luẬn Án tiẾn sĨ sỬ hỌc - hueuni.edu.vn · trong khÁng chiẾn chỐng mỸ, cỨu...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI XUÂN TOÀN
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
NHỮNG NĂM 1965 - 1973
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
HUẾ, NĂM 2017
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI XUÂN TOÀN
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
NHỮNG NĂM 1965 - 1973
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. LÊ CUNG
HUẾ, NĂM 2017
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tư liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực,
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả Luận án
Mai Xuân Toàn
iii
LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Cung, người đã định hướng đề tài, tận tâm
hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và
hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn quý thầy, cô Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau đại học,
Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Ban Đào tạo – Đại học
Huế, UBND tỉnh Quảng Bình, Lãnh đạo Sở Nội vụ và cán bộ, công chức Ban Thi
đua – Khen thưởng tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Phòng Tư liệu Quân khu 4,
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Chi cục Văn thư lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Văn
Phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, các nhân
chứng lịch sử, … đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được tiếp cận, khai thác các
nguồn tư liệu phục vụ học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè luôn đồng hành, động viên, chia sẻ và hỗ trợ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Huế, tháng 6 năm 2017
Tác giả Luận án
Mai Xuân Toàn
1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ............................................................................................................. i
Lời cam đoan ............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn ............................................................................................................... iii
Mục lục ....................................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 6
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu......................................................... 7
5. Đóng góp của luận án ......................................................................................... 7
6. Bố cục của luận án .............................................................................................. 8
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................ 9
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 9
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam ................ 9
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình ................................................. 16
1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu ....................................................... 24
Chương 2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965-1973 ............................................................... 25
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách mạng
của nhân dân Quảng Bình ..................................................................................... 25
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................... 25
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ....................................................................... 28
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình ......... 32
2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình .................................... 34
2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích ...................................................... 34
2
2.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân .................................................. 38
2.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ......... 48
2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4 ................................. 48
2.3.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Bình ..................................................... 51
2.4. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ................................................................... 55
2.5. Chuyển hướng nền kinh tế sang thời chiến, đảm bảo hậu cần tại chỗ cho
chiến tranh nhân dân ............................................................................................. 59
2.5.1. Trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp ................................................ 59
2.5.2. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ............................. 66
2.5.3. Trong lưu thông phân phối ..................................................................... 69
Chương 3 QUÂN DÂN QUẢNG BÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH
NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
NHỮNG NĂM 1965-1973 ....................................................................................... 75
3.1. Công tác phòng không nhân dân ................................................................... 75
3.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ .................................................................. 75
3.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân ........................................................................ 82
3.2. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ........................................................... 85
3.2.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang hình thành thế trận chiến
tranh nhân dân .................................................................................................. 85
3.2.2. Đấu tranh chống gián điệp, biệt kích ...................................................... 93
3.2.3. Đánh máy bay và tàu chiến .................................................................... 99
3.3. Đảm bảo giao thông và vận tải chi viện chiến trường ................................. 118
3.3.1. Đảm bảo giao thông .............................................................................. 118
3.2.2. Vận tải chi viện chiến trường ............................................................... 128
Chương 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH NHỮNG NĂM 1965-1973 .. 141
4.1. Đặc điểm ...................................................................................................... 141
4.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài, liên tục và rất khốc liệt .. 141
3
4.1.2. Được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ của
nhiều lực lượng ............................................................................................... 147
4.1.3. Diễn ra trên khắp các lĩnh vực, trong đó giao thông vận tải là nóng
bỏng nhất ........................................................................................................ 152
4.1.4. Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 phát
triển vượt bậc theo thời gian ........................................................................... 158
4.2. Ý nghĩa lịch sử ............................................................................................. 161
4.2.1. Góp phần quan trọng cùng với miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ ................................................................................ 161
4.2.2. Góp phần to lớn để Quảng Bình hoàn thành vai trò hậu phương của
cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên .......................... 164
4.2.3. Làm dày thêm những giá trị sống của cộng đồng dân cư địa phương
để Quảng Bình (cùng với Vĩnh Linh) thành tuyến đầu của miền Bắc trong
kháng chiến chống Mỹ ................................................................................... 167
4.3. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 171
4.3.1. Chủ động vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của
Đảng phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương ..................................... 171
4.3.2. Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động phòng, tránh, đánh trả
trong tình huống có chiến tranh bao vây, cô lập và ngăn chặn ...................... 174
4.3.3. Gắn xây dựng thế trận với củng cố hệ thống chính trị và phát triển
kinh tế - xã hội để đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân .......... 176
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 180
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 184
PHỤ LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Quảng Bình (cùng
với Vĩnh Linh) là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương cận kề của
cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên, là điểm khởi đầu và lan
tỏa của tuyến đường Hồ Chí Minh chi viện chiến trường miền Nam và phong trào
kháng chiến chống Mỹ ở địa bàn Nam Lào và Campuchia.
Do Quảng Bình có vị thế chiến lược quan trọng như vậy nên đế quốc Mỹ xem
nơi đây là “yết hầu”, “nút chặn” quyết liệt nhất trong chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Mỹ tập trung lực lượng lớn không quân, hải quân kết hợp chiến tranh gián điệp
biệt kích đánh phá Quảng Bình từ ngày 5-8-1964, mở rộng từ ngày 7-2-1965 và kéo
dài cho đến ngày 15-1-1973. Quảng Bình là nơi bị đánh phá dài nhất, quy mô lớn
nhất và mức độ tàn phá nghiêm trọng nhất. Đối với ta, Quảng Bình là nơi thử thách
ác liệt nhất trong chiến tranh phá hoại để mở đường, bảo vệ đường và đảm bảo giao
thông vận tải chi viện chiến trường, bảo vệ tuyến đầu của miền Bắc, đặc biệt là
những thời điểm Mỹ đánh phá ngăn chặn, phong tỏa ác liệt nhất (từ tháng 4 đến
tháng 10-1968 và năm 1972). Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp, trực tiếp
là Tỉnh ủy Quảng Bình, quân dân địa phương đã thiết lập thế trận chiến tranh nhân
dân rộng khắp, kiên cường bám địa bàn để sản xuất và chiến đấu, lập nên những
chiến công xuất sắc, dẫn đầu miền Bắc về thành tích tiêu diệt máy bay và tàu chiến
Mỹ. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của cấp ủy Đảng và chính quyền Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ là lấy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để
đánh thắng chiến tranh phá hoại tổng lực của đế quốc Mỹ. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đã khẳng định: “Nếu tổng kết
cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện thì cần nghiên cứu ở Quảng Bình, đánh phá
giao thông vận tải phải nghiên cứu ở tuyến đường Hồ Chí Minh và đánh phá đô thị
thì phải tổng kết ở Hà Nội, Hải Phòng” [164, tr. 363]. Do đó, nghiên cứu cuộc
5
chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những
năm 1965-1973 là việc làm có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc tái hiện diễn biến chính của cuộc chiến
tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm
1965-1973, luận án phản ánh bức tranh toàn cảnh về cơ sở hình thành và phát triển,
diễn biến chính của chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được vận
dụng một cách sáng tạo trên địa bàn Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu của luận án
minh chứng Quảng Bình là một mẫu hình địa phương về việc kế thừa tri thức và
truyền thống chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, phát huy
thành đỉnh cao trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó, luận án góp
phần khẳng định Quảng Bình xứng đáng với vị trí tuyến đầu của miền Bắc trong
cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần bổ sung nguồn tư liệu lịch sử kháng
chiến chống Mỹ của dân tộc nói chung và của Quảng Bình nói riêng. Luận án rút ra
những bài học kinh nghiệm giúp các nhà chính trị, quân sự nghiên cứu vận dụng để
hoạch định chính sách, đề ra những chủ trương sát đúng phục vụ công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước hiện nay; luận án còn là tài liệu để giáo dục tinh thần yêu
nước và cách mạng cho các thế hệ nhân dân Quảng Bình, đặc biệt là đối với thế hệ
trẻ, nhằm khơi dậy lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của cha ông, để nỗ lực vươn
lên xây dựng quê hương giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề “Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973” làm đề tài Luận
án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tái hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về
cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ những năm 1965-1973; làm rõ một số đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học
6
kinh nghiệm trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân vào điều kiện cụ thể
của Quảng Bình. Thông qua đó, khẳng định vị trí chiến lược, vai trò của chiến tranh
nhân dân ở Quảng Bình đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá những vấn đề đã được nghiên cứu,
rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở hình thành và phát triển của cuộc chiến tranh nhân dân ở
Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973.
- Những diễn biến chính của cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973 trên các mặt như quá trình
hình thành thế trận chiến tranh nhân dân, sản xuất, phòng tránh, đánh trả, đảm bảo
giao thông vận tải chi viện chiến trường, …
- Rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc
chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những
năm 1965-1973.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, với những cơ sở
hình thành và phát triển, những diễn biến chính trên các lĩnh vực của chiến tranh.
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, từ ngày 7-2-1965 đến ngày 15-1-1973, tức là thời điểm Mỹ mở
rộng và kết thúc chiến tranh phá hoại miền Bắc và là khung thời gian triển khai thế
trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn
Quảng Bình.
Về không gian, toàn bộ địa bàn tỉnh Quảng Bình, gồm thị xã Đồng Hới và 6
huyện (Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa và Minh Hóa)
nhưng tập trung ở những địa bàn, trọng điểm then chốt nhất. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp nhất định, để làm rõ hơn nội dung, không gian có thể được mở rộng
7
ra một số địa phương khác thuộc Quân khu 4 và thời gian có thể đẩy lùi về trước
ngày 7-2-1965 liên quan đến những hành động đánh phá hạn chế của đế quốc Mỹ
cũng như quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Bình.
Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển
thế trận chiến tranh nhân dân, chuyển hướng sản xuất sang thời chiến để đảm bảo
hậu cần cho chiến tranh nhân dân, công tác phòng tránh, đánh trả và đảm bảo giao
thông vận tải chi viện chiến trường.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về nguồn tư liệu
- Các công trình chuyên khảo trong và ngoài nước đã công bố, những bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành, liên quan trực tiếp đến đề tài.
- Tài liệu lưu trữ tại Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Phòng Lưu trữ -
Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Bình, Phòng Khoa học
quân sự Quân khu 4, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, bao gồm các báo cáo, biên bản,
chỉ thị, nghị quyết, nghị định, thông tư, kế hoạch, ... của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, Quân khu 4, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh
Quảng Bình, các Ban, ngành, huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Bình, ...
- Tài liệu điều tra điền dã, hồi kí, những nhân chứng lịch sử, ...
Về phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gic để trình
bày các vấn đề theo diễn tiến trình tự thời gian trong mối quan hệ móc xích với nhau.
Các phương pháp như văn bản học, phân tích, so sánh, tổng hợp, … kết hợp phỏng
vấn khai thác tư liệu từ các nhân chứng, phương pháp chuyên gia, ... cũng được lựa
chọn, sử dụng để xử lí tư liệu nhằm tái hiện một cách trung thực nhất diễn biến của
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình cũng
như rút ra những nhận định khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Một là, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối đầy
đủ về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
8
Hai là, luận án làm rõ những cơ sở hình thành và phát triển, những diễn biến
chính của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của quân và dân
Quảng Bình trong những năm 1965-1973, thông qua sự sáng tạo của quân dân
Quảng Bình trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào thực
tế của địa phương; từ đó rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh
nghiệm đóng góp vào kho tàng tri thức và kinh nghiệm lịch sử trong chiến tranh vệ
quốc và chiến tranh giải phóng của dân tộc.
Ba là, luận án cung cấp nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu, biên soạn và giảng
dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là lịch sử chống chiến tranh phá hoại ở
Quảng Bình; giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm
của thế hệ trẻ trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, cũng như góp phần
vào kho tàng tri thức lịch sử chiến tranh cách mạng của dân tộc đồng thời cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược và xây dựng lực lượng quốc
phòng toàn dân phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (21 trang),
nội dung luận án dài 171 trang, chia làm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (16 trang)
Chương 2. Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng
Bình trong kháng chiến chống Mỹ những năm 1965-1973 (50 trang).
Chương 3. Quân và dân Quảng Bình tiến hành chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ những năm 1965-1973 (66 trang).
Chương 4. Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến tranh
nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 (39 trang).
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được công bố, chủ yếu
như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam
1.1.1.1. Ở trong nước
Nghiên cứu về chiến tranh cách mạng nói chung, chiến tranh nhân dân trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng đã có rất nhiều công trình:
Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb
Quân đội Nhân dân, Hà Nội; Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1972), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội;
Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979), Nxb Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, ... Với vai trò là Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, các công trình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể
hiện rõ nét những quan điểm về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, như về quá trình hình thành và phát triển đường lối chiến tranh
nhân dân Việt Nam của Đảng, về tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh,
về mục đích, lực lượng, phương thức tiến hành, nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân, nổi bật là tư tưởng toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Tác giả khẳng định 1930-1945 là thời kì hình
thành đường lối khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng, đi đến hoàn
chỉnh ở thời kì 1945-1954 và được nâng cao trong thời kì 1954-1975. Riêng về
công trình Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, gồm 5 bài viết, sau khi tổng kết những thắng lợi hết sức to lớn
mà quân và dân ta đã giành được trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại,
tác giả phân tích tính chất, mục đích thủ đoạn đánh phá cùng những thất bại của đế
10
quốc Mỹ; nêu bật tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của quân dân ta, đường lối chiến tranh, đặc biệt là đường lối chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại, từ đó rút ra những bài học qua 4 năm chống chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), trong đó nhấn mạnh vị trí chiến lược của chiến
tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương, cũng như
phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển.
Riêng đối với cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, tác giả làm rõ
đó là một cuộc chiến đất đối không, đất đối biển, không đối không, không đối biển
và thậm chí là cả đất đối đất, với những nội dung cụ thể là “toàn dân đánh máy bay
và tàu chiến địch, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông
vận tải, kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh
tế để phục vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện miền Nam và chi viện quốc tế”
[100, tr. 62].
Văn Tiến Dũng (1979), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân, tập 2,
Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, luận giải nhiều vấn đề mang tính tổng kết về
truyền thống chiến tranh nhân dân trong lịch sử và chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc như về nghệ thuật quân sự
trong kháng chiến chống Mỹ, về một số kinh nghiệm trong chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, như đánh giá đúng âm mưu chiến lược và khả
năng hoạt động của địch, có quyết tâm cao đối phó kịp thời và giành thắng lợi, tiến
hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
ra sức tranh thủ sự viện trợ quốc tế, …
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982, 1983), Chiến tranh nhân dân đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
trình bày đặc điểm tình hình và diễn biến của chiến tranh, rút ra 9 bài học kinh
nghiệm về chỉ đạo chiến tranh nhân dân đánh thắng không quân và hải quân Mỹ,
xây dựng lực lượng vũ trang trong chiến tranh, đảm bảo giao thông vận tải, chuyển
11
hướng kinh tế, tổ chức phòng không nhân dân, … bảo vệ vững chắc hậu phương và
chi viện cho tiền tuyến.
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, trình bày các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, rút
ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có “nghệ thuật tiến hành chiến tranh
nhân dân sáng tạo, tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc”.
Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, trong chương X và XI đề cập những diễn biến chính của cuộc chiến đấu của
quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân
Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, ngoài đề cập quá trình
xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, làm chỗ dựa cho cách mạng miền
Nam, công trình dành phần quan trọng trình bày về xây dựng và phát huy tuyến vận
tải chiến lược chi viện cách mạng miền Nam, chủ yếu là qua tuyến đường Trường
Sơn. Công trình cũng rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về phát huy vai trò hậu
phương trong chiến tranh nhân dân.
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến
tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tổng kết nguyên nhân và diễn biến của cuộc chiến tranh cách mạng
30 năm (1945-1975), rút ra những bài học, trong đó có bài học về đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh, về hậu phương - căn cứ địa, về
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh cách mạng giải
phóng dân tộc, …
Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân: Chuyên đề chỉ
đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc (1954-1975), Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, làm rõ một số đặc điểm có liên quan đến quá trình chỉ đạo
12
xây dựng và hoạt động của lực lượng phòng không địa phương, từ đó rút ra 4 bài
học kinh nghiệm, đó là thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động xây
dựng, phát triển lực lượng phòng không địa phương trong thế trận chiến tranh nhân
dân đối không; Vừa chỉ đạo đánh trả có hiệu quả máy bay địch, vừa chỉ đạo thực
hiện tốt việc sơ tán phòng tránh, khắc phục hậu quả ở địa phương; Quán triệt sâu
sắc tư tưởng, nguyên tắc tác chiến phòng không, vận dụng sáng tạo vào chỉ đạo tác
chiến phòng không địa phương, thực hiện cách đánh thích hợp có hiệu quả, kết hợp
phòng không địa phương với phòng không chủ lực; Phát huy vai trò lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, quản lí điều hành của chính quyền, tham gia của các ngành, đoàn thể,
vai trò tham mưu và chỉ huy của cơ quan tham mưu phòng không các cấp.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà
Nội, trong đó về cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc
được phản ánh trong các tập IV, V, VI, VII.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc
Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường những năm
1965-1973, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tái hiện những nét đặc sắc, tiêu biểu
nhất về quá trình lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức chiến đấu của quân dân ta, từng bước
đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá, phong tỏa bằng vũ khí công nghệ cao hết
sức hiểm độc của đế quốc Mỹ ở trên chiến trường sông biển thuộc quân khu 3 và 4
(gồm các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh vào đến Vĩnh Linh), trong đó tập trung chủ
yếu ở một số vùng có ý nghĩa chiến lược như cảng Hải Phòng, cảng Gianh và Nhật
Lệ. Công trình làm rõ những loại vũ khí và thủ đoạn đánh phá, phong tỏa của Mỹ
cùng quá trình quân dân ta đối phó, làm vô hiệu hóa cuộc chiến phong tỏa. Trên cơ
sở đó, công trình rút ra kết quả, ý nghĩa và 7 bài học kinh nghiệm, trong đó có
“quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, … Không ngừng xây
dựng và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân chống địch đánh phá phong tỏa”
[214, tr. 286, 356].
13
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập IV: Từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội,
nghiên cứu tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam qua
quá trình lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó có tư
tưởng tiến hành chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân toàn diện, dựa vào sức
mình là chính, đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế; tư tưởng xây dựng căn cứ địa,
hậu phương chiến tranh; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; tư tưởng xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân và nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập V: Tổng luận, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, rút ra những vấn đề
chung nhất, có tính quy luật, xuyên suốt tiến trình lịch sử tư tưởng quân sự Việt
Nam, trong đó có tư tưởng chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam;
tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương; tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang;
tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cùng với những công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên đây, trong những thập
kỉ cuối của thế kỉ XX, rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân đã
được công bố dưới hình thức chuyên khảo của các nhà xuất bản: Chính trị quốc gia,
Quân đội nhân dân, Khoa học xã hội, … và các chuyên luận liên quan đến vấn đề
chiến tranh nhân dân đăng trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu
Lịch sử, Lịch sử Quân sự và nhiều tạp chí, nội san của các cơ quan Trung ương và
địa phương.
Nhìn chung, qua các công trình trên đây, vấn đề chiến tranh nhân dân Việt
Nam - lí luận và thực tiễn đã được nghiên cứu kĩ dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về lí luận, các công trình công bố đã tổng kết những thuộc tính, đặc điểm
và bài học kinh nghiệm từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc,
được vận dụng và nâng cao thành lí luận về chiến tranh nhân dân trong thời đại
Hồ Chí Minh.
Về thực tiễn, các công trình đã tái hiện bức tranh toàn cảnh về chiến tranh
nhân dân trong bối cảnh cách mạng Việt Nam, nổi bật là cuộc vận động Cách mạng
14
tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì chống thực
dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đó là những nguồn tư liệu quý để chúng tôi kế thừa và làm cơ sở để nghiên
cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
1.1.1.2. Ở ngoài nước
Mc. T. Kahin and John Lewis (1967), The US in Vietnam (Mỹ ở Việt Nam),
Codell Publish, New York, tái hiện quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam cùng
tiến trình đi đến ném bom phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu
phương lớn cho cách mạng miền Nam. Từ thực tế của cuộc chiến đấu của nhân dân
miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, các tác giả nhận thấy “những cuộc ném bom
của Mỹ không làm nao núng và khủng bố tinh thần dân chúng mà đã kích thích và
hun đúc họ. Ngay từ lúc quả bom Mỹ đầu tiên rơi xuống Bắc Việt Nam, đất nước
này đã kết lại thành một khối không gì lay chuyển được” [222, tr. 231-232]. Thậm
chí còn đi xa hơn, các tác giả khẳng định nếu Mỹ mở cuộc xâm lược miền Bắc sẽ
vấp phải cuộc phản công liên tục của một quân đội chính quy và một quốc gia toàn
du kích, buộc Mỹ cuối cùng phải rút lui.
T. Hoopes (1969), The limits of intervention (Những giới hạn của sự can
thiệp), David Mc. Kay Company, New York, sớm nhận ra việc Mỹ tăng cường ném
bom lại giúp miền Bắc mở rộng hệ thống giao thông vận tải cũng như mở ra những
biện pháp sáng tạo trong công tác phòng tránh, vận chuyển hàng hóa và chi viện
chiến trường miền Nam. Từ đó, tác giả cho rằng sức mạnh can thiệp của Mỹ là có
giới hạn và Nhà Trắng khó có thể đạt được mục đích trong cuộc chiến này khi phải
đối đầu với một dân tộc ngoan cường, đầy sáng tạo.
Jon Vandyke (1972), North’s Vietnam Strategy for survival (Chiến lược để tồn
tại của Bắc Việt Nam), Pacific Books, California, đi sâu nghiên cứu công tác tổ
chức hệ thống giao thông của Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tác giả nhận ra, để đảm
bảo cho công tác giao thông vận tải, chi viện chiến trường miền Nam, một lực
lượng lớn nhân công được huy động gồm công binh, công nhân giao thông, dân
15
quân tự vệ, thanh niên xung phong với đủ lứa tuổi, không chỉ là những thanh niên
tuổi từ 15 đến 30 mà còn có cả người già, bà mẹ và thiếu niên. Những lực lượng này
vừa tự sản xuất đảm bảo lương thực vừa làm những công việc như vận chuyển đất
đá sửa đường, xây dựng công sự và hầm trú ẩn, bốc dỡ hàng hóa, di chuyển vũ khí
phòng không và tham gia tháo gỡ bom nổ chậm, … Nhờ đó, hệ thống giao thông
dày đặc gồm đường bộ, đường sắt, đường thủy trên toàn miền Bắc luôn được duy trì
hoạt động với sự nỗ lực tối đa, bất chấp mọi hiểm nguy của những người điều khiển
phương tiện cũng như người làm công tác đảm bảo bằng nhiều biện pháp ngụy
trang khéo léo và những nỗ lực vận chuyển phi thường.
US. Government Printing Office (1973), Causes, Origins and lessons of the
Vietnam War, May, 9, 10 and 11, 1972 (Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học trong
chiến tranh Việt Nam), Washington, tập hợp những luận điểm chính của các học giả
và nghị sĩ Mỹ làm rõ nguồn gốc và nguyên nhân của việc Hoa Kỳ can dự vào cuộc
chiến đang diễn ra ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học cần thiết. Một trong
những bài học mà các nhà lập pháp Mỹ phát hiện ra là đánh giá đúng sức mạnh của
dân tộc Việt Nam: “Đối phương đã tìm ra “một chiến lược khôn khéo đến mức
nguy hiểm để đánh bại Mỹ. Chiến lược đó là tiến hành một cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc dựa trên nguyện vọng của nông dân Việt Nam muốn độc lập và công
bằng xã hội. Nước ngoài không bao giờ có thể địch nổi chiến lược đó” [224, tr. 91].
Gabriel Kolko (1985), Anatomy of a War: Vietnam, the United States and the
Modern Historical Experience, New York, The New Press. 1994 (Giải phẫu một
cuộc chiến tranh - Nước Mỹ và kinh nghiệm chiến tranh hiện đại), Người dịch:
Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, (2003), phân tích chi tiết, sâu
sắc các đối tượng trong cuộc chiến mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam, gồm Hoa Kỳ, Việt
Nam cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam/Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
đồng thời cảnh báo mọi sự can thiệp của Mỹ trong tương lai chắc chắn sẽ phải chịu
kết quả tai hại như ở Việt Nam, bởi vấp phải một dân tộc luôn lấy dân làm gốc, huy
16
động được quần chúng nhân dân và lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập.
Những công trình đã công bố ở ngoài nước phần lớn đề cập đến chính sách,
âm mưu, thủ đoạn tiến hành chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc
qua đó thấy được mức độ khốc liệt của chiến tranh phá hoại. Đồng thời, thông qua
việc phản ánh phản ứng và đối phó của nhân dân miền Bắc đối với chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, các công trình này cũng thể hiện sự thừa nhận khách quan về
sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đáp trả chiến tranh phá hoại tổng lực
của Mỹ. Đây là những luận cứ quan trọng để luận án đưa ra những nhận định khách
quan, khoa học.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình
1.1.2.1. Ở trong nước
- Những công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại trên địa bàn Quân khu 4, trong đó có Quảng Bình
Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương:
Chuyên đề Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và cơ
quan quân sự địa phương trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Sau khi
khái quát diễn biến về cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm ở Quân khu 4, công trình
đã rút ra 5 bài học về việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, về xây dựng tổ chức,
nêu cao trách nhiệm và chỉ đạo các lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân trên
địa bàn Quân khu 4 qua hai cuộc kháng chiến.
Quân khu 4 (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tập
hợp những tham luận từ hội thảo cùng tên, đề cập đến nhiều khía cạnh của cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ và cuộc chiến đấu của quân dân Quân khu 4 nói chung,
của các tỉnh ở Quân khu 4 nói riêng, trong đó có Quảng Bình, trên mặt trận giao
thông vận tải.
17
Quân khu 4 (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ của lực lượng vũ trang Quân khu 4 (1945-1975), Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, sau khi trình bày những hình thức chiến thuật mà lực lượng
vũ trang Quân khu 4 đã thực hiện trong hai cuộc kháng chiến, công trình rút ra 5 bài
học kinh nghiệm có liên quan đến chiến tranh nhân dân là tăng cường vai trò lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng và chỉ huy; chủ động đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi
vũ khí, mọi hình thức ở trong mọi điều kiện địa hình và thời tiết; thực hiện ba bám:
bám địch, bám dân, bám đồng bằng trong thế trận chiến tranh nhân dân; kết hợp
chặt chẽ giữa chiến tranh du kích của các lực lượng vũ trang địa phương với chiến
tranh chính quy của bộ đội chủ lực; chú trọng, xây dựng củng cố mối quan hệ với
cách mạng Lào.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Cục Hậu cần (2007), Lịch sử hậu cần lực lượng vũ
trang Quân khu 4 (1945-2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, đề cập công tác
chuẩn bị về hậu cần cho lực lượng vũ trang trên địa bàn Quân khu 4 trong 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Liên quan đến thời kì kháng chiến chống Mỹ, công trình có đề cập
công tác chi viện chiến trường Trị - Thiên và cũng như việc mở đường vận
chuyển, đảm bảo hậu cần, giải quyết hậu quả các chiến dịch lớn, … của lực lượng
hậu cần Quân khu 4.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2012), Lịch sử dân quân tự vệ Quân khu 4 (1945-
2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, dành chương II đề cập đến lực lượng dân
quân tự vệ ở Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), rút ra
những bài học về vai trò của lực lượng dân quân tự vệ trong chiến tranh, về công tác
lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức đối với dân quân tự vệ, về xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, lấy dân quân tự vệ làm nòng cốt ở cơ sở.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2015), Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập 2: Thời
kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tái bản bổ sung lần 1, Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, dành ra 4 chương (III, IV, V và VI) phản ánh cuộc kháng
chiến chống Mỹ của quân dân Quân khu 4, như về bối cảnh lịch sử, một số chủ
18
trương của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu, trong đó đối với Quảng Bình, những
chiến công tiêu biểu nhất trên lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, đảm bảo giao thông
được ghi nhận. Trong chương kết, một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 là đã động viên
được toàn dân phát huy vai trò chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại các loại hình
chiến tranh xâm lược.
- Những công trình nghiên cứu về công tác mở đường, chiến đấu bảo vệ
đường và đảm bảo vận chuyển trên đường Trường Sơn qua địa bàn Quảng Bình
Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm do Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế
biên soạn năm 1979 trên cơ sở tập hợp những tư liệu của nước ngoài về sự hình thành
và phát triển của hệ thống đường Trường Sơn cùng cuộc chiến tranh ngăn chặn của
đế quốc Mỹ. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh con đường huyền thoại,
Nxb. Quân đội Nhân dân; Phan Hữu Đại - Nguyễn Quốc Dũng (đồng chủ biên),
(1999), Lịch sử Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội
Nhân dân, Hà Nội, Nguyễn Thế Kỷ - Nguyễn Sĩ Cứ (chủ biên), (2009), Trường Sơn
đường khát vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, … Qua những công trình này,
quá trình xây dựng và chiến đấu, bảo đảm vận chuyển trên đường Trường Sơn trong
tình hình chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt, được thể
hiện tương đối toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên, Quảng Bình với vị trí là trung
tâm, điểm khởi đầu của hệ thống đường chiến lược này lại chưa được nhấn mạnh nên
các công trình chưa cho thấy điểm khác biệt giữa chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của
Mỹ ở Quảng Bình so với những nơi khác trên đường Trường Sơn.
- Những công trình nghiên cứu về Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,
tập II, 1954-1975, Đồng Hới; Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2010), Lịch sử
Đảng bộ Quân sự tỉnh Quảng Bình (1945-2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
đề cập tình hình, chủ trương của Tỉnh ủy và Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình
trong lãnh đạo, chỉ đạo cùng những diễn biến nổi bật của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước ở địa phương.
19
Thường vụ Tỉnh ủy - Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình (1994),
Lịch sử Quảng Bình chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, là công trình đề cập khá toàn
diện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Quảng Bình (1954-1975). Ưu điểm
nổi bật của công trình này là có nguồn tư liệu gốc và nhân chứng phong phú, tái
hiện sinh động công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng quá trình quân dân
Quảng Bình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đảm bảo chi viện chiến trường,
làm nghĩa vụ của hậu phương. Luận án kế thừa nhiều tư liệu từ công trình này.
Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành
chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), dành chương V đề cập công
tác tổ chức các lực lượng, điều hành các hoạt động quản lí xã hội, vừa sản xuất vừa
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, trong đó nhấn mạnh công tác chỉ đạo chuyển
hướng mọi hoạt động sang thời chiến, thiết lập thế trận chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại và những thành tích tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu.
Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành
chính, Hà Nội, dành chương 14 đề cập cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
Quảng Bình, trong đó có những diễn biến chính của cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại.
Về lịch sử các ngành có: Lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng Phụ nữ tỉnh
Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo, (1995); Lịch sử Y tế Quảng Bình 1945-1995, Đồng
Hới, (1996); Lịch sử phong trào Công nhân và Công đoàn tỉnh Quảng Bình, tập 1
(1885-1975) (1998); Lịch sử Bộ đội biên phòng Quảng Bình, tập 1 (1959-1995),
(1998); Lịch sử Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình 1885-1999, Nxb. Giao thông
vận tải, Hà Nội, (1999); Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Ninh - 55 năm
xây dựng - chiến đấu - trưởng thành (1945-2000), (2000); Lịch sử Công an nhân
dân thành phố Đồng Hới 1945-2005, (2005); Những trận đánh tiêu biểu của lực
lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1945-1975), (2005); Lịch sử
Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1946-2005),
(2010); Nghiên cứu mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc biệt giữa Quảng Bình,
Khăm Muộn và Savannakhet giai đoạn 1954-2000, Sở Ngoại vụ Quảng Bình,
(2011); Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình 80 năm xây dựng và trưởng thành (1930-
20
2010), Đồng Hới, (2012); Lịch sử Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và
phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1930-2000), (2012); Lịch sử
ngành Tuyên giáo Quảng Bình giai đoạn 1930-2010), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Quảng Bình, (2013); Lịch sử ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Quảng Bình từ năm 1948
đến năm 2013, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình, (2014); Nghiên cứu quá trình
phát triển kinh tế hợp tác xã tỉnh Quảng Bình từ năm 1946 đến nay, Liên minh Hợp
tác xã tỉnh Quảng Bình, (2014); Lịch sử giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (1945-
2015), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội, (2015), … Tiếp cận truyền thống của các
ngành, ở những mức độ đậm nhạt khác nhau, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975) nói chung và tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ những năm 1965-1973 nói riêng ở Quảng Bình được phản ánh trong sự đa
dạng về lực lượng toàn dân đánh giặc, với sự phong phú về hình thức chiến đấu, …
Về lịch sử Đảng bộ các địa phương có: Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ Thủy, tập 2
(1954-1975), (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Ninh, tập 2 (1954-1975), Sơ
thảo, (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Bố Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử
Đảng bộ huyện Quảng Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử Đảng bộ huyện
Tuyên Hóa, tập 2 (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2006) … đề cập
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở các địa phương, trong đó có chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại, với những sự kiện nổi bật ở cơ sở.
Mặc dù các công trình đã viện dẫn trên đây đều có đề cập đến nội hàm chiến
tranh nhân dân, nhưng mỗi công trình nhìn nhận vấn đề chiến tranh nhân dân ở
những góc nhìn khác nhau, chưa có công trình nào tái hiện đầy đủ bức tranh toàn
cảnh của chiến tranh nhân dân và chưa dành sự đánh giá, nhận định đầy đủ về các
thuộc tính bộc lộ từ cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ trong một thời gian dài từ trước năn 1965 đến năm 1973.
- Những luận án, luận văn đề cập chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ
Nguyễn Khắc Thái (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ trong những năm chống Mỹ (1965-1968), Luận án tốt
nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình
21
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ làm
nòng cốt cho chiến tranh nhân dân ở cơ sở như về tư tưởng chính trị, về phát triển
lực lượng, về trang bị, về huấn luyện chiến đấu, về xây dựng làng xã chiến đấu, về
những chiến công mà dân quân tự vệ Quảng Bình lập được trong giai đoạn 1965-
1968, … Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm như quán triệt
đường lối quốc phòng toàn dân, vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân của
Đảng, về hình thức tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, về mối quan hệ giữa công tác
chính trị với trang bị kĩ thuật, chiến đấu, … Phần phụ lục công phu, cung cấp nhiều
số liệu quan trọng về quá trình phát triển, tổ chức, chiến đấu của dân quân tự vệ
Quảng Bình giai đoạn 1965-1968.
Lê Văn Lợi (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên mặt trận đảm bảo giao thông
vận tải (1965-1968), Luận văn tốt nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình Đảng bộ Quảng Bình tổ chức, lãnh đạo công tác
đảm bảo giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968 như về việc chuyển hướng đảm
bảo giao thông vận tải những năm 1965-1966, tập trung các lực lượng để đảm bảo
giao thông vận tải, đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ những năm 1966-1968.
Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số suy nghĩ về thành công cơ bản của Đảng bộ
Quảng Bình trong lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo giao thông vận tải như nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đảng và vận dụng sáng
tạo đường lối đó vào thực tiễn, quá triệt đường lối chiến tranh nhân dân và nêu cao
tinh thần tự lực, dựa vào sức mạnh quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa củng cố quan
hệ sản xuất và tổ chức phân công lao động hợp lí để dành một phần lao động thích
đáng đảm bảo giao thông vận tải. Phần phụ lục cung cấp nhiều số liệu quan trọng về
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình và những thành tích mà quân dân
Quảng Bình đạt được trên mặt trận giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968.
Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu nước
trên mặt trận giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại
học Sư phạm Huế; Thái Thị Lợi (2007), Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh
22
Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ
Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế; Phan Thị Trà Giang (2010), Phong trào
“hai giỏi” ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-
1973, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, … ở những mức độ
khác nhau lần lượt đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Quảng
Bình trên lĩnh vực giao thông vận tải, xây dựng hậu phương, chi viện chiến trường,
chủ yếu tập trung trong giai đoạn 1965-1968.
Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
hậu phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm rõ những cơ sở để Đảng bộ Quảng
Bình đề ra những chủ trương cùng quá trình lãnh đạo quân dân địa phương thực
hiện nhiệm vụ hậu phương trên các lĩnh vực: Xây dựng tiềm lực hậu phương về
kinh tế - chính trị - văn hóa, xây dựng lực lượng quốc phòng, chiến đấu bảo vệ địa
bàn và đảm bảo giao thông vận tải, chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng
Lào trong thời kì 1964-1975, một số bài học về phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xây dựng hậu phương. Tuy đề cập đến nhiều vấn đề của chiến tranh nhân dân
ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ nhưng dưới góc độ của chuyên ngành
lịch sử Đảng nên nội dung luận án tập trung vào những chủ trương và vai trò lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương của Tỉnh ủy Quảng Bình.
Nhìn chung, các công trình chuyên khảo liên quan đến Quảng Bình trong
thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới những góc nhìn khác nhau đã ít
nhiều đề cập đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, hoạt động của
lực lượng vũ trang, các lực lượng phục vụ chiến đấu và trực tiếp sản xuất, chiến
đấu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quảng Bình. Mặc dù chưa
có công trình nào phản ánh toàn diện các thành tố và thuộc tính của chiến tranh
nhân dân nhưng dưới nhiều góc độ khác nhau, các công trình này đã cung cấp
nguồn tư liệu lí luận và thực tiễn quan trọng để làm cơ sở xây dựng các luận đề
khoa học trong luận án này.
23
1.1.2.2. Ở ngoài nước
Peter Weiss (1968), Réponse à Johnson sur les bombs ments limités (Trả lời
Johnson về những cuộc ném bom hạn chế), Seuil, Paris; trình bày diễn biến và
những thủ đoạn mà Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình kể từ
ngày 5-8-1964, chỉ ra những thiệt hại to lớn về người và vật chất mà các cuộc ném
bom gây ra, như phá hủy hoàn toàn Đồng Hới, Ba Đồn và các huyện lị trong tỉnh.
Công trình cũng cho thấy trong chiến tranh khốc liệt, công tác phòng tránh và cứu
thương được quân dân Quảng Bình thực hiện rất tốt, đảm bảo cho hoạt động sản
xuất vẫn được duy trì ở tất cả các ngành như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công
nghiệp và ngư nghiệp, làm ra những sản phẩm thiết yếu phục vụ cuộc sống cho
nhân dân địa phương cũng như chi viện cho chiến trường.
Alain Wasmes (1976), Vietnam, la feau du pachyderme (Việt Nam, tấm da của
loài thú da dày), Edition Socialies, Paris, khái quát quá trình hình thành và phát
triển của tuyến đường Trường Sơn, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ,
trong đó đối với Quảng Bình, hậu quả của các trận ném bom tạo nên khung cảnh
như đang ở trên Mặt Trăng với những chết chóc và đổ nát hiện diện khắp mọi nơi,
nhất là ở Đồng Hới. Đồng thời, tác giả chứng kiến nghị lực phi thường của nhân
dân địa phương tham gia công tác sửa chữa đường sá phục vụ chi viện cách mạng
miền Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên và hầu hết các công
trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án đã đề cập đến cơ sở hình thành
và những vấn đề lí luận về chiến tranh nhân dân. Dưới nhiều góc độ khác nhau,
những công trình nghiên cứu đã công bố đã đề cập ít nhiều đến diễn tiến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, trực tiếp là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, trong đó chứa đựng cả nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, đảm bảo giao thông vận
tải và chi viện chiến trường.
Có thể nói rằng, với sự phong phú của các hình thái, thế trận chiến tranh với
sự kết hợp khéo léo, hài hòa và sáng tạo giữa các thành tố làm nên chiến tranh nhân
dân như sản xuất và chiến đấu, phòng tránh với đánh trả, xây dựng hậu phương với
24
chi viện tiền tuyến, những diễn tiến của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã
được đề cập dưới rất nhiều góc nhìn khác nhau, trên những đối tượng nghiên cứu
khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu tương đối đầy đủ
và có hệ thống từ lí luận đến thực tiễn cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình những năm 1965-1973, rút ra những đặc
điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trước mắt và lâu dài.
1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa có lựa chọn những công trình nghiên cứu đã có và đặc biệt
là những tài liệu khai thác được, căn cứ diễn biến thực tế của cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm 1965-1973, luận án tập
trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những
năm 1965-1973.
- Sự hình thành thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
- Công tác chuyển hướng kinh tế và đảm bảo duy trì sản xuất nhằm đảm bảo
hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân và chi viện chiến trường ở Quảng Bình
những năm 1965-1973.
- Công tác đảm bảo giao thông vận tải trên địa bàn Quảng Bình bao gồm các
hoạt động mở đường, chiến đấu bảo vệ đường và vận tải chiến lược chi viện chiến
trường miền Nam.
- Công tác phòng không nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973, bao
gồm nội dung phòng tránh và đánh trả.
- Công tác đấu tranh chống gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn ở Quảng Bình những năm 1965-1973.
- Những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình những
năm 1965-1973.
25
Chương 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965 - 1973
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách
mạng của nhân dân Quảng Bình
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, có diện tích 8.065,27 km2, tọa độ
địa lí phần đất liền giới hạn từ 17005,02 đến 18005,12 vĩ độ Bắc, 105036,55 đến
1060059,37 kinh độ Đông. Quảng Bình có chiều ngang hẹp nhất của cả nước (nơi
rộng nhất 94,2km, nơi hẹp nhất 40,5km), phía Đông bờ biển dài 116km, phía Tây có
201,87 km biên giới với Lào, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với chiều dài 136,5km và
phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị dài 78,8km. Nhìn chung, địa hình Quảng Bình thấp
dần từ Tây sang Đông và hẹp dần từ Bắc vào Nam, phân thành 4 vùng liên quan với
nhau trong một hình thái địa lí hoàn chỉnh.
Vùng rừng núi ở phía Tây rộng 5.236,16 km2 (chiếm 65% diện tích tự nhiên),
địa hình hiểm trở, nhiều sông suối, bị chia cắt mạnh nên dễ bị đối phương lợi dụng
sơ hở xâm nhập, hoạt động biệt kích ta khó phát hiện, truy lùng. Ngoài ra, Quảng
Bình còn có các dãy núi chạy ra sát biển, như Đèo Ngang và mũi Roòn. Những dãy
núi này có thể xây dựng trận địa phòng thủ, khống chế vùng đồng bằng, tổ chức các
trạm quan sát, trinh sát, cảnh giới trên không, trên biển.
Vùng gò đồi rộng 1.677,95km2 (chiếm 19,7% diện tích tự nhiên), có độ cao từ
50-250m, là vùng đệm tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng. Vùng này thuận lợi cho
ta triển khai lực lượng, sơ tán giãn dân, làm công trình và các đường vòng tránh.
Vùng đồng bằng rộng 866,9km2 (chiếm 10,95% diện tích tự nhiên), nằm ở hạ
lưu các con sông. Vùng này có nhiều đồng lầy, nhiều cầu phà, tập trung đường sá và
các đầu mối giao thông quan trọng, dân cư đông đúc, thuận lợi cho việc huy động
sức người sức của tương đối lớn để đảm bảo giao thông vận tải, chiến đấu và phục
26
vụ chiến đấu. Trong chiến tranh phá hoại, khi địch tập trung đánh mạnh, nhất là
bằng máy bay và tàu chiến, ta khó bảo vệ mục tiêu, khó cơ động và triển khai lực
lượng, khó bố trí mạng hỏa lực và phòng vệ có chiều sâu, hỗ trợ nhau đắc lực, khó
cấu trúc công sự vững chắc.
Vùng ven biển ngoài nguồn lợi lớn về thủy hải sản còn có một số cảng như
Roòn, Gianh, Nhật Lệ, ... thuận tiện cho việc phát triển giao thông đường biển, kết
hợp vận chuyển đường biển và đường sông. Tuy nhiên, trong điều kiện hải quân,
không quân và các lực lượng bảo vệ bờ biển chưa lớn mạnh, công tác bố phòng, bảo
vệ và chống địch xâm nhập, đánh phá còn nhiều khó khăn. Mặt khác, các cửa biển
nhỏ, cạn chỉ có thể sử dụng tàu thuyền nhỏ và bị ảnh hưởng bởi mùa mưa bão. Dọc
bờ biển có nhiều cồn cát lớn, địa hình trống trải, khiến địch có thể dùng tàu chiến
vào gần bờ, bắn phá sâu vào đất liền. Ngược lại, do các cồn cát che khuất tầm nhìn
nên chúng phải dùng khí tài quan sát và hiệu chỉnh bắn. Vì vậy, ta có thể bố trí các
trận địa hỏa lực để đánh trả trong điều kiện phải đảm bảo công sự vững chắc và
ngụy trang tốt trận địa.
Vùng biển Quảng Bình mực nước tương đối cạn, ít có điều kiện cho tàu đổ bộ
nhưng các tàu khu trục và tuần dương Mỹ có thể vào cách bờ 5km và tàu biệt kích
là 1-3km. Một số đảo ven bờ như Hòn La, đảo Yến, Hòn Gió, Hòn Nấm, Hòn Cọ
hay các mũi đèo Ngang và Roòn, ta có thể bố trí hỏa lực để khống chế vùng biển và
đặt các trạm quan sát cảnh giới.
Quảng Bình có các con lớn sông là Roòn, Gianh (gồm 4 nguồn: Rào Nậy, Rào
Trổ, Rào Nam và Rào Son), Lý Hòa, Dinh và Nhật Lệ (gồm 2 nguồn: Kiến Giang
và Long Đại), chủ yếu chảy theo hướng Tây - Đông (trừ sông Nhật Lệ chảy hướng
Tây Nam - Đông Bắc). Các sông đều ngắn, dốc nên vào mùa mưa sẽ hứng một
lượng nước khổng lồ từ dãy Trường Sơn đổ xuống, gây nên lũ lụt và tạo thành
chướng ngại thiên nhiên lớn, chia cắt địa hình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản
xuất và giao thông vận tải. Với đặc điểm đó, trong thời bình việc khắc phục lũ lụt,
lầy úng đã khó thì trong chiến tranh, địch tập trung đánh phá các điểm vượt sông và
các khu vực lầy lội sẽ càng thêm gây khó khăn cho ta. Riêng sông Nhật Lệ, do
27
hướng chảy của mình lại tạo điều kiện thuận lợi hình thành tuyến vận tải từ cảng
Nhật Lệ đi về phía Nam hoặc đi sâu vào chân dãy Trường Sơn, nơi có các kho hàng
tập kết của Đoàn 559. Tuyến vận tải này đặc biệt phát huy vai trò nhất là vào những
thời điểm Quốc lộ 1 và Đường 15 bị ách tắc.
Thời tiết ở Quảng Bình chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 8 đến tháng
12, mùa khô kéo dài từ đầu năm đến tháng 7. Từ tháng 10 năm trước đến tháng 3
năm sau, Quảng Bình chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc, có nhiều mưa
phùn và lạnh. Vào tháng 1 và 2 hàng năm, vùng trung du và miền núi có sương mù
từ chiều hôm trước đến giữa sáng hôm sau, khiến tầm nhìn bị hạn chế xuống dưới
1.000m. Điều kiện này vừa có thuận lợi cho ta (như mây mù, mưa phùn hạn chế
hoạt động của máy bay địch) nhưng mặt khác, khi bị đánh phá thì tác hại lại kéo
dài, khó khắc phục. Ở Quảng Bình, mùa mưa bão hàng năm kéo dài từ tháng 9 đến
tháng 12, gây lũ lụt nghiêm trọng. Trong điều kiện này, máy bay và tàu chiến địch
cũng không hoạt động được. Do đó, việc nghiên cứu kĩ yếu tố thời tiết để tìm giải
pháp khắc phục khó khăn và phát huy thuận lợi nhằm hạn chế đến mức tối đa hoạt
động đánh phá của đối phương là vấn đề mang tính thường trực của quân dân
Quảng Bình.
Như vậy, đặc điểm tự nhiên của Quảng Bình vừa có thuận lợi cho việc triển
khai thế trận chiến tranh nhân dân như địa hình nhiều rừng núi, hang động có thể
xây dựng các căn cứ, kho tàng, che dấu lực lượng cũng như nhanh chóng sử dụng
lực lượng tại chỗ cơ động đánh địch xâm nhập, … Trong trường hợp bị chia cắt,
mỗi vùng là một khu phòng thủ hoàn chỉnh. Ở vùng nông thôn đồng bằng, dân cư
sống tập trung ven các trục đường nên dễ huy động được nguồn nhân lực lớn để bảo
đảm giao thông khi cần thiết. Tuy vậy, nhìn chung điều kiện tự nhiên của Quảng
Bình trong chiến tranh khó khăn là cơ bản, trong đó lớn nhất là địa hình bị chia cắt
mạnh nên khó cho việc mở đường mới cũng như sửa chữa khi gặp mưa lũ hoặc bị
địch đánh phá. Do đó, công tác chi viện cách mạng miền Nam sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Địa thế hẹp bề ngang với nhiều cửa sông và mỏm núi ăn ra biển khó cho việc
phòng thủ trước những âm mưu xâm nhập bằng biệt kích hoặc tập kích, đổ bộ của
28
địch hòng biến thành “nút chặn” con đường chi viện cách mạng miền Nam, chia
cắt, uy hiếp các mục tiêu nội địa.
Với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí có ý nghĩa chiến lược quan
trọng như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quảng
Bình cùng với Vĩnh Linh là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là hậu
phương trực tiếp của cách mạng miền Nam, trước hết là đối với Trị - Thiên. Với
tầm nhìn chiến lược, nhận rõ vị trí địa – chính trị, địa - quân sự của Quảng Bình,
ngay từ lần vào thăm (16-6-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Quảng Bình
cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáp miền Nam. Mọi việc làm tốt hay
xấu của các cô, các chú ở đây đều có ảnh hưởng nhất định đến cách mạng miền
Nam, đều có ý nghĩa đối với việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động gì, thì
Quảng Bình, Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết và phải đánh thắng
chúng trước hết” [40, tr. 278].
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Về kinh tế
Cho đến trước cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965), nền kinh tế Quảng
Bình chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Qua cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông
nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến năm 1960, có 95% số hộ tham gia hợp tác
xã nông nghiệp, 74% số hộ vào hợp tác xã tín dụng, 66,6% hộ tham gia hợp tác xã
mua bán, 90,6% thợ thủ công tham gia hợp tác xã thủ công nghiệp, 32 hộ tư sản ở
Đồng Hới và Ba Đồn tham gia công tư hợp doanh, thành lập mới 7 xí nghiệp sản
xuất kinh doanh [33, tr. 90]. Nổi bật trong sản xuất nông nghiệp là Hợp tác xã Đại
Phong (Lệ Thủy), ngọn cờ đầu của phong trào hợp tác xã nông nghiệp toàn miền
Bắc. Trong ngư nghiệp, Quang Phú (Đồng Hới) là ngọn cờ đầu của hợp tác xã
nghề cá toàn miền Bắc. Trong những năm 1960-1962, phong trào thi đua “học
tập, tiến kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” được phát động và dấy lên trong toàn
tỉnh. Kết quả, đến cuối năm 1962 có 200/780 hợp tác xã đạt danh hiệu “Hợp tác
xã Đại Phong”. Cùng với việc đẩy mạnh áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất
nông nghiệp, một loạt công trình thủy lợi được xây dựng như đê Hạc Hải, Rào
29
Sen, Cẩm Ly (Lệ Thủy), Ba Nương (Tuyên Hóa), Sông Thai, Cự Nẫm (Bố Trạch),
… đã góp phần đưa năng suất lương thực tăng lên. Năm 1962, toàn tỉnh đạt sản
lượng 119.290 tấn, bình quân đầu người là 329kg (so với năm 1960 cao hơn
29.490 tấn và 29kg) [196, tr. 136]. Nhờ vậy, nhiều hợp tác xã trước đây thiếu ăn
nay đã tự túc được lương thực và nhiều hợp tác xã từ tự túc lương thực có dư thừa
bán nghĩa vụ cho nhà nước.
Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, năm 1960, Quảng Bình có 18 xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh, 4 xí nghiệp công tư hợp doanh và 2 xí nghiệp hợp tác.
Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh có những chính sách và biện pháp chỉ đạo để
phát triển mạnh công nghiệp địa phương một cách vững chắc, xây dựng tiểu thủ
công nghiệp tiến dần lên cơ giới, đảm bảo cung cấp một phần tư liệu sản xuất, vật
phẩm tiêu dùng và vật liệu xây dựng. Kết quả, đến năm 1965, toàn tỉnh có 31 xí
nghiệp quốc doanh, 116 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, trong đó quan trọng và có
quy mô khá như xí nghiệp cơ khí 3-2, xí nghiệp cưa mộc Ba Đồn, xí nghiệp cưa
mộc Trị Thiên, xưởng cưa xẻ Ba Rền, xưởng gạch ngói Phúc Duệ, xí nghiệp đá Bến
Tiêm, xí nghiệp tàu Đồng Hới, xí nghiệp chế biến hải sản Bảo Ninh, xí nghiệp rượu
dâu Đồng Hới, …
Như vậy, phần lớn các xí nghiệp thủ công nghiệp ở Quảng Bình nặng về chế
biến thô từ nguồn tài nguyên tại chỗ của địa phương (gỗ, đá, thủy sản, …) nên trong
điều kiện có chiến tranh, những cơ sở này dễ phân tán và vẫn duy trì được sản xuất
bình thường, đảm bảo cung cấp vật liệu đá và gỗ phục vụ sửa chữa đường sá, xây
dựng hầm hào phòng tránh, … Mặt khác, do sản xuất thuần túy nông nghiệp nên
các mục tiêu kinh tế ở Quảng Bình rất phân tán, hạn chế được thiệt hại bởi các cuộc
đánh phá của đối phương, ngoại trừ những công trình thủy lợi.
Điều quan trọng là việc xây dựng được phong trào hợp tác xã mạnh về nhiều
mặt là điều kiện đảm bảo cho chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình phát huy được ưu
thế của mình như chủ động được việc bố trí, sắp xếp, huy động nhân lực sản xuất,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu cũng như làm công tác chi viện cách mạng miền
Nam như tham gia xây dựng, sửa chữa đường sá, vận chuyển hàng hóa và hỗ trợ về
30
mọi mặt cho chiến trường Trị - Thiên, chiến trường Lào, ngay cả khi có một bộ
phận lớn lực lượng thanh niên đã lên đường nhập ngũ.
2.1.2.2. Về xã hội
Cho đến năm 1965, dân số Quảng Bình có khoảng 41 vạn người, đa số là
người Kinh, nhưng phân bố không đều. Vùng miền núi rộng lớn chỉ có khoảng
4.000 người thuộc các dân tộc như Vân Kiều, Chứt sống rải rác trong các bản cách
nhau hàng ngày đường. Vùng ven biển có khoảng 24.000 người nhưng tập trung
chủ yếu ở các cửa sông. Do vậy, có những quãng biên giới, bờ biển dài 20-30km
không có người ở, dễ bị địch lợi dụng sơ hở để hoạt động gián điệp, biệt kích, xâm
nhập nội địa để chống phá. Trong khi đó, vùng đồng bằng nhỏ hẹp lại tập trung hơn
90% dân số bám theo các trục đường và ven sông [168, tr. 3]. Tuy có thuận lợi là dễ
huy động nguồn nhân lực lớn khi có yêu cầu nhưng với mật độ quá đông trên một
diện hẹp rất khó cho việc tổ chức phòng tránh, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại
về người và tài sản khi bị đánh phá cũng như cơ động lực lượng để đánh trả.
Việc dân số phân bố không đều gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã
hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng. Vùng miền núi rộng lớn tuy có nhiều
tiềm năng để phát triển nhưng còn quá thưa dân, trình độ nhận thức của đồng bào
dân tộc thiểu số còn hạn chế là khó khăn rất lớn trong việc khai thác tài nguyên
cũng như góp phần đấu tranh chống các hoạt động xâm nhập, phá hoại của địch.
Trong những năm trước chiến tranh, việc khai thác khu vực cận sơn đã được chú ý
bằng việc xây dựng một số nông trường dọc theo Đường 15 như Nông trường 1-5,
Nông trường Việt - Trung, Nông trường Lệ - Ninh, … Đây thực chất là mô hình quân
đội làm kinh tế trong thời bình, góp phần quan trọng thực hiện kinh tế kết hợp với
quốc phòng, hình thành tuyến hậu phương chiến lược trong chiến tranh 1. Tuy nhiên,
những vùng kinh tế mới như trên vẫn còn ít, một mảng lớn núi rừng vẫn còn bỏ trống.
Đây là địa bàn mà đối phương thường xuyên lợi dụng để hoạt động biệt kích. Khi
chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra, phần lớn các tuyến đường chi viện cách mạng
1. Như Nông trường Việt - Trung có thể sửa chữa lớn 1.000 ô tô/năm, có sức chứa 2 sư đoàn
bộ binh.
31
miền Nam đều đi qua địa bàn miền núi Quảng Bình nhưng việc huy động nguồn nhân
lực và vật lực tại chỗ để xây dựng, sửa chữa gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu phải đưa
thanh niên xung phong từ đồng bằng hoặc các tỉnh phía Bắc vào thực hiện.
Nhân dân Quảng Bình đa phần theo tín ngưỡng cổ truyền, số ít theo Phật giáo
và Thiên Chúa giáo. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Quảng Bình không
còn tổ chức giáo hội Phật giáo nên không có những hoạt động phật sự. Thiên Chúa
giáo có khoảng 5 vạn người, tập trung ở Quảng Trạch và một số xã thuộc Tuyên
Hóa, Bố Trạch. Nhìn chung, đồng bào có truyền thống kính Chúa yêu nước, có
những đóng góp nhất định đối với công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc. Sau
Hiệp định Genève (21-7-1954), bằng các biện pháp tuyên truyền, cưỡng ép và dụ
dỗ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa hơn 1 vạn người vào Nam [115, tr. 29],
trong đó phần lớn là đồng bào Thiên Chúa giáo. Thực dân Pháp còn cài lại nhiều
phần tử tay sai nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chế độ mới. Mặt khác, khi tiến
hành phá hoại miền Bắc, địch lợi dụng những vùng ven biển và nơi tập trung đồng
bào Thiên Chúa giáo để tung người xâm nhập, tuyên truyền, kích động chống phá
chính quyền và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, song song với ổn định
mọi mặt đời sống xã hội sau chiến tranh, việc đấu tranh nhằm phát hiện, đấu tranh
với những phần tử phản động, làm sạch địa bàn, đảm bảo an toàn cho tuyến đầu
miền Bắc luôn là nhiệm vụ thường trực của quân dân Quảng Bình.
Nhìn chung, cộng đồng cư dân ở Quảng Bình tương đối thuần nhất. Nội bộ
nhân dân đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nhân dân các dân tộc, tôn giáo
đều một lòng tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, cùng chia sẻ những
khó khăn, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tích cực đóng góp sức người, sức của cho
sự nghiệp cách mạng nói chung, cho công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước nói
riêng. Đây là một thuận lợi cơ bản để cấp ủy Đảng và chính quyền huy động mọi
lực lượng tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược.
32
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình
Quảng Bình là vùng đất thụ ứng, tiếp biến và lan tỏa văn hóa cùng với quá
trình mở nước để xác lập chủ quyền trên dải đất Việt Nam hình chữ S và vùng biển
đảo rộng lớn ngày nay. Đây là địa bàn giao thoa của văn minh Ấn Độ - Trung Hoa,
của nền văn hóa Đông Sơn - Sa Huỳnh, của các nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, một
thời biên viễn giữa Đại Việt với Champa, cũng là vùng đất nhiều lần là biên giới
chia cắt quốc gia/ vùng miền. Để sinh tồn, nhân dân Quảng Bình đã tạo lập cho
mình một “sức sống linh hoạt, nội lực thâm hậu, khả năng chịu đựng, hóa giải, gan
góc, nghị lực, bền bỉ và có biệt tài phát huy năng lực ấy, vượt khỏi không gian sinh
tồn nhỏ hẹp vốn có, để trở thành một thành phần quan trọng của sức mạnh quốc
gia” [158, tr. 87].
Từ sau năm 1069, vùng đất Quảng Bình (gồm hai châu Bố Chính và Địa Lý)
trở thành một phần của quốc gia Đại Việt. Cùng với quá trình di cư lập làng, nhân
dân Quảng Bình tham gia tích cực công cuộc khai phá vùng đất mới, cùng với triều
đình giữ yên bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân Mông -
Nguyên xâm lược năm 1285, nhân dân Quảng Bình đã phối hợp tích cực với quân
triều đình chặn đánh quyết liệt, làm chậm bước tiến của đạo quân Toa Đô trên
đường từ Chiêm Thành ra Bắc. Nửa đầu thế kỉ XV, nhân dân Quảng Bình đã nhất
loạt nổi dậy phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn do Trần Nguyên Hãn từ Nghệ An
kéo vào giải phóng Tân Bình.
Trong phong trào Tây Sơn cuối thế kỉ XVIII, nhân dân Quảng Bình hăng hái
tham gia đại quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ, góp phần làm nên đại thắng
Xuân Kỉ Dậu 1789, quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi đất nước.
Cuối thế kỉ XIX, trong phong trào Cần Vương, triều đình kháng chiến Hàm
Nghi chọn Quảng Bình làm nơi đứng chân. Tại đây, “kẻ có thế, người có tiền, mộ
phu binh lính, đổi nhà làm trường diễn võ, mang cơ nghiệp ra giúp quân lương, bỏ
cày cuốc cầm gươm súng” [119, tr. 21]. Những thủ lĩnh ở địa phương như Nguyễn
Phạm Tuân, Lê Trực, Đoàn Chí Tuân, Mai Lượng, Lê Mô Khởi, Đề Én, Đề Chít,
Hoàng Phúc, ... vốn là những người có uy tín nên khi họ đứng ra mộ quân, tập hợp
33
lực lượng, đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Chính những đội nghĩa quân
khắp nơi trong tỉnh đã kết thành một thế trận bao vây quân Pháp, nhiều phen gây
cho chúng những tổn thất lớn. Qua 3 năm kháng chiến anh dũng và sôi nổi của nhân
dân Quảng Bình dưới ngọn cờ Cần Vương (1885-1888), có thể thấy về thực chất
đây là cuộc chiến tranh của nhân dân chống Pháp dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu
yêu nước dưới danh nghĩa “Cần Vương” để tập hợp lực lượng. Nguồn gốc sức
mạnh của phong trào ấy chính là của nhân dân, chủ yếu là nông dân Quảng Bình
trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ xóm làng, quê hương.
Triều đình Hàm Nghi đã dựa vào phong trào mạnh mẽ, rộng lớn của nhân dân mà
tồn tại và phong trào Cần Vương của nhân dân cả nước nói chung, của nhân dân
Minh Hóa, Tuyên Hóa và các địa phương ở Quảng Bình nói riêng chính là gạch nối
để ngọn lửa yêu nước không những không bị gián đoạn mà còn có cơ hội bùng phát
trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc giai đoạn sau [152].
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), nhân dân Quảng Bình sớm
theo Đảng làm cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, khởi nghĩa giành
chính quyền ở Quảng Bình, bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân được biểu
hiện dưới hình thức biểu tình chính trị là chủ yếu và quyết định thắng lợi. Lực
lượng tự vệ vũ trang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tinh thần đấu tranh
của nhân dân, thị uy và làm áp lực mạnh mẽ cho Ủy ban khởi nghĩa tiến hành thuyết
phục và bắt buộc quan lại Nam triều trao chính quyền cho nhân dân. Tại một số
phủ, huyện như Quảng Ninh, Lệ Thủy và Tuyên Hóa, Ủy ban khởi nghĩa đã dùng
đò, phà chuyên chở tự vệ và quần chúng nhân dân về phủ, huyện lị tiến hành khởi
nghĩa. Hàng trăm quần chúng của phủ Quảng Ninh đã tham gia giành chính quyền ở
thị xã Đồng Hới [116, tr. 511-512].
Từ cuối tháng 3-1947, khi thực dân Pháp tấn công Quảng Bình, quán triệt
đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” của Đảng, thực hiện khẩu hiệu “mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”, công tác xây dựng làng
chiến đấu được đẩy mạnh khắp các địa phương trong tỉnh. Nhân dân huy động các
loại tre trồng kín quanh làng, làm cổng làng bằng tre gai, tổ chức tuần tra canh gác,
34
phát hiện và kiểm tra những người lạ mặt vào làng. Hệ thống hầm hào, công sự
được đào đắp từ xóm này sang xóm khác, kết hợp với hầm chông, bãi mìn theo
phương án chiến đấu đánh ngoài làng, đánh trong làng. Một số khu vực trống trải
được cắm chông cao để đề phòng địch đổ bộ đường không, tiêu biểu đầu tiên ở
Quảng Bình trong kháng chiến chống Pháp có thể kể đến như Cự Nẫm (Bố Trạch),
Cảnh Dương (Quảng Trạch), Hoàn Lão (Bố Trạch), Hiển Lộc (Quảng Ninh), Hưng
Đạo (Lệ Thủy), [102, tr. 529].
Với tinh thần “Quảng Bình quật khởi”, làng chiến đấu đã tạo nên thế trận
chiến tranh nhân dân rộng khắp, một “thiên la địa võng” đánh địch mọi nơi mọi
lúc, tạo cơ sở cho lực lượng vũ trang của tỉnh mở những cuộc tấn công lớn. “Các
làng chiến đấu ấy không những chỉ bảo vệ hay che chở cho dân quân, mà còn là lợi
khí của dân quân để giết địch ngay tại chỗ” [105, tr. 54]. Đây là một sáng tạo nổi
bật của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình, để cùng với quân dân Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế làm nên một “Bình Trị Thiên khói lửa”, góp phần đi đến thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Và truyền thống đó càng được nhân
lên, phát huy mạnh mẽ khi bước vào cuộc đối đầu với chiến tranh phá hoại nhiều
mặt của đế quốc Mỹ trong những năm 1965-1973.
2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình
Ngay từ khi thay Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ nhận thấy miền
Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn
miền Nam. Vì thế, Mỹ thực hiện phá hoại, ngăn chặn miền Bắc chi viện cho cách
mạng miền Nam. Đối với Quảng Bình, do vị trí chiến lược của mình nên trở thành
một trọng điểm đánh phá của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong đó nổi lên hai hình
thức chủ yếu sau.
2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích
Thực ra, từ năm 1961, triển khai chiến lược“Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ và
chính quyền Sài Gòn sử dụng gián điệp và biệt kích hòng gây ra “cuộc chiến trong
lòng Cộng sản” và thu thập thông tin chuẩn bị “Bắc tiến”, trong đó Quảng Bình là
một trọng điểm.
35
Bằng những phương thức khác nhau, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung người
ra Bắc theo cả đường bộ, đường biển và đường không. Do đặc điểm tự nhiên của
Quảng Bình phần lớn là rừng núi hiểm trở và có bờ biển dài, địa hình phức tạp nên
đối phương lợi dụng để tung gián điệp và biệt kích chủ yếu theo hai tuyến này.
Theo đường bộ, gián điệp xâm nhập qua biên giới Việt - Lào hoặc qua giới tuyến
quân sự tạm thời. Phương thức vượt tuyến của chúng hoặc bí mật hoặc công khai trà
trộn vào trong số người trốn ra Bắc với nhiều lí do, như trốn quân dịch, đầu hàng,
bất mãn, ... để nắm tin tức, móc nối với các tổ chức phản động cũ được cài lại.
Ngoài ra, lợi dụng đêm tối và địa hình phức tạp, đối phương nhiều lần dùng máy
bay thả biệt kích xuống vùng núi. Theo đường biển, chúng thường xâm nhập vào
khu vực Đèo Ngang và cảng Gianh và các bãi ngang ven biển, nơi dân cư thưa thớt,
khó phát hiện.
Hoạt động của gián điệp, biệt kích chủ yếu là điều tra về lực lượng quân đội,
tiềm lực và khả năng quốc phòng, các kho tàng quân sự và đường giao thông chiến
lược quan trọng; về lực lượng an ninh, dân quân tự vệ, thái độ chính trị của nhân
dân đối với Đảng và chính phủ; về mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa
với các nước xã hội chủ nghĩa; về các cơ sở kinh tế, phong tục tập quán của địa
phương, mẫu tiền của miền Bắc và các loại giấy tờ tùy thân của nhân dân. Đồng
thời, chúng tìm cách móc nối cơ sở, tăng cường phục kích bắt cóc, ám sát cán bộ,
bộ đội, phá hoại cầu cống, kho tàng, các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn, … Trong
vòng 3 năm (từ tháng 6-1961 đến tháng 7-1964), Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung
ra địa bàn Quảng Bình 10 toán biệt kích, với gần 100 tên.
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, hoạt động biệt kích
của chúng có sự thay đổi. Hàng loạt toán biệt kích, thám báo và biệt hải được tung
ra nhằm điều tra, chỉ điểm cho máy bay đánh phá, ngăn chặn các tuyến đường chiến
lược chi viện cách mạng miền Nam. Trên tuyến biên giới Việt - Lào, Mỹ và chính
quyền Sài Gòn sử dụng máy bay lên thẳng để tận dụng yếu tố cơ động cao đánh
nhanh, rút nhanh. Chúng còn tăng cường thả dù thám báo xuống khu vực ngoại
biên, sử dụng đất Lào làm bàn đạp để xâm nhập, phát hiện các tuyến đường vận
36
chuyển cũng như các kho tàng, binh trạm, … Để tránh bị phát hiện, số này cải trang,
mang trang phục bộ đội và trang bị súng AK.47, … Từ đầu năm 1965 đến cuối năm
1968, chúng đánh xuống khu vực miền núi và ngoại biên Quảng Bình 28 vụ gián
điệp, biệt kích và thám báo.
Trên tuyến biển, một phương thức hoạt động mới là ngoài pháo kích từ các tàu
chiến vào đất liền còn sử dụng tàu biệt kích vào sát bờ và các cửa sông để uy hiếp
ngư dân, ngăn chặn các hoạt động vận chuyển và quan sát tình hình bố phòng của
ta. Thậm chí, liều lĩnh hơn, đối phương còn tập kích một số địa điểm như ngày 23-
1-1965, pháo kích ở Đông Thành (Đồng Hới) theo thủ đoạn: tiếp cận gần, bắn
nhanh, rút nhanh, bắn dồn dập làm cho ta không kịp đối phó [9]. Đối phương còn
vây bắt nhiều thuyền đánh cá, uy hiếp những người bị bắt, buộc họ phải làm việc
cho chúng. Mục đích của chúng bên cạnh ngăn chặn tuyến vận tải trên biển của ta
còn nhằm thu thập tin tức chuẩn bị cho những hoạt động tập kích ở quy mô lớn hơn.
Năm 1965, địch bắt 5 vụ, gồm 6 thuyền với 34 người. Trong số 4 thuyền được thả
ra, ta phát hiện có 7 người được đối phương cài cắm lại để điều tra tình hình và gây
dựng cơ sở.
Bước sang năm 1967-1968, địch tiếp tục tung các toán gián điệp, biệt kích
xuống nhiều địa bàn nội, ngoại biên giới phía Tây. Về đường biển, ngày 14-4-
1967 và 8-1967, biệt kích xâm nhập Thanh Trạch (Bố Trạch), ngày 6-6-1967 lên
Quảng Phúc và 17-7-1967 lên Quảng Đông (Quảng Trạch), 80 lần vây ngư dân,
bắt 267 người đưa vào Nam khai thác (trong đó có thả ra 187 người). Về đường
không, đối phương tung biệt kích bằng trực thăng hoặc nhảy dù xuống đường 12
và 20 nhằm theo dõi sự vận chuyển, phát hiện kho tàng để chỉ điểm cho máy bay
đánh phá và xây dựng cơ sở gián điệp. Ngày 30-10-1967, địch thả 10 tên xuống
Thanh Lạng [59].
Ngoài ra, việc cài cắm gián điệp vẫn được đối phương ráo riết thực hiện dưới
nhiều hình thức như lợi dụng trà trộn vào trong số những người dân ở miền Nam
vượt tuyến ra Bắc. Một thủ đoạn rất nham hiểm của đối phương nữa là dụ dỗ, ép
buộc những người bị tàu biệt kích bắt cung cấp tin tức ở địa phương hoặc làm việc
37
cho chúng 1. Kết hợp, chiến tranh tâm lí được sử dụng dưới nhiều hình thức như rải
truyền đơn, thả hàng tâm lí chiến, viết thư nặc danh, thả nhiều radio chỉ bắt được 1
kênh đài Sài Gòn, … Năm 1967, chúng thả xuống địa phương 1.000 radio, 33 kiện
hàng, gồm áo quần, bánh kẹo, đồ chơi trẻ em,… [59, tr. 11].
Đến năm 1968, cùng với việc xuống thang chiến tranh, những hoạt động gián
điệp, biệt kích chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mỹ cũng dừng lại. Tài liệu
của đối phương nói rõ: “Tháng 11-1968, SOG (Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc
Bộ Chỉ huy trợ giúp quân sự Mỹ ở Việt Nam - TG) nhận được một thông báo khẩn
của Washington. Bản thông báo yêu cầu chấm dứt tất cả hoạt động biên kia giới
tuyến. Tại sao điều đó lại xảy ra? Đại tá Cavanaugh, Chỉ huy trưởng của SOG tự
hỏi. Ông nhớ lại: "Không lâu sau khi tôi có mặt tại đó, Washington cho gọi tôi và
hỏi: Anh có toán nào đang hoạt động bên trên giới tuyến không? Tôi có ba toán, và
họ nói “Anh phải đưa họ về ngay lập tức, chúng ta chuẩn bị ngừng ném bom và
tuyên bố chúng ta không có hoạt động gì bên trên giới tuyến. Tôi nhớ kĩ bởi vì mệnh
lệnh này gây ra sự kinh hoàng do không thể có cách nào đưa họ về ngay được. Vì
thế, đó là lần cuối cùng chúng tôi đưa người ra Bắc” [143].
Trên thực tế, hầu hết các toán gián điệp, biệt kích do Mỹ và chính quyền Sài
Gòn cài cắm ra Quảng Bình hoặc bị nhân dân phát hiện và tiêu diệt hoặc bị bao vây,
cô lập, phân tán trong rừng núi, trà trộn vào một số vùng dân cư. Chúng hoàn toàn
không có khả năng trở về miền Nam theo lệnh của Mỹ nên nằm im chờ thời cơ tiếp
tục thực hiện âm mưu phá hoại miền Bắc.
Như vậy, việc xâm nhập phá hoại địa bàn Quảng Bình được đế quốc Mỹ và
chính quyền Sài Gòn coi là một mặt trận quan trọng trong kế hoạch của chiến tranh
phá hoại đối với miền Bắc nói chung. Với việc tiến hành các hoạt động phá hoại bằng
gián điệp, biệt kích thâm nhập sâu vào trong địa bàn, luồn sâu vào trong cộng đồng
dân cư, gây nên những khó khăn không chỉ về mặt vật chất mà còn tác động đến tinh
1. Với thủ đoạn lập một làng kiểu miền Bắc trên đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam) và tuyên
truyền đây là vùng giải phóng của phong trào “Gươm thiêng ái quốc” trong lòng Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, địch dùng vật chất để cám dỗ những người bị chúng bắt, biến họ thành
điệp viên, sau đó thả trở lại địa phương. (Xem thêm Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội).
38
thần của nhân dân. Vì thế, cuộc chiến đấu chống chiến tranh tâm lí, chiến tranh nội
gián và chống phá hoại bằng lực lượng gián điệp biệt kích là một bộ phận hữu cơ
trong thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
2.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân
2.2.2.1. Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (từ 7-2-1965 đến 1-11-1968)
Ngoài chiến tranh tâm lí, nội gián, phá hoại bằng việc xâm nhập gián điệp và
biệt kích …, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đẩy mạnh chiến tranh phá hoại
bằng sức mạnh tổng lực của không quân và hải quân.
Sau khi dựng lên cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, làm nguyên cớ để gây chiến
tranh phá hoại nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 5-8-1964, Johnson ra lệnh
cho không quân Mỹ đánh phá các căn cứ hải quân ở cửa sông Gianh (Quảng Bình),
Vinh, Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa) và thị xã Hòn Gai (Quảng
Ninh). Đêm 6-2-1965, quân Giải phóng tấn công một căn cứ Mỹ ở Pleiku. Ngay ngày
hôm sau (7-2-1965) Johnson ra lệnh không quân Mỹ “trả đũa” bằng chiến dịch “Mũi
lao lửa” (Flaming Dart), đánh phá thị xã Đồng Hới và đảo Cồn Cỏ. Tiếp theo, từ
ngày 2-3-1965, Mỹ triển khai chiến dịch Sấm Rền (Operation Rolling Thunder), huy
động một lực lượng không quân rất lớn, với hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 50 loại
khác nhau, cùng toàn bộ Hạm đội 7 - hạm đội lớn nhất của Mỹ - thực hiện chiến tranh
phá hoại nhằm “đẩy lùi miền Bắc trở về thời kì đồ đá” [36, tr. 153]. Tổng cộng, từ
ngày 7-2-1965 đến ngày 1-11-1968, không quân Mỹ tiến hành hơn 190.000 trận, ném
hơn 700.000 tấn bom vào các mục tiêu quân sự, đầu mối giao thông, cơ sở kinh tế và
khu dân cư trên khắp miền Bắc. Cùng với việc sử dụng không quân, từ tháng 10-
1966, Mỹ huy động lực lượng lớn hải quân đánh phá ven biển và ngăn chặn tuyến
vận chuyển tiếp tế trên biển từ miền Bắc vào miền Nam.
Để chống lại chiến tranh phá hoại, quân dân miền Bắc xây dựng và phát triển
lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển của ba thứ quân, tổ chức phòng tránh và
đánh trả, bắn rơi 3.243 máy bay (có 6 B.52 và 3 F.111), bắn chìm, bắn cháy 143 tàu
chiến, tàu biệt kích của Mỹ. Bị thất bại trên cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, từ
ngày 31-3-1968 Mỹ buộc phải thực hiện ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào và
đến ngày 1-11-1968 thì chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc.
39
Như thế, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ thực chất là cuộc chiến
tranh xâm lược hạn chế, được tiến hành bằng những phương tiện chiến tranh và vũ
khí hiện đại nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế - quốc phòng, ngăn chặn và cắt đứt
nguồn viện trợ quốc tế cho Việt Nam và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam,
làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, cứu nguy cho sự sụp đổ
của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam.
Đối với Quảng Bình, do là trung tâm của tuyến đường chi viện từ hậu phương
miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam nên khi tiến hành chiến tranh phá hoại, đế quốc
Mỹ đánh phá với mức độ ngày càng tăng theo từng bước leo thang chiến tranh cũng
như tỉ lệ thuận với tốc độ chi viện qua địa bàn, nhất là từ sau khi ta mở Mặt trận
đường 9 - Bắc Quảng Trị (6-1966).
Có thể khái quát diễn biến cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ ở
Quảng Bình thành 2 giai đoạn: Giai đoạn “leo thang” (7-2-1965 – 31-3-1968) và
giai đoạn “xuống thang” (từ 1-4 đến 1-11-1968).
Giai đoạn “leo thang” chia làm 3 bước:
Bước 1 (từ 7-2 đến 31-5-1965). Không quân Mỹ đánh phá Quảng Bình 5 đợt,
với thủ đoạn chuyển từ đánh “trả đũa” từng trận vào các mục tiêu quân sự sang
đánh liên tục mang tính tập kích chiến lược nhằm vào từng loại mục tiêu. Cùng thời
gian, tàu chiến Mỹ tuần tiễu ngăn chặn tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển” và
trinh sát dọc bờ biển, đồng thời tàu biệt kích của Việt Nam cộng hòa liên tục quấy
rối, vây bắt ngư dân trên biển, tung biệt kích lên bờ hoặc thả hàng tâm lí chiến tranh
1 và bắn phá một số vùng ven biển.
Mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ trước hết là các mục tiêu quân sự theo
thứ tự: sinh lực (doanh trại), kho tàng, trạm ra-đa, các cầu quan trọng sau đó đánh
rộng ra các mục tiêu kinh tế, hành chính, dân cư và mục tiêu giao thông dần trở
thành chủ yếu. Thủ đoạn đánh phá trong từng trận là dùng lực lượng lớn tập trung
vào từng loại mục tiêu (trung bình mỗi trận/1 mục tiêu, Mỹ dùng 30-400 lần chiếc).
1. Chỉ trong năm 1965, Mỹ đã thả 77 triệu tờ truyền đơn và 15.000 gói hàng xuống miền
Bắc [142, tr. 22].
40
Lượng bom đạn sử dụng cho mỗi trận rất lớn nhằm dứt điểm mục tiêu, như trận
Bang (Lệ Thủy) ngày 2-3-1965 Mỹ thả 120 tấn bom, ở cảng Gianh 70 tấn, ở Mỹ
Đức (19-4-1965) 300 quả bom tạ. Bom đạn sử dụng chủ yếu là bom phá, bom sát
thương loại 250-450kg, rốc-két, napal, bom bi và tên lửa không đối đất.
Bước 2 (từ 2-6-1965 đến 6-1966). Cùng với việc đổ quân vào miền Nam Việt
Nam, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Bắc vĩ tuyến 20, chuyển hẳn
sang đánh phá mục tiêu giao thông vận tải, đánh cả đường bộ, đường thủy, đường
liên xã, cho đến cầu cống nhỏ phục vụ người đi bộ và gia súc. Chúng còn đánh vào
các phương tiện vận tải từ ô tô, ca nô, tàu thuyền lớn nhỏ, thậm chí cả những đò
ngang, xe bò, xe đạp thồ, … rồi những lực lượng và phương tiện sửa chữa hoặc đảm
bảo vượt sông, kho tàng, bến bãi, … Trên địa bàn Quân khu 4, không gian đánh
chuyển dịch dần từ Nghệ An vào Quảng Bình và từ đầu năm 1966 trở đi, Quảng
Bình là trọng điểm, trong đó tập trung là các đầu mối giao thông, bến bãi trên Quốc
lộ 1, 15, 12. Ác liệt nhất là các đoạn Tú Loan, Khe Nước, Gianh, Roòn, Xuân Sơn,
Quán Hàu, Long Đại, Cà Tang, Ba Đa, Khe Ve, …
Về phương thức đánh phá giao thông của địch lúc này là tập trung trọng điểm,
đồng thời khống chế toàn tuyến. Chúng vừa đánh theo kế hoạch định sẵn vừa kết
hợp với đánh theo mục tiêu do phi công tự chọn trong khi hành tiến. Theo thời gian,
tỉ lệ đánh theo mục tiêu tự chọn càng tăng, diễn ra cả ngày lẫn đêm, tỉ lệ đánh đến
cuối năm 1965 khoảng 15%, những tháng đầu năm 1966 tăng lên 30%.
Về vũ khí, ngoài bom phá, Mỹ sử dụng bom bi và bom nổ chậm. Về bom bi,
Mỹ đánh vào cầu, phà, các đoạn đường lầy, đường hiểm (có nơi bom bi rải dài từ 6
đến 10km, rộng 50 đến 100m), đánh vào lực lượng sửa chữa và các đoàn xe. Về
bom nổ chậm, ngày 22-9-1965, chúng thả ở cầu Bùng (Bố Trạch) và Mường Xén;
ngày 5-3-1966 thả ở Khe Ve; 5-4-1966 thả ở Long Đại, …
Bước 3 (từ 6-1966 đến 31-3-1968). Từ tháng 6-1966, ta mở Mặt trận Đường 9
- Bắc Quảng Trị (B.5). Ban đầu, B.5 đặt Sở Chỉ huy ở chợ Cộn (tây Đồng Hới),
Quảng Bình trở thành hậu phương của B.5, nơi tập kết của các lực lượng trước khi
vào chiến trường và quay ra củng cố sau mỗi chiến dịch. Do đó, thời gian này, Mỹ
41
vừa tiếp tục đánh phá giao thông vận tải đồng thời vừa đánh hậu phương chiến dịch
của Mặt trận B.5.
Trong bước 3 “leo thang” đánh phá Quảng Bình, đế quốc Mỹ hướng tới tất cả
các mục tiêu quốc phòng và dân sinh, trong đó trọng điểm đánh phá là hệ thống
giao thông và cơ sở hậu phương chiến dịch.
Về đánh giao thông, máy bay Mỹ đánh toàn diện kết hợp đánh trọng điểm
như ở bước 2 nhưng mức độ ác liệt hơn và thủ đoạn nham hiểm hơn. Trọng điểm
đánh phá của Mỹ lúc này là bắc Nghệ An (nhằm ngăn chặn vận chuyển từ Bắc
vào) và Quảng Bình (nhằm ngăn chặn vận chuyển vào Mặt trận B.5). Đồng thời,
Mỹ tăng cường đánh phá các trục đường tây Quảng Bình nhằm ngăn chặn chi viện
vào Nam, tập trung ở các điểm như Làng Ho, Cha Lo, Mụ Dạ, … Ngoài các mục
tiêu cầu phà, địch còn đánh mặt đường, phá hủy từng đoạn dài từ 2-4km nhằm gây
khó khăn cho việc sửa chữa, kéo dài thời gian khắc phục, gây ách tắc hoặc ùn ứ để
phát hiện đánh phá các mục tiêu di động. Thủ đoạn này thường thực hiện trước
mỗi đợt mưa nhằm lợi dụng thời tiết xấu để tăng hiệu quả đánh phá. Ngoài bom
đạn thông thường, thủy lôi, bom nổ chậm, bom cháy, bom bi cũng được sử dụng
kết hợp. Chất độc hóa học và bom B.52 được sử dụng để phát quang hai bên các
trục đường, có những nơi dài từ 20-50km.
Đi đôi với việc đánh phá bằng không quân và hải quân, đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn còn huy động khí tài quân sự tầm xa từ phía Nam vĩ tuyến 17 bắn
ra Quảng Bình, Vĩnh Linh nhằm phá hoại hậu phương chiến dịch. Từ đầu năm
1967, Mỹ tăng cường thêm pháo 175ly ở căn cứ Dốc Miếu bắn đạn pháo nặng tới
68kg, tầm bắn ra đến tận Sen Thủy (Lệ Thủy) có sức công phá không kém một trái
bom và được chúng bắn phá bất kể ngày đêm, trong mọi điều kiện thời tiết đã gây
nên mối nguy hiểm thường xuyên, tạo nên tâm lí căng thẳng đối với nhân dân
những địa phương ở Nam Quảng Bình. Mục đích đánh phá của địch là tiêu hao,
tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến đấu và tư liệu sinh hoạt của bộ đội và
nhân dân, phá hủy các vật thể và địa vật mà chúng nghi ngờ, nhằm làm ta mất chỗ
tập kết lực lượng.
42
Đặc biệt, thời gian này, máy bay Mỹ mở rộng đánh phá các công trình kinh
tế, dân sinh và làng mạc hết sức tàn bạo. Tất cả 68 công trình thủy lợi đều bị đánh
phá hư hỏng nhiều lần, trong đó công trình thủy nông Đá Mài bị phá hoàn toàn,
72km đê ngăn mặn bị cắt từng đoạn khiến nước mặn tràn vào làm hàng ngàn hec-
ta đất không sản xuất được. Những làng mạc gần các đầu mối giao thông quan
trọng đều bị đánh phá như Quy Hậu, Liên Thủy, Mỹ Đức, Nhân Trạch, Phù Hóa,
Chánh Trực, … Thủ đoạn đánh có khi là rải bom bi, rốc-két, pháo 20ly bao quanh
làng rồi thả hàng trăm quả bom tạ, bom napal vào giữa làng để hủy hoại nhà cửa
và nhân dân như ở Liêm Lập và Liêm Bắc (Lệ Thủy); hoặc có khi chúng ném bom
vào giữa làng rồi rải xung quanh không cho dân chạy như ở Thượng Nam và
Thượng Bắc (Ngư Thủy); có làng bị đánh đi đánh lại nhiều lần theo kiểu hủy diệt
như Quảng Phúc và Thanh Trạch.
Gây khó khăn lớn nhất cho ta là việc đối phương đánh khống chế ngăn chặn.
Mục đích là làm trở ngại sự cơ động của ta hoặc làm thiệt hại sinh lực, phương tiện,
vật tư. Mỹ chia làm hai tuyến ngăn chặn, gồm tuyến khống chế gần (Vĩnh Linh) và
tuyến ngăn chặn xa (Quảng Bình), với những trọng điểm như Xuân Sơn, Quán Hàu,
Long Đại. Mục tiêu là nhằm vào các thiết bị cố định như bến phà, cầu phà với thủ
đoạn đánh vài ngày rồi nghỉ kết hợp đánh liên tục ngày đêm không cho ta vượt
sông; đồng thời đánh các đoàn xe, chân hàng, nơi cất dấu xe, phương tiện vận
chuyển, lực lượng và phương tiện sửa chữa, thủ đoạn đánh phá giống như đánh giao
thông vận tải chiến lược, nhưng mức độ tập trung, liên tục và ác liệt hơn. Chẳng
hạn, ở Xuân Sơn, chỉ từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7-1966, Mỹ đánh liên tục 55
ngày đêm. Đồng thời, các đoàn xe, chân hàng, nơi cất dấu xe, lực lượng và phương
tiện sửa chữa cũng bị đánh với mức độ tập trung, liên tục và ác liệt hơn. Trong bước
này, địch bắn phá 18.885 lần, trong đó đánh giao thông 17.359 lần. So với trước khi
ta mở mặt trận B.5, số lần đánh mỗi tháng tăng 4,7 lần, số lần đánh giao thông tăng
5 lần. Số lượng bom đạn cũng tăng lên tương ứng. Đặc biệt, Mỹ sử dụng tới 3.979
quả bom cháy (trước là 122 quả), 4.397 loạt bom bi (trước là 917 loạt). Số lần
43
đánh/tháng cao nhất thời gian trước là 644, đến bước 3 là 2.656 lần và tăng số lượt
đánh đêm lên 49% [136, tr. 56].
Kết hợp với không quân và pháo binh, từ ngày 14-2-1967, Mỹ sử dụng tàu
chiến thường xuyên pháo kích dọc bờ biển, tập trung đoạn từ Nhật Lệ ra Roòn. Từ
tháng 2 đến tháng 6-1967, thường có 1-2 khu trục hạm vào cách bờ 6-8 hải lí bắn phá
đất liền. Sau do bị bắn trả, gây thiệt hại nên chúng chỉ vào cách bờ 8-12 hải lí và tăng
thêm 3-4 tuần dương hạm để bắn phá. Để đối phó với hỏa lực ta, chúng thay đổi thủ
đoạn như dùng tốc độ nhanh chạy từ ngoài khơi vào hướng mục tiêu rồi rẽ ngang
chạy song song với bờ bắn liên tục 3-5 phút rồi rút hoặc lợi dụng những lúc thời tiết
có nhiều sương mù để tiếp cận bờ bắn phá. Hoặc có lúc chúng dùng khu trục hạm vào
bắn phá nhằm phát hiện trận địa hỏa lực để tuần dương hạm ở phía sau đánh phá hoặc
gọi máy bay đến oanh tạc. Cũng có lúc, bị đánh trả, tàu địch xả khói đen che mục tiêu
rồi rút chạy [59, tr. 10].
Hậu quả là đến tháng 12-1966, đã có gần 1 vạn ngôi nhà ở 5 khu phố thuộc
Đồng Hới, 1 thị trấn (Ba Đồn), 8 xã và 77 làng bị tàn phá hết sức nặng nề. Một số
xã như Cảnh Dương, Đức Trạch, Nhân Trạch, Sơn Trạch, Dân Hóa, Ngư Thủy, …
bị phá hủy gần hết. Ngoài ra, trên hai ngàn con trâu bò bị giết và hàng ngàn thuyền
bè bị phá [18, tr.3].
Giai đoạn “xuống thang” (từ 1-4 đến 1-11-1968), cuộc Tổng tiến công nổi
dậy Xuân 1968 của quân dân ta trên khắp miền Nam cùng việc không đạt mục đích
trong chiến tranh phá hoại miền Bắc đã buộc Nhà Trắng phải “xuống thang”, ném
bom “hạn chế” từ vĩ tuyến 20 trở vào (từ ngày 1-4-1968). Thực chất đây là thủ
đoạn mới nhằm lừa bịp dư luận, bởi chọn khu vực này, Mỹ đã biến Khu 4 thành
“nút chặn” khổng lồ, ngăn chặn toàn bộ các tuyến đường chi viện từ miền Bắc vào.
Cũng với lượng bom đạn như đã sử dụng trước đó ở cả miền Bắc nhưng tập trung
trên một địa bàn hẹp, các mục tiêu tập trung hơn nên quy mô và cường độ đánh phá
vùng “cán soong” tăng gấp nhiều lần, do đó hiệu quả đánh phá cao hơn. Từ tháng 4
đến tháng 10-1968, địch huy động 79.000 lần máy bay chiến thuật và máy bay B.52,
4.596 lần tàu tuần dương, tàu khu trục đánh phá Quảng Bình. Mục tiêu chúng tập
44
trung đánh là giao thông vận tải, vùng đông dân cư với thủ đoạn đánh điểm kết hợp
khống chế toàn tuyến, thả bom từ trường dày đặc, đánh bổ sung, gối đầu các tuyến
sông, bến vượt, tăng cường máy bay trinh sát sục sạo xăm tìm nơi tập kết xe cộ, cất
giữ hàng hóa để ném bom. Các điểm như Ca Tang, Khe Ve, Xuân Sơn, Long Đại
(Đường 15), La Trọng, Bãi Dinh (Đường 12), cây số 20, cây số 44 đến cây số 48,
cây số 67-68 (Đường 20) trở thành những điểm tắc. Ở mỗi điểm, địch tập trung
đánh phá để cắt đứt, khi ta phát triển đường vòng tránh, địch lại đánh vào điểm mới
ở giữa hai đầu đoạn tắc, do đó các đoạn tắc kéo dài dần, có đoạn dài 2-3km. Chúng
đánh chặn cả đường tránh, làm cho chiều ngang đoạn tắc lên tới 500-700m. Đồng
thời với đánh bít ở điểm mới, địch còn liên tục đánh bổ sung điểm cũ không cho ta
khôi phục. Kết hợp với đánh giao thông, địch còn lùng sục tìm xe và hàng ùn tắc hai
đầu đoạn tắc. Để nâng hiệu quả cắt giao thông, địch kết hợp nhiều thủ đoạn khác
nhau, như ở Ca Tang, trước mùa mưa, địch tập trung đánh liên tục, lợi dụng mưa
làm nhão bùn, gây tắc dài ngày sau khi đánh. Đối với những điểm đi qua vách núi
cao, chúng dùng tên lửa làm đổ đất đá xuống lấp đường, …
Những thủ đoạn đánh phá nói trên của Mỹ đã gây cho ta khó khăn rất lớn.
“Đường 15 từ ngã ba Đồng Lộc vào đèo Đá Đẽo, Xuân Sơn bị tắc liên tục. Nhiều
tháng phương tiện vận tải cơ giới từ nam Hà Tĩnh đến Quảng Bình hầu như ngừng
hoạt động” [84, tr. 303]. Hậu quả là đầu tháng 4-1968, “hàng và xăng không vào
được đã đặt Đoàn 559 trước những thử thách nghiêm trọng. Tư lệnh Đồng Sỹ
Nguyên điện báo cáo về Bộ: do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không kịp
chuyển xăng vào sẽ có nguy cơ hàng vạn bộ đội bị đói” [84, tr. 305].
2.2.2.2. Giai đoạn ngừng ném bom miền Bắc (từ 1-11-1968 đến 5-4-1972)
Từ ngày 1-11-1968, tuy Nhà Trắng buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại
miền Bắc nhưng trên địa bàn Quảng Bình, máy bay Mỹ vẫn thường xuyên bay trinh
sát vũ trang và bắn phá các trọng điểm trên Đường 20 và cửa khẩu Cha Lo. Trong
tháng 11-1968, Mỹ sử dụng các loại máy bay RF4C, RF101, F.4, L.19, EC121, U2,
… tiến hành 162 vụ trinh sát các cửa khẩu, dọc đường 12, 16, 18 và 20. Ngày 26 và
27-11-1968, máy bay Mỹ ném bom Đường 20 và Đồng Hới, Quảng Ninh, Minh
45
Hóa. Trên các cửa khẩu biên giới, máy bay B.52 và AC.130 đánh phá với mức độ
như trước khi tuyên bố ngừng bắn. Trong nửa đầu tháng 12-1968, máy bay Mỹ tiến
hành 270 lần bay trinh sát, 3 tháng đầu năm 1969 lên tới 609 lần. Song song với
trinh sát, từ biên giới Việt - Lào, máy bay địch ném bom lan dần xuống đường 12
và 20, làm 75 người chết, 161 người bị thương, 33 ô tô bị hỏng và một số kho tàng
bị hư hại. Bên cạnh đó, địch đánh vào 22 khu dân cư làm 89 người chết, 143 người
bị thương, nhiều nhà cửa và tài sản của nhân dân bị hư hỏng.
Thời gian này, hoạt động biệt kích và chiến tranh tâm lí của địch cũng tiếp
diễn, nhất là ở khu vực miền núi, với phương thức xâm nhập nhanh, phá hoại nhanh
rồi rút nhanh. Cuối tháng 2-1969, biệt kích Sài Gòn đổ bộ xuống đồi A Chốc đốt
phá một số lán trại của thanh niên xung phong trên đường 16. Lợi dụng điều kiện
sương mù, nhiều toán biệt kích đổ xuống các đỉnh núi thuộc dãy Giăng Màn, sử
dụng súng cối hoặc súng máy tập kích các đoàn xe vận tải trên Đường 12 [129, tr.
635]. Máy bay L.19 nhiều lần xâm nhập vùng trời tây nam Lệ Thủy rải truyền đơn
kêu gọi bộ đội quy thuận. Phối hợp với thủ đoạn đó, trong nội địa, một số phần tử
phản động tung luận điệu Mỹ sẽ đánh phá lại ác liệt hơn, …
Ở trên biển, thường xuyên có 1-2 tàu sân bay hoạt động cách bờ 80-90 hải lí, ở
gần hơn có 3-4 tàu khu trục, có khi chúng vào dưới 20 hải lí để theo dõi, khống chế
các phương tiện vận chuyển ra vào cảng Gianh và Nhật Lệ. Ngoài ra, tàu biệt kích
Sài Gòn vẫn thường xuyên hoạt động, rượt bắt, bắn phá tàu vận tải và thuyền đánh
cá. Có khi, ở khu vực Nhật Lệ - Hòn Gió, chúng vào cách bờ 10-15 hải lí.
Ngày 21-11-1970, máy bay Mỹ đánh phá một số địa phương ở miền Bắc,
trong đó có Quảng Bình 1. Mục tiêu chính vẫn là các trục đường giao thông, các bến
bãi vượt sông và xe vận tải đang chạy trên đường cũng như các chân hàng của Đoàn
559 ở Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch [165].
Như thế, khác với các địa phương khác trên miền Bắc, tuy “xuống thang”
nhưng trên địa bàn Quảng Bình, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn thực hiện những
1. Đây là trận đánh nghi binh nhằm phân tán hỏa lực ta để hỗ trợ cho cuộc tập kích giải
thoát tù binh phi công Mỹ ở nhà tù Sơn Tây (TG).
46
phi vụ đánh phá nhằm gây mất ổn định hậu phương. Vì thế, trong thời gian này, ở
Quảng Bình, trạng thái hòa bình đan xen chiến tranh vẫn tiếp diễn. Quảng Bình
vẫn chưa có ngày bình yên. Chiến tranh vẫn đe dọa từng ngày, từng giờ trên
không và trên biển.
2.2.2.3. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6-4-1972 đến 15-1-1973)
Cuộc tiến công chiến lược 1972 của quân dân ta đã đẩy chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” vào nguy cơ phá sản, buộc Nhà Trắng phải “Mỹ hóa” lại cuộc
chiến tranh. Ngày 6-4-1972, tàu chiến Mỹ bắn phá trên 500 quả đạn pháo dọc bờ
biển Quảng Bình, mở đầu cho cuộc chiến phá hoại miền Bắc có quy mô và cường
độ khốc liệt hơn nhiều những năm trước. Ngay trong tuần đầu tiên, Quốc lộ 1 từ
Đèo Ngang đến Quán Hàu, Tỉnh lộ 1 từ Ba Đồn lên Quảng Trường, Tỉnh lộ 2 từ
Hoàn Lão đến Cự Nẫm, Đường 15 từ Long Đại đến Thạch Bàn và các đầu mối
đường 10, 16, 20, cảng Gianh, cảng Nhật Lệ, Cửa Roòn, … đều bị đánh phá. Từ
tháng 5-1972, đế quốc Mỹ phong tỏa toàn diện đối với Quảng Bình. Tuyến vận tải
đường biển Bến Thủy - Gianh với công suất 4.000 tấn hàng/tháng bị tắc hoàn toàn.
Cùng với phong tỏa, cường độ đánh phá của không quân Mỹ tăng nhanh về mức độ,
phương tiện vũ khí và phương thức tiến hành. Chúng tập trung đánh hủy diệt từ gốc,
nhằm vào các chân hàng là chủ yếu. Trên các tuyến đường bộ, chúng không đánh
phá mặt đường mà tập trung đánh sập các cầu cống trọng yếu nhằm cắt đường.
Những vũ khí mới được đưa ra sử dụng như bom laze, tên lửa có điều khiển đánh
vào những mục tiêu rất nhỏ như khẩu đội 12,7ly, khiến lực lượng phòng không đối
phó hết sức khó khăn. Máy bay ném bom chiến lược B.52 được sử dụng thường
xuyên, với quy mô và cường độ ngày càng cao nhằm chặn đứng tuyến chi viện từ
hậu phương vào chiến trường Quảng Trị. Có ngày, chúng sử dụng tới 700 lượt chiếc
đánh phá đồng loạt tất cả các tuyến giao thông vận tải, trong đó tập trung trên Quốc
lộ 1, Đường 20 và các vùng dân cư. Ở cảng Hòn La, Mỹ đã huy động 1.500 lần máy
bay đánh trên 700 trận, ném xuống gần 1.000 loạt bom phá, 149 loạt bom bi, 540
loạt rốc-két, 6.006 loạt đạn 20ly, 124 quả đạn cối, 149 quả bom từ trường, … [153,
tr. 681]. Cùng lúc, tàu chiến Mỹ hoạt động mạnh, thường xuyên pháo kích các mục
47
tiêu ven bờ, dọc Quốc lộ 1 và Đường 15. Mức độ và thủ đoạn đánh phá của địch
khiến hệ thống giao thông bị tê liệt. Các xe không có hàng để vận chuyển cũng như
không thể lưu thông trên đường. Hậu quả là khối lượng vật chất từ miền Bắc đưa
vào chỉ đạt 64% kế hoạch.
Qua tháng 6-1972 trở đi, mức độ đánh phá của Mỹ càng tăng. Từ ngày 8-6-
1972, máy bay B.52 ném bom nhiều mục tiêu trên địa bàn. Ngoài đánh những tuyến
vận chuyển, B.52 còn rải thảm các khu dân cư và mục tiêu kinh tế. Mật độ sử dụng
B.52 từ 4-6 tốp lên 10 tốp/ngày đêm. Ở xã Quảng Phúc (Quảng Trạch), Mỹ đánh
đúng lúc bà con giáo dân đang hành lễ. Ở Phúc Trạch, Mỹ đánh liên tiếp 3 trận vào
lúc địa phương đang bị lũ lụt, hầm hào ngập nước, làm chết 57 người. Bệnh viện
Đồng Hới bị bom B.52 làm 33 bệnh nhân và nhân viên y tế chết. Thôn Vĩnh Tuy 5
lần di chuyển chỗ ở, cả 5 lần đều bị đánh, 200/350 nóc nhà bị phá, 30 người chết.
Các cơ sở sản xuất mới được khôi phục như trạm điện Ninh Phước Thượng, Rào
Nan, Quảng Trường, lò vôi Thanh Khê, lò gạch Lộc Đại, … đều bị đánh hỏng. Mức
độ tàn bạo của cuộc chiến tranh phá hoại lần 2 còn được đẩy lên cao hơn khi Mỹ lợi
dụng mùa mưa đánh vào hệ thống thủy lợi nhằm gây tai họa “kép”, uy hiếp cuộc
sống của nhân dân vùng trũng, ...
Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
bằng chiến tranh tâm lí, chiến tranh phá hoại bằng gián điệp, biệt kích và đánh phá
bằng không quân và hải quân thực sự là một cuộc chiến tranh tổng lực đã đặt cả dân
tộc Việt Nam trước những thử thách nghiêm trọng. Trong đó, do vị trí chiến lược
quan trọng về nhiều mặt, Quảng Bình trở thành một trọng điểm của cả miền Bắc
trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ hậu
phương lớn và đảm bảo chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Để thực hiện nhiệm
vụ đó, nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Quảng Bình nói riêng đã huy động
toàn bộ sức mạnh tinh thần và vật chất, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân với
những hình thái chiến tranh đa dạng linh hoạt, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh
bại chiến tranh tổng lực của đế quốc Mỹ.
48
2.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4
Việt Nam do có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam châu Á nên
thường xuyên phải đối mặt với nạn ngoại xâm từ những thế lực lớn mạnh hơn nhiều
lần. Do đó, ở Việt Nam sớm hình thành nên cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp,
do toàn dân tiến hành một cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam kế thừa những tinh hoa quân sự của lịch sử nhân
loại và phát triển sáng tạo thành những truyền thống quân sự độc đáo của dân tộc
mà nổi bật là “cả nước một lòng chung sức đánh giặc”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy
ít địch nhiều”, “lấy yếu trị mạnh” ... Trong thế kỉ XX, trên cơ sở kết hợp đúng đắn
học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội với di sản, truyền thống quân sự
của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa chiến tranh
nhân dân phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới cao hơn, trở thành
cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là
toàn dân đánh giặc, gồm lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt và lực lượng
chính trị quần chúng; lực lượng chính trị quần chúng vừa là cơ sở để xây dựng, phát
triển lực lượng vũ trang, vừa là chỗ dựa vững chắc để lực lượng vũ trang hoạt động
tác chiến, vừa phối hợp với lực lượng vũ trang tiến công, phản công quân địch. Sức
mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam còn được tạo ra bằng sự kết hợp đúng đắn
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Phương thức tiến hành chiến tranh
nhân dân Việt Nam là cả nước tổ chức thành một mặt trận rộng lớn, mỗi người dân
là một chiến sĩ, mỗi làng, xã, đường phố là một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một
bộ tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang trên cả ba vùng chiến lược, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị và binh vận (ba mũi giáp công), kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu
tranh ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp
tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ, chiến tranh du kích với chiến tranh
chính quy, kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh
đoàn chủ lực. Toàn dân đánh giặc bằng mọi phương tiện, vũ khí có trong tay, kết
49
hợp vũ khí thô sơ, tương đối hiện đại và hiện đại, đánh địch bằng nhiều mưu kế
sáng tạo, trong mọi môi trường tác chiến (trên bộ, trên không, trên biển); phát huy
cao độ tư tưởng chiến lược tiến công, luôn tìm cách giành và giữ quyền chủ động
trên chiến trường, đánh lui địch từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, giành thắng
lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phát huy chỗ mạnh, khắc phục chỗ
yếu của ta, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của đối phương, buộc đối phương
không chỉ đánh với Quân đội nhân dân Việt Nam mà phải đánh với cả dân tộc,
khiến chúng bị căng kéo, chia cắt và vây hãm trong một thế trận hiểm hóc, bị động
đối phó khắp nơi, cuối cùng lực còn nhưng ý chí xâm lược bị suy sụp đành chấp
nhận thất bại [169].
Trong thời kì 1954-1975, cả dân tộc phải đương đầu với cuộc chiến tranh có
quy mô và cường độ ngày càng khốc liệt, diễn ra cả trên bộ, trên không và trên biển,
ở cả thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi với ưu thế tuyệt đối hỏa lực thuộc
về đối phương. Riêng ở miền Bắc, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại thực chất
là sự vận dụng và phát triển đường lối chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo trong
điều kiện mới, với những nội dung cụ thể là “toàn dân đánh máy bay và tàu chiến
địch, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông vận tải, kết
hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh tế để phục
vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện miền Nam và chi viện quốc tế” [100, tr. 62].
Vì vậy, dự báo trước âm mưu Mỹ có thể sẽ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,
ngày 20-9-1963, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Số 67-CT/TW về công tác
phòng không nhân dân, trong đó yêu cầu toàn thể nhân dân tăng cường cảnh giác,
quán triệt các biện pháp nhằm đối phó với âm mưu dùng chiến tranh phá hoại miền
Bắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngay sau khi Mỹ bắt đầu “ném bom bí mật”
miền Bắc, ngày 7-8-1964, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 81-CT/TW về tăng cường sẵn
sàng chiến đấu chống mọi âm mưu của địch khiêu khích và phá hoại miền Bắc. Chỉ
thị đề ra những biện pháp đánh địch cho các lực lượng vũ trang và phòng tránh cho
nhân dân: “Cần chấn chỉnh và tăng cường hệ thống phòng không, bảo vệ các mục
50
tiêu quan trọng đã được quy định. Lấy lực lượng phòng không của quân đội làm
nòng cốt, kết hợp với việc phát động một phong trào rộng rãi tập bắn máy bay địch
bằng mọi thứ súng của bộ binh và của các lực lượng dân quân tự vệ. Về biện pháp
đề phòng và tránh phải kết hợp các mặt: công sự ẩn nấp, ngụy trang, sơ tán, di
chuyển và giữ bí mật” [85, tr. 193].
Để nâng cao hiệu quả đánh địch, Chỉ thị yêu cầu: “Tăng cường chỉ đạo và trang
bị thêm một số vũ khí cho dân quân tự vệ những vùng xung yếu dọc biên giới, giới
tuyến, trên biển, trên đảo, ven biển và trên các tàu, thuyền quốc doanh (vận tải, đánh
cá), để có khả năng tự vệ và tham gia diệt địch. Phải kiên quyết đẩy mạnh phong trào
bảo vệ trị an, phòng và chống gián điệp, biệt kích thành một phong trào quần chúng
mạnh mẽ và rộng khắp … Tăng cường công tác phòng và chống gián điệp, biệt kích,
chủ động truy bắt nhanh gọn các toán gián điệp, biệt kích thâm nhập nội địa, không
để cho chúng kịp phá hoại hoặc lẩn trốn”. Ngoài các lực lượng vũ trang, “phải làm
cho tổ chức các cơ quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường thích ứng dần với yêu
cầu sẵn sàng chiến đấu” [85, tr. 195-198].
Khi Mỹ đã đổ quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc,
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) khẳng định: “Nhiệm vụ cấp bách của ta ở
miền Bắc lúc này là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng
xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới và
để cho miền Bắc có đủ sức mạnh nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc,
chống lại các cuộc ném bom bắn phá và phong tỏa của địch; nhằm sẵn sàng đối
phó với khả năng địch mở rộng chiến tranh ở bất cứ mức độ nào ở miền Nam, miền
Bắc cũng như ở Lào; nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện to lớn cho cách mạng miền
Nam trong tình hình mới” [86, tr. 102-103].
Ngày 7-5-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị cho các tỉnh Khu 4 “phải
đảm bảo giao thông vận tải trên các trục đường chiến lược, bảo đảm tốt yêu cầu
vận chuyển cho các tỉnh ở Khu 4 ..., Tổ chức các trạm dân quân, các đội thanh niên
xung phong để kịp thời sửa chữa đường sá, làm hầm hào dọc đường để cho người
và xe qua lại an toàn” [86, tr. 170].
51
Quán triệt chủ trương của Nghị quyết Trung ương 11, Hội nghị Quân khu ủy 4
mở rộng (7 - 8-5-1965) khẳng định quyết tâm “lấy chiến tranh nhân dân đánh bại
chiến tranh phá hoại, bất luận cuộc chiến tranh đó quyết liệt đến mức nào. Làm
tốt nhiệm vụ bảo vệ sản xuất, bảo vệ an ninh, đập tan mọi hoạt động tập kích, biệt
kích, thổ phỉ, làm tốt công tác phòng không nhân dân. Chuyển hướng mọi hoạt
động sản xuất, sinh hoạt của nhà nước, của nhân dân thích hợp với thời chiến,
vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh, làm cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội vẫn tiếp tục phát triển ngay trong chiến đấu, càng chiến đấu các mặt
kinh tế, chính trị, quân sự càng phát triển, càng lớn mạnh” [161, tr. 130]. Tiếp theo,
trước tình hình Mỹ bắt đầu chuyển đánh từ các mục tiêu quân sự sang mục tiêu giao
thông nhằm ngăn chặn các tuyến đường chi viện của ta, ngày 31-5 và 1-6-1965, Hội
đồng Quốc phòng Quân khu 4 họp, chủ trương phải “làm cho mọi người hiểu rõ
bảo đảm giao thông vận tải là nhiệm vụ cách mạng của mình, bằng bất cứ giá nào
cũng phải bảo đảm cho được tuyến Quốc lộ 1, Quốc lộ 15, Đường số 8, Quốc lộ 12
thông suốt” [161, tr. 131].
2.3.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Bình
Ngay từ sau ngày kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Quảng Bình được giải phóng nhưng đất nước tạm bị chia cắt làm 2 miền, Đảng bộ
và nhân dân Quảng Bình đã ý thức được vị trí và trách nhiệm của mình trong sự
nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội những năm 1954-1965 được tiến hành trong điều kiện luôn đối phó với chiến
tranh phá hoại về nhiều mặt của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa, đặc biệt là
trong phòng chống gián điệp và biệt kích. Do đó, ngay từ khi Mỹ âm mưu mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc, quân dân Quảng Bình đã chuẩn bị mọi khả năng sẵn sàng
đối phó. Ngày 23-7-1964, Tỉnh ủy ra Nghị quyết về tăng cường công tác sẵn sàng
chiến đấu, trong đó chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể về tuyên truyền giáo dục làm cho
mọi người nhận thức đúng tình hình, tích cực khẩn trương làm tốt mọi biện pháp
sẵn sàng chiến đấu; tích cực chuẩn bị về tổ chức, chủ động đối phó mọi âm mưu,
52
sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống; tăng cường công tác bảo vệ trị an, bảo mật
phòng gian trấn áp bọn phản động [7, tr. 6-7].
Sau ngày 5-8-1964, Tỉnh ủy Quảng Bình tổ chức hội nghị đại diện Quân - Dân
- Chính - Đảng, đề ra nhiệm vụ: “Phải tăng cường công tác phòng thủ, trọng tâm là
công tác chống tập kích bờ biển và công tác phòng không nhân dân. Trong công tác
phòng không phải chú ý cả hai mặt: tổ chức lực lượng đánh địch và phòng tránh,
phải phát động phong trào thi đua bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh khắp các
địa phương. Đặc biệt chú trọng các vùng thị xã, thị trấn, quân cảng, sân bay và các
mục tiêu quân sự khác. Về tư tưởng giáo dục, xây dựng cho lực lượng vũ trang và
quần chúng có quyết tâm cao. Giặc đến, ta chủ động không bị bất ngờ, với tinh thần
dám đánh, quyết đánh, có gì đánh nấy, lấy ít đánh nhiều, lấy thô sơ thắng hiện đại,
quyết đánh thắng giòn giã” [166, tr. 16].
Tháng 10-1964, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 81 chỉ rõ nhiệm vụ của Quảng
Bình và Vĩnh Linh là “phải khẩn trương chuẩn bị đối phó với chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân Mỹ. Địch sẽ mở rộng đánh phá miền Bắc và Quảng
Bình, Vĩnh Linh là nơi chúng sẽ đánh phá trước hết” [33, tr. 165]. Thực hiện sự chỉ
đạo đó, Tỉnh ủy Quảng Bình triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng để xúc tiến các công
việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu theo phương châm chuyển hướng xây dựng và
phát triển kinh tế sang thời chiến nhằm phục vụ đời sống và phòng không chiến
đấu, bố trí lại lực lượng sản xuất theo phương hướng phân tán, sơ tán, chuyển bớt
một bộ phận công nghiệp của tỉnh lên miền trung du và miền núi, đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng năng suất ổn định và đảm bảo đời
sống, chi viện cho tiền tuyến. Từ sau hội nghị này, công tác sơ tán được khẩn
trương tiến hành, các kho tàng được phân tán về những vùng an toàn, các lực lượng
vũ trang được triển khai bảo vệ những mục tiêu chủ yếu, bước đầu hình thành thế
trận chiến tranh nhân dân ở địa phương.
Dự báo tình hình Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại, ngày 4-2-1965, Tỉnh ủy
Quảng Bình ra nghị quyết khẳng định quyết tâm: “Dù chiến tranh xẩy ra với hình
thức nào, dù có đổ máu hi sinh, quân dân Quảng Bình cũng quyết đánh, quyết
53
thắng trận đầu với bất cứ giá nào. Đồng thời vô luận tình huống nào cũng đẩy
mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra sức phát triển kinh tế, văn hóa và bảo đảm
đời sống nhân dân” [26].
Tiếp theo sau đợt đầu chiến đấu chống chiến dịch “Sấm Rền”, ngày 12-3-1965,
Tỉnh ủy họp hội nghị cán bộ mở rộng đánh giá kết quả và bàn kế hoạch đối phó với
địch. Hội nghị dự kiến: “Địch có thể còn đánh lớn hơn, diện rộng hơn, âm mưu thủ
đoạn xảo quyệt hơn, thâm độc hơn. Vì vậy, phải nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực
lượng, chuẩn bị cho cán bộ và nhân dân tư tưởng chiến đấu lâu dài, không sợ hi sinh
gian khổ. Từng bước phát triển lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, kiểm
tra, bổ sung các phương án tác chiến. Đề phòng địch tập kích, tăng cường bảo vệ bờ
biển, biên giới và đẩy mạnh công tác trị an nội địa, xây dựng làng chiến đấu và công
tác phòng không nhân dân” [33, tr. 183].
Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy Quảng Bình xem việc đảm bảo giao thông
vận tải là nhiệm vụ số một của tỉnh. Tỉnh ủy chủ trương “phải phát động toàn dân
tích cực chống lại, một mặt là căn cứ vào khả năng hỏa lực của ta tập trung vào
một số mục tiêu để bảo vệ đến một chừng mực nào đó, bố trí những tổ dân quân tự
vệ kết hợp với sản xuất và có thể chia nhau thường trực chiến đấu từng thời gian ở
các bến cầu, phà để đánh địch. Mặt khác, phát động toàn dân hễ địch đánh phá
đâu, ta sửa đó, dùng phương tiện cơ giới không đủ thì dùng các loại xe cải tiến, thô
sơ, dùng xe không được thì dùng thuyền, đường bộ gặp trở ngại thì đi đường thủy,
ngày nào không đi được thì đi đêm, nhất thiết phải đảm bảo giao thông vận tải”
[14, tr. 14]. Tỉnh ủy xác định việc tập trung sức bảo vệ và đảm bảo giao thông vận
tải thông suốt trong mọi tình huống “là trách nhiệm, là vinh dự của toàn Đảng bộ
và quân dân trong tỉnh, không phải chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giao thông vận
tải, đòi hỏi mọi người phải sẵn sàng xả thân cứu nước trên mặt trận giao thông vận
tải, nêu cao khí thế cách mạng tiến công, đánh địch mà đi, mở đường mà tiến, vượt
qua thủy lôi, băng qua bom nổ chậm, phát huy truyền thống xe chưa qua nhà không
tiếc, đường không thông không tiếc máu xương, để dù tình huống nào, dù tình hình
ác liệt đến đâu vẫn quyết tâm bảo đảm giao thông vận tải thông suốt, phục vụ đắc
54
lực chi viện cho tiền tuyến lớn anh hùng đánh thắng địch” [32, tr. 18]. Do đó, “phải
bố trí một mạng lưới giao thông vận tải sâu rộng, toàn diện. Xác định đúng các
tuyến chính, tuyến phụ. Tập trung nhân tài, vật lực và mọi khả năng để bảo vệ cho
được các tuyến đường trọng yếu. Phát triển rộng rãi đường giao thông nông thôn,
nối liền các trục chính, tạo thế chiến lược bảo đảm sự sống còn cho sự nghiệp giao
thông vận tải thời chiến. Đẩy mạnh hơn bao giờ hết việc khai thông đường thủy làm
thế mạnh của các tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Tận dụng khả năng tiềm tàng vận
tải trong nhân dân và các hợp tác xã chuyên nghiệp. Tổ chức lực lượng vận tải
quốc doanh đường thủy. Tăng cường khả năng ô tô cho công tư hợp doanh để kịp
thời xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đảm bảo nhu cầu vận chuyển. Cần xác định
tính chất quyết định của lực lượng vận tải thô sơ cải tiến trong nhân dân, nhất là
đối với thuyền sông, xe đạp thồ” [145, tr. 138-139].
Ngày 29-9-1965, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh chủ trương phát động chiến tranh
nhân dân sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa, đẩy mạnh chiến đấu và sản xuất quyết tâm
đánh bại chiến tranh phá hoại. Cụ thể:
“- Tiếp tục phát động phong trào bắn máy bay rộng rãi, mạnh mẽ hơn nữa
trong các lực lượng vũ trang.
- Đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, đảm bảo việc phòng tránh thật
tốt, tăng cường bảo mật phòng gian nhằm bảo đảm tính mạng tài sản của nhân dân,
nhà nước, hạn chế đến mức ít nhất thiệt hại của ta.
- Tích cực đảm bảo giao thông vận tải, các bến phà, phương tiện qua sông và
vận chuyển, nhanh chóng sửa chữa những cầu, đoạn đường bị bắn phá, chẳng
những bảo đảm cho việc giao thông được an toàn, nhanh chóng, khối lượng vận
chuyển nhiều hơn.
- Tích cực bảo vệ các đê đập, địch bắn hỏng chỗ nào kịp tu sửa ngay.
- Nhanh chóng tiêu diệt các toán gián điệp biệt kích và tập kích nhỏ, nếu
trường hợp tập kích lớn cũng phải nhanh chóng bao vây tiêu diệt, hoặc tùy tình
hình cụ thể mà chia cắt tiêu diệt đại bộ phận quân địch.
55
- Đi đôi với việc phòng tránh và đánh tốt, một việc quan trọng trong chống
chiến tranh phá hoại là phải cảnh giác đầy đủ, đánh bại chiến tranh tâm lí,
chiến tranh gián điệp và âm mưu kích bọn phản động nội địa bạo loạn của địch”
[11, tr. 3-4].
Trên đây là những chủ trương chung, có tính chất định hướng và cũng là
phương châm chỉ đạo cho quân dân Quảng Bình trên tuyến đầu miền Bắc khi đứng
trước thử thách khắc nghiệt của cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, trong đó chủ
trương ngày 29-9-1965 đã bao trùm hầu hết các nội dung mà cuộc chiến tranh nhân
dân ở Quảng Bình phải thực hiện trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ. Trong diễn biến của cuộc chiến đấu, tùy tình hình cụ thể, Tỉnh ủy Quảng Bình
có những chỉ đạo riêng đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương từng bước vượt
qua khó khăn để giành thắng lợi.
2.4. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
Để giành thắng lợi trước cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện, ngày càng leo
thang không ngừng của đế quốc Mỹ, việc xây dựng tiềm lực chiến tranh nhân dân
vững mạnh về mọi mặt là nhiệm vụ tối quan trọng, trong đó công tác chính trị - tư
tưởng phải được đặt lên hàng đầu. Bởi nếu không xây dựng quyết tâm đánh Mỹ và
thắng Mỹ cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thì Quảng Bình không thể đứng
vững để giành thắng lợi. Ở phương diện này, Quảng Bình đã thành công khi tạo
được thế trận lòng dân vững chắc, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Đây chính là cơ sở quan trọng của
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) khẳng định: “Công tác lãnh
đạo tư tưởng và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là cực kì
quan trọng trong lúc này” [86, tr. 92]. Trên cơ sở làm cho toàn Đảng, toàn dân
nhận rõ thức tình hình, thế mạnh của ta và thế yếu của Mỹ, “ra sức xây dựng tư
tưởng phấn khởi và tin tưởng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, tư
tưởng sẵn sàng chiến đấu và công tác bất cứ ở nơi nào theo tiếng gọi của Đảng và
56
của Tổ quốc, tư tưởng sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, tư
tưởng sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tư tưởng sẵn sàng chiến đấu lâu
dài chống Mỹ, tinh thần tự lực cánh sinh cao; chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá địch
quá cao, hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng hoang mang, dao động, cầu an, tư
tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài và không tin vào sức mình” [86, tr. 93].
Ngày 2-4-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 94-CT/TW về
công tác tư tưởng trong tình hình trước mắt, chỉ ra những biện pháp cụ thể: “Phải
ra sức làm sáng tỏ quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Phải
coi trọng công tác chính trị và tư tưởng trong các lực lượng vũ trang, trong thanh
niên và phụ nữ. Phải tuyên truyền giáo dục tập trung hơn nữa những điển hình tiên
tiến trên các mặt sản xuất và các gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta.
Nêu cao khẩu hiệu: học tập, đuổi kịp và vượt những đơn vị và những người tiên
tiến, học tập và noi gương những người anh hùng” [86, tr. 107].
Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương, Đảng bộ Quảng Bình thường xuyên chú
trọng công tác giáo dục chính trị cho cán bộ và nhân dân nhận thức sâu sắc về sự
nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, về vai trò và trách nhiệm của địa phương ở
tuyến đầu miền Bắc và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, để từ đó
nâng cao ý thức chính trị, củng cố quyết tâm “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” trong
mọi tình huống.
Ngay sau ngày 7-2-1965, trên cơ sở phát huy những kết quả đạt được của đợt
sinh hoạt “10 năm Quảng Bình giải phóng” 1, Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức hội nghị
cán bộ toàn tỉnh, lấy ý kiến nhân dân về quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Trong
1. Sau ngày 5-8-1964, Tỉnh ủy tổ chức đợt học tập trong toàn tỉnh với chủ đề “10 năm
Quảng Bình giải phóng”, liên hệ so sánh hai cuộc đời, hai chế độ, hai con đường trước và
sau ngày giải phóng (18-8-1954 - 18-8-1964), để từ đó nêu cao quyết tâm sẵn sàng hi sinh
để bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được. Qua đợt sinh hoạt, Tỉnh ủy khẳng
định: “Trải qua 10 năm xây dựng hậu phương, nhân dân Quảng Bình đã tôi luyện cho
mình sự nhất trí về chính trị và tinh thần, củng cố lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, ý
thức căm thù kẻ xâm lược được thể hiện bằng hành động cách mạng cụ thể, bằng khí thế
chiến đấu, phục vụ chiến đấu và đẩy mạnh sản xuất”. Đó chính là sức mạnh để quân dân
Quảng Bình vững tin vào chính mình, sẵn sàng bước vào cuộc đối đầu khốc liệt với đế
quốc Mỹ [14].
57
báo cáo gửi Trung ương Đảng, Tỉnh ủy khẳng định: “Dù trải qua hi sinh, gian khổ
ác liệt mấy đi nữa, quân và dân Quảng Bình quyết giữ vững tinh thần, phát huy
truyền thống anh hùng, bất khuất của Bình Trị Thiên khói lửa, sẵn sàng trước mọi
thử thách, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” [10, tr. 9].
Ngày 17-7-1965, quân và dân Quảng Bình đạt thành tích bắn rơi 100 máy bay
Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen “tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản xuất cũng
giỏi” [127, tr. 466]. Nhằm chuyển hóa thư khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành
sức mạnh trong thực tiễn, tháng 11-1965, Tỉnh ủy Quảng Bình phát động phong
trào thi đua “Hai giỏi” (Chiến đấu giỏi, Sản xuất giỏi), làm dậy lên khí thế thi đua
cách mạng quần chúng sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi ngành và địa phương.
Bằng cách in thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát đến tận từng gia đình và đơn vị để
cho mọi người học tập, viết quyết tâm thư hứa làm theo, với những mục tiêu cụ thể
theo hướng phát huy mặt tốt, khắc phục mặt hạn chế [167, tr. 18], Quảng Bình trở
thành cái nôi của phong trào thi đua “Hai giỏi”, và được nhân rộng thành cao trào
trong cả nước.
Tháng 7-1967, để chuẩn bị tư tưởng và hành động cho quần chúng vượt qua
những thử thách ngày càng khắc nghiệt phía trước, Tỉnh ủy tổ chức đợt học tập “ơn
Đảng nặng, thù giặc sâu”. Qua học tập, toàn Đảng bộ, quân và dân thấy rõ hơn vai
trò của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và với sự thay đổi
cuộc đời của mỗi gia đình, cá nhân nói riêng, qua đó tăng cường ý chí chiến đấu và
ý thức trách nhiệm đối với quê hương, Tổ quốc và sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Tỉnh ủy kêu gọi: “Dù phải ăn cháo, ăn rau, nhân dân Quảng Bình vẫn tiếp tục
nâng cao quyết tâm chi viện cho miền Nam. Dù chiến tranh ác liệt đến đâu, Quảng
Bình cũng kiên quyết giữ vững mạch máu giao thông vận tải nối liền hai miền Nam
Bắc. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, tăng cường đội ngũ dân quân
du kích, thực sự là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân” [21, tr. 15].
Năm 1968, ở thời điểm chiến tranh ác liệt nhất, Tỉnh ủy tổ chức học tập tài
liệu “Vinh dự lớn lao, trách nhiệm nặng nề, sẵn sàng đi trước về sau cho đến thắng
lợi cuối cùng”. Khi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ kết thúc, một bộ
58
phận cán bộ và nhân dân không nhận thức hết tình hình, có tư tưởng thỏa mãn thắng
lợi, thiếu tích cực trong sản xuất và tỏ ra chủ quan trước những hoạt động chiến
tranh tiếp diễn của Mỹ. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy tổ chức đợt sinh hoạt chính trị
sâu rộng trong toàn tỉnh. Nội dung và yêu cầu của đợt sinh hoạt này là làm cho mọi
người thấy rõ thắng lợi to lớn của ta, thất bại nặng nề của Mỹ, nhưng phải nhận thức
được bản chất xâm lược của Mỹ, những khó khăn còn phía trước, khi sự nghiệp
thống nhất đất nước vẫn chưa hoàn thành. Trên cơ sở nhận thức đó, “thừa thắng
xông lên, tranh thủ khẩn trương hoàn thành mọi nhiệm vụ trước mắt, đồng thời luôn
luôn đề cao cảnh giác, chống tư tưởng xả hơi” [164, tr. 215]. Sau khi quán triệt cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt, đợt sinh hoạt mở rộng ra toàn tỉnh, thu hút sự tham gia của
đông đảo quần chúng, làm dậy lên khí thế tấn công trên tất cả các lĩnh vực sản xuất,
hàn gắn vết thương chiến tranh, sẵn sàng chiến đấu và chi viện chiến trường.
Tháng 9-1969, hưởng ứng đợt sinh hoạt chính trị “Học tập và làm theo Di
chúc của Hồ Chủ tịch” do Bộ Chính trị phát động, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp, các
ngành và các địa phương tổ chức cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân học tập.
Chỉ chưa đầy một tháng, toàn thể nhân dân đã được học tập, giải quyết được những
băn khoăn, lo lắng trong tâm tư quần chúng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua
đời. Phong trào hành động cách mạng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại” tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong toàn tỉnh.
Nhằm phát hiện, biểu dương những điển hình trong chiến đấu và sản xuất,
công tác bình xét “Hai giỏi” được chú trọng, có tác dụng kích thích, cổ vũ phong
trào thi đua phát triển mạnh mẽ hơn. Kể từ khi phát động phong trào thi đua “Hai
giỏi” (1965), hàng năm Tỉnh ủy đều tổ chức Đại hội tổng kết nhằm biểu dương
những nhân tố tiêu biểu, tìm ra những nguyên nhân thành công, những hạn chế để
có biện pháp khắc phục nhằm đưa phong trào tiến lên. Tỉnh ủy Quảng Bình còn có
sáng kiến kết hợp tổng kết thi đua “Hai giỏi” với công tác xây dựng, củng cố tổ
chức Đảng nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy phong trào hành
động cách mạng của quần chúng. Cụ thể, đối tượng kết nạp đảng phải là cá nhân
“Hai giỏi” xuất sắc, đảng viên dự bị không đạt “Hai giỏi” không được xét chuyển
59
chính thức, các cơ quan lãnh đạo của Đảng và các tổ chức quần chúng phải gồm
những người được lựa chọn trong số đảng viên “Bốn tốt” và cá nhân “Hai giỏi”,
đảng viên nào không đạt tiêu chuẩn “Hai giỏi” thì phải kiểm tra lại tư cách đảng
viên, … [111, tr. 113]. Như năm 1970, toàn tỉnh bình xét được 76.000 cá nhân,
13.000 hộ gia đình đạt danh hiệu “Hai giỏi” (vượt năm 1969 là 9.000 cá nhân và
3.000 gia đình), trong đó lựa chọn được 410 quần chúng ưu tú kết nạp Đảng. Sự
phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu của phong trào thi đua “Hai giỏi” vừa là kết
quả của công tác chính trị - tư tưởng, vừa chứng tỏ sức sống mãnh liệt của một
phong trào cách mạng quần chúng đã ăn sâu, bám rễ bền chặt vào lòng dân, “xây
dựng cho mọi người tinh thần ngoan cường, dũng cảm, xả thân cứu nước, nâng cao
ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, vượt qua mọi thử thách, hi sinh”
[156, tr. 21]. Đó là nguồn gốc tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân dân Quảng Bình
vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại.
2.5. Chuyển hướng nền kinh tế sang thời chiến, đảm bảo hậu cần tại chỗ
cho chiến tranh nhân dân
Thực hiện chủ trương “chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến
bằng việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công
nghiệp kết hợp với việc xây dựng những xí nghiệp vừa và nhỏ” [86, tr. 111] của Hội
nghị Trung ương 12 (12-1965), Tỉnh ủy Quảng Bình có những biện pháp để chuyển
hướng nền kinh tế của địa phương thích ứng với tình hình mới, vừa đảm bảo sản
xuất vừa đảm bảo chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Bởi trong điều kiện của cuộc
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đảm bảo sản xuất, ổn định nền kinh tế cũng là
một mặt trận phối hợp với mặt trận quân sự. Sản xuất đã vượt ra khỏi nhiệm vụ đáp
ứng các mục tiêu kinh tế và đời sống thông thường mà trở thành một bộ phận cấu
thành của chiến tranh nhân dân, đó là đảm bảo hậu cần tại chỗ cho tất cả các lực
lượng trong đội hình thực hiện chiến tranh nhân dân.
