tailieu.vncty.com thuong-mai-dien-tu-va-thuc-trang-ung-dun (1)
DESCRIPTION
http://tailieu.vncty.comTRANSCRIPT
Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài
Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong
những thập niên cuối của thế kỷ 20 đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển
kinh tế xã hội toàn cầu. Chính trên nền tảng đó, một phương thức thương mại
mới đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng, đó là thương mại điện tử.
Thương mại điện tử chính là một công cụ hiện đại sử dụng mạng Internet giúp
cho các doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường thế giới, thu thập thông
tin nhanh hơn, nhiều hơn và chính xác hơn. Với thương mại điện tử, các
doanh nghiệp cũng có thể đưa các thông tin về sản phẩm của mình đến các
đối tượng khách hàng tiềm năng khác nhau ở mọi nơi trên thế giới với chi phí
thấp hơn nhiều so với các phương pháp truyền thống.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trên thế giới,
các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ phận
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam, cũng đã bước đầu
nhận thức được Ých lợi và tầm quan trọng của việc ứng dụng thương mại
điện tử. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong nhận thức của bản thân các
doanh nghiệp cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng, việc ứng dụng thương
mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể nói mới ở
mức độ sơ khởi. Vì thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xây dùng cho mình
một chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay nhằm tiếp
cận nhiều hơn nữa với thương mại điện tử để có thể khai thác tối đa lợi Ých
mà phương thức kinh doanh này đem lại. Đây cũng là lý do để tác giả lùa
chọn đề tài “Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử
trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” làm đề tài cho khoá luận tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Lê Thu Phương 1 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thứ nhất, bước đầu tìm hiểu một số khái niệm về thương mại điện tử để
tiến tới một nhận thức toàn diện hơn về thương mại điện tử, điều mà các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nên biết khi quan tâm đến việc ứng dụng thương
mại điện tử.
Thứ hai, nhấn mạnh xu thế tất yếu phải tham gia vào thương mại điện tử
qua vài nét phác hoạ về tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới,
một số khu vực kinh tế và một số nước điển hình.
Thứ ba, phân tích tình tình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam nói
chung và ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói riêng, qua đó đưa ra
một vài đánh giá sơ bộ về thực trạng áp dụng thương mại điện tử trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích đánh giá, đưa ra một số phương hướng phát
triển ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,
đồng thời đề cập đến một số giải pháp về phía chính phủ và về phía bản thân
các doanh nghiệp để có thể phát triển hơn nữa ứng dụng thương mại điện tử.
Thương mại điện tử đã và đang bắt đầu được áp dụng trong nhiều doanh
nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp lớn có điều kiện thuận lợi về vốn
và công nghệ. Tuy nhiên, trong điều kiện giới hạn về thời gian và tài liệu,
khoá luận này chỉ xin tập trung nghiên cứu việc ứng dụng thương mại điện tử
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu sử dụng cho đề tài bao gồm phân tích, tổng
hợp, so sánh, kết hợp lý thuyết với thực tiễn. Đồng thời, để cung cấp thông tin
được chính xác, cập nhật, đề tài có sử dụng một số sách, đề tài nghiên cứu về
các vấn đề có liên quan, các tạp chí và thông tin trên Internet.
4. Kết cấu của đề tài:
Lê Thu Phương 2 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ứng dụng thương mại
điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
thầy giáo, ThS. Nguyễn Quang Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong
quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài khoá luận tốt nghiệp này. Đồng thời,
em còng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại
thương cùng các bạn đã giúp đỡ em thực hiện đề tài.
Lê Thu Phương 3 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. KHÁI NIỆM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử từ khi ra đời đã có nhiều tên gọi khác nhau như
“thương mại trực tuyến”(online trade) (hay còn gọi là “thương mại tại
tuyến”), “thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh doanh điện tử”
(electronic business), “thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce
hoặc paperless trade)…Tuy nhiên, cho đến nay, tên gọi “thương mại điện tử”
(electronic commerce) được sử dụng nhiều nhất rồi trở thành quy ước chung
và được đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có
thể được dùng và hiểu với cùng một nội dung.
Theo quan niệm phổ biến, thương mại điện tử (Electronic Commerce),
một yếu tố hợp thành của “nền kinh tế số hoá”, là hình thái hoạt động thương
mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy
trong bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn gọi là “thương
mại không có giấy tờ”)
Trong định nghĩa trên, chữ “thông tin” (information) không được hiểu
theo nghĩa hẹp là “tin tức” mà là bất cứ cái gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật
điện tử, bao gồm cả thư từ, các tập tin văn bản (text-based file), các cơ sở dữ
liệu (database), các bảng tính (spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính
điệ tử (computer-aid design: CAD), các hình đồ hoạ (graphical image), quảng
cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động(video
image), âm thanh,...
Lê Thu Phương 4 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Theo Đạo luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban thuộc Liên hợp
quốc về Luật thương mại quốc tế soạn thảo và đã được Liên hợp quốc thông
qua thì “Thương mại” (Commerce) trong “thương mại điện tử” (Electronic
Commerce) bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính
chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính
thương mại (commercial) bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch
sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá,
dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa
hồng (factoring); cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn;
kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả
thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác
công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá, hành khách bằng đường
biển, đường không, đường sắt hoặc đường bé.
Uỷ ban châu Âu cũng đưa ra định nghĩa thương mại điện tử như sau:
Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện kinh doanh qua các phương
tịên điện tử. Nó dùa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn
bản, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm
nhiều hành vi, trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận
các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu
điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên mạng; mua sắm công
cộng; tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối
với thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Thương mại điện tử bao gồm
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và
thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả
Lê Thu Phương 5 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
các sản phẩm được giao nhận cũng như các thông tin số hoá qua mạng
Internet.
Còn theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Thương mại
điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dùa trên truyền dữ
liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Như vậy, “thương mại” trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn
bán hàng hoá (trade) theo cách hiểu thông thường mà còn bao quát một phạm
vi rộng hơn nhiều, do đó, việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi
cách thức hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện
nay, thương mại điện tử có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn
bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
2. Sù ra đời của thương mại điện tử
Thương mại điện tử ra đời trên cơ sở sự ra đời và phát triển của Internet -
mạng máy tính toàn cầu. Ý tưởng về Internet xuất hiện từ những năm 1960
khi Bộ quốc phòng Mỹ bắt tay vào thực hiện việc nghiên cứu kết nối các máy
tính thành một mạng lưới chằng chịt để khi một mối liên kết bị phá háng thì
các máy tính vẫn có thể nối kết với nhau bằng các mối liên hệ khác. Trong
thời gian này, Cơ quan nghiên cứu các dự án quốc phòng cao cấp của Mỹ
(ARPA) đã tìm kiếm các công nghệ truyền thông cho phép truyền thông liên
tục thậm chí cả khi các trung tâm điều khiển không hoạt động được. Điều này
dẫn tới việc nghiên cứu các công nghệ chuyển mạch gói. Kết quả là, tới năm
1977, hai giao thức chuyển mạch gói là Giao thức điều khiển truyền thông
(TCP) và Giao thức Internet (IP) được phát minh và trở thành hai giao thức cơ
bản của Internet.
Một bước quan trọng trong cuộc cách mạng Internet là việc Trung tâm
khoa học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) thiết lập ra một số trung tâm siêu máy tính
quốc gia vào năm 1986. NSF đã liên kết các siêu máy tính và cho phép các
Lê Thu Phương 6 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
mạng máy tính của khu vực và các trường đại học được kết nối vào. Hơn thế
nữa, để sử dụng mạng truy cập từ xa các siêu máy tính của NSF, người ta đã
phát triển các chương trình ứng dụng như là thư điện tử, giao thức truyền tệp
và các nhóm tin để việc chia sẻ thông tin được thuận tiện hơn. Liên kết của
các trường đại học với mạng của NSF để kết nối được với các siêu máy tính
chính là nguồn gốc của Internet ngày nay.
Internet tiếp tục phát triển rộng thành mạng toàn cầu khi các nước khác
cũng xin gia nhập mạng. Đặc biệt, khi có sự phát triển của World Wide Web
(www) và sự ra đời của các trình duyệt web đồ hoạ, Internet đã nhanh chóng
thu hót được sự quan tâm chú ý của những người ở ngoài cộng đồng giáo dục
và chính phủ. Với tính chất quốc tế và những tiện Ých của các dịch vụ
Internet, các nhà quảng cáo và sau đó là các doanh nghiệp đã không bỏ lỡ cơ
hội làm ăn trên mạng. Từ đó, một phương thức kinh doanh mới của thương
mại toàn cầu xuất hiện và khái niệm thương mại điện tử ra đời. Sau đó, Đạo
luật mẫu về thương mại điện tử do Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về thương mại
quốc tế (UNCITRAL: United Nations Comission on International Trade Law)
soạn thảo đã được Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua, trở thành một cơ sở
pháp lý chính thức cho thương mại điện tử trên thế giới.
II. CÁC PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Các phương tiện kỹ thuật sử dụng trong thương mại điện tử
1.1 Điện thoại
Điện thoại là một phương tiện được sử dụng nhiều trong giao dịch
thương mại bởi tính dễ sử dụng và sự phát triển rộng rãi của mạng điện thoại
trên toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển của điện thoại di động và liên lạc qua
vệ tinh. Qua điện thoại, các đối tác có thể liên lạc, trao đổi trực tiếp với nhau
bằng giọng nói. Với đặc điểm này, nhiều loại dịch vụ có thể cung cấp trực
Lê Thu Phương 7 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
tiếp qua điện thoại như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí...
Tuy nhiên, hạn chế của điện thoại là chỉ truyền tải được âm thanh, giao dịch
chính thức vẫn phải thực hiện trên giấy tờ. Ngoài ra, chi phí cho giao dịch qua
điện thoại, nhất là điện thoại đường dài trong nước và quốc tế vẫn còn cao
nên hiệu quả kinh tế thấp.
1.2 Máy Fax
Ưu điểm lớn nhất của máy fax là cho phép truyền các văn bản trên giấy
trong thời gian rất ngắn, giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian so với cách
gửi thư và công văn truyền thống, đặc biệt là khi các đối tác giao dịch ở các
nước khác nhau. Tuy nhiên, máy fax có một số hạn chế như không thể truyền
tải được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều nên Ýt hấp dẫn đối với
người sử dụng. Hơn nữa, giá thiết bị và chi phí sử dụng còn cao nên việc sử
dụng máy fax có tính kinh tế thấp.
1.3 Truyền hình
Mức độ phổ thông của máy thu hình trên toàn thế giới và tầm phủ sóng
rộng rãi của vô số các kênh truyền hình đặc biệt là với sự phát triển của hệ
thống cáp quang và truyền hình phủ sóng qua vệ tinh đã khiến các nhà kiinh
doanh tìm thấy ở truyền hình một phương tiện kinh doanh hữu hiệu với việc
thực hiện các chương trình quảng cáo trên truyền hình. Tuy nhiên, điểm hạn
chế là truyền hình chỉ là công cụ viễn thông một chiều. Qua truyền hình,
những khách hàng quan tâm đến sản phẩm được quảng cáo không thể tìm
kiếm các dịch vụ chào hàng cũng như đàm phán với người bán về các điều
khoản cụ thể. Hiện nay, nhờ được kết nối với máy tính điện tử, công dụng của
máy thu hình đã được mở rộng hơn và nhược điểm này có thể được khắc
phục.
1.4 Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử
Trong thương mại điện tử việc thanh toán có thể được thực hiện thông
qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử. Đây thực chất là
Lê Thu Phương 8 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
các phương tiện cho phép tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản
khác. Những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán điện tử là
máy rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), các loại thẻ tín dụng
(credit card), thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card - là
một loại thẻ từ có gắn vi chíp điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất
nhá)...
1.5 Intranet và Extranet
Mạng nội bộ (Intranet) theo nghĩa rộng là mạng thông tin trong nội bộ
một cơ quan, mét doanh nghiệp. Bằng sự nối kết giữa các máy tính điện tử
trong cơ quan, doanh nghiệp cùng với các liên lạc di động , các thành viên
trong cơ quan, doanh nghiệp đó có thể liên lạc, trao đổi thông tin và phối hợp
hoạt động với nhau thông qua mạng này. Theo nghĩa hẹp, mạng nội bộ có thể
là mạng kết nối các máy tính ở gần nhau, gọi là mạng cục bộ (LAN: Local
Area Network), hoặc mạng kết nối các máy tính trong mét khu vực rộng lớn
hơn, gọi là mạng miền rộng (WAN: Wide Area Network). Hai hay nhiều
mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành một liên mạng nội bộ hay còn gọi
là mạng ngoại bộ (Extranet) và tạo ra một cộng đồng điện tử liên xí nghiệp
(inter-enterprise electronic community) .
1.6 Internet và Web
Khi nói Internet là nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau
trên phạm vi toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ
Internet chỉ thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức
chuẩn quốc tế HTTP (HyperText Transfer Protocol - Giao thức truyền siêu
văn bản) với các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
HTML (HyperText Markup Language), tạo ra hàng chục dịch vụ khác nhau,
nhưng nổi bật nhất tới nay là dịch vụ World Wide Web ra đời năm 1991
(thường gọi tắt là web, viết tắt là WWW). Web là công nghệ sử dụng các siêu
liên kết văn bản (hyper link, hyper text), là một giao thức để tạo ra các liên
Lê Thu Phương 9 A5 - K38B
Khoá luận tốt nghiệp
kết động trong hoặc giữa các văn bản, hay nói cách khác là tạo ra các văn bản
chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác. Nó cho phép người sử dụng tự
động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang một cơ sở dữ liệu khác. Bằng cách
đó, người sử dụng có thể truy cập các thông tin thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, đồ hoạ, âm thanh...
Web với tư cách là một không gian ảo cho thông tin đã được toàn thế giới
chấp nhận làm tiêu chuẩn giao tiếp thông tin.
Ngày nay, do công nghệ Internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây
dựng các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ nên càng ngày người ta càng hiểu
các mạng này là các “phân mạng” (subnet) của Internet. Sù ra đời và phát
triển của Internet đã tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, tạo ra
bước phát triển mới của ngành truyền thông và đã trở thành công cụ quan
trọng nhất của thương mại điện tử. Dù có hay không có Internet/Web, ta vẫn
có thể làm thương mại điện tử (qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ cùng
với các phương tiện điện tử khác), song ngày nay, nói tới thương mại điện tử
thường có nghĩa là nói tới Internet/Web, vì thương mại đã và đang trong tiến
trình toàn cầu hoá và hiệu quả hoá, nên cả hai xu hướng Êy đều đòi hỏi phải
sử dụng triệt để Internet và Web như các phương tiện đã được quốc tế hoá cao
độ và có hiệu quả sử dụng cao.
2. Các hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử
2.1 Thư điện tử (e-mail)
Các đối tác (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử
dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua
mạng, gọi là thư điện tử (electronic mail, gọi tắt là e-mail). Đây là một thứ
thông tin ở dạng “phi cấu trúc” (unstructured form), nghĩa là thông tin không
phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận trước.
2.2 Thanh toán điện tử (electronic payment)
Lê Thu Phương 10 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thanh toán điện tử là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử
(electronic message). Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử đã
hướng thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới , đó là:
Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính ( FEDI - Financial Electronic Data
Interchange) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty
giao dịch với nhau bằng điện tử.
Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát
hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi tự do sang
các đồng tiền khác thông qua Internet. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ
thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital
cash), công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hoá
khoá công khai/bí mật” (Public/Private Key Crypto-graphy). Thanh toán bằng
tiền mặt Internet đang trên đà phát triển nhanh vì có hàng loạt ưu điểm nổi
bật:
- Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ;
- Có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ mà không
đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận trước, các thanh toán là vô hình;
- Tiềnmặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được nguy cơ tiền giả.
Tói tiền điện tử (electronic purse, còn gọi là “ví điện tử”) nói đơn giản
là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (smart card, hay còn
gọi là thẻ giữ tiền - stored value card); tiền được trả cho bất cứ ai đọc được
thẻ đó; kỹ thuật của tói tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hoá khoá công
khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”.
Thẻ thông minh (smart card) nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng,
nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có
một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền Êy chỉ được chi trả khi người sử
dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận thanh toán hoá đơn) được xác thực là
Lê Thu Phương 11 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
“đúng”.
Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) và giao dịch chứng
khoán số hoá (digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân
hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống:
- Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại, tại các
điểm bán lẻ, các ki-ốt, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách
hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng...);
- Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu
thị...);
- Thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng;
- Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.
2.3 Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange)
Trao đổi dữ liệu điện tử là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu
trúc” (structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác
trong nội bộ công ty, hay giữa các công ty hoặc tổ chức đã thoả thuận buôn
bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp
của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc vì các bên đối tác phải thoả thuận từ
trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin). Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật
thương mại quốc tế đã đưa ra định nghĩa pháp lý sau: “Trao đổi dữ liệu điện
tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính
điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn đã được
thoả thuận về cấu trúc thông tin”.
EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu và chủ yếu
được thực hiện thông qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ.
Thương mại điện tử qua biên giới (Cross-border electronic commerce) về
bản chất là trao đổi dữ liệu điện tử giữa các doanh nghiệp được thực hiện giữa
các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung: giao dịch kết nối, đặt
Lê Thu Phương 12 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
hàng, giao dịch gửi hàng (shipping) và thanh toán. Trên bình diện này, nhiều
khía cạnh còn phải tiếp tục xử lý, đặc biệt là buôn bán giữa các nước có quan
điểm, chính sách và luật pháp thương mại khác nhau về căn bản, đòi hỏi phải
có từ trước một dàn xếp pháp lý trên nền tảng thống nhất quan điểm về tự do
hoá thương mại và tự do hoá việc sử dụng Internet. Chỉ như vậy mới có thể
đảm bảo được tính khả thi, tính an toàn và tính hiệu quả của trao đổi dữ liệu
điện tử.
2.4 Giao gửi số hoá các dung liệu (Digital delivery of content)
Giao gửi số hoá các dung liệu là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà
người ta cần nội dung, tức là hàng hoá, chứ không cần tới vật mang hàng hoá
như phim ảnh, âm nhạc, các chương trình truyền hình, phần mềm máy tính...
Các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm...
nay cũng đã được đưa vào danh mục các dung liệu (content). Đồng thời, trên
giác độ kinh tế - thương mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên
Internet đều có ở mức phong phó, do đó một nhiệm vụ quan trọng của công
tác thông tin ngày nay là khai thác trực tiếp được lượng thông tin trên Web và
phân tích tổng hợp lượng thông tin này sao cho phù hợp với mục đích sử
dông.
2.5 Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods)
Để tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web
và Java, người bán xây dựng trên mạng các cửa hàng ảo (virtual shop) để
thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa
hàng, xem hàng háo hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiền bằng
thanh toán điện tử. Vì là hàng hoá hữu hình nên tất yếu sau đó cửa hàng phải
dùng các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. Điều
quan trọng nhất là khách hàng có thể mua hàng tại nhà (home shopping) mà
không cần phải đích thân đi tới cửa hàng.
Lê Thu Phương 13 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
3. Các loại giao tiếp trong thương mại điện tử
- Giao tiếp giữa người với người: qua điện thoại, thư điện tử, máy fax;
- Giao tiếp giữa người với máy tính điện tử: trực tiếp hoặc qua các mẫu
biểu điện tử (Electronic form) và qua mạng Internet;
- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với người: qua thư tín do máy tính tự
động sinh ra, qua máy fax và thư điện tử;
- Giao tiếp giữa máy tính điện tử với máy tính điện tử: qua việc trao đổi
dữ liệu có cấu trúc, thẻ thông minh, các dữ liệu mã hoá bằng vạch (barcoded
data, cũng gọi là dữ liệu mã vạch).
