bẢn tin issn 1859-4174 - ria1.org file2 bản tin viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản...
TRANSCRIPