cập vào Internet nhanh gấp 10 lần so với mạng lưới

cáp điện thoại hiện nay. Theo ước tính của các chuyên gia Mỹ, Internet/Web

đang phát triển với tốc độ cứ 100 ngày thì tổng lượng thông tin qua “võng

mạng toàn cầu” lại tăng lên gấp đôi. Nhìn xa hơn, các nhà “tương lai học” đã

đưa ra dự báo rằng “kinh tế số hoá”, “xã hội số hoá” trên cơ sở công nghệ

điện tử với điện tử là vi tố cuối cùng sẽ sớm bị thay thế bởi công nghệ cao

hơn nữa là công nghệ lượng tử với vi tố là các hạt cơ bản.

Theo số liệu trung bình các nguồn, doanh số thương mại điện tử toàn thế

giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỷ USD, năm 1998 đạt 47 tỷ USD và năm 1999

đạt 95,5 tỷ USD. Theo IDC, ước tính doanh thu thương mại điện tử toàn cầu

sẽ tăng lên 1,3 nghìn tỷ USD vào năm 2003, còn công ty Marketing

“Forrester Research”lại dự đoán mức doanh thu sẽ lên tới 6,7 nghìn tỷ USD

vào năm 2004, tương đương 8,6% tổng doanh thu thương mại trên thế giới.

Trong đó, buôn bán giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua

trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) sẽ chiếm khoảng 50%, dịch vụ tài chính và các

dịch vụ khác khoảng 45%, dịch vụ bán lẻ khoảng 5%. Để công việc kinh

doanh có hiệu quả hơn, các công ty đang chuyển từ thương mại điện tử sang

kinh doanh điện tử, nối và gắn kết kinh doanh nội bộ với các nhà cung cấp và

khách hàng. Doanh thu do ứng dụng thương mại điện tử sẽ đạt mức lãi gộp

hàng năm trên 60% từ năm 1999 đến năm 2004. IDC dự báo doanh số của

thương mại điện tử và doanh thu từ việc ứng dụng các chiến lược Marketing

Lê Thu Phương 24 A5 -

K38B

Page 25: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

sẽ tăng từ 709 triệu USD trong năm 1999 lên tới 4,5 tỷ USD trong năm 2004.

Còng trong giai đoạn này, doanh thu từ bán hàng qua thương mại điện tử dự

kiến sẽ tăng từ 222 triệu USD lên tới 5 tỷ USD.

Như vậy, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin,

thương mại điện tử trên thế giới đang phát triển vô cùng mạnh mẽ và tạo ra

mét xu thế phát triển chung mà các nước đang hướng tới. Trong đó, không chỉ

các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc Liên

minh châu Âu mà cả các nước đang phát triển cũng đang nhanh chóng tham

gia vào thương mại điện tử. Sù phát triển của thương mại điện tử một mặt là

kết quả của xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình “số hoá” toàn bộ hoạt

động của con người, mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng

nước, từng nhóm nước và toàn thế giới nói chung, đặc biệt là trên bình diện

tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho kinh tế số hoá nói chung

và thương mại điện tử nói riêng.

Lê Thu Phương 25 A5 -

K38B

Page 26: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG II:

THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

TRONG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

Thương mại điện tử ở Việt Nam ngày càng được mọi người quan tâm

trong xu hướng chung của thế giới. Chính phủ Việt Nam đang có các nghiên

cứu để ứng dụng thương mại điện tử sao cho phù hợp với lợi Ých và điều kiện

của Việt Nam nhất.

Việt Nam đã đạt được thoả thuận về nguyên tắc chỉ đạo chung trong

ASEAN và chương trình hành động trong APEC về thương mại điện tử.

Chúng ta còng tham gia tiểu ban điều phối thương mại điện tử của ASEAN và

tham gia soạn thảo và thoả thuận các nguyên tắc chung cho thương mại điện

tử của tổ chức này. Thủ tướng chính phủ đã ký Hiệp định khung về e-ASEAN

ngày 24/11/2000, cam kết tham gia phát triển không gian điện tửvà thương

mại điện tử trong khuôn khổ các nước ASEAN.

Tuy nhiên, nếu so sánh với tốc độ phát triển thương mại điện tử của thế

giới thì chúng ta còn rất chậm và còn có nhiều vấn đề chưa được giải quyết

như: một kế hoạch tổng thể cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt

Nam, một cơ quan cấp chính phủ điều hành, hoạch định các chính sách phát

triển thương mại điện tử ở Việt Nam với một cơ sở hạ tầng phù hợp với xu

hướng toàn cầu hoá... Nhìn chung thương mại điện tử chưa thực sự hình thành

một cách đầy đủ ở Việt Nam.

Dưới đây chúng ta sẽ xem xét tổng quan việc áp dụng thương mại điện

tử ở Việt Nam qua một số vấn đề cơ bản bao gồm:

- Nhận thức về thương mại điện tử

Lê Thu Phương 26 A5 -

K38B

Page 27: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Hạ tầng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử

- Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và viễn thông

- Hạ tầng cơ sở nhân lực

- Thanh toán điện tử

- Bảo mật thông tin

- Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

1. Nhận thức về thương mại điện tử

Cuối năm 1999, Chính phủ đã giao cho Bộ thương mại chủ trì dự án kỹ

thuật thương mại điện tử. Dự án này được phân thành các tiểu dự án có các

nội dung và hoạt động chủ yếu về: Nâng cao nhận thức về thương mại điện

tử; Hạ tầng cơ sở pháp lý; Hạ tầng cơ sở công nghệ; Hạ tầng cơ sở bảo mật

thông tin; Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử; Hạ tầng cơ sở tiêu chuẩn hoá

công nghiệp và thương mại; Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; Bảo vệ người tiêu

dùng; An ninh quốc gia trong thương mại điện tử; Các khía cạnh văn hoá xã

hội; Quản lý nhà nước và vai trò của Chính phủ; Đào tạo kỹ năng và thử

nghiệm các dạng hoạt động của thương mại điện tử.

Chính phủ Canada đã giúp đỡ Bộ thương mại xây dựng kế hoạch khung

5 năm chấp nhận và ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam. Trong năm

2000, Chính phủ đã giao Bộ thương mại làm đầu mối đàm phán với các nước

ASEAN xây dựng Hiệp định khung e-ASEAN và Hiệp định này đã được lãnh

đạo cấp cao các nước ASEAN ký ngày 24/10/2000 tại Singapore. Trong báo

cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá X, phần nhiệm vụ của năm

2001 có ghi: “mở rộng mạng Internet ra thị trường thế giới, bước đầu nghiên

cứu ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch kinh doanh đối với một số

ngành hàng, công ty lớn...”

Ngày 17/10/2000, Bộ chính trị trung ương Đảng có chỉ thị số 58/CT-TW

về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp

Lê Thu Phương 27 A5 -

K38B

Page 28: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá”

Thực hiện chỉ thị 58-CT/TW, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số

128/2000/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 về “ Một số chính sách và biện pháp

khuyến khích đầu tư và phát triển công nghệ phần mềm”

Ngày 20/2/2001, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 19/2001/QĐ-

TTg bổ sung sản phẩm máy vi tính vào danh mục các sản phẩm trọng điểm.

Ngày 24/5/2001, TTCP đã có quyết định số 81/2001/QĐ-TTg về việc

phê duyệt chương trình hành động triển khai chỉ thị 58/CT-TW.

Văn kiện Đại hội Đảng IX (tháng 4/2001) đã nêu rõ cần phải phát triển

mạnh và nâng cao chất lượng các ngành thương mại, dịch vụ và kể cả thương

mại điện tử, đó chính là kim chỉ nam rất quan trọng mở đường và là động lực

mạnh mẽ thúc đẩy cho công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử

nói riêng phát triển ở nước ta trong thời gian tới.

Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản lý, cung cấp và sử

dụng dịch vụ Internet được coi là nghị định đem lại sức sống cho thị trường

Internet của Việt Nam, chính thức thay thế nghị định số 21/1997/NĐ-CP ngày

5/3/1997 của Chính phủ về “Quy chế tạm thời về thiết lập, quản lý và sử dụng

mạng Internet ở Việt Nam”.

Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 của TTCP đã phê duyệt

kế hoạch tổng thể về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam

đến năm 2005 đã xác định rất rõ mục tiêu phát triển của nền công nghệ thông

tin nước ta là sẽ có 5% dân số nước ta sử dụng Internet.

Như vậy, có thể thấy Chính phủ Việt Nam đã có sự quan tâm sâu sắc đến

việc phát triển ứng dụng thương mại điện tử và đã bắt đầu xây dựng những

chương trình cụ thể về phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử.

Tuy nhiên, về mặt xã hội, vẫn có rất nhiều người dân còn rất mơ hồ với

thương mại điện tử. Họ cho rằng thương mại điện tử phải là mua và bán thuần

Lê Thu Phương 28 A5 -

K38B

Page 29: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

tuý qua Internet. Ngoài ra, các hoạt động thông tin đại chúng cũng chưa phân

biệt rõ ràng khái niệm về thương mại điện tử, làm cho nhiều người theo dõi

hiểu là phải có cửa hàng ảo trên Internet, bán hàng và thu tiền điện tử thì mới

là thương mại điện tử...

Theo số liệu của VCCI, hiện nay cả nước có khoảng trên 90.000 doanh

nghiệp trong đó trên 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì mới chỉ có khoảng

trên 3000 doanh nghiệp (3%) có website riêng và thực hiện một số khâu của

thương mại điện tử, 7% bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin và kết nối

Internet, sử dụng phương thức giao dịch chủ yếu qua thư điện tử (trong khi sè

doanh nghiệp kết nối Internet là 48%). Thêm vào đó, mặc dù các doanh

nghiệp đã đầu tư cho công nghệ thông tin nhưng vẫn chưa quan tâm thật sự

đến việc xây dựng website cho mục đích quảng bá sản phẩm và tìm kiếm

khách hàng mới. Do vậy, việc nâng cao nhận thức cho quảng đại quần chúng

về thương mại điện tử sẽ hỗ trợ rất tốt cho quá trình phát triển các cơ sở hạ

tầng cần thiết cho thương mại điện tử. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả

trong tuyên bố của APEC trong chương trình hành động về thương mại điện

tử cũng nhấn mạnh vấn đề nâng cao nhận thức và coi đó là nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu.

2. Hạ tầng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử

Các quyết định của TTCP số 280/QĐ-TTg ngày 29/4/1997 về việc xây

dựng mạng tin học diện rộng trong các văn phòng UBND và các bộ, ngành,

quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 5/3/1997 về việc thành lập ban điều phối

quốc gia mạng Internet..., là những cơ sở pháp lý ban đầu cho việc phát triển

hạ tầng cơ sở thông tin ở Việt Nam và tạo điều kiện cho thương mại điện tử

bước đầu phát triển tại Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên

Lê Thu Phương 29 A5 -

K38B

Page 30: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

vật mang tin như đĩa từ, băng từ hay các loại thẻ thanh toán để làm chứng từ

thanh toán và để thanh toán tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng (theo quyết

định số 196/QĐ-TTg ngày 1/4/1997 của TTCP) nhưng lại chưa đề cập đến

đối tượng tham gia thanh toán điện tử rất quan trọng là các doanh nghiệp.

Ngày 21/3/2002, TTCP có quyết định số 44/2002/QĐ-TTg thay thế cho quyết

định số 196 kể trên. Quyết định này đã quy định rõ việc sử dụng chứng từ

điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ chức

cung ứng dịch vụ thanh toán phải được mã hoá bảo đảm an toàn trong quá

trình xử lý truyền tin và lưu trữ, riêng yếu tố chữ ký phải được mã hoá bằng

khoá mật mã (gọi là chữ ký điện tử). Luật Kế toán được thông qua tại kỳ họp

thứ ba Quốc hội khoá XI cũng thừa nhận chứng từ điện tử. Nhìn xa hơn, Luật

Thương mại có hiệu lực thi hành từ 1/1/1998 còng coi điện báo, telex, fax, thư

điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là hình thức văn bản của hợp

đồng mua bán hàng hoá. Tuy vậy, các doanh nghiệp vẫn chưa có đủ điều kiện

pháp lý để tham gia thanh toán điện tử bởi chưa hề có các quy định về việc sử

dụng khoá mật mã theo công nghệ nào, sử dụng ngay sản phẩm mã khoá

ngoại nhập hay đợi sản phẩm được phát triển trong nước.

Thêm vào đó, quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của

Bộ văn hoá thông tin về “Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin,

thành lập trang thông tin điện tử trên Internet” lại làm cho các doanh nghiệp

lo lắng hơn. Điều này là không hợp lý đối với các doanh nghiệp không làm

dịch vụ cung cấp thông tin trên Internet (ICP: Internet Content Provider) mà

chỉ xây dựng website trên Internet trong đó đăng tải các thông tin liên quan

đến sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hay một số thông tin khác

liên quan đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Nếu bất cứ một doanh

nghiệp nào khi muốn xây dựng website đều phải xin giấy phép của Bộ văn

hoá thông tin thì sẽ có nhiều doanh nghiệp ngần ngại và do đó sẽ gây ra một

Lê Thu Phương 30 A5 -

K38B

Page 31: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

trở lực lớn với các doanh nghiệp và cho chính sự phát triển của nền công nghệ

thông tin nước nhà.

Ngoài các văn bản pháp lý kể trên, thương mại điện tử Việt Nam vẫn còn

cần một khung pháp lý đầy đủ hơn nữa. Chính vì vậy, căn cứ Nghị quyết số

12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội

nhiệm kỳ năm 2002-2007 và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc giao

Bộ Thương mại làm đầu mối xây dựng Pháp lệnh Thương mại điện tử, tháng

3/2002 Bộ Thương mại đã ra quyết định thành lập Ban soạn thảo Dự án Pháp

lệnh Thương mại điện tử để xây dựng, từng bước hoàn chỉnh để trình quốc

hội phê duyệt văn bản pháp lý quan trọng này. Cho tới nay, dự thảo lần thứ 6

của Pháp lệnh Thương mại điện tử đã được hoàn thành và được Bộ Thương

mại trình lên Chính phủ. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ chính thức phê duyệt và

ban hành Pháp lệnh này vào quý I năm 2004.

3. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và viễn thông

3.1 Hạ tầng Internet và viễn thông

Thực trạng dịch vụ Internet và viễn thông ở Việt Nam

Bộ Bưu chính viễn thông đã thực thi các chính sách ủng hộ môi trường

cạnh tranh, tạo ra các điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế tham gia vào dịch

vụ Internet và viễn thông. Kết quả là trên thị trường có rất nhiều nhà cung cấp

được cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông (hiện tại có 6 doanh nghiệp

được phép cung cấp cơ sở hạ tầng mạng). Chỉ trong dịch vụ Internet, đến cuối

năm 2002 đã có 3 IXP, 13 ISP và 4 ISP dùng riêng được cấp phép cung cấp

các dịch vụ Internet và các ứng dụng (so với cuối năm 2000 chỉ có 1 IXP và 5

ISP). [IXP: Nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet; ISP: Nhà cung cấp dịch

vụ Internet]

Do đặc điểm địa lý kéo dài theo đường bờ biển và 3/4 lãnh thổ là đồi núi

Lê Thu Phương 31 A5 -

K38B

Page 32: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

nên dân cư Việt Nam phân bố khá phức tạp. 3/4 dân số (76,5%) sống ở nông

thôn, 1/4 còn lại sống ở các thành phố, trong đó thành phố Hồ Chí Minh là

nơi tập trung đông dân nhất với 5 triệu người dân, thủ đô Hà Nội 2,7 triệu, sau

đó đến Đà Nẵng. Đây là các trung tâm văn hoá thông tin của miền Nam, Bắc

và miền Trung Việt Nam nên các nơi này phải đối mặt với rất nhiều khó khăn

trong việc phát triển toàn diện Internet. Do vậy, các ISP chủ yếu tập trung

khai thác thị trường tại các thành phố lớn.