2.5.1. Trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp
Trước việc sản xuất bắt đầu gặp khó khăn trong khi nguồn chi viện từ Trung
ương vào gặp trở ngại do các cuộc đánh phá của Mỹ, vấn đề đảm bảo tự túc lương
60
thực tại chỗ càng trở nên quan trọng. Ngày 29-6-1965, Ban Bí thư gửi Điện mật số
146/HT cho các tỉnh khu 4 về việc giải quyết lương thực, đẩy mạnh sản xuất. Ban
Bí thư yêu cầu các địa phương “cần thúc đẩy sản xuất tại chỗ, có giải pháp đưa
những thành phần phi sản xuất về nông thôn” [86, 345]. Quán triệt chủ trương đó
của Trung ương, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Quảng Bình (18 – 26-6-1965) đề ra
nhiệm vụ: “Vừa chiến đấu, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa đẩy mạnh sản xuất và tích
cực bảo vệ sản xuất. Ra sức xây dựng tiềm lực kinh tế vững chắc để đáp ứng yêu
cầu chiến đấu, đời sống của nhân dân”. “Trước mắt chuyển hướng xây dựng nền
kinh tế tự túc. Đề cao ý thức tự lực cánh sinh, chỉ yêu cầu Trung ương viện trợ
những thứ địa phương không có khả năng sản xuất và thiếu nó không thể sống
được. Bảo đảm cho dân quân tự vệ đủ sức vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Bồi dưỡng
sức dân để đảm bảo sản xuất, chiến đấu lâu dài với tinh thần triệt để tiết kiệm. Tất
cả 40 vạn nhân dân Quảng Bình cố gắng thắt lưng buộc bụng, sẵn sàng chịu đựng
mọi thiếu thốn, dốc toàn lực xây dựng nền kinh tế tự túc” [10].
Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương và quyết tâm của tỉnh Quảng Bình,
nông nghiệp trong thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung vào 2 mục tiêu lớn nhất
là xây dựng hợp tác xã vững mạnh làm cơ sở cho nền kinh tế thời chiến và tập trung
cao nhất cho sản xuất lương thực, đảm bảo tự túc được lương thực trong mọi hoàn
cảnh, kể cả trong những thời điểm bị địch đánh phá, phong tỏa, bao vây, chia cắt
khỏi sự chi viện của Trung ương.
Về trồng trọt. Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp trong thời chiến, biện pháp
quan trọng đầu tiên cần thực hiện là củng cố hợp tác xã vững mạnh. Có như vậy
mới giải quyết được nhân công cho sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu tại chỗ
cũng như chi viện cho các chiến trường trong điều kiện một bộ phận lớn thanh niên
đã, đang và sẽ lên đường chiến đấu. “Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không phải
chỉ là một tổ chức kinh tế tập thể của nông dân mà còn là nơi động viên tổ chức lực
lượng chiến đấu, sản xuất, phục vụ chiến đấu, nơi giải quyết chính sách, giải quyết
đời sống, đảm bảo chiến đấu và sản xuất” [76, tr. 44-45]. Để hợp tác xã hoàn thành
được sứ mệnh của mình, công tác tổ chức được đặt lên hàng đầu. Từ giữa năm
1966, Ủy ban Hành chính tỉnh chọn huyện Lệ Thủy phát động cải tiến công tác
61
quản lí hợp tác xã nhằm đảm bảo giữ vững, phát triển quan hệ sản xuất mới và phát
huy được tác dụng của nó trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Kinh
nghiệm thực tế rút ra từ đợt phát động này là để vừa đảm bảo phòng không tốt vừa
đảm bảo tăng năng suất lao động, hợp tác xã phải có quy mô lớn, đội sản xuất có
quy mô 40-60 lao động nhưng tổ chức sản xuất hàng ngày lại phải chia nhóm,
khoán nhỏ. Hợp tác xã vừa là cơ sở tổ chức sản xuất vừa là cơ sở chiến đấu, khu
vực chiến đấu. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, Ban quản trị hợp tác xã là tập thể
chịu trách nhiệm về tất cả các mặt sản xuất, tổ chức đời sống, chiến đấu và phục vụ
chiến đấu. Chủ nhiệm và đội trưởng đội sản xuất phụ trách chung kiêm chỉ huy dân
quân, phó chủ nhiệm và đội phó sản xuất phụ trách sản xuất, lao động và đời sống.
Ban quản trị và các đội trưởng sản xuất không những có trách nhiệm chăm lo sản
xuất, tổ chức đời sống, phân công lao động mà còn phải chăm lo việc tổ chức lực
lượng, điều động lực lượng, giải quyết chính sách cho những người tham gia chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông và làm công tác phòng không nhân
dân. Do đó, trong từng hợp tác xã và đội sản xuất, các xã viên vừa sản xuất vừa là
dân quân, trực chiến máy bay hoặc canh gác bờ biển, biên giới, làm hầm hào, cấp
cứu, tải thương, quan sát, báo động, phục vụ giao thông và kể cả là tham gia rà phá
bom mìn khi có yêu cầu, … Ngoài ra, các hợp tác xã còn tổ chức những bộ phận
giúp đỡ các đơn vị chủ lực chiến đấu tại địa phương như tiếp tế, tải thương, tải đạn,
làm trận địa, ngụy trang, kéo pháo, gánh nước, nấu cơm, chăm sóc thương binh, …
Tất cả những việc làm này đều được tính công điểm, trong đó, công tác chiến đấu
và phục vụ giao thông vận tải được tính ngang với những người sản xuất có năng
suất cao nhất.
Từ Lệ Thủy, kinh nghiệm được nhân rộng ra, toàn bộ các hợp tác xã nhỏ ở quy
mô bậc thấp được đưa lên bậc cao, quy mô toàn thôn, có nơi là toàn xã (như Hợp tác
xã Đại Phong). Đến cuối năm 1968, toàn tỉnh có 408 hợp tác xã bậc cao (đạt 100%).
Qua quá trình sáp nhập, năm 1970 còn 238 hợp tác xã. Năm 1968, số hộ vào hợp tác
xã là 97,05%, qua năm 1970 là 98,7% [69, tr. 115]. Thực tiễn của cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại sau đó cho thấy, với hình thức tổ chức như vậy, hợp tác
62
xã đã phát huy được vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng và chiến đấu bảo vệ
miền Bắc, chi viện cách mạng miền Nam, luôn đảm bảo được số nhân công cần thiết
để sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ngay cả những thời điểm chiến tranh ác
liệt nhất hay khi có yêu cầu nhiệm vụ đột xuất.
Trên cơ sở tổ chức hợp tác xã được củng cố, tư tưởng chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp trong thời chiến được xác định là “bám làng mà chiến đấu, bám đồng ruộng
mà sản xuất, bám hố bom mà thâm canh”. Tỉnh ủy đề ra 4 chỉ tiêu: 1 lao động phụ
trách 1 ha đất sản xuất 4 tấn lúa/năm, 7 tấn hoa màu/vụ và 3 con trâu, bò, lợn. Để tổ
chức được sản xuất phải làm tốt công tác phòng tránh từ mỗi hợp tác xã, mỗi thôn,
xóm, mỗi gia đình, hộ xã viên, ... Tỉnh ủy chỉ đạo: “Các tổ sản xuất ra đồng gặt hái
phải phân tán nhỏ, không tập trung. Dọc đường phải có hầm hố. Ở những nơi xung
yếu, dân quân phải chuẩn bị sẵn công sự chiến đấu để vừa tham gia gặt hái, vừa
chủ động đánh địch bảo vệ đồng bào. Lúa đem về kho phải tranh thủ phân phối
dần, không để ứ đọng, phòng khi địch bắn phá, khỏi bị tổn thất” [14, tr. 31]. Ở
những nơi Mỹ đánh phá ác liệt, việc sơ tán dân là cần thiết nhưng những lao động
chính vẫn ở lại, bám trụ sản xuất. Những khẩu hiệu như “vững tay cày, chắc tay
súng”, “địch đến là đánh, địch đi là sản xuất”, “làm ngày không đủ, tranh thủ làm
đêm”, “mất cây này, trồng cây khác”, “trời làm mất, bắt đất bù”, … được các hợp
tác xã quán triệt, làm dậy lên khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã viên.
Trong tổ chức sản xuất, việc thực hiện “3 quản, 3 khoán” 1 được vận dụng
thích hợp. Về quản lí sản xuất, ở những vùng ác liệt, các cấp ủy đảng và chính
quyền dùng nhiều biện pháp giáo dục nhân dân bám chắc quan hệ sản xuất mới,
chống xu hướng làm ăn riêng lẻ, đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, biện
pháp trồng trọt và chăn nuôi thích hợp với từng vùng, từng thời gian. Trong kế
hoạch sản xuất luôn có 2-3 phương án để khi thực hiện phương án này phải có kế
hoạch dự trù và chuẩn bị vật tư, giống má cho phương án khác. Khi khó khăn hoặc
quá thời vụ, không sản xuất được loại này thì chuyển sang sản xuất loại khác. Về
1. Ba quản: Quản lí sản xuất, quản lí lao động và quản lí tài vụ. Ba khoán: Khoán tập thể,
khoán công điểm và khoán trọng điểm.
63
quản lí lao động, do lực lượng lao động có nhiều biến động lớn cũng như phải sử
dụng vào những công tác phi sản xuất nên các hợp tác xã chủ động quy hoạch nhân
lực sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông, làm hầm hào, …
Đồng thời, các hợp tác xã dự tính cả việc sử dụng lao động để làm lại những nơi bị
địch phá trên cơ sở phát huy cao nhất năng lực của mỗi xã viên, tích cực động viên
nhiệt tình lao động, phát huy sáng kiến trong sản xuất của tất cả mọi người. Ngoài
ra, ở những nơi ác liệt, các hợp tác xã còn tổ chức những đội xung kích đảm nhận
những công việc nặng nhọc nhất như cày bừa, chăm sóc và thu hoạch. Về quản lí tài
vụ, các hợp tác xã phải coi trọng và có biện pháp quản lí chặt chẽ để tránh tình trạng
tham ô, lãng phí, đồng thời đảm bảo tính công bằng, hợp lí, có tác dụng động viên
sản xuất. Để đảm bảo chắc chắn, tránh địch đánh cháy hỏng và đề phòng nhân viên
tài vụ hi sinh, người sau không nắm được tình hình, nhiều hợp tác xã bố trí hệ thống
quản lí kép (2 người phụ trách, sổ sách có 2-3 bản).
Trong bom đạn của chiến tranh, các phong trào thi đua ngày càng phát triển,
với hàng ngàn tổ, đội, hợp tác xã “Hai giỏi”, trong đó có 6 đội lao động xã hội chủ
nghĩa. Hợp tác xã Đại Phong vẫn duy trì ngọn cờ đầu của sản xuất nông nghiệp,
nhất là trong công tác quản lí, 4 năm liền nhận cờ thi đua xuất sắc toàn diện của tỉnh
và 3 năm liền nhận cờ thi đua của Bộ Nông nghiệp. Thi đua với Đại Phong, Hợp tác
xã Cự Nẫm dẫn đầu trong làm nghĩa vụ lương thực cho nhà nước, bình quân một hộ
đạt 1,3 tấn lúa/năm. Hợp tác xã Đức Phổ chỉ 2 năm (1966-1967) làm thủy lợi đã
bằng 10 năm trước chiến tranh, đưa năng suất lúa vụ 10 lên cao nhất toàn tỉnh, năng
suất khoai từ 40 tạ lên 106 tạ/ha [196, 192-193].
Sau khi Mỹ xuống thang chiến tranh, Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo ngành
nông nghiệp các địa phương tập trung khôi phục diện tích canh tác bị phá hoại. Cùng
với khai hoang phục hóa, công tác thủy lợi được đẩy mạnh. Tỉnh huy động lực lượng
dân quân, bộ đội địa phương tham gia khôi phục các công trình thủy lợi Đá Mài, Rào
Nan, Rào Sen, Xuân Bồ, … Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp dần phục hồi.
Về chăn nuôi. Tỉnh chủ trương phát triển mạnh chăn nuôi tập thể nhưng phân
tán chuồng trại về các đội. Công tác phòng không cho trâu bò được chú ý. Trâu bò
64
được phân tán thành nhóm nhỏ, ở nhà cũng như ra đồng đều có hầm hố để trú ẩn,
giảm tránh thiệt hại do hỏa lực địch. Do đó, so với năm 1964, năm 1965 đàn lợn tăng
45,8%, trâu tăng 1,3%, bò tăng 0,2%, cơ sở chuồng trại tăng 29,9%. Qua năm 1966,
đàn lợn tăng 1,6%, trâu tăng 2,1%, bò tăng 2,6%, đặc biệt lợn tập thể tăng 45,7%,
trâu tập thể tăng 32,9%. Tính bình quân, mỗi ha gieo trồng có 2,54 đầu gia súc.
Về lâm nghiệp. Sản xuất lâm nghiệp gồm hai bộ phận là khai thác và trồng
rừng. Từ trước chiến tranh, công tác trồng rừng đã được triển khai rộng khắp ở vùng
đồng bằng, ven biển, góp phần phủ xanh đồi trọc, chống nạn cát bay, cát lấp, bảo vệ
mùa màng và ngụy trang cho các đơn vị phòng thủ tuyến biển. Ngoài ra, dọc hai
bên đường quốc lộ, tỉnh lộ, nhân dân trồng hàng vạn cây phân tán lấy bóng mát.
Phong trào trồng cây gây rừng đã tạo nên những “vùng xanh” phục vụ nhiệm vụ
quốc phòng, chuẩn bị trước cho việc ẩn giấu bố phòng lực lượng sẵn sàng đánh
địch. Nó không chỉ thể hiện nguyên lí “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây” mà
trong tình hình lúc bấy giờ còn xuất phát từ nhu cầu quốc phòng, để “rừng che bộ
đội” ở những nơi bố trí lực lượng của chiến tranh nhân dân. Từ chỗ diện tích vài
trăm ha trước chiến tranh, đến năm 1972, toàn tỉnh có tới 8.980 ha rừng trồng các
loại cây như thông, bạch đàn, phi lao, trong khi diện tích rừng tự nhiên giảm từ
481.341ha xuống còn 312.480ha [70].
Trong khi đó, công tác khai thác rừng chủ yếu ở miền tây phục vụ xây dựng
nhà cửa, đóng tàu thuyền, sản xuất đồ gia dụng, … Bên cạnh các lâm trường chuyên
khai thác, cung cấp gỗ cho các cơ quan, đơn vị và công trình của nhà nước, hầu hết
các xã đều có đội sơn tràng khai thác gỗ phục vụ nhu cầu của địa phương.
Về ngư nghiệp, sự phong tỏa, đánh phá của các lực lượng hải - không quân Mỹ
và chính quyền Sài Gòn gây nên những thiệt hại lớn cho ngư dân. 80% nhà cửa hư
hại, 117 thuyền và 68 vàm lưới bị hỏng nhưng phong trào “tìm cá mà đánh, lấn
địch mà sản xuất” được phát động và duy trì thường xuyên trong các hợp tác xã.
Khi thuyền giã đôi không hoạt động được, tỉnh chủ trương chuyển sang làm công
tác vận tải và phát triển nghề lộng. Phương thức sản xuất trên biển cũng có sự thay
đổi thích ứng với thời chiến. Khi ra biển, các thuyền phải phân tán nhỏ để đề phòng
65
địch phát hiện và hạn chế tổn thất khi bị đánh phá. Ngư dân được trang bị phao cứu
sinh, dây phòng hộ để cứu nạn khi cần thiết [182, tr. 20]. Tỉnh thành lập 3 đội
thuyền có trang bị thủ pháo và tiểu liên để vừa đánh cá vừa quan sát hoạt động của
địch trên biển, phối hợp với pháo binh đánh tàu biệt kích. Hàng nghìn xã viên, công
nhân đánh cá quyết tâm bám biển, vượt qua hàng rào thủy lôi, bom từ trường, đạn
pháo, sự uy hiếp, vây bắt, điều kiện thời tiết, … để sản xuất. Năm 1966, sản lượng
đánh bắt được hơn 42.000 tấn cá, năm 1968 đạt 1.700kg/người. Hợp tác xã Quang
Phú vẫn phát huy truyền thống anh hùng, đạt năng suất 5 tấn/người. Đội đánh cá
Minh Khai (xã Bảo Ninh, Đồng Hới) có 6 thuyền với 36 chị em, dưới sự lãnh đạo
của chị Nguyễn Thị Khíu, trong 8 năm đã kiên trì bám biển đánh cá, hoàn thành
vượt mức sản lượng đánh bắt hải sản trong điều kiện bị địch đánh phá khốc liệt.
Mỗi lần bị máy bay Mỹ đánh phá, chị em lặn xuống biển tránh sát thương, 3 năm
liền vượt chỉ tiêu sản lượng 1.
Nhìn chung, trong điều kiện chiến tranh, bằng nhiều biện pháp và sự nỗ lực
vượt bậc của nhân dân, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp ở Quảng Bình vẫn có
những bước tiến nhất định. Nếu lấy năm 1960 làm mốc (= 100) thì sản lượng lương
thực những năm tiếp theo tăng như sau: năm 1965 là 135 (trồng trọt: 144,8; chăn
nuôi: 97,6), năm 1968 là 112,4 (trồng trọt: 113,1; chăn nuôi: 109,9), năm 1970 là
140,3 (trồng trọt: 142,7; chăn nuôi: 131,4), năm 1971 là 123,2 (trồng trọt: 123,2;
chăn nuôi: 123,6), năm 1972 là 147,7 (trồng trọt: 155,7; chăn nuôi: 120,9), năm
1973 là 121,5 (trồng trọt: 123,1; chăn nuôi: 115,4) [70, tr. 5].
Với kết quả đạt được trên đây, rõ ràng nhân dân Quảng Bình đã cơ bản thực
hiện được chủ trương chuyển hướng kinh tế của Trung ương, duy trì sản xuất và
cung ứng lương thực, thực phẩm tại chỗ, giảm thiểu đến mức tối đa tác động của
cuộc chiến tranh phá hoại, đảm bảo đời sống cho cán bộ và nhân dân tỉnh nhà, làm
nghĩa vụ cho nhà nước và góp phần chi viện tiền tuyến lớn miền Nam. Đảm bảo sản
1. Tại đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ 4 (1967), chị Nguyễn Thị Khíu,
đội trưởng đội đánh cá Minh Khai được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lao động duy
nhất của ngành thủy sản.
66
xuất và chiến đấu tại chỗ, nông dân Quảng Bình đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi chung của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
2.5.2. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Cho đến trước năm 1965, điều kiện để phát triển công nghiệp ở Quảng Bình
chưa có. Thế nhưng, khi chiến tranh bùng nổ, trong tình hình bị Mỹ phong tỏa, bao
vây, chia cắt thì phát triển công nghiệp địa phương trở thành một nhu cầu cấp bách
và nó đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thời chiến và làm nên nét
đặc sắc của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình. Đó là vấn đề hậu cần tại chỗ cho
chiến tranh.
Chiến tranh làm cho nhu cầu của chiến đấu, sản xuất và đời sống trên địa bàn
Quảng Bình có những thay đổi lớn, nhiều nhu cầu mới phát sinh và phần lớn là
mang tính đột xuất. Số người thoát li sản xuất tăng lên trong khi những thanh niên
trẻ khỏe đều được bổ sung vào lực lượng chiến đấu và phục vụ giao thông vận tải.
Cộng thêm vào đó, các lực lượng vũ trang và giao thông vận tải của Trung ương
đóng trên địa bàn rất lớn. Quảng Bình còn là nơi đứng chân của các lực lượng trước
khi vào Nam chiến đấu và từ chiến trường ra. Hàng vạn gia đình ở thị xã, thị trấn và
vùng xung yếu đi sơ tán hoặc lập làng mới ở những nơi xa, … đòi hỏi cần cung cấp
thiết yếu về sản xuất và đời sống. Tất cả làm cho nhu cầu về hàng hóa tăng lên đột
ngột cả về số lượng và chủng loại. Chẳng hạn như ngoài gạo và muối, đường sữa rất
cần thiết để bồi dưỡng cho các lực lượng chiến đấu hoặc lao động nặng và những
người bị thương. Việc sản xuất vải và áo quần cũng phải có màu sắc phù hợp với
công tác phòng không. Nhiều loại hàng phát sinh như ba lô, bi đông nước, nguyên
vật liệu làm hầm hào, … Chiến tranh càng ác liệt, nhu cầu về thiết yếu phục vụ cấp
cứu chiến thương (như quan tài, vải khâm liệm, rượu cồn, …) tăng lên. Do bị đánh
phá, nên những hàng hóa thông dụng hàng ngày cũng đòi hỏi cao như chăn màn,
chiếu, đèn pin, bát dĩa, soong nồi, … để thay thế. Trong khi đó, nền sản xuất tại chỗ
của Quảng Bình trước chiến tranh vốn đã nhỏ bé nay lại càng khó khăn hơn, nhất là
khi phải đáp ứng nhu cầu tăng lên đột biến, với nhiều mặt hàng phát sinh. Không
chỉ thiếu hàng bách hóa, cung ứng về thực phẩm, nhất là thủy sản cũng gặp khó
67
khăn do biển bị phong tỏa. Một phần lớn thuyền bè được huy động phục vụ vận tải
quân sự (khoảng 60%) nên sản lượng đánh bắt giảm, khả năng phục vụ lưu thông
hàng hóa nội tỉnh bị hạn chế khi đường bộ bị cắt đứt nhiều nơi, … Trong điều kiện
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ngày càng leo thang, các cơ sở công nghiệp ở
miền Bắc vốn đã nhỏ bé nay lại bị tàn phá hoặc phải phân tán và sự chi viện từ bên
ngoài vào gặp khó khăn thì sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tại chỗ
càng trở nên quan trọng, nhất là đối với việc cung cấp những hàng hóa thiết yếu cho
nhân dân. Đối với Quảng Bình, tình hình này lại càng khó khăn hơn khi giao thông
từ miền Bắc vào thường xuyên bị ách tắc và hàng hóa từ Trung ương chuyển vào
dành ưu tiên cho hàng quân sự và chi viện cách mạng miền Nam. Vì vậy, công
nghiệp địa phương càng trở nên có vai trò quan trọng trong việc phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu, phục vụ đời sống của nhân dân.
Quán triệt chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 12 (12-1965): “Ra sức phát triển
nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa
phương quản lí, cấp bách nhất là các tỉnh Liên khu 4 cũ, nâng cao mức tự cung tự
cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu
cầu về một số nguyên liệu, vật liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất,
chiến đấu và bảo đảm đời sống của nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng” [86, tr. 422],
Tỉnh ủy Quảng Bình chủ trương “toàn dân tham gia xây dựng công nghiệp địa
phương” và “tiết kiệm để xây dựng công nghiệp địa phương” [193, tr. 29].
Trước hết, các cơ sở công nghiệp có thể di dời được chuyển về những hang
động ở miền Tây Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa. Chỉ trong thời
gian ngắn, hàng ngàn tấn thiết bị, máy móc, nguyên nhiên liệu đã được đưa về vùng
an toàn và khẩn trương ổn định, bắt tay ngay vào sản xuất. Mặt khác, để đảm bảo
cung ứng hàng hóa tại chỗ, giảm bớt gánh nặng cho Trung ương, Ủy ban Hành chính
tỉnh liên hệ với Bộ Công nghiệp nhẹ, đề nghị hỗ trợ địa phương xây dựng một số cơ
sở công nghiệp. Tháng 5-1966, Bộ Công nghiệp nhẹ cử đoàn cán bộ vào Quảng Bình
giúp Ty Công nghiệp xây dựng một số nhà máy với phương thức “nhà máy mẹ đẻ xí
nghiệp con”. Các nhà máy diêm, xà phòng, rượu Hà Nội cử chuyên gia, cán bộ kĩ
68
thuật cùng máy móc, nguyên nhiên liệu vào giúp thành lập xí nghiệp: Diêm Nhật Lệ,
xà phòng sông Gianh, rượu Bồng Lai, đường Trường Sơn, Xí nghiệp bát sứ Văn La,
… Cùng thời gian này, Xí nghiệp nước chấm mari, xì dầu Thanh Hương được xây
dựng tại Quảng Sơn (Quảng Trạch) có công suất 50 tấn xì dầu ép khô/năm.
Trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí, ngoài Xí nghiệp Cơ khí 3-2, để đáp ứng
yêu cầu sản xuất phục vụ chiến đấu, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân,
Tỉnh tiến hành xây dựng thêm một số cơ sở mới như Xí nghiệp Cơ khí 2-9 tại các
hang lèn xóm Hà Lốt (Phúc Trạch, Bố Trạch), Xí nghiệp Sửa chữa ô tô A3, …
Những cơ sở này đã tạo được nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, xe
máy cho các đơn vị pháo cao xạ, ...
Trong 4 năm (1965-1968), mặc dù phải di chuyển và mất nhiều thời gian để
làm công tác phòng tránh nhưng nền công nghiệp địa phương Quảng Bình vẫn có
những bước tiến nhất định, từ 12 xí nghiệp tăng lên 35 xí nghiệp và số lượng công
nhân từ 700 tăng lên gấp 7 lần. Các xí nghiệp được đầu tư, trang bị thiết bị máy móc
khá hiện đại so với thời điểm đó. “Tuy số lượng chưa nhiều nhưng chúng ta cũng
đã củng cố thêm được một số mặt hàng tiêu dùng trong tỉnh mà trước đây phải xin
Trung ương như rượu, xà phòng, bát sứ, diêm, … đã sản xuất thêm những mặt hàng
mới như hàng may mặc sẵn, da cao su, dép lốp, đậu phụ, …” [179, tr. 18].
Ngay sau ngày Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, tỉnh có chủ trương chuyển một
số cơ sở về đồng bằng để tập trung đẩy mạnh sản xuất đáp ứng yêu cầu sản xuất và
đời sống trong tình hình mới. Chỉ một thời gian ngắn, cán bộ công nhân của các xí
nghiệp đã tổ chức tháo dỡ, di chuyển máy móc về vị trí mới và lên phương án tổ
chức sản xuất. Nhiều xí nghiệp được trang bị thêm máy móc, cán bộ công nhân tích
cực tham gia phong trào “Sáng kiến, góp công, dốc lòng, hiến kế”, hợp lí hóa sản
xuất giành danh hiệu “Kiện tướng”, “Dũng sĩ” trong lao động sản xuất.
Cùng với công nghiệp, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp của hợp tác xã trong
thời gian này cũng phát triển mạnh mẽ, sản xuất được nhiều mặt hàng. Nhiều cơ sở
sản xuất gạch ngói ở các địa phương được xây dựng và đi vào sản xuất ra sản phẩm
phục vụ nhu cầu xây dựng, sửa chữa các công trình nhà nước và nhà ở cho nhân
69
dân. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp ở Đồng Hới với tinh thần tực lực cánh
sinh, tận dụng nguyên liệu sẵn có, tự nghiên cứu lắp ráp máy móc, dây chuyền công
nghệ, trang bị được máy đột dập 35 tấn, máy dập đinh, máy phay, máy tiện, hệ
thống lò hơi máy phát điện 35kw, sản xuất thêm nhiều mặt hàng phục vụ đời sống
như phụ tùng xe đạp, các đồ gia dụng, …
Với kết quả đó, dù còn có hạn chế, công nghiệp địa phương đã trở thành nét
đặc thù trong chính sách kinh tế thời chiến của Quảng Bình, góp phần quan trọng
đảm bảo nguồn lực tại chỗ, giúp quân dân Quảng Bình hoàn thành sứ mệnh bám trụ
địa bàn sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chi viện cách mạng miền Nam,
cách mạng Lào.
2.5.3. Trong lưu thông phân phối
Chiến tranh và sự ách tắc giao thông đã làm nguồn hàng từ miền Bắc chuyển
vào Quảng Bình giảm sút, nhất là giai đoạn đế quốc Mỹ tập trung đánh chặn từ vĩ
tuyến 20 trở vào. Trong khi đó, nền sản xuất tại chỗ vốn đã nhỏ bé lại càng khó
khăn hơn trên tất cả các lĩnh vực, khiến cho việc thu mua hàng hóa, cung ứng, lưu
thông gặp rất nhiều phức tạp, tưởng chừng như khó vượt qua. Yêu cầu phải cung
cấp từ cây kim, sợi chỉ cho tới máy móc phục vụ sản xuất, xe cộ, phương tiện,
nguyên vật liệu đảm bảo giao thông và chiến đấu; từ soong nồi, chén bát, chậu giặt
đến những nguyên vật liệu dựng nhà, làm hầm, cây con giống phục vụ sản xuất; từ
chén cơm, hạt muối trong bữa ăn hàng ngày đến đường sữa cho người bị thương,
quan tài - vải - rượu để khâm liệm người chết, … là tất cả những thứ mà ngành
thương nghiệp phải đảm bảo cung ứng cho nhân dân và các lực lượng chiến đấu,
phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông có mặt trên đất Quảng Bình. Rõ ràng, đó là
một gánh nặng lớn mà ngành thương nghiệp phải thực hiện, góp phần đảm bảo cơ
sở vật chất chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ, cấp ủy Đảng và chính
quyền tỉnh Quảng Bình có những chủ trương chỉ đạo kịp thời để phát triển mạng
lưới lưu thông, phân phối, đảm bảo nguồn hàng phục vụ nhân dân, nhất là những
70
nguồn hàng trực tiếp phục vụ cho sản xuất, chiến đấu và đảm bảo nhu yếu phẩm tối
thiểu cho đời sống của nhân dân.
Ngày 14-6-1965, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về việc chuyển hướng
công tác tài chính thương nghiệp trong tình hình mới, trong đó chỉ rõ: “Cuộc
chiến tranh nhân dân, nhất là chiến tranh nhân dân dựa trên một nền kinh tế nông
nghiệp đang quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mạng lưới
giao thông vận tải trong nước và nước ngoài còn non yếu, đòi hỏi trên toàn miền
Bắc, từng vùng, từng tỉnh, thậm chí từng đơn vị sản xuất, đơn vị chiến đấu, phải
ra sức tự giải quyết các nhu cầu về sản xuất, chiến đấu và đời sống trong nước”
[86, tr. 164-165].
Để đảm bảo nguồn hàng và cung ứng tốt cho bộ đội và nhân dân, tháng 4-
1966, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 123 chỉ đạo các cấp tăng cường củng cố hệ thống cửa
hàng mậu dịch, đặc biệt là phát triển hợp tác xã mua bán. Hội nghị cán bộ toàn tỉnh
Quảng Bình (6-1965) chủ trương “phải quản lí chặt chẽ việc cung cấp phân phối
hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân”. Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo
ngành thương nghiệp rà soát lại những hàng hóa mà địa phương có thể sản xuất và
cung ứng được, cố gắng đảm bảo lương thực và thực phẩm tại chỗ, tính toán cụ thể
nhu cầu của từng loại hàng, hàng gì cần ưu tiên vận chuyển, … để từ đó có biện
pháp cân đối thích hợp. Tinh thần đề ra là địa phương cố gắng tự túc những thứ có
thể sản xuất hoặc thu mua tại chỗ, còn những thứ thiết yếu sẽ đề nghị Trung ương
chi viện. Hàng hóa tiếp nhận từ Trung ương và thu mua nội tỉnh được phân bố trong
hệ thống kho tàng theo 3 tuyến (trước, giữa và sau). Để bảo vệ hàng hóa, ngay sau
ngày 7-2-1965, tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các ngành khẩn trương sơ tán kho tàng về
các vùng an toàn. Có đêm, ta chuyển gần 700 tấn hàng với hơn 2.000 mặt hàng ra
khỏi Đồng Hới. Kho tàng được phân tán mỏng và gửi vào dân để cất giữ; có nơi phải
đưa vào các hang, lèn đá, có thứ hàng phải chôn xuống đất để che mắt địch, … Tổng
cộng có trên 100 điểm cất giữ, hình thành 20 vùng kho, gần 700 kho bố trí theo chùm
và sử dụng 2 loại nhà kho: 200 kho biệt lập và 800 kho nhà dân [180, tr. 21].
Việc phân tán hàng hóa như thế vừa đảm bảo an toàn vừa thuận tiện cho công tác
71
phân phối đến các cơ quan, đơn vị và nhân dân. Nhờ vậy, trong 4 năm (1965-1968),
máy bay Mỹ đánh phá vùng có kho tàng 3.700 lần, trong đó đánh trúng kho có hàng
197 lần nhưng nhờ sơ tán và cứu chữa kịp thời nên chỉ thiệt hại 998.000 đồng
(chiếm 0,92% tổng giá trị hàng hóa).
Từ giữa năm 1966, do mức độ đánh phá của Mỹ ngày càng ác liệt, nguồn cung
hàng hóa trở nên khan hiếm. Để giải quyết, việc huy động nguồn lực tại chỗ đóng
vai trò quan trọng. Tuy nhiên, công việc này gặp rất nhiều khó khăn do nền sản xuất
của Quảng Bình bị ảnh hưởng lớn bởi chiến tranh. Tỉnh ủy đã kịp thời quy định về
nghĩa vụ bán nông sản, thực phẩm cho nhà nước thành một tiêu chuẩn thi đua “Hai
giỏi”, gắn với tiêu chuẩn đảng viên tốt, gia đình 5 tốt, phụ nữ ba đảm đang, …
Ngành Thương nghiệp đã tập trung nguồn hàng với tinh thần “năng nhặt chặt bị”,
“góp gió thành bão”, thậm chí thu mua cả trâu bò chết vì bom đạn, … Ý thức trách
nhiệm của mình, nhân dân Quảng Bình phát huy tinh thần vượt khó, ăn thêm rau
màu để tiết kiệm thóc làm nghĩa vụ cho nhà nước được 15.000 tấn (bằng năm 1963
là năm huy động cao nhất). Hoặc năm 1968, trước yêu cầu khẩn thiết về lương thực
từ chiến trường Trị - Thiên trong khi hàng từ miền Bắc chưa đưa vào được, Tỉnh ủy
Quảng Bình chủ trương vay gấp gạo của nhân dân để chi viện. Dù đang vào mùa
giáp hạt, lương thực đảm bảo cho đời sống nhân dân và lực lượng vũ trang cũng
đang hết sức căng thẳng nhưng với tinh thần “vì Trị - Thiên không tiếc máu, tiếc
xương”, nhân dân Quảng Bình thực hiện bữa cơm, bữa cháo, “trút gạo trong nồi
cho Trị - Thiên đánh Mỹ”, dành ra 2.600 tấn gạo gửi vào chiến trường 1. Về thực
phẩm, nhân dân tự nguyện bán nông sản và thực phẩm cho nhà nước được 1.100 tấn
thịt, gần 4.000 tấn cá, mắm và nước mắm, hàng ngàn tấn rau dưa, thực phẩm khác,
kể cả đường sữa Trung ương cung cấp theo tiêu chuẩn cho nhân dân nhưng tỉnh
dành ra gần 60% để cung cấp cho tiền tuyến.
1. Đến cuối năm 1968, nhờ chiến dịch vận tải “VT5” tranh thủ lúc địch “xuống thang”
ngừng bắn, một khối lượng hàng hóa lớn được chuyển vào Quảng Bình nên tình hình
lương thực trở lại bình thường, Tỉnh ủy chuẩn bị gạo để trả lại nhân dân. Nhưng do vụ 10
được mùa nên nhiều địa phương viết thư để nghị ủng hộ nhà nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ đạo phải trả lại cho nhân dân.
72
Xuất phát từ nhiệm vụ phục vụ sản xuất và chiến đấu, việc phân phối lưu
thông đảm bảo thông suốt, đúng đối tượng, để mọi người yên tâm tập trung thời
gian công tác được chú trọng. Mạng lưới cửa hàng mậu dịch quốc doanh được bố trí
về các vùng có cơ quan, xí nghiệp, công trường sơ tán và theo từng khu vực để rót
hàng xuống cho xã; cửa hàng mua bán các xã được giao thêm nhiệm vụ ngoài phục
vụ nhân dân trong địa phương còn cung cấp hàng hóa cho những người sơ tán và
thực phẩm tươi cho các cơ quan, bộ đội đóng trên địa bàn. Ủy ban Hành chính tỉnh
chủ trương phát triển mạng lưới hợp tác xã mua bán, chọn Lý Ninh làm thí điểm
rồi nhân rộng mô hình hợp tác xã mua bán quy mô toàn xã, tổ chức quầy hàng đến
tận thôn và ủy thác toàn bộ công tác thu mua nông sản, thực phẩm cho các hợp tác
xã. Nhằm đảm bảo an toàn, tránh tập trung đông người tại các cửa hàng mua bán,
ngành thương nghiệp phải phân tán, đưa hàng đến tận trận địa, cơ quan, xí nghiệp,
công trường, đội sản xuất để phục vụ. Lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm
phân phối đúng với các đối tượng, đảm bảo hàng hóa đến tay người tiêu dùng.
Mậu dịch quốc doanh phụ trách phân phối cho khu vực ăn lương và vùng dân tộc
ít người. Hợp tác xã mua bán phụ trách khu vực nông thôn và đồng bào sơ tán.
Vào những thời điểm lễ tết, ngày mùa, hợp tác xã mua bán tổ chức gánh hàng lưu
động đến tận ruộng đồng, nhà kho, nhà đội, sân phơi để phục vụ nhân dân. Những
mặt hàng thuộc về nhu cầu thiết yếu của đời sống như muối, vải, nước mắm,
đường sữa, thịt, … được phân phối theo tiêu chuẩn. Những thứ thiếu được cấp bù
hoặc thay thế thứ khác hoặc tạm hoãn. Những mặt hàng nhu cầu lớn nhưng số
lượng ít như nồi nhôm, chăn chiếu, chén bát, dép lốp, … ưu tiên phân phối cho
những gia đình và cơ quan bị thiệt hại, sau mới đến những người bị thiếu. Những
mặt hàng tuy không thuộc nhu cầu cơ bản nhưng rất cần mà không có nhiều như
máy lửa, đèn pin, đồng hồ, … ưu tiên phân phối cho những người rất cần như y
bác sĩ, công nhân lái xe, giáo viên, các lực lượng trực chiến, cán bộ đi công tác lẻ
hoặc sơ tán ở vùng xa xôi hẻo lánh, …
Cùng với việc hệ thống hợp tác xã mua bán, mạng lưới hợp tác xã tín dụng
cũng được phát triển khắp nơi, ngày càng phát huy tác dụng đối với sản xuất và đời
73
sống. Ngay cả những vùng bị đánh phá ác liệt, đời sống nhân dân vẫn đảm bảo, mức
thu nhập tăng, số tiền dư gửi tiết kiệm năm 1966 có 47 đồng (cao gấp đôi năm
1965), năm 1967 là 63,6 đồng [18, tr. 7]. Tổng tiền gửi tiết kiệm toàn tỉnh tăng từ
8,4 triệu đồng (năm 1965) lên 30,5 triệu (năm 1972), bình quân đầu người đạt 77,5
đồng (năm 1972) - cao nhất các tỉnh miền Bắc [81, tr. 125].
Song song với tổ chức lại mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua
bán là việc sắp xếp công ăn việc làm cho trên 4.800 tiểu thương bằng cách đưa họ
về vùng kinh tế mới hoặc làm ngành nghề. Sau 4 năm, có 2.018 người (46,3%)
chuyển sang sản xuất, 268 người làm nghề phục vụ sửa chữa, 1.230 người (29,5%)
làm nội trợ hoặc việc khác [180, tr. 28].
Chủ trương chuyển hướng tổ chức đời sống, bồi dưỡng sức dân và các mặt
hoạt động khác sang thời chiến của tỉnh đã tích cực góp phần tổ chức thắng lợi cuộc
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại hết sức ác liệt trên địa bàn Quảng Bình. Nhờ
vậy, “nói chung đời sống nhân dân vẫn được đảm bảo, sức dân vẫn được bồi
dưỡng để chiến đấu và sản xuất lâu dài” [180, tr. 36].
Tiểu kết:
Trước khi diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Quảng Bình đã
trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, 10 năm khôi phục, cải
tạo nền kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Với vị trí địa lí có
ý nghĩa chiến lược và điều kiện tự nhiên có nhiều yếu tố đặc thù trong đó có yếu
tố đa dạng địa hình, cùng với những thành tựu trong khôi phục và phát triển kinh
tế, nhất là việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và bước đầu tích lũy
vật chất cho chủ nghĩa xã hội đã hình thành những nhân tố tác động đến quá trình
xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Quảng Bình cùng với Vĩnh Linh
là tuyến đầu miền Bắc, là hậu phương trực tiếp của miền Nam nên trở thành trọng
điểm trong chiến tranh phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn kéo dài từ cuối năm 1964 đến năm 1973. Đó là một cuộc chiến tranh tổng lực
74
bao gồm cả chiến tranh tâm lí, chiến tranh phá hoại trên bộ bằng gián điệp biệt
kích, chiến tranh phá hoại bằng đường không và đường biển, diễn ra dài nhất, với
quy mô lớn và ác liệt nhất, do đó gây ra những hậu quả tàn khốc nhất. Quán triệt
đường lối của Trung ương Đảng và Quân khu 4, Tỉnh ủy Quảng Bình đã lãnh đạo
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống
quật cường của dân tộc, xây dựng lòng tin và tinh thần quyết tâm đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ hậu phương và đảm bảo công tác chi
viện chiến trường trong mọi tầng lớp nhân dân, kịp thời chuyển mọi hoạt động
kinh tế sang điều kiện chiến tranh để xây dựng hậu cần tại chỗ cho chiến tranh
nhân dân, tạo lập được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, dựa trên sự phối
hợp chặt chẽ của bộ đội địa phương và dân quân du kích với các lực lượng bộ độ i
chủ lực đóng quân trên địa bàn.
75
Chương 3
QUÂN DÂN QUẢNG BÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH
NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA
ĐẾ QUỐC MỸ NHỮNG NĂM 1965 - 1973
3.1. Công tác phòng không nhân dân
Để chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, việc triển khai thế trận phòng
không nhân dân nhằm đập tan âm mưu, thủ đoạn của địch, bảo vệ tính mạng, tài sản
của nhà nước và nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu. Vị trí chiến lược quan trọng
của Quảng Bình đòi hỏi công tác phòng không nhân dân phải diễn ra đồng bộ, kết
hợp khéo léo giữa việc đưa các kho tàng hàng hóa vào sâu trong làng xóm để che
mắt và phân tán mục tiêu đánh phá của địch với việc xây dựng các tuyến giao thông
xuyên làng, xuyên xã, bám trụ phòng tránh tại chỗ và sơ tán giãn dân, kết hợp tổ
chức đánh địch để ngăn chặn không cho chúng tiếp cận mục tiêu. Chính sự đa dạng
hóa hình thái phòng không nhân dân đã mang lại hiệu quả đáng kể trong việc bảo vệ
nguồn hàng, bảo vệ an toàn cho lực lượng hành tiến chi viện chiến trường và đảm
bảo an toàn, hạn chế tổn thất cho nhân dân.
3.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ
Để đảm bảo an toàn sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giảm thiểu tổn
thất về người và dự phòng nguồn lực lâu dài, công tác phòng tránh, sơ tán cho nhân
dân và các lực lượng vũ trang là nhiệm vụ quan trọng, mang tính thường xuyên.
Phòng tránh, sơ tán là một mặt của công tác phòng thủ dân sự, đó là tổng hợp các
hoạt động quân sự và dân sự để đánh trả và phòng tránh máy bay, tàu chiến địch
nhằm giảm thiệt hại cho các khu vực phòng thủ theo phương châm: “Phòng tránh
tích cực”.
Ngay từ khi Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, đi đôi với việc chuyển mọi hoạt
động sang thời chiến, việc tăng cường công tác phòng không được Bộ Chính trị
(ngày 7-8-1964) xác định “là một nhiệm vụ cấp bách khẩn trương, đòi hỏi phải
76
chuẩn bị chu đáo, toàn diện và tiến hành tích cực”. Phương châm đề ra là “phải kết
hợp các mặt: công sự ẩn nấp, ngụy trang, sơ tán, di chuyển và giữ bí mật” [85].
Thực hiện chủ trương của Trung ương, chỉ sau thời gian ngắn đụng đầu với cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ, những biện pháp liên hoàn trong phòng tránh đã được
Hội nghị Quân khu 4 (ngày 7-5-1965) rút ra: Kết hợp phòng tránh với đánh địch; hầm
hào ẩn nấp cho người, gia súc và tài sản; tổ chức tốt quan sát, trinh sát và báo động;
sơ tán và phân tán; ngụy trang và nghi binh; tổ chức huấn luyện tốt các đơn vị đảm
bảo; tổ chức, chỉ huy tốt khi địch đến đánh phá; giải quyết tốt hậu quả chiến đấu [141,
tr. 112]. Qua đầu năm 1966, để đối phó với thủ đoạn đánh phá mới của Mỹ, Ban Bí
thư có Điện mật số 18 (ngày 24-1-1966) chỉ đạo các địa phương “tăng cường công
tác phòng không nhân dân và tiếp tục vận động nhân dân sơ tán khỏi các thành phố,
thị xã, thị trấn và những nơi gần các mục tiêu có thể bị địch đánh phá. Cần kiểm tra
và củng cố các hầm, hào phòng không và vận động nhân dân đào thêm hầm, hào đủ
cho mọi người tránh khi máy bay bắn phá, kể cả ở nông thôn” [87, tr. 37].
Trước mức độ leo thang đánh phá ngày càng ác liệt của Mỹ, ngày 10-3-1967,
Trung ương ra Chỉ thị về việc tổ chức một tháng đẩy mạnh công tác phòng không
nhân dân, trong đó nêu ra các biện pháp cần thực hiện, như xây dựng hầm hào các
loại đúng tiêu chuẩn ở khắp mọi nơi nhằm đảm bảo tính mạng, tài sản của nhân
dân và nhà nước. “Để làm tốt việc này, ngoài việc động viên toàn dân tham gia,
mỗi hợp tác xã, xí nghiệp, cơ quan, ... cần tổ chức một đội (lấy trong dân quân tự
vệ và thanh niên) chuyên môn để làm hầm hào, đào địa đạo ở những nơi công
cộng và giúp đỡ các gia đình làm hầm hào đúng quy cách. Việc đài thọ cho đội
này ở nông thôn, do hợp tác xã giải quyết theo cách tính công điểm, coi như
những ngày sản xuất.
Tùy theo tình hình cụ thể từng nơi mà tổ chức các trạm quan sát để phát hiện
kịp thời và báo cho nhân dân biết có máy bay, tàu chiến của địch bắn phá. Các
trạm quan sát này có nhiệm vụ theo dõi cả máy bay, tàu chiến địch thả thuỷ lôi trên
sông, trên biển để tìm cách phá, hoặc hướng dẫn cho tàu, thuyền vận tải của ta
tránh nơi có thủy lôi” [88, tr. 155-156].
77
Thực hiện những chỉ đạo nói trên, Ban phòng không nhân dân tỉnh được thành
lập, do Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh làm Trưởng ban. Ngày 7-4-1967, Ủy ban
Hành chính tỉnh ra Chỉ thị số 16-CT/UB về những công tác cấp bách phòng không
nhân dân, trong đó chỉ rõ phương châm là: “Kiên quyết đánh địch đi đôi với tích
cực phòng tránh”, nghĩa là không phòng không một cách bị động, tiêu cực mà phải
phát động lực lượng toàn dân, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, kiên quyết đánh
trả địch, lấy tiêu diệt địch là mặt tích cực nhất để bảo vệ mình, đồng thời phải coi
trọng công tác phòng tránh nhưng phòng tránh cũng phải trên thế tấn công địch.
Công tác phòng không phải bảo đảm được ba yêu cầu sau: “Bảo đảm tính mạng, tài
sản của nhân dân và của nhà nước; bảo đảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu; bảo
đảm sản xuất và các hoạt động khác” [196, tr. 162]. Ban phòng không tỉnh chỉ đạo
ban hành “Nội quy phòng không” cho từng địa phương và đơn vị. Trên cơ sở đó,
từng địa phương, từng cơ quan, từng hợp tác xã đều có nội quy phòng không riêng,
quán triệt đến toàn thể nhân dân để thực hiện đúng.
Ngày 28-6-1967, Tỉnh ủy Quảng Bình ra Chỉ thị về việc tăng cường hơn
nữa công tác chiến đấu và phòng không trong tình hình mới, trong đó yêu cầu
các địa phương, các cơ quan, công nông trường, xí nghiệp tiếp tục phát động
mạnh mẽ sâu rộng phong trào bắn máy bay, nhất là máy bay bay thấp. Chú trọng
xây dựng, củng cố hầm hào cho người, cất dấu lương thực, gia súc, phòng cháy,
vệ sinh phòng bệnh, tránh hội họp đông người (50 người trở lên), đề cao cảnh
giác phòng gian [17].
Vận dụng những chỉ đạo trên, hoạt động phòng tránh được quân dân Quảng
Bình thực hiện với những hình thức sau:
- Chuyển dần mọi hoạt động của nhân dân từ thời bình sang thời chiến theo
hình thức quân sự hóa. Đối với các hợp tác xã cũng như các cơ quan đơn vị, việc tổ
chức sản xuất được gắn liền với chiến đấu. Tổ chức dân quân được lồng vào với tổ
chức của hợp tác xã và cơ quan, tổ sản xuất đồng thời là tổ dân quân, đội sản xuất
đồng thời là trung đội, tiểu đội dân quân, hợp tác xã có thể là 1 trung đội hoặc đại
đội dân quân. Các tổ trưởng, đội trưởng hoặc phụ trách sản xuất đồng thời là người
78
chỉ huy. Chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm hợp tác xã đồng thời là trung đội trưởng
hoặc đại đội trưởng dân quân. Bí thư hoặc phó bí thư Đảng ủy xã đồng thời là chính
trị viên xã đội. Thực hiện theo cơ chế này đảm bảo cho các hợp tác xã phát huy hết
khả năng của mình trong việc bố trí lực lượng chiến đấu tại chỗ cũng như huy động
lực lượng tham gia sản xuất, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông, …
- Tổ chức quan sát, báo động. Nhằm theo dõi, phát hiện hoạt động của máy
bay, tàu chiến Mỹ, đơn vị trinh sát tỉnh đặt các đài quan sát ở những trọng điểm để
kịp thời báo động sơ tán hoặc kiểm kê số lượng bom đạn chưa nổ sau mỗi trận
đánh. Theo thời gian và quy mô đánh phá của Mỹ, các vọng gác phòng không được
tăng thêm. Ở cơ sở có vọng gác của xã, thôn và trên các cánh đồng đảm bảo cho xã
viên an tâm sản xuất. Công tác canh gác, báo động máy bay, cấp cứu, giải quyết hậu
quả chiến tranh trở thành phong trào tự nguyện, tự giác của quần chúng. Năm 1968,
toàn tỉnh có 692 trạm quan sát báo động (tăng gấp 3 lần năm 1965). Từ năm 1969,
do mức độ đánh phá của Mỹ giảm xuống nên số trạm quan sát cũng được rút bớt.
Toàn tỉnh còn 122 trạm, tổ (366 người hoạt động thường trực). Cùng với những
thông tin từ trên cung cấp, những trạm quan sát này góp phần lớn vào việc phát hiện
địch (máy bay, tàu chiến, biệt kích, bom chưa nổ, …) giúp nhân dân ẩn tránh kịp
thời, hạn chế tổn thất cũng như để các lực lượng đánh trả bảo vệ các mục tiêu.
- Xây dựng hệ thống hầm hào. Để đảm bảo an toàn, bám trụ sản xuất và chiến
đấu, không có cách nào khác, hệ thống hầm hào phải được xây dựng vững chắc và
ngày càng hoàn thiện. Những ngày đầu địch đánh phá, cách làm hầm còn đơn giản,
phần lớn là hầm tròn, hầm ếch, hầm chữ “L”, miệng hầm bằng những tấm phên đan,
đổ đất lên để tránh mảnh bom, mảnh đạn. Qua thực tiễn, kĩ thuật làm hầm ngày
càng cải tiến, nâng cao. Phổ biến nhất là hầm kèo chữ “A”, có lối vào, lối ra, đắp
đất dày, hầm rộng hơn. Để khắc phục về nhân lực, ngoài việc phát động quần chúng
tự làm, kết hợp với sự giúp đỡ của tập thể, các hợp tác xã và xã đã tổ chức các đội
làm hầm chuyên môn (đưa vào dân quân, những người có chuyên môn và biết nghề
mộc), được hướng dẫn thống nhất về kiểu cách làm hầm. Các đội này chịu trách
nhiệm làm hầm ở nơi công cộng của xã và hợp tác xã như trường học, trạm xá, …
79
hướng dẫn cho các gia đình trong thôn làm đúng quy cách, đồng thời ưu tiên giúp
đỡ những gia đình thương binh, liệt sĩ, bộ đội, … Hầm làm nhiều loại lớn nhỏ, cho
gia đình, cho tập thể; hầm cho gia súc ẩn nấp, hầm bảo vệ tài sản. Về nguyên vật
liệu, dựa vào sự tự lực cánh sinh tại chỗ, tương trợ lẫn nhau giữa các gia đình, nhiều
hộ hạ nhà xuống lấy gỗ làm hầm hoặc các hợp tác xã tổ chức người đi rừng lấy gỗ
hoặc làm lò rèn bu-loong để cung cấp cho nhân dân. Cơ quan lâm nghiệp địa
phương khoanh vùng cho nhân dân khai thác gỗ làm hầm, đồng thời sản xuất để
cung cấp cho các cơ quan. Tiêu biểu như xã Trung Trạch (Bố Trạch) có 870 hộ,
4.150 nhân khẩu, đã tổ chức một bộ phận gồm 34 người đi lấy gỗ, bộ phận cưa có
30-40 cặp, 4 đội làm hầm có 175 người. Xã đã làm 1.131 hầm gia đình, 1.771 hầm
gia súc và cất dấu tài sản, 105 hầm tập thể cho nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng, trạm
xá, nhà làm việc của ủy ban, hợp tác xã, có 168 hầm của dân quân sẵn sàng chiến
đấu chống địch đổ bộ, … 65km giao thông hào, trên 7.000 hầm cá nhân dọc đường
đi lại hoặc ngoài đồng phục vụ sản xuất và đi lại [139, tr. 128]. Việc toàn dân làm
hầm kết hợp với các tổ chức chuyên môn có tác dụng là hầm hào đúng quy cách,
tiết kiệm được nhân lực, sử dụng hợp lí nguồn nguyên vật liệu và đáp ứng kịp thời
yêu cầu phòng tránh của nhân dân trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt. Ở
những nơi Mỹ thường xuyên đánh phá, nhân dân xây dựng thành làng hầm, đưa mọi
sinh hoạt của gia đình xuống lòng đất, thực hiện bám đất, bám làng để chiến đấu,
sản xuất. Từ các làng hầm Ngư Thủy, Long Đại, Trung Trạch, Quảng Thuận, … đã
phát triển rộng ra các địa phương khác, nhất là những vùng gần các trọng điểm giao
thông. Xã Ngư Thủy (Lệ Thủy) đúc kết kinh nghiệm: “Có Đảng, có dân, có hầm,
có hợp (tức là hợp tác xã)” 1. Qua năm 1967-1968, công tác xây dựng hầm hào
phòng tránh cho người và tài sản đối với nhân dân càng được chú trọng hơn trước.
Hầm hào ở vùng nông nghiệp được xây dựng nhiều hơn, với chủng loại phong phú
hơn. Dựa vào hợp tác xã và các đội sản xuất, địa thế của từng thôn, các địa phương
bố trí dân sơ tán phù hợp. Nơi Mỹ đánh phá ác liệt, hầm hào được tổ chức nhiều
1. Khẩu hiệu này xác định nếu có Đảng, có dân, có hợp tác xã là chỗ dựa, có hầm để bảo vệ
tính mạng thì có tất cả.
80
tuyến, tuyến gần làng, tuyến xa làng. Với khẩu hiệu: “Chưa có hầm chưa cấy, chưa
gặt”, hầm được làm tại ruộng, hào dẫn từ ruộng về nhà. Ở những chỗ ruộng sâu, xã
viên làm hầm lưu động kéo theo để tránh bom bi, …
Số liệu thống kê cụ thể số lượng hầm các loại như sau [151, tr.107 & 196, tr.162]:
Loại hầm 1965 1966 1968
Hầm ẩn nấp công cộng 11.638 96.000 141.898
Hầm gia đình 70.172 168.165 194.565
Hầm cho gia súc 511 9.928 53.141
Hầm cất dấu tài sản của dân 8.434 38.578 58.801
Hầm chiến đấu - - 4.108
Hầm cứu thương - - 903
Hầm sinh hoạt tập thể - - 8.915
Nhà hầm - - 18.453
Hố cá nhân - - 112.706
Về các đội bảo đảm [196, tr. 163]
Loại đội 1965 1966 Ghi chú
Đội cấp cứu, tải thương 559 730 Tăng 30%
Đội chống sập 230 726 Tăng 215%
Đội cứu hỏa 282 818 Tăng 190%
Từ sau năm 1968, tuy Mỹ xuống thang chiến tranh nhưng quân dân Quảng
Bình vẫn tiếp tục hoàn thiện, kiên cố hầm hào. Đến cuối năm 1971, toàn tỉnh có
98.494 hố cá nhân, 77.277 hầm chữ “A” và trên 220km giao thông hào. Qua đầu
năm 1972, hầm chữ “A” tăng lên 240.000 cái, đào thêm 1.700 hố cá nhân và 100km
giao thông hào. Do đó, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai,
ngoài hầm hào đã có từ trước, các địa phương và đơn vị tăng cường xây dựng hệ
thống trú ẩn. Chỉ trong thời gian ngắn, toàn tỉnh làm thêm 56.000 hầm chéo cho các
hộ gia đình, 2.300 hầm công cộng và hàng trăm km giao thông hào, đưa tổng số
hầm lên 415.235 cái, đạt trung bình 1 hầm/1 người [164, tr. 275]. Có hệ thống hầm
81
hào vững chắc, nhân dân Quảng Bình hạn chế được tổn thất ngay cả trong những
đợt ném bom rải thảm mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ.
Công tác giải quyết hậu quả sau mỗi trận đánh dần kiện toàn theo phương
châm “lấy tự cứu, tự chữa tại chỗ là chính, có chỉ huy chặt chẽ, chủ động cứu chữa
kịp thời, nhanh chóng kết hợp với sự chi viện của xung quanh”. Đối với những người
ở lại bám trụ sản xuất và chiến đấu, công tác phòng tránh càng yêu cầu cao hơn. Để
tránh tổn thất tính mạng tập trung vào từng gia đình, khi có máy bay và tàu chiến
đánh phá, mỗi gia đình được phân tán ra nhiều hầm để trú ẩn hoặc chia nhỏ thành
viên “ngủ đổi” với những gia đình khác. Nhiều xã xây dựng sơ đồ hầm, hào các gia
đình trong xóm, thôn, khu vực. Sau mỗi trận đánh, căn cứ vào sơ đồ, người ở hầm an
toàn sẽ tổ chức ứng cứu những hầm bị sập một cách nhanh nhất. Từ việc lấy xã và
đơn vị tương đương để tổ chức các đội cấp cứu chuyển sang lấy đội sản xuất, về sau
lấy từng nhóm 5-7 gia đình làm đơn vị. Các đội này được trang bị đầy đủ cuốc xẻng,
khẩu trang, thuốc cấp cứu, que xoi 1, … Đến năm 1968, toàn tỉnh tổ chức 743 đội cấp
cứu, cứu thương, 1.059 đội chống sập hầm, 282 đội chống cháy. Để việc cứu chữa
được kịp thời, tất cả được quy định lấy việc cứu người làm hàng đầu, quy định hiệu
lệnh báo tin an toàn, có thương vong, tự cứu hoặc yêu cầu chi viện. Với tinh thần
“chia nhà, chia cửa, chia lửa, chia máu”, khẩu hiệu “một nhà bị nạn, cả xóm cùng
lo. Một xã bị tàn phá, cả huyện tập trung giúp đỡ” đã trở thành phong trào quần
chúng rộng rãi. Tiêu biểu như khi xã Hoàn Trạch (Bố Trạch) bị B.52 rải thảm hủy
diệt thôn xóm (6-1972), gây nên nhiều tổn thất về tài sản và tính mạng của nhân dân,
các xã và các ngành ở Bố Trạch đều hướng về, góp từng ống thuốc, loong sữa, quả
trứng giúp người bị thương; góp từng cây tre, tấm tranh, cây cột, tấm chăn, manh áo,
nông cụ sản xuất để giúp đỡ những gia đình bị nạn, … Nông trường Việt - Trung bị
đánh gần 1.400 trận, trong đó có trên 50 trận bằng B.52 làm nhiều đội sản xuất không
còn một nóc nhà. Cán bộ và công nhân nông trường đã dành ra gần 27.000 ngày công
để giúp nhau làm hầm trú ẩn, hàng ngàn ngày công và hơn 4.000 tấm tranh, 900 cây
gỗ, 9.000 sợi mây để làm lại nhà, … [195, tr. 29].
1. Trong trường hợp hầm bị sập, người cứu dùng que thọc xuống hầm cho nạn nhân có
không khí để thở, sau đó mới đào hầm để cứu.
82
Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nên tỉ lệ thương vong bởi các đợt đánh
phá của Mỹ giảm xuống. Cụ thể, năm 1965, bình quân một trận đánh, số người chết
chiếm 0,28%, bị thương chiếm 0,54%. Năm 1966, số lần và số bom địch đánh phá
tăng 5 lần (10.184/1.995) nhưng tỉ lệ thương vong giảm xuống, người chết là
0,16%, bị thương 0,33%. Năm 1967, mức độ thương vong tăng lên, bình quân một
trận là 0,27% người chết và 0,43% bị thương. Năm 1968, trong 7 tháng “ném bom
hạn chế” (4 – 10-1968), số lần đánh và khối lượng bom đạn bằng cả 3 năm trước
cộng lại nhưng bình quân một trận chỉ có 0,11% người chết và 0,19% bị thương.
Cuối năm 1971, tỉ lệ này là 0,16% và 0,19% [164, tr. 196, 258]. Xã Ngư Thủy (Lệ
Thủy) 1.046 lần bị Mỹ đánh phá, bình quân mỗi trận đánh chỉ có 0,05% thương
vong. Xã Quảng Thuận (Quảng Trạch) có 824 hộ, 3.427 nhân khẩu, địch đánh phá
4.351 lần, 76 lần tàu chiến Mỹ pháo kích, bình quân mỗi gia đình làm lại nhà 3-4
lần, nhưng tỉ lệ thương vong mỗi lần đánh chỉ 0,06%. Trong 4 năm, (1965-1968)
trong số 198 người bị sập hầm, đã cứu sống được 139 người.
3.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân
Để hạn chế mức độ thiệt hại về người và duy trì sản xuất, các địa phương thực
hiện việc phân tán dân cư nhằm giảm mật độ dân số ở những vùng trọng điểm. Việc
phân tán được chia thành 3 hình thức: Sơ tán lâu dài, giãn dân tại chỗ và tạm lánh
khi Mỹ đánh phá.
Sơ tán lâu dài được áp dụng cho thị xã Đồng Hới, các thị trấn và những vùng
nông thôn trọng điểm, nơi Mỹ đánh phá ác liệt có mật độ dân số cao. Việc sơ tán
này kết hợp nhiệm vụ khai hoang gắn với phát triển kinh tế ở những vùng thưa dân.
Thị xã Đồng Hới tổ chức 1.590 hộ với 7.772 nhân khẩu lên miền Tây xã Nghĩa
Ninh lập làng mới. Một số hộ ở xã Hải Trạch (Bố Trạch) lập làng mới ở vùng khai
hoang thuộc xã Phú Trạch; xã Cảnh Dương làm lò ngói ở vùng đất đỏ xã Quảng
Châu. Các xã Quảng Thuận, Quảng Tân, Quảng Hải, Quảng Sơn và Quảng Thủy
vận động hàng trăm hộ lên lập làng mới ở Cao Mại (Tuyên Hóa), …
Giãn dân tại chỗ áp dụng cho các vùng trọng điểm sau khi sơ tán bớt dân hoặc
do yêu cầu chiến đấu và sản xuất mà không thể sơ tán lâu dài. Ở nông thôn, các
83
công trường, lâm trường, nông trường dựa vào các đội sản xuất để bố trí thành từng
khu ở chỗ tương đối an toàn, gần nơi sản xuất, phân tán hầm hào thưa nhau. Những
xã địa bàn hẹp có thể giãn dân sang xã lân cận. Ở vùng biển, các hợp tác xã phân bố
lại nhân lực, phân chia công cụ sản xuất, sơ tán dọc bờ biển theo hợp tác xã, đội sản
xuất, lập xóm mới để vừa đảm bảo sản xuất vừa tăng thêm lực lượng phòng thủ bờ
biển. Các hợp tác xã đánh cá Nhân Trạch (Bố Trạch), Quang Phú, Lộc Ninh (Quảng
Ninh) đưa các đội vào sản xuất ở Tân Định (Gia Ninh).
Việc tổ chức tạm lánh đối với những người, những bộ phận hoặc những địa
phương không thể sơ tán lâu dài hoặc dãn ra lâu khi Mỹ đánh phá ác liệt được tiến
hành trong từng đợt, trong từng trận đánh hoặc tránh giờ cao điểm trong ngày.
Chẳng hạn như ngày 13-4-1966, lần đầu tiên Mỹ dùng B.52 đánh Đồn công an Cha
Lo và đèo Mụ Dạ trên Đường 12. Rút kinh nghiệm từ trận đánh vào Binh trạm 4
thuộc Đoàn 559 trước đó (ngày 25-3-1966), Đồn công an Cha Lo đã kịp thời sơ tán
kho tàng, giảm bớt người và củng cố hầm hố vững chắc. Do đó, mặc dù lần đầu bị
B.52 đánh phá ác liệt (trung bình 1 quả bom/1m2) nhưng đồn vẫn đảm bảo an toàn
[173]. Cũng từ đây, quy luật hoạt động và đánh phá của B.52 được rút ra, phục vụ
đắc lực cho công tác phòng tránh ở những địa phương khác.
Không chỉ sơ tán tại chỗ, Quảng Bình còn thực hiện và góp phần đảm bảo kế
hoạch K.8 (mật danh của kế hoạch di chuyển con em Quảng Bình, Vĩnh Linh từ vùng
chiến sự ra các tỉnh phía Bắc để sống, học tập, trong điều kiện an toàn hơn).
Từ giữa năm 1966 trở đi, trước mức độ đánh phá ác liệt của các lực lượng hải
lục không quân Mỹ, vấn đề giảm mật độ dân cư trong khu vực chiến sự ở Vĩnh Linh
và Nam Quảng Bình được đặt ra. Lực lượng ở lại bám trụ sản xuất và chiến đấu là
người lớn và người có sức khỏe, còn trẻ nhỏ, người già yếu và mất sức cần có kế
hoạch di chuyển ra các tỉnh phía Bắc, những nơi an toàn đề phòng cuộc chiến tranh
còn kéo dài nhằm đảm bảo việc học tập cho con em và bảo toàn nguồn lực cho lâu
dài, xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ
trương cho Vĩnh Linh và Quảng Bình thực hiện kế hoạch K.8, sơ tán khoảng 3 vạn
cháu nhỏ, tuổi từ 7 đến 15, ra các tỉnh phía Bắc. Chiến dịch có các bộ: Nội vụ, Giáo
84
dục, Giao thông, Y tế cùng một số ban ngành và địa phương có liên quan, do Bộ
trưởng, Phủ Thủ tướng Trần Hữu Dực làm Trưởng ban.
Quảng Bình được Chính phủ giao nhiệm vụ: “Phải tận tình giúp đỡ, cùng các
ngành có liên quan giải quyết các khó khăn về mọi nhu cầu thiết yếu của đồng bào
trên các chặng đường theo kế hoạch đưa đi”, do đó, “cần phân công cán bộ có khả
năng và có quyền hạn chuyên trách, theo từng cấp Ủy ban Hành chính cũng như
từng ngành chuyên môn có liên quan tỉnh huyện đến xã trên các tuyến đường có
đồng bào đi qua” [134]. Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh cử một số cán bộ tham gia
Ban K.8 như Phó trưởng Ty Giao thông và Ty Giáo dục, Phó Chủ tịch những huyện
và xã có đoàn sơ tán đi qua. Vĩnh Linh và Quảng Bình cùng phối hợp tổ chức thành
3 cung và 4 trạm tiếp nhận, chuyển giao. Ở mỗi cung và trạm, đều có phương án dự
phòng khi có sự cố. Trên đường đi, như lúc qua xã Võ Ninh và Đại Trạch, gặp lúc
máy bay oanh tạc, chị em bảo mẫu kịp thời đưa các cháu vào ẩn nấp trong những
hầm do nhân dân chuẩn bị sẵn. Có bà mẹ đã nhường hầm còn mình ngồi ngoài cửa
để theo dõi bom đạn, che chở cho các cháu. Ở Quảng Trạch, do bị đánh phá, trạm
đón tiếp không nấu cơm được, nhiều bà mẹ đã đưa cơm nhà cho các cháu ăn. Công
ty ô tô Quảng Bình, lái xe Hà Văn Hớn, đêm 22-7-1967 chở 30 cháu qua Ba Trại, bị
máy bay ném bom lân tinh, đã bình tĩnh cởi áo dập tắt lửa, tiếp tục cho xe chạy ra
trạm Mỹ Trạch an toàn.
Gần 1 năm thực hiện kế hoạch K.8, với 2 đợt, đến ngày 10-10-1967, gần 3 vạn
cháu của Vĩnh Linh, Quảng Bình và của 2 huyện Gio Linh, Cam Lộ (chạy ra trong
trận đại càn 17 – 19-5-1967 của Mỹ ở Khu phi quân sự Nam) được sơ tán đến nơi
an toàn. Tổng cộng có 415 giáo viên, gần 2.000 lượt cán bộ hộ tống và hàng vạn
người của 14 huyện thuộc 8 tỉnh có học sinh K8 đi qua hoặc đến ở được huy động
làm nhiệm vụ giao liên, đưa đường, canh gác máy bay, phục vụ cơm nước. 72 người
(chiếm khoảng 0,24%) đã vĩnh viễn nằm lại bởi bom đạn Mỹ (59 học sinh, 6 giáo
viên, 2 cán bộ khu vực, 1 lái xe và 3 người hướng dẫn). Ở Quảng Bình có 3 cán bộ
hi sinh [41].
85
Thành công trong việc tổ chức phòng tránh không chỉ bảo vệ an toàn tính
mạng và tài sản cho nhân dân mà còn tạo ra nền tảng xã hội ổn định, làm điểm tựa
cho việc triển khai thế trận chiến tranh nhân dân.
3.2. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
3.2.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang hình thành thế trận chiến
tranh nhân dân
3.2.1.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang
Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của Mỹ, sức mạnh toàn
dân phải được huy động, trong đó nòng cốt là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và
dân quân tự vệ. Tỉnh ủy Quảng Bình xác định: “Phát triển đội ngũ dân quân du
kích, coi đây là lực lượng chiến đấu trong toàn tỉnh. Về lực lượng vũ trang, phải
chú trọng xây dựng lực lượng cơ động của tỉnh mạnh mẽ, bao gồm các binh chủng
bộ binh, pháo binh, cao xạ, công binh, thông tin, … Nhưng đặc biệt chú trọng xây
dựng các đơn vị bộ binh thành lực lượng cơ động trong phạm vi nhất định để sẵn
sàng vận động tiêu diệt địch” [15].
* Lực lượng dân quân tự vệ
Trong những năm hòa bình (1954-1964), nhận thức được vị trí và tầm quan
trọng của một tỉnh đầu cầu miền Bắc, Tỉnh ủy Quảng Bình xác định: “Ra sức xây
dựng lực lượng vũ trang quần chúng lớn mạnh, đặc biệt là ra sức củng cố và phát
triển lực lượng dân quân tự vệ thực sự là lực lượng chủ lực của chiến tranh nhân
dân” [151, tr. 66]. Bởi đây chính là lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân ở
địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại và sẵn sàng phòng
thủ địa bàn nếu Mỹ liều lĩnh đưa quân tấn công ra Bắc. Mặt khác, dân quân tự vệ
còn là lực lượng cơ bản thực hiện phòng không nhân dân, bảo vệ trị an ở cơ sở, sản
xuất và bảo vệ sản xuất, tham gia đảm bảo giao thông và chi viện tiền tuyến.
Về tổ chức và biên chế, lực lượng dân quân tự vệ ở Quảng Bình được biên chế
thành các đơn vị thường trực chiến đấu (trực chiến), bán trực chiến (là lực lượng sản
xuất trong các hợp tác xã nhưng được trang bị vũ khí, có thể tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu khi có tình huống chiến sự xảy ra) và lực lượng cơ động phục vụ
86
chiến đấu (bao gồm cả lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục
vụ chiến trường).
Đến cuối năm 1965, lực lượng dân quân tự vệ đã có 28.243 người (chiếm
khoảng 6,9% dân số), trong đó có 4.781 nữ. Thời gian này, lực lượng dân quân mới
biên chế ở cấp trung đội. Trong khi đó, lực lượng tự vệ đã được biên chế thành 2
tiểu đoàn, 24 đại đội và 103 trung đội. Đến những năm 1967-1968, để phù hợp với
hình thức tổ chức sản xuất quy mô hợp tác xã, trên cơ sở rút ra được những kinh
nghiệm từ trước, lực lượng dân quân được biên chế tới 161 đại đội, trong đó nữ
chiếm tỉ lệ 32,2% [151, tr. 52-53].
Điểm đặc biệt trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là ở Quảng Bình lần
đầu tiên thành lập đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (2-11-1967). Đại đội gồm 37
chiến sĩ, chia làm 3 trung đội, trang bị 4 khẩu pháo 85ly. Sự kiện này đánh dấu
bước phát triển vượt bậc của lực lượng dân quân tự vệ, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Từ chỗ chị em chỉ sử dụng vũ khí bộ binh thông thường lên chiến đấu bằng pháo
binh - vũ khí chủ yếu dành cho bộ đội chủ lực, chứng tỏ phụ nữ có thể đảm đương
được nhiệm vụ chiến đấu thay cho nam giới, ngay cả ở lĩnh vực phức tạp và đòi hỏi
phải có sức khỏe tốt. Cũng năm này, lực lượng dân quân tự vệ có 54.700 người, gấp
đôi so với hồi đầu chiến tranh, chiếm 13,1% dân số (tỉ lệ nữ đạt 32,6%, tự vệ đạt
65,1% so với tổng số công nhân viên chức). Lực lượng trên phiên chế thành 171 đại
đội, 95 phân đội 12,7ly luôn thường trực chiến đấu, trong đó có 13 phân đội nữ dân
quân, 2 phân đội lão dân quân phòng không và 1 đại đội nữ pháo binh (đại đội Ngư
Thủy) chuyên đánh tàu chiến.
Qua năm 1969, lực lượng dân quân tự vệ tăng hơn 300 người. Về chất lượng,
có 24,1% là đảng viên, 33,1% là đoàn viên, nữ chiếm 34,6%. Trong đội ngũ cán bộ
có hơn 90% xã đội trưởng, tự vệ trưởng là Thường vụ Đảng ủy cơ sở. Cán bộ quân
sự từ tiểu đội đến đại đội có 60,6% là đảng viên.
Đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ có gần 60.000 người (chiếm 13,4%
dân số). Toàn tỉnh có 82 phân đội trực chiến, mỗi huyện tổ chức từ 1 đến 2 đại đội
dân quân do Huyện đội chỉ huy, làm nhiệm vụ cơ động bảo vệ các trọng điểm.
87
Về trang bị chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị như bộ đội chủ
lực, gồm súng trường K44, tiểu liên K50, trung liên, đại liên K53 và K57, AK,
B.40, B.41, ĐKZ, cối các loại, pháo 85ly, … Số được trang bị vũ khí chiếm 19,8%
lực lượng (và tăng dần trong những năm tiếp theo), trong đó, ưu tiên trang bị cho du
kích và tự vệ chiến đấu (42,1%). Năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị
hơn 18.000 khẩu súng các loại, đạt trung bình gần 3 người/1 súng. Bình quân mỗi
xã được trang bị 52 khẩu súng các loại (hỏa lực mạnh hơn 1 tiểu đoàn chủ lực thời
kì chống Pháp). Ở những vùng xung yếu, trang bị cho mỗi xã nhiều hơn, 78 súng
các loại. Ngoài vũ khí hiện đại, nhiều địa phương còn vận động nhân dân mỗi gia
đình làm một hầm chông chống Mỹ, như Võ Ninh, Đại Trạch, Nhân Trạch, Quảng
Đông, Ngư Thủy, … [151, tr. 57-58].
Hỏa lực phòng không chủ yếu của dân quân tự vệ là súng 12,7ly, 14,5ly và súng
đại liên, thượng liên, trung liên; một số trọng điểm được trang bị pháo 37ly. Một số
đơn vị được trang bị tốt, gần như bộ đội, tiêu biểu là đại đội dân quân xã Phú Thủy
(Lệ Thủy) có 40 người, trang bị 11 khẩu từ 12,7ly, 14,5ly đến cao xạ 37ly.
Công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu
Đi đôi với xây dựng lực lượng, công tác chỉ huy, huấn luyện chiến đấu được
Tỉnh đội Quảng Bình hết sức chú trọng. Hình thức chiến đấu của dân quân tự vệ, kĩ
- chiến thuật chiến đấu từng trận, xây dựng phương án, bố trí nhân lực, chọn trận
địa, mục tiêu, thời cơ bắn, nghi binh, mai phục đường bay, … được nghiên cứu, phổ
biến cho các đơn vị luyện tập. Lực lượng dân quân tự vệ ở những vùng xung yếu
được trang bị vũ khí, tổ chức các tổ săn máy bay, chuẩn bị sẵn trận địa. Khi đi sản
xuất ngoài đồng ruộng hay làm việc trong các xí nghiệp, vũ khí luôn mang theo
người để có thể đánh địch được mọi nơi, mọi lúc. Những mục tiêu dự kiến Mỹ có
thể đánh phá, cơ quan quân sự tỉnh, huyện đều bố trí sẵn lực lượng đánh trả. Công
tác tổ chức chỉ huy, hệ thống thông tin liên lạc, hợp đồng các ngành phục vụ chiến
đấu được báo động thực tập để vào nề nếp, đồng thời có phương án hướng dẫn nhân
dân phòng tránh.
88
Bên cạnh sử dụng các vũ khí bộ binh thông thường, dân quân tự vệ tích cực
học tập sử dụng vũ khí hiện đại, nâng cao hiệu suất chiến đấu. Về tổ chức, các
huyện đã hình thành cụm 12,7ly, có hai đến ba xã phối hợp chiến đấu tập trung, chỉ
huy thống nhất, cơ động trong từng địa bàn huyện. Có nơi vào từng thời điểm tổ
chức thành cụm hỗn hợp tạm thời gồm pháo cao xạ, hỏa lực súng máy phòng không
của bộ đội, dân quân, tự vệ để bảo vệ các mục tiêu. Các hình thức nghi binh, lừa
địch, dụ địch và chỗ trống được chú trọng phát triển và nâng cao.
Gắn liền với việc phát triển lực lượng, môi trường hoạt động của dân quân tự
vệ là “làng xã chiến đấu” được xây dựng rộng khắp. Thực hiện Chỉ thị về công tác
xây dựng làng chiến đấu của Quân ủy Trung ương (2-3-1966), Tỉnh ủy Quảng Bình
xác định: “Cần đẩy mạnh xây dựng làng xã chiến đấu, tăng cường hầm hào giao
thông trú ẩn và công sự chiến đấu, thực hiện đúng khẩu hiệu: “mỗi người dân là
một chiến sĩ kiên cường, mỗi thôn xóm là một pháo đài vững chắc” [151, tr. 72].
Xuất phát từ đặc điểm của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, tất cả các địa
phương trong tỉnh đều phải có trách nhiệm xây dựng trận địa đánh địch, trong đó
tập trung ở những vùng trọng yếu. Trên tuyến biển, các xã Cảnh Dương, Quảng
Phúc, Thanh Trạch, Nhân Trạch, Bảo Ninh và Ngư Thủy được tập trung xây dựng
thành tuyến phòng thủ ở phía Đông. Trên tuyến biên giới, các xã Dân Hóa, Trung
Hóa, Trường Sơn, Ngân Thủy và Kim Thủy được lập thành tuyến phòng thủ phía
Tây. Ở tuyến giữa, các xã Đại Trạch, Lộc Ninh, Cự Nẫm, Tiến Hóa, Đức Ninh,
Phong Thủy và An Thủy được xây dựng thành hệ thống liên hoàn bảo vệ vùng kinh
tế trung tâm của tỉnh. Trong điều kiện chiến tranh ngày càng ác liệt, làng xã chiến
đấu chính là nòng cốt của các hợp tác xã bậc cao quy mô toàn thôn, làm cơ sở đảm
bảo duy trì sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Đi đôi với tăng cường số lượng và chất lượng, công tác huấn luyện, nâng cao
trình độ tác chiến, khả năng sẵn sàng chiến đấu cho các lực lượng vũ trang được
tiến hành thường xuyên. Đầu năm 1969, Tỉnh đội mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày
cho 1.859 cán bộ bộ đội địa phương và 1.526 cán bộ dân quân, tự vệ. 82 xã (100%)
mở lớp bồi dưỡng tại chỗ cho cán bộ mới đề bạt. Việc huấn luyện sử dụng vũ khí
89
mới cũng được tiến hành. Cụ thể, cơ quan Tỉnh đội mở 2 lớp tập huấn súng cối cho
94 người, 1 lớp súng ĐKZ cho 39 người, súng 12,7ly cho 67 người, … Các huyện
Lệ Thủy, Quảng Trạch và Bố Trạch mở nhiều lớp huấn luyện súng 12,7ly cho các
địa phương và đơn vị trên địa bàn. Các binh chủng như pháo binh, phòng không,
đặc công, quân báo của bộ đội địa phương cũng mở nhiều lớp tập huấn cho 400 cán
bộ cấp khẩu đội đến tiểu đoàn [164, tr. 222].
Như vậy, theo thời gian và “độ nóng” của yêu cầu chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại, lực lượng dân quân tự vệ ở Quảng Bình không ngừng được phát
triển về số lượng và chất lượng, tổ chức và trang bị. Đây thực sự là lực lượng chủ
chốt, phân bố đều khắp trên các địa bàn, luôn thường trực sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ những mục tiêu tại chỗ, góp phần to lớn cùng quân dân Quảng Bình nói riêng,
miền Bắc nói chung giành thắng lợi trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ.
Điểm nổi bật cũng là nét đặc thù của lực lượng dân quân, tự vệ Quảng Bình là
trong điều kiện đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại tổng lực của Mỹ, lực lượng
dân quân tự vệ Quảng Bình đã hội đủ các yếu tố của một lực lượng thường trực
chiến đấu. Đó là những đơn vị dân quân tự vệ xung kích, được trang bị khí tài hiện
đại, được huấn luyện nâng cao trình độ về lí luận quân sự, về kĩ - chiến thuật, có
khả năng cơ động chiến đấu cao, có đủ điều kiện thường trực chiến đấu và có khả
năng hợp đồng tác chiến với các đơn vị bộ đội chủ lực đóng quân ở địa phương
hoặc triển khai đội hình chiến đấu khi hành tiến qua địa bàn. Vì thế, lực lượng dân
quân tự vệ Quảng Bình là bộ phận quan trọng cấu thành thế trận và góp phần quyết
định thắng lợi của chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ.
* Bộ đội địa phương
Về bộ binh, ngày 8-11-1964, Tiểu đoàn 45 bộ binh tỉnh được thành lập, làm
nòng cốt cho lực lượng bộ đội địa phương Quảng Bình. Năm 1965, tỉnh thành lập
Tiểu đoàn 46, năm 1969 thành lập Tiểu đoàn 49. Đến năm 1972, cả 3 tiểu đoàn trên
được hợp nhất thành lập Trung đoàn 185 bộ đội địa phương. Ngoài bộ đội địa
phương tỉnh, các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch mỗi huyện
có 1 đại đội, Minh Hóa và thị xã Đồng Hới mỗi địa phương có 1 trung đội.
90
Về pháo binh, lực lượng pháo binh địa phương gồm 4 đại đội pháo 85ly (7, 8,
9, 10), đại đội 47 pháo bờ biển 105ly. Năm 1972, Quân khu 4 tăng cường 1 đại đội
pháo tầm xa 130ly có ra-đa chỉ thị phát hiện mục tiêu đánh đêm. Trong từng thời
điểm, Quân khu 4 còn chi viện Trung đoàn pháo binh 164 sát cánh cùng quân dân
Quảng Bình, chưa kể lực lượng pháo thuộc các sư đoàn bộ binh 341 và 325.
Về lực lượng phòng không (pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa,…), để làm chủ tình
hình trong mọi tình huống, đi đôi với việc xây dựng và triển khai lực lượng tác
chiến, Bộ Quốc phòng và tỉnh Quảng Bình đã phối hợp triển khai xây dựng hệ
thống ra-đa và mạng lưới phòng không, giám sát vùng trời, vùng biển, kịp thời theo
dõi mọi biến động của địch, thông tin chính xác cho các lực lượng thường trực
chiến đấu và nhân dân, kịp thời tổ chức đánh địch tập kích đường không, đường
biển vào địa bàn.
Tại khu vực Đèo Ngang có trạm ra-đa 503 và 505. Ngoài lực lượng cao xạ của
Tiểu đoàn 9, tỉnh được tăng cường thêm Tiểu đoàn 15, 17 pháo cao xạ 37ly, Tiểu
đoàn 13 súng máy cao xạ 12,7ly. Các địa phương trong tỉnh đều có những trạm
quan sát làm nhiệm vụ theo dõi tình hình, kịp thời báo cáo cho huyện đội, thị đội và
tỉnh đội để cùng Ban chỉ huy các lực lượng của Bộ Quốc phòng đóng quân trên địa
bàn kịp thời có phương án triển khai đánh địch và công tác phòng không nhân dân.
Năm 1972, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tổ chức thêm 1 tiểu đoàn pháo cao xạ
37ly, một đại đội 14,5ly và 15 phân đội 12,7ly. Cũng ở thời điểm này, Quân khu 4
tăng cường thêm 1 đại đội cao xạ 100ly và 1 phân đội súng máy cao xạ 14,5ly loại 2
nòng, đưa lực lượng phòng không thường trực lên 9 tiểu đoàn pháo cao xạ. Các
phân đội phòng không trực chiến của bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ được bố
trí ở những địa điểm xung yếu, những mục tiêu quan trọng để phục kích đánh máy
bay trinh sát.
Ngoài các lực lượng trên, công an Quảng Bình và Công an nhân dân vũ trang
tỉnh (tương đương 1 tiểu đoàn) cũng được củng cố về tổ chức, tăng cường lực lượng,
chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Cùng với kế hoạch làm trong sạch
địa bàn (quản lí, câu lưu hoặc di chuyển khỏi địa bàn những phần tử nguy hiểm) của
91
Ty Công an, trên tuyến biên giới và bờ biển, Công an nhân dân vũ trang đào 2.555m
chiến hào, 890m giao thông hào, hàng trăm hố chiến đấu cá nhân [44, tr. 127]. Công
tác tuần tra, huấn luyện, trực chiến sẵn sàng chiến đấu được triển khai trong toàn lực
lượng. Vì vậy, khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra, lực lượng công an đã
kịp thời sát cánh với các lực lượng vũ trang đánh địch và đấu tranh chống biệt kích
xâm nhập.
Với một địa phương có vị trí chiến lược quan trọng như Quảng Bình trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Đảng và Chính phủ rất chú trọng công tác
bố phòng lực lượng nhằm bảo vệ sự an toàn của tuyến đầu miền Bắc và đảm bảo
thông suốt các đầu mối giao thông trọng yếu của trung tâm đường Trường Sơn. Do
đó, gần như trên đất Quảng Bình có mặt đầy đủ các quân binh chủng chủ lực của Bộ
Quốc phòng và Quân khu 4, chưa kể những đơn vị tập kết tại đây trước khi vào
Nam chiến đấu hoặc rút ra củng cố lực lượng 1, đưa Quảng Bình thành một trong số
ít địa phương thường xuyên có mật độ tập trung quân cao nhất của miền Bắc.
Quảng Bình còn là nơi đặt sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận B.5 (1966-1973), Bộ
Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Trị - Thiên (1972), … Với lực
lượng trên đây, Quảng Bình là một trong số ít địa phương có lưới lửa phòng không
dày đặc, gồm nhiều tầng lớp, vừa phân bố đều trên khắp các địa bàn vừa tập trung ở
những trọng điểm, với nhiều loại hỏa lực đảm bảo đánh địch mọi nơi mọi lúc, trên
không và trên biển.
3.2.1.2. Xây dựng các phương án phối hợp chiến đấu, hình thành thế trận
chiến tranh nhân dân
Cùng với xây dựng lực lượng chiến đấu, việc phối trí các đơn vị chủ lực cũng
như bộ đội địa phương và dân quân tự vệ trên địa bàn cũng được tính toán kĩ nhằm
phát huy cao nhất khả năng hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng. Ngoài các đơn vị
cao xạ, tên lửa của Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 tác chiến trên địa bàn, các đại đội
của Tiểu đoàn 9 phòng không Quảng Bình được phân tán bố trí ở những mục tiêu
quan trọng để vừa đánh địch vừa làm nòng cốt cho phong trào bắn máy bay ở các địa
1. Xem thêm phụ lục 10.
92
phương. Đại đội 1 bảo vệ hồ nước Cẩm Ly, Đại đội 2 phụ trách khu vực Đồng Hới,
Đại đội 3 và đại đội 14,5ly cơ động trên khu vực Quán Hàu - Lệ Kỳ - Đồng Hới,
Nam - Bắc sông Gianh, Minh Cầm - Roòn.
Để tập trung hỏa lực và tạo thế bất ngờ, lực lượng phòng không tổ chức thành
từng cụm chốt các bến phà Long Đại, Xuân Sơn, Quán Hàu và sông Gianh. Cụm cơ
động trên tuyến đường 12, 15 và tuyến đường goòng Đò Vàng để bảo vệ các trọng
điểm. Mỗi cụm này thường có sự kết hợp giữa hỏa lực tầm cao (pháo cao xạ hoặc
tên lửa) với hỏa lực tầm thấp (súng cao xạ, súng bộ binh).
Khi Mỹ chuyển sang đánh mạnh vào hệ thống giao thông, Bộ Tư lệnh Quân khu
4 điều một số đơn vị cao xạ tăng cường cho Quảng Bình, phối hợp với Tỉnh ủy hình
thành chủ trương thực hiện thế trận tác chiến “phòng không khu vực”. Cụ thể là giao
nhiệm vụ cho từng trung đoàn phòng không chủ lực làm nòng cốt, phụ trách một
vùng chiến thuật và làm trung tâm chủ trì các đơn vị bạn đánh trên địa bàn phụ trách
để tổ chức chiến đấu bảo vệ giao thông vận tải, bảo vệ hậu phương chiến dịch. Trung
đoàn 218 cao xạ đảm nhiệm nam Quảng Bình và Vĩnh Linh. Trung đoàn 214 cao xạ
đảm nhiệm tứ giác Xuân Sơn - Sông Gianh - Quán Hàu - Long Đại. Một đại đội bộ
đội địa phương tổ chức một tổ hỏa lực trực chiến, số còn lại phối hợp với lực lượng
dân quân tự vệ phục kích đón đánh máy bay địch. Hỏa lực tầm thấp bằng súng bộ
binh của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hình thành hai hình thức tác chiến: trực
chiến và tay cày tay súng, tay búa tay súng, với ba cách đánh: Phục kích chiến đấu ở
một số mục tiêu trọng điểm; cơ động phục kích đánh địch tại địa phương hoặc đến
những mục tiêu gần địa phương mình có máy bay hoạt động; gặp địch đâu đánh đó
theo phương thức chủ động độc lập tác chiến hoặc có tổ chức chỉ huy.
Trên cơ sở bố trí lại lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình
càng được củng cố, quân dân có niềm tin hơn vào sức mạnh của chính mình, ý thức
hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng ngày càng tăng.
Song song với xây dựng lực lượng, Tỉnh ủy còn chỉ đạo các ban ngành và lực
lượng vũ trang xây dựng phương án sẵn sàng đối phó với tình huống đối phương
liều lĩnh đưa chiến tranh trên bộ ra Bắc. Công tác dự phòng, bố trí lực lượng ở
93
những nơi hiểm yếu mà địch có thể đổ bộ, phương án bao vây, đánh địch tại chỗ, …
được xây dựng và quán triệt đến các cơ quan đơn vị, lực lượng và địa phương [72].
Phương án chiến đấu cũng được hoàn chỉnh và tiến hành diễn tập ở những khu vực
trọng yếu. Chẳng hạn năm 1970, Tỉnh tổ chức diễn tập quy mô lớn. Tiểu đoàn 45 và
Đại đội 361 diễn tập chiến đấu phối hợp với dân quân các xã Hưng Thủy và Ngư
Thủy ở Lệ Thủy, Tiểu đoàn 46 và Đại đội 362 diễn tập hiệp đồng chiến đấu với lực
lượng các xã Quảng Đông, Quảng Thuận, Bắc Trạch.
Đề phòng trường hợp Mỹ liều lĩnh mở cuộc tiến công trên bộ, năm 1971
Thường vụ Quân khu ủy Khu 4 và tỉnh Quảng Bình nghiên cứu, chia địa bàn các
huyện thị đồng bằng thành 2 khu vực tác chiến: Khu vực nam (Lệ Thủy) bố trí 3
trung đoàn bộ binh, 2 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn pháo binh, 1 đại đội xe tăng
T76 và Tiểu đoàn 45 bộ đội địa phương. Khu vực Bắc (Gianh - Hoàn Lão - Đồng
Hới) bố trí 3 trung đoàn bộ binh, 2 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoàn tên lửa và đại đội
48, 365 địa phương. Các đại đội pháo binh địa phương (8, 9, 10, Ngư Thủy) bố trí
phòng thủ đường biển. Bộ Tư lệnh Hải quân lập khu Hải quân sông Gianh (tương
đương trung đoàn) phòng thủ khu vực biển bắc Quảng Bình. Ngoài ra, Sư đoàn 324
đứng chân trên địa bàn cũng sẵn sàng cơ động. Tiểu đoàn 9 pháo cao xạ và các phân
đội trực chiến của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ có kế hoạch hiệp đồng với các
lực lượng chủ lực, nêu cao khẩu hiệu “bắn rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái”.
Như vậy, trong suốt cuộc đối đầu với chiến tranh phá hoại của Mỹ, cả Quảng
Bình hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, gồm nhiều lực lượng: dân
quân tự vệ, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực, công an vũ trang; nhiều quân binh
chủng: bộ binh, pháo binh, hải quân, phòng không - không quân, công binh, … tạo
thành lưới lửa đối không, đối biển dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp sẵn sàng chiến đấu
và giành chiến thắng.
3.2.2. Đấu tranh chống gián điệp, biệt kích
Trên cơ sở quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về đấu tranh
chống bọn phản cách mạng, Tỉnh ủy Quảng Bình ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị
tăng cường đấu tranh phòng chống gián điệp, biệt kích trên địa bàn. Trong đó tập
trung các nhiệm vụ:
94
+ Tăng cường giáo dục cảnh giác cho toàn thể cán bộ, bộ đội và toàn dân
nhất là ngư dân và đồng bào ven núi tích cực phát hiện mọi hiện tượng nghi vấn,
tích cực tham gia vây bắt bọn gián điệp, biệt kích.
+ Tăng cường cảnh giác, cảnh giới, tuần tra và phục kích ban đêm ở bờ biển
và trên mặt biển, phát hiện, bao vây, truy lùng, truy tìm bắt cho kì hết bọn gián
điệp, biệt kích, ngăn chặn mọi hoạt động phá hoại của chúng.
+ Các huyện, thị, Đảng ủy các cấp phải chỉ đạo thống nhất kế hoạch chiến
đấu cho lực lượng dân quân, Công an nhân dân, Công an vũ trang ... có kế hoạch
phòng, chống hoạt động dồn dập, nhiều mặt, nhiều hướng trong một lúc của địch.
+ Lực lượng dân quân, Công an vũ trang phải chịu trách nhiệm về tuần tra,
bố phòng, phục kích trên các điểm xung yếu, đặc biệt là ven biển.
+ Thời gian phải chú ý là tuần đầu và cuối tuần trăng tối, chú ý thời tiết ...,
đặc biệt chú trọng phục kích từ khoảng 22 giờ đêm cho đến 2 giờ sáng.
+ Trong thời gian chúng tích cực hoạt động ven biển, đồng thời chúng có thể
tung biệt kích ở vùng biên giới và thả dù ở vùng núi do đó mà kế hoạch phòng,
chống phải toàn diện để giành thế chủ động [6, tr. 1].
Kế hoạch xây dựng phòng tuyến an ninh nhân dân được triển khai ở hai tuyến
miền núi và miền biển. Ranh giới phụ trách từng tuyến được phân công cụ thể cho
từng địa phương. Dọc bờ biển, các đài quan sát được bố trí ở Ngư Thủy (Lệ Thủy),
Lộc Ninh (Quảng Ninh), Nhân Trạch, Đức Trạch, Hải Trạch (Bố Trạch), Cảnh
Dương (Quảng Trạch). Hàng đêm, phối hợp với công an vũ trang, dân quân các xã
vùng biển tuần tra canh gác, sử dụng mật khẩu thống nhất trên toàn tuyến. Nhờ
những biện pháp như vậy nên lần lượt nhiều toán biệt kích của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn tung ra địa bàn Quảng Bình bị ta phát hiện và vô hiệu hóa hoạt động.
Ngày 19-11-1965, SOG dùng trực thăng thả toán Romeo gồm 15 tên xuống
khu vực miền núi Tây Nam Quảng Bình. Nhiệm vụ của toán là “tiến hành trinh sát
địa bàn để thu thập tin tức tình báo; giám sát các tuyến đường; và tiến hành các
hoạt động phá hoại, quấy rối” [143]. Ngày 15-12-1965, tin tức về toán biệt kích
này được báo về Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình. Ngày 20-12, một lực
95
lượng lớn, gồm 120 người, được tung ra để truy tìm. Bằng nhiều biện pháp nghiệp
vụ (vận động quần chúng, tuần tra vũ trang, kiểm soát hành chính, trinh sát bí mật
và thông tin kĩ thuật) kết hợp thiết lập các trạm kiểm soát trên Đường 15 và bến phà
Long Đại, bến phà Quán Hàu, bến đò Trần Xá, ngày 4-1-1966, ta mới phát hiện dấu
vết của chúng. Ngày 11-1-1966, bốn người dân tộc Vân Kiều báo việc bị nhóm
người lạ mặt khống chế bắt họ bán gạo và thực phẩm cho chúng. Phán đoán toán
biệt kích này do hoạt động trong thời gian dài nên hết lương thực, Ban chỉ huy lên
kế hoạch sử dụng những người này dụ toán biệt kích rời nơi ẩn náu để vây bắt. Đến
ngày 13-1-1966, toàn bộ toán biệt kích bị tiêu diệt và bắt sống. “Sử dụng địch để
đánh địch”, ta không công bố công khai việc bắt giữ toán Romeo mà buộc chúng
làm như vẫn hoạt động, cung cấp những tin tức giả về trung tâm. Do đó, “theo tài
liệu của SOG, từ giữa năm 1966 trở đi, kết quả hoạt động của toán là nghèo nàn.
Romeo không cung cấp được tin đáng giá nào trong năm 1967 và 1968” [143]. Như
vậy, với sự vào cuộc nhanh chóng của các lực lượng kết hợp với tinh thần cảnh giác
và dũng cảm cao của quần chúng địa phương, toán gián điệp Romeo bị vô hiệu hóa.
Tiếp theo, ngày 6-3-1966, toán biệt kích có mật hiệu KERN gồm 8 tên xâm
nhập vùng núi Lèn Tinh (Minh Hóa). Ngày 5-4-1966, Bộ Công an thông báo cho
Công an nhân dân vũ trang hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh tổ chức truy tìm.
Được sự giúp đỡ của nhân dân huyện Minh Hóa (Quảng Bình) và Hương Khê (Hà
Tĩnh), các lực lượng truy lùng đã xác định được khu vực hoạt động của chúng.
Sau 3 ngày (25 – 27-5-1966) hợp đồng tác chiến giữa quân và dân hai tỉnh, ta đã
xóa sổ toán biệt kích này (bắt sống 7 tên, 1 tên chết do bị đồng bọn bắn nhầm).
Đến ngày 5-9-1966, sau thời gian điều tra, ta đưa tin công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng, tố cáo âm mưu dùng biệt kích phá hoại miền Bắc của Mỹ
và chính quyền Sài Gòn.
Liên tục trong tháng 9 và 10-1966, Mỹ nhiều lần tung biệt kích xâm nhập. Cụ
thể, về đường không, ngày 29-9 và 4-10, chúng thả 2 toán ở vùng núi Tây Nam Lệ
Thủy. Thủ đoạn hoạt động của biệt kích Sài Gòn vẫn như cũ, sử dụng trang phục
của bộ đội hoặc nhân dân miền Bắc, đi dép cao su, mang theo nhiều loại tiền của
96
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tiền Sài Gòn và cả bạc nén. Tất cả các toán đều có bản
đồ chi tiết của vùng xâm nhập để dễ dàng hoạt động hoặc tìm đường rút lui khi bị
phát hiện.
Tổng cộng, trong năm 1966, trên địa bàn Quảng Bình, Mỹ đã tung 9 toán gián
điệp, biệt kích, trong đó có 4 toán nhảy dù. Ta đã bắt sống và tiêu diệt 45 tên, thu 10
tấn trang thiết bị, lương thực và thuốc men.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vụ biệt kích đột
nhập bờ biển nhưng ta chưa phát hiện được như vụ đêm 7-9-1967. Phát hiện 3 tàu
chiến Mỹ hoạt động ngoài biển xã Thanh Trạch (Bố Trạch), Đồn công an Thanh
Khê đã báo cáo lên trên và lên kế hoạch vây bắt biệt kích. Huyện đội Bố Trạch tăng
cường lực lượng hỗ trợ. Đến nửa đêm, khi ta phán đoán địch đang đột nhập bờ biển
và tung lực lượng truy tìm thì phát hiện dấu vết địch đã lên bờ, rải truyền đơn và rút
lui an toàn. Việc để địch thực hiện trót lọt âm mưu rải truyền đơn là do “tư tưởng
tiến công, quyết tâm tiêu diệt địch chưa cao, nhận định về địch không đầy đủ, bố trí
lực lượng khi địch xâm nhập địa bàn không đúng trọng điểm. Việc hiệp đồng tác
chiến giữa lực lượng công an nhân dân vũ trang và dân quân, bộ đội địa phương
chưa chặt chẽ, ngay trong trận đánh, sự hiệp đồng giữa các bộ phận thiếu linh
hoạt, tổ chức thông tin không kịp thời” [44, tr. 175]. Hoặc từ ngày 10 đến ngày 18-
10, nhiều lần tàu biệt kích xâm nhập và tung được 1 toán lên cửa sông Dinh nhưng
lực lượng ta chỉ phát hiện và thu giữ được bình dưỡng khí và mái chèo do chúng
chôn giấu [174].
Hạn chế này được Tỉnh ủy Quảng Bình (2-12-1967) chỉ ra: “Về mặt bể là nơi
lực lượng ta được tăng cường nhưng lại là nơi có nhiều sơ hở nhất. Các vụ đột
nhập bờ bể đều bỏ lọt. Hầu hết các vụ biệt kích ở miền núi đều phát hiện chậm và
bắt không gọn” [20, tr. 1]. Nguyên nhân một phần do vùng miền núi quá rộng, dân
cư thưa thớt, thậm chí nhiều vùng không có người ở, vùng biển cũng vậy. Trong khi
đó, máy bay và tàu chiến của Mỹ hoạt động thường xuyên, khó phân biệt là đánh
phá hay thả biệt kích. Nguyên nhân chủ quan là do ta chưa nhận thức hết âm mưu
thủ đoạn của địch nên chưa có quyết tâm đầy đủ, tinh thần cảnh giác và sẵn sàng
97
chiến đấu chưa cao, có nơi do phi pháo địch thường xuyên nên chểnh mảng tuần tra
canh gác [20, tr. 1-2]. Tỉnh ủy yêu cầu ở miền núi, các cơ quan quân sự và công an
vũ trang nắm chắc tình hình nội địa và ngoại biên để sớm phát hiện địch, huy động
lực lượng tiêu diệt. Ở miền biển, tăng cường tuần tra canh gác, phát hiện địch lợi
dụng sơ hở hoạt động đổ bộ đường biển, đường không. Trong nội địa, chú ý chống
gián điệp lẻ và gián điệp ẩn nấp bằng 3 biện pháp: quần chúng, quản lí hành chính
và trinh sát bí mật. Lực lượng chủ yếu để phòng và chống gián điệp biệt kích ở từng
địa phương là lực lượng dân quân du kích của địa phương đó nhưng các đơn vị vũ
trang khác như công an vũ trang, bộ đội địa phương đóng ở địa phương nào đều có
nhiệm vụ phối hợp với dân quân để tuần tra canh gác, phát hiện và kịp thời bao vây
tiêu diệt địch nhanh gọn [20, tr. 3-4].
Chủ trương trên đây của Tỉnh ủy Quảng Bình đã giúp cho việc đối phó với
địch có hiệu quả hơn, trong tình hình chúng có nhiều điểm thay đổi về phương thức
tổ chức, trang bị và thủ đoạn hoạt động. Ngày 19-12-1967, Mỹ thả một toán biệt
kích gồm 11 tên xuống khu vực biên giới giáp ranh giữa 2 huyện Quảng Ninh và Bố
Trạch nhằm điều tra tình hình vận chuyển trên Đường 20. Nhận được tin báo, Công
an tỉnh chỉ đạo đồn Cà Roòng và Làng Mô, công an huyện Quảng Ninh và Bố
Trạch, phối hợp với Binh trạm 14 và bộ đội, dân quân huyện Bunlapha (tỉnh Khăm
Muộn, Lào) truy tìm. Đến ngày 15-1-1968, ta vây bắt hoàn toàn toán biệt kích này.
Tiếp theo, trước việc nhiều đoàn xe vận chuyển trên Đường 12 thường xuyên
bị tập kích một cách chính xác, ta phán đoán địch có thể đã sử dụng biệt kích chỉ
điểm hoạt động trên dãy núi Giăng Màn. Kế hoạch triệt phá được đề ra. Đầu năm
1968, một phân đội hỗn hợp gồm Công an tỉnh và Công an nhân dân vũ trang đồn
Cha Lo được giao nhiệm vụ truy tìm. Ngày 12-3-1968, tại Cao điểm 1.115, phát
hiện 2 tên biệt kích đang chuẩn bị pháo bắn vào đoàn xe vận tải từ Bãi Dinh đi lên,
đội nổ súng tiêu diệt tại chỗ. Qua ngày hôm sau, mở rộng truy lùng, đội bắt được 2
tên khác. Qua khai thác, chúng khai nơi ẩn nấp là Cao điểm 1.137. Tiếp cận vị trí
này, đội phát hiện có 4 lán chứa lương thực phẩm nhưng không có người. Phán
đoán đây là vị trí biệt kích dùng để hoạt động trong từng thời gian ngắn nên đội tổ
98
chức mai phục tại chỗ. Ngày 16-3, 6 tên biệt kích quay lại lán bị tiêu diệt. Ngay sau
đó, đội tiến lên đỉnh Phù Ác, điểm cao nhất của dãy núi Giăng Màn. Lúc này, Mỹ
đang dùng trực thăng đổ quân. Phát hiện địch, đội triển khai bao vây. Đến ngày 19-
3-1968, đội tiêu diệt được 6 tên biệt kích, số còn lại được trực thăng cứu thoát
[107, tr. 61]. Ta làm phá sản kế hoạch dùng biệt kích của địch trên Đường 12, góp
phần bảo đảm an toàn cho những chuyến xe qua địa bàn.
Ngày 14-5-1968, Mỹ tung toán biệt kích Strata 120 gồm 6 tên xuống khu vực
Đồi 766, trên địa bàn Đồn công an Làng Mô (Quảng Ninh). Toán này được trang bị
phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, sử dụng quân phục, mũ tai bèo và súng AK
như bộ đội. Nhiệm vụ của toán là điều tra, nắm tình hình đường mòn từ Làng Mô
qua Lào, các mục tiêu quân sự, kho tàng, binh trạm, thuyền bè trên sông Long Đại
và Cổ Tràng, bắt cóc cán bộ và nhân dân để khai thác tin tức, … Phát hiện địch đổ
quân, 2 chiến sĩ đồn Làng Mô đang công tác ở cơ sở đã kịp thời báo về Ban chỉ huy.
Ngày 18-5-1968, ta tổ chức 3 mũi truy lùng. Đến 13 giờ, ta phát hiện địch, tiêu diệt
1 tên, thu một số điện đài. Đêm 18-5, Ban chỉ huy đồn, Đảng ủy, Ủy ban Hành
chính xã, xã đội và Ban giám đốc Xí nghiệp Đường Trường Sơn họp thành Ban chỉ
huy chung, huy động lực lượng tự vệ tham gia cùng công an bao vây các hướng.
Đến trưa ngày 23-5-1968, một mũi truy lùng của ta nghe tiếng súng nổ trên đồi
cùng lúc có máy bay T28 đi qua. Nhận định địch bắn pháo hiệu kêu cứu, ta tổ chức
bao vây, diệt được thêm 1 tên. Ngày 27-5, ta bắt được 2 tên, thu 1 súng AK. Qua sơ
cung, chúng khai có 6 tên, toán trưởng bị chết từ đầu. Đến ngày 9-6, ta bắt 2 tên còn
lại. Tài liệu Mỹ thừa nhận đến ngày 26-5-1968, “toán Strata coi như mất tích”
[107, tr. 62]. Như vậy, sau gần một tháng hoạt động, toán biệt kích Sài Gòn bị ta
xóa sổ. Đó là kết quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng công an nhân dân vũ
trang với dân quân, tự vệ trên địa bàn.
Từ sau vụ này, cùng với việc đi đến chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc,
hoạt động gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng dừng lại. Nhìn
tổng thể, hầu hết các vụ tung biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên địa bàn
Quảng Bình đều không đạt được mục đích. Nhiều toán bị bắt ngay khi vừa đặt chân
99
xuống đất, chưa kịp hoạt động. Thắng lợi đó có tác động tích cực trong việc bảo vệ
Đảng, chính quyền, những cơ sở trọng yếu về quốc phòng, kinh tế; là nguồn cổ vũ,
động viên, khích lệ lớn cho các tầng lớp nhân dân yên tâm lao động sản xuất, tập
trung sức người, sức của chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng Lào.
3.2.3. Đánh máy bay và tàu chiến
Qua 8 năm (1965-1973) chống chiến tranh phá hoại, quân dân Quảng Bình đã
chiến đấu hàng nghìn trận với các lực lượng không quân và hải quân Mỹ. Theo
thống kê, toàn tỉnh đã bắn rơi 704 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 86 tàu chiến và tàu
biệt kích. Lập chiến công có lực lượng tên lửa, không quân, pháo cao xạ, pháo binh,
súng cao xạ, súng bộ binh, … của các đơn vị thuộc binh chủng phòng không không
quân, hải quân, công binh, pháo binh, bộ đội Trường Sơn, bộ đội địa phương, dân
quân tự vệ, Công an nhân dân vũ trang, thanh niên xung phong, … Do đó, để tái
hiện đầy đủ bức tranh chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình đòi hỏi
cả chuyên luận dài. Trong giới hạn của chủ đề, luận án chỉ tập trung vào một số trận
chiến tiêu biểu nhất, thể hiện rõ nét thế trận “toàn dân đánh giặc”.
3.2.3.1. Ở những mục tiêu trọng yếu
* Những trận đầu đánh Mỹ (2-1965)
Sau ngày 5-8-1964, để đối phó với các cuộc tập kích của không quân Mỹ trên
tuyến đường Trường Sơn, lực lượng phòng không được dịch chuyển lên miền Tây.
Cụ thể, ở Đồng Hới có 1 tiểu đoàn cao xạ 37ly, ở Bang: 1 tiểu đoàn cao xạ 37ly và
1 đại đội 12,7ly, Đường 12: Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 14/Sư đoàn 325,
Đường 15 (đoạn Cà Tang - Khe Ve): Tiểu đoàn 6/Sư đoàn 341 (thiếu 1 đại đội)
[150, tr. 38]. Đến ngày 4-2-1965, lực lượng phòng không trên các địa bàn còn lại
khá mỏng. Cụ thể, tại Đồng Hới chỉ có 1 đại đội cao xạ 37ly (4 khẩu)/Sư đoàn 325,
2 tàu 161 và 171 hải quân. Rộng ra toàn tỉnh có 74 tổ bắn máy bay gồm 628 người,
trang bị 72 trung liên, 46 đại liên, 323 súng trường cùng lực lượng dân quân tự vệ
được bố trí ở những điểm trọng yếu, hình thành thế trận vững chắc, sẵn sàng ứng
phó với mọi tình huống bất trắc xảy ra [164, tr. 93]. Do đó, trưa ngày 7-2-1965 (tức
mồng 6 Tết), mặc dù bị bất ngờ nhưng khi máy bay Mỹ vừa xuất hiện trên không
100
phận vùng biển Quảng Bình, lệnh báo động đã được phát đi. Nhận được tín hiệu,
các trận địa pháo cao xạ, hai tàu 161 và 171, các trận địa súng máy, súng trường ở
thị xã và các vùng phụ cận đều báo động chiến đấu và đánh trả kịp thời. 4 máy bay
bị bắn rơi, bắn cháy. Trong trận đầu, cùng các lực lượng vũ trang, hình ảnh toàn dân
đánh giặc đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm như Lê Ngọc Lễ (Bí
thư Chi bộ thôn Phú Xá, Lộc Ninh, Quảng Ninh), Phạm Tín (dân quân xã Thanh
Trạch, Bố Trạch), hạ sĩ Nguyễn Tiến Đưng (công an nhân dân vũ trang) lấy thân mình
làm giá súng. Bà mẹ Nguyễn Thị Suốt (Đồng Hới) không quản bom đạn chèo đò chở
bộ đội qua sông, dân quân Nguyễn Văn Tới và thiếu nhi Bảo Ninh (Đồng Hới)
dũng cảm tiếp đạn cho tàu hải quân, …
Tiếp theo, tối ngày 10-2-1965, nhận tin báo của trên về khả năng Mỹ sẽ đánh
lớn Đồng Hới, Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết định sơ tán ngay trong đêm hơn 7.000
dân và 40 cơ quan ra khỏi thị xã. 13 giờ trưa 11-2, 60 máy bay ập vào đánh phá
Đồng Hới và vùng phụ cận. Các lực lượng kiên cường đánh trả. Tại sân bay Đồng
Hới, đại đội cơ động Công an nhân dân vũ trang bất chấp mưa bom, bám trận địa
đánh trả, bắn rơi 1 máy bay, bắt sống phi công vũ trụ Robert Schumacher. Tại cảng
Gianh, Đại đội 54, các phân đội súng máy của hải quân, tự vệ ngư trường sông
Gianh và dân quân hai bên bờ sông bắn rơi 2 máy bay. Tổng cộng, trong trận này,
quân dân Quảng Bình bắn rơi 6 máy bay Mỹ.
Những trận đánh trên mở đầu cho hình thức chiến đấu hợp đồng của bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, công an nhân dân vũ trang, hải quân
cùng với sự hỗ trợ của các tầng lớp nhân dân, góp phần khẳng định Quảng Bình có
thể tiến hành chiến tranh nhân dân và giành chiến thắng trước cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ.
* Trận bảo vệ hồ Cẩm Ly - Lệ Thủy (20-4-1965)
Hồ Cẩm Ly là công trình đại thủy nông đầu tiên của Quảng Bình, được đưa
vào sử dụng tháng 9-1964, đảm bảo nước tưới cho 4.500ha ruộng ở Quảng Ninh,
Nông trường Lệ - Ninh và một phần Lệ Thủy. Do đó, hồ Cẩm Ly trở thành một
trong những mục tiêu đánh phá đầu tiên của không quân Mỹ. Tại đây, ta bố trí Đại
101
đội 3/Tiểu đoàn 9 cao xạ bảo vệ. Ngày 20-4-1965, 18 máy bay Mỹ tập trung đánh
phá trận địa. Với khẩu hiệu: “Trận địa là nhà, dòng nước Cẩm Ly là sữa mẹ”, các
chiến sĩ Đại đội 3 kiên cường đánh trả. Trong chiến đấu, có thời điểm pháo bị trúng
bom, cả 5 pháo thủ bị thương. Khẩu đội trưởng Lê Viết Xưởng bị thương ở tay phải,
tự mình cắt miếng da còn lại để chuyển cờ sang tay trái tiếp tục chỉ huy khẩu đội
đánh địch. Đại đội trưởng Nguyễn Viết Năm bị thương vào mặt, một tay cầm còi,
một tay cầm cờ vẫn giữ vững vị trí chỉ huy. Pháo thủ Phan Khắc Trừu bị mảnh bom
cắm vào chân vẫn nén đau bám mục tiêu. Pháo thủ Nguyễn Hữu Ngoãn 5 lần bị
thương vẫn cố gắng chịu đựng đạp cò pháo. Nguyễn Trường Cự làm nhiệm vụ nối
dây điện thoại giữa trận địa với cấp trên 4 lần bị thương, đến lần thứ 5 ruột lòi ra
ngoài, hi sinh. Phối hợp với Đại đội 3, tự vệ Nông trường Lệ Ninh và hồ Cẩm Ly
tham gia chiến đấu, tiếp đạn, tải thương. Kết quả, có 14 pháo thủ hi sinh, 32 chiến sĩ
bị thương. Đại đội 3 bắn rơi 2 máy bay, tổ tự vệ hồ Cẩm Ly bắn rơi 1 chiếc AD6 -
đây là chiếc máy bay đầu tiên bị súng bộ binh của dân quân tự vệ bắn rơi ban đêm
trên bầu trời miền Bắc [164, tr. 110-111]. Nó chứng minh không chỉ các loại vũ khí
cao xạ mà ngay cả súng bộ binh, dù chỉ nằm trong tay lực lượng dân quân tự vệ, vẫn
có thể hạ được máy bay Mỹ. Do đó, kết quả này càng làm tăng niềm tin của lực lượng
dân quân tự vệ vào chính mình trong cuộc đối đầu với “sức mạnh không thể tưởng
tượng nổi” của không lực Hoa Kỳ.
* Những trận đánh của hải quân căn cứ sông Gianh (1965)
Ngày 2-3-1965, 160 lần máy bay Mỹ các loại tấn công căn cứ sông Gianh.
Chiến thuật đánh phá lần này của địch có nhiều thay đổi. Từ bổ nhào hàng dọc theo
một hướng, máy bay Mỹ chia thành nhiều tốp, đánh nhiều hướng, bổ nhào góc hẹp,
hoặc chiếc đi đầu lao xuống nghiêng cánh đánh lừa nhằm thu hút hỏa lực ta để
những chiếc sau lao xuống bắn phá rồi lao ra phía biển, sau đó chấn chỉnh đội hình
quay trở lại đánh tiếp. Thời gian máy bay ném bom, bắn phá cũng kéo dài hơn,
nhằm tiêu hao sinh lực, đạn dược của ta, cuối cùng dùng lực lượng đông đánh phá
bằng bom bi và bom phá. Trước sự thay đổi chiến thuật của Mỹ, các đơn vị bảo vệ
căn cứ gồm 5 tàu 171, 173, 177 (phân đội 6), 161, 167 (phân đội 5), đại đội 24 pháo
102
cao xạ 37ly, phân đội súng 14,5ly (đại đội 47), trung đội tự vệ ngư trường Thanh
Khê và một số trận địa của dân quân hai xã Quảng Phúc và Thanh Trạch đã đánh trả
quyết liệt, bắn rơi máy bay ngay từ những loạt đạn đầu, làm rối loạn đội hình tiến
công, buộc chúng phải nâng độ cao để công kích. Trung úy phân đội trưởng Đàm
Cần hai lần bị thương vào đùi và tay, gác chân bị thương lên ghế chịu đựng, tiếp tục
chỉ huy phân đội chiến đấu. Thiếu úy Nguyễn Duy Khiêm từng chỉ huy tàu 161 bắn
rơi máy bay Mỹ ở thị xã Đồng Hới, thấy tàu 167 gặp khó khăn đã chủ động cử
người tới hỗ trợ. Chiến sĩ báo vụ Hồ Lý Tân tàu 167 lấy thân mình làm giá súng để
đồng đội kịp nổ súng đánh máy bay địch đang lao xuống bắn phá, được anh em tặng
danh hiệu “Bế Văn Đàn của hải quân”. Hạ sĩ Trần Gia Tuệ tàu 177 là pháo thủ
14,5ly, giữa trận chiến đấu bị thương ở chân vẫn kiên cường nhằm thẳng máy bay
bắn trả. Rất nhiều cán bộ, chiến sĩ trên các tàu, các trận địa pháo trên bờ như
Trương Minh Vấn, Nguyễn Văn Đáp, Tạ Mai Huyền, ... bị thương nặng vẫn không
rời vị trí. Tự vệ ngư trường Thanh Khê và các trận địa súng bộ binh của dân quân
hai xã Quảng Phúc và Thanh Trạch luôn sát cánh cùng hải quân phối hợp chiến đấu
nhịp nhàng. Giữa bom đạn ác liệt, hơn chục cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm bơi qua
sông sang cứu doanh trại bộ đội. Thấy kho đạn của hải quân bốc cháy, các thầy giáo
và học sinh xóm Quán bất chấp nguy hiểm xông vào dập lửa, cứu đạn. Nhiều bà con
dùng thuyền tiếp tế đạn cho các tàu và chuyên chở thương binh vào nơi an toàn.
Đáp lại sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ tận tình của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ hải
quân dũng cảm đánh trả, làm thất bại trận tập kích lớn của Mỹ. Nhờ đó, mặc dù máy
bay Mỹ trút hơn 100 tấn bom đạn nhưng căn cứ hải quân sông Gianh thiệt hại
không đáng kể. Ngược lại, ta bắn rơi 7 máy bay phản lực, trong đó các tàu bắn rơi 3
chiếc; đại đội 24, trung đội súng máy cảnh vệ và đại đội pháo bờ biển bắn rơi 3
chiếc; trung đội tự vệ ngư trường Thanh Khê bắn rơi 1 chiếc.
Sau trận đánh này, nhận thấy các lực lượng bố trí ở cảng gần biển, công tác
phòng thủ căn cứ gặp nhiều khó khăn (kể cả phòng không và phòng tàu chiến địch),
nên ta triệt để sơ tán, chỉ để một bộ phận lực lượng cao xạ bố trí vòng ngoài sẵn sàng
đánh máy bay. Tàu chiến phân tán giấu ở các lèn đá trên thượng lưu sông Gianh. Sau
103
nhiều lần trinh sát, Mỹ phát hiện được khu tàu trú đậu. Ngày 28-4-1965, chúng huy
động 80 lần chiếc máy bay đánh phá kéo dài suốt từ sáng đến tối khiến cả 4 tàu (173,
126, 163, 165) đều bị hư hỏng, một số chiến sĩ hi sinh. Các tàu vừa đánh địch vừa cơ
động về cảng để phối hợp với các đơn vị cao xạ trên bờ chiến đấu, với quyết tâm
“còn người còn tàu, còn một người còn chiến đấu”. Thiếu úy Đàm Đức Thạch,
thuyền phó tàu 173 đang ốm nằm trên bờ chuẩn bị đi bệnh viện, khi biết thuyền
trưởng bị thương đã xung phong xuống tàu thay thế, chỉ huy đến lúc bị thương nặng
mới chịu rời đài chỉ huy lên bờ. Các chiến sĩ Ngô Quang Hạ (tàu 175), Đỗ Ngọc Mai
(tàu 126), Nguyễn Tế Nhi (tàu 161) dũng cảm dùng bình bọt lao vào dập những đám
lửa, khi bị thương vẫn cùng đồng đội cứu tàu. Cùng lúc, hàng chục chiến sĩ trên bờ
được lệnh nhanh chóng cơ động xuống tàu tăng cường lực lượng chiến đấu. Tự vệ
ngư trường sông Gianh, Đồn công an vũ trang 122 cùng nhân dân hai bên bờ sông
phối hợp với các tàu chiến đấu và phục vụ chiến đấu như chèo đò tiếp đạn, tiếp cơm,
lá ngụy trang, tải thương, … Nhiều tấm gương xuất hiện như ông Lê Văn Phương, Bí
thư Đảng ủy xã Văn Hóa, dù đang ốm vẫn dẫn hơn 100 dân quân phục vụ chiến đấu.
Hai em Phương Liên và Minh Thục (xã Cảnh Hóa) chèo đò ra tàu để tải thương. Cụ
Lê Văn Hiến (xã Quảng Phúc) cùng dân quân lội ra sông đưa thương binh vào bờ, …
Kết thúc trận đánh, ta bắn rơi 5 máy bay Mỹ nhưng cũng chịu tổn thất nặng: 3 tàu bị
chìm, 2 tàu hỏng nặng, 37 chiến sĩ hi sinh và 73 người khác bị thương [64, tr. 225].
Đây là trận đánh mà thế trận “chiến tranh nhân dân” được thể hiện rõ nhất cho đến
thời điểm này.
Không thụ động chờ địch đến mới đánh trả, ta còn chủ động tạo thế trận nghi
binh, thu hút máy bay Mỹ đến để tiêu diệt. Từ đêm 9-7-1965, thực hiện ý định của
Bộ Tư lệnh Hải quân và mệnh lệnh của Khu tuần phòng 2, các đơn vị bố trí một số
tàu ngụy trang giả pháo vươn nòng và hình nộm người dọc sông Gianh. Trên bờ, 6
đại đội pháo kết hợp với các trận địa của dân quân sẵn sàng. Ngày 13-7, một máy
bay Mỹ vào trinh sát “mục tiêu”. 6 giờ ngày 14-7, 2 chiếc AD6 vào trinh sát. 7 giờ
15 phút, 2 chiếc AD6 lao đến công kích vào “tàu giả”. Cùng lúc, các đơn vị nổ
súng mãnh liệt, bắn rơi 1 chiếc, bắn bị thương 1 chiếc khác [64, tr. 235].
104
Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn đụng đầu với không quân Hoa Kỳ, lực
lượng ta đã có sự trưởng thành nhanh chóng, biết tìm ra cách đánh thích hợp, đạt
hiệu suất chiến đấu cao, khi các đơn vị hải quân đã thực hiện thành công ý định
nghi binh, phục kích, bắn cháy và bắn bị thương máy bay Mỹ.
* Trận đánh máy bay RF4C của nữ dân quân xã Hưng Thủy, Lệ Thủy (27-
7-1967)
Để phát hiện mục tiêu vào ban đêm và kiểm tra kết quả đánh phá, Mỹ đưa vào
sử dụng máy bay trinh sát điện tử RF4C, có trang bị máy chụp ảnh cực nhanh bằng
tia hồng ngoại. Xuất phát từ các tàu sân bay, RF4C bay thấp bất ngờ đột nhập chụp
ảnh rồi thoát li nhanh ra biển. Từ giữa năm 1967, những hoạt động trong đêm (hành
quân, vận chuyển, mở đường, sửa chữa đường, sản xuất, …) đều bị không quân Mỹ
phát hiện, đánh phá, trong đó Dốc Sỏi (Lệ Thủy) trở thành “tọa độ lửa” trên Quốc lộ
1 từ Quảng Bình vào Vĩnh Linh. Không để RF4C tự do hoành hành, dân quân xã
Hưng Thủy quyết tâm đánh cho bằng được loại máy bay nguy hiểm này. Sau thời
gian chuẩn bị trận địa và lực lượng, theo dõi nắm bắt quy luật hoạt động của kẻ
“chụp ảnh đêm”, dưới sự chỉ huy của Xã đội phó Nguyễn Thị Triển, 2 giờ ngày 27-
7-1967, chỉ với 2 loạt đại liên K57, dân quân Hưng Thủy đã bắn cháy một máy bay
RF4C. Lần đầu tiên trên bầu trời miền Bắc, chiếc máy bay trinh sát điện tử hiện đại
của Mỹ bị bắn hạ bởi súng bộ binh của lực lượng dân quân Quảng Bình [52, tr. 80].
Chiến công này chứng minh khả năng sáng tạo, mưu trí của chị em phụ nữ trong
chiến đấu cũng như một lần nữa khẳng định bất cứ loại phương tiện chiến tranh hiện
đại nào của Mỹ cũng có thể bị đánh bại bởi bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
* Trận đánh máy bay F4H của trung đội nữ dân quân xã Võ Ninh, Quảng
Ninh (10-11-1967)
Võ Ninh nằm bờ nam phà Quán Hàu, là một trọng điểm đánh phá của không
quân và hải quân Mỹ. Tại đây, bên cạnh lực lượng phòng không của bộ đội chủ
lực, tháng 3-1967, Đảng ủy xã thành lập Phân đội nữ dân quân gồm 26 người,
trang bị 3 súng 12,7ly, biên chế thành 6 khẩu đội, chia làm 2 kíp luân phiên nhau
trực chiến bảo vệ phà và các đoàn xe phân tán giấu trên địa bàn xã. Được sự huấn
105
luyện của cơ quan quân sự tỉnh và huyện, chỉ sau thời gian ngắn, chị em đã thành
thạo các kĩ năng sử dụng súng, cách bố trí trận địa, phương thức phục kích, … Để
đảm bảo chiến đấu lâu dài, ngoài cung cấp của nhân dân, xã còn cấp cho phân đội
5 sào ruộng để tự sản xuất. Có thể nói, đây là hình mẫu về sự kết hợp giữa nhiệm
vụ sản xuất và chiến đấu của địa phương. Hỗ trợ cho phân đội còn có lực lượng
dân quân toàn xã và chi đoàn thanh niên khi xây dựng - di chuyển trận địa, tiếp
đạn, cứu thương, …
Ngày 11-10-1967, một tốp 3 máy bay F4H của Mỹ từ biển bay vào định đánh
phá phà Quán Hàu, dưới sự chỉ huy của Xã đội phó Phạm Thị Phú, cả 3 khẩu 12,7ly
đồng loạt nhả đạn bắn rơi tại chỗ 1 chiếc, bắt sống 2 phi công. Hai chiếc còn lại trút
bom bừa xuống rồi thoát ra biển [52, tr. 85-86].
Đây là chiến công đầu tiên của đơn vị nữ dân quân Quảng Bình độc lập tác
chiến bắn rơi máy bay chiến đấu Mỹ. Kết quả này phản ánh khả năng vươn lên làm
chủ vũ khí, trình độ chiến đấu, quyết tâm dám đánh và đánh thắng của lực lượng nữ
dân quân trước máy bay hiện đại Mỹ. Nó góp phần khẳng định không chỉ bộ đội
chủ lực mà ngay cả nữ dân quân, khi có quyết tâm và phương pháp chiến đấu đúng,
cũng có thể đánh thắng được bất cứ phương tiện chiến tranh hiện đại mà Mỹ sử
dụng trong cuộc chiến tranh phá hoại.
* Trận đánh máy bay trên lèn cao của nữ dân quân xã Tiến Hóa, Tuyên Hóa
(14-8-1968)
Xã Tiến Hóa nằm ở thượng nguồn sông Gianh, địa hình bao bọc bởi các dãy
núi đá vôi, thuận lợi cho việc ẩn nấp của tàu hải quân và lập các kho hàng của Đoàn
559 trước khi nhập Đường 12 chuyển vào chiến trường. Tuy nhiên, điều kiện địa
hình cũng gây bất lợi khi tầm quan sát bị che khuất, máy bay Mỹ thường lợi dụng
bay tầm thấp, men theo các hẻm núi để trinh sát phát hiện tàu thuyền trên sông hay
đang trú đậu để đánh phá rồi theo triền sông Gianh thoát li nhanh ra biển. Mức độ
hoạt động của máy bay Mỹ cực kì ác liệt, nhất là từ sau ngày 31-3-1968, nhằm chặn
đứng tuyến vận tải từ sông Gianh lên Đường 12. Do đó, tìm ra phương thức đối phó
106
với máy bay Mỹ để bảo vệ các mục tiêu trên địa bàn là nhiệm vụ nặng nề đặt ra đối
với quân dân xã Tiến Hóa.
Cũng như nhiều địa phương khác ở Quảng Bình, do điều kiện phần lớn thanh
niên lên đường nhập ngũ nên cuối năm 1967, Đảng ủy xã Tiến Hóa thành lập phân
đội nữ dân quân 12,7ly gồm 10 người để đảm đương nhiệm vụ chiến đấu. Được sự
huấn luyện của Huyện đội Tuyên Hóa, chỉ sau thời gian ngắn, chị em đã thông
thạo kĩ năng sử dụng súng, nắm bắt các thủ đoạn đánh phá của máy bay trinh sát,
máy bay tầm thấp, máy bay cường kích của địch để sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Nghiên cứu quy luật hoạt động của máy bay Mỹ, Đảng ủy xã quyết định đưa phân
đội lên bố trí trận địa ở các điểm cao (nhằm để vừa dễ dàng phát hiện máy bay vừa
nối thêm tầm bắn). Được sự hỗ trợ của lực lượng dân quân và thanh niên xã, tháng
8-1968, các súng 12,7ly được bí mật đưa lên lập trận địa ở cao điểm 180 (thường
gọi là Lèn Bảng).
Sáng sớm ngày 15-8-1968, một tốp 3 máy bay F4H từ biển theo sông Gianh
bay tầm thấp vào định tấn công tàu hải quân đang đậu dưới chân Lèn Bảng. 2 chiếc
đi đầu dùng thủ đoạn giả vờ bổ nhào cắt bom và bắn rốc két nhằm phát hiện hỏa lực
ta nhưng dưới sự chỉ huy của Phân đội trưởng Nguyễn Thị Bích Hội, toàn phân đội
bình tĩnh không nổ súng để giữ bí mật trận địa. Đợi chiếc thứ 3 lao xuống cắt bom
lọt vào tầm bắn, cả 3 khẩu 12,7ly đồng loạt nổ súng. Chiếc máy bay trúng đạn bốc
cháy rơi xuống tại chỗ, 2 phi công Mỹ không kịp nhảy dù. Hai chiếc còn lại vội
quay đầu tháo ra biển [52, tr. 101-102].
Chiến công trên thể hiện sự dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của phân đội nữ
dân quân xã Tiến Hóa. Việc đưa súng lên điểm cao nhằm nới thêm tầm bắn đã
khắc phục được điều kiện bất lợi của địa hình, tạo nên sự bất ngờ cho đối phương.
Trong diễn biến trận đánh, toàn phân đội đã bình tĩnh và sáng suốt, không bị mắc
mưu bởi các thủ đoạn thăm dò của địch để giữ bí mật trận địa, kiên trì chờ và chọn
đúng thời cơ để nổ súng, tiêu diệt tại chỗ máy bay Mỹ. Nó chứng minh chị em phụ
nữ có khả năng độc lập tác chiến cũng như có thể thay thế được nhiệm vụ chiến
đấu của thanh niên, đồng thời góp phần làm phong phú kho tàng nghệ thuật chiến
tranh nhân dân Việt Nam.
107
* Trận phục kích F.111A 1 của dân quân xã Phú Trạch, Bố Trạch (7-11-1972)
Từ giữa năm 1972, Mỹ sử dụng loại máy bay F.111A “cánh cụp cánh xòe”
trên đất Quảng Bình. Sử dụng lối tập kích, bay thấp men theo triền sông, sườn núi,
thả loạt bom tọa độ với khối lượng lớn rồi thoát li nhanh ra biển, F.111A trở thành
“con ngoáo ộp” của không lực Hoa Kỳ. Nhiều chân hàng, bến vượt bị đánh, nhiều
đoạn đường bị tắc bởi những loạt bom tọa độ của F.111A. Sau thời gian nghiên cứu
quy luật hoạt động của F.111A, Tỉnh đội trưởng Trần Sự quyết định sử dụng hỏa
lực tầm thấp để tiêu diệt. Dưới sự chỉ đạo của Ban tác chiến, Ban cao xạ, các địa
phương đưa phân đội 12,7ly, 14,5ly, … xây dựng trận địa phục kích ở những nơi
mà F.111A thường xuyên bay qua. Về cách đánh, mỗi súng chỉ bố trí một xạ thủ
phụ trách. Những người này được lệnh ngày ngủ, đêm thức trực chiến, hướng nòng
về phía tây, tay đặt cò súng để sẵn sàng nghe tiếng máy bay là bắn, bắn kiểu vãi đạn
(còn gọi là bắn “đại hội”).
Đêm 5-11-1972, phân đội trực chiến dân quân xã Phú Trạch (Bố Trạch) bố trí
trận địa tại lòi Làng Hỷ Duyệt. Dưới sự chỉ huy của Xã đội trưởng Nguyễn Thắng, 2
khẩu 12,7ly sẵn sàng. Lúc 0 giờ ngày 7-11, vừa nghe tiếng máy bay từ phía tây, cả 2
khẩu 12,7ly đồng loạt nhả đạn. Chiếc F.111A bị hạ gục, rơi xuống cửa biển Lý Hòa.
Đây chính là chiếc máy bay “cánh cụp cánh xòe” đầu tiên bị hỏa lực tầm thấp của
dân quân miền Bắc trừng trị [163, tr. 306-307]. Chiến công này chứng tỏ bước
trưởng thành vượt bậc về trình độ chỉ huy, nghệ thuật tác chiến, khả năng chiến đấu
của các lực lượng vũ trang Quảng Bình khi đối đầu với phương tiện chiến tranh
hiện đại nhất của Mỹ vào thời điểm đó.
3.2.3.2. Trên các tuyến đường bộ
Để bảo vệ các tuyến đường, Tỉnh ủy tập trung nhân lực, vật lực và phương
tiện cho đường 12 và 15, còn Quốc lộ 1 giao cho các địa phương chịu trách
1. Đây là một loại máy bay ném bom chiến lược tầm trung, có thể trinh sát và chiến đấu.
Nó là thành tựu kĩ thuật mới nhất của Mỹ vào thời điểm đó, như cánh có thể thay đổi (cụp
lại hoặc xòe ra), có ra-đa theo dõi địa hình để bay nhanh ở tầm thấp. F.111A có tốc độ gấp
2,5 lần tốc độ âm thanh, hoạt động ở tầm cao 17km (súng phòng không thông thường
không với đến) hoặc rất thấp (ra-đa mặt đất không thể phát hiện). Không kể các loại tên lửa
đối không, đối đất, F.111A có thể mang khối lượng bom tới 14,3 tấn [229].
108
nhiệm. Ban chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải tỉnh và các huyện, thị xã được
thành lập. Để thông tuyến, một số biện pháp cụ thể được đề ra như các địa
phương, cơ quan và đơn vị tổ chức, huấn luyện và trang bị cho dân quân tự vệ
những kĩ năng về sửa chữa đường, cứu xe, cứu hàng, gỡ bom nổ chậm, canh gác
phòng không ban đêm, … để cầu đường hỏng ở đâu thì đây là lực lượng đầu tiên
có mặt ứng cứu. Về phương thức hoạt động, các lực lượng này thực hiện triệt để
hỏng đâu sửa đó, hỏng lúc nào sửa lúc đó, xe đến lúc nào đi ngay lúc đó, có
đường - phà - cầu dự bị; tổ chức bảo vệ, báo động phòng không dọc đường, tổ
chức các tổ điều chỉnh giao thông trên các trục đường, tổ chức lực lượng bốc dỡ
ở các cầu phà, người và xe có bến riêng, bảo đảm vận chuyển hành khách và
hàng hóa trong bất cứ tình huống nào.
* Trên Quốc lộ 1. Ngày 4-4-1965, máy bay Mỹ đánh phá cầu Dài (Đồng Hới).
Tiểu đoàn 9 cùng dân quân tự vệ Phú Hải đánh trả. Sau đó, ta điều Tiểu đoàn 9 về
cầu Lý Hòa. Tại đây, trong hai ngày 7 và 13-4-1965, Tiểu đoàn 9 tuy hạ được một
số máy bay 1 nhưng việc bảo vệ mục tiêu không hoàn thành. Tiếp theo, Tiểu đoàn 9
được điều về cầu Mỹ Đức. Rút kinh nghiệm từ 2 trận chiến trước, ngày 24-4-1965,
khi máy bay Mỹ tấn công, các lực lượng tại chỗ đã lập trận địa giả, nghi binh lừa
địch, bắn rơi một số máy bay.
Trong khi đó, công tác ngụy trang nghi binh để bảo vệ các mục tiêu chính thực
sự là cuộc đấu trí quyết liệt giữa ta và địch. Trên các tuyến luồng và phương tiện
vận tải đều xây dựng phương án dự phòng nhằm xử lí có hiệu quả những tình huống
phát sinh trong thực tế chiến đấu. Đối với những mục tiêu như cầu cống, công nhân
tìm cách ngụy trang. Như khi cầu Chánh Hòa tuy bị đánh nhưng chưa sập, xe vẫn
còn qua lại được, ban ngày anh em công nhân lấy cái nong lớn trát nhựa đường và
đổ nước vào đem đặt trên cầu. Từ trên cao, máy bay trinh sát chụp ảnh hoặc các loại
máy bay trinh sát vũ trang thấy cây cầu đã bị đánh thủng nên không đánh phá nữa.
Tối đến, công nhân cất nong cho xe qua lại bình thường được thêm một thời gian.
1. Theo “Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ (1965-1968)”, tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong các trận đánh trên là 26
chiếc. Con số này có lẽ quá cao so với thực tế.
109
Tại cầu Khe Chay, do bị địch đánh sập hoàn toàn nên Hạt Giao thông Quảng Trạch
làm một cầu ngầm sát cầu cũ. Để nghi binh, đơn vị mở con đường giả chạy sát chân
núi, cắm cả cọc tiêu quét vôi trắng để thu hút địch. Máy bay Mỹ tưởng ta mở đường
mới tránh cầu Khe Chay nên tập trung phá con đường giả đó. Ở cầu Khe Giao và
cầu Hiểm, công nhân dùng cách khác. Thân cầu được lao những dầm dọc và dùng
ván lát ngang cầu. Ban đêm, xe qua lại bình thường, đến sáng ván được tháo cất.
Máy bay Mỹ trinh sát chỉ thấy cầu bị đánh hỏng. Ở cầu Lệ Kỳ, khi bị đánh sập,
công nhân làm cầu mới dưới mặt nước 30 phân khiến địch không thể phát hiện. Tối
đến, công nhân giăng dây hai bên để xe qua lại. Tuy nhiên, do đảm bảo bí mật,
không sử dụng đèn nên một số xe lao xuống ruộng. Để khắc phục, công nhân rải
một vệt cát trắng giữa tim đường. Dựa vào dấu hiệu này, xe qua lại dễ dàng hơn.
Đối với những xe đang hành quân phải đỗ lại dọc đường khi trời sáng, yêu cầu ngụy
trang kín được đặt lên hàng đầu. Do xe nhiều, các thôn xóm dọc hai bên đường bị
đánh phá nhiều, không có đủ lá ngụy trang. Sở Giao thông Quảng Bình vận động
nhân dân làm nhiều hầm, ụ ven đường để giấu xe. Không có lá tươi, bà con dùng lá
khô kết lại phủ kín xe. Gần sáng, xe được giấu vào hầm, tối lại chạy. Vận dụng kinh
nghiệm này, công nhân lái máy cày cũng làm những tấm phên tranh tre để che máy.
Khi máy bay Mỹ đến, máy cày dừng lại, trông giống như những túp lều giữa đồng
khiến địch không phát hiện ra. Máy bay đi, hoạt động sản xuất trở lại bình thường.
* Trên Đường 12A, thường xuyên có trên 500 thanh niên xung phong của
Quảng Bình, Thanh Hóa và Nghệ An, trong đó đơn vị C.759 thuộc Đội Thanh niên
xung phong N.75 1 Quảng Bình là lực lượng chính, chốt những trọng điểm như Khe
Tang, Khe Ve, Bãi Dinh, Cha Lo, Cổng Trời, Mụ Dạ, … Đơn vị thường xuyên đối
đầu với những đợt oanh tạc ác liệt của máy bay Mỹ. “Đến cuối tháng 10-1966, chúng
đã đánh vào đoạn đường C.759 phụ trách 445 trận với 4.095 quả bom, tính ra mỗi
người chịu 32 quả” [123, tr. 87].
1. Được thành lập ngày 15-5-1965, N.75 gồm các đơn vị: C.751, C.755 (Bố Trạch), C.752, 753
(Quảng Trạch), C.754 (Quảng Ninh), C.757 (Lệ Thủy), C.758 (Minh Hóa) và C.759 (Tuyên
Hóa).
110
Đối mặt với bom đạn ác liệt, lực lượng C.759 vẫn giữ quyết tâm: “Máu 759 có
thể đổ - Đường 759 không bao giờ tắc”. Tại những trọng điểm thường xuyên bị
đánh phá, C.759 phải chia tổ, nhóm bất kể ngày đêm và hiểm nguy nhằm nhanh
chóng thông đường. Nhiều tấm gương dũng cảm xuất hiện, như chiến sĩ Trần Đức
Hè, người lăn quả bom nổ chậm đầu tiên ra khỏi lòng đường; C phó Trần Thị
Thành, đứng ngay trên bom nổ chậm cho anh em yên tâm làm đường. Song song
với nhiệm vụ chiến đấu để thông đường và thông tuyến, công nhân Công trường
12A còn thường xuyên luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu. Ngày 14-4-1965,
trong trận chiến đấu bảo vệ cầu Cà Tang, công nhân giao thông Hạt 4 tham gia tiếp
đạn cho đơn vị pháo bảo vệ cầu, khi bộ đội bị thương nặng, đội viên Đinh Thị Thu
Ngà đã nhảy lên mâm pháo làm pháo thủ bắn trả máy bay Mỹ.
Để hoàn thành nhiệm vụ, lực lượng N.75 không tránh khỏi những tổn thất to
lớn, như C.756 có 21 chiến sĩ hi sinh hoặc trong trận Mỹ ném bom khu vực núi Y
Leng (ngày 3-7-1966), 8 đội viên C.759 cùng 11 chiến sĩ công binh C.2 bị vùi sâu
trong lòng đất 1.
* Trên Đường 15, Mỹ tập trung đánh phá dữ dội, chia cắt từng khúc, “từ
Thanh Lạng, Khe Tang, Khe Ve lên đường chiến lược 12 không ngớt tiếng bom nổ.
Phà Xuân Sơn trở thành ‘túi bom’. Đoạn đường từ Đá Đẽo qua Troóc vượt phà
‘Nguyễn Văn Trỗi’ đến cây số không (km 0) mỗi ngày có tới 12 đến 16 tốp máy bay
đánh phá” [33, tr. 245]. Nhiều trọng điểm trên Đường 15 đã ghi vào lịch sử giao
thông Quảng Bình với những chiến công hiển hách, trong đó có đoạn Khe Rinh là
một địa danh bất tử. Cuối tháng 8-1966, sau 7 ngày đánh ngầm 510 không có kết
quả, Mỹ chuyển sang đánh ngầm Khe Rinh. Ở đoạn này, Đường 15 đi qua vùng núi
đá vôi hiểm trở nên Khe Rinh chịu tác động trực tiếp các cơn lũ thượng nguồn vào
mùa mưa, lũ mở rất rộng, lưu tốc tăng đột ngột có thể phá vỡ, cuốn trôi cả đoạn
đường. Ban đầu, Mỹ đánh bom tọa độ ngày 3 lần, bước qua tháng 9 chúng đánh cả
ngày lẫn đêm, trung bình 10 trận mỗi ngày và kéo dài liên tục suốt 75 ngày đêm
1. Với những thành tích trên, C.759 thuộc đội Thanh niên xung phong N.75 Quảng Bình và
A trưởng Nguyễn Thị Kim Huế đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng.
111
[145, tr.159-160]. Bom đạn và mưa lũ đã phá hủy một đoạn đường dài 500m, gây
tắc hàng tuần lễ. Công trường 050 (đơn vị giao thông chủ chốt của tỉnh Quảng
Bình) từ Đường 12B được điều về ứng cứu. Do địa hình không thể mở đường tránh
nên các lực lượng trên công trường phải bảo vệ tuyến đường chính bằng mọi giá.
Phương pháp tối ưu đó là ép lèn để dịch đường vào. Máy gạt C100 và một tiểu đoàn
bộ đội chủ lực được điều đến hỗ trợ nhưng gặp tổn thất lớn phải rút về tuyến sau. 3
đại đội C1, C3 và C8 của Công trường 050 gồm 480 công nhân ở lại bám trụ mặt
đường. Do máy bay Mỹ đánh phá liên tục nên lực lượng chốt chỉ kịp khai thác đủ số
lượng đá để sửa chữa tại chỗ. Công trường quyết định thành lập “Trung đội quyết
tử”, gồm 30 đảng viên và đoàn viên thanh niên ưu tú bám trụ tại trọng điểm để sản
xuất đá ngay trên trận địa. Trung đội C đóng chốt trong hang lèn, dùng mìn phá đá
dịch đường, dự trữ sẵn một khối lượng lớn đá hộc, sau mỗi lần địch đánh phá là
phải có vật liệu xử lí ngay. Với tinh thần quyết tử của các lực lượng công binh và
thanh niên xung phong, qua 75 ngày đêm, trọng điểm Khe Rinh được thông xe.
Cùng với Khe Rinh, trên Đường 15 còn có nhiều trọng điểm ác liệt khác như
phà Xuân Sơn, Long Đại, … là những “túi bom”,”chảo lửa”. Các lực lượng đảm
bảo giao thông vận tải của Trung ương, của Quân khu 4 và của địa phương tại
những trọng điểm Xuân Sơn và Long Đại đã vượt lên thử thách khốc liệt gian khổ
hi sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ bến phà, tuyến đường, đảm bảo sự chi
viện của hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Khẩu hiệu hành động
xuyên suốt “đầu đội bom, chân bám phà, tay lái, tay súng, miệng hát bài ca chiến
thắng”, “đường, ngầm, sông, bến phà là trận địa” đã trở thành phong trào cách
mạng của toàn đơn vị.
* Trên Đường 20. Ngay khi vừa hoàn thành, Mỹ bắt đầu đánh phá ngăn chặn
tại đèo Pu La Nhích, đèo Cô Pông La và ngầm Ta Lê. Mức độ đánh phá trên dưới
10 lần một ngày [145, tr. 136]. Để cắt đường, chặn xe vận chuyển, Mỹ tập trung
đánh vào các điểm vượt sông, đèo cao vách đứng, nơi tập trung nhiều đầu mối giao
thông như điểm vượt sông Son, ngầm Bùng, vách đá ở Km12 Trà Ang, ngầm Cà
Roòng, đường chữ chi ở Km32 và dốc Km68, khu vượt sông Ta Lê, khu vực đầu
112
mối đường Chà Là. Địch đánh dai dẳng quyết liệt nhất là khu vực vượt sông Ta Lê
bao gồm ngầm A, ngầm B, ngầm C, đỉnh đường Đ, cua chữ A, vách đá 85. Đến
năm 1970, Mỹ chuyển ra đánh khu vực Chà Là. Có ngày tại đây có tới 15-20
lần/chiếc B.52 rải thảm và trên 40 lần/chiếc cường kích đánh bổ sung, với nhiều loại
bom như bom phá nổ ngay, bom từ trường, bom bi nổ ngay và nổ chậm, bom cam,
bom đinh, mìn vướng, rốc-két, tên lửa điều khiển loại lớn, chất độc hóa học diệt cây
cỏ, ... Ở ngầm 20A, Mỹ dùng cả bom dẫn bằng laze 1.
Bất chấp bom đạn ác liệt, các lực lượng trên Đường 20 lần lượt người trước
ngã, người sau thay thế với quyết tâm: “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng
cảm”, “Địch phá, ta sửa, ta đi”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt! Tất cả để chiến
thắng!”, mở nhiều đường vòng tránh các trọng điểm, nhiều bến vượt sông, như
vượt sông Son bằng 3 bến phà; vượt ngầm Bùng bằng 3 bến, 1 ngầm và 2 phà; vòng
tránh trọng điểm K.68 bằng Đường 20E từ Km65 bắt vào Km2 Đường 20Đ; vượt
khu vực Ta Lê, ngoài tuyến chính 20A, còn mở thêm các tuyến phụ 20B, 20C, 20D
dài 30km, để luôn đảm bảo con đường được thông suốt.
Trong tổng số hơn 8.000 lượt cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong, bộ
đội tham gia xây dựng, chiến đấu trên Đường 20, có 1.088 liệt sĩ và hàng trăm
thương binh. Riêng ngày 14-11-1972, tại Km16, 8 thanh niên xung phong và 5 bộ
đội pháo binh vào trong một hang núi ngay bên cạnh đường để tránh bom đã bị một
khối đá lớn đánh sập che lấp cửa hang, không thể giải cứu. Sự hi sinh đó là minh
chứng về tính chất ác liệt của mặt trận giao thông vận tải chống Mỹ, cứu nước vừa
là biểu hiện ý chí kiên cường và thông minh sáng tạo của tập thể cán bộ và chiến sĩ
giao thông - công binh trên dãy Trường Sơn và là biểu tượng sáng chói chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, xứng đáng với đánh giá của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp khi vào thăm và kiểm tra trận địa cuối năm 1970: “Đường 20 -
Quyết Thắng là một kì công, kì tích, kì quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sĩ và
thanh niên xung phong làm nên” [43, tr. 19-20].
1. Do đó, Đường 20 được mệnh danh là “tọa độ lửa”, “cánh cửa thép”, “cửa tử vượt Trường
Sơn”.
113
3.2.3.3. Trên tuyến biển
* Những trận đánh tàu biệt kích (1965-1966)
Để bảo vệ vùng biển, ngoài pháo binh Sư đoàn 341 phụ trách bờ biển Quảng
Bình và Vĩnh Linh, trong đó tập trung các trọng điểm Gianh, Đồng Hới, Ngư
Thủy, Quân khu 4 tăng cường cho tỉnh 4 đại đội pháo 85ly, 4 đại đội 57ly. Phương
châm đánh là tranh thủ đánh tiêu diệt, không có điều kiện thì kiên quyết đánh đuổi
không cho địch tự do đánh phá. Trong cách đánh, nhấn mạnh yếu tố bí mật, bất
ngờ, lấy đánh ở cự ly gần làm chính, tập trung hỏa lực đánh chìm từng chiếc, kết
hợp phục kích tại chỗ với cơ động đón đánh địch, lực lượng sử dụng từng trung
đội, đại đội.
Đêm 22-4-1966, bốn tàu biệt kích hoạt động ở vùng biển xã Quảng Đông
(Quảng Trạch) cách bờ khoảng 8-10km. Chúng cho 2 tên biệt hải đột nhập vào bờ
nhưng bị đài quan sát của Đại đội 10 pháo binh phát hiện. 3 tàu đi theo hộ tống tiến
vào gần bờ, bắn yểm trợ cho đồng bọn rút. Kết hợp thông tin của trạm ra-đa 505 với
của phân đội trinh sát, Đại đội 10 giao hội ngay được mục tiêu. Sau 3 loạt bắn, tiếng
máy nổ của tàu tắt ngấm. 4 giờ 30 phút sáng 23-4, lúc khẩu đội 2 đang di chuyển
trận địa, trạm ra-đa 505 thông báo có 2 tàu địch xuất hiện. Khẳng định đó là hai tàu
còn lại, đại đội trưởng hạ lệnh khẩu đội 1 ở lại trận địa ngắm bắn trực tiếp vào mục
tiêu. Chỉ với 2 phát đạn, tàu địch bốc cháy. Khẩu đội chuyển sang mục tiêu thứ 2.
Sau 3 phát đạn, tàu địch bị bắn cháy. Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao.
Nhờ công tác hợp đồng chiến đấu chặt chẽ với trạm ra-đa hải quân và dân quân địa
phương, chỉ trong 1 đêm, Đại đội 10 pháo binh đã diệt gọn cả 3 chiếc tàu biệt kích
trong khi ta vẫn đảm bảo an toàn.
* Trận đánh tàu Mỹ của cụm pháo binh Tỉnh đội Quảng Bình (17-5-1967)
Để tập trung hỏa lực nhằm đánh địch đạt hiệu suất cao nhất, Tỉnh đội Quảng
Bình chủ trương xây dựng phương án cụm pháo ở thôn Tân Định, xã Gia Ninh,
huyện Quảng Ninh. Đây là vùng đồi cát, không có đường ngang từ Quốc lộ 1 ra
biển và ta chưa có trận địa nên tàu chiến Mỹ thường xuyên vào gần bờ pháo kích.
Hai đại đội 85ly, hai đại đội cao xạ của Tiểu đoàn 9, 12 khẩu 12,7ly của bộ đội địa
114
phương và dân quân Quảng Ninh được điều đến bố trí đội hình chiến đấu. Tỉnh huy
động 1.925 dân quân các xã Gia Ninh, Võ Ninh, Hàm Ninh và lực lượng của Hạt
giao thông Quảng Ninh, Lệ Thủy chặt hàng ngàn gánh bổi, đưa củi, ván, ri sắt làm
vật liệu chống lún mở đường. Sau 2 ngày, các lực lượng đã làm xong 7km đường,
đưa pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Ngày 17-5-1967, khi trận địa vừa bố trí xong, một
tốp 3 tàu chiến đi vào khu vực ta lựa chọn. Đợi mục tiêu vào tầm bắn, các khẩu
pháo đồng loạt phát hỏa vào khu trục hạm số 29. Tàu Mỹ bốc cháy dữ dội, rồi nhích
dần ra khỏi tầm pháo [52, tr. 65-74]. Đối phương lập tức phản pháo, máy bay được
điều tới ném bom. Trận địa cao xạ và 12,7ly nổ súng bảo vệ pháo binh, đẩy lùi cuộc
phản kích của địch. Đến đêm 17-5, các lực lượng ta rút lui an toàn.
Thành công của trận đánh là kết quả của sự chuẩn bị tổng hợp của nhiều lực
lượng: pháo binh, pháo cao xạ, dân quân, công binh, … thể hiện tính toàn dân sâu
sắc. Nếu không có lực lượng to lớn (gần 2.000 người) của dân quân, tự vệ cùng sự
chuẩn bị vật liệu lót đường cũng như xóa dấu vết di chuyển của pháo sau khi vào
trận địa thì không thể có trận đánh. Rồi việc đảm bảo hậu cần cho số lượng người
đông đảo đó đòi hỏi nỗ lực rất lớn của chính quyền và nhân dân các địa phương liên
quan. Kết quả trận đánh mở ra cho pháo binh địa phương về cách đánh tập trung và
cơ động trên toàn tuyến biển, tạo nên dọc bờ biển Quảng Bình, nơi nào tàu chiến
Mỹ cũng có thể bị trừng trị, đẩy lùi tàu Mỹ ra xa, mở rộng khu sản xuất cũng như
góp phần hạn chế việc tàu địch pháo kích vào các mục tiêu ven biển và hệ thống
giao thông.
* Trận đánh tàu Mỹ của đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (8-2-1968)
Sau khi thành lập (27-11-1967), đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy được tập
trung huấn luyện bắn mục tiêu di động trên biển. Sau hơn 2 tháng, đại đội được
phân công thay thế Đại đội 9/Tiểu đoàn 11 bảo vệ bờ biển quê hương.
Ngày 5-2-1968, Xã đội Ngư Thủy bố trí trận địa chính gồm cả 4 khẩu pháo
85ly, đài quan sát, trận địa phòng không (3 khẩu 12,7ly) để bảo vệ pháo và trận địa
giả để nghi binh. Hỗ trợ cho trận đánh còn có đại đội dân quân Lệ Bình và xe kéo
pháo để sẵn sàng di chuyển trận địa khi bị địch phản kích. Sáng 7-2-1968, hai tàu
115
chiến Mỹ xâm nhập vùng biển Ngư Thủy, bắn phá đất liền. Ở khoảng cách 9.000m,
ta quyết định đánh. Cả 4 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn, bắn cháy chiến hạm số 013.
Tàu Mỹ phản pháo làm 2 chiến sĩ bị thương. Sau đó, máy bay được điều tới dò xét
nhưng không phát hiện được trận địa [52, tr. 95-96].
Trận đầu ra quân, đại đội nữ pháo binh dân quân Ngư Thủy đã lập nên chiến
công xuất sắc, bắn cháy tàu chiến Mỹ. Cũng là lần đầu tiên, tàu chiến Mỹ bị bắn
cháy bởi lực lượng nữ dân quân địa phương. Để có kết quả trên đây trước hết là tầm
nhìn của Ban Chỉ huy Tỉnh đội Quảng Bình khi quyết định thành lập đại đội nữ
pháo binh dân quân - việc chưa từng có trong lịch sử chiến tranh cho đến thời điểm
đó. Nó thể hiện niềm tin của các cấp vào khả năng của chị em phụ nữ có thể gánh
vác được những công việc mà bình thường chỉ do nam giới đảm nhiệm. Đó là nỗ
lực vượt bậc, dũng cảm quên mình của những chiến sĩ nữ dân quân Ngư Thủy trong
huấn luyện và chiến đấu. Để đi đến trận đánh là sự kết hợp của nhiều lực lượng như
pháo binh, phòng không, thông tin và bảo đảm. Điều đó làm cho những nữ dân quân
Ngư Thủy ra trận chính ngay trên mảnh đất quê hương mình, với quyết tâm “đánh
cháy tàu chiến Mỹ”, hoàn toàn yên tâm tập trung vào nhiệm vụ, khi có lực lượng
phòng không bảo vệ, có dân quân sẵn sàng hỗ trợ bất cứ lúc nào.
* Dùng không quân tập kích chiến hạm Mỹ (19-4-1972)
Vùng biển ngoài khơi Quảng Bình luôn có 2-3 tốp tàu chiến Mỹ thường trực.
Tuy nhiên, rút kinh nghiệm từ nhiều lần bị pháo binh ta bắn trúng nên tàu Mỹ
không vào sát bờ như trước. Dựa vào ưu thế về hỏa lực và tầm bắn 1, hải quân Mỹ
phong tỏa bờ biển, liên tục pháo kích vào đất liền mà pháo bờ biển của ta không thể
1. So sánh hỏa lực pháo bờ biển Việt Nam và pháo trên tàu chiến Mỹ [231].
116
bắn với tới được. Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh quân
chủng Phòng không Không quân quyết định dùng máy bay đẩy lùi tàu chiến Mỹ ra
xa để vô hiệu hóa một lực lượng nguy hiểm, không cho chúng dùng pháo lớn bắn
phá đất liền.
Từ tháng 9-1971, công tác xây dựng sân bay dã chiến Khe Gát ở xã Xuân
Trạch, huyện Bố Trạch được triển khai. Để đảm bảo bí mật, những thiết bị phương
tiện chuyên dụng để xây dựng sân bay như xe lu, xe cẩu, máy húc, xe gạt đều được
tháo rời ra từng bộ phận chở từ Hà Nội vào đến nơi rồi lắp lại sử dụng. Trong điều
kiện máy bay trinh sát và biệt kích, thám báo Mỹ vẫn thường xuyên hoạt động, công
tác thi công được giữ bí mật tuyệt đối, hoàn toàn tiến hành vào ban đêm và trước
khi trời sáng phải dọn dẹp hiện trường, thu giấu máy móc, ngụy trang công trường,
phân tán lực lượng, bố trí canh phòng. Sau hơn 7 tháng thi công, sân bay mới hoàn
thành bằng đất nện, như một đoạn đường thẳng rộng 18m, dài 1.800m, được ngụy
trang kín bằng việc thay lá thường xuyên. Do đó, tuy gần bờ biển, máy bay Mỹ
trinh sát thường xuyên nhưng vẫn không phát hiện được.
Chuẩn bị cho trận đánh, Phó Tư lệnh Binh chủng Nguyễn Phúc Trạch được
phân công vào Quảng Bình, lập Sở Chỉ huy tiền phương. Trung đoàn không quân 923
tổ chức Sở chỉ huy trực tiếp ở Đồng Hới. Binh chủng bố trí một tổ chỉ huy hỗ trợ tại
Sở chỉ huy hải quân, gồm một đài quan sát tại cửa Dinh, một trạm ra-đa đối hải 403 ở
cửa Nhật Lệ, nhằm thu tập tin tức. Hệ thống chỉ huy tập trung nghiên cứu hoạt động
của không quân và hải quân địch, đặc biệt nắm chắc quy luật hoạt động bắn phá của
các tàu khu trục, sự yểm hộ và hoạt động của không quân Mỹ. Khi nắm rõ tình hình
đối phương, cấp trên quyết định đưa máy bay vào sân bay Khe Gát. Ngày 10-4-1972,
3 phi công (Lê Xuân Dị, Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Văn Lục) cùng một số thợ máy
C12, Trung đoàn 923 hành quân theo đường bộ vào sân bay Gát, chuẩn bị phương án
chiến đấu. Vào lúc 15 giờ 45 phút ngày 18-4-1972, hai phi công Lê Hồng Điệp và Từ
Để lái hai chiếc Mig 17 từ sân bay Kép và sân bay Gia Lâm vào sân bay Vinh. Từ
Vinh, sở chỉ huy dẫn đường cho từng chiếc một bay vào Khe Gát. Chiếc thứ nhất hạ
cánh an toàn thì chiếc thứ hai được lệnh cất cánh.
117
Từ 23 giờ đến 23 giờ 50 phút đêm 18-4-1972, bốn tàu khu trục của Mỹ tiến
vào biển Quảng Bình, pháo kích làng Quảng Xá và làng Lý Nhân Nam. Hoạt động
của địch chứng tỏ chúng chưa phát hiện di chuyển của không quân Việt Nam. Vào
lúc 16 giờ ngày 19-4-1972, Trạm ra-đa 403 phát hiện một tốp 2 tàu Mỹ xuất hiện
cách cửa biển Nhật Lệ về phía đông 18km. Biên đội được lệnh xuất kích. Ở độ cao
50m so với mặt biển, Lê Xuân Dị đánh trúng tháp pháo tàu khu trục USS Higbee,
còn Nguyễn Văn Bảy đánh trúng tàu tuần dương USS Oklahoma City [103].
Về trận đánh này, ngày 20-4-1972, Hãng thông tấn AP (Mỹ) đưa tin: “Khoảng
6 giờ tàu Higbee cùng liên đội đảm nhiệm của Hạm đội 7 hoạt động ở vùng biển
tỉnh Quảng Bình, Bắc Việt Nam. Higbee là khu trực hạm vừa được Tổng thống
Nixon tuyên dương vì đã vào gần vùng biển Hải Phòng cứu các phi công Mỹ bị bắn
rơi ngày 16-4-1972. Chiếc Higbee đang pháo kích thì Mig bay tới ... 2 quả bom
đánh trúng tàu, boong sau của hạm đội bốc cháy, một đoạn lớn của hông bị phá
toang, ụ súng chứa đầy đạn nổ tung, tiếng la hét, kêu cứu thất thanh, quang cảnh
thật buồn thảm, các khẩu pháo lớn vỡ toác như cái loa kèn. Cuộc tấn công này thật
nghiêm trọng vì đây là lần đầu tiên Bắc Việt Nam dùng Mig tấn công Hạm đội 7
của Mỹ. Tin về cuộc tấn công này được loan truyền nhanh chóng trong Quốc hội
Mỹ giữa lúc các nghị sĩ Mỹ đang tranh cãi về những bất đồng trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam” [228].
Thắng lợi của trận đánh là kết quả của ý tưởng táo bạo (dùng máy bay tiêm
kích để ném bom tàu chiến), quá trình chuẩn bị công phu (kéo dài hơn 7 tháng), sự
kết hợp nhiều lực lượng (không quân, công binh, hải quân), hỗ trợ của nhân dân
làng Gát (tham gia xây dựng và ngụy trang sân bay hàng ngày), lối đánh bất ngờ
(đánh ban ngày ở khu vực mà không quân và hải quân Mỹ tưởng chừng như làm
chủ hoàn toàn), tinh thần chiến đấu dũng cảm của các phi công (bay đánh ở độ cao
rất thấp so với mực nước biển trong điều kiện đối phương có ưu thế về hỏa lực trên
không và trên biển). Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, đây là lần đầu tiên tàu
chiến Mỹ bị ném bom. Đô đốc Hạm đội Thái Bình Dương phải lệnh cho các tàu lùi
ra xa, tạm dừng pháo kích, để tìm cách đối phó. Tranh thủ thời gian này, các tuyến
118
vận tải của ta tăng cường công suất hoạt động, đưa các lực lượng vào chiến trường,
góp phần đi đến giải phóng tỉnh Quảng Trị (1-5-1972).
3.3. Đảm bảo giao thông và vận tải chi viện chiến trường
3.3.1. Đảm bảo giao thông
Ngoài Quốc lộ 1 xuyên suốt địa phương là tuyến đường đã có sẵn, trong quá
trình mở rộng quy mô chi viện cách mạng miền Nam, ở Quảng Bình lần lượt nhiều
tuyến đường dọc, ngang được mở sang Tây Trường Sơn nối xuống Trung và Hạ
Lào. Từ năm 1958, việc chuẩn bị mở đường chi viện cách mạng miền Nam đã được
bí mật triển khai, cụ thể là Đường 16. Nguyên là con đường mòn xuất phát từ Thạch
Bàn (Lệ Thủy) rẽ về phía Tây đến bản Cha Lỳ (Hướng Lập - Vĩnh Linh), Trung
ương đã mở rộng thành Đường 16 dài 67km (gồm 64km tuyến chính và 3km đường
tránh), đoạn từ Thạch Bàn đến Làng Ho dài 40km sử dụng cho xe cơ giới, còn từ
Làng Ho lên Cha Lỳ (Hướng Lập) phải gánh bộ để giữ bí mật. Tiếp đó, đường được
mở thông tuyến vượt đỉnh 1001 vào Cù Bai (thuộc Hướng Lập, ở ngã ba biên giới
Lào và Nam - Bắc Việt Nam). Từ tháng 5-1959, khi mở đường Trường Sơn, Khe
Hó (xã Vĩnh Hà - Khu vực Vĩnh Linh), cách giới tuyến quân sự tạm thời chưa đầy
2km, được Đoàn 559 lựa chọn làm điểm xuất phát. Ở phía Bắc giới tuyến, việc vận
chuyển được thực hiện trên một phần trên Đường 16. Từ tháng 10-1959, trước việc
chính quyền Sài Gòn phát hiện ra tuyến đường và tăng cường lực lượng kiểm soát
chặt chẽ dọc Đường 9, Đoàn 559 lùi Sở Chỉ huy ra Làng Ho (Quảng Bình). Từ
tháng 6-1961, Đoàn lật cánh sang Tây Trường Sơn. Tuyến đường cũ chỉ còn một bộ
phận nhỏ làm nhiệm vụ liên lạc. Từ đây, Quảng Bình trở thành điểm cuối của con
đường chi viện từ miền Bắc trước khi vào chiến trường, đồng thời là điểm khởi đầu
của tuyến đường quốc tế, qua Lào, vào Campuchia 1.
Để chuẩn bị cho việc lật cánh sang Tây, từ năm 1961, Trung ương quyết định
xây dựng Đường 15 từ tỉnh Hòa Bình vào đến Bến Quan (Vĩnh Linh). Đoạn qua
1. Cùng thời gian này, việc nghiên cứu tiếp tế bằng đường biển cũng được đặt ra. Cảng
Thanh Khê (gần cửa Gianh) được chọn làm nơi xuất phát. Tuy nhiên, sau chuyến đi đầu
không thành công (1-1960), Tiểu đoàn 603 dừng hoạt động và sau đó nhập chung vào Đoàn
559.
119
Quảng Bình dài 214km, có 3 bến phà (Xuân Sơn, Long Đại, Thác Cóc), 39 cầu
cống và 37 ngầm. Tiếp theo, năm 1962, Đường 12A được khôi phục 1, nối với
Đường 12B trên đất Lào vào ngã ba Lằng Khằng.
Kết nối những trục đường chiến lược nói trên có hệ thống đường nấc thang.
Đó là tỉnh lộ 1 dài 83km nối ngã ba Ba Đồn (Quảng Trạch) lên ngã ba Pheo (Minh
Hóa), tỉnh lộ 2 dài 20km từ Hoàn Lão lên cầu Bùng (Bố Trạch), đường Chánh Hòa -
Đá Mài dài 11km, đường Đồng Phú - Phú Quý dài 11km, đường Đồng Hới - Cộn
dài 7km, đường Thuận Lý - Cộn dài 7km, đường Quán Hàu - Vĩnh Tuy dài 4km,
đường Phú Thiết (Hưng Thủy) đi Ngư Thủy (Lệ Thủy) dài 7km, … Những tuyến
đường này thuận lợi trong việc cơ động lực lượng trong phạm vi hẹp hoặc chuyển
đổi vị trí chiến đấu từ nơi này sang nơi khác.
Ngoài ra, ở Quảng Bình còn hình thành 3 tuyến đường liên thôn kết nối các
xóm làng:
- Tuyến một: Từ Kỳ Lạc (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) băng qua Rõi, Bưởi (xã Quảng
Hợp, Quảng Trạch) vào Quảng Thạch, Quảng Lưu về Quảng Phong qua đò Phù
Trịch, vượt sông Gianh men theo đồi núi qua Rào Trù, Rào Đá vào nông trường Lệ
- Ninh, vào phía Nam.
- Tuyến hai: Từ Quy Đạt (Minh Hóa) vào Cao Mại (Cao Quảng, Tuyên Hóa)
băng qua Troóc (Phúc Trạch, Bố Trạch) về Gia Hưng, Cự Nẫm, Ba Lòi (xã Tây
Trạch), Sao Đa, Ba Đông (Nam Trạch, Bố Trạch). Đường từ Phú Hữu (Liên Trạch),
Gia Hưng-Vạn Trạch, Phú Vinh (Nghĩa Ninh) lên Đồng Trạng (nơi sơ tán của nhân
dân thị xã Đồng Hới).
- Tuyến ba: từ Cổ Hiền (Hiền Ninh, Quảng Ninh) vào Xuân Ninh, Vạn Ninh,
Hoa Thủy, Sơn Thủy, vào Bang, Vít Thù Lù, …
Những tuyến đường này dù chỉ đắp bằng đất nhưng dọc ngang chằng chịt, có
thể đi lại vào bất cứ thời gian nào, được sử dụng chủ yếu cho những đơn vị hành
quân bộ. Tuy nhỏ hẹp nhưng lại trải rộng trên khắp địa bàn toàn tỉnh nên trong từng
1. Đường 12A có từ trước năm 1945, từ Tân Ấp lên Mụ Dạ giáp biên giới Việt-Lào, dài
74km.
120
thời điểm, tuyến đường liên thôn còn được sử dụng cho xe ô tô vòng tránh các trọng
điểm ác liệt hoặc phân tán hàng hóa giấu trong dân, … khiến hỏa lực đối phương
khó ngăn chặn.
Khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đường 12A bị tập trung
đánh phá nên việc phá bỏ thế độc đạo là yêu cầu cấp thiết. Trung ương chỉ đạo
khẩn trương mở cửa khẩu thứ hai vượt đỉnh Trường Sơn nhằm rút ngắn cung độ đi
xuống Đường 9. Tháng 5-1965, Quảng Bình được Trung ương giao nhiệm vụ
thành lập đội khảo sát mở Đường 20 từ Phong Nha đến Cà Roòng, nối với Đường
129. Trung ương dồn hàng chục chiếc xe máy, hàng trăm tấn bộc phá và điều động
5.000 thanh niên xung phong các tỉnh phía Bắc, kết hợp với bộ đội Trường Sơn,
với trên 8.000 người gấp rút xẻ núi mở đường. Ngày 5-5-1966, Đường 20 1 hoàn
thành, dài 82km có thể phục vụ xe cơ giới vận tải và được bàn giao cho Ban 67 2
thuộc Đoàn 559 phụ trách.
Sau khi Đường 20 ra đời, Mỹ phát hiện và đánh phá ác liệt làm nhiều trọng
điểm bị tắc, nhất là về mùa mưa lũ. Tháng 9-1967, Trung ương quyết định mở
Đường 10 nối Đường 15 từ ngã ba Áng Sơn (huyện Quảng Ninh) vào đến Đường 9,
dài 74km. Nhiệm vụ đặt ra hết sức khẩn trương trong điều kiện địa hình phức tạp,
việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho thi công hầu như con số không. Trung ương điều
hơn 6.000 thanh niên xung phong của các tỉnh phía Bắc và một khối lượng lớn
phương tiện máy móc và trang thiết bị từ Hà Nội vào. Đảm bảo hậu cần cho thi
công Đường 10 do Quảng Bình chịu trách nhiệm. Trong điều kiện chiến tranh phá
hoại của Mỹ diễn ra ác liệt, sản xuất gặp khó khăn, việc đảm bảo đời sống nhân dân
và chi viện chiến trường đã khó, lại thêm chăm lo cuộc sống cho hàng ngàn người
tham gia mở đường hơn một năm trời là nỗ lực rất lớn của địa phương. Đầu năm
1969, Đường 10 hoàn thành và được bàn giao cho Ban 67. Lực lượng trên đường
1. Đường 20 còn gọi là “Con đường Tuổi Hai mươi”, “Đường Quyết thắng”. 2. Ngày 23-4-1967, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quyết định thành lập Ban Xây dựng
67 bên cạnh Tổng cục Tiền phương với nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ lực lượng công nhân,
thanh niên xung phong trên các tuyến 12, 15, 16 và cơ quan Công trường 20 - Quyết
Thắng.
121
còn hai đội Thanh niên xung phong N.39 và N.44 của các tỉnh phía Bắc cùng Đội
công nhân quốc phòng số 2. Đến năm 1971, Đường 10 được nâng cấp, rải nhựa mặt
đường và đổ bê-tông cống ngầm. Lực lượng được điều động gồm 3.000 thanh niên
xung phong (Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Thái Bình), 3.000 công nhân hỏa tuyến (Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) và 1.000 công nhân giao thông, công nhân quốc phòng.
Từ Km45 Đường 10, phải làm thêm 32km, gọi là Đường 18. Đến tháng 12-1972, cả
Đường 10 và Đường 18 được bàn giao cho Đoàn 559.
Năm 1968, để phục vụ chiến dịch giải phóng Khe Sanh, Đường 16 được khôi
phục. Đội Thanh niên xung phong Quyết Thắng (Quảng Bình) và Đội Thanh niên
xung phong Cù Chính Lan (Nghệ An) được giao nhiệm vụ mở rộng đoạn từ Vít
Thù Lù đến Làng Ho, rồi lấn dần vào Dốc Khỉ, sử dụng cho xe cơ giới. Tỉnh ủy
Quảng Bình thành lập Công trường Thống Nhất A, điều Tiểu đoàn 45 và đại đội
363, 365 bộ đội địa phương, đội thanh niên xung phong Quyết Thắng, đội xung
phong Cù Chính Lan và 180 công nhân Công trường 12A thi công. Đoạn từ Vít
Thù Lù đến Làng Ho vào Dốc Khỉ dài 44km, được mở rộng, sử dụng cho xe cơ
giới. Từ Dốc Khỉ, ta mở 40km đường gùi thồ vươn đến bắc sông Sê Păng Hiêng.
Tiếp theo, tỉnh huy động Tiểu đoàn 70 hỏa tuyến tham gia mở tuyến Thống Nhất
B ở nam Sê Păng Hiêng, nối liền hậu phương Quảng Bình với tiền tuyến Trị -
Thiên. Con đường này đã góp phần to lớn trong việc chuyển quân thực hiện chiến
dịch giải phóng Khe Sanh 1968.
Việc mở được những con đường này là một kì công, với bao mồ hôi, công sức,
vật lực và máu nhưng việc đảm bảo cho nó luôn được lưu thông là nhiệm vụ rất
nặng nề, mang tính thường trực của các lực lượng trên đường cũng như trách nhiệm
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, quân và dân Quảng Bình. Hàng hóa và nhân lực
từ miền Bắc chi viện cách mạng miền Nam vào đến Quảng Bình sẽ theo những
tuyến đường ngang này sang Lào, sau đó được chuyển tiếp đến các chiến trường.
Như vậy, mặc dù không phải là điểm mở đầu nhưng Quảng Bình dần trở thành
trung tâm của tuyến đường Trường Sơn, là “trạm dừng chân”, “kho trung chuyển”
chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc trước khi vào chiến trường
122
miền Nam, đồng thời là điểm khởi đầu của tuyến đường “quốc tế hóa” qua Lào và
Campuchia. Mặt khác, Quảng Bình còn đóng vai trò là hậu cứ, nơi dừng chân, trú
quân của nhiều đơn vị chủ lực trước khi hành quân vào chiến trường hoặc rút ra để
nghỉ ngơi, củng cố lực lượng sau mỗi chiến dịch. Thương - bệnh binh, những người
có sức khỏe yếu từ chiến trường ra hoặc chuyển công tác về hậu phương, đều lưu lại
ở Quảng Bình một thời gian trước khi chuyển ra Bắc.
Ngoài các tuyến đường bộ nói trên, từ giữa năm 1968, Quảng Bình tham
gia phục vụ thi công tuyến đường ống xăng dầu vượt sông Gianh, theo Đường 12
qua Lào, vào đến Bắc Đường 9 (tuyến Vinh - Ka Vát). Nhờ vậy, việc cung cấp
xăng dầu cho Đoàn 559 ở Tây Trường Sơn ổn định với khối lượng lớn, mỗi ngày
từ 200 đến 300 tấn (trong khi trước đó, muốn đưa 100 tấn xăng dầu từ Vinh vào
Ka Vát phải sử dụng 30-35 xe ô tô, cả đi lẫn về mất 12-15 ngày, chưa kể tổn
thất) [110, tr. 28].
Trên địa bàn Quảng Bình, hệ thống sông ngòi khá dày đặc, chủ yếu chảy theo
hướng Tây - Đông, tạo ra sự chia cắt địa hình, gây trở ngại cho công tác vượt sông,
nhất là trong điều kiện mưa lũ, địch đánh phá ác liệt. Tuy nhiên, khắc phục bất lợi
và tận dụng, phát huy yếu tố thuận lợi của điều kiện tự nhiên cũng được quân dân
Quảng Bình tính đến. Một số đoạn sông được khảo sát sử dụng làm tuyến vận tải
như thượng nguồn sông Gianh và sông Nhật Lệ nhằm tăng khối lượng hàng hóa vận
chuyển nhưng giảm được công sức và chi phí xây dựng hoặc sửa chữa. Cụ thể, năm
1968, Đoàn 559 sử dụng nhánh sông Son để vận chuyển xăng từ sông Gianh lên
Đường 20 rồi chuyển tiếp vào chiến trường. Hoặc năm 1972, khi đèo Ngang bị
phong tỏa, nhánh sông Rào Trổ được sử dụng để thả trôi hàng từ Kỳ Thượng (Kỳ
Anh, Hà Tĩnh) về Minh Cầm (Tuyên Hóa). Riêng sông Nhật Lệ được sử dụng để
vận chuyển hàng từ cảng Nhật Lệ đưa vào phía Nam tỉnh (đi theo nhánh Kiến
Giang) hoặc theo nhánh Long Đại đi sâu vào vùng núi phía tây nam, nơi có các
chân hàng của Đoàn 559. Tuyến đường thủy này đặc biệt phát huy hiệu quả vận
chuyển, nhất là vào những thời điểm Quốc lộ 1 và Đường 15 bị tắc.
123
Về cuối năm 1965, mức độ đánh phá của Mỹ tăng lên, các bến phà Roòn,
Gianh, Xuân Sơn, Quán Hàu và Long Đại đều bị phong tỏa. Hơn 2.800 phương tiện
vận tải thủy của các hợp tác xã Cảnh Dương (Quảng Trạch), Lý Hòa, Thanh Trạch
(Bố Trạch), Hồng Vận (Đồng Hới), … bị phá hủy hoàn toàn. Hệ thống vận tải
đường thủy bị tê liệt. Hàng hóa từ miền Bắc vào có khi ách tắc hàng tuần lễ.
Trước tình hình đó, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình chủ trương: “Việc rà phá
bom mìn phải trên cơ sở phát động quần chúng tham gia, lấy lực lượng vũ trang
làm nòng cốt, có sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn kĩ thuật. Các cấp các ngành
tăng cường chỉ đạo chặt chẽ, bám sát cơ sở. Dù trong tình huống nào, địch tập
trung đánh phá ác liệt đến đâu vẫn phải đảm bảo đường sá, phương tiện, hàng hóa
thông suốt. Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, động viên khả năng của toàn dân, phát
huy tính tích cực vai trò xung kích của các đội chuyên trách chủ lực, hiệp đồng giữa
các tuyến, sẵn sàng chuẩn bị tuyến này tắc có tuyến khác hoạt động …. Tập trung
trong một thời gian ngắn, các nhóm đan thuyền nan, thuyền gỗ buộc mây hoặc đóng
đinh nhôm, đinh đồng để giải quyết công tác vận chuyển” [166].
Thực hiện chủ trương trên, chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng rà phá bom
mìn được tổ chức, huấn luyện. Mỗi xã thành lập một đội chuyên trách, mỗi
huyện có một đội chủ lực phụ trách các trọng điểm và ứng cứu các xã. Hệ thống
đài quan sát bom từ trường được thiết lập ở bến phà, cửa sông, ngã ba sông. Ở
những trọng điểm, lực lượng rà phá phối hợp với các đơn vị công binh của Bộ và
Quân khu, tiến hành bằng phương pháp thô sơ là chủ yếu như dùng nam châm
khung điện, bộc phá, ca nô lắp máy phóng từ kích nổ, … Trong đó nổi lên là
hoạt động của đội rà phá bom mìn Thị xã Đồng Hới, có đợt phá được 300 quả
bom từ trường, dân quân các xã hai bên sông Gianh bất chấp nguy hiểm, lập đài
quan sát để đánh dấu bom từ trường, chỉ điểm cho lực lượng chuyên trách rà phá
có hiệu quả. Các xã Đồng Trạch, Sơn Trạch, Hưng Trạch, Bắc Trạch (Bố Trạch),
Bảo Ninh (Đồng Hới), Vĩnh Ninh (Quảng Ninh) thực hiện “3 nhất”: Nghiên cứu
tìm tòi nhiều biện pháp phá bom hiệu quả nhất, giải phóng đường nhanh nhất,
bảo đảm an toàn nhất [164, tr.163], …
124
Thời gian đầu, mỗi khi cầu bị đánh sập là ta khẩn trương tìm cách để bắc lại.
Tuy nhiên, cách làm này vừa tốn kém về thời gian và nhân lực nhưng lại không đảm
bảo bởi có lúc chưa kịp hoàn thành thì lại bị đánh sập tiếp. Ngày 25-11-1965, Liên
bộ Quốc phòng và Giao thông có chủ trương quân sự hóa khâu vượt sông. Đối với
cầu lớn, ta chuyển thành phà, những cầu nhỏ chuyển thành ngầm và bố trí lực lượng
pháo cao xạ nhất định để bảo vệ. Trên các đường phải có sẵn phà dự phòng để cầu
hỏng có phà đưa vào sử dụng ngay. Nhờ đó, sau thời gian đầu lúng túng vì không
kịp thời sửa chữa, cầu không còn là vấn đề lớn đối với công tác vận chuyển mà lúc
này quan trọng hơn là việc vượt sông như thế nào cho có hiệu quả. Quảng Bình
thành lập Tổng đội vượt sông bên cạnh Ty Giao thông để chỉ huy các bến phà. Các
bến phà được tổ chức quân sự hóa, mỗi huyện đội phụ trách một vài bến hoặc cầu
quan trọng 1. Để có thể vượt sông trong mọi tình huống, mỗi bến phà có 2 bến chính
và 2 đến 3 bến phụ (riêng bến phà Roòn lúc cao điểm có tới 4 bến).
Để thay thế phà chính bị đánh hỏng, chưa kịp sửa chữa hoặc thay thế, quân
dân Quảng Bình có sáng kiến dùng 2 thuyền đánh cá ghép lại thành một chiếc phà
gỗ, ban ngày tháo rời đem cất dấu, ban đêm ghép lại làm phà. Ở phà Gianh có sáng
kiến làm “phà dìm”. Trên phà có cơ cấu một hệ thống nước ra vào được, ban ngày
bơm nước vào dìm xuống dưới mặt nước, ban đêm tháo nước ra đưa phà nổi lên
hoạt động. Phà Quán Hàu dùng 6 mảng cầu phao ghép lại thành phà, gọi là phà càng
cua, ban đêm chở xe qua, ban ngày tháo rời đem cất giấu. Ở phà Long Đại, xí
nghiệp X200 đóng thuyền theo kiểu làm hai mảng dọc, tối ghép lại cho xe qua, ban
ngày tháo ra cất. Ở Xuân Sơn, phà được ghép làm cầu phao quân sự, ban ngày kéo
vào động Phong Nha cất giữ. Ngoài ra, tại các bến luôn dự trữ các phương tiện như
phà, ca nô; vật liệu như đất, đá, gỗ; bố trí lực lượng gồm nhân công sửa chữa và đội
quan sát, rà phá bom nổ chậm, bom từ trường. Do đó, sau mỗi trận đánh, công tác
khắc phục hậu quả cũng như kịp thời phát hiện, xử lí các loại bom chưa nổ dần đi
vào nề nếp.
1. Huyện đội Quảng Trạch phụ trách bến Roòn, sông Gianh. Huyện đội Bố Trạch phụ trách
bến phà Xuân Sơn, Lý Hòa. Thị đội Đồng Hới phụ trách cầu Dài. Huyện đội Quảng Ninh
phụ trách bến Long Đại, Quán Hàu. Huyện đội Lệ Thủy phụ trách bến phà Thác Cóc.
125
Để đối phó với mức độ đánh phá ngày càng tăng, nhất là khi Mỹ sử dụng thủy
lôi và bom từ trường phong tỏa cửa sông, bến phà, các địa phương đã tổ chức đội rà
phá bom, đội trinh sát, tổ liên lạc để phát hiện thủy lôi. Đầu năm 1967, Tỉnh Quảng
Bình lập Đội công binh 73 (thuộc Thị đội Đồng Hới), Đội công binh 74 (Lệ Thủy),
75 (Bố Trạch), 76 (Quảng Trạch). Đến tháng 3-1967, 4 đội trên được nhập lại một,
lấy tên là Đội rà phá bom mìn Tỉnh đội Quảng Bình, gồm 57 người, chia làm 7 tiểu
đội, bố trí đều trên 7 huyện, thị.
Trong năm 1968, Mỹ thả trên 4.000 quả bom từ trường xuống sông Gianh và
sông Nhật Lệ. Có những đoạn, thủy lôi dày đặc, không thể phá hết được. Lực lượng
tại chỗ chỉ có thể rà phá một luồng rộng khoảng 30m để ca nô và thuyền vận tải đi
được. Tại cồn La Hà (Quảng Văn), công nhân Công ty vận tải thủy phải thường
xuyên dắt thuyền đi vòng vèo để tránh bom từ trường. Ở Minh Lệ, ta sử dụng ca nô
vận tốc cao chạy qua các bãi bom để kích nổ. Nhiều người đã hi sinh. Cách phá
bom đơn giản mà hiệu quả nhất là do chính Mỹ tạo ra, như ở cửa Nhật Lệ, bom từ
trường dày đặc mà ta chưa tìm ra cách phá hết, khi pháo từ Hạm đội 7 từ khơi bắn
vào đã kích nổ nhiều bom. Phát hiện điều này, Tỉnh đội Quảng Bình đã đưa cối
120ly đặt trên bờ bắn xuống kích bom nổ. Các đội công binh 49, 73, 74, 75 và dân
quân các xã Quảng Minh, Quảng Văn, Quảng Lộc, … nêu khẩu hiệu “phá được một
quả bom là diệt một tên Mỹ, dọn được một bãi bom là thắng một trận”, đã sáng tạo
ra nhiều cách phá bom táo bạo. Ban đầu, quân dân tại chỗ mò mẫm nghiên cứu cách
vô hiệu hóa các loại bom này bằng cách sử dụng mọi thứ phương tiện sẵn có như
lưỡi cày, lưỡi cuốc, thỏi sắt, mảnh bom, thùng phuy, … để phá bom. Qua năm 1968,
Bộ Giao thông và Cục Công binh phổ biến nguyên lí phá bom, việc chế ngự các loại
bom này dễ dàng hơn. Tỉnh thành lập các đội rà phá bom từ trường và thủy lôi, lấy
tên là “Đội F73”. Đội được huấn luyện kĩ về kĩ thuật, trang bị dụng cụ phá bom
tương đối hiện đại do ta chế tạo như khung dây BĐ67, PB1/5, PC, AR, … Đội được
chuẩn bị tốt về tư tưởng, mạnh về tổ chức và số lượng đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Để rà phá bom từ trường ở những khu vực trọng điểm, công tác tổ chức hiệp
đồng lực lượng rất chặt chẽ, có bộ phận rà phá bom, bộ phận lấp hố bom và sửa
126
chữa đường cũ, có bộ phận làm đường mới, đường vòng tránh, có bộ phận ngụy
trang và nghi binh, có bộ phận điều chỉnh giao thông và chỉ huy xe vượt trọng điểm.
Đội được bố trí gần trọng điểm, có công sự hầm hào tốt để có thể thường xuyên
bám bến, bám đường, kịp thời ứng cứu, sửa chữa khi địch đánh phá. Với nhiều biện
pháp như vậy, bom từ trường Mỹ dần bị vô hiệu hóa.
Tuy nhiên, từ tháng 5-1972, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai, gần như toàn bộ tuyến đường thủy ở Quảng Bình bị phong tỏa. Hàng hóa
vào chiến trường chỉ đạt 64% kế hoạch. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Quảng Bình ra
Nghị quyết số 09 xác định “giao thông vận tải trở thành công tác trung tâm đột
xuất. Vô luận trong tình hình thế nào cũng phải tập trung sức lực hoàn thành nhiệm
vụ chi viện cho tiền tuyến” [163, tr. 283]. Để thực hiện, Tỉnh ủy chủ trương “phát
động chiến tranh nhân dân tập trung dồn sức vào mặt trận giao thông vận tải, lấy
chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại giao thông vận tải của địch.
Phải quân sự hóa lực lượng và bộ máy đảm bảo giao thông vận tải từ trên xuống
tận cơ sở” [32, tr. 4]. Để tăng cường thống nhất chỉ đạo giữa địa phương với Đoàn
559 nhằm kịp thời huy động lực lượng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Sư
đoàn hậu cứ 571, cử ông Trần Sự (Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh Quảng Bình) tham gia
giữ chức vụ Phó Tư lệnh. Đồng thời, Thường vụ Tỉnh ủy thành lập Ban Cán sự đảm
bảo giao thông vận tải, do ông Trần Sự làm Trưởng ban, ông Phan Khắc Hy (Tư lệnh
Sư đoàn 571) làm Phó ban, bổ sung cho mỗi binh trạm của Sư đoàn 571 một Phó Ty
Giao thông vận tải, đưa các lực lượng vận tải của địa phương kết hợp với các binh
trạm theo hướng quân sự hóa.
Ngoài các đơn vị đảm bảo giao thông chủ lực, “từng địa phương từng huyện,
từng xã chịu trách nhiệm đảm bảo từng đoạn đường, khúc sông trong phạm vi địa
phương mình, tổ chức các đội công binh trong dân quân để canh gác, rà thủy lôi,
phá bom nổ chậm, hướng dẫn luồng lạch, tuyến đường cho tàu xe qua lại thông
suốt, nhanh chóng chuẩn bị sẵn nguyên vật liệu dự trữ để khi cầu đường hư hỏng
kịp thời sửa chữa thông đường thông tuyến” [32, tr. 6]. Tất cả các lực lượng ở
Quảng Bình được huy động cùng lực lượng giao thông, bộ đội công binh, các binh
127
trạm của Sư đoàn 571 dồn sức sửa cầu, làm ngầm, mở đường vòng tránh, nới rộng
các đoạn đường hẹp để thông tuyến. Nhằm tránh tập trung lực lượng và phương tiện
vào một điểm, các địa phương mở thêm nhiều bến đò ngang. Phà Gianh mở thêm
hai bến từ Hạ Trạch sang Quảng Thuận, Mỹ Trung đi Cồn Nâm. Phà Quán Hàu có
bến Phú Bình - Hữu Thiệp và Vĩnh Tuy - Diên Trường. Bến Roòn di chuyển lên
Lèn Sơn (Quảng Phú - Quảng Trường). Phà Long Đại mở thêm bến Long Đại -
Đồng Tư, … Để thống nhất chỉ huy, đảm bảo kịp thời ứng phó với tình hình, các địa
phương phân công một Phó chủ tịch và một cán bộ huyện đội chuyên trách công tác
đảm bảo giao thông, đồng thời giao cho cơ quan quân sự chịu trách nhiệm theo dõi,
chỉ huy ứng cứu giao thông trên địa bàn mình. Mỗi địa phương tổ chức một đội
vận tải thủy, gồm những dân quân, xã viên có kinh nghiệm sông nước, do cán bộ
quân sự chỉ huy. Xí nghiệp tàu thuyền Đồng Hới chuyển sang sản xuất phà, phao,
thuyền vận tải. Xí nghiệp đánh cá Nhật Lệ chuyển các đội thuyền máy sang làm
nhiệm vụ vận tải.
Để đảm bảo cho Quảng Bình hoàn thành trọng trách nặng nề, Trung ương đã
hỗ trợ tối đa và kịp thời các lực lượng cũng như phương tiện cần thiết. Sát cánh
cùng nhân dân địa phương, ngày 18-5-1972, công binh khu vực hải quân sông
Gianh mở thông luồng Gianh - Hòn La lần thứ nhất, tạo điều kiện chuyển tải
nhanh chóng hàng chi viện từ tàu Trung Quốc đang đậu ở cảng Hòn La. Khi Mỹ
thả thủy lôi MK42, công binh hải quân đã nghiên cứu các thiết bị phóng từ làm vô
hiệu hóa “kẻ hủy diệt” nguy hiểm này. Các trung đoàn công binh 299 cầu đường
và 269 vượt sông đảm bảo hoạt động trên Đường 15, … Các đơn vị thanh niên
xung phong 12/9, 235, 241 của Nghệ An, C235 của Thanh Hóa, Công trường 71D
của Hà Tây, … ngày đêm bám trụ, sát cánh cùng nhân dân Quảng Bình đảm bảo
giao thông được thông suốt.
Như vậy, theo thời gian, hệ thống giao thông chiến lược phục vụ công tác chi
viện chiến trường miền Nam trên đất Quảng Bình ngày càng mở rộng, hình thành
nên mạng lưới thủy bộ hoàn chỉnh, với nhiều cấp độ đường bổ sung cho nhau nhằm
thực hiện mục tiêu cao nhất là luôn đảm bảo chuyển tải sức mạnh từ hậu phương
lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam một cách thông suốt.
128
3.2.2. Vận tải chi viện chiến trường
Do vị thế Quảng Bình án ngữ điểm hiểm yếu nhất của tuyến vận tải chiến
lược chi viện chiến trường miền Nam nên việc vận tải không chỉ là nhiệm vụ của
các đơn vị vận tải chuyên trách mà nó được cấu thành một cách liên hoàn từ lực
lượng chiến đấu bảo vệ kho hàng, bến bãi, bảo vệ tuyến đường đến các lực lượng
xung kích hợp đồng thực hiện công tác vận tải. Đó cũng chính là các lực lượng
đang tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân và là bộ phận cấu thành của chiến tranh
nhân dân.
Đối với công tác chi viện chiến trường miền Nam, Hội nghị liên tịch Bộ Tư
lệnh Quân khu 4 (đầu tháng 5-1965) nhấn mạnh: “Tận dụng khả năng tiềm tàng vận
tải trong nhân dân và các hợp tác xã chuyên nghiệp. Tổ chức lực lượng vận tải
quốc doanh đường thủy. Tăng cường khả năng ô tô cho công tư hợp doanh để kịp
thời xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đảm bảo nhu cầu vận chuyển. Cần xác định
tính chất quyết định của lực lượng vận tải thô sơ cải tiến trong nhân dân, nhất là
đối với thuyền sông, xe đạp thồ” [145, tr. 139].
Nghị quyết của Tỉnh ủy Quảng Bình (cuối tháng 5-1965) chỉ rõ: “Chi viện cho
miền Nam là nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh ta, là trách nhiệm và là vinh dự chung của
cả miền Bắc, hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Nhưng riêng với tỉnh ta, ở vào vị trí
tiếp giáp của chiến trường miền Nam, là địa bàn để chuyển tiếp mọi chi viện của
miền Bắc cho miền Nam, cho nên tỉnh ta có nghĩa vụ không những phải trực tiếp góp
phần của cả miền Bắc cho miền Nam, mà còn có trách nhiệm nặng nề to lớn phải
đảm bảo mọi vận chuyển vào miền Nam được thông suốt, nhanh chóng, an toàn” [13,
tr. 13]. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, sức mạnh toàn dân phải được phát
huy cao độ bởi “giao thông vận tải thời chiến là giao thông vận tải của nhân dân,
phải dựa hẳn vào dân, phát động quần chúng rộng lớn tham gia, trong đó các lực
lượng của ngành giao thông vận tải và các lực lượng vũ trang ở địa phương làm
nòng cốt” [145, tr. 141].
Tháng 10-1965, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Ban điều hòa vận
tải Trung ương do Phó Thủ tướng Đỗ Mười làm Trưởng ban, chỉ đạo công tác chi
129
viện tiền tuyến. Ban đảm bảo giao thông tỉnh Quảng Bình do Phó Chủ tịch Ủy ban
Hành chính tỉnh Nguyễn Hữu Duật làm Trưởng ban; Trưởng ty Giao thông vận tải,
Tỉnh đội phó, Phó trưởng ty Công an, Trưởng ty Bưu điện và cán bộ Ủy ban Kế
hoạch, Thương nghiệp, Tỉnh đoàn thanh niên là ủy viên. Từ đây, các ngành có liên
quan chuyển phương thức hoạt động phù hợp, đáp ứng yêu cầu của chiến trường.
Về phương tiện vận chuyển đường bộ, ngoài phương tiện của Bộ Quốc phòng,
các lực lượng giao thông và nhân dân Quảng Bình đảm nhiệm phần lớn công tác
vận chuyển chiến lược. Tháng 10-1965, Bộ Giao thông vận tải chuyển Xí nghiệp
Công tư hợp doanh ô tô thành Công ty ô tô quốc doanh Quảng Bình và tăng cường
cho công ty mỗi năm 20-50 xe các loại. Năm 1971, công ty có 150 xe và qua năm
1972 lên đến 270 xe. Với số lượng xe không ngừng tăng đó, ngoài tiếp nhận hàng từ
các đầu mối ở miền Bắc chuyển về địa phương, Công ty cơ bản đảm nhiệm phần
lớn chuyên chở hàng hóa qua địa bàn. Phối hợp với Quảng Bình, Bộ Giao thông vận
tải còn thành lập Công ty ô tô số 8 chuyên hoạt động từ nam Gianh trở vào, vận
chuyển gạo và hàng hóa vào các cửa khẩu giao cho Đoàn 559. Ở phía nam Quảng
Bình còn có Công ty ô tô Vĩnh Linh tham gia vận chuyển. Ngoài ra, khi có những
chiến dịch đột xuất, Bộ tăng cường thêm công ty vận tải ô tô số 16, 32, … tham gia.
Ban đầu, do bố trí phương tiện không hợp lí nên xe chuyển thường chạy một
mạch từ Trung ương vào giao hàng tại các kho của Đoàn 559. Vì phải chạy trên
quãng đường dài nên khi bị ứ đọng, không giải phóng được, xe phải nằm chờ 2-3
ngày, nhất là khi đường bị ách tắc thì phải nằm chờ hàng tuần. Để nhanh chóng đưa
hàng đến đích, đúng và đủ số lượng, đảm bảo ít bị thiệt hại, nhiều sáng kiến được
đưa ra, trong đó có việc bố trí lại, phân công địa bàn và trách nhiệm cụ thể cho từng
đơn vị vận tải, từng công ty sắp xếp lại tổ chức phù hợp với thời chiến, chia làm
nhiều tổ lái xe, phân tán nhiều nơi, triển khai nhiều hướng. Để đảm bảo chuyên chở
hàng hóa qua các bến phà nhưng vẫn giữ được an toàn, thay vì đưa nguyên xe hàng
qua sông thì dùng thuyền chuyên chở hàng, ô tô chỉ hoạt động theo cung độ giữa hai
bến phà với khẩu hiệu: “Chuẩn bị phía trước, rước hàng phía sau”, “với về sau,
lao mau về phía trước”. Xe của Trung ương chỉ chuyển hàng đến địa phương còn
130
địa phương đảm bảo việc trung chuyển. Khi gặp ách tắc chỗ nào thì sẽ thả hàng tại
đó, giao cho địa phương bảo quản và tận dụng các phương tiện khác để chuyển đi,
còn xe quay đầu thực hiện chuyến hàng khác. Như vậy, hàng sẽ không bị ứ đọng và
số lần quay đầu xe nhanh hơn.
Đảm bảo cho phương tiện hoạt động có các xưởng sửa chữa. Về Bộ Quốc
phòng có xưởng A1, Bộ Giao thông vận tải có xưởng A2, tỉnh Quảng Bình tổ chức
xưởng A3. Mỗi khi có xe hỏng ở đâu, lực lượng sửa chữa kịp thời được điều động
đến khắc phục. Tỉnh gấp rút mở lớp đào tạo lái xe để bổ sung cho số bị thương
hoặc hi sinh.
Trong một số trường hợp, khi yêu cầu khẩn cấp mà đường sá bị đánh hỏng, ô tô
không di chuyển được, tỉnh huy động nhiều phương tiện thô sơ tham gia vận chuyển,
như xe đạp, xe cải tiến, xe cút kít, … Năm 1968, khi Mỹ “xuống thang”, tập trung
đánh phá vùng “cán soong”, có thời điểm hầu như các tuyến đường ở Quảng Bình
đều bị tắc, xe ô tô không thể hoạt động được. Trước tình hình đó, tỉnh chủ trương mở
tuyến xe đạp thồ để chuyển tải hàng hóa từ nam Gianh vào Đồng Hới và Lệ Thủy.
Ban Chỉ huy đảm bảo giao thông vận tải tổ chức hơn 600 cán bộ, công nhân viên
thành 2 tiểu đoàn xe đạp thồ vận chuyển trên hai tuyến nam Gianh - kho Mỹ Trạch -
Vĩnh Tuy và nam Long Đại - Mỹ Đức. Phương tiện vận tải của chiến thắng Điện
Biên Phủ tưởng như “hết thời” nay lại tiếp tục phát huy hiệu quả. Mỗi chuyến xe thồ
chở trung bình 1 tạ gạo, men theo các đường liên thôn, liên xã trong một thời gian
ngắn chuyển tải vào chiến trường hơn 2.000 tấn gạo.
Về phương tiện vận chuyển đường thủy. Xuất phát từ đặc điểm sông ngòi
Quảng Bình, bên cạnh các tuyến đường bộ, vận chuyển bằng đường thủy được chú
trọng. Trước hết, để san sẻ gánh nặng với tuyến đường bộ và trong điều kiện đường
biển bị phong tỏa, tàu lớn không vào được, tháng 9-1965, tỉnh thành lập Công ty
vận tải biển và Công ty vận tải sông Quảng Bình. Thủy thủ của 2 công ty được
tuyển chọn từ những xã viên hợp tác xã ngư nghiệp và phương tiện vận chuyển là
các thuyền giã đôi được cải hoán lại. Qua năm 1967, do các thuyền giã đôi bị đánh
phá gần hết nên tỉnh sáp nhập hai công ty lại thành Công ty vận tải thủy. Phương
131
tiện vận tải phải chuyển sang đóng loại thuyền 5-7 tấn, trang bị thêm ca nô để lai
dắt. Phạm vi hoạt động chủ yếu của công ty là từ bắc qua nam sông Gianh và từ
Đồng Hới theo sông Nhật Lệ đến nam Long Đại.
Sát cánh với Công ty vận tải thủy còn có lực lượng vận tải của các hợp tác xã.
Về đường biển có hợp tác xã Cảnh Dương, Hồng Phúc (Quảng Trạch), Hồng
Quang, Hồng Hải (Bố Trạch), Hồng Vận (Đồng Hới). Về đường sông có hợp tác xã
Thanh Châu (Tuyên Hóa), Thái Hòa (Quảng Trạch), Liên Hồng (Đồng Hới), Bình
Minh (Quảng Ninh), Liên Giang (Lệ Thủy). Với tinh thần “chân đạp thủy lôi, đầu
đội bom tọa độ”, xã viên các hợp tác xã này dũng cảm bất chấp bom đạn Mỹ, tham
gia vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh phía ngoài vào Quảng Bình rồi chuyển tiếp đi
các nơi trong tỉnh, trong đó nổi bật là sự tham gia của các hợp tác xã Cảnh Dương,
Bình Minh và Hồng Vận. Nhiều xã viên đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Từ
tháng 10-1966, khi Mỹ thực hiện chiến dịch Rồng Biển, nhiều thuyền đánh cá bị
bắn hỏng, nhiều ngư dân bị bắt hoặc thương vong, Tỉnh chủ trương tạm dừng đánh
bắt cá trên biển, chuyển ngư dân sang làm nhiệm vụ vận tải. Những thuyền đánh cá
có trọng lượng 3-4 tấn dễ ngụy trang và hoạt động trong các luồng lạch. Hưởng ứng
chủ trương trên, bà con ngư dân đã tích cực tham gia. Toàn tỉnh huy động được 698
thuyền các loại (trong đó: Quảng Trạch: 179 chiếc, Bố Trạch: 326 chiếc, Quảng
Ninh: 102 chiếc, Đồng Hới: 91 chiếc) tham gia vận chuyển hàng hóa từ cảng Gianh
và Đồng Hới lên cửa khẩu Đường 10 và Đường 20.
Về phương thức vận chuyển. Để tiếp nhận và trung chuyển phần lớn hàng hóa
từ miền Bắc vào chiến trường, ở Quảng Bình, Đoàn 559 thành lập Tổng kho R
(765) ở khu vực Hóa Tiến (Minh Hóa); Tổng kho NH ở khu vực Phong Nha - Xuân
Sơn (Bố Trạch) và Tổng kho HC ở khu vực Xuân Bồ (Lệ Thủy). Quảng Bình chia 4
cung đoạn vận chuyển: Từ Đèo Ngang đến phía Bắc sông Gianh, từ phía nam sông
Gianh đến Quán Hàu và Long Đại, từ đây hàng theo Quốc lộ 1A vào Hạ Cờ (Bắc
Vĩnh Linh) và theo Đường 15 chuyển lên Đường 10 và Đường 16.
132
Ngoài các kho hàng chính, hầu như địa phương nào ở Quảng Bình cũng là địa
điểm cất giấu hàng hóa. Xe chỉ chở hàng vào đến sông Gianh trút xuống bờ Bắc, lực
lượng tại chỗ dùng thuyền chở tiếp qua bờ Nam. Nhiều đêm trên các bến bãi, gạo,
vải, phuy xăng, hòm đạn chất thành đống, dễ trở thành mục tiêu của máy bay Mỹ.
Để nhanh chóng giải tỏa và đảm bảo an toàn cho hàng trước khi trời sáng, Huyện ủy
Quảng Trạch đề ra nguyên tắc quản lí: “Đảng ủy xã là chủ hàng, dân quân là công
nhân bốc xếp, nền nhà dân là kho tàng”. Trong thời chiến gian khổ, thiếu thốn đủ
bề nhưng người dân Quảng Bình luôn giữ được phẩm chất cao quý: “Cho không
lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”. Nhờ vậy, hàng chi viện chiến
trường không bao giờ bị thất thoát. Những hành động cách mạng đó không chỉ xuất
hiện trong một xã, một huyện mà nhanh chóng lan rộng thành phong trào quần
chúng trong tỉnh. Ở Bắc sông Gianh có xã Quảng Thuận là nơi đầu mối chuyển tải,
tất cả nhà dân, lùm cây, bờ rào là kho bãi chứa hàng. Các xã như Quảng Phúc,
Quảng Phong, Quảng Trường, Cảnh Hóa, ... cũng tương tự. Bất luận là hàng gì từ
miền Bắc đưa vào (như lương thực, thực phẩm, quân trang, vũ khí, thuốc men, …),
đều được phân tán rải rác trong nhân dân nhưng không hề bị mất mát.
Từ trong việc đảm bảo chi viện chiến trường xuất hiện những tấm gương về sự
hi sinh cao cả. Tháng 7-1966, 10 xe vận tải trên đường qua Võ Ninh (Quảng Ninh)
thì bị máy bay Mỹ đánh chặn khiến đường hỏng nặng. Xe phải sơ tán trong dân.
Đảng ủy xã Võ Ninh huy động nhân dân ngụy trang xe và họp phiên bất thường bàn
cách thông đường. Tư tưởng chỉ đạo mà Đảng ủy xã đưa ra là “xe chưa qua, nhà
không tiếc”. Tối hôm đó, Đảng ủy kêu gọi các gia đình có phương tiện hay vật liệu
gì thì đưa ra cứu đường. Bí thư Đảng ủy Phạm Đình Dương đã tự tay dỡ nhà mình
đầu tiên, lấy vật liệu lót đường. Chị Trần Thị Mai ở thôn Trúc Ly tuy có chồng đi
chiến trường B cũng tự nguyện tháo nhà lấp hố bom. Từ chỗ “đảng viên đi trước,
làng nước theo sau”, nhiều gia đình xung phong hiến nhà cho việc giải phóng mặt
đường. Đảng ủy và Ủy ban xã phải hội ý và chọn ra 37 gia đình để tháo dỡ nhà. Sau
một đêm lao động khẩn trương, đường được thông. Từ Võ Ninh, khẩu hiệu hành
động “xe chưa qua nhà không tiếc” lan nhanh ra Quảng Bình và các địa phương
133
khác trên miền Bắc. Mẹ Trần Thị Choàng (xã Quảng Thuận) cho dân quân dỡ nhà
lấy vật liệu lót đường. Trên 150 gia đình ở xã Đức Trạch và Hải Trạch (Bố Trạch)
tình nguyện dỡ nhà lấy vật liệu đảm bảo thông xe ở hai đầu cầu Lý Hòa.
Từ tháng 4-1968, Mỹ tập trung đánh phá vùng “cán soong”, khiến có thời
điểm các đầu mối, chân hàng, cửa khẩu và xe bị tắc. Lực lượng thanh niên xung
phong lúng túng trong việc xử lí thông tuyến như ở các ngầm Trà Ang, Chà Là, Ca
Tang, Bãi Dinh, ... Trước tình hình đó, nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải tăng
cường chi viện tiền tuyến trở thành nhiệm vụ chiến lược của toàn dân và càng trở
nên cấp bách, ngày 12-4-1968, Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình ban hành 12
điều kỉ luật trong việc thực hiện nhiệm vụ giao thông vận tải, trong đó coi “tham
gia công tác giao thông vận tải là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn dân” [192].
Ngày 21-7-1968, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân khu
4: “Đảm bảo giao thông vận tải là công tác trung tâm đột xuất lúc này. Trên địa bàn
Quân khu 4, công tác ấy càng trở nên cực kỳ quan trọng. Bằng mọi cách cần phải cố
gắng vượt bậc, tranh thủ từng ngày, từng giờ đảm bảo cho kỳ được giao thông thông
suốt để khỏi ảnh hưởng đến nhiệm vụ của tiền phương” [57, tr. 235]. Ngày 2-8-1968,
Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải ở Khu 4. Ở
các tỉnh có Ban bảo đảm giao thông vận tải. Bộ và các ban này có nhiệm vụ “tổ chức
và chỉ huy toàn bộ công tác bảo đảm bảo giao thông và vận tải thời chiến trong khu
vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Vĩnh Linh nhằm bảo đảm vận chuyển tiếp tế
cho tiền tuyến” và “chỉ đạo công tác đánh địch, điều chỉnh các lực lượng phòng
không để hạn chế phá hoại của máy bay địch. Bảo vệ các trọng điểm giao thông vận
tải, bảo vệ tốt các nơi cất giấu phương tiện vận tải, phương tiện vượt sông, các kho
chân hàng, bảo vệ đường sá và cầu cống” [89, tr. 246].
Quán triệt chỉ đạo của Trung ương và Bộ Quốc phòng, Quảng Bình đẩy mạnh
“Tranh thủ thời cơ vận tải” phục vụ chiến trường. Trên các tuyến phía Đông, Tỉnh
ủy thành lập Ban đảm bảo giao thông vận tải từ tỉnh xuống đến cấp xã, chỉ đạo huy
động toàn dân bảo vệ cầu đường, khúc sông, bến cảng thông suốt trong mọi tình
huống, chuyển tải hàng hóa lên cho các binh trạm tiền phương.
134
Ngoài vận chuyển thường xuyên, quân dân Quảng Bình còn tham gia phục vụ
những chiến dịch đột xuất.
Vận chuyển vũ khí cho chiến trường đông Quảng Trị (1968). Trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân 1968, để kịp thời chi viện vũ khí cho các lực lượng đang
tham chiến trên mặt trận phía đông Quảng Trị, việc tiếp tế bằng con đường biển được
đặt ra (bởi đây là con đường ngắn nhất nối Quảng Bình với mặt trận trong bối cảnh
đường bộ vào Vĩnh Linh đã bị bom đạn Mỹ phá hủy). Hợp tác xã Ngư nghiệp Cảnh
Dương (Quảng Trạch) được giao nhiệm vụ này. 72 người được lựa chọn trong số hơn
100 xã viên xung phong. Hội Phụ nữ huy động chị em góp vải may buồm, Thợ mộc
được huy động chế tạo thuyền theo kiểu thuyền đánh cá của Quảng Trị. Sau khi tập
huấn, làm công tác tư tưởng, đoàn vận tải được chia thành 12 thuyền, trọng tải mỗi
thuyền từ 2 đến 3 tấn, có trang bị súng B.40, B.41, AK.
Ngày 26-2-1968, đoàn vào Quang Phú (Lộc Ninh, Quảng Ninh) nhận vũ khí.
Đêm 1-3-1968, 10 thuyền lên đường vào Mũi Si (Vĩnh Thạch - Vĩnh Linh). Dù đã
ngụy trang kĩ nhưng đoàn thuyền vẫn bị máy bay Mỹ phát hiện, kết hợp với tàu
chiến đánh chìm 1 chiếc và làm hỏng 1 chiếc. Đêm 2-3-1968, đoàn thuyền tiếp tục
lên đường. Vừa vượt qua vĩ tuyến 17 đến Cát Sơn (Nam Cửa Tùng), đoàn bị máy
bay Mỹ phát hiện và bao vây. 3 thuyền chạy dạt vào bờ, 1 thuyền bị bắt, 4 thuyền
vượt qua được vòng vây đưa hàng đến nơi quy định. Chuyến đi này dù có những
tổn thất lớn nhưng kịp thời tiếp tế vũ khí cho các lực lượng tham chiến trên chiến
trường đông Quảng Trị thực hiện nhiệm vụ chặn đứt tuyến vận chuyển Cửa Việt -
Đông Hà chi viện tập đoàn cứ điểm Khe Sanh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Chiến dịch VT5 (Vận tải tranh thủ tụt thang, 1968). Nắm bắt thời cơ Mỹ
ngừng bắn phá miền Bắc (11-1968), Trung ương chủ trương mở một chiến dịch vận
tải đặc biệt, nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện vật lực cho tiền tuyến, nhất là đối với
chiến trường Trị - Thiên. Theo chỉ đạo của Trung ương, chiến dịch mang mật danh
VT5 được tiến hành trong 3 tháng, mục tiêu đặt ra là phải vận chuyển một khối
lượng hàng hóa lớn bằng một năm trước đây, cụ thể là “kế hoạch VT5 sẽ đưa vào
Quảng Bình 12 vạn tấn hàng để chuyển tiếp vào các chiến trường, phải làm cho tốt,
…” [144, tr. 122].
135
Để thực hiện kế hoạch VT5, Tỉnh ủy Quảng Bình bổ sung thành viên Ban đảm
bảo giao thông vận tải, đồng thời thành lập 2 trạm tiếp nhận hàng hóa: Trạm Bắc
tiếp nhận hàng vận chuyển vào bắc sông Gianh, cảng Gianh và trạm Nam tiếp nhận
hàng vận chuyển vào Nhật Lệ, Đồng Hới. Từ đây, hàng được chuyển tiếp vào
Đường 16, 20 và Vĩnh Linh. Khu vực tiếp nhận hàng được phân công cụ thể: phía
Đông do lực lượng của tỉnh Quảng Bình đảm nhiệm, phía Tây thuộc trách nhiệm
của các Binh trạm 12, 14, 16.
Ngày 1-11-1968, chiến dịch VT5 bắt đầu. Hàng vạn cán bộ, công nhân viên
chức, học sinh của các cơ quan, xí nghiệp, trường học và nhân dân trong tỉnh tổ
chức thành các đội chuyên trách bốc vác, chuyển tải, sửa chữa và làm mới, mở
rộng kho tàng, bến bãi. Cùng với quân dân Quảng Bình, các lực lượng của Tổng
cục Hậu cần, Đoàn 559 và Quân khu 4 đều đồng loạt ra quân. Cả tỉnh Quảng Bình
như một cỗ máy lớn vận hành hết công suất suốt ngày đêm, bất chấp thời tiết. Kết
thúc chiến dịch, toàn tỉnh huy động được 6 vạn ngày công, hầu hết các loại
phương tiện vận tải, tiếp nhận và chuyển giao được 13,2 vạn tấn hàng hóa, vượt
chỉ tiêu so với Trung ương giao hơn một vạn tấn [124, tr. 144]. Trong thành tích
chung của Quảng Bình nổi lên chiến công của quân dân xã Hải Trạch (Bố Trạch).
Được giao nhiệm vụ lấp sông Lý Hòa làm ngầm cho xe qua, với tinh thần “Xe
chưa qua, nhà không tiếc”, “Đường chưa thông, không tiếc máu tiếc xương”,
Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã vận động nhân dân tháo dỡ đình làng, chùa làng
và trên 700 ngôi nhà, lấy 1.200m3 gạch đá và huy động 26 thuyền đánh cá cùng
hàng trăm xã viên, đoàn viên thanh niên vận chuyển. Chưa đầy 1 ngày, quân dân
Hải Trạch, cùng với sự hỗ trợ của công binh và nhân dân các xã lân cận, đã rà phá
bom từ trường, bom nổ chậm, chuyển trên 3.000 gánh bổi (cây nhỏ chặt ngắn),
hơn 2.000 cọc gỗ và 1.500m3 gạch đá lấp sông Lý Hòa, tạo thành ngầm vượt sông
dài 100m, đảm bảo cho xe qua lại. Hoặc tại cảng Gianh, cảng Nhật Lệ và khu vực
kho tiếp nhận của hai trạm Bắc - Nam, hàng hóa bốc dỡ không đủ chỗ chứa, Tỉnh
ủy Quảng Bình vận động nhân dân nhận tạm bảo quản trong một thời gian. Nhân
dân Bố Trạch đã nhận giữ 11.000 tấn hàng. Nhân dân các xã Hiền Ninh, Tân Ninh,
136
Duy Ninh, Hàm Ninh nhận bảo quản mỗi nơi từ 900 đến 1.000 tấn. Ngoài ra, nhân
dân còn tự giác giúp đỡ giặt giũ, khâu vá bao bì, lấy gạo khô của gia đình đổi lấy
gạo ướt của nhà nước về ăn [164, tr. 213].
* Chiến dịch Hòn La (1972). Ngày 30-3-1972, cuộc tiến công chiến lược, lấy
Quảng Trị làm điểm mở đầu rồi nhanh chóng lan rộng ra Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ, bắt đầu. Ngày 1-5-1972, tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Yêu cầu chi viện từ
miền Bắc cho vùng mới giải phóng tăng đột biến, vừa để đáp ứng cuộc chiến đấu
chống địch phản công tái chiếm Quảng Trị. Do đó, ở Quảng Bình, từ tháng 5-1972,
cảng Hòn La 1 trở thành nơi tiếp nhận các tàu vận tải lớn chở hàng chi viện Việt
Nam của nhân dân Trung Quốc (tàu Hồng Kì). Từ đây, hàng hóa sẽ được chuyển
thẳng vào Quảng Trị, với cung đường ngắn nhất, trong thời gian nhanh nhất. Kế
hoạch nhận gạo từ tàu Hồng Kì tại Hòn La được lấy tên là “Chiến dịch Hòn La”,
mật hiệu là R1. Tỉnh ủy Quảng Bình xác định nhiệm vụ này “có ý nghĩa chính trị
rất lớn, không những để giải quyết một phần khó khăn của ta trong tình hình mới
mà còn nhằm đảm bảo được uy tín của cả nước ta trong quan hệ hợp đồng với nước
bạn, góp phần phát huy được yêu cầu tranh thủ sự chi viện của các nước anh em
đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta” [32, tr. 7]. Tỉnh thành lập
“Ban chỉ đạo R1”, dựa vào hai huyện Quảng Trạch và Bố Trạch huy động dân quân
và công nhân cảng Gianh làm lực lượng chủ lực chốt trên bờ; Ty Giao thông vận tải
bảo đảm phương tiện; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh bố trí lực lượng phòng không bảo
vệ. Yêu cầu đặt ra là ‘dù khó khăn ác liệt đến mấy, cũng phải tìm đủ mọi biện pháp
giải phóng nhanh các tàu bạn chuyển hàng cho ta. Phải có tổ chức chặt chẽ, kết
hợp đánh địch và tổ chức bốc rót khẩn trương, linh hoạt, hạn chế được tổn thất cho
ta và không trở ngại cho bạn. Phải tổ chức các đội xung kích, cảm tử dám băng qua
thủy lôi, bom đạn quyết tâm giải phóng hàng hóa trên tàu” [32, tr. 7].
Ngày 31-5-1972, chuyến tàu Hồng Kì đầu tiên mang số hiệu 150 vào cảng.
Sau khi tàu thả neo, máy bay và tàu chiến Mỹ đã ập đến bao vây phong tỏa cảng.
1. Cảng Hòn La ở vịnh Hòn Chùa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cảng nằm giữa 3
đảo Hòn Cỏ, Hòn Chùa và Hòn La, cách đất liền hơn 1km.
137
Pháo các loại từ hạm tàu đậu ngoài biển liên tiếp bắn vào tạo hàng rào lửa ngăn
chặn không cho ta tiếp cận. Các đơn vị pháo binh, phòng không quanh cảng đã đánh
trả quyết liệt làm cho máy bay, tàu chiến Mỹ hoạt động hạn chế hơn. Ngày 3-6-
1972, để bịt chặt mọi con đường từ bờ ra, Mỹ đã thả nhiều thủy lôi phong tỏa dày
đặc quanh khu vực tàu 150, chỉ để một lối cho tàu quay ra. Liên lạc giữa tàu và đất
liền bị gián đoạn. Trước tình hình đó, Trạm kiểm soát 305 Hòn La có sáng kiến
dùng thuyền thúng, thuyền nan vượt qua khu vực từ trường của thủy lôi để vận
chuyển hàng vào đất liền. Tỉnh ủy Quảng Bình phát động quân dân dùng thuyền
nan, thuyền thúng thực hiện “Chiến dịch vận chuyển Hòn La thắng Mỹ”. Nhiều đội
thuyền thúng, thuyền nan được nhanh chóng thành lập. Chỉ trong một thời gian
ngắn sử dụng các phương tiện thô sơ, ta đã chuyển được 500 tấn gạo vào bờ.
Phát hiện ta chuyển tải được hàng, Mỹ phong tỏa cảng quyết liệt hơn. Có lúc,
địch cho 5 tàu vào gần cảng, uy hiếp các hoạt động của ta. Ban lãnh đạo cảng lại
thay đổi cách vận chuyển bằng cáp tời hàng trên mặt nước. Một tổ công nhân lên
tàu 150 dỡ và buộc hàng vào một đầu cáp, thả xuống nước. Một tổ khác ở trong bờ
để dỡ và vận chuyển khi hàng tới bờ. Do mức độ đánh phá của máy bay và tàu
chiến Mỹ nên một số công nhân cảng hi sinh. Cán bộ chiến sĩ trạm 305 nghĩ ra cách
dùng một chiếc bao tải buộc vào tời ở phía trước kiện hàng một khoảng cách bằng
đoạn từ mép nước vào hầm trú ẩn của công nhân trên bờ để báo hiệu khi hàng đã
vào tới bờ. Lúc đó, công nhân mới vận động ra bốc hàng vào kho, giảm bớt được sự
nguy hiểm phải chịu đựng phi pháo địch ở nơi không có công sự, hầm hào. Sáng
kiến đơn giản, nhưng có tác dụng hạn chế thương vong rất rõ rệt. Tuy nhiên sau đó,
phát hiện được, Mỹ tập trung đánh phá ác liệt hai thôn Thọ Sơn và Vĩnh Sơn (xã
Quảng Đông) buộc ta phải ngừng phương thức này.
Không chịu bó tay, để vượt qua bãi thủy lôi, phương án thuyền nan được đưa
ra. Cách làm này đòi hỏi một lượng nhân công lớn và tốn khá nhiều thời gian bởi
công suất một chuyến chỉ đạt 1,5-2 tạ gạo, chưa kể người tham gia phải chấp nhận
sự hi sinh bất cứ lúc nào. Từ xã Cảnh Dương, toàn bộ thuyền nan của ngư dân 11
xã vùng biển Quảng Trạch, Bố Trạch được huy động bất chấp sự đánh phá ngày
138
đêm của máy bay và tàu chiến Mỹ. Kết quả, ta đưa vào bờ được hơn 5.000 tấn gạo
(còn 1.000 tấn tàu đưa trở lại Trung Quốc), trong đó do thuyền nan chuyên chở
1.750 tấn.
Ở chuyến thứ 2 do tàu Hồng Kì 152 thực hiện, để hạn chế tổn thất về người
nhưng vẫn đảm bảo hiệu suất chuyển tải, phương án mới được đưa ra là “thả gạo tự
trôi”. Gạo được đóng thành bao bọc kín bằng 4 lớp vải nhựa để khỏi thấm nước.
Các xã ven biển Quảng Bình và Vĩnh Linh được thông báo để tổ chức lực lượng
trực chiến thu gom khi gạo vào bờ. Nhờ vậy, chỉ trong 2 tuần, 6.000 tấn gạo của tàu
Hồng Kì 152 được thả hết, ta thu được 5.000 tấn.
Phát huy phương án “thả gạo tự trôi”, từ tháng 9-1972 đến tháng 1-1973, các
chuyến tàu tiếp theo (162A, 162B) lần lượt vào cảng Hòn La, trong đó tàu 162A thả
đủ 6.000 tấn, tàu 162B mới thả được 250 tấn thì ngày 16-1-1973, Mỹ chấm dứt ném
bom miền Bắc, toàn bộ số gạo còn lại được ta chuyển vào bờ an toàn.
Tổng cộng, từ tháng 5-1972 đến tháng 1-1973, có 4 tàu Hồng Kì 1 (150, 152,
162A, 162B) cập cảng Hòn La. Ta tiếp nhận hơn 21.000 tấn gạo (tàu 150, 152,
162A mỗi tàu 5.000 tấn và tàu 162B 6.000 tấn), góp phần kịp thời chi viện các lực
lượng trên chiến trường Quảng Trị giữ vững vùng giải phóng trước sức phản kích
quyết liệt của Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa. Cái giá của từng hạt gạo đến
chiến trường phải trả bằng biết bao công sức và máu. Trong chiến dịch này, 10 cán
bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 45, đại đội 363, 365, dân quân xã Cảnh Dương, Nhân
Trạch đã ngã xuống và hàng trăm ngư dân, công nhân, chiến sĩ khác bị thương.
Cùng với “Kế hoạch R1”, ta mở thêm tuyến thứ hai với tên gọi “Kế hoạch
R2” vận chuyển bằng ô tô từ Hà Tĩnh vào Bắc Gianh bằng đường 22, bốc xuống
Quảng Trường, Ba Đồn để chuyển tải hàng qua Nam Gianh.
1. Nhiều tài liệu (Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình, Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Lịch sử Bộ đội biên phòng Quảng Bình, … ) ghi nhận có 5 tàu Hồng Kì đến cảng
Hòn La (thêm tàu 135) và số gạo ta tiếp nhận được cũng là 21.000 tấn. Tuy nhiên, theo các
tác giả cuốn Lịch sử Giao thông vận tải Quảng Bình, chỉ có 4 tàu Hồng Kì, với trọng tải
6.000 tấn/1 chiếc vào Hòn La. Ngoài 1.000 tấn do tàu phải đem trở về, 2.000 tấn bị mất
trên biển do phương án thả trôi, số gạo còn lại 21.000 tấn là hợp lí.
139
Tuyến thứ ba (“Kế hoạch R3”) vận chuyển bằng phương thức thả trôi theo
đường sông Rào Trổ từ xã Kỳ Thượng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) về Minh Cầm (Tuyên
Hóa). Tuyến này vận chuyển được 700 tấn gạo.
Tuyến thứ tư (“Kế hoạch R4”), do ngành đường sắt phụ trách, sử dụng đường
goòng, vận chuyển hàng từ ga Chu Lễ (Hà Tĩnh) vào ga Đò Vàng và kéo vào tận ga
Lệ Sơn. Từ đây, hàng được ô tô vận chuyển về ga Minh Lệ và tiếp tục vận tải bằng
đường sông lên Khương Hà bàn giao cho Binh trạm 14 (Đoàn 559) tiếp nhận
chuyển tiếp vào chiến trường. Bất chấp sự đánh phá của máy bay Mỹ, quân dân các
địa phương có đường sắt đi qua của Tuyên Hóa nêu cao khẩu hiệu “nghiêng lưng
cho đường goòng dựa”, sát cánh cùng công nhân tập trung cứu hàng, sửa chữa
đường sau mỗi lần bị đánh phá, góp phần đưa 1.500 tấn gạo và hàng nghìn tấn hàng
quân sự vào nam Gianh.
Ngày 22-10-1972, Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Và cũng như
năm 1968, khối lượng bom đạn lại được “tập trung” về mảnh đất hẹp Quảng Bình.
Do đó, một lần nữa, mặt trận giao thông vận tải được tiếp tục xác định là “nhiệm vụ
trung tâm số một” của Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình. Tỉnh chủ trương tập trung
cao nhất sự lãnh - chỉ đạo của các cấp ủy Đảng cho nhiệm vụ đảm bảo giao thông
và phát động toàn dân thực hiện khẩu hiệu: “Đường có tắc nhưng hàng không tắc”.
Trợ lực cho Quảng Bình, Trung ương chi viện 9.000 thanh niên xung phong của
tỉnh Thái Bình và thành phố Hải Phòng. Tỉnh thành lập Công trường kết nghĩa 1A,
1B để đảm bảo giao thông đoạn Long Đại - Đá Mài - Xuân Sơn. Để phá thế “độc
tuyến”, lực lượng địa phương cùng Sư đoàn 571 mở đường 15C, cùng Công binh
Quân khu 4 mở các tuyến ngang Kỳ Lạc - Troóc, Ba Rền - Bến Tiêm - Đường 10.
Các lực lượng công binh của Sư đoàn 571, Quân khu 4 và địa phương tập trung sửa
chữa cầu hỏng, sản xuất cầu phụ, cầu vượt ngầm, cầu vẹt chống lầy trên các tuyến
đường bộ, … Nhờ đó, những điểm ách tắc do bom đạn Mỹ nhanh chóng được khắc
phục, dòng hàng hóa chi viện không ngừng được vận chuyển về phía trước, giúp
các lực lượng trên chiến trường Quảng Trị giữ vững vùng giải phóng, góp phần
cùng cả nước buộc Mỹ phải đi đến chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình (1-1973).
140
Tiểu kết
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, xuyên suốt cuộc chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965-1973), Quảng Bình đã nhanh chóng
thực hiện nhiệm vụ phòng không nhân dân, đảm bảo vừa sản xuất vừa chiến đấu và
phục vụ chiến đấu và đảm bảo giao thông vận tải chi viện chiến trường miền Nam.
Để chuẩn bị thực lực cho chiến đấu đánh trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Bình đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang
địa phương gồm hai lực lượng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ với sự hợp
đồng chặt chẽ của bộ đội chủ lực đóng quân trên địa bàn để hình thành thế trận
chiến tranh nhân dân. Trong chiến đấu, quân dân Quảng Bình, từ dân quân đến bộ
đội địa phương, bộ đội chủ lực, lập nhiều thành tích xuất sắc bắn rơi, bắn cháy máy
bay và tàu chiến Mỹ, bắt nhiều toán biệt kích.
Nét nổi bật của hình thái chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình chính là thế trận
toàn dân với sự tham gia của bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ trên địa bàn, các đơn vị
chủ lực trên đường hành tiến ra chiến trường tham gia vào đội hình chiến đấu, các
lực lượng bộ đội địa phương, các lực lượng bán vũ trang nhưng làm nhiệm vụ
thường trực chiến đấu, các đơn vị dân quân, tự vệ vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa
làm nhiệm vụ phòng tránh cho nhân dân, các lực lượng chuyên trách giao thông,
thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ chi viện chiến trường tạo
nên mặt trận phối hợp của chiến tranh nhân dân, các tầng lớp nhân dân làm nhiệm
vụ đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân và sẵn sàng tham gia chiến
đấu khi cần thiết. Đó chính là những thành tố hội tụ và làm nên sức mạnh cho thế
trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình cùng cả nước đánh thắng chiến tranh phá
hoại đế quốc Mỹ.
Trong phục vụ chiến đấu, quân dân Quảng Bình từng bước vượt qua mặt trận
nóng bỏng nhất là giao thông vận tải để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo sự
thông suốt của các tuyến đường chiến lược, đưa hàng triệu tấn hàng hóa chi viện
cách mạng miền Nam. Tuyến đầu của miền Bắc đứng vững đã giúp cho Quảng Bình
làm tròn nhiệm vụ hậu phương, có những đóng góp lớn về sức người, sức của cho
chiến trường Trị - Thiên và cách mạng Lào.
141
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
NHỮNG NĂM 1965-1973
4.1. Đặc điểm
4.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài, liên tục và rất khốc
liệt
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, nhân loại chưa từng chứng kiến một cuộc
chiến tranh phá hoại đơn phương và tổng lực như chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng. Mỹ đã huy động
toàn bộ bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ, các nước đồng minh và bộ máy chính
quyền, quân đội Việt Nam Cộng hòa để tiến hành chiến tranh phá hoại trên cả 3
phương diện chính trị, kinh tế và quân sự nhằm phá hủy toàn bộ nguồn lực tinh thần
và vật chất của miền Bắc, cắt đứt mọi khả năng chi viện của miền Bắc cho cách mạng
miền Nam, mưu toan giành lại thế chủ động trên chiến trường miền Nam. Mỹ xem
Quảng Bình là “chốt chặn” trên hành lang chi viện chiến trường nên cuộc chiến tranh
phá hoại ở đây diễn ra khốc liệt chưa từng thấy.
Khi nói đến phương thức chiến tranh bằng đường không, thế giới thường nhắc
đến cuộc chiến tranh bằng đường không lớn nhất của Đức đối với Anh trong Thế
chiến thứ II, kéo dài từ ngày 10-7 đến ngày 31-10-1940. Đó là cuộc chiến giữa hai
nước có trình độ phát triển và lực lượng không quân tương đương nhau. Không
quân Đức không áp đảo được không quân Anh. Đức có 2.550 máy bay trong khi
con số này của Anh là 1.963 chiếc [231]. Không quân Anh chiến đấu ngay trên bầu
trời của mình trong khi máy bay Đức phải trải qua chặng đường dài vượt biển
Manche trước khi đánh phá các mục tiêu trên đất Anh, với thời gian hoạt động còn
lại trên không không dài. Thời điểm đó, tầm hoạt động và lượng bom máy bay Đức
mang theo còn rất hạn chế so với Mỹ sau này, thế nhưng, quân Đức đã gây nên
142
những tổn thất kinh hoàng cho quân Anh, phải một thời gian sau đó, quân Anh mới
bổ sung lại lực lượng để tổ chức phản công.
25 năm sau (1940-1965), thế giới lại chứng kiến cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng đường không, đường biển quy mô
nhất và kéo dài nhất cho đến thời điểm đó, với ưu thế vượt trội về tiềm lực cả trên
không, trên biển của phía gây chiến, lại có sự kết hợp giữa tấn công quân sự tổng
lực với chiến tranh tâm lí và phá hoại bằng hoạt động biệt kích, với nhiều âm mưu,
thủ đoạn, biến hóa khôn lường.
Các hình thức tiến hành chiến tranh phá hoại đã được đế quốc Mỹ thực hiện ở
hầu hết các địa phương trên miền Bắc nhưng do vị trí Quảng Bình có ý nghĩa chiến
lược quan trọng, quyết định thắng lợi của công cuộc chi viện chiến trường miền Nam
nên mức độ khốc liệt của chiến tranh phá hoại cao hơn các địa phương khác.
Về thời gian, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra liên tục từ năm 1965
đến 1973, trong đó tập trung ác liệt nhất là các năm 1965-1968 và 1972. Từ ngày 5-
8-1964, Quảng Bình đã là một trong 5 mục tiêu (cùng Vinh - Bến Thủy, Lạch
Trường và thị xã Hòn Gai) đánh phá của không quân Mỹ. Từ ngày 7-2-1965, trong
chiến dịch “Mũi lao lửa”, thị xã Đồng Hới là một trong hai mục tiêu (cùng với đảo
Cồn Cỏ). Tiếp theo, từ ngày 2-3-1965 – 6-1965, Mỹ triển khai chiến dịch “Sấm
Rền”, Quảng Bình (cùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Vĩnh Linh) là vùng bị
tập trung đánh phá. Đến khi “xuống thang” (1-4-1968 – 1-11-1968), Mỹ tập trung
đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở vào, Quảng Bình lại là một trọng điểm. Như vậy, trong
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, Quảng Bình (và Vĩnh Linh) là địa
phương bị đánh phá đầu tiên và kết thúc sau cùng.
Từ ngày 1-11-1968, tuy Nhà Trắng buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại
miền Bắc nhưng trên địa bàn Quảng Bình, máy bay Mỹ vẫn thường xuyên bay trinh
sát vũ trang, bắn phá các trọng điểm trên đường Trường Sơn và ngoài biển, 2-3 tàu
chiến thường xuyên hoạt động. Như thế, trạng thái hòa bình đan xen chiến tranh vẫn
tiếp diễn. Chiến tranh vẫn đe dọa từng ngày, từng giờ trên không và trên biển.
143
Có thể nói, đối với Quảng Bình, không có sự gián đoạn giữa hai giai đoạn của
chiến tranh phá hoại (1965-1968 và 1972) như các địa phương phía Bắc (kể cả các
địa phương trong địa bàn Bắc Trung bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) mà
diễn ra liên tục, không ngưng nghỉ, nối thông từ trước năm 1965 đến năm 1973.
Ngày 5-4-1972, tàu chiến Mỹ bắn phá trên 500 quả đạn pháo dọc bờ biển
Quảng Bình, mở đầu cho cuộc chiến phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Qua đầu tháng
5-1972, đế quốc Mỹ phong tỏa toàn diện đối với Quảng Bình. Đến khi thất bại trong
cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác, ngày
30-12-1972, Mỹ phải tuyên bố dừng mọi hoạt động chống phá Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ở phía bắc vĩ tuyến 20 và đến ngày 15-1-1973 thì chấm dứt hẳn. Các tỉnh
khu 4, trong đó có Quảng Bình, lại trở thành “túi bom, chảo lửa”, hứng chịu mức
độ đánh phá dữ dội nhất của Mỹ. Cũng như trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất,
Quảng Bình là nơi đầu tiên bị đánh và kết thúc sau cùng. Rộng ra là trong khoảng
thời gian 1965-1973, Quảng Bình luôn là mục tiêu trọng điểm trong bất cứ chiến
dịch quân sự nào của Mỹ; Quảng Bình là nơi đầu tiên và kết thúc cuối cùng của
cuộc chiến tranh phá hoại. Thời gian bị đánh phá dài hơn bất cứ địa phương nào
trên miền Bắc.
Về cường độ và tần suất đánh phá, có thể nói, Quảng Bình là địa bàn hứng
chịu chiến tranh phá hoại khốc liệt nhất nhìn từ phương thức, cường độ và tần suất
đánh phá của đế quốc Mỹ.
Trước hết là không quân Mỹ huy động hầu hết những loại máy bay mà không
lực Hoa Kỳ có cho đến thời điểm đó, với hàng nghìn máy bay tối tân thuộc 16 loại,
hơn 60 kiểu khác nhau, từ chiến đấu như AD6, F.4, F.8, F.105, AC.130, F.111A,
B.52, … đến trinh sát như L.19, máy bay không người lái QH50C, OV10, máy bay
trinh sát điện tử EB66, RF4C, SR71, U2, … Thời điểm cao nhất, Mỹ huy động
31,5% lực lượng máy bay chiến thuật, 37,5% máy bay chiến lược B.52, 42,8% tàu
sân bay, trong đó không quân Mỹ sử dụng hơn 54.000 lần chiếc máy bay (có 3.280
lần chiếc B.52) [184]. Nếu như trong Chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), máy
bay B.17 mới đạt tốc độ 400km/h và bay ở độ cao 4.000m, đến cuộc chiến tranh
144
Triều Tiên (1950-1953), máy bay F.86 tốc độ gấp đôi B.17 và bay cao 5.000m
nhưng chỉ hơn 10 năm sau, khi chiến tranh phá hoại miền Bắc, máy bay F.4 có tốc
độ gấp 3 lần F.86 (2.400km/h) và độ cao gấp 4 lần (20km) [219, tr. 340-341]. Theo
thời gian, vũ khí và phương tiện chiến tranh được cải tiến, hiện đại hóa nhanh
chóng với tốc độ nhanh, độ chính xác cao, sức công phá lớn, độ sát thương cao, do
đó hiệu quả đánh phá ngày càng cao, như khi phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa
đưa vào sử dụng tên lửa SAM, lập tức Mỹ trang bị tên lửa không đối đất Shrike để
phá hủy ra-đa hoặc để tránh hỏa lực mặt đất, tăng độ chính xác đánh phá mục tiêu,
Mỹ sử dụng bom dẫn bằng tia laze, … Với cải tiến đó, không chỉ cầu cống mà
những mục tiêu rất nhỏ, như súng 12,7ly, máy bay Mỹ cũng phát hiện ra để tấn
công chính xác.
Hầu hết các phương tiện chiến tranh này được triển khai đầu tiên trên địa
bàn Quảng Bình trước khi mở rộng áp dụng ra toàn miền Bắc. Đặc biệt, Quảng
Bình còn là nơi đầu tiên Mỹ sử dụng các phương tiện chiến tranh huỷ diệt có
mức độ tàn phá khủng khiếp như máy bay F.111A “cánh cụp cánh xòe” và đặc
biệt là “siêu pháo đài bay” B.52 (12-4-1966), sử dụng khí tài laze dẫn đường
cho máy bay ném bom, đưa máy bay trinh sát L.19, khí tài thu thập thông tin
“cây nhiệt đới” vốn chỉ sử dụng trong chiến trường miền Nam ra áp dụng trên
địa bàn Quảng Bình. Hiện tượng này không xuất hiện hoặc xuất hiện không đáng
kể ở các địa bàn khác trên miền Bắc.
Do vị trí ở tuyến đầu miền Bắc, giáp giới miền Nam nên Quảng Bình còn
nằm trong tầm khống chế đánh phá của các căn cứ không quân lớn của Mỹ và
Việt Nam cộng hòa như Phú Bài và Đà Nẵng chỉ cách Đồng Hới trong bán kính
lần lượt 150-250km. Xuất phát từ 2 căn cứ này, nhiều lần không lực Việt Nam
cộng hòa tấn công các mục tiêu ở Quảng Bình. Chính yếu tố này cũng đặt nhân
dân Quảng Bình vào tâm thế sẵn sàng đối phó với khả năng đổ bộ đường không
của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Khả năng này ở địa bàn Quảng Bình,
Vĩnh Linh cao nhất so với cả nước.
145
Về hải quân, tùy từng thời điểm, thường trực chiến đấu trên vịnh Bắc Bộ luôn
có trên 20 tàu các loại, trong đó có 2-3 tàu sân bay, chiếm xấp xỉ 50% Hạm đội 7;
thời điểm cao nhất (8-1972) có trên 50 chiếc, 4-5 tàu sân bay (chiếm 60% Hạm đội
7) [37, tr. 510-511]. Tàu chiến Mỹ sử dụng pháo lớn (cỡ nòng 187-406 ly) bắn hơn
500.000 quả đạn vào các trận địa pháo bờ biển, trọng điểm giao thông đường bộ
(chủ yếu là Quốc lộ 1) và cả khu dân cư. Thường trực trên vùng biển Quảng Bình
có 2-3 tốp tàu chiến các loại, đặc biệt có Tuần dương hạm USS New Jersey là một
trong năm thiết giáp hạm lớn nhất của Mỹ lúc bấy giờ. Do địa thế hẹp bề ngang của
Quảng Bình, có nơi Quốc lộ 1 chạy sát biển như đèo Lý Hòa, Mỹ chỉ cần sử dụng
một tàu bắn cầm canh là đủ khống chế tuyến vận tải quan trọng nhất này. Như vậy,
do địa bàn hẹp (chiều ngang từ biển đến biên giới Việt Lào bình quân 70km, nơi
hẹp nhất dưới 50km), chỉ kéo dài trên 1 vĩ độ (từ 17o05 đến 18o05) nên pháo hạm
của Hải quân Mỹ có đủ tầm khống chế toàn bộ địa bàn Quảng Bình. Đây là điểm
khác biệt của địa bàn Quảng Bình so với các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra.
Không phận trên biển Quảng Bình còn là “khu chờ”, nơi tập trung đội hình
của các phi đội máy bay hải quân khi xuất kích, bởi Mỹ xem đây là khu vực an
toàn, cách xa tầm hoạt động của lực lượng không quân Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, có thể nhanh chóng đột nhập đánh phá nhưng cũng thuận tiện và nhanh chóng
rút về Hạm đội 7 và các căn cứ ở khu vực Trị Thiên, Đà Nẵng.
Về phương thức đánh phá, nhìn chung khi tiến hành chiến tranh phá hoại, Mỹ
nhằm vào 4 loại mục tiêu (quân sự, giao thông, dân cư, kinh tế), trong đó do tầm
chiến lược quan trọng của Quảng Bình, giao thông vận tải là mục tiêu số 1, với
40.149 lần bị đánh phá (trong khi quân sự: 5.252 lần, dân cư: 22.379 lần, kinh tế:
4.015 lần) [164, tr. 380]. Mục đích đánh từ chỗ ngăn chặn giao thông đến tiến hành
ngăn chặn và phong tỏa quy mô toàn diện. Phương thức tác chiến từ leo thang từng
bước trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất chuyển sang đánh ồ ạt trong thời gian
ngắn ở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Từ tháng 2 đến tháng 5-1965, Mỹ chủ
yếu đánh kiểu “trả đũa” tương ứng với mỗi khi ta tấn công ở miền Nam, đồng thời
để thăm dò phản ứng của ta và dư luận thế giới. Từ tháng 6-1965, Mỹ mới thực hiện
146
mở rộng mục tiêu, đánh phá cùng lúc nhiều nơi. Hình thức đánh phá từ không quân
sang kết hợp không quân với hải quân, bởi đến tận tháng 10-1966, với chiến dịch
Rồng Biển, hải quân Mỹ mới chính thức tham chiến, đánh phá đất liền và phong tỏa
bờ biển. Tuy nhiên, đến cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, Mỹ kết hợp cùng lúc
không quân và hải quân đánh phá ồ ạt. Chỉ trong 2 ngày (5 và 6-4-1972), máy bay
Mỹ đánh 49 điểm toàn tỉnh. Từ đêm 5 đến 11-4, tàu chiến Mỹ liên tục pháo kích
vào 103 điểm. Ngày 25-4-1972, máy bay và tàu chiến Mỹ đánh trên 500 trận vào
360 mục tiêu trên khắp Quảng Bình. Ngày 9-5, chúng thả thủy lôi phong tỏa cửa
Nhật Lệ và trong tháng 6-1972, Mỹ hoàn thành phong tỏa 43 trọng điểm ở Roòn,
Quán Hàu, Xuân Sơn, Long Đại và ven biển.
Với lực lượng lớn không quân, hải quân được huy động cùng với nhiều thủ
đoạn tác chiến, trong 8 năm, Mỹ đã ném bom Quảng Bình 71.825 lần (có 34.796 lần
đánh đêm), trung bình 748 lần/tháng, 25 lần/ngày, trong đó có 736 lần đánh phá
bằng B.52 với 2.427 lần chiếc, 127 lần bằng F.111A. Tàu chiến Mỹ thực hiện 2.554
lần bắn phá (có 1.524 lần đánh đêm) bằng các loại đại bác từ 76ly đến 406ly. Tổng
cộng, trên mảnh đất hẹp Quảng Bình, Mỹ đã trút xuống 1.557.417 quả bom và đạn
pháo các loại, trung bình 1 km2 chịu 158 quả bom, 16 quả đạn pháo, 3 loạt rốc-két;
1 người dân chịu 574kg bom, 10 người dân chịu 3,5 quả đạn pháo lớn 1. Do quy mô
đánh phá đó, hầu như không có địa phương nào ở Quảng Bình không phải hứng
chịu bom đạn Mỹ, với những hậu quả vô cùng tàn khốc. Toàn bộ 133 xã, 459 thôn
xóm bị đánh phá; 1 thị xã, 1 thị trấn, 31 xã và 252 thôn xóm bị hủy diệt, 93.712 nhà
dân bị phá hủy, 5.394ha đất trồng trọt bị hoang hóa, 13.786 người bị chết, 22.456
người bị thương [164, tr. 380].
Kết hợp với không quân và hải quân, Mỹ còn dùng pháo 175ly - “vua chiến
trường” từ Nam vĩ tuyến 17 bắn ra đến tận nam Quảng Bình đồng thời thực hiện
cuộc chiến bí mật bằng gián điệp, biệt kích nhằm thu thập tin tức, phát hiện mục
tiêu đánh phá và cuộc chiến tranh tâm lí nhằm lung lạc ý chí kháng chiến của nhân
1. Mật độ bom đạn Mỹ ở Quảng Bình chỉ xếp sau Vĩnh Linh - nơi trung bình mỗi người
dân chịu 7,8 tấn bom và 10 quả đạn pháo.
147
dân ta. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa coi chiến tranh tâm lí, hoạt động
gián điệp, biệt kích là một mặt trận trên bộ nhằm phối hợp với mặt trận trên không
và trên biển để tạo sức ép tổng lực lên miền Bắc, tập trung cao nhất vào địa bàn
Quảng Bình. Chính vì vậy, từ sau năm 1954 đến khi kết thúc chiến tranh, đặc biệt là
trong những năm 1960-1968, chúng đã tung vào địa bàn Quảng Bình 41 toán biệt
kích trên bộ và người nhái trên biển (nhiều nhất trong các tỉnh ở miền Bắc).
Điểm khác biệt trong phương thức đánh phá của đế quốc Mỹ đối với Quảng
Bình là cách duy trì tình trạng chiến tranh liên tục. Nếu ở các địa phương khác trên
miền Bắc, Mỹ có thể có thời gian cao điểm đánh phá xen lẫn thời gian ngưng nghỉ
thì ở Quảng Bình chúng chỉ thay đổi tần suất chứ không thay đổi mục tiêu đánh phá
thường xuyên. Chính điều này khiến địa bàn Quảng Bình luôn luôn ở trong tình
trạng chiến tranh cường độ cao, gây nên sự căng thẳng cả về tâm lí và thế trận.
Có thể nói, không chỉ đơn thuần là cuộc chiến tranh phá hoại mà Mỹ đã tiến
hành một cuộc chiến tranh tổng lực thực sự. Rõ ràng, Quảng Bình là nơi “tụ hội”
những mục tiêu, phương thức tiến hành, những lực lượng không quân và hải quân,
những loại vũ khí hiện đại nhất của Mỹ nhằm thực hiện cuộc chiến tranh ngăn chặn
và phong tỏa nhằm hủy diệt và cắt đứt đầu mối của những tuyến đường chiến lược
chi viện cách mạng miền Nam. Do đó, thử thách của lịch sử đặt lên vai quân dân
Quảng Bình một trọng trách hết sức nặng nề để vừa đứng vững làm trọn nhiệm vụ
của hậu phương, vừa phải hoàn thành công tác đảm bảo vận chuyển chiến lược chi
viện các chiến trường.
4.1.2. Được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ của
nhiều lực lượng
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là vùng tạm chiếm nhưng ở
Quảng Bình chiến sự diễn ra chủ yếu ở dải đồng bằng ven biển, trong đó tập trung
dọc Quốc lộ 1, còn vùng trung du và miền núi rộng lớn phía Tây hoàn toàn do ta
làm chủ. Tuy nhiên, bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, dù là hậu phương nhưng do vị trí chiến lược của Quảng Bình đối với sự
nghiệp thống nhất đất nước nên các lực lượng hải lục không quân Mỹ tập trung
148
đánh phá ác liệt khiến trên mảnh đất hẹp này, hầu như nơi nào cũng là trọng điểm,
là “tọa độ lửa”. Từ đồng ruộng đến nhà máy, xí nghiệp; từ miền biển đến miền núi;
từ cảng Gianh, Nhật Lệ và đảo Hòn La đến các cửa khẩu vượt Trường Sơn; từ nông
thôn, đồng bằng đến thị xã, thị trấn; từ Đèo Ngang đến Dốc Sỏi (Lệ Thủy); từ
những cung đường, cầu cống, tuyến sông, bến phà, cảng biển, đến khu dân cư, trung
tâm chính trị, kinh tế, công trình quân sự, doanh trại quân đội, kho tàng, … ở đâu
cũng có thể là mục tiêu đánh phá của biệt kích, máy bay, tàu chiến Mỹ nhưng đồng
thời đó cũng là trận địa để ta đánh trả.
Nét nổi bật và cũng là đặc thù của địa bàn Quảng Bình là địa hình không phân
vùng rõ rệt. Nếu các địa phương từ Hà Tĩnh trở ra có sự phân lập giữa vùng đồi núi,
đồng bằng và ven biển, lại có địa phương chủ yếu là vùng núi, ngược lại có địa
phương phần lớn là đồng bằng thì ở Quảng Bình, địa hình bị chia cắt mạnh bởi
những con sông từ Trường Sơn đổ ra biển cắt ngang địa hình và nhiều hãy núi chạy
ra sát biển tạo ra sự đa dạng địa hình xen kẽ nhau. Trên không gian đa dạng địa hình
đó, việc triển khai thế trận chiến tranh nhân dân hết sức phong phú, linh hoạt, nhằm
phát huy cao nhất lợi thế địa hình, tạo thuận lợi cho ta, gây khó khăn cho địch.
Chính khai thác yếu tố này mà chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình có đánh địch
mọi nơi, mọi lúc, mọi địa hình, mọi lực lượng và không phân định chiến tuyến, tạo
sức mạnh từ sự bất ngờ.
Làm nòng cốt cho thế trận quân sự là Sư đoàn 325 và một phần Sư đoàn 341
đứng chân trên địa bàn. Để phối hợp với bộ đội chủ lực của Trung ương và Quân khu
4 và sẵn sàng thay thế nhiệm vụ của các đơn vị chủ lực khi các đơn vị này được điều
động tăng cường cho chiến trường miền Nam, tỉnh Quảng Bình đã tăng cường lực
lượng vũ trang địa phương. Ở cấp tỉnh, từ chỗ chỉ có một tiểu đoàn bộ đội địa phương
(Tiểu đoàn 45) trước chiến tranh, đến năm 1972 đã phát triển lên thành một trung
đoàn (Trung đoàn 185). Ở cấp huyện, từ chỗ mỗi huyện xây dựng một đại đội du
kích, cơ động trên địa bàn khi có chiến sự (năm 1962), chỉ sau một thời gian ngắn
tiến lên xây dựng thành đại đội bộ đội địa phương. Huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố
Trạch và Quảng Trạch có 1 đại đội, Minh Hóa và Thị xã Đồng Hới có 1 trung đội.
149
Có thể nói Quảng Bình là nơi tập trung đầy đủ các lực lượng hải, lục, không
quân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Về pháo binh, có của tỉnh, quân khu và các
sư đoàn chủ lực đóng trên địa bàn. Về lực lượng phòng không (pháo cao xạ, tên lửa,
ra-đa,…), từ chỗ mới có Tiểu đoàn 9 cao xạ kết hợp súng bộ binh lúc bắt đầu chiến
tranh đến năm 1972 phát triển lên thành Bộ Tư lệnh 375 (quy mô trên một sư đoàn
phòng không) được bố trí khắp nơi trong tỉnh, vừa bề rộng lại có chiều sâu, tập
trung có trọng điểm, kết hợp cùng hỏa lực tại chỗ tạo nên lưới lửa tầm thấp, tầm cao
dày đặc, có thể đánh trả máy bay Mỹ vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ mục tiêu nào.
Cùng với trạm ra-đa Lộc Ninh ở sân bay Đồng Hới và trạm 505 ở Đèo Ngang, các
đài quan sát của bộ đội địa phương và của tất cả các địa phương trong tỉnh đảm bảo
phát hiện máy bay, tàu chiến Mỹ từ xa, để kịp thời báo động cho nhân dân ẩn tránh
cũng như chỉ dẫn mục tiêu chính xác cho các lực lượng phòng không đánh trả. Về
hải quân, các tàu chiến thuộc căn cứ sông Gianh dù số lượng ít, hỏa lực yếu nhưng
đã tích cực tham gia đánh địch bảo vệ vùng trời và vùng biển Quảng Bình vừa làm
công tác chi viện cho đảo Cồn Cỏ khi có yêu cầu. Về không quân, khi sân bay Đồng
Hới bị phá hủy, quân dân Quảng Bình phối hợp với lực lượng công binh và Phòng
không Không quân thiết lập sân bay dã chiến Gát để sử dụng máy bay tiêm kích
Mig 17 đánh tàu chiến Mỹ. Về công binh, có các đơn vị của Bộ và Quân khu kết
hợp với lực lượng tại chỗ của địa phương thực hiện công tác rà phá bom mìn, xây
dựng, sửa chữa đường sá, đảm bảo phương tiện vượt sông, qua phà, …
Ngoài ra, đặc biệt tại Quảng Bình còn là nơi Bộ Tư lệnh Trường Sơn đặt các
sở chỉ huy, thành lập các binh trạm và kho bãi để tiếp nhận, chuyên chở hàng hóa
chi viện cách mạng miền Nam, cùng các đơn vị phòng không, công binh, thông tin,
bộ binh, …
Để bảo đảm an toàn trên tuyến biên giới và bờ biển còn có lực lượng công an
nhân dân vũ trang. Đây là lực lượng nòng cốt trong việc phát hiện, truy bắt những
toán biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn xâm nhập địa bàn và luôn sẵn sàng
sát cánh cùng các lực lượng vũ trang đánh trả máy bay Mỹ.
150
Với quan điểm “phát triển lực lượng dân quân tự vệ thực sự là lực lượng chủ
lực của chiến tranh nhân dân” [151, tr. 66], từ chỗ 28.243 người, chiếm khoảng
6,9% dân số (năm 1965), đến năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ có gần 60.000
người (chiếm 13,4% dân số), được trang bị hơn 18.000 khẩu súng các loại, với hình
thức tổ chức từ phân đội đến đại đội, tiểu đoàn, đặc biệt là có đại đội nữ pháo binh
duy nhất của miền Bắc (đại đội Ngư Thủy). Tham gia dân quân tự vệ có thanh niên,
phụ nữ, phụ lão, công nhân, nông dân, cán bộ viên chức …, không phân biệt tôn
giáo, dân tộc.
Với phương châm “lấy ít địch nhiều”, “lấy thô sơ thắng hiện đại”, Quảng
Bình phát động phong trào bắn máy bay khắp toàn tỉnh, kết hợp ba thứ quân, tạo
lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều lớp. Mối quan hệ, hiệp đồng huấn luyện,
chiến đấu chặt chẽ giữa ba thứ quân được xây dựng vững chắc. Dân quân giúp bộ
đội tiếp lương, tải đạn, xây dựng trận địa, giải quyết thương binh, tử sĩ; ngược lại bộ
đội chủ lực giúp dân quân tự vệ huấn luyện chiến đấu, sử dụng những phương tiện
và vũ khí mới, tiến tới đưa dân quân dần thay thế chủ lực một số nhiệm vụ, như
trường hợp đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy thay thế Đại đội 9 bộ đội tỉnh chiến đấu
bảo vệ vùng biển nam Quảng Bình.
Gắn liền với môi trường hoạt động của lực lượng dân quân, hệ thống làng xã
chiến đấu ra đời từ thời kì kháng chiến chống Pháp, được phát triển lên quy mô
mới, với sự tham gia rộng rãi của toàn dân. Những cụm chiến đấu liên hoàn của các
làng xã hình thành và không ngừng củng cố. Công tác tổ chức tại những làng xã
chiến đấu rất chặt chẽ, có lực lượng trực chiến, lực lượng đảm bảo giao thông, có
đội làm hầm, đội chống sập, tổ cứu thương, … Thực tế chiến đấu đã cho thấy ở địa
phương nào, lãnh đạo và chính quyền quan tâm xây dựng lực lượng bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ đồng thời tổ chức tốt hệ thống làng xã chiến đấu, ở đó
vừa sản xuất tốt, vừa chiến đấu đạt hiệu suất cao.
Tóm lại, với lực lượng đông đảo gồm ba thứ quân như trên, Quảng Bình đã
hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Trong khi lực lượng dân quân
tự vệ có mặt ở khắp các địa bàn trong tỉnh, chiến đấu bảo vệ các mục tiêu tại chỗ,
151
lực lượng chủ lực và bộ đội địa phương vừa phân tán kết hợp với dân quân tự vệ,
vừa tập trung có trọng điểm như ở tứ giác sông Gianh - Xuân Sơn - Quán Hàu -
Long Đại, các đầu mối giao thông trọng yếu (trên đường số 1, 10, 12, 15, 16, 20),
công trình kinh tế, vùng đông dân cư, … Sự đan xen chiến đấu giữa các lực lượng
tạo nên thế trận phòng thủ vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu, dựng lên lưới lửa
phòng không nhiều tầng lớp với nhiều loại hỏa lực từ thô sơ đến hiện đại cũng như
tạo thế đánh tàu biệt kích Sài Gòn và tàu chiến Mỹ ở bất cứ địa điểm nào ven biển.
Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nổi lên là sự phối hợp của nhiều lực
lượng trong cùng một trận đánh như trận đầu đánh máy bay Mỹ (2-1965) của hải
quân sông Gianh và các lực lượng trên bờ (28-4-1965), trận đánh tàu chiến Mỹ của
pháo binh (17-5-1967), … Để giành được thắng lợi của mỗi trận đánh, đặc biệt là
của bộ đội tên lửa, pháo binh phải có sự hiệp đồng của nhiều lực lượng. Chẳng hạn,
để đưa pháo hoặc tên lửa vào trận địa phải có dân quân tham gia xây dựng công sự,
cùng công binh đảm bảo đường sá, ngụy trang, có bộ phận cảnh giới phát hiện địch
từ xa; khi vào trận, tên lửa đánh địch ở tầm cao phải có cao xạ và súng bộ binh đánh
địch ở tầm thấp, phải có bộ phận tiếp đạn, tiếp lương, cứu thương, phải có trận địa
giả để đánh lừa địch, sau mỗi trận đánh phải cơ động lực lượng đến vị trí mới để
tránh bị đối phương phát hiện, …; khi pháo binh đánh tàu chiến cũng phải có sự
hiệp đồng lực lượng như vậy.
Với đông đảo các lực lượng vũ trang, bán vũ trang và nhân dân tham gia chiến
đấu trên địa bàn Quảng Bình, hình thái chiến tranh nhân dân được bố trí một cách
khoa học, vừa đảm bảo phát huy sức mạnh và lợi thế của các quân, binh chủng và
lực lượng phối hợp, vừa tạo thuận lợi cơ động chiến đấu để hỗ trợ chi viện lẫn nhau,
đảm bảo cho tất cả các lực lượng tham gia chiến đấu đều phát huy mọi khả năng
đánh địch và giành thắng lợi. Về cơ bản, lực lượng bộ đội chủ lực của Trung ương
và Quân khu 4 được bố trí ở những địa bàn có các tuyến vận tải chi viện chiến lược
cho chiến trường, các khu vực tập trung tiềm lực quân sự và kinh tế, kho tàng, bến
bãi, cầu phà, đặc biệt là tuyến vận tải đường Hồ Chí Minh, kết hợp với việc bảo vệ
các cơ quan Nhà nước và các khu dân cư. Các đơn vị chủ lực chịu trách nhiệm đánh
152
địch tầm cao, tầm xa và hỗ trợ lực lượng bán vũ trang đánh địch ở tầm thấp, tầm
gần, sẵn sàng phối hợp đánh địch khi có tình huống đổ bộ đường không và đường
biển, truy bắt gián điệp, biệt kích. Các lực lượng vũ trang địa phương và bán vũ
trang được bố trí xen kẽ trên tất cả các địa bàn sản xuất và sinh sống của nhân dân.
Các đơn vị trực chiến của lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ cùng
nhân dân triển khai xây dựng phòng tuyến chiến đấu, hệ thống trận địa liên hoàn với
các mục tiêu bảo vệ của bộ đội chủ lực nhằm triển khai hợp đồng chiến đấu chi viện
và chia lửa lẫn nhau khi chiến sự xảy ra. Dân quân tự vệ không biên chế thường
trực chiến đấu vẫn được trang bị vũ khí để vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khi có
chiến sự, lực lượng này hướng dẫn các tổ xung kích trong nhân dân làm nhiệm vụ
cung ứng hậu cần, tiếp đạn, cứu hộ thương binh, sẵn sàng bổ sung đội hình chiến
đấu trong tình huống cần thiêt. Các điểm cao như núi đồi, lèn đá, những địa hình có
tầm quan sát rộng và tất cả những nơi có thể phát huy các khí tài quân sự để đánh
địch đều được xây dựng công sự để cơ động chiến đấu. Tất cả các làng mạc đều
được kết nối liên hoàn bằng hệ thống các hào giao thông để triển khai đội hình
chiến đấu và sơ tán dân ra khỏi vùng chiến sự.
Như vậy, hình thế chiến trận của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình rất đa
dạng, phong phú, nhiều tầng, nhiều lớp nhưng vẫn phân định rõ các tuyến và các
khu vực trọng điểm, kết nối liên hoàn trong một địa bàn đa dạng địa hình, vừa phát
huy lợi thế của các lực lượng chiến đấu, vừa hạn chế khả năng đánh phá của địch.