4. Các giao dịch thương mại điện tử
4.1 Căn cứ theo đối tượng giao dịch
Các giao dịch thương mại điện tử hiện nay được xây dựng dùa trên các
mối quan hệ giữa các chủ thể bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng. Do vậy, căn cứ theo đối tượng giao dịch, trong thương mại điện tử có
thể có các giao dịch sau:
- B to B (Business to Business): là giao dịch giữa các doanh nghiệp với
nhau và giao dịch bên trong doanh nghiệp (Business to Employee). Các doanh
nghiệp thường sử dụng hình thức giao dịch này để trao đổi chứng từ, thanh
toán tiền hàng và trao đổi thông tin. Hình thức trao đổi này thường được các
doanh nghiệp sử dụng mạng Intranet và Extranet để giao dịch.
- B to C (Business to Consumer): là giao dịch giữa doanh nghiệp và
người tiêu dùng, minh hoạ cụ thể là việc bán hàng qua mạng, làm cho việc
mua sắm của người tiêu dùng trở nên thuận tiện hơn vì người tiêu dùng có thể
thực hiện việc xem hàng, mua hàng và thanh toán tại nhà mà không cần phải
đến tận cửa hàng. Đây chính là sự thể hiện việc điện tử hoá tiêu thụ khi mạng
toàn cầu ra đời và phát triển.
Lê Thu Phương 14 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- B to G (Business to Government): giao dịch giữa doanh nghiệp với
chính phủ, bao gồm việc trao đổi thông tin, mua sắm chính phủ theo kiểu trực
tuyến (online government procurement) và quản lý nhà nước về thuế, hải
quan...
- C to G (Consumer to Government): giao dịch giữa người tiêu dùng với
các cơ quan chính phủ nhằm trao đổi các thông tin về thuế, dịch vụ hải quan
và các thông tin khác.
- G to G (Government to Government): giao dịch giữa các chính phủ
nhằm mục đích trao đổi thông tin.
Trong các giao dịch trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp (B to B hoặc
B2B) và giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (B to C hoặc B2C) là hai
dạng giao dịch phổ biến trong thương mại điện tử đặc biệt là nếu xét trên góc
độ thuần tuý kinh doanh.
<1> Giao dịch bên trong doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp
Thư tín điện tử trong nội bộ doanh nghiệp
Xuất bản trực tuyến (trên Web) các tài liệu của công ty
Tra cứu các tài liệu, các dự án và các thông tin khác
Truyền gửi các thông tin khẩn cấp tới nhân viên
Quản lý tài chính và nhân sự
Quản lý vật tư
Phục vụ hậu cần
Gửi các thông tin hoặc báo cáo về xử lý đơn hàng cho người cung
cấp hàng.
<2> Giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng
Tra cứu thông tin về sản phẩm và hàng hoá (trên Web)
Đặt hàng
Thanh toán các hàng hoá và dịch vụ
Lê Thu Phương 15 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Cung cấp các lao vụ trực tuyến cho khách hàng
Trước hết, về giao dịch B2B, đây là quan hệ giao dịch chiếm tỷ lệ chủ
yếu trong tổng số các giao dịch thương mại điện tử hiện nay. Khi áp dụng
B2B, các doanh nghiệp xây dùng cho mình các Website trên mạng Internet
nhằm giới thiệu về doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của doanh nghiệp
cho các đối tác, đồng thời những đối tác quan tâm có thể giao dịch trực tiếp
với doanh nghiệp ngay trên Website này. Bên cạnh đó, Website cũng là mạng
nội bộ giữa doanh nghiệp với một số khách hàng đã và đang làm việc với
doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với đa số các công ty, các Website này cũng kiêm
luôn chức năng bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng khi họ truy cập tìm hiểu
sản phẩm và đặt hàng như các khách hàng là doanh nghiệp khác.
Trong phương thức B2B, thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp có
thể theo dõi, quản lý được quá trình cung cấp nguyên liệu, dịch vụ từ phía nhà
cung cấp cũng như việc giao hàng hoá cho các đại lý tiêu thụ của mình và các
nhà phân phối độc lập khác. Đồng thời, trong quá trình này, doanh nghiệp
cũng liên tục được cập nhật thông tin từ phía các đối tác do đó có thể nhanh
chóng nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Về phía nội bộ doanh nghiệp,
tất cả các thành viên trong doanh nghiệp đều được quản lý, được tham gia vào
sản xuất một sản phẩm bằng cách truy cập thông tin về sản phẩm, đóng góp ý
kiến về sản phẩm, được thông báo cũng như đóng góp ý kiến về các quyết
định của doanh nghiệp thông qua mạng nội bộ của doanh nghiệp đó. Với
nguồn thông tin từ nhiều phía cả bên trong lẫn bên ngoài, doanh nghiệp có thể
bổ sung, hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của thị trường từ đó
nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Về giao dịch B2C, đây là một phương thức giao dịch ngày càng phổ biến
bởi những tiện Ých mà nó đem lại cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng.
Lê Thu Phương 16 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Với sự phát triển của Internet, người tiêu dùng ngày càng quen dần với việc
mua hàng trên mạng, một thị trường điện tử nơi người bán và người mua gặp
nhau mà trong tương lai có thể dần thay thế cho các thị trường truyền thống.
Khi mua hàng trên mạng, hạn chế về khoảng cách địa lý được xoá bỏ, người
tiêu dùng có thể tự do lùa chọn các sản phẩm, dịch vụ cũng như các nhà cung
cấp chỉ bằng việc truy cập các Website đang xuất hiện ngày một nhiều hơn
trên mạng.
Giao dịch B2C có ảnh hưởng nhiều đến kênh bán lẻ bởi thông qua
Internet, người sản xuất và người tiêu dùng có thể trực tiếp gặp nhau. Do chi
phí trung gian được giảm bớt, người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá hay
dịch vụ mình mong muốn với giá thấp hơn và tin tưởng rằng sẽ được hưởng
các dịch vụ hỗ trợ kèm theo đầy đủ hơn. Việc trao đổi trực tiếp giữa người
bán và người mua giúp người bán nắm được yêu cầu chi tiết của khách hàng
từ đó cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu đó, đồng thời, thông
tin phản hồi trực tiếp từ phía khách hàng cũng giúp doanh nghiệp khảo sát
được thị trường một cách chính xác, hiệu quả và kinh tế.
4.2 Căn cứ theo nội dung giao dịch
Hiện nay, nếu căn cứ theo nội dung giao dịch, thương mại điện tử có thể
có các loại giao dịch sau:
- Mua hàng điện tử: là hoạt động thương mại với chức năng bán sản
phẩm. Đối với hoạt động thương mại này, những thông tin như tìm hiểu về
sản phẩm, đặt hàng, thanh toán tiền đều có thể thực hiện qua mạng. Nhưng
hàng hoá đưa đến tay người dùng sẽ được thực hiện thông qua các dịch vụ
bưu điện đã có hoặc các cơ sở, công ty vận tải. Lợi điểm của loại hình này là
giảm thiểu đến mức tối đa các khâu trung gian trong quá trình lưu thông hàng
hoá.
Lê Thu Phương 17 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Cung cấp thông tin: là giao dịch thương mại điện tử mà đối tượng mua
bán là sản phẩm hoặc dịch vụ thông tin. Toàn bộ quá trình thương mại này
hoàn toàn có thể thực hiện qua mạng.
- Thanh toán điện tử (e-Cash và e-Cheque): là hoạt động cung cấp việc
thanh toán điện tử nhanh chóng nhất thông qua hệ thống thanh toán điện tử
(Electronic Payment System - EPS). Hoạt động này nhằm bổ sung cho hai
hoạt động thương mại kể trên để được một hệ thống hoàn chỉnh trong kinh
doanh. Đây là yếu tố quan trọng và cần có để hoạt động thương mại điện tử
mang đúng bản chất của thương mại. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân cơ
bản thúc đẩy việc điện tử hoá tiền tệ.
III. LỢI ÝCH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Giúp doanh nghiệp nắm được thông tin phong phó
Nhờ các phương tiện điện tử sử dụng trong thương mại điện tử, điển hình
là truy cập các trang web trên Internet và liên lạc qua Internet, các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp cận với nguồn thông tin khổng lồ trên Internet cũng
như nắm bắt kịp thời thông tin thị trường để từ đó xây dựng chiến lược sản
xuất kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu
vực và quốc tế. Đồng thời, việc nắm bắt thông tin chính xác và kịp thời cũng
giúp doanh nghiệp nhanh chóng phản ứng được trước những thay đổi của thị
trường. Hơn thế nữa, việc nắm bắt thông tin cũng giúp doanh nghiệp chủ
động đi trước các đối thủ cạnh tranh, đây là một yếu tố rất quan trọng cho sự
tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay,
khi các doanh nghiệp luôn phải chịu sức Ðp cạnh tranh vô cùng gay gắt. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng được
nhiều quốc gia quan tâm và coi là một trong những động lực phát triển chủ
Lê Thu Phương 18 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
yếu của nền kinh tế hiện nay.
2. Giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc lùa chọn khi mua hàng
Thương mại điện tử đã và đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho cả người
tiêu dùng cá lẻ và các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thương mại
điện tử, ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức kinh doanh trực tuyến bằng
cách quảng cáo trên mạng, bán hàng và thanh toán trên mạng. Việc quảng cáo
trên mạng giúp khách hàng có thể dễ dàng tìm hiểu thông tin chi tiết và chính
xác về mặt hàng mình quan tâm. Thêm vào đó, do không phải mất nhiều thời
gian tìm đến tận cửa hàng nơi có trưng bày và bán sản phẩm, khách hàng có
điều kiện thăm quan cùng lúc nhiều trang web của nhiều doanh nghiệp khác
nhau và do đó có thể dễ dàng so sánh để chọn lùa sản phẩm và nhà sản xuất
mà mình ưng ý nhất.
3. Giảm chi phí sản xuất
Nhờ thương mại điện tử, chi phí sản xuất có thể được giảm bớt mà trước
hết là chi phí văn phòng, một nhân tố cấu thành trong chi phí sản phẩm. Cụ
thể là chi phí in Ên hầu như được loại bỏ, chi phí cho việc tìm kiếm và chuyển
giao tài liệu được giảm bớt bởi việc tài liệu được lưu trữ và chuyển giao trên
máy tính cho phép tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức. Cũng vì thế mà
số nhân viên văn phòng được giảm thiểu giúp doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí tiền lương mà lẽ ra phải trả cho số lượng nhân viên lớn hơn nhiều.
Ngoài ra, các văn phòng không giấy tờ (paperless office) cũng chiếm diện tích
nhỏ hơn rất nhiều so với các văn phòng truyền thống. Quan trọng hơn, các
nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ nên có thể
tập trung thời gian và năng lực vào nghiên cứu phát triển và do đó đem lại
nhiều lợi Ých hơn cho doanh nghiệp xét về mặt lâu dài, chiến lược.
4. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
Lê Thu Phương 19 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thương mại điện tử cũng giúp giảm bớt chi phí bán hàng và chi phí tiếp
thị. Nhờ có Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất
nhiều khách hàng - những người thăm quan và đặt hàng trên trang web của
doanh nghiệp, chưa kể việc nhận các đơn đặt hàng có thể được máy tính tự
động xử lý và vì thế chi phí nhân viên bán hàng được giảm đi đáng kể . Với
số lượng người truy cập Internet ngày một nhiều như hiện nay, việc quảng cáo
trên Internet là vô cùng hiệu quả bởi doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi
quảng cáo mà không tốn thêm quá nhiều chi phí. Hơn thế nữa, các catalogue
điện tử mà doanh nghiệp sử dụng để quảng cáo có nội dung phong phó, sinh
động, hấp dẫn hơn nhiều và dễ dàng cập nhật thường xuyên so với các
catalogue in Ên vốn có nhiều hạn chế về in Ên, phát hành.
5. Giảm chi phí giao dịch
Thương mại điện tử thực hiện qua Internet giúp người tiêu dùng và các
doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Một giao dịch
trong thương mại điện tử được tính bao gồm các công đoạn từ quảng cáo, tiếp
xúc ban đầu cho đến giao dịch đặt hàng, giao hàng và thanh toán. Sử dụng
Internet, thời gian giao dịch chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax và bằng
0,05% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ
bằng 5% chi phí giao dịch qua fax hay qua bưu điện hoặc chuyển phát nhanh.
Chi phí thanh toán điện tử qua Internet cũng chỉ bằng 10% đến 20% nếu so
với chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Thời gian tiết kiệm được do giảm bớt thời gian giao dịch có ý nghĩa rất
quan trọng với doanh nghiệp vì việc nhanh chóng đưa thông tin sản phẩm đến
với người tiêu dùng cũng như việc sớm nắm bắt được nhu cầu thị trường từ
thông tin phản hồi của khách hàng giúp doanh nghiệp dễ dàng chủ động thay
đổi để theo kịp sự biến động của nhu cầu thị trường.
Lê Thu Phương 20 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
6. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Thương mại điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập và củng cố
mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Thông qua
mạng, từ các mạng nội bộ cho đến Internet, người tiêu dùng, các doanh
nghiệp và cả các cơ quan chính phủ có thể trực tiếp liên lạc với nhau mà
không có bất cứ hạn chế nào về thời gian cũng như khoảng cách địa lý bởi
việc liên lạc trên mạng Internet mang tính toàn cầu. Hầu như mọi giao dịch
đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Do vậy, các chủ thể của hoạt
động thương mại điện tử đặc biệt là các doanh nghiệp có cơ hội tìm kiếm
nhiều bạn hàng mới, nhiều cơ hội kinh doanh mới trên phạm vi toàn quốc,
toàn khu vực và toàn thế giới.
7. Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá
Nền kinh tế số hoá (digital economy) hay còn gọi là nền kinh tế ảo
(virtual economy) là xu thế phát triển trong tương lai gần của nền kinh tế thế
giới. Việc nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế số hoá có ý nghĩa rất quan trọng
đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, để tránh nguy cơ
tụt hậu. Trước mắt, thương mại điện tử kích thích sự phát triển của ngành
công nghệ thông tin là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng
lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, từ đó, thương mại điện tử tạo điều
kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá. Đây là một lợi Ých mang
tính tiềm tàng, tính chiến lược công nghệ và liên quan đến chính sách phát
triển của các quốc gia, bởi một quốc gia, đặc biệt là nước đang phát triển, sớm
tiếp cận được với nền kinh tế số hoá có thể tạo ra cho mình một bước phát
triển nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong thời gian ngắn.
IV. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
Lê Thu Phương 21 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu. Tuy
hiện nay thương mại điện tử được áp dụng chủ yếu ở các nước phát triển,
trong đó riêng Mỹ đã chiếm khoảng 1/2 tổng doanh số thương mại điện tử
trên thế giới, các nước đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia ngày càng
nhiều vào hoạt động kinh doanh này. Tuỳ đặc điểm kinh tế xã hội và định
hướng phát triển riêng mà mỗi quốc gia có cách nhìn nhận, đánh giá, cách
chuẩn bị, triển khai và có các bước đi khác nhau trong quá trình tham gia vào
thương mại điện tử. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy,
để có thể tham gia có hiệu quả vào thương mại điện tử và hạn chế đến mức
thấp nhất các rủi ro, mỗi nước đều phải có chiến lược chung về thương mại
điện tử, có chương trình tổng thể, phương án hành động từng bước và phải có
tổ chức chuyên trách cho công việc này.
Sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên nền tảng của sự phát triển
công nghiệp công nghệ thông tin trên thế giới. Công nghệ thông tin ngày nay
đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đặc biệt, sự kết hợp hữu cơ ba bộ phận công nghiệp là máy tính (mạng, máy
tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện thoại
hữu tuyến, vô tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản
phẩm nghe, nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin v.v.) đang
tạo ra vai trò và tính chất mới của công nghiệp công nghệ thông tin.
Nền tảng cho sự phát triển của thương mại điện tử thế giới là Internet,
bao gồm cả các phân mạng do đó bao quát toàn bộ các máy tính điện tử đang
hoạt động trên toàn thế giới, và các phương tiện truyền thông hiện đại bao
gồm vệ tinh viễn thông, cáp, vô tuyến và các khí cụ điện tử.
Lê Thu Phương 22 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Internet đang phát triển rất nhanh cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng
dụng và chất lượng vận hành. Nếu như năm 1991 mới có 31 nước nối mạng
vào Internet thì tới giữa năm 1997 đã có 171 nước. Số trang web vào giữa
năm 1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng
Internet/Web vào giữa năm 1991 là 1600, tới giữa năm 1997 đã lên 1,3 triệu.
Giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa chỉ Internet (chủ yếu là ở
Mỹ và mỗi địa chỉ có thể có nhiều trang web do sử dụng các lĩnh vực khác
nhau, dùng nhiều cổng khác nhau), tới giữa năm 1996 đã lên 12,9 triệu địa chỉ
với khoảng 67,5 triệu người sử dụng ở khắp các châu lục và tới giữa năm
1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Số
người sử dụng Internet toàn thế giới đã tăng lên trên 350 triệu vào năm 2000
và theo các nhà dự báo, vào năm 2005 sẽ có khoảng 1 tỷ người trên thế giới
sử dụng Internet.
Trước đây, kiểu tiêu biểu mà một cá nhân ở gia đình truy cập vào
Internet là thông qua một máy tính cá nhân (PC: Personal Computer) và một
đường dây điện thoại. Cách truy cập này có tốc độ rất chậm, ví dụ, nếu dùng
một modem 28,8 kbps (nghìn bit/sec) thì phải mất 46 phót mới tải xuống
được một chương trình video dài 3,5 phót. Hiện nay, các công ty điên thoại,
vệ tinh và cáp đã tạo ra các phương tiện truy cập Internet với tốc độ cao hơn
rất nhiều. Công nghệ “đường thuê bao số hoá không đồng bộ” (ADSL:
Asynchronous Digital Subscriber Line), với modem 8 Mbps (triệu bit/sec),
cho phép chương trình video nói trên được tải xuống chỉ trong 10 giây. Khi
các công ty Mỹ phát triển công nghệ dùng ti vi để truy nhập vào Internet (gọi
là HDTV: high-definition television) dùng cáp, với modem 10 Mbps sẽ chỉ
mất 8 giây cho việc tải chương trình đó. Các công ty mà chủ yếu là các công
ty Mỹ đã có chương trình 5 năm 1998-2002 xây dựng một mạng viễn thông
băng rộng toàn cầu thông qua các vệ tinh, cho phép với tới hầu hết số dân 2 tỷ
Lê Thu Phương 23 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
người đang sống ở các vùng không có điện thoại trên toàn thế giới. Hệ thống
cáp ở các nước đã và đang chuyển thành hệ thống lưu thông Internet 2 chiều
(two-way internet traffic) dùng cáp quang, có hộp giải mã các âm thanh, mã
hình ảnh và dữ liệu truyền gửi dưới dạng số hoá. Các phương tiện liên lạc vô
tuyến cũng đều đang hội nhập vào Internet. Các tuyến cáp quang đang được
rải trên khắp các nước, các châu lục để liên kết tất cả các khí cụ điện tử vào
Internet, sẽ cho phép truy cập vào Internet nhanh gấp 10 lần so với mạng lưới
cáp điện thoại hiện nay. Theo ước tính của các chuyên gia Mỹ, Internet/Web
đang phát triển với tốc độ cứ 100 ngày thì tổng lượng thông tin qua “võng
mạng toàn cầu” lại tăng lên gấp đôi. Nhìn xa hơn, các nhà “tương lai học” đã
đưa ra dự báo rằng “kinh tế số hoá”, “xã hội số hoá” trên cơ sở công nghệ
điện tử với điện tử là vi tố cuối cùng sẽ sớm bị thay thế bởi công nghệ cao
hơn nữa là công nghệ lượng tử với vi tố là các hạt cơ bản.
Theo số liệu trung bình các nguồn, doanh số thương mại điện tử toàn thế
giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỷ USD, năm 1998 đạt 47 tỷ USD và năm 1999
đạt 95,5 tỷ USD. Theo IDC, ước tính doanh thu thương mại điện tử toàn cầu
sẽ tăng lên 1,3 nghìn tỷ USD vào năm 2003, còn công ty Marketing
“Forrester Research”lại dự đoán mức doanh thu sẽ lên tới 6,7 nghìn tỷ USD
vào năm 2004, tương đương 8,6% tổng doanh thu thương mại trên thế giới.
