luẬn Án tiẾn sĨ vĂn hỌc - hueuni.edu.vn · thuyết triết học, cũng vừa là một...

182
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN HỒNG DŨNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HU- 2016

Upload: others

Post on 29-May-2020

10 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

    ĐẠI HỌC HUẾ

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

    NGUYỄN HỒNG DŨNG

    ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

    ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM

    TỪ 1986 ĐẾN 2010

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

    HUẾ - 2016

  • BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

    ĐẠI HỌC HUẾ

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

    NGUYỄN HỒNG DŨNG

    ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

    ĐỐI VỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM

    TỪ 1986 ĐẾN 2010

    Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

    Mã số: 62.22.01.21

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

    Người hướng dẫn khoa học:

    1. PGS.TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

    2. PGS.TS. NGUYỄN THÀNH

    HUẾ, 2016

  • LỜI CAM ĐOAN

    Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

    Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác

    cao nhất có thể. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ

    ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của

    mình.

    Huế, tháng 3 năm 2016

    Tác giả

    Nguyễn Hồng Dũng

  • DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

    Nhà xuất bản: Nxb Tạp chí: T/c

  • MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

    1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 2

    3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 2

    4. Đóng góp khoa học của luận án .................................................................. 3

    5. Cấu trúc luận án ......................................................................................... 3

    NỘI DUNG ................................................................................................... 4

    Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................ 4

    1.1. Các công trình dịch, biên soạn từ tài liệu nước ngoài ............................... 4

    1.2. Các công trình nghiên cứu, phê bình ở trong nước ................................ 15

    Chương 2. TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN

    HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010 ...................................................... 26

    2.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hậu hiện đại .................................................... 26

    2.1.1. Những điều kiện hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại ..................... 26

    2.1.2. Các quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại ........................................... 42

    2.2. Tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam .................... 48

    2.2.1. Tiếp nhận và ứng dụng trong nghiên cứu – phê bình .......................... 51

    2.2.2. Tiếp nhận và ứng dụng trong sáng tác ................................................ 59

    Chương 3. TƯ DUY NGHỆ THUẬT HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU

    THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010 – NHÌN TỪ QUAN NIỆM

    NGHỆ THUẬT, TÂM THỨC SÁNG TẠO VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT . 64

    3.1. Quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết...................................................... 64

    3.1.1. Tiểu thuyết với quan niệm “trò chơi văn học” .................................... 64

    3.1.2. Tiểu thuyết với quan niệm “giải thiêng nghệ thuật” ............................ 69

    3.2. Tâm thức sáng tạo của nhà văn .............................................................. 76

    3.2.1. Tâm thức sáng tạo của nhà văn với bản thể dân tộc ............................ 77

  • 3.2.2. Tâm thức sáng tạo của nhà văn trước thực tại ..................................... 86

    3.3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết ........................................................ 91

    3.3.1.Vấn đề kiểu loại nhân vật .................................................................... 91

    3.3.2. Những biến đổi khái niệm nhân vật ................................................... 95

    Chương 4. TƯ DUY NGHỆ THUẬT HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU

    THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010 – NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC

    THỂ HIỆN ................................................................................................ 106

    4.1. Đa dạng hóa hình thức truyện kể và tự sự đa điểm nhìn ....................... 106

    4.1.1. Đa dạng hóa hình thức truyện kể ...................................................... 106

    4.1.2. Tự sự đa điểm nhìn ........................................................................... 115

    4.2. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép và dung hợp, đan cài thể loại ................. 120

    4.2.1. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép ............................................................ 121

    4.2.2. Sự dung hợp, đan cài thể loại ............................................................ 128

    4.3. Cách tân ngôn ngữ ............................................................................... 133

    4.3.1. Ngôn ngữ mảnh vỡ ........................................................................... 133

    4.3.2. Ngôn ngữ giễu nhại .......................................................................... 137

    KẾT LUẬN ............................................................................................... 147

    DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

    QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 151

    TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 152

    PHỤ LỤC

  • 1

    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, trên thế giới, trong giới khoa học nói

    chung và giới văn học nói riêng, có một khái niệm, tuy chưa có được một cách hiểu thống nhất, nhưng lại được sử dụng và bàn đến nhiều nhất, đó là khái niệm “chủ nghĩa hậu hiện đại” (postmodernism). Chủ nghĩa hậu hiện đại gần như đã trở thành tinh thần của thời đại mới, vượt qua thời hiện đại và được gọi là thời “hậu hiện đại” hay “kỷ nguyên hậu hiện đại”. Chủ nghĩa hậu hiện đại vừa được xem là một chủ thuyết triết học, cũng vừa là một phong trào xã hội được áp dụng vào hầu khắp các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo... Trong văn học, các nhà nghiên cứu đã xây dựng nên một hệ thống lý thuyết hậu hiện đại, một mặt, được dùng để áp dụng vào việc nghiên cứu tác phẩm, được sử dụng làm tiêu chí phân loại và định dạng tác phẩm; mặt khác, được sử dụng để cụ thể hoá quá trình nhận thức luận về tinh thần văn học hậu hiện đại.

    Như vậy, hậu hiện đại là một cách gọi để chỉ về một sự vận động, mà sự vận động đó đang tạo nên một hệ hình tư duy mới, có nhiệm vụ thay thế cho hệ hình tư duy hiện đại đã không còn phù hợp, kể cả trong kinh tế, chính trị và trong văn hóa tinh thần. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa hậu hiện đại đang còn rất mới, chỉ được chính thức thừa nhận từ những thập niên 60 (thế kỷ XX) đến nay. Không ai biết được tường tận những gì sẽ xảy ra trong tương lai để hình dung cụ thể hơn về hiện tại, để xác lập lại các nguyên tắc, các điều kiện có tính định hướng cho một con người, cho một xã hội và tổng thể xã hội mang tính toàn nhân loại. Chủ nghĩa hậu hiện đại, trong những khả năng và giới hạn của nó, sẽ góp phần giải quyết những vấn đề quá phức tạp này.

    Ở Việt Nam, lý thuyết văn học hậu hiện đại ngày càng được quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng vào đời sống văn học, từ hoạt động của nhà nghiên cứu đến sáng tạo của người nghệ sĩ. Thực tiễn những năm qua mà khoa học văn học cũng như lĩnh vực sáng tác đã đạt được, đã chứng minh tính khoa học, tính khách quan và tính chân lý của chủ nghĩa hậu hiện đại. Dưới tác động của lý thuyết văn học hậu hiện đại, chúng ta không chỉ phát hiện và thừa nhận những giá trị sáng tạo của những nhà văn đương đại, mà còn có cơ sở lý luận để nhận thức lại, đánh giá lại những kết quả đã qua, kể cả trong sáng tác và trong nghiên cứu.

  • 2

    Việc vận dụng lý thuyết văn học hậu hiện đại vào nghiên cứu những sáng tác của các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã có những chuyển động và những thay đổi thực sự, cả nội dung và hình thức. Tinh thần hậu hiện đại đã soi chiếu vào tư duy tiểu thuyết, có thể nói đã tạo nên một sự biến đổi lớn lao ở thể loại này. Qua thời gian, những sáng tác của các nhà tiểu thuyết Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Đặng Thân, Châu Diên, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư… đã được xã hội thừa nhận. Có một sự thật hiển nhiên được nhận thức trong giới văn học là không thể viết như trước được nữa, nếu như muốn có người đọc. Về cơ bản, những thành tựu mà tiểu thuyết đạt được là nhờ sự tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo quan niệm nhận thức, kinh nghiệm viết hậu hiện đại của các nhà văn Việt Nam. Đây chính là lý do chính để chúng tôi lựa chọn đề tài luận án Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, nhằm góp phần khẳng định những giá trị thực sự của bộ phận tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu hiện đại. Trên cơ sở nghiên cứu có tham khảo tư liệu của những người cùng thời, chúng tôi muốn tạo dựng một cái nhìn toàn cảnh về sự hình thành và từng bước phát triển của tiểu thuyết theo xu hướng này.

    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam

    từ 1986 đến 2010. Tuy nhiên, do yêu cầu của đề tài nên chỉ tập trung ở những tiểu thuyết mang sắc thái, dấu ấn hậu hiện đại.

    - Phạm vi nghiên cứu: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu về những ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010.

    3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu

    chính: - Phương pháp lịch sử - loại hình: dùng để khảo sát sự hình thành và vận động

    của lý thuyết hậu hiện đại, đặc trưng và các quan niệm riêng của các nhà lý luận trong các lĩnh vực triết học, văn hóa, văn học, nghệ thuật.

    - Phương pháp cấu trúc - hệ thống: dùng để tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống các khuynh hướng triết học như Hiện tượng luận – Tường giải học; Cấu trúc luận – Giải cấu trúc luận. Các tiểu thuyết có dấu ấn hậu hiện đại Việt Nam cũng được nghiên cứu qua phương pháp này.

  • 3

    - Phương pháp liên ngành văn hóa – văn học: dùng để khảo sát quá trình hình thành chủ nghĩa hậu hiện đại (điều kiện triết học, kinh tế – xã hội, văn hóa – nghệ thuật) và nghiên cứu đặc thù lịch sử, văn hóa, văn học dân tộc trong tiểu thuyết theo xu hướng hậu hiện đại Việt Nam.

    - Phương pháp so sánh – đối chiếu: dùng để nghiên cứu những tương đồng và riêng biệt trong tư duy nghệ thuật của các nhà tiểu thuyết theo xu hướng hậu hiện đại Việt Nam.

