ubnd tỈnh quẢng namvukehoach.mard.gov.vn/datastore/chienluoc/2077quang nam.d… · web...

35
UBND TỈNH QUẢNG NAM SỞ NÔNG NGHIỆP & PTNT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: /BC- SNN&PTNT Quảng Nam, ngày 10 tháng 11 năm 2011 (Dự thảo): BÁO CÁO Tổng kết sản xuất nông nghiệp năm 2011, triển khai sản xuất vụ Đông Xuân 2011- 2012 và nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp năm 2012 Phần thứ nhất ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NĂM 2011 I. Đặc điểm năm sản xuất: Năm 2011 thời tiết diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Vụ Đông Xuân, rét lạnh trễ gây mất mùa lúa hầu hết các tỉnh duyên hải nam Trung bộ. Các đợt rét kéo dài liên tục từ tháng 12/2010 đến tháng 3/2011; tổng số ngày lạnh nhiều hơn cùng kỳ từ 20-29 ngày, nhiệt độ trung bình thấp hơn khoảng 2 0 C, làm chậm quá trình sinh trưởng các loại cây trồng, thời gian sinh trưởng (TGST) cây lúa kéo dài từ 10-12 ngày. Đặc biệt, 02 đợt mưa, rét lạnh trễ (đợt 1 từ ngày 15-19/3 và đợt 2 từ ngày 23- 30/3) và đợt mưa từ ngày 17-19/4 gây thiệt hại nặng nhất. Vụ Hè Thu năm 2011 dù nắng hạn ít gay gắt nhưng kéo dài, vùng không có tưới bị hạn, nguồn nước các trạm bơm ở hạ lưu Vu Gia, Thu Bồn bị nhiễm mặn, gần cuối vụ một số hồ đập nhỏ bị cạn nước. Bệnh LMLM gia súc, Cúm gia cầm và dịch Tai xanh ở lợn đã xảy ra và diễn biến khá phức tạp đã ảnh hưởng đáng kể đến phát triển chăn nuôi. Thời tiết bất lợi cũng ảnh hưởng đến tôm nuôi vụ 1 và tình hình đánh bắt hải sản những tháng đầu năm. Ảnh hưởng của lạm phát làm cho giá cả các mặt hàng tăng cao, trong đó có giá phân bón, giống, thức ăn và các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất tăng cao

Upload: others

Post on 09-Feb-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

UBND TỈNH QUẢNG NAMSỞ NÔNG NGHIỆP & PTNT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: /BC-SNN&PTNT Quảng Nam, ngày 10 tháng 11 năm 2011(Dự thảo):

BÁO CÁOTổng kết sản xuất nông nghiệp năm 2011, triển khai sản xuất

vụ Đông Xuân 2011- 2012 và nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp năm 2012

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NĂM 2011

I. Đặc điểm năm sản xuất:

Năm 2011 thời tiết diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Vụ Đông Xuân, rét lạnh trễ gây mất mùa lúa hầu hết các tỉnh duyên hải nam Trung bộ. Các đợt rét kéo dài liên tục từ tháng 12/2010 đến tháng 3/2011; tổng số ngày lạnh nhiều hơn cùng kỳ từ 20-29 ngày, nhiệt độ trung bình thấp hơn khoảng 20C, làm chậm quá trình sinh trưởng các loại cây trồng, thời gian sinh trưởng (TGST) cây lúa kéo dài từ 10-12 ngày. Đặc biệt, 02 đợt mưa, rét lạnh trễ (đợt 1 từ ngày 15-19/3 và đợt 2 từ ngày 23-30/3) và đợt mưa từ ngày 17-19/4 gây thiệt hại nặng nhất. Vụ Hè Thu năm 2011 dù nắng hạn ít gay gắt nhưng kéo dài, vùng không có tưới bị hạn, nguồn nước các trạm bơm ở hạ lưu Vu Gia, Thu Bồn bị nhiễm mặn, gần cuối vụ một số hồ đập nhỏ bị cạn nước.

Bệnh LMLM gia súc, Cúm gia cầm và dịch Tai xanh ở lợn đã xảy ra và diễn biến khá phức tạp đã ảnh hưởng đáng kể đến phát triển chăn nuôi. Thời tiết bất lợi cũng ảnh hưởng đến tôm nuôi vụ 1 và tình hình đánh bắt hải sản những tháng đầu năm.

Ảnh hưởng của lạm phát làm cho giá cả các mặt hàng tăng cao, trong đó có giá phân bón, giống, thức ăn và các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất tăng cao hơn mức tăng giá nông sản, làm giảm hiệu quả sản xuất.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự hỗ trợ kịp thời của Trung ương, của Tỉnh; với quyết tâm tập trung chỉ đạo thắng lợi vụ sản xuất Hè Thu để bù lại sản lượng mất mùa trong vụ Đông Xuân, Sở Nông nghiệp và PTNT đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương triển khai nhiều biện pháp về giống, thời vụ và các tiến bộ kỹ thuật thâm canh phù hợp; phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm, các đối tượng nuôi trồng thủy sản và cây trồng cũng như phòng chống thiên tai; cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân nên sản xuất nông nghiệp năm 2011 giữ được ổn định và cơ bản hoàn thành các mục tiêu kế hoạch đề ra. Riêng sự tụt giảm của tổng đàn vật nuôi là do sai lệch hệ thống của số liệu thống kê nên không thể sử dụng để đánh giá tăng trưởng của chăn nuôi năm 2011.

II. Kết quả sản xuất và thực hiện một số nhiệm vụ kế hoạch của ngành Nông nghiệp & PTNT năm 2011:

1. Kết quả sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản1.1. Nông nghiệp: a. Về trồng trọt và BVTV:

Năm 2011, toàn tỉnh gieo trồng được 159.215 ha cây hàng năm, đạt 101.41% KH. Trong đó, diện tích cây lương thực có hạt: 100.808 ha đạt 103,39% KH. Tổng sản lượng lương thực 472.837 tấn, đạt 105,07 % KH và tăng 4.427 tấn so với năm 2010 (thóc: 417.224 tấn, đạt 104,31% KH và tăng 1,09% so với năm trước). Diện tích, sản lượng nhiều cây trồng khác đều vượt kế hoạch.

- Tình hình dịch hại cây trồng tuy có những diễn biến phức tạp nhưng nhờ làm tốt công tác điều tra phát hiện, dự tính dự báo, quản lý dịch hại, hướng dẫn các biện pháp phòng trừ kịp thời, hiệu quả nên đã khống chế dịch hại không để lây lan ra diện rộng. Bên cạnh đó, công tác thanh tra chuyên ngành được thực hiện thường xuyên nên quản lý kinh doanh vật tư nông nghiệp từng bước đi vào nề nếp, kiểm soát được việc cung ứng vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng cho nông dân sử dụng trên địa bàn Tỉnh; nhiều chương trình, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm mục tiêu tăng hiệu quả sản xuất, định hướng sản xuất nông sản an toàn được tiếp tục nhân rộng đã tác động tích cực đến tăng năng suất, hiệu quả sản xuất các cây trồng chính.

b. Về chăn nuôi - thú y:- Tổng đàn gia súc (thời điểm 01/10/2011): 740.980 con, giảm 10,85% so

với cùng kỳ năm trước, trong đó: tổng đàn bò 149.750 con (giảm 15,44%), tổng đàn trâu 70.960 con (giảm 10,63%), tổng đàn lợn 520.270 con (giảm 9,46%), tổng đàn gia cầm 4.800.000 con, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước.

- Tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống dịch:+ Đợt dịch LMLM kéo dài từ cuối quí III/2010 đến cuối quí I/2011 mới

được khống chế. Dịch đã xảy ra ở 17 huyện, thành phố (trừ huyện Nam Giang) với 6.887 con gia súc mắc bệnh (đối tượng mắc bệnh nhiều nhất là bò), trong đó số gia súc phải tiêu hủy là 1.261 con. Các địa phương bị dịch nặng là: Duy Xuyên (975 con/14 xã), Đại Lộc (819 con/16 xã), Điện Bàn (676 con/16 xã), Núi Thành (499 con/16 xã), Thăng Bình (458 con/16 xã). Trong tháng 02 và tháng 3/2011 bệnh Tai xanh ở lợn và bệnh Cúm gia cầm cũng được phát hiện tại huyện Thăng Bình, bệnh đã làm chết và tiêu hủy bắt buộc 91 con lợn và 1.670 con vịt; do phát hiện sớm và xử lý kịp thời nên bệnh không lan ra diện rộng. Dịch Tai xanh ở lợn tái phát từ ngày 22/10/2011 tại huyện Điện Bàn, dịch lây lan nhanh hơn đợt tháng 02 và 3/2011 nhưng đến nay dịch đã được khống chế.

+ Tỷ lệ tiêm phòng gia súc có tăng hơn so với các năm trước nhưng chưa đạt được ngưỡng phòng dịch. Tuy có vắc xin tiêm phòng cúm gia cầm nhưng do vi rút cúm gia cầm đã biến chủng nên lượng vắc xin này không tương thích để triển khai tiêm phòng.

+ Để chấn chỉnh tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm (GMGSGC) tràn lan, quá nhiều cơ sở nhỏ lẻ (trên 900 cơ sở, điểm GMGSGC), khó khăn trong quản lý dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm; Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 07/7/2011 về tăng cường công tác quản lý giết mổ gia súc, gia cầm và đã triển khai rà soát, đánh giá, phân loại các cơ sở GMGSGC; từ nay đến cuối năm sẽ thực hiện sắp xếp lại một bước theo hướng giảm tối đa về số lượng, đảm bảo số cơ sở còn lại sau sắp xếp phải thực hiện được quản lý của cơ quan thú y.