Trong sè 13 ISP vào thời điểm này, chỉ có VDC là có khả năng cung cấp

dịch vụ trên toàn quốc, các ISP như FPT, NETNAM, SPT chỉ tập trung vào

phát triển dịch vụ tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,

Đà Nẵng. 9 ISP còn lại, mặc dù đã được cấp phép nhưng vẫn chưa thực sự

cung cấp dịch vô.

VDC hiện tại đang chịu trách nhiệm về mạng xương sống của Việt Nam

và các cổng đi quốc tế. Các ISP như FPT, NETNAM chỉ cung cấp dịch vụ ở

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phí truy nhập Internet của 2 ISP này được

tính theo giá trong nước. SPT và VIETEL do mới được cấp phép cung cấp

dịch vụ nên thị phần còn thấp. VDC và FPT cũng là hai ISP lớn nhất Việt

Nam, chiếm khoảng 87% thị trường Internet Việt Nam trong đó VDC chiếm

khoảng 57% và FPT chiếm khoảng 30%.

Hình 1. Sự tăng trưởng của 4 ISP chính

VDC (VNPT), FPT, NETNAM, SPT

Lê Thu Phương 32 A5 -

K38B

Page 33: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/2003

Với nhiều phương thức truyền tin khác nhau, dịch vụ điện thoại đã được

đưa đến tất cả các quận huyện và 93,04% các xã phường trên toàn quốc (năm

2000 tỷ lệ này là 85,8%). Hiện nay, 8.356/8.981 phường xã trên toàn quốc đã

có điện thoại, đạt tỷ lệ 93,04%; ở các xã đặc biệt khó khăn là 1.728/2362, đạt

tỷ lệ 73,16%; 100% các xã ở đảo có điện thoại; 319 trong tổng số 401 xã vùng

biên đã có điện thoại, đạt tỷ lệ 79,55%... Tổng số điện thoại cố định ở khu vực

nông thôn là khoảng 1,8 triệu.

Hiện tại, ở cả 61 tỉnh thành trên cả nước, những người sử dụng điện

thoại cố định có thể truy cập gián tiếp Internet theo nhiều cách khác nhau như

Internet trả trước, Internet trả sau, VNN1268, VNN1269... và với dịch vụ

VNN999, người sử dụng còn có thể truy nhập Internet qua điện thoại di động.

Với sự ra đời của dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao qua cáp đồng sử

dụng công nghệ ADSL, ISDN, những người sử dụng (hiện nay chủ yếu là ở

các thành phố lớn) bắt đầu có thể truy nhập Internet tốc độ cao để sử dụng và

trao đổi các ứng dụng Internet cũng như công nghệ thông tin.

Bảng 1. Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet Việt Nam

so với thế giới

C

hỉ

tiê

u

so

sá nh

Vi

ệt

N Đ ôn g T hế gi

Đ iệ n th oạ i cố

đị 5 0 1 0 9 1 5 8

Đ iệ n th oạ i di

đ 1 9 7 0 8 6

S ố m áy

tí n h/ 1 1 1 2 1. 7 6 8. 4

T ỷ lệ

n g ư ời

tr 0. 2 4 1. 5 % 8 %

S ố m áy

ch ủ 1 7 2 5 1, 9 5 6 2,

Nguồn: VNPT 2002

Đến hết tháng 6/2003, Việt Nam có trên 460.000 thuê bao Internet, tỷ lệ

người sử dụng Internet đạt 2,38%. Mặc dù tỷ lệ này vẫn chưa đạt trung bình

thế giới nhưng, với kết quả này, Việt Nam đã được đánh giá là có tốc độ phát

triển viễn thông nhanh thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc.

Lê Thu Phương 33 A5 -

K38B

Page 34: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Việc giảm phí Internet và viễn thông

Từ năm 2001, Tổng cục Bưu chính viễn thông, nay là Bộ Bưu chính viễn

thông, đã thực thi hàng loạt chính sách nhằm từng bước giảm phí Internet và

viễn thông, đặc biệt là:

Trong suốt 2 năm 2001-2002, Tổng cục đã ban hành hai quyết định về

phí lắp đặt và thuê bao đường dây Internet trực tiếp, áp dụng cho các khu

công nghiệp phần mềm tập trung. Từ 1/1/2002, các loại phí kết nối Internet

trực tiếp trong đối với các khu công nghiệp phần mềm tập trung đã giảm đáng

kể so với trước. Tính trung bình, phí thuê đường dây giảm 30%, phí lắp đặt

giảm 50% và phí thuê bao cổng Internet trực tiếp giảm 39%. Có thể nói rằng

đây là một nỗ lực quan trọng của ngành Bưu chính trong việc thúc đẩy sự

phát triển của công nghiệp phần mềm nói riêng và công nghệ thông tin Việt

Nam nói chung.

Với mục tiêu phổ cập hoá Internet, các chính sách thúc đẩy cạnh tranh

cũng như các chính sách thích đáng về cước phí dịch vụ Internet đã được thực

hiện, trong hai năm 2001-2002, phí truy nhập Internet gián tiếp qua điện thoại

đã giảm khoảng 14%. Chính sách nhiều giá đã được thực thi, tạo điều kiện

thuận lợi cho các nhà cung cấp có thể chủ động trong việc mở rộng các dịch

vụ Internet. Mức cước đầu năm 2003 dao động từ mức thấp nhất là 40

VND/phút đến mức cao nhất là 180 VND/ phót.

Thêm vào đó, trong hai năm liên tục 2001-2002, Tổng cục Bưu chính

viễn thông đã xây dựng lịch trình giảm giá và ban hành các quyết định về

giảm cước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông khác như phí thuê kênh

trong nước và quốc tế, phí dịch vụ Frame Relay và X25 cùng với cước dịch

vụ điện thoại quốc tế tiếp tục được cắt giảm.

Ngày 25/3/2003, Bộ Bưu chính viễn thông đã công bố mức giảm cước từ

Lê Thu Phương 34 A5 -

K38B

Page 35: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

10% đến 40% đối với 12 loại hình dịch vụ Internet và viễn thông. Các mức

cước mới này có hiệu lực từ 1/4/2003. Theo đó, cước viễn thông quốc tế trực

tiếp (IDD - International Direct Dial) giảm khoảng 32% và được chia theo 3

mức: mức 1 là 0,9 USD/phút, mức 2 là 1 USD/phút và mức 3 là 1,1

USD/phút. Trước đó cước được chia theo 4 mức tương ứng là 1,3 USD/phút,

1,4 USD/phút, 1,5 USD/phút và 1,7 USD/phút. Do vậy, việc giảm và điều

chỉnh cước viễn thông trực tiếp quốc tế IDD từ 4 mức xuống còn 3 mức giúp

các doanh nghiệp giảm được chi phí bằng cách chuyển từ mức cước cao

xuống mức cước thấp.

Cước thuê bao di động trả sau cũng giảm từ 150.000 VND xuống

120.000, cước cho mỗi phót đàm thoại cũng được chia làm hai mức: nội hạt là

1.800 VND/phút, liên tỉnh là 2.700 VND/phút. Cước di động trả trước trong

nội hạt cũng giảm từ 3.500 VND/phút xuống 3.300 VND/phút, cước liên tỉnh

giảm từ 5.000-6.500 VND/phút xuống 4.200 VND/phút. Cước thuê bao di

động theo ngày cũng giảm từ 3000 xuống còn 2.700 VND/ngày, cước gọi nội

hạt không đổi trong khi cước liên tỉnh giảm còn 3.100 VND/phút.

Cước điện thoại trong nước cho truy cập Internet giảm từ 120 VND/phút

xuống còn 40 VND/phút. Phí dịch vụ lắp đặt và thuê cổng Internet quốc tế

trực tiếp (IIG: International Internet Gateways) của các IXP cũng giảm trung

bình 20%. Phí dịch vụ lắp đặt và thuê cổng Internet quốc tế trực tiếp áp dụng

cho các khu công nghiệp tập trung cũng giảm 8-10% so với mức phí hiện tại,

trong đó mức phí áp dụng cho các khu công nghiệp phần mềm thấp hơn 25%

so với mức phí chung. Phí thuê các kênh viễn thông liên tỉnh cũng giảm 15%.

Đặc biệt, Bộ Bưu chính viễn thông đã ban hành một loạt các mức giá để các

doanh nghiệp có thể chủ động áp giá theo các mức đã được quy định.

Đối với các dịch vụ thuê các kênh viễn thông liên tỉnh trong nước áp

Lê Thu Phương 35 A5 -

K38B

Page 36: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) và các nhà cung cấp

dịch vụ Internet (ISP), mức phí cũng giảm trung bình 15%. Đối với dịch vụ

thuê kênh viễn thông quốc tế, mức phí giảm tới 40%. Mức phí dịch vụ kênh

viễn thông quốc tế áp dụng cho các IXP để kết nối Internet quốc tế giảm từ

20% đến 30%. Với các dịch vụ này, Bộ Bưu chính viễn thông đã đưa ra các

mức giá trần và giá sàn để tạo quyền quyết định mức giá cạnh tranh cho các

doanh nghiệp.

3.2 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam

Tổng doanh thu của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam năm 1997

là 150 triệu USD, năm 1998 là 180 triệu, năm 1999 là 195 triệu, năm 2000 là

235 triệu và năm 2001 là 300 triệu. Trong đó, phần cứng chiếm tới 80%, phần

mềm 8% và dịch vụ 12%. Năm 2002, tổng doanh thu đạt 340 triệu USD trong

đó doanh thu phần cứng đạt 280 triệu, phần mềm và dịch vụ 60 triệu.

Lê Thu Phương 36 A5 -

K38B

Page 37: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Hình 2. Sự tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam.

Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/ 2003

Thị trường công nghệ thông tin thế giới phát triển chậm, trung bình

khoảng 2,5%/năm, tối đa là 6% trong khi thị trường công nghệ thông tin Việt

Nam sẽ tiếp tục duy trì tốc độ 20-25%. Trong nửa đầu năm 2003, thị trường

phần cứng, Internet và viễn thông phát triển sôi động nhất. Trong quý I, kim

ngạch nhập khẩu thiết bị tin học của Việt Nam đạt 105 triệu USD, tăng 78%

so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, điều bất hợp lý còn tồn tại là dịch vụ

phần mềm chỉ mới chiếm khoảng 20% tổng chi phí trong ngành công nghệ

thông tin, trong khi tỷ lệ này trên thế giới là 49%. Có hai nguyên nhân chính:

- Có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đầu tư vào công nghệ thông tin và

vào dịch vụ phần mềm, điều này dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp.

- Tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra nghiêm trọng.

Theo đánh giá của Business Software Alliance (BSA, www.bsa.org,

tháng 5/2002), tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm là 94%, điều này khiến

Việt Nam trở thành một trong số những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền cao

nhất.

Lê Thu Phương 37 A5 -

K38B

Page 38: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thị trường phần mềm Việt Nam

Tháng 5/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP

về việc thiết lập và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005

trong đó có nêu lên các điều kiện ưu đãi cũng như tiềm năng của ngành công

nghiệp này và đã xác định:

“... Phát triển ngành công nghiệp phần mềm trở thành một ngành mòi

nhọn của nền kinh tế, có mức tăng trưởng cao, góp phần vào sự phát triển và

hiện đại hoá của các ngành kinh tế xã hội, cải thiện năng lực quản lý của nhà

nước bảo đảm an ninh quốc gia...” và “... Phấn đấu đạt mức doanh thu khoảng

500 triệu USD vào năm 2005...”.

Để đạt mục tiêu trên, Chính phủ đã đưa ra quyết định số 128/2000/QĐ-

TTg ngày 20/11/2000 nêu ra một số chính sách và biện pháp để xúc tiến và

phát triển công nghiệp phần mềm. Trong quyết định này, một số biện pháp về

thuế được quy định như sau:

- Các doanh nghiệp được miễn thuế trong 4 năm đầu hoạt động trong

lĩnh vực sản xuất và cung cấp dịch vụ phần mềm;

- Các doanh nghiệp được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia

tăng;

- Các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất phần mềm được

miễn thuế;

- Các doanh nghiệp được miễn thuế xuất khẩu các sản phẩm phần mềm;

- Thêm vào đó có rất nhiều chính sách ưu đãi về tín dụng, thuê và sử

dụng đất, bảo vệ bản quyền phần mềm, đào tạo nguồn nhân lực về phần mềm,

ưu đãi về cơ sở hạ tầng Internet và viễn thông v.v.

Các chính sách quan trọng này đã dẫn tới việc ra đời hàng loạt các công

Lê Thu Phương 38 A5 -

K38B

Page 39: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

ty phần mềm, đặc biệt là 50% trong tổng số các công ty phần mềm được

thành lập trong vòng hơn 2,5 năm trở lại đây.

Lê Thu Phương 39 A5 -

K38B

Page 40: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Hình 3. Biểu đồ gia tăng số các công ty sản xuất và dịch vụ phần mềm

Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/2003

Sè nhân viên làm việc trong lĩnh vực phần mềm cũng tăng lên nhanh

chóng. Hiện tại, tính trung bình, mỗi công ty có khoảng 20 người làm việc về

phần mềm. Tổng số người tham gia vào ngành công nghiệp phần mềm ở Việt

Nam hiện có khoảng 7.500 người.

Hình 4. Biểu đồ gia tăng số nhân sự làm phần mềm

Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003

Năng lực sản xuất phần mềm có nhiều biến động theo hướng tăng lên

nhưng mức tăng không cao. Năng suất của các công ty gia công phần mềm

cho nước ngoài có cao hơn, năm 2002 đạt khoảng 13.000 USD/người/năm,

Lê Thu Phương 40 A5 -

K38B

Page 41: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

tăng khoảng 18% so với năm 2000.

Lê Thu Phương 41 A5 -

K38B

Page 42: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Hình 5. Biểu đồ gia tăng năng suất làm phần mềm

Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003

Qua các số liệu trên, ta có thể thấy Nghị quyết 07 và Quyết định 128 đã

tao ra sự tăng trưởng ban đầu tốt đẹp trong doanh thu của ngành sản xuất và

cung cấp các dịch vụ phần mềm, dẫn tới việc gia tăng số người làm việc trong

lĩnh vực phần mềm. Trong hai năm 2000-2001, rất nhiều khu công nghiệp

phần mềm tập trung đã được thành lập như công viên phần mềm Quang

Trung, khu công nghiệp phần mềm Hải Phòng, khu công nghiệp phần mềm

Đà Nẵng... Các khu công nghiệp này đều được hưởng ưu đãi về thuế và

đường dây nối mạng Internet. Bên cạnh đó, rất nhiều công ty phần mềm đã

phát triển và được cấp chứng nhận chất lượng quốc tế.

Ngày 23/4/2003, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm, trong kỳ họp thứ ba

của Uỷ ban xúc tiến quốc gia về công nghệ thông tin, đã đưa Chương trình về

Phần mềm nguồn mở (OSS) vào Dự án quốc gia. Chương trình này đặt ra một

số mục tiêu chính rằng đến năm 2005 sẽ thiết lập hệ thống chuẩn về phát triển

và ứng dụng OSS, các hiệp hội và cộng đồng OSS sẽ được thành lập, OSS sẽ

được giới thiệu đưa vào chương trình giảng dạy của các trường trung học, cao

đẳng và đại học... Tổng đầu tư cho Chương trình OSS giai đoạn 2003-2007 là

312 tỷ VND, tương đương 20 triệu USD.