Trong đó, buôn bán giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua
trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) sẽ chiếm khoảng 50%, dịch vụ tài chính và các
dịch vụ khác khoảng 45%, dịch vụ bán lẻ khoảng 5%. Để công việc kinh
doanh có hiệu quả hơn, các công ty đang chuyển từ thương mại điện tử sang
kinh doanh điện tử, nối và gắn kết kinh doanh nội bộ với các nhà cung cấp và
khách hàng. Doanh thu do ứng dụng thương mại điện tử sẽ đạt mức lãi gộp
hàng năm trên 60% từ năm 1999 đến năm 2004. IDC dự báo doanh số của
thương mại điện tử và doanh thu từ việc ứng dụng các chiến lược Marketing
Lê Thu Phương 24 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
sẽ tăng từ 709 triệu USD trong năm 1999 lên tới 4,5 tỷ USD trong năm 2004.
Còng trong giai đoạn này, doanh thu từ bán hàng qua thương mại điện tử dự
kiến sẽ tăng từ 222 triệu USD lên tới 5 tỷ USD.
Như vậy, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin,
thương mại điện tử trên thế giới đang phát triển vô cùng mạnh mẽ và tạo ra
mét xu thế phát triển chung mà các nước đang hướng tới. Trong đó, không chỉ
các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc Liên
minh châu Âu mà cả các nước đang phát triển cũng đang nhanh chóng tham
gia vào thương mại điện tử. Sù phát triển của thương mại điện tử một mặt là
kết quả của xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình “số hoá” toàn bộ hoạt
động của con người, mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng
nước, từng nhóm nước và toàn thế giới nói chung, đặc biệt là trên bình diện
tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho kinh tế số hoá nói chung
và thương mại điện tử nói riêng.
Lê Thu Phương 25 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TRONG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Thương mại điện tử ở Việt Nam ngày càng được mọi người quan tâm
trong xu hướng chung của thế giới. Chính phủ Việt Nam đang có các nghiên
cứu để ứng dụng thương mại điện tử sao cho phù hợp với lợi Ých và điều kiện
của Việt Nam nhất.
Việt Nam đã đạt được thoả thuận về nguyên tắc chỉ đạo chung trong
ASEAN và chương trình hành động trong APEC về thương mại điện tử.
Chúng ta còng tham gia tiểu ban điều phối thương mại điện tử của ASEAN và
tham gia soạn thảo và thoả thuận các nguyên tắc chung cho thương mại điện
tử của tổ chức này. Thủ tướng chính phủ đã ký Hiệp định khung về e-ASEAN
ngày 24/11/2000, cam kết tham gia phát triển không gian điện tửvà thương
mại điện tử trong khuôn khổ các nước ASEAN.
Tuy nhiên, nếu so sánh với tốc độ phát triển thương mại điện tử của thế
giới thì chúng ta còn rất chậm và còn có nhiều vấn đề chưa được giải quyết
như: một kế hoạch tổng thể cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam, một cơ quan cấp chính phủ điều hành, hoạch định các chính sách phát
triển thương mại điện tử ở Việt Nam với một cơ sở hạ tầng phù hợp với xu
hướng toàn cầu hoá... Nhìn chung thương mại điện tử chưa thực sự hình thành
một cách đầy đủ ở Việt Nam.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét tổng quan việc áp dụng thương mại điện
tử ở Việt Nam qua một số vấn đề cơ bản bao gồm:
- Nhận thức về thương mại điện tử
Lê Thu Phương 26 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Hạ tầng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử
- Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và viễn thông
- Hạ tầng cơ sở nhân lực
- Thanh toán điện tử
- Bảo mật thông tin
- Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
1. Nhận thức về thương mại điện tử
Cuối năm 1999, Chính phủ đã giao cho Bộ thương mại chủ trì dự án kỹ
thuật thương mại điện tử. Dự án này được phân thành các tiểu dự án có các
nội dung và hoạt động chủ yếu về: Nâng cao nhận thức về thương mại điện
tử; Hạ tầng cơ sở pháp lý; Hạ tầng cơ sở công nghệ; Hạ tầng cơ sở bảo mật
thông tin; Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử; Hạ tầng cơ sở tiêu chuẩn hoá
công nghiệp và thương mại; Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; Bảo vệ người tiêu
dùng; An ninh quốc gia trong thương mại điện tử; Các khía cạnh văn hoá xã
hội; Quản lý nhà nước và vai trò của Chính phủ; Đào tạo kỹ năng và thử
nghiệm các dạng hoạt động của thương mại điện tử.
Chính phủ Canada đã giúp đỡ Bộ thương mại xây dựng kế hoạch khung
5 năm chấp nhận và ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam. Trong năm
2000, Chính phủ đã giao Bộ thương mại làm đầu mối đàm phán với các nước
ASEAN xây dựng Hiệp định khung e-ASEAN và Hiệp định này đã được lãnh
đạo cấp cao các nước ASEAN ký ngày 24/10/2000 tại Singapore. Trong báo
cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá X, phần nhiệm vụ của năm
2001 có ghi: “mở rộng mạng Internet ra thị trường thế giới, bước đầu nghiên
cứu ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch kinh doanh đối với một số
ngành hàng, công ty lớn...”
Ngày 17/10/2000, Bộ chính trị trung ương Đảng có chỉ thị số 58/CT-TW
về “Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp
Lê Thu Phương 27 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
Thực hiện chỉ thị 58-CT/TW, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số
128/2000/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 về “ Một số chính sách và biện pháp
khuyến khích đầu tư và phát triển công nghệ phần mềm”
Ngày 20/2/2001, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 19/2001/QĐ-
TTg bổ sung sản phẩm máy vi tính vào danh mục các sản phẩm trọng điểm.
Ngày 24/5/2001, TTCP đã có quyết định số 81/2001/QĐ-TTg về việc
phê duyệt chương trình hành động triển khai chỉ thị 58/CT-TW.
Văn kiện Đại hội Đảng IX (tháng 4/2001) đã nêu rõ cần phải phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các ngành thương mại, dịch vụ và kể cả thương
mại điện tử, đó chính là kim chỉ nam rất quan trọng mở đường và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy cho công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử
nói riêng phát triển ở nước ta trong thời gian tới.
Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản lý, cung cấp và sử
dụng dịch vụ Internet được coi là nghị định đem lại sức sống cho thị trường
Internet của Việt Nam, chính thức thay thế nghị định số 21/1997/NĐ-CP ngày
5/3/1997 của Chính phủ về “Quy chế tạm thời về thiết lập, quản lý và sử dụng
mạng Internet ở Việt Nam”.
Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 của TTCP đã phê duyệt
kế hoạch tổng thể về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam
đến năm 2005 đã xác định rất rõ mục tiêu phát triển của nền công nghệ thông
tin nước ta là sẽ có 5% dân số nước ta sử dụng Internet.
Như vậy, có thể thấy Chính phủ Việt Nam đã có sự quan tâm sâu sắc đến
việc phát triển ứng dụng thương mại điện tử và đã bắt đầu xây dựng những
chương trình cụ thể về phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử.
Tuy nhiên, về mặt xã hội, vẫn có rất nhiều người dân còn rất mơ hồ với
thương mại điện tử. Họ cho rằng thương mại điện tử phải là mua và bán thuần
Lê Thu Phương 28 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
tuý qua Internet. Ngoài ra, các hoạt động thông tin đại chúng cũng chưa phân
biệt rõ ràng khái niệm về thương mại điện tử, làm cho nhiều người theo dõi
hiểu là phải có cửa hàng ảo trên Internet, bán hàng và thu tiền điện tử thì mới
là thương mại điện tử...
Theo số liệu của VCCI, hiện nay cả nước có khoảng trên 90.000 doanh
nghiệp trong đó trên 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì mới chỉ có khoảng
trên 3000 doanh nghiệp (3%) có website riêng và thực hiện một số khâu của
thương mại điện tử, 7% bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin và kết nối
Internet, sử dụng phương thức giao dịch chủ yếu qua thư điện tử (trong khi sè
doanh nghiệp kết nối Internet là 48%). Thêm vào đó, mặc dù các doanh
nghiệp đã đầu tư cho công nghệ thông tin nhưng vẫn chưa quan tâm thật sự
đến việc xây dựng website cho mục đích quảng bá sản phẩm và tìm kiếm
khách hàng mới. Do vậy, việc nâng cao nhận thức cho quảng đại quần chúng
về thương mại điện tử sẽ hỗ trợ rất tốt cho quá trình phát triển các cơ sở hạ
tầng cần thiết cho thương mại điện tử. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả
trong tuyên bố của APEC trong chương trình hành động về thương mại điện
tử cũng nhấn mạnh vấn đề nâng cao nhận thức và coi đó là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
2. Hạ tầng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử
Các quyết định của TTCP số 280/QĐ-TTg ngày 29/4/1997 về việc xây
dựng mạng tin học diện rộng trong các văn phòng UBND và các bộ, ngành,
quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 5/3/1997 về việc thành lập ban điều phối
quốc gia mạng Internet..., là những cơ sở pháp lý ban đầu cho việc phát triển
hạ tầng cơ sở thông tin ở Việt Nam và tạo điều kiện cho thương mại điện tử
bước đầu phát triển tại Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên
Lê Thu Phương 29 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
vật mang tin như đĩa từ, băng từ hay các loại thẻ thanh toán để làm chứng từ
thanh toán và để thanh toán tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng (theo quyết
định số 196/QĐ-TTg ngày 1/4/1997 của TTCP) nhưng lại chưa đề cập đến
đối tượng tham gia thanh toán điện tử rất quan trọng là các doanh nghiệp.
Ngày 21/3/2002, TTCP có quyết định số 44/2002/QĐ-TTg thay thế cho quyết
định số 196 kể trên. Quyết định này đã quy định rõ việc sử dụng chứng từ
điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán phải được mã hoá bảo đảm an toàn trong quá
trình xử lý truyền tin và lưu trữ, riêng yếu tố chữ ký phải được mã hoá bằng
khoá mật mã (gọi là chữ ký điện tử). Luật Kế toán được thông qua tại kỳ họp
thứ ba Quốc hội khoá XI cũng thừa nhận chứng từ điện tử. Nhìn xa hơn, Luật
Thương mại có hiệu lực thi hành từ 1/1/1998 còng coi điện báo, telex, fax, thư
điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là hình thức văn bản của hợp
đồng mua bán hàng hoá. Tuy vậy, các doanh nghiệp vẫn chưa có đủ điều kiện
pháp lý để tham gia thanh toán điện tử bởi chưa hề có các quy định về việc sử
dụng khoá mật mã theo công nghệ nào, sử dụng ngay sản phẩm mã khoá
ngoại nhập hay đợi sản phẩm được phát triển trong nước.
Thêm vào đó, quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của
Bộ văn hoá thông tin về “Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin,
thành lập trang thông tin điện tử trên Internet” lại làm cho các doanh nghiệp
lo lắng hơn. Điều này là không hợp lý đối với các doanh nghiệp không làm
dịch vụ cung cấp thông tin trên Internet (ICP: Internet Content Provider) mà
chỉ xây dựng website trên Internet trong đó đăng tải các thông tin liên quan
đến sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hay một số thông tin khác
liên quan đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Nếu bất cứ một doanh
nghiệp nào khi muốn xây dựng website đều phải xin giấy phép của Bộ văn
hoá thông tin thì sẽ có nhiều doanh nghiệp ngần ngại và do đó sẽ gây ra một
Lê Thu Phương 30 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
trở lực lớn với các doanh nghiệp và cho chính sự phát triển của nền công nghệ
thông tin nước nhà.
Ngoài các văn bản pháp lý kể trên, thương mại điện tử Việt Nam vẫn còn
cần một khung pháp lý đầy đủ hơn nữa. Chính vì vậy, căn cứ Nghị quyết số
12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội
nhiệm kỳ năm 2002-2007 và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc giao
Bộ Thương mại làm đầu mối xây dựng Pháp lệnh Thương mại điện tử, tháng
3/2002 Bộ Thương mại đã ra quyết định thành lập Ban soạn thảo Dự án Pháp
lệnh Thương mại điện tử để xây dựng, từng bước hoàn chỉnh để trình quốc
hội phê duyệt văn bản pháp lý quan trọng này. Cho tới nay, dự thảo lần thứ 6
của Pháp lệnh Thương mại điện tử đã được hoàn thành và được Bộ Thương
mại trình lên Chính phủ. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ chính thức phê duyệt và
ban hành Pháp lệnh này vào quý I năm 2004.
3. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và viễn thông
3.1 Hạ tầng Internet và viễn thông
Thực trạng dịch vụ Internet và viễn thông ở Việt Nam
Bộ Bưu chính viễn thông đã thực thi các chính sách ủng hộ môi trường
cạnh tranh, tạo ra các điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế tham gia vào dịch
vụ Internet và viễn thông. Kết quả là trên thị trường có rất nhiều nhà cung cấp
được cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông (hiện tại có 6 doanh nghiệp
được phép cung cấp cơ sở hạ tầng mạng). Chỉ trong dịch vụ Internet, đến cuối
năm 2002 đã có 3 IXP, 13 ISP và 4 ISP dùng riêng được cấp phép cung cấp
các dịch vụ Internet và các ứng dụng (so với cuối năm 2000 chỉ có 1 IXP và 5
ISP). [IXP: Nhà cung cấp dịch vụ truy cập Internet; ISP: Nhà cung cấp dịch
vụ Internet]
Do đặc điểm địa lý kéo dài theo đường bờ biển và 3/4 lãnh thổ là đồi núi
Lê Thu Phương 31 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
nên dân cư Việt Nam phân bố khá phức tạp. 3/4 dân số (76,5%) sống ở nông
thôn, 1/4 còn lại sống ở các thành phố, trong đó thành phố Hồ Chí Minh là
nơi tập trung đông dân nhất với 5 triệu người dân, thủ đô Hà Nội 2,7 triệu, sau
đó đến Đà Nẵng. Đây là các trung tâm văn hoá thông tin của miền Nam, Bắc
và miền Trung Việt Nam nên các nơi này phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
trong việc phát triển toàn diện Internet. Do vậy, các ISP chủ yếu tập trung
khai thác thị trường tại các thành phố lớn.
Trong sè 13 ISP vào thời điểm này, chỉ có VDC là có khả năng cung cấp
dịch vụ trên toàn quốc, các ISP như FPT, NETNAM, SPT chỉ tập trung vào
phát triển dịch vụ tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng. 9 ISP còn lại, mặc dù đã được cấp phép nhưng vẫn chưa thực sự
cung cấp dịch vô.
VDC hiện tại đang chịu trách nhiệm về mạng xương sống của Việt Nam
và các cổng đi quốc tế. Các ISP như FPT, NETNAM chỉ cung cấp dịch vụ ở
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phí truy nhập Internet của 2 ISP này được
tính theo giá trong nước. SPT và VIETEL do mới được cấp phép cung cấp
dịch vụ nên thị phần còn thấp. VDC và FPT cũng là hai ISP lớn nhất Việt
Nam, chiếm khoảng 87% thị trường Internet Việt Nam trong đó VDC chiếm
khoảng 57% và FPT chiếm khoảng 30%.
Hình 1. Sự tăng trưởng của 4 ISP chính
VDC (VNPT), FPT, NETNAM, SPT
Lê Thu Phương 32 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/2003
Với nhiều phương thức truyền tin khác nhau, dịch vụ điện thoại đã được
đưa đến tất cả các quận huyện và 93,04% các xã phường trên toàn quốc (năm
2000 tỷ lệ này là 85,8%). Hiện nay, 8.356/8.981 phường xã trên toàn quốc đã
có điện thoại, đạt tỷ lệ 93,04%; ở các xã đặc biệt khó khăn là 1.728/2362, đạt
tỷ lệ 73,16%; 100% các xã ở đảo có điện thoại; 319 trong tổng số 401 xã vùng
biên đã có điện thoại, đạt tỷ lệ 79,55%... Tổng số điện thoại cố định ở khu vực
nông thôn là khoảng 1,8 triệu.
Hiện tại, ở cả 61 tỉnh thành trên cả nước, những người sử dụng điện
thoại cố định có thể truy cập gián tiếp Internet theo nhiều cách khác nhau như
Internet trả trước, Internet trả sau, VNN1268, VNN1269... và với dịch vụ
VNN999, người sử dụng còn có thể truy nhập Internet qua điện thoại di động.
Với sự ra đời của dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao qua cáp đồng sử
dụng công nghệ ADSL, ISDN, những người sử dụng (hiện nay chủ yếu là ở
các thành phố lớn) bắt đầu có thể truy nhập Internet tốc độ cao để sử dụng và
trao đổi các ứng dụng Internet cũng như công nghệ thông tin.
Bảng 1. Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet Việt Nam
so với thế giới
C
hỉ
tiê
u
so
sá nh
Vi
ệt
N Đ ôn g T hế gi
Đ iệ n th oạ i cố
đị 5 0 1 0 9 1 5 8
Đ iệ n th oạ i di
đ 1 9 7 0 8 6
S ố m áy
tí n h/ 1 1 1 2 1. 7 6 8. 4
T ỷ lệ
n g ư ời
tr 0. 2 4 1. 5 % 8 %
S ố m áy
ch ủ 1 7 2 5 1, 9 5 6 2,
Nguồn: VNPT 2002
Đến hết tháng 6/2003, Việt Nam có trên 460.000 thuê bao Internet, tỷ lệ
người sử dụng Internet đạt 2,38%. Mặc dù tỷ lệ này vẫn chưa đạt trung bình
thế giới nhưng, với kết quả này, Việt Nam đã được đánh giá là có tốc độ phát
triển viễn thông nhanh thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc.
Lê Thu Phương 33 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Việc giảm phí Internet và viễn thông
Từ năm 2001, Tổng cục Bưu chính viễn thông, nay là Bộ Bưu chính viễn
thông, đã thực thi hàng loạt chính sách nhằm từng bước giảm phí Internet và
viễn thông, đặc biệt là:
Trong suốt 2 năm 2001-2002, Tổng cục đã ban hành hai quyết định về
phí lắp đặt và thuê bao đường dây Internet trực tiếp, áp dụng cho các khu
công nghiệp phần mềm tập trung. Từ 1/1/2002, các loại phí kết nối Internet
trực tiếp trong đối với các khu công nghiệp phần mềm tập trung đã giảm đáng
kể so với trước. Tính trung bình, phí thuê đường dây giảm 30%, phí lắp đặt
giảm 50% và phí thuê bao cổng Internet trực tiếp giảm 39%. Có thể nói rằng
đây là một nỗ lực quan trọng của ngành Bưu chính trong việc thúc đẩy sự
phát triển của công nghiệp phần mềm nói riêng và công nghệ thông tin Việt
Nam nói chung.
Với mục tiêu phổ cập hoá Internet, các chính sách thúc đẩy cạnh tranh
cũng như các chính sách thích đáng về cước phí dịch vụ Internet đã được thực
hiện, trong hai năm 2001-2002, phí truy nhập Internet gián tiếp qua điện thoại
đã giảm khoảng 14%. Chính sách nhiều giá đã được thực thi, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà cung cấp có thể chủ động trong việc mở rộng các dịch
vụ Internet. Mức cước đầu năm 2003 dao động từ mức thấp nhất là 40
VND/phút đến mức cao nhất là 180 VND/ phót.
Thêm vào đó, trong hai năm liên tục 2001-2002, Tổng cục Bưu chính
viễn thông đã xây dựng lịch trình giảm giá và ban hành các quyết định về
giảm cước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông khác như phí thuê kênh
trong nước và quốc tế, phí dịch vụ Frame Relay và X25 cùng với cước dịch
vụ điện thoại quốc tế tiếp tục được cắt giảm.