-2-

1.2. Về thủy sản:a. Nuôi trồng thủy sản:- Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2011 là 6.900 ha/6.500 ha đạt

106,15% kế hoạch, sản lượng 14.250 tấn (đạt 95% kế hoạch). Cụ thể: + Diện tích nuôi thủy sản nước ngọt 4.700 ha (nuôi hồ chứa là 4.110 ha; nuôi ao hồ nhỏ là 690 ha), đạt 102,17 % KH. Đối tượng nuôi thủy sản nước ngọt đa dạng, các nhóm cá có thể xuất khẩu như rô phi, điêu hồng, cá tra được nuôi thâm canh theo qui trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (Công ty TNHH Hải Hà, Công ty TNHH Á Châu...). Các nhóm đối tượng thủy sản nuôi nông hộ như cá tra, rô phi, điêu hồng, cá lóc, trắm, trôi, mè, chép,… để tiêu thụ nội địa. Ngoài ra, có nhiều nông hộ thực hiện nuôi trong bể xi măng các đối tượng như ba ba, ếch, cá lóc, trê phi,… cho năng suất và hiệu quả kinh tế rất cao.

+ Diện tích thả nuôi thủy sản nước lợ là 2.200 ha/1.900 ha đạt 115,79% KH. Trong đó: nuôi vùng triều là 2.004 ha (tôm thẻ chân trắng 1.139 ha, tôm sú chuyên canh 515 ha, các đối tượng khác cua, rong câu, cá nước lợ: 350 ha) và nuôi trên cát là 268 ha tăng 6,6 % so với năm 2010;

- Về sản xuất giống thủy sản:

+ Sản xuất tôm giống: cả tỉnh có 71 cơ sở sản xuất và lưu giữ tôm giống, trong đó có 37 cơ sở sản xuất tôm sú và 34 cơ sở lưu giữ giống tôm thẻ; sản xuất khoảng 190 triệu con tôm sú (trung bình 5,2 triệu con/cơ sở), trong đó khoảng 50 triệu con bán cho người nuôi trên địa bàn tỉnh, số còn lại xuất bán các tỉnh khác.

+ Sản xuất giống thủy sản nước ngọt: có 9 cơ sở sản xuất và lưu giữ giống thủy sản nước ngọt với qui mô diện tích từ 0,5 đến 16,5 ha/cơ sở; khối lượng xuất bán khoảng 11 triệu con. Hiện tại chỉ có Trung tâm giống Thủy sản Quảng Nam và Công ty TNHH Viet No sản xuất giống cá rô phi, điêu hồng và nhóm cá truyền thống để cung cấp cho nhu cầu nuôi thủy sản nước ngọt tại địa phương và một phần xuất đi các tỉnh khác. Các cơ sở còn lại thực hiện việc ương nuôi con giống để xuất bán cho người nuôi cá nước ngọt trong tỉnh.

b. Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản: - Tổng sản lượng khai thác hải sản ước cả năm 60.750 tấn/52.000 tấn đạt

116,83% KH. Năng lực tàu thuyền khai thác cũng được tăng lên, trong năm ngư dân đóng mới 25 tàu cá có công suất từ 250 CV đến 800 CV để vươn xa khai thác.

- Các nghề khai thác ở vùng khơi như câu mực, vây ngày, vây ánh sáng trong quá trình khai thác thường đi theo tổ, đội đoàn kết để hỗ trợ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và cứu hộ, cứu nạn khi gặp sự cố trên biển. Nhờ vậy, trong thời gian qua, hoạt động sản xuất trên biển không xảy ra sự cố, tai nạn nghiêm trọng, cũng như không có tàu cá trong tỉnh bị nước ngoài bắt giữ.

- Công tác chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất, thực hiện cụ thể các chính sách trong nghề cá của Chính phủ, của tỉnh được chú trọng triển khai, giúp ngư dân phát triển sản xuất theo hướng bền vững, hiệu quả, an toàn và tham gia bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của tổ quốc. Ngoài ra, các hoạt động chuyên môn trên các lĩnh vực quản lý nguồn lợi và quản lý tàu cá, thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản luôn được tăng cường và đạt kết quả tốt.

-3-

1.3. Lâm nghiệp:- Diện tích trồng rừng tập trung năm 2011 ước đạt 11.100 ha, tăng 5,1%

so với năm trước (tăng 542 ha); trong đó: theo vốn ngân sách nhà nước và các Dự án ODA đạt 4.350 ha/4.922 ha, đạt 88,4% KH. Thực hiện giao khoán QLBVR, khoanh nuôi bảo vệ rừng 58.000 ha/58.000 ha, đạt 100% KH.

- Sản lượng gỗ khai thác năm 2011 ước đạt 205.000 m3/190.000 m3 đạt 107,8% KH, tăng 15.735 m3 so với năm 2010.

- Tham mưu UBND tỉnh phát động “Tết trồng cây” nhân dịp xuân Tân Mão 2011 trên địa bàn tỉnh. Chỉ đạo thực hiện công tác thanh quyết toán và đã tổng kết Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2010.

- Thực hiện chủ trương cuả Tỉnh uỷ, UBND tỉnh về phát triển cây cao su: Diện tích cây cao su trên địa bàn tỉnh đến cuối năm 2011 ước đạt 6.950 ha, trong đó 1.450 ha đang khai thác mủ, sản lượng mủ ước đạt 1.450 tấn. Đến nay cây cao su đã mở rộng ra các huyện miền núi phía Tây của Tỉnh gồm: Phước Sơn, Nam Giang, Tây Giang, Đông Giang, Nông Sơn, Bắc Trà My, Núi Thành và Thăng Bình. Một số huyện khác như Nam Trà My, Tiên Phước cũng đang xúc tiến các thủ tục quy hoạch, lập dự án đầu tư để phát triển cây cao su trong thời gian đến.

- Tổ chức Hội nghị sơ kết công tác triển khai thực hiện Chương trình hành động của UBND tỉnh về tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo Nghị quyết 14 của Tỉnh uỷ và Phương án tăng cường các biện pháp kiểm tra, truy quét tình trạng khai thác, vận chuyển, mua bán trái phép lâm sản và chốt chặn các địa bàn trọng điểm trước, trong và sau tết Nguyên đán năm 2011 của UBND tỉnh. Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Phương án bảo vệ rừng và PCCCR tại các địa phương, đơn vị, chủ rừng. Chỉ đạo lực lượng kiểm lâm thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát việc khai thác gỗ và lâm sản trên địa bàn.

- Chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc công tác trồng rừng thay thế tại các địa phương, đơn vị. Thẩm định trình UBND tỉnh thống nhất vùng quy hoạch phát triển trồng cây cao su đại điền và tiểu điền tại một số huyện miền núi phía Tây của tỉnh.

- Tham mưu UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng; tổ chức tập huấn, tuyên truyền, vận động và triển khai thí điểm chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Nhà máy thủy điện A Vương, Ban quản lý rừng phòng hộ A Vương và xã Macooih huyện Đông Giang.

2. Về công tác thuỷ lợi, phòng chống lụt bão và XDCB của ngành2.1. Công tác thuỷ lợi, PCLB:- Trong năm 2011, trước sức ép về quỹ thời gian giữa 2 vụ lúa còn quá

ngắn do Đông Xuân thu hoạch trễ nhưng vẫn phải đảm bảo thời gian cắt nước cho thi công các công trình trên kênh Phú Ninh và tình hình nắng hạn, nhiễm mặn đến sớm, kéo dài; nhưng nhờ chủ động phương án về bố trí giống, thời vụ, triển khai các biện pháp cấp nước đầu vụ hợp lý và thực hiện phương án chống hạn chủ động nên đảm bảo cấp nước phục vụ tưới, không để thất thu do thiếu

-4-

nước trong các khu tưới ổn định. Cùng với đầu tư xây dựng, nâng cấp, sửa chữa một số công trình thủy lợi nên tổng diện tích tưới trong năm 2011 đạt 76.019 ha gieo trồng lúa (trong đó, Đông Xuân: 37.817 ha, Hè Thu: 38.202 ha) và gần 12.000 gieo trồng màu.

- Thực hiện nhiệm vụ thường trực phòng chống lụt bão và phối hợp tìm kiếm cứu nạn (PCLB&PHTKCN) tàu thuyền nghề cá; ngay từ đầu năm, Sở đã thực hiện rà soát, kiểm tra các điều kiện đảm bảo phục vụ công tác thường trực PCLB&PH TKCN của các đơn vị. Đồng thời, xây dựng phương án PCLB&PH TKCN, lịch trực ban và tổ chức thường trực PCLB tại đơn vị; kịp thời tham mưu Ban chỉ huy PCLB tỉnh triển khai các phương án, đảm bảo an toàn khi có mưa bão xảy ra.

2.2. Công tác XDCB:Tập trung triển khai thực hiện kế hoạch vốn 2011 được bố trí cho các dự

án, chương trình đầu tư xây dựng cơ bản qua Ngành, gồm nhiều nguồn vốn khác nhau; kết quả thực hiện như sau:

- Tiếp tục thi công và hoàn thành các công trình nâng cấp hồ chứa nước An Tây, Hóc Hạ, Khe Cát, Nước Zút. Triển khai thi công tuyến đê biển Duy Vinh huyện Duy Xuyên; kè Nam sông Bà Rén giai đoạn 2; thi công hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng các công trình, các gói thầu còn lại để kết thúc Tiểu dự án Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi Phú Ninh.

- Thi công 3 dự án (đầu tư bổ sung) về xử lý khẩn cấp: Kè chống sạt lở bờ sông Thu Bồn khu vực thôn Lệ Bắc xã Duy Châu; Sửa chữa, nâng cấp kè Vân Ly xã Điện Quang; Nâng cấp kênh N22 Phú Ninh và xây dựng xi phông trên kênh; sửa chữa kè An Phước xã Duy Phước.

