phƯỜng trung dŨng hai thỜi kỲ khÁng chiẾn
TRANSCRIPT
1
PHƯỜNG TRUNG DŨNG HAI THỜI
KỲ KHÁNG CHIẾN
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP ĐỒNG NAI
2
PHƢỜNG TRUNG DŨNG HAI THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
Chỉ đạo biên soạn:
ĐẢNG ỦY PHƢỜNG TRUNG DŨNG
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
Ngƣời viết:
ĐÀO TIẾN THƢỞNG - NGUYỄN YÊN TRI
Với sự cộng tác của ông Hai Thành (Dƣơng Văn Bồi)
3
LỜI NÓI ĐẦU
Phƣờng Trung Dũng thành phố Biên Hòa mới thành lập sau ngày giải
phóng. Trƣớc năm 1975, phƣờng là một trong các khu nội ô của xã Bình Trƣớc (là
tỉnh lị tỉnh Biên Hòa cũ). Xƣa kia dân cƣ địa bàn này rất ít. Từ sau ngày 25 - 10 -
1945 đến 30 - 4 - 1975 mới đông dân. Suốt 30 năm, phƣờng Trung Dũng là vùng
địch kềm chặt. Nhƣng nhân dân địa phƣơng dù ngƣời cố cựu hay đến vào các thời
điểm khác sau này, đã biểu lộ lòng yêu nƣớc nồng nàn bằng nhiều cách.
Đảng ủy phƣờng Trung Dũng đƣợc sự chỉ đạo của Thành ủy Biên Hòa đã
tiến hành tổ chức sƣu tầm, ghi lại các thành tích - chƣa thật đầy đủ của những bậc
đi trƣớc không quản hy sinh gian khổ, dám đổ xƣơng máu, cống hiến sức lực, của
cải góp phần vào ngày nay đƣợc hƣởng độc lập, tự do. Các sự kiện lịch sử xảy ra
cách nay hơn nửa thế kỷ, thời gian đã xoá mờ nhiều điều, trí nhớ các nhân chứng
trực tiếp tham gia nay đã cao tuổi bị lãng quên nhiều khiến việc biên soạn khó đầy
đủ.
Máu và nƣớc mắt của các liệt sĩ và quần chúng yêu nƣớc đổ ra ba mƣơi năm
cuối cùng đã nở hoa độc lập, kết quả tự do. Bộ mặt của phƣờng Trung Dũng ngày
nay càng khang trang đẹp đẽ “Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
(Hồ Chí Minh: di chúc 1969).
Tập lƣợc thảo này là nén nhang tƣởng niệm các liệt sĩ, các ngƣời quá cố xả
thân vì nhiệm vụ, vì dân.
ĐẢNG ỦY VÀ UBND
PHƢỜNG TRUNG DŨNG TP BIÊN HÒA
4
PHẦN MỞ ĐẦU
KHÁI QUÁT VỀ PHƯỜNG TRUNG DŨNG THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
Phƣờng Trung Dũng đƣợc thành lập đầu năm 1976, là một phần của xã Bình
Trƣớc cũ - tỉnh lỵ Biên Hòa xƣa - ở đông bắc nội ô. Xã Bình Trƣớc thời thuộc
Pháp nằm trong quận Châu Thành (do chính quyền Sài Gòn chia quận Châu Thành
ra hai quận mới: Đức Tu và Công Thanh).
Phƣờng Trung Dũng rộng 72 ha (0,72km2) thuộc loại có diện tích nhỏ nhất
so hơn 20 phƣờng, xã của thành phố Biên Hòa. Đại để, phƣờng hình thang: đáy
nhỏ dài 0,9km là đƣờng Hƣng Đạo Vƣơng từ Ngã Ba Thành tới ga Biên Hòa; đáy
lớn từ cổng 2 sân bay Biên Hòa tới giao điểm đƣờng 51 (15 cũ) và đƣờng sắt dài
1,5km; một cạnh bên là đoạn đƣờng Phan Đình Phùng từ Ngã Ba Thành tới cổng 2
sân bay; cạnh kia là đoạn đƣờng sắt từ ga Biên Hòa tới giao điểm đƣờng 51 và
đƣờng sắt (ngang chợ Cao su phƣờng Thống Nhất).
Phía bắc, phƣờng Trung Dũng giáp sân bay Biên Hòa; phía đông bắc giáp
Vƣờn Mít phƣờng Tân Tiến; phía đông giáp phƣờng Thống Nhất; phía nam giáp
phƣờng Thanh Bình; phía tây giáp phƣờng Quang Vinh.
Từ phƣờng Trung Dũng, ta có thể đi các tỉnh và thành phố bằng đƣờng bộ,
đƣờng sắt, đƣờng sông Đồng Nai.
Suốt hai thời kỳ kháng chiến dài 30 năm, phƣờng Trung Dũng - cũng nhƣ
toàn bộ nội ô Biên Hòa - là vùng địch kềm chặt, song ta đã gây dựng đƣợc một số
cơ sở mật để hoạt động trong lòng địch, ngoài ra còn vận động nhân dân nuôi giấu,
tiếp tế cho cách mạng liên tục.
Vào thủa xa xƣa, mảnh đất phƣờng Trung Dũng gọi là gì, chƣa tài liệu nào
nói tới. Chỉ biết khi làng Bình Trƣớc chƣa trở thành trấn lỵ dinh Trấn Biên, ngƣời
Chơro đã gọi đây là Bù Blih, ngƣời Việt hầu nhƣ không biết đến tên này. Sách Gia
Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức (năm 1820) là cuốn đầu tiên viết trấn
Biên Hòa có phủ Phƣớc Long, huyện Phƣớc Chánh, tổng Phƣớc Vinh. Tổng này có
46 thôn, trong đó có thôn Bình Trúc (vì đọc trại nên Trúc đọc thành Trƣớc). Theo
sách Biên Hòa sử lược của Lƣơng Văn Lựu (1972) thì năm 1878 chính quyền Pháp
đổi thôn Bình Trƣớc thành làng, nhập với một số làng khác thành xã Bình Trƣớc
gồm 8 ấp: Lân Thành, Tân Lân, Lân Thị, Vinh Thạnh, Bàu Hang, Đồng Lách,
5
Sông Mây. Dƣới chế độ Sài Gòn, ngoài 5 khu nội ô thì 8 ấp vùng ven của xã Bình
Trƣớc là: Vĩnh Thị, Lân Thành, Tân Mai (nay thuộc phƣờng Thống Nhất), Núi
Đất, Tân Hiệp (nay thuộc phƣờng Tân Tiến), Bàu Hang (nay thuộc phƣờng Tân
Phong), Đồng Lách, Sông Mây (nay thuộc huyện Thống Nhất).
Phƣờng Trung Dũng là một phần đất ấp Lân Thành tách ra vào đầu thế kỷ
20 rộng 125 ha. Lúc đó chỉ khu chợ Biên Hòa (phƣờng Thanh Bình bây giờ) mang
dáng vẻ đô thị, còn khu vực phƣờng Trung Dũng vẫn là quang cảnh nông thôn, có
các xóm với tên gọi nôm na: xóm Lò Than (một phần ba dân phố 3), xóm Cống
đƣờng lội (phía trong cổng 2), xóm Lò Rèn (dốc trƣờng trung học Ngô Quyền),
xóm Gò Lăng (dọc đƣờng rầy có mộ Trịnh Hòai Đức). Thời thuộc Pháp, nội ô
Biên Hòa chia làm hơn 10 hộ (quartiers) thì địa bàn phƣờng Trung Dũng gồm các
hộ 9, 10. Thời 9 năm kháng chiến, Pháp đặt các hộ này thành khu 3. Sau 1954 đổi
thành khu 4. Phƣờng Trung Dũng hiện chia làm 6 ban dân phố.
Địa hình phƣờng Trung Dũng chia thành hai phần rõ rệt, đƣờng rầy xe lửa
cũ từ ga Biên Hòa chạy vào sân bay đặt theo bình độ 4m là ranh giới. Đài Kỷ niệm
và Nhà văn hóa lao động có cốt đất + 9 m là khu vực cao nhất phƣờng. Đất đai ở
đây là phù sa cổ bạc màu, cứng, nhiều sạn sỏi nhỏ, một số chỗ chỉ đào sâu 1m đã
gặp đá ong. Trƣớc khi Pháp mở sân bay Biên Hòa, giữa 2 xóm Bánh Tráng và
Cống đƣờng lội có bàu Ông Son khá lớn, nƣớc bàu chảy xuống đầm trũng ở sau
lƣng công viên Biên Hùng bây giờ. Bàu Ông Son đã bị lấp kín vào đầu những năm
1920, khi sân bay thành lập.
Khu đất thấp có cốt đất khoảng 3m, trƣớc kia là ruộng và hồ, đầm lầy lội, đã
bị san lấp dần để làm nhà cửa, đƣờng xá. Dãy hồ đầm cạnh công viên Biên Hùng
chỉ có đƣờng cống thoát nƣớc nhỏ nên sau mỗi trận mƣa lớn thì bùng binh ngã năm
lại ngập ít nhất vài giờ. Công viên Biên Hùng quản lý cải tạo khu hồ trũng thành
nơi thả cá, bơi thuyền.
Cách nay trên dƣới trăm năm, rừng rậm mịt mù phủ kín hầu hết thôn Bình
Trƣớc. Hồi đó, một số dân sống ở địa bàn phƣờng Trung Dũng ngày nay làm nghề
rừng: khai thác gỗ, đốn củi, hầm than…. Còn chứng tích là xóm Lò Than. Đầu thế
kỷ 20, khi Pháp mở đƣờng sắt từ Sài Gòn ra Bắc, lập nhà máy cƣa BIF Biên Hòa
năm 1907, nhất là khi chúng thực hiện khai thác thuộc địa, mở hàng loạt đồn điền
cao su trong xã Bình Trƣớc thì rừng bị chặt hạ rất nhanh. Từ cổng 1 sân bay tới
dốc Hố Nai có nhiều sở cao su. Khu vực ban dân phố 1 bây giờ cũng là một vạt cao
su. Mãi tới năm 1954, các sở cao su bị mất đi nhƣờng cho các lầu phố san sát.
6
Quang cảnh chung của địa bàn các hộ 9, 10 biến đổi chậm chạp trong nửa
đầu thế kỷ này. Quốc lộ I chạy dọc phƣờng theo hƣớng Bắc - Nam là con đƣờng
cong queo rải đá, sau mới tráng nhựa, bề ngang hẹp 5 m. Hai ven đƣờng, nhà cửa
thƣa thớt xa lề đƣờng hàng chục mét thấp thoáng ẩn hiện giữa các vƣờn tƣợc um
tùm cây lá. Đƣờng Hƣng Đạo Vƣơng vốn là ruộng đầm, Pháp san tƣờng Thành
Biên Hòa, lấy đất đá, gạch bờ thành lấp chỗ trũng để mở đƣờng. Hai bên đƣờng,
ruộng lúa và rau muống liền khoảnh. Công viên Biên Hùng cũng là ruộng lúa, có
chỗ tắm ngựa; một khoảnh bãi cỏ mang tên Bãi dây thép gió vì có dựng cột anten
rađio cao hàng chục mét (trƣớc năm 1945).
Nhà cửa ở gần bùng binh đông hơn khúc trên dốc, hầu hết là nhà trệt, mái
lợp ngói âm dƣơng, vách ván. Khoảng năm 1937, ông Sáu Sử mua mảnh đất gần
trạm Thủy lâm, xây một dãy phố cho mƣớn. Phía trên dãy phố Sáu Sử có nhà ông
kinh lý Tàng, nhà bà phủ Nga… Ngang trụ sở Ủy ban nhân dân phƣờng hiện này,
có dãy nhà của anh em ông giáo Hồ Văn Thể, Hồ Văn Tam… Nhà văn hóa phƣờng
Trung Dũng là nhà hàng Vidal (restaurant et moustique - bar Vidal) của ngƣời
Pháp lấy vợ Việt (bà Hồ Thị Lực - con ông Huỳnh Của). Nhà dƣỡng lão dựng trên
bãi đất hoang cây mọc lúp xúp, đến năm 1956 mới mở trƣờng trung học Ngô
Quyền. Trƣờng Mỹ thuật Biên Hòa năm 1933 đặt lò nung ở ngang Đài Kỷ niệm
chứ chƣa xây dựng trƣờng. Trƣờng Trần Hƣng Đạo là nghĩa trang của đồng bào
theo đạo Thiên Chúa, thƣờng gọi là đất thánh Tây. Khu nhà văn hóa lao động là
nhị tì chôn tù binh và ngƣời chết vô thừa nhận. Từ nhà bƣu điện tỉnh đến hết ban
dân phố 1 là sở cao su. Hai ven lộ 15 nhỏ hẹp cán đá trồng hai hàng vây sao cao
vút, tán lá xum xuê giao nhau, bóng che rợp mặt đƣờng. Từ chiều tà, đƣờng vắng
hoe, ngƣời yếu bóng vía không dám qua lại.
Đƣờng Phan Đình Phùng cũng thƣa thớt nhà cửa. Nhà thờ Tin Lành cất bằng
gỗ năm 1924 trên miếng đất của ông Trần Văn Kiêu hiến tặng, sau năm 1945 mới
xây gạch và tu sửa nhiều lần.
Tuy thuộc nội ô Biên Hòa nhƣng các hộ 9, 10 trƣớc Cách mạng tháng Tám
1945 vẫn là vùng quê mộc mạc, bình dị, yên ả. Trong thời kỳ kháng chiến 9 năm,
khu 3 (các hộ 9, 10) bắt đầu thay đổi. Nhà cửa đông lên. Bãi đất trống từ nhà hàng
Vidal tới chợ Kỷ niệm mọc lên bót Vidal và dựng dãy trại gia binh. Bót Vidal có
số quân chừng một trung đội, một trong các xếp bót là Minh Lớn (Dƣơng Văn
Minh) sau này trở thành đại tƣớng, tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn.
Sau năm 1945, khu 4 (tức khu 3 cũ) thay đổi nhanh, mang dáng vẻ thành thị
thật sự. Những lầu, cửa hàng mọc san sát ven lộ 1 và 15, xoá nhanh dấu vết nông
thôn. Ban dân phố 1 vốn là vƣờn cao su. Một số thợ máy nhà máy cƣa BIF mua đất
7
dựng nhà, đầu tiên là ông Tƣ Trác, Nhạc, Nghìn, bà Cậy… Năm 1956, trƣờng
trung học Ngô Quyền thay thế nhà dƣỡng lão cũ. Năm 1969, trƣờng Khiết Tâm
xây cất trên đất thánh Tây. Năm 1970, trƣờng Mỹ nghệ dời từ sau lƣng Tòa Hành
chánh tỉnh về địa điểm hiện nay. Đoạn xa lộ 1K (xa lộ Đại Hàn) từ Đài Kỷ niệm
tới cầu Mới (cầu Hoá An) làm khoảng năm 1970.
Trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, hai hộ 9, 10 có chừng 1.000 dân. Tuy ở
tỉnh lỵ nhƣng phần đông bà con sống bằng nghề làm ruộng. Nhiều ngƣời phải
mƣớn ruộng, nộp tô cho chủ điền. Có ngƣời mƣớn ruộng chùa Thanh Long, có
ngƣời mƣớn ruộng ở cánh đồng Dinh (từ ga xe lửa tới hãng dầu Quyết Thắng bây
giờ). Có ngƣời xuống làm ruộng miệt Tam An, Tam Phƣớc; có ngƣời mƣớn ruộng
của ông cả Lục tận Bảo Chánh. Dân xóm Cống đƣờng lội trồng hàng chục ha mía;
dăm bảy sân lãng (lò ép mía) hoạt động tấp nập từ tháng 10 âm lịch tới sau tết, làm
đƣờng tán và mật. Xóm Bánh Tráng chuyên làm bánh tráng bán đi khắp nơi. Một
số bà con làm củi, đốt than… sống lần hồi, ngày càng phải đi xa do rừng thu hẹp.
Thợ nhà máy cƣa BIF khá đông: Bảy Đắc, Định, Hƣớng, Lựu, Phò, Vững,
Sáu Quản, Trí, Chiến… Dân thầy máy cƣa có Hoàng Đình Cận. Thợ lò gốm
trƣờng Mỹ nghệ có: Sáu Dần, Tƣ Dĩ, Tƣ Lấm, Ngôi, Thăng… Viên chức Nhà nƣớc
có ông kinh lí Tàng, thày giáo Thể, thày giáo Tam, ông vệ Cảnh… Phần đông thợ
thuyền và viên chức nói trên là ngƣời có tinh thần dân tộc, sau này một số đi thoát
ly tham gia kháng chiến, một số là cơ sở mật nội thành, gần một chục liệt sĩ đã hy
sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thời chín năm, do chính sách bình định khủng bố của giặc, dân các vùng
nông thôn bị dồn về nội ô nên khu 3 tăng lên khoảng 6.000 ngƣời.
Sau Hiệp định Giơ - ne - vơ 1954 dân di cƣ vào đây rất đông. Từ năm 1965
Mỹ đổ quân vào miền Nam thực hiện “chiến tranh cục bộ”, huỷ diệt tàn bạo vùng
giải phóng và vùng tranh chấp thì khu 4 càng đông dân. Địa phương chí tỉnh Biên
Hòa năm 1973 ghi: khu 4 có 17.717 ngƣời (khu 1: 8.250 ngƣời; khu 2: 7.604
ngƣời; khu 3: 12.550 ngƣời; khu 5: 11.674 ngƣời).
Sau ngày giải phóng (tháng 4 - 1975) ta có chủ trƣơng giãn dân, đƣa một số
về quê cũ, một số đi kinh tế mới nên số dân phƣờng Trung Dũng giảm. Theo điều
tra dân số tháng 1 - 1989, số dân phƣờng Trung Dũng là 15.566 (2.940 hộ) thuộc
bốn dân tộc, trong đó có 43 ngƣời Nùng (4 hộ), 278 ngƣời Hoa (53 hộ), 22 ngƣời
Khmer (4 hộ). Ngƣời Hoa có mặt tại đây từ lâu đời. Nay phƣờng Trung Dũng có 6
ban dân phố.
8
Phần lớn cƣ dân phƣờng Trung Dũng thờ cúng tổ tiên ông bà theo truyền
thống “uống nƣớc nhớ nguồn” để tƣởng nhớ các bậc sinh thành. Phƣờng không có
đình riêng, dân cố cựu tham gia cúng kỳ yên ở đình Bình Trƣớc ấp Lân Thành.
Đình thờ thần hoàng bổn cảnh có sắc triều đình Huế cấp. Lễ kì yên tổ chức hàng
năm từ đêm 15 đến hết ngày 16 tháng 11 âm lịch. Dân góp tiền mua heo, bò, gà,…
làm lễ, trƣớc cúng sau ăn. Đây là nét đẹp đoàn kết nên duy trì. Vài năm một lần, có
ngƣời hảo tâm - đƣợc tôn vinh là Mạnh Thƣờng quân - bỏ tiền rƣớc gánh hát bội
về diễn vài đêm cho dân làng giải trí.
Địa bàn phƣờng Trung Dũng có ba ngôi chùa. Chùa Thanh Long gọi nôm là
chùa xóm ở gần ga Biên Hòa; thoạt đầu vào năm 1881 trẻ em chăn trâu dựng một
am nhỏ lợp lá, lấy đất sét nặn tƣợng phật đặt vào. Dân xóm đem nhang đèn đến
cúng ngày rằm, mùng một, ngày vía, ngày Tết… Lâu dần, bà con chung góp sửa
sang am khang trang hơn. Năm 1916, bà con thỉnh thày về trụ trì, am trở thành
chùa. Hòa thƣợng Pháp Tuyên kiến thiết nhƣ hiện nay. Chùa Thanh Long có pho
tƣợng Phật 18 tay, mỗi tay cầm một bửu bối. Đây là một sáng tác nghệ thuật độc
đáo của thợ thủ công. Các vị sƣ trụ trì có một số đóng góp trong hai thời kỳ kháng
chiến. Chùa Hƣng Bình trên đƣờng Hƣng Đạo Vƣơng do ông Phạm Văn Cầm và
bà Võ Thị Phƣờng cùng ban trị sự hội Tịnh độ cƣ sĩ phật học xây cất năm 1953.
Lúc trƣớc, đây là vùng đìa bùn trũng, không trồng trọt gì. Hội bỏ tiền đổ đất đá lấp
trũng, xây cất mấy đợt mới thành cơ ngơi ngày nay. Ông Cầm và bà Phƣờng đều
tham gia hội Liên Việt, tiếp tế ủng hộ kháng chiến trong thời kỳ chín năm. Chùa
Kim Quang thuộc hội Phật học Nam kỳ ở đƣờng Nguyễn Văn Trỗi, đƣợc cất hồi
Mỹ vào miền Nam. Sau ngày giải phóng, công an khám phá đây có nhiều tài liệu
phản động, ngƣời trụ trì phải đi cải tạo. Chùa trở thành trụ sở công an thành phố
Biên Hòa.
Đạo Tin Lành đƣợc truyền giảng ở Biên Hòa từ năm 1921. Ngƣời truyền
đạo mƣớn một căn phố ở tiệm rƣợu ngang rạp Biên Hòa (Lido cũ) làm nơi hành
đạo. Năm 1924, hội thánh Tin Lành mƣớn căn phố của ông đốc công Đồng ở Cây
Chàm. Tín đồ Trần Văn Kiêu hiến thửa đất ở đƣờng Phan Đình Phùng, hội cất nhà
thờ bằng gỗ ván. Sau năm 1945 thánh thất mới xây gạch, qua một số lần tu sửa có
diện mạo nhƣ bây giờ. Số tín đồ Tin Lành và đạo Thiên Chúa trong phƣờng ít.
Tháng 9 - 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa.
Thực hiện âm mƣu thâm độc “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt” chúng mua chuộc
những ngƣời cầm đạo Cao Đài phái Tây Ninh chống lại kháng chiến. Số tay chân
của Tòa thánh Tây Ninh lập ra Khâm châu đạo Biên Hòa (cơ quan lãnh đạo cấp
tỉnh của đạo Cao Đài) và Tổng hành dinh lính Cao Đài ở Chợ Đồn (Bửu Hòa). Khi
Ngô Đình Diệm chấp chính, lính Cao Đài nhập vào “quân đội quốc gia”. Khâm
9
châu đạo dời về số nhà 139 đƣờng Quốc lộ I. Căn nhà này do một nữ tín đồ hiến
tặng. Năm 1983, bộ phận cầm đầu Tòa thánh Tây Ninh chống phá chế độ ta bị
trừng trị theo pháp luật. Nhà nƣớc phối hợp với Mặt trận Tổ quốc tiến hành cải tạo,
trụ sở Khâm châu đạo Biên Hòa trở thành trụ sở Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân phƣờng Trung Dũng.
Đất Đồng Nai ẩn chứa kho tàng vật khảo cổ cực kỳ phong phú. Ngƣời tiền
sử từng sinh sống ở Bình Đa (phƣờng An Bình), Gò Me (phƣờng Thống Nhất)
cách nay khoảng ba ngàn năm. Gò Me cách đây 2km, Bình Đa cách 5km. Con
ngƣời là loài động vật ƣa hoạt động, ƣa tò mò tìm hiểu môi trƣờng chung quanh
phục vụ cho việc săn bắn, hái lƣợm. Không bị núi cao, sông rộng ngăn cách, còn
rừng là ngôi nhà quen thuộc của họ. Ta có thể đoán định: bàn chân người tiền sử
từng in dấu trên đất phường Trung Dũng này.
Từ thế kỷ 16, 17 chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam lâm vào khủng
hoảng triền miên. Các tập đoàn vua chúa Lê - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn vì quyền lợi
ích kỷ của dòng họ, gây cảnh đao binh liên miên. Đông đảo nông dân lao động
Đàng Ngoài cũng nhƣ Đàng Trong sống điêu đứng trăm nỗi. Ruộng đất của họ lần
hồi bị giai cấp địa chủ phong kiến kiêm tính chiếm đoạt nên từ địa vị ngƣời nông
dân tự do, chủ sở hữu nhỏ về đất đai, họ rơi xuống thân phận nông nô làm mƣớn,
bị bóc lột đến cùng cực. Tệ nạn tham ô nhũng lạm hoành hành, bọn cƣờng hào
nông thôn mặc sức tác oai tác quái. Nạn mất mùa đói kém xảy ra khắp nơi. Mặt
khác họ còn chịu cảnh binh dịch suốt đời: “… Cứ mỗi năm vào khoảng tháng 3,
tháng 4, lính ra các làng bắt dân từ 16 trở lên, thể chất cƣờng tráng, xiềng cổ bằng
một cái gông tre… đem về sung quân, cho học một nghề chuyên môn, học thành
nghề rồi phân bắt vào đội chiến thuyền để tập luyện, lúc hữu sự ra trận để đánh
giặc, lúc vô sự bắt làm công dịch trong quan phủ, chƣa đƣợc 60 tuổi chƣa cho về
làng…” (Thích Đại Sán: Hải ngoại ký sự, trang 43, Viện đại học Huế dịch, Xb.
1963).
Dải dất từ Thanh Hoá đến Quảng Bình là bãi chiến trƣờng bị tàn phá nặng
nề. Ruộng đồng hoang hoá, dân cƣ xiêu giạt tứ tán. Mâu thuẫn xã hội lên đến tột
đỉnh làm bùng nổ vô số cuộc khởi nghĩa nông dân.
Phƣơng Nam xa vời có một vùng đất trù phú mênh mông hoang hoá đã thu
hút đám dân xiêu tán vào đây. Thành phần di dân khá phức tạp: một số ít là những
ngƣời có tiền bạc, giống vốn, xuồng ghe; một số là ngƣời trốn lính; một số là kẻ tội
đồ lƣu đày viễn xứ; nhƣng phần đông là nông dân mất hết ruộng đất. Những ngƣời
khẩn hoang tiên phong ra đi tự phát lẻ tẻ, mãi về sau chính quyền Đàng Trong của
Chúa Nguyễn mới khuyến khích và tổ chức. Những chuyến ghe giƣơng buồm theo
10
gió mùa đông bắc vƣợt biển vào vùng đất hứa này, sau cuộc hải hành ngàn dặm
trùng dƣơng sóng gió, cặp bến nghỉ chân đầu tiên ở đất Mô Xoài (Bà Rịa). Rồi họ
ngƣợc dòng Đồng Nai, định cƣ ở Long Thành, Bến Gỗ, Cù lao Phố, Bến Cá (Tân
Triều), Tân Uyên,… Nông dân lao động Việt đã kề vai sát cánh với đồng bào dân
tộc bản địa Chơro, Mạ, Xtiêng, Kơho phá rừng, dựng làng, lập ấp, chung sống
thuận hòa, thổi luồng sinh khí vào vùng đất hoang hóa mênh mông.
Ở Trung Quốc, nhà Mãn Thanh lên thay nhà Minh. Một số bày tôi nhà Minh
vƣợt biển tới Đàng Trong xin tị nạn chính trị. Hơn ba ngàn ngƣời chia thành hai
nhóm do các tƣớng Trần Thƣợng Xuyên và Dƣơng Ngạn Địch cầm đầu đƣợc Chúa
Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cho vào định cƣ, làm ăn sinh sống tại vùng Cù lao Phố và
Mỹ Tho. Ngƣời Tàu vốn thạo nghề buôn. Trần Thƣợng Xuyên cho các bộ hạ khai
phá đất hoang, lập chợ, mở cảng giao thƣơng với ngƣời Tàu, ngƣời Nhật, ngƣời
Tây dƣơng, ngƣời Đồ bàn… Cảng đại phố Nông Nại ra đời “đường phố lớn bằng
phẳng lát đá trắng, đường ngang lát đá nhỏ (đá ong), đường hẻm lát đá xanh”,
“có nhiều nhà lầu là cửa hàng đồng thời là kho chứa hàng, là khách sạn cũng là
nơi giải trí” (Trịnh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí).
Trịnh Hội - nguyên quán huyện Trƣờng Lạc, Phúc Châu - là một trong số di
thần nhà Minh đến cƣ trú ở thôn Bình Trƣớc. Do thạo buôn bán, ông trở thành một
trong những ngƣời giàu có nức tiếng đất Đồng Nai, danh vang tận chúa Nguyễn.
Con Hội là Trịnh Khánh, học rộng, tài cao, viết chữ lớn (đại tự) đẹp, sở trƣờng về
làm câu đối. Vì vậy Khánh đƣợc các thân hào nhân sĩ quý trọng. Ông đƣợc Chúa
Võ vƣơng (Nguyễn Phúc Khoát) ƣu đãi. Sau khi nộp một khoản tiền, ông đƣợc cử
làm cai thủ An Dƣơng (cai thầu cửa biển An Tràng) rồi đổi ra Quy Nhơn, Quy
Hóa, Bả Canh làm chức cai đội chấp canh tam tƣờng. Gia đình họ Trịnh ngày càng
thịnh vƣợng. Năm 1775, Trịnh Khánh lâm bệnh qua đời. Lúc này tình hình Đàng
Trong rối ren. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và lan rộng. Thoạt đầu, Lý Tài
cầm đầu toán quân Nghĩa Hòa nổi dậy ở Quảng Nam theo nghĩa quân Tây Sơn.
Sau y phản, đi theo chúa Nguyễn, vào đóng ở núi Châu Thới. Quân Tây Sơn kéo
vào đánh chúa Nguyễn, đánh bại Lý Tài. Tránh binh lửa, gia đình Trịnh Khánh rời
đất Bình Trƣớc về sống ở Phiên trấn (thành phố Hồ Chí Minh bây giờ) năm 1776.
Trịnh An là con Trịnh Khánh sinh năm 1767, lúc này mới 10 tuổi, đƣợc mẹ
cho theo học thày Võ Trƣờng Toản ở thôn Hòa Hƣng, huyện Bình Dƣơng. Thông
minh lại chăm học, An đƣợc thày yêu mến, đặt tên là Trịnh Hoài Đức (tên chữ: Chỉ
Sơn, hiệu: Cấn Trai). Trịnh An học cùng Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh kết làm
bè bạn, sau này trở thành bộ ba nổi tiếng về văn thơ (Gia Định tam gia).
11
Năm 1778, Nguyễn Ánh lấy lại đƣợc đất Gia Định, mở khoa thi tuyển lựa
nhân tài. Bộ ba Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh đều thi đậu.
Trịnh Hoài Đức đƣợc bổ nhiệm làm Hàn lâm chế cáo, năm sau sung chức Điền
tuấn huyện Tân Bình, trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định, lập chế độ
ruộng đất để giải quyết quân lƣơng. Ngoài ra, ông còn dự văn án bộ Hình, tháng 11
năm 1993 sung chức Đông cung thị giảng dạy Hoàng tử Cảnh, phò tá Đông cung
Cảnh trấn giữ thành Diên Khánh (Khánh Hòa). Khi đạo quân của Cảnh ra đánh
Phú Xuân, ông ở trong bộ tham mƣu bàn việc quân. Năm 1794, ông thăng chức Ký
lục Trấn dinh (Mỹ Tho). Năm 1801, ông sung chức Tham tri bộ Hộ, đƣợc cử làm
chánh sứ dẫn dầu phái đoàn sang nhà Thanh xin sắc phong.
Năm 1806, ông đƣợc cử tiếp làm Hiệp tổng trấn Gia Định. Năm 1812, ông
thăng Thƣợng thƣ bộ Lễ kiêm trông coi tòa Khâm thiên giám (đài thiên văn). Năm
sau ông đƣợc cử làm Thƣợng thƣ bộ Lại. Năm 1816 ông lại làm Hiệp tổng trấn Gia
Định, tháng chạp 1819 làm quyền Tổng trấn. Tháng 6 năm 1820 ông lại đƣợc triệu
về kinh giữ chức Thƣợng thƣ bộ Lai kiêm Phó tổng tài Quốc tử giám. Chẳng bao
lâu, ông đƣợc thăng Hiệp biện đại học sĩ, kiêm Thƣợng thƣ hai bộ Lại và Binh.
Tháng 3 năm 1825 ông qua đời tại kinh đô Huế. Linh cữu đƣợc chở về Gia Định,
Tả quân Tổng trấn Lê Văn Duyệt đến phúng viếng, rồi đƣa về an táng ở xóm Gò
Lăng, thôn Bình Trƣớc (nay thuộc ban dân phố 3) là quê mẹ, cũng là nơi ông ra
đời.
Mộ ông xây theo lối xƣa, song song với mộ Trịnh phu nhân nằm giữa vòng
thành lớn, cửa vào có trụ búp sen, có bình phong mặt trƣớc. Bia mộ viết: “Hoàng
Việt, Ất Dậu, trọng đông, cát nhật. Hiệp biện đại học sĩ tặng đặc tiến Vinh Lộc đại
phu hữu trụ quốc, Thiếu bảo Cần chánh điện đại học sĩ Trịnh công chi mộ - hiếu tử
Hàn lâm viện biên tu Trịnh Xuyên tử, Trịnh Thiên Nhiên lập thạch” (Hoàng Việt,
ngày lành tháng 2 năm Ất Dậu - phần mộ ông Trịnh chức hiệp biện đại học sĩ, đặc
biệt đƣợc tặng thêm tƣớc đại phu Vinh Lộc, cột trụ bên phải nhà nƣớc, tƣớc Thiếu
bảo Cần chánh điện đại học sĩ - con là Trịnh Thiên Nhiên chức Hàn lâm viện biên
tu tƣớc Trình Xuyên tử lập bia).
Trịnh Hoài Đức là ngƣời đức tài toàn vẹn, làm quan cực phẩm vẫn sống giản
dị thanh cao, quên mình vì việc nƣớc. Ông còn là nhà thơ, nhà sử học nổi tiếng với
các tác phẩm Gia Định thành thông chí, Minh bột di ngư, Lịch đài kỷ nguyên,
Khương tế lục, Cấn Trai thi tập. Ông là danh nhân đất Đồng Nai, đóng góp phong
phú cho nền văn hóa đất nƣớc.
Đầu năm 1916, trên đất Đồng Nai xuất hiện một số hội kín chống Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đang ở vào giai đoạn ác liệt. Thực dân
12
Pháp ráo riết bắt thanh niên thuộc địa sang làm bia đỡ đạn ở mẫu quốc. Nguyễn Ái
Quốc mô tả cảnh bắt lính: “Thoạt tiên, chúng (thực dân – NYT. chú thích) tóm
những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn
kêu cứu vào đâu được. Sau đó chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng
cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc gia đình họ, và nếu cần,
thì giam cổ họ lại cho đến khi họ dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi
lính tình nguyện hoặc xì tiền ra”(1)
. Lối bắt lính ấy tất dẫn đến phản ứng quyết liệt
của dân.
5 giờ chiều ngày 25 - 1 - 1916, Mƣời Sóc và Mƣời Tiết cầm đầu các ngƣời
tù nổi dậy cƣớp súng của lính gác bắn vào nhà Tham biện chủ tỉnh và phá khám
lớn Biên Hòa. Bị đàn áp, họ rút về làng Tân Trạch. Một số ngƣời nhƣ Hai Sở, Ba
Nghi, Ba Hầu, Tƣ Hổ…tổ chức hội kín trại Lâm Trung ở Thiện Tân đã lãnh đạo
nghĩa quân tấn công các nhà việc (trụ sở) Tân Trạch, Tân Khánh, Tân Lƣơng.. đêm
25 - 1 - 1916. Số hội tề và hƣơng chức bỏ chạy tán loạn. Nhiều thanh niên bị bắt
lính đƣợc giải thoát. Hồi 11 giờ đêm cùng ngày, một toán chừng 50 ngƣời xông
vào làng Tân Uyên (quận Tân Uyên) giết một tên lính, đánh bị thƣơng viên đồn
thủy lâm và phá chợ. Địch đem quân đàn áp. Chúng bắt nhiều ngƣời, kết 9 án tử
hình, mang số này ra bắn ở khu đất gần đình Bình Thành (thuộc ban dân phố 5
phƣờng Trung Dũng bây giờ), rồi đem chôn ở bãi Mả thuộc địa phận phƣờng
Quang Vinh. Dân chúng dựng miễu Cô Hồn để hƣơng hoa cúng viếng các liệt sĩ
(qua trùng tu, miễu chùa Cô Hồn và bây giờ là Bửu Hƣng tự).
Vào đầu những năm 1920, ở Biên Hòa thực dân Pháp cho dựng Đài kỷ niệm
ngƣời Việt trận vong (bà con gọi tắt là đài Kỷ niệm, ở đây có ngã ba Kỷ niệm, rồi
một chợ nhỏ gần đó cũng mang tên chợ Kỷ niệm). Cuốn Bản án chế độ thực dân
Pháp của Nguyễn Ái Quốc viết về việc dựng đài Kỷ niệm đó nhƣ sau:
“Theo tục lệ Việt Nam, khi trong làng có ngƣời chết thì những ngƣời xay
lúa, giã gạo phải tỏ lòng kính trọng vong linh ngƣời chết và thông cảm nỗi đau
buồn của tang gia bằng cách im lặng không hát hò trong khi xay giã nhƣ họ vẫn
thƣờng làm. Nhƣng nền văn minh hiện đại đƣợc đƣa vào nƣớc chúng tôi bằng bạo
lực có cần gì phải tế nhị đến nhƣ thế. Xin đọc câu chuyện sau đây đăng trên một tờ
báo ở Nam kỳ:
NHỮNG NGÀY HỘI Ở BIÊN HÒA
(1)
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, trang 324-325, Nxb Sự thật, H.1980.
13
Để lấy tiền bỏ vào quỹ xây dựng đài Kỷ niệm ngƣời Việt trận vong của tỉnh
Biên Hòa, ban tổ chức đang tích cực chuẩn bị một chƣơng trình tuyệt diệu.
Ngƣời ta bàn tán nào là sẽ có yến tiệc giữa vườn theo kiểu Anh (garden -
party) nào là khiêu vũ ngoài trời… tóm lại sẽ có nhiều và đủ thứ trò chơi để ai ai
cũng có thể góp phần làm việc nghĩa một cách thú vị nhất đời.
Quý ông phi công ở sân bay Biên Hòa có nhã ý sẽ góp phần vào cuộc vui, và
ngay từ bây giờ ban tổ chức đã có thể khẳng định rằng sự có mặt của các quan
chức cao cấp nhất Sài Gòn sẽ làm cho ngày hội thêm phần rực rỡ.
Xin tin thêm cho các bạn nam nữ ở Sài Gòn lên dự hội biết rằng, các bạn sẽ
không cần phải bỏ dở cuộc vui để về nhà dùng cơm, vì ngay tại chỗ, sẽ có phòng
ăn tổ chức cực kỳ chu đáo và đặc biệt đầy đủ, các bạn sành ăn nhất cũng sẽ đƣợc
hài lòng.
Ngày 21 tháng giêng tới, tất cả chúng ta sẽ đi Biên Hòa, chúng ta sẽ vừa
đƣợc dự những hội hè linh đình vui tươi, vừa đƣợc dịp tỏ cho những gia đình tử sĩ
Việt Nam ở Biên Hòa thấy rằng chúng ta biết tƣởng nhớ đến sự hy sinh của con em
họ.
“Thật là thời đại khác, phong tục khác. Nhƣng phong tục kỳ quái làm sao!”
Ông Nguyễn Khắc Điềm (Nguyễn Văn Pha) sinh năm 1888 ở Nghệ Tĩnh.
Năm 1905, ông đƣợc cụ Phan Bội Châu đƣa ra Hải Phòng, tính đƣa sang Nhật
trong phong trào Đông du. Cụ Phan giao ông Điềm cho ông Lý Tuệ - nấu bếp trên
tàu biển chạy đƣờng Hải Phòng - Hồng Kông, hƣớng dẫn thực hiện một số nhiệm
vụ: mua vũ khí, tuyên truyền giác ngộ ngƣời tốt, nếu có thời cơ thì phá hoại… Nhờ
mẹ ông quen biết với một bà lấy chồng Pháp, ông lấy trộm đƣợc 15 súng và 500
viên đạn giao cho các ông Tƣ Ngôn và hàn Kiệm ở Quỳnh Đôi (huyện Quỳnh Lƣu,
Nghệ An). Việc đi Nhật rất khó khăn, năm 1915, ông xin làm bồi sang Pháp. Năm
1921, ông về Biên Hòa sinh sống, đƣợc ông Deneau (Đơnô) - đảng viên cộng sản
Pháp - đƣa vào làm ở sở Thủy lâm Biên Hòa. Gần Cách mạng Tháng Tám 1945,
ông là cơ sở của các đồng chí Hà Huy Giáp, Lê Đình Nhơn (do đó ông là ngƣời
duy nhất trong phƣờng đƣợc Hội đồng Nhà nƣớc tặng bằng có công với nƣớc).
Nhà máy cƣa BIF Tân Mai chính thức thành lập năm 1907, là một trong
những vƣờn ƣơm cách mạng của tỉnh Biên Hòa từ trƣớc khi Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng ra đời. Phong trào đấu tranh tại đây diễn ra khá sôi nổi. Thời kỳ Mặt trận
Dân chủ Đông Dƣơng (1 936 - 1939), số thợ máy nhà máy cƣa BIF cƣ ngụ tại các
14
hộ 9, 10 nhƣ các anh Bảy Đắc, Định, Hƣớng, Hoàng Đình Cận… nhiều lần tham
gia lãn công, bãi công, đòi tăng lƣơng, đòi thực hiện chế độ ngày làm việc 8 giờ…
thu thắng lợi.
Giữa năm 1937, anh Ba Do - ngƣời Cù lao Phố, là học sinh trƣờng Mỹ nghệ
Biên Hòa - theo gợi ý của đồng chí Nghĩa Xƣợc (Nguyễn Văn Nghĩa) đã vác búa
đanh, đứng gần đài Kỷ niệm ngăn thợ lò nung của trƣờng không làm việc, ngăn thợ
máy cƣa tới hãng để ủng hộ một cuộc đấu tranh của anh em BIF (Sau vụ này, anh
bị cảnh sát bắt giam rồi trƣờng Mỹ nghệ đuổi học).
Hộ 9 có gia đình thày giáo Thể (Hồ Văn Thể) là gia đình có nhiều ngƣời
sớm giác ngộ cách mạng. Anh Tƣ Công (Hồ Văn Công), em ruột thày Thể, làm
nhân viên sở đoan (douane: hải quan) Sài Gòn. Anh quen biết, bắt mối với một số
thủy thủ tiến bộ trên các tàu biển đi Pháp, đã nhờ mua một số sách báo cấm: Chủ
nghĩa cộng sản sơ giải của Polizet, Biện chứng pháp… Tủ sách riêng của nhà anh
có tƣơng đối đủ các số báo La lutte (tranh đấu). Anh chẳng may bị bệnh chết sớm,
năm 1940 phulít xét nhà, tịch thu toàn bộ tủ sách.
Anh Sáu Lèo (Hồ Văn Leo) cũng là em ruột thày Thể. Là thanh niên trí thức
có tƣ tƣởng tiến bộ - do ảnh hƣởng của anh Tƣ Công - anh làm thƣ ký cho đồng chí
Dƣơng Bạch Mai hồi đồng chí viết cho tờ La Lutte. Sau đó, anh tham gia báo Dân
chúng (Le peuple) của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng năm 1938. Báo ra không xin
phép nhà chức trách, tròn 80 số, vài ngày một số, từ 22 - 7 - 1938 đến 30 - 8 -
1939. Anh làm nhiệm vụ phát hành báo. Mỗi lần báo in xong, từ 2 giờ sáng, anh
cùng đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh lo giao cho trẻ bán dạo và phân cho các sạp. Sau
đó 2 ngƣời cƣỡi xe đạp đi thăm các sạp để nắm tình hình báo có tồn đọng không,
nắm đạo quân bán báo “không để cho báo mình phất phơ trước gió, mặt mũi vàng
khè” (Nguyễn Văn Trấn: Chúng tôi làm báo). Anh Sáu Lèo đƣợc kết nạp Đảng
thời kỳ này. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ 9 - 1939, thực dân Pháp trở mặt
đàn áp phong trào cách mạng nƣớc ta. Anh Sáu Lèo bị bắt, đày đi Tà Lài ma thiêng
nƣớc độc. Anh bị bệnh lao. Thƣơng con, má anh bán chiếc vòng vàng lo lót chủ
tỉnh cho anh về. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, anh đƣợc cử phụ trách trƣờng
Mỹ nghệ thời gian ngắn, bị lao nặng đã qua đời.
Tháng 6 - 1940, nƣớc Pháp đầu hàng phát xít Hítle. Cuối tháng 9 - 1940,
phát xít Nhật xâm lƣợc Đông Dƣơng. Thực dân Pháp tại đây đầu hàng Nhật. Từ
đây nhân dân ta chịu cảnh một cổ đôi tròng. Bọn thực dân Pháp và lũ quân phiệt thi
nhau vơ vét tài nguyên, bóc lột dân ta đến tận xƣơng tủy. Chiến tranh thế giới ngày
càng lan rộng, hàng hóa các nƣớc không vào đƣợc, làm đời sống nhân dân cùng
cực. Vải mặc hiếm hoi, khó mua. Một số dân các hộ 9, 10 phải dùng bao bố, bao
15
hàng làm quần áo. Diêm, quẹt, dầu hôi đắt nên ngƣời ta đành phải đi ngủ sớm.
Thiếu thốn vật chất gây bao nỗi buồn phiền cho mọi nhà. Ngoài ra còn cảnh máy
bay Đồng Minh ném bom cầu và sân bay…làm một số dân Biên Hòa chết oan.
Ngày 9 – 3 -1945, Nhật đảo chính Pháp. Chỉ trong một đêm, cơ đồ thống trị
gần 100 năm của thực dân Pháp sụp đổ tan tành. Phát xít Nhật ve vãn, lôi kéo bà
con ta bằng thuyết Đại Đông Á “người Nhật và người Việt cùng da vàng máu đỏ,
cùng chung nền văn hóa”, “người Nhật trả độc lập cho Việt Nam”,…
Nhƣng hàng ngày, bà con các hộ 9, 10 gặp sĩ quan Nhật với bộ mặt vênh váo
hống hách, chứng kiến nhiều cảnh đối xử tàn tệ với dân mình nên nhanh chóng
hiểu rõ bản chất của chúng. Tinh thần dân tộc bị xúc phạm đã gây mối căm thù
ngày càng sâu sắc. Lời đƣờng mật không che giấu đƣợc bản chất của loài sói.
Sau ngày Nhật đảo chính, xã Bình Trƣớc - tỉnh lỵ Biên Hòa - và các xã
chung quanh có nhiều đảng viên cộng sản bí mật về hoạt động, gây cơ sở chờ thời
cơ.
Tháng 5 - 1945, phong trào Thanh niên Tiền phong dấy lên ở Sài Gòn (do
bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh) và nhanh chóng lan tỏa ra các tỉnh Nam kỳ.
Phong trào Thanh niên Tiền phong trở thành một hình thức Mặt trận dân tộc thống
nhất tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh thiếu niên, trung niên... Các đảng
viên cộng sản kịp thời nắm tổ chức này, đẩy mạnh hoạt động công khai hợp pháp.
Ở Biên Hòa, thày giáo Huỳnh Thiện Nghệ là thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong. Xã
Bình Trƣớc là nơi có phong trào vào loại mạnh trong tỉnh. Hộ 9 thoạt đầu có hơn
10 anh: Nguyễn Chức Sắc, Hoàng Đình Cận (đảng viên cộng sản), Hoàng Đình
Trác, Hoàng Lập Chung, Phạm Văn Tƣ, Nguyễn Văn Cơ, Nguyễn Văn Hòa (thợ
bá nghệ), Huỳnh Văn Giao (thợ bá nghệ), Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Mùi,
Nguyễn Văn Khôi, Dƣơng Quốc Phong, Đinh Quang Dữa. Anh Giao giỏi võ, làm
huấn luyện viên. Anh em tập tành ở bãi trồng hoa nhà dƣỡng lão (trƣờng trung học
Ngô Quyền bây giờ), đêm chia nhau đi canh gác đƣờng phố. Trụ sở Thanh niên
Tiền phong hộ 9 là nhà sàn của ông Bƣởi. Hộ 10 có một số Thanh niên Tiền phong
là: Hồ Thế, Dƣơng, Tám Phƣớc, Kiết, Huỳnh Văn Hải, Nguyễn Thị Hải, Ba Sĩ,
Hai Lân, quản Báo, ách Luyến… khoảng hai chục ngƣời. Huấn luyện viên là ách
Luyến.
Một số thanh niên lúc đó lầm tƣởng Thanh niên Tiền phong là tổ chức của
Cao Đài thân Nhật nên hồi đầu chƣa tham gia, sau hiểu rõ mới nhập cuộc.
16
Tháng 5 - 1945, tại làng Vĩnh Cửu (Tam Hiệp), Liên tỉnh ủy miền Đông họp
với đại biểu các Đảng bộ Biên Hòa, Gia Định, Thủ Dầu Một, Tây Ninh để phổ biến
tình hình và nhiệm vụ mới.
Tháng 7 - 1945, đồng chí Hà Huy Giáp họp với các đồng chí Hoàng Minh
Châu, Huỳnh Văn Hớn, Đặng Nguyên, Phạm Văn Búng… tại chùa Tân Mai. Đại
diện Xứ ủy Nam kỳ phổ biến chủ trƣơng: gấp rút xây dựng lực lượng, phát triển
lực lượng chính trị và vũ trang để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Các
đồng chí bàn việc nhanh chóng tổ chức đoàn thể Việt Minh, nắm chắc lực lƣợng
Thanh niên Tiền phong, vận động nhân dân đấu tranh chống phát xít Nhật và lũ tay
sai phản động.
Cao trào cách mạng dâng lên cuồn cuộn trong cả nƣớc. Đội du kích Ba Tơ
lập ở Quảng Ngãi. Khu giải phóng Việt Bắc ngày càng mở rộng. Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân nam tiến về đồng bằng Bắc bộ. Phát xít Nhật liên tiếp
thua và lui rất nhanh trên chiến trƣờng châu Á - Thái Bình Dƣơng.
Ngày 15 - 8 - 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện. Ngày 19 - 8
tổng khởi nghĩa thắng lợi ở thủ đô Hà Nội. Lần lƣợt chính quyền về tay nhân dân ở
nhiều tỉnh từ Bắc vào Trung…
Ở Biên Hòa, quân Nhật rã rời, án binh bất động tại các nơi chúng đóng quân.
Chính quyền bù nhìn tê liệt hoàn toàn. Các đảng viên cộng sản đã nắm và vận động
một số viên chức, binh lính tham gia hoạt động cách mạng.
Để chuẩn bị cƣớp chính quyền ở Biên Hòa, các đồng chí Hoàng Minh Châu,
Huỳnh Văn Hớn… chỉ đạo Thanh niên Tiền phong Biên Hòa tổ chức mít tinh tại
trƣờng nam tiểu học (trƣờng Nguyễn Du bây giờ) vào ngày 20 - 8 - 1945 nhằm
thăm dò thái độ của Nhật đối với cách mạng ta. Các đoàn Thanh niên Tiền phong
nội ô và các xã lân cận kéo về, đông tới vài ngàn ngƣời. Lính Nhật và bảo an lặng
lẽ nhìn dòng ngƣời ùn ùn đi qua. Anh Hồ Thế - cán bộ Thanh niên cứu quốc - đƣợc
cử lên nói chuyện. Anh khơi gợi ý thức dân tộc, tinh thần yêu nƣớc của thanh niên
và hô hào anh chị em chờ đợi giờ hành động sắp đến, đất nƣớc đang có những biến
chuyển cực kỳ to lớn…
Ngày 23 - 8 - 1945, tại căn nhà số 2 dãy phố Sáu Sử - do đồng chí Ngô Hà
Thành mƣớn - có cuộc họp lịch sử bàn kế hoạch khởi nghĩa ở Biên Hòa. Đồng chí
Hoàng Minh Châu chủ trì, tham dự có các đồng chí: Huỳnh Văn Hớn, Phạm Văn
Búng, Lê Nguyên Đạt, Đặng Nguyên, Ngô Hà Thành,… Theo hƣớng dẫn của Xứ
ủy, hội nghị quyết định mấy vấn đề lớn:
17
- Tiến hành khởi nghĩa trước hết ở tỉnh lỵ Biên Hòa vì đây là đầu
não tập trung mọi cơ quan chính quyền địch.
- Phân công một số đảng viên về các quận huy động lực lượng
quần chúng tham gia cướp chính quyền ở tỉnh lỵ; cử người vận động lính
Nhật không can thiệp khi ta cướp chính quyền; vận động ông kinh lý
Tàng thuyết phục tỉnh truởng Nguyễn Văn Quý êm thấm giao nộp chính
quyền cho ta; cử đồng chí Sáu Đại (Hồ Ngọc Đại) và một số đồng chí
khác vận động lính mã tà, lính thủ hộ,.. nộp súng cho cách mạng…
- Lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Biên Hòa do đồng chí Hoàng Minh
Châu làm trưởng ban; dự kiến danh sách Ủy ban nhân dân cách mạng
lâm thời tỉnh…
- Giao đồng chí Lê Ngọc Liệu và anh Nguyễn Đình Ưu chỉ huy
500 quần chúng Biên Hòa về tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn.
- Vận động nhân dân may cờ, làm băng khẩu hiệu, huy động lực
lượng Thanh niên Tiền phong làm nòng cốt xung kích, sẵn sàng hành
động khi có lệnh khởi nghĩa.
Cách mạng diễn tiến cực kỳ nhặm lẹ.
Ngày 23 - 8, Tân An là tỉnh Nam bộ đầu tiên khởi nghĩa thành công.
Ở Biên Hòa, từ sáng sớm 24 - 8, cờ đỏ sao vàng của Việt Minh và cờ vàng
sao đỏ của Thanh niên Tiền phong xuất hiện ở nhà máy cƣa BIF, ga Biên Hòa… 2
giờ chiều, nhân dân quận Long Thành khởi nghĩa thắng lợi. Tối đó, tại rạp hát Trần
Điển (nay thuộc phƣờng Hòa Bình) đồng chí Sáu Đại hô hào mọi ngƣời tham gia
Việt Minh, vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Suốt đêm 24 - 8, anh em Thanh niên Tiền phong các hộ 9, 10 rầm rập đi tuần
tra bảo vệ an ninh đƣờng phố, xóm làng. Không khí sôi động lạ thuờng.
Ngày 25 - 8 - 1945, tin Sài Gòn tổng khởi nghĩa bay về càng làm dân nội ô
thêm náo nức. Các hoạt động cách mạng diễn ra công khai. Lính Nhật và lính Việt
gác công sở với vẻ thờ ơ, uể oải. Các viên chức đến sở cho có mặt rồi lại về ngay.
Trạm Thủy lâm của đội Kiệp - cạnh dãy phố Sáu Sử - đóng cửa im ỉm suốt mấy
bữa trƣớc. Chiều tối 26 - 8, anh em Thanh niên Tiền phong hộ 9, 10 nhắc nhau
sớm mai vận động bà con đi mít tinh đông đảo.
18
Mờ sáng 27 - 8, dân các hộ 9, 10 - với lực lƣợng Thanh niên Tiền phong làm
nòng cốt - đi theo hàng ngũ về quảng trƣờng sau dinh Tham biện dự lễ ra mắt
chính quyền cách mạng. Sau bài diễn thuyết hùng hồn của ông Dƣơng Bạch Mai,
đồng chí Hoàng Minh Châu công bố danh sách Ủy ban nhân dân cách mạng lâm
thời tỉnh Biên Hòa trong tiếng hô vang dội của hàng chục ngàn đồng bào. Các
khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm! Việt Minh muôn năm! Đả đảo Chính
phủ bù nhìn Trần Trọng Kim!” vang lên nhƣ những làn sóng không dứt. Cuộc mít
tinh kết thúc bằng lễ tuyên thệ: “sẵn sàng hy sinh để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ
quốc!”. Xế trƣa, các đoàn tuần hành biểu dƣơng lực lƣợng qua các đƣờng phố rồi
mới tỏa về các địa phƣơng.
Lịch sử của phƣờng cũng nhƣ đất nƣớc mở qua một trang mới.
19
PHẦN THỨ NHẤT
PHƯỜNG TRUNG DŨNG THỜI KHÁNG CHIẾN CHÍN NĂM
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công xoá bỏ bộ máy thống trị cũ của thực
dân phong kiến. Chính quyền cách mạng tỉnh Biên Hòa và quận Châu Thành ra
đời, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Bình Trƣớc đƣợc thành lập ngay sau
đó. Ông xã Vệ (Bảy Phệ, Nguyễn Văn Vệ, Nguyễn Thế Phƣơng) - nguyên xã
trƣởng, một nhân sĩ có uy tín - đƣợc cử làm Chủ tịch xã. Các đoàn thể quần chúng:
Mặt trận Việt Minh, dân quân tự vệ, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thiếu
nhi cứu quốc.. lần lƣợt đƣợc hình thành từ hộ, ấp đến xã.
Những ngày đầu cách mạng thật sự là ngày hội cực kỳ sôi động của quần
chúng. Trong không khí độc lập tự do của chế độ dân chủ cộng hòa, già trẻ, gái trai
thảy đều vui mừng náo nức vì sự đổi đời. Họ công tác, sinh hoạt tập thể không biết
mệt, khuôn mặt ai cũng bừng sáng rạng rỡ. Niềm hân hoan tràn đầy tăng thêm sức
mạnh cho mỗi ngƣời. Hầu nhƣ số thanh niên nam nữ các hộ 9, 10 ngoài lúc bận đi
làm kiếm sống, đều giành số thời gian còn lại vào việc: hội họp, tập quân sự, vui
chơi ca hát… đêm đêm chia nhau tuần tra canh gác khắp nơi.
Anh Nguyễn Chức Sắc - một viên chức cũ - đứng ra lập một đơn vị vũ trang
hơn hai chục ngƣời - nòng cốt là số Thanh niên Tiền phong hộ 9 - gọi là bộ đội anh
Sắc. Phân đội trƣởng: Hoàng Lập Cung, phân đội phó: Dƣơng Quốc Phong, chánh
trị viên: Nguyễn Văn Cơ, huấn luyện viên võ: Huỳnh Văn Giao… Đơn vị có 12
súng mút thì 3 cây do tỉnh đƣa xuống, 9 cây còn lại do anh em mua hoặc đổi thực
phẩm cho lính Nhật. Các anh vài lần tổ chức đột nhập các kho súng Nhật song
không thành công. Anh Hồ Thế và anh Truyện, quê ở Bình Thung (nay là xã Bình
An, huyện Thuận An, Bình Dƣơng) đƣợc cử lên B’lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng) thu
một kho súng Nhật chôn giấu trong rừng. Anh Hồ Thế từng hoạt động tại đây nên
rành địa bàn. Anh Truyện có công thu thập vũ khí đã hy sinh thời kháng chiến chín
năm.
Lúc này, tại tỉnh Biên Hòa cũng ra đời nhiều đơn vị vũ trang khác: đội du
kích Hồ Hòa, bộ đội Sáu Ngọc của quận Châu Thành, bộ đội Tám Nghệ của tỉnh
Biên Hòa… Mỗi đơn vị vũ trang nhỏ bé đã thu hút số thanh niên yêu nƣớc, sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa non trẻ.
20
Ngày 2 - 9 - 1945, nhiều thanh niên các hộ 9, 10 về Sài Gòn dự lễ mừng
ngày độc lập. Một số tên thực dân Pháp núp ở các lầu cao nổ súng vào biển ngƣời
biểu tình. Chúng đã bị quần chúng tóm cổ. Theo chân quân Anh vào giải giới quân
Nhật, thực dân Pháp lộ rõ dã tâm xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa.
Trƣớc tình hình đó, ngay sáng 3 - 9, anh Hồ Thế - em ruột ông giáo Thể - là
Bí thƣ thanh niên cứu quốc tỉnh, đã đƣa bộ đội anh Sắc về sở đất Bà Bao thôn Vĩnh
Cửu (Tam Hiệp) để luyện tập quân sự. Việc tiếp tế ăn uống cho đơn vị do anh Hồ
Thế và gia đình ông giáo Thể lo giúp. Anh em chỉ ra sức học lăn, lê, bò, trƣờn và
học cách sử dụng súng đạn ở khu vực mả thày Cự gần suối Linh. Đêm đêm các anh
sinh hoạt tập thể những bài hát cách mạng hào hùng, bầu máu nóng của tuổi trẻ
càng sôi sục. Lần đầu tiên sống có tổ chức, các anh ráng giữ nghiêm kỷ luật do chỉ
huy đề ra. Tiếp xúc với một số phụ lão Vĩnh Cửu, sau khi nghe kể về hoạt động
của nhà nho yêu nƣớc Đoàn Văn Cự, anh Ba Dữa (Đinh Quang Dữa) xúc động làm
bài thơ:
Nước sông Phố dạt dào sóng vỗ
Đỉnh non Châu ngất thủa oai phong
Biên Hòa một tỉnh miền Đông
Có trang dã sử vô cùng bi ai
Không cam chịu cuộc đời nô lệ
Viên chỉ huy tài lược hiên ngang
Nổi danh thày Cự họ Đoàn
Mảnh rừng Vĩnh Cửu hiên ngang chốn thù
Cùng đồng chí tạo gom vũ khí
Rèn gươm dao chuẩn bị binh lương
Gươm thiêng noi dấu quật cường
Lập ra hội kín bốn phương hẹn ngày
21
Hàng bộ hạ lẫn tay phản trắc
Bọn thực dân mang lính áp vây
Trong làn đạn giặc đua bay
Thôn dân hoảng hốt, cỏ cây tan tành
Lui rừng thẳm hùng anh cố thủ
Lửa bạo tàn cháy rụi một phương
Xông ra huyết chiến tử thương
Nấm mồ thảm bại gió sương lạnh lùng
Máu căm tức tràn vùng hoang địa
Mối thâm cừu há dễ quên ru
Những đêm mưa gió vi vu
Hồn ai gào thét chiến khu điêu tàn
Thu 1945
Ngày 6 - 9 - 1945, quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn tƣớc khí giới quân Nhật
theo thỏa ƣớc Posdam giữa các nƣớc Đồng Minh. Theo gót lính Anh, có một số
đơn vị bộ binh và xe bọc thép của quân viễn chinh Pháp. Bọn quan lại và 1.500
lính Pháp trƣớc đây bị Nhật giam giữ, nay đƣợc trả tự do và đƣợc trang bị súng
ống. Ngày 23 - 9 - 1945, quân Pháp đƣợc lính Anh yểm trợ, ngang nhiên nổ súng,
mở màn cuộc xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa. Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn dù
trang bị hết sức thô sơ và chƣa có kinh nghiệm chiến đấu đã dũng cảm đứng lên
đƣơng đầu với máy bay, xe tăng, đại bác giặc. Cuộc kháng chiến Nam bộ bắt đầu.
Nhà hội Bình Trƣớc đƣợc một số cơ quan tỉnh và quận thƣờng xuyên sử
dụng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Bình Trƣớc dời trụ sở về Miễu ba
làng ấp Vĩnh Thị.
Tại nhà hội, ngày 26 - 9, có cuộc họp quan trọng gồm khoảng 40 cán bộ
Đảng tỉnh Biên Hòa. Hội nghị Bình Trƣớc bầu ra Tỉnh ủy lâm thời gồm 11 đồng
22
chí (Bí thƣ: Trần Công Khanh) quyết định một số công việc cần kíp trƣớc mắt: gấp
rút xây dựng lực lƣợng vũ trang, củng cố Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu
quốc để phát triển lực lƣợng chính trị, hình thành các Quận ủy để tăng cƣờng hạt
nhân lãnh đạo. Đây là hội nghị về xây dựng tổ chức và lực lƣợng khá toàn diện
trƣớc khi Pháp lấn chiếm.
Đơn vị bộ đội anh Sắc đang huấn luyện ở sở đất Bà Bao đột nhiên có lệnh
tỉnh đƣa xuống: “Tối nay anh em ra mặt trận Cầu Kiệu Sài Gòn”. Anh em về trụ
sở Thanh niên Tiền phong hộ 9 - ở đƣờng quốc lộ I, thì có lệnh tiếp theo “Để súng
ở đây, chờ lệnh”. Một đơn vị cộng hòa vệ binh đã thu gọn 12 cây súng của đơn vị.
Bộ đội anh Sắc trắng tay, lại kéo xuống Bình Đa, An Hảo đóng quân, tìm cách mua
và ăn trộm súng đạn Nhật chôn giấu trong các sở cao su gần đó.
Anh Đinh Quang Dữa về nội ô kiếm việc làm để sinh sống, ngày ngày ra
Phòng thông tin tỉnh, thấy các bản tin đánh máy chƣa có dấu - hồi đó máy chữ
chƣa có dấu chữ Việt - bỏ bừa trên mặt bàn. Anh hý hoáy điền dấu để mọi ngƣời
dễ đọc, rồi treo lên. Tình cờ anh gặp anh Lan - bạn cũ - anh này đƣa về ban tuyên
truyền giới thiệu với ông phán Nhựng - thƣ ký thông tin Biên Hòa. Ông cấp cho
anh Ba Dữa một giấy chứng nhận là nhân viên ban tuyên truyền. Anh cùng anh
Lan lên quận Tân Uyên, anh xem cách anh Lan phát biểu trƣớc quần chúng. Nội
dung tuyên truyền là hô hào toàn dân đoàn kết đánh thực dân Pháp xâm lƣợc. Rồi
anh về các xã Mỹ Lộc, Tân Ba, Tân Hòa, Khánh Vân tìm chọn ngƣời địa phƣơng
lập các ban tuyên truyền xã. Anh tổ chức đƣợc anh Hồ ở chợ Uyên Hƣng, lập ban
tuyên truyền quận Tân Uyên.
Tháng 10 - 1945, ông Nguyễn Khắc Điềm (Nguyễn Văn Pha) ủng hộ một xe
ô tô traction Citroen cho đồng chí Nguyễn Thanh Sơn. Xe này chở một số máy
móc từ Biên Hòa ra Phan Thiết lập binh công xƣởng. Em ruột ông là Nguyễn Khắc
Khoan coi giữ số vật tƣ máy móc cất giấu ở Thiện Tân (Tây lên, chúng bắn chết
anh Khoan ngày 4 - 3 - 1946).
Đồng chí Hồ Hòa - Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh - lập đội du kích hơn 40
ngƣời. Một số thanh niên hộ 10 đi học lớp huấn luyện ở Gành Rái: Nguyễn Thị
Hải, Huỳnh Văn Hải, Hồng Văn Kiết, Trịnh Văn Phƣớc. Mãn khóa, hai anh Tám
Phƣớc và Hải đƣợc phái về Tân Phong, làm công tác vận động thanh niên. Các anh
đi một vòng từ Bình Hòa, Cây Đào, Bến Cá… tổ chức đƣợc một số tổ dân quân du
kích và thanh niên cứu quốc.
23
Tháng 10 - 1945, Tỉnh uỷ Biên Hòa nhận định: chẳng chóng thì chầy, giặc
sẽ đến đây. Các cơ quan, đoàn thể của tỉnh và quận Châu Thành cũng nhƣ phần lớn
nhân dân nội ô tản cƣ về các vùng nông thôn Tân Uyên, Bình Đa, Bến Gỗ,…
Nhờ có quân tiếp viện và vũ khí trang bị từ chính quốc đƣa sang, quân Pháp
nống ra các tỉnh Nam bộ. Ngày 25 - 10 - 1945, lợi dụng quân Anh đi giải giáp vũ
khí quân Nhật ở Biên Hòa, lính Pháp theo sau chiếm tỉnh lỵ bỏ ngỏ. Các lực lƣợng
ta đƣợc lệnh rút khỏi đây để “tránh va chạm với Đồng Minh”. Đoàn xe quân sự
địch tiến vào một nội ô với những đƣờng phố vắng tanh vắng ngắt, cửa mọi nhà
đóng im ỉm. Súng lớn súng nhỏ của chúng đều đạn lên nòng, sẵn sàng bắn vào các
ổ kháng cự, nhƣng địch chỉ thấy các công sở trống rỗng với ít bàn ghế chỏng chơ
và mấy đống tro giấy. Nội ô Biên Hòa không điện, không nƣớc… Lính Anh và
quân Pháp chia nhau đóng ở một số địa điểm: Tòa bố, tòa án, ty cảnh sát, nhà hàng
Hạnh Phƣớc, sân bay,…
Anh Tƣ Trác (Hoàng Đình Trác) - em ruột Hoàng Đình Cận - tham gia bộ
đội anh Sắc. Một thời gian ngắn sau đó, mấy anh em bàn tính, để anh Tƣ Trác về
thành trông coi gia đình, kiếm công ăn việc làm và nhận nhiệm vụ mật trong vùng
địch. Anh từ Thiện Tân đi xe đạp theo lộ 24 về. Nhờ vẫn giữ đƣợc thẻ thuế thân,
anh qua trạm gác sân bay, chúng hỏi giấy, anh đƣa ra thì chúng cho đi. Đạp xe
ngang dãy phố Sáu Sử, anh thấy lính da đen đóng lố nhố trong đó. Dãy phố bốn
căn tan hoang. Anh lên tạm trú nhà ngƣời chú là ông Hoàng Đình Lâm ở Dốc Sỏi,
tìm thấy vợ. Lúc này chủ nhà máy cƣa BIF bắt đầu khôi phục sản xuất, rất thiếu
công nhân. Chúng đƣa anh lên xe về hãng, cấp giấy tờ, bắt ở trong sở, nhƣng anh
xin về ở nhà ông Lâm tại Dốc Sỏi.
Anh Năm Hóa (Nguyễn Minh Hóa) vào bộ đội anh Sắc, sau đó chuyển qua
Quốc gia tự vệ cuộc (công an). Khi Pháp chiếm tỉnh lỵ, đơn vị rút về Tân Phong.
Là ngƣời quen thuộc ấp Lân Thành và nội ô, anh cùng vài đồng chí đêm đêm
thƣờng về hoạt động tại đây. Tháng 12 - 1945, nhóm anh đụng Tây càn bố khu vực
miễu Bình Trƣớc. Chúng bắn anh bị thƣơng nặng. Anh em ráng khiêng anh lên
điều trị tại trạm cứu thƣơng Bến Vịnh (Trị An). Mấy tháng sáu, vết thƣơng lành,
anh đƣợc cấp chỉ huy cho về thành làm ăn. Có tay nghề, anh xin làm thợ điện nhà
máy cƣa BIF.
Chiếm đƣợc tỉnh lỵ, địch kêu gọi số viên chức cũ ra làm việc. Ban ngày, lính
địch lùng sục, bố ráp liên miên hòng quét sạch lực lƣợng kháng chiến trong vùng
chiếm đóng. Báo chí, đài phát thanh Sài Gòn liên tục rêu rao: “sẽ bình định Nam
kỳ trong vòng ba tháng”. Chúng kêu dân họp lại chợ Biên Hòa để có nguồn tiếp tế
lƣơng thực, thực phẩm cho chúng.
24
Đội xung phong cảm tử gồm 43 thiếu niên từ 13 đến 16 tuổi do đồng chí Hai
Ký chỉ huy, thành lập theo chủ trƣơng của Quận ủy Châu Thành, đã mƣu trí đột
nhập nội ô diệt một số Việt gian mới ló mòi: Ba Lê, Bảy Thống… Tại ngã ba
Vƣờn Mít, thỉnh thoảng đội bất ngờ xuất hiện, dùng súng lục và lựu đạn diệt địch
đi lẻ rồi rút lui nhanh. Các vụ diệt trừ gian này có tác dụng răn đe ngăn chặn phần
nào bọn lăm le nhảy ra làm tay sai cho giặc. Ngƣời dân khu 3 (gồm các hộ 9, 10)
cũng nhƣ cả xã Bình Trƣớc rất vui mừng khi nghe tin các tên tay sai, chỉ điểm vừa
ló ra bị đàng mình diệt hoặc tóm liền. Địch chiếm đƣợc đất nhƣng hành động tàn
bạo của chúng làm mất lòng dân. Bà con thấm thía cảnh cá chậu chim lồng, càng
luyến tiếc hai tháng sống trong độc lập tự do tƣởng nhƣ mơ.
Đêm 1 - 1 - 1946, bộ đội ta mở cuộc tập kích lớn vào nội ô Biên Hòa. Một
mũi theo hƣớng Dốc Sỏi, một mũi qua ngã ba Kỷ niệm, một mũi theo đƣờng Tân
Mai lên, một mũi đi đƣờng sông đổ lên ấp Vĩnh Thị… Súng ta nổ dồn dập vào các
trạm gác, nhà lao, đầu cầu.. Anh em làm chủ đƣờng phố, đốt cháy chợ Biên Hòa…
Địch cố thủ trong thành Xăng đá và các tua bót… vãi đạn ra cốt tự trấn an tinh
thần.