Ngày 25/3/2003, Bộ Bưu chính viễn thông đã công bố mức giảm cước từ
Lê Thu Phương 34 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
10% đến 40% đối với 12 loại hình dịch vụ Internet và viễn thông. Các mức
cước mới này có hiệu lực từ 1/4/2003. Theo đó, cước viễn thông quốc tế trực
tiếp (IDD - International Direct Dial) giảm khoảng 32% và được chia theo 3
mức: mức 1 là 0,9 USD/phút, mức 2 là 1 USD/phút và mức 3 là 1,1
USD/phút. Trước đó cước được chia theo 4 mức tương ứng là 1,3 USD/phút,
1,4 USD/phút, 1,5 USD/phút và 1,7 USD/phút. Do vậy, việc giảm và điều
chỉnh cước viễn thông trực tiếp quốc tế IDD từ 4 mức xuống còn 3 mức giúp
các doanh nghiệp giảm được chi phí bằng cách chuyển từ mức cước cao
xuống mức cước thấp.
Cước thuê bao di động trả sau cũng giảm từ 150.000 VND xuống
120.000, cước cho mỗi phót đàm thoại cũng được chia làm hai mức: nội hạt là
1.800 VND/phút, liên tỉnh là 2.700 VND/phút. Cước di động trả trước trong
nội hạt cũng giảm từ 3.500 VND/phút xuống 3.300 VND/phút, cước liên tỉnh
giảm từ 5.000-6.500 VND/phút xuống 4.200 VND/phút. Cước thuê bao di
động theo ngày cũng giảm từ 3000 xuống còn 2.700 VND/ngày, cước gọi nội
hạt không đổi trong khi cước liên tỉnh giảm còn 3.100 VND/phút.
Cước điện thoại trong nước cho truy cập Internet giảm từ 120 VND/phút
xuống còn 40 VND/phút. Phí dịch vụ lắp đặt và thuê cổng Internet quốc tế
trực tiếp (IIG: International Internet Gateways) của các IXP cũng giảm trung
bình 20%. Phí dịch vụ lắp đặt và thuê cổng Internet quốc tế trực tiếp áp dụng
cho các khu công nghiệp tập trung cũng giảm 8-10% so với mức phí hiện tại,
trong đó mức phí áp dụng cho các khu công nghiệp phần mềm thấp hơn 25%
so với mức phí chung. Phí thuê các kênh viễn thông liên tỉnh cũng giảm 15%.
Đặc biệt, Bộ Bưu chính viễn thông đã ban hành một loạt các mức giá để các
doanh nghiệp có thể chủ động áp giá theo các mức đã được quy định.
Đối với các dịch vụ thuê các kênh viễn thông liên tỉnh trong nước áp
Lê Thu Phương 35 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) và các nhà cung cấp
dịch vụ Internet (ISP), mức phí cũng giảm trung bình 15%. Đối với dịch vụ
thuê kênh viễn thông quốc tế, mức phí giảm tới 40%. Mức phí dịch vụ kênh
viễn thông quốc tế áp dụng cho các IXP để kết nối Internet quốc tế giảm từ
20% đến 30%. Với các dịch vụ này, Bộ Bưu chính viễn thông đã đưa ra các
mức giá trần và giá sàn để tạo quyền quyết định mức giá cạnh tranh cho các
doanh nghiệp.
3.2 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam
Tổng doanh thu của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam năm 1997
là 150 triệu USD, năm 1998 là 180 triệu, năm 1999 là 195 triệu, năm 2000 là
235 triệu và năm 2001 là 300 triệu. Trong đó, phần cứng chiếm tới 80%, phần
mềm 8% và dịch vụ 12%. Năm 2002, tổng doanh thu đạt 340 triệu USD trong
đó doanh thu phần cứng đạt 280 triệu, phần mềm và dịch vụ 60 triệu.
Lê Thu Phương 36 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Hình 2. Sự tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam.
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/ 2003
Thị trường công nghệ thông tin thế giới phát triển chậm, trung bình
khoảng 2,5%/năm, tối đa là 6% trong khi thị trường công nghệ thông tin Việt
Nam sẽ tiếp tục duy trì tốc độ 20-25%. Trong nửa đầu năm 2003, thị trường
phần cứng, Internet và viễn thông phát triển sôi động nhất. Trong quý I, kim
ngạch nhập khẩu thiết bị tin học của Việt Nam đạt 105 triệu USD, tăng 78%
so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, điều bất hợp lý còn tồn tại là dịch vụ
phần mềm chỉ mới chiếm khoảng 20% tổng chi phí trong ngành công nghệ
thông tin, trong khi tỷ lệ này trên thế giới là 49%. Có hai nguyên nhân chính:
- Có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đầu tư vào công nghệ thông tin và
vào dịch vụ phần mềm, điều này dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp.
- Tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra nghiêm trọng.
Theo đánh giá của Business Software Alliance (BSA, www.bsa.org,
tháng 5/2002), tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm là 94%, điều này khiến
Việt Nam trở thành một trong số những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền cao
nhất.
Lê Thu Phương 37 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thị trường phần mềm Việt Nam
Tháng 5/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP
về việc thiết lập và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005
trong đó có nêu lên các điều kiện ưu đãi cũng như tiềm năng của ngành công
nghiệp này và đã xác định:
“... Phát triển ngành công nghiệp phần mềm trở thành một ngành mòi
nhọn của nền kinh tế, có mức tăng trưởng cao, góp phần vào sự phát triển và
hiện đại hoá của các ngành kinh tế xã hội, cải thiện năng lực quản lý của nhà
nước bảo đảm an ninh quốc gia...” và “... Phấn đấu đạt mức doanh thu khoảng
500 triệu USD vào năm 2005...”.
Để đạt mục tiêu trên, Chính phủ đã đưa ra quyết định số 128/2000/QĐ-
TTg ngày 20/11/2000 nêu ra một số chính sách và biện pháp để xúc tiến và
phát triển công nghiệp phần mềm. Trong quyết định này, một số biện pháp về
thuế được quy định như sau:
- Các doanh nghiệp được miễn thuế trong 4 năm đầu hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất và cung cấp dịch vụ phần mềm;
- Các doanh nghiệp được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia
tăng;
- Các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất phần mềm được
miễn thuế;
- Các doanh nghiệp được miễn thuế xuất khẩu các sản phẩm phần mềm;
- Thêm vào đó có rất nhiều chính sách ưu đãi về tín dụng, thuê và sử
dụng đất, bảo vệ bản quyền phần mềm, đào tạo nguồn nhân lực về phần mềm,
ưu đãi về cơ sở hạ tầng Internet và viễn thông v.v.
Các chính sách quan trọng này đã dẫn tới việc ra đời hàng loạt các công
Lê Thu Phương 38 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
ty phần mềm, đặc biệt là 50% trong tổng số các công ty phần mềm được
thành lập trong vòng hơn 2,5 năm trở lại đây.
Lê Thu Phương 39 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Hình 3. Biểu đồ gia tăng số các công ty sản xuất và dịch vụ phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/2003
Sè nhân viên làm việc trong lĩnh vực phần mềm cũng tăng lên nhanh
chóng. Hiện tại, tính trung bình, mỗi công ty có khoảng 20 người làm việc về
phần mềm. Tổng số người tham gia vào ngành công nghiệp phần mềm ở Việt
Nam hiện có khoảng 7.500 người.
Hình 4. Biểu đồ gia tăng số nhân sự làm phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003
Năng lực sản xuất phần mềm có nhiều biến động theo hướng tăng lên
nhưng mức tăng không cao. Năng suất của các công ty gia công phần mềm
cho nước ngoài có cao hơn, năm 2002 đạt khoảng 13.000 USD/người/năm,
Lê Thu Phương 40 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
tăng khoảng 18% so với năm 2000.
Lê Thu Phương 41 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Hình 5. Biểu đồ gia tăng năng suất làm phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003
Qua các số liệu trên, ta có thể thấy Nghị quyết 07 và Quyết định 128 đã
tao ra sự tăng trưởng ban đầu tốt đẹp trong doanh thu của ngành sản xuất và
cung cấp các dịch vụ phần mềm, dẫn tới việc gia tăng số người làm việc trong
lĩnh vực phần mềm. Trong hai năm 2000-2001, rất nhiều khu công nghiệp
phần mềm tập trung đã được thành lập như công viên phần mềm Quang
Trung, khu công nghiệp phần mềm Hải Phòng, khu công nghiệp phần mềm
Đà Nẵng... Các khu công nghiệp này đều được hưởng ưu đãi về thuế và
đường dây nối mạng Internet. Bên cạnh đó, rất nhiều công ty phần mềm đã
phát triển và được cấp chứng nhận chất lượng quốc tế.
Ngày 23/4/2003, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm, trong kỳ họp thứ ba
của Uỷ ban xúc tiến quốc gia về công nghệ thông tin, đã đưa Chương trình về
Phần mềm nguồn mở (OSS) vào Dự án quốc gia. Chương trình này đặt ra một
số mục tiêu chính rằng đến năm 2005 sẽ thiết lập hệ thống chuẩn về phát triển
và ứng dụng OSS, các hiệp hội và cộng đồng OSS sẽ được thành lập, OSS sẽ
được giới thiệu đưa vào chương trình giảng dạy của các trường trung học, cao
đẳng và đại học... Tổng đầu tư cho Chương trình OSS giai đoạn 2003-2007 là
312 tỷ VND, tương đương 20 triệu USD.
Lê Thu Phương 42 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thị trường phần cứng Việt Nam
Ngày 20/2/2001, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số
19/2001/QĐ-TTg về việc đưa sản phẩm máy vi tính vào danh mục sản phẩm
công nghiệp quan trọng. Sau đó, Bộ Công nghiệp đã ban hành Thông tư số
4/2001/TT-BCN ngày 6/6/2001 về việc hướng dẫn thi hành quyết định nói
trên.
Phần cứng chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng doanh thu của thị trường công
nghệ thông tin Việt Nam. Số lượng máy tính lắp ráp trong nước đang tăng
lên, năm 2001 chiếm khoảng 80% tổng số máy tính bán ra trên thị trường
(49.500 máy tính hoàn chỉnh và khoảng 242.000 màn hình được nhập khẩu).
Có thể ước tính số máy tính lắp ráp trong nước sẽ chiếm tỷ lệ tương đối ổn
định ở mức 75-80%.
Kim ngạch nhập khẩu có xu hướng giữ ở mức ổn định cho thấy máy tính
lắp ráp trong nước đã có những ảnh hưởng lớn đến thị trường công nghệ
thông tin Việt Nam (kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2002 là 118 triệu
USD, chỉ tăng 8% so với cùng kỳ năm trước). Nhiều thương hiệu máy tính
Việt Nam đã được chấp nhận trên thị trường như CMS, Mekong Green,
SingPC, VINACom, T&H, Robo...
Hệ điều hành Linux đã được xây dựng và cài đặt trong các máy tính do
CMS sản xuất, đã góp phần khẳng định chất lượng cũng như hướng đi trong
dài hạn đối với sự hiện diện của máy tính Việt Nam trên thị trường Việt Nam.
Khi luật về bản quyền phần mềm có hiệu lực và được thực thi một cách
nghiêm túc, việc sử dụng máy tính thương hiệu Việt Nam cùng với hệ điều
hành giá rẻ sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp
máy tính Việt Nam.
4. Hạ tầng cơ sở nhân lực
Cho tới năm 1980, lực lượng làm công nghệ thông tin (CNTT) ở nước ta
Lê Thu Phương 43 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
chủ yếu là các cán bộ thuộc các ngành toán, lý chuyển sang. Hiện nay trên
phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang hoạt động trong
lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về phần mềm tin
học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt
động trong lĩnh vực CNTT.
Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho
tới nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh
viên đều được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu tư
cho các khoa CNTT với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi
năm. Cho tới nay, trung bình mỗi năm có khoảng 3.500 người được đào tạo
cơ bản về tin học. Tuy nhiên, nếu tính bình quân đầu người so với Singapore
thì nước ta còn kém khoảng 50 lần. Hiện nay, chóng ta vẫn đang thiếu nhân
lực về CNTT, sè sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng nhu cầu của
các tổ chức và doanh nghiệp.
Hoạt động trong lĩnh vực CNTT đòi hỏi số lượng lớn chuyên gia thuộc
nhiều chuyên ngành khác nhau, do vậy việc đào tạo nguồn nhân lực cho
thương mại điện tử không chỉ giới hạn ở các khoa và bộ môn tin học của các
trường đại học và cao đẳng mà còn ở nhiều nơi và nguồn khác (toán, lý, xây
dựng, cơ khí, hoá, quản trị kinh doanh, y học, nông lâm ngư nghiệp, tài chính,
ngôn ngữ, địa lý...). Trong khi đó, nguồn nhân lực để tham gia vào phát triển
thương mại điện tử của nước ta rất lớn vì nước ta có lực lượng dồi dào sinh
viên tốt nghiệp hàng năm ở các chuyên ngành từ các trường đại học. Nếu đào
tạo thêm về CNTT và ngoại ngữ cho các đối tượng trên trong một thời gian
ngắn, chúng ta sẽ nhanh chóng có một số lượng lớn cán bộ chuyên môn có
trình độ đại học phục vụ cho thương mại điện tử. Thêm vào đó, lĩnh vực
thương mại điện tử cũng đòi hỏi một số lượng lớn các nhân viên kỹ thuật chỉ
Lê Thu Phương 44 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
cần được đào tạo qua hệ thống các trường cao đẳng và dạy nghề sẽ có khả
năng cung cấp thêm cho thương mại điện tử một số lượng lớn các cán bộ cao
đẳng, trung cấp và trung cấp kỹ thuật.
Lực lượng làm tin học ở nước ta có một số ưu điểm nổi bật sau:
- Nhiều người thông minh, sắc sảo và sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực
phần mềm ứng dụng;
- Có khả năng nhận biết và thích ứng nhanh nhạy với các xu hướng phát
triển mới của CNTT;
- Cần cù, chịu khó, có khả năng làm việc ngay cả trong những điều kiện
rất thiếu thốn, khó khăn, đặc biệt là có khả năng tự học để nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, đội ngò chuyên gia tin học của chúng ta cũng còn có những
nhược điểm:
- Có sự mất cân đối về số lượng chuyên gia giữa phần mềm và phần
cứng, nói cách khác là ta đang rất thiếu chuyên gia phần cứng. Các trường đại
học trong nước chủ yếu đào tạo cán bộ làm phần mềm, rất Ýt trường có đào
tạo chuyên gia phần cứng, nguyên nhân là do lĩnh vực phần cứng đòi hỏi hạ
tầng cơ sở mà ta chưa trang bị đủ, hơn nữa ta cũng thiếu giáo sư cho lĩnh vực
này.
- Trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt Nam chưa hoàn toàn đủ
năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng toàn cục với quy mô
lớn. Số chuyên gia tin học giỏi có trình độ tư vấn, thiết kế hệ thống lớn, cung
cấp các giải pháp tổng thể và quản lý dự án, xây dựng những cơ sở dữ liệu
ngành và quốc gia hiện nay còn thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở hạ tầng
CNTT toàn quốc vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thực sự vững chắc, nên chưa
có điều kiện thuận lợi cho tin học hệ thống được ứng dụng và phát triển ở
Lê Thu Phương 45 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Việt Nam.
- Lực lượng cán bộ tin học đào tạo từ các trường khá phong phú, nhưng
chưa tận dụng được. Một số người được nhận vào các cơ quan nhà nước
nhưng chủ yếu làm công việc sự vụ, một số làm việc cho các công ty nước
ngoài, liên doanh nhưng đa phần làm công tác tiếp thị,văn phòng, một số vào
các công ty chuyên doanh công nghệ tin học nhưng chủ yếu làm công việc
tiếp thị, một số khác tự đứng ra kinh doanh thiết bị phần cứng. Vì thế, lực
lượng đã qua đào tạo không thể tập hợp nhau lại trong các đề án lớn để phát
triển, mà ngược lại, kiến thức có thể dần kém đi và đến một lúc nào đó các
kiến thức này có nguy cơ không dùng được nữa, gây nên một sự lãng phí rất
lớn cho xã hội.
Theo Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và Công nghệ thông tin,
mục tiêu cần đạt được đối với nguồn nhân lực cho CNTT nói chung và
Thương mại điện tử nói riêng ở Việt Nam là đến năm 2005 sẽ đào tạo thêm
50.000 chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau đạt mức trung bình
trong khu vực, năm 2010 sẽ nâng số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân
lực lên mức trung bình khá và năm 2020 sẽ ở trình độ tiên tiến.
Để đạt được mục tiêu đó, cần xã hội hoá công tác đào tạo nguồn nhân
lực, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, khuyến khích đào tạo theo định hướng
yêu cầu, đổi mới nội dung chương trình, giáo trình đào tạo, dạy tiếng Anh và
thí điểm chương trình dạy chuyên ngành CNTT bằng tiếng Anh, tạo điều kiện
thu hót người nước ngoài và Việt kiều mang tri thức, công nghệ và đầu tư tích
cực đóng góp vào việc phát triển nguồn nhân lực cho CNTT ở Việt Nam.
5. Thanh toán điện tử
Việc giao dịch qua ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh tế trong quá
trình hội nhập kinh tế toàn cầu và tham gia vào sự phân công quốc tế ngày
Lê Thu Phương 46 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
càng gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng các loại hình sản phẩm
dịch vụ, đáp ứng cả nhu cầu rút ngắn về thời gian, không gian...
Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang nỗ lực triển khai các dịch
vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm
tự động hoá việc xử lý giao dịch, đa dạng hoá sản phẩm. Phát triển kênh phân
phối điện tử... nhằm giữ được thị phần, hiệu quả kinh doanh và vị thế cạnh
tranh cao khi thị trường ngân hàng hoàn toàn mở cửa, các ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam được hoạt động hoàn toàn bình đẳng như các ngân hàng
trong nước.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc
doanh đều đã có hệ thống thanh toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu
thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống
bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các
ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh toán SWIFT. Cụ thể là, ngân hàng
ngoại thương đã có hệ thống bán lẻ SilverLake, hệ thống quản lý thẻ ATM và
tham gia mạng SWIFT; ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có hệ thống
thanh toán tập trung BCS, hệ thống giao dịch trên mạng IBS và dịch vụ Home
Banking; ngân hàng công thương Việt Nam đã có trương trình thanh toán
điện tử trực tuyến triển khai tại toàn bộ 98 chi nhánh trên cả nước, đồng thời
ngân hàng cũng sẵn sàng thanh toán các loại thẻ tín dụng của hai tổ chức là
Visa và Master.
Đáng chó ý hơn cả là Ngân hàng Á châu ACB đã triển khai hệ thống
quản trị ngân hàng bán lẻ mới TCBS trong trong toàn hệ thống, làm nền tảng
cho việc phát triển ngân hàng điện tử Á châu (ACB E.Banking). Sau ba năm
chuẩn bị, sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử đã chính thức hoạt động vào
đầu năm 2003 với tổ hợp các kênh phân phối bằng điện tử với những sản
Lê Thu Phương 47 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
phẩm dịch vụ ngân hàng của ACB dành cho khách hàng như Banking, Home
Banking, Phone Banking, Mobile Banking, thẻ thanh toán. Đặc biệt dịch vụ
Home Banking giúp khách hàng trên mạng kết nối tại văn phòng, tại nhà
riêng. ACB E.Banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến
khách hàng thông qua điện thoại cố định, điện thoại di dộng, máy tính, POS,
Internet, Intranet, Wap... dịch vụ có thể thực hiện 24 giê trong ngày và 7 ngày
trong tuần. Hiện nay ACB đang cung cấp dịch vụ E.Banking hoàn toàn miễn
phí. Đặc biệt, dịch vụ Home Banking do ACB cung cấp được bảo đảm an
toàn nhờ hệ thống mã khoá bảo mật chữ ký điện tử của khách hàng (CA) do
đơn vị thứ ba cung cấp (VASC). Công nghệ CA được các tổ chức tài chính
quốc tế như Swift, Visa, Master... công nhận và sử dụng trong việc thanh toán
điện tử. Các khách hàng sẽ được sử dụng tám dịch vụ chính như: Kiểm tra số
dư tài khoản; Mua sắm hàng hoá không dùng tiền mặt (bằng dịch vụ Mobile
Banking và thẻ ACB); Chuyển tiền giữa các tài khoản với nhau; Yêu cầu báo
cáo về tình hình giao dịch tài khoản; Thanh toán các hoá đơn tiền điện thoại,
nước...; Rút tiền từ tài khoản khi đang ở nước ngoài; Kiểm tra tỷ giá hối đoái,
giá chứng khoán và hỏi thông tin về các tài khoản và dịch vụ ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng chúng ta đã có một số cơ sở ban đầu phục vụ
cho việc thanh toán điện tử thông qua các ngân hàng của Việt Nam. Tuy
nhiên, việc thanh toán điện tử vẫn còn tương đối mới mẻ đối với các doanh
nghiệp, đa số các doanh nghiệp vẫn chưa thể cho phép khách hàng thanh toán
trực tuyến tại website của mình thông qua các dịch vụ của ngân hàng. Đây
cũng chính là một thách thức cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam trong thời gian tới.