- Tiếp tục thi công và hoàn thành các công trình còn lại để nghiệm thu bàn giao, kết thúc dự án Phát triển tỉnh và 8 Tiểu dự án chuyển tiếp của năm 2010, triển khai thi công 7 Tiểu dự án còn lại của dự án Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh miền Trung tỉnh Quảng Nam; một số công trình của dự án Hạ tầng giống nông lâm nghiệp, nâng cấp Trung tâm Giống thủy sản nước ngọt cấp 1 Phú Ninh, Hạ tầng khu sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập trung Quảng Nam.

- Hoàn chỉnh các thủ tục chuẩn bị đầu tư và trình duyệt dự án cảng cá Hồng Triều, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Cửa Đại (thành phố Hội An) và chuẩn bị đầu tư một số công trình như hồ Đồng Bò, Lộc Đại, Suối Thơ, kè chống sạt lở bờ sông Bàu Sấu hạ lưu đập Bàu Nít; sửa chữa nâng cấp hồ Đá Vách, hồ Chấn Sơn...; giai đoạn 2 Tiểu dự án Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi Phú Ninh, dự án Phát triển tỉnh Quảng Nam và chuẩn bị đầu tư dự án Quản lý thiên tai (WB5)...

- Tiếp tục thi công và hoàn thành 6 công trình cấp nước kế hoạch 2011 (nguồn vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia); hoàn chỉnh các thủ tục chuẩn bị đầu tư Tiểu dự án thí điểm Cấp nước tập trung cho thị trấn Tơ Viêng huyện Tây Giang và chuần bị đầu tư 3 tiểu dự án tiềm năng (nguồn vay ADB).

Giá trị khối lượng thực hiện đến cuối tháng 10 đạt 90,4 % KH; trong đó đã giải ngân đạt 69,4 % KH. Nhìn chung tình hình về XDCB toàn Ngành đáp ứng yêu cầu kế hoạch đề ra, tuy nhiên có một số công trình vẫn còn chậm như:

-5-

các tuyến kênh nhánh hồ chứa Nước Zút; Hạ tầng Khu sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập trung Quảng Nam; hệ thống cấp nước Bà Bầu - An Khuông, cấp nước Điện Ngọc thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sách và VSMTNT; đường ô tô Quế Lâm thuộc dự án Phát triển tỉnh Quảng Nam ... Tỉ lệ giải ngân đạt thấp so với khối lượng thực hiện và nguồn vốn được giao do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu một số công trình nguồn vốn giao chậm; các Ban quản lý dự án tổ chức chỉ đạo tiến độ thi công chưa thật kiên quyết, chậm hoàn tất các thủ tục nghiệm thu thanh toán, các địa phương giải tỏa bàn giao mặt bằng chưa kịp thời, ...

3. Phát triển kinh tế nông thôn 3.1. Tiếp tục triển khai Chương trình hành động của Tỉnh uỷ thực hiện

Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn:

- Đã tham mưu UBND tỉnh báo cáo Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH TW Đảng; Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 6 (khóa XX) đã ban hành Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 01/9/2011 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

- Tham mưu trình UBND tỉnh ban hành Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 5/8/2011 về Cơ chế khuyến khích thực hiện chủ trương dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015; từ nay đến cuối năm tiếp tục trình UBND tỉnh 03 Cơ chế hỗ trợ đầu tư về: Đề án đẩy mạnh cơ giới hoá một số khâu trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2015 (UBND tỉnh đã chỉ đạo trình HĐND); Đề án phát triển kinh tế vườn, gắn với chỉnh trang vườn nhà giai đoạn 2011-2015 và Đề án phát triển chăn nuôi hàng hóa giai đoạn 2011-2015.

3.2. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Đã kiện toàn bộ máy tổ chức, quản lý điều hành thực hiện Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới từ tỉnh đến cơ sở.- Tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình nông thôn mới cho 50 xã điểm

giai đoạn 2011-2015; thực hiện công tác rà soát, đánh giá thực trạng nông thôn; lập Đề án xây dựng nông thôn mới cấp xã giai đoạn 2011-2015; tập huấn triển khai Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011 hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2010-2020.

- Trong năm đã chuẩn bị nội dung Tỉnh ủy tổ chức sơ kết đánh giá kết quả mô hình thí điểm xã nông thôn mới Tam Phước. Tổ chức thẩm định các tiêu chí NTM tại xã Tam Phước trình UBND tỉnh công nhận; đến nay xã điểm Tam Phước đạt 15/19 tiêu chí và phấn đấu đến cuối năm đạt thêm 03 tiêu chí nữa, riêng tiêu chí về cơ cấu lao động đến năm 2013 sẽ đạt và hoàn thành 19/19 tiêu chí.

- Ước thực hiện đến cuối năm giải ngân vốn Chương trình nông thôn mới đạt 57.216 triệu đồng/81.737 triệu đồng (đạt 70% KH); do mới có hướng dẫn Đề

-6-

cương lập quy hoạch chung xây dựng xã nông thôn mới nên phần lớn các xã thực hiện quy hoạch chậm. 3.3. Kinh tế hợp tác:

Hiện nay trên địa bàn tỉnh hiện có 119 HTXNN, trong đó thành lập mới 03 HTX (tại 2 xã Duy Châu, Duy Tân huyện Duy Xuyên và xã Tam Phước huyện Phú Ninh) và 1.171 Tổ hợp tác. Ngành đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác quản lý nhà nước về HTXNN năm 2010, phương hướng nhiệm vụ 2011; phối hợp với Sở Tài chính ban hành hướng dẫn Chế độ kế toán áp dụng cho các HTXNN quy định tại Thông tư 24/2010/TT-BTC ngày 23/02/2010 của Bộ Tài chính; mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ kế toán trưởng cho 22 học viên là kế toán trưởng HTXNN; đang phối hợp với Liên minh HTX tỉnh chuẩn bị nội dung sơ kết Nghị quyết 113/2008/NQ-HĐND ngày 30/7/2008 của HĐND tỉnh về đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã đến 2015.

3.4. Phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại:Thực hiện Chương trình phát triển KTV-KTTT giai đoạn 2007-2010 đã có

những tác động tích cực; nhất là cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn nhưng còn nhiều hạn chế trong thúc đẩy KTTT do khả năng tiếp cận vốn vay vẫn còn nhiều khó khăn. Trên địa bàn tỉnh hiện có 1.299 trang trại theo tiêu chí cũ (không tăng so với năm 2010) và đã cấp giấy chứng nhận cho 238 trang trại (đạt 18,3%).

3.5. Công tác dồn điền đổi thửa:Cùng với thực hiện CTMTQG xây dựng nông thôn mới, nhiều địa phương

đã tập trung chỉ đạo thực hiện dồn điền, đổi thửa; theo kế hoạch, năm 2011 sẽ thực hiện 2.115 ha; trong đó diện tích cần chỉnh trang là 1.388 ha tại 74 thôn, 32 xã ở địa bàn 8 huyện (Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn, Núi Thành, Phú Ninh, Quế Sơn, Thăng Bình và Tam Kỳ). Ngành đã chỉ đạo các địa phương triển khai khi thu hoạch Hè Thu và đã tham mưu UBND tỉnh phân bổ nguồn kinh phí vượt thu ngân sách cho các địa phương thực hiện theo cơ chế mới được ban hành.

3.6. Chương trình di dời dân và bố trí sắp xếp dân cư:- Đã tổ chức di dời 298 hộ/298 hộ dân (106 hộ tập trung, 192 hộ xen ghép)

thuộc đối tượng có nguy cơ sạt lở ven sông, suối, lũ quét, sạt lở núi ở địa bàn 11 huyện (Đông Giang, Tây Giang, Duy Xuyên, Bắc Trà My, Đại Lộc, Nam Trà My, Thăng Bình, Hiệp Đức, Nông Sơn, Quế Sơn và Núi Thành), đạt 100% kế hoạch và đã giải ngân vốn cho các huyện đạt 3.000/3.000 triệu đồng.

- Triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng tại 3 khu TĐC (khu Đồng Chàm xã Đại Sơn huyện Đại Lộc, khu Trà Đức xã Đại Tân huyện Đại Lộc và khu TĐC thôn 3 xã Cẩm Thanh TP Hội An) theo tiến độ kế hoạch đề ra; ước giải ngân đến cuối năm là 3.655/4.000 triệu đồng (đạt 91,4% KH giao).

- Nguồn vốn bổ sung theo Quyết định 1680/QĐ-TTg ngày 25/9/2011 của Thủ tướng về việc hỗ trợ kinh phí di dân khẩn cấp ra khỏi vùng sạt lở đất, lũ ống, lũ quét trên địa bàn tỉnh (20 tỷ đồng). Hiện nay các huyện được phân bổ kinh phí (12 tỷ đồng) như: Tiên Phước, Điện Bàn, Đại Lộc đã triển khai thực hiện các bước chuẩn bị thi công các hạng mục công trình cần thiết để tổ chức di dân khẩn cấp trong năm 2011; các hạng mục công trình bổ sung cho đơn vị (8 tỷ đồng) chủ

-7-

yếu thanh toán nợ khối lượng các công trình đang triển khai thi công, dự kiến các công trình này hoàn thành cuối năm 2011.

3.7. Chương trình MTQG Nước sạch và VSMTNT:Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên UBND tỉnh, cùng với việc củng cố

và thành lập Ban điều hành Chương trình Mục tiêu Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn từ tỉnh đến huyện, tăng cường công tác hướng dẫn và thông tin tuyên truyền, vận động quần chúng về sử dụng nước sạch, vệ sinh môi trường... đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong nhận thức về sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường của cộng đồng dân cư.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế như giao kế hoạch chậm. Đến nay mới giải ngân đạt khoảng 76,8% kế hoạch, công tác tổ chức bộ máy ở một số địa phương còn yếu, việc chỉ đạo, phối hợp giữa các phòng và UBND các xã, phối hợp giữa các ngành Nông nghiệp và PTNT, Giáo dục, Y tế trong tỉnh chưa chặt chẽ, việc theo dõi, giám sát và báo cáo đánh giá kết quả tại các địa phương chưa sâu sát, chưa kịp thời xử lý những hạn chế, thiếu sót xảy ra.

4. Về ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất4.1. Đối với công tác giống:Lợi thế của vùng sản xuất giống lúa hàng hoá trên địa bàn tỉnh đã tiếp tục

thu hút nhiều doanh nghiệp đến sản xuất, kinh doanh giống, góp phần tích cực nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất lúa. Trong vụ Đông Xuân có 24 công ty, đơn vị sản xuất giống trên địa bàn với tổng diện tích: 2.926,5 ha, trong đó lúa thuần 2.498 ha, lúa lai 331,47 ha, ngô 97 ha; Vụ Hè Thu có 12 đơn vị tham gia sản xuất giống lúa và ngô, thực hiện tại 7 huyện (ĐL, ĐB, DX, QS, TB, PN, NT) với tổng diện tích 918 ha, trong đó sản xuất giống lúa: 914 ha, sản xuất giống ngô: 4 ha.

Đi đôi với tăng cường các biện pháp quản lý để nhanh chóng xác định những giống tốt đưa vào sản xuất, công tác dẫn nhập, khảo nghiệm giống lúa tiếp tục được Ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh khuyến khích và tạo điều kiện xã hội hoá mạnh mẽ với sự tham gia của các doanh nghiệp giống. Theo định hướng của Ngành, công tác khảo nghiệm, chọn lọc đã hướng đến các yếu tố về chất lượng, thời gian sinh trưởng ngắn ngày, chống chịu được một số đối tượng sâu bệnh gây hại nguy hiểm, chống chịu được đỗ ngã và thích hợp cho sản xuất 2 vụ lúa/năm. Đã đưa được một số giống mới vào sản xuất như: PC6, TBR45, TBR36, ĐT34, N04-05, OM4900, SH2, XT28, QX2, Q.Na3 và một số giống lúa lai mới có năng suất cao, chất lượng gạo ngon và các nhiều giống ngô, lạc, rau quả mới thay các giống cũ.

4.2. Công tác khuyến nông: - Mô hình thâm canh lúa tổng hợp theo “3 giảm, 3 tăng” kết hợp ứng dụng

cơ giới hoá và sản xuất lúa hàng hoá, thâm canh lúa cải tiến “SRI”; sử dụng chế phẩm sinh học ủ phân xanh thâm canh lúa nước ở các xã miền núi để khắc phục tập quán không dùng phân gia súc của đồng bào dân tộc thiểu số, năng suất tăng từ 20 ÷ 25 tạ/ha so với tập quán sản xuất cũ trước đây; ủ phân xanh thâm canh, quản lý dịch hại trên cây tiêu bước đầu có kết quả tốt; sử dụng giống mới kết hợp xử lý bằng chế phẩm vi sinh đã giúp tăng khả năng kháng bệnh héo rũ trên cây lạc

-8-

rất cao, năng suất lạc tăng gấp 2 lần đối chứng; mô hình nhân giống lạc mới trên chân đất lúa không chủ động nước trong vụ Hè Thu đã được nhân rộng tại nhiều địa phương, đem lại năng suất cao và hiệu quả hơn sản xuất đại trà từ 20-30%.

- Các chương trình phát triển heo nái hướng nạc, bò lai, chăn nuôi gà thịt thả vườn theo hướng an toàn sinh học, đảm bảo vệ sinh môi trường đang được các địa phương triển khai nhân rộng ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Phú Ninh, Hội An, Tam Kỳ...

- Trong nuôi trồng thủy sản đã triển khai thực hiện các mô hình nuôi các đối tượng nước lợ (nuôi Cua biển trong ao) và nước ngọt (nuôi bán thâm canh cá Điêu hồng trong ao; nuôi cá Thát lát cườm, cá Lóc bông; nuôi ghép cá Trắm cỏ hoặc cá Rô phi) phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, nhờ đó người dân đã tự học hỏi nhân rộng mô hình, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Khai thác thủy sản đã thực hiện mô hình ứng dụng máy dò ngang trên tàu lưới vây rút chì, mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngư dân.

4.3. Công tác bảo vệ thực vật:- Làm tốt công tác dự tính, dự báo, hướng dẫn quản lý dịch hại, phát hiện

sâu bệnh hại ngay từ đầu nên đã hạn chế được thiệt hại đến mức thấp nhất. Tuy nhiên, một số nơi việc sử dụng thuốc trừ cỏ không đúng kỹ thuật, không đúng thời điểm nên cỏ còn nhiều trên đồng ruộng gây thiệt hại đến sản xuất và giảm năng suất.

- Đã chuyển giao mô hình ICM, IPM trên cây rau và IPM quy mô thôn; diệt chuột bằng mô hình bẫy cây trồng, bẩy kẹp đã đem lại hiệu quả cao cho người sản xuất.

III. Đánh giá chung: 1. Những mặt đạt đượcSản xuất Đông Xuân 2010-2011 bị ảnh hưởng bất lợi nhưng ¾ diện tích

lúa sản xuất đúng lịch, trổ bông từ ngày 01 đến 15/4 an toàn, đạt năng suất cao, đã hạn chế tối đa tình trạng mất mùa; lạc gieo tỉa sớm trên đất màu, các trà ra hoa đâm tia trong tháng 01 đến giữa tháng 02 bị mất mùa, nhưng lạc trên đất lúa màu gieo tỉa trễ năng suất đạt khá. Các cây trồng khác được mùa, được giá. Vụ sản xuất Hè Thu, bị sức ép về quỹ thời gian nhưng nhờ tăng bố trí các giống trung và ngắn ngày nên đã được mùa lớn, bù lại sụt giảm ở Đông Xuân và tính chung cả năm vẫn vượt sản lượng so với năm trước.

Trong chăn nuôi, do tỉ lệ bò lai, lợn hướng nạc tăng nên tổng đàn bị sụt giảm nhưng khối lượng các sản phẩm chủ yếu có khả năng được duy trì, không giảm tương ứng theo tổng đàn. Công tác thú y có tiến bộ ở khâu tăng cường giám sát, phát hiện bệnh sớm, có biện pháp khống chế kịp thời nên dịch không bùng phát diện rộng gây thiệt hại lớn như năm 2010. Mô hình dịch vụ thý y trọn gói ở một số xã của huyện Tiên Phước, xã Điện Quang, Điện Bàn được duy trì, phát triển; các mô hình chăn nuôi an toàn dịch bệnh; bước đầu khẳng định tính hiệu quả của các mô hình xã hội hoá công tác thú y, sẽ là biện pháp cơ bản trong phòng chống dịch bệnh. Về thủy sản, đánh bắt vượt sản lượng kế hoạch, nuôi trồng có gặp khó khăn ở nuôi tôm vụ 1 nhưng kết quả chung cả 2 vụ đạt khá,

-9-

nuôi thủy sản nước ngọt xuất hiện thêm nhiều mô hình đạt hiệu quả cao nên tăng trưởng giá trị thủy sản đạt cao.

Tính chung giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2011 tăng 2,76% so với năm 2010, nếu loại trừ yếu tố sai số hệ thống của thống kê chăn nuôi, có thể đánh giá kết quả chung đạt khá; là mức tăng hợp lý nhờ những sự tập trung chỉ đạo điều hành của chính quyền các cấp, của Ngành Nông nghiệp và nỗ lực vượt khó của nông dân.

2. Tồn tại hạn chế - Vụ sản xuất Đông Xuân 2010-2011, như đã phân tích, mất mùa ở một số

trà lúa nước trời và trà lúa có tưới trổ muộn bị giảm năng suất do các ngày mưa vào 17-19/4 là không thể tránh khỏi. Nhưng mất mùa do sử dụng giống ngắn ngày sạ trước lịch hoặc sạ ở hạ tuần tháng 12 theo lịch của giống dài ngày, trổ bông từ 15 - 30/3 bị giảm năng suất là một tồn tại chủ quan.

- Ngành Nông nghiệp và PTNT đã dự tính, dự báo xác đúng thực tế, có tổ chức tập huấn đầu vụ và kịp thời có văn bản chỉ đạo theo diễn biến tình hình dịch hại trên đồng ruộng nhưng việc tổ chức phòng trừ một số đối tượng sâu bệnh hại của nông dân chưa kịp thời, dẫn đến rầy nâu gây cháy chòm cục bộ và đặc biệt bệnh đạo ôn gây thiệt hại nặng trên các giống nhiễm như BC15, Q.Nam1, Xi23, KD18, nếp, ... ở nhiều chân ruộng.

- Mặc dù, ngay từ đầu năm đã đặt công tác phòng chống dịch lên nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo nhưng công tác triển khai các biện pháp phòng dịch trong chăn nuôi còn nhiều yếu kém trong tất cả các khâu từ trách nhiệm của người chăn nuôi đến các biện pháp quản lý, chỉ đạo của cơ quan chuyên môn và chính quyền các cấp do thiếu các điều kiện đồng bộ. Chưa thực hiện được chăn nuôi an toàn sinh học nhưng tiêm vắc-xin phòng bệnh vẫn đạt tỉ lệ thấp. Khi đã có dịch việc triển khai các biện pháp phòng, chống chưa kịp thời, triệt để.

- Tình trạng thả tôm nuôi trước lịch thời vụ vẫn tiếp tục xảy ra; môi trường vùng nuôi ngày càng bị ô nhiễm, thiếu các điều kiện để cải tạo; chưa thực sự phát huy được các yếu tố tích cực trong quản lý nuôi tôm an toàn dịch bệnh dựa vào cộng đồng... nên bệnh trên tôm nuôi ở vụ 1 xảy ra rải rác nhưng kéo dài gây thiệt hại cho người nuôi, sụt giảm sản lượng tôm nuôi. Trong khai thác hải sản, công tác điều tra, dự báo ngư trường, nguồn lợi của các cơ quan chức năng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ngư trường xa bờ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn việc tổ chức sản xuất trên biển của bà con ngư dân ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thu được từ nghề khai thác.

- Tiến độ giao đất, giao rừng chậm, nhiều diện tích rừng chưa có chủ rừng thực sự là một thách thức không nhỏ đối với công tác bảo vệ rừng.

3. Những bài học kinh nghiệm- Việc bố trí sản xuất đúng lịch thời vụ, đúng cơ cấu giống lúa là yếu tố có

tính quyết định nâng cao năng suất. Vì vậy, các địa phương cần rút kinh nghiệm trong chỉ đạo, không có tư tưởng làm lúa Đông Xuân sớm trước lịch; các đơn vị chuyên môn của tỉnh cần tập trung hướng dẫn sản xuất, tập huấn ngay từ đầu vụ, bố trí sản xuất, thâm canh cây lúa theo quy trình hướng dẫn của Sở.

-10-

- Tuỳ theo quỹ thời gian, thời điểm bắt đầu, kết thúc gieo sạ cụ thể mà sử dụng cơ cấu giống phù hợp. Trong điều kiện vụ Hè Thu năm nay phải gieo sạ trễ, chân ruộng nào tuân thủ hướng dẫn của Sở về sử dụng các giống lúa trung, ngắn ngày vẫn đảm bảo gặt xong trước 15/9, đạt năng suất cao; ngược lại những chân ruộng sử dụng giống dài ngày, sạ trễ ở tháng 6 đã bị mưa ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng gạo và hiệu quả, nhìn chung thua hẳn các giống ngắn ngày.

- Địa phương nào có tổ chức thủy nông cơ sở hoạt động tốt thì khâu điều hành nước đảm bảo; ngược lại, nơi hoạt động kém hoặc không có tổ chức thủy nông cơ sở để từng hộ nông dân tự lo đã xảy ra tình trạng tranh chấp nước, vùng đầu kênh ruộng ngập nước nhưng vùng giữa và cuối kênh lại chưa có nước.

- Trong điều kiện nắng hạn năm nay, nhiều cánh đồng lúa gieo của Quế Sơn, Thăng Bình chuyển đổi sang cây trồng cạn có hiệu quả hơn hẳn sản xuất lúa; cần điều tra, tổng kết và quy hoạch chuyển đổi mạnh trong những năm đến.

- Trong chăn nuôi - thú y, công tác tiêm phòng đối với các bệnh đỏ đạt ngưỡng phòng dịch là điều kiện tiên quyết hạn chế dịch bệnh. Địa phương nào quan tâm thật sự và chỉ đạo quyết liệt trong việc tiêm phòng, củng cố đội ngũ thú y cơ sở vững mạnh thì địa phương đó ít xảy ra dịch; công tác phát hiện, thông tin, báo cáo tình hình dịch kịp thời để bao vây, dập tắt, tiêu hủy dịch ngay từ đầu sẽ hạn chế lây lan bùng phát dịch.

Phần thứ haiKẾ HOẠCH NĂM 2012

I. Một số chỉ tiêu chủ yếu: - Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm : 157.000 haTrong đó, diện tích gieo trồng lúa : 86.900 ha- Sản lượng lương thực có hạt : 488.545 tấn- Diện tích được tưới bằng các biện pháp : 87.900 ha(75.900 ha đất lúa, tăng 260 ha và 12.000 ha màu)

- Tổng đàn gia súc : 811.000 conTrong đó: + Trâu : 71.000 con + Bò : 160.000 con + Lợn : 580.000 con- Tổng đàn gia cầm 5.000.000 con- Diện tích trồng rừng tập trung (vốn NS và ODA)

: 4.545 ha

Trong đó: + Rừng phòng hộ, đặc dụng : 690 ha + Rừng sản xuất : 3.855 ha- Sản lượng khai thác hải sản : 60.000 tấn- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản : 7.400 ha- Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản : 16.000 tấn

II. Giải pháp thực hiện kế hoạch: 1. Về sản xuất nông, lâm, thuỷ sản1.1. Trồng trọt:

-11-

- Đẩy mạnh ứng dụng chương trình “3 giảm, 3 tăng”, chương trình thâm canh lúa cải tiến (SRI) kết hợp với cơ giới hoá từ gieo trồng đến thu hoạch; tăng cường đầu tư thâm canh, quản lý dịch bệnh có hiệu quả để tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất lúa.

- Ưu tiên sử dụng những giống lúa có TGST trung và ngắn ngày (Đông Xuân dưới 120 ngày, Hè Thu dưới 110 ngày) để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh thời vụ, tăng khả năng lách tránh thiên tai ngày càng xuất hiện với tần suất cao; cùng với cơ giới hoá, bố trí gieo sạ, trổ và gặt tập trung trong thời gian không quá 15 ngày/vụ, để thuận tiện trong điều hành tưới, quản lý dịch bệnh (nhất là rầy nâu), khắc phục tình trạng sạ giống ngắn ngày vào trà đầu của giống dài ngày (ở Đông Xuân) gây mất mùa. Hiện nay, đã xác định được nhiều giống lúa thường, lúa lai có năng suất, chất lượng gạo cao đáp ứng nhu cầu của thị trường; cần mạnh dạn giảm và đi đến loại bỏ những giống tồn tại trong sản xuất nhiều năm đã có biểu hiện xuống cấp, nhiễm sâu bệnh nặng như 13/2, KD18...

- Các huyện đồng bằng chọn điểm, có thể ưu tiên chọn các xã điểm nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015, đầu tư xây dựng một số cánh đồng mẫu theo chủ trương “cánh đồng mẫu lớn” của Bộ Nông nghiệp và PTNT để thực hiện dồn điền đổi thửa, gắn với kiên cố hóa kênh mương, giao thông nội đồng, đẩy mạnh cơ giới hóa và áp dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ nông nghiệp một cách đồng bộ. Cánh đồng mẫu cần quy hoạch để thực hiện nhiệm vụ sản xuất lúa có giá trị gia tăng cao như: vùng sản xuất giống lúa để có thể bố trí thời vụ đáp ứng yêu cầu sản xuất giống hàng hoá; vùng lúa chất lượng cao áp dụng quy trình thâm canh tổng hợp; cần xúc tiến sản xuất theo hướng VietGAP gắn với đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm ổn định.

- Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn theo hướng VietGap để phát triển bền vững cho ngành sản xuất rau. Ngoài 2 mô hình tại Bình Triều, Duy Phước, các vùng có điều kiện khác như Trà Quế (Hội An), Bàu Tròn (Đại Lộc) xúc tiến sản xuất có đăng ký chứng nhận VietGAP, gắn với thiết kế kênh tiêu thụ ổn định để mở đường cho mở rộng sản xuất rau VietGAP.

- Diện tích lúa gieo và các vùng tưới không ổn định, trừ chân đất địa hình thấp trũng bắt buộc phải sản xuất lúa, diện tích còn lại cần quy hoạch cụ thể đến từng cánh đồng để chuyển đổi sang các cây trồng cạn khác có hiệu quả cao hơn, theo các định hướng sau đây:

+ Chân đất địa hình cao, có khả năng giải quyết tưới bổ sung theo lứa cho cây trồng cạn (bao gồm vùng cuối kênh, vùng các trạm bơm bị nhiễm mặn): có thể sản xuất lạc, ngô (xen đậu xanh, đậu cô ve), các loại rau ăn quả, khoai lang, khoai môn/ khoai choái vụ Đông và Đông Xuân sớm...; mè, đậu xanh vụ Hè , Hè Thu.

+ Chân đất địa hình cao, không thể giải quyết tưới bổ sung: trồng sắn xen lạc, đậu xanh, đậu cô ve khi kết thúc mưa lụt (cuối tháng 11 đến giữa tháng 12); thu hoạch sắn vào tháng 8 đầu tháng 9, trồng khoai lang hoặc bỏ hoá vụ Đông. Có thể lập thủ tục chuyển sang trồng keo những năm đầu có thể xen sắn, các cây họ đậu.

-12-

+ Diện tích thường xuyên bị ngập úng, nước tưới bị nhiễm mặn ở ven sông của vùng đông Điện Bàn, Tam Kỳ, nghiên cứu kiến tạo ao nuôi để chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản.

- Quy hoạch, xác định địa điểm, giải pháp cụ thể để tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hỗ trợ thủy lợi hóa đất màu nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất cây màu. Đa dạng về chủng loại và cơ cấu rãi vụ đối với nhóm rau để hạn chế tác động bất lợi của khâu tiêu thụ; mở rộng diện tích các cây trồng có đầu ra ổn định như: ngô, lạc và các loại đậu đỗ, mè, khôi phục các vùng thâm canh khoai lang truyền thống; mở rộng diện tích trồng gừng, nghệ, khoai môn, khoai choái ở đất gò đồi trung du, miền núi.

- Tiếp tục thực hiện tốt công tác dự tính, dự báo và hướng dẫn quản lý dịch hại tổng hợp.