Lê Thu Phương 42 A5 -

K38B

Page 43: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thị trường phần cứng Việt Nam

Ngày 20/2/2001, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số

19/2001/QĐ-TTg về việc đưa sản phẩm máy vi tính vào danh mục sản phẩm

công nghiệp quan trọng. Sau đó, Bộ Công nghiệp đã ban hành Thông tư số

4/2001/TT-BCN ngày 6/6/2001 về việc hướng dẫn thi hành quyết định nói

trên.

Phần cứng chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng doanh thu của thị trường công

nghệ thông tin Việt Nam. Số lượng máy tính lắp ráp trong nước đang tăng

lên, năm 2001 chiếm khoảng 80% tổng số máy tính bán ra trên thị trường

(49.500 máy tính hoàn chỉnh và khoảng 242.000 màn hình được nhập khẩu).

Có thể ước tính số máy tính lắp ráp trong nước sẽ chiếm tỷ lệ tương đối ổn

định ở mức 75-80%.

Kim ngạch nhập khẩu có xu hướng giữ ở mức ổn định cho thấy máy tính

lắp ráp trong nước đã có những ảnh hưởng lớn đến thị trường công nghệ

thông tin Việt Nam (kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2002 là 118 triệu

USD, chỉ tăng 8% so với cùng kỳ năm trước). Nhiều thương hiệu máy tính

Việt Nam đã được chấp nhận trên thị trường như CMS, Mekong Green,

SingPC, VINACom, T&H, Robo...

Hệ điều hành Linux đã được xây dựng và cài đặt trong các máy tính do

CMS sản xuất, đã góp phần khẳng định chất lượng cũng như hướng đi trong

dài hạn đối với sự hiện diện của máy tính Việt Nam trên thị trường Việt Nam.

Khi luật về bản quyền phần mềm có hiệu lực và được thực thi một cách

nghiêm túc, việc sử dụng máy tính thương hiệu Việt Nam cùng với hệ điều

hành giá rẻ sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp

máy tính Việt Nam.

4. Hạ tầng cơ sở nhân lực

Cho tới năm 1980, lực lượng làm công nghệ thông tin (CNTT) ở nước ta

Lê Thu Phương 43 A5 -

K38B

Page 44: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

chủ yếu là các cán bộ thuộc các ngành toán, lý chuyển sang. Hiện nay trên

phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang hoạt động trong

lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về phần mềm tin

học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt

động trong lĩnh vực CNTT.

Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho

tới nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh

viên đều được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành

phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu tư

cho các khoa CNTT với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi

năm. Cho tới nay, trung bình mỗi năm có khoảng 3.500 người được đào tạo

cơ bản về tin học. Tuy nhiên, nếu tính bình quân đầu người so với Singapore

thì nước ta còn kém khoảng 50 lần. Hiện nay, chóng ta vẫn đang thiếu nhân

lực về CNTT, sè sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng nhu cầu của

các tổ chức và doanh nghiệp.

Hoạt động trong lĩnh vực CNTT đòi hỏi số lượng lớn chuyên gia thuộc

nhiều chuyên ngành khác nhau, do vậy việc đào tạo nguồn nhân lực cho

thương mại điện tử không chỉ giới hạn ở các khoa và bộ môn tin học của các

trường đại học và cao đẳng mà còn ở nhiều nơi và nguồn khác (toán, lý, xây

dựng, cơ khí, hoá, quản trị kinh doanh, y học, nông lâm ngư nghiệp, tài chính,

ngôn ngữ, địa lý...). Trong khi đó, nguồn nhân lực để tham gia vào phát triển

thương mại điện tử của nước ta rất lớn vì nước ta có lực lượng dồi dào sinh

viên tốt nghiệp hàng năm ở các chuyên ngành từ các trường đại học. Nếu đào

tạo thêm về CNTT và ngoại ngữ cho các đối tượng trên trong một thời gian

ngắn, chúng ta sẽ nhanh chóng có một số lượng lớn cán bộ chuyên môn có

trình độ đại học phục vụ cho thương mại điện tử. Thêm vào đó, lĩnh vực

thương mại điện tử cũng đòi hỏi một số lượng lớn các nhân viên kỹ thuật chỉ

Lê Thu Phương 44 A5 -

K38B

Page 45: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

cần được đào tạo qua hệ thống các trường cao đẳng và dạy nghề sẽ có khả

năng cung cấp thêm cho thương mại điện tử một số lượng lớn các cán bộ cao

đẳng, trung cấp và trung cấp kỹ thuật.

Lực lượng làm tin học ở nước ta có một số ưu điểm nổi bật sau:

- Nhiều người thông minh, sắc sảo và sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực

phần mềm ứng dụng;

- Có khả năng nhận biết và thích ứng nhanh nhạy với các xu hướng phát

triển mới của CNTT;

- Cần cù, chịu khó, có khả năng làm việc ngay cả trong những điều kiện

rất thiếu thốn, khó khăn, đặc biệt là có khả năng tự học để nâng cao trình độ.

Tuy nhiên, đội ngò chuyên gia tin học của chúng ta cũng còn có những

nhược điểm:

- Có sự mất cân đối về số lượng chuyên gia giữa phần mềm và phần

cứng, nói cách khác là ta đang rất thiếu chuyên gia phần cứng. Các trường đại

học trong nước chủ yếu đào tạo cán bộ làm phần mềm, rất Ýt trường có đào

tạo chuyên gia phần cứng, nguyên nhân là do lĩnh vực phần cứng đòi hỏi hạ

tầng cơ sở mà ta chưa trang bị đủ, hơn nữa ta cũng thiếu giáo sư cho lĩnh vực

này.

- Trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt Nam chưa hoàn toàn đủ

năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng toàn cục với quy mô

lớn. Số chuyên gia tin học giỏi có trình độ tư vấn, thiết kế hệ thống lớn, cung

cấp các giải pháp tổng thể và quản lý dự án, xây dựng những cơ sở dữ liệu

ngành và quốc gia hiện nay còn thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở hạ tầng

CNTT toàn quốc vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thực sự vững chắc, nên chưa

có điều kiện thuận lợi cho tin học hệ thống được ứng dụng và phát triển ở

Lê Thu Phương 45 A5 -

K38B

Page 46: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Việt Nam.

- Lực lượng cán bộ tin học đào tạo từ các trường khá phong phú, nhưng

chưa tận dụng được. Một số người được nhận vào các cơ quan nhà nước

nhưng chủ yếu làm công việc sự vụ, một số làm việc cho các công ty nước

ngoài, liên doanh nhưng đa phần làm công tác tiếp thị,văn phòng, một số vào

các công ty chuyên doanh công nghệ tin học nhưng chủ yếu làm công việc

tiếp thị, một số khác tự đứng ra kinh doanh thiết bị phần cứng. Vì thế, lực

lượng đã qua đào tạo không thể tập hợp nhau lại trong các đề án lớn để phát

triển, mà ngược lại, kiến thức có thể dần kém đi và đến một lúc nào đó các

kiến thức này có nguy cơ không dùng được nữa, gây nên một sự lãng phí rất

lớn cho xã hội.

Theo Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và Công nghệ thông tin,

mục tiêu cần đạt được đối với nguồn nhân lực cho CNTT nói chung và

Thương mại điện tử nói riêng ở Việt Nam là đến năm 2005 sẽ đào tạo thêm

50.000 chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau đạt mức trung bình

trong khu vực, năm 2010 sẽ nâng số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân

lực lên mức trung bình khá và năm 2020 sẽ ở trình độ tiên tiến.

Để đạt được mục tiêu đó, cần xã hội hoá công tác đào tạo nguồn nhân

lực, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, khuyến khích đào tạo theo định hướng

yêu cầu, đổi mới nội dung chương trình, giáo trình đào tạo, dạy tiếng Anh và

thí điểm chương trình dạy chuyên ngành CNTT bằng tiếng Anh, tạo điều kiện

thu hót người nước ngoài và Việt kiều mang tri thức, công nghệ và đầu tư tích

cực đóng góp vào việc phát triển nguồn nhân lực cho CNTT ở Việt Nam.

5. Thanh toán điện tử

Việc giao dịch qua ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh tế trong quá

trình hội nhập kinh tế toàn cầu và tham gia vào sự phân công quốc tế ngày

Lê Thu Phương 46 A5 -

K38B

Page 47: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

càng gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng các loại hình sản phẩm

dịch vụ, đáp ứng cả nhu cầu rút ngắn về thời gian, không gian...

Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang nỗ lực triển khai các dịch

vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm

tự động hoá việc xử lý giao dịch, đa dạng hoá sản phẩm. Phát triển kênh phân

phối điện tử... nhằm giữ được thị phần, hiệu quả kinh doanh và vị thế cạnh

tranh cao khi thị trường ngân hàng hoàn toàn mở cửa, các ngân hàng nước

ngoài tại Việt Nam được hoạt động hoàn toàn bình đẳng như các ngân hàng

trong nước.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc

doanh đều đã có hệ thống thanh toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu

thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống

bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các

ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh toán SWIFT. Cụ thể là, ngân hàng

ngoại thương đã có hệ thống bán lẻ SilverLake, hệ thống quản lý thẻ ATM và

tham gia mạng SWIFT; ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có hệ thống

thanh toán tập trung BCS, hệ thống giao dịch trên mạng IBS và dịch vụ Home

Banking; ngân hàng công thương Việt Nam đã có trương trình thanh toán

điện tử trực tuyến triển khai tại toàn bộ 98 chi nhánh trên cả nước, đồng thời

ngân hàng cũng sẵn sàng thanh toán các loại thẻ tín dụng của hai tổ chức là

Visa và Master.

Đáng chó ý hơn cả là Ngân hàng Á châu ACB đã triển khai hệ thống

quản trị ngân hàng bán lẻ mới TCBS trong trong toàn hệ thống, làm nền tảng

cho việc phát triển ngân hàng điện tử Á châu (ACB E.Banking). Sau ba năm

chuẩn bị, sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử đã chính thức hoạt động vào

đầu năm 2003 với tổ hợp các kênh phân phối bằng điện tử với những sản

Lê Thu Phương 47 A5 -

K38B

Page 48: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

phẩm dịch vụ ngân hàng của ACB dành cho khách hàng như Banking, Home

Banking, Phone Banking, Mobile Banking, thẻ thanh toán. Đặc biệt dịch vụ

Home Banking giúp khách hàng trên mạng kết nối tại văn phòng, tại nhà

riêng. ACB E.Banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến

khách hàng thông qua điện thoại cố định, điện thoại di dộng, máy tính, POS,

Internet, Intranet, Wap... dịch vụ có thể thực hiện 24 giê trong ngày và 7 ngày

trong tuần. Hiện nay ACB đang cung cấp dịch vụ E.Banking hoàn toàn miễn

phí. Đặc biệt, dịch vụ Home Banking do ACB cung cấp được bảo đảm an

toàn nhờ hệ thống mã khoá bảo mật chữ ký điện tử của khách hàng (CA) do

đơn vị thứ ba cung cấp (VASC). Công nghệ CA được các tổ chức tài chính

quốc tế như Swift, Visa, Master... công nhận và sử dụng trong việc thanh toán

điện tử. Các khách hàng sẽ được sử dụng tám dịch vụ chính như: Kiểm tra số

dư tài khoản; Mua sắm hàng hoá không dùng tiền mặt (bằng dịch vụ Mobile

Banking và thẻ ACB); Chuyển tiền giữa các tài khoản với nhau; Yêu cầu báo

cáo về tình hình giao dịch tài khoản; Thanh toán các hoá đơn tiền điện thoại,

nước...; Rút tiền từ tài khoản khi đang ở nước ngoài; Kiểm tra tỷ giá hối đoái,

giá chứng khoán và hỏi thông tin về các tài khoản và dịch vụ ngân hàng.

Như vậy, có thể thấy rằng chúng ta đã có một số cơ sở ban đầu phục vụ

cho việc thanh toán điện tử thông qua các ngân hàng của Việt Nam. Tuy

nhiên, việc thanh toán điện tử vẫn còn tương đối mới mẻ đối với các doanh

nghiệp, đa số các doanh nghiệp vẫn chưa thể cho phép khách hàng thanh toán

trực tuyến tại website của mình thông qua các dịch vụ của ngân hàng. Đây

cũng chính là một thách thức cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt

Nam trong thời gian tới.

6. Bảo mật thông tin

Internet là liên mạng toàn cầu với rất nhiều người, tổ chức tự nguyện

tham gia và có thể tiếp cận tự do tới các đầu mối nối mạng khác trong hệ

Lê Thu Phương 48 A5 -

K38B

Page 49: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

thống. Đây là mạng trao đổi thông tin điện tử lớn nhất từ trước tới nay có quy

mô toàn cầu. Do vậy, kẻ gian có thể dễ dàng lợi dụng mạng Internet để lấy

cắp, thay đổi hoặc phá huỷ thông tin từ các kho dữ liệu. Chúng cũng có thể tự

do truy cập tới các đầu mối nối mạng để thực hiện các hành vi phá hoại khác

như: làm sai lệch cấu hình máy tính, làm treo máy chủ, làm tê liệt sự hoạt

động của mạng... Những tên tội phạm máy tính như vậy gọi là tin tặc

(hacker). Những kẻ này thường tìm mọi biện pháp đột nhập vào các kho dữ

liệu bí mật của các cơ quan chính phủ, an ninh, quốc phòng, cơ quan ngiên

cứu khoa học, các ngân hàng, các hãng kinh doanh và cả các thông tin của các

cá nhân.

Hiện nay, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho thông tin điện tử ở Việt

Nam được thực hiện như sau:

Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các cơ quan của Chính

phủ (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao...), từ lâu nhà nước đã có các quy

định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phù hợp để đảm bảo an ninh, an toàn

cho loại thông tin này. Ngành cơ yếu Việt Nam đứng đầu là Ban cơ yếu

Chính phủ là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo mật, bảo đảm an toàn

cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.

Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực kinh tế xã hội, việc bảo

đảm an ninh, an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi Việt Nam chính thức tham gia

mạng Internet, nhà nước đã thành lập một cơ quan liên ngành Bưu chính viễn

thông và Công an để quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số

văn bản quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, hạ tầng

cơ sở bảo mật thông tin cho thương mại điện tử hiện vẫn chưa hình thành đầy

đủ ở Việt Nam, chóng ta còn phải xem xét một loạt các vấn đề như:

- An toàn thông tin trong hệ thống thương mại điện tử;

- Yêu cầu bảo mật cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử;

Lê Thu Phương 49 A5 -

K38B

Page 50: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Vấn đề sử dụng mật mã để bảo mật thông tin trong hệ thống thương

mại điện tử;

- Các giải pháp bảo mật thông tin.

7. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Sù quan tâm của nhà nước đối với vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ đã được

thể hiện trong hệ thống luật pháp nước ta thông qua các điều luật, điều khoản

cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự,

Nghị định 63/CP về sở hữu công nghiệp, Nghị định 76/CP về quyền tác giả...

Trong các văn bản này đã quy định rõ các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo

hộ bao gồm: quyền tác giả; sáng chế; giải pháp hữu Ých; nhãn hiệu hàng

hoá; kiểu dáng công nghiệp; tên gọi xuất xứ hàng hoá; chỉ dẫn địa lý; bí mật

kinh doanh; tên thương mại và chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan

đến sở hữu công nghiệp.

Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn gặp nhiều

khó khăn. Nạn hàng giả, sao chép trái phép băng đĩa, các chương trình phần

mềm có bản quyền... vẫn đang diễn ra hàng ngày với quy mô và mức độ ngày

càng trầm trọng và tinh vi hơn. Khi thương mại điện tử phát triển, việc thực

thi quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường Internet càng khó khăn hơn bởi các

sản phẩm và dịch vụ số hoá truyền gửi trên Internet có thể bị sao chép một

cách dễ dàng. Do vậy, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần phải dùa vào nỗ

lực của bản thân các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp trước hết phải

tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, quan tâm tìm hiểu các điều khoản liên quan

đến sở hữu trí tuệ trong các văn bản pháp luật của nhà nước, các công ước

quốc tế, các hiệp định thương mại song phương và đa phương để nghiêm túc

thực hiện, tránh bớt các rắc rối khi làm việc với các đối tác trong nước và

nước ngoài. Các doanh nghiệp cũng phải tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của

mình bằng cách nhanh chóng đăng ký bảo hộ cho sản phẩm của mình để có

Lê Thu Phương 50 A5 -

K38B

Page 51: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

thể được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp.

II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG DOANH

NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90/2000/NĐ-

CP là: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc

lập, đã đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành, có vốn không quá 10

tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Với

tiêu chí này, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước

thuộc loại có quy mô vừa và nhỏ, chỉ trừ 20% doanh nghiệp nhà nước có quy

mô lớn là các tổng công ty và một số doanh nghiệp nhà nước thuộc loại lớn,

còn trong khu vực tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 97% xét

về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước.

Với tỷ lệ lớn như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ này là một trong những

nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế và là

nơi tạo ra việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao động ở cả nông thôn

và thành thị nước ta. (Một cuộc điều tra gần đây do Bộ thương mại thực hiện

cho thấy mỗi năm có khoảng 14.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, tạo ra

khoảng 1.200.000 việc làm).

Thực tiễn quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng

như một số nước khác trên thế giới đã cho thấy vai trò quan trọng của nó

trong nền kinh tế thể hiện ở một số lĩnh vực như: tạo công ăn việc làm mới,

phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ đối với các ngành công nghiệp mòi

nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số ngành khác, góp phần cải thiện cán

cân thanh toán nhờ việc tăng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm và thay thế hàng

Lê Thu Phương 51 A5 -

K38B

Page 52: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

hoá nhập khẩu bằng hàng hoá sản xuất trong nước. Mặt khác, việc xoá đói

giảm nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghệp - nông thôn, giảm sự

chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đóng góp của doanh

nghiệp vừa và nhá.

Từ bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong quá trình công ngiệp hoá,

hiện đại hoá, hội nhập với nền kinh tế thế giới, xem xét đến đặc điểm của các

doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, chóng ta có thể thấy doanh ngiệp vừa và

nhỏ Việt Nam có những cơ hội và điểm mạnh sau:

- Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới ngày một tăng nhanh,

Việt Nam đã tham gia vào nhiều liên kết kinh tế quốc tế, do vậy, thị trường

ngày càng được mở rộng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam;

- Chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ đã tạo

điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình thâm

nhập thị trường thế giới;

- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính linh hoạt cao nên dễ thích ứng

với sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời có thể tiếp thu những kinh

nghiệm quản lý tiên tiến và ứng dụng những thành tựu của khoa học công

nghệ trên thế giới một cách có hiệu quả;

- Nhu cầu sử dụng đất thấp cộng với sự phân bổ đồng đều trên khắp cả

nước cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác tốt những lợi thế so

sánh của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có không Ýt

những thách thức và điểm yếu, đó là:

- Do chính sách mở cửa của Việt Nam cho phép tự do cạnh tranh nên các

doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đang phải chịu sức Ðp cạnh tranh ngày

càng gay gắt từ phía hàng hoá nhập ngoại;

Lê Thu Phương 52 A5 -

K38B

Page 53: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn thấp do

công nghệ còn lạc hậu, mẫu mã chưa đa dạng, chất lượng sản phẩm chưa

đồng đều. Các doanh nghiệp này vốn có khả năng tài chính thấp lại gặp nhiều

khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn huy động vốn để đổi mới công nghệ;

- Do quy mô doanh nghiệp là vừa và nhỏ nên việc sản xuất cũng diễn ra

đơn lẻ, phân tán, quy mô nhỏ, từ đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có khả

năng đáp ứng những đơn hàng lớn, đặc biệt là của thị trường EU và Mỹ;

- Thiếu thông tin cũng là một hạn chế rất lớn đối với các doanh nghiệp

vừa và nhỏ hiện nay, nhiều doanh nghiệp vì thiếu thông tin về thị trường thế

giới mà đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, việc thiếu thông tin về công nghệ

dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp nhập khẩu phải những thiết bị công nghệ lạc

hậu, làm cho chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp nên sức cạnh

tranh của hàng hoá kém;

- Ngoài ra, một vấn đề khó khăn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt

Nam hiện nay đang phải đối phó là vấn đề bản quyền hàng hoá Việt Nam trên

thị trường quốc tế đang bị xâm phạm ngày càng nhiều.

2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở Việt Nam

Với xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng tiến tới nền kinh tế số

hoá và khởi đầu là phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và

nhỏ, với tỷ lệ lớn và tầm quan trọng không nhỏ trong nền kinh tế rất cần tham

gia vào xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đó là tham gia vào

thương mại điện tử. Điều này càng có ý nghĩa lớn hơn đối với các doanh

nghiệp này khi bước vào kỷ nguyên thông tin bởi thông tin, thứ mà nhiều

doanh nghiệp đang thiếu, có vai trò quyết định đối với sự thành bại của doanh

nghiệp trong môi trường kinh doanh với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như

hiện nay. Trong khi đó, sử dụng Internet và tiếp đó là tham gia vào thương

Lê Thu Phương 53 A5 -

K38B

Page 54: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

mại điện tử là một cách hữu hiệu để doanh nghiệp khắc phục khó khăn này.

2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thương mại điện tử

Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiểu

biết về thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp và không

đồng đều. Câu trả lời của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi được hỏi

về thương mại điện tử là “Website chỉ để cho có, như mở thêm một phòng

trưng bày sản phẩm mà không cần có người trông coi, chứ chẳng Ých lợi gì

nhiều cho chuyện làm ăn” hay “Công ty còn nhỏ nên chưa tính đến chuyện

mở website”. Cũng vì thế mà điều tra của Bộ Thương mại cho kết quả là chỉ

có khoảng 3% doanh nghiệp có sử dụng thương mại điện tử, 7% đang có ý

định ứng dụng Internet vào kinh doanh và có đến 90% doanh nghiệp vừa và

nhỏ chưa quan tâm hoặc rất mơ hồ về chuyện làm ăn qua Internet.

Cũng vì nhận thức về thương mại điện tử còn thấp nên rất Ýt doanh

nghiệp biết cách tìm thông tin và đối tác trên Internet thông qua các trang web

thương mại điện tử. Thậm chí rất Ýt doanh nghiệp quảng cáo, marketing và

cuối cùng là bán sản phẩm trực tuyến. Các doanh nghiệp đã có kết nối

Internet, có trang web riêng và sử dụng Internet cho công việc kinh doanh chủ

yếu tập trung ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là những

nơi mà hạ tầng kinh tế xã hội và Internet tương đối phát triển. Còn các doanh

nghiệp ở các địa phương, do điều kiện hạ tầng còn nhiều hạn chế nên nhiều

doanh nghiệp còn rất mơ hồ với Internet và việc ứng dụng Internet cho công

việc kinh doanh.

Tuy nhiên, quan điểm về ứng dụng Internet và thương mại điện tử của

các doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Mỗi doanh nghiệp đều có lý do riêng

của mình để tham gia hay chưa tham gia thương mại điện tử. Có ý kiến cho

rằng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay, Internet rất thuận

lợi cho việc trao đổi thông tin, tìm kiếm khách hàng nhưng việc ứng dụng

Lê Thu Phương 54 A5 -

K38B

Page 55: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Internet mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm thông tin chứ chưa thực hiện đầy đủ

các chức năng của thương mại điện tử. Ý kiến khác cho rằng thương mại điện

tử chưa tạo ra được hiệu quả thực sự, các website trong nước chưa tạo ra tính

thương mại hoá cao, e-mail gửi đến các đối tác chưa mang tính pháp lý còn

đường truyền Internet còn chậm và gặp nhiều cản trở. Nhiều doanh nghiệp

còn rất e ngại đối với thương mại điện tử với lý do khung pháp lý của nước ta

còn thiếu nhiều điều luật để phân xử những hợp đồng làm ăn qua mạng nếu

xảy ra tranh chấp, hàng hóa của chúng ta đưa lên giới thiệu trên mạng chưa

nhiều trong khi chi phí viễn thông vẫn còn đắt đối với nhiều doanh nghiệp,

ngoài ra, không thể không tính tới lý do khi tham gia thương mại điện tử thì

tất yếu doanh nghiệp sẽ phải thay đổi cơ bản phương thức quản trị doanh

nghiệp, quản lý nguồn cung cấp, chăm sóc và phân phối sản phẩm.

Tuy nhiên, có một điều kiện thuận lợi để nâng cao nhận thức của các

doanh nghiệp về thương mại điện tử, đó là mức độ hiểu biết tỷ lệ sử dụng

Internet ở các doanh nghiệp đang tăng lên. Theo kết quả cuộc khảo sát của Sở

Khoa học công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tất cả những người được

phỏng vấn ở các doanh nghiệp đều có hiểu biết về Internet ở một mức độ nào

đó, 97% số nhân viên doanh nghiệp đã và đang sử dụng Internet, mặc dù

trong đó 43% sử dụng cho mục đích giải trí và mới chỉ có 20% sử dụng cho

mục đích kinh doanh.

Như vậy, có thể thấy, với một nền tảng nhận thức về thương mại điện tử

còn thấp, tất yếu việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp

vừa và nhỏ Việt Nam cũng chỉ mới đang ở giai đoạn khởi đầu, mang tính chất

thử nghiệm ở một số doanh nghiệp chứ chưa thể mang tính chất rộng rãi trong

toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay.

2.2 Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và

nhá

Lê Thu Phương 55 A5 -

K38B

Page 56: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố

vào tháng 4/2003, cả nước có khoảng 90.000 doanh nghiệp trong đó có tới

93% là doanh nghiệp vừa và nhỏ (cả khu vực nhà nước và tư nhân) nhưng chỉ

có 30% các doanh nghiệp kết nối Internet thường xuyên và dưới 10% doanh

nghiệp có trang web riêng để giới thiệu về các sản phẩm, dịch vụ và hoạt

động của mình. Tại Việt Nam, mức độ xâm nhập của công nghệ thông tin và

viễn thông vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn thấp. Chỉ có 25% số

máy tính ở Việt Nam được báo cáo là thuộc về khu vực tư nhân và một số Ýt

các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khoảng 48% các doanh nghiệp có khả năng

truy nhập Internet chỉ sử dụng Internet để gửi thư điện tử mà chưa sử dụng

Internet như một phương tiện kinh doanh hiệu quả.

Theo nghiên cứu của Bộ Thương mại, trong các giao dịch thương mại

điện tử hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 33,1% sè doanh nghiệp

tham gia. Tuy nhiên, trong đó có tới 54,9% doanh nghiệp chưa thành công,

58% gặp khó khăn về thiết bị và 37% chưa đủ nhân lực đạt trình độ tương

ứng và trên 90% chưa tiến hành thanh toán qua ngân hàng.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã ứng dụng thương mại điện tử

bao gồm các doanh nghiệp thuộc nhiều nhóm ngành bao gồm các doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, một số doanh nghiệp dệt may, doanh

nghiệp kinh doanh máy tính và các dịch vụ về công nghệ thông tin, các doanh

nghiệp sản xuất các hàng tiêu dùng khác và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

tổng hợp. Tuy nhiên, xét về tỷ trọng thì các doanh nghiệp ứng dụng thương

mại điện tử chủ yếu tập trung ở ngành hàng thủ công mỹ nghệ và các doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, trong đó bao gồm cả kinh doanh nhà hàng,

khách sạn. Với mục tiêu quảng bá sản tên tuổi doanh nghiệp, sản phẩm và

dịch vụ tới các khách hàng nước ngoài, các doanh nghiệp thuộc hai lĩnh vực

Lê Thu Phương 56 A5 -

K38B

Page 57: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

này là những doanh nghiệp đi đầu trong việc lập website và cho tới nay, các

doanh nghiệp thuộc hai lĩnh vực này đã chiếm tới trên 60% tổng số website

của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hình thức áp dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhá

Mức độ ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp cũng khác

nhau, tuy nhiên, do điều kiện còn hạn chế, hầu như chưa có doanh nghiệp nào

ứng dụng thương mại điện tử ở mức hoàn chỉnh. Được sử dụng nhiều nhất và

có hiệu quả nhất trong các giao dịch tiếp thị bán sản phẩm của các doanh

nghiệp là dịch vụ thư điện tử bởi sự nhanh chóng, thuận tiện và chi phí thấp.

Hiện nay, sè doanh nghiệp có website và sử dụng website để giao dịch còn rất

thấp nhưng rất nhiều doanh nghiệp có điều kiện kết nối Internet đã có địa chỉ

e-mail và sử dụng hình thức giao dịch này bởi thời gian giao dịch đã được rút

ngắn nhiều so với cách gửi thư truyền thống, ví dụ như để gửi ảnh mẫu cho

khách hàng trước đây phải mất 3-4 ngày thì hiện nay, nhờ nối mạng và gửi

qua thư điện tử, công việc trên chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 10 phót.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử ở các doanh

nghiệp vừa và nhỏ cũng thể hiện một phần ở việc sử dụng các phần mềm như

tin học văn phòng, quản lý kế toán thay cho việc sử dụng sổ sách như trước

đây. Với các ứng dụng này, các doanh nghiệp quản lý danh mục hàng hoá,

khách hàng cũng như thống kê các giao dịch một cách chính xác và nhanh

chóng hơn hẳn cách làm truyền thống trên sổ sách giấy tờ. Các ứng dụng tin

học này hiện nay được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các doanh nghiệp có

trang bị máy tính (trên 50% sè doanh nghiệp vừa và nhỏ).

Hình thức giao dịch được coi là hiện đại và đặc trưng cho thương mại

điện tử là giao dịch qua website đã bắt đầu được một số doanh nghiệp áp

dụng mặc dù mới chỉ ở giai đoạn sơ khai. Con số dưới 10% doanh nghiệp vừa

Lê Thu Phương 57 A5 -

K38B

Page 58: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

và nhỏ có trang web cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp đối với hình

thức giao dịch này chưa cao. Tuy nhiên, trong số đó một số doanh nghiệp đã

thừa nhận có thành công nhất định trong việc khai thác khách hàng qua trang

web mặc dù việc giao dịch thương mại qua website ở các doanh nghiệp vừa

và nhỏ Việt Nam cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ “tiền thương mại điện tử”

tức là có rao bán chào hàng trên website còn việc giao hàng vẫn thực hiện

bằng nhân công. Trên thực tế, số doanh nghiệp khai thác hiệu quả trang web

còn rất Ýt, chỉ khoảng 20% doanh nghiệp lập website đã có khách hàng từ

trang web, còn đa số các trang web sau thời gian đầu mới thành lập được đầu

tư khá công phu, cập nhật thông tin thường xuyên đã trở nên trì trệ do không

được quan tâm đúng mức và không đạt hiệu quả như mong muốn.

Hiện nay, bên cạnh việc lập website riêng với tổng chi phí ban đầu và chi

phí duy trì tương đối tốn kém mà không phải một doanh nghiệp vừa và nhỏ

nào cũng có điều kiện thực hiện, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có một

hình thức quảng bá khác là tham gia sàn giao dịch điện tử hay nói cách khác,

các doanh nghiệp cùng tham gia vào một website chung. Tại website này,

khách hàng khi truy cập có thể xem nhiều mặt hàng của nhiều doanh nghiệp

khác nhau cùng trưng bày trên sàn giao dịch và có thể chọn mua nhiều mặt

hàng cùng lúc mà không phải truy cập website của từng doanh nghiệp. Ở Việt

Nam, hiện đã có một số sàn giao dịch thương mại điện tử được thiết lập cho

các doanh nghiệp trong nước như VNEMART (www.vnemart.com.vn), dù án

do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Công ty điện

toán và truyền số liệu (VDC) và Ngân hàng công thương Việt Nam (ICB)

phối hợp triển khai phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu và chợ điện tử

VNET E-Market (www.vnet.com.vn) do công ty cổ phần VNET xây dựng

phục vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh trong nước. Trong số các doanh

nghiệp đăng ký tham gia các sàn giao dịch này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Lê Thu Phương 58 A5 -

K38B

Page 59: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

cũng được ưu tiên gia nhập vì đây là đối tượng doanh nghiệp cần nhiều sự trợ

giúp trong vấn đề quảng bá. Tuy nhiên, các sàn giao dịch mày mới được

thành lập và đưa vào hoạt động trong hơn nửa năm nay nên số lượng doanh

nghiệp vừa và nhỏ tham gia hình thức này còn hạn chế.

Ngoài ra, còn một thực tế phải kể đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việt Nam chỉ mới ứng dụng thương mại điện tử với hình thức thương mại

B2C (doanh nghiệp - người tiêu dùng) chứ chưa áp dụng cho hình thức B2B

(doanh nghiệp - doanh nghiệp) trong khi xu hướng chung trên thế giới hình

thức B2B chiếm tới 80% giao dịch thương mại điện tử. Tuy vậy, điều này

cũng là hợp lý đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi với quy mô nhỏ, các

doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong ngành kinh doanh bán lẻ và phục

vụ trực tiếp người tiêu dùng. Tuy vậy, phát triển thương mại điện tử B2B là

một hướng đi mà các doanh nghiệp nên hướng tới bởi giao dịch B2B đem lại

cho doanh nghiệp quy mô giao dịch lớn hơn cũng như lượng khách hàng ổn

định hơn, bảo đảm cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.

2.3 Kết quả ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việt Nam

Kể từ khi Internet phát triển ở Việt Nam, trong số các doanh nghiệp vừa

và nhỏ đã có nhiều doanh nghiệp chú ý đến việc quảng bá tên tuổi của mình

trên Internet. Sè trang web của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không

ngừng tăng lên. Thực tế là một số trang web đã và đang đem lại cơ hội làm

ăn, hợp đồng buôn bán và tiện Ých trong giao dịch cho một số doanh nghiệp.

Trong đó, theo các doanh nghiệp này, lợi Ých lớn nhất mà họ thu được là nhờ

có Internet, họ có thể giới thiệu các thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm

của mình đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn cả, do

đó đã thu hót được một số khách hàng đến với doanh nghiệp nhờ thông tin

Lê Thu Phương 59 A5 -

K38B

Page 60: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

trên các trang web. Điều này được thể hiện qua nhận xét của bản thân các

doanh nghiệp về hiệu quả sử dụng trang web của mình, một số ví dụ tiêu biểu

có thể kể đến là:

Công ty TNHH Sản xuất - Xuất nhập khẩu Phát Thành (Fataco), sau nửa

năm khai trương website đã có hợp đồng đầu tiên trị giá 100.000 USD bán

sản phẩm Melamin cho một đối tác Hà Lan. Những vị khách này nói rằng sở

dĩ họ biết Fataco và sản phẩm này là nhờ đọc thông tin trên Internet.

Với website www.hoanglong.com của Hoàng Long Computer, nhờ việc

cập nhật thường xuyên giá cả, sản phẩm mới, ngay từ những ngày đầu khai

trương trang web đã có những khách hàng từ Đà Lạt, Vĩnh Long đến mua

hàng sau khi tham quan trang web và hiện nay mỗi ngày có khoảng 100 người

truy cập vào trang web và qua đó khoảng 50 thư điện tử được gửi đến hàng

ngày trong đó phần nhiều là thư điện tử giao dịch, mua bán. Chủ doanh

nghiệp này nhận định “Không thể biết chắc những khách hàng nào đến cửa

hàng của mình sau khi đã xem trên mạng, nhưng rõ ràng là lượng khách có

tăng”.

Tương tự, chủ doanh nghiệp sản xuất võng xếp Duy Lợi cũng tin chắc là

trang web rất hữu Ých cho việc quảng bá sản phẩm. Trang web của Duy Lợi

rất chi tiết về các loại võng và giá từng loại, nhờ đó đã có những người khách

nước ngoài đầu tiên đến mua vâng.

Ở lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, chủ nhân của cơ sở thêu may Cẩm Tó, với

tham vọng “qua trang web giới thiệu cho nhiều người đến với một nghề

truyền thống độc đáo của Việt Nam”, đã nhận xét “Trang web tá ra có hiệu

quả khi giới thiệu sản phẩm, nhất là nhiều người nước ngoài yêu mến văn hóa

truyền thống của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủ công mỹ nghệ”. Trên

website của Cẩm Tó, khách được hướng dẫn đến mua hàng tại ba địa điểm ở

Lê Thu Phương 60 A5 -

K38B

Page 61: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Mỹ, một địa chỉ khác ở Pháp, địa chỉ nào cũng kèm theo thư điện tử.

Mặc dù đây mới chỉ là những website “tiền thương mại điện tử”, tức là

có rao bán chào hàng trên website nhưng giao hàng bằng nhân công, những

website này cũng đang chứng tỏ hiệu quả của nó qua giao dịch nửa điện tử

nửa nhân công và là một dấu hiệu khả quan cho triển vọng phát triển thương

mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Tuy nhiên, số doanh nghiệp thu được kết quả khả quan như những doanh

nghiệp trên chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ tham

gia thương mại điện tử ở Việt Nam. Theo ước tính chỉ khoảng 20% doanh

nghiệp có khách hàng tìm đến nhờ trang web, còn lại đa số chưa thấy được

kết quả thực tế nào sau khi đã đầu tư xây dựng trang web. Như vậy, trang web

của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay mới chỉ thực hiện chức năng của

một phương tiện quảng cáo và cho kết quả ở một số Ýt doanh nghiệp còn

chức năng giao dịch mua bán trực tuyến với khách hàng còn chưa thể thực

hiện được đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hiện nay. Điều đó

cho thấy việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế mà các doanh nghiệp cần tìm cách khắc

phục để tiến tới việc ứng dụng thương mại điện tử một cách toàn diện và hiệu

quả hơn trong tương lai.

3. Một số hạn chế trong việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh

nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

Hạn chế đầu tiên trong việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh

nghiệp vừa và nhỏ là nhiều website của các doanh nghiệp đã không đem lại

hiệu quả như người ta mong đợi khi đầu tư thành lập trang web. Cụ thể là

lượng khách hàng đến với doanh nghiệp nhờ truy cập trang web không nhiều.

Theo các doanh nghiệp, để lập một trang web không khó, chỉ cần 400-500

USD, nhưng cái khó là làm sao cho người khác biết đến trang web và tìm đọc

Lê Thu Phương 61 A5 -

K38B

Page 62: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

chúng. Hiện nay, tình trạng thiếu thông tin cho người dùng Internet khiến các

website dễ rơi vào quên lãng đang phổ biến với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việt Nam. Tình trạng chung là nhiều trang web đã được thành lập từ lâu

nhưng số người truy cập chẳng là bao và số khách hàng doanh nghiệp có được

từ trang web lại càng hiếm hoi. Ví dụ điển hình là website của các doanh

nghiệp ở làng gốm sứ Bát Tràng vốn là những doanh nghiệp đầu tư vào

website từ rất sớm. Nhiều website ở đây mặc dù được thiết kế công phu

nhưng cho tới nay, sau 3-4 năm cũng chỉ mới có trên 1000 lượt truy cập.

Trong số đó, trang web của công ty TNHH Haminco (www.haminco.com.vn)

được đánh giá cao nhất với cách thiết kế đẹp, tốc độ truy cập nhanh, có đủ các

thư mục như giới thiệu truyền thống lịch sử làng gốm sứ, trưng bày các mẫu

mới, các sản phẩm truyền thống... nhưng đã 4 năm trôi qua mà khách đến liên

hệ qua trang web mới chỉ được vài ba người. Chính vì chưa thấy được hiệu

quả thực tế nên nhiều website sau thời gian đầu được đầu tư khá công phu,

được cập nhật thường xuyên thì hiện nay trở nên trì trệ, không được cập nhật,

ngay như trang web của Haminco trong ví dụ trên cũng phải nửa năm mới

được cập nhật một lần, thậm chí nhiều trang web cả 1-2 năm không được cập

nhật. Điều này gây lãng phí cho các doanh nghiệp bởi ngoài chi phí ban đầu

để lập trang web, mỗi năm doanh nghiệp cũng phải mất một số tiền không

nhỏ để duy trì trang web.

Việc giao dịch trực tiếp qua website ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng

còn rất hạn chế hay nói cách khác là chưa có mấy doanh nghiệp thực hiện

giao dịch bán hàng trực tiếp qua website. Nguyên nhân là các giao dịch trực

tuyến qua mạng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không Ýt trở ngại

mà các doanh nghiệp lớn Ýt khi mắc phải. Đó là những trở ngại về vốn, chi

phí, thẩm định đối tác, thanh toán, giao nhận vận chuyển...

Theo các doanh nghiệp, sau khi được nối kết qua mạng thì việc thẩm

Lê Thu Phương 62 A5 -

K38B

Page 63: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

định đối tác rất quan trọng để đi đến những giao dịch nhưng việc thẩm định

này lại nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thông tin

trên mạng không đủ để các doanh nghiệp biết rõ tình hình thực tế của các đối

tác, đặc biệt là những đối tác nước ngoài. Kế đến, với quy mô nhỏ, các doanh

nghiệp này khó được các đối tác nước ngoài tin tưởng giao cho thực hiện các

hợp đồng thương mại có số lượng hàng hoá khổng lồ để có thể đem lại lợi

nhuận cao và ổn định. Nhìn chung, khách hàng chưa đủ tin tưởng vào tư cách

pháp nhân của người lập nên trang web nên việc đặt hàng qua mạng còn rất

hạn chế.

Thêm vào đó, khách hàng vẫn giữ thãi quen xem trực tiếp hàng hoá

trước khi mua, đặc biệt là với những mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, hiện

chiếm tỷ lệ lớn trong số các website của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,

những hình ảnh, thông tin được giới thiệu trên website chưa đủ để khách hàng

tin tưởng vào chất lượng của hàng hoá để có thể đặt mua trực tuyến. Hơn nữa,

thậm chí ngay cả khi có khách đặt hàng trực tuyến thì việc vận chuyển và giao

hàng tận nơi cũng là một điểm hạn chế với các doanh nghiệp vì khi đó doanh

nghiệp phải chịu mọi chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển bởi, với

quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này khó có được hệ thống phân phối rộng

khắp để đảm bảo tự đưa hàng đến nơi khách yêu cầu. Chi phí cho việc vận

chuyển giao hàng tận nơi có thể rất cao so với giá trị hàng hoá, nhất là khi

khách hàng lại ở nước ngoài.

Một sè doanh nghiệp cho rằng họ rất khó khăn về vốn, kể cả vốn đầu tư

mua sắm trang thiết bị và đổi mới công nghệ. Hầu hết các giám đốc doanh

nghiệp vừa và nhỏ cho biết họ còn gặp khó khăn trong quản lý, vận hành

doanh nghiệp do thiếu khả năng tài chính để thuê những người có trình độ

quản lý thành thạo về công nghệ thông tin. Khó khăn về vốn cũng là một yếu

tố cản trở các doanh nghiệp quảng bá website đến khách hàng một cách hiệu

Lê Thu Phương 63 A5 -

K38B

Page 64: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

quả bởi theo nhiều chuyên gia công nghệ thông tin, chi phí lớn nhất cho

thương mại điện tử chính là chi phí quảng bá website đến các khách hàng. Để

website được nhiều người biết đến phải quảng bá nó bằng cách đưa vào các

search engine (công cụ tìm kiếm) càng nhiều càng tốt nhưng chi phí cho việc

quảng bá này khá cao, mét doanh nghiệp cỡ nhỏ phải chi Ýt nhất 500-1000

USD một năm cho việc “phát triển và quảng bá website” và thực tế ở Việt

Nam chưa có công ty nào làm dịch vụ này.

Ngoài ra, trong sè 3% doanh nghiệp có thực hiện thương mại điện tử,

nhiều doanh nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất là ở khâu thanh toán điện tử

bởi, theo họ, công nghệ bảo mật thông tin ở Việt Nam còn quá thấp, doanh

nghiệp khó lòng giao phó việc thanh toán trong kinh doanh bằng thẻ tín dụng

một khi chưa tin tưởng vào hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng.

Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu, giai đoạn thử

nghiệm khi các doanh nghiệp bắt đầu bước vào một hình thức kinh doanh mới

dùa trên sự phát triển của nền công nghệ thông tin. Do vậy, cùng với những

hạn chế vốn có về quy mô và vốn, những hạn chế đối với các doanh nghiệp

vừa và nhỏ khi tham gia thương mại điện tử là khó tránh khỏi. Tuy nhiên,

những hạn chế này là cơ sở để các doanh nghiệp rót ra kinh nghiệm, từ đó có

thể nâng cao hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử khi hình thức kinh doanh

này trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam.

III. TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

1. Triển vọng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và

nhỏ ở Việt Nam

Cho đến nay, thương mại điện tử không còn là một lĩnh vực kinh doanh

quá mới mẻ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong xu thế phát triển chung

Lê Thu Phương 64 A5 -

K38B

Page 65: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

của thương mại điện tử toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam

cũng đang từng bước tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, nhiều

doanh nghiệp đã có những thành công bước đầu, thừa nhận những lợi Ých mà

thương mại điện tử đem lại. Mặc dù còn một số hạn chế khi thương mại điện

tử được ứng dụng trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nhưng trong

thời gian tới, thương mại điện tử sẽ còn phát triển hơn nữa.

Với những lợi Ých tiềm năng mà các doanh nghiệp có thể thu được khi

ứng dụng thương mại điện tử và với tính linh hoạt sẵn có của các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, trong tương lai không xa, thương mại điện tử có thể được

ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt khi những cơ

sở hạ tầng cho thương mại điện tử ở Việt Nam được phát triển hoàn thiện hơn

và người tiêu dùng đã tạo dựng được thãi quen tìm kiếm thông tin và mua

hàng qua mạng. Khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mọi ngành nghề, lĩnh

vực sản xuất kinh doanh đều có thể sử dụng những tiến bộ của công nghệ

thông tin để thực hiện những chu trình giao dịch hoàn chỉnh trên mạng, từ tìm

hiểu thông tin thị trường, tìm kiếm khách hàng, quảng bá sản phẩm đến nhận

đặt hàng và thanh toán. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, điều

cần thiết hiện nay là phải đánh giá đúng những mặt thuận lợi cũng như những

khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải khi áp dụng thương mại điện tử, từ

đó, doanh nghiệp mới có thể xây dựng một chiến lược kinh doanh thích hợp

để khai thác tốt những mặt thuận lợi và khắc phục khó khăn, tiến tới để có thể

khai thác tối đa những tiện Ých mà thương mại điện tử đem lại, chuẩn bị cho

việc gia nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào hoạt động thương mại điện tử trên

phạm vi toàn cầu.