6. Bảo mật thông tin
Internet là liên mạng toàn cầu với rất nhiều người, tổ chức tự nguyện
tham gia và có thể tiếp cận tự do tới các đầu mối nối mạng khác trong hệ
Lê Thu Phương 48 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
thống. Đây là mạng trao đổi thông tin điện tử lớn nhất từ trước tới nay có quy
mô toàn cầu. Do vậy, kẻ gian có thể dễ dàng lợi dụng mạng Internet để lấy
cắp, thay đổi hoặc phá huỷ thông tin từ các kho dữ liệu. Chúng cũng có thể tự
do truy cập tới các đầu mối nối mạng để thực hiện các hành vi phá hoại khác
như: làm sai lệch cấu hình máy tính, làm treo máy chủ, làm tê liệt sự hoạt
động của mạng... Những tên tội phạm máy tính như vậy gọi là tin tặc
(hacker). Những kẻ này thường tìm mọi biện pháp đột nhập vào các kho dữ
liệu bí mật của các cơ quan chính phủ, an ninh, quốc phòng, cơ quan ngiên
cứu khoa học, các ngân hàng, các hãng kinh doanh và cả các thông tin của các
cá nhân.
Hiện nay, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho thông tin điện tử ở Việt
Nam được thực hiện như sau:
Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các cơ quan của Chính
phủ (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao...), từ lâu nhà nước đã có các quy
định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phù hợp để đảm bảo an ninh, an toàn
cho loại thông tin này. Ngành cơ yếu Việt Nam đứng đầu là Ban cơ yếu
Chính phủ là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo mật, bảo đảm an toàn
cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.
Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực kinh tế xã hội, việc bảo
đảm an ninh, an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi Việt Nam chính thức tham gia
mạng Internet, nhà nước đã thành lập một cơ quan liên ngành Bưu chính viễn
thông và Công an để quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số
văn bản quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, hạ tầng
cơ sở bảo mật thông tin cho thương mại điện tử hiện vẫn chưa hình thành đầy
đủ ở Việt Nam, chóng ta còn phải xem xét một loạt các vấn đề như:
- An toàn thông tin trong hệ thống thương mại điện tử;
- Yêu cầu bảo mật cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử;
Lê Thu Phương 49 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Vấn đề sử dụng mật mã để bảo mật thông tin trong hệ thống thương
mại điện tử;
- Các giải pháp bảo mật thông tin.
7. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Sù quan tâm của nhà nước đối với vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ đã được
thể hiện trong hệ thống luật pháp nước ta thông qua các điều luật, điều khoản
cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự,
Nghị định 63/CP về sở hữu công nghiệp, Nghị định 76/CP về quyền tác giả...
Trong các văn bản này đã quy định rõ các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo
hộ bao gồm: quyền tác giả; sáng chế; giải pháp hữu Ých; nhãn hiệu hàng
hoá; kiểu dáng công nghiệp; tên gọi xuất xứ hàng hoá; chỉ dẫn địa lý; bí mật
kinh doanh; tên thương mại và chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến sở hữu công nghiệp.
Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn gặp nhiều
khó khăn. Nạn hàng giả, sao chép trái phép băng đĩa, các chương trình phần
mềm có bản quyền... vẫn đang diễn ra hàng ngày với quy mô và mức độ ngày
càng trầm trọng và tinh vi hơn. Khi thương mại điện tử phát triển, việc thực
thi quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường Internet càng khó khăn hơn bởi các
sản phẩm và dịch vụ số hoá truyền gửi trên Internet có thể bị sao chép một
cách dễ dàng. Do vậy, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần phải dùa vào nỗ
lực của bản thân các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp trước hết phải
tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, quan tâm tìm hiểu các điều khoản liên quan
đến sở hữu trí tuệ trong các văn bản pháp luật của nhà nước, các công ước
quốc tế, các hiệp định thương mại song phương và đa phương để nghiêm túc
thực hiện, tránh bớt các rắc rối khi làm việc với các đối tác trong nước và
nước ngoài. Các doanh nghiệp cũng phải tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
mình bằng cách nhanh chóng đăng ký bảo hộ cho sản phẩm của mình để có
Lê Thu Phương 50 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
thể được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp.
II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90/2000/NĐ-
CP là: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc
lập, đã đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành, có vốn không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Với
tiêu chí này, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước
thuộc loại có quy mô vừa và nhỏ, chỉ trừ 20% doanh nghiệp nhà nước có quy
mô lớn là các tổng công ty và một số doanh nghiệp nhà nước thuộc loại lớn,
còn trong khu vực tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 97% xét
về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước.
Với tỷ lệ lớn như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ này là một trong những
nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế và là
nơi tạo ra việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao động ở cả nông thôn
và thành thị nước ta. (Một cuộc điều tra gần đây do Bộ thương mại thực hiện
cho thấy mỗi năm có khoảng 14.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, tạo ra
khoảng 1.200.000 việc làm).
Thực tiễn quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng
như một số nước khác trên thế giới đã cho thấy vai trò quan trọng của nó
trong nền kinh tế thể hiện ở một số lĩnh vực như: tạo công ăn việc làm mới,
phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ đối với các ngành công nghiệp mòi
nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số ngành khác, góp phần cải thiện cán
cân thanh toán nhờ việc tăng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm và thay thế hàng
Lê Thu Phương 51 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
hoá nhập khẩu bằng hàng hoá sản xuất trong nước. Mặt khác, việc xoá đói
giảm nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghệp - nông thôn, giảm sự
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đóng góp của doanh
nghiệp vừa và nhá.
Từ bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong quá trình công ngiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập với nền kinh tế thế giới, xem xét đến đặc điểm của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, chóng ta có thể thấy doanh ngiệp vừa và
nhỏ Việt Nam có những cơ hội và điểm mạnh sau:
- Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới ngày một tăng nhanh,
Việt Nam đã tham gia vào nhiều liên kết kinh tế quốc tế, do vậy, thị trường
ngày càng được mở rộng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam;
- Chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ đã tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình thâm
nhập thị trường thế giới;
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính linh hoạt cao nên dễ thích ứng
với sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời có thể tiếp thu những kinh
nghiệm quản lý tiên tiến và ứng dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ trên thế giới một cách có hiệu quả;
- Nhu cầu sử dụng đất thấp cộng với sự phân bổ đồng đều trên khắp cả
nước cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác tốt những lợi thế so
sánh của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có không Ýt
những thách thức và điểm yếu, đó là:
- Do chính sách mở cửa của Việt Nam cho phép tự do cạnh tranh nên các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đang phải chịu sức Ðp cạnh tranh ngày
càng gay gắt từ phía hàng hoá nhập ngoại;
Lê Thu Phương 52 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn thấp do
công nghệ còn lạc hậu, mẫu mã chưa đa dạng, chất lượng sản phẩm chưa
đồng đều. Các doanh nghiệp này vốn có khả năng tài chính thấp lại gặp nhiều
khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn huy động vốn để đổi mới công nghệ;
- Do quy mô doanh nghiệp là vừa và nhỏ nên việc sản xuất cũng diễn ra
đơn lẻ, phân tán, quy mô nhỏ, từ đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có khả
năng đáp ứng những đơn hàng lớn, đặc biệt là của thị trường EU và Mỹ;
- Thiếu thông tin cũng là một hạn chế rất lớn đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ hiện nay, nhiều doanh nghiệp vì thiếu thông tin về thị trường thế
giới mà đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, việc thiếu thông tin về công nghệ
dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp nhập khẩu phải những thiết bị công nghệ lạc
hậu, làm cho chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp nên sức cạnh
tranh của hàng hoá kém;
- Ngoài ra, một vấn đề khó khăn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam hiện nay đang phải đối phó là vấn đề bản quyền hàng hoá Việt Nam trên
thị trường quốc tế đang bị xâm phạm ngày càng nhiều.
2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam
Với xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng tiến tới nền kinh tế số
hoá và khởi đầu là phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, với tỷ lệ lớn và tầm quan trọng không nhỏ trong nền kinh tế rất cần tham
gia vào xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đó là tham gia vào
thương mại điện tử. Điều này càng có ý nghĩa lớn hơn đối với các doanh
nghiệp này khi bước vào kỷ nguyên thông tin bởi thông tin, thứ mà nhiều
doanh nghiệp đang thiếu, có vai trò quyết định đối với sự thành bại của doanh
nghiệp trong môi trường kinh doanh với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay. Trong khi đó, sử dụng Internet và tiếp đó là tham gia vào thương
Lê Thu Phương 53 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
mại điện tử là một cách hữu hiệu để doanh nghiệp khắc phục khó khăn này.
2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thương mại điện tử
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiểu
biết về thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp và không
đồng đều. Câu trả lời của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi được hỏi
về thương mại điện tử là “Website chỉ để cho có, như mở thêm một phòng
trưng bày sản phẩm mà không cần có người trông coi, chứ chẳng Ých lợi gì
nhiều cho chuyện làm ăn” hay “Công ty còn nhỏ nên chưa tính đến chuyện
mở website”. Cũng vì thế mà điều tra của Bộ Thương mại cho kết quả là chỉ
có khoảng 3% doanh nghiệp có sử dụng thương mại điện tử, 7% đang có ý
định ứng dụng Internet vào kinh doanh và có đến 90% doanh nghiệp vừa và
nhỏ chưa quan tâm hoặc rất mơ hồ về chuyện làm ăn qua Internet.
Cũng vì nhận thức về thương mại điện tử còn thấp nên rất Ýt doanh
nghiệp biết cách tìm thông tin và đối tác trên Internet thông qua các trang web
thương mại điện tử. Thậm chí rất Ýt doanh nghiệp quảng cáo, marketing và
cuối cùng là bán sản phẩm trực tuyến. Các doanh nghiệp đã có kết nối
Internet, có trang web riêng và sử dụng Internet cho công việc kinh doanh chủ
yếu tập trung ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là những
nơi mà hạ tầng kinh tế xã hội và Internet tương đối phát triển. Còn các doanh
nghiệp ở các địa phương, do điều kiện hạ tầng còn nhiều hạn chế nên nhiều
doanh nghiệp còn rất mơ hồ với Internet và việc ứng dụng Internet cho công
việc kinh doanh.
Tuy nhiên, quan điểm về ứng dụng Internet và thương mại điện tử của
các doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Mỗi doanh nghiệp đều có lý do riêng
của mình để tham gia hay chưa tham gia thương mại điện tử. Có ý kiến cho
rằng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay, Internet rất thuận
lợi cho việc trao đổi thông tin, tìm kiếm khách hàng nhưng việc ứng dụng
Lê Thu Phương 54 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Internet mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm thông tin chứ chưa thực hiện đầy đủ
các chức năng của thương mại điện tử. Ý kiến khác cho rằng thương mại điện
tử chưa tạo ra được hiệu quả thực sự, các website trong nước chưa tạo ra tính
thương mại hoá cao, e-mail gửi đến các đối tác chưa mang tính pháp lý còn
đường truyền Internet còn chậm và gặp nhiều cản trở. Nhiều doanh nghiệp
còn rất e ngại đối với thương mại điện tử với lý do khung pháp lý của nước ta
còn thiếu nhiều điều luật để phân xử những hợp đồng làm ăn qua mạng nếu
xảy ra tranh chấp, hàng hóa của chúng ta đưa lên giới thiệu trên mạng chưa
nhiều trong khi chi phí viễn thông vẫn còn đắt đối với nhiều doanh nghiệp,
ngoài ra, không thể không tính tới lý do khi tham gia thương mại điện tử thì
tất yếu doanh nghiệp sẽ phải thay đổi cơ bản phương thức quản trị doanh
nghiệp, quản lý nguồn cung cấp, chăm sóc và phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, có một điều kiện thuận lợi để nâng cao nhận thức của các
doanh nghiệp về thương mại điện tử, đó là mức độ hiểu biết tỷ lệ sử dụng
Internet ở các doanh nghiệp đang tăng lên. Theo kết quả cuộc khảo sát của Sở
Khoa học công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tất cả những người được
phỏng vấn ở các doanh nghiệp đều có hiểu biết về Internet ở một mức độ nào
đó, 97% số nhân viên doanh nghiệp đã và đang sử dụng Internet, mặc dù
trong đó 43% sử dụng cho mục đích giải trí và mới chỉ có 20% sử dụng cho
mục đích kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy, với một nền tảng nhận thức về thương mại điện tử
còn thấp, tất yếu việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam cũng chỉ mới đang ở giai đoạn khởi đầu, mang tính chất
thử nghiệm ở một số doanh nghiệp chứ chưa thể mang tính chất rộng rãi trong
toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay.
2.2 Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và
nhá
Lê Thu Phương 55 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố
vào tháng 4/2003, cả nước có khoảng 90.000 doanh nghiệp trong đó có tới
93% là doanh nghiệp vừa và nhỏ (cả khu vực nhà nước và tư nhân) nhưng chỉ
có 30% các doanh nghiệp kết nối Internet thường xuyên và dưới 10% doanh
nghiệp có trang web riêng để giới thiệu về các sản phẩm, dịch vụ và hoạt
động của mình. Tại Việt Nam, mức độ xâm nhập của công nghệ thông tin và
viễn thông vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn thấp. Chỉ có 25% số
máy tính ở Việt Nam được báo cáo là thuộc về khu vực tư nhân và một số Ýt
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khoảng 48% các doanh nghiệp có khả năng
truy nhập Internet chỉ sử dụng Internet để gửi thư điện tử mà chưa sử dụng
Internet như một phương tiện kinh doanh hiệu quả.
Theo nghiên cứu của Bộ Thương mại, trong các giao dịch thương mại
điện tử hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 33,1% sè doanh nghiệp
tham gia. Tuy nhiên, trong đó có tới 54,9% doanh nghiệp chưa thành công,
58% gặp khó khăn về thiết bị và 37% chưa đủ nhân lực đạt trình độ tương
ứng và trên 90% chưa tiến hành thanh toán qua ngân hàng.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã ứng dụng thương mại điện tử
bao gồm các doanh nghiệp thuộc nhiều nhóm ngành bao gồm các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, một số doanh nghiệp dệt may, doanh
nghiệp kinh doanh máy tính và các dịch vụ về công nghệ thông tin, các doanh
nghiệp sản xuất các hàng tiêu dùng khác và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
tổng hợp. Tuy nhiên, xét về tỷ trọng thì các doanh nghiệp ứng dụng thương
mại điện tử chủ yếu tập trung ở ngành hàng thủ công mỹ nghệ và các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch, trong đó bao gồm cả kinh doanh nhà hàng,
khách sạn. Với mục tiêu quảng bá sản tên tuổi doanh nghiệp, sản phẩm và
dịch vụ tới các khách hàng nước ngoài, các doanh nghiệp thuộc hai lĩnh vực
Lê Thu Phương 56 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
này là những doanh nghiệp đi đầu trong việc lập website và cho tới nay, các
doanh nghiệp thuộc hai lĩnh vực này đã chiếm tới trên 60% tổng số website
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hình thức áp dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhá
Mức độ ứng dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp cũng khác
nhau, tuy nhiên, do điều kiện còn hạn chế, hầu như chưa có doanh nghiệp nào
ứng dụng thương mại điện tử ở mức hoàn chỉnh. Được sử dụng nhiều nhất và
có hiệu quả nhất trong các giao dịch tiếp thị bán sản phẩm của các doanh
nghiệp là dịch vụ thư điện tử bởi sự nhanh chóng, thuận tiện và chi phí thấp.
Hiện nay, sè doanh nghiệp có website và sử dụng website để giao dịch còn rất
thấp nhưng rất nhiều doanh nghiệp có điều kiện kết nối Internet đã có địa chỉ
e-mail và sử dụng hình thức giao dịch này bởi thời gian giao dịch đã được rút
ngắn nhiều so với cách gửi thư truyền thống, ví dụ như để gửi ảnh mẫu cho
khách hàng trước đây phải mất 3-4 ngày thì hiện nay, nhờ nối mạng và gửi
qua thư điện tử, công việc trên chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 10 phót.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử ở các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng thể hiện một phần ở việc sử dụng các phần mềm như
tin học văn phòng, quản lý kế toán thay cho việc sử dụng sổ sách như trước
đây. Với các ứng dụng này, các doanh nghiệp quản lý danh mục hàng hoá,
khách hàng cũng như thống kê các giao dịch một cách chính xác và nhanh
chóng hơn hẳn cách làm truyền thống trên sổ sách giấy tờ. Các ứng dụng tin
học này hiện nay được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các doanh nghiệp có
trang bị máy tính (trên 50% sè doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Hình thức giao dịch được coi là hiện đại và đặc trưng cho thương mại
điện tử là giao dịch qua website đã bắt đầu được một số doanh nghiệp áp
dụng mặc dù mới chỉ ở giai đoạn sơ khai. Con số dưới 10% doanh nghiệp vừa
Lê Thu Phương 57 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
và nhỏ có trang web cho thấy sự quan tâm của các doanh nghiệp đối với hình
thức giao dịch này chưa cao. Tuy nhiên, trong số đó một số doanh nghiệp đã
thừa nhận có thành công nhất định trong việc khai thác khách hàng qua trang
web mặc dù việc giao dịch thương mại qua website ở các doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ “tiền thương mại điện tử”
tức là có rao bán chào hàng trên website còn việc giao hàng vẫn thực hiện
bằng nhân công. Trên thực tế, số doanh nghiệp khai thác hiệu quả trang web
còn rất Ýt, chỉ khoảng 20% doanh nghiệp lập website đã có khách hàng từ
trang web, còn đa số các trang web sau thời gian đầu mới thành lập được đầu
tư khá công phu, cập nhật thông tin thường xuyên đã trở nên trì trệ do không
được quan tâm đúng mức và không đạt hiệu quả như mong muốn.
Hiện nay, bên cạnh việc lập website riêng với tổng chi phí ban đầu và chi
phí duy trì tương đối tốn kém mà không phải một doanh nghiệp vừa và nhỏ
nào cũng có điều kiện thực hiện, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có một
hình thức quảng bá khác là tham gia sàn giao dịch điện tử hay nói cách khác,
các doanh nghiệp cùng tham gia vào một website chung. Tại website này,
khách hàng khi truy cập có thể xem nhiều mặt hàng của nhiều doanh nghiệp
khác nhau cùng trưng bày trên sàn giao dịch và có thể chọn mua nhiều mặt
hàng cùng lúc mà không phải truy cập website của từng doanh nghiệp. Ở Việt
Nam, hiện đã có một số sàn giao dịch thương mại điện tử được thiết lập cho
các doanh nghiệp trong nước như VNEMART (www.vnemart.com.vn), dù án
do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Công ty điện
toán và truyền số liệu (VDC) và Ngân hàng công thương Việt Nam (ICB)
phối hợp triển khai phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu và chợ điện tử
VNET E-Market (www.vnet.com.vn) do công ty cổ phần VNET xây dựng
phục vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh trong nước. Trong số các doanh
nghiệp đăng ký tham gia các sàn giao dịch này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Lê Thu Phương 58 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
cũng được ưu tiên gia nhập vì đây là đối tượng doanh nghiệp cần nhiều sự trợ
giúp trong vấn đề quảng bá. Tuy nhiên, các sàn giao dịch mày mới được
thành lập và đưa vào hoạt động trong hơn nửa năm nay nên số lượng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tham gia hình thức này còn hạn chế.