1.2. Chăn nuôi: Xác định công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi, không để các

dịch bệnh nguy hiểm xảy ra là biện pháp ưu tiên hàng đầu để chăn nuôi phát triển bền vững, ổn định. Tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây:

- Từng bước vận động, hướng dẫn các quy mô nuôi phù hợp, gắn với an toàn toàn dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh môi trường theo các phương thức:

+ Tạo điều kiện thuận lợi về đất đai để khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại. Đồng thời, phải chú ý hướng dẫn, thẩm định và giám sát việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường; yêu cầu chủ trang trại phải xây dựng hầm biogas phù hợp với quy mô đàn và sử dụng các chế phẩm vi sinh để xử lý mùi hôi.

+ Cùng với thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, vận động người dân thực hiện chăn nuôi an toàn dịch bệnh với quy mô đàn phù hợp (không nuôi quảng canh nhỏ lẻ, nuôi ghép nhiều loài nhưng không nuôi quy mô đàn quá lớn gây ô nhiễm môi trường), xây dựng chuồng trại phù hợp, cách biệt với nhà ở, cách ly với các nguồn lây nhiễm bệnh; vận động, tiến đến bắt buộc phải xây hầm biogas; phải thực hiện tiêm phòng bắt buộc.

Riêng vùng núi, tích cực vận động chăn nuôi có chuồng trại, không thả rông trâu, bò vào núi. Đồng thời, thông báo công khai với người chăn nuôi là nhà nước sẽ không thực hiện hỗ trợ khi trâu, bò không được quản lý, thả rông vào núi bị chết do đói, rét, dịch bệnh.

- Cần tích cực đánh giá, bổ sung, khắc phục những mặt hạn chế để chỉ đạo nhân rộng các mô hình chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh tốt như: Hội chăn nuôi gà ở Duy Châu, Câu lạc bộ chăn nuôi lợn ở Duy Thành, dịch vụ “bảo hiểm vật nuôi” ở Điện Quang ...; tiến đến xây dựng những vùng nuôi đăng ký chứng nhận an toàn dịch bệnh.

- Thực hiện chương trình cải tạo đàn bò, nạc hoá đàn lợn, gà giống mới trong chăn nuôi công nghiệp hoặc thả vườn có quản lý là hướng chính, chiếm tỉ trọng chủ yếu của khối lượng sản phẩm chăn nuôi hàng hoá, để nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị ngành chăn nuôi dựa vào thay đổi chất lượng. Đồng thời, khôi phục, phát triển các giống vật nuôi địa phương, vật nuôi hoang dã, để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các phân khúc thị trường.

-13-

- Chăn nuôi trâu, bò đang có hiệu quả rất cao nhờ giá ổn định ở mức cao, dịch bệnh ở trâu bò không gây chết hàng loạt như lợn, gia cầm. Song, hiện nay do giảm vùng chăn thả tự nhiên, thiếu lao động chăn dắt là một trong những nguyên nhân sụt giảm tổng đàn trâu, bò. Cần thực hiện quy hoạch và tập trung chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất thức ăn thô xanh, cùng với tận dụng bảo quản, chế biến nguồn phụ phẩm nông nghiệp (rơm, thân lá cây họ đậu...) để làm thức ăn là giải pháp cho chăn nuôi trâu, bò phát triển. Đối với chăn nuôi thâm canh lợn và gia cầm, bên cạnh việc sử dụng thức ăn công nghiệp; cần hướng dẫn người chăn nuôi cách phối trộn, chế biến thức ăn từ nguồn nông sản và các nguyên liệu sẵn có để hạ giá thành sản xuất.

- Về phòng chống dịch bệnh:+ Điều tra, đánh giá năng lực đội ngũ thú y cơ sở, các doanh nghiệp, đại lý

kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi - thú y; tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động hành nghề thú y và kinh doanh, dịch vụ đầu vào của chăn nuôi. Đồng thời, phát huy vai trò của thú y tư nhân và các doanh nghiệp, đại lý kinh doanh trong lĩnh vực chăn nuôi - thú y; đảm bảo sự cung ứng rộng rãi vắc xin và các dịch vụ thú y để tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ cho người chăn nuôi. Tập trung tổ chức chỉ đạo mở rộng dịch vụ thú y trọn gói, là phương thức tiến bộ để thay thế cho cách phòng chống dịch như hiện nay.

+ Xây dựng bản đồ dịch tễ và hồ sơ dữ liệu về dịch bệnh đối với các loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm (Tai xanh, Lở mồm long móng, Cúm gia cầm) để quản lý dịch bệnh đến từng thôn, tổ. Chỉ đạo quyết liệt để đẩy mạnh công tác tiêm phòng gia súc, kể cả việc triển khai tiêm phòng bệnh Tai xanh ở lợn, đảm bảo đạt tỷ lệ từ 80% trở lên.

+ Hoàn thành công tác kiểm tra, đánh giá phân loại và sắp xếp lại các cơ sở, điểm giết mổ gia súc gia cầm tập trung theo tinh thần Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 07/7/2011 của UBND tỉnh xong trong năm 2011. Sở Nông nghiệp và PTNT sẽ trực tiếp kiểm tra tính hợp lý của phương án sắp xếp của các địa phương và quyết định thời điểm đồng loạt thực hiện dừng hoạt động các điểm, cơ sở giết mổ nằm ngoài danh sách được phép hoạt động trên địa bàn toàn tỉnh (trọng điểm là các huyện đồng bằng); thực hiện tháng ra quân lập lại trật tự, thực hiện tiêu huỷ sản phẩm gia súc, gia cầm không qua kiểm soát giết mổ; xử lý triệt để các trường hợp vi phạm giết mổ, kinh doanh gia súc, gia cầm và sản phẩm động vật trái phép. Thông qua kiểm tra giấy chứng nhận tiêm phòng đối với vật nuôi đầu vào ở các cơ sở giết mổ để chế tài thực hiện tiêm phòng bắt buộc.

1.3. Lâm nghiệp: - Tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng theo Quyết định

48/2007/QĐ-UBND của UBND tỉnh cho phù hợp với thực tiễn theo đề nghị của các địa phương, đồng thời với việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (kể cả quy hoạch trồng cao su) để có cơ sở thống nhất triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, làm cơ sở chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện và quản lý trên lĩnh vực lâm nghiệp; triển khai các nội dung Chương trình bảo vệ và phát triển rừng 2011 – 2015 của Chính phủ.

-14-

- Bên cạnh việc tiếp tục duy trì thực hiện các biện pháp cấp bách, đấu tranh chống phá rừng trái phép; nghiên cứu hoàn thiện về tổ chức, phương thức, phân định rõ trách nhiệm giữa ngành và địa phương, giữa các đơn vị liên quan đến QLBVR thuộc Sở, để tạo bước chuyển biến căn bản, bền vững trong QLBVR. Tăng cường năng lực của lực lượng kiểm lâm, cùng với nghiên cứu hình thành tổ chức kiểm lâm trong các BQLRPH để làm lực lượng “chuyên nghiệp” QLBVR. Sắp xếp, đổi mới tổ chức hoạt động của các BQL rừng phòng hộ trên địa bàn tỉnh gắn với việc rà soát, điều chỉnh lâm phận của các BQL theo hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực sông, hồ chứa thủy điện liền vùng, liền dãi, nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và đảm bảo điều kiện triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trong thời gian đến.

- Lập đề án và triển khai thực hiện việc giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh theo Thông tư số 38/2007/TT-BNN ngày 25/4/2007 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Thông tư Liên tịch số 07/2011/TTLT-BNNPTNT-BTNMT ngày 29/01/2011 của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

- Chỉ đạo triển khai thực hiện việc lập Đề án về giá các loại rừng trên địa bàn tỉnh theo Nghị định số 48/2007/NĐ-CP ngày 28/3/2007 của Chính phủ về nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng, Thông tư liên tịch số 65/2008/TTLT-BNN-BTC ngày 26/5/2008 của liên Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Tài Chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 48/2007/NĐ-CP ngày 28/3/2007của Chính phủ để báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua trước khi trình UBND tỉnh phê duyệt nhằm làm cơ sở cho việc tính tiền khi giao rừng, cho thuê rừng, bồi thường khi thu hồi rừng, tính giá trị để giao vốn cho các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp; giá trị vốn góp bằng quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng trồng của nhà nước tại doanh nghiệp.

- Phối hợp với các ngành có liên quan và địa phương xây dựng kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và các Đề án, dự án liên quan theo Nghị định số 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ trình UBND tỉnh thống nhất phê duyệt để triển khai thực hiện.

- Nghiên cứu, điều tra thực tế để tham mưu điều chỉnh cơ chế hỗ trợ phát triển cao su tiểu điền nhằm tạo điều kiện cho người dân khu vực trung du, miền núi đẩy mạnh phát triển gắn với vùng trồng cao su đại điền.

1.4. Thuỷ sản:

a/ Nuôi trồng:- Đối với thủy sản nước lợ: ứng dụng phương thức nuôi theo hướng cải

thiện môi trường, hạn chế dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như nuôi tôm thẻ chân trắng theo hướng GAP, nuôi cua...

- Đối với thủy sản nước ngọt: Tập trung phát triển nuôi các đối tượng như cá điêu hồng, cá rô phi đơn tính trong ao, lồng bè trong hồ chứa thuỷ lợi, thuỷ điện, nhằm chuyển dịch nuôi thủy sản theo hướng bán thâm canh, thâm canh, sản xuất hàng hóa, nâng cao được giá trị, đồng thời gắn kết được với thị trường tiêu thụ sản phẩm, bên cạnh đó tiếp tục đưa thêm đối tượng thủy đặc sản có giá trị

-15-

kinh tế cao như tôm càng xanh, cá lóc bông,... nhằm từng bước đa dạng hóa đối tượng nuôi, tăng giá trị và thu nhập cho người nuôi. Ở vùng trung du và miền núi từng bước đầu tư phát triển nuôi cá có tính tập trung bằng lồng bè trong các hồ chứa thủy lợi, thủy điện, nuôi trong ao hồ nhỏ thì chú trọng nuôi ghép một số đối tượng cá nước ngọt như rô phi đơn tính, cá trắm cỏ, tận dụng điều kiện sẵn có tại địa phương để tạo nguồn thực phẩm tươi cải thiện đời sống góp phần xóa đói giảm nghèo.

- Tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất giống; tăng cường công tác quản lý nhà nước về giống thuỷ sản, nhất là đối với giống tôm, đảm bảo giống chất lượng và sạch bệnh, đủ cho sản xuất.

b/ Khai thác:- Thực hiện tốt chính sách theo Quyết định 48/2010/QĐ-TTg ngày

13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích, hỗ trợ tàu cá khai thác, dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa. Đề xuất tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh việc thực hiện các cơ chế, chính sách của tỉnh; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chế theo Quyết định 20/2010/QĐ-UBND ngày 08/9/2010 phê duyệt Đề án hỗ trợ đóng mới, cải hoán tàu thuyền đánh bắt xa bờ giai đoạn 2011 – 2015 của tỉnh nhằm khuyến khích ngư dân vươn khơi khai thác, đồng thời tăng cường sự hiện diện dân sự trên trên các vùng biển xa, góp phần bảo vệ chủ quyền đất nước. Tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về khai thác, đánh bắt thủy hải sản của Việt Nam và các nước lân cận cho ngư dân.

- Chỉ đạo củng cố, phát huy hiệu quả các tổ, đội đoàn kết sản xuất trên biển để phối hợp, hỗ trợ nhau trong sản xuất, phòng chống thiên tai. Triển khai thực hiện tốt công tác đăng ký, đăng kiểm, quản lý các hoạt động nghề cá trên biển, trên sông ngay từ đầu năm.

2. Thuỷ lợi, XDCB - Đưa các công trình hoàn thành gồm: các hồ chứa nước: Bàu Vang, Suối

Tiên, Khe Cát, An Tây, Hóc Hạ; kiên cố kênh N2 hồ chứa Thạch Bàn, kênh N3-2 Nam Phú Ninh, kênh và xi phông trên kênh N22 Phú Ninh, mở rộng kênh tưới hồ Việt An; các công trình kè chống sạt lở, các Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá ... vào khai thác, phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân.

- Tập trung hoàn thành các công trình dỡ dang như hồ chứa Nước Zút, kiên cố kênh chính trạm bơm Tứ Câu; hạ tầng giống cây trồng, vật nuôi, cây lâm nghiệp, Trung tâm giống thuỷ sản nước ngọt cấp I Phú Ninh; các công trình thuộc Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn...

- Tiếp tục đẩy mạnh nâng cấp và kiên cố hoá hệ thống đê sông, đê biển; phát triển thủy lợi vừa và nhỏ cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đảm bảo nước tưới và sinh hoạt.

- Tiếp tục triển khai các công trình giao thông thuộc Dự án Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh miền Trung, các công trình thuộc Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn;

- Hoàn chỉnh trình phê duyệt các dự án đầu tư cho giai đoạn 2 của các dự án Phát triển tỉnh Quảng Nam, Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi Phú Ninh; chuẩn

-16-

bị điều kiện để triển khai thi công dự án thí điểm cấp nước tập trung cho thị trấn Tơ Viêng (vốn vay ADB) và xây dựng 3 tiểu dự án tiềm năng khác.

- Hoàn chỉnh việc lập và triển khai dự án xây dựng các công trình (nhà chống lũ, kè chống sạt lở, nâng cấp hồ chứa...) của Hợp phần công trình trong dự án Phòng chống giảm nhẹ thiên tai (WB5).

- Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động của thiên tai. Xây dựng phương án chủ động phòng, chống, giảm thiểu thiệt hại do mưa bão và ứng phó kịp thời có hiệu quả trước mọi tình huống.

3. Về phát triển kinh tế nông thôn- Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện xây dựng thí điểm mô hình nông

thôn mới xã Tam Phước. Tập trung chỉ đạo thực hiện các mục tiêu kế hoạch năm 2012 ở 50 xã được lựa chọn cho giai đoạn 2011 – 2015 Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới và chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới, lựa chọn thực hiện các tiêu chí ưu tiên ở các xã còn lại.

Tiếp tục phối hợp với các địa phương hướng dẫn, triển khai thực hiện công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp; thực hiện cơ chế hỗ trợ đẩy mạnh cơ giới hóa một số khâu trong sản xuất nông nghiệp và các cơ chế, chính sách khác trong nông nghiệp, nông thôn.

- Tập trung xây dựng các HTX nông nghiệp điển hình tiến tiến, phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành làm thủ tục giải thể các HTXNN làm ăn thua lỗ kéo dài; đồng thời hỗ trợ tiến hành thành lập mới các HTX, THT, các trang trại để phát triển đa dạng các loại hình giúp cho sản xuất trong nông nghiệp phát triển.

- Rà soát, điều tra lập quy hoạch bố trí, sắp xếp dân cư vùng có nguy cơ thiên tai xảy ra, thực hiện tốt công tác di dời dân (tập trung, xen ghép), trong đó tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí đất sản xuất để đảm bảo ổn định dân cư và đời sống cho nhân dân.

- Phối hợp triển khai chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; trong đó, trực tiếp đảm nhận thực hiện có hiệu quả đào tạo nghề nông để tạo bước chuyển biến về chất, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá.

4. Về khoa học công nghệ- Tiếp tục triển khai tốt năm cuối Dự án Khoa học công nghệ nông

nghiệp, tranh thủ pha 2 của dự án để tạo thêm nguồn lực cho khuyến nông ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Xây dựng chương trình, kế hoạch trung hạn để lồng ghép sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, thực hiện công tác khuyến nông ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật theo từng chương trình, có trọng tâm trọng điểm. Tiếp tục ưu tiên ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ về giống mới, quy trình sản xuất nông sản an toàn, giảm thiểu sử dụng phân và thuốc hoá học, các mô hình chăn nuôi an toàn dịch bệnh, ứng dụng công nghệ sinh học về giống mới, các chế phẩm vi sinh.

- Phối hợp với các địa phương hướng dẫn nông dân thực hiện cơ giới hóa một số khâu trong sản xuất nông nghiệp thông qua cơ chế hỗ trợ của TW và tỉnh.

-17-

- Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm nông sản và vật tư nông nghiệp, kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV, chất bảo quản, thuốc thú y, phân bón và thức ăn chăn nuôi.

-18-

Phần thứ baKẾ HOẠCH, GIẢI PHÁP TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÂY TRỒNG

VỤ ĐÔNG XUÂN 2011-2012

Đông Xuân là vụ sản xuất chính của Tỉnh, là vụ mở đầu của năm nông nghiệp với nhiều cây trồng, con vật nuôi nên có tính quyết định đến kết quả sản xuất của cả năm. Theo dự báo của cơ quan khí tượng thuỷ văn, tình hình thời tiết vụ Đông Xuân 2011-2012 như sau:

- Mùa mưa năm nay có khả năng kết thúc muộn hơn, tháng 11/2011 đến tháng 01/2012 3-5 đợt mưa lớn. Cần chú ý khi gieo sạ trà đầu;

- Nền nhiệt độ trong toàn vụ xấp xĩ hoặc thấp hơn TBNN. Có 5-7 đợt lạnh, tập trung vào khoảng cuối tháng 12/2011 đến tháng 01/2012. Tháng 12/2011 và các tháng 1,2,3/2012 nhiệt độ ở mức xấp xĩ hoặc thấp hơn TBNN.

- Tháng 11-12/2011, các sông có thể xuất hiện 2-4 đợt lũ cao, nhất có khả năng xấp xĩ báo động 3. Tháng 1/2012, dòng chảy các sông còn ở mức cao và có khả năng xuất hiện lũ muộn.

Tuy nhiên, tình hình thời tiết có những biến đổi khó lường, cần chủ động các phương án đối phó kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra, tập trung đầu tư thâm canh, quản lý tốt dịch hại để đảm bảo vụ sản xuất Đông Xuân 2011-2012 đạt thắng lợi. Một số chủ trương, giải pháp kỹ thuật chủ yếu:

1. Trồng trọt

1.1. Đối với cây lúa:a) Thời vụ:Rút kinh nghiệm từ thực tiễn sản xuất qua các năm, cùng với dự báo thời

tiết, lúa vụ Đông Xuân trổ bông ở thượng tuần tháng 4 sẽ có xác suất an toàn cao hơn. Nhưng bố trí lúa trổ theo yêu cầu này, quỹ thời gian giữa 2 vụ còn lại quá ngắn, không thể thực hiện yêu cầu bố trí thời vụ để kết thúc thu hoạch lúa Hè Thu cơ bản xong trước ngày 10/9, chậm nhất trước 15/9 để tránh bị tổn thất do mưa bão đến sớm. Sở Nông nghiệp và PTNT quyết định bố trí sản xuất Đông Xuân 2011-2012 bắt đầu gieo sạ từ ngày 25/12/2011 và kết thúc gieo sạ từ ngày 05/01/2012. Tuỳ thời gian sinh trưởng của từng giống, bố trí gieo sạ cho lúa Đông Xuân đại trà trổ từ ngày 20/3 đến ngày 05/4, kết thúc thu hoạch xong trước 05/5, đảm bảo thời gian cho lúa Hè Thu gieo sạ từ 15/5, trổ từ 05-15/8 và thu hoạch xong trước 10/9 để tránh mưa lụt.