Cuộc tập kích đêm đầu năm 1946 gây niềm tin tƣởng lớn lao cho nhân dân
Biên Hòa vào sự nghiệp kháng chiến dƣới sự lãnh đạo của Chính phủ Cụ Hồ. Hàng
trăm thanh niên từ Sài Gòn và một số tỉnh đã kéo về xin gia nhập Vệ quốc đoàn
Biên Hòa. Anh Nguyễn Văn Thạc ở hộ 10 là lính tập cũ trong sân bay cũng xin đi
thoát ly trong dịp này (Anh tập kết tháng 8 - 1954 ở sƣ đoàn 338. Anh hồi kết
chiến đấu trên chiến trƣờng miền Nam, hy sinh tại Lò Gò, Tây Ninh tháng 8 -
1964).
Anh Ba Dữa từ Tân Uyên về, tìm cơ quan tuyên truyền đóng ở bến đò Kho
(Bình Đa). Lúc này ta đang tích cực chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu
Quốc hội khoá I. Cơ quan họp bàn, phân công từng ngƣời đi làm công tác vận
động, tổ chức bầu cử, đồng thời vận động nhân dân ủng hộ bộ đội ăn tết. Các anh
đi từng nhà, bà con dù giàu hay nghèo đều góp gạo, tiền, dừa, hoa quả, bánh trái
(bánh tét, bánh tổ)… Anh em phải huy động xe bò chở quà. Ban tiếp tế ở Chợ Đồn
(Bửu Hòa) dùng một ghe xuôi Tân Vạn, băng qua An Hảo, chở hai cần xé cá khô
và một cần xé hột vịt. Anh Ba Dữa đến nhà anh Bảy Hẹ - thanh niên cứu quốc
Bình Đa - kiếm xe bò. Xe thực phẩm theo đƣờng Kiểm - đƣờng mở trong rừng để
kiểm soát việc khai thác gỗ củi - đi tới Đá Mài, giao cho chị Hớn và chị Châu.
Hàng vừa giao xong, lính địch đi càn tới. Mọi ngƣời chạy tán loạn vào rừng.
Chúng bắt đƣợc hai chị Tƣ và Dung (chị Dung con bác sĩ Hoài, Giám đốc nhà
thƣơng điên). Khi lính rút, anh Ba Dữa dẫn đƣờng cho hơn một chục ngƣời trở về
Tam Hiệp, trong đó có các đồng chí Ba Thuận (Phạm Văn Thuận), Lê Nguyên Đạt,
25
anh Nhì, các chị Hớn, Châu… đi lộn đƣờng, anh suýt bị giết vì nghi là dẫn đƣờng
vào ổ phục kích của Tây. May mà tới chiều tối đoàn ngƣời bình yên về tới nhà ông
giáo Thể ở Bà Bao thôn Vĩnh Cửu.
Đất Bình Đa, An Hảo là cái túi chứa nhiều cơ quan, đơn vị bộ đội và các ủy
ban xã bạn li hƣơng đứng chân ở đây. Việc tiếp tế có nhiều khó khăn. Do đó ban
tuyên truyền dời qua Tân Vạn. Bà con tín đồ Cao Đài nói: “Các anh cứ ở đây, Tây
đến, chúng tôi đánh trống báo, Tây đi chúng tôi đánh một hồi…”. Dân cho ăn uống
khá đầy đủ, các anh chỉ còn lo chuyện công tác. Một bữa Tây tới, bà con thúc mấy
tiếng trống. Toàn ban lên một chiếc xuồng, tạm lánh vào rạch Bà Lồ ven núi Châu
Thới. Anh Ba Dữa tức cảnh, làm bài thơ ngắn:
Tạch tạch, đùng đùng nổ quanh đây.
Người kêu “giặc tới”, kẻ la “Tây”
Gom đồ, tất cả toàn ban chạy
Tài liệu, nhân viên một ghe đầy.
Pháp lập bót lính Cao Đài ở Tân Vạn. Ban tuyên truyền liệu thế không ở
đƣợc nữa, bèn quyết định dời về ấp Bình Dƣơng (nay thuộc Long Bình Tân). Đêm
đó, các anh nhịn đói ở bến Lái Dầm chờ đò qua sông. Gọi là bến Lái Dầm vì nƣớc
sông quãng này chảy xoáy, ngƣời chèo đò phải dùng dầm cho khéo kẻo lật ghe.
Anh Ba Dữa ghi lại cái đêm đáng nhớ suốt đời đó:
QUA BẾN LÁI DẦM
Đêm hôm ấy sao lưa thưa lấp lánh
Trời dông cuồng, sông lạnh sóng lô xô
Vẻ băn khoăn, hò mãi bặt tăm đò
Quanh bến vắng, cảnh hoang vu thấm thía
Sớm đi sương, chiều hẹn về quá trễ
Ôi tràng giang! Đành ở lại đêm nay
Lại một đêm lán cỏ dưới tàn cây
26
Nằm thao thức nhớ chuỗi ngày đã sống
Hò thêm tiếng, tiếng tan thành thất vọng
Nhìn mây trời: mảnh đọng mảnh tan trôi
Gió rít cơn càng trút đổ sương hàn
Giun dế khóc tiếng ngân vang bốn cõi
Buồn ý lạc vẩn vơ khôn tìm lối
Trở lại, lòng quặn thắt nhớ hơi cơm
Trước gian nan cố nén nỗi căm hờn
Thu tàn lực dưới màn sương chờ sáng
Trong bóng đêm bỗng mặt sông thấp thoáng
Lách ngược dòng chiếc tam bản băng qua
Giữa hai em chèo lái có một bà
Đò cặp bến cất giọng nua đuôi đuối
“Biển gió đưa vẳng tiếng hò ôi ối
Vì sóng to, trời tối, chúng nhát qua
Nghĩ thương vì sương gió đứng bơ vơ
Nên hối trẻ ráng chèo qua chớ ngại!”
Đang rời rã, lắng nghe liền hăng hái
Vội chuyên tay chèo lái chống giông to
Nhìn thôn làng chìm đắm dưới sương mờ
Tình dân tộc trỗi hồn thơ quyến luyến.
27
Địa bàn xã Bình Trƣớc đƣợc địch chia thành bốn khu, tám ấp giữ nhƣ cũ
nhƣng chúng chỉ kiểm soát có mức độ vào ban ngày. Khu 3 gồm các hộ 9, 10 cũ,
địch thƣờng xuyên bố ráp. Chúng đóng bót nhà thƣơng điên, từ đây bung ra càn
quét Bàu Hang và xã Tân Phong. Sở chỉ huy tiểu khu Biên Hòa đặt tại nhà máy
cƣa BIF Tân Mai. Tỉnh lỵ Biên Hòa đầy lính, chúng thực hiện chiến thuật “tằm ăn
rỗi” mở rộng chiếm đóng bình định vùng ven, một số lần tập trung quân đánh
chiến khu Đ với ý đồ tiêu diệt gọn đầu não lực lƣợng kháng chiến và gom dân vào
vùng địch chiếm.
Trƣớc đây Tỉnh ủy và Tỉnh bộ Việt Minh có chủ trƣơng đƣa dân đi tản cƣ thì
nay lại cho bà con về thành làm ăn. Các thợ thuyền cũng đƣợc vận động hồi cƣ sau
khi Chính phủ ta ký với Pháp hiệp định sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946 và bản tạm ƣớc
ngày 14 - 9 (mà báo chí và dân hồi đó gọi là thỏa hiệp án). Chủ nhà máy cƣa BIF
và các chủ sở cao su đều muốn kinh doanh tiếp tục nên sẵn sàng thu nhận ngƣời
đến xin việc. Liên hiệp công đoàn tỉnh cử cán bộ luồn vào xây dựng tổ chức công
đoàn bí mật trong công nhân.
Ông Sáu Sử (Nguyễn Văn Sử) có một số xe đò, chạy đƣờng Biên Hòa - Sài
Gòn. Lúc Tây lên, gia đình ông đi tản cƣ ở Bàu Tre. Khi ông hồi cƣ, xe cộ và đồ
đạc trong nhà bị lính và lƣu manh lấy hết. Ông chỉ còn một chiếc, lại chở khách
kiếm sống. Cán bộ ta móc nối, mời qua chợ Đồn rồi dẫn vào hóc Ông Che (Hóa
An) gặp anh Nguyễn Chức Sắc. Ông hứa ủng hộ bộ đội tiền gạo. Trót lọt một số
lần, ông bị một tên quan hai Cao Đài để ý theo dõi. Một buổi chiều, vào hồi 5 giờ,
một ngƣời mặc bộ quần áo đen vừa bƣớc vào nhà ông (số 25 Trịnh Hòai Đức, nay
là đƣờng 30 - 4) thì lính kín ập vào bắt. Chúng đánh ngƣời này tại chỗ. Bị đòn đau,
anh ta khai: đến nhận tiền ủng hộ của ông Sáu Sử. Ông liền bị cảnh sát bắt về bót.
Gia đình lo lót rất tốn kém mới cứu ông đƣợc tha mƣời ngày sau đó. Nhờ thày Ba
Hiệp ở Cù lao Phố giúp móc nối, con gái ông là cô Tƣ Ngọc (Nguyễn Thị Ngọc) đi
thoát ly kháng chiến và đã hy sinh năm 1946.
Anh Thái Văn Khuyên là ngƣời đạo gốc Thiên Chúa đi phu contrat sở cao su
Suzannah (Dầu Giây). Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, anh tham gia hoạt
động tại sở. Khi Pháp trở lại, chúng bắt anh về bót Dầu Giây và đốt tiêu nhà anh.
Bị khủng bố anh càng căm tức giặc, bọn quỷ dữ mang danh cùng đạo Chúa. Anh
thấm thía cảm nhận rằng chỉ có cách mạng mới đem lại quyền sống cho ngƣời lao
động nghèo khổ. Khi đƣợc tha, anh về cƣ ngụ ở ga Biên Hòa, hớt tóc rồi sửa xe
đạp kiếm sống. Sau mở quán cho mƣớn ghế bố để khách tạm nghỉ chờ tàu. Anh
Chín và một số anh khác về móc nối, anh ngầm đứng ra quyên tiền gom nộp cho
cán bộ ta. Phần đóng góp của anh tuy nhỏ, đã chứng minh anh là ngƣời công dân
kính Chúa, yêu nƣớc.
28
Ông Hai Lân (Lâm Văn Lân) là thợ máy nhà máy cƣa BIF từ năm 1928. Hồi
Nhật đảo chính (9 - 3 - 1945) nhiều quan chức Pháp ở Biên Hòa bị tập trung giam
giữ ở trong hãng. Ông Hai Lân đi chợ Biên Hòa mua một số thực phẩm và hàng
hóa về bán lại cho số này. Sau tháng 8 - 1945, ông vào Quốc gia tự vệ cuộc (công
an). Khi Pháp quay lại chiếm Biên Hòa, đơn vị ông rút lên Tân Uyên. Năm 1946,
đồng chí Năm Bối (Trịnh Trọng Tráng) yêu cầu ông về nội thành với nhiệm vụ:
làm nghề thầu khoán, tùy điều kiện mà ủng hộ kháng chiến nhƣng nhất thiết không
làm việc cho Tây.
Từ chiến khu về, ông ngã bệnh. Bọn Pháp quen biết trƣớc đây đánh ô tô tới
nhà thăm. Một tên hỏi: “Mày không theo Việt Minh nữa à?” Ông trả lời: “Đau
bệnh nên không theo đƣợc, còn khoẻ thì đã theo rồi”. Khỏi bệnh, ông vào nhà chủ
nhà máy cƣa BIF. Tình cờ, ông gặp cả viên chánh án và quan năm Rioux (Ri - u),
chỉ huy trƣởng tiểu khu Biên Hòa. Viên chánh án Pháp nhắc lại chuyện cũ, khen
ông là ân nhân của ngƣời Pháp hồi đó. Quan năm Rioux hỏi: “Ông muốn làm chức
gì?”. Chủ nhà máy cƣa BIF nói: “Côlônen (colonel) cho nó làm quan một, sếp bót
máy cƣa”. Nhớ lời đồng chí Năm Bối, ông trả lời: Chỉ muốn làm nghề mộc. Chúng
cho ông một món tiền, ông mở trại mộc ở đầu xóm Cống đƣờng lội (khu vực Nhà
văn hóa lao động tỉnh bây giờ), cạnh nhà ông Sáu Quản. Chiến khu thƣờng cho
ngƣời về liên lạc với ông. Anh em cán bộ thỉnh thoảng về công tác, nắm tình hình
địch ở xã Bình Trƣớc, nhờ ông mua giùm một số hàng cần thiết, rồi lại theo đƣờng
xóm Đồng Tràm (Tân Phong) về căn cứ Hố Cạn hoặc lên chiến khu Đ. Cai Hồ, cai
Đán, cai Hoa thƣờng rình mò định bắt ông chủ Lồi (Nguyễn Văn Truy, hƣơng chủ
cũ, cán bộ xã Bình Trƣớc) và một số cán bộ thỉnh thoảng lui tới. Vì vậy, nhà ông
Hai Lân nằm trong khu vực lính thƣờng để ý, phục kích. Anh Đễ - thợ mộc của trại
- mỗi lần phát hiện lính từ xa, lại quét vun đống vỏ bào, lá cây “để tránh rắn rết”,
báo hiệu cho anh em ta không vào nhà.
Cán bộ từ chiến khu Đ hoặc căn cứ Bình Đa về công tác, có lúc ngủ trà trộn
với số thợ. Một lần, một anh hỏi ông: “Có cách gì đƣa một cán bộ vào Sài Gòn thật
an toàn không?”. Ông suy nghĩ rất lung rồi trình bầy cách làm, đƣợc anh đồng ý.
Ông vào nhà quan năm Rioux trong hãng cƣa, ngồi chờ ở xa-lông để bàn với
y một vụ thầu sửa nhà cửa của nhà binh. Nhân lúc vắng ngƣời, ông kẹp lƣỡi lam
vào ngón tay, khía nhẹ lên lớp vải bọc mặt ghế. Bữa sau, vợ Rioux cho lính kêu
ông vào, bảo thay lớp bọc mặt ghế bị rách. Ông nhận lời: “Muốn nhanh, bà nói với
ông Côlônen cho xe chở tôi đi Sài Gòn mua vật liệu, chớ đi xe đò thì lâu, từ Biên
Hòa tới Sài Gòn có chín mƣời chặng nhà binh xét giấy..” Quan năm đồng ý, cấp
giấy phép cho ông và ngƣời “giúp việc”.
29
Mấy bữa sau, chiếc xe Jeep chở ông chủ thầu Hai Lân và một ngƣời ôm cặp,
không phải dừng ở trạm kiểm soát nào vì lính đã quen chiếc xe của ngài chỉ huy
tiểu khu Biên Hòa. Xe chạy lòng vòng một số đƣờng phố Sài Gòn để ông chủ thầu
tìm nơi bán thứ simili hảo hạng, trong khi ngƣời ôm cặp tha hồ quan sát. Tới đầu
đƣờng Trần Hƣng Đạo, ngƣời giúp việc xin phép xuống, nhanh chóng hòa lẫn
trong dòng ngƣời đông đảo. Ông Hai Lân mua vật liệu rồi cho tài xế ăn uống no nê
trƣớc khi quay về Biên Hòa. Ít lâu sau ông mới đƣợc rỉ tai rằng ngƣời đi cùng ông
bữa trƣớc là Khu bộ trƣởng khu 7 Nguyễn Bình.
Thầu sửa chữa trong sân bay, ông rủ rê một số lính nhậu nhẹt, tạo cho chúng
thói quen ăn xài riết đến độ ăn cắp cả phụ tùng máy móc bán lạc xon.
Mỗi lần nhận thƣ của bác sĩ Võ Cƣơng từ chiến khu gửi về, ông lại thu xếp
tiền bạc nhờ thày ký Hiệp, bác sĩ Bá… tới nhà thuốc Lâm ở chợ Biên Hòa mua kí
ninh, thuốc kháng sinh và một số dụng cụ y tế cần thiết, đêm có anh em về mang
đi. Bác sĩ mua giúp hai bộ đồ mổ - rất quý đối với quân dân y lúc đó - thì một bộ
mang đi trót lọt lên chiến khu Đ, một bộ bị lính phục kích bắt trên đƣờng chuyển
xuống Bình Đa. Các chị Ngô Thị Hiếu, Ngô Thị Rớt vận chuyển thuốc và dụng cụ
y tế sa tay giặc bị chúng mang ra toà xử, bỏ tù đến tháng 8 - 1954 mới đƣợc trao
trả.
Lợi dụng bọn Pháp tin vậy, ông Hai Lân còn xin chúng tha một số ngƣời bị
bắt trong các cuộc bố ráp.
Ủy ban kháng chiến hành chánh xã Bình Trƣớc và các cơ quan đoàn thể
khác của xã đều ly hƣơng. Ở Bình Đa, cán bộ, du kích thoát ly đêm đêm vẫn về
công tác bằng ngã Tân Mai, cầu Vạt (nay gọi là cầu Mƣơng Sao) hoặc qua Hiệp
Hòa rồi dùng xuồng chèo qua rạch Cát. Địch cố tìm cách ngăn ta đột nhập, chúng
thƣờng tổ chức phục kích các nẻo đƣờng anh em đi lại.
Đêm 4 - 11 - 1947, Chủ tịch xã Bảy Vệ cùng một số công an, cán bộ từ Bình
Đa, qua Gò Me về Vĩnh Thị. Khi tới lò gạch, nhóm đi đầu lọt vào ổ phục kích của
địch. Chủ tịch Vệ hy sinh, một ngƣời khác bị thƣơng (ông Sáu Phu ở ấp Lân Thành
lên thay làm Chủ tịch xã). Trụ sở xã từ Bình Đa dời về Hố Cạn (Tân Phong). Cán
bộ Ủy ban xã, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng lần lƣợt đƣợc cắm
về các khu và ấp trong xã. Khi Chủ nhiệm Việt Minh xã Phan Thu Hà (Hà Xuân
Phấn) chuyển công tác thì anh Ba Dữa lên thay.
Cán bộ ta xây dựng nhiều cơ sở mới, một mặt làm nhiệm vụ tiếp tế cho
kháng chiến, một mặt làm tai mắt cho ta.
30
Một số anh em thợ lò nung trƣờng Mỹ nghệ Biên Hòa đƣợc tổ chức thành tổ
trinh sát do anh Phạm Văn Nghiêm làm tổ trƣởng. Tổ gồm các anh: Lâm Văn
Xiêm, Đặng Văn Cử, Tân, Nguyễn Văn Dần, Huỳnh Văn Chiêm, Lƣu Khánh Bon,
Nguyễn Văn Ninh, Phạm Văn Sáng. Các anh theo dõi hoạt động của lính và cảnh
sát ở khu đài Kỷ niệm gần trƣờng Mỹ nghệ, ngã ba Vƣờn Mít tới nhà máy cƣa BIF
để báo cáo thƣờng xuyên ra căn cứ. Các anh còn tổ chức quyên góp hàng gửi ra
theo đƣờng dây giao liên, nhận truyền đơn từ ngoài gửi vào để rải trên đƣờng phố.
Bọn đội Xọ, cai Hồ, cai Đán, cai Hoa chịu khó lùng sục lập công với chủ Tây.
Chúng hay chặn ngƣời đi đƣờng để xét giấy, có lúc bắt đàn ông tháo giày, lột vớ để
khám. Tổ trinh sát anh Nghiêm có lần nhét truyền đơn giấu trong bụng pho tƣợng
Phật bằng gốm, đàng hoàng qua mặt bọn chúng. Một lần, tổ đƣợc giao nhiệm vụ
ném một trái lựu đạn ở chợ Biên Hòa vào ban đêm để gây tiếng nổ nhân dịp lễ kỷ
niệm. Tiếng nổ ấy có tác dụng nhắc nhở bà con: kháng chiến còn có mặt ở đây,
giữa lòng địch. Anh Dần bị chúng bắt tình nghi, toàn tổ tƣởng bị lộ đã rút xuống
căn cứ Bình Đa. Gan dạ chịu đựng đòn thù dã man của ách Năm tại phòng nhì máy
cƣa, anh không khai báo gì. Qua tin tức bên trong đƣa ra, tổ trinh sát mật gồm toàn
thợ lò nung trƣờng Mỹ nghệ lại về bám địa phƣơng để sinh sống và tiếp tục hoạt
động.
Chị Bảy Đen (Phạm Thị Chừng) ở xóm ga Biên Hòa là cơ sở của ban công
tác thành số 7, các anh Dinh, Cơ, Dặm, Dọt… thỉnh thoảng đột vô công tác lại ghé
nhà chị. Ga Biên Hòa có bót lính, là nơi qua lại của các đoàn tàu Sài Gòn - Nha
Trang, phần lớn chở lính và vũ khí. Chị thu thập tin tức rồi báo cho cơ sở Ba Mập
ở vƣờn chuối ấp Lân Thị, từ đó anh tìm cách báo ngay xuống Bình Đa để bộ đội
đánh phá giao thông vận tải địch. Chị còn vận động bà con góp tiền, lƣơng thực,
vải vóc… kể cả số buôn bán ở chợ, nhờ đƣờng dây chuyển ra ngoài. Chị nhận các
thƣ cám ơn của kháng chiến trao tận tay những ngƣời đóng góp ủng hộ. Do bị bể,
chị thoát ly ra chiến khu, lấy anh Nguyễn Văn Lực (tức Trọng) - nhân viên ban
công tác số 7. (Năm 1952, tình hình chung rất khó khăn, lúc đó chị có bầu đƣợc
cấp trên cho về).
Ông kinh lý Nguyễn Văn Tàng và các con sống ở hộ 9 (khu 3) đều thoát ly
tham gia kháng chiến từ đầu. Trƣớc tổng khởi nghĩa, ông có công vận động tỉnh
trƣởng Nguyễn Văn Quý giao nộp chính quyền cho cách mạng, tránh đổ máu vô
ích. Ông kinh lý Tàng đảm nhận chức Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành
chánh tỉnh vào giai đoạn Tây vừa đánh tới, ta gặp rất nhiều khó khăn. Tuy tuổi già
sức yếu, ông ráng chịu dựng gian nan vất vả, trở thành nhân sĩ yêu nƣớc có tên tuổi
trong toàn tỉnh. Theo gƣơng ông, một số ngƣời có tiếng tăm cũng tham gia kháng
31
chiến. Ông qua đời vì bệnh nặng trong vùng tự do của ta ở Long Thành, đƣợc mọi
ngƣời hết sức kính phục.
Năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ ra chỉ thị 4 - NV mời
các nhân sĩ trí thức thoát ly ra bƣng biền. Để địch không có cớ khủng bố gia đình
các vị này, ta tổ chức các cuộc “bắt cóc” thày giáo Năm Ngũ (Hoàng Minh Viễn),
hiệu trƣởng trƣờng Mỹ nghệ Võ Kim Đôi, ông Năm Lâm (Hoàng Đình Lâm) -
nhân viên kỹ thuật nhà máy cƣa BIF (ông làm trƣởng phòng kỹ thuật quân giới
quân khu 7, hy sinh trong kháng chiến ở chiến khu Đ).
Có anh ruột và hai ngƣời em gái chồng tham gia cách mạng, vợ chồng chị
Hai Cậy (Nguyễn Thị Cậy) bị Pháp trục xuất khỏi nội ô Biên Hòa, bắt lên Trảng
Bom. Tháng 7 - 1947, cán bộ ta móc nối, yêu cầu chị mua một tạ gạo (chuẩn bị cho
bộ đội đánh đƣờng sắt ở Bàu Cá). Chị về chợ Biên Hòa mua một bao gạo chỉ xanh,
nhờ xe be nhà máy cƣa BIF chở lên một sáng sớm, đổ xuống gốc cây trƣớc cửa
đềpô của hãng. Lính địch đi tuần bắt gặp, tên quan hai ra lệnh tịch thu, mang về
bót. Chị Hai Cậy gặp hơn một chục công nhân cao su, năn nỉ họ cho mƣợn thẻ, dặn
họ nếu sếp bót có hỏi thì nói nhờ chị mua giùm gạo. Sau đó chị nhờ làm đơn mang
vào gặp viên quan ba chỉ huy, nó xem và hỏi vài câu rồi ký vào đơn cho chị lĩnh
bao gạo về. Do đó chị thoát, không bị nghi ngờ gì.
Nội ô Biên Hòa đƣợc địch đánh giá là vùng an ninh tốt nhƣng tiếng súng trừ
gian thỉnh thoảng vẫn nổ. Tên tuổi các chiến sĩ Hai Dự, Ba Cơ, Út Một… đƣợc
đông đảo bà con biết đến. Có lần anh Ba Cơ từ Bình Đa vào sân banh Biên Hòa
xem đá bóng rồi ra về vô sự. Giữa năm 1947, đồng chí Út Một (Đỗ Văn Thi) chỉ
huy một nhóm công an xung phong phối hợp với tổ quân báo Châu Thành ném 1
lựu đạn vào nhà hàng Vidal (nay là nhà văn hóa phƣờng) diệt 2 sĩ quan Pháp, làm
một số tên khác bị thƣơng. Bọn địch lùng sục truy tìm song anh em đã rút lui an
toàn. Sau đó chúng đóng bót Vidal gần nhà hàng để kiểm soát luôn ngã ba Vƣờn
Mít (có một hồi Big Minh – Dƣơng Văn Minh - là sếp bót Vidal này).
Ở các vùng tranh chấp và vùng căn cứ, thực dân Pháp thực hiện thủ đoạn
nham hiểm. Chúng ra sức bắn giết trâu bò để phá hoại sản xuất của ta, định hãm
lực lƣợng kháng chiến vào cảnh đói. Xã Bình Trƣớc có nhiều bò bô chuyên kéo xe
củi khai thác dọc đƣờng 15 và đƣờng số 1. Theo chủ trƣơng của tỉnh, cán bộ và cơ
sở các khu – trong đó có khu 3 vận động chủ xe cho bộ đội và cơ quan mƣợn bò để
tăng gia sản xuất. Ủy ban kháng chiến hành chánh xã Bình Trƣớc đƣa hàng trăm
trâu bò cho chi đội 10 và ban kinh tài tỉnh.
32
Anh Tám Phƣớc (Trịnh Văn Phƣớc) ở nhà một ít ngày, nhờ một ngƣời bạn
dẫn đi làm bồi cho viên đốctơ Pháp ở trạm xá sân bay. Anh biết tiếng Pháp lại
chăm chỉ cẩn thận nên viên bác sĩ tin và mến. Biết cán bộ, bộ đội ta ghẻ lở nhiều,
anh làm quen viên đội coi thuốc, xin thuốc đỏ và dagénan đƣa cho Phạm Văn Đăng
chuyển cho giao liên mang ra ngoài. Anh em ta trộn dagénan với thuốc đỏ, xức sau
khi tắm mau hết ghẻ ngứa.
Anh làm bồi đƣợc 3 tháng thì viên đốctơ mãn hạn về Pháp. Ông ta hỏi: “Anh
có nghề gì không?” anh nói: “biết sửa máy”. Ông ta giới thiệu anh qua xƣởng
(atelier) coi hai máy phát điện và giới thiệu thêm anh Đăng vào làm thợ máy. Coi
máy phát điện một thời gian, anh Tám Phƣớc xin sang sửa chữa máy bay vận tải.
Qua một kỳ sát hạch, anh trúng tuyển chân thủ kho. Một số lần anh tìm cách gây
chậm trễ việc sửa máy bay bằng cách trả lời món phụ tùng ấy hết hoặc chƣa có…
Tháng 3 - 1948, anh Tám Phƣớc và anh Đăng bị một tên đầu thú, dân miệt
Cây Đào, chỉ điểm bắt ngay ở cổng sân bay. Bọn an ninh không quân Pháp xoáy
vào hỏi: “Ai tổ chức đốt nhà ông Tƣ Bền, nhân viên hãng máy cƣa BIF? Nhà ổng
là nhà tô thì cháy, sao nhà mày là nhà lá kế bên, cách con hẻm nhỏ lại không
cháy?”… Bị đòn đau, anh Tám Phƣớc vẫn một mực nói: “Không biết ai đốt nhà
ông Tƣ” nhƣng nhận “có đóng 5 cắc mỗi tháng ủng hộ kháng chiến”. Chúng nhốt
anh ở sân bay hai ngày, sau đó đƣa giam ở khám lớn Biên Hòa. Rồi chúng bắt anh
và nhiều ngƣời tù khác vác đạn cho lính đi càn quét vùng Đại An, Trị An… Anh
chứng kiến sự tàn bạo man rợ của giặc với cảnh đốt sạch, phá sạch, giết sạch. Sau
đó anh bị tù ở Thủ Đức với danh nghĩa là tù binh PM, qua Tết 1949 thì đƣợc tha.
Nhà máy cƣa BIF Tân Mai hoạt động trở lại, nhiều thợ cũ ở khu 3 xin vào
làm việc: Tƣ Nghìn, Tƣ Trác, Bảy Đắc... Anh Thành (Biển, Trần Đại Thiện) là cán
bộ công đoàn luồn vào hoạt động trong trại cƣa của hãng. Anh Quách Xu (Tây lai)
là cán bộ công vận cũng thƣờng từ căn cứ Bình Đa đột về Vĩnh Thị, tận tuỵ cùng
anh Thành đẩy mạnh hoạt động công đoàn bí mật. Công đoàn nhà máy cƣa BIF lấy
tên là công đoàn Hồ Hòa - để nhớ tới Chủ nhiệm Việt Minh đầu tiên tỉnh Biên Hòa
- có 43 tổ có từ ba đến sáu nhóm ba ngƣời. Các đoàn viên công đoàn đóng tiền
hàng tháng ủng hộ kháng chiến, cung cấp tin tức địch cho ta, một số lần lãn công,
bãi công đòi chủ hãng tăng lƣơng và phụ cấp gia đình, cải thiện điều kiện làm việc
cho thợ… Trại cƣa, nơi anh Nghìn (Nguyễn Viết Nghìn) làm việc, dƣới sự chỉ đạo
trực tiếp của anh Thành (Biển) đã tổ chức phá hoại ngầm, gây thiệt hại cho chủ
hãng bằng cách: cƣa cắt gỗ sai kích thƣớc, bỏ ván thành phẩm lẫn với củi, làm
cháy một máy cƣa mâm, phá hƣ palăng chuyển gỗ cây… Anh em bên cơ xƣởng thì
làm hỏng nồi súp de, máy phát điện…
33
Các công binh xƣởng của ta thiếu thốn đủ thứ: dụng cụ (lƣỡi cƣa, đục thép,
dũa, mũi khoan… ), kim loại (đồng, thau, thiếc hàn…). Ủy ban kháng chiến hành
chánh tỉnh đã động viên nhân dân các địa phƣơng hiến mâm đồng, lƣ đồng… để
chế tạo vũ khí. Hƣởng ứng chủ trƣơng trên, anh em thợ máy nhà máy cƣa BIF
bằng nhiều cách lấy cắp nguyên vật liệu, dụng cụ trong hãng tuồn ra căn cứ. Nhà
máy cƣa BIF có hàng chục xe ôtô các loại. Anh Tƣ Trác là trƣởng toán coi 20 thợ
chuyên sửa ôtô. Xe sửa xong, anh em chạy thử. Anh Tƣ lén lấy mỗi lần một vài
món đồ: lƣỡi cƣa, dũa, thau... bỏ lên xe, tới nơi hẹn trƣớc có ngƣời đón lấy. Anh
còn nhờ chị Ngô Thị Ngọc xin toa bác sĩ Cao mua thuốc chống sốt rét mỗi lần hai
lọ (lọ 500 viên) để gửi ra ngoài căn cứ.
Bọn chủ Pháp biết thợ lấy cắp nhiều thứ gửi ra ủng hộ kháng chiến. Để ngăn
chặn, chúng cài tay sai chỉ điểm vào các phân xƣởng, lục soát khám xét gắt gao
vào giờ tan sở… Có lần tên quản đốc Généteau (Giênêtô) suồng sã thọc tay vào túi
áo anh cai Minh ở xƣởng đồ mộc: “Nào, mày có phiếu lĩnh đồ nào, đƣa tao ký;
chúng mày muốn lấy gì cho Việt Minh cứ nói tao…”. Dù địch có nhiều biện pháp
đối phó song dụng cụ, nguyên vật liệu cứ rỉ rả lọt ra tuồn về các binh công xƣởng,
góp phần sửa chữa vũ khí hƣ hỏng, làm ra nhiều súng đạn mới giết giặc.
Lúc đầu chƣa có kinh nghiệm hoạt động bí mật, tổ chức lại lỏng lẻo nên địch
cài đƣợc tay sai vào. Phòng nhì Pháp bắt giam một số ngƣời tra tấn khai thác hòng
phăng ra toàn bộ tổ chức công đoàn Hồ Hòa. Nhƣng chúng không moi đƣợc tin tức
quan trọng nào. Chừng nửa tháng sau vụ bắt hai chục ngƣời đó, để thực hiện âm
mƣu “thả con săn sắt, bắt con cá rô” chủ nhà máy cƣa BIF bảo lãnh cho số này,
nhằm mấy ý đồ: có thợ lành nghề làm việc, ngƣời đƣợc tha sẽ biết ơn chủ, nếm trải
cảnh tù tội họ sẽ tởn mà không dám theo kháng chiến nữa… Nhƣng địch tính lầm,
đội ngũ công nhân nhà máy cƣa BIF giàu lòng yêu nƣớc vẫn tham gia đánh địch
bằng cách riêng của mình.
Hoạt động công đoàn thiên về bề nổi dễ bị địch theo dõi phát hiện đánh phá,
cán bộ ta rút kinh nghiệm cân nhắc kỹ lƣỡng từng vụ việc… Các anh đi sâu sát
trong việc chỉ đạo từng phân xƣởng, từng bộ phận đấu tranh bảo vệ quyền lợi và
đời sống của thợ… Có lần chủ hãng đuổi một số thợ trại cƣa vì nghi họ cầm đầu
các cuộc đấu tranh. Chúng điều ngƣời từ các phân xƣởng khác thay, không ai chịu
làm. Chủ mƣớn một số thợ ngoài lấp chỗ trống, anh em ngầm vận động số thợ này
từ chối. Cùng lúc đó, thợ trại cƣa lãn công, sản xuất giảm sút đáng kể. Bị thiệt hại,
chủ hãng phải nhận lại số thợ đã thải, phải trả đúng lƣơng cho những ngày họ đã bị
nghỉ việc. Đƣợc giác ngộ qua thực tế, đông đảo anh chị em dễ dàng tham gia các
đợt đấu tranh mới: đòi phụ cấp đắt đỏ, đòi chủ bán gỗ rẻ để thợ sửa nhà riêng, đòi
cấp hòm (quan tài) khi gia đình họ có ngƣời qua đời… Chủ hãng nói chung nhân
34
nhƣợng vì xét cho cùng, chúng vẫn thu những món lãi khổng lồ nhờ đôi bàn tay
thợ của hãng.
Anh Năm Hợp sống bằng nghề làm củi. Anh nhận nhiệm vụ liên lạc và
chuyển tiền từ ông chủ Lồi (Nguyễn Văn Truy - cán bộ xã Bình Trƣớc) tới đồng
chí Mai Sơn Việt. Một lần lính bót nhà thƣơng điên khám xét, bắt đƣợc anh mang
4.800 đồng, món tiền to hồi đó. Chúng giải anh về ty cảnh sát Biên Hòa. Cò
Hƣơng hỏi: “Mang tiền đi đâu?” Anh trả lời: “Trả tiền công cho ngƣời làm củi”…
Vì quen biết anh, cò Hƣơng tha. Lính commando (biệt kích) của Parel (Pa ren)
đóng giả du kích, hỏi mấy ngƣời đánh xe bò: “Đã đóng thuế (cho Việt Minh)
chƣa?” Họ thật thà trả lời: “Đóng rồi”. Chúng hỏi tiếp: “Các anh đóng cho ai?”
Trả lời: “Cho anh Năm Hợp”. Parel cho kêu anh đến bót Cây Chàm. Lúc đó bọn ác
ôn đang tra khảo bà Bông (ở đƣờng Hàm Nghi). Parel để anh ngồi ở phòng chờ
đến trƣa, nhằm tác động tinh thần anh. Nghe tiếng đòn roi, tiếng la hét của ngƣời
đàn bà, anh thấy ớn, cũng lo cho thân mình. Mặt trời đứng bóng, Parel bƣớc vào,
chửi thề: “Đ.m mày thu thuế cho Việt Minh hả?” Anh chối phắt. Nó hầm hè với vẻ
dữ dằn một hồi, rồi đòi ăn 15 ngàn (quãng một chục cây vàng). Gia đình mang tiền
đến, nó tha ngay.
Một lần khác, hai anh Bê (Việt) và Tƣ Điện mang thƣ của đồng chí Mai Sơn
Việt cho ảnh, bị bọn công an liên bang bắt. Chúng đánh, lòi ra anh Năm Hợp. Tên
Lecor (Lơco) điều tra. Gia đình chạy tiền lo lót. Bảy ngày sau, anh đƣợc tha.
Thu đông năm 1947, giặc Pháp tập trung quân thực hiện chiến dịch Clo -
Clo. Chúng cho hàng chục ngàn lính nhảy dù xuống Việt Bắc và hai cánh quân
phối hợp: cánh quân bộ chạy theo đƣờng số 4 đánh lên Cao Bằng, Bắc Cạn; cánh
quân thủy ngƣợc sông Lô lên Tuyên Quang. Mở chiến dịch này, chúng định tiêu
diệt bộ máy đầu não kháng chiến cấp cao nhất và các đơn vị bộ đội chủ lực của ta.
Song chúng thất bại nặng, và một bộ phận quan trọng sinh lực địch bị tiêu hao.
Đầu năm 1948, chúng tập trung quân quay về bình định miền Bắc hòng vét sức
ngƣời, sức của thực hiện chủ trƣơng “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt, lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh”. Ở Biên Hòa, chúng ra sức đánh phá các căn cứ vùng ven:
Hố Cạn (Tân Phong), Bình Đa (Tam Hiệp) để gom dân vào vùng chiến đóng và
xóa mối uy hiếp của ta.
Anh Ba Dữa (Đinh Quang Dữa) làm Chủ nhiệm Việt Minh xã Bình Trƣớc
(thay anh Hà Xuân Phấn); ông quản Bổn làm Phó chủ nhiệm; anh Phan Văn Hai
làm thƣ ký; anh Trịnh Văn Thời là ủy viên tuyên huấn. Trụ sở Mặt trận Việt Minh
đƣợc bí mật đặt ở căn nhà kế đƣờng rầy (nay là trạm y tế phƣờng). Bị lính kín để ý,
trụ sở dời vô xóm Gò Lăng (nay thuộc ban dân phố 3). Mặt trận Việt Minh lúc này
35
có vai trò lãnh đạo rất quan trọng, tƣơng tự vai trò chi bộ Đảng sau này. Hàng
ngày, các anh nhận công văn, chỉ thị của tỉnh, quận Châu Thành gửi về (do anh
Phụng làm giao liên). Đọc xong, đồng chí Đinh Quang Dữa phân loại, chuyển cho
Chủ tịch xã Sáu Phu hoặc ngƣời phụ trách từng đoàn thể.
Trƣa chủ nhật 1 - 2 - 1948, cuộc họp ba ngƣời: anh Đinh Quang Dữa, Phan
Văn Hai và Phụng vừa xong, thì anh Hai về trƣớc. Mƣời phút sau, ba tên mặc đồ
đen vào nhà. Anh Phụng chạy thoát. Chúng bắt anh Đinh Quang Dữa, lấy đƣợc cái
cặp trong đó có danh sách đoàn thể các ấp và con dấu (mộc). Chúng giải anh về ty
cảnh sát. Căn cứ vào danh sách tổ công đoàn, chúng bắt thêm các anh Phạm Văn
Điền - làm bồi, Vũ Đình Bƣởi - hớt tóc cho Tây, Chà, Phụng, một ngƣời hàng
xóm và chị Ba Dữa. Bảy ngƣời bị bắt trong lần này. Tất cả không khai báo gì, chỉ
nhận “đóng 5 cắc mỗi tháng để khỏi bị Việt Minh gây khó dễ”, nên lần lƣợt đƣợc
tha về. Lúc điều tra, tên Tây hỏi: “Chủ nhiệm là gì? Chef noteble (đứng đầu xã)
phải không?” Anh Ba Dữa trả lời: “Là chef de la jeunesse (đứng đầu thanh niên)”.
Anh nói thêm: “Xƣa tôi làm bồi cho ông bà Balick ở trƣờng Mỹ nghệ, tôi sợ kháng
chiến bắt nên tôi chỉ ký tên thôi…”. Anh bị giam 4 tháng rồi đƣợc tha. Anh lên Sài
Gòn tạm lánh. Ông chủ Lồi (Nguyễn Văn Truy) thay làm Chủ nhiệm Việt Minh xã
một thời gian ngắn (khi thị xã Biên Hòa thành lập thì chủ nhiệm Việt Minh và Liên
Việt là thày giáo Trần Vũ Nguyên tức Nguyễn Văn Trừ).
Tháng 7 - 1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Nam bộ họp ở chiến khu Đồng
Tháp Mƣời. Đánh giá tình hình ba năm kháng chiến, đại hội nhận định: Nam bộ đã
trở thành trung tâm hoạt động chính trị, vị trí quân sự quan trọng đối với giặc;
chúng ra sức đánh vào dự trữ của ta để kéo dài chiến tranh xâm lƣợc. Đại hội chủ
trƣơng phải ra sức bảo vệ dự trữ của ta; xây dựng ngƣời, xây dựng của; giành
ngƣời, giành của với địch; giữ ngƣời, giữ của của ta.
Căn cứ vào sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam bộ phân vạch lại địa giới hai quận
Châu Thành và Tân Uyên cho phù hợp với việc chỉ đạo chiến trƣờng. Xét xã Bình
Trƣớc là trung tâm tỉnh lỵ, có vị trí chiến lƣợc quan trọng cần đƣợc coi trọng đúng
mức, tỉnh quyết định chia quận Châu Thành làm đôi: địa bàn xã Bình Trƣớc là thị
xã Biên Hòa, các xã còn lại lập thành huyện Vĩnh Cửu.
Bộ máy thị xã gồm: Bí thƣ - Võ Văn Mén, Chủ tịch Ủy ban hành chánh
kháng chiến - Nguyễn Bảo Yến, Chủ nhiệm Việt Minh - Trần Vũ Nguyên, Trƣởng
công an - Phan Thu Hà, Thị đội trƣởng - Nguyễn Bảo Đức, Đoàn trƣởng thanh
niên cứu quốc - Phạm Văn Phụng, Đoàn trƣởng phụ nữ cứu quốc - Dƣơng Bảo
Hƣơng, Trƣởng nông dân cứu quốc - Trƣơng Phi Điểu, phụ trách công đoàn -
Trần Đại Thiện (Thành, Biển). Thị xã có ba căn cứ: căn cứ cơ động ở Hóc Bà
36
Thức, một căn cứ ở Bình Đa, căn cứ cơ bản ở Khánh Vân. Thị đội và các đoàn thể
đều bám ở căn cứ Hóc Bà Thức, từ đó đột vào ấp Bàu Hang, lấy đây làm bàn đạp
vƣơn vào nội ô.
Anh Sáu Hợp (Phạm Văn Hợp) quê ở Hà Nam Ninh vào Long Thành từ năm
1938 làm ăn. Anh tham gia Thanh niên Tiền phong ở Long Thành. Khi Pháp quay
trở lại, trong một cuộc càn, chúng bắn chết vợ anh, đốt nhà và bắt giam anh hai
tháng. Năm 1948, anh lên sở cao su Đờ La ở Tam Phƣớc làm rẫy. Anh chơi bài tứ
sắc giỏi, thƣờng đánh bài với vợ viên ách Tây - sếp bót Đờ La - nhờ vậy anh quen
với chồng cô ta.
Tổ quân báo của đơn vị 309 nhờ anh Hợp móc nối với một lính Cao Đài là
anh Âu, xây dựng anh này thành cơ sở nội tuyến. Anh Âu đã lén gửi một số đạn và
lựu đạn ra cho ta. Thời gian này, đạn rất hiếm, quý, mỗi cây súng của bộ đội ta chỉ
có dăm viên đến một chục. Tại trận, anh em bắn dè sẻn, thực hiện khẩu hiệu “mỗi
viên đạn, một quân thù”. Anh Sáu Hợp tổ chức đƣa cán bộ ta - dƣới cái vỏ ngƣời
cờ bạc - vào sở Đờ La nghiên cứu đánh bót và phá hoại cây cao su - theo chỉ đạo
của cấp trên. Các anh làm quen với viên cai chuyên cắt gác, vạch xong kế hoạch
tập kích.
Quân bót Đờ La phục kích bắt đƣợc ngƣời liên lạc của đơn vị. Anh ta khai ra
anh Sáu Hợp. Anh bị viên ách bắt với giấy tờ trong ngƣời. Nó lấy đƣợc cái thƣ
trong đó viết: “Đánh bót Đờ La, không giết sếp bót…”. Do đó nó cho giải anh đi
Long Thành, rồi đƣa về nhốt khám lớn Biên Hòa. Parel hỏi: “Thằng nào ngƣời Bắc
kỳ?”. Nó hù anh bằng cách sai cai Hảo vờ đƣa anh đi mổ bụng thủ tiêu. Rồi nó ép
anh đi lính commando (biệt kích). Anh bị đƣa đi càn quét căn cứ du kích Bình Đa.
Khi lâm trận, anh toàn bắn chỉ thiên. Tên chỉ huy đánh anh, chửi thề ầm ĩ, sau đó
nó không cho anh làm gì nữa. Khi mãn lính năm 1951, anh đi làm củi mƣớn ở cúp
số 7 Trảng Bom.
Vợ chồng thày y tá Phát (huyện hàm) có đứa con nuôi là tên Phƣớc lai Tây -
sếp bót Cây Đào - Tên này rất khát máu và háo sắc. Trong các cuộc càn, tự tay nó
chặt đầu nhiều dân thƣờng ở Tân Phong, Thiện Tân… Tại bót Cây Đào, chính tay
nó tra tấn nhiều ngƣời rồi sai lính mang đi thủ thiêu. Nghe tin nó hãm hiếp hàng
trăm phụ nữ, bà Phát rầu rĩ quở trách khi nó về thăm: “Mày làm bậy quá xá, riết rồi
tới má sao?”… Nghe khuyên răn, tên ác ôn không lay chuyển, tiếp tục nhúng tay
vào tội lỗi mới. Quá căm giận đứa con nuôi ác đức, bà Phát nhắn tin ra căn cứ treo
thƣởng năm ngàn đồng cho ai diệt đƣợc nó.
37
Ngày 30 - 8 - 1948, đƣợc cơ sở mật báo, một phân đội của đại đội Bắc Sơn
phục kích tại xóm Cây Quéo (xã Bình Thạnh, Vĩnh Cửu). Khi nó ngồi trên xe bò
cùng một số lính đi càn về, anh em bộ đội nổ súng. Tên Phƣớc đền tội, ta thu hai
súng ngắn. Vui sƣớng vì tên hung thần bị diệt, nhân dân các xã Tân Phong, Bình
Ý, Bình Phƣớc, Tân Triều tới ấp ủng hộ gạo, đậu, đƣờng, thực phẩm cho kháng
chiến.
Chị Năm Gấm (Lâm Thị Gấm) là em ruột ông Hai Lân. Lúc nhà chị còn ở
trong khu nhà máy cƣa BIF, chị nhận nhiệm vụ liên lạc cho công đoàn bí mật. Một
số lần chị mang tài liệu của ông Bảy Sung - ba của chị Hƣờng dân quân ở Tân Mai
- chuyển cho ông Huỳnh Văn Sĩ - anh ruột ông Bảy Đắc - làm nghề chạy xe ngựa,
để chuyển tiếp đến một địa điểm.
Sau chị ra mở quán bán hủ tiếu, bún bì, cà phê… đầu xóm Cống đƣờng lội.
Chị thu thập tin tức của địch báo ra ngoài. Thỉnh thoảng có anh chị em cán bộ ghé
qua nhờ mua giùm một số thứ cần thiết hoặc nhờ chuyển thƣ từ, tài liệu, nhận tiền
bà con ủng hộ kháng chiến. Bọn rờsẹc (truy tầm) để ý theo dõi.
Một bữa, đầu năm 1949, một giao liên dẫn chị Bạch là cán bộ về công tác
trong nội ô. Giao liên đƣa tài liệu cho chị Năm Gấm cất xong thì lính kín ập vào.
Mang về nơi điều tra, chúng xét hỏi thì chị Bạch trả lời: “Tôi vừa rẽ vào quán đi vệ
sinh…”. Chị Năm Gấm thì nói: “Cô ấy là khách hàng, tôi không quen biết…” nên
chị không hề hấn gì. Chị Bạch là ngƣời có nhan sắc bị Parel ép lấy. Chị không
chịu, nên lũ ác ôn đánh đến mất trí đến bây giờ.
Sau vụ đó, chị Tân lại đến liên lạc, thu nguyệt liễm… Quan hệ kéo dài tới
khi ông chủ Lồi bị bắt, địch đốt một số nhà ở đầu xóm Cống đƣờng lội, kể cả quán
của chị Năm.
Em ruột chị Năm Gấm là chị Sáu Vóc (Lâm Thị Vóc) cũng là cơ sở của
công đoàn. Chị đôi lần tham gia rải truyền đơn, hàng tháng chị thu tiền ủng hộ của
các ông Hai Cơ, Xuân, Thịnh, Vinh, Tỉnh, Mạ… họ đều là thợ trại mộc của ông
Cơ. Đi buôn bán vặt, chị đƣa thƣ lên Bình Ý, Cây Đào cho chị Sáu Hậu (vợ đồng
chí Năm Khoai). Chồng chị là anh Mƣu làm nghề thợ hớt tóc cũng lập một tổ gồm
anh em cùng nghề, hàng tháng thu nguyệt liễm. Tiền đƣợc mua gạo, thuốc…
chuyển vào căn cứ Hố Cạn.
Vợ chồng ông bà Phạm Văn Cầm và Võ Thị Phƣờng đều tham gia hội Liên
Việt thị xã Biên Hòa. Ông bà tổ chức quyên góp đƣợc bao nhiêu đều nhờ giao liên
chuyển ra. Đƣợc giao công trái kháng chiến, bà Năm Phƣờng trực tiếp vận động cò
38
Hƣơng mua ba tấm, 3.000 đồng tiền xanh. Lúc này thực dân Pháp đánh ta về tài
chánh, chúng bỏ tiền cũ, đổi tiền xanh. Nhờ sự đóng góp của hàng trăm cơ sở, ta
vƣợt qua khó khăn này. Thị xã Biên Hòa mỗi tháng đóng góp cho tỉnh hàng chục
ngàn đồng Đông Dƣơng phục vụ cho nhu cầu kháng chiến.
Một ngƣời làm công cho ông Cầm bị bắt vì địch nghi tiếp tế cho Việt Minh.
Ông làm đơn bảo lãnh. Lính giữ ông trong một căn phòng trống trải ở bót Cây
Chàm từ sáng đến trƣa. Quan hai Sung cho bƣng ra một mâm dụng cụ tra tấn:
mangéto, kềm, roi cá đuối, cây vuông… Biết nó hù làm tiền, bà Năm Phƣờng bán
vàng nhờ thày Ba Miên lo lót cho Sung và Parel. Nhận tiền rồi, chúng nói: “Trông
ông có vẻ đạo cốt, hiền lành nên các quan tha; không đƣợc cho cô giáo Mỹ tới nhà,
nếu trái lệnh tôi cho lính bắt…”. Hai ông bà tiếp tục âm thầm tiếp tế cho kháng
chiến.
Hai căn cứ Hố Cạn và Bình Đa nhƣ những lƣỡi dao nhọn của kháng chiến
chĩa thẳng vào nội ô Biên Hòa - hậu cứ an toàn của giặc - Địch lập hệ thống tháp
canh De Latour (Đờ Latua) chia cắt chiến trƣờng Nam bộ thành các ô nhỏ, gây trở
ngại lớn cho ta. Nhiều cán bộ, bộ đội hy sinh trên đƣờng số 1, 15, 16, 24 vì địch
phục kích các lối mòn qua lại.
Rạng sáng 22 - 3 - 1950, các tổ đặc công tỉnh Biên Hòa đồng loạt hạ 50 tháp
canh (tua) dọc các lộ 1, 15, 16, 24 làm địch rúng động hoang mang. Đêm 27 - 3,
Thị đội và Mặt trận Liên Việt thị xã Biên Hòa kết hợp mở cuộc tuyên truyền vũ
trang ở Bàu Hang, đội vũ trang thị xã dùng kỹ thuật đặc công đốt cháy kho dầu
Phƣớc Lƣ. Các hoạt động trên có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến tƣ tƣởng đồng bào nội
ô. Nhiều bà con khu 3 bàn tán công khai về những thắng lợi của cách mạng.
Rạng sáng 21 - 5, lập thành tích kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các cán bộ, lực lƣợng vũ trang và cơ sở mật đã rải truyền đơn, dán khẩu hiệu, treo
cờ đỏ sao vàng ở nhiều nơi: đài Kỷ niệm, trƣờng Mỹ nghệ, đƣờng phố, ga Biên
Hòa… Dân nội ô rất phấn khởi vì lực lƣợng kháng chiến vẫn có mặt ngay trong
lòng địch. Giặc chiếm thị xã và nhiều nơi khác, nhƣng lòng dân vẫn hƣớng về Cụ
Hồ. Uy tín của Chính phủ ta ngày càng cao.
Tháng 9 - 1950, để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh, thị xã
Biên Hòa lại tổ chức đợt xung phong tuyên truyền, treo cờ, dán khẩu hiệu, rải
truyền đơn. Giặc càng bị bất ngờ. Khí thế cách mạng lên cao giúp cho việc củng cố
và phát triển cơ sở.
39
Tối chủ nhật 17 - 12 - 1950, một tổ vũ trang thị xã đánh nhà hàng Kim Thoa
ở Vƣờn Mít, nơi các sĩ quan Pháp và tay sai đến ăn nhậu, nhảy đầm. Thị đội trƣởng
Nguyễn Bảo Đức trình bày phƣơng án trận địa, đƣợc Thƣờng vụ Thị ủy thông qua.
Mấy chiến sĩ vóc nhỏ thó hóa trang nhƣ trẻ đánh giày, bán báo tiếp cận nghiên cứu
kỹ mục tiêu. Đêm ấy, anh em trà trộn trong đám đông, ném lựu đạn OF qua cửa sổ
vào bàn rƣợu, giết và làm bị thƣơng 4 tên. Cò Phƣớc, phó ty cảnh sát Biên Hòa
mới tu nghiệp bên Pháp về, suýt chết.
Sau trận này, ta mở tiếp đợt tuyên truyền vũ trang về các chiến thắng Biên
giới Cao - Lạng và Bến Cát. Chiến thắng Bến Cát là chiến dịch quy mô lớn đầu
tiên của ta ở chiến trƣờng Đông Nam bộ.
Đầu năm 1951, đội vũ trang thị xã phối hợp với cơ sở mật diệt đội Thiện -
trung sĩ rờsẹc gian ác. Nhà đội Thiện ở Dốc Sỏi, ngày ngày y ra ngồi quán ngã ba
Vƣờn Mít nhìn mặt khách qua đƣờng, bắt ngƣời tình nghi. Thị đội trƣởng Nguyễn
Bảo Đức trực tiếp chỉ đạo nhóm hành động. Anh Danh đóng vai ngƣời làm công
cho quán, đƣợc 6 đồng đội hỗ trợ, dùng vũ khí thô sơ (tránh gây tiếng nổ) bất ngờ
đánh gục đội Thiện. Y ngã lăn, giãy đành đạch rồi lịm đi tƣởng chết. Anh Danh gỡ
cây súng ngắn ở thắt lƣng y, ung dung băng qua lô cao su về căn cứ an toàn. Đồng
bào thị xã Biên Hòa hả dạ - kể cả một số viên chức công sở. Nhƣng y đƣợc đồng
bọn mang đi nhà thƣơng cứu sống, trở về tàn phế, bị thải hồi, sống vất vƣởng thêm
vài năm.
Mất quyền chủ động trên chiến trƣờng chính Bắc bộ, quân Pháp lại tập trung
lực lƣợng bình định Nam bộ, vơ vét sức ngƣời, sức của để kéo dài cuộc chiến tranh
xâm lƣợc. Thị xã Biên Hòa cũng nhƣ toàn tỉnh và cả miền Đông Nam bộ đứng
trƣớc thử thách mới. Tình thế ngày càng khó khăn. Căn cứ Hố Cạn mất, xã Tân
Phong trở thành vùng trắng. Ấp Vĩnh Cửu không còn dân, căn cứ Bình Đa ngày
càng bị uy hiếp nặng hơn.
40
Ở ĐÂY CÓ 4 TRANG HÌNH
41
Liệt sĩ Trần Trọng Nhạc
Liệt sĩ Nguyễn Kim Cúc
Liệt sĩ Lê Trung Cang
Liệt sĩ Lƣơng Thị Xuyến
Liệt sĩ Nguyễn Văn Truy
Đồng chí Cẩm Y
Bí thƣ chi bộ 4 Võ Phƣơng Dung
Bà Mƣời Hoa (Nguyễn Thị Chuyên)
Ông Nguyễn Khắc Pha
Bà Nguyễn Thị Sế
Bà Nguyễn Thị Bằng
Bà Nguyễn Thị Thai
Ông Lâm Văn Để
Ông Hồ Văn Thể
Ban Chấp hành Đảng bộ phƣờng nhiệm kỳ VII (1996 - 2000), trong đó:
- Ông Vũ Đình Phùng, Bí thƣ Đảng ủy (đứng thứ ba hàng trên);
- Bà Phạm Thị Tuyết, Phó bí thƣ, Chủ tịch UBND phƣờng (đứng thứ năm
hàng dƣới);
- Ông Đặng Minh Hân, Ủy viên Thƣờng vụ, Chủ tịch MTTQ phƣờng (bìa
phải hàng dƣới)
Trƣa 8 - 2 - 1951 (3 tết Tân Mão), quân Pháp đột kích vào căn cứ Hóc Bà
Thức. Số cán bộ thị xã bám trụ tại đây phân tán tránh giặc. Lợi dụng sơ hở, tên
Tƣờng, phó ban tình báo thị xã làm gián điệp cho Pháp bắn chết đồng chí Võ Văn
42
Mén, Bí thƣ Thị ủy. Đây là tổn thất nặng của Đảng bộ và lực lƣợng kháng chiến thị
xã Biên Hòa. Tỉnh chỉ đạo các cán bộ dân, chính, đảng tạm rút về căn cứ Khánh
Vân để chấn chỉnh tổ chức. Tại Hóc Bà Thức, Thị đội vẫn bám trụ, tiếp tục hoạt
động và công tác. Tỉnh ủy Biên Hòa củng cố tổ chức của thị xã, cử Ban cán sự
gồm: đồng chí Năm Bối (Trịnh Trọng Tráng) làm Bí thƣ; đồng chí Mai Sơn Việt -
Phó ban cán sự; Trần Minh Chánh - Ủy viên thƣờng trực. Ban cán sự đóng tại căn
cứ cơ bản Khánh Vân.
Ngày 16 - 4 - 1951 (11 tháng ba âm lịch) địch mở cuộc bố ráp xóm Cống
đƣờng lội (gần cổng 1 sân bay bây giờ). Chúng bắt đƣợc ông chủ Lồi (Nguyễn Văn
Truy) nguyên là Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt xã Bình Trƣớc cũ và anh Ba Sĩ về
đây công tác. Chúng mang về tra tấn khai thác 5 ngày. Ông hy sinh trong tù ngày
21 - 4 - 1951. Chúng chở thi hài ra nhà xác nhà thƣơng Biên Hòa. Các con ông
phải vất vả xin phép mới đƣợc mang về chôn cất.
Giữa năm 1951, Trung ƣơng Cục miền Nam tổ chức lại chiến trƣờng Nam
bộ. Hai tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một nhập thành tỉnh Thủ Biên. Các cấp tỉnh,
huyện, xã đều đƣợc kiện toàn, tinh giản, tăng cƣờng chất lƣợng lãnh đạo. Ở thị xã
Biên Hòa, Ban cán sự đƣợc thay thế bằng Đội vũ trang tuyên truyền (gọi tắt là
VT.3). Bộ chỉ huy Đội vũ trang tuyên truyền gồm 3 đồng chí: Trịnh Trọng Tráng,
Bùi Trọng Nghĩa, Mai Sơn Việt. Đội vũ trang tuyên truyền làm chức năng tổng
hợp của Thị ủy, Thị đội, công an, Mặt trận, phụ nữ, thanh niên. Nhiệm vụ cơ bản
của đội: lấy hoạt động vũ trang hỗ trợ tuyên truyền, xây dựng cơ sở trong vùng
địch tạm chiếm. Số cán bộ thị xã chia ra 5 đoàn, đứng chân ở các bàn đạp vùng
ven. Tỉnh ủy Thủ Biên quyết định mở rộng địa bàn thị xã Biên Hòa thêm 7 xã
chung quanh: Tân Bình (Bình Ý + Tân Phong), Tân Bửu (Tân Thành + Bửu Long),
Tam Hiệp, Biên Hòa, Hóa An, Bửu Hòa, Tân Vạn để Đội vũ trang tuyên truyền có
bàn đạp đứng chân vƣơn vào nội ô.
Đầu năm 1952, đoàn vũ trang tuyên truyền số 1 do anh Nguyễn Bảo Đức chỉ
huy, từ căn cứ Hóc Bà Thức thọc sâu tập kích nhà hàng La Plage (La Plagiơ) ở bờ
sông, diệt một số sĩ quan địch. Ít bữa sau các anh lại tập kích nhà hàng Vidal, dùng
lựu đạn diệt hơn một chục tên, làm bị thƣơng sáu tên. Hai trận đánh tuy nhỏ song
có tác động mạnh tới tinh thần đồng bào khu 3, nhắc nhở rằng lực lƣợng kháng
chiến vẫn tồn tại ngay giữa sào huyệt kẻ thù, thắp sáng niềm tin vào Chính phủ Cụ
Hồ.
Đầu quý 2 - 1952, đồng chí Hoàng Tam Kỳ về thay đồng chí Mai Sơn Việt.
Tỉnh bổ sung đồng chí Hoàng Đình Cận làm đội trƣởng Đội vũ trang tuyên truyền
thị xã Biên Hòa kiêm đặc trách công vận (Đồng chí Cận là thợ điện nhà máy cƣa
43
BIF, vào Đảng trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, thoát ly từ đầu kháng chiến, lần
lƣợt giữ các cƣơng vị: đại đội trƣởng đại đội Đống Đa thuộc trung đoàn 310, huyện
đội trƣởng Vĩnh Cửu, trong Ban chỉ huy liên quân khu 7 trƣớc khi về Đội vũ trang
tuyên truyền thị xã Biên Hòa).
Bám căn cứ Hóc Bà Thức, anh nhiều lần đột nhập nội ô tìm hiểu tình hình,
móc nối với cơ sở.
Thời kỳ này, địch đẩy mạnh càn quét bình định vùng ven thị xã. Hạn hán
kéo dài khiến căn cứ ta thiếu trầm trọng lƣơng thực thực phẩm. Tiếp đó, trận bão
lụt lịch sử năm Nhâm Thìn (tháng 10 - 1952) càng làm tăng gấp bội khó khăn gian
khổ của lực lƣợng kháng chiến. Căn cứ Bình Đa áp sát nội ô bị địch chiếm tháng
11 - 1952. Trƣớc những thử thách quyết liệt, một số cán bộ, bộ đội hoang mang,
mất tinh thần đã bỏ ngũ hoặc đầu hàng giặc, trở mặt chống phá cách mạng. Nhƣng
nhân dân khu 3 cũng nhƣ nhân dân thị xã Biên Hòa vẫn tỏ lòng yêu nƣớc, hƣớng
về kháng chiến qua việc quyên góp tiền gạo, thuốc men… gửi ra ngoài.
Tháng 3 - 1953, Tỉnh ủy Biên Hòa họp tại chiến khu Đ đề ra chủ trƣơng: đẩy
mạnh vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian, xây dựng cơ sở, mở những vùng bàn
đạp để lực lƣợng vũ trang thọc sâu hoạt động trong thị xã, tăng cƣờng công tác
địch ngụy vận… chú trọng các đồn bót do lính nguỵ và lính giáo phái đóng giữ.
Căn cứ chủ trƣơng trên, đội trƣởng Hoàng Đình Cận một mặt củng cố căn cứ
Hóc Bà Thức, một mặt liên hệ phối hợp với đoàn cán bộ dân, chính, đảng khu 2
huyện Vĩnh Cửu về bám trụ địa bàn. Anh chuẩn bị một trận thọc sâu vào thị xã,
gây thoái động đối với địch và củng cố niềm tin ở đồng bào sống trong lòng địch.
Ngày 5 - 1 - 1953, anh về tiệm gỗ Oderra meubles (Ođera mớp), chủ tiệm là
ông Hai Cơ (Nguyễn Văn Cơ) - cơ sở ta, anh ruột của trung đoàn trƣởng trung
đoàn 310 Nguyễn Văn Lung. Anh nhắn gặp bà Khả là mẹ của Thƣ - thợ máy nhà
máy cƣa BIF, trƣớc tham gia công đoàn Hồ Hòa, sau ngầm theo Tây mà lúc này
anh chƣa biết. Anh gặp bà Khả buổi trƣa, bà ra về thì khoảng 1 giờ chiều tên Ly -
mật thám - dẫn sáu tên nữa ập đến vây nhà ông Cơ, kêu anh đầu hàng. Ngồi trên
gác xép, anh trông rõ ba tên, biết là có kẻ phản - đó là tên Thƣ - anh nhảy từ gác
xuống phía sau nhà nhƣng không may vết thƣơng cũ ở chân làm anh không chạy
đƣợc. Chúng xông vào bắt trói anh, giải về phòng nhì máy cƣa điều tra. Địch dụ
hàng, anh không thèm nói một lời; bị tra tấn đủ kiểu cũng vô ích. Chúng bê cơm
vào, anh hất tung, chỉ uống nƣớc. Một buổi trƣa, lừa chúng sơ hở, anh tông cửa
phòng giam, chạy ra phía trạm bơm bờ sông, định thà để chúng bắn chết.
44
Bảy ngày sau, biết không thể dụ dỗ mua chuộc đƣợc ngƣời cán bộ cộng sản
kiên cƣờng, chúng đƣa đến một xe Dodge 4x4 bít bùng, chở anh đi thủ tiêu phía
Trảng Bom.
Cũng trong vụ này, chúng bắt ông Hai Cơ và lan dây chuyền hơn một chục
cơ sở ta. Chúng tra tấn dã man những ngƣời bị bắt hòng phá sạch mạng lƣới cơ sở
nội ô. Em ruột anh Cận là anh Tƣ Trác bị bắt cùng ngày. Ách Năm, đội Diễn mang
anh ra bót Cây Chàm điều tra, tối nhốt vào Thành Kèn. Anh Tƣ bị ách Hội đánh
gãy xƣơng sƣờn. Anh Nguyễn Văn Mƣu cũng bị đánh không đi lại đƣợc, chỉ có lết
mà thôi. Vợ anh - chị Sáu Vóc, cũng gọi là chị Sáu Lé - đang có bầu bị một ngƣời
vì đòn đau khai ra: cô Sáu Lé làm liên lạc cho xã Bình Ý. Nhƣng nghe không rõ,
tên điều tra cho lính đi tìm bà Sáu Le cùng khu vực cạnh đƣờng rầy xe lửa (nay
thuộc ban dân phố 2). Thấy bà này trên 60 tuổi lại điếc, ngờ nghệch nên nó không
bắt. Chị Sáu Lé nhờ vậy thoát. Chị đã vận động một số chị em, bà con quen biết
gom góp tiền mua đồ thăm nuôi số cơ sở bị bắt tháng 4 - 1953.
Pháp nhiều lần mở rộng sân bay Biên Hòa kể từ năm 1947. Năm 1951,
chúng đuổi hai xóm Bánh Tráng và Cống đƣờng lội (cổng 1 và 2 sân bay). Năm
1953, chúng đuổi đến xóm Dốc Sỏi. Một số “ngoan ngoãn” chấp hành lệnh, lẻ tẻ
dỡ nhà đi nơi khác. Ông Bảy Lịnh (Nguyễn Văn Lịnh) bàn bạc với một số bà con
lối xóm, sau đó nhờ ông Tám Phƣớc (Trịnh Văn Phƣớc) làm đơn gửi lên tận Sài
Gòn yêu cầu nhà chức trách không đuổi nhà, để bà con có chỗ sinh sống. Lúc này
Pháp cũng đang bị động trên các chiến trƣờng Đông Dƣơng, nên chúng không sử
dụng lính đuổi nhà ráo riết mà dùng số hội tề đến truyền lệnh. Anh Ba Dữa làm bài
thơ đăng báo vụ này:
CHỐNG ĐUỔI NHÀ
Xóm nhà gần sở không quân
Lý do phòng thủ nên cần tản cư.
Mấy lần trước lệnh ban ra,
Có quan Tây tới mỗi nhà hỏi biên
Giếng, nhà, cây trái có tên
Luống rau, cụm sả,… thường tiền hẳn hoi.
45
Tuy nhiên kỳ đuổi vừa rồi
Quan Tây giao lại cho người Việt Nam.
Các ông “nghị sĩ” trong làng
Cũng đi biên chép dềnh dàng như ai
Tuy nhiên số bạc thường bồi
Có phần eo hẹp với người tản cư.
Xóm làng kẻ ngóng người chờ
Nghe làng thường ít, họ lơ cả rồi.
Đương cơn chật đất xa trời
Ở lỳ cũng khốn mà dời thì hao.
Đất châu thành dễ kiếm làm sao?
Vùng quê cách trở, ai nào có ham.
Vả không: tiền, chỗ làm ăn
Họ bèn tụ ngũ quần tam bàn vầy:
“Làm đơn xin ở lại đây”.
Tƣớng Navarre (Nava) sang thay tƣớng Salan làm tổng chỉ huy quân viễn
chinh, lớn tiếng tuyên bố: sẽ đánh thắng Việt Minh trong vòng 18 tháng, không
chấp nhận một sự rút lui nào hết.
Thị xã Biên Hòa là vùng địch chiếm đóng, chúng kềm kẹp dân khá chặt
hòng ngăn chặn ảnh hƣởng của kháng chiến. Chúng coi đây là hậu cứ an toàn của
chúng. Nhƣng tiếng súng của bộ đội và du kích vẫn hàng ngày vang vọng về, nhắc
nhở sự tồn tại và lớn mạnh của kháng chiến.
46
Đêm 19 - 5 - 1953, đội biệt động Thủ Biên đƣợc cơ sở mật giúp đỡ đã tập
kích hãng dầu Phƣớc Lƣ, thiêu hủy hàng triệu lít, lập thành tích xuất sắc mừng thọ
Bác Hồ.
Tháng 12 - 1953, bộ đội Thủ Biên luồn sâu đánh bót Cẩm Vinh (Tân Triều),
hôm sau diệt tiếp một trung đội commado của Parel ở sở cao su Phủ Thanh (Tân
Phong). Các chiến công này đã đập tan luận điệu tuyên truyền huênh hoang của
địch, củng cố niềm tin của ngƣời dân thị xã Biên Hòa.
Các trận đánh dữ dội ác liệt diễn ra ở thung lũng Điện Biên xa xôi đƣợc báo
chí, đài phát thanh nhắc đến từng ngày. Bà con nhân dân khu 3 cũng nhƣ dân toàn
thị xã Biên Hòa và cả nƣớc chăm chú theo dõi, mới đầu chỉ bàn tán xầm xì, sau
công khai. Ngày 7 - 5 - 1954, tin Điện Biên Phủ “thất thủ” - chữ dùng của Pháp -
bay về đã gây niềm xúc động trong lòng mọi ngƣời. Nhƣ vậy là Pháp thua lớn, trái
với những lời huênh hoang khoác lác của tổng chỉ huy lực lƣợng viễn chinh
Navarre khi mới sang nhậm chức.