Ngoài ra, còn một thực tế phải kể đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam chỉ mới ứng dụng thương mại điện tử với hình thức thương mại
B2C (doanh nghiệp - người tiêu dùng) chứ chưa áp dụng cho hình thức B2B
(doanh nghiệp - doanh nghiệp) trong khi xu hướng chung trên thế giới hình
thức B2B chiếm tới 80% giao dịch thương mại điện tử. Tuy vậy, điều này
cũng là hợp lý đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi với quy mô nhỏ, các
doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong ngành kinh doanh bán lẻ và phục
vụ trực tiếp người tiêu dùng. Tuy vậy, phát triển thương mại điện tử B2B là
một hướng đi mà các doanh nghiệp nên hướng tới bởi giao dịch B2B đem lại
cho doanh nghiệp quy mô giao dịch lớn hơn cũng như lượng khách hàng ổn
định hơn, bảo đảm cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
2.3 Kết quả ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam
Kể từ khi Internet phát triển ở Việt Nam, trong số các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đã có nhiều doanh nghiệp chú ý đến việc quảng bá tên tuổi của mình
trên Internet. Sè trang web của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không
ngừng tăng lên. Thực tế là một số trang web đã và đang đem lại cơ hội làm
ăn, hợp đồng buôn bán và tiện Ých trong giao dịch cho một số doanh nghiệp.
Trong đó, theo các doanh nghiệp này, lợi Ých lớn nhất mà họ thu được là nhờ
có Internet, họ có thể giới thiệu các thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm
của mình đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn cả, do
đó đã thu hót được một số khách hàng đến với doanh nghiệp nhờ thông tin
Lê Thu Phương 59 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
trên các trang web. Điều này được thể hiện qua nhận xét của bản thân các
doanh nghiệp về hiệu quả sử dụng trang web của mình, một số ví dụ tiêu biểu
có thể kể đến là:
Công ty TNHH Sản xuất - Xuất nhập khẩu Phát Thành (Fataco), sau nửa
năm khai trương website đã có hợp đồng đầu tiên trị giá 100.000 USD bán
sản phẩm Melamin cho một đối tác Hà Lan. Những vị khách này nói rằng sở
dĩ họ biết Fataco và sản phẩm này là nhờ đọc thông tin trên Internet.
Với website www.hoanglong.com của Hoàng Long Computer, nhờ việc
cập nhật thường xuyên giá cả, sản phẩm mới, ngay từ những ngày đầu khai
trương trang web đã có những khách hàng từ Đà Lạt, Vĩnh Long đến mua
hàng sau khi tham quan trang web và hiện nay mỗi ngày có khoảng 100 người
truy cập vào trang web và qua đó khoảng 50 thư điện tử được gửi đến hàng
ngày trong đó phần nhiều là thư điện tử giao dịch, mua bán. Chủ doanh
nghiệp này nhận định “Không thể biết chắc những khách hàng nào đến cửa
hàng của mình sau khi đã xem trên mạng, nhưng rõ ràng là lượng khách có
tăng”.
Tương tự, chủ doanh nghiệp sản xuất võng xếp Duy Lợi cũng tin chắc là
trang web rất hữu Ých cho việc quảng bá sản phẩm. Trang web của Duy Lợi
rất chi tiết về các loại võng và giá từng loại, nhờ đó đã có những người khách
nước ngoài đầu tiên đến mua vâng.
Ở lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, chủ nhân của cơ sở thêu may Cẩm Tó, với
tham vọng “qua trang web giới thiệu cho nhiều người đến với một nghề
truyền thống độc đáo của Việt Nam”, đã nhận xét “Trang web tá ra có hiệu
quả khi giới thiệu sản phẩm, nhất là nhiều người nước ngoài yêu mến văn hóa
truyền thống của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủ công mỹ nghệ”. Trên
website của Cẩm Tó, khách được hướng dẫn đến mua hàng tại ba địa điểm ở
Lê Thu Phương 60 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Mỹ, một địa chỉ khác ở Pháp, địa chỉ nào cũng kèm theo thư điện tử.
Mặc dù đây mới chỉ là những website “tiền thương mại điện tử”, tức là
có rao bán chào hàng trên website nhưng giao hàng bằng nhân công, những
website này cũng đang chứng tỏ hiệu quả của nó qua giao dịch nửa điện tử
nửa nhân công và là một dấu hiệu khả quan cho triển vọng phát triển thương
mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp thu được kết quả khả quan như những doanh
nghiệp trên chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ tham
gia thương mại điện tử ở Việt Nam. Theo ước tính chỉ khoảng 20% doanh
nghiệp có khách hàng tìm đến nhờ trang web, còn lại đa số chưa thấy được
kết quả thực tế nào sau khi đã đầu tư xây dựng trang web. Như vậy, trang web
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay mới chỉ thực hiện chức năng của
một phương tiện quảng cáo và cho kết quả ở một số Ýt doanh nghiệp còn
chức năng giao dịch mua bán trực tuyến với khách hàng còn chưa thể thực
hiện được đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hiện nay. Điều đó
cho thấy việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế mà các doanh nghiệp cần tìm cách khắc
phục để tiến tới việc ứng dụng thương mại điện tử một cách toàn diện và hiệu
quả hơn trong tương lai.
3. Một số hạn chế trong việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Hạn chế đầu tiên trong việc ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là nhiều website của các doanh nghiệp đã không đem lại
hiệu quả như người ta mong đợi khi đầu tư thành lập trang web. Cụ thể là
lượng khách hàng đến với doanh nghiệp nhờ truy cập trang web không nhiều.
Theo các doanh nghiệp, để lập một trang web không khó, chỉ cần 400-500
USD, nhưng cái khó là làm sao cho người khác biết đến trang web và tìm đọc
Lê Thu Phương 61 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
chúng. Hiện nay, tình trạng thiếu thông tin cho người dùng Internet khiến các
website dễ rơi vào quên lãng đang phổ biến với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam. Tình trạng chung là nhiều trang web đã được thành lập từ lâu
nhưng số người truy cập chẳng là bao và số khách hàng doanh nghiệp có được
từ trang web lại càng hiếm hoi. Ví dụ điển hình là website của các doanh
nghiệp ở làng gốm sứ Bát Tràng vốn là những doanh nghiệp đầu tư vào
website từ rất sớm. Nhiều website ở đây mặc dù được thiết kế công phu
nhưng cho tới nay, sau 3-4 năm cũng chỉ mới có trên 1000 lượt truy cập.
Trong số đó, trang web của công ty TNHH Haminco (www.haminco.com.vn)
được đánh giá cao nhất với cách thiết kế đẹp, tốc độ truy cập nhanh, có đủ các
thư mục như giới thiệu truyền thống lịch sử làng gốm sứ, trưng bày các mẫu
mới, các sản phẩm truyền thống... nhưng đã 4 năm trôi qua mà khách đến liên
hệ qua trang web mới chỉ được vài ba người. Chính vì chưa thấy được hiệu
quả thực tế nên nhiều website sau thời gian đầu được đầu tư khá công phu,
được cập nhật thường xuyên thì hiện nay trở nên trì trệ, không được cập nhật,
ngay như trang web của Haminco trong ví dụ trên cũng phải nửa năm mới
được cập nhật một lần, thậm chí nhiều trang web cả 1-2 năm không được cập
nhật. Điều này gây lãng phí cho các doanh nghiệp bởi ngoài chi phí ban đầu
để lập trang web, mỗi năm doanh nghiệp cũng phải mất một số tiền không
nhỏ để duy trì trang web.
Việc giao dịch trực tiếp qua website ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
còn rất hạn chế hay nói cách khác là chưa có mấy doanh nghiệp thực hiện
giao dịch bán hàng trực tiếp qua website. Nguyên nhân là các giao dịch trực
tuyến qua mạng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không Ýt trở ngại
mà các doanh nghiệp lớn Ýt khi mắc phải. Đó là những trở ngại về vốn, chi
phí, thẩm định đối tác, thanh toán, giao nhận vận chuyển...
Theo các doanh nghiệp, sau khi được nối kết qua mạng thì việc thẩm
Lê Thu Phương 62 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
định đối tác rất quan trọng để đi đến những giao dịch nhưng việc thẩm định
này lại nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thông tin
trên mạng không đủ để các doanh nghiệp biết rõ tình hình thực tế của các đối
tác, đặc biệt là những đối tác nước ngoài. Kế đến, với quy mô nhỏ, các doanh
nghiệp này khó được các đối tác nước ngoài tin tưởng giao cho thực hiện các
hợp đồng thương mại có số lượng hàng hoá khổng lồ để có thể đem lại lợi
nhuận cao và ổn định. Nhìn chung, khách hàng chưa đủ tin tưởng vào tư cách
pháp nhân của người lập nên trang web nên việc đặt hàng qua mạng còn rất
hạn chế.
Thêm vào đó, khách hàng vẫn giữ thãi quen xem trực tiếp hàng hoá
trước khi mua, đặc biệt là với những mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, hiện
chiếm tỷ lệ lớn trong số các website của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,
những hình ảnh, thông tin được giới thiệu trên website chưa đủ để khách hàng
tin tưởng vào chất lượng của hàng hoá để có thể đặt mua trực tuyến. Hơn nữa,
thậm chí ngay cả khi có khách đặt hàng trực tuyến thì việc vận chuyển và giao
hàng tận nơi cũng là một điểm hạn chế với các doanh nghiệp vì khi đó doanh
nghiệp phải chịu mọi chi phí phát sinh trong quá trình vận chuyển bởi, với
quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này khó có được hệ thống phân phối rộng
khắp để đảm bảo tự đưa hàng đến nơi khách yêu cầu. Chi phí cho việc vận
chuyển giao hàng tận nơi có thể rất cao so với giá trị hàng hoá, nhất là khi
khách hàng lại ở nước ngoài.
Một sè doanh nghiệp cho rằng họ rất khó khăn về vốn, kể cả vốn đầu tư
mua sắm trang thiết bị và đổi mới công nghệ. Hầu hết các giám đốc doanh
nghiệp vừa và nhỏ cho biết họ còn gặp khó khăn trong quản lý, vận hành
doanh nghiệp do thiếu khả năng tài chính để thuê những người có trình độ
quản lý thành thạo về công nghệ thông tin. Khó khăn về vốn cũng là một yếu
tố cản trở các doanh nghiệp quảng bá website đến khách hàng một cách hiệu
Lê Thu Phương 63 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
quả bởi theo nhiều chuyên gia công nghệ thông tin, chi phí lớn nhất cho
thương mại điện tử chính là chi phí quảng bá website đến các khách hàng. Để
website được nhiều người biết đến phải quảng bá nó bằng cách đưa vào các
search engine (công cụ tìm kiếm) càng nhiều càng tốt nhưng chi phí cho việc
quảng bá này khá cao, mét doanh nghiệp cỡ nhỏ phải chi Ýt nhất 500-1000
USD một năm cho việc “phát triển và quảng bá website” và thực tế ở Việt
Nam chưa có công ty nào làm dịch vụ này.
Ngoài ra, trong sè 3% doanh nghiệp có thực hiện thương mại điện tử,
nhiều doanh nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất là ở khâu thanh toán điện tử
bởi, theo họ, công nghệ bảo mật thông tin ở Việt Nam còn quá thấp, doanh
nghiệp khó lòng giao phó việc thanh toán trong kinh doanh bằng thẻ tín dụng
một khi chưa tin tưởng vào hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng.
Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu, giai đoạn thử
nghiệm khi các doanh nghiệp bắt đầu bước vào một hình thức kinh doanh mới
dùa trên sự phát triển của nền công nghệ thông tin. Do vậy, cùng với những
hạn chế vốn có về quy mô và vốn, những hạn chế đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ khi tham gia thương mại điện tử là khó tránh khỏi. Tuy nhiên,
những hạn chế này là cơ sở để các doanh nghiệp rót ra kinh nghiệm, từ đó có
thể nâng cao hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử khi hình thức kinh doanh
này trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam.
III. TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Triển vọng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam
Cho đến nay, thương mại điện tử không còn là một lĩnh vực kinh doanh
quá mới mẻ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong xu thế phát triển chung
Lê Thu Phương 64 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
của thương mại điện tử toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
cũng đang từng bước tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, nhiều
doanh nghiệp đã có những thành công bước đầu, thừa nhận những lợi Ých mà
thương mại điện tử đem lại. Mặc dù còn một số hạn chế khi thương mại điện
tử được ứng dụng trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nhưng trong
thời gian tới, thương mại điện tử sẽ còn phát triển hơn nữa.
Với những lợi Ých tiềm năng mà các doanh nghiệp có thể thu được khi
ứng dụng thương mại điện tử và với tính linh hoạt sẵn có của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, trong tương lai không xa, thương mại điện tử có thể được
ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt khi những cơ
sở hạ tầng cho thương mại điện tử ở Việt Nam được phát triển hoàn thiện hơn
và người tiêu dùng đã tạo dựng được thãi quen tìm kiếm thông tin và mua
hàng qua mạng. Khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mọi ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất kinh doanh đều có thể sử dụng những tiến bộ của công nghệ
thông tin để thực hiện những chu trình giao dịch hoàn chỉnh trên mạng, từ tìm
hiểu thông tin thị trường, tìm kiếm khách hàng, quảng bá sản phẩm đến nhận
đặt hàng và thanh toán. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, điều
cần thiết hiện nay là phải đánh giá đúng những mặt thuận lợi cũng như những
khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải khi áp dụng thương mại điện tử, từ
đó, doanh nghiệp mới có thể xây dựng một chiến lược kinh doanh thích hợp
để khai thác tốt những mặt thuận lợi và khắc phục khó khăn, tiến tới để có thể
khai thác tối đa những tiện Ých mà thương mại điện tử đem lại, chuẩn bị cho
việc gia nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào hoạt động thương mại điện tử trên
phạm vi toàn cầu.
2. Thuận lợi và khó khăn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc ứng
dụng thương mại điện tử
2.1 Thuận lợi
Lê Thu Phương 65 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Xét ở tầm vĩ mô, thuận lợi lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam hiện nay khi ứng dụng thương mại điện tử là tình hình kinh tế -
thương mại của đất nước đang có những chuyển biến mạnh mẽ trong xu thế
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với việc hội nhập và triển khai thực hiện
các cam kết CEPT/AFTA, triển khai thực hiện Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ và tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh
tế - xã hội Việt Nam cần thiết phải có những thay đổi theo hướng tích cực,
điều này tạo ra cơ hội và cả thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng trong quá trình phát
triển khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. Trong điều kiện đó, tham
gia vào thương mại điện tử là một giải pháp đúng đắn đối với các doanh
nghiệp để có thể sớm tiếp cận với “nền kinh tế số hoá” - xu thế phát triển của
nền kinh tế thế giới trong thời gian tới.
Ngày 24/10/2000, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định khung e-
ASEAN, (e-ASEAN Framework Agreement). Mục đích của Hiệp định là
nhằm đẩy mạnh hợp tác để phát triển, tăng cường và nâng cao năng lực cạnh
tranh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ITC - Information
Communication Technology) trong ASEAN, tăng cường các dịch vụ thương
mại điện tử, giảm mức độ phát triển không đồng đều về kỹ thuật số trong
từng nước và giữa các nước ASEAN, đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương
mại, thúc đẩy đầu tư ICT trong các nước ASEAN. Tham gia vào hiệp định e-
ASEAN sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nước ta nhiều cơ hội, đó là sự liên
kết giữa các nước thành viên về mặt xã hội, kinh tế trong không gian điện tử
e-ASEAN sẽ thúc đẩy giao lưu về mặt thương mại, các doanh nghiệp trong
nước sẽ có dịp trao đổi các thông tin về thị trường được nhanh chóng, thuận
tiện; thực hiện các giao dịch thương mại trên mạng (thương mại điện tử,
doanh nghiệp điện tử, chợ công nghệ ảo…).
Lê Thu Phương 66 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thuận lợi tiếp theo đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển
thương mại điện tử là Việt Nam là một nước đang phát triển nên một số công
nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào. Tuy ra đời sau nhưng thương mại
điện tử ở Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước
để hạn chế bớt rủi ro trong nghiên cứu và chi phí đầu tư vào nghiên cứu. Hơn
thế nữa, Việt Nam vị trí địa lý thuận lợi cộng với số dân đông là một thị
trường đầy tiềm năng nên đã thu hót được sự quan tâm chú ý và đầu tư của
nhiều hãng lớn về công nghệ thông tin và như vậy các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ có điều kiện tiếp cận với các công nghệ tiên tiến của thế giới. Ví dụ
như, ngày 23/10/2003, hãng Intel đã công bố chương trình hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin. Theo đó,
Intel sẽ cung cấp cho các nhà phân phối, đại lý, các nhà phát triển hệ thống và
cung cấp giải pháp những hỗ trợ kỹ thuật và tiếp thị để hướng dẫn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đánh giá và triển khai hệ thống máy tính, trên cơ sở
đó xác định những gì cần thay thế và các công nghệ mới về phần cứng và
phần mềm để có thể thúc đẩy công việc làm ăn của doanh nghiệp.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt
Nam cũng là một thuận lợi không nhỏ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ
dàng hơn trong việc tiếp cận thương mại điện tử. Với mạng lưới điện thoại
rộng khắp, hệ thống đường truyền Internet ngày càng phát triển với chất
lượng và tốc độ ngày một cao hơn và giá cước truy cập cũng ngày càng rẻ
hơn với sự gia tăng số lượng các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các doanh
nghiệp có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với Internet và khai thác triệt để
những tiện Ých của nó phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời,
việc các ngân hàng ngày càng phát triển nhiều hơn các dịch vụ mới phục vụ
cho thanh toán điện tử cũng là một điều kiện thuận lợi đối với việc ứng dụng
thương mại điện tử của các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lê Thu Phương 67 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Bên cạnh đó, không thể không kể đến những nỗ lực của Chính phủ trong
việc xây dựng các chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy việc ứng dụng thương mại
điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam như chính sách thuế, chính sách giá
cả, chính sách đầu tư… hướng vào ngành công nghệ thông tin, xây dựng các
dự án quốc gia về thương mại điện tử và tích cực chuẩn bị cho việc ban hành
Pháp lệnh thương mại điện tử - mét có sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
thương mại điện tử tại Việt Nam. Đáng chú ý là:
Ngày 5/6/2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký nghị quyết số
07/2000/NĐ-CP về xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn
2000-2005, trong đó xác định bước đầu chú trọng hình thức xuất khẩu qua gia
công và cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài, đồng thời mở rộng
thị trường trong nước, tập trung phát triển phần mềm trong nước sớm mang
lại hiệu quả kinh tế xã hội, thay thế phần mềm nhập khẩu; nhanh chóng tổ
chức xuất khẩu lao động phần mềm và phần mềm đóng gói để công nghiệp
phần mềm Việt Nam từng bước đạt vị thế trên thị trường thế giới. Nghị quyết
07 của Chính phủ được đánh giá là đòn bẩy chiến lược để Việt Nam phát
triển, xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm.
Quyết định số 128/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 cũng đã quy định một số
chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ phần mềm
với nội dung chính như sau:
- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
trong vòng 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế;
- Doanh nghiệp phần mềm sẽ được miễn giảm thuế sử dụng đất, tiền thuê
đất và được tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng viễn thông;
- Được hưởng các mức thuế suất thuế thu nhập ưu đãi;
- Sản phẩm và các dịch vụ phần mềm được hưởng ưu đãi cao nhất về
Lê Thu Phương 68 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
thuế giá trị gia tăng;
- Miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt
động sản xuất phần mềm mà trong nước chưa sản xuất được;
- Miễn thuế xuất nhập khẩu đối với sản phẩm phần mềm;
- Người lao động Việt Nam trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất,
dịch vụ phần mềm được áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và mức luỹ tiến
như quy định đối với người nước ngoài;
- Các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập
các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin.