    4. Đóng góp khoa học của luận án Luận án trình bày những vấn đề chính của tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến

    2010, sự phát triển của khuynh hướng tiểu thuyết gắn với chủ nghĩa hậu hiện đại, góp phần cung cấp một số kiến thức cơ bản để có một cái nhìn tổng thể về tiểu thuyết Việt Nam những năm này.

    Luận án có thể được xem là một trong những công trình đầu tiên, tương đối có hệ thống nghiên cứu về ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại, những mặt tích cực và những hạn chế của chủ thuyết này đem lại.

    Luận án hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, học tập, nghiên cứu về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện đại.

    5. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

    án được triển khai trong 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam từ 1986

    đến 2010 Chương 3. Tư duy nghệ thuật hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986

    đến 2010 – nhìn từ quan niệm nghệ thuật, tâm thức sáng tạo và thế giới nhân vật Chương 4. Tư duy nghệ thuật hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986

    đến 2010 – nhìn từ phương thức biểu hiện

  • 4

    NỘI DUNG Chương 1

    TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

    Lịch sử hậu hiện đại (từ những luận thuyết đề xuất ban đầu cho đến những luận điểm mở rộng, bổ sung và chuyên sâu về sau), gắn với các điểm nhận thức cơ bản:

    - Chủ nghĩa hậu hiện đại là một lý thuyết phổ biến nhưng cũng hết sức phức tạp của tư tưởng thế giới đương đại. Lý thuyết này không giới hạn trong phạm vi triết học hay văn hóa, văn học nghệ thuật mà được áp dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Vì vậy, phải có được cái nhìn toàn cảnh về hậu hiện đại mới có thể hiểu được về văn học hậu hiện đại.

    - Chủ nghĩa hậu hiện đại, được khởi phát từ phương Tây, trước hết cần xem xét nó là một hình thái phát triển xã hội, sau đó mới được khai triển ở các lĩnh vực cụ thể.

    - Chủ nghĩa hậu hiện đại, theo quy luật, được hình thành trong lòng chủ nghĩa hiện đại, là bước phát triển cao hơn chủ nghĩa hiện đại, là khái niệm chỉ mối tổng hòa các hình thái xã hội. Cũng theo quy luật, chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện sớm nhất ở những quốc gia phát triển – đó là thế giới Phương Tây. Bởi vậy, hầu hết những công trình nghiên cứu lý thuyết hậu hiện đại đều được xây dựng bởi các học giả Phương Tây, như: J. Derrida, M. Foucault, J. Lyotard, M. Ponty, J. Lacan, D. Lodge, F. Jameson, J. Baudrillard, D. Fokkema, I. Hassan, S. Jencks, R. Rorty…

    1.1. Các công trình dịch, biên soạn từ tài liệu nước ngoài Các công trình thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật Trong những năm từ 1975 đến gần cuối thế kỷ XX, cánh cửa hướng về phía

    nền lý luận phương Tây vẫn bị đóng kín, hoạt động dịch, giới thiệu, xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học xã hội – nhân văn của khu vực này ở Việt Nam là hết sức hạn chế. Vì vậy, đa phần giới nghiên cứu Việt Nam vẫn không thể hình dung được những điều gì đã và đang diễn ra trong các xã hội bên ngoài. Tính chất trì trệ này có thể giải thích được, một phần là do thiếu sự giao lưu, nhưng chính yếu là vẫn dựa vào và ỷ lại những tri thức từ phía Liên Xô, xem tri thức từ phía phương Tây là xa lạ và không phù hợp. Quanh quẩn với những khái niệm, thuật ngữ, nguyên lý truyền thống, hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam rơi vào ngõ cụt.

  • 5

    Cuộc tranh luận về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một minh chứng buồn về thực tế này. Phe phản đối thì dùng “đôi mắt cũ” để soi vào một hiện tượng mới, vẫn sử dụng phương pháp xã hội học dung tục để phê bình. Phe ủng hộ thì nhìn chung vẫn phê bình cảm tính, ca ngợi cái tài, cái hay, cái mới của nhà văn nhưng không biết rõ căn nguyên tư tưởng nghệ thuật của nhà văn từ đâu mà có. Tính chất mâu thuẫn trong tranh luận đã bộc lộ sự lạc hậu của tư duy lý luận văn học lúc bấy giờ.

    Ở cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp có một bài viết rất đáng chú ý: Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? của G. Lockhart (người Úc), in trên Tạp chí Văn học, số 4,1989, được in lại trong sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Bài viết này rất kịp thời, tính gợi ý và tính ý hướng của nó rất cao, nhưng lại không được quan tâm đúng mức, đặc biệt là về mặt thuật ngữ. Lockhart đã đặt vấn đề: “Cái mới của Nguyễn Huy Thiệp là ở chỗ nào?” và đã lý giải: “ Cuối thế kỷ này thế giới có nhiều thay đổi về chính trị, kinh tế, văn hóa rất phức tạp. Những thay đổi, phủ nhận ký ức của quá khứ, và vì thế ta tìm thấy sự xuất hiện của nhiều xu hướng văn học, sử học mới […] Và ở Việt Nam ta có truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Đây là những phương pháp biểu hiện cuộc sống trên thế giới cuối thế kỷ này. Tức là, đây là hiện tượng văn học chúng ta gọi “hậu hiện đại chủ nghĩa” (postmodernism)” [78, tr.113-114]. Thuật ngữ “hậu hiện đại chủ nghĩa” mà Lockhart dùng lúc bấy giờ đã không được chú ý, nhưng giờ đây có thể xem là sự khởi đầu cho một khuynh hướng văn học mới ở Việt Nam, cả trong sáng tác và trong nghiên cứu, phê bình.

    Sau bài viết của Lockhart, phải đến năm 1991, mới có một bản dịch về văn học hậu hiện đại được công bố. Đó là tiểu luận Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của Antonio Blach (Nguyễn Trung Đức dịch), in trên Tạp chí Văn học, số 5. Tiểu luận này bước đầu đã đem đến cho người đọc cách hiểu về một số đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại và tiểu thuyết hậu hiện đại, như biểu hiện thế giới trong “tính phức tạp và phiến diện”, “xóa nhòa ranh giới giữa không gian của nghệ thuật và không gian của kỹ thuật, giữa ý thức và vô thức, giữa hiện thực và ma quái”, “khuynh hướng hướng tới sự tự ngắm vuốt” (về sau được sử dụng phổ biến hơn bởi các từ “tự chiêm nghiệm”, “sự tự mỹ”), “một ngôn ngữ tự ám thị”, “một thái độ khôi hài” (sự giễu nhại)… Blach nhận xét văn học hậu hiện đại là “đầy sinh lực và khát vọng”, nó trả lại cho văn chương tính bản nguyên không lệ thuộc vào

  • 6

    duy lý. Ông cho rằng văn học hậu hiện đại: “ là kết quả của sự đề kháng trước những cơ chế chính trị vô cùng hùng hậu, trước sự đam mê của các nền văn hóa được quy chuẩn hóa, trước các quy chuẩn hóa của ngôn ngữ” [9, tr.411].

    Từ sau bài viết của A.Blach, lại kéo dài một khoảng trống đáng tiếc trong việc dịch thuật, giới thiệu về chủ nghĩa hậu hiện đại. Phải 6 năm sau, năm 1997, trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5, mới có bài tiểu luận Về chủ nghĩa hậu hiện đại của Jonh Verhaar (Lộc Phương Thủy dịch). Theo Verhaar, quan niệm về tồn tại của chủ nghĩa hậu hiện đại gắn với “sự mỉa mai” và “xu hướng tự do” [9. tr.361]. Năm 1998, trên Tạp chí Văn học nước ngoài, số 6, có bài viết Những giới hạn của phạm trù tác giả trong văn học hậu hiện đại của Viliam Marcok (Lại Nguyên Ân dịch). Bài viết của V.Marcok đã lý giải phạm trù tác giả theo trục lịch đại với các quan niệm về tác giả (người tạo ra văn bản). V.Marcok chỉ ra những vết rạn của nhận thức truyền thống, khi những quan điểm về nhận thức, phản ánh của nghệ thuật bị lung lay bởi “tính không tương hợp của trần thuật với thế giới thực”, tính liên văn bản dẫn đến tình trạng “cái chết của tác giả” (R.Barthes) – một cách diễn tả về sự biến mất “những ảo tưởng về sự hồn nhiên của tác giả”. Từ những tiền đề dẫn dắt đó, ông đã chỉ ra những hệ quả về phạm trù tác giả ở chủ nghĩa hậu hiện đại với sáu đặc trưng, và đi đến kết luận: “Tác giả hậu hiện đại trong không gian văn học mới – liên văn bản – nay trở thành kẻ trung gian (moderator) đầy mỉa mai giữa những văn bản của người khác và những văn bản của chính mình, hoặc trở thành phù thủy – sáng tạo của quá trình sáng tác bất tận của chúng” [87, tr.221].

    Chủ nghĩa hậu hiện đại chỉ thực sự được quan tâm, dịch, giới thiệu để phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu ở Việt Nam là từ năm 2000 trở đi. Vào năm 2000, trên Tạp chí Thơ, số Mùa Xuân (xuất bản ở Mỹ bằng tiếng Việt) đã trích in công trình Lý thuyết văn chương hậu hiện đại của Niall Lucy (Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch), phần I Văn chương và ngưỡng cửa đầu, phần II Diễn dịch là sáng chế. Đây là công trình có giá trị học thuật cao, tác giả đã lý giải sâu sắc một số vấn đề cơ bản của văn học hậu hiện đại: định nghĩa văn học hậu hiện đại, sự phân biệt nghệ thuật với khoa học (qua sự tranh biện với Lyotard), nghệ thuật với hiện thực (phân tích quan niệm của Barthes và Hassan), văn học và lý thuyết trò chơi (phân tích công trình Cấu trúc, Ký hiệu và Trò chơi của Derrida).