Hội nghị Genève bàn việc lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dƣơng khai
mạc. Bà con khu 3 nhiều ngƣời càng theo dõi xít xao diễn biến hội nghị. Ngày 20 -
7 - 1954, Hiệp định đình chiến đƣợc ký. Bà con khu 3 cũng nhƣ cả nƣớc hân hoan
đón chào tin vui lớn này.
Một số ngƣời dân khu 3 bị bắt trong kháng chiến, nay đƣợc trao trả về sống
với gia đình. Nhiều gia đình có ngƣời thân đi tham gia cách mạng đã tìm đƣờng lên
chiến khu Đ và ra khu tập kết Hàm Tân - Xuyên Mộc gặp gỡ bố, chồng, anh em,
con… trƣớc khi họ lên tàu ra Bắc. Biết bao cảnh tiễn đƣa đầy lƣu luyến đã diễn ra
với hai ngón tay giơ cao, ngƣời ra đi động viên “ở lại vinh quang” còn ngƣời ở lại
thì chúc “ra đi thắng lợi”.
Suốt cuộc kháng chiến chín năm, nhân dân khu 3 nội ô Biên Hòa tham gia
chống xâm lƣợc bằng nhiều hình thức: có ngƣời trực tiếp cầm súng, có ngƣời âm
thầm bền bỉ làm công tác vận động xây dựng cơ sở quần chúng hƣớng về chính
nghĩa của Chính phủ Cụ Hồ, một số trải qua tù đày vẫn giữ lòng kiên trung bất
khuất… Phần lớn ngƣời dân thƣờng mang trong mình dòng máu yêu nƣớc đã nuôi
giấu ủng hộ kháng chiến, góp gió thành bão cùng nhân dân cả nƣớc đánh bại chủ
nghĩa thực dân cũ. Nhƣng lý tƣởng độc lập tự do còn là cái đích ở phía trƣớc, trận
chiến mới đang chờ đón ngƣời dân khu 3, nhân dân thị xã Biên Hòa và cả miền
Nam “đi trƣớc về sau”.
47
PHẦN THỨ NHÌ
PHƯỜNG TRUNG DŨNG TRONG THỜI KỲ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7 - 1954 lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng đánh
dấu bƣớc ngoặt trong lịch sử đất nƣớc. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng bƣớc vào
thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phƣơng lớn vững chắc của
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Miền Nam về danh nghĩa tạm thời thuộc quyền quản lý của phía Liên hiệp
Pháp. Lợi dụng tình trạng kiệt quệ mòn mỏi của thực dân Pháp vì cuộc chiến tranh
xâm lƣợc Việt Nam, đế quốc Mỹ hất cẳng “anh bạn vàng” hòng làm chủ vĩnh viễn
đất này. Ngô Đình Diệm đƣợc Mỹ nuôi dƣỡng, đào tạo lâu năm ở Hoa Kỳ, nay
đƣợc đƣa về làm Thủ tƣớng “chánh phủ quốc gia” bù nhìn, lần lƣợt gạt bỏ những
phần tử thân Pháp ra khỏi bộ máy chính quyền từ cấp trung ƣơng tới địa phƣơng.
Ông ta một mặt dùng tiền mua chuộc, một mặt dùng thủ đoạn vũ lực dẹp các phe
phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên muốn cát cứ xƣng hùng xƣng bá một cõi. Mỹ
giúp cải tổ, xây dựng, huấn luyện và trang bị hiện đại quân đội Diệm theo kiểu Mỹ.
Gần một triệu đồng bào miền Bắc - phần lớn theo đạo Thiên Chúa - bị dụ dỗ cƣỡng
ép di cƣ vào Nam để tạo hậu thuẫn chính trị (cho Mỹ - Diệm) nhằm chia cắt lâu dài
đất nƣớc ta, biến vĩ tuyến 170 Bắc thành biên giới quốc gia, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Hội nghị Trung ƣơng Đảng lần thứ 6 khóa 2 (7 - 1954) chỉ rõ: đế quốc Mỹ
trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dƣơng.
Ngày 22 - 7 - 2954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: Đấu tranh để củng
cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn toàn độc lập, dân chủ cũng là một cuộc
đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội
và cán bộ ta từ miền Bắc đến miền Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải
thống nhất, hành động phải nhất trí.
Tỉnh ủy Thủ Biên và các Thị ủy, Huyện ủy, tổ chức học tập nhiều đợt về
“Tình hình mới, nhiệm vụ mới” cho những cán bộ, đảng viên ở lại bám trụ địa
phƣơng. Thị ủy Biên Hòa về ở hẳn nhà cơ sở trong nội ô. Các đồng chí trở thành
hạt nhân giáo dục tổ chức đồng bào thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chính trị đòi
chính quyền miền Nam thi hành đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954: hiệp thƣơng
với miền Bắc tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc vào tháng 7 - 1956.
48
Anh Hai Thành (Dƣơng Văn Bồi) đƣợc đồng chí Tƣ Lũy trực tiếp chỉ đạo về
sống với gia đình ở xóm Gò Lăng. Trƣớc khi chia tay, đồng chí Ba Thuận (Phạm
Văn Thuận) ân cần dặn dò anh và một số anh em khác: phải ráng giữ tƣ cách ngƣời
cán bộ, đảng viên trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn gian khổ nào.
Anh Chín Nghị (Nguyễn Thành Nghị) - bộ đội ba lần bị thƣơng - sức khoẻ
kém, cũng đƣợc cấp trên bố trí ở lại, về sống cùng gia đình (tại khóm 4).
Anh Tƣ Để (Lâm Văn Để) ở lại vì còn cha già, em nhỏ, trong khi anh ruột
Lâm Văn Đáo đi tập kết…
Bom đạn vừa im tiếng, hòa bình trở lại thì bà con các nơi trƣớc đây giạt lên
sinh sống ở khu 3 nội ô nay nao nức trở về quê. Ông Năm Đĩ (Lê Văn Đĩ) cùng
ngƣời con gái lớn về Tân Nhuận xã Uyên Hƣng, quận Tân Uyên tiếp tục công việc
ruộng đồng. Bà Năm ở lại, làm bún bán, nuôi sắp nhỏ đi học.
Nhƣng vui hơn, có lẽ là số bà con Tân Phong. Thời chín năm, quân Pháp mở
hàng trăm cuộc càn quét, bố ráp vào xã ven sân bay này - chỉ cách nội ô chừng
2km - Chúng dốc sức xóa căn cứ Hố Cạn, biến cả xã thành vành đai trắng từ năm
1950. Phần lớn dân bị gom tát vào nội ô. Nay hết chiến tranh, sáng sáng bà con lũ
lƣợt vác rựa, phảng, cuốc… về phá hoang khôi phục ruộng vƣờn, chiều tối lại về
nội ô ngủ. Dần dà nhiều nhà “một chốn đôi nơi”, nửa gia đình vẫn ở lại nội ô làm
ăn, nửa về làng lấy nghề nông làm gốc, bám quê hƣơng chôn nhau cắt rún.
Các lô cao su (ở khóm 1) đƣợc chủ đồn điền chia nhỏ bán dần. Một số thợ
nhà máy cƣa BIF nhƣ các ông Tƣ Trác, Tƣ Nghìn, Sáu Hào (Trần Trọng
Nhạc)…bỏ tiền mua đất, dựng những căn nhà đầu tiên.
Đồng chí Lê Văn Nhiễu - Ủy viên thƣờng trực Thị ủy Biên Hòa - chỉ đạo
ông Hai Trang (Phạm Văn Trang) - công nhân nhà máy cƣa BIF lâu năm, theo đạo
Thiên Chúa - và một số cán bộ, đoàn viên công đoàn Hồ Hòa cũ đã đứng ra xin
phép nhà chức trách cho lập nghiệp đoàn. Để tạo bộ mặt tự do dân chủ kiểu Mỹ
cho chế độ Diệm. Ở Sài Gòn lúc này có nhiều tổ chức nghiệp đoàn: Tổng liên đoàn
lao động, Tổng liên đoàn lao công (với biểu trƣng con trâu của Trần Quốc Bửu)…
Nghiệp đoàn nhà máy cƣa BIF Tân Mai bề ngoài trực thuộc Tổng liên đoàn lao
công, theo thuyết “lao tƣ lƣỡng lợi” của Giáo hoàng Léo 13 (Lê-ô) nhƣng thực chất
chịu sự chỉ đạo sát sao của Thị ủy Biên Hòa. Nghiệp đoàn nhà máy cƣa BIF thu
hút các công nhân các phân xƣởng trong nhà máy, còn có thêm thợ các phân trại
cƣa tƣ nhân thị xã cũng tham gia. Chủ tịch nghiệp đoàn, ông Hai Trang; Phó chủ
tịch, ông Sáu Hào; Thƣ ký, ông Trần Tìm (Hà Minh Hiếu); thủ quỹ, ông Bảy Xim
49
và hai ủy viên Hảo, Bảy Oanh thuộc bộ phận các xƣởng mộc tƣ nhân. Chủ Pháp
cho nghiệp đoàn sử dụng nơi chiếu bóng cũ của hãng làm trụ sở hội họp, gặp gỡ
giữa ban lãnh đạo với anh em thợ thuyền. Để cải thiện đời sống công nhân, nghiệp
đoàn yêu cầu chủ sở cho vay vốn 50 ngàn đồng, lập hợp tác xã mua bán do ông
Chín Phiêu - cán bộ công đoàn cũ - phụ trách. Gạo, đƣờng, mắm, muối, cá khô, vải
mặc… bán giá rẻ, anh chị em rất hoan nghênh. Do mang lại lợi ích cụ thể, nghiệp
đoàn tập hợp đƣợc hơn 900 thợ.
Cán bộ nghiệp đoàn trực tiếp nhận chỉ thị của Thị ủy Biên Hòa, đã tìm mọi
cách, ở mọi nơi, tùy đối tƣợng mà rỉ tai tuyên truyền đòi Mỹ - Diệm thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, đòi nhà cầm quyền miền Nam hiệp
thƣơng cùng miền Bắc tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc.
Tế Ất Mùi 1955 là cái tết hòa bình đầu tiên sau chín năm chiến tranh đau
thƣơng tang tóc. Cán bộ nghiệp đoàn gợi ý, hƣớng dẫn các đoàn viên nòng cốt đến
chúc Tết, thăm viếng bà con bè bạn đều nói đến ƣớc vọng hòa bình lâu dài, mong
Nam Bắc chóng xum họp một nhà.
Quân Pháp rút dần về nƣớc. Tháng 4 - 1955 quân đội Diệm đánh quận Bình
Xuyên làm cháy hàng ngàn ngôi nhà ở các khu lao động Sài Gòn - Chợ Lớn.
Hƣởng ứng lời hô hào cứu trợ nạn nhân của phong trào bảo vệ hòa bình (do luật sƣ
Nguyễn Hữu Thọ và nhiều nhân sĩ lập ra), các ông Hai Trang, Sáu Hào, Tƣ
Nghìn… tổ chức đoàn viên nghiệp đoàn nhà máy cƣa BIF đi dọn dẹp và dựng lại
nhà cửa cho đồng bào. Anh chị em mới làm đƣợc một ngày, hôm sau địch cấm
không cho đi nữa.
Gần đến ngày Quốc tế lao động 1-5, nghiệp đoàn lao công nhà máy cƣa BIF
vận động thợ làm đơn yêu cầu chủ hãng: trả lƣơng sao cho đủ nuôi một vợ, ba con;
thực hiện ngày làm 8 giờ, tuần làm 6 ngày, nếu làm chủ nhật hoặc ngày lễ thì
hƣởng phụ trội gấp đôi… Pháp đã thất thế ở miền Nam, bọn chủ Pháp thấy nhân
nhƣợng một số yêu sách này cũng không ảnh hƣởng đến lợi nhuận bao nhiêu nên
chúng đồng ý. Một thời gian sau, nghiệp đoàn yêu cầu chủ xây trƣờng cho con em
thợ có nơi học hành. Chúng cho dựng mấy lớp học ngay gần văn phòng hãng.
Sáng 1-5 nghiệp đoàn lao công nhà máy cƣa Tân Mai vận động đƣợc khoảng
600 thợ và dân kéo về sân banh Biên Hòa dự cuộc mít tinh do Tổng liên đoàn lao
động tổ chức. Đoàn biểu tình mang nhiều băng khẩu hiệu đòi quyền dân sinh dân
chủ cho ngƣời lao động, đòi nhà cầm quyền hiệp thƣơng tổng tuyển cử… Với đội
ngũ trật tự, chặt chẽ, đoàn biểu tình liên tiếp hô vang các khẩu hiệu. Ở ngã ba
Vƣờn Mít, cảnh sát gác đƣờng chặn lại, Chủ tịch nghiệp đoàn Hai Trang giải thích
50
cho họ hiểu: “Tổng liên đoàn lao công của Trần Quốc Bửu “thuộc phe Ngô Tổng
thống”, nghiệp đoàn đã đƣợc chánh phủ cho phép hoạt động…”. Ít phút sau đoàn
biểu tình tiếp tục tiến vào nội ô với khí thế mạnh mẽ.
Ông Nguyễn Kim Cúc quê ở tỉnh Hà Đông cũ, phiêu bạt làm thợ mộc một
trại cưa ở Đồng Hỉn tỉnh Pắc Xế, Hạ Lào. Ông tham gia cách mạng từ giữa thập
niên 30, cưới bà Nguyễn Thị Sế rồi dìu dắt bà hoạt động trong tổ chức Việt kiều
yêu nước. Ông bị địch bắt vài lần, tháng 10 - 1949 Pháp trục xuất về Biên Hòa.
Móc nối được với Liên hiệp công đoàn tỉnh Thủ Biên, ông sống hợp pháp và công
tác bí mật. Ông mở quán cà phê ở khóm 43 (nay thuộc ban dân phố 5). Nhà ông là
trạm giao liên của thị xã Biên Hòa. Các đồng chí Năm Nhiễu, Năm Dũng nhiều lần
qua lại, giao nhiệm vụ chuyển tài liệu, công văn đi Sài Gòn. Bà Xế (Nguyễn Thị
Xế) - vợ ông Cúc - thường nhét vào gấu váy của con gái nhỏ, lúc dắt lúc bồng đứa
nhỏ, qua mặt bọn lính và cảnh sát an toàn.
Chị Út Hạnh cùng chồng là anh Năm Thuận (Phạm Tấn Thuận, Thanh
Tùng) về ở khu ga Biên Hòa sinh sống bằng nghề buôn bán vặt. Đồng chí Năm
Nhiễu gặp gỡ, chuyện trò, anh chị nhận lãnh nhiệm vụ giao liên chuyển công văn,
thƣ từ đến các cơ sở. Anh chị nghe radio, chép bản tin đọc chậm của đài Hà Nội rồi
in truyền đơn bằng bột, giao cho một số cơ sở đem rải ở nội ô.
Ông Bảy Lịnh (Nguyễn Văn Lịnh), anh Hai Thành (Nguyễn Tấn Thành,
Dƣơng Văn Bồi), ông Ba Cẩm (Phạm Văn Cẩm)… bắt liên lạc với số cán bộ kháng
chiến cũ ở Tân Phong nhƣ các anh Hai Cáo (Lê Minh Cảnh, Hoàng Ngọc Ẩn), Ba
Cheo, Chín Du (Huỳnh Văn Tống), chị Năm Hiền (Nguyễn Thị Thanh Vân). Tin
đấu tranh và chủ trƣơng của cấp trên kịp thời phổ biến cho số nòng cốt này. Ông
Bảy Lịnh làm quen với một số ngƣời cùng khóm: ông Cúc (bán quán), ông Phạm
Văn Cống (dân Tân Thành làm ruộng), ông Trần Văn Sang (đánh xe bò), ông Trần
Văn Tƣ (công nhân quân giới bị thƣơng cụt tay), anh Trần Văn Hòn (thƣơng binh
cũ), anh Tám Phƣớc… Qua gặp gỡ, trao đổi, ông Bảy Lịnh lồng chuyện Hiệp định
Giơ-ne-vơ 1954: mong có quan hệ bình thƣờng giữa hai miền, cho thân nhân hai
miền Nam Bắc đi thăm nhau trao đổi kinh tế, văn hóa, không mở rộng căn cứ quân
sự, không dùng cố vấn nƣớc ngoài nắm quân đội quốc gia… Ông nhận truyền đơn
của anh Hai Thành, Hai Cáo đem rải ở một số đƣờng phố vào các ngày kỷ niệm
lớn. Những lúc đi liên hệ với anh em, ông mặc nhƣ ngƣời làm ruộng, cột cái cuốc
vào sƣờn xe đạp, gặp gỡ rất nhanh, trao đổi vắn tắt rồi chia tay luôn. Để mở rộng
lực lƣợng quần chúng, ông tham gia vận động tổ chức hội tƣơng tế phúng viếng
đám ma, mừng đám cƣới… Do hoạt động hơi lộ liễu, ông bị tên Sửu - cảnh sát -
theo dõi. Ông phải tạm ngƣng. Châu Văn Thông là an ninh quân đội ở gần nhà
51
ông, nhận xét: ông Bảy mắc mần giá đậu (xanh) lúc rảnh lại đánh tứ sắc với mấy
đứa con gái làm sở Mỹ, chớ có gì đâu!.
Anh Hai Thành chạm trán Võ Tánh (Sáu Nghệ) - cán bộ quân báo đầu hàng
Pháp, làm mật vụ. Y hỏi: “Mày không đi tập kết, ở lại nằm vùng hả?” Anh trả lời:
“Cha mẹ tôi mất sớm, bây giờ hòa bình rồi, tôi ở lại nuôi các em”. Xã Bình Trƣớc
mời anh tham gia phong trào cách mạng quốc gia, anh từ chối: “Mấy em tôi còn
nhỏ, ông già tôi dặn ráng giúp đỡ các em nên ngƣời”. Để tạo điều kiện hoạt động,
anh đi chích thuốc cho bà con. Anh Tƣ Dẻo chạy xích lô bị đau, nhức mỏi toàn
thân, không đi làm đƣợc. Anh chích cho anh Tƣ với lời an ủi: “Khi nào anh chạy
xe, có tiền thì trả”. Anh tham gia lập hội banh Tân Phong - do xã Hiếu đứng đầu -
để có tiếng nói trong làng, cũng để xây dựng cơ sở nòng cốt ngay quê hƣơng mình.
Anh viết và in truyền đơn, đƣa cho ông Bảy Lịnh rải ở đƣờng Hƣng Đạo Vƣơng và
đƣờng Phan Đình Phùng.
Tháng 6 - 1955, anh Hai Thành bị tên Diễn - cán bộ công đoàn thị xã cũ, đầu
hàng giặc - chỉ điểm bắt. Y từng vài lần rủ anh đi uống cà phê, ăn hủ tiếu… Chiều
hôm đó, anh Nguyên (Trừ) ở gần nhà anh, thấy bọn lính kín lảng vảng từ đƣờng
quốc lộ 1 vào tới trong xóm. Khi nhà anh Hai Thành tắt đèn đi ngủ, chúng đập cửa,
bắt luôn. Ở ty cảnh sát, ách Ất hỏi lũ đàn em: “Bắt đủ hai thằng không?” Một tên
đáp: “Bắt một tên còn thằng xe ngựa đi đâu mất tiêu”. Bọn điều tra đánh anh Hai
Thành, hỏi dồn dập: “Biết Hai Cáo không? Biết Chín Tôn không? Bọn nó giờ ở
đâu? Làm gì?” Bị đòn đau song anh Hai Thành vẫn nhớ bài học kinh nghiệm đối
phó với địch khi bị bắt. Các anh đi trƣớc từng phổ biến: “ráng chịu đòn bƣớc đầu,
khai chút đỉnh là nó tấn mãi, moi sạch trơn bí mật trong ruột mình”. Do đó anh cắn
răng chịu trận, chỉ một mực: “Biết họ nhƣng bây giờ không biết họ làm gì”. Trong
khám lớn Biên Hòa, anh nói với bạn tù: “Đừng có khai, chịu đòn hai, ba tua mới
xin bảo lãnh đƣợc”.
Sáng hôm sau anh Chín Tôn chạy xe ngựa đi chợ Biên Hòa. Anh bị lính kín
chặn bắt, giải về ty cảnh sát. Anh vừa cột ngựa xong, nó lôi vào đánh liền. Hỏi về
mối quan hệ giữa anh và các anh Hai Cáo, Hai Thành, anh trả lời: “họ cùng làng,
quen nhau từ bé, từ ngày hòa bình chỉ lo làm ăn, ít gặp nhau…”
Vì không có chứng cứ gì nên chúng không thể đƣa hai anh ra tòa. Một thời
gian sau, gia đình các anh nhờ ông Năm Thùng - dân biểu - bảo lãnh, nên các anh
đƣợc tha. Anh Chín Tốn về quê làm ăn và tiếp tục hoạt động. Anh Hai Thành tạm
lánh đi Sài Gòn một thời gian. Trở về, anh đi làm cho trại cƣa Tám Thiền. Bọn
công an chìm thƣờng rình nghe trộm lúc anh tiếp khách ở bàn giấy. Một bữa, anh
gặp ngay đồng chí Hoàng Tam Kỳ - Bí thƣ Thị ủy - ngay ở xƣởng. Đồng chí lắc
52
đầu ra hiệu đừng hỏi, làm nhƣ không quen biết nhau để tránh con mắt theo dõi của
địch.
Ông Ba Cẩm (Phạm Văn Cẩm) là thƣ ký trại cƣa Ba Hiệp cũng tham gia
hoạt động ngầm. Ông là cơ sở của ông Sáu Nhàn - quân báo - trong thời gian dài.
Do tính cẩn thận, ông không hề bị địch theo dõi, tuy chúng biết ông là ngƣời kháng
chiến cũ.
Anh Tƣ Để về sống cùng cha mẹ, học nghề làm nệm xe ô tô, sau làm vỏ xe
con đội (cric) xe be. Đã từng tham gia kháng chiến, làm nhân viên liên lạc và ấn
loát huyện căn cứ Đồng Nai, nhân viên quản trị trại thƣơng binh tỉnh Thủ Biên nên
anh mong ngóng đƣợc gặp cán bộ, bắt liên lạc với cách mạng. Anh Ngân - cán bộ
mật làm thợ mộc - ở trọ nhà chị của Tƣ Để. Qua nhiều lần chuyện trò, anh Ngân
xác định Tƣ Để là ngƣời tốt, hỏi vòng vo đại ý: “Có thích làm việc cho cách mạng
không?” Đƣợc trả lời “Có”, anh Ngân cho xem và nhờ cất giữ giùm hai bộ ảnh:
Chiến thắng Điện Biên Phủ và bộ đội miền Nam đi tập kết. Từ đó anh Ngân giáo
dục cặn kẽ cho chàng thanh niên hăng hái này: phải sống hòa mình với quần
chúng, chỉ nên giao du với ngƣời tốt, phát triển lực lƣợng vào các ngƣời đƣợc thử
thách tin cậy… Anh Ngân giao cho Tƣ Để và vài nòng cốt khác rải truyền đơn, viết
và dán khẩu hiệu phục vụ đấu tranh chính trị: đòi Diệm thi hành đúng đắn Hiệp
định Giơ-ne-vơ 1954, hiệp thƣơng tổng tuyển cử, đòi các quyền dân sinh, dân
chủ… và treo cờ Đảng trên cây sao ở đƣờng phố trong một số ngày lễ lớn. Ngày 1
- 5 - 1955, anh Tƣ Để đƣợc kết nạp vào Đoàn Thanh niên lao động (gọi tắt là đoàn
thanh lao). Anh ở cùng tổ với anh Mai Trần và chị Ngộ (Ngọc Anh - ngƣời yêu của
anh ruột Ba Đáo). Tất cả đều hăng hái làm tròn nhiệm vụ do anh Ngân trực tiếp chỉ
đạo, dù công tác có lúc khó khăn nguy hiểm.
Thực hiện “bài phong”, ngày 23 - 10 - 1955, Diệm bày trò trƣng cầu dân ý
để phế truất Bảo Đại, tóm thâu mọi quyền lực vào tay họ Ngô. Nhằm chia cắt vĩnh
viễn đất nƣớc, Mỹ đạo diễn tổ chức bầu cử riêng rẽ “Quốc hội” khóa I vào ngày 4 -
3 - 1956, dƣới sự chỉ đạo của Thị ủy Biên Hòa, các cơ sở ta đẩy mạnh tuyên truyền
chống lại và tẩy chay bằng nhiều cách: rỉ tai nhau không đi bỏ phiếu, rải truyền
đơn, viết khẩu hiệu bằng khoai môn trên mặt đƣờng nhựa, dán áp phích nơi đông
ngƣời qua lại…
Diệm lên làm “Tổng thống Việt Nam cộng hòa”, bắt tay vào việc sửa đổi
hành chánh: chia nhỏ các tỉnh và quận, cử các sĩ quan làm tỉnh trƣởng, quận trƣởng
phục vụ cho ý đồ đàn áp cách mạng; đổi tên hội đồng hƣơng chánh (ban hội tề 12
ngƣời) thành hội đồng xã…
53
Khu 3 Bình Trƣớc đổi thành khu 4, đứng đầu là một khu trƣởng. Khu gồm
nhiều khóm, mỗi khóm chia làm nhiều tổ, mỗi tổ có một số liên gia, mỗi liên gia
gồm dăm mƣời hộ gia đình. Các hộ trong liên gia phải dòm chừng nhau, liên đới
chịu trách nhiệm tập thể. Hệ thống thang bậc hành chánh tỉ mỉ này do chính quyền
Diệm mô phỏng kiểu nhà Thanh (Trung Quốc xƣa) tƣởng có thể kềm kẹp chặt dân
nội ô, cán bộ cách mạng không sao thâm nhập nổi. Song với lòng yêu nƣớc tiềm
ẩn, ngƣời dân bình thƣờng chí ít thấy cán bộ không bao giờ báo cho địch, ở mức
cao hơn sẵn sàng đóng góp tiền bạc, của cải, mức cao nhất là nuôi giấu, che chở và
tham gia hoạt động ngay những lúc khó khăn gian khổ nhất.
Ngoài các thủ đoạn chính trị và bạo lực quân sự, Mỹ - Diệm ráo riết thực
hiện chủ trƣơng “đoàn ngũ hoá nhân dân”, gom quần chúng vào các tổ chức chính
trị phản động của chúng. Ở khu 4 một số thanh niên bị ép buộc vào “thanh niên
cộng hòa”, phải luyện tập quân sự và canh gác đƣờng phố. Một số thiếu nữ, phụ nữ
bị úp bộ vào “phụ nữ liên đới”; có bà có chị bị chỉ định là tổ trƣởng nhất định từ
chối. Số công chức và nhân viên công sở mặc nhiên có chân trong “phong trào
cách mạng quốc gia”. Trừ một số ít tay sai phản động thâm thù cách mạng thì hăng
hái tâng công, còn phần đông hoạt động chiếu lệ. Họ vịn cớ đau yếu, bận làm ăn,
mắc công chuyện gia đình… làm bọn cầm đầu không gây khó dễ. Một số dự họp
nắm đƣợc tin tức, âm mƣu, thủ đoạn giặc, kịp thời báo cho cán bộ ta tìm cách đối
phó.
Giữa năm 1956, quân Pháp rút hết về nƣớc. Bảo Đại đã bị truất phế. Các thế
lực chống đối bị dẹp. Họ Ngô hoàn thành hai mục tiêu “đả thực” và “bài phong”.
Quốc sách “tố cộng, diệt cộng” đặt lên hàng đầu. Mỹ - Diệm trắng trợn tuyên bố:
không ký Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, không hiệp thƣơng, càng không có tổng
tuyển cử. Tháng 7 - 1956, Diệm mở “chiến dịch Trƣơng Tấn Bửu” phá dữ dội
phong trào cách mạng các tỉnh miền Đông Nam bộ mà trọng điểm là hai tỉnh Biên
Hòa, Bà Rịa. Chúng lùng bắt các đảng viên cộng sản, cán bộ kháng chiến cũ và các
cơ sở cách mạng hòng tiêu diệt cơ sở hạ tầng của ta. Không khí chung rất nặng nề.
Một số tên đầu hàng tƣởng đây là cơ hội của chúng, nghênh ngang sục sạo lập
công với chủ để lĩnh thƣởng.
Chín Vạn - đầu hàng, làm ở phòng nhì - chỉ điểm cho đặc cảnh miền Đông
PSE ban đêm vây nhà, bắt ông Bảy Đắc (Huỳnh Văn Đắc) - thợ mộc nhà máy cƣa
BIF trƣớc có tham gia kháng chiến - Đòn của đặc cảnh PSE khét tiếng tàn bạo dã
man, bất cứ ai không may lọt vào tay bọn đồ tể này nếu nhẹ thì bầm dập, nặng thì
tàn phế hoặc chết. Ông Bảy Đắc bị bọn này ra sức khai thác nhƣng ông chỉ khai
nhận: trƣớc kia tham gia kháng chiến theo phong trào chung; sau này về lo làm ăn
54
nuôi gia đình; không liên hệ với ai. Không làm đƣợc hồ sơ chúng thả ông ra. Về
nhà, ông lâm bệnh nặng, một thời gian rồi qua đời ngày 22 - 7 - 1957.
Tháng 2 - 1957, tên Diễn - cán bộ công đoàn cũ - chỉ điểm bắt anh Năm
Thuận (Phạm Tấn Thuận) - chồng chị Út Hạnh - vào một đêm thứ bảy. Bị đòn đau,
anh nhận trƣớc đó có tham gia kháng chiến, ở Liên hiệp công đoàn tỉnh Thủ Biên.
Anh nhận có quen ông Ba Hạt (thủ kho nhà máy cƣa BIF), ông Cúc bán quán…
Ông Cúc bị bắt tại nhà vào ban đêm. Ông bị giam giữ, tra tấn ở nhiều nơi:
Khám lớn Biên Hòa, trại cải huấn Phú Lợi… Tuy không khai thác đƣợc gì, nhƣng
căn cứ hồ sơ cũ, địch vẫn bỏ tù ông gần ba năm, ông đƣợc thả tháng 12 - 1959.
Tháng 5 - 1957 Diệm chính thức ban hành luật “Đặt cộng sản ra ngoài vòng
pháp luật”. Chúng mở các đợt tố cộng, lùng sục bố ráp các hẻm phố, xóm ấp… Kết
hợp khủng bố trắng với mua chuộc lừa phỉnh, chúng cố ly gián quần chúng với cán
bộ, đảng viên, bôi lem các gia đình cách mạng. Chúng tiếp tục truy nã diệt trừ tận
gốc rễ những ngƣời “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”.
Trƣớc tình hình này, các hoạt động rải truyền đơn, dán khẩu hiệu, treo cờ
Đảng của ta ở nội ô giảm đi. Nhƣng cán bộ ta vẫn len lỏi, bám chắc cơ sở, gây
dựng lực lƣợng, giữ vững phong trào. Đồng chí Sáu Hành trao đổi kỹ với ông Sáu
Hào (Trần Trọng Nhạc) dùng em Trần Trọng Quang - con ông - vào việc mang
truyền đơn. Lúc này Quang đang học lớp 7, một số lần đi xe đạp từ đây lên Tân
Ba, tới nhà cơ sở nói với chủ nhà: “Cho ba con xin chậu quất kiểng”. Mang về nhà,
giở bọc giấy ra, em thấy bó truyền đơn gói trong đất. Ông Sáu Hào đôi lúc nhét cả
gói lên nóc nhà. Quang biết, nói: “Ba làm thế này nó thấy thì chết!”
Cán bộ nghiệp đoàn nhà máy cƣa Tân Mai bề ngoài đấu tranh cho quyền lợi
hàng ngày của thợ, song bên trong kín đáo hƣớng vào mục tiêu đấu tranh chính trị
của Đảng.
Bà Mƣời Hoa (Mƣời Gạo, Nguyễn Thị Chuyên) trong thời kháng chiến
chống Pháp công tác ở huyện hội phụ nữ Vĩnh Cửu. Là cán bộ đoàn thể, bà đƣợc
bố trí ở lại hoạt động tại Tân Phƣớc, Tân Triều. Đầu năm 1957 bà bị bệnh nặng
đúng vào lúc địch càn bố ráo riết do đó đồng chí Năm Trị giải quyết cho bà về
chữa bệnh và sống hợp pháp.
Tháng 6 - 1957 bà Mƣời Hoa về xóm Đƣờng rầy xe lửa (khóm 2 bây giờ).
Khi sức khoẻ hồi phục, bà móc nối đƣợc với chị Năm Hiền - cán bộ Huyện ủy
Vĩnh Cửu. Hai ngƣời dắt nhau lên Bình Chánh liên hệ với đồng chí Tƣ Lũy. Bà xin
55
tiếp tục thoát ly, song đồng chí yêu cầu bà về buôn bán, tạo vỏ bọc hợp pháp, có
điều kiện sẽ tham gia công tác tiếp trong vùng kềm.
Qua bọn đầu hàng, địch nắm đƣợc bà Mƣời Hoa là cán bộ kháng chiến cũ.
Chúng cử ngƣời rình mò bám chặt. Một dân vệ xã Bình Trƣớc hở ra: “Nếu có
ngƣời đến nhà bả, tôi sẽ bắt”. Một bà theo đạo Thiên Chúa ở gần đó cho biết: “Hai
vợ chồng cảnh sát ngầm đang để ý bả, nhƣng tôi đâu có thấy bả làm gì”. Bà Mƣời
phải cắt hết mọi liên hệ, im hơi lặng tiếng một thời gian dài. Cuối cùng, chúng thôi
theo dõi bà.
Ông giáo Thể (Hồ Văn Thể) là nhân sĩ có tinh thần dân tộc. Mấy em trai
ông: Hồ Văn Leo, Hồ Thế tham gia cách mạng từ trƣớc tháng 8 - 1945. Anh Ba
Ngôn (Hồ Văn Ngôn) - con ông - đi bộ đội hồi kháng chiến chống Pháp, lúc còn là
thiếu niên học sinh, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 đi tập kết. Tháng 9 - 1945, ông
làm nhiều công tác khác: trƣởng ban tiếp tế, trƣởng ban tiêu thổ kháng chiến,
trƣởng ban thông tin tuyên truyền và bình dân học vụ… Từ năm 1946 - 1948, ông
bị Pháp bắt giam mấy lần, bị tra tấn dã man nên cuối năm 1948 phải tạm lánh qua
Campuchia và Lào khoảng một năm. Khi địch kêu gọi dân xã Tam Hiệp hồi cƣ, lập
lại xã (1954), ta vận động ông ra làm Chủ tịch hội đồng xã Tam Hiệp. Gia đình
ông ở khóm 2, khu 4, sáng sáng ông xuống trụ sở làm việc, chiều lại về nhà. Làng
Vĩnh Cửu - nổi tiếng đầu thời kỳ chống Pháp - có nhiều ngƣời kháng chiến cũ về
làm ăn sinh sống. Ông mời ông Mƣời Hậu, Năm Sang, Ba Đảo…tham gia công
việc của xã, tạo điều kiện cho ta cài ngƣời tốt vào bộ máy chính quyền và tự vệ
hƣơng thôn. Nhờ vậy, nhiều cán bộ tỉnh Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu có thể về đây
hoạt động, gây dựng cơ sở, tổ chức chỉ đạo đấu tranh chính trị. Trong giai đoạn
ông giáo Thể làm Chủ tịch hội đồng xã (1954 - 1959), chính quyền xã Tam Hiệp
có tính chất “hai mang” làm lợi cho dân, lơ đi hoạt động cách mạng ngay cả lúc
“chiến dịch Trƣơng Tấn Bửu” diễn ra.
Sau trận tổ đặc công đơn vị C.250 tập kích Nhà Xanh diệt tại chỗ hai nhân
viên quân sự Mỹ (7 - 7 - 1959), địch phản ứng điên cuồng. Do có sự phản bội,
chúng bắt đƣợc Bí thƣ chi bộ Tam Hiệp là anh Ba Đảo (Ngô Văn Đảo, Nguyễn
Văn Dặn) và vài cơ sở khác. Chúng rà soát lại và đánh giá: Chủ tịch hội đồng xã
không nắm đƣợc tình hình địa phƣơng, vô hình chung bao che cho cộng sản.
Chúng bãi chức ông giáo Thể và một số nhân viên, thay bằng một số ngƣời di cƣ
mới đến cƣ ngụ.