4.1.3. Diễn ra trên khắp các lĩnh vực, trong đó giao thông vận tải là nóng
bỏng nhất
Bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, quân dân Quảng Bình
phải thực hiện cả 4 nhiệm vụ hết sức quan trọng là tổ chức sản xuất, đảm bảo đời
sống nhân dân và tăng cường tiềm lực cho cuộc chiến đấu; tổ chức đảm bảo
mạch máu giao thông vận tải, giữ vững tốc độ và yêu cầu chi viện chiến trường;
Tổ chức lực lượng cơ động đánh địch trên chiến trường miền Nam, cùng chia lửa
với đồng bào Trị - Thiên; tổ chức đánh địch và thắng địch tại chỗ trên đất
Quảng Bình [33, tr. 389].
153
Trong điều kiện bình thường, sản xuất là hoạt động tất yếu của bất cứ nền kinh
tế nào nhưng đối với Quảng Bình, yêu cầu của sản xuất còn cao hơn thế, đó là một
mặt trận thực sự, khi chính nó phải đương đầu với bom đạn Mỹ để đảm bảo những
nhu cầu tối thiểu tại chỗ cho lực lượng ngày càng đông đảo trong điều kiện đường
chi viện từ Trung ương thường xuyên bị gián đoạn. Ở góc độ này, việc sản xuất tại
chỗ của Quảng Bình nhằm thay thế nguồn hàng từ Trung ương, để ưu tiên dành cho
quân sự và chi viện chiến trường còn gián tiếp góp phần đánh Mỹ. Nhìn từ góc độ
chiến tranh nhân dân thì sản xuất đảm nhận nhiệm vụ rất quan trọng, đó là xây dựng
hậu cần tại chỗ cho các lực lượng tham gia thế trận chiến tranh nhân dân.
Ngay khi có chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế của Trung ương, Tỉnh
ủy Quảng Bình chỉ đạo các địa phương và đơn vị nhanh chóng đưa mọi hoạt động
sang thời chiến, theo nề nếp quân sự hóa. Để đảm bảo duy trì ổn định sản xuất, đòi
hỏi mỗi người phải phấn đấu gắng sức làm việc bằng hai, Tỉnh ủy phát động phong
trào “Hai giỏi”, khơi dậy trong toàn dân khí thế thi đua sôi nổi, quyết tâm hoàn
thành mọi nhiệm vụ với kết quả cao. Trong 8 năm chiến tranh, nền kinh tế Quảng
Bình không những không bị tàn lụi như ý đồ của Nhà Trắng mà trong chừng mực
còn có những bước tiến nhất định, trong đó thành công lớn nhất là tự túc được
lương thực và một số nhu yếu phẩm cần thiết trong điều kiện bị Mỹ bao vây, chia
cắt và cô lập.
Một nhiệm vụ quan trọng, vô cùng cấp bách nhằm bảo toàn lực lượng, bảo vệ
sinh mạng quần chúng là công tác phòng không nhân dân. Ngay từ đầu, song song
với đánh trả máy bay và tàu chiến Mỹ, các ngành và địa phương đặc biệt chú trọng
công tác phòng không nhân dân, coi đó là một bộ phận của cuộc chiến tranh nhân
dân, một mặt tích cực để đánh thắng chiến tranh phá hoại. Việc xây dựng hầm hào,
sơ tán, canh gác, báo động, tổ chức cấp cứu, giải quyết hậu quả chiến tranh, ...
nhanh chóng được tổ chức quy củ. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền nên quần
chúng thấu hiểu đặc điểm địa hình của tỉnh, đất hẹp nhưng hệ thống giao thông
chằng chịt, dân cư tập trung ven sông và các tuyến đường, dễ thiệt hại khi bị đánh
phá nên phương án tốt nhất để có thể trụ lại địa bàn, chiến đấu là phải bám đất, bám
154
ruộng để sản xuất và chiến đấu với phương châm “nhà che nắng che mưa, hầm che
xương che thịt”. Kinh nghiệm của xã Ngư Thủy “có Đảng, có dân, có hầm, có
hợp” 1 được nhân rộng ra toàn tỉnh nên dù Mỹ có đánh phá ác liệt đến đâu cũng
không thể làm lay chuyển ý chí chiến đấu của quân dân Quảng Bình.
Trong sơ tán, ở Quảng Bình có nhiều hình thức như sơ tán - dãn dân tại chỗ,
phân tán mỏng dân số, di chuyển đến địa điểm khác, nơi vùng trung du, bán sơn địa
để xây dựng làng mới nhưng vẫn đảm bảo sản xuất và chiến đấu lâu dài như thị xã
Đồng Hới, một số xã ven biển, … Việc làm này góp phần khai hoang vùng gò đồi,
kết hợp xây dựng kinh tế với quốc phòng, đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ
chiến đấu và phát triển lâu dài. Ngoài ra, Quảng Bình còn thực hiện nhiệm vụ đặc
biệt là góp phần quan trọng đảm bảo an toàn cho hàng vạn người dân Vĩnh Linh và
Quảng Trị sơ tán ra các tỉnh phía Bắc trong kế hoạch K8, K10.
Trong chiến đấu, quân dân Quảng Bình đã đánh trả hàng ngàn trận với máy bay,
hàng trăm trận với tàu chiến và hàng chục trận với biệt kích Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Với tinh thần “nhằm thẳng quân thù mà bắn”, mãi đi vào lịch sử là những
chiến công xuất sắc “lần đầu tiên” của quân dân Quảng Bình như đội tự vệ hồ nước
Cẩm Ly hạ được máy bay AD6 bằng súng bộ binh vào ban đêm (20-4-1965), nữ dân
quân Hưng Thủy hạ máy bay trinh sát điện tử RF4C (27-7-1967), trung đội nữ dân
quân xã Võ Ninh lần đầu tiên độc lập tác chiến bắn rơi máy bay chiến đấu F4H (11-
10-1967), nữ dân quân xã Tiến Hóa có sáng kiến lập trận địa trên lèn cao bắn rơi máy
bay (14-8-1968), dân quân xã Phú Trạch dùng hỏa lực tầm thấp hạ được máy bay
F.111A (7-11-1972), … Quảng Bình cũng là địa phương duy nhất của miền Bắc bắt
sống được phi công vũ trụ Mỹ (Schumacher). Với thành tích hạ 704 máy bay Mỹ,
Quảng Bình là ngọn cờ đầu của miền Bắc, nhiều lần được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư khen ngợi, Đảng và Chính phủ biểu dương. Trên mặt biển, những chiến công như
chỉ trong một đêm, Đại đội 10 pháo binh tỉnh bắn cháy 3 tàu biệt kích Sài Gòn (22-4-
1. “Hợp” là Hợp tác xã. Trong chiến tranh thì hợp tác xã là tế bào kinh tế đảm bảo cho nhân
dân ổn định đời sống và hỗ trợ nhân dân vượt qua khó khăn trong điều kiện chiến tranh.
155
1966), của đại đội nữ dân quân pháo binh duy nhất của miền Bắc (Ngư Thủy) 5 lần
lập công bắn cháy tàu chiến Mỹ hay đặc biệt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai,
trên vùng biển Quảng Bình, lực lượng không quân nhân dân Việt Nam tập kích thành
công, đánh bị thương 2 tuần dương hạm Mỹ (19-4-1972), … Ở cả tuyến biên giới và
bờ biển, phần lớn những toán biệt kích xâm nhập đều bị phát hiện và vô hiệu hóa, góp
phần đập tan ý đồ thu thập tin tức phục vụ cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Trong việc chuyển tiếp sức mạnh của hậu phương miền Bắc vào chiến trường
miền Nam, căn bản và cấp thiết trước hết là đảm bảo huyết mạch giao thông vận tải.
Do vị trí chiến lược của Quảng Bình nên đảm bảo giao thông vận tải là mặt trận
nóng bỏng nhất, diễn ra xuyên suốt, với nhiều công việc đan xen nhau như giữa mở
đường mới, chiến đấu bảo vệ đường, sửa chữa, vận chuyển, …
Nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải để phuc vụ sản xuất và chiến đấu, đặc
biệt là đảm bảo thông suốt cho tuyến chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền
Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam là nhiệm vụ nóng bỏng không chỉ riêng Quảng
Bình mà là của toàn miền Bắc trong thời kì này. Tuy nhiên, với vị thế là tuyến đầu
của miền Bắc, là điểm cuối trên hành trình chi viện tới cửa ngõ chiến trường thì việc
đảm bảo giao thông, chi viện chiến trường tại địa bàn Quảng Bình có ý nghĩa đặc
biệt, quyết định thành bại của công cuộc chi viện này cho nên mặt trận giao thông
vận tải ở Quảng Bình là nóng bỏng nhất. Thực tiễn này đã được chiến tranh nhân
dân ở Quảng Bình xác chứng:
Thứ nhất, tính chất nóng bỏng trên mặt trận đảm bảo giao thông vận tải do vị
thế Quảng Bình là nút thắt của toàn tuyến chi viện từ miền Bắc vào. Hàng chiến
lược có thể vận chuyển qua nhiều địa phương, kể cả địa bàn ác liệt Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh và một số địa phương khác, có nguồn lực dự trữ, bổ sung nhưng
khi vào đến Quảng Bình thì trở thành nguồn lực duy nhất để đưa vào chiến trường.
Nếu bị chặn đứng ở Quảng Bình thì chắc chắn chiến trường miền Nam sẽ khó khăn.
Do đó đảm bảo giao thông vận tải phải được thực hiện bằng mọi giá.
Thứ hai, chỉ có từ Quảng Bình, hàng chi viện cho chiến trường mới có cơ hội
lan tỏa qua tuyến đường Trường Sơn vào thẳng chiến trường Trị Thiên, Nam Trung
156
Bộ và vượt biên giới qua Lào, Campuchia để vừa chi viện cách mạng Lào,
Campuchia, và từ đó chuyển tiếp vào Nam Bộ.
Thứ ba, địa bàn Quảng Bình với địa hình bị chia cắt hiểm trở bởi Đèo Ngang,
đèo Lý Hòa, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh, sông Nhật Lệ, … trở thành
những điểm huyệt cho chiến tranh bao vây, ngăn chặn của đế quốc Mỹ. Vì thế, vào
một số thời điểm, Quảng Bình bị cô lập, phải vận dụng sức mạnh của nhân dân làm
hậu thuẫn cho công tác đảm bảo giao thông chi viện chiến trường. Chính điều đó
làm tăng thêm tính nóng bỏng của mặt trận giao thông vận tải.
Với mạng lưới dọc ngang, trên tất cả các tuyến đường biển, đường sông,
đường bộ, đường goòng, kể cả đường không, chằng chịt như “trận đồ bát quái”,
trải rộng ở tất cả các địa phương; gần như tất cả các tuyến đường, đầu mối giao
thông ở Quảng Bình đều là trọng điểm đánh phá, ngăn chặn của các lực lượng
không quân, hải quân Mỹ. Do đó, đảm bảo giao thông vận tải không còn đơn thuần
là nhiệm vụ của ngành giao thông mà là nhiệm vụ chung của tất cả các lực lượng
theo tinh thần “toàn dân đảm bảo giao thông vận tải”. Có thể khẳng định rằng đảm
bảo giao thông vận tải chính là nơi sức mạnh của toàn dân được thể hiện cao nhất.
Tham gia xây dựng và sửa chữa đường sá, ngoài công binh của Đoàn 559, công
binh Quân khu 4, bộ đội Sư đoàn 325 và công nhân ngành giao thông Quảng Bình,
một lực lượng lớn thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến của địa phương và
các tỉnh phía Bắc được huy động như Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, …
sát cánh cùng nhân dân địa phương.
Quảng Bình là nơi đặt các chân hàng, kho hàng, cất giữ, bảo vệ, bảo quản
hàng. Ngoài các kho hàng chính (3 tổng kho của các binh trạm 12, 14 và 16 thuộc
Đoàn 559), hầu như địa phương nào cũng là nơi cất giấu hàng hóa. Hàng vào đến
sông Gianh được bốc xếp xuống bến bãi bờ Bắc, lực lượng tại chỗ có nhiệm vụ
chuyển tiếp sang bờ Nam trước khi trời sáng. Xác định rõ trách nhiệm, Huyện ủy
Quảng Trạch đề ra nguyên tắc quản lí “Đảng ủy xã là chủ hàng, dân quân là công
nhân bốc xếp, nền nhà dân là kho hàng”, ở Quảng Ninh, “Chủ tịch là chủ hàng,
phụ lão giao lương, bà mẹ phơi phóng, toàn dân bảo quản”. Mỗi người dân ở
157
Quảng Bình xem việc tham gia đảm bảo giao thông vận tải là trách nhiệm của chính
mình, là nhiệm vụ mang tính thường trực. Họ tự xác định và hình thành thói quen:
“Cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”. Từ Võ Ninh,
Quảng Thuận, Đức Trạch, Hải Trạch, với quyết tâm“Đường chưa thông, không tiếc
máu xương”, “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến!”, “Nhường nhà để hàng,
nhường làng dấu xe”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, … trở thành phương châm
hành động chung của tất cả mọi người. Tham gia vận chuyển, bất cứ người dân nào
cũng là người bốc dỡ, bất cứ phương tiện nào cũng có thể tham gia. Về vận tải thủy
có tàu biển, sà lan, phà, thuyền buồm, thuyền giã đôi, thuyền trọng tải nhỏ, thuyền
nan, … Về vận tải bộ có goòng, ô tô, xe đạp, xe cút kít, xe trâu, gánh bộ, gùi thồ, …
Những chiến dịch vận chuyển lớn, hầu như tất cả quần chúng được huy động như
bộ đội, cán bộ công nhân viên các cơ quan xí nghiệp, dân quân tự vệ, học sinh,
người già, phụ nữ, trẻ em, …
Để giữ vững giao thông, đảm bảo thông tuyến, các địa phương đưa ra nhiều
biện pháp, áp dụng nhiều sáng kiến. Đó là tổ chức, động viên các thôn, xã, xí
nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường huấn luyện cho dân quân, tự vệ và
thanh niên kĩ năng đơn giản về chữa đường, cứu sập hầm, cứu xe, cứu hàng, gỡ
bom nổ chậm; chuẩn bị các điểm tránh đường, các điểm theo dõi, báo động phòng
không; chuẩn bị phương tiện, công cụ (cầu/phà); xác lập các phương án dự phòng
sẵn sàng thay thế, … Mỗi tuyến đường lại có cách riêng tự bảo vệ/bảo đảm giao
thông. Như ở Lệ Thủy, mỗi gia đình ở hai bên Quốc lộ 1 và Đường 15 luôn chuẩn
bị sẵn 1-2 gánh bổi, 2-3 bao hoặc rổ đất đá để sẵn sàng lấp hố bom, thông đường
thông xe [2, tr. 185-186].
Chiến đấu để bảo vệ đường là công việc xuyên suốt, liên tục, thường xuyên
đối phó với cái chết ngày đêm rình rập từng giờ từng phút của các lực lượng đảm
bảo giao thông. Đó là cuộc chiến để vượt lên chính mình, là nơi thể hiện khả năng
sáng tạo vô bờ bến của quần chúng nhân dân. Để các tuyến đường được thông suốt,
họ phải chịu đựng khó khăn gian khổ ác liệt gấp bội bởi không chỉ đạn bom, mà
thiếu thốn trăm bề về vật chất và đời sống tinh thần, bệnh tật nơi rừng sâu nước độc.
158
Ở vùng đồng bằng đông dân dù khó khăn nhưng vẫn còn thuận lợi hơn những trọng
điểm ở miền Tây luôn chịu cảnh trên bom dưới đạn, thiên tai hoành hành nhiều lúc
làm mọi người dễ nản lòng như vừa đào đắp vá sửa đường xong, bom đạn Mỹ lại
phá cày xới hoặc mưa rừng bão lũ cuốn bay tất cả công sức xuống suối, xuống vực.
Lao động, chiến đấu cực kì vất vả trong điều kiện thiếu lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, … nhưng bằng ý chí và niềm tin vào thắng lợi, tất cả đều vượt
qua. Trên Quốc lộ 1, Đường 15 và tuyến đường Trường Sơn, “Bám đường, mặt
đường mà chiến đấu”, “địch đánh rừng già ta ra rừng non. Địch đánh rừng non ta
ra đồi trọc”, “Máu 759 có thể đổ. Đường 759 không bao giờ tắc”, … trở thành
khẩu hiệu hành động của lực lượng thanh niên xung phong, công nhân giao thông,
công binh Trường Sơn, Ban 67, … bám trụ công trường để hoàn thành nhiệm vụ.
Để đảm bảo giao thông vận tải qua địa bàn, vì lợi ích chung của cả dân tộc, vì
sự nghiệp thống nhất đất nước, người dân Quảng Bình đã không tiếc máu xương và
tài sản của mình, góp trên ba triệu ngày công đào hầm, làm trận địa phục vụ chiến
đấu, trên ba triệu ngày công phục vụ bốc dỡ, vận chuyển, … phục vụ giao thông vận
tải, chuyển hơn 1,7 triệu tấn hàng giao cho các binh trạm của Đoàn 559 đưa vào
chiến trường. Trong quá trình lao động và chiến đấu mở và bảo vệ đường, bảo đảm
giao thông thông suốt, từ tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc và nồng nàn,
Quảng Bình lại sáng lên tấm gương tập thể, cả tỉnh/toàn thể cộng đồng các dân tộc
anh em về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhiều tên đất, tên người mãi khắc ghi
dấu ấn của cả một thế hệ luôn sẵn sàng hết mình vì Tổ quốc. Đó là những địa danh
dọc theo các đường Quốc lộ 1, 10, 12A, 20, 15: phà Gianh, Quán Hàu, Long Đại,
Xuân Sơn, Khe Rinh, Cổng Trời, đèo Mụ Dạ, A-T-P, hang Tám Cô, Cự Nẫm,
Thanh Khê, Mỹ Đức…; những đơn vị, tên người như các phân đội nữ dân quân trực
chiến Ngư Thủy, Võ Ninh, Phong Thủy, Tiến Hóa …, rồi mẹ Suốt, chiến sĩ Trần
Đức Hè, đại đội phó Trần Thị Tình, đội viên Đinh Thị Thu Ngà, Nguyễn Thị Kim
Huế, Nguyễn Thị Nậy, …
4.1.4. Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 phát
triển vượt bậc theo thời gian
159
Với thế trận chiến tranh nhân dân đã được bố trí một cách khoa học và luôn ở
trong tư thế chủ động, sẵn sàng nên khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại
ở Quảng Bình, chúng vấp phải lưới lửa phòng không rộng khắp, chịu những tổn thất
lớn ngay từ trận đầu. Liên tục trong các ngày 7, 8 và 11-2-1965, 13 máy bay Mỹ bị
bắn rơi và các phi công bị bắt. Phát huy thắng lợi, khắp nơi trong tỉnh bừng lên
“quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nắm bắt tình hình, Tỉnh ủy Quảng Bình
đã có những chủ trương sát đúng, phát hiện và nâng tầm những khẩu hiệu sáng tạo
của quần chúng, làm dậy lên khí thế thi đua sôi nổi trong tất cả các địa phương, các
ngành, các đơn vị. Do đó, một điều dường như nghịch lí là chiến tranh dù có gây ra
những mất mát và hi sinh nhưng không làm cho Quảng Bình yếu đi mà trái lại, theo
thời gian, cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Bình ngày càng có những bước tiến
vững chắc, càng đánh càng mạnh.
Trong chiến đấu, từ những lúng túng ban đầu bởi thiếu kinh nghiệm và vũ khí,
các lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Bình có bước tiến vượt bậc, nhanh chóng
thích ứng, tìm ra phương cách đối phó có hiệu quả với vũ khí và thủ đoạn chiến
tranh mới của Mỹ. Như về chống biệt kích, từ chỗ có lúc để chúng xâm nhập, không
phát hiện được hoặc phát hiện nhưng không kịp huy động lực lượng để chúng gây
thiệt hại cho người và tài sản đến chỗ vô hiệu hóa toàn bộ; phối hợp với các lực
lượng bạn chủ động đánh địch từ xa, ngay trên vùng ngoại biên, tiến tới thực hiện
“gậy ông đập lưng ông”, sử dụng chính những tên biệt kích bị bắt để đánh lại địch.
Trong đánh máy bay, về tư tưởng, ban đầu nhiều nơi không tin súng bộ binh,
súng trường có thể hạ được máy bay Mỹ nên khi bị đánh phá không dám bắn trả.
Qua thực tế, một số máy bay bị bắn rơi có vết đạn của súng trường, lúc này Tỉnh ủy
Quảng Bình có cơ sở để tiến hành làm công tác tư tưởng trong toàn thể lực lượng,
quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, phát động phong trào dùng
súng bộ binh bắn máy bay Mỹ [14, tr. 16]. Từ đó, tinh thần của các lực lượng vũ
trang, nhất là đối với dân quân tự vệ, mới có những chuyển biến tích cực. Từ phong
trào “tay cày tay súng”, “tay súng tay búa”, dân quân tự vệ tiến lên tổ chức trực
160
chiến có trọng điểm, kết hợp với các đơn vị chủ lực đánh địch quy mô lớn, với
nhiều trận hiệp đồng đa lực lượng.
Về vũ khí, đối phó với sự cải tiến nhanh chóng của vũ khí Mỹ, từ chỗ ban đầu
chỉ chủ yếu có súng bộ binh của lực lượng dân quân tự vệ, súng 12,7ly của bộ đội
địa phương và cao nhất chỉ có 4 khẩu pháo cao xạ 37ly của Sư đoàn 325 trong trận
mở đầu (ngày 7-2-1965), đến chỗ tăng cường dần nhiều trung đoàn cao xạ, bộ đội
tên lửa và không quân, tiến tới lập Bộ Tư lệnh phòng không với quy mô trên sư
đoàn phòng không hỗn hợp, tạo nên sự hiệp đồng binh chủng quy mô lớn ngay trên
đất Quảng Bình, …
Việc mạnh dạn trang bị những vũ khí hiện đại như B.40, B.41, ĐKZ, súng cối,
cao xạ 12,7ly, pháo 85ly, 100ly cho bộ đội địa phương và dân quân thể hiện sự
trưởng thành về trình độ, khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang Quảng Bình.
Đưa lực lượng dân quân gánh vác trọng trách bảo vệ vùng biển trong điều kiện bờ
biển dài nhưng lực lượng pháo binh mỏng, không đủ sức bao phủ phòng thủ toàn
tuyến, với hiệu suất cao như đại đội pháo binh nữ Ngư Thủy là nét nổi bật. Dù tính
năng còn hạn chế nhưng nằm trong tay các chiến sĩ dân quân tự vệ, bộ đội địa
phương Quảng Bình, nhiều loại vũ khí đã phát huy hiệu lực, lập nên những chiến
công xuất sắc như hạ gục những thế hệ máy bay hiện đại nhất của Mỹ bằng súng bộ
binh: F111A, máy bay trinh sát điện tử, …
Nghệ thuật quân sự cũng có những bước tiến vượt bậc, nhất là trong đối phó
với máy bay và tàu chiến, nhiều trận đạt hiệu suất chiến đấu cao. Từ chỗ đánh địch
bằng những vũ khí thông thường, tiến tới sử dụng lực lượng tên lửa, không quân
hiệp đồng đánh địch; Từ chỗ thụ động chờ địch đến mới đánh trả đến xây dựng trận
địa giả, chủ động nghi binh lừa địch đến để đánh hoặc bố trí chọn đường bay mai
phục đón đánh hoặc xây dựng trận địa ở những nơi địch không ngờ đến (đưa trận
địa lên lèn cao) hoặc lập trận địa pháo ở nơi địch chủ quan (trận 17-5-1967 hoặc của
dân quân Ngư Thủy) thậm chí dùng máy bay tiêm kích chủ động đánh địch ngoài
khơi xa ở nơi chúng cho là an toàn khiến địch không kịp trở tay. Việc đẩy tàu chiến
Mỹ ra xa đã mở rộng khu sản xuất trên biển và hạn chế mức độ bắn phá đất liền của
161
chúng. Hoặc ban đầu sự phối hợp chiến đấu giữa hải quân và các lực lượng khác
trên bờ chưa tốt. Bộ đội hải quân còn tâm lí chủ quan, khinh địch, mặc dù Tỉnh ủy
Quảng Bình đã đề nghị phân công hải quân tập trung chống biệt kích trên biển, còn
đối với máy bay Mỹ cần quán triệt phòng tránh là chính, đồng thời phải xây dựng
công sự để sẵn sàng chiến đấu khi bị đối phương phát hiện [14, tr. 12]. Tuy nhiên,
đề xuất này chậm được hải quân khắc phục nên dẫn đến tổn thất lớn trong trận chiến
ngày 28-4-1965. Nhưng chưa đầy 3 tháng sau, ngày 13-7, hải quân và các lực lượng
phối hợp đã thiết lập trận địa giả, dụ máy bay Mỹ đến để tiêu diệt.
Như vậy, nhờ chủ động xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân
Quảng Bình ra quân trận đầu đã giành được chiến thắng giòn dã, càng đánh càng
mạnh, phát triển vượt bậc về mọi mặt. Đó là đã nâng cao được tri thức quân sự, trình
độ kĩ - chiến thuật, vận dụng nghệ thuật chiến tranh nhân dân để phát huy sức mạnh
của các lực lượng chiến đấu, khai thác điểm yếu của kẻ thù, giành thắng lợi cả về
chính trị, kinh tế và quân sự. Đó chính là nhân tố cơ bản nhất, quyết định thắng lợi
trước cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đúng như lời khen ngợi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Quảng Bình càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh”
[127, tr. 350].
4.2. Ý nghĩa lịch sử
4.2.1. Góp phần quan trọng cùng với miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ
Thực hiện cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân chống Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, đế quốc Mỹ nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, qua đó hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho
cách mạng miền Nam, nhằm tiến tới kết thúc chiến tranh trên thế mạnh. Với ý đồ
đó, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nhà Trắng đã huy động một lực lượng
máy bay, tàu chiến hùng hậu thực hiện cuộc tấn công chiến tranh tổng lực nhằm vào
một quốc gia nhỏ bé vừa giành được độc lập, có tiềm lực thua kém Mỹ về mọi mặt
rất nhiều lần. Giới chức Mỹ tưởng rằng, sức mạnh “không thể tưởng tượng được”
162
đó sẽ buộc Việt Nam Dân chủ cộng hòa nếu không “trở lùi về thời kì đồ đá” thì
cũng nhanh chóng bị đo ván.
Nhưng Nhà Trắng đã tính nhầm!
Đối mặt với chiến tranh tổng lực là một thế trận chiến tranh nhân dân được
hình thành trên cơ sở sức mạnh tổng hợp và chính nhờ sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh nhân dân mà quân dân miền Bắc đã chế ngự được chiến tranh tổng lực của đế
quốc Mỹ. Nơi đối đầu quyết liệt nhất chính là Quảng Bình.
Mặc dù phải tung hết tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất (trừ bom nguyên tử), kể
cả “con át chủ bài” B.52 và phần lớn lực lượng của Hạm đội 7 “Chúa tể đại
dương”, vào cuộc chiến tranh leo thang kéo dài nhưng vấp phải lưới lửa phòng
không thuộc hàng “dày đặc nhất thế giới” của quân dân miền Bắc, cuối cùng Hoa
Kỳ phải chấp nhận thất bại, kí kết Hiệp định Paris rút quân về nước sau khi bị đánh
bại bởi trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972. Mỹ phải trả giá rất đắt,
3.978 máy bay các loại bị bắn hạ, 268 tàu chiến, tàu biệt kích bị bắn cháy, bắn chìm.
Thiệt hại lớn hơn đó là uy thế của không lực Hoa Kỳ bị đập tan bởi cuộc chiến tranh
nhân dân mà quân dân miền Bắc đã thực hiện. Đứng về phương diện ngăn chặn, rõ
ràng Mỹ đã thất bại hoàn toàn. Trong hai lần Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại
(1965-1968 và 1972-1973), dòng chi viện từ miền Bắc cho cách mạng miền Nam
không ngừng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu lấy năm 1965 làm mốc (=
1) thì khối lượng chi viện tiền tuyến những năm tiếp theo như sau: năm 1966 là 2,4;
năm 1967 là 4,4; năm 1968 là 8,0; năm 1969 là 7,6; năm 1970 là 9,4, năm 1971 là
9,0 và năm 1972 là 15,6 [36, tr. 569].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nếu tổng kết cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện thì cần nghiên cứu ở Quảng
Bình”. Do vị trí chiến lược của Quảng Bình đối với công tác chi viện cách mạng
miền Nam nên trong chiến lược ngăn chặn và phá hoại tuyến đầu miền Bắc,
Washington đã “ưu tiên” cho mảnh đất hẹp này tất cả những gì nổi trội nhất của
nền khoa học - quân sự khổng lồ Mỹ. Quảng Bình là địa bàn đầu tiên mà Mỹ thực
163
hiện đánh “trả đũa” và từng bước leo thang để thăm dò phản ứng từ miền Bắc và
dư luận thế giới, đưa vào thử nghiệm những vũ khí mới nhất. Ngược lại, đối với ta,
Quảng Bình là điểm nút có ý nghĩa chiến lược đối với công tác chi viện cách mạng
miền Nam, lại là hậu phương trực tiếp của chiến trường Trị - Thiên nên Trung ương
dành cho địa phương sự quan tâm lớn về mọi mặt, đảm bảo cho quân dân Quảng
Bình có thể đứng vững và chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Do đó,
Quảng Bình còn là nơi thử lửa quan trọng để tìm ra những phương thức đánh bại
các thủ đoạn và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Quảng Bình trở thành nơi
đụng đầu lịch sử giữa quân dân miền Bắc với các lực lượng không quân và hải quân
Mỹ trong những năm 1965-1973.
Trong chiến thắng chung của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ, quân dân Quảng Bình dẫn đầu miền Bắc về thành tích chiến
đấu, với 704 lần lập công bắn rơi máy bay, bắn cháy 86 tàu chiến và tàu biệt kích,
trong đó có những chiến công mang tính mở đầu và duy nhất. Từ Quảng Bình,
những kinh nghiệm tác chiến của Trung đoàn tên lửa 238 và 361 được đúc kết thành
tập tài liệu nổi tiếng “Cách đánh B.52”, phục vụ đắc lực cho các đơn vị ở miền Bắc
đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mỹ cuối năm 1972.
Trong khốc liệt của chiến tranh, ở nơi “túi bom chảo lửa”, Quảng Bình không
những đứng vững mà còn đảm bảo duy trì, phát triển sản xuất về mọi mặt, góp phần
giảm bớt sự chi viện từ Trung ương, để dành ưu tiên vận chuyển hàng quân sự và
chi viện chiến trường. Ở góc độ này, có thể nói Quảng Bình đã góp phần chia sẻ
gánh nặng cho miền Bắc, để dồn mọi nỗ lực đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ và chi viện chiến trường miền Nam.
Như vậy, về mặt quân sự, quân và dân Quảng Bình đã đóng góp vào thắng
lợi chung của miền Bắc trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại không
chỉ bằng những chiến công xuất sắc bắn rơi nhiều máy bay nhất, bắn cháy nhiều
tàu chiến nhất, tiêu diệt và bắt sống nhiều toán gián điệp biệt kích nhất mà quan
trọng hơn nữa là đã nêu một điển hình về việc xây dựng một thế trận chiến tranh
164
nhân dân, chủ động, mưu trí, sáng tạo đánh địch, đồng thời đảm bảo sản xuất, ổn
định đời sống và chi viện cao nhất cho chiến trường trong mọi tình huống. Từ thực
tế Quảng Bình đã đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho nhân dân miền Bắc
trong việc xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ.
Như thế, quân dân Quảng Bình đã góp phần to lớn, cùng miền Bắc đánh bại
cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
4.2.2. Góp phần quan trọng để Quảng Bình hoàn thành vai trò hậu phương
của cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên
Xuất phát từ vị trí chiến lược của Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
nên cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình không chỉ
để bảo vệ tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà còn để thực hiện nhiệm vụ
hậu phương của cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên. Cả hai
nhiệm vụ đó đan xen trên cùng một địa bàn, có tác dụng hỗ trợ cho nhau.
Chiến đấu chống máy bay, tàu chiến và biệt kích là để bảo vệ tính mạng, tài
sản của nhân dân và nhà nước, bảo vệ những thành quả của hơn 10 năm xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước đó, bảo vệ sản xuất, bảo đảm công tác chi viện cách mạng
miền Nam. Công tác phòng tránh tốt mới đảm bảo an toàn nhân lực để sản xuất,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Mặt khác, ở Quảng Bình có duy trì và mở rộng sản
xuất mới có thể tự đảm bảo tự cung cấp cho mình và có để chi viện chiến trường.
Như vậy, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sản xuất tại Quảng Bình là nhằm để bảo
vệ hậu phương. Hậu phương có vững mạnh mới có điều kiện để chi viện chiến
trường ngày càng lớn.
Sứ mệnh hậu phương của Quảng Bình ngoài những nét chung còn có những
khác biệt so với những địa phương khác trên miền Bắc, tất cả đều mang tính trực
tiếp, bởi chính vị trí tiếp giáp với chiến trường. Trước hết, công tác đảm bảo giao
thông ở Quảng Bình, đặc biệt là mở các tuyến đường ngang vượt Trường Sơn và
vận chuyển chiến lược là mang tính chi viện trực tiếp. Các tuyến đường, đặc biệt là
165
Đường 16 từ Lệ Thủy vào Khe Sanh, chính là con đường nối hậu phương với tiền
tuyến theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính thông qua các con đường này,
nhân tài và vật lực từ hậu phương miền Bắc mới được chuyển tải vào với cách
mạng miền Nam cũng như đến với cách mạng Lào. Có thể nói, trong suốt cả hai lần
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, giao thông vận tải ở Khu 4 nói chung đã ác liệt
nhưng đặc biệt Quảng Bình nói riêng càng ác liệt hơn, bởi có vượt qua được “nút cổ
chai” tại mảnh đất hẹp nhất nước này, hàng hóa chi viện mới có thể vào được chiến
trường. Tiếp theo, không chỉ đảm bảo vai trò hậu phương tại chỗ, Quảng Bình còn
chi viện nhiều mặt cho chiến trường. Về vật chất, ngoài nghĩa vụ đóng góp như
những địa phương khác, những thời điểm chiến trường yêu cầu đột xuất, Quảng
Bình luôn sẵn sàng đáp ứng, như năm 1968, dù vào vụ giáp hạt nhưng trước yêu cầu
khẩn thiết của chiến trường, nhân dân Quảng Bình đã “trút gạo trong nồi giúp Trị -
Thiên đánh Mỹ” được 2.600 tấn gạo. Hoặc cũng năm 1968, đáp ứng yêu cầu chi
viện vũ khí của chiến trường Trị - Thiên, Quảng Bình trích một nửa cơ số đạn dự
trữ của địa phương, gồm súng đạn cối 81, 82 ly, B.40, B.41 và ĐKZ (khoảng 30
tấn), do dân quân hợp tác xã Cảnh Dương vận chuyển vào [149, tr. 186-187]. Về
nhân lực, ngoài lực lượng thanh niên xung tham gia xây dựng, sửa chữa đường sá
(9.359 lượt người), Quảng Bình còn huy động một lực lượng lớn dân công hỏa
tuyến vào phục vụ chiến trường (11.455 lượt người). Dân công Quảng Bình luôn có
mặt ở những nơi chiến sự diễn ra ác liệt nhất, phục vụ bộ đội chủ lực vận chuyển
lương thực, đạn dược, giải quyết tử sĩ, thương binh, … Có đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ vẫn tình nguyện kéo dài công tác, nhất là vào những thời điểm mà cách mạng
miền Nam gặp khó khăn nhất như những năm 1968-1969. Cùng với bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương và dân quân Quảng Bình nhiều lần vào tăng viện, chiến đấu trên
chiến trường Trị - Thiên, góp phần hỗ trợ phong trào cách mạng ở hai tỉnh này vượt
qua những thời điểm khó khăn, ghìm chân địch tại chỗ, không cho chúng mở rộng
chiến tranh trên bộ ra Bắc, mà trong trường hợp này Quảng Bình sẽ là một chiến
trường trọng điểm. Khi đó, Quảng Bình không chỉ đối phó với cuộc chiến tranh phá
hoại bằng không quân, hải quân và pháo binh mà còn đối mặt với lục quân Mỹ.
166
Chiến tranh sẽ khốc liệt hơn và hậu quả chắc chắn sẽ tàn khốc hơn. Mặt khác, việc
tác chiến trên chiến trường Trị - Thiên sẽ góp phần rút ra những kinh nghiệm giúp
cho công tác bố phòng cũng như chiến đấu trong trường hợp chiến tranh trên bộ lan
rộng. Hỗ trợ chiến đấu, lực lượng an ninh của công an nhân dân vũ trang Quảng
Bình cũng sớm có mặt trên chiến trường Trị - Thiên, cùng lực lượng tại chỗ làm
sạch địa bàn, phục vụ có hiệu quả cuộc tiến công giải phóng Quảng Trị năm 1972.
Tổng cộng, có 18.686 bộ đội (735 nữ), 9.359 thanh niên xung phong, 11.455 dân
công hỏa tuyến có 39.500 người (có 7.904 nữ), chiếm 10,9% dân số. Tổng số lượt
bộ đội và dân quân tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên và Lào là 38.715
người (chiếm gần 10% dân số).
Quảng Bình còn là địa phương có những đóng góp có ý nghĩa quyết định trong
công cuộc chi viện chiến lược cho chiến trường. Quảng Bình là trung tâm, trạm
trung chuyển lớn nhất sức người và sức của từ miền Bắc chi viện cách mạng miền
Nam. Đảm bảo sự thông suốt của các tuyến đường vận chuyển là trách nhiệm nặng
nề của quân dân Quảng Bình. Trên thực tế, mọi sự chi viện của nhân dân miền Bắc,
của lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới cho sự nghiệp giải phóng
miền Nam, chỉ khi vượt qua được cửa ngõ yết hầu của địa bàn Quảng Bình mới
thực sự đến với chiến trường. Vì vậy, đóng góp của quân và dân Quảng Bình trên
mặt trận đảm bảo giao thông chi viện chiến trường là rất quan trọng. Với sự hỗ trợ
của Trung ương và các địa phương miền Bắc, các lực lượng tại chỗ đã đảm bảo
nguồn chi viện được đưa vào chiến trường với số lượng ngày càng lớn như đã nói ở
trên. Hậu phương Quảng Bình vững mạnh về mọi mặt còn làm chỗ dựa và hậu cứ
cho phong trào cách mạng hai tỉnh Trị - Thiên. Những đơn vị chiến đấu trên chiến
trường lấy Quảng Bình làm địa bàn tập kết lực lượng trước khi xuất phát cũng như
rút ra để củng cố lực lượng. Khi các vùng ở Trị - Thiên được giải phóng, để đảm
bảo an toàn, bà con lại được sơ tán ra Quảng Bình, như vào các năm 1967 và 1972.
Hoặc những lúc cách mạng ở Trị - Thiên gặp khó khăn, như sau Tết Mậu Thân
1968, Quảng Bình là địa bàn “tập kết” của nhiều cơ quan Dân - Chính - Đảng của
hai tỉnh. Ngoài ra, Quảng Bình còn thường xuyên làm nhiệm vụ thu dung, nơi chăm
167
sóc sức khỏe ban đầu cho những cán bộ và chiến sĩ từ chiến trường ra, chuẩn bị
nhân sự bộ máy chính quyền cho hai tỉnh sau ngày giải phóng, …
Với khối lượng công việc đồ sộ đó, có thể khẳng định rằng, trong những năm
1965-1973, quân dân Quảng Bình hoàn thành sứ mệnh hậu phương của mình đối
với cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên.
4.2.3. Làm dày thêm những giá trị sống của cộng đồng dân cư địa phương,
để Quảng Bình (cùng với Vĩnh Linh) thành tuyến đầu của miền Bắc trong kháng
chiến chống Mỹ
Từ trong chiều dài của lịch sử, Quảng Bình nhiều lần là miền đất biên viễn,
của cắt chia và đối đầu khốc liệt. Thế nhưng, ở miền đất tưởng chừng như bất lợi
cho sự phát triển đó lại tạo dựng nên những con người có những phẩm chất đáng tự
hào về năng lực sinh tồn trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, đúng như nhận
định của sử gia người Anh, Arnold Tonybee: “Những xứ nằm ở vùng biên viễn đều
có sinh lực mạnh mẽ” [153, tr. 775]. Có lẽ tồn tại và phát triển trong điều kiện khắc
nghiệt đó nên điều đáng ngạc nhiên nhưng dễ hiểu, Quảng Bình là nơi xuất thân
hoặc là nơi làm nên tên tuổi của hàng loạt nhà quân sự lớn của đất nước, từ Lý
Thường Kiệt, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Cảnh, Hoàng Kế Viêm,
Võ Xuân Cẩn, Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân … đến Võ Nguyên Giáp, Hoàng Sâm,
Đồng Sỹ Nguyên, … của thời hiện đại.
Trong những năm 1965-1973, trước khốc liệt của chiến tranh, nếu không
muốn nói là sự khốc liệt nhất và kéo dài nhất, thật khó lí giải vì sao Quảng Bình có
thể đứng vững và chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn của Mỹ nếu
không xét từ nguồn cội của nó là lòng dân, là truyền thống yêu nước của nhân dân
địa phương được khơi dậy, tập hợp và phát huy cao độ. Nếu như Nguyễn Trãi từng
tổng kết: “Nâng thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân” thì Đảng bộ xã
Nhân Trạch (huyện Bố Trạch) khái quát rất đơn giản những đã gói trọn sức mạnh
nhân dân, được đúc kết từ kinh nghiệm lịch sử: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu.
168
Khó vạn lần dân liệu cũng xong” 1. Có lẽ, sinh tồn dưới áp lực khắc nghiệt của lịch
sử vùng biên đã tạo lập cho người Quảng Bình một khát vọng sống, một khả năng
ứng biến với mọi hoàn cảnh. Những giá trị của sự sinh tồn đó đã được tiếp nối và
làm dày thêm trong tình hình mới, khi chưa bao giờ mà ranh giới giữa cái sống và
cái chết lại mong manh đến vậy. Nhưng cũng chưa bao giờ mà việc chấp nhận hi
sinh lại nhẹ nhàng đến thế. Đó cũng không phải là một vài cá nhân đơn lẻ mà trở
thành lẽ sống và phương châm hành động của cả một thế hệ. Đó là hình ảnh của
Đinh Thị Thu Ngà, từ vị trí tiếp đạn đã nhảy lên mâm pháo bắn trả máy bay Mỹ dù
biết hành động như vậy là sẽ hút hỏa lực đối phương vào mình; là Nguyễn Thị Nậy
dũng cảm ngồi trên bom nổ chậm để đồng đội yên tâm làm việc; là Trần Chí Thành
bật đèn pha xe chạy hướng khác để thu hút hỏa lực địch cứu đoàn xe chở học sinh
đi K.8; với khẩu hiệu “xe chưa qua, nhà không tiếc”, không chỉ một cá nhân mẹ
Trần Thị Choàng mà có tới 320 gia đình hiến nhà để cứu đường; là 150 gia đình ở
Võ Ninh, Hải Trạch, Đức Trạch dỡ 700m tường nhà lấy gạch đá lấp ngầm lót đường
cho xe qua; là những bà mẹ nhường hầm cho người đi sơ tán theo kế hoạch K.8,
K10; là những dân công hỏa tuyến lấy thân mình che chở thương binh; là những
trường hợp nhường nhau sự sống, tranh lấy nơi hiểm nguy về mình, như Võ Xuân
Nở lăn bom nổ chậm; là đội “quyết tử” Khe Rinh gồm 30 người luôn phải làm lễ
truy điệu sống trước mỗi lần vào trận giải phóng mặt đường; là Hà Văn Cách đội
trưởng rà phá bom mìn xã Võ Ninh tháo gỡ 49 quả bom chưa nổ các loại, để rồi hi
sinh cùng quả thứ 50; là chiến sĩ tự vệ Nguyễn Xảo (Võ Ninh) xung phong dùng
thuyền gắn máy chạy phá gần 100 bom từ trường; là những dân quân xã Cảnh
Dương sẵn sàng chấp nhận hi sinh để đưa vũ khí tiếp tế chiến trường Trị - Thiên
1968; là dân quân 11 xã vùng biển Quảng Trạch, Bố Trạch ròng rã trong 8 tháng
trời vượt qua phong tỏa ác liệt của của máy bay, tàu chiến Mỹ để tiếp nhận gạo trên
Vịnh Hòn La, … Hoặc như những trường hợp các địa phương có tuyến đường
Trường Sơn đi qua, nhân dân sẵn sàng dời nhà để làm đường hoặc chấp nhận những
1. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” nguyên là câu ca
dao kháng chiến của Thanh Tịnh, được Đảng bộ và nhân dân xã Nhân Trạch vận dụng để
phát động phong trào quần chúng, được Bác Hồ khen ngợi và phát động cả nước học tập.
169
tổn thất hi sinh trong trường hợp cho xe vận tải trú ẩn trong làng. Đại tá Nguyễn
Dân, Chính ủy các binh trạm 14, 26, 16 kể lại: “Thực tế cho thấy nếu chính quyền
các cấp tỉnh, huyện, xã và nhân dân địa phương nơi tuyến đường đi qua không tạo
điều kiện giúp đỡ thì dù cho bộ đội vận tải có đông đảo đến mấy cũng không thể
đưa quân, đưa hàng lên phía trước được nhiều như vậy. Thôn Cù Lạc thuộc xã Sơn
Trạch, ven đường 20 bị máy bay Mỹ ném bom đốt cháy, san thành bình địa bốn lần,
hàng trăm người bị chết, nhưng sau mỗi lần như vậy, dân làng lại dựng nhà, bám
trụ, làm bến, kho nhận chuyển hàng giúp đỡ bộ đội hết sức mình … Suốt 10 năm,
gần như ngày nào cũng như vậy, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, các gia đình lại đón khách
bộ đội, dành cho cán bộ, chiến sĩ chỗ ăn, chỗ ngủ” [131, tr. 455-456]. Đó chỉ là một
trong hàng trăm ngôi làng như thế ở Quảng Bình. Càng gian nguy thử thách, càng
chịu nhiều tổn thất lớn, khí phách và bản lĩnh của quân dân Quảng Bình càng được
thể hiện nơi tuyến lửa ác liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hoặc là đang vào vụ mùa giáp hạt nhưng trước lời kêu gọi của chiến trường, nhân
dân Quảng Bình trút những hạt gạo cuối cùng trong nồi ra để giúp Trị - Thiên đánh
Mỹ và sẵn sàng không nhận khi Trung ương hoàn lại, … Không chỉ quần chúng hay
các chiến sĩ mà ngay cả những người lãnh đạo cao nhất của tỉnh cũng để lại những
tấm gương về sự quên mình vì nhiệm vụ, như Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan
thường có mặt ở những trọng điểm đánh phá để cùng cán bộ, chiến sĩ thanh niên
xung phong, dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ thông đường cho xe vào mặt trận
[157, tr. 214-215]; như các cán bộ, chiến sĩ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, luôn có mặt ở
các trận địa với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, sẵn sàng lên đường vào
tham chiến trên chiến trường miền Nam, …
Chưa bao giờ mà mục tiêu và lí tưởng sống vì cộng đồng, vì lợi ích dân tộc lại
hiển hiện ở khắp mọi nơi, trở thành lẽ sống của tất cả mọi người như thế. Chưa bao
giờ những mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội lại cụ thể và tưởng chừng như gần
đạt đến như thế. Chưa bao giờ khối đại đoàn kết toàn dân lại chặt chẽ như thế. Cũng
chưa bao giờ mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng lại gắn bó máu thịt, gần gũi và
mật thiết như thế.
170
Lao động và chiến đấu trong chiến tranh cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng
bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc, người Quảng Bình đề ra những khẩu hiệu
thấm đẫm tư tưởng cách mạng tiến công, chỉ dẫn hoạt động trong kháng chiến và ẩn
chứa triết lí sống trong tương lai, vì sự nghiệp chính nghĩa, vì dân, vì nước. Đó là
“Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến!”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc, đường
không thông, không tiếc máu xương”, “Nhường nhà để hàng, nhường làng dấu xe”,
… Những khẩu hiệu ra đời từ thực tiễn chiến đấu của các ngành, các đơn vị và địa
phương đã đi vào các Nghị quyết của cấp ủy một cách trang trọng, trách nhiệm.
Qua thực tiễn lao động và chiến đấu, Quảng Bình tôi luyện nên lớp người mới,
cách mạng trong tư tưởng, khoa học trong tư duy và phong cách lao động, công tác.
Đây chính là thành quả quý giá trong giáo dục con người, trao truyền mãi về sau.
Báo cáo Tổng kết trong Hội nghị Tỉnh ủy ngày 20-3-1967 viết: “Trải qua 10 năm
xây dựng … nhân dân Quảng Bình đã tôi luyện cho mình sự nhất trí về chính trị và
tinh thần, củng cố lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội … thể hiện bằng hoạt
động cách mạng cụ thể, bằng khí thế chiến đấu, phục vụ chiến đấu và đẩy mạnh sản
xuất” [18].
Và cái đạt được lớn nhất là qua thử thách của chiến tranh không phải là những
con số khô khan về thành tích đánh địch, hạ được bao nhiêu máy bay và tàu chiến, về
khối lượng hàng hóa chuyển tải được, về xây dựng được bao nhiêu km hầm hào, …
mà đó là bản lĩnh và ý chí của người Quảng Bình được tôi luyện, thử thách, hình
thành nên một lối tư duy, một nếp sống mới của thời đại, luôn vì mọi người, có khả
năng sáng tạo vô bờ bến, sẵn sàng ứng phó có hiệu quả với mọi thách thức. Đấy mới
chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh và thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình. Chính yếu tố đó đã làm cho Quảng Bình
đứng vững trước cuộc chiến tranh phá hoại khốc liệt của đế quốc Mỹ, hoàn thành
nhiệm vụ hậu phương của mình, để cùng với Vĩnh Linh trở thành tuyến đầu của miền
Bắc xã hội chủ nghĩa.
171
4.3. Bài học kinh nghiệm
Chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm
1965-1973 diễn ra hết sức phong phú, chứa đựng trong đó sự đúc kết cả trên
phương diện lí luận và thực tiễn. Dưới đây là một số bài học kinh nghiệm nổi bật:
4.3.1. Chủ động vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của
Đảng phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương
Đường lối chiến tranh nhân dân được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết
từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, vận dụng trong thời đại cách
mạng vô sản, từng bước hoàn chỉnh qua cuộc vận động cách mạng tháng Tám năm
1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Đường lối đó được vận
dụng và phát triển lên trình độ cao hơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả
hai miền Bắc Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, vạch ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân đúng
đắn, sáng tạo và phát động, tổ chức toàn dân kháng chiến, cả nước đánh giặc là một
cống hiến to lớn của Đảng trong thời đại mới và cũng là yếu tố quyết định nhất đưa
cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm (1945-1975) đi đến thắng lợi. “Có lẽ hiếm có ở
đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực
sự sâu rộng trong nhân dân, và thực sự vô địch như nhân dân” [96, tr. 32].
Thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng
Bình những năm 1965-1973 là kết quả của sự chủ động vận dụng sáng tạo đường
lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào địa bàn Quảng Bình.
Trước hết, đó là quán triệt sâu sắc phương châm lãnh đạo và chỉ đạo của
Trung ương Đảng về nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam Bắc, xác định cho cán
bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ vị thế chính trị của Quảng Bình
trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ
quốc. Nhiệm vụ đó được cụ thể hóa trong điều kiện thực tế của Quảng Bình là địa
phương ở vị trí tuyến đầu miền Bắc, hậu phương trực tiếp của miền Nam. Để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử đó, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Bình đã giáo dục
172
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tinh thần sẵn sàng đương đầu với khó khăn,
gian khổ, hi sinh, phát huy truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng để làm tròn vị thế là địa bàn có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến tranh
với tinh thần “xả thân vì nước”.
Thứ hai, huy động sự tham gia của toàn dân vào việc xây dựng thế trận. Thực
tế cho thấy, quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo nhất, có vai trò tuyệt đối
quan trọng trong việc phát hiện, hỗ trợ lực lượng vũ trang tiêu diệt các toán gián
điệp, biệt kích xâm nhập. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống máy bay và
tàu chiến Mỹ, quần chúng tại chỗ tham gia tiếp tế lương thực, đạn dược, xây dựng
trận địa, cứu chữa thương binh, xây dựng cầu đường, thông tin liên lạc, … Trong
lực lượng quốc phòng toàn dân, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba
thứ quân đủ về số lượng và đảm bảo vệ chất lượng vì nó là công cụ chủ yếu để tiến
hành chiến tranh nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc.
Trong hình thái chiến tranh diễn ra trên miền Bắc thì Quảng Bình là địa bàn có
sự triển khai đầy đủ nhất các quân, binh chủng của bộ đội chủ lực. Trên địa bàn này
không chỉ có các đơn vị chủ lực trên đường hành tiến vào chiến trường đã dừng
chân và triển khai đội hình chiến đấu khi có chiến sự xảy ra mà còn có các đơn vị
chủ lực được giao nhiệm vụ đóng chốt bảo vệ địa bàn với đầy đủ các quân, binh
chủng như phòng không, không quân, pháo binh, hải quân, bộ binh. Hình thế đó đòi
hỏi phải có sự phối hợp của lực lượng vũ trang địa phương (bao gồm bộ đội địa
phương và dân quân, tự vệ), đòi hỏi lực lượng vũ trang địa phương phải phát triển
và được nâng cao trình độ cả về tầm nhìn chiến lược, chiến thuật và năng lực chiến
đấu mới có thể hiệp đồng với quân chủ lực trên địa bàn để hình thành thế trận chung
cho cả 3 lực lượng.
Thứ ba, thường xuyên tổ chức huấn luyện, trang bị nâng cao trình độ chiến đấu
cho các lực lượng vũ trang, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc trang bị đủ khí tài
quân sự và nâng cao trình độ chiến thuật, kĩ thuật cho bộ đội địa phương để lực lượng
này đủ khả năng hợp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực trong một thế trận chung
173
Thực tế cho thấy, đối mặt với cuộc chiến tranh phá hoại quy mô của Mỹ trong
thế chênh lệch lớn về tương quan lực lượng và trình độ vũ khí, nhờ làm tốt công tác
huấn luyện, dự bị động viên, thường xuyên diễn tập những trường hợp giả định nên
quân dân Quảng Bình nhanh chóng tìm ra phương thức đối phó với những thủ đoạn
chiến tranh của Mỹ. Do Mỹ bắt đầu đánh phá và đưa vào sử dụng ở Quảng Bình
nhiều loại vũ khí mới nên để tìm ra cách đối phó, lần lượt nhiều đơn vị chủ lực của
phòng không - không quân được đưa vào đây chiến đấu. Quảng Bình trở thành nơi
thử nghiệm những vũ khí và phương thức đánh phá mới của Mỹ, đồng thời cũng là
nơi để ta tìm ra phương án đối phó hiệu quả nhất, phục vụ công tác bố phòng ở
miền Bắc sau đó, tiêu biểu là tài liệu “Cách đánh B.52”. Từ những vũ khí bộ binh
ban đầu, dần dần lực lượng dân quân tự vệ được trang bị những vũ khí của bộ đội
chủ lực, như B.40, B.41, DKZ, 12,7ly và cao hơn là pháo 85ly. Việc lực lượng dân
quân tự vệ được trang bị và sử dụng có hiệu quả những loại vũ khí mới này trong
bắn máy bay và tàu chiến Mỹ chứng tỏ bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác
chiến, đủ sức san sẻ và gánh vác trách nhiệm chiến đấu với bộ đội chủ lực. Do đó,
đi đôi với tăng cường số lượng, công tác huấn luyện nâng cao trình độ chiến đấu
cho các lực lượng, nhất là đối với dân quân tự vệ là rất cần thiết.
Thứ tư, thiết lập thế trận quốc phòng toàn dân, bảo đảm thế liên hoàn, vững
chắc, kết hợp thế trận tại chỗ với thế cơ động, thế trận rộng khắp với xây dựng thế
trận có trọng điểm, tập trung cho hướng, khu vực, mục tiêu chủ yếu, địa bàn chiến
lược. Trong điều kiện địa hình ở Quảng Bình bị chia cắt mạnh, ta đã tập trung xây
dựng mỗi khu vực thành một khu vực phòng thủ vững chắc, đảm bảo chiến đấu và
phục vụ chiến đấu tại chỗ tốt, như bắc sông Gianh, tứ giác sông Gianh - Xuân Sơn -
Long Đại - Quán Hàu, hoặc tập trung lực lượng cho các trọng điểm trên đường
Trường Sơn, … Trong lúc đó, công tác sản xuất, củng cố hậu phương tại chỗ được
đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, đảm bảo cho quân dân Quảng Bình có thể
chiến đấu lâu dài trong điều kiện nguồn chi viện từ Trung ương giảm hoặc có lúc bị
tắc. Thực tế cho thấy, với thế trận phòng thủ tại chỗ, với sự hiệp đồng tác chiến chặt
174
chẽ của nhiều lực lượng, vũ trang và phi vũ trang, ta không những đánh bại các thủ
đoạn đánh phá ngăn chặn, phong tỏa của Mỹ mà còn đạt hiệu suất chiến đấu cao,
tiêu diệt được nhiều máy bay và tàu chiến. Nhìn rộng ra, trên cơ sở điều chỉnh thế
bố trí chiến lược của nền kinh tế trên phạm vi cả nước, Nhà nước cần tăng cường
đầu tư xây dựng từng tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, bảo
đảm trong thời bình có khả năng tự lực giải quyết những tình huống khẩn cấp tại
chỗ; khi xảy ra chiến tranh thì chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiêu hao, tiêu diệt
sinh lực địch và đẩy quân địch vào thế bị động, sa lầy, tạo thời cơ và phối hợp chặt
chẽ với các binh đoàn chủ lực tiêu diệt địch. Việc xây dựng cơ sở thôn, bản, xã,
phường, các vùng biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng yếu vững mạnh toàn diện
được đặc biệt coi trọng.
Cùng với xây dựng khu vực phòng thủ, thế bố trí của các lực lượng vũ trang
điều chỉnh trên từng hướng chiến lược và trên phạm vi cả nước, hình thành thế trận
vững chắc và có tính cơ động cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi xử lí các tình
huống. Các lực lượng bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương được bố trí
hợp lí, kết hợp chặt chẽ với xây dựng hệ thống phòng thủ tạo thành thế liên hoàn,
vững chắc, hiểm hóc của thế trận quân sự trên các khu vực trọng điểm, bảo đảm khả
năng tác chiến của lực lượng vũ trang cả trên bộ, trên không, trên biển, đảo. Hậu
phương chiến lược, căn cứ hậu phương chiến lược, căn cứ hậu cần kĩ thuật của từng
vùng, từng hướng được xây dựng nhằm bảo đảm hoạt động cho nhân dân và lực
lượng vũ trang trong điều kiện chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, ... trong đó
khả năng độc lập, tự lực được quan tâm đúng mức.
4.3.2. Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động phòng, tránh, đánh trả
trong tình huống có chiến tranh bao vây, cô lập và ngăn chặn
Trong chiến tranh hiện đại, các nước có nền kinh tế - quốc phòng phát triển
như Mỹ và các nước Tây Âu thường sử dụng tổng lực các binh chủng hợp thành,
trong đó nòng cốt là lực lượng không quân và hải quân. Dựa trên thành tựu của nền
khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão, nhiều nước nhanh chóng sản xuất
175
hàng loạt vũ khí hiện đại, đa dạng hóa phương tiện chiến tranh. Thực tế một số cuộc
chiến tranh trong những thập kỉ gần đây (Iraq năm 1991 và 2003, Kosovo năm
1999, Apganixtan năm 2001, …) cho thấy, ngoài việc sử dụng những căn cứ không
quân ở các nước láng giềng, áp sát gần các mục tiêu (như đối với Việt Nam Dân chủ
cộng hòa trong chiến tranh phá hoại của Mỹ), sự kết hợp giữa máy bay ném bom
tầm xa với tên lửa hành trình phóng từ các tàu chiến ngoài khơi, tàu ngầm dưới biển
là xu thế phổ biến của chiến tranh hiện đại. Như ở Iraq, ngay từ đầu hệ thống phòng
không bị tê liệt, dẫn đến việc lực lượng liên quân do Mỹ đứng đầu chiếm ưu thế,
hoàn toàn làm chủ trên không, nhanh chóng đi đến kết thúc chiến tranh.
Ở Quảng Bình, từ trước ngày 7-2-1965, nhờ làm tốt công tác dự báo nên trong
cả hai nhiệm vụ phòng tránh và đánh trả đều luôn giành thế chủ động.
Trong phòng tránh, ngay từ cuối năm 1964, nhận định tình hình địch có khả
năng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Quảng Bình
đã triển khai ngay nhiệm vụ chủ động phòng tránh. Tỉnh đã chủ động tổ chức sơ tán
toàn bộ thị xã Đồng Hới về miền Tây, vừa để giãn dân vào những địa hình an toàn,
vừa có điều kiện đảm bảo cuộc sống thời chiến. Ở tất cả các địa bàn trong tỉnh đều
xây dựng các phương án phòng tránh nhiều tuyến, vừa sơ tán, giãn dân, vừa xây dựng
hệ thống hầm hào, giao thông, đưa toàn bộ cuộc sống xuống dưới mặt đất, kết hợp
liên hoàn giữa hệ thống các hầm trú ẩn cá nhân, hầm chữ A, nhà hầm, với các công
sự chiến đấu của các lực lượng vũ trang và bán vũ trang. Đó là hình thức phòng ngự
tích cực, vừa phòng tránh, vừa đánh địch.
Trong chiến đấu, để giành thế chủ động mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống,
việc xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu luôn đặt trong tình trạng báo động cao.
Do đó, dù Mỹ lợi dụng thời điểm trưa chủ nhật sau tết để tấn công nhưng quân dân
Quảng Bình không bị bất ngờ, kịp thời giáng trả, hạ nhiều máy bay và bắt sống
được phi công Mỹ, bảo vệ an toàn các trận địa. Rồi trong suốt diễn biến của cuộc
chiến đấu, nhờ làm tốt công tác ngụy trang, xây dựng trận địa nên tổn thất về lực
lượng phòng không thấp, bảo đảm cho lực lượng có thể chiến đấu lâu dài. Mặt khác,
từ các hoạt động tác chiến biển - đất liền của Mỹ trong chiến tranh phá hoại, có thể
176
tìm thấy được những bài học có giá trị về hệ thống phòng thủ bờ biển, hải đảo, từ đó
hình thành thế trận phòng ngự bờ biển hải đảo, cũng như thế trận của chiến tranh
nhân dân nhằm bẻ gẫy và đánh bại mọi ý đồ sử dụng công nghệ hiện đại để tiến
hành chiến tranh xâm lược, xung đột khu vực, … Thực tế cho thấy, trong tương
quan lực lượng với ưu thế nghiêng hẳn về hải quân Mỹ như số lượng tàu chiến, hỏa
lực và tầm xa của pháo trên tàu, nhưng để đánh địch, ở Quảng Bình có sự hiệp đồng
rộng lớn của pháo binh bờ biển của bộ đội tỉnh, pháo của dân quân Ngư Thủy, pháo
nòng dài của Quân khu 4 và sử dụng cả không quân. Nhờ vậy, Quảng Bình trở
thành địa phương dẫn đầu miền Bắc về thành tích bắn cháy, bắn chìm tàu chiến Mỹ.
Trong tình hình biển Đông đang nóng bỏng hiện nay, nguy cơ uy hiếp từ phía biển
bởi những hành động như sử dụng đội tàu đánh cá hùng hậu tràn ngập ngư trường,
giàn khoan khổng lồ xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, lực lượng bán vũ trang
nhiều lần tấn công tàu cá Việt Nam, hành động bồi đắp đảo nhân tạo, … Quảng
Bình do địa thế hẹp sẽ dễ trở thành mục tiêu đánh phá, uy hiếp, chia cắt nếu xảy ra
chiến sự. Do đó, đi đôi với công tác tình báo chiến lược, tình báo quân sự, tình báo
kinh tế, khả năng dự báo xu thế phát triển của vũ khí, năng lực quân sự các đối thủ
tiềm năng, kế hoạch xây dựng và bố trí lực lượng phòng thủ tại chỗ đủ sức đánh trả
và giành thắng lợi trước các cuộc tấn công từ trên không, trên biển phù hợp là hết
sức cấp thiết.
4.3.3. Gắn xây dựng thế trận với củng cố hệ thống chính trị và phát triển
kinh tế - xã hội để đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân
Một trong những thành công của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại ở Quảng Bình những năm 1965-1973 đó là xây dựng được một hệ thống
chính trị vững mạnh và năng động, tạo dựng được mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội và quần chúng nhân dân. Đảng dựa
vào dân và dân tin ở Đảng. Nổi lên trong tập thể lãnh đạo địa phương là tinh thần
gương mẫu, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì sự nghiệp chung. Đảng bộ
cơ sở có nhiều sáng kiến, vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương sát hợp với
đặc điểm của địa phương, để dấy lên những khẩu hiệu và phong trào thi đua nổi
177
tiếng, có tác dụng thúc đẩy các ngành, các địa phương và đơn vị hết mình vì sự
nghiệp chung giải phóng dân tộc. Chính đây là cơ sở để Quảng Bình đề xướng và
phát động phong trào thi đua “Hai giỏi”, có tiếng vang trong nước, trở thành điểm
khởi đầu, nhân rộng ra toàn quốc. Quảng Bình vinh dự được tôn vinh là quê hương
của phong trào “Hai giỏi”.
Phương châm “đâu khó có chỉ huy, đâu gian nguy có lãnh đạo” đã biểu hiện
rõ nét phẩm chất tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên Quảng Bình
trong những năm đánh Mỹ. Thực tiễn cho thấy, lòng tin của quần chúng vào Đảng
luôn được thể hiện bằng sự nhìn nhận những hành động cụ thể của cán bộ, đảng
viên ở cơ sở. Trong lãnh đạo và chiến đấu, hình ảnh của Bí thư Tỉnh ủy luôn có mặt
ở những “điểm nóng” để chỉ đạo các lực lượng ứng trực; các vị chỉ huy trong Ban
chỉ huy Tỉnh đội luôn có mặt tại các trận địa đánh máy bay và tàu chiến, trực tiếp
đưa các đơn vị vào chiến trường tham chiến. Trên mặt trận giao thông vận tải, các
thành viên trong Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban Hành chính tỉnh luôn
“miệng nói tay làm”, bám sát cơ sở, xông xáo trong chiến đấu. Chính vì thế, nhân
dân có niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng sống chết vì Đảng, vì
sự nghiệp cách mạng. Như năm 1972, khi máy bay B.52 vào xã Sen Thủy, lãnh đạo
địa phương đặt vấn đề nên sơ tán để bảo vệ dân hay tổ chức trụ lại? Trước cân nhắc
đó, nhân dân Sen Thủy trả lời: Đi đâu cũng phải có Đảng, Đảng ở lại thì dân ở lại.
Có Đảng thì dù B.52 hay B.56 gì cũng không sợ [164, tr. 276]. Đây là một nguyên
nhân quan trọng để Đảng bộ địa phương tập hợp được sức mạnh của toàn dân, trụ
vững trong chiến tranh ác liệt, làm tròn sứ mệnh của mình trong sự nghiệp kháng
chiến. Tập thể lãnh đạo các cấp của tỉnh Quảng Bình hoàn toàn xứng đáng với lời
khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vừa qua sở dĩ tỉnh Quảng Bình trong hoàn cảnh
có khó khăn mà đã đạt được những kết quả tốt về sản xuất và chiến đấu, chủ yếu là
do cấp uỷ và cán bộ, đảng viên đã biết đi sát dân, mọi việc đều xuất phát từ lợi ích
của nhân dân, dựa vào dân và bàn bạc với dân. Các nơi khác cũng có thể làm tốt
được như tỉnh Quảng Bình, nếu biết đi đúng đường lối quần chúng, biết giáo dục,
178
động viên và tổ chức quần chúng thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước” [86, tr. 630-631].