2. Thuận lợi và khó khăn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc ứng

dụng thương mại điện tử

2.1 Thuận lợi

Lê Thu Phương 65 A5 -

K38B

Page 66: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Xét ở tầm vĩ mô, thuận lợi lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

ở Việt Nam hiện nay khi ứng dụng thương mại điện tử là tình hình kinh tế -

thương mại của đất nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong xu thế

hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với việc hội nhập và triển khai thực hiện

các cam kết CEPT/AFTA, triển khai thực hiện Hiệp định thương mại Việt

Nam - Hoa Kỳ và tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh

tế - xã hội Việt Nam cần thiết phải có những thay đổi theo hướng tích cực,

điều này tạo ra cơ hội và cả thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói

chung cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng trong quá trình phát

triển khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Trong điều kiện đó, tham

gia vào thương mại điện tử là một giải pháp đúng đắn đối với các doanh

nghiệp để có thể sớm tiếp cận với “nền kinh tế số hoá” - xu thế phát triển của

nền kinh tế thế giới trong thời gian tới.

Ngày 24/10/2000, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định khung e-

ASEAN, (e-ASEAN Framework Agreement). Mục đích của Hiệp định là

nhằm đẩy mạnh hợp tác để phát triển, tăng cường và nâng cao năng lực cạnh

tranh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ITC - Information

Communication Technology) trong ASEAN, tăng cường các dịch vụ thương

mại điện tử, giảm mức độ phát triển không đồng đều về kỹ thuật số trong

từng nước và giữa các nước ASEAN, đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương

mại, thúc đẩy đầu tư ICT trong các nước ASEAN. Tham gia vào hiệp định e-

ASEAN sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nước ta nhiều cơ hội, đó là sự liên

kết giữa các nước thành viên về mặt xã hội, kinh tế trong không gian điện tử

e-ASEAN sẽ thúc đẩy giao lưu về mặt thương mại, các doanh nghiệp trong

nước sẽ có dịp trao đổi các thông tin về thị trường được nhanh chóng, thuận

tiện; thực hiện các giao dịch thương mại trên mạng (thương mại điện tử,

doanh nghiệp điện tử, chợ công nghệ ảo…).

Lê Thu Phương 66 A5 -

K38B

Page 67: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thuận lợi tiếp theo đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển

thương mại điện tử là Việt Nam là một nước đang phát triển nên một số công

nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào. Tuy ra đời sau nhưng thương mại

điện tử ở Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước

để hạn chế bớt rủi ro trong nghiên cứu và chi phí đầu tư vào nghiên cứu. Hơn

thế nữa, Việt Nam vị trí địa lý thuận lợi cộng với số dân đông là một thị

trường đầy tiềm năng nên đã thu hót được sự quan tâm chú ý và đầu tư của

nhiều hãng lớn về công nghệ thông tin và như vậy các doanh nghiệp Việt

Nam sẽ có điều kiện tiếp cận với các công nghệ tiên tiến của thế giới. Ví dụ

như, ngày 23/10/2003, hãng Intel đã công bố chương trình hỗ trợ các doanh

nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin. Theo đó,

Intel sẽ cung cấp cho các nhà phân phối, đại lý, các nhà phát triển hệ thống và

cung cấp giải pháp những hỗ trợ kỹ thuật và tiếp thị để hướng dẫn cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ đánh giá và triển khai hệ thống máy tính, trên cơ sở

đó xác định những gì cần thay thế và các công nghệ mới về phần cứng và

phần mềm để có thể thúc đẩy công việc làm ăn của doanh nghiệp.

Sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt

Nam cũng là một thuận lợi không nhỏ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ

dàng hơn trong việc tiếp cận thương mại điện tử. Với mạng lưới điện thoại

rộng khắp, hệ thống đường truyền Internet ngày càng phát triển với chất

lượng và tốc độ ngày một cao hơn và giá cước truy cập cũng ngày càng rẻ

hơn với sự gia tăng số lượng các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các doanh

nghiệp có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với Internet và khai thác triệt để

những tiện Ých của nó phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời,

việc các ngân hàng ngày càng phát triển nhiều hơn các dịch vụ mới phục vụ

cho thanh toán điện tử cũng là một điều kiện thuận lợi đối với việc ứng dụng

thương mại điện tử của các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Lê Thu Phương 67 A5 -

K38B

Page 68: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Bên cạnh đó, không thể không kể đến những nỗ lực của Chính phủ trong

việc xây dựng các chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy việc ứng dụng thương mại

điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam như chính sách thuế, chính sách giá

cả, chính sách đầu tư… hướng vào ngành công nghệ thông tin, xây dựng các

dự án quốc gia về thương mại điện tử và tích cực chuẩn bị cho việc ban hành

Pháp lệnh thương mại điện tử - mét có sở pháp lý quan trọng cho hoạt động

thương mại điện tử tại Việt Nam. Đáng chú ý là:

Ngày 5/6/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký nghị quyết số

07/2000/NĐ-CP về xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn

2000-2005, trong đó xác định bước đầu chú trọng hình thức xuất khẩu qua gia

công và cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài, đồng thời mở rộng

thị trường trong nước, tập trung phát triển phần mềm trong nước sớm mang

lại hiệu quả kinh tế xã hội, thay thế phần mềm nhập khẩu; nhanh chóng tổ

chức xuất khẩu lao động phần mềm và phần mềm đóng gói để công nghiệp

phần mềm Việt Nam từng bước đạt vị thế trên thị trường thế giới. Nghị quyết

07 của Chính phủ được đánh giá là đòn bẩy chiến lược để Việt Nam phát

triển, xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm.

Quyết định số 128/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 cũng đã quy định một số

chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ phần mềm

với nội dung chính như sau:

- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

trong vòng 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế;

- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được miễn giảm thuế sử dụng đất, tiền thuê

đất và được tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng viễn thông;

- Được hưởng các mức thuế suất thuế thu nhập ưu đãi;

- Sản phẩm và các dịch vụ phần mềm được hưởng ưu đãi cao nhất về

Lê Thu Phương 68 A5 -

K38B

Page 69: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

thuế giá trị gia tăng;

- Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt

động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được;

- Miễn thuế xuất nhập khẩu đối với sản phẩm phần mềm;

- Người lao động Việt Nam trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất,

dịch vụ phần mềm được áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và mức luỹ tiến

như quy định đối với người nước ngoài;

- Các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập

các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin.

Các quy định như trên là một điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành công

nghiệp phần mềm Việt Nam phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của

thương mại điện tử.

Ngoài ra, sù quan tâm của chính phủ còn thể hiện ở các hoạt động xúc

tiến thương mại điện tử khác mà đáng kể nhất là việc Phòng thương mại và

công nghiệp Việt Nam thành lập sàn giao dịch thương mại điện tử

VNEMART, khai trương ngày 23/4/2003. Dự án VNEMART nhằm mục tiêu

giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước làm quen dần dần với thương mại điện

tử, từng bước thử nghiệm giao dịch thương mại điện tử, tiến tới sử dụng

thương mại điện tử như một công cụ hữu hiệu tìm kiếm bạn hàng mới, phát

triển thị trường trong và ngoài nước.

Như vậy, trong quá trình tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, các

doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có không Ýt những điều kiện thuận lợi,

đây là những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc tham gia thương mại

điện tử được nhanh chóng và ngày càng toàn diện hơn. Các doanh nghiệp cần

nắm bắt kịp thời những thuận lợi này, kết hợp với nỗ lực chủ quan của bản

Lê Thu Phương 69 A5 -

K38B

Page 70: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

thân doanh nghiệp để xác định cho mình một lé trình ứng dụng thương mại

điện tử thích hợp nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh

doanh.

2.2 Khó khăn

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, việc phát triển ứng dụng thương

mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn còn một số

khó khăn sau:

Về nhân lực: nguồn nhân lực cho thương mại điện tử của các doanh

nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu. Mặc dù hiện nay tin học

và công nghệ thông tin đã được nhiều trường từ đại học, cao đẳng cho tới phổ

thông quan tâm đưa vào giảng dạy nhưng số lượng đầu ra đạt chất lượng vẫn

còn thấp. Tâm lý chung những người có bằng đại học loại giỏi thường muốn

học tiếp lên cao và muốn làm việc cho các công ty lớn. Trong số nhân viên

hiện có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có nhiều người có hiểu biết về

Internet và thương mại điện tử nhưng trình độ không đồng đều, dẫn đến nhiều

khó khăn khi nhân rộng các ứng dụng của thương mại điện tử ở các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, nhất là khi phải áp dụng các công nghệ mới, phức tạp.

Về nhận thức: Nhận thức của người dân về thương mại điện tử chưa cao.

Tâm lý người tiêu dùng vẫn chưa quen với việc mua hàng mà không xem tận

mắt, việc xem hàng hoá trên mạng không đủ để họ yên tâm về chất lượng của

hàng hoá. Phương thức thanh toán trực tuyến mang lại nhiều lợi Ých cho cả

doanh nghiệp và người tiêu dùng nhưng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay,

thãi quen sử dụng tiền mặt vẫn chưa thể thay đổi ngay, mức sống trung bình

của người dân còn chưa cao khiến số người quan tâm đến tiền điện tử và

thanh toán điện tử còn Ýt. Về phía doanh nghiệp, không phải lúc nào cũng có

thể thuyết phục được ban lãnh đạo doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ trực tiếp

Lê Thu Phương 70 A5 -

K38B

Page 71: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

cho dù án ứng dụng thương mại điện tử trong khi các chiến lược tổ chức lại

doanh nghiệp cho phù hợp với thương mại điện tử cần có sự tham gia chỉ đạo

của cấp cao nhất trong doanh nghiệp.

Về năng lực cạnh tranh: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là các

doanh nghiệp có quy mô nhỏ và còn non trẻ, tham gia hội nhập vào nền kinh

tế, thương mại thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế khá chặt

chẽ, thị trường thế giới đã được phân chia tương đối ổn định, phải cạnh tranh

với các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn, dẫn đến sự cạnh tranh

trên thị trường trong nước và thế giới càng khó khăn, quyết liệt hơn.

Về cơ sở pháp lý: Hệ thống pháp luật trong thương mại điện tử còn chưa

hoàn thiện, do đó chưa tạo được lòng tin của khách hàng cũng như của doanh

nghiệp khi tham gia thương mại điện tử. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng và quyền lợi của doanh nghiệp mặc dù đã có quy định trong nhiều

văn bản pháp luật nhưng còn chưa thực sự có tác dụng khi tham gia thương

mại điện tử.

Bên cạnh đó, còn có những khó khăn như việc giao hàng sai hẹn, sai đơn

hàng hoặc không đúng chất lượng như quảng cáo là một trở ngại do chính

doanh nghiệp tạo ra, hạn chế khách hàng đến với doanh nghiệp thương mại

điện tử. Ở Việt Nam, nhiều trường hợp sản phẩm, tên tuổi và chất lượng chưa

gắn chặt với nhau, nên việc mua hàng trực tuyến còn hạn chế và không đủ cơ

sở để tin cậy. Nạn sao chép lậu phát triển tràn lan gây trở ngại không nhỏ đối

với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp phần mềm. Việc thực thi

quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó khăn cũng là một thách thức đối với

các doanh nghiệp khi tham gia thương mại điện tử.

Tóm lại, dù đã trải qua hơn nửa thập kỷ kể từ khi Việt Nam bước chân

vào hoạt động thương mại điện tử, sự phát triển ứng dụng thương mại điện tử

Lê Thu Phương 71 A5 -

K38B

Page 72: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể coi vẫn trong giai đoạn

khởi đầu. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu thu được và những hạn chế trong

quá trình thực hiện cũng như những thuận lợi và khó khăn đối với các doanh

nghiệp khi áp dụng thương mại điện tử là những nền tảng kinh nghiệm cơ bản

để các doanh nghiệp tiến sâu hơn vào thương mại điện tử, chuẩn bị cho việc

gia nhập vào “nền kinh tế số hoá”. Đồng thời, phát triển thương mại điện tử

cũng là một giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa

và nhỏ, nâng cao vai trò của bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền

kinh tế đất nước.

Lê Thu Phương 72 A5 -

K38B

Page 73: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG III:

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM

I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

1. Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

1.1 Quan điểm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Kế thừa các quan điểm cơ bản của Nghị quyết 49/CP (ngày 4/8/1993)

của Chính phủ về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, thực hiện

nghiêm túc chỉ thị số 58/CT-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày

17/10/2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhanh chóng triển khai Nghị quyết số

07/2000/NQ-CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về việc xây dựng và phát triển

công nghiệp phần mềm giai đoạn 2001-2005, quan điểm ứng dụng thương

mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới là:

- Ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần được coi là biện pháp

quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi có tính chất thương mại trong

giai đoạn mới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng

bước chủ động hội nhập quốc tế và khu vực;

- Ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần theo hướng xã hội hoá,

tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh

tế và cá nhân tham gia, trong đó các doanh nghiệp nhà nước có vai trò đi tiên

phong;

- Ứng dụng thương mại điện tử cần định hướng vào thị trường thông qua

việc tạo dựng một môi trường pháp lý thuận lợi gồm những chính sách mềm

dẻo và thích hợp;

Lê Thu Phương 73 A5 -

K38B

Page 74: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại phục vụ

cho ứng dụng thương mại điện tử, trong đó cơ sở hạ tầng công nghệ là then

chốt và phải đi trước một bước.

1.2 Mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế xã hội nước ta hiện nay, dùa vào quan điểm phát

triển nêu trên, mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời

gian tới là tạo ra môi trường thông thoáng, đầy đủ và đồng bộ khuyến khích

thương mại điện tử phát triển ở Việt Nam và sẵn sàng áp dụng rộng rãi

thương mại điện tử trên phạm vi cả nước.

Với mục tiêu trên, một số định hướng và chủ trương lớn nhằm thúc đẩy

phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ là:

Nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử cho mọi tầng

líp xã hội, đặc biệt là đối với các cán bộ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực kinh tế,

thương mại và những ngành liên quan: Cần phải nhận thức đầy đủ về tính tất

yếu và mức độ tác động của “kinh tế số hoá” nói chung và “thương mại điện

tử” nói riêng. Các chủ thể, đặc biệt là người tiêu dùng và doanh nghiệp có

kiến thức cơ bản về thương mại điện tử;

Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi và các chính sách mềm dẻo

khuyến khích đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, mở rộng thị trường và tăng

cường trao đổi thương mại, phát triển dịch vụ, chuyển giao công nghệ và hợp

tác quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng thương mại điện tử;

Triển khai xây dựng một chiến lược quốc gia về hình thành nền “kinh

tế số hoá” nói chung và “thương mại điện tử” nói riêng làm định hướng chỉ

đạo lâu dài; thiết lập một chương trình hành động trước mắt, phù hợp với tình

hình thực tế của Việt Nam, trên cơ sở đó, triển khai nhanh việc phổ cập, đào

tạo, thử nghiệm... Xây dựng được một số sản phẩm mật mã áp dụng trong

thương mại điện tử, đặc biệt cần chú trọng việc xây dựng hạ tầng mật mã hoá

Lê Thu Phương 74 A5 -

K38B

Page 75: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

công khai (PKI);

Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ cần thiết cho phát

triển thương mại điện tử gồm: kết cấu hạ tầng viễn thông; công nghiệp viễn

thông; công nghệ điện tử; công nghệ thông tin; công nghiệp điện lực; Internet.

Xây dựng các chuẩn kỹ thuật và công nghệ thống nhất quốc gia và quốc tế.