  • 7

    Năm 2003, công trình có tính kinh điển Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20 do I.P.Ilin và E.A.Tzurganova chủ biên (những người dịch: Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân) được Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành. Bộ sách được viết cô đọng, đúc kết những nội dung chính của học thuật phương Tây thế kỷ XX, thông qua việc hệ thống các khái niệm và thuật ngữ. Phần Chủ nghĩa hậu hiện đại, sau khi trình bày những nội dung chính của lý thuyết (điều kiện lịch sử, sự ra đời, nội hàm khái niệm…), người viết (I.P.Ilin) đã nêu và diễn giải khá tường tận các khái niệm triết mỹ cơ bản và một số thủ pháp nghệ thuật chính của văn học hậu hiện đại.

    Sự kiện đặc biệt trong năm 2003 là việc Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đã phát hành bộ sách về văn học hậu hiện đại thế giới, gồm 2 tập. Tập 1 Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết (Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến biên soạn), tập 2 Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (Lê Huy Bắc tuyển chọn, giới thiệu). Tính đến thời điểm bấy giờ, bộ sách này là công trình công phu và có hệ thống nhất về văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, cả về phương diện lý thuyết và phương diện sáng tạo nghệ thuật. Tập 1 gồm 19 bài viết, trong đó có 12 bài được dịch, 7 bài của các nhà nghiên cứu Việt Nam (4 bài của các nhà nghiên cứu người Việt định cư ở nước ngoài). Phần này, với sự dồi dào tư liệu, đã cung cấp những thông tin khá đầy đủ về văn học hậu hiện đại thế giới, với nhiều quan niệm, cách đánh giá khác nhau, tạo cho người đọc những điều kiện rộng rãi hơn trong việc tìm hiểu, suy ngẫm cũng như định hướng nhận thức. Tập 2, gồm 54 truyện ngắn được tuyển chọn của 42 tác giả đại diện cho các châu lục trên thế giới. Đây là tuyển tập truyện ngắn hậu hiện đại đầu tiên được giới thiệu ở Việt Nam.

    Năm 2004, Nxb Giáo dục phát hành công trình Phê bình – lý luận văn học Anh Mỹ (3 tập) do Lê Huy Bắc biên soạn. Bộ sách bao gồm các bài tiểu luận, các bài phỏng vấn của các nhà văn, nhà phê bình Anh – Mỹ, trong đó có một số tác giả hậu hiện đại, là một tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu trong nước. Cũng trong năm này, tập tiểu luận nổi tiếng Đi tìm sự thật biết cười của Umberto Eco (Vũ Ngọc Thăng dịch), Nxb Hội Nhà văn phát hành, được giới thiệu với độc giả Việt. Tập sách được viết với giọng văn hóm hỉnh, pha chút giễu cợt, trong đó có một số bài về văn học hậu hiện đại Lời tái bút cho Tên của đóa hồng, Tính đổi mới và tính lặp lại: Giữa mỹ học hiện đại và hậu hiện đại, Tản mạn: Tiền phong, hiện

  • 8

    đại, hậu hiện đại. Umberto Eco đã tạo nên một cái nhìn nghiêng đối với đời sống văn học thế giới đương đại. Ông đã rất hóm hỉnh khi nhận xét rằng hậu hiện đại là sự xem xét lại một cách mỉa mai cái điều đã được phát biểu rồi, “trong một thời đại của sự ngây thơ đã đánh mất”. Tuy có đôi chút phân vân, nhưng ông cũng khẳng định rằng hậu hiện đại là một sự thật, là “một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một Kunstwollen – một phương thức thao tác” [45, tr.96]. Ngoài ra, cuốn sách ít nhiều có liên quan đến hậu hiện đại được xuất bản trong năm này là Sự đỏng đảnh của phương pháp (Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu), với các mục Chủ nghĩa hậu cấu trúc của Terry Eagleton (Thiệu Bích Hường dịch) và Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học của Hans R.Jauss (Trương Đăng Dung dịch).

    Năm 2005, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội giới thiệu với độc giả Việt Nam chuyên luận Những tiểu thuyết của Robbe – Grillet của Bruce Morrissette (Từ Huy dịch). Nghệ thuật tiểu thuyết của Robbe – Grillet là những cách tân mới mẻ, độc đáo, với nhiều đặc trưng của kỹ thuật viết hậu hiện đại.

    Năm 2006, Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu cuốn Theo vết chân những người khổng lồ - Tân Guylivơ phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin. Cuốn sách gồm 13 bài nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài về nhiều lĩnh vực, trong đó có 2 bài trực tiếp bàn về hậu hiện đại: Phân tích văn hóa theo thuyết hậu hiện đại của Steven Seidman và Phê phán hậu hiện đại và hậu cấu trúc của Buckminster Fuller (đều do Thiệu Bích Hường dịch). Bài nghiên cứu của S.Seidman đã soi chiếu đời sống văn hóa đương đại trong tinh thần hậu hiện đại, thông qua một cấu trúc có tính tổng thuật nhưng tập trung vào các luận điểm chính, bắt đầu từ những định nghĩa cụ thể về hậu hiện đại từ các góc độ nghệ thuật, xã hội, dân tộc đến việc xem xét “xã hội học theo thuyết hậu hiện đại”, lấy hậu hiện đại và hậu hiện đại hóa làm đối tượng nghiên cứu, thông qua những đặc tính đã được hiển thị của chúng trong đời sống [125, tr.448]. Bài nghiên cứu của B.Fuller, một mặt, là sự phê phán hiện đại qua lập trường phê phán của hậu hiện đại kết hợp với phê phán hậu cấu trúc, mà đối tượng phê phán chính là “học thuyết tổng thể” (bao gồm cơ cấu xã hội, tư tưởng, tri thức, quyền lực, giới tính, dân tộc…); mặt khác, chỉ ra những khả năng và giới hạn của chủ nghĩa hậu hiện đại. Để triển khai các vấn đề trong tính khách quan, ông đã dựa vào ý kiến của nhiều nhà hậu hiện đại nổi tiếng. B.Fuller vẫn đặt niềm tin vào chủ nghĩa hậu hiện đại, xem nó như một khả thể để

  • 9

    con người hướng tới tương lai và “ mở ra những hướng mới cho việc nghiên cứu văn hóa” [125, tr.514]. Cũng trong năm này, Nxb Đại học Sư phạm giới thiệu cuốn Bản mệnh của lý thuyết văn chương và cảm nghĩ thông thường của Antoine Compagnon (Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch). Mục đích của lý thuyết văn chương là gì? Câu hỏi này được đặt ra với người đọc, và nó cũng là vấn đề quán xuyến toàn bộ cuốn sách, vì câu trả lời nằm chính trong các đề mục mà nhà nghiên cứu đặt ra và diễn giải, rất rộng về sự khảo sát nhưng cũng rất tập trung ở từng chủ đề. Một phần trong cuốn sách, tác giả bàn về lý thuyết hậu hiện đại, qua những đoạn trích hay những phân tích các quan điểm của các nhà lý thuyết hậu hiện đại.

    Năm 2007, Nxb Giáo dục phát hành công trình Lý luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, 2 tập, Lộc Phương Thủy chủ biên và giới thiệu. Lý thuyết văn học hậu hiện đại và trường phái hậu cấu trúc được đưa vào tập 2, cùng các phần trích in từ nguyên tác của Derrida, Foucault, U.Eco, Bertens, Fields… Cũng trong năm này, trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học có ba bài đáng lưu ý về văn học hậu hiện đại: Những sự kiện nóng trong phê bình văn học Trung Quốc 2006 của Cát Hồng Binh – Tống Hồng Lĩnh (Nguyễn Văn Nguyên dịch, Phạm Tú Châu hiệu đính), số 7; Đi tìm bản thể và nhận thức về ý nghĩa của văn học mạng của Âu Dương Hữu Quyền (Trần Quỳnh Hương dịch), số 10; Liên văn bản – sự xuất hiện của khái niệm. Về lịch sử và lý thuyết của vấn đề của L.P.Rjanskaya (Ngân Xuyên dịch), số 11. Trên Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3, có tiểu luận Sáu khuôn mặt của chủ nghĩa hiện đại trong các nền văn học châu Mỹ của Earl E.Fitz (Trần Thanh Đạm dịch).

    Năm 2008, cuốn Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean Francois Lyotard (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), được Nxb Tri thức phát hành. Công trình nghiên cứu của Lyotard nổi tiếng khắp toàn thế giới, có ý nghĩa lập thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Có thể nói, cuốn cẩm nang này được dịch ở ta là khá muộn, 30 năm kể từ khi nó ra đời, nhưng dẫu sao nó vẫn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu và tiếp nhận chuyển hóa lý thuyết hậu hiện đại. Tác phẩm gồm 14 chương, với phần giới thiệu như một tiểu luận nghiên cứu triết học của Bùi Văn Nam Sơn. Bản dịch công trình của Lyotard tạo điều kiện để giới nghiên cứu Việt Nam có thể hiểu trực tiếp những luận điểm của ông về các chủ thuyết lớn (các đại tự sự), “thân phận tri thức”, sự áp chế của khoa học đối với tri thức, tình cảnh nghệ thuật… trong điều kiện hậu hiện đại. Đối với văn học nghệ

  • 10

    thuật, lý thuyết của Lyotard khai mở những vấn đề nhận thức tư tưởng và mỹ học về một thời đại mới dựa vào sự phản tư các tiêu chí mà triết học hiện đại đã dày công xây dựng. Trên cơ sở đó, lý thuyết văn học xác lập một loạt các khái niệm triết mỹ cơ bản, được xem như những đặc tính chỉ có trong văn học hậu hiện đại. Trong năm này, còn có bài viết Tiểu thuyết chính trị hậu hiện đại của Stephen Baker, in trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (Phạm Phương Chi dịch). Qua việc phân tích tác phẩm Những vần thơ của quỷ sa tăng (của S.Rushdie, nhà văn Anh gốc Ấn), nhà nghiên cứu đã chỉ ra những giá trị nhân bản và nghệ thuật của tác phẩm và khẳng định khuynh hướng tiểu thuyết chính trị hậu hiện đại trong văn học.