Những thành công của Quảng Bình trong việc xây dựng hệ thống chính trị đã
tạo ra nền tảng xã hội vững chắc cho chiến tranh nhân dân. Chính hệ thống chính trị
vừa là người tổ chức ra thế trận chiến tranh nhân dân, vừa là nơi cung cấp sức mạnh
vật chất và tinh thần cho chiến tranh nhân dân và chính cũng là người vận hành,
phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến đấu,
đánh bại chiến tranh phá hoại tổng lực của đế quốc Mỹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ở Quảng Bình khẩu hiệu “có Đảng, có dân, có
hầm, có hợp là có tất cả” thể hiện vai trò quyết định của thể chế và thiết chế chính
trị đảm bảo cho thắng lợi (nghĩa là có sự lãnh đạo của Đảng, có sức mạnh đoàn kết
toàn dân, có cơ sở quốc phòng được chuẩn bị sẵn sàng và có kinh tế hợp tác xã là có
thể đảm bảo thắng lợi).
Trên cơ sở hệ thống chính trị vững mạnh, Quảng Bình đã đứng vững trong cơn
thử thách hiểm nghèo khi xây dựng được hậu phương tại chỗ, với nền sản xuất đa
dạng và ngày càng phát triển trong điều kiện chiến tranh. Trong 8 năm tiến hành
cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ không chỉ đánh phá
thường xuyên trên diện rộng mà còn tập trung đánh điểm, đánh khu vực, tập trung
đánh phá có giới hạn từ vĩ tuyến 20, vĩ tuyến 18 trở vào. Chính vì vậy, có những
thời gian, nhiều địa bàn ở Quảng Bình tạm thời bị cô lập, sự chi viện về nguồn lực
hậu cần của Trung ương cho Quảng Bình có lúc không vào đến và chỉ vào đến
Quảng Bình một khối lượng không đủ cung ứng cho các lực lượng thường trực
chiến đấu. Thực tế đó đặt ra nhiệm vụ phải giành thế chủ động về nguồn lực hậu
cần quân đội và đời sống nhân dân bằng việc xây dựng hậu cần tại chỗ. Trong bối
cảnh đó, Quảng Bình đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thời chiến với 3 nhiệm vụ
chủ yếu: dù chiến tranh ác liệt đến mấy cũng quyết tâm duy trì sản xuất nông
nghiệp, giữ vững các chỉ tiêu sản xuất về diện tích, năng suất, sản lượng, trong đó
quyết tâm sản xuất lương thực bằng mọi giá để đảm bảo tự túc lương thực; phát
triển công nghiệp địa phương với 2 nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất nông, công cụ và
179
sản xuất hàng hóa thiết yếu cung cấp cho nhân dân; huy động mọi nguồn lực đảm
bảo lưu thông phân phối để cân bằng cuộc sống của nhân dân và cung ứng cho lực
lượng chiến đấu. Mọi hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu trên dựa trên sức
mạnh của kinh tế tập thể mà hợp tác xã là nòng cốt.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, thực hiện chủ trương xây dựng hậu cần tại chỗ cho
chiến tranh nhân dân, trong suốt 8 năm diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại, hầu như
mặt trận sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp luôn nóng bỏng. Phong trào thi đua với
Hợp tác xã Đại Phong có từ trước chiến tranh đã được đẩy lên đỉnh cao mới, xuất
hiện những điển hình mới. Hợp tác xã Cự Nẫm, đơn vị anh hùng ngành nông
nghiệp, Hợp tác xã Quang Phú, đơn vị anh hùng ngành thủy sản, các hợp tác xã
Phúc Lý, Xuân Trung, Lộc An, ... và nhiều điển hình sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp khác dù bị địch đánh phá thường xuyên và ác liệt vẫn tổ chức thâm canh sản
xuất, khai hoang, phục hóa, xây dựng những mô hình kinh tế thời chiến năng động,
đảm bảo đạt diện tích, năng suất và sản lượng, vừa tự túc được lương thực, thực
phẩm cho nhân dân, vừa cung ứng cho các lực lượng chiến đấu.
Từ nền kinh tế thuần nông, qua 8 năm chiến tranh, Quảng Bình xây dựng được
cơ cấu kinh tế đa dạng, trong đó nổi bật nhất là sự phát triển của công nghiệp địa
phương. Từ chỗ hầu như chưa có gì đáng kể, với sự hỗ trợ lớn từ Trung ương và các
bộ ngành, Quảng Bình xây dựng được 35 nhà máy các loại, đưa số công nhân tăng
gấp 7 lần so với trước chiến tranh, đảm bảo sản xuất được những mặt hàng thiết yếu
phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân. Thực tế đó cho thấy rằng, trong
mọi hoàn cảnh, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương toàn diện, không chỉ để
nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào sự nghiệp “dân giàu nước mạnh” mà
sâu xa hơn là còn để có tiềm lực sẵn sàng cho những tình huống bất trắc xảy ra, địa
phương vẫn có thể tự đứng vững.
180
KẾT LUẬN
1. Từ đầu những năm 1960, đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa
đã có nhiều hoạt động công khai và ngấm ngầm, đặc biệt là gây ra sự kiện vịnh Bắc
Bộ (8-1964) để lấy cớ gây chiến tranh chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng
2-1965, đế quốc Mỹ chính thức mở rộng chiến tranh bằng cách tấn công tổng lực cả
đường không và đường biển. Quảng Bình có vị trí chiến lược về nhiều mặt, đã cùng
với Vĩnh Linh gánh vác sứ mệnh là tuyến đầu miền Bắc, hậu phương lớn của cách
mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên, vừa trung tâm đầu mối của
tất cả các tuyến đường chi viện chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia. Do đó,
đế quốc Mỹ chọn nơi đây làm trọng điểm ngăn chặn có tính chiến lược. Quảng Bình
là nơi “tụ hội” những mục tiêu, phương thức tiến hành, những lực lượng không
quân và hải quân, những loại vũ khí hiện đại nhất của cuộc chiến tranh ngăn chặn
và phong tỏa nhằm hủy diệt và cắt đứt đầu mối của những tuyến đường chiến lược
chi viện cách mạng miền Nam. Mỹ đã huy động một lực lượng máy bay, tàu chiến
hùng hậu ngày càng hiện đại kết hợp với thủ đoạn chiến tranh tâm lí và hoạt động
biệt kích để chống lại một quốc gia có chủ quyền. Liên tục gần ba ngàn ngày đêm
(7-2-1965 - 15-1-1973), trên diện tích hơn 8.000 km2, hơn 1 triệu tấn bom đạn đã
trút xuống tàn phá toàn bộ 133 xã phường, 459 thôn, trong đó có 31 xã và 252 thôn
bị hủy diệt, thị xã Đồng Hới và thị trấn Ba Đồn bị san phẳng. Với quy mô và mức
độ đánh phá đó, thật khó hình dung làm thế nào để quân dân Quảng Bình có thể
vượt qua, tồn tại và chiến thắng, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Thực tế
đã cho thấy vùng đất Quảng Bình là nơi chiến tranh diễn ra khốc liệt nhất, đặt nhân
dân Quảng Bình trước những thử thách lớn lao nhất.
2. Để hoàn thành sứ mệnh và trọng trách lịch sử, nhân dân Quảng Bình đã
phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vận dụng sáng tạo đường lối quân
sự của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương để hình thành thế trận chiến tranh
nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ. Thế trận đó được xây dựng trên ba nền tảng xã hội là sự lãnh đạo của các
181
tổ chức Đảng, vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang và sự tham gia của các tầng
lớp nhân dân, với 3 nhiệm vụ cơ bản là sản xuất để đảm bảo tiềm lực mọi mặt cho
chiến tranh, chiến đấu để đập tan mọi phiêu lưu quân sự của kẻ thù và đảm bảo
tuyến chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Cả ba nhiệm vụ cơ bản đó
tạo nên một chính thể của thế trận chiến tranh nhân dân đối đầu với chiến tranh phá
hoạt tổng lực và nhiều mặt của đế quốc Mỹ.
Về mặt kinh tế, với phương châm xây dựng hậu cần tại chỗ cho chiến tranh
nhân dân trong điều kiện đế quốc Mỹ đánh phá, chia cắt và phong tỏa, nhân dân
Quảng Bình vẫn kiên trì “bám hố bom sản xuất, bám hố bom thâm canh”, quyết
tâm sản xuất đủ lương thực đảm bảo đời sống nhân dân, cung ứng kịp thời cho các
đơn vị chiến đấu trên địa bàn và chi viện cho chiến trường với tinh thần “bát cơm
xẻ nửa, hạt gạo chia ba” 1.
Về mặt quân sự, dựa trên cơ sở lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là lực
lượng dân quân tự vệ tại chỗ được xây dựng ngày càng đông về số lượng và tăng
cao về chất lượng, với sự hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ của bộ đội chủ lực và độ đội
địa phương, Quảng Bình nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt
sang thời chiến, đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, tiến hành sơ tán - giãn
dân và phòng tránh tại chỗ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhà nước
và nhân dân. Thế trận chiến tranh nhân dân thiết lập trên 3 nhiệm vụ xây dựng hậu
cần tại chỗ, phòng tránh, đánh địch và đảm bảo giao thông chi viện chiến trường,
trên cả 3 mặt trận đánh địch trên bộ, đánh địch trên không và trên biển. Đội hình
chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân rất đa dạng, bao gồm bộ đội chủ lực
làm nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, bộ đội chủ lực trên đường hành tiến vào chiến trường,
bộ đội chủ lực Quân khu 4, dân quân tự vệ làm nhiệm vụ thường trực chiến đấu, các
đơn vị bán vũ trang cơ động chiến đấu, thanh niên xung phong và dân công hỏa
tuyến vừa làm nhiệm vụ chi viện chiến trường vừa hiệp đồng chiến đấu, các tầng
lớp nhân dân vừa đảm trách hậu cần cho chiến tranh nhân dân, vừa trực tiếp đánh
1. Nửa cho hậu phương, nửa cho chiến trường. Chia ba chiến trường Việt Nam, Lào và
Campuchia.
182
địch. Tất cả đều nhằm mục đích cao nhất là đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ, đảm bảo công tác vận tải chi viện chiến trường được thông suốt. Do đó, cuộc
chiến để mở đường, bảo vệ đường và sửa chữa thông đường diễn ra hết sức ác liệt.
Hàng triệu ngày công và biết bao xương máu đã đổ xuống để các tuyến đường luôn
được lưu thông, phá tan âm mưu ngăn chặn, phong tỏa của đế quốc Mỹ. 704 máy
bay và 86 tàu chiến Mỹ bị tiêu diệt là câu trả lời đích đáng của quân dân Quảng
Bình dành cho kẻ xâm lược. Trong khi cuộc chiến đấu tại chỗ đang diễn ra quyết
liệt như thế, nhân dân Quảng Bình còn làm tốt nghĩa vụ hậu phương, nỗ lực tối đa
chi viện sức người, sức của cho chiến trường Trị - Thiên và hỗ trợ cách mạng Lào
phát triển, góp phần đi đến giải phóng và giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị năm
1972. Có thể khẳng định, với tất cả những gì đã làm được trong cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại những năm 1965-1973, quân và dân Quảng
Bình đã vươn đến đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ trong chiến
tranh, nhiều cá nhân và tập thể, nhiều khẩu hiệu và phong trào thi đua sản xuất,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu của Quảng Bình trở thành hình mẫu và lí tưởng
sống của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua.
3. Thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở
Quảng Bình những năm 1965-1973 là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố. Đó là,
đường lối lãnh đạo của Trung ương Đảng và sự quan tâm sâu sát của Trung ương,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quảng Bình; sự vận dụng sáng tạo của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Bình vào điều kiện cụ thể của địa
phương, sự chi viện hết lòng về sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc; truyền
thống đấu tranh anh dũng của vùng đất được phát huy, nâng lên thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng với tinh thần vượt khó, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì độc
lập dân tộc cùng khả năng sáng tạo độc đáo của quần chúng nhân dân.
Điểm nổi bật trong thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình chính là sự
kết hợp khéo léo và phát huy tối đa các nguồn lực kinh tế và quốc phòng, nguồn lực
trung ương và địa phương, nguồn lực tại chỗ và nguồn lực chi viện, ... tạo nên sức
mạnh tổng hợp để huy động cao nhất vào cuộc chiến đấu đánh thắng chiến tranh
183
phá hoại của đế quốc Mỹ. Vì thế, có thể nhìn thấy trong thế trận của chiến tranh
nhân dân ở Quảng Bình hình ảnh thu nhỏ của cả nước đang vào trận. Thế trận chiến
tranh nhân dân ở Quảng Bình là mẫu hình thực tiễn sinh động, tiêu biểu, ở đó,
đường lối và nghệ thuật quân sự của Đảng, truyền thống và tri thức quân sự của dân
tộc được khai thác và vận dụng trong mọi hoạt động thực tiễn để tạo lập thế trận
chiến tranh nhân dân đánh thắng quân thù.
4. Từ cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình có
thể rút ra nhiều bài học có giá trị thực tiễn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nhất là trong tình hình hiện nay chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời,
vùng biển đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Cùng với việc tập trung phát triển kinh
tế để tạo sức mạnh quốc gia, bên cạnh tăng cường lực lượng quân sự ngày càng hiện
đại nhằm đối phó với những hình thức chiến tranh công nghệ cao có thể xảy ra,
quan trọng hơn đó là thế trận quốc phòng toàn dân cần được củng cố hơn nữa.
Muốn vậy, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm thắt chặt hơn nữa niềm tin
của quần chúng nhân dân vào người cầm quyền, để Đảng xứng tầm với vai trò lãnh
đạo của mình cần được đẩy mạnh và thực chất hơn. Thực tế lịch sử đã cho thấy: Khi
cả dân tộc cùng nhìn về một hướng, không một thế lực nào có thể áp đảo được
người Việt Nam.
Cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
ở miền Bắc nói chung, trên địa bàn Quảng Bình nói riêng đã khép lại hơn 4 thập kỉ
nhưng những chiến công và kì tích của nhân dân Quảng Bình trong kháng chiến
chống Mỹ, đặc biệt là những thành công trong việc xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã, đang và mãi mãi sẽ là
bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng như cả
trong tương lai.
184
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bố Trạch (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Bố
Trạch, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lệ Thủy (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ
Thủy, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Ninh (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện
Quảng Ninh, tập 2 (1954-1975), Sơ thảo, Xí nghiệp in Quảng Bình.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Trạch (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện
Quảng Trạch, tập 2 (1954-1975), Xí nghiệp in Quảng Bình.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tuyên Hóa (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện
Tuyên Hóa, tập 2 (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Chỉ thị tăng cường cảnh
giác, tích cực phòng, chống hoạt động gián điệp biệt kích xâm nhập phá hoại
vùng ven biển và biên giới tỉnh ta, số 5 CT/TV, ngày 20-3-1964, Phòng Lưu
trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Nghị quyết về tăng cường
công tác sẵn sàng chiến đấu, số 5/NQ/TV.TU, ngày 23-7-1964, Phòng Lưu
trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1964), Báo cáo quá trình thực hiện
chỉ thị của Trung ương về tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu
của địch khiêu khích phá hoại miền Bắc, số 142BC/TU, ngày 23-8-1964,
Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Thông tri bổ sung một số
điểm về nội quy phòng thủ, số 2 TT/TU.QB, ngày 25-1-1965, Phòng Lưu trữ,
Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Nghị quyết số 5/NQ-QB về
tình hình và nhiệm vụ trước mắt, ngày 28-6-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh ủy Quảng Bình.
185
11. Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Quảng Bình (1965), Biên bản hội nghị Ban quân
sự Tỉnh ủy, ngày 29-9-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Báo cáo tình hình 3 tháng 7,
8, 9-1965, số 17/BC-QB, ngày 13-10-1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh
ủy Quảng Bình.
13. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Nghị quyết của Tỉnh ủy về
những chuyển biến mới của tình hình trong 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ
trước mắt của tỉnh ta, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
14. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1965), Báo cáo công tác trong năm
1965, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
15. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Đẩy mạnh cao trào thi đua
chống Mỹ cứu nước, ra sức xây dựng tiềm lực kinh tế và quốc phòng tỉnh ta
lớn mạnh về mọi mặt, cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình đối với sự
nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Báo cáo
công tác tại Hội nghị cán bộ toàn tỉnh ngày 12-3-1966, Phòng Lưu trữ, Văn
phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
16. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Nghị quyết của Hội nghị
Thường vụ về việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, ngày 6-8-1966, Phòng Lưu
trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
17. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1966), Báo cáo tình hình tháng 10-
1966, số 11-BC/QB, ngày 3-11-1966, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy
Quảng Bình.
18. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1967), Báo cáo tổng kết năm 1966
trong hội nghị Tỉnh ủy ngày 20-3-1967, số 04BC/QB, Phòng Lưu trữ, Văn
phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
19. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường hơn
nữa công tác chiến đấu và phòng không trong tình hình mới, số 06-CT/QB,
ngày 28-6-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
186
20. Ban Chấp hành Tỉnh ủy Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường công
tác phòng chống gián điệp biệt kích và khẩn trương chuẩn bị đầy đủ nhất về
mọi mặt chủ động đánh bại mọi cuộc tập kích đổ bộ của địch, số 12CT/QB,
ngày 2-12-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
21. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1967), Nghị quyết của Thường vụ
Tỉnh ủy về đảm bảo giao thông vận tải trong tình hình mới, số 01 NQ/QB,
ngày 7-12-1967, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
22. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Thắng lợi to lớn trong ba
năm chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ trước mắt của tỉnh ta, số 01BC/QB. Báo
cáo tổng kết công tác trong kì họp 1 - 5-4-1968, Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh ủy Quảng Bình.
23. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Vinh dự to lớn và trách
nhiệm nặng nề (Báo cáo của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình trong Đại hội mừng
công ngày 2-9-1968), Ty Thông tin Quảng Bình xuất bản.
24. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1968), Nghị quyết của Tỉnh ủy
Quảng Bình, số 07/TU-QB, ngày 13-11-1968, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh
ủy Quảng Bình.
25. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Thông báo của Tỉnh ủy
Quảng Bình về tình hình tháng 1-1969, số 01/TB-TU, tháng 1-1969, Phòng
Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
26. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Nghị quyết đánh giá tình
hình 4 năm chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là năm 1968 và phương hướng
nhiệm vụ năm 1969, số 01, ngày 19-3-1969, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh
uỷ Quảng Bình.
27. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Thông báo của Tỉnh ủy
Quảng Bình về “Tình hình quý I-1969”, số 05/TB-TU, ngày 12-4-1969, Phòng
Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
187
28. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo của Tỉnh ủy Quảng
Bình về tình hình Quý III-1969, số 14/BC-TU, ngày 05-10-1969, Phòng Lưu
trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
29. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo của Tỉnh ủy Quảng
Bình, số 497/BC-TU, ngày 15-11-1969, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy
Quảng Bình.
30. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1970), Nghị quyết của Tỉnh ủy
Quảng Bình về tình hình 6 tháng đầu năm 1970, số 05/NQ-TU, ngày 15-7-
1970, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
31. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1972), Thông báo của Tỉnh ủy
Quảng Bình, số 41/TB-TU, ngày 3-5-1972, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh
ủy Quảng Bình.
32. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, Dự thảo Nghị quyết số 12 của
Thường vụ Tỉnh ủy về việc tập trung lực lượng, tăng cường lãnh đạo, quyết
tâm bảo vệ và đảm bảo giao thông vận tải trong tình hình mới, ngày 21-6-
1972, Phòng Lưu trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
33. Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,
tập II, 1954-1975, Đồng Hới.
34. Ban Chấp hành Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình
(2010), Lịch sử Đảng bộ khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình, tập
1 (1946-2005), Đồng Hới.
35. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1965), Chỉ thị về việc
tích cực đối phó với âm mưu tung gián điệp biệt kích hàng loạt, tập kích, kích
động gây bạo loạn phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và tay sai, Phòng Lưu
trữ, Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình.
36. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
188
37. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945-1975. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
38. Ban Điều tra tội ác chiến tranh tỉnh Quảng Bình (1975), Thống kê khối lượng
bom đạn của máy bay các loại và tàu chiến của đế quốc Mỹ đã dội xuống Quảng
Bình từ 5-8-1964 đến 1-11-1973, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
39. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Quảng Bình (1975), Quảng Bình ơn Bác,
Xưởng in Quảng Bình.
40. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng và Ty Thông tin - Văn hóa Bình - Trị - Thiên
(1977), Bác Hồ với Bình - Trị - Thiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.
41. Ban Phụ trách Kế hoạch 8 Trung ương, Báo cáo sơ kết việc thực hiện Kế
hoạch 8, ngày 15-11-1967, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà Nội. Phông
Phủ Thủ tướng, hộp số 614, hồ sơ số 14.730.
42. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình (2012), Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình
80 năm xây dựng và trưởng thành (1930-2010), Đồng Hới.
43. Ban 67 (Tổng Công ty Xây dựng Công trình 5) (2001), Cùng năm tháng với
những con đường, Nxb Đà Nẵng.
44. Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Quảng Bình (1998), Lịch sử Bộ đội biên phòng
Quảng Bình, tập 1 (1959-1995), Xưởng in Quảng Bình.
45. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tại Đại hội quyết thắng
1965-1968, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
46. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1972), Nhật ký trực ban tác chiến năm
1972, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
47. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1973), Nhật ký trực ban tác chiến
tháng 1-1973, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
48. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1973), Nhật ký trực ban tác chiến năm
1972-1973, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
189
49. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1975), Báo cáo tổng kết Đại hội mừng
công 10 năm thắng Mỹ của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Bình (1965-1975),
Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
50. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2003), Hồ sơ Hội thảo nhân chứng lịch
sử Quảng Bình chống Mỹ cứu nước do Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình
tổ chức ngày 19-2-1993, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
51. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân
dân tỉnh Quảng Bình (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
52. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình (2005), Những trận đánh tiêu biểu của
lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình 1945-1975, tập 1.
53. Bộ Giao thông vận tải (1968), Quyết định bổ sung Trạm vận tải thống nhất
Vĩnh - Bình vào Ty Giao thông vận tải Quảng Bình, Chi cục Văn thư Lưu trữ
tỉnh Quảng Bình.
54. Bộ Giao thông vận tải (2002), Lịch sử Giao thông vận tải Việt Nam, Nxb.
Giao thông vận tải, Hà Nội.
55. Bộ Lao động (1966), V/v phổ biến kinh nghiệm lái xe an toàn trong tình hình
địch bắn phá, số 06/LĐ-BH, ngày 6-1-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
56. Bộ Quốc phòng (1991), Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam
1945-1975, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
57. Bộ Quốc phòng (1992), Lịch sử vận tải Quân đội nhân dân Việt Nam (1945-
1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
58. Bộ Quốc phòng (2009), Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
59. Bộ Tham mưu Quân khu 4 – Phòng Quân báo (1967), Báo cáo tình hình địch
năm 1967, số 35, ngày 5-12-1967, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
Quảng Bình.
60. Bộ Tổng Tham mưu (1964), Dự thảo nguyên tắc chiến đấu cơ bản của dân
quân du kích ở làng chiến đấu, số 148/G7, ngày 25-6-1964, Phòng lưu trữ Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
190
61. Bộ Tổng tham mưu (1974), Tổng kết cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
Quảng Bình.
62. Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân: Chuyên đề chỉ
đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc (1954-1975), Nxb.
Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
63. Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương:
Chuyên đề Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và
cơ quan quân sự địa phương trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân,
Hà Nội.
64. Bộ Tư lệnh Hải quân (2005), Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam 1955-
2005, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
65. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Cục Hậu cần (2007), Lịch sử hậu cần lực lượng vũ
trang Quân khu 4 (1945-2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
66. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2012), Lịch sử dân quân tự vệ Quân khu 4 (1945-
2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
67. Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2015), Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập 2: Thời
kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tái bản bổ sung lần 1, Nxb.
Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
68. Trần Bội (1965), Báo cáo tại đại hội thi đua “chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi”,
ngày 6 - 9-11-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
69. Chi cục Thống kê Quảng Bình (1973), Số liệu thống kê tình hình phát triển
kinh tế - văn hóa tỉnh Quảng Bình, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
70. Chi cục Thống kê Quảng Bình (1974), 18 năm xây dựng nền kinh tế Quảng
Bình (số liệu tóm tắt), Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
191
71. Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1968), Phát huy cao độ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh cao trào thi đua chống Mỹ, cứu nước,
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Báo cáo tại Đại hội
thi đua “Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi” lần thứ ba, từ ngày 7 đến ngày 14-4-
1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
72. Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình (1965), Phương án đề phòng khả
năng địch đánh lớn ra tỉnh Quảng Bình (trong tình huống II), số 281/BCH,
ngày 14-9-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
73. Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình (1967), Báo cáo số 131/TN, ngày 22-
11-1967. Phòng Lưu trữ Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng.
74. Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình (1967), Tổng kết phong trào thi
đua năm 1967, số 429/CT, ngày 22-12-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
75. Công an Quảng Bình (2010), Âm vang chiến công, Đồng Hới.
76. Cục Chính trị Quân khu 4, Tổng kết công tác chính trị trong thời kì chống
chiến tranh phá hoại của các lực lượng vũ trang Quân khu 4, Phòng lưu trữ
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
77. Cục Chính trị Quân khu 4 (1974), Chiến tranh nhân dân đánh thắng hai thời
kì chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 và những bài
học kinh nghiệm chủ yếu về công tác chính trị, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy
Quân sự tỉnh Quảng Bình.
78. Cục Dân quân (1970), Dự thảo một số vấn đề chủ yếu về chiến tranh nhân dân
và công tác quân sự ở cơ sở, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
79. Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế (1979), Trận đồ bát quái xuyên
rừng rậm.
80. Lê Duẩn (2013), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa
xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
81. Lê Trọng Duận (2014), Nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã tỉnh
Quảng Bình từ năm 1946 đến nay, Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Bình.
192
82. Văn Tiến Dũng (1979), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân, tập 2,
Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
83. Cảnh Dương, Đông A (2007), Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào
Bắc Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
84. Phan Hữu Đại - Nguyễn Quốc Dũng (đồng chủ biên), (1999), Lịch sử Đoàn 559
Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 25 (1964),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 26 (1965),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 27 (1966),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 28 (1967),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 29 (1968),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 30 (1969),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
91. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 31 (1970),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 32 (1971),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
93. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 33 (1972),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
94. Đảng ủy - Ban Chỉ huy Công an thành phố Đồng Hới (2005), Lịch sử Công an
nhân dân thành phố Đồng Hới 1945-2005, Xưởng in Quảng Bình.
95. Đảng ủy quân sự tỉnh Quảng Bình (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh
Quảng Bình (1945-2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
193
96. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời
đại, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
97. Phan Thị Trà Giang (2010), Phong trào “hai giỏi” ở Quảng Bình trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, Luận văn Thạc sĩ Sử học,
Trường Đại học Sư phạm Huế.
98. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb.
Sự Thật, Hà Nội.
99. Võ Nguyên Giáp (1972), Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
100. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
101. Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
102. Trịnh Thị Lệ Hà (2014), “Phong trào xây dựng làng chiến đấu và những làng
chiến đấu tiêu biểu ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Pháp”, in trong
Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và
phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
103. Lê Hải (2004), Phi công tiêm kích, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
104. Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
hậu phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
105. Vũ Quang Hiển (2000), “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng
Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)”, Luận án Tiến sĩ Sử học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
106. Hoàng Chí Hiếu - Phạm Phúc Vĩnh (2013), “Đôi điều về Quảng Bình qua một
kế hoạch đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ”, in trong Kỉ yếu Hội thảo
quốc gia Danh nhân Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
107. Vũ Đình Hiếu (2011), (lược dịch), Cuộc chiến bí mật, hồ sơ lực lượng biệt
quân ngụy, Nxb. Thời đại, Hà Nội.
194
108. Nguyễn Huy Hiệu (2010), Một số vấn đề nghệ thuật quân sự trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
109. Lê Quang Hòa (1971), Mấy kinh nghiệm công tác quân sự địa phương ở Quân
khu 4, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
110. Vương Văn Hòa, “Đường ống xăng dầu Vinh - Ka Vát với tuyến vận tải chiến
lược ở Tây Trường Sơn”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 5-2009.
111. Đặng Văn Hoàn (2013), Lịch sử ngành tuyên giáo Quảng Bình giai đoạn
1930-2010, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Bình.
112. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Bình (1968), Báo cáo tổng kết phong trào
“3 đảm đang” trong 4 năm chống Mỹ cứu nước, Phòng Lưu trữ, Văn phòng
Tỉnh ủy Quảng Bình.
113. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Quảng Bình (1995), Lịch sử phong trào
đấu tranh cách mạng phụ nữ tỉnh Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo.
114. Trịnh Vương Hồng - Hoàng Chí Hiếu (2014), “Quảng Bình với công tác đảm
bảo huyết mạch giao thông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”, in
trong Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành
và phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
115. Trần Thị Hương (2007), Đấu tranh chống chính sách di cư của Mỹ - Diệm
ở Quảng Bình (1954-1957), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư
phạm Huế.
116. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Đặc điểm Cách mạng tháng Tám ở Quảng Bình”, in
trong Báo cáo khoa học Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành
và phát triển, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
117. Gabriel Kolko (2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh - nước Mỹ và kinh
nghiệm chiến tranh hiện đại), Người dịch: Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội
Nhân dân, Hà Nội.
118. Nguyễn Thế Kỷ - Nguyễn Sĩ Cứ (chủ biên), (2009), Trường Sơn đường khát
vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
119. Đinh Xuân Lâm (1992), “Lịch sử Việt Nam 1858-1945”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
195
120. Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình (1998), Lịch sử phong trào công nhân
và công đoàn tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1885-1975), Đồng Hới.
121. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh con đường huyền thoại, Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội.
122. Lê Văn Lợi (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên mặt trận đảm bảo giao
thông vận tải (1965-1968), Luận văn tốt nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội.
123. Thái Thị Lợi (2007), Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ Sử học,
Trường Đại học Sư phạm Huế.
124. Lại Văn Ly (1993), Tuyến lửa những năm tháng sôi động, Sở Giao thông Vận
tải Quảng Bình xuất bản.
125. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, … (1966), Bàn về chiến tranh nhân
dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội
126. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6 (1950-1952), Xuất bản lần thứ hai, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
127. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11 (1963-1966), Xuất bản lần thứ hai,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12 (1966-1969), Xuất bản lần thứ hai,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
129. Nxb. Chính trị Quốc gia (2008), Chiến tranh Việt Nam là thế đó những năm
1965-1973, Hà Nội.
130. Nxb. Quân đội Nhân dân (1976), Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh
và quân đội, Hà Nội.
131. Nxb. Quân đội Nhân dân (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn
Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Nội.
132. Nhiều tác giả (1999), Đường 20 quyết thắng, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.
196
133. Đồng Sỹ Nguyên (1999), Đường xuyên Trường Sơn, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
134. Phủ Thủ tướng, Công văn tuyệt mật số 230 NN/TM về vấn đề đưa một số đồng
bào giới tuyến Vĩnh Linh ra, gửi các tỉnh từ Nghệ An vào Vĩnh Linh và một số
bộ ngành Trung ương, ngày 4-10-1967, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà
Nội, Phông Phủ Thủ tướng, hộp số 614, hồ sơ số 14. 730.
135. Phủ Thủ tướng (1972), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thống
nhất chỉ huy công tác giao thông vận tải ở khu 4 cũ chi viện tiền tuyến theo
hướng quân sự hóa những khâu tổ chức và công tác cần thiết, số 303-Ttg,
ngày 30-11-1972, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
136. Quân khu 4 (1972), Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965-1968), Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
137. Quân khu 4 (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ của lực lượng vũ trang Quân khu 4 (1945-1975), Nxb.
Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
138. Quân khu ủy Quân khu 4 (1965), Nghị quyết của Quân khu ủy về tình hình và
nhiệm vụ của quân khu để đảm bảo chuyển các lực lượng vũ trang sang thời
chiến, số 234/NQ, ngày 22-5-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
139. Quân khu ủy 4 (1975), Dự thảo tổng kết chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên chiến trường Quân khu 4 1965-
1972, số 729, ngày 7-10-1975, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
140. Quân ủy Trung ương (1965), Tình hình quân sự 6 tháng qua và chủ trương
trong thời gian tới, số 103/QU, ngày 30-7-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
141. Quân ủy Trung ương (1966), Chỉ thị về công tác xây dựng làng chiến đấu ở
đồng bằng, bản chiến đấu ở miền núi, khu phố chiến đấu và hải đảo chiến
đấu, ngày 25-3-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
197
142. G. Sharp (1970), Báo cáo về những chiến dịch đánh phá miền Bắc Việt Nam
bằng không quân, hải quân và sự yểm trợ của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương
(6-1964 – 7-1968). Ban biên tập sách kinh nghiệm phòng không - không quân
dịch và xuất bản.
143. Richard H.Shultz (2002), Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội, Dịch giả: Hoàng
Anh Tuyên, Hiệu đính: Anh Thái, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
144. Hùng Sơn - Lê Khai (chủ biên) (1992), Đường Hồ Chí Minh qua Bình Trị
Thiên, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
145. Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình (1999), Lịch sử Giao thông vận tải
tỉnh Quảng Bình 1885-1999, Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội.
146. Sở Giao thông Vận tải Quảng Bình (2015), Lịch sử Giao thông vận tải tỉnh
Quảng Bình (1945-2015), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội.
147. Sở Y tế Quảng Bình (1996), Lịch sử Y tế Quảng Bình 1945-1995, Đồng Hới.
148. Nguyễn Công Sự (2014), Lịch sử ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Quảng Bình từ
năm 1948 đến năm 2013, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình.
149. Trần Sự (2008), Tháng ngày chưa xa, hồi ức, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
150. Chu Văn Tấn (1969), Chỉ đạo tốt chiến tranh nhân dân ở địa phương trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Dân tộc, Việt Bắc.
151. Nguyễn Khắc Thái (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ trong những năm chống Mỹ (1965-1968), Luận án
tốt nghiệp ngành Lịch sử Đảng, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
152. Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
153. Nguyễn Khắc Thái (2015), “Sơn triều trong lòng dân”, Tạp chí Lịch sử Quân
sự, số 7.
154. Hoàng Minh Thảo (2004), Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh
giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
155. Nguyễn Tư Thoan (1965), Mấy kinh nghiệm vừa sản xuất vừa chiến đấu của
Quảng Bình, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
198
156. Nguyễn Tư Thoan (1969), Bài nói chuyện trong Đại hội thi đua “chiến đấu
giỏi, sản xuất giỏi” của quân và dân toàn tỉnh, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
157. Hữu Thọ - Nguyễn Sinh (2015), “Công bằng cho một người đáng tin yêu, kính
trọng”, in trong Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình thời đất lửa, tái bản có bổ sung,
Nxb. Thuận Hóa, Huế.
158. Nguyễn Hữu Thông (2014), “Biên lực trong sinh tồn”, Kỉ yếu Hội thảo Quốc
gia Danh nhân Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
159. Ngô Đình Thủ (1972), “Đường 050 - đường chiến thắng”, Báo Quảng Bình, số
845 (3-6-1972), số 846 (4-7-1972).
160. Nguyễn Trung Thực (2011), Nghiên cứu mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc
biệt giữa Quảng Bình, Khăm Muộn và Savanakhet giai đoạn 1954-2000, Sở
Ngoại vụ Quảng Bình.
161. Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (1994), Quân khu 4 Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
162. Thường vụ Huyện ủy, Đảng ủy - Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quảng Ninh
(2000), Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Ninh - 55 năm xây dựng -
chiến đấu - trưởng thành (1945-2000), Xí nghiệp in Quảng Bình.
163. Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Linh (1994), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Vĩnh
Linh (1930-1975), sơ thảo.
164. Thường vụ Tỉnh ủy - Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh (1994), Lịch sử
Quảng Bình chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Đồng Hới.
165. Tỉnh đội Quảng Bình (1970), Công văn số 697/TĐ của Thủ trưởng Tỉnh đội
Quảng Bình gửi các đơn vị trong tỉnh, ngày 22-11-1970, Phòng lưu trữ Bộ Chỉ
huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
166. Tỉnh đội Quảng Bình (1972), Quá trình diễn biến cuộc chiến đấu của quân và
dân Quảng Bình trong 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
(1965-1972), Phòng lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.
199
167. Tỉnh ủy Quảng Bình (1969), Nghị quyết số 04, 4-1969, Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy
Quảng Bình.
168. Tỉnh ủy Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết tình hình 4 năm chống Mỹ cứu
nước, ngày 10-5-1969, Phòng Lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Bình.
169. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Từ điển bách khoa quân sự
Việt Nam, bản điện tử.
170. Ty Công an Quảng Bình (1965), Báo cáo tình hình và công tác năm 1965, số
1.258, ngày 13-12-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
171. Ty Công an Quảng Bình (1966), Dự thảo nghị quyết công tác công an năm
1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
172. Ty Công an Quảng Bình (1966), Thông báo về hoạt động máy bay địch và
công tác phòng không nhân dân, số 141VP/M, ngày 14-2-1966, Chi cục Văn
thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
173. Ty Công an Quảng Bình (1966), Báo cáo tình hình máy bay B.52 ném bom ở
đường 12 khu vực Cha Lo-Mụ Dạ, số 121/TM, ngày 4-5-1966, Chi cục Văn
thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
174. Ty Công an Quảng Bình (1966), Công văn số 1334 gửi Thủ trưởng Ủy ban
tỉnh Quảng Bình, ngày 22-10-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
175. Ty Công an Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết phong trào bảo vệ trị an 4
năm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 1965-1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
176. Ty Giao thông vận tải Quảng Bình (1967), Báo cáo tình hình thiệt hại chiến
tranh năm 1967, số 143, ngày 14-2-1968, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh
Quảng Bình.
177. Ty Lao động Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết thi đua năm 1968, Chi cục
Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
178. Ty Thông tin Quảng Bình (1968), Cả nước động viên cổ vũ chúng ta, Xưởng
in Quảng Bình.
200
179. Ty Thương nghiệp Quảng Bình (1968), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua
năm 1967 và 6 tháng đầu năm 1968, ngày 20-8-1968, Chi cục Văn thư Lưu
trữ tỉnh Quảng Bình.
180. Ty Thương nghiệp Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết công tác thương
nghiệp Quảng Bình trong 4 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
181. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1965), Chỉ thị về tổ chức Ban chỉ huy
bảo đảm giao thông vận tải của huyện và xã, số 39 VP-CN, ngày 29-5-1965,
Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
182. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1965), Chỉ thị về việc huy động thuyền
đánh cá của các hợp tác xã Ngư nghiệp phục vụ nhu cầu vận tải cấp thiết, số
54 VP-NC, ngày 05-9-1965, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
183. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Chỉ thị về công tác thiết kế và xây
dựng các công trình dân dụng và giao thông nông thôn trong thời chiến, số 07
VP-UB, ngày 28-1-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
184. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Chỉ thị về việc tăng cường chỉ
đạo công tác phòng không nhân dân trong tình hình khẩn trương hiện nay, số
29 TK-NC, ngày 22-4-1966, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
185. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1966), Phương án sắp xếp lại địa điểm
sơ tán của cơ quan, xí nghiệp cấp tỉnh, số 30 TK-NC, ngày 28-5-1966, Chi
cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
186. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Thông tư về việc tăng cường tu
sửa, làm thêm hầm hào công trình sinh hoạt và làm việc trong tình hình địch
đánh phá ác liệt hiện nay, số 57 VP/UB, ngày 20-8-1967, Chi cục Văn thư
Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
187. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về công tác phòng không
nhân dân trong chiến dịch bảo vệ mùa thu hoạch vụ chiêm năm 1967, số 25
VP-UB, ngày 04-5-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
201
188. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị bổ sung điều phòng không
nhân dân năm 1967, số 27 PK/ND, ngày 05-5-1967, Chi cục Văn thư Lưu trữ
tỉnh Quảng Bình.
189. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tăng cường tu sửa,
làm thêm hầm hào và một số điểm khác về công tác phòng không nhân dân
trong tình hình địch đánh phá ác liệt, số 48 VP/UB, ngày 13-7-1967, Chi cục
Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
190. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc củng cố Ban
phòng không nhân dân các cấp, số 49 VP/UB, ngày 13-7-1967, Chi cục Văn
thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
191. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1967), Chỉ thị về việc tổ chức đời sống
của cán bộ, nhân dân trong tình hình mới, số 56 TK/KT, ngày 11-8-1967, Chi
cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
192. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1968), Mười hai điều kỉ luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ giao thông vận tải, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
193. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tại đại hội thi đua
“chiến đấu giỏi sản xuất giỏi” bốn năm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược (1965-
1968), ngày 22 – 28-2-1969, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
194. Ủy ban Hành chính tỉnh Quảng Bình (1969), Báo cáo tổng kết 4 năm chuyển
hướng xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kì chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
195. Ủy ban hành chính tỉnh Quảng Bình (1973), Phấn khởi tự hào trước thắng lợi
vĩ đại của dân tộc, quân và dân tỉnh Quảng Bình hãy phát huy cao độ chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh phong trào thi đua “2 giỏi” với khí thế
sôi nổi, liên tục hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kì mới. Báo cáo
tại đại hội thi đua “Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi” toàn tỉnh Quảng Bình năm
1972, Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình.
196. Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành
chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), Đồng Hới.
202
197. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982), Chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tập 1, Nxb. Quân đội Nhân dân.
198. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1983), Chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tập 2, Nxb. Quân đội Nhân dân.
199. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân
Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
200. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), tập IV, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -
Sự Thật, Hà Nội.
211. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), tập V, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
Thật, Hà Nội.
212. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), tập VI, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -
Sự Thật, Hà Nội.
213. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), tập VII, xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia -
Sự Thật, Hà Nội.
214. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc Mỹ
phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường những năm
1965-1973, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
215. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử Tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập IV: Từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
216. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử Tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập V: Tổng luận, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
217. Viện Mác - Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam (1987), Trường Chinh Tuyển tập, Tập 1 (1937-1954), Nxb. Sự
Thật, Hà Nội.
203
218. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (154-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
219. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
220. Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu nước
trên mặt trận giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học,
Trường Đại học Sư phạm Huế.
Tiếng Anh
221. T. Hoopes (1969), The limits of intervention (Những giới hạn của sự can
thiệp), David Mc. Kay Company, N.Y,
222. Mc. T. Kahin and John Lewis (1967), The US in Vietnam (Mỹ ở Việt Nam),
Codell Publish, N.Y,
223. Jon VanDyke (1972), North’s Vietnam Strategy for survival (Chiến lược để tồn
tại của Bắc Việt Nam), Pacific Books, California
224. U.S Government Printing Office (1973), Causes, Origins, and lessons of the
Vietnam War, May, 9, 10 and 11, 1972 (Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học
trong chiến tranh Việt Nam), Washington.
Tiếng Pháp
225. Peter Weiss (1968), Rè ponse à Johnson sor les bombs ments limités (Trả lời
Johnson về những cuộc ném bom hạn chế), Seuil, Paris.
226. Alain Wasmes (1976), Vietnam, la feau du pachyderme (Việt Nam, tấm da của
loài thú da dày), Edition Socialies, Paris.
204
Trang web
227. Dotsenko Vitalii Dmitrievich (2001), “Флоты в локальных конфликтах
второй половины XX века” (Các hạm đội trong những cuộc xung đột cục bộ
nửa sau thế kỉ 20), Nxb AST; Saint Petersbourg: Terra Fantaslica. Bản dịch tại
http://www .vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=24544.0.
228. http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/tran-dau-mig17-tan-cong-ham-doi-7-cua-my-n
2012 0326101437128.htm. Truy cập ngày 31-7-2016.
229. https://vi.wikipedia.org/wiki/General_Dynamics_F-111_Aardvark. Truy cập
ngày 30-7-2016.
230. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%B4ng_chi%E1%BA%BFn_t%E1%B
A%A1i Anh_Qu%E1%BB%91c. Truy cập ngày 22-8-2016.
231. http://soha.vn/quan-su/bi-mat-ve-tran-dau-cua-phao-binh-viet-nam-voi-hai-
quan-my-20140423084630146.htm. Truy cập ngày 31-7-2016.
NHÂN CHỨNG
1. Bà Nguyễn Thị Kim Huế, Anh hùng Lao động, nguyên Tiểu đội trưởng đơn
vị Thanh niên xung phong C759, Công trường 12A. Địa chỉ: Thôn Ngọa Cương, xã
Cảnh Hóa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Ông Lại Văn Ly, nguyên Trưởng Ty Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình
giai đoạn 1965-1973.
3. Ông Trần Sự, nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Bình, giai đoạn 1965-
1973. Địa chỉ: Số 45, đường Lý Thường Kiệt, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
4. Ông Cao Ngọc Tành, Chủ tịch Hội Cựu Thanh niên Xung phong tỉnh
Quảng Bình.
5. Bà Ngô Thị The, nguyên Đại đội trưởng Đại đội pháo binh Ngư Thủy. Địa
chỉ: Thôn Thượng Bắc, xã Ngư Thủy Trung, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
205
BÀI BÁO LIÊN QUAN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. (2008), "Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình với Di sản thiên nhiên Thế
giới Phong Nha - Kẻ Bàng", Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Sở Khoa học và Công
nghệ Quảng Bình.
2. (2009), "Hoạt động chi viện chiến lược trên tuyến đường Hồ Chí Minh ở Quảng
Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1959-1975)", Tạp chí Văn hóa
Quảng Bình, số 1, 2.
3. (2009), "Quảng Bình với tuyến vận tải chiến lược Đường Hồ Chí Minh", Tạp
chí Lịch sử Quân sự, số 2.
4. (2014), "Thế trận chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ ở Quảng
Bình", Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và phát triển
do UBND tỉnh Quảng Bình và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đồng tổ chức.
5. (2016), "Đấu tranh chống biệt kích ở Quảng Bình những năm 1965-1968", Tạp
chí Lịch sử Quân sự, số 8.
6. (2016), "Đặc điểm chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống
Mỹ", Tạp chí Khoa học và Công nghệ Quảng Bình, số 12.
7. (2017), "Phong trào thi đua "Hai giỏi" ở Quảng Bình trong những năm kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước", Tạp chí Thi đua Khen thưởng, số 201.
8. (2017), "Hậu phương Quảng Bình với chiến trường Trị - Thiên trong kháng
chiến chống Mỹ (giai đoạn 1966-1972)", Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 126, S.6.
PHỤ LỤC
P.1
Phụ lục 1. Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Bình (p.1)
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình
P.2
Phụ lục 2. Bản đồ hệ thống giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (p.2)
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình
P.3
Phụ lục 3. Thư khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp quân dân Quảng Bình bắn
rơi 100 máy bay Mĩ (p.3).
Nguồn: Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11 (1963-1966), Xuất bản lần thứ hai,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 466.
THƯ KHEN ĐỒNG BÀO, BỘ ĐỘI VÀ CÁN BỘ QUẢNG BÌNH
BẮN RƠI 100 MÁY BAY MỸ
Thân ái gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình,
Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi
đồng bào, bộ đội và cán bộ Quảng Bình đã bắn rơi l00 máy bay Mỹ, vừa
qua lại thu hoạch vụ chiêm rất tốt. Như vậy là tỉnh nhà chiến đấu giỏi, sản
xuất cũng giỏi. Các tỉnh khác hãy ra sức thi đua với Quảng Bình. Các chú bộ
đội, cán bộ và đồng bào tỉnh nhà hãy phát huy thắng lợi, nêu cao truyền
thống anh hùng của quân và dân ta, đoàn kết chặt chẽ, luôn luôn cảnh
giác, quyết giành nhiều thành tích to lớn hơn nữa, cùng đồng bào cả nước
quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho đến thắng lợi hoàn toàn!
Chào thân ái và quyết thắng
Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 1965
HỒ CHÍ MINH
Báo Nhân dân, số 4124, ngày 19-7-1965.
P.4
Phụ lục 4: Nghị quyết của Quân khu ủy 4 về tình hình và nhiệm vụ của Quân khu
để đảm bảo chuyển các lực lượng vũ trang sang thời chiến, ngày 22-5-1965 (p.4)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.5
Phụ lục 5: Biên bản Hội nghị Ban quân sự Tỉnh ủy Quảng Bình ngày 29-9-1965 (p.5)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.6
Phụ lục 6: Phương án đề phòng khả năng địch đánh lớn ra tỉnh Quảng Bình của
Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình, ngày 14-10-1965 (p.6)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.7
Phụ lục 7: Chỉ thị về công tác xây dựng làng chiến đấu của Quân ủy Trung ương,
ngày 25-5-1966 (p.7)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.8
Phụ lục 8: Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về việc tập trung lực lượng, tăng
cường lãnh đạo và chỉ đạo, quyết tâm bảo vệ và đảm bảo giao thông vận tải trong
tình hình mới, ngày 21-6-1972 (p.8).
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.9
Phụ lục 9: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thống nhất chỉ huy công
tác giao thông vận tải ở khu 4 cũ chi viện tiền tuyến theo hướng quân sự hóa những
khâu tổ chức và công tác cần thiết, ngày 30-11-1972 (p.9).
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.10
Phụ lục 10: LỰC LƯỢNG BỘ ĐỘI CHỦ LỰC TRÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH
TRONG THỜI KÌ CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI (1965-1973)
(Tổng hợp từ các tài liệu tham khảo)
Về bộ binh, có Sư đoàn 325 và một phần Sư đoàn 341. Trong từng thời điểm
cụ thể, Quảng Bình còn là hậu cứ, nơi củng cố lực lượng của một số đơn vị như Sư
đoàn 324 (sau năm 1968), Sư đoàn 2/Quân khu 5 (năm 1970), … Các đơn vị này
vừa củng cố lực lượng vừa diễn tập thực binh, sẵn sàng cùng các lực lượng tại chỗ
đánh địch khi tình huống xảy ra. Ngoài ra, Quảng Bình còn được đặt sở chỉ huy
nhiều chiến dịch tại đây như Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966-
1973), Bộ Tư lệnh chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị
- Thiên (1972), … Trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, hầu
hết các đơn vị chủ lực của Bộ Quốc phòng và Quân khu trên đường chi viện cách
mạng miền Nam đều dừng chân tập kết ở Quảng Bình trước khi vào chiến trường
như các sư đoàn 304, 308, 312, 316, 320, ...
Về pháo binh, trong từng thời điểm, Quân khu 4 còn chi viện Trung đoàn
pháo binh 164 sát cánh cùng quân dân Quảng Bình, chưa kể lực lượng pháo thuộc
các sư đoàn bộ binh 341 và 325.
Về lực lượng phòng không, Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 điều Trung đoàn
152 cao xạ phụ trách đường 12. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 280 cao xạ 85ly bố
trí ở khu vực Đá Mài; Trung đoàn 214 cao xạ 57ly, 37ly cơ động ở Bố Trạch. Tiểu
đoàn 14 Nguyễn Viết Xuân (pháo cao xạ 57ly, 37ly) bố trí ở Roòn (Quảng Trạch).
Đầu năm 1967, Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quảng Bình một số đơn vị
phòng không tầm trung và tầm cao. Cụ thể gồm Trung đoàn 218 pháo cao xạ 85ly
và 37ly phụ trách tuyến đường 15, 16 và miền Tây Lệ Thủy. Trung đoàn 238 tên lửa
bố trí ở Nông trường Việt - Trung và Thọ Lộc (Bố Trạch). Tháng 10-1967, Bộ
Quốc phòng đưa thêm Trung đoàn 284 tên lửa vào Quảng Bình. Đến cuối năm
1967, các đơn vị trên được hợp thành Sư đoàn phòng không 375, gồm 3 trung đoàn:
284, 214 và 238.
P.11
Sau ngày 31-3-1968, để đối phó với sự gia tăng mức độ đánh phá của đối
phương trong thời kì “ném bom hạn chế”, bảo đảm giao thông chi viện chiến
trường, Quân khu 4 chuyển dần lực lượng phòng không vào phía Nam, thành lập Bộ
Tư lệnh 375 (trên cơ sở Sư đoàn phòng không 375). Một lực lượng phòng không
lớn được bố trí dày đặc trên đất Quảng Bình gồm: Trung đoàn 218 phụ trách nam
Quảng Bình và Vĩnh Linh, Trung đoàn 282 phụ trách nam Long Đại, Trung đoàn
214 cơ động trong tứ giác Xuân Sơn - Gianh - Quán Hàu - Long Đại, Trung đoàn
284 phụ trách bắc sông Gianh và nam Hà Tĩnh, Trung đoàn 280 hoạt động ở Xuân
Sơn (Đường 20) và Khe Ve (Đường 12), Trung đoàn 238 tên lửa hoạt động cùng địa
bàn của Trung đoàn 214 và Trung đoàn 218. Ngoài ra, Quân khu còn điều động các
tiểu đoàn cao xạ bổ sung cho các đơn vị trên: Tiểu đoàn 14 pháo 37ly hoạt động độc
lập ở Gianh, sau cùng Tiểu đoàn 15 tăng cường cho Trung đoàn 214, Tiểu đoàn 10
tăng cường cho Trung đoàn 218.
Từ giữa năm 1972, trước tình hình chiến tranh phá hoại của Mỹ tái diễn,
công tác tái phối trí lại lực lượng báo động, phòng không trên địa bàn Quảng Bình
khẩn trương được thực hiện. Để chủ động đánh địch, bảo vệ các chân hàng và tuyến
đường Trường Sơn, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân điều Sư đoàn phòng
không 367 vào miền Tây Quảng Bình và Vĩnh Linh.
Về hải quân, quân cảng Sông Gianh được khởi công xây dựng đầu năm 1960
và hoàn thành năm 1964, là khu vực quan trọng ở phía Nam Quân khu 4, được
Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân tăng cường chỉ đạo về mọi mặt. Sau ngày 5-8-
1964, Ban Chỉ huy khu Sông Gianh được thành lập. Ban Tham mưu được tăng
cường nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy tác chiến. Tại đây, thường xuyên có 4 đến 6
tàu tuần tiễu loại 79 tấn thuộc phân đội 5, 6 và 7 Đoàn 135 hải quân, 3 tàu phóng
ngư lôi, 1 đại đội pháo cao xạ 37ly, 2 phân đội súng máy cao xạ 14,5ly (6 khẩu) do
đại đội 37ly pháo bờ biển và trung đội cảnh vệ phụ trách để bảo vệ cảng và tàu.
Về không quân, ngoài sân bay Đồng Hới có thể sử dụng cho mục đích quân
sự, cùng với các lực lượng trên mặt đất, để tham gia đánh tàu chiến Mỹ, ngày 18-4-
1972, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân điều một biên đội máy bay Mig 17 (2
P.12
chiếc) thuộc Trung đoàn không quân 923 vào sân bay dã chiến ở Gát (xã Xuân
Trạch, Bố Trạch). Máy bay và các khí tài chiến đấu của không quân đã được vận
chuyển theo đường bộ, qua hệ thống hỗ trợ vận tải của lực lượng Bộ Quốc phòng có
sự hợp tác của nhân dân, được đảm bảo tuyệt đối bí mật để gây yếu tố bất ngờ.
Ngay hôm sau, biên đội xuất kích đánh hỏng tàu khu trục USS Higbee và tàu tuần
dương USS Oklahoma City trên vùng biển Quảng Bình.
Về Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn. Từ tháng 10-1959, Quảng Bình trở thành
đầu mối, trung tâm của tuyến đường vận tải chiến lược chi viện cách mạng miền
Nam - Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh. Tại đây, Bộ Tư lệnh Bộ đội
Trường Sơn đặt các sở chỉ huy (sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương và sở chỉ
huy lâm thời). Về mặt tổ chức, Đoàn 559 thành lập Binh trạm 12 chốt trên Đường
12, Binh trạm 14 chốt ở Đường 20, Binh trạm 16 chốt ở Đường 10. Ngoài hàng
trăm kho hàng hóa gửi trong nhà dân, có 3 tổng kho chính của các Binh trạm 12, 14,
16 (Đoàn 559) được bố trí trên đất Quảng Bình: Đó là Tổng kho R (765) ở khu vực
Hóa Tiến (Minh Hóa); Tổng kho NH ở khu vực Phong Nha - Xuân Sơn (Bố Trạch)
và Tổng kho HC ở khu vực Xuân Bồ (Lệ Thủy). Bảo vệ cho các tuyến đường, kho
hàng và binh trạm là các đơn vị phòng không, công binh, thông tin, bộ binh thuộc
Đoàn 559. Quảng Bình trở thành chiến trường trong chiến trường trọng yếu -
Trường Sơn.
P.13
Phụ lục 11. Thư chúc mừng của Thành hội Phụ nữ Hà Nội nhân Quảng Bình bắn
rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 27-6-1968 (p.13)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.14
Phụ lục 12: Thư chúc mừng của cán bộ, chiến sĩ Ty Công an Thái Bình nhân
Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 29-6-1968 (p.14)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.15
Phụ lục 13: Thư chúc mừng của cán bộ, nhân dân huyện Tứ Kỳ (Hải Hưng) nhân
Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của miền Bắc, ngày 1-7-1968 (p. 15-16)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.16
P.17
Phụ lục 14: Bệnh viện Đồng Hới bị bom Mỹ đánh phá năm 1966 (p.17)
Nguồn: Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình
Phụ lục 15: Thị trấn Ba Đồn bị bom Mỹ hủy diệt năm 1967 (p.17)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.18
Phụ lục 16: Tiểu đoàn 9 pháo cao xạ Quảng Bình (p. 18)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
Phụ lục 17: Đại đội nữ dân quân pháo binh Ngư Thủy, Lệ Thủy (p. 18)
Nguồn: Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Bình
P.19
Phụ lục 18: Nữ dân quân Võ Ninh, Quảng Ninh (p.19)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
Phụ lục 19: Lão dân quân Đức Ninh, Quảng Ninh (p.19)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.20
Phụ lục 20: Đội thiếu niên Quảng Đông, Quảng Trạch (p. 20)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
Phụ lục 21: Đưa xe qua sông Gianh (p.20)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.21
Phụ lục 22: Chiến dịch VT5 ở Nhật Lệ năm 1968 (p.21)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
Phụ lục 23: Máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Lý Trạch năm 1967 (p.21)
Nguồn: Chi cục Lưu trữ tỉnh Quảng Bình
P.22
Phụ lục 24. Danh sách tập thể, cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và
Anh hùng lao động của tỉnh Quảng Bình được phong tặng, truy tặng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Quảng Bình
I. TẬP THỂ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
1. Trung đội dân quân thôn Tây, xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy
2. Đồn Cha Lo (111) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
3. Dân quân du kích xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh
4. Dân quân du kích xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch
5. Đội dân quân gái Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy
6. Đồn Roòn (120) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
7. Đồn Ngư Thủy (132) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
8. Dân quân du kích xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa
9. Đại đội Pháo binh 85 ly Bộ đội địa phương Quảng Bình
10. Dân quân du kích xã Lộc Ninh, thị xã Đồng Hới
11. Đại đội 10 Pháo binh, Tiểu đoàn 14, Bộ đội địa phương Quảng Bình
12. Dân quân du kích xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy
13. Trạm Cảng Sông gianh (305) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
14. Đại đội 3, Pháo cao xạ 37 ly Tiểu đoàn 9, Bộ đội địa phương Quảng Bình
15. Dân quân du kích xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch
16. Dân quân du kích xã Đức Ninh, thị xã Đồng Hới
17. Đồn làng Ho (119) Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
18. Đại đội 2, Công an nhân dân vũ trang Quảng Bình
19. Dân quân du kích xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch
20. Dân quân du kích xã Phú Thủy, huyện Lệ Thủy
21. Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình
22. Nhân dân và LLVT nhân dân thị xã Đồng Hới
23. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa
P.23
24. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đồng Hóa, huyện Tuyên Hóa
25. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch
26. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy
27. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh
28. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch
29. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh
30. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Bố Trạch
31. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh
32. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Lệ Thủy
33. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Quảng Ninh
34. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Quảng Trạch
35. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Tuyên Hóa
36. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lê Hóa, huyện Tuyên Hóa
37. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch
38. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch
39. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy
40. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy
41. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh
42. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch
43. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thọ, huyện Quảng Trạch
44. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa
45. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa
46. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Trung Hóa, huyện Minh Hóa
47. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch
48. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hưng Trạch, huyện Bố Trạch
49. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thái Thủy, huyện Lệ Thủy
50. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mai Thủy, huyện Lệ Thủy
51. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy
52. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nghĩa Ninh, thị xã Đồng Hới
P.24
53. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới
54. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lý Ninh, thị xã Đồng Hới
55. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch
56. Nhân dân và LLVT nhân dân thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch
57. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch
58. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ bến phà Gianh
59. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Bưu điện tỉnh Quảng Bình
60. Nhân dân và LLVT nhân dân huyện Minh Hóa
61. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch
62. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Vạn Trạch, huyện Bố Trạch
63. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch
64. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Bắc Trạch, huyện Bố Trạch
65. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch
66. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Tùng, huyện Quảng Trạch
67. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch
68. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Thanh, huyện Minh Hóa
69. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Tiến, huyện Minh Hóa
70. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa
71. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Đồng Phú, thị xã Đồng Hới
72. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Đồng Sơn, thị xã Đồng Hới
73. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Hải Thành, thị xã Đồng Hới
74. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Ninh, huyện Quảng Ninh
75. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh
76. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy
77. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cam Thủy, huyện Lệ Thủy
78. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Dương Thủy, huyện Lệ Thủy
79. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy
80. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Giao thông vận tải Quảng Bình
81. Nhân dân và LLVT nhân dân xã An Thủy, huyện Lệ Thủy
P.25
82. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Thủy, huyện Lệ Thủy
83. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy
84. Nhân dân và LLVT nhân dân phường Phú Hải, thị xã Đồng Hới
85. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Văn, huyện Quảng Trạch
86. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch
87. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Nông trường Việt Trung
88. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phong Hóa, huyện Tuyên Hóa
89. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đức Hóa, huyện Tuyên Hóa
90. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa
91. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa
92. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Cảnh Hóa, huyện Quảng Trạch
93. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch
94. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch
95. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Gia Ninh, huyện Quảng Ninh
96. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hồng Thủy, huyện Lệ Thủy
97. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hoa Thủy, huyện Lệ Thủy
98. Lực lượng tự vệ Phà Long Đại
99. Nhân dân và Công an thị xã Đồng Hới
100. Nhân dân và Công an huyện Quảng Ninh
101. Nhân dân và Công an huyện Bố Trạch
102. Phòng bảo vệ chính trị, Công an tỉnh Quảng Bình
103. Đồn 84, Công an vũ trang nhân dân (tuyến Thống Nhất)
104. Trạm Cảnh sát giao thông 64
105. Đội phòng cháy chữa cháy
106. Đội cảnh vệ
107. Ban Công an xã Đại Trạch, huyện Bố Trạch
108. Ban Công an xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh
109. Đồn cảng Gianh, Bộ đội Biên phòng Quảng Bình
110. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy
P.26
111. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Liên, huyện Quảng Trạch
112. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phong, huyện Quảng Trạch
113. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hóa Hợp, huyện Minh Hóa
114. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Yên Hóa, huyện Minh Hóa
115. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Y tế Quảng Bình
116. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Công ty Vật tư tổng hợp Quảng Bình
117. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy
118. Nhân dân và LLVT nhân dân xã An Ninh, huyện Quảng Ninh
119. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch
120. Công ty Vận tải ô tô Quảng Bình
121. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch
122. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hợp, huyện Quảng Trạch
123. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch
124. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch
125. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch
126. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch
127. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch
128. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch
129. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa
130. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa
131. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hưng Thủy, huyện Lệ Thủy
132. Cán bộ, công nhân viên và lực lượng tự vệ Ty Công nghiệp Quảng Bình
133. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Châu Hóa, huyện Tuyên Hóa
134. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Châu, huyện Quảng Trạch
135. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch
136. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch
137. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Kim, huyện Quảng Trạch
138. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Thủy, huyện Quảng Trạch
139. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phù Hóa, huyện Quảng Trạch
P.27
140. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quảng Trường, huyện Quảng Trạch
141. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa
142. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kim Hóa, huyện Tuyên Hóa
143. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa
144. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa
145. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Quy Hóa, huyện Minh Hóa
146. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hoàn Trạch, huyện Bố Trạch
147. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tây Trạch, huyện Bố Trạch
148. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh
149. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh
150. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đức Trạch huyện Bố Trạch
151. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Phú Trạch huyện Bố Trạch
152. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Lý Trạch huyện Bố Trạch
153. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Mỹ Trạch huyện Bố Trạch
154. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy
155. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy
156. Cán bộ, nhân viên lực lượng tự vệ Lâm trường Nam, Ty Lâm nghiệp Quảng Bình
157. Đồn Biên phòng 597 thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh
158. Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tỉnh Quảng Bình
159. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Liên Trạch, huyện Bố Trạch
160. Nhân dân và LLVT nhân dân xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch
161. Bệnh viện huyện Quảng Ninh
162. Cảng Quảng Bình
163. Tập thể 8 Liệt sĩ TNXP thuộc Đại đội 217, Ban xây dựng 67, Đoàn 559
164. Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội TNXP 759, Đội TNXP N75, Đoàn 559
P.28
II. TẬP THỂ ANH HÙNG LAO ĐỘNG
1. Hợp tác xã Đại Phong, huyện Lệ Thủy
2. Hợp tác xã Cự Nẫm, huyện Bố Trạch
3. Bệnh viện huyện Quảng Trạch
4. Đội chiếu bóng 11
5. C.759 Thanh niên xung phong
6. Công trường 050 – Giao thông
7. Hợp tác xã Quang Phú, thị xã Đồng Hới
III. CÁ NHÂN ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
1. Thái Văn A
2. Nguyễn Văn Mật
3. Nguyễn Hữu Ngoãn
4. Trần Thị Lý
5. Nguyễn Tri Phương
6. Phạm Bá Hạt
7. Cao Lương Bằng
8. Trịnh Xuân Bảng
9. Hồ Phòm
10. Lê Văn Hiến
11. Hồ Bá Thọ
12. Nguyễn Văn Tương
13. Trần Phước Yên
14. Hoàng Hữu Nờ
15. Phạm Văn Lái
16. Nguyễn Xuân Giang
17. Nguyễn Viết Cù
18. Trần Thế Lại
19. Nguyễn Văn Tấn
20. Phùng Hồng Lãm
P.29
21. Hà Văn Cách
22. Nguyễn Văn Huệ
23. Trương Pháp
24. Lê Văn Mục
25. Võ Ngọc Chước
26. Nguyễn Xảo
27. Đặng Y
28. Nguyễn Thị Nậy
29. Trần Đức Hè
IV. CÁ NHÂN ANH HÙNG LAO ĐỘNG
1. Ngô Mốc
2. Nguyễn Ngọc Ánh
3. Hoàng Trung Vinh
4. Lê Trạm
5. Trương Thị Diên
6. Nguyễn Thị Khíu
7. Nguyễn Thị Suốt
8. Võ Xuân Khuể
9. Võ Xuân Nở
10. Đinh Thị Thu Hiệp
11. Nguyễn Thị Kim Huế
P.30
Tác giả và ông Trần Sự,
nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội
Quảng Bình những năm 1965-1973
Tác giả và ông Cao Ngọc Tành,
Nguyên Đại đội trưởng đơn vị Thanh
niên xung phong C.759, Quảng Bình