Riêng vùng sử dụng nước của kênh chính Bắc Phú Ninh, cho lúa trổ từ 15/3 đến 25/3 để cắt nước tu sửa kênh mương từ ngày 10/4/2012, cấp lại từ ngày 15/5/2012. Lịch gieo sạ vụ Đông Xuân cụ thể như sau:

* Các vùng sử dụng nước tưới không thuộc nguồn nước kênh chính Bắc Phú Ninh:

- Nhóm giống dài ngày (trên 120 ngày): sạ từ 25-30/12/2011; - Nhóm giống trung ngày (110-120 ngày): sạ từ 01-05/01/2012;

-19-

- Nhóm giống ngắn ngày (dưới 110 ngày): sạ từ 06-10/01/2012.* Vùng sử dụng nước tưới kênh chính Bắc Phú Ninh:

- Nhóm giống dài ngày (trên 120 ngày): sạ từ 20-25/12/2012; - Nhóm giống trung ngày (110-120 ngày): sạ từ 25-30/12/2012;- Nhóm giống ngắn ngày (dưới 110 ngày): sạ từ 01-05/01/2012.* Với các huyện miền núi cao, tùy vào TGST của từng giống lúa, bố trí

gieo sạ cùng lúc hoặc trễ hơn lịch trên để lúa trổ bông từ ngày 01/4- 10/4. b) Cơ cấu giống lúa

- Các giống chính: Bố trí 70 % diện tích, gồm các giống sau: + Nhóm giống dài ngày (trên 120 ngày), gồm: Xi23, X21. + Nhóm giống trung ngày (110-120 ngày), gồm các giống lúa lai: Nhị ưu 838, Bio 404 và các giống lúa thường: TBR45, CH207.

+ Nhóm giống ngắn ngày (dưới 110 ngày) gồm các giống lúa thường: HT1, Q.Nam1.

- Các giống bổ sung: Bố trí 30% diện tích còn lại, gồm các giống sau:+ Nhóm giống dài ngày (trên 120 ngày), gồm: NP12, NP16, NX30, 13/2.

+ Nhóm giống trung ngày (110-120 ngày), gồm các giống lúa lai: Việt Lai 20, CT16 và các giống lúa thường: TBR1, BC15, ĐT34, SH63. + Nhóm giống ngắn ngày (dưới 110 ngày) gồm các giống lúa lai: TN15, TH3-3 và các giống lúa thường: Q5, TBR36, ĐV108, HT9, N04-05, KD18.

c) Giải pháp chỉ đạo, tổ chức sản xuất

- Một số vấn đề cần lưu ý trong khâu tập huấn, hướng dẫn sản xuất:+ Do qua 2 vụ Đông Xuân liên tục, có lạnh ở hạ tuần tháng 3 nhưng trước

đó có những khoảng thời gian thời tiết nắng ấm, năng suất lúa trổ sớm cao hơn trà trổ gặp lạnh; nhiều nông dân kết luận “nên sạ sớm, cho lúa trổ sớm để tránh lạnh” là trái với quy luật về thời tiết ở Quảng Nam. Phải khẳng định, quy luật chung của thời tiết Quảng Nam, là lạnh có thể xuất hiện từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau nhưng từ sau tháng 02, càng về trễ xác suất gặp lạnh càng thấp hơn. Trong vụ Đông Xuân 2010-2011, các giống lúa ngắn ngày sạ sớm, trổ gặp lạnh nên bị mất mùa; nhiều nông dân kết luận là giống dài ngày được mùa, giống ngắn ngày mất mùa” là không đúng.

+ Để đề phòng lũ muộn trôi giống, cần theo dõi kỹ dự báo thời tiết, sạ tập trung trên từng cánh đồng, chân cao sạ trước, chân trũng sạ sau.

+ Chỉ đạo cày lật đất sớm để hoai mục gốc rạ, cỏ dại, hạn chế được sâu bệnh; chuẩn bị về phân bón, các vật tư nông nghiệp khác cũng rất cần thiết, đảm bảo sản xuất chủ động ngay từ đầu vụ.

- Chỉ đạo UBND cấp xã yêu cầu các Thôn, Tổ họp dân để thảo luận, thống nhất quy hoạch thời vụ gieo sạ theo trà với các giống có cùng TGST (dài, trung, ngắn ngày) theo từng cánh đồng; trong khung thời vụ gieo sạ mỗi trà 05 ngày, cấp nước nơi xa kênh trước, nơi gần kênh sau và sạ xong giống dài ngày trước, tuần tự đến giống trung ngày, ngắn ngày theo khung lịch thời vụ đã ban hành.

- Lao động nông thôn đang thiếu, ảnh hưởng nhiều đến các yêu cầu về thời vụ, thâm canh. HTX, Thôn, Tổ cần tổ chức các chủ phương tiện cơ giới lại

-20-

thành Tổ/ nhóm hợp tác để thực hiện việc lập lịch, phân vùng làm đất, thu hoạch là biện pháp điều hành thời vụ, tránh để tự do cạnh tranh dẫn đến làm sớm, làm trễ vụ; tổ chức dịch vụ BVTV để khắc phục tình trạng một số cá nhân phun thuốc thuê tự quyết định phun thuốc một cách bừa bãi, vừa không có tác dụng phòng trừ sâu bệnh hại, vừa tăng chi phí không cần thiết và ô nhiễm môi trường.

1.2. Các cây trồng khácNgoài cây lúa, các cây màu khác cũng tập trung sản xuất trong vụ này,

riêng diện tích cây ngắn ngày không chủ động nước, cần tranh thủ tối đa thời gian, mưa tạnh là làm đất gieo tỉa ngay để tránh hạn cuối vụ. Cây ăn quả, cây dài ngày khác cũng cần tranh thủ thời gian để trồng, kết thúc các đợt mưa lớn (cuối tháng 11, đầu tháng 12 trở đi) là có thể trồng ngay.

2. Chăn nuôi – thú y

- Hướng dẫn các biện pháp phòng chống rét, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng ổn định phát triển đàn vật nuôi đảm bảo nguồn thực phẩm trước trong và sau tết. Tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống dịch tai xanh ở lợn, thực hiện tốt công tác tiêm phòng và tiêu độc khử trùng phòng chống dịch bệnh, thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình, phát hiện và xử lý kịp thời, đảm bảo dập tắt dịch trong thời gian ngắn nhất.

- Tiếp tục chỉ đạo triển khai công tác tiêm phòng cho đàn gia súc vụ Thu 2011, nhất là tiêm phòng 2 loại vắc xin LMLM và tai xanh đảm bảo kế hoạch theo Quyết định 1035/QĐ-UBND ngày 05/4/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh. Tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch và tổ chức chỉ đạo tốt công tác tiêm phòng gia súc và cúm gia cầm năm 2012 đảm bảo đạt 80% tổng đàn.

- Triển khai một bước công tác sắp xếp lại các cơ sở giết mổ theo tinh thần Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 07/7/2011 của UBND tỉnh về tăng cường công tác quản lý giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh. Chỉ đạo quản lý chặt chẽ việc lưu thông, mua bán gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh, nhất là công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y, vệ sinh ATTP.

3. Thủy sản:3.1/ Nuôi trồng thủy sản:

- Tổ chức Hội thảo về lịch thời vụ nuôi trồng thủy sản năm 2012. Tổ chức tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn xử lý môi trường, cải tạo ao nuôi, phòng trừ dịch bệnh trên tôm nuôi và chỉ đạo chặt chẽ lịch thời vụ nuôi tôm vụ 1, kinh nghiệm năm qua cho thấy, nếu thả nuôi tôm, cá quá sớm (trước tháng 3), thời tiết chuyển mùa (lạnh, nắng xen kẽ), cùng với con giống chất lượng không cao, vệ sinh ao chưa tốt làm dịch bệnh phát sinh, sẽ gây thiệt hại cho cộn đồng.

- Thường xuyên theo dõi và kiểm tra các yếu tố môi trường để thông báo nguyên nhân xảy ra dịch bệnh trên tôm cho các hộ nuôi nhằm giúp người nuôi chủ động phòng, trừ có hiệu quả.

- Tăng cường kiểm tra điều kiện sản xuất, kinh doanh, vệ sinh thú y thủy sản đối với các trại sản xuất, lưu giữ tôm giống; thực hiện việc giám sát và kiểm dịch nghiêm ngặt mọi nguồn tôm giống trước khi xuất trại.

-21-

- Tiếp tục chỉ đạo thành lập các tổ nuôi tôm theo hướng quản lý cộng đồng; triển khai các mô hình nuôi theo hướng GaqP, sử dụng chế phẩm sinh học, để xử lý chất thải trong quá trình nuôi tôm.

3.2/ Đối với lĩnh vực khai thác:- Tập trung chỉ đạo khai thác vụ cá vụ Bắc, đảm bảo an toàn cho người và

tàu cá trước trong và sau Tết.- Tổ chức tốt công tác phòng chống lụt bão và phối hợp tìm kiếm cứu nạn

tàu thuyền nghề cá.- Triển khai thực hiện kịp thời Quyết định 48/2010/QĐ-TTg ngày

13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác thủy sản trên các vùng biển xa.

- Thực hiện tốt kế hoạch đăng ký, đăng kiểm tàu thuyền khai thác thủy sản; điều tra nguồn lợi thủy sản.

Trên đây là tổng kết đánh giá kết quả năm 2011 và một số nội dung, giải pháp thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Ngành Nông nghiệp & PTNT năm 2012, triển khai sản xuất cây trồng vụ Đông Xuân 2011-2012. Đề nghị các địa phương, các đơn vị trực thuộc; theo chức năng, nhiệm vụ cần phải có các biện pháp cụ thể để triển khai thực hiện đạt kết quả tốt nhất./.

-22-