    Từ những năm 2009 đến 2013, có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học nghệ thuật hậu hiện đại được giới thiệu ở Việt Nam, tiếp tục bổ sung và mở rộng những tri thức đa dạng của nó cho độc giả. Cuốn 2011 – Trào lưu trong thập kỷ tới của Richard Laermer, Nxb Văn hóa Sài Gòn, đã đưa ra những dự đoán về các xu hướng và trào lưu văn hóa nghệ thuật hậu hiện đại sắp tới. Cuốn Thế mà là nghệ thuật ư? của Cynthia Freeland, Nxb Tri thức (Như Huy dịch) cung cấp cho độc giả những kiến thức đa dạng nhưng cũng hết sức phức tạp về những hình thức nghệ thuật mà con người đã sáng tạo ra. Chúng ta đang sống trong một không thời gian, mà ở đó rất khó để đuổi kịp những sự thay đổi của nghệ thuật, chứ đừng nói là thâu tóm và diễn giải về nó. Cuốn sách của C.Freeland, với một cái nhìn độc đáo và tổng hợp về lịch sử nghệ thuật nhân loại, đem đến cho tất cả chúng ta những bài học, những kinh nghiệm hữu ích để có thể sống tự tin hơn trong sự thay đổi nhanh chóng không ngừng của thời hậu hiện đại. Cuốn Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu Petrescu, Nxb Đại học Sư phạm (Lê Nguyên Cẩn dịch), diễn giải văn học hậu hiện đại trong tính hệ thống, để hiểu đây là một tiến trình chứ không phải là sự đột biến. Như vậy, tính chất biệt lập quá lâu sẽ dẫn tới sự suy thoái và chỉ có qua sự giao tiếp và đối thoại, vị thế của nền văn học dân tộc mới từng bước được nhìn nhận, khẳng định. Nhưng muốn có được sự thừa nhận, bản thân nền văn học dân tộc phải tự nâng địa vị của mình lên. Nói cách khác, nó phải tạo được một “tầm đón đợi” tương ứng với thời đại toàn cầu hóa: “Văn học dịch giúp cho văn học dân tộc nhận ra mình và đến lượt nó, nền văn học được dịch cũng hiểu rõ mình hơn trong tư thế mới trước một nền văn hóa khác. Đây chính là sự bình đẳng về giá trị trong giao

  • 11

    tiếp và đối thoại giữa các nền văn học” [34, tr.10]. Tính dân chủ của văn học hậu hiện đại sẽ đem đến cơ hội cho những nền văn học trước đây vẫn bị xem là “ngoại biên”. Vấn đề còn lại là chủ thể tiếp nhận có thực sự muốn thay đổi hay không! Những công trình nghiên cứu nước ngoài về chủ nghĩa hậu hiện đại đã trang bị những tri thức nền tảng, để trên cơ sở đó, giới nghiên cứu Việt Nam xây dựng nên mảng lý thuyết văn học hậu hiện đại và ứng dụng nó trong nghiên cứu, phê bình văn học. Điều này, một mặt, nó góp phần hoàn thiện và phát triển khoa nghiên cứu văn học, vốn tụt hậu so với nước ngoài hàng thập kỷ; mặt khác, nó hỗ trợ cho hoạt động sáng tác, thông qua hệ hình lý thuyết của mình. Từ phía sáng tác, khi tiếp cận với sự diễn giải của phê bình nghiên cứu, sẽ giúp họ định hướng được hình thức nghệ thuật của mô hình sáng tác, khả năng và giới hạn của nhận thức, phản ánh và sự tiếp nhận… Tri thức là tài sản chung của mọi người. Ở thời hậu hiện đại, ranh giới giữa hoạt động phê bình và sáng tác bị xóa nhòa. Vì vậy, mối quan hệ tương hỗ hai chiều: sáng tác – phê bình là có tính quyết định luận đối với thực tiễn văn học hậu hiện đại. Thiếu nền tảng tri thức luận, giới sáng tác sẽ khó có thể tạo được những tác phẩm có tầm cỡ khu vực và thế giới. Trong thời đại của mình, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã nhận thức về điều này một cách sâu sắc: “Một trong những thiếu sót lớn của các nhà văn hiện đại ở ta là họ chỉ hiểu biết sâu sắc dân tộc Việt, hiểu biết sâu sắc nước Việt theo lối một nghệ sĩ chứ không phải theo lối một nhà tư tưởng” và “Có lẽ chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại cần đến những nhà văn có tư tưởng sáng suốt như trong thời điểm hiện nay” [129, tr.32,33].

    Các công trình thuộc các lĩnh vực khác Việc dịch và công bố các bài báo, công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hậu

    hiện đại ở Việt Nam không chỉ bó hẹp trong địa hạt văn học, mà còn ở các lĩnh vực triết học, xã hội, kinh tế, tôn giáo… Điều này thể hiện sự quan tâm thực sự đối với vấn đề “hậu hiện đại” trên bình diện toàn xã hội.

    Năm 2003, công trình Lịch sử chủ nghĩa tư bản – từ 1500 đến 2000 của Michel Beaud được Nxb Thế giới phát hành. Công trình này đã dựng lại lịch sử chủ nghĩa tư bản qua năm thế kỷ, từ thời kỳ đầu đến thời kỳ phát triển đỉnh cao. Nhưng đây không thuần túy là cuốn sách lịch sử chỉ có niên đại và sự kiện, tác giả của nó, với một tri thức bao quát và một trí tuệ uyên thâm, đã đi sâu phân tích những vấn đề bản chất của chủ nghĩa tư bản, từ kinh tế đến chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục,

  • 12

    đưa đến một cách hiểu thực tế hơn về chủ nghĩa tư bản, và đặc biệt là những vấn đề của chủ nghĩa tư bản giai đoạn hậu kỳ hiện đại.

    Năm 2005, cuốn sách nổi tiếng thế giới Sự va chạm của các nền văn minh của Samuel Hungtington được Nxb Lao động phát hành. Những vấn đề được tác giả đề cập đến như xã hội, văn hóa, tôn giáo, chủng tộc, những vấn đề thuộc về sự tranh chấp như tài nguyên, địa lý, vị thế quốc gia… đều được phân tích dưới nhãn quan của thời hiện tại, đặt trong quá trình toàn cầu hóa, đều là những vấn đề luôn đặt trong sự quan tâm của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tác phẩm đã đem đến cho độc giả sự hình dung về một thế giới đang biến đổi đa chiều, đa cực, trong sự va chạm của những mâu thuẫn không bao giờ hóa giải được. Sau cuốn sách của S.Hungtington, Nxb. Khoa học Xã hội phát hành cuốn sách gây nhiều chú ý là Chiếc Lexus và cây Oliu của Thomas L.Friedman (Lê Minh dịch). Cuốn sách này giải đáp cho câu hỏi được rất nhiều người quan tâm: Toàn cầu hóa là gì? Và nó quả thực đã đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu này, “một cuốn sách hướng dẫn tuyệt vời về thế giới ngày nay” (New York Times). Một khi đã hiểu và có thể diễn giải lại điều đã hiểu thì người đọc đã có thể hình dung về một hoàn cảnh hậu hiện đại mà loài người đang trải qua, dĩ nhiên là ở những tình trạng khác nhau, thậm chí là trong sự đối cực. Trong chương 2 của cuốn sách Kết nối vào hệ thống, tác giả đã tường trình và phân tích về cái gọi là “thân phận của trí thức” trong thời đại hậu công nghiệp và thông tin toàn cầu, điều mà Lyotard xem là trọng tâm của thời hậu hiện đại trong cuốn Điều kiện hậu hiện đại.

    Năm 2006, Nxb Văn hóa Thông tin giới thiệu công trình Tuyển tập danh tác triết học – Từ Plato đến Derrida của Forrest E.Baird (Đỗ Văn Tuấn và Lưu Văn Hy dịch). Nhà nghiên cứu đã chọn trích in những nguyên tác triết học chính yếu của những nhà triết học hàng đầu Châu Âu, từ thời cổ đại với Plato, Aristote đến thời kỳ hậu hiện đại của Derrida. Phần triết học của Derrida trong cuốn sách gắn với việc nhấn mạnh vai trò nhà lập thuyết hậu hiện đại. Trong năm này, Nxb Trẻ phát hành cuốn sách tham khảo rất kịp thời Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại của các tác giả Richard Appignanesi, Chis Gattat (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính). Cuốn sách được cấu trúc theo từng mục nhỏ, đã giới thuyết một cách cô đọng nhưng cũng rất đầy đủ lịch sử ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại: sự manh nha của nó từ trong lòng chủ nghĩa hiện đại, những biểu hiện đầu tiên từ nghệ thuật kiến

  • 13

    trúc, hội họa, điêu khắc đến khi được định dạng qua các quan điểm triết học, lịch sử và được hệ thống thành một chủ nghĩa (học thuyết). Cuốn sách còn được trình bày kèm theo nhiều hình ảnh, minh họa độc đáo và ấn tượng, tạo “một niềm vui và sự hiền minh” (từ dùng của Nietzsche) cho người đọc. Có thể nói, đây là một sách tham khảo vừa có tính phổ thông lại vừa có tính gợi ý chuyên sâu, đáp ứng cho việc tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại với mọi tầng lớp người đọc. Ngoài các sách nêu trên, cuốn Viễn cảnh nước Mỹ trong thiên niên kỷ mới của Marianne Williamson, Nxb Văn hóa Thông tin (Nguyễn Kim Dân dịch), đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về tình trạng hậu hiện đại ở một quốc gia giàu có và phát triển nhất thế giới.

    Năm 2007, có cuốn Sụp đổ của Jared Diamond (Hà Trần dịch), Nxb Tri thức phát hành. Cuốn sách của Diamond nêu ra và lý giải những sự kiện trọng yếu trong lịch sử hiện đại, sự xuất hiện cũng như sự suy vong, các quy luật lịch sử - xã hội, các quan niệm về giá trị mang tính toàn nhân loại hay chỉ mang tính dân tộc. Cũng trong năm này, Nxb Khoa học Xã hội phát hành cuốn Đợt sóng thứ ba của Alvin Toffler (Nguyễn Lộc và Phan Ngọc dịch). Đây là cuốn sách rất nổi tiếng của nhà tương lai học hàng đầu thế giới. Mục đích cuốn sách là nhằm cắt nghĩa về xã hội đương đại để định hướng cho tương lai, không phải trong sự giả tưởng lạc quan, mà trong những phân tích thuyết phục xuất phát từ sự lý giải về bản chất và đặc điểm của nền văn minh hậu công nghiệp. Tác phẩm đã chỉ ra những bước tiến mới về nhiều lĩnh vực trong đời sống nhân loại, và cũng chỉ ra rất nhiều những khó khăn phía trước đang đón đợi con người.

    Năm 2008, là năm mà độc giả Việt Nam có điều kiện tiếp cận với nhiều cuốn sách rất có giá trị trong việc tìm hiểu, nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại, thuộc các lĩnh vực xã hội học, kinh tế học, tâm lý học. Có thể kể đến các cuốn Nguy cơ của Dan Gardner, Nxb Lao động (Ngọc Trung và Kiều Vân dịch); Kỷ nguyên hỗn loạn – Những cuộc khám phá trong lòng thế giới mới của Alan Greenspan, Nxb Trẻ (nhóm dịch Nguyễn Hồng Quang); Thế giới phẳng – Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI của Thomas l.Friedman, Nxb Trẻ (nhóm dịch Thái Quang A); Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa của Ronald Inglehart, Nxb Chính trị Quốc gia (Nguyễn Thị Phương Mai, Nguyễn Chí Tình, Nguyễn Mạnh Trường dịch, Vũ Thị Minh Chi hiệu đính). Thế giới phẳng, đó là một cách nói ám dụ về thế giới đương đại. Cuốn sách được viết với một văn phong giản dị, dễ đọc, đã đem đến cho độc giả những hiểu

  • 14

    biết khá sâu sắc và tường tận về một trật tự thế giới mới gắn với tiến trình toàn cầu hóa, mà sự bắt đầu của nó là công nghệ thông tin và internet. Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa là công trình nghiên cứu xã hội học, dựa trên những cuộc điều tra giá trị thế giới, được tiến hành tại 43 quốc gia ở khắp các châu lục, trong những điều kiện và tình trạng xã hội khác nhau. Từ khảo sát, nghiên cứu thực tiễn, R.Inglehart đã có những phân tích, đánh giá sâu sắc về những biến đổi toàn diện (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo) đang diễn ra trên toàn thế giới. Theo ông, quá trình vận động xã hội từ hiện đại sang hậu hiện đại là quá trình làm mới các giá trị, không phải ở lý thuyết mà ở thực tiễn. Giá trị văn hóa là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá về tính nhân văn và dân chủ ở thời hậu hiện đại, nó gắn với lối sống mới, sự đa dạng dân tộc, lối sống cá nhân được thừa nhận…

    Từ những năm 2009 đến 2013, các công trình nghiên cứu về hậu hiện đại từ phương diện văn hóa, xã hội, triết học tiếp tục được các nhà xuất bản chú trọng. Trong số sách được dịch, đáng chú ý nhất là các cuốn Nóng, Phẳng, Chật của Thomas Friedman, Nxb Trẻ (Nguyễn Hằng dịch); Súng, Vi trùng và Thép – Định mệnh của các xã hội loài người của Jared Diamond, Nxb Tri thức (Trần Tiễn Cao Đăng dịch); Nhận diện quyền lực của Noam Chomsky, Nxb Tri thức (Hoàng Văn Vân dịch, Đinh Hoàng Thắng hiệu đính); Nietzsche và triết học của Gilles Deleuze, Nxb Tri thức (Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu dính); Hướng đến kỉ nguyên hậu nhà nước phúc lợi do Tom G. Palmer (Chủ biên), Nxb Tri thức… Những công trình được dịch thuật này, một mặt, làm đầy dần lượng tri thức vốn hạn chế của chúng ta, thu hẹp khoảng cách tri thức chung giữa chúng ta với thế giới và làm phong phú tri thức của chúng ta về thế giới; mặt khác, chúng ta đã làm mới tư duy của mình trong quá trình học tập và vận dụng tri thức nước ngoài vào hoạt động thực tiễn. Không thể tưởng tượng được, xã hội Việt Nam sẽ như thế nào, nếu thời gian qua không có được một lượng sách dịch về tất cả các lĩnh vực, để chúng ta tự làm biến đổi mình trong một hình thể văn hóa hiện đại hơn. Đối với lợi ích chung, việc quan tâm nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại ở các lĩnh vực xã hội của giới nghiên cứu Việt Nam có thể xem là một động thái tích cực trong việc mở rộng đối tượng nhận thức, tìm hiểu, từ đó tịnh tiến dịch chuyển để tiếp cận với xã hội phát triển, tạo ra quá trình làm mới xã hội Việt Nam, đi từ tri thức tới thực tiễn, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đây là tiền đề hết sức quan trọng đối với đất nước. Bởi vì,

  • 15

    không nắm bắt được sự vận động của lịch sử nhân loại thời kỳ hậu công nghiệp và toàn cầu hóa, chắc chắn sẽ dẫn tới sự bế tắc, luẩn quẩn và rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện.

    Đối với giới văn nghệ, việc tìm hiểu, nghiên cứu những tri thức hậu hiện đại nói chung, là một yêu cầu bức thiết để có được sự hiểu biết vừa tổng thể vừa chuyên sâu. Nắm bắt tri thức, tri nhận và tiếp biến để tạo ra những giá trị mới cả trong sáng tác và phê bình, đó là con đường duy nhất để đưa nền văn nghệ Việt Nam thoát khỏi tình trạng “gà què ăn quẩn cối xay”.

    1.2. Các công trình nghiên cứu, phê bình ở trong nước Khái niệm “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”, bản thân chúng đã chứa

    đựng những vấn đề hết sức phức tạp, tạo ra những cuộc tranh luận trong suốt gần nửa thế kỷ qua giữa các nhà khoa học, các nhà văn hóa, các nghệ sĩ trên thế giới. Khi được áp dụng vào Việt Nam, số phận của nó cũng không được “thuận buồm, xuôi gió”. Tìm hiểu hoạt động nghiên cứu, phê bình hậu hiện đại trong lĩnh vực văn học mới thấy hết được sự gian khó của cái mới để tồn tại, khi nó phải đối diện với những thái độ ứng xử rất khác nhau, và không phải bao giờ cũng có sự công tâm và sự khách quan khoa học. Thời gian là người thầy của các sự kiện, câu trả lời về hậu hiện đại và tất cả những gì là nội hàm và ngoại diên, tất cả những gì bao bọc lấy khái niệm này sẽ có câu trả lời ở tương lai, một tương lai gần. Nhưng tất cả chúng ta đều buộc phải thừa nhận rằng, cả trên thế giới và ở Việt Nam, hậu hiện đại đã đem đến một nhận thức mới, một luồng sinh khí mới cho đời sống, trong đó có cả cho đời sống văn hóa, văn học.

    Tìm hiểu lịch sử hiện diện của từ “hậu hiện đại” ở Việt Nam, dĩ nhiên là phải tính đến sự xuất hiện của từ này cùng những nội dung của nó. Và chắc chắn, từ “hậu hiện đại” chỉ có thể xuất hiện trong văn bản vào những năm cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, chúng tôi muốn mở rộng sự tham khảo của mình đến những năm trước 1975, ở Miền Nam Việt Nam, trong một điều kiện xã hội gần gũi hơn với Phương Tây, đã có nhiều nhà nghiên cứu bước đầu tiếp cận với hậu hiện đại, mặc dù trong các công trình của họ chưa gọi đầy đủ khái niệm này. Vào năm 1969, trên Tạp chí Tư tưởng, số 6, Viện đại học Vạn Hạnh, đã có hai bài nghiên cứu của Phạm Công Thiện và Tuệ Sĩ về triết học “cơ cấu luận” của Levi – Strauss, J. Derrida và M. Foucault. Đây là những nhà khoa học nổi tiếng có vai trò trực tiếp, hoặc có sự kết nối với việc hình

  • 16

    thành lý thuyết hậu hiện đại thế giới. Phạm Công Thiện trong bài viết của mình Sự thất bại của cơ cấu luận – Phê bình Levi – Strauss và Jacques Derrida, đã nhấn mạnh đến điểm yếu của cơ cấu luận khi nó chấp nhận “sự đánh mất trung tâm: tư tưởng về cơ cấu tính của cơ cấu (la structuralité de la structure) được phục hồi qua sự thất bại của một trung tâm điểm” [107, tr.85]. Việc phân tích về sự hạn chế của “cơ cấu luận” (hiện nay dịch là cấu trúc luận) mà Phạm Công Thiện đã thực hiện, như chúng ta hiểu, là một trong những thao tác quan trọng đầu tiên của chủ nghĩa hậu cấu trúc và hậu hiện đại tiến hành để cất lên tiếng nói của mình. Tuệ Sỹ trong bài viết Cơ cấu ngôn ngữ của Michel Foucault đã nhận xét triết học của Foucault là: “đoạn tuyệt với một thế giới ở đó con người thực sự đã biến mất, ở đó chỉ có gió, đêm tối và ma quái nói chuyện” [107, tr.97]. Thông qua sự so sánh các quan niệm của Foucault với triết học của Hume, Tuệ Sỹ đã từng bước chỉ rõ những đóng góp của nhà triết học Pháp về những phát hiện mới của bản chất của ngôn ngữ, ý muốn giải thoát ngôn ngữ khỏi sự áp đặt có tính chuyên chế, toàn trị. Nhìn chung, cả hai bài viết đều chú tâm vào những vấn đề triết học hiện đại, do vào thời điểm này ở Phương Tây, lý thuyết hậu hiện đại còn đang thời kỳ được tạo dựng và cũng chỉ bắt đầu được phổ biến ở một số quốc gia. Tuy nhiên, tinh thần phê phán hiện đại là điều khá rõ ở hai bài viết, vì vậy, chúng có tính gợi ý về một xu hướng thay thế, mà sau này chúng ta được biết với tên gọi “hậu hiện đại”.

    Ở Việt Nam, khái niệm “hậu hiện đại” lần đầu tiên được đề cập đến trong nghiên cứu văn học là bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và giá trị thẩm mỹ của Trương Đăng Dung, Tạp chí Văn học, số 11, 1995. Trong bài viết, Trương Đăng Dung đã đưa ra những nhận thức mới trong thực thực tiễn lý luận Việt Nam. Tác giả đã ứng dụng những tri thức lý luận phương Tây (triết học, mỹ học, văn học…) vào quá trình diễn giải mối quan hệ giữa văn bản – người đọc và khẳng định sự tạo nghĩa chỉ có thể có được thông qua hoạt động tiếp nhận (quá trình cụ thể hóa văn bản) của người đọc. Phần cuối bài viết, tác giả nhận định, giá trị tác phẩm nghệ thuật của các thời đại, trong đó có tác phẩm hậu hiện đại, được tồn tại “nhờ các giá trị thẩm mỹ” [32, tr.41- 42]. Sau bài viết của Trương Đăng Dung, khái niệm “hậu hiện đại” được đề cập đến là ở ấn phẩm Văn hóa nghệ thuật thế kỷ XX những hiện tượng – trào lưu – nhân vật tiêu biểu trong 100 năm qua, Nguyễn Nam và Lê Huy Khánh biên soạn Nxb Văn học, 1999. Theo các tác giả, trào lưu nghệ thuật hậu hiện

  • 17

    đại được xem là một trong số 100 hiện tượng văn hóa nghệ thuật đặc trưng của thế kỷ XX, là trào lưu gắn liền với một thời kỳ lịch sử mới của nhân loại [90, tr.179].

    Phải đến năm 2000 trở đi, từ “hậu hiện đại”, sau một thời gian dài vật vờ ngoài lề của tri thức Việt, mới bắt đầu được dùng phổ biến trong đời sống văn hóa nước nhà, được sự quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu và diễn ra nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến, quan niệm, xu hướng khác nhau. Trong năm này, Phương Lựu công bố bài viết Tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại trên Tạp chí Nhà văn, số 8. Bài viết của Phương Lựu trực tiếp bàn về các vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại, được xem như bước khởi động cho hoạt động nghiên cứu, phê bình văn hóa, văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, là tiếng nói chính văn góp phần xua đi sự e dè, ngần ngại của nhiều người trước “hậu hiện đại”.

    Năm 2001, Phùng Văn Tửu công bố chuyên luận Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả được chọn đưa vào chuyên luận đều là những nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ những năm 80 của thế kỷ XX. Qua đó, người đọc có được những hình dung về diện mạo và thành tựu của một số tác giả hậu hiện đại nổi tiếng của văn học Pháp như Robbe – Grillet, Le Clezio… Vào tháng 9/2001, trên Tạp chí Văn học, Nguyễn Văn Dân có bài Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm. Đây là một tiểu luận được viết công phu, trích dẫn nhiều tư liệu, tranh luận nhiều về chủ nghĩa hậu hiện đại, tuy nhiên, người viết lại cho rằng hậu hiện đại chỉ là một khái niệm “rỗng”!

    Năm 2003, Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phát hành bộ Văn học hậu hiện đại thế giới. Tập 1 Văn học hậu hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết có 7 bài viết của các tác giả Việt Nam, gồm 3 bài của các nhà nghiên cứu trong nước và 4 bài của các nhà nghiên cứu định cư ở nước ngoài.

    Năm 2004, công trình Tác phẩm văn học như là quá trình của Trương Đăng Dung được Nxb Khoa học Xã hội phát hành. Toàn bộ ba phần của cuốn sách đều được tác giả đặt trong một quá trình để nghiên cứu và diễn giải: từ hiện đại đến hậu hiện đại. Tác giả nhận định: “Có thể nói những thành tựu của lý luận văn học hiện đại thể hiện những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn bản nghệ thuật như là cấu trúc ngôn từ động. Nhưng đến lượt mình, tư duy lý luận văn học hậu hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản nghệ thuật trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận” [33, tr.15].

  • 18

    Cũng trong năm 2004, trong công trình Tự sự học – một số vấn đề lý thuyết, phần 1, Trần Đình Sử chủ biên, Nxb Đại học Sư phạm, bài viết Các kiểu truyện ngắn hậu hiện đại của Lê Huy Bắc đã hệ thống các phong cách truyện ngắn hậu hiện đại, tính đa dạng cũng như kỹ thuật viết đặc trưng của thể loại này. Ngoài ra, còn có các bài viết đáng chú ý khác, như Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu – một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình; Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh của Nguyễn Đăng Điệp; Cấu tứ tự sự của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của Nguyễn Văn Tùng; Tự sự trong Cơ hội của Chúa – cách tân và giới hạn của Trần Văn Toàn… đã lý giải về những cách tân của tiểu thuyết theo tinh thần hậu hiện đại.

    Năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8, in bài Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại của nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh. Bài viết đã cung cấp những thông tin về sự phát sinh của lý thuyết hậu hiện đại trên thế giới, quá trình du nhập vào Việt Nam, các đặc trưng thẩm mỹ của nó, những giới hạn và những khả năng của lý thuyết hậu hiện đại đối với đời sống văn học nước nhà. Cũng trong số này còn có bài Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Ấn Độ của Phạm Phương Chi, giới thiệu một số nét chính về văn học hậu hiện đại Ấn Độ, sự hình thành và những thành tựu của nó trên đất nước của những tôn giáo lớn và có tính thoát tục. Trong năm này, Lê Huy Bắc giới thiệu công trình nghiên cứu Truyện ngắn – Lý luận – Tác gia và tác phẩm (2 tập), Nxb Giáo dục. Trong tập 2, phần một, có tựa đề Tổng luận, tác giả đã lý giải về lịch sử thể loại, quan niệm, đặc trưng và sự vận động của truyện ngắn trong tiến trình phát triển của nó. Trong quá trình diễn giải, đặc biệt là ở các mục Truyện ngắn hậu hiện đại, Truyện ngắn nhại, Chủ nghĩa cực hạn và Raymond Carver, người viết đã góp phần làm rõ nghĩa của lý thuyết văn học hậu hiện đại.

    Năm 2006, có công trình triết học Chủ nghĩa hậu hiện đại của Trần Quang Thái, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã phác thảo và hệ thống lại lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại thế giới: những tiền đề về triết học, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo…, quan niệm hậu hiện đại như một thực thể của đời sống đương đại, qua đó, bước đầu tổng kết tư tưởng cơ bản của lý thuyết này.

    Năm 2007, được xem là năm mà đời sống văn học Việt Nam xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về hậu hiện đại nhất. Điều này đã công nhận việc lý thuyết

  • 19

    hậu hiện đại cùng những ứng dụng của nó đã có được chỗ đứng trong đời sống văn học Việt Nam. Trên Tạp chí Văn học, số 12, có thể xem như số chuyên đề văn học hậu hiện đại, khi có đến 5 bài nghiên cứu về lĩnh vực này. Bài viết của Phương Lựu Chủ nghĩa lịch sử mới, một chuyển biến trong lòng chủ nghĩa hậu hiện đại, đã diễn giải thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với lịch sử, đó là “phải gắn văn học với lịch sử xã hội mà xem xét”. Nhưng nó không giống với chủ nghĩa lịch sử cũ vốn chủ yếu dựa trên quyết định luận khách quan, mà “nó được đặt cơ sở trên quan hệ chủ thể - lịch sử”. Bài viết của Trần Quỳnh Hương Dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học đương đại Trung Quốc đã giới thuyết những nét chính của quá trình chủ nghĩa hậu hiện đại du nhập vào Trung Quốc và một số thành tựu của văn học theo khuynh hướng hậu hiện đại. Đặc biệt, ba bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài của Lã Nguyên, Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn xuôi Nga của Đào Tuấn Ảnh, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại của Cao Kim Lan, đã mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào thực tiễn sáng tác văn xuôi Việt Nam. Các tác giả đã xem xét một cách khách quan khái niệm “hậu hiện đại” và chỉ ra nó là một “định tính thẩm mỹ” cho một khuynh hướng văn học, mà Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thuộc thế hệ tiền phong. Cũng vào cuối năm này, bộ Từ điển thuật ngữ văn học do Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Nxb Giáo dục phát hành, đã đưa vào mục “Hậu hiện đại”, xem đây là thuật ngữ chính thức của văn học. Đây là một động thái rất có ý nghĩa, nó là sự thừa nhận của giới nghiên cứu văn học Việt Nam đối với lý thuyết hậu hiện đại.