Các quy định như trên là một điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành công
nghiệp phần mềm Việt Nam phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
thương mại điện tử.
Ngoài ra, sù quan tâm của chính phủ còn thể hiện ở các hoạt động xúc
tiến thương mại điện tử khác mà đáng kể nhất là việc Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam thành lập sàn giao dịch thương mại điện tử
VNEMART, khai trương ngày 23/4/2003. Dự án VNEMART nhằm mục tiêu
giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước làm quen dần dần với thương mại điện
tử, từng bước thử nghiệm giao dịch thương mại điện tử, tiến tới sử dụng
thương mại điện tử như một công cụ hữu hiệu tìm kiếm bạn hàng mới, phát
triển thị trường trong và ngoài nước.
Như vậy, trong quá trình tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có không Ýt những điều kiện thuận lợi,
đây là những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy việc tham gia thương mại
điện tử được nhanh chóng và ngày càng toàn diện hơn. Các doanh nghiệp cần
nắm bắt kịp thời những thuận lợi này, kết hợp với nỗ lực chủ quan của bản
Lê Thu Phương 69 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
thân doanh nghiệp để xác định cho mình một lé trình ứng dụng thương mại
điện tử thích hợp nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh
doanh.
2.2 Khó khăn
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, việc phát triển ứng dụng thương
mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn còn một số
khó khăn sau:
Về nhân lực: nguồn nhân lực cho thương mại điện tử của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu. Mặc dù hiện nay tin học
và công nghệ thông tin đã được nhiều trường từ đại học, cao đẳng cho tới phổ
thông quan tâm đưa vào giảng dạy nhưng số lượng đầu ra đạt chất lượng vẫn
còn thấp. Tâm lý chung những người có bằng đại học loại giỏi thường muốn
học tiếp lên cao và muốn làm việc cho các công ty lớn. Trong số nhân viên
hiện có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có nhiều người có hiểu biết về
Internet và thương mại điện tử nhưng trình độ không đồng đều, dẫn đến nhiều
khó khăn khi nhân rộng các ứng dụng của thương mại điện tử ở các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nhất là khi phải áp dụng các công nghệ mới, phức tạp.
Về nhận thức: Nhận thức của người dân về thương mại điện tử chưa cao.
Tâm lý người tiêu dùng vẫn chưa quen với việc mua hàng mà không xem tận
mắt, việc xem hàng hoá trên mạng không đủ để họ yên tâm về chất lượng của
hàng hoá. Phương thức thanh toán trực tuyến mang lại nhiều lợi Ých cho cả
doanh nghiệp và người tiêu dùng nhưng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay,
thãi quen sử dụng tiền mặt vẫn chưa thể thay đổi ngay, mức sống trung bình
của người dân còn chưa cao khiến số người quan tâm đến tiền điện tử và
thanh toán điện tử còn Ýt. Về phía doanh nghiệp, không phải lúc nào cũng có
thể thuyết phục được ban lãnh đạo doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ trực tiếp
Lê Thu Phương 70 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
cho dù án ứng dụng thương mại điện tử trong khi các chiến lược tổ chức lại
doanh nghiệp cho phù hợp với thương mại điện tử cần có sự tham gia chỉ đạo
của cấp cao nhất trong doanh nghiệp.
Về năng lực cạnh tranh: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và còn non trẻ, tham gia hội nhập vào nền kinh
tế, thương mại thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế khá chặt
chẽ, thị trường thế giới đã được phân chia tương đối ổn định, phải cạnh tranh
với các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn, dẫn đến sự cạnh tranh
trên thị trường trong nước và thế giới càng khó khăn, quyết liệt hơn.
Về cơ sở pháp lý: Hệ thống pháp luật trong thương mại điện tử còn chưa
hoàn thiện, do đó chưa tạo được lòng tin của khách hàng cũng như của doanh
nghiệp khi tham gia thương mại điện tử. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và quyền lợi của doanh nghiệp mặc dù đã có quy định trong nhiều
văn bản pháp luật nhưng còn chưa thực sự có tác dụng khi tham gia thương
mại điện tử.
Bên cạnh đó, còn có những khó khăn như việc giao hàng sai hẹn, sai đơn
hàng hoặc không đúng chất lượng như quảng cáo là một trở ngại do chính
doanh nghiệp tạo ra, hạn chế khách hàng đến với doanh nghiệp thương mại
điện tử. Ở Việt Nam, nhiều trường hợp sản phẩm, tên tuổi và chất lượng chưa
gắn chặt với nhau, nên việc mua hàng trực tuyến còn hạn chế và không đủ cơ
sở để tin cậy. Nạn sao chép lậu phát triển tràn lan gây trở ngại không nhỏ đối
với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp phần mềm. Việc thực thi
quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó khăn cũng là một thách thức đối với
các doanh nghiệp khi tham gia thương mại điện tử.
Tóm lại, dù đã trải qua hơn nửa thập kỷ kể từ khi Việt Nam bước chân
vào hoạt động thương mại điện tử, sự phát triển ứng dụng thương mại điện tử
Lê Thu Phương 71 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể coi vẫn trong giai đoạn
khởi đầu. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu thu được và những hạn chế trong
quá trình thực hiện cũng như những thuận lợi và khó khăn đối với các doanh
nghiệp khi áp dụng thương mại điện tử là những nền tảng kinh nghiệm cơ bản
để các doanh nghiệp tiến sâu hơn vào thương mại điện tử, chuẩn bị cho việc
gia nhập vào “nền kinh tế số hoá”. Đồng thời, phát triển thương mại điện tử
cũng là một giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, nâng cao vai trò của bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế đất nước.
Lê Thu Phương 72 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG III:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
1.1 Quan điểm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Kế thừa các quan điểm cơ bản của Nghị quyết 49/CP (ngày 4/8/1993)
của Chính phủ về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, thực hiện
nghiêm túc chỉ thị số 58/CT-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày
17/10/2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhanh chóng triển khai Nghị quyết số
07/2000/NQ-CP ngày 5/6/2000 của Chính phủ về việc xây dựng và phát triển
công nghiệp phần mềm giai đoạn 2001-2005, quan điểm ứng dụng thương
mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới là:
- Ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần được coi là biện pháp
quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi có tính chất thương mại trong
giai đoạn mới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng
bước chủ động hội nhập quốc tế và khu vực;
- Ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam cần theo hướng xã hội hoá,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế và cá nhân tham gia, trong đó các doanh nghiệp nhà nước có vai trò đi tiên
phong;
- Ứng dụng thương mại điện tử cần định hướng vào thị trường thông qua
việc tạo dựng một môi trường pháp lý thuận lợi gồm những chính sách mềm
dẻo và thích hợp;
Lê Thu Phương 73 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại phục vụ
cho ứng dụng thương mại điện tử, trong đó cơ sở hạ tầng công nghệ là then
chốt và phải đi trước một bước.
1.2 Mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Trong bối cảnh kinh tế xã hội nước ta hiện nay, dùa vào quan điểm phát
triển nêu trên, mục tiêu phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời
gian tới là tạo ra môi trường thông thoáng, đầy đủ và đồng bộ khuyến khích
thương mại điện tử phát triển ở Việt Nam và sẵn sàng áp dụng rộng rãi
thương mại điện tử trên phạm vi cả nước.
Với mục tiêu trên, một số định hướng và chủ trương lớn nhằm thúc đẩy
phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ là:
Nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử cho mọi tầng
líp xã hội, đặc biệt là đối với các cán bộ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực kinh tế,
thương mại và những ngành liên quan: Cần phải nhận thức đầy đủ về tính tất
yếu và mức độ tác động của “kinh tế số hoá” nói chung và “thương mại điện
tử” nói riêng. Các chủ thể, đặc biệt là người tiêu dùng và doanh nghiệp có
kiến thức cơ bản về thương mại điện tử;
Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi và các chính sách mềm dẻo
khuyến khích đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, mở rộng thị trường và tăng
cường trao đổi thương mại, phát triển dịch vụ, chuyển giao công nghệ và hợp
tác quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng thương mại điện tử;
Triển khai xây dựng một chiến lược quốc gia về hình thành nền “kinh
tế số hoá” nói chung và “thương mại điện tử” nói riêng làm định hướng chỉ
đạo lâu dài; thiết lập một chương trình hành động trước mắt, phù hợp với tình
hình thực tế của Việt Nam, trên cơ sở đó, triển khai nhanh việc phổ cập, đào
tạo, thử nghiệm... Xây dựng được một số sản phẩm mật mã áp dụng trong
thương mại điện tử, đặc biệt cần chú trọng việc xây dựng hạ tầng mật mã hoá
Lê Thu Phương 74 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
công khai (PKI);
Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ cần thiết cho phát
triển thương mại điện tử gồm: kết cấu hạ tầng viễn thông; công nghiệp viễn
thông; công nghệ điện tử; công nghệ thông tin; công nghiệp điện lực; Internet.
Xây dựng các chuẩn kỹ thuật và công nghệ thống nhất quốc gia và quốc tế.
Xây dựng và tổ chức triển khai một số đề án phát triển cơ sở hạ tầng công
nghệ cụ thể phục vụ phát triển thương mại điện tử ở nước ta. Mục tiêu của các
hoạt động này là xây dựng được hạ tầng CNTT tiên tiến, đáp ứng được nhu
cầu giao dịch thương mại điện tử lớn trên mạng (trước hết là giao dịch thương
mại điện tử nội địa, tiếp đến là giao dịch với bạn hàng nước ngoài), sẵn sàng
cho việc hội nhập của Việt Nam với hoạt động thương mại điện tử toàn cầu;
Tích cực phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử;
Triển khai thử nghiệm rộng rãi các loại hình dịch vụ của thương mại
điện tử ở các mức độ khác nhau để rút kinh nghiệm và nhân rộng; Tiến hành
thử nghiệm các hình thái giao dịch của thương mại điện tử cho một số doanh
nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, các giao dịch bao gồm từ
việc chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán thông qua
mạng;
Xây dựng hệ thống tổ chức quản lý thương mại điện tử thích hợp.
2. Phương hướng phát triển thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam
2.1 Phương hướng phát triển
Trên cơ sở tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới, thực
trạng thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian qua và kế hoạch phát
triển của Chính phủ về thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam có thể phát triển ứng dụng thương mại điện tử theo các mức độ sau:
Mức độ 1: Quảng cáo - Tiếp thị - Thông tin
Lê Thu Phương 75 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Các doanh nghiệp sẽ sử dụng Internet và các website của mình như một
công cụ tích cực để khai thác thông tin về thị trường, sản phẩm, quảng cáo tên
tuổi và sản phẩm, dịch vụ của mình, giao tiếp với các đối tác là các doanh
nghiệp ở thị trường trong và ngoài nước.
Mức độ 2: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử trong nội bộ doanh nghiệp
Các thông tin nội bộ sẽ được trao đổi bằng điện tử giữa các bộ phận
trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện quản lý nhân sự, quản lý sản
xuất kinh doanh thông qua mạng máy tính trong doanh nghiệp. Việc này sẽ hỗ
trợ rất nhiều cho các tương tác bằng điện tử trực tiếp giữa khách hàng với các
bộ phận chức năng của doanh nghiệp.
Mức độ 3: Trao đổi dữ liệu bằng điện tử với các đối tác
Doanh nghiệp có khả năng trao đổi dữ liệu bằng điện tử giữa các bộ
phận trong và ngoài doanh nghiệp. Ở mức độ này, các giao dịch giữa các bộ
phận chức năng của doanh nghiệp với khách hàng đã hoàn thiện hơn nhiều,
nhiều chức năng giao dịch được tự động hoá.
Mức độ 4: Tự động hoá mét phần các giao dịch trên website
Với các chức năng được tự động hoá trên website, các đối tác có thể sử
dụng website của doanh nghiệp để trao đổi thông tin với doanh nghiệp.
Mức độ 5: Thương mại điện tử
Mọi công đoạn trong quá trình giao dịch đều có thể thực hiện ngay trên
website của doanh nghiệp, người mua có thể xem hàng, đặt hàng và thanh
toán ngay trên mạng. Đây là giai đoạn mà thương mại điện tử theo đúng nghĩa
bắt đầu phát triển với quy mô lớn.
Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng
bước triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau tuỳ
theo đặc điểm, mục đích kinh doanh cũng như quy mô, năng lực của mình.
2.2 Mô hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và
Lê Thu Phương 76 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
nhỏ trong điều kiện hiện nay
Do còn tồn tại nhiều hạn chế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như
các điều kiện về cơ sở hạ tầng thông tin, thanh toán điện tử, chi phí sử dụng
Internet… nên việc ứng dụng thương mại điện tử hoàn chỉnh từ khâu mua
hàng đến khâu thanh toán trực tuyến sẽ khó là hiện thực trong những năm
trước mắt ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, trên thực tế, các doanh
nghiệp này có thể áp dụng mô hình thương mại điện tử kết hợp giữa các giao
dịch điện tử qua mạng Internet và các giao dịch truyền thống. Đây sẽ là bước
đi đầu tiên trong quá trình chuyển đổi từ thương mại truyền thống sang
thương mại điện tử hiện đại của một doanh nghiệp.
Theo mô hình này, các doanh nghiệp sẽ xây dựng các website trong đó
thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm, dịch vụ, giao dịch với khách hàng
và các đối tác khác để trao đổi thông tin, nhận đặt hàng, doanh nghiệp cũng sẽ
thực hiện một phần quá trình hỗ trợ sau bán hàng thông qua website do khách
hàng có thể gửi thông tin phản hồi về sản phẩm, dịch vụ qua trang web của
doanh nghiệp và doanh nghiệp tư vấn cho khách hàng cũng thông qua hình
thức này. Quá trình trao đổi thông tin trong nội bộ doanh nghiệp cũng được
thực hiện bằng điện tử thông qua mạng máy tính. Bên cạnh các giao dịch
bằng điện tử, các giao dịch khác như giao hàng, thanh toán, bảo hành… vẫn
có thể được doanh nghiệp thực hiện bằng các phương pháp truyền thống.
Khi ứng dụng mô hình này, tổ chức của doanh nghiệp có thể cần thay
đổi để phù hợp hơn với các quá trình kinh doanh mới, các phòng ban trong
công ty sẽ tham gia trực tiếp vào các quá trình giao dịch bằng điện tử bổ sung
cho các quá trình giao dịch truyền thống.
Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp sẽ sử dụng một chương trình catalog điện
tử trên Internet để giới thiệu chi tiết các sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp. Chương trình catalog điện tử sẽ tạo các trang web tự động trên cơ sở
Lê Thu Phương 77 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
dữ liệu về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Catalog này cũng cho phép
doanh nghiệp có thể cập nhật cơ sở dữ liệu khách hàng, đơn hàng, sản phẩm,
dịch vụ, còn khách hàng có thể đặt hàng và theo dõi quá trình thực hiện đơn
hàng.
Do vấn đề tiền điện tử tại Việt Nam còn hạn chế, việc thanh toán có thể
vẫn được doanh nghiệp thực hiện trực tiếp theo hình thức chuyển khoản hoặc
bằng tiền mặt. Tuy nhiên, các thông tin trên website vẫn là các căn cứ chính
để thực hiện việc thanh toán.
Hoạt động của từng bộ phận cũng có thay đổi. Các kế hoạch tiếp thị của
bộ phận tiếp thị không chỉ nhằm vào các khách hàng ở địa phương mình mà
sẽ nhằm vào một số loại khách hàng nào đó trên phạm vi toàn cầu. Phương
thức tiếp thị cũng thay đổi, người ta không chỉ quảng cáo các sản phẩm, dịch
vụ của mình trên các phương tiện truyền thông của địa phương mà mà với
Internet, các sản phẩm, dịch vụ của các nhà tiếp thị có thể đi khắp nơi trên thế
giới, đem các thông tin này đến tận nơi cho những người đang quan tâm tìm
kiếm trên Internet. Bộ phận bán hàng cần phải sẵn sàng với các đối tượng
khách hàng khác nhau ở các khu vực địa lý khác nhau thậm chí là ở phía bên
kia địa cầu. Do đó, các thông tin về thuế xuất khẩu hàng hoá, chi phí vận
chuyển tới địa chỉ của khách hàng, các phương thức thanh toán được chấp
nhận, các điều kiện về cung cấp sản phẩm, dịch vụ, bảo hành... cũng cần được
chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, đảm bảo cho việc trả lời các yêu cầu của khách
hàng một cách nhanh chóng và việc thực hiện các đơn hàng không gặp phải
các trở ngại không cần thiết. Bộ phận hỗ trợ khách hàng cũng cần chuẩn bị
trước các thông tin cho khách hàng về việc bảo trì, bảo dưỡng các sản phẩm,
dịch vụ của mình. Dữ liệu về “Những câu hỏi thường gặp” càng nhiều và
càng đầy đủ thì càng giúp cho bộ phận này giảm được các yêu cầu hỗ trợ đơn
giản do khách hàng cũng có thể tự giải quyết các vấn đề này sau khi đã đọc
Lê Thu Phương 78 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
các câu hỏi và trả lời trên website. Bộ phận kế toán sẽ phải thường xuyên
kiểm tra tình hình thực hiện các đơn hàng thông qua website để có được
thông tin về khách hàng, các khoản phải thu, phải trả, liên hệ với khách hàng
để trao đổi các thông tin về hoá đơn, công nợ, tài khoản ngân hàng. Bộ phận
giao hàng mỗi khi có thông báo về việc chuyển hàng cho khách thông qua
website hoặc email sẽ lấy hàng từ kho và liên hệ với khách hàng để thực hiện
việc bàn giao cho bộ phận nhận hàng của khách hàng.
Về phía khách hàng, họ không cần phải đi đến tận cửa hàng trưng bày
sản phẩm để có được các thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà họ quan tâm. Với
Internet họ có thể tìm được các nhà cung cấp phù hợp, lấy được đầy đủ các
thông tin cần thiết như tính năng kỹ thuật, diễn giải chi tiết, giá cả, phí vận
chuyển, các điều kiện thanh toán, bảo hành... Khi quyết định mua, khách hàng
chỉ cần cung cấp các thông tin cần thiết về thẻ tín dụng, địa chỉ chuyển
hàng,... và chấp nhận thanh toán phí vận chuyển nếu có. Nếu không có thẻ tín
dụng, khách hàng sẽ liên hệ trực tiếp với bộ phận kế toán để thực hiện các thủ
tục thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Trong quá trình sử dụng,
khách hàng vẫn có thể liên lạc bằng điện tử với doanh nghiệp để yêu cầu giúp
đỡ hoặc gửi thông tin góp ý.
Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử bằng cách kết hợp giữa các
giao dịch truyền thống và các giao dịch bằng điện tử là một bước chuyển tiếp
có tính khả thi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Để có thể ứng
dụng thương mại điện tử hoàn toàn, các doanh nghiệp còn cần nhiều điều kiện
khách quan và chủ quan khác. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so
với xu thế phát triển của thương mại điện tử thế giới, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam cần phải xác định sớm hướng đi để bắt đầu các hoạt động
thương mại điện tử của mình theo điều kiện thực tế môi trường kinh doanh
hiện có của Việt Nam cũng như năng lực của chính bản thân doanh nghiệp.
Lê Thu Phương 79 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
1. Về phía Chính phủ
1.1 Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tối đa hoá phổ biến các lợi Ých kinh tế - xã hội
- Thường xuyên đưa các thông tin và cách khai thác thương mại điện tử
phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội;
- Đảm bảo kỹ thuật và giảm cước viễn thông, phí truy cập;
- Xây dựng hệ thống phân phối với cước phí vận chuyển thấp;
- Phổ cập hoá Internet thông qua các chương trình đào tạo cấp phổ thông
và đại học và các chương trình hỗ trợ các tổ chức kinh tế - xã hội khác;
- Ban hành chính sách thuế ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia các
chương trình thương mại điện tử và kinh doanh CNTT;
1.2 Tạo môi trường tin cậy và an toàn cho các giao dịch
- Đảm bảo việc thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch thương mại
điện tử (hoá đơn, chứng từ, thuế...);
- Cung cấp các dịch vụ xác thực và sản phẩm mật mã với khoá mật mã
theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật;
- Xây dựng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn giao dịch thương mại điện
tử;
- Cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính riêng tư của cac
thành viên tham gia thương mại điện tử;
- Phổ biến các biện pháp chống truy cập bất hợp pháp và đề phòng tin
tặc;
- Ban hành các quy phạm pháp luật và xây dựng các giải pháp công nghệ
để truy bắt, xử phạt các hành vi vi phạm nghiệp vụ, lợi dụng trong từng khâu
hoặc toàn bộ quá trình giao dịch thương mại điện tử.