Luật 10 - 59 của Diệm đã dìm phong trào cách mạng miền Nam trong biển
máu. Ba Chánh, Tƣ Cƣờng và Hà Tƣ đầu hàng phản bội làm hầu hết các chi bộ và
56
cơ sở cách mạng toàn tỉnh Biên Hòa bị vỡ. Khoảng 500 cán bộ, đảng viên, cơ sở bị
bắt bớ, giam cần, tù đày. Các nhà lao chật ních.
Anh Ba Đức - y tá chích dạo - dân kháng chiến cũ tỉnh Vĩnh Long giạt lên
đây ở cùng hẻm 55 khóm 4 với anh Chín Nghị. Các anh thu thập tin tức địch gửi
cho đồng chí Mƣời Hậu. Anh Ba Đức bị cảnh sát tình nghi, bắt hai lần rồi lại thả
(vì gia đình chạy tiền).
Hồi 11 giờ đêm tháng 9 - 1959, bà Nguyễn Thị Xế bị bắt do anh Dƣơng Hữu
Lễ khai ra. Bà chỉ có án mù nhƣng bị giam tới ba năm (năm 1962 mới đƣợc tha).
Tháng 3 - 1960, Thị ủy viên Sáu Hồng bị đội biệt kích 1 bắt ở xóm Gò Me
(ấp Lân Thành). Anh kháng cự, bị chúng đánh gãy tay ở trƣờng tiểu học Chợ Đồn.
Không chịu đựng nổi đòn tra tấn tàn bạo của bọn đồ tể, anh khai ra một số cơ sở.
Cùng bị bắt một đêm có một số cán bộ và đoàn viên nghiệp đoàn nhà máy cƣa Tân
Mai: Chủ tịch Hai Trang, Phó chủ tịch Sáu Hào, các đoàn viên Tƣ Nghìn, Lê Văn
Bỉnh… Anh Ngân cũng bị sa lƣới đợt này. Những ngƣời này bị giải qua nhiều nhà
tù: bót Bà Hòa, Gia Định, Chí Hòa, Phú Lợi…
Giữ vững khí tiết kiên cƣờng, không chịu học nội quy và tố cộng, bị đầy đoạ
đến cùng cực, ông Sáu Hào (Trần Trọng Nhạc) qua đời ngày 9 - 5 - 1961 (tức 25 -
3 Tân Sửu) trong trại tập trung Phú Lợi. Ba ngày sau gia đình ông mới biết tin,
mua hòm kẽm tẩm liệm chở về Biên Hòa chôn cất.
Anh Chín Quang (Lƣu Văn Lê) là phu contrat đồn điền cao su Hớn Quản.
Anh tham gia kháng chiến chín năm, làm cần vụ cho đồng chí Tám Nghệ một thời
gian. Anh đƣợc bố trí ở lại hoạt động mật và chăm sóc má đồng chí Tám Nghệ ở
Tân Tịch. Anh nhiều lần phải né tránh, lẩn trốn các đợt càn quét của địch. Má anh
Tám Nghệ thấy sống vậy không ổn, đƣa anh về xóm Đƣờng rầy khu 4 vào tháng 3
- 1960. Là ngƣời lạ mặt nói tiếng Bắc, anh bị hai tên cảnh sát chìm bắt. Tên điều
tra hỏi dồn dập: “Mày có phải là Việt cộng không? Có biết Nguyễn Bình không?
Biết Huỳnh Văn Nghệ không?” Trƣớc sau, anh chỉ một mực trả lời: “Không phải.
Không biết, tôi chỉ làm ăn”. Tuy chỉ tình nghi song chúng cũng giam anh 14 tháng,
anh đƣợc tha tháng 5 - 1961.
Sân bay Biên Hòa là một trong các sân bay quân sự chiến lƣợc của địch. Để
mở rộng sân bay, Bộ quốc phòng Sài Gòn và Tòa hành chánh Biên Hòa ra thông
báo đuổi dân các xã Bửu Long và Tân Phong từ năm 1958, hạn chót tháng 11 -
1960. Tỉnh uỷ Biên Hòa chỉ đạo huyện Vĩnh Cửu vận động nhân dân chống lại
việc cƣớp đất lập sân bay này. Số dân Bửu Long (trong phạm vi phải dời đi) ít, nên
57
chúng giải toả nhanh. Xã Tân Phong đông dân, dân có tinh thần đoàn kết tốt, các
nòng cốt từng đƣợc rèn luyện qua chín năm kháng chiến, do đó cuộc đấu tranh
giằng co, diễn biến phức tạp, có lúc quyết liệt.
Bà con làm đơn kiến nghị gửi đi Sài Gòn yêu cầu giữ hƣớng đƣờng băng
nhƣ cũ. Chúng không chấp nhận, dùng đủ mọi thủ đoạn xoa dịu, lừa bịp, hứa bồi
thƣờng, tiến tới hù doạ, dùng xe ủi sạch mùa màng… Chúng tiến hành đo đạc,
thống kê nhà cửa, ruộng vƣờn, mồ mả từng nhà để lập danh sách bồi thƣờng. Số bà
con ở khu 4 quê Tân Phong nhƣ ông Bảy Lịnh, anh Chín Nghị, chị Út Hạnh…
tham gia đấu tranh bằng cách nhắc nhở bà con kê khai từ từ, kéo dài làm chậm trễ
tới hai năm (tháng 11 - 1962 ngƣời Tân Phong cuối cùng mới dời đi).
Trong giai đoạn “chiến tranh một phía”, Mỹ - Diệm dốc sức đánh ta bằng
binh tính, cảnh sát, tình báo, bằng cả bạo lực chính trị và quân sự. Tuy ta lấy đấu
tranh chính trị là chính song đây đó do “tức nƣớc vỡ bờ” nên đã nổ ra một số cuộc
đấu tranh vũ trang diệt ác phá kềm.
Tháng 1 - 1959, Nghị quyết 15 ra đời. Nhân dân miền Nam tiến hành chiến
tranh cách mạng để lật đổ ách thống trị của Mỹ - Diệm. Từ đầu năm 1960, phong
trào Đồng khởi Bến Tre nhanh chóng lan toả ra nhiều tỉnh Nam bộ. Chiến thắng
Tua Hai (Tây Ninh) củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân Biên Hòa vừa trải
qua cuộc khủng bố trắng: cách mạng miền Nam nhất định thắng lợi.
Đƣờng lối cách mạng mới của Đảng hợp lòng dân, nhanh chóng vực dậy
phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm, nhất là sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam thành lập (20 - 12 - 1960). Thực lực cách mạng thị xã Biên Hòa cũng
nhƣ tỉnh Thủ Biên dần dần đƣợc hồi phục.
Ông Tƣ Sen (Nguyễn Văn Sen, Trƣơng Viên) là dân Tân Hóa Khánh Vân
huyện Tân Uyên. Ông vào Đảng từ thời chống Pháp, đƣợc chi bộ cử đi theo khi
dân bị tát chạy về khu 3 năm 1952. Ông tổ chức cất nhà cho dân làm củi và đi xe
bò ở.
Ông làm củi ở sở Đờ La (Long Thành), thƣờng xuyên quyên tiền bà con để
nuôi các đồng chí trong chi bộ Khánh Vân. Địch nghi ngờ, nhiều đêm rình núp ở
bãi đất trống sau nhà. Chó sủa, bà Tƣ Sen thính ngủ, trở ra bảo chúng: “Mấy chú
để cho ông nhà tôi ngủ yên mai ổng đi kiếm gạo”
Qua các đợt khủng bố của giặc, chi bộ quê ông hao mòn dần còn ba đồng
chí. Khi Bí thƣ bị lính bắn chết, ông đứt liên lạc. Bà con, anh em quê Khánh Vân
58
ngụ tại khu 4 vẫn gom tiền cho ông. Mỗi lần mang tiền về, ông phải đi kiếm hàng
ngày, nhờ dân chỉ đƣờng mới gặp các đồng chí còn lại. Nếu ông kẹt công việc, bà
Tƣ đi thay. Bà thƣờng lên xe đò ở Biên Hòa, tới đầu cầu Bình Lợi đón xe đi tiếp
Thủ Dầu Một, sau đó sang xe ngựa về Tân Ba. Bót Phú Hòa kiểm soát rất ngặt, bắt
khách xuống hết. Nhƣng lính thú thấy bà Tƣ ăn mặc lam lũ, ôm khƣ khƣ chiếc giỏ
lác rách nhƣ ngƣời ăn xin, không bắt xuống xe, không hề nghi ngờ gì.
Năm 1961, phong trào quê ông hồi phục, mỗi lần về, ông Tƣ Sen lại nhận
một ít truyền đơn của Mặt trận, mang về rải ở nội ô.
Anh Thức ở Thái Hòa xuống đây làm lơ xe. Ông Tƣ Sen giáo dục vận động
anh: “Dứt khoát chú sẽ bị bắt quân dịch, ở đâu cũng chết thì ta kiếm cái chết vinh”.
Hiểu ra, anh đi thoát ly (nay ở Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai). Sau này, anh Bé
- ngƣời Phƣớc Long - đi lính biệt kích Mỹ, ông gặp và nói nhẹ nhàng: “Đi theo
mấy “ổng” (ám chỉ Mỹ) biết đâu mà đi? Mỹ thua ta Mỹ về Mỹ, Thiệu thua ta binh
sĩ về đâu?”. Anh Bé đào ngũ, bà Tƣ Sen đƣa đƣờng anh lên Tân Ba, nhờ du kích
mật móc nối cho anh tham gia cách mạng.
Ông Sáu Tợ là tƣ sản làm be (gỗ cây) ở Biên Hòa. Gỗ chặt hạ ở nhiều khu
rừng Đông Nam bộ. Ông Chín Mợi (Nguyễn Văn Mợi) làm công nhân khai thác,
bà con với ông Sáu Tợ. Từ thời chín năm ông Chín Mợi quen biết một số cán bộ
trong rừng, nhiều lần ủng hộ, mua giúp lƣơng thực, thuốc men, đồ văn phòng.. chở
vào căn cứ. Năm 1961, ông vận chuyển và khai thác gỗ ở Đồng Xoài (Thủ Dầu
Một). Ông Sáu Nhàn - cán bộ tỉnh đội Thủ Biên - móc nối nhờ mua giùm hàng hóa
và thu thập tin tức của địch. Ngày 23 - 6 - 1961, ông Chín Mợi đi xe Jeep của chủ,
tới cầu Nha Bích bị bộ đội ta phục kích bắn lầm, hy sinh tại chỗ.
Ông Năm Hợp tiếp tục nghề làm củi ở Long Thành. Các đồng chí Tƣ Định,
Sáu A, Bảy Phƣợng của Huyện ủy Long Thành nghiên cứu, tìm hiểu rồi móc nối
với ông từ năm 1962. Ông Năm Hợp thƣờng xuyên cung cấp tin tức, ủng hộ tiền,
mua giùm các đồ “quốc cấm” nhƣ gạo, thuốc (trụ sinh, cầm máu, chống sốt rét…)
cho anh em trong rừng.
Đầu năm 1961, chị Lê Thị Nhỏi (Hiền) - con ông Năm Đĩ - đang làm ruộng
ở Tân Nhuận (Uyên Hƣng, Tân Uyên) đƣợc móc nối, đi thoát ly, trở thành cán bộ
tuyên truyền huyện Tân Uyên. Chị quen thuộc địa phƣơng, nhờ cán bộ dìu dắt
hƣớng dẫn tỉ mỉ nên trƣởng thành nhanh, độc lập công tác, gan dạ xông xáo xây
dựng cơ sở (Chị hy sinh vì máy bay bắn ngày 11 - 2 - 1964 ở Tân Mỹ).
59
Cô Lê Thị Kim Liên - em gái chị Nhỏi - đƣợc anh Nguyễn Thành Châu
tuyên truyền giáo dục rồi giao làm công tác để thử thách ở ngay khu 4. Cô tiến bộ
nhanh, đƣợc anh kết nạp vào Đoàn Thanh niên lao động. Một bữa tháng 4 - 1962,
em Lâm - giao liên - đột ngột về gia đình, cho biết địch bắt một số cơ sở. Nghĩ
mình bị lộ, cô vội bỏ nhà tránh né tại các cơ sở Cần Giuộc (Long An), Phƣớc Thái
(Long Thành). Cô liên hệ với chị Ba Ve (có bầu sắp đến ngày sinh). Chẳng may
chị bị Hà Tƣ chỉ bắt. Cô vội lánh về Sài Gòn rồi đi Vũng Tàu, sau về Hắc Dịch (Bà
Rịa). Đầu năm 1963, Liên tham gia quân báo Biên Hòa; năm 1964 chuyển qua học
quân y (phụ mổ) đến cuối năm đi phục vụ chiến dịch Bình Giã.
Năm 1962, phong trào cách mạng Biên Hòa phục hồi nhanh. Tỉnh và thị xã
có chủ trƣơng rút thanh niên tốt từ nội ô và vùng kềm ra bổ sung cho lực lƣợng vũ
trang, các cơ quan Đảng và đoàn thể đang thiếu ngƣời nghiêm trọng.
Anh Ba Việt (Lê Hoàng Việt - quân báo tỉnh Biên Hòa - bám trụ nội ô)
móc nối với cơ sở, nghiên cứu rút ra một số học sinh nhƣ Tám Nhỏ, Út Minh, Năm
Cang (Lê Trung Cang)… Cang là con ông Năm Đĩ, đang học lớp 11 trƣờng trung
học Ngô Quyền, ra đi sau Kim Liên không lâu. Một số kẻ xấu miệng đồn thổi: Hai
chị em loạn luân, lấy nhau có bầu, bỏ nhà đi bụi đời. Ông Năm Đĩ bị dƣ luận xúc
phạm nặng, nhƣng đành nín nhịn. Rồi dƣ luận ác độc cũng êm dần, không ai nhắc
đến nữa. Đến năm 1963, các cán bộ Tỉnh đoàn Tƣ Hiếu, Tâm xin một số học sinh
bên quân báo qua làm công tác học sinh. Năm Cang là một trong số này, đứng
chân tại căn cứ Nhơn Trạch - Long Thành, từ đó vƣơn vào nội ô nắm và xây dựng
phong trào học sinh sinh viên thị xã Biên Hòa.
Bị đàn áp khốc liệt ở miền Trung, nhiều ngƣời kháng chiến cũ đổi vùng,
lánh vào Biên Hòa. Trong số này có bà Đỗ Thị Thƣờng và anh Sáu Thời (Trần
Xuân Thời). Bà Thƣờng quê ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, là đảng viên, cán bộ phụ nữ
xã, chồng đi tập kết. Năm 1955 địch bắt bà lên trụ sở xã tra hỏi: “Chồng đi rồi, bà
ở lại hoạt động đƣa tiền lên núi cho cộng sản, phải không? Nếu không thật thà khai
báo, sẽ đƣa lên quận nhốt”. Bà trả lời: “Tôi là đàn bà, lúc trƣớc cộng sản bắt tôi
phải theo, bây giờ “quốc gia” về, tôi chỉ lo làm ăn”. Nó tha về. Một thời gian sau,
bà bị ngƣời anh con ông bác ruột làm công an ngụy và ngƣời em con cậu làm
trƣởng thôn tố giác, nên lại bị bắt. Trƣởng công an quận Đức Phổ hỏi: “Ngƣời ta tố
giác bà ở lại hoạt động, đúng không?” Bà đáp: “Ngƣời ta tƣ oán tƣ thù thôi, Đảng
đi hết rồi, còn ai mà hoạt động”. Bà bị bắt và đƣợc tha nhiều lần. Địch cho là bà
ngoan cố, năm 1961, địch bắt đày đi Côn Đảo. Nhờ ngƣời cháu báo, bà chạy vào
Biên Hòa.
60
Bà Thƣờng vô đây với hai bàn tay trắng. Để kiếm sống, bà đi ở đợ cho một
viên đại uý khoảng một năm. Sau đó bà đi làm cho ông Tƣ Biển - chủ khách sạn -
nhờ ông này giúp làm thẻ căn cƣớc để có giấy tờ hợp pháp tùy thân. Qua một số
lần tiếp xúc, ông này nghi, hỏi: “Tôi thấy bà là ngƣời có trình độ, không phải dân
di cƣ đi ở, chồng bà đâu?” Bà trả lời: “Ôi, ở cái đời này đàn ông họ lăng nhăng
lắm; ổng có vợ nhỏ, ở cùng hai thằng con trai, tôi theo mấy đứa con gái”. Ông ta
thăm dò: “Tôi kêu bà là Chủ tịch”. Trả lời: “Nếu bị bắt, tôi khai ra ông đó”. Ông ta
vội vã nói: “Chớ…chớ…tôi nói chơi vậy thôi…”.
Bà Thƣờng bắt liên lạc đƣợc với ngƣời anh là Hai Thanh (Trần Dự Hiệp) và
cháu là Hai Trí (Trần Hào) - đều là cán bộ kháng chiến cũ - tổ chức thăm nuôi một
số ngƣời bị bắt.
Anh Sáu Thời chạy vô đây gặp ngƣời quen chạy xe cho một tiệm rƣợu gần
kho bạc Biên Hòa. Rồi anh đi theo xe be của ông Tám Ù. Lên Xuân Lộc, anh gặp
một số thanh niên cùng quê, bị bể ở Sài Gòn, giạt về đây làm cho cơ sở cà phê Ba
Xƣơng. Năm 1962, anh cƣới con gái bà Thƣờng.
Qua con rể, bà Thƣờng gặp gỡ, chuyện trò với số thanh niên đồng hƣơng. Bà
phân tích hai con đƣờng cho anh em: “Cứ làm mƣớn mãi rồi cũng bị bắt đi quân
dịch chống lại nhân dân, hoặc là đi theo cách mạng”. Bà khuyên anh em thoát ly.
Năm anh theo ngã Xuân Sơn gia nhập quân giải phóng. Một anh quê Mộ Đức chạy
vào Sài Gòn rồi lên Biên Hòa hoạt động thành. Bị tù Côn Đảo mấy năm, lúc về, bà
Thƣờng hỏi: “Có muốn đi nữa không?” Anh trả lời: “Đi thôi chớ không ở đƣợc”.
Qua móc nối, bà gặp danh Dỗ Chấn - ngƣời cùng xóm - ở vùng căn cứ Võ
Đắc. Từ đó thỉnh thoảng bà lại lên thăm, mang theo thuốc trụ sinh cho anh, góp 10
thùng gạo ở Võ Xu.
Làm xe be, anh Sáu Thời có điều kiện đi nhiều nơi. Cán bộ ta liên hệ, nhờ
anh mua gạo, dầu, radio, máy cƣa… (Lúc này ta cấm phá rừng bừa bãi, nhờ cơ sở
mua máy cƣa để bộ đội và du kích hạ cây ở những nơi ít ảnh hƣởng đến việc dung
trú, chiến đấu của ta). Do cảnh giác và cũng gặp may, anh chƣa lần nào bị lộ trong
khi hàng chục ngƣời khác bị bắt. Anh đổ hàng cho hậu cần ở nhiều nơi: cây số 125
quốc lộ 20, Võ Đắc, Võ Xu, Bà Rịa,… (Năm 1967 lúc anh chở gỗ ở cây số 125 thì
bị trúng chất độc hóa học Mỹ rải vào ban đêm. Sáng hôm sau mắt anh sƣng húp
không nhìn thấy gì. Đi bệnh viện, bác sĩ chỉ cứu đƣợc một con mắt. Nhờ vậy anh
không bị bắt đi quân dịch, nhƣng sau này anh bị úp hộ vào đảng Dân chủ của
Thiệu).
61
Bà Sáu Hậu - vợ đồng chí Năm Khoai - đến liên hệ với bà Mƣời Hoa.
Nhƣng bà cảnh giác vì từng chứng kiến một số cán bộ, đảng viên “trở bộ” đầu
hàng, nên chỉ đón tiếp bà Sáu nhƣ ngƣời quen biết cũ, giúp đỡ gạo, tiền… Phong
trào cách mạng càng lớn mạnh, địch càng tìm cách đánh phá điên cuồng. Không
phải là không có cán bộ tên tuổi nổi tiếng một thời nay bị kẻ thù khuất phục.
Bà Tƣ Hậu móc nối với anh Tƣ Để vì vợ anh là cháu bà. Bà bắt liên lạc đƣợc
với cán bộ ta sau mấy năm đứt quãng, anh Tƣ rất mừng. Nhƣng cũng phải qua một
số lần, anh mới thật tin. Anh vận động đƣợc một số ngƣời quen và thân nhân nhƣ:
ông Sáu Hợp, anh Nguyễn Văn Tài, ông Tƣ Nghìn, các bà Năm Gấm, Sáu Vóc,…
đóng góp cho cách mạng. Lâu không thấy thu tiền, số bà con này lại nhắc nhở anh.
“Lòng dân vùng địch kềm chặt vẫn tốt thế đấy!”.
Anh Ngân - cán bộ hoạt động bí mật - bị địch đánh chỉ còn thoi thóp, chúng
ném xuống nhà xác của nhà thƣơng Biên Hòa. Nghe tin, anh Tƣ Để nhờ bà Năm
Gấm và vợ thăm nuôi cho đến khi lành bệnh. Anh Ngân trở lại đội tiếp tục chiến
đấu.
Ra tù, ông Cúc lại tham gia quân báo quân khu 7. Ông vẫn mở quán cà phê.
Dốc Sỏi là khu vực có nhiều sắc lính và gia đình họ cƣ ngụ, đông nhất là lính sân
bay. Khách hàng của ông chủ yếu là lính, qua câu chuyện họ vô tình để lộ, ông thu
lƣợm đƣợc khá nhiều tin tức, ông gửi theo đƣờng dây ra ngoài. Bà Ba Hửng, vợ
ông Sáu Phát, tới móc nối, nhận tiền, quần áo do bà Xế vận động quyên góp đƣợc
của ông Năm Đanh (Nguyễn Văn Tịch), bà Tám (Trần Thị Bé), bà Thêm…
Đầu năm 1964, sau khi Diệm bị phe đảo chánh giết, có ngƣời từ căn cứ của
Miền về giao nhiệm vụ đặc biệt, ông Cúc mƣợn xe traction của ông Cảnh - bạn
thân - đi Sài Gòn chở mấy ngƣời tù Côn Đảo vừa đƣợc Dƣơng Văn Minh tha, lên
chiến khu Dƣơng Minh Châu. Ông không hề biết đó là mấy đồng chí lãnh đạo cấp
cao và lão thành: Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình…
Cô Thọ (Nguyễn Thị Thọ, Phƣơng Trang) - con gái ông - đang học trung
học đệ nhất cấp, cùng vài ngƣời bạn về Rạch Giá thăm ngƣời cậu. Cô đƣợc gặp
đồng chí Hai Thép, nghe ông nói chuyện, mở rộng tầm hiểu biết, thấy con đƣờng
cha mẹ cô theo là đúng. Cuộc đi này có tính lịch sử đối với một nữ sinh còn ngây
thơ. Cách mạng đã dẫn dắt cô cũng nhƣ bao bạn trẻ theo con đƣờng cứu nƣớc cao
quý của cả dân tộc.
Chiến thắng Bình Giã (12 - 1964) đánh dấu sự thất bại cơ bản của chiến lƣợc
“chiến tranh đặc biệt”. Chính quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ vì “quân đội quốc
62
gia” - cái xƣơng sống của chế độ tay sai - thua trận liên tiếp, mất nhiều sinh lực. Để
cứu vãn, Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam Việt Nam. Biên Hòa là một trong các
địa điểm chiến lƣợc của Mỹ và chƣ hầu, tại đây chúng bố trí nhiều đơn vị tinh nhuệ
trang bị đầy đủ các phƣơng tiện hiện đại nhất. Chúng thực hiện chiến lƣợc mới
“chiến tranh cục bộ” với ảo tƣởng chỉ hai mùa khô sẽ làm cuộc chiến tranh Việt
Nam lụi tàn, các đơn vị vũ trang cách mạng bị tan tác xé lẻ phải rút vào vùng rừng
núi hoặc biên giới xa xôi, không còn sức chiến đấu.
Thị ủy Biên Hòa họp đầu tháng 2 - 1965 quyết định: xây dựng và củng cố
các cơ sở nội ô và vùng ven, tạo bàn đạp cho các lực lƣợng vũ trang cách mạng
tiến công các cơ quan đầu não địch cùng các căn cứ, kho tàng, sân bay của chúng.
Cán bộ đƣợc tung vào nội ô để thực hiện nhiệm vụ to lớn nói trên.
Chị Năm Hiền (Nguyễn Thị Thanh Vân) về gặp bà Mƣời Hoa và chị Út
Hạnh là ngƣời thân quen cũ. Hai bên gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chị Năm Hiền
thỉnh thoảng lui tới, ở nhà bà Mƣời Hoa (đang bán gạo). Kho sau nhà là nơi chứa
chị mỗi khi chị từ nơi khác về đây. Lính và cảnh sát thỉnh thoảng xét tờ khai gia
đình và lục soát nhà cửa nên có lúc bà Mƣời phải tạm giấu chị vào tủ quần áo lúc
khẩn cấp. Anh Năm Thuận chồng chị Út Hạnh - bị tù đày, đòn tra tấn, ốm yếu,
không ngủ đƣợc khi chị Năm Hiền về, cho nên chị chỉ ghé qua mỗi khi chị muốn
trao đổi với chị Út Hạnh, nhờ chị đƣa thƣ hoặc tài liệu cho bà Sáu Hậu, anh Hai
Cáo, mà cũng phải giữ kín không để anh biết.
Anh Bảy Ngàn (Lê Văn Ngàn) - cán bộ cơ sở Mỹ Tho giạt lên Biên Hòa, đứt
liên lạc - đi làm mƣớn kiếm sống. Anh lấy vợ ở khóm 2. Anh làm nhà cho bà Mƣời
Hoa, qua trò chuyện, bà thấy anh tốt nên tuyên truyền và giao nhiệm vụ. Anh phát
triển đƣợc ba nòng cốt: bà Đỗ Thị Thƣờng, bà Bảy (Bùi Thị Túc), anh Chín Ra
(Nguyễn Văn Ra). Nhận truyền đơn, tờ bƣớm từ bà Mƣời Hoa anh phân cho số
nòng cốt để họ chủ động mang đi rải ở nơi đông ngƣời. Anh cũng đƣa cho anh Ba
Thăng, anh này có sáng kiến nhét truyền đơn vào ống xả ô tô đậu ở trƣớc ga Biên
Hòa; khi xe nổ máy chạy, truyền đơn tung ra (anh Thăng bị địch bắt, đánh hƣ một
cánh tay).
Quân Mỹ ùn ùn kéo vào Biên Hòa mới đầu cũng làm nhiều ngƣời dân khu 4,
trong đó có cơ sở ta lo lắng thay cho cách mạng. So sánh tƣơng quan lực lƣợng hai
bên, rõ ràng bên ta nhƣ “châu chấu đá voi”. Nhƣng từ nơi sâu trái tim, mọi ngƣời
vẫn tin ở Bác Hồ và Đảng. Hồi chín năm, ta đã chẳng từ gậy tầm vông vạt nhọn mà
lớn mạnh sao? Huống hồ nay ta đã khác xƣa, có hậu phƣơng lớn vững chắc, lại
đƣợc anh em bạn bè năm châu giúp đỡ chí tình.
63
Từ khi lính Mỹ vào, các khách sạn, snack - bar, phòng trà… mọc lên nhan
nhản. Sách báo, phim ảnh Mỹ khuyến khích lối sống gấp dẫn đến vô số tệ nạn xã
hội: đĩ điếm, bụi đời, xì ke, ma túy… làm băng hoại tinh thần bộ phận thanh thiếu
niên, đẩy họ vào con đƣờng trụy lạc với kết cục tất yếu: “đi lính để có tiền ăn
chơi”. Do đó ngay ngƣời dân bình thƣờng cũng căm ghét bọn xâm lƣợc.
Trận pháo kích sân bay Biên Hòa đêm 23 - 8 - 1965 là đòn phủ đầu đánh
trúng bọn Mỹ vừa tới, gây cho chúng nhiều thiệt hại: 68 máy bay bị phá hủy, hàng
trăm lính - trong đó có cả nhân viên kỹ thuật và phi công Mỹ - bị diệt… chiến
thắng này gây niềm phấn khởi, tin tƣởng cho nhiều bà con.
Đầu năm 1966 chị Phạm Thị Xuyến đƣợc sự chỉ đạo của cấp trên xin chuyển
từ trƣờng Phú Hội (Long Thành) về dạy ở trƣờng nữ tiểu học Biên Hòa (trƣờng
PTCS Quang Vinh bây giờ). Chị hoạt động trong cánh CZ2 của đồng chí Năm
Thắng. Chị đƣợc bố trí công tác với cô Thọ. Lúc này Thọ học trƣờng Trần Thƣợng
Xuyên (trƣờng PTCS cấp 2 Quyết Thắng bây giờ), tham gia phong trào học sinh
Phật giáo bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Cô vận động quyên tiền đóng góp cho Mặt
trận dân tộc giải phóng. Một số số lần cô đƣợc giao rải truyền đơn, mua văn phòng
phẩm cho giao liên chuyển ra căn cứ. Sau một thời gian thử thách, cô đƣợc kết nạp
Đoàn.
Để thay thế số lính đào ngũ và chết trận ngày càng tăng, địch ra sức đôn
quân bắt lính. Anh Tƣ Để nhiều lần xin hoãn dịch vì cảnh cha già, con đông. Có
lần đi dự đám cƣới con ông Tƣ Nghìn, anh bị một tốp cảnh sát hỗn hợp chặn
đƣờng thu thẻ căn cƣớc và giấy xe. Anh nhờ ngƣời anh rể kịp thời “lì xì” cho
chúng ba ngàn đồng để lấy lại giấy tờ. Tiệm sửa chữa con đội của anh khá phát đạt,
sẵn tiền anh tìm cách làm quen với một số sĩ quan và hạ sĩ quan có máu mặt nhƣ:
Nguyễn Minh Quân (thiếu tá, tổng quản trị quân đoàn 3), Trần Văn Cớ (đại úy nha
cảnh sát vùng 3 chiến thuật), Mai Việt Hùng (đại úy phó ty an ninh quân đội), Trần
Văn Giàu (thƣợng sĩ nhất trƣởng ban hành quân hỗn hợp ty cảnh sát), Phạm Văn
Chính (thƣợng sĩ không quân)… Quen với loại “lớn” này, gia đình anh ít bị xét
hỏi, bản thân anh đƣợc chúng nể, lũ đàn em hầu nhƣ không dám xét giấy. Qua
chuyện trò, anh nắm đƣợc một số tin tức và lợi dụng làm binh vận.
Tháng 10 - 1966 cô Võ Thị Phƣơng Dung - cán bộ thị xã Thủ Dầu Một bị lộ
- đƣợc điều về thị xã Biên Hòa. Anh Ba Đáo - anh ruột Tƣ Để - viết thƣ giới thiệu
với em mình, nhờ chị Ba Ớt dẫn về. Anh Tƣ Để gởi cô xuống cơ sở An Hảo, bố trí
cô học nghề may để tìm dịp xin vào nhà máy giấy Cogido hoạt động. Phƣơng
Dung ở đó mấy tháng, Thị ủy Biên Hòa bỏ tiền cho cô lo lót nhập vào tờ khai gia
đình cơ sở. Rồi cô đƣợc điều về hoạt động trong phong trào học sinh Biên Hòa
64
cùng các anh Năm Tuyền, Tám Lộc… Cô ở nhà anh Tƣ Để, nhận là cháu của ba
anh, đóng vai nữ sinh ngày ngày cắp sách đến trƣờng tƣ thục Minh Tân nhƣng thực
ra đi công tác là chính. Thị ủy bỏ tiền cho cô mua căn nhà của bác anh Tám Lộc ở
Cù lao Phố, nói là để “học thi cho yên tĩnh” song đó là địa điểm hội họp của bộ
phận chỉ đạo phong trào học sinh Biên Hòa. Cô cũng nhờ bà Trƣơng Thị Thoàn -
mẹ vợ anh Tƣ Để - mƣớn giúp căn nhà tôn nhỏ của ông Sáu Ngọc trong xóm Gò
Lăng, cũng nói để học thi, kỳ thực làm chỗ cho chị Chín từ Bình Dƣơng qua lại
công tác. Phƣơng Dung và anh Châu (Đinh) đào hầm bí mật trong căn nhà này
chuẩn bị cho trƣờng hợp khẩn cấp.
Theo chỉ đạo của Thị ủy Biên Hòa, cánh CZ2 lập các chi bộ mật nội ô để
phát triển thực lực cách mạng, đón thời cơ. Chi bộ khu 4 có ba đồng chí: Phƣơng
Dung (Bí thƣ), Cẩm Nhung (y tá tƣ), Tôn Trung Thành (học sinh). Chi bộ thực
hiện phƣơng thức hoạt động ngăn cách triệt để, không ai đƣợc biết chỗ ở của đồng
chí mình; muốn họp thì báo qua hòm thƣ mật. Đồng chí Bí thƣ nhận chỉ thị của
lãnh đạo về, phổ biến gọn trong ít phút. Mỗi đảng viên về suy nghĩ cách thực hiện
tốt nhất. Ý thức tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cộng với tinh thần sáng tạo đầy
trách nhiệm là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mỗi đảng viên và cơ sở vƣợt mọi khó
khăn, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
Đế quốc Mỹ không thu đƣợc kết quả mong muốn sau hai cuộc phản công
chiến lƣợc mùa khô 1965 - 1966. Đối phƣơng của chúng càng lớn mạnh hơn, giành
quyền chủ động trên các chiến trƣờng, ngƣợc lại, thƣơng vong của chúng ngày
càng tăng, làn sóng phản đối chiến tranh xâm lƣợc ngay ở đất Mỹ và khắp thế giới
ngày càng dâng cao mạnh mẽ. Mỹ lâm vào thế chiến lƣợc phòng ngự bị động tuy
tổng số quân Mỹ, chƣ hầu và ngụy ở mức cao 1 triệu 200 ngàn, trong đó riêng lính
Mỹ khoảng nửa triệu.
Phân tích tình hình chiến trƣờng, Bộ Chính trị quyết định: “chuyển cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành
thắng lợi quyết định”, “dùng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để
giành thắng lợi quyết định”. Ta quyết tâm đập tan ý chí xâm lƣợc của đế quốc Mỹ,
buộc chúng chấm dứt chiến tranh xâm lƣợc, tạo điều kiện cho ta giành đƣợc độc
lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam tiến tới thống nhất nƣớc nhà.
Thị xã Biên Hòa nhỏ bé trở thành tập đoàn trại lính khổng lồ. Sân bay Biên
Hòa ồn ào máy bay cất cánh, hạ cánh xuốt ngày đêm. Không khí chiến tranh nóng
bỏng hòa trộn nhịp làm ăn hối hả và lối sống gấp. Để bảo vệ an toàn hậu cứ quan
trọng này, địch tăng cƣờng mọi biện pháp an ninh, trên đoạn đƣờng ngắn từ bùng
binh ngã năm trƣớc ty cảnh sát tới ngã ba Vƣờn Mít, nhan nhản hàng chục sắc lính:
65
bảo an, nghĩa quân, lính dù, lính thuỷ đánh bộ, biệt động quân, quân cảnh, cảnh sát,
cảnh sát dã chiến, an ninh quân đội, an ninh không quân, cảnh sát chìm, mật báo
viên… Gặp ngƣời có nét mặt, dáng điệu khả nghi, chúng chặn bắt liền. Thoát loại
này, có thể lọt vào tay bọn khác. Cán bộ nội thành gặp vô vàn khó khăn trong từng
đƣờng đi nƣớc bƣớc. Tuy vậy, hai cánh CZ1 và CZ2 của thị xã Biên Hòa đều ráo
riết gây dựng cơ sở, phát triển thực lực cách mạng để phục vụ cho ý đồ chiến lƣợc
của Trung ƣơng và Miền.
Tiệm anh Tƣ Để có hai nhóm thợ khoảng 10 ngƣời, khách hàng lui tới giao
dịch đông. Vì vậy cán bộ cánh CZ2 lấy đây làm một trong các chỗ hội họp trao đổi
công tác. Các anh chị Năm Thắng, Năm Hiền, Chín Liêm, Cẩm Nhung… qua lại
một số lần. Một bữa cuối năm 1967, anh chị em đang trao đổi bàn bạc thì cảnh sát
vào xét giấy tờ một số nhà trong khu vực. Một cán bộ lo lắng hỏi: “Nhà có cửa sau
không?”. Nhà anh Tƣ Để bít bùng ba phía. Chủ nhà rất bình tĩnh, anh bảo vợ đi
mua đồ nhậu. Khi bọn chúng tới cửa, anh ra trò chuyện với chúng, khui bia mời,
sau đó đƣa chúng đi quán nhậu tiếp. Anh em ta đóng vai thợ và khách hàng gọi
xích lô chở con đội tản đi an toàn.