    Năm 2008, trong bộ giáo trình Lý luận văn học (3 tập), Phương Lựu chủ biên, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, đã đưa chủ nghĩa hậu hiện đại vào tập 3 (Tiến trình văn học), xem đây là một khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới đương đại. Việc đưa văn học hậu hiện đại vào bộ giáo trình giảng dạy đại học là một bước tiến lớn, là sự chính thức thừa nhận của nền giáo dục. Cùng thời điểm này, Phương Lựu in bài viết Những bậc tiên phong của tư duy hậu hiện đại trên Tạp chí Văn học, số 5. Phân tích những đóng góp của J. Lacan từ phương diện phân tâm học cấu trúc và M.Foucault từ phương diện vô thức lịch sử, qua đó, Phương Lựu đã chỉ ra những tư tưởng của họ là những tiền đề quan trọng cho sự hình thành triết học hậu hiện đại.

  • 20

    Cũng trong năm này, Phương Lựu tiếp tục cho in cuốn Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Mác ở phương Tây, Nxb Thế giới. Ở chương 14, tác giả tập trung phân tích học thuyết “Giải thích học văn hóa” của F.Jameson và chỉ ra những quan điểm có tính phê phán văn hóa hậu hiện đại của nhà hậu hiện đại mác xít người Mỹ. Tiếp theo, cuốn Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử, phần hai, Trần Đình Sử chủ biên, Nxb Đại học Sư phạm, tiếp tục giới thiệu một số bài viết về văn học hậu hiện đại, như Kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết hậu hiện đại của Trần Huyền Sâm; Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Thị Bình. Sự quan tâm đến chủ nghĩa hậu hiện đại và những sáng tác theo khuynh hướng này không còn bó hẹp ở những tạp chí có tính học thuật, mà được đề cập, bàn luận ở hầu khắp các tạp chí văn nghệ địa phương. Trên Sông Hương, số tháng 7, 2008, đã đăng bài Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra những dấu ấn của hậu hiện đại trong một số nhà văn Việt Nam như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Anh Hoài qua những xâm nhập của văn hóa đại chúng, cách sử dụng ngôn ngữ “bất nhã”… Trong năm 2008, còn có cuốn Song thoại với cái mới của Inrasara, Nxb Hội Nhà văn. Từ điểm nhìn của một nhà phê bình và là nhà thơ hậu hiện đại, tác giả đã tranh luận trực tiếp và đưa ra những quan điểm mang tính khách quan để bảo vệ cho khuynh hướng văn học hậu hiện đại. Ông nhìn nhận vấn đề không phải theo mốt, theo phong trào, mà theo chân lý khách quan, với tâm nguyện mong muốn những sự đổi thay hợp lý ở nền văn học nước nhà.

    Năm 2009, Nxb Văn hóa Thông tin phát hành tập tiểu luận – phê bình Tiểu thuyết đương đại của Bùi Việt Thắng. Các bài viết của tập sách đã bao quát khá toàn diện về bề nổi tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975, qua những giai đoạn ngắn. Trong cuốn sách, tác giả có đề cập đến một số nhà văn thuộc khuynh hướng hậu hiện đại như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Đoàn Minh Phượng. Tuy nhiên, các bài viết của nhà nghiên cứu vẫn còn sự quá đắn đo khi không dám dùng đến thuật ngữ văn học hậu hiện đại, trong khi lại sử dụng các thủ pháp nghệ thuật của nó để nói đến sự cách tân, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam.

    Năm 2010, Phùng Văn Tửu công bố chuyên luận Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Tri thức. Công trình này là bước tiếp nối của hai công trình nghiên cứu về tiểu thuyết trước đó: Tiểu thuyết Pháp hiện đại – những tìm tòi đổi

  • 21

    mới và Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, thể hiện mối quan tâm và sự chuyên chú của ông cho thể loại này. Diện khảo sát và nghiên cứu của cuốn sách là khá rộng. Qua việc phân tích những tiểu thuyết tiêu biểu của một số nhà văn nổi tiếng, ông đã chỉ ra những biến đổi sâu sắc của tiểu thuyết đương đại, từ cấu trúc văn bản, cách xây dựng nhân vật, tạo dựng cốt truyện, cách sử dụng ngôn ngữ cho đến quan niệm về chức năng, vấn đề thẩm mỹ và chuẩn giá trị của nó.

    Năm 2011, Phương Lựu công bố công trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm. Đây là công trình lý thuyết hoàn chỉnh đầu tiên về văn học hậu hiện đại của một học giả Việt Nam. Sau khi nhận định lại quá trình phát triển và suy yếu cũng như những thành tựu của chủ nghĩa hiện đại, tác giả nhấn mạnh việc chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện thay thế chủ nghĩa hiện đại là một tất yếu của tiến trình lịch sử văn học thế giới. Tiếp đó, ông khái quát lại những vấn đề bao bọc khái niệm hậu hiện đại, từ lịch sử ra đời, tên gọi, các khái niệm và thuật ngữ, các cuộc tranh luận về nó trong những năm đầu xuất hiện, những người xây dựng nên lý thuyết này, từ đó đi sâu giải quyết những vấn đề thuộc về nội hàm khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhìn chung, cuốn sách đã cung cấp những tri thức cơ bản và có hệ thống cho quá trình tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam. Cũng trong năm này, Đỗ Lai Thúy công bố công trình Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, Nxb Hội Nhà văn. Trong phần hai: Phê bình văn học Việt Nam, nhìn nghiêng từ phương pháp, mục 12 Phê bình văn học từ tầm nhìn hậu hiện đại, ông đã phân tích một cách công tâm về văn học Việt Nam đương đại, chỉ ra cách hiểu đúng về hậu hiện đại, văn học hậu hiện đại (thế giới và Việt Nam), và đưa ra quan điểm: “Phê bình văn học từ tầm nhìn hậu hiện đại chủ yếu xử lý mối quan hệ giữa văn bản và người đọc” [127, tr.278].

    Năm 2012, dấu ấn đậm nhất trong hoạt động nghiên cứu về hậu hiện đại ở Việt Nam là công trình Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và tiếp nhận của Lê Huy Bắc, Nxb Đại học Sư phạm. Chuyên luận được cấu trúc thành 21 chương, 7 chương diễn giải về lý thuyết, chương cuối với những suy nghĩ có tính định hướng về văn học hậu hiện đại Việt Nam, 13 chương gắn lý thuyết với phân tích cấu trúc tác phẩm hậu hiện đại, trong đó có 8 chương về văn học nước nhà. Đây là chủ ý của người viết, tránh lý thuyết thuần túy, kết hợp việc hiểu lý thuyết với khả năng đọc văn bản của người đọc, bởi vì văn chương hậu hiện đại thuộc một hệ hình tư duy

  • 22

    mới và khác lạ so với trước đó, nên phải biết cách đọc dựa trên cách hiểu lý thuyết chứ không thể dựa vào kinh nghiệm đọc. Tuy vậy, lý thuyết văn học hậu hiện đại không phải là thứ cứng nhắc, máy móc, mà là lý thuyết mở, nó đem lại cho người đọc sự tự do về nhiều cách hiểu, trên cơ sở của tính đối thoại dân chủ.

    Năm 2013, có thể xem là năm bùng nổ của các công trình nghiên cứu hậu hiện đại ở nước ta. Trước hết là cuốn Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận do Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà, Nguyễn Hồng Dũng chủ biên, Nxb Văn học. Cuốn sách là kết quả của cuộc Hội thảo khoa học Quốc gia được Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Khoa học Huế đứng ra tổ chức vào tháng 3 năm 2011. Đây là hội thảo đầu tiên về văn học hậu hiện đại được tổ chức ở Việt Nam, với mục đích: “đánh thức việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận của chủ nghĩa hậu hiện đại, bước đầu đánh giá thành tựu sáng tác dựa trên nền tảng tự sự hậu hiện đại trên thế giới và ở Việt Nam” (Lời nói đầu). Cuốn sách tập hợp 37 bài viết, được phân thành ba nhóm: những bài viết về lý thuyết hậu hiện đại; những bài nghiên cứu về các tác phẩm văn học hậu hiện đại nước ngoài; những bài phê bình các tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại Việt Nam. Tiếp theo là cuốn Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và thực tiễn do Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong tuyển chọn từ Hội thảo khoa học Quốc gia, khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức, năm 2013, Nxb Đại học Sư phạm. Cuốn sách gồm 30 bài viết của các nhà giáo, nhà khoa học. Nhìn chung, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các khái niệm triết mỹ của lý thuyết hậu hiện đại và những ứng dụng chúng trong các sáng tác, góp phần giải quyết “những vấn đề đang còn vướng mắc hay chỉ rõ hơn những đặc thù mà những người đi trước đã đề ra”. Tinh thần cơ bản của tập sách này là dân chủ và tri thức trong sáng tạo và tiếp nhận. Cũng trong năm này, Lê Huy Bắc tiếp tục chủ biên cuốn Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam, Nxb Tri thức. Cuốn sách gồm 18 bài viết, tập trung nhiều hơn đến vấn đề lý thuyết (8 bài), những bài còn lại đi vào lý giải những hiện tượng văn học cụ thể, trong đó có 4 bài về tiểu thuyết Việt Nam. Đáng chú ý là bài của Lã Nguyên Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống, bài của Nguyễn Thị Bình Đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại: Lối viết hậu hiện đại. Trong danh mục về việc xuất bản sách liên quan đến vấn đề hậu hiện đại của năm này, cần phải kể thêm cuốn Lý thuyết phê bình văn học hiện đại, Trường Đại học Hồng Đức, Nxb Đại học Vinh, với các bài

  • 23

    Lý thuyết phê bình hậu hiện đại như một siêu ngữ của Lê Huy Bắc; Phi trung tâm – Khái niệm và tiếp nhận của Nguyễn Thi Hạnh; Liên văn bản và nghiên cứu văn học ở Việt Nam của Đặng Lưu; Thực hành đọc thơ hậu hiện đại: Bài Bóng chữ của Lê Đạt của Lê Như Bình.