Lê Thu Phương 80 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
1.3 Phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
Cơ sở hạ tầng viễn thông và Internet
- Đảm bảo chất lượng các dịch vụ viễn thông để đáp ứng yêu cầu phát
triển CNTT với giá cước bằng hoặc thấp hơn so với các nước trong khu vực;
- Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet
trong toàn dân, mở rộng hơn nữa mạng các nhà cung cấp dịch vụ Internet
(ISP) và các nhà cung cấp nội dung (ICP) cho mọi thành phần kinh tế, không
hạn chế số lượng các ISP và ICP;
- Cho phép sử dụng mọi dịch vụ đã có và sẽ có trên Internet để phát triển
CNTT, tăng dung lượng đường truyền và mở thêm cổng ra quốc tế;
Chuẩn hoá thông tin
- Lùa chọn và chấp nhận những tiêu chuẩn công nghiệp hiện đại trên thế
giới phù hợp với điều kiện phát triển công nghiệp trong nước đồng thời nhanh
chóng xây dựng các tiêu chuẩn công nghệ đặc thù của Việt Nam;
- Hoàn chỉnh và sớm quy định chuẩn hoá các loại thông tin cho các hoạt
động quản lý điều hành quan trọng của Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương
và các hoạt động kinh tế phù hợp với khu vực và quốc tế.
Hạ tầng nhân lực và đào tạo cán bộ
- Đa dạng hoá và xã hội hoá các hình thức đào tạo về thương mại điện
tử. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng, xã hội như
Hội tin học Việt Nam và các hội thành viên, các trung tâm đào tạo... mở các
líp bồi dưỡng thường xuyên cho các đối tượng trong xã hội về CNTT và đầu
tư thêm để hoàn chỉnh một bộ giáo trình tốt cho việc giảng dạy, phân loại
trình độ học viên để soạn giáo trình và giảng dạy cho phù hợp;
- Tăng cường gửi người đi đào tạo ở nước ngoài về thương mại điện tử.
Hỗ trợ các doanh nghiệp gửi người đi đào tạo theo các học bổng của nước
ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế và cá nhân
Lê Thu Phương 81 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
đi học ở nước ngoài về thương mại điện tử bằng nguồn vốn tự có;
- Xây dựng phương án tổ chức và triển khai các hoạt động của Trung
tâm phát triển nguồn lực thương mại điện tử trình Chính phủ phê duyệt để
sớm thực hiện nhiệm vụ của trung tâm này.
1.4 Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng thương mại điện tử
- Nhà nước đầu tư cho một số hướng nghiên cứu và triển khai phục vụ
trực tiếp các ứng dụng quan trọng của thương mại điện tử. Chính phủ cần đầu
tư xây dựng một trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm quốc gia về Internet và
thương mại điện tử. Trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm những công nghệ, đề
xuất các chính sách cho Internet, thương mại điện tử và mở rộng các dịch vụ
Internet là một điều cần thiết và cấp bách;
- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí thực hiện các đề án
triển khai thương mại điện tử, nếu trong đó có những nội dung nghiên cứu
khoa học hoặc tiếp thu chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra công nghệ mới do
doanh nghiệp tự thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa
học thực hiện.
1.5 Tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển thương mại điện
tử
Tham gia thương mại điện tử là vấn đề có tầm chiến lược quốc gia, vấn
đề có tính sống còn đối với tương lai của đất nước và đang là vấn đề có tính
nhạy cảm về chính trị và kinh tế trên phạm vi quốc tế. Vì thế, nội dung các
bản tuyên bố chính thức của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, việc tham
gia ký kết về mặt nhà nước các cam kết có tính ràng buộc trong các tổ chức
quốc tế trên tất cả các khía cạnh có liên quan đến vấn đề thương mại điện tử
cần phải được thảo luận kỹ lưỡng, bảo đảm tính chủ động, hiệu quả, an toàn
và có tính lâu dài.
Nhà nước cần sớm ban hành một số chính sách hỗ trợ cho thương mại
Lê Thu Phương 82 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
điện tử nhằm đẩy nhanh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam như:
- Chính sách đầu tư:
Để hình thành đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho
thương mại điện tử đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư rất lớn từ mọi nguồn,
trong đó vốn của Nhà nước có vai trò quan trọng. Trước hết ở khâu đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho thương mại điện tử, trong đó tập
trung ưu tiên đầu tư các lĩnh vực như nghiên cứu phát triển CNTT, hệ thống
thanh toán tự động, bảo mật và an toàn, tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương
mại. Chính phủ cân nhắc thành lập Quỹ hỗ trợ ứng dụng thương mại điện tử.
Quỹ này được hình thành từ nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước và
được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử quản lý sử
dụng vào việc hỗ trợ, bồi thường rủi ro cho các đơn vị, doanh nghiệp thử
nghiệm ứng dụng thương mại điện tử nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đi
tiên phong thử nghiệm, ứng dụng thương mại điện tử. Vì Việt Nam có trình
độ phát triển ở mức thấp, các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ nên khó có khả năng doanh nghiệp tự bỏ tiền đầu tư ứng dụng các hoạt
động thương mại điện tử.
- Chính sách thuế:
Nhà nước áp dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp kinh doanh dung liệu số hoá (các nhà cung cấp dịch vụ Internet, các
trung gian Internet...) để tạo cơ sở hạ thấp giá các dịch vụ trong thương mại
điện tử.
- Chính sách giá cả:
Các hoạt động dịch vụ của thương mại điện tử phải hướng vào kích thích
phát triển các khách hàng thuê bao, các khách hàng sử dụng các dịch vụ của
thương mại điện tử. Do đó, Nhà nước cần sử dụng công cụ giá cả để điều tiết
cung - cầu thông qua việc quy định mức giá trần các dịch vụ để kích thích
Lê Thu Phương 83 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
tăng trưởng nhanh nhu cầu sử dụng các dịch vụ của thương mại điện tử, ngăn
chặn các nhà cung cấp dịch vụ tuỳ tiện nâng giá các dịch vụ, vượt quá sức
mua của khách hàng trên thị trườngtrong nước.
- Về mặt tổ chức:
Chính phủ sớm hình thành một tổ chức đa ngành bao gồm ngân hàng, tài
chính, tư pháp, công an, bưu chính viễn thông... đồng thời soạn thảo cơ chế
vận hành, hành lang pháp lý cho thương mại điện tử.
Nên thành lập ngay một đầu mối quốc gia về “kinh tế số hoá” và
“thương mại điện tử”. Một tổ chức đầu mối quốc gia về thương mại điện tử
(có thể là Hội đồng) gồm đại diện của nhiều bộ ngành và giới có liên quan là
một tổ chức cần thành lập để có thể hội tụ được kiến thức và sự nhìn nhận từ
nhiều khía cạnh. Vì hội đồng là một tổ chức mang tính tư vấn là chủ yếu, nên
theo kinh nghiệm các nước, sẽ cần tới một Uỷ ban quốc gia (hoặc tương
đương) có chức năng và quyền hạn ra quyết định, chỉ đạo và xử lý giải quyết.
Hội đồng và Uỷ ban sẽ là đầu mối đưa ra chiến lược cũng như chương trình
hành động cho thương mại điện tử, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lược và
chương trình đó, tránh được các xu hướng thiếu nhìn nhận toàn diện, hoặc cho
là chưa thể làm gì với thương mại điện tử, hoặc ngược lại, tiến hành một cách
vội vã, nặng về phô diễn, không những không thu được kết quả mong muốn
mà còn để lại hậu quả khó có thể khắc phục sau này.
2. Về phía các doanh nghiệp
2.1 Nâng cao nhận thức và chủ động tham gia vào thương mại điện tử
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xác định rõ xu thế phát triển của
thương mại điện tử trong nền kinh tế nói chung và sự cần thiết phải áp dụng
thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình do những lợi Ých
mà thương mại điện tử có thể đem lại, từ đó, dùa vào điều kiện thực tế của
doanh nghiệp mà xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử cho phù
Lê Thu Phương 84 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
hợp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần nắm được vai trò của mình trong
nền kinh tế và xác định: trong thương mại điện tử doanh nghiệp là người trực
tiếp kinh doanh nên phải đóng vai trò tiên phong, còn nhà nước chỉ mang tính
hỗ trợ. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chủ động tham gia thương
mại điện tử và lập kế hoạch cụ thể về mức độ tham gia, chuẩn bị các bước cần
thiết để khỏi lỡ mất cơ hội kinh doanh. Điều này sẽ làm doanh nghiệp tự chủ
hơn trong kinh doanh và, hơn thế nữa, có thể đóng góp những ý kiến thiết
thực cho nhà nước để tiến hành hoạt động thương mại điện tử một cách có
hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng tham gia.
Các doanh nghiệp cũng nên chủ động tham gia các hội thảo về thương mại
điện tử do chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức, mặt khác, tham
khảo và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài về cách thức kinh doanh trên
Internet.
2.2 Chuẩn bị nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp nên tuyển dụng, đào tạo đội ngò nhân viên có trình độ,
có thể nắm bắt nhanh các kỹ thuật thương mại điện tử, sử dụng những người
có hiểu biết sâu sắc về công nghệ thông tin để quản lý, kiểm soát các giao
dịch thương mại điện tử. Đồng thời, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần
hiểu rõ cách thức vận hành tổ chức thương mại điện tử để có thể đưa ra chiến
lược kinh doanh phù hợp cũng như có thể quản lý được hoạt động của doanh
nghiệp khi thực hiện ứng dụng thương mại điện tử trong sản xuất kinh doanh.
2.3 Xem xét lại quy trình kinh doanh cho phù hợp với phương thức hoạt
động của thương mại điện tử
Mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào mạng Internet trước hết cần xác định
rõ mục tiêu và chiến lược kinh doanh bởi mục tiêu và chiến lược kinh doanh
trong thương mại điện tử có thể có nhiều điểm khác biệt so với trong phương
thức kinh doanh truyền thống. Doanh nghiệp có thể tham khảo ý kiến các
Lê Thu Phương 85 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
chuyên gia trong quá trình xây dựng kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp
cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng từng bước trong kế hoạch kinh doanh trước khi
đưa vào triển khai để tránh những sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh.
2.4 Xây dựng website của doanh nghiệp
Khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp nên xây dùng cho
mình một website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một website nào đó. Để
website thực sự là một công cụ hữu Ých trong hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử của doanh nghiệp, website của doanh nghiệp phải được thiết kế
bảo đảm các yêu cầu sau:
Cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác: Website phải trình bày một
cách rõ ràng và chính xác các thông tin chi tiết liên quan đến doanh nghiệp
mà các đối tác kinh doanh cần biết như địa chỉ trụ sở làm việc, địa chỉ e-mail,
số điện thoại, fax..., các thông tin về chất lượng, giá cả sản phẩm hoặc dịch
vụ, phương thức vận chuyển hàng, phương thức thanh toán, thời gian bảo
hành. Doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho khách hàng tìm hiểu nguồn gốc,
xuất xứ cũng như tính năng sử dụng của sản phẩm ngay trên website này.
Thiết kế website linh hoạt: Thông tin trên website phải luôn được cập
nhật sao cho website này là nguồn thông tin tốt nhất về sản phẩm và dịch vụ
của doanh nghiệp. Đồng thời hình ảnh cũng như các file dữ liệu phải thật sự
gây Ên tượng cho mọi đối tượng truy nhập, luôn có các sáng kiến đổi mới để
tạo được trang web với những hình ảnh sống động, âm thanh vui tươi mang
bản sắc riêng và nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, website
cũng phải đảm bảo tốc độ truy cập nhanh bằng cách loại bỏ các đoạn không
cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải, doanh
nghiệp cũng có thể thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng
chọn sản phẩm dễ dàng hơn và nhanh hơn. Những điều này sẽ tạo điều kiện
Lê Thu Phương 86 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
cho khách hàng truy cập website thường xuyên hơn.
Đảm bảo an toàn: Website của doanh nghiệp phải chắc chắn tạo được
lòng tin đối với những khách hàng tiềm năng. Do vậy, doanh nghiệp cần chú
trọng quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng đồng thời bảo đảm tính an
toàn cho hệ thống thanh toán của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để đảm bảo cho website được nhiều người biết đến, doanh
nghiệp không thể không chú ý đến việc giới thiệu địa chỉ website trên các
phương tiện thông tin khác bởi website chỉ có thể thực hịên được chức năng
của nó khi được mọi người biết đến và truy cập.
2.5 Tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử
Trên thực tế, việc xây dựng và duy trì một website có hiệu quả có thể tốn
khá nhiều chi phí và là một khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
vì quy mô vốn của các doanh nghiệp này thường không lớn. Tham gia sàn
giao dịch là một giải pháp giúp các doanh nghiệp giảm nhẹ được khó khăn về
chi phí. Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch sẽ được hỗ trợ về
đào tạo, đào tạo cả cho người quản lý và người triển khai, để họ có thể chủ
động tạo cho mình một gian hàng trực tuyến, bằng các công cụ trong sàn giao
dịch. Thông qua sàn giao dịch, các doanh nghiệp sẽ được cung cấp thông tin
và tư vấn về các văn bản, chính sách, các quy định và tập quán thương mại
quốc tế, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh khi hội nhập
quốc tế. Sàn giao dịch cũng là diễn đàn cho các doanh nghiệp có điều kiện
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, hỏi đáp những vấn đề quan tâm. Như vậy, có
thể nói, sàn giao dịch thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp có điều kiện
tiếp cận với thương mại điện tử một cách chủ động, kể cả trong điều kiện
nguồn kinh phí hạn chế.
2.6 Các doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng và phát triển thương
hiệu
Lê Thu Phương 87 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Thương hiệu là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Một số doanh
nghiệp bị thất bại là do không củng cố được tên tuổi của mình trên mạng và
gắn nó với những hình tượng dành cho khách hàng. Vấn đề thương hiệu trong
thương mại điện tử phức tạp và dễ gặp rắc rối hơn so với thương hiệu trong
kinh doanh truyền thống vì, trong kinh doanh truyền thống, thương hiệu
thường có tính chất khu vực nhưng trên Internet lại không tồn tại các khu vực
truyền thông. Tính toàn cầu của Internet có thể gây ra những tranh cãi về
thương hiệu. Thêm vào đó, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn là
một vấn đề lớn đang tồn tại và có nguy cơ ngày càng gia tăng khi thương mại
điện tử phát triển. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu tham gia vào thương mại
điện tử, các doanh nghiệp phải vạch cho mình một chiến lược xây dựng, củng
cố, phát triển và bảo vệ thương hiệu của mình.
Lê Thu Phương 88 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thu Phương 89 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
KẾT LUẬN
Thương mại điện tử đã, đang phát triển rất nhanh chóng trên thế giới và
sẽ là thành phần quan trọng của thương mại nói chung vào thế kỷ 21. Không
chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển cũng ngày càng
nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển thương mại điện tử trong
xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và hướng tới phát triển “nền kinh tế số hoá”.
Các quốc gia không tính đến xu thế này sẽ khó tránh khỏi nguy cơ tụt hậu
nhất là trong điều kiện mà ngành công nghệ thông tin đang phát triển với tốc
độ như vũ bão hiện nay.
Với Việt Nam, trong tiến trình tham gia thương mại điện tử đã có nhiều
kết quả đáng khích lệ đặc biệt là về việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin và viễn thông phục vụ cho thương mại điện tử. Tuy nhiên, để
thương mại điện tử có thể phát triển hoàn thiện ở Việt Nam, trong điều kiện
Việt Nam đang và sẽ tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,
đặc biệt là Hiệp định khung e-ASEAN, còn có nhiều vấn đề đòi hỏi nước ta
phải giải quyết như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện
tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong thương mại điện tử, bảo vệ dữ
liệu cá nhân và bảo vệ lợi Ých của người tiêu dùng… Do vậy, nước ta cần
tiếp tục tăng cường xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin, nâng cao chất lượng
dịch vụ viễn thông, giảm giá bán các loại dịch vụ viễn thông cho phù hợp với
mặt bằng chung của thế giới. Đồng thời, cần tập trung phát triển nguồn nhân
lực về công nghệ thông tin có chất lượng cao hơn nữa, nâng cao trình độ
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh bởi đây là ngôn ngữ giao dịch phổ biến trong
thương mại điện tử trên thế giới.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, là một thành phần quan
trọng trong nền kinh tế xét về tỷ trọng trong tổng số các doanh nghiệp cũng
Lê Thu Phương 90 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
như xét về khía cạnh giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, việc
tham gia ứng dụng thương mại điện tử hiện nay mới ở giai đoạn khởi đầu và
kết quả thu được còn thấp nhưng trong tương lai, chắc chắn thương mại điện
tử sẽ có hiệu quả cao hơn đem lại nhiều lợi Ých hơn nữa cho các doanh
nghiệp và có thể được ứng dụng trong hầu hết các doanh nghiệp. Tuy nhiên
để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chủ động
chuẩn bị và đầu tư các thiết bị, công nghệ tiên tiến, điều chỉnh cơ cấu, quy
trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao sức cạnh tranh để có thể đứng vững
trong nền kinh tế và tham gia vào thị trường thế giới. Điều quan trọng là mỗi
doanh nghiệp cần phải có được nhận thức đúng đắn về thương mại điện tử và
xây dựng được cho mình một kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử phù hợp
với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức. Đó là giải pháp tốt nhất
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam để phát triển vững chắc trong
xu thế hội nhập và toàn cầu hoá và phát triển kinh tế số hoá hiện nay.
Lê Thu Phương 91 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003
2. Khía cạnh văn hoá trong thương mại điện tử - NXB Chính trị quốc gia
2003
3. Thương mại điện tử cho doanh nghiệp - NXB Khoa học kỹ thuật 2001
4. Tương lai của thương mại điện tử - Sayling Wen - NXB Bưu điện 2002
5. Giao dịch thương mại điện tử - Mét số vấn đề cơ bản - NXB Chính trị
quốc gia 2002
6. Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhá - Viện kinh tế
thế giới 2001
7. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - NXB Chính trị
quốc gia 2002
8. Dự thảo Pháp lệnh thương mại điện tử (lần thứ 6) - Bé Thương mại
9. Dự án quốc gia kỹ thuật thương mại điện tử - Bé Thương mại
10. Nghiên cứu ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt
Nam - Luận án tiến sỹ - Lê Minh Lương
11. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003)
12. Một số khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Đại học Ngoại thương
13. Các báo và tạp chí:
- Tin học và đời sống số 6,10/2002, sè 1,4,9/2003
- Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương số 2, 8,10/2001, 2/2002
- Ngoại thương số 7,8/2003
- Phát triển kinh tế số 5/2003
- Thương mại các số năm 2003
- Tuần tin Công nghiệp - Thương mại Việt Nam (Bộ Thương mại)
- Bưu chính viễn thông số 5,6,7,8/2003
Lê Thu Phương 92 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
- Kinh tế và phát triển số 11/2002
- Diễn đàn doanh nghiệp số 8/2003
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 5/2003
Lê Thu Phương 93 A5 -
K38B
Khoá luận tốt nghiệp
14. Thông tin trên các trang Web
- www.thuongmaidientu.com
- www.mot.gov.vn
- www.ecommercetimes.com
- www.ebusinessforum.com
- www.vnexpress.net
- www.it-life.vnn.vn
- www.vnn.vn
- www.bvom.com/news/
Lê Thu Phương 94 A5 -
K38B