Thị ủy Biên Hòa rất coi trọng việc diệt ác phá kềm, vì có trừ khử đƣợc bọn
này thì ta mới bảo vệ và phát triển đƣợc cơ sở và thực lực trong nội ô. Hai tên Hà
Tƣ và Mƣời Lồi đặc biệt nguy hiểm, chúng rình mò đánh phá, bắt cơ sở cũng nhƣ
cán bộ ta. Anh em diệt hụt vài lần. Cánh CZ2 đƣợc giao nhiệm vụ nặng nề này.
Các cơ sở mật của ta theo dõi chặt, nắm đƣợc quy luật đi lại, ăn ở của chúng.
Phƣơng án trận đánh đƣợc giao cho hai tổ biệt động cùng tiến hành một tối.
7 giờ tối 12 - 12 - 1967, anh Châu (Đinh) chở chị Phƣơng Dung đến nhà
Mƣời Lồi ở Tân Thành. Chị chƣa hề biết mặt y, bƣớc vô nhà giữa lúc y và khoảng
một chục đồng bọn đang nhậu ở góc nhà. Với cách xử lý thông minh, nhanh nhạy,
chị phát hiện đúng Mƣời Lồi, nổ súng bắn chết tại chỗ. Rồi chị ra xe an toàn, về
ngôi nhà (mua) ở Cù lao Phố báo cáo với lãnh đạo: nhiệm vụ đã hoàn thành. Với
thành tích này, chị đƣợc thƣởng Huân chƣơng Chiến công giải phóng. Nhóm kia
do anh Tôn Trung Thành chỉ huy cũng diệt gọn Hà Tƣ cùng tối đó.
Trƣa mùng Một tết Mậu Thân (theo lịch Sài Gòn là 30 - 1 - 1968), một số
anh em trong đội biệt động thị xã Biên Hòa đi xe lam về thị xã Biên Hòa. Anh em
trà trộn vào dân nội ô đi thăm nhau, chúc Tết dịp đầu xuân. Tối 1 Tết, các anh tập
hợp tại một số nhà cơ sở. Gia đình bà Hai Thai - lao công trƣờng Trịnh Hoài Đức,
cơ sở của chị Huỳnh Lang Anh và anh Lê Thanh Hải - đón tiếp sáu, bảy anh mặc
đồ đen lúc đã khuya. Căn nhà bà khá kín đáo, xa đƣờng quốc lộ, sát đƣờng rầy xe
lửa. Trƣớc Tết, anh Ba Hải bảo bà mua trữ mấy tạ gạo phòng lúc cần.
66
Rạng sáng mùng 2 Tết (31 - 1 - 1968) pháo ĐKB đặt ở Hóc Bà Thức (Tân
Phong) nã vào sân bay Biên Hòa và Tổng kho Long Bình… làm hiệu lệnh cho đợt
tập kích chiến lƣợc xuân Mậu Thân ở thị xã Biên Hòa. Bộ đội ta vào đƣợc một góc
sân bay và vào đƣợc góc phía tây sở chỉ huy quân đoàn 3. Bộ đội đặc công đánh
vào Long Bình, diệt kho bom đồi 53 làm bom đạn nổ mấy ngày liền. Địch phản
ứng dữ dội khắp nơi. Bộ đội sƣ đoàn 5 chủ lực của Miền không vào đƣợc thị xã
Biên Hòa, các lực lƣợng vũ trang ta không chiếm đƣợc các mục tiêu quan trọng:
sân bay, Tổng kho Long Bình, sở chỉ huy quân đoàn 3, tòa hành chánh, ty cảnh
sát,…
Ban đêm, địch choáng váng vì đòn bất ngờ. Sáng 3 Tết đã hoàn hồn, chúng
gom lực lƣợng phản kích. Bộ đội thƣơng vong nhiều, tình hình diễn biến không có
lợi cho ta, Bộ chỉ huy mặt trận Biên Hòa cho lệnh rút, ở nhà bà Hai Thai không
đƣợc, bèn rút qua lò gốm trƣờng Mỹ nghệ ở kế bên. Các anh trú trong khu lò nung
bỏ trống. Bộ phận thƣờng trực ngày Tết có mấy ngƣời: thày Ba Ngôn (Võ Thành
Ngôn) là trƣởng ban, thày Tƣ Dạng (Nguyễn Trí Dạng), anh Năm Thanh… Khi
súng nổ rầm trời thì chỉ còn anh Năm Thanh gác đan. Anh là dân kháng chiến cũ
huyện Vĩnh Cửu, quê ở miệt ven sông Đồng Nai. Khi anh em biệt động yêu cầu
giúp đỡ, anh nhận lời không chút đắn đo.
Xe tăng, thiết giáp địch chốt chặn các đƣợc phố. Lính bắt đầu lùng sục, truy
tìm cán binh Việt cộng. Một tốp vào trƣờng Mỹ nghệ đòi khám xét. Anh Năm
Thanh dẫn chúng đi coi một số phòng, tất cả đều trống vắng, chỉ có bàn ghế, đồ
đạc mà thôi. Gần đến nhà kho và lò nung, anh bình tĩnh nói với chúng: “Các ông
thấy đó, đến Tết thì trƣờng vắng hoe, chỉ còn mình tôi gác thôi; nhà kho phía sau
có một số vật liệu, máy móc, ông hiệu trƣởng đã cho niêm phong kỹ, bây giờ muốn
mở phải chờ ổng tới kẻo ổng rầy tôi phá niêm lấy đồ ở trỏng…”. Bọn lính nghe có
lý, bỏ đi. Anh Năm Thanh thở phào, trút đƣợc gánh nặng trong lồng ngực.
Chiều 4 Tết, chị Út Thu - cán bộ thị xã nhờ cu Đen (Lê Minh Tâm) - con bà
Bảy Vết ở ấp Lân Thành - dẫn số anh em này đi qua chợ Biên Hòa, vƣợt sông rút
chạy sang Hóa An về căn cứ.
Anh Ba Sơn (Nguyễn Thanh Sơn) - cán bộ thị xã - đƣợc đồng chí Ba Lễ chở
đến nhà cơ sở ở Lân Thành ngày 29 tháng chạp, hẹn sẽ gặp lại ngày 2 Tết ở Dốc
Sỏi. Khi súng nổ, anh đứt liên lạc. Anh tìm đến nhà chị Ba Bông (Nguyễn Thị
Bông) và chị Bì Thị Năm. Hai chị cùng quê Cù lao Phố, quen biết anh từ trƣớc.
(chị Ba Bông đi buôn bán ở Long Khánh, đƣợc móc nối, trở thành giao liên đƣờng
công khai cho cánh CZ1. Vài lần tham gia rải truyền đơn ở đƣờng Phan Đình
Phùng. Chồng chị Ba Bông là trƣởng toán nhân dân tự vệ khóm 5. Chị Bì Thị Năm
67
đi ở đợ, rồi bán bánh, dành dụm chút đỉnh, mua thuốc, khăn… gửi đến căn cứ
Hƣng Lộc).
Chiều tối mùng 3 Tết, chị Năm mƣợn xe đạp. Anh Ba Sơn chở chị từ Dốc
Sỏi xuống ấp Vĩnh Thị. Dọc đƣờng Phan Đình Phùng, đƣờng Hƣng Đạo Vƣơng có
nhiều tốp lính và cảnh sát chốt chặn. Qua mặt chúng, chị Năm ôm eo anh Ba Sơn
với vẻ âu yếm để địch khỏi xét hỏi. Anh đến nhà cơ sở Vĩnh Thị an toàn, rồi tìm
đƣờng bơi qua sông về Cù lao.
(Chồng chị Năm đƣợc một ngƣời quen thuật lại cảnh chị Năm ngồi xe đạp
đã nổi ghen, bỏ về Long Xuyên tới nay. Chồng chị Ba Bông cũng nghi vợ mèo
chuột nên gia đình xảy ra đánh lộn, đập phá đồ đạc. Hai chị không thể thanh minh,
âm thầm chịu đựng. Sự hy sinh tình riêng này rất cao cảm đáng trân trọng!)
Lẫn trong dòng ngƣời tản cƣ từ các xóm ấp ven nội ô vào chợ Biên Hòa có
anh Hai Dũng - cán bộ thị xã - một ngƣời quen móc nối, tính gửi anh vào nhà bà
Mƣời Hoa, nhƣng nhà bà toàn phụ nữ, ở không tiện và không an toàn nên bà gửi
anh qua nhà bà Sáu Vóc. Gia đình bà Sáu mở tiệm hớt tóc, có 10 ghế. Lúc anh Hai
Dũng tới, trong số khách hàng có cả cảnh sát. Một số thợ ra coi dân tản cƣ. Bà Sáu
vờ hỏi: “Anh hớt tóc phải không?”. Anh gật đầu. Bà dẫn anh vào ghế, đƣa tờ báo
cho anh coi. Sau đó bà đƣa anh lên lầu sau. Anh ở lại hai bữa, đƣợc anh Tƣ Để đón
về ở thêm mấy ngày. Khi tình hình tạm yên, anh Tƣ Để đƣa cho một bộ quần áo
sang trọng, anh mới móc nối liên lạc ra xe tìm đƣờng lên căn cứ Hƣng Lộc an toàn.
Anh Sáu A, cán bộ đội biệt động thị xã Biên Hòa, trúng đạn khi đánh vào sở
chỉ huy quân đoàn 3. Anh rút về xóm công ty vệ sinh gần ngã ba Máy cƣa vào nhà
cơ sở Châu Thị Ngọc Lai, giấu súng xuống giếng. Rồi anh đƣợc đƣa về nhà chị
Tôn Thị Nguyện ở hẻm hông trƣờng trung học Ngô Quyền. Gia đình chị chăm sóc
chu đáo, chị Cẩm Nhung hàng ngày tới chích, thay băng. Hơn một tuần sau vết
thƣơng lành, anh đƣợc giao liên đƣa về căn cứ Hƣng Lộc. Anh Vũ Kế (Vũ Khanh)
gửi một súng lục ở nhà ông Tƣ Nghìn mãi về sau mới về lấy.
Cô Võ Thị Kim Liên - con ông Năm Đĩ - ở đội phẫu thuật phân khu 4 đi
phục vụ chiến trƣờng Nam Thủ Đức dịp Tết Mậu Thân. Khi súng ta nổ, đồng bào
rất vui mừng, ủng hộ bộ đội đủ thứ. Bộ phận quân y của Liên đóng ở ấp Vuông Tre
(vùng bƣng sáu xã) làm nhiệm vụ sơ cứu rồi chuyển anh em về tuyến sau. Các đơn
vị chiến đấu ít bữa thì đƣợc lệnh rút ra. Đội phẫu đƣợc lệnh Bình Trƣớc, chuẩn bị
cho đợt hai. Tỷ lệ thƣơng vong của ta cao hơn dự kiến rất nhiều, nên số bông băng,
thuốc men.. không đủ. Hết thuốc sát trùng và thuốc đỏ, anh chị em phải dùng muối
tinh, hết muối tinh dùng muối ăn, rồi nƣớc chè (nƣớc sông nhiễm mặn) thay thế.
68
Hết gạc, nhờ dân mua mùng cắt thành dải băng bó, hết chỉ phẫu thuật phải dùng
dây dù…. Có ca mổ bàng quang hàng chục ngày trong điều kiện ấy mà không
nhiễm trùng, có ca bị trúng sọ não lủng tủy không chết… Thƣơng anh em vô cùng
nhƣng đội quân y không có cách nào làm giảm bớt đau đớn cho anh em, ngoài việc
chăm sóc ân cần, chu đáo, tình cảm. May nhờ dân ấp giúp gạo, thực phẩm nên cả
đội quân y mới làm việc đƣợc. Địch bắn pháo rất dữ vào vùng kênh, rạch sát ấp,
nơi đội đứng chân. Dân ngán sợ bom pháo rầm trời, nhất là chúng quy định: “nếu
mất cây cao (Việt cộng chặt làm hầm) hoặc chứa Việt cộng, chúng sẽ bắn 100 trái
pháo”. Khó khăn gian khổ không sao kể xiết! Chính trị viên đơn vị có biểu hiện
giao động. Đội trƣởng đội phẫu thuật bảo Kim Liên lấy lại bộ đồ mổ do anh ta giữ
và phải cảnh giác. Cả đơn vị chỉ có 13 ngàn đồng mua ghe và lu làm hầm ở vùng
đất sình lầy này.
Ngày 9 - 3 - 1968, một đơn vị của sƣ đoàn “Anh cả đỏ” Mỹ càn quét ấp
Vuông Tre. Chính trị viên nhảy ra chiêu hồi, dẫn lính đi Mỹ từng hầm bắt toàn bộ
đội phẫu thuật và số thƣơng binh kẹt lại. Vừa nhồm nhoàm nhai kẹo cao su Mỹ, y
vừa gọi loa một cách vô liêm sĩ: “Đầu hàng đi, Mỹ tốt lắm…”. (Cô Liên đƣợc trao
trả sau Hiệp định Paris tháng 1 - 1973).
Sau Tết Mậu Thân, anh Năm Cang (Lê Trung Cang) đƣợc tung về hoạt động
nội thành. Ông bà Năm Đĩ giấu anh trên gác gỗ. Ở bếp, ông làm một hầm bí mật
ngay sát cầu tiêu, cửa hầm ở gần bếp đƣợc nguỵ trang kỹ. Hầm cất giấu bàn in bột,
giấy mực, súng Colt… Một số cán bộ hoạt động nội thành nhƣ các anh chị Cẩm Y,
Cẩm Nhung, Xuyến, anh Năm Tuyền… thỉnh thoảng qua lại, trao đổi công tác với
Cang. Ông Bảy Đĩ còn mua giùm một căn nhà lá ở ấp Vĩnh Thị để cán bộ ta có chỗ
hoạt động. Lê Chí Hòa - em ruột của Cang - thỉnh thoảng chở chị Xuyến đi công
tác, đƣợc kết nạp đoàn.
(Cuối năm 1968, cánh CZ2 bị bể, đồng chí Năm Thắng bị bắt, địch vào xét
nhà ông Bảy Đĩ. Chúng trèo lên cả nóc nhà. Ông bị bắt về ty cảnh sát, nhƣng vì
không có chứng cứ nên chúng phải tha. Đầu năm 1969, do một học sinh bị bắt khai
báo, địch bắt anh Cang tại nhà ông y tá Ba Hoàng ở xóm Lò heo gần chợ Biên
Hòa. Anh bị đày đi Côn Đảo).
Nhóm đoàn viên và thanh niên của cô Thọ gồm: cô Thọ, anh Thành (con
ông Ba Chà), anh Bé, Tình… Tình là học sinh mới lớn, tham gia hoạt động mật,
làm tốt công việc đƣợc giao. Chƣa đƣợc giáo dục kỹ về công tác bí mật trong vùng
địch, chƣa nếm trải thử thách nên anh chị em có nhiều sơ hở. Một ngƣời làm gì hầu
nhƣ cả nhóm đều biết. Chuyện yêu đƣơng bồng bột của tuổi trẻ có lúc dẫn đến kết
cục đáng buồn. Tình phải lòng cô Thọ, “tấn công” liền mấy tháng: “Nếu chúng ta
69
cùng chung lý tƣởng thì phải chung cuộc đời”. Nhƣng cô không đáp lại nên anh ta
hăm: “Nếu Thọ không ƣng, sẽ có một số ngƣời của Thọ mất mát”. Tình cũng nói ý
đó cho Thành biết, với vẻ hậm hực.
Tên Sửu, cảnh sát chìm, ở cùng hẻm với ông Bảy Lịnh luôn rình mò nhằm
phát hiện lực lƣợng cách mạng (cán bộ thâm nhập và cơ sở tại chỗ). Một tối gần
cuối tháng 4 - 1968, anh Bé từ xóm Mả Tù khu 5 (phƣờng Quang Vinh ngày nay)
tới nhà Sửu, bắn một phát khiến y gục tại chỗ. Đạn kẹt, Bé phải rút lui. Y chỉ bị
thƣơng, đƣợc chở đi cấp cứu. Tình quen Sửu, vào thăm và cho biết ngƣời bắn. Y
báo ngay cho bọn an ninh không quân. Chúng bao vây xóm Mả Tù, bắt anh Bé,
cha con anh Thành. Chúng dúi một số tài liệu vào nhà ông Ba Chà để có thể kết tội
nặng hơn. Sau đó chúng quay ra tìm Thọ thì cô kịp chạy thoát (về tham gia kháng
chiến ở khu 9).
Chúng mang ba ngƣời về khai thác. Anh Bé bị đày đi Côn Đảo. Chúng đƣa
anh Thành đi các ngả đƣờng, nhận mặt cán bộ ta. Chiều 9 - 5 - 1968, chị Phƣơng
Dung từ Cù lao Phố đi Honda vừa lên dốc cầu Rạch Cát thị bị bọn chúng bắt. Đồng
thời chúng lục soát căn nhà chị mƣớn của ông Sáu Ngọ, phục kích bắt hai chị từ
Bình Dƣơng vừa đến đó. Xét giấy tờ, chúng dẫn chị về xét nhà anh Tƣ Để. Ba anh
nói: “Tôi cho nó (tức Phƣơng Dung) ăn đi học, nó bỏ nhà đi mất tiêu, tôi đuổi đi từ
lâu rồi”. Vợ anh Tƣ Để rất lo vì trong nhà có cái rƣơng sắt của Dung để ở nóc tủ.
Một lần chị vô tình thấy bên trong có súng lục, lựu đạn, máy chữ. May mà chúng
không lục soát tới. Do tinh thần kiên cƣờng chịu đựng của ngƣời nữ đảng viên trẻ
tuổi, tổn thất của chi bộ 5 cũng nhƣ cánh CZ2 không đáng kể vì chị không khai báo
gì.
Trƣờng trung học Ngô Quyền là trƣờng trung học công lập lớn nhất tỉnh,
thành lập năm 1956. Đến năm 1968 trƣờng có đủ hệ nhất cấp (cấp 2) và hệ nhị cấp
(cấp 3) gồm khoảng 40 lớp sáng và chiều gần 2.000 học sinh, với đội ngũ trên 100
thày cô giáo. Thị đoàn Biên Hòa phát triển đƣợc một số đoàn viên học sinh trong
trƣờng qua các năm học. Hoạt động của phong trào học sinh Ngô Quyền tƣơng đối
mạnh với các buổi văn nghệ, làm báo…truyền đơn của ta đƣợc rải nhiều lần ngay
tại trƣờng và vùng chung quanh. Hàng chục học sinh nòng cốt của trƣờng đã chuẩn
bị dẫn đƣờng cho bộ đội vào giải phóng Biên Hòa dịp tết Mậu Thân.
Sau đợt 1 tết Mậu Thân, ta quyết định mở đợt 2 “đánh bồi, đánh nhồi” đập
tan ý chí xâm lƣợc của đế quốc Mỹ, buộc chúng nghiêm chỉnh ngồi vào bàn hội
nghị Paris sắp mở. Thị xã Biên Hòa là một trong các trọng điểm của vùng Đông
Nam bộ. Ta đánh đợt 2 ở đây trong hoàn cảnh: có thuận lợi là các cơ sở nội ô
tƣơng đối nguyên vẹn nhƣng đã mất yếu tố bất ngờ, địch thay đổi kế hoạch phòng
70
thủ tuần tra canh gác chặt chẽ hơn, sƣ đoàn 5 chủ lực và lực lƣợng vũ trang U1
thiệt hại nặng (thƣơng vong hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ).
Để phối hợp với chiến trƣờng chung, ban cán sự CZ2 chỉ đạo bộ phận cán
bộ Đoàn thị xã phụ trách công tác học sinh sinh viên mở cuộc tuyên truyền vũ
trang tại trƣờng trung học Ngô Quyền. Phƣơng án đƣợc bàn bạc, nghiên cứu kỹ và
đƣợc thông qua.
2 giờ chiều 3 - 5 - 1968 bốn anh: Năm Tuyền, Trị, Châu, Dự đi hai xe Honda
tới trƣờng. Ngoài anh Năm Tuyền là cán bộ thoát ly, ba anh kia là học sinh.
Nguyễn Thành Trị, học sinh lớp 11, gác cửa phòng hiệu trƣởng và bứt dây điện
thoại. Dự gác ở chân cầu thang lên lầu. Anh Năm Tuyền lên lầu vào lớp 11. Thày
giáo đang dạy hết sức bất ngờ, đứng im cho một Việt cộng trẻ tuổi tuyên truyền và
phát truyền đơn. Châu vào một lớp 10 giữa giờ học tiếng Pháp. Anh phát truyền
đơn cho nữ sinh ngồi bàn đầu. Thày Vƣợng không kịp phản ứng gì. Anh sang lớp
kế bên, tiếp tục phát truyền đơn. Khi Châu xuống thang lầu, giáo sƣ Vƣợng chạy
theo định bắt. Châu nói nhanh với Dự: “Có ông thày đang chạy xuống!”. Dự móc
súng lục, hô to: “Đi lên! Đi lên! Đi lên!”. Ông Vƣợng la lớn: “Việt cộng tới!”. Lúc
này cả trƣờng ồn ào náo động nhƣ bày ong vỡ tổ. Anh Năm Tuyền nói chuyện hơi
dài ở một lớp nào đó. Học sinh các lớp ùa ra hành lang lầu và tầng trệt, háo hức tò
mò dòm mặt Việt cộng thứ thiệt bằng xƣơng bằng thịt, công khai về đây giữa ban
ngày. Các anh phát nốt số truyền đơn, lớn tiếng kêu gọi thày cô giáo và học sinh
ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc và bọn tay sai
Thiệu Kỳ bán nƣớc. Các anh bị đám đông tràn ngập. Anh Năm Tuyền giơ súng yêu
cầu anh chị em học sinh giãn ra. Cô giám thị Tƣ Giàu hỏi Trị: “Cái gì vậy?”. Châu
dúi vào tay cô tờ truyền đơn: “Em gửi cô!”. Anh Năm Tuyền tung cao mớ truyền
đơn vào đám đông. Hàng trăm cánh giơ lên đón bắt. Bốn anh ra xe, nổ máy vọt
thẳng trong sự bàng hoàng kinh ngạc của hàng ngàn học sinh và thày cô giáo
trƣờng trung học Ngô Quyền chiều hôm đó.
Ông Tám Lạc (Nguyễn Văn Lạc) quê xã Mỹ Lộc - Tân Uyên. Trƣớc Cách
mạng Tháng Tám 1945, ông là nhân viên sở kho bạc Sài Gòn. Cuối năm 1945, ông
tham gia tiếp tế cho bộ đội Tám Nghệ. Pháp đánh chiếm chiến khu Đ, ông chạy ra
Phan Thiết, làm nhân viên tài vụ E.82 Bình Thuận, rồi làm trƣởng ban tài chánh
Ủy ban kháng chiến hành chánh Bình Thuận. Ông vào Đảng Cộng sản năm 1947.
Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hòa xin ông về, cử làm trƣởng phòng
chính trị. Khi sáp nhập Thủ Biên, ông làm trƣởng ban II văn phòng Huyện ủy
huyện Đồng Nai.
71
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, ông ở lại hoạt động ở Biên Hòa, Thủ Dầu
Một, Sài Gòn. Đứt liên lạc từ năm 1959, ông phải trốn tránh lùng sục của địch.
Năm 1963, ông về cất nhà ở hẻm chợ Kỷ niệm. Gia đình ông là ngƣời Nam duy
nhất, chung quanh là dân di cƣ. Trƣớc mặt nhà ông, có viên lục sự toà án. Gần đó
có một cảnh sát và hai công an truy tầm. Hai tên này đôi lúc khoe với ông: đi bố
ráp ở đâu, bắt ai, họ khai ra sao…
Một ngƣời quen ông giới thiệu ông với ngân hàng tƣ nhân Nam Đô. Do tính
chăm chỉ và tinh thông nghiệp vụ, ông đƣợc cử làm quyền giám đốc chi nhánh
Biên Hòa. Ông đƣợc vay tiền sửa nhà cửa khang trang, để tạo uy tín cho ngân
hàng, chủ cho xe hơi đón rƣớc hàng ngày.
Tháng 4 - 1968, đồng chí Năm Trị, Bí thƣ U1, nhờ chị Tƣ Huyền, cán bộ
huyện Long Thành, đƣa thƣ cho ông Tám Lạc. Thƣ giới thiệu anh Tƣ Minh với
ông: tôi có chú Tƣ là bà con sắp về chỗ anh làm ăn mong đƣợc anh hết sức giúp
đỡ… Sau đó không lâu, vào một bữa chiều tối, chị Tƣ Huyền dẫn anh về. Anh Tƣ
Minh có vẻ mặt và tác phong nhƣ “các chú” (ngƣời Tàu), đeo kiếng sậm màu, có
thể dễ dàng hòa trộn vào đám đông dân thƣờng, địch khó phát hiện. Anh bàn bạc
với ông Tám Lạc, rồi đào một hầm bí mật ở góc sân, dƣới cây bông giấy, đàn gà
thƣờng bƣơi đất kiếm ăn (hầm này chƣa dùng lần nào). Anh đề nghị với ông bà mở
tiệm bán gạo. Từ đó, xe gạo, phu khuân vác, khách hàng tấp nập ra vô hẻm nhỏ,
anh dễ trà trộn, tới lui an toàn.
Chị Chín Liêm, cán bộ cánh CZ2, giới thiệu anh Tƣ Minh với anh Tƣ Để. Lá
thƣ viết cuối tháng 9 - 1968 dƣới dạng trao đổi làm ăn: “Tôi làm xong cho ông hai
con đội để cảo xe, quá hạn đã ba tháng, tôi gia hạn một tháng, nếu ông không đến
lấy, tôi sẽ bán để thu hồi vốn”. Bữa anh Tƣ Minh đến, anh Tƣ Để đi vắng. Ông già
anh Tƣ Để nói: “Chờ con tôi”. Khi các anh gặp nhau, anh Tƣ Để nhận cộng tác với
anh Tƣ Minh.
Anh Tƣ Minh còn phát triển cơ sở vào gia đình bà Lƣơng Thị Xuyến, em
ruột đồng chí Lƣơng Văn Nho. Chồng bà là liệt sĩ hy sinh ở Long Thành.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, bà Xuyến và em gái là Lƣơng Thị Mãn -
chồng là ông Tám Lạc - về ở quê mẹ tại thị xã Biên Hòa. Cò Hƣơng nắm đƣợc
đồng chí Lƣơng Văn Nho có hai em gái sống ở đây song không tìm ra địa chỉ vì cả
hai đều thay tên đổi họ. Từ hai bàn tay trắng, bà Xuyến làm ăn tần tảo, nuôi con.
Năm 1965, đơn vị hậu cần Quân khu miền Đông Nam bộ móc nối, bà Xuyến nhận
lời tiếp tế cho đơn vị, bề ngoài phao tin đi thầu quân nhu cho lính Sài Gòn.
72
Xe chở gạo, xăng dầu, thuốc… thƣờng đổ hàng ở quãng cây số 125 Quốc lộ
20 quận Định Quán. Lái xe là ngƣời tin cậy, chủ động xử lý mọi tình huống. Lúc
xe đi thì gắn biển số giả, lúc về gắn biển số thật. Bữa nào xe gặp lính Mỹ ngụy
hành quân ở quãng đổ hàng thì anh lái xe làm hỏng hóc cái gì đó, vờ tích cực sửa
chữa, kỳ thực kéo dài thời gian. Sắp sụp mặt trời, lính rút thì xe tới chỗ đổ hàng.
Bộ đội ra nhận xong thì xe chạy lên Đà Lạt mua rau chở về bán ở chợ Biên Hòa
hay Sài Gòn. Xe tải đi trƣớc, bà Xuyến đi xe du lịch phía sau nhận tiền. Một số lần,
con gái lớn Phan Thị Ngọc Mai đi thay mẹ giao hàng, nhận tiền.
Một lần hàng vừa đổ xong ở nơi định trƣớc thì có kẻ ngầm báo cho địch. Xe
bà về tới ngã ba Dầu Giây, bị cảnh sát chặn xét. Chúng hỏi: “Tiền cất đâu?”. Và
xét bóp của bà. Trong đó chỉ có ít tiền lẻ, còn tiền bán hàng bà giấu trong cốp xe.
Lừa lúc chúng mải tranh cãi, bà lén nuốt thƣ mật. Chúng đƣa bà về ty cảnh sát
Biên Hòa tiếp tục truy hỏi, song không có bằng cớ, phải tha.
Từ sau tết Mậu Thân, địch phản kích mạnh. Chúng liên tiếp mở các chiến
dịch bình định “ven đô”, “cấp tốc”, “nhổ cỏ” đẩy lui các lực lƣợng vũ trang ta ra xa
các đô thị, thị trấn, đƣờng giao thông quan trọng. Tình hình phong trào cách mạng
U1 hết sức khó khăn. Đây là thời điểm thử thách, sàng lọc quan trọng đội ngũ ta.
Một số kẻ chịu đựng không nổi đã đầu hàng địch. Ngày 20 tháng chạp (27 - 1 -
1970) một tên chiêu hồi dẫn cảnh sát đặc biệt về bắt bà tại nhà. Chúng đƣa lên
giam ở một biệt thự lịch sự ở Chợ Lớn, đối xử niềm nở tử tế. Chúng lấy ra một bản
đánh máy, đọc cho bà nghe lý lịch và các hành động tỉ mỉ của bà. Mới đầu bà
không nhận gì hết, nhƣng trƣớc các chứng cứ cụ thể, bà không thể chối cãi việc
buôn bán với cách mạng. Bà lý luận: “tôi đi buôn để kiếm lời ngƣời ta cần mua
nhiều mà có lời nhiều là tôi làm”. Chúng bắt bà đi gặp, kêu ông Nho tức Nhã về
chiêu hồi “Chính phủ quốc gia, có thƣởng lớn”. chúng đƣa ra một giỏ xách tới 2
triệu đồng (quãng 100 cây vàng) “tạm ứng”. Bà không nhận: “Tôi và anh tôi không
gặp nhau hơn một chục năm nay. Ổng sẽ bắn tôi chết…”. Giam giữ ít ngày, chúng
tha bà về, tiếp tục theo dõi. Bà cho con gái Phan Thị Ngọc Mai đi thay. Bà giúp mở
một tiệm thợ may ở một hẻm khóm 4 làm trạm quân báo, thu thập tin tức sân bay
Biên Hòa.
Anh Tƣ Minh thỉnh thoảng về nhà bà. Nhà này toàn đàn bà, con nít, chồng
chị Mai là “lính kiểng”, nên chúng không sục vô lần nào. Mỗi khi lính và cảnh sát
vào hẻm, một đứa nhỏ lại bắc thang cho anh Tƣ Minh leo lên laphông tạm ẩn
tránh. Anh gửi bà một súng ngắn, bà đem chôn ở sau nhà (sau giải phóng, chị Mai
đào lên, nộp cho công an thành phố Biên Hòa),
73
Năm 1971, địch bắt bà Xuyến lần thứ ba, giam ở Thủ Đức. Chúng tra tấn bà
rất dã man. Mật bà bị dập, nội tạng thƣơng tổn nặng nên gần Tết, chúng tha về. Gia
đình chở bà xuống bệnh viện Cơ đốc Sài Gòn mổ, các bác sĩ cho biết không chữa
đƣợc. Bà qua đời ngày 10 tháng 1 âm lịch Nhâm Tý (24 - 2 - 1972).
Bà Ba Bằng (Nguyễn Thị Bằng) là ngƣời tốt, từng tham gia kháng chiến
chống Pháp lúc còn là thiếu nhi ở ngoài Bắc. Theo chồng di cƣ vào Nam, năm
1958 bà về sống ở khu 5 thị xã Biên Hòa (nay thuộc phƣờng Quang Vinh). Năm
1960 chị Hằng là cán bộ gặp bà. Chị tổ chức bà thành cơ sở, đến ở cùng. Năm
1961, do sơ suất, chị làm cháy nhà bà, phải lánh đi nơi khác. Cảnh sát điều tra, cho
là bà chứa cộng sản, để ý theo dõi. Bà lên Hƣng Lộc làm rẫy. Chồng bà lái xe ủi,
chuyên làm đƣờng giao thông, sân bay cho các nhà thầu, ba bốn tháng mới ghé
thăm gia đình ít bữa. Sống trong ấp chiến lƣợc bị kềm kẹp tù túng, chỉ khi vào rẫy,
xa vài km, bà mới thấy thoải mái. Năm 1964, hai cán bộ thị xã Biên Hòa đƣợc cử
lên khu rừng Hƣng Lộc lập căn cứ mới cho Thị ủy. Các anh gặp bà, tuyên truyền
giáo dục. Năm 1965, khi cơ quan Thị ủy chuyển lên Hƣng Lộc thì bà đƣợc gặp các
đồng chí Ba Lễ, Ba Sơn, Bảy Hoàng, Ba Tùng, Năm Hòa…
Qua trao đổi, chuyện trò, Thị ủy Biên Hòa thử thách, giao bà làm nhiệm vụ
giao liên đi công khai hợp pháp từ Hƣng Lộc về nội ô Biên Hòa. Chồng bà là
ngƣời vui tính, chuyện trò hơi nhiều, thiếu kín đáo, nên một số lần lãnh đạo thị xã
gặp nhƣng không đƣợc giao việc gì.
Ta có một cơ sở nội tuyến là chị Cúc (bí danh là Thi Hà) làm nhân viên ở toà
hành chánh tỉnh. Chị là vợ một đƣợc đại uý ta. Bà Ba Bằng đƣợc cử về móc nối,
với tinh thần cảnh giác cao, chị chƣa vội nhận ngay. Qua ba lần gặp gỡ, bà Bằng
đƣa ra ƣớc hiệu là một nửa tờ giấy bạc, chị Cúc cũng lấy ra một nửa tờ, ráp lại vừa
khít, lúc đó chị mới tin thật sự. Chị giao hẹn: “Tôi chỉ tiếp xúc với một mình bà
thôi” (để tránh bị vỡ tổ chức khi địch phát hiện). Từ đó chị liên tục trao cho bà các
tài liệu lấy ở toà hành chánh. Tài liệu đƣợc nhét trong gói bánh. Đồng chí Ba Lễ
dùng tài liệu này để chuẩn bị tƣ tƣởng cho số cán bộ, chiến sĩ thị xã Biên Hòa khi
đụng đầu với quân Mỹ và chƣ hầu.
Một số lần bà mang truyền đơn từ căn cứ Hƣng Lộc về nội ô. Truyền đơn
giấu trong bí đỏ, một cần xé có hai ba trái đầy “nhân”. Mỗi tháng ít nhất có ba
chuyến đi công tác bằng tiền túi. Lúc đó cách mạng rất nghèo, không có tiền chi
cho những công việc nhƣ vậy, cơ sở phải tự lo lấy hết: Lo kiếm sống cho gia đình,
lo tiếp tế cho anh em, lo đi hoạt động… Các hy sinh tuy nhỏ bé, thầm lặng khó
thống kê cho hết.
74
Bọn chỉ điểm và bình định nông thôn (áo đen) ở ấp chiến lƣợc Hƣng Lộc ghi
bà tiếp tế cho Việt cộng trong mật khu. Hai lần chúng chặn xét ngang đƣờng, xét
bà, không thấy gì hết ngoài quần áo lao động, lon cơm, can nƣớc uống… Để “trị”
bọn này, bà chuẩn bị bọc quần áo lót dơ. Lần thứ ba, mở quang gánh, chúng gặp
mấy thứ mất vệ sinh, hôi hám, từ đó chúng thôi không khám xét nữa. Lính sƣ đoàn
8 đi càn, vào rẫy thấy bà là dân Bắc di cƣ, không chú ý.
Rừng Hƣng Lộc ở sát xã đồi 61, cách đƣờng xe lửa 2km là nơi cƣ trú đóng
nhiều đơn vị: Thị ủy Biên Hòa, bộ đội đặc công U1, du kích xã Hƣng Lộc… Việc
tiếp tế lƣơng thực nhiều khi khó khăn do địch chốt chặn các ngã ra vào. Bà Ba
Bằng vận động một số dân ấp chiến lƣợc - trong đó có vợ con lính - bán gạo, thực
phẩm cho ta, có lãi hơn bán ở chợ. Em Nguyễn Thị Hải - con gái bà - hơn mƣời
tuổi, cho gạo vào vớ, giấu trong ngƣời để tiếp tế cho mấy chú đằng mình.