    Văn học hậu hiện đại những năm gần đây đã được đưa vào chương trình đào tạo các hệ đại học và cao học, trở thành đề tài nghiên cứu của rất nhiều luận văn, luận án văn học. Trong đó có những luận án trực tiếp nghiên cứu về văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam, như Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Phùng Gia Thế, Yếu tố hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam của Lê Văn Trung.

    Trong tiến trình tiếp nhận và ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào văn học Việt Nam, các công trình, ngoài việc được giới thiệu trên báo chí, được các nhà xuất bản phát hành, còn được cập nhật rất nhiều trên mạng internet. Trong thời đại công nghệ thông tin, tri thức mạng vừa có tính dân chủ cao, phi không gian, phi thời gian và phi lợi nhuận, với khả năng tương tác cao, là cổng thông tin nhanh nhất để công bố bài viết, để tranh luận hay biện hộ. Trên những trang web trong và ngoài nước, có nhiều tài liệu để tham khảo, nhiều bài viết có giá trị gợi ý, định hướng, ứng dụng.

    Các bài viết trên các trang web, các blog cá nhân chuyên về văn học của các nhà nghiên cứu người Việt định cư ở nước ngoài như tienve.org, tanhinhthuc.org, damau.org… đã mang đến những thông tin kịp thời cho người đọc. Có thể kể đến một số bài viết mang tính thời sự, chứa đựng nhiều thông tin như: Các lý thuyết phê bình văn học: Chủ nghĩa hậu hiện đại; Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam; Chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa tiền vệ, Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam; Đổi mới như một số phận và một phiêu lưu; Một phiên bản h(ậu h)iện đại cho văn học Việt Nam, Các lý thuyết phê bình văn học 9(11): chủ nghĩa hậu hiện đại, Chủ nghĩa hậu hiện đại – những mảnh nghĩ rời, Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái cần chết trong văn học Việt Nam… của Nguyễn Hưng Quốc (tienve.org); Thử thưởng thức một tác phẩm văn chương hậu hiện đại; Viết: Từ hiện đại đến hậu hiện đại… của Hoàng Ngọc Tuấn (tienve.org); Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản của Nguyễn Minh Quân (dactrung.net).

    Việc phát triển nhanh chóng công nghệ thông tin những năm gần đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà phê bình, nghiên cứu văn học trong nước trao đổi tri

  • 24

    thức, công bố những bài viết, đàm luận, tranh luận. Các trang web trong nước như: vienvanhoc.org; tapchisonghuong.com.vn; vannghesongcuulong.org; giacngo.vn; phongdiep.net… đều có sự tham gia của nhiều nhà lý luận phê bình. Chính các trang web này đã góp phần tích cực cho sự phổ biến lý thuyết hậu hiện đại ở trong nước. Có thể nhận định, đã có một bộ phận phê bình mạng sôi động với nhiều bài viết có giá trị thông tin, giá trị học thuật, như: Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại & chủ nghĩa hậu hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến (tapchisonghuong.com.vn); Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta của Đông La (vietbao.vn); Một nhầm lẫn “hậu hiện đại” của Ngân Xuyên (tiasang.com.vn); Chập chờn bóng ma hậu hiện đại của Đỗ Minh Tuấn (dongtac.net); Nói chuyện “hậu hiện đại” và “toàn cầu hóa” của Vũ Lâm (thethaovanhoa.vn); Nhà văn Lê Anh Hoài: Hậu hiện đại đã và đang được Việt hóa (vanhoc.trongnghia.info); Đôi điều về truyền thống và hiện đại của Thái Kim Lan (thuvienhoasen.org); Bàn về thuật ngữ văn học hậu hiện đại của Nguyễn Văn Tùng (vanhocvatuoitre.com.vn); Tri thức dưới quan điểm hậu hiện đại (mtol.net); Đằng sau hậu hiện đại của Thích Thanh Thắng (huongsenviet.blogspot.com); Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986 của Phùng Gia Thế (evan.vnexpress.net); Tùy bút nhỏ về hậu hiện đại của Văn Giá (www.chungta.com);Thiền và Hậu hiện đại của Nhật Chiêu (www.giacngo.vn); Hậu hiện đại sống ngoài tác phẩm của Nguyễn Hoàng Đức (www.chungta.com); Phải chăng nỗi sợ hãi hậu hiện đại là có thật của Bùi Công Thuấn (www.phongdiep.net); Xu hướng tân hình thức, hậu hiện đại trong thơ: chiếc áo rộng cho một cơ thể còm (www.cand.com.vn); “Người đàn bà thép’ của văn chương hậu hiện đại của Khánh Phương (chungta.com); Chuyên đề hậu hiện đại (mythuatvietnam.info); Chủ nghĩa hậu hiện đại? của Bùi Quang Thắng (viettems.com); Tản mạn về hậu hiện đại của Vương Văn Quang (www.nguoidaibieu.com.vn); Văn chương Việt trong bối cảnh hậu hiện đại của Hà Văn Thủy (phongdiep.net); Tư duy hậu hiện đại và những cách thu nhận kiến thức của Nguyễn Hào Hải (chungta.com); Nhận biết về chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật của Hồ Sĩ Vịnh (chungta.com); Hiện đại hóa và hậu hiện đại hóa của Phạm Ngọc Huệ (www.cpv.org.vn)... Đặc biệt trên trang mạng là các bài viết của nhà thơ – nhà phê bình Inrasara với tập hợp các bài Nhập lưu hậu hiện đại (7 kỳ, www.vanchuongviet.org); Nhập lưu hậu hiện đại cuối cùng hay giải [minh & giải

    http://www.giacngo.vn);http://www.cand.com.vn);http://www.nguoidaibieu.com.vn);http://www.vanchuongviet.org

  • 25

    oan] cho một từ (inrasara.com); Hậu hiện đại & thơ hậu hiện đại: Một phác họa (inrasara.com); Ma nét, quá trình chuyển giọng từ hiện đại đến hậu hiện đại (inrasara.com)…

    *** Đặc trưng của quá trình tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại, một lý thuyết không

    chủ trương xây dựng hệ thống quan niệm, là dẫn tới sự tồn tại những cách hiểu khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Điều này là một hiện tượng đương nhiên, bởi mỗi người tiếp nhận có một “tầm đón đợi” khác nhau, mặt khác là khoảng cách và giới hạn thẩm mỹ đặc thù của nền văn hóa bản địa không phải cái gì cũng tương thích với “phông” văn hóa gốc nơi lý thuyết đó ra đời. Trong quá trình tiếp nhận lý thuyết văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, thì xu hướng xem hậu hiện đại như một trạng thái tinh thần xã hội, biểu trưng cho một quy luật phát triển văn học là phổ biến. Nhìn chung, theo quan niệm này, các nhà nghiên cứu trong nước đã có sự đồng thuận và kế thừa từ những ý kiến của các học giả phương Tây, như nhận định tiêu biểu của Weith: “Nếu kỷ nguyên hiện đại đã trôi qua thì chúng ta đang ở thời hậu hiện đại, ngay dù cho chúng ta có vứt bỏ các nguyên lý của chủ nghĩa hậu hiện đại” [124, tr.477]. Qua việc hệ thống các bài viết và các công trình nghiên hậu hiện đại trong nước ở mục 1.2, có thể nhận thấy quan điểm đón nhận của đa số, và hầu hết những nhà nghiên cứu có uy tín đều cùng có chung tiếng nói đồng thuận về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện đại. Lê Huy Bắc đã quan niệm: “Đã đến lúc cần khẳng định nền văn chương hậu hiện đại Việt, nếu không, chúng ta chỉ “vẫn là ta” của nhiều thập kỷ trước” [18, tr.315].

    Chúng ta không thổi phồng vai trò của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với sự phát triển văn hóa, văn học dân tộc trong điều kiện hiện nay, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận những tác động khách quan của nó đối với sự vận động của văn học thời gian vừa qua, mà đặc biệt là tiểu thuyết. Thành quả có được không phải tự nhiên mà có. Sự nỗ lực của một đội ngũ đông đảo các nhà văn của đất nước trong việc tìm hiểu, ứng dụng kỹ thuật hậu hiện đại suốt nhiều năm qua để tạo ra những giá trị mới là điều phải được công nhận. Đã có rất nhiều trăn trở và công sức để tạo ra những giá trị văn hóa mới, chúng chưa có thể nói là tốt hơn trước, nhưng chắc chắn là hợp lý hơn.

  • 26

    Chương 2 TIẾP NHẬN CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

    TỪ 1986 ĐẾN 2010

    2.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hậu hiện đại 2.1.1. Những điều kiện hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại Điều kiện triết học Chủ nghĩa hậu hiện đại, khi được hiểu là một phon