Xây dựng và tổ chức triển khai một số đề án phát triển cơ sở hạ tầng công

nghệ cụ thể phục vụ phát triển thương mại điện tử ở nước ta. Mục tiêu của các

hoạt động này là xây dựng được hạ tầng CNTT tiên tiến, đáp ứng được nhu

cầu giao dịch thương mại điện tử lớn trên mạng (trước hết là giao dịch thương

mại điện tử nội địa, tiếp đến là giao dịch với bạn hàng nước ngoài), sẵn sàng

cho việc hội nhập của Việt Nam với hoạt động thương mại điện tử toàn cầu;

Tích cực phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử;

Triển khai thử nghiệm rộng rãi các loại hình dịch vụ của thương mại

điện tử ở các mức độ khác nhau để rút kinh nghiệm và nhân rộng; Tiến hành

thử nghiệm các hình thái giao dịch của thương mại điện tử cho một số doanh

nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, các giao dịch bao gồm từ

việc chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán thông qua

mạng;

Xây dựng hệ thống tổ chức quản lý thương mại điện tử thích hợp.

2. Phương hướng phát triển thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở Việt Nam

2.1 Phương hướng phát triển

Trên cơ sở tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới, thực

trạng thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian qua và kế hoạch phát

triển của Chính phủ về thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở

Việt Nam có thể phát triển ứng dụng thương mại điện tử theo các mức độ sau:

Mức độ 1: Quảng cáo - Tiếp thị - Thông tin

Lê Thu Phương 75 A5 -

K38B

Page 76: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Các doanh nghiệp sẽ sử dụng Internet và các website của mình như một

công cụ tích cực để khai thác thông tin về thị trường, sản phẩm, quảng cáo tên

tuổi và sản phẩm, dịch vụ của mình, giao tiếp với các đối tác là các doanh

nghiệp ở thị trường trong và ngoài nước.

Mức độ 2: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử trong nội bộ doanh nghiệp

Các thông tin nội bộ sẽ được trao đổi bằng điện tử giữa các bộ phận

trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện quản lý nhân sự, quản lý sản

xuất kinh doanh thông qua mạng máy tính trong doanh nghiệp. Việc này sẽ hỗ

trợ rất nhiều cho các tương tác bằng điện tử trực tiếp giữa khách hàng với các

bộ phận chức năng của doanh nghiệp.

Mức độ 3: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử với các đối tác

Doanh nghiệp có khả năng trao đổi dữ liệu bằng điện tử giữa các bộ

phận trong và ngoài doanh nghiệp. Ở mức độ này, các giao dịch giữa các bộ

phận chức năng của doanh nghiệp với khách hàng đã hoàn thiện hơn nhiều,

nhiều chức năng giao dịch được tự động hoá.

Mức độ 4: Tự động hoá mét phần các giao dịch trên website

Với các chức năng được tự động hoá trên website, các đối tác có thể sử

dụng website của doanh nghiệp để trao đổi thông tin với doanh nghiệp.

Mức độ 5: Thương mại điện tử

Mọi công đoạn trong quá trình giao dịch đều có thể thực hiện ngay trên

website của doanh nghiệp, người mua có thể xem hàng, đặt hàng và thanh

toán ngay trên mạng. Đây là giai đoạn mà thương mại điện tử theo đúng nghĩa

bắt đầu phát triển với quy mô lớn.

Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng

bước triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau tuỳ

theo đặc điểm, mục đích kinh doanh cũng như quy mô, năng lực của mình.

2.2 Mô hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và

Lê Thu Phương 76 A5 -

K38B

Page 77: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

nhỏ trong điều kiện hiện nay

Do còn tồn tại nhiều hạn chế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như

các điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, thanh toán điện tử, chi phí sử dụng

Internet… nên việc ứng dụng thương mại điện tử hoàn chỉnh từ khâu mua

hàng đến khâu thanh toán trực tuyến sẽ khó là hiện thực trong những năm

trước mắt ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, trên thực tế, các doanh

nghiệp này có thể áp dụng mô hình thương mại điện tử kết hợp giữa các giao

dịch điện tử qua mạng Internet và các giao dịch truyền thống. Đây sẽ là bước

đi đầu tiên trong quá trình chuyển đổi từ thương mại truyền thống sang

thương mại điện tử hiện đại của một doanh nghiệp.

Theo mô hình này, các doanh nghiệp sẽ xây dựng các website trong đó

thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm, dịch vụ, giao dịch với khách hàng

và các đối tác khác để trao đổi thông tin, nhận đặt hàng, doanh nghiệp cũng sẽ

thực hiện một phần quá trình hỗ trợ sau bán hàng thông qua website do khách

hàng có thể gửi thông tin phản hồi về sản phẩm, dịch vụ qua trang web của

doanh nghiệp và doanh nghiệp tư vấn cho khách hàng cũng thông qua hình

thức này. Quá trình trao đổi thông tin trong nội bộ doanh nghiệp cũng được

thực hiện bằng điện tử thông qua mạng máy tính. Bên cạnh các giao dịch

bằng điện tử, các giao dịch khác như giao hàng, thanh toán, bảo hành… vẫn

có thể được doanh nghiệp thực hiện bằng các phương pháp truyền thống.

Khi ứng dụng mô hình này, tổ chức của doanh nghiệp có thể cần thay

đổi để phù hợp hơn với các quá trình kinh doanh mới, các phòng ban trong

công ty sẽ tham gia trực tiếp vào các quá trình giao dịch bằng điện tử bổ sung

cho các quá trình giao dịch truyền thống.

Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp sẽ sử dụng một chương trình catalog điện

tử trên Internet để giới thiệu chi tiết các sản phẩm và dịch vụ của doanh

nghiệp. Chương trình catalog điện tử sẽ tạo các trang web tự động trên cơ sở

Lê Thu Phương 77 A5 -

K38B

Page 78: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

dữ liệu về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Catalog này cũng cho phép

doanh nghiệp có thể cập nhật cơ sở dữ liệu khách hàng, đơn hàng, sản phẩm,

dịch vụ, còn khách hàng có thể đặt hàng và theo dõi quá trình thực hiện đơn

hàng.

Do vấn đề tiền điện tử tại Việt Nam còn hạn chế, việc thanh toán có thể

vẫn được doanh nghiệp thực hiện trực tiếp theo hình thức chuyển khoản hoặc

bằng tiền mặt. Tuy nhiên, các thông tin trên website vẫn là các căn cứ chính

để thực hiện việc thanh toán.

Hoạt động của từng bộ phận cũng có thay đổi. Các kế hoạch tiếp thị của

bộ phận tiếp thị không chỉ nhằm vào các khách hàng ở địa phương mình mà

sẽ nhằm vào một số loại khách hàng nào đó trên phạm vi toàn cầu. Phương

thức tiếp thị cũng thay đổi, người ta không chỉ quảng cáo các sản phẩm, dịch

vụ của mình trên các phương tiện truyền thông của địa phương mà mà với

Internet, các sản phẩm, dịch vụ của các nhà tiếp thị có thể đi khắp nơi trên thế

giới, đem các thông tin này đến tận nơi cho những người đang quan tâm tìm

kiếm trên Internet. Bộ phận bán hàng cần phải sẵn sàng với các đối tượng

khách hàng khác nhau ở các khu vực địa lý khác nhau thậm chí là ở phía bên

kia địa cầu. Do đó, các thông tin về thuế xuất khẩu hàng hoá, chi phí vận

chuyển tới địa chỉ của khách hàng, các phương thức thanh toán được chấp

nhận, các điều kiện về cung cấp sản phẩm, dịch vụ, bảo hành... cũng cần được

chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, đảm bảo cho việc trả lời các yêu cầu của khách

hàng một cách nhanh chóng và việc thực hiện các đơn hàng không gặp phải

các trở ngại không cần thiết. Bộ phận hỗ trợ khách hàng cũng cần chuẩn bị

trước các thông tin cho khách hàng về việc bảo trì, bảo dưỡng các sản phẩm,

dịch vụ của mình. Dữ liệu về “Những câu hỏi thường gặp” càng nhiều và

càng đầy đủ thì càng giúp cho bộ phận này giảm được các yêu cầu hỗ trợ đơn

giản do khách hàng cũng có thể tự giải quyết các vấn đề này sau khi đã đọc

Lê Thu Phương 78 A5 -

K38B

Page 79: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

các câu hỏi và trả lời trên website. Bộ phận kế toán sẽ phải thường xuyên

kiểm tra tình hình thực hiện các đơn hàng thông qua website để có được

thông tin về khách hàng, các khoản phải thu, phải trả, liên hệ với khách hàng

để trao đổi các thông tin về hoá đơn, công nợ, tài khoản ngân hàng. Bộ phận

giao hàng mỗi khi có thông báo về việc chuyển hàng cho khách thông qua

website hoặc email sẽ lấy hàng từ kho và liên hệ với khách hàng để thực hiện

việc bàn giao cho bộ phận nhận hàng của khách hàng.

Về phía khách hàng, họ không cần phải đi đến tận cửa hàng trưng bày

sản phẩm để có được các thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà họ quan tâm. Với

Internet họ có thể tìm được các nhà cung cấp phù hợp, lấy được đầy đủ các

thông tin cần thiết như tính năng kỹ thuật, diễn giải chi tiết, giá cả, phí vận

chuyển, các điều kiện thanh toán, bảo hành... Khi quyết định mua, khách hàng

chỉ cần cung cấp các thông tin cần thiết về thẻ tín dụng, địa chỉ chuyển

hàng,... và chấp nhận thanh toán phí vận chuyển nếu có. Nếu không có thẻ tín

dụng, khách hàng sẽ liên hệ trực tiếp với bộ phận kế toán để thực hiện các thủ

tục thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Trong quá trình sử dụng,

khách hàng vẫn có thể liên lạc bằng điện tử với doanh nghiệp để yêu cầu giúp

đỡ hoặc gửi thông tin góp ý.

Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử bằng cách kết hợp giữa các

giao dịch truyền thống và các giao dịch bằng điện tử là một bước chuyển tiếp

có tính khả thi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Để có thể ứng

dụng thương mại điện tử hoàn toàn, các doanh nghiệp còn cần nhiều điều kiện

khách quan và chủ quan khác. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so

với xu thế phát triển của thương mại điện tử thế giới, các doanh nghiệp vừa và

nhỏ Việt Nam cần phải xác định sớm hướng đi để bắt đầu các hoạt động

thương mại điện tử của mình theo điều kiện thực tế môi trường kinh doanh

hiện có của Việt Nam cũng như năng lực của chính bản thân doanh nghiệp.

Lê Thu Phương 79 A5 -

K38B

Page 80: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

1. Về phía Chính phủ

1.1 Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tối đa hoá phổ biến các lợi Ých kinh tế - xã hội

- Thường xuyên đưa các thông tin và cách khai thác thương mại điện tử

phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội;

- Đảm bảo kỹ thuật và giảm cước viễn thông, phí truy cập;

- Xây dựng hệ thống phân phối với cước phí vận chuyển thấp;

- Phổ cập hoá Internet thông qua các chương trình đào tạo cấp phổ thông

và đại học và các chương trình hỗ trợ các tổ chức kinh tế - xã hội khác;

- Ban hành chính sách thuế ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia các

chương trình thương mại điện tử và kinh doanh CNTT;

1.2 Tạo môi trường tin cậy và an toàn cho các giao dịch

- Đảm bảo việc thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại

điện tử (hoá đơn, chứng từ, thuế...);

- Cung cấp các dịch vụ xác thực và sản phẩm mật mã với khoá mật mã

theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật;

- Xây dựng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn giao dịch thương mại điện

tử;

- Cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính riêng tư của cac

thành viên tham gia thương mại điện tử;

- Phổ biến các biện pháp chống truy cập bất hợp pháp và đề phòng tin

tặc;

- Ban hành các quy phạm pháp luật và xây dựng các giải pháp công nghệ

để truy bắt, xử phạt các hành vi vi phạm nghiệp vụ, lợi dụng trong từng khâu

hoặc toàn bộ quá trình giao dịch thương mại điện tử.

Lê Thu Phương 80 A5 -

K38B

Page 81: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

1.3 Phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông

Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet

- Đảm bảo chất lượng các dịch vụ viễn thông để đáp ứng yêu cầu phát

triển CNTT với giá cước bằng hoặc thấp hơn so với các nước trong khu vực;

- Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet

trong toàn dân, mở rộng hơn nữa mạng các nhà cung cấp dịch vụ Internet

(ISP) và các nhà cung cấp nội dung (ICP) cho mọi thành phần kinh tế, không

hạn chế số lượng các ISP và ICP;

- Cho phép sử dụng mọi dịch vụ đã có và sẽ có trên Internet để phát triển

CNTT, tăng dung lượng đường truyền và mở thêm cổng ra quốc tế;

Chuẩn hoá thông tin

- Lùa chọn và chấp nhận những tiêu chuẩn công nghiệp hiện đại trên thế

giới phù hợp với điều kiện phát triển công nghiệp trong nước đồng thời nhanh

chóng xây dựng các tiêu chuẩn công nghệ đặc thù của Việt Nam;

- Hoàn chỉnh và sớm quy định chuẩn hoá các loại thông tin cho các hoạt

động quản lý điều hành quan trọng của Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương

và các hoạt động kinh tế phù hợp với khu vực và quốc tế.

Hạ tầng nhân lực và đào tạo cán bộ

- Đa dạng hoá và xã hội hoá các hình thức đào tạo về thương mại điện

tử. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng, xã hội như

Hội tin học Việt Nam và các hội thành viên, các trung tâm đào tạo... mở các

líp bồi dưỡng thường xuyên cho các đối tượng trong xã hội về CNTT và đầu

tư thêm để hoàn chỉnh một bộ giáo trình tốt cho việc giảng dạy, phân loại

trình độ học viên để soạn giáo trình và giảng dạy cho phù hợp;

- Tăng cường gửi người đi đào tạo ở nước ngoài về thương mại điện tử.

Hỗ trợ các doanh nghiệp gửi người đi đào tạo theo các học bổng của nước

ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế và cá nhân

Lê Thu Phương 81 A5 -

K38B

Page 82: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

đi học ở nước ngoài về thương mại điện tử bằng nguồn vốn tự có;

- Xây dựng phương án tổ chức và triển khai các hoạt động của Trung

tâm phát triển nguồn lực thương mại điện tử trình Chính phủ phê duyệt để

sớm thực hiện nhiệm vụ của trung tâm này.

1.4 Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng thương mại điện tử

- Nhà nước đầu tư cho một số hướng nghiên cứu và triển khai phục vụ

trực tiếp các ứng dụng quan trọng của thương mại điện tử. Chính phủ cần đầu

tư xây dựng một trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm quốc gia về Internet và

thương mại điện tử. Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm những công nghệ, đề

xuất các chính sách cho Internet, thương mại điện tử và mở rộng các dịch vụ

Internet là một điều cần thiết và cấp bách;

- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí thực hiện các đề án

triển khai thương mại điện tử, nếu trong đó có những nội dung nghiên cứu

khoa học hoặc tiếp thu chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra công nghệ mới do

doanh nghiệp tự thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa

học thực hiện.

1.5 Tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển thương mại điện

tử

Tham gia thương mại điện tử là vấn đề có tầm chiến lược quốc gia, vấn

đề có tính sống còn đối với tương lai của đất nước và đang là vấn đề có tính

nhạy cảm về chính trị và kinh tế trên phạm vi quốc tế. Vì thế, nội dung các

bản tuyên bố chính thức của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, việc tham

gia ký kết về mặt nhà nước các cam kết có tính ràng buộc trong các tổ chức

quốc tế trên tất cả các khía cạnh có liên quan đến vấn đề thương mại điện tử

cần phải được thảo luận kỹ lưỡng, bảo đảm tính chủ động, hiệu quả, an toàn

và có tính lâu dài.

Nhà nước cần sớm ban hành một số chính sách hỗ trợ cho thương mại

Lê Thu Phương 82 A5 -

K38B

Page 83: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

điện tử nhằm đẩy nhanh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam như:

- Chính sách đầu tư:

Để hình thành đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho

thương mại điện tử đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư rất lớn từ mọi nguồn,

trong đó vốn của Nhà nước có vai trò quan trọng. Trước hết ở khâu đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho thương mại điện tử, trong đó tập

trung ưu tiên đầu tư các lĩnh vực như nghiên cứu phát triển CNTT, hệ thống

thanh toán tự động, bảo mật và an toàn, tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương

mại. Chính phủ cân nhắc thành lập Quỹ hỗ trợ ứng dụng thương mại điện tử.