Tháng 9 - 1968, bà đƣợc Thị ủy giao nhiệm vụ chuyển một số súng đạn, lựu
đạn, thuốc nổ… vào nội ô. Bà gánh số vũ khí từ rừng về nhà ở ấp chiến lƣợc Hƣng
Lộc rồi xếp xuống đáy hai cần xé lớn; để ngụy trang, phía trên xếp bao than và hoa
quả. Cùng đi “chuyến này” có chị Ba Bông, song chị không hay biết gì. Hai cần xé
xuống ở gần nhà hàng Hạnh Phƣớc, bà đón xe lam chở sang Cù lao Phố (Hiệp
Hòa). Bà đang có bầu, hai cần xé lại nặng, nên rất lúng túng khi chất hàng lên. Một
viên cảnh sát đứng gần đó thấy thế, nói: “Tôi giúp dì, nhƣng phải cho tôi mấy trái”.
Bà hơi hoảng, song tƣơng kế tựu kế, đồng ý ngay: “Cậu chất giùm tôi, mấy trái
nhằm nhò gì…”. Số vũ khí tới nhà bà Bảy Hoa - cơ sở Hiệp Hòa - an toàn, đƣợc
chuyển ngay cho chi bộ xã này.
Sau đợt này bà đƣợc kết nạp Đảng tại căn cứ Thị ủy Hƣng Lộc. Cuối năm
1968, bà đƣợc chỉ đạo về mua nhà ở nội ô Biên Hòa. Để sinh nhai, bà nấu cơm
tháng cho một số lính không quân. Chị Năm Quý và chị Tƣ ở Bửu Hòa cùng một
số anh em khác đôi lúc lui tới. Bà đứt liên lạc từ sau Hiệp định Paris.
Nixon lên làm tổng thống Mỹ, thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến
tranh”, thực chất là dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt bằng tiền bạc, vũ khí Mỹ, do
Mỹ chỉ huy. Mỹ hy vọng sẽ rút dần quân Mỹ về nƣớc mà vẫn giành thế mạnh trên
chiến trƣờng để cuối cùng kết thúc chiến tranh bằng thƣơng lƣợng theo điều kiện
có lợi cho Mỹ.
Vào các năm 1970 - 1971, tình hình chung ở thị xã Biên Hòa rất khó khăn.
Địch kiểm soát gắt gao hơn trƣớc. Theo lệnh Võ Hải Triều - xã trƣởng Bình Trƣớc
- khu trƣởng khu 4 là Cam (Võ Tấn Ánh) tổ chức lục soát, bắt lính ráo riết. Đàn
ông từ 17 đến 50 phải vào nhân dân tự vệ, đêm đêm vác súng canh tuần. Ai không
75
đi gác phải nộp tiền thế: ngƣời nghèo thì dăm bảy trăm, ngƣời khá giả thì nộp
nhiều hơn. Số tiền này phần lớn chui vào túi Cam, một phần nạp lên cho các đàn
anh. Thực hiện chiến dịch “Phƣợng Hoàng”, tên Nai - công an chìm - có vỏ bọc
làm nghề xe ngựa, theo dõi chặt những ai thuộc diện “sổ đen”. Y tham gia lùng
sục, rình bắt những ngƣời tình nghi. Thanh niên trong lứa tuổi quân dịch không
muốn chết uổng mạng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa “thay đổi màu da của xác
chết” ra sức trốn lính. Có nhà đóng vách hai ngăn hoặc làm tủ cho anh em trốn khi
cảnh sát ruồng. Hơn một chục thanh niên cạo đầu ở chùa Thanh Long giả đi tu…
Nhân viên công sở và giáo chức trƣờng học bị úp bộ vào đảng Dân chủ của Thiệu.
Một cô giáo hỏi: “Vào đảng Dân chủ có bắt buộc không?”. Một đồng nghiệp trả lời
tƣng tửng: “Không bắt buộc, nhƣng không vào “đảng” thì nằm ở ty cảnh sát!”. Cô
giáo Tuyết hỏi bà Mƣời Hoa: “Mình đi theo giải phóng, vào đảng của Thiệu thì
sao?”. Bà trả lời: “Ăn thua ở mình, mình ghi tên nhƣng lòng mình không theo, có
sao đâu!”.
Số cán bộ, đảng viên còn lại rất ít. Các cơ sở tạm lắng vì thiếu chỉ đạo.
Phong trào nội ô chỉ lâm râm đôi nơi, quy mô nhỏ bé. Bà Mƣời Hoa, chị Xuyến
kiên trì tổ chức một số thanh niên tốt, con em gia đình cách mạng nhƣ: cô Tuyết,
Cúc, Cát Thảo, Hoa, Chi, Lan… Chị Diệp Thị Nguyệt - cán bộ T.7 tăng cƣờng -
cũng xây dựng đƣợc một số cơ sở học sinh trƣờng trung học Ngô Quyền. Các chị
chỉ đạo số nòng cốt thâm nhập vào Ban chấp hành hiệu đoàn học sinh, nắm các học
sinh, sinh hoạt: làm báo tƣờng, báo Xuân…. từ đó khuấy động tinh thần chống
quân sự hóa học đƣờng, đấu tranh lai rai không tập quân sự, tổ chức cắm trại “Đêm
không ngủ”, “Hát cho đồng bào tôi nghe”… Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng
10 - 1971, một số bích chƣơng cổ động cho liên danh “dân chủ” của Thiệu - Kỳ
dán ở gần trƣờng học bị học sinh vạch thêm nét, đọc thành liên danh “dân chửi”.
Nữ sinh Huỳnh Thị Kim trƣờng Minh Tân bị lính bắt cóc, hãm hiếp chết. Cán bộ ta
kịp thời tổ chức một cuộc đấu tranh sôi nổi của học sinh và đông đảo cha mẹ các
em, vạch trần tội ác của Mỹ ngụy thức tỉnh tinh thần dân tộc của bà con khu 4 cũng
nhƣ toàn nội ô.
Một bữa, một tên cảnh sát chìm tới nhà anh Tƣ Dạng - thày giáo trƣờng Mỹ
nghệ - ở xóm Miễu ấp Lân Thành. Y dò la, định bắt anh Đạt, cán bộ mật, đóng vai
thợ - con gái anh Tƣ Dạng vội chạy lên trƣờng Mỹ nghệ báo cho thày Ba Ngôn
(Võ Văn Ngôn) - phụ trách lò. Thày xuống, rất thản nhiên hỏi Đạt: “Mày đã in mấy
tƣợng Phật chƣa?”. Anh trả lời: “Dạ, anh Tƣ (Dạng) bảo sơn giùm mấy thứ”. Anh
Ba cắt ngang: “Không đƣợc, phải làm liền, chiều ngƣời ta lấy”. Anh quay qua anh
Tƣ Dạng bảo kiếm đồ nhậu bƣng lên, mời tên cảnh sát. Anh Đạt xuống bếp rồi tìm
76
đƣờng nhanh chóng thoát đi nơi khác. Tên cảnh sát say sƣa ra về, quên cả việc “thi
hành công vụ”.
Hiệp định Paris ký ngày 27 - 1 - 1973 nhƣng hòa bình chƣa thực sự trở lại.
quân Mỹ rút về nƣớc, song vẫn còn hàng chục ngàn tên ở lại dƣới danh nghĩa “cố
vấn”, “chuyên viên”… Ta không có ảo tƣởng địch sẽ nghiêm chỉnh thi hành các
điều đã ký kết, do đó tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ. Để phát triển phong trào nội ô,
các cán bộ thị xã Biên Hòa - từ Bí thƣ Thị ủy trở xuống - đều lấy giấy tờ hợp pháp
để ra vào Bình Trƣớc bằng con đƣờng hợp pháp và nửa hợp pháp. Chị Ba Định
(Nguyễn Thị Định) về liên lạc với anh Tƣ Để. Tài liệu, truyền đơn về Hiệp định
Paris đƣợc nhét trong trái bí, đu đủ, bánh tét… qua mặt lính và cảnh sát an toàn.
Anh Tƣ Minh viết thƣ yêu cầu anh Tƣ Để làm hầm bí mật, song anh kiên quyết
chối từ vì nếu lộ hầm bí mật thì cơ sở sẽ tổn thất, mà gia đình anh đã có kinh
nghiệm đối phó với địch.
Anh Tƣ Để là cơ sở của ban an ninh thị xã, phát triển chân rết vào anh em
ruột Lâm Văn Kim (bí số H.50) và Tƣ Đắc (bí số A.2) nắm tình hình nội ô báo cáo
ra ngoài kịp thời. Võ Tấn Ánh - trƣởng khu 4 kiêm Chủ tịch đảng Dân chủ khu A
xã Bình Trƣớc - rất mẫn cán “úp bộ” nhiều ngƣời vào “tổ chức của tổng thống
Thiệu”. Ai chƣa chịu vào, Ánh ghi sổ đen, báo cáo lên xã. Xã trƣởng Võ Hải Triều
sai cuộc cảnh sát sƣu tra lý lịch xem có ngƣời thân thuộc tham gia cách mạng
không. Cán bộ ta chỉ đạo để anh Tƣ Để ly gián địch bằng cách gửi bản cảnh cáo
tên ác ôn nầy cho tên khác. Ta cảnh cáo Ánh, buộc y hủy danh sách 90 ngƣời bị
ghi tên vào đảng Dân chủ của Thiệu. Ánh sợ uy thế cách mạng, không gửi nên bị
thanh trừng. Tên Hữu lên thay. Ánh buồn bã khóc lóc vì mất chức, anh Tƣ Để an
ủi: “Thôi đừng luyến tiếc nữa, tôi mừng anh còn đƣợc sống với mẹ và vợ con”.
Theo tinh thần lời văn Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau những
ngƣời bị bắt. Nhƣng Thiệu rất ngoan cố, chỉ đạo cấp dƣới thay đổi danh sách, đánh
tráo tù, phân tán họ đi các nơi khác để không trao trả.
Ông Nguyễn Kim Cúc bị tù ở Côn Đảo, đấu tranh không chịu nhận là tù
thƣờng an, bị chúng đánh chết ngày 2 - 5 - 1973.
Cảnh sát Biên Hòa đem hơn ba chục anh em tù tàn phế, phần lớn phải bò lết
chứ không đi đƣợc, bỏ ở chùa Thanh Long. Ni sƣ Huệ Hƣơng và những ngƣời tu
hành chăm sóc, cho ăn uống tử tế. Các cơ sở ta biết tin, cùng với các nhà từ thiện
tổ chức quyên góp gạo tiền, quần áo “của ít, lòng nhiều” xoa dịu bớt đau thƣơng
của anh em. Dòng ngƣời đến thăm đông nghẹt, cảnh sát canh gác ngặt. Trà trộn
vào số ngƣời đến thăm, ông Bảy Đĩ tìm cách tiếp xúc với anh em quen Cang - con
77
ông. Các anh trao cho ông một số tài liệu, cha con ông giao cho chị Xuyến để gửi
ra căn cứ.
Anh Lê Trung Cang và nhiều ngƣời đƣợc đƣa từ Côn Đảo về trại giam ở
suối Săng Máu. Một đêm tháng 5 - 1974, bốn anh: Phạm Chánh Trực (cán bộ
Thành đoàn Sài Gòn), hai xã đội trƣởng Nguyễn Bùi, Nguyễn Tấn Ngọc và Lê
Trung Cang vƣợt rào trốn thoát. Bà con huyện Vĩnh Cửu nuôi giấu các anh ít bữa.
Thị ủy Biên Hòa tổ chức đón các anh về căn cứ Bàu Hàm. Anh Cang tiếp tục công
tác. Ngày 14 - 9 - 1974 (28 tháng 7 Giáp Dần) địch càn căn cứ Bàu Hàm, anh hy
sinh vì lính biệt kích bắn.
Tháng 8 - 1974, anh Phục - giao liên - bị bắt ở Phƣớc Thọ. Anh ta dẫn công
an đến tận nhà, bắt ông bà Bảy Đĩ. Tại trung tâm thẩm vấn C.3, chúng tra tấn, hỏi
kỹ về anh Cang. Ông Bảy trả lời: “Con tôi bị mấy ông bắt đi Côn Sơn từ lâu”.
Hỏi: “Ông tiếp xúc với con ông thế nào?”. Trả lời: “Tôi tiếp xúc hợp pháp, lúc con
tôi bị giam ở Chí Hòa, nó đi Côn Sơn thì chỉ có thƣ từ”. Hỏi: “Gởi đồ tiếp tế thế
nào?”. Trả lời: “Gởi đồ vì tình cha con”. Hỏi: “Gởi ai?”. Ông Bảy trỏ Phục: “Gởi
ông này”. Quanh quẩn hỏi và trả lời nhƣ vậy, một thời gian sau chúng tha ông về.
Ngày 11 - 12 - 1974, anh Mƣời Dẹo ở Bình Sơn (Long Thành) bị bắt, khai ra
ba ngƣời: ông Năm Hợp, ông Trần Văn Châu, bà Bùi Thị Giẫm (vợ ông Sáu A).
gia đình ông Năm Hợp chạy tiền, nhờ đại tá Công ở quân đoàn 3 bảo lãnh nên
đƣợc tha ngay. Bà Giẫm bị giam ở Thủ Đức, ông Châu ở Chí Hòa. Một mặt ông
đút tiền cho công an, một mặt ông mƣớn luật sƣ cãi cho hai ngƣời. Do ăn tiền và
thiếu chứng cứ, nên chúng thả hai ngƣời ngày 8 - 1 - 1975.
Từ tháng 3 - 1975, chế độ Thiệu sụp đổ nhanh chóng. Anh Tƣ Minh chỉ đạo
Tƣ Để (A.1) theo dõi đài Hà Nội, đài giải phóng, đọc báo Tin Sáng, nắm chắc tình
hình, chủ động công tác. Anh Tƣ Để ghi tin đọc chậm về chính sách đối với vùng
giải phóng, chính sách khoan hồng đối với binh sĩ Sài Gòn… Anh phân công A.2
(Tƣ Đắc) phụ trách khu Tân Thành, Bửu Long vận động ngƣời thân quen bỏ ngũ,
anh H.50 (Kim) vận động nghĩa quân chốt cầu Mƣơng Sao rã ngũ. Càng gần đến
ngày giải phóng, bọn chóp bu bỏ chạy trƣớc, cấp dƣới mặc cho nhân viên, binh
lính tùy nghi di tản.
Ngày 18 - 4, địch mất Xuân Lộc. Ngày 23 - 4, sân bay Biên Hòa bị pháo ta
uy hiếp, máy bay địch di tản về sân bay Tân Sơn Nhất và Trà Nóc. Lãnh sự quán
Mỹ cuốn gói. Ngày 26 - 4, Bộ tƣ lệnh quân đoàn 3 (ngụy) về Gò Vấp. Lính và
cảnh sát Biên Hòa hoảng loạn.
78
Ngày 27 - 4, anh Bảy Ngàn và Chín Ra đƣợc lệnh đi xe máy lên Hố Nai đón
bộ đội. Không thấy, các anh quay về, tạt vào sở chỉ huy quân đoàn hoang vắng, lấy
một chai rƣợu và hai chai bia tới cổng 2 sân bay, các anh thấy lính chờ xe về Sài
Gòn. Các anh đi thẳng lên Tân Triều đón bà Mƣời Hoa.
Các ngày 28, 29 dân lũ lƣợt kéo về Sài Gòn. Không công sở nào làm việc.
Nét mặt những ngƣời có dính dáng đến chế độ Sài Gòn đƣợm vẻ lo âu. Nhà cửa
dọc quốc lộ 1 và các phố chính đóng cửa im ỉm. Một số lƣu manh thừa cơ bẻ trộm
khoá vơ vét của cải nhà vắng chủ. Suốt mấy đêm ngày này, ì ầm tiếng súng lớn
nhỏ quanh thị xã. Đêm đến xe tăng đi lại gầm gừ. Không khí chung căng thẳng
ngột ngạt. Cơ sở ta mừng trong lòng song không tỏ ra nét mặt.
Bà Mƣời Hoa cử anh Tƣ Để, Bảy Ngàn và cô Tuyết đến gặp ông Hai Thành
để lập Ủy ban khởi nghĩa khu 4 song vì dè dặt, ông chần chừ.
Đêm 29 và sáng 30, các đoàn xe chở bộ đội nhƣ nƣớc lũ tràn vào nội ô Biên
Hòa. Cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng treo trên toà hành chánh tỉnh, ngã ba
Kỷ niệm và một số nơi. Cửa các nhà mới đầu hé mở, sau mở rộng. Dân đổ ra hai
bên hè phố hân hoan đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng quê hƣơng.
Một cuộc sống mới bắt đầu diễn ra. Lịch sử đất nƣớc cũng nhƣ thành phố Biên
Hòa, trong đó có khu 4 bƣớc sang một trang mới.
Ngay trong ngày 30 - 4 - 1975, số cán bộ kháng chiến cũ: Hai Thành, Ba
Cẩm, Ba Đức, Bảy Ngàn, Chín Nghị, Út Hạnh trao đổi việc lập chính quyền cách
mạng. Ngày 2 - 5, các ông bà trên lên Ủy ban quân quản tỉnh Biên Hòa gặp ông
Năm Trang, Bí thƣ Tỉnh ủy kiêm Phó chủ tịch Ủy ban quân quản. Ông Năm Trang
nói: “Các đồng chí về cứ làm”. Ông viết giấy giới thiệu năm ngƣời về khu 4 còn
ông Ba Đức thì giới thiệu về khu 3 (phƣờng Quyết Thắng bây giờ).
Cả xã Bình Trƣớc lúc này có hàng chục ngàn lính và nhân viên, công chức
chế độ cũ rã ngũ tại chỗ. Súng đạn, quân trang địch quăng vứt bừa bãi các đƣờng
phố. Hàng ngàn lƣu manh trộm cƣớp, gái điếm, xì ke… tụ tập ở Dốc Sỏi, ga Biên
Hòa, Ngã Ba Thành, hẻm Lôi Hổ Vƣờn Mít. Cƣ dân khu 4 có 15.475 ngƣời thì có
tới 90% hộ gia đình có dính dáng đến chế độ cũ.
Để ổn định tình hình, Tỉnh ủy Biên Hòa và Ủy ban quân quản tỉnh chỉ đạo
gấp rút lập bộ máy chính quyền cơ sở. Ngày 17 - 5 - 1975, Ủy ban quân quản tỉnh
quyết định thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời khu 4 gồm: Chủ tịch
Hai Thành, Phó chủ tịch Ba Cẩm, Ủy viên thƣ ký Tƣ (làm bánh mỳ, sau Tƣ đi học
cải tạo thì bà Nguyễn Thị Cảnh thay), Ủy viên quân sự Chín Nghị, phụ trách an
79
ninh Tám Chích (Nguyễn Minh Ngọc), phụ trách thƣơng binh chị Út Hạnh (tháng
5 - 1976 giao lại cho Bảy Ngàn).
Ban nhân dân khóm hình thành. Khóm 1 gồm các ông Tƣ Trác, Tƣ Sen,
Nghiễn. Khóm 2 gồm Bảy Ngàn, Cần, Chƣ. Khóm 3 gồm Khuyên, Xê. Khóm 4
gồm Thuận, Phú, Chín Quang. Khóm 5 gồm Lâm, Ngân, Chín Minh (Cai). Khóm
6 gồm Ân, Bảy Lịnh, Sang. (Năm 1976, khóm 2 nhập với khóm 3, phƣờng còn 5
khóm. Nhƣng gần đây lại thêm khóm mới ở A.42 nên phƣờng lại có 6 ban dân
phố).
Đầu năm 1976, tỉnh Đồng Nai chính thức thành lập thì khu 4 đổi thành
phƣờng Trung Dũng, địa danh này đƣợc khai sinh kể từ đó.
80
KẾT LUẬN
Nhân dân Việt Nam ta có truyền thống cao quý: dựng nƣớc và giữ nƣớc. Là
con cháu của những bậc tiên phong đi mở cõi, tạo dựng một vùng đất mới cho Tổ
quốc, ngƣời dân phƣờng Trung Dũng luôn luôn tiềm ẩn lòng yêu nƣớc biểu hiện
bằng hành động lao động cần cù, từng ngƣời, từng nhà đổ mồ hôi trên luống cày,
nhát búa… làm cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Kíp đến khi có giặc xâm
lăng thì mọi ngƣời sẵn sàng đáp lời kêu gọi “quốc gia hƣng vong, thất phu hữu
trách”.
Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, phƣờng Trung Dũng liên tục là vùng
địch chiếm, là vùng địch kềm chặt. So sánh tƣơng quan lực lƣợng, chúng ta thấy
địch bao giờ cũng mạnh hơn ta tuyệt đối. Chúng có súng đạn tối tân, xe tăng, máy
bay… đủ loại. Bộ máy kềm kẹp của chúng tổ chức rất chặt chẽ, tƣởng nhƣ không
có gì có thể chống đối nổi. Chúng đổ vào vô số của cải vật chất với âm mƣu sâu xa
“tranh thủ trái tim, khối óc của dân”. Luận điệu tuyên truyền phản động của chúng
công khai phát suốt ngày đêm. Chúng đã dùng tất cả mọi thủ đoạn từ tàn bạo nhất
đến nham hiểm nhất, song không lừa gạt đƣợc mấy ngƣời. Số kẻ ở địa bàn phƣờng
Trung Dũng táng tận lƣơng tâm làm tay sai cho giặc có thể đếm trên đầu ngón tay.
Ngƣời dân phƣờng Trung Dũng, dù là gốc gác cố cựu hoặc đến vào các thời
điểm sau này, dù có phải làm việc cho chế độ cũ vì miếng cơm manh áo, dù có bị
giặc ép buộc cầm súng chống lại cách mạng đều hiểu rõ bản chất xâm lƣợc là phi
nghĩa, thật tâm chống lại nhân dân là tội lỗi - không thể tha thứ.
Chƣa từng đƣợc gặp Bác Hồ nhƣng ngƣời dân phƣờng Trung Dũng vẫn tin
tƣởng vào Ngƣời, tin tƣởng vào Chính phủ kháng chiến, tin vào Đảng do Ngƣời
sáng lập và lãnh đạo. Tin vào Bác Hồ và Đảng, ngƣời dân phƣờng Trung Dũng
cũng tin vào đội ngũ lãnh đạo cách mạng và hiểu rằng anh em hy sinh, chịu đựng
gian khổ vì lý tƣởng cao quý: độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Dân tin Đảng
nên dám chứa chấp, nuôi giấu, ủng hộ giúp đỡ cán bộ Đảng mà không nề gƣơm
súng, nhà tù, chết chóc do địch gây ra. Cán bộ Đảng hoạt động đƣợc là nhờ sự che
chở, đùm bọc của những cơ sở và dân thƣờng trong vùng địch kềm chặt. Trên địa
bàn phƣờng Trung Dũng có tới 90% gia đình có dính dáng ít nhiều với chế độ Sài
Gòn cũ, thế mà cán bộ ta vẫn hoạt động đƣợc, đó chính là lòng yêu nƣớc đã thúc
đẩy mỗi ngƣời dân vùng kềm chở che cho các anh chị. Dân tin Đảng, Đảng cũng
tin dân, đó là hai vế của quá trình chiến đấu gian khổ với kẻ thù mạnh hơn ta gấp
bội.
81
Dân tin Đảng, Đảng tin dân, điều đó góp phần vào chiến thắng vĩ đại của
dân tộc. Ngày nay, trong hoàn cảnh xây dựng hòa bình, tình hình đã thay đổi, Cán
bộ, đảng viên trong phƣờng phải đi sát dân, nắm bắt tâm tƣ nguyện vọng của dân,
xóa bỏ tác phong quan cách, vì dân mà làm việc, thiết thực mang lại lợi ích cho
dân, đổi mới cách nhìn đối với dân. “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”.
Bài học ở các nƣớc Đông Âu cách nay trên dƣới mƣời năm còn nóng hổi.
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ lòng tin của dân. Muốn đƣa phƣờng đi lên, cuộc
sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, Đảng bộ phƣờng cần tạo đƣợc lòng tin của dân.
Đó là việc khó nhƣng chúng ta nhất định làm đƣợc.
82
PHỤ LỤC
I. CÁC LIỆT SĨ
1 Huỳnh Văn Bạc
2 Nguyễn Văn Báo
3 Võ Văn Bừng
4 Nguyễn Phạm Bƣơng
5 Lê Trung Cang
6 Nguyễn Kim Cúc
7 Huỳnh Văn Đắc
8 Trịnh Đức
9 Lê Văn Hải
10 Phạm Văn Hoằng
11 Ngô Văn Hồng
12 Nguyễn Khắc Khoan
13 Lê Anh Việt
14 Hồ Văn Lèo
15 Lê Tấn Lợi
16 Trần Trọng Nhạc
17 Bạch Văn Nhân
18 Lê Thị Nhời
19 Huỳnh Trọng Nghĩa
20 Nguyễn Văn Oanh
21 Nguyễn Văn Quang
22 Ngô Văn Rồng
23 Huỳnh Xuân Sanh
24 Phạm Văn Sáu
25 Nguyễn Văn Tàng
26 Nguyễn Văn Thạch
27 Trƣơng Văn Thạch
28 Nguyễn Văn Thành
29 Phạm Thành Tiền
30 Phan Quý Toàn
31 Nguyễn Văn Truy
83
32 Lƣ Văn Vân
33 Lƣơng Thị Xuyến.
II. CÁC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
1. Bà Lƣơng Thị Thìn
2. Bà Nguyễn Thị Én
3. Bà Võ Thị Liếu
III. ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN:
Đại tá Trần Công An
VI. CÁC THƯƠNG BINH:
1. Nguyễn Văn Ba
2. Nguyễn Công Bằng
3. Hồng Văn Đoàn
4. Nguyễn Hùng
5. Đào Văn Khế
6. Phan Bình Minh
7. Nguyễn Công Tòng
V. NHỮNG GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1. Đoàn Văn Ân
2. Nguyễn Thị Bằng
3. Nguyễn Thị Cậy
4. Nguyễn Thị Dục
5. Tống Thị Đắng
84
6. Lê Văn Đĩ
7. Nguyễn Thị Khéo
8. Châu Thị Ngọc Lại
9. Đoàn Văn Minh
10. Lê Văn Ngàn
11. Nguyễn Viết Nghìn
12. Trần Thị Nhị
13. Nguyễn Văn Sen
14. Nguyễn Thanh Sơn
15. Nguyễn Thị Thai
16. Trần Xuân Thời
17. Nguyễn Thị Thơm
18. Lê Thƣơng
19. Đỗ Thị Thƣờng
20. Quang Văn Út
21. Nguyễn Thị Xế
VI. ĐƯỢC TẶNG BẰNG CÓ CÔNG VỚI NƯỚC:
Ông Nguyễn Khắc Pha.
VII. ĐƯỢC TẶNG THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG, HUY CHƯƠNG KHÁNG CHIẾN CÁC LOẠI:
1. Nguyễn Thị Chuyên
2. Nguyễn Thị Xế
85
3. Đoàn Thị Minh
4. Lê Văn Đĩ và Trần Thị Hớn
5. Hồ Văn Ngôn
6. Nguyễn Văn Lịnh
7. Phạm Văn Cẩn
8. Nguyễn Thị Bằng
9. Trần Minh Châu
10. Quang Văn Út – Nguyễn Thị Khép
11. Nguyễn Thị Hạnh
12. Dƣơng Văn Bồi
13. Nguyễn Văn Lạc
14. Lâm Văn Để
15. Nguyễn Khắc Pha
16. Nguyễn Thị Hiếu
17. Nguyễn Thanh Sơn
18. Nguyễn Thị Thai
19. Đỗ Thị Thƣờng
20. Tống Thị Đáng
21. Trần Xuân Thới
22. Đoàn Văn Ân
23. Trần Văn Sang
86
24. Nguyễn Thị Cậy
25. Lê Thƣơng
26. Lê Văn Ngàn
27. Nguyễn Văn Hợp
28. Võ Thành Ngôn
29. Nguyễn Thị Thơm
30. Phạm Kim Long
31. Nguyễn Văn Sử
32. Châu Thị Ngọc Lai
33. Lâm Văn Kim
34. Nguyễn Viết Nghìn
35. Trần Thị Thiệt
36. Lƣu Văn Lê
37. Lƣu Thoại Lang
38. Nguyễn Thị Cấn
39. Lâm Thị Năm
40. Huỳnh Văn Hoa
41. Nguyễn Văn Danh
42. Vũ Văn Mƣu
87
CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG PHƯỜNG TRUNG DŨNG
- Năm 1976: Thành lập chi bộ lâm thời (có 11 đảng viên)
1. Đồng chí Hoàng Thanh – Bí thƣ
2. Đồng chí Huỳnh Văn Danh – Bí thƣ (thay đồng chí Thanh đi học)
- Năm 1979: Đại hội chi bộ (có 17 đảng viên)
1. Đồng chí Vũ Văn Liên – Bí thƣ
2. Đồng chí Nguyễn Văn Mạnh – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Võ Kiên – Ủy viên
4. Đồng chí Dƣơng Hổ - Ủy viên
5. Đồng chí Nguyễn Văn Hƣơng – Ủy viên
- Năm 1982: Đại hội Đảng bộ (có 31 đảng viên)
1. Đồng chí Nguyễn Văn Mạnh – Bí thƣ
2. Đồng chí Vũ Đình Lầu – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Võ Đình Ba – Ủy viên thƣờng vụ
4. Đồng chí Lê Vƣơng Ngọ - Ủy viên
5. Đồng chí Lê Thị Lý – Ủy viên
6. Đồng chí Lê Đình Trình – Ủy viên
7. Đồng chí Võ Kiên – Ủy viên
8. Đồng chí Hoàng Thị Nghên – Ủy viên
9. Đồng chí Nguyễn Thị Bảy – Ủy viên
Năm 1986: Đại hội Đảng bộ (có 52 đảng viên)
88
1. Đồng chí Nguyễn Văn Thính - Bí thƣ
2. Đồng chí Lê Thị Lý - Phó bí thƣ
3. Đồng chí Bạch Văn Điểu - Phó bí thƣ
4. Đồng chí Đào Công Kép - Ủy viên Thƣờng vụ
5. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Ủy viên Thƣờng vụ
6. Đồng chí Lê Văn Võ - Ủy viên
7. Đồng chí Lâm Sơn Cao - Ủy viên
8. Đồng chí Phạm Thị Tuyết - Ủy viên
9. Đồng chí Hoàng Hữu Bá - Ủy viên
10. Đồng chí Lê Đình Trình - Ủy viên
11. Đồng chí Nguyễn Công Bằng - Ủy viên
12. Đồng chí Nguyễn Thị Bảy - Ủy viên
13. Đồng chí Phạm Thị Danh – Ủy viên
Năm 1988: Đại hội Đảng bộ (có 53 đảng viên)
1. Đồng chí Lê Thị Lý – Bí thƣ
2. Đồng chí Bạch Văn Hiền – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Đào Công Kép – Ủy viên Thƣờng vụ
4. Đồng chí Trần Gia Cát – Ủy viên
5. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Ủy viên
6. Đồng chí Phan Thị Thu Hà – Ủy viên
7. Đồng chí Phạm Văn Phi – Ủy viên
89
8. Đồng chí Lâm Sơn Cao – Ủy viên
9. Đồng chí Đỗ Thị Lan – Ủy viên
Năm 1992: Đại hội Đảng bộ (có 123 đảng viên)
1. Đồng chí Vũ Đình Phùng – Bí thƣ
2. Đồng chí Bạch Văn Hiền – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Phan Thị Thu Hà – Ủy viên Thƣờng vụ
4. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Ủy viên
5. Đồng chí Lâm Sơn Cao – Ủy viên
6. Đồng chí Phạm Văn Phi – Ủy viên
7. Đồng chí Lê Thị Lý – Ủy viên
8. Đồng chí Đỗ Thị Lan – Ủy viên
9. Đồng chí Phạm Thị Tuyết – Ủy viên
Năm 1994: Đại hội Đảng bộ (có 185 đảng viên)
1. Đồng chí Vũ Đình Phùng – Bí thƣ
2. Đồng chí Bạch Văn Hiền – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Phan Thị Thu Hà – Ủy viên Thƣờng vụ
4. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Ủy viên
5. Đồng chí Lâm Sơn Cao – Ủy viên
6. Đồng chí Nguyễn Ngọc Ánh – Ủy viên
7. Đồng chí Phạm Văn Phi – Ủy viên
8. Đồng chí Hồ Văn Hùng – Ủy viên
90
9. Đồng chí Đặng Ngọc Tiến – Ủy viên
Năm 1996 - 2000: Đại hội Đảng bộ (có 212 đảng viên)
1. Đồng chí Vũ Đình Phùng – Bí thƣ
2. Đồng chí Phạm Thị Tuyết – Phó bí thƣ
3. Đồng chí Đặng Minh Hân – Ủy viên Thƣờng vụ
4. Đồng chí Nguyễn Ngọc Ánh – Ủy viên
5. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Ủy viên
6. Đồng chí Hồ Văn Hùng – Ủy viên
7. Đồng chí Phạm Văn Phi – Ủy viên
8. Đồng chí Đỗ Xuân Nhƣơng – Ủy viên
9. Đồng chí Đặng Ngọc Tiến – Ủy viên
10. Đồng chí Đỗ Thị Lan – Ủy viên
11. Đồng chí Phan Thị Thu Hà – Ủy viên
Ghi chú: Đồng chí Phan Thị Thu Hà, Đồng chí Lê Văn Kỷ chuyển đi, bầu
bổ sung Ban Chấp hành 2 đồng chí:
1. Đồng chí Nho Văn Khánh.
2. Đồng chí Trƣơng Thị Phụng
91
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................................ 3
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 4
KHÁI QUÁT VỀ PHƯỜNG TRUNG DŨNG THÀNH PHỐ BIÊN HÒA ............................... 4
PHẦN THỨ NHẤT ...................................................................................................................... 19
PHƯỜNG TRUNG DŨNG THỜI KHÁNG CHIẾN CHÍN NĂM .......................................... 19
PHẦN THỨ NHÌ .......................................................................................................................... 47
PHƯỜNG TRUNG DŨNG TRONG THỜI KỲ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ......................... 47
KẾT LUẬN ................................................................................................................................... 80
PHỤ LỤC ...................................................................................................................................... 82
I. CÁC LIỆT SĨ ..................................................................................................................... 82
II. CÁC BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG ................................................................................ 83
III. ANH HÙNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN: ..................................................... 83
VI. CÁC THƢƠNG BINH: ........................................................................................................ 83
V. NHỮNG GIA ĐÌNH VÀ CÁ NHÂN CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG ................................. 83
VI. ĐƢỢC TẶNG BẰNG CÓ CÔNG VỚI NƢỚC: .................................................................. 84
VII. ĐƢỢC TẶNG THƢỞNG HUÂN CHƢƠNG, HUY CHƢƠNG KHÁNG CHIẾN CÁC LOẠI:
................................................................................................................................................... 84
CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG PHƢỜNG TRUNG DŨNG ............................................................ 87
92
PHƢỜNG TRUNG DŨNG HAI THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
ĐẢNG UỶ PHƢỜNG TRUNG DŨNG
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
-----------------------------------------------------------------------------------
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc Huỳnh Văn Tới
Tổng Biên tập: Đặng Tấn Hƣớng
Biên tập: Trần Thu Hằng
Bìa &Trình bày: Phú Trang
Sửa bản in: Y.T
----------------------------------------------------------------------------
In: 1.000 bản, khổ 13cmx19cm
In tại: Xƣởng in Chi nhánh NXB Giao thông vận tải.
Số đăng ký KHXB: 07 Ct-209/CXB
Cục xuất bản cấp ngày: 20/03/1999
Quyết định xuất bản số: 713 ngày 29/12/1999
In xong và nộp lƣu chiểu tháng 1 năm 2000.
-----------------------------------------------------------------------------------------
Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, số 4 Nguyễn Trãi, Tp Biên Hòa – Đồng
Nai
Điện thọai: (061) 822613- Ban Biên tập: (061) 825892
Ban Giám đốc: (061) 847884, Fax: 061.840031
EMAIL: [email protected]