Quỹ này được hình thành từ nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước và

được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử quản lý sử

dụng vào việc hỗ trợ, bồi thường rủi ro cho các đơn vị, doanh nghiệp thử

nghiệm ứng dụng thương mại điện tử nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đi

tiên phong thử nghiệm, ứng dụng thương mại điện tử. Vì Việt Nam có trình

độ phát triển ở mức thấp, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và

nhỏ nên khó có khả năng doanh nghiệp tự bỏ tiền đầu tư ứng dụng các hoạt

động thương mại điện tử.

- Chính sách thuế:

Nhà nước áp dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển các doanh

nghiệp kinh doanh dung liệu số hoá (các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các

trung gian Internet...) để tạo cơ sở hạ thấp giá các dịch vụ trong thương mại

điện tử.

- Chính sách giá cả:

Các hoạt động dịch vụ của thương mại điện tử phải hướng vào kích thích

phát triển các khách hàng thuê bao, các khách hàng sử dụng các dịch vụ của

thương mại điện tử. Do đó, Nhà nước cần sử dụng công cụ giá cả để điều tiết

cung - cầu thông qua việc quy định mức giá trần các dịch vụ để kích thích

Lê Thu Phương 83 A5 -

K38B

Page 84: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

tăng trưởng nhanh nhu cầu sử dụng các dịch vụ của thương mại điện tử, ngăn

chặn các nhà cung cấp dịch vụ tuỳ tiện nâng giá các dịch vụ, vượt quá sức

mua của khách hàng trên thị trườngtrong nước.

- Về mặt tổ chức:

Chính phủ sớm hình thành một tổ chức đa ngành bao gồm ngân hàng, tài

chính, tư pháp, công an, bưu chính viễn thông... đồng thời soạn thảo cơ chế

vận hành, hành lang pháp lý cho thương mại điện tử.

Nên thành lập ngay một đầu mối quốc gia về “kinh tế số hoá” và

“thương mại điện tử”. Một tổ chức đầu mối quốc gia về thương mại điện tử

(có thể là Hội đồng) gồm đại diện của nhiều bộ ngành và giới có liên quan là

một tổ chức cần thành lập để có thể hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ

nhiều khía cạnh. Vì hội đồng là một tổ chức mang tính tư vấn là chủ yếu, nên

theo kinh nghiệm các nước, sẽ cần tới một Uỷ ban quốc gia (hoặc tương

đương) có chức năng và quyền hạn ra quyết định, chỉ đạo và xử lý giải quyết.

Hội đồng và Uỷ ban sẽ là đầu mối đưa ra chiến lược cũng như chương trình

hành động cho thương mại điện tử, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lược và

chương trình đó, tránh được các xu hướng thiếu nhìn nhận toàn diện, hoặc cho

là chưa thể làm gì với thương mại điện tử, hoặc ngược lại, tiến hành một cách

vội vã, nặng về phô diễn, không những không thu được kết quả mong muốn

mà còn để lại hậu quả khó có thể khắc phục sau này.

2. Về phía các doanh nghiệp

2.1 Nâng cao nhận thức và chủ động tham gia vào thương mại điện tử

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xác định rõ xu thế phát triển của

thương mại điện tử trong nền kinh tế nói chung và sự cần thiết phải áp dụng

thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình do những lợi Ých

mà thương mại điện tử có thể đem lại, từ đó, dùa vào điều kiện thực tế của

doanh nghiệp mà xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử cho phù

Lê Thu Phương 84 A5 -

K38B

Page 85: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

hợp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần nắm được vai trò của mình trong

nền kinh tế và xác định: trong thương mại điện tử doanh nghiệp là người trực

tiếp kinh doanh nên phải đóng vai trò tiên phong, còn nhà nước chỉ mang tính

hỗ trợ. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chủ động tham gia thương

mại điện tử và lập kế hoạch cụ thể về mức độ tham gia, chuẩn bị các bước cần

thiết để khỏi lỡ mất cơ hội kinh doanh. Điều này sẽ làm doanh nghiệp tự chủ

hơn trong kinh doanh và, hơn thế nữa, có thể đóng góp những ý kiến thiết

thực cho nhà nước để tiến hành hoạt động thương mại điện tử một cách có

hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia.

Các doanh nghiệp cũng nên chủ động tham gia các hội thảo về thương mại

điện tử do chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức, mặt khác, tham

khảo và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài về cách thức kinh doanh trên

Internet.

2.2 Chuẩn bị nguồn nhân lực

Các doanh nghiệp nên tuyển dụng, đào tạo đội ngò nhân viên có trình độ,

có thể nắm bắt nhanh các kỹ thuật thương mại điện tử, sử dụng những người

có hiểu biết sâu sắc về công nghệ thông tin để quản lý, kiểm soát các giao

dịch thương mại điện tử. Đồng thời, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần

hiểu rõ cách thức vận hành tổ chức thương mại điện tử để có thể đưa ra chiến

lược kinh doanh phù hợp cũng như có thể quản lý được hoạt động của doanh

nghiệp khi thực hiện ứng dụng thương mại điện tử trong sản xuất kinh doanh.

2.3 Xem xét lại quy trình kinh doanh cho phù hợp với phương thức hoạt

động của thương mại điện tử

Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào mạng Internet trước hết cần xác định

rõ mục tiêu và chiến lược kinh doanh bởi mục tiêu và chiến lược kinh doanh

trong thương mại điện tử có thể có nhiều điểm khác biệt so với trong phương

thức kinh doanh truyền thống. Doanh nghiệp có thể tham khảo ý kiến các

Lê Thu Phương 85 A5 -

K38B

Page 86: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

chuyên gia trong quá trình xây dựng kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp

cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng từng bước trong kế hoạch kinh doanh trước khi

đưa vào triển khai để tránh những sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh

doanh.

2.4 Xây dựng website của doanh nghiệp

Khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp nên xây dùng cho

mình một website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một website nào đó. Để

website thực sự là một công cụ hữu Ých trong hoạt động kinh doanh thương

mại điện tử của doanh nghiệp, website của doanh nghiệp phải được thiết kế

bảo đảm các yêu cầu sau:

Cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác: Website phải trình bày một

cách rõ ràng và chính xác các thông tin chi tiết liên quan đến doanh nghiệp

mà các đối tác kinh doanh cần biết như địa chỉ trụ sở làm việc, địa chỉ e-mail,

số điện thoại, fax..., các thông tin về chất lượng, giá cả sản phẩm hoặc dịch

vụ, phương thức vận chuyển hàng, phương thức thanh toán, thời gian bảo

hành. Doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho khách hàng tìm hiểu nguồn gốc,

xuất xứ cũng như tính năng sử dụng của sản phẩm ngay trên website này.

Thiết kế website linh hoạt: Thông tin trên website phải luôn được cập

nhật sao cho website này là nguồn thông tin tốt nhất về sản phẩm và dịch vụ

của doanh nghiệp. Đồng thời hình ảnh cũng như các file dữ liệu phải thật sự

gây Ên tượng cho mọi đối tượng truy nhập, luôn có các sáng kiến đổi mới để

tạo được trang web với những hình ảnh sống động, âm thanh vui tươi mang

bản sắc riêng và nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, website

cũng phải đảm bảo tốc độ truy cập nhanh bằng cách loại bỏ các đoạn không

cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải, doanh

nghiệp cũng có thể thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng

chọn sản phẩm dễ dàng hơn và nhanh hơn. Những điều này sẽ tạo điều kiện

Lê Thu Phương 86 A5 -

K38B

Page 87: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

cho khách hàng truy cập website thường xuyên hơn.

Đảm bảo an toàn: Website của doanh nghiệp phải chắc chắn tạo được

lòng tin đối với những khách hàng tiềm năng. Do vậy, doanh nghiệp cần chú

trọng quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng đồng thời bảo đảm tính an

toàn cho hệ thống thanh toán của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, để đảm bảo cho website được nhiều người biết đến, doanh

nghiệp không thể không chú ý đến việc giới thiệu địa chỉ website trên các

phương tiện thông tin khác bởi website chỉ có thể thực hịên được chức năng

của nó khi được mọi người biết đến và truy cập.

2.5 Tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử

Trên thực tế, việc xây dựng và duy trì một website có hiệu quả có thể tốn

khá nhiều chi phí và là một khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ

vì quy mô vốn của các doanh nghiệp này thường không lớn. Tham gia sàn

giao dịch là một giải pháp giúp các doanh nghiệp giảm nhẹ được khó khăn về

chi phí. Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch sẽ được hỗ trợ về

đào tạo, đào tạo cả cho người quản lý và người triển khai, để họ có thể chủ

động tạo cho mình một gian hàng trực tuyến, bằng các công cụ trong sàn giao

dịch. Thông qua sàn giao dịch, các doanh nghiệp sẽ được cung cấp thông tin

và tư vấn về các văn bản, chính sách, các quy định và tập quán thương mại

quốc tế, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh khi hội nhập

quốc tế. Sàn giao dịch cũng là diễn đàn cho các doanh nghiệp có điều kiện

trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, hỏi đáp những vấn đề quan tâm. Như vậy, có

thể nói, sàn giao dịch thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp có điều kiện

tiếp cận với thương mại điện tử một cách chủ động, kể cả trong điều kiện

nguồn kinh phí hạn chế.

2.6 Các doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng và phát triển thương

hiệu

Lê Thu Phương 87 A5 -

K38B

Page 88: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Thương hiệu là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Một số doanh

nghiệp bị thất bại là do không củng cố được tên tuổi của mình trên mạng và

gắn nó với những hình tượng dành cho khách hàng. Vấn đề thương hiệu trong

thương mại điện tử phức tạp và dễ gặp rắc rối hơn so với thương hiệu trong

kinh doanh truyền thống vì, trong kinh doanh truyền thống, thương hiệu

thường có tính chất khu vực nhưng trên Internet lại không tồn tại các khu vực

truyền thông. Tính toàn cầu của Internet có thể gây ra những tranh cãi về

thương hiệu. Thêm vào đó, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn là

một vấn đề lớn đang tồn tại và có nguy cơ ngày càng gia tăng khi thương mại

điện tử phát triển. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu tham gia vào thương mại

điện tử, các doanh nghiệp phải vạch cho mình một chiến lược xây dựng, củng

cố, phát triển và bảo vệ thương hiệu của mình.

Lê Thu Phương 88 A5 -

K38B

Page 89: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

Lê Thu Phương 89 A5 -

K38B

Page 90: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

KẾT LUẬN

Thương mại điện tử đã, đang phát triển rất nhanh chóng trên thế giới và

sẽ là thành phần quan trọng của thương mại nói chung vào thế kỷ 21. Không

chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển cũng ngày càng

nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển thương mại điện tử trong

xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và hướng tới phát triển “nền kinh tế số hoá”.

Các quốc gia không tính đến xu thế này sẽ khó tránh khỏi nguy cơ tụt hậu

nhất là trong điều kiện mà ngành công nghệ thông tin đang phát triển với tốc

độ như vũ bão hiện nay.

Với Việt Nam, trong tiến trình tham gia thương mại điện tử đã có nhiều

kết quả đáng khích lệ đặc biệt là về việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ

thông tin và viễn thông phục vụ cho thương mại điện tử. Tuy nhiên, để

thương mại điện tử có thể phát triển hoàn thiện ở Việt Nam, trong điều kiện

Việt Nam đang và sẽ tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,

đặc biệt là Hiệp định khung e-ASEAN, còn có nhiều vấn đề đòi hỏi nước ta

phải giải quyết như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện

tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong thương mại điện tử, bảo vệ dữ

liệu cá nhân và bảo vệ lợi Ých của người tiêu dùng… Do vậy, nước ta cần

tiếp tục tăng cường xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin, nâng cao chất lượng

dịch vụ viễn thông, giảm giá bán các loại dịch vụ viễn thông cho phù hợp với

mặt bằng chung của thế giới. Đồng thời, cần tập trung phát triển nguồn nhân

lực về công nghệ thông tin có chất lượng cao hơn nữa, nâng cao trình độ

ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh bởi đây là ngôn ngữ giao dịch phổ biến trong

thương mại điện tử trên thế giới.

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, là một thành phần quan

trọng trong nền kinh tế xét về tỷ trọng trong tổng số các doanh nghiệp cũng

Lê Thu Phương 90 A5 -

K38B

Page 91: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

như xét về khía cạnh giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, việc

tham gia ứng dụng thương mại điện tử hiện nay mới ở giai đoạn khởi đầu và

kết quả thu được còn thấp nhưng trong tương lai, chắc chắn thương mại điện

tử sẽ có hiệu quả cao hơn đem lại nhiều lợi Ých hơn nữa cho các doanh

nghiệp và có thể được ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp. Tuy nhiên

để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chủ động

chuẩn bị và đầu tư các thiết bị, công nghệ tiên tiến, điều chỉnh cơ cấu, quy

trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh để có thể đứng vững

trong nền kinh tế và tham gia vào thị trường thế giới. Điều quan trọng là mỗi

doanh nghiệp cần phải có được nhận thức đúng đắn về thương mại điện tử và

xây dựng được cho mình một kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử phù hợp

với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức. Đó là giải pháp tốt nhất

đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam để phát triển vững chắc trong

xu thế hội nhập và toàn cầu hoá và phát triển kinh tế số hoá hiện nay.

Lê Thu Phương 91 A5 -

K38B

Page 92: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003

2. Khía cạnh văn hoá trong thương mại điện tử - NXB Chính trị quốc gia

2003

3. Thương mại điện tử cho doanh nghiệp - NXB Khoa học kỹ thuật 2001

4. Tương lai của thương mại điện tử - Sayling Wen - NXB Bưu điện 2002

5. Giao dịch thương mại điện tử - Mét số vấn đề cơ bản - NXB Chính trị

quốc gia 2002

6. Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhá - Viện kinh tế

thế giới 2001

7. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - NXB Chính trị

quốc gia 2002

8. Dự thảo Pháp lệnh thương mại điện tử (lần thứ 6) - Bé Thương mại

9. Dự án quốc gia kỹ thuật thương mại điện tử - Bé Thương mại

10. Nghiên cứu ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt

Nam - Luận án tiến sỹ - Lê Minh Lương

11. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003)

12. Một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Đại học Ngoại thương

13. Các báo và tạp chí:

- Tin học và đời sống số 6,10/2002, sè 1,4,9/2003

- Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương số 2, 8,10/2001, 2/2002

- Ngoại thương số 7,8/2003

- Phát triển kinh tế số 5/2003

- Thương mại các số năm 2003

- Tuần tin Công nghiệp - Thương mại Việt Nam (Bộ Thương mại)

- Bưu chính viễn thông số 5,6,7,8/2003

Lê Thu Phương 92 A5 -

K38B

Page 93: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

- Kinh tế và phát triển số 11/2002

- Diễn đàn doanh nghiệp số 8/2003

- Những vấn đề kinh tế thế giới số 5/2003

Lê Thu Phương 93 A5 -

K38B

Page 94: Tailieu.vncty.com   thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)

Khoá luận tốt nghiệp

14. Thông tin trên các trang Web

- www.thuongmaidientu.com

- www.mot.gov.vn

- www.ecommercetimes.com

- www.ebusinessforum.com

- www.vnexpress.net

- www.it-life.vnn.vn

- www.vnn.vn

- www.bvom.com/news/

Lê Thu Phương 94 A5 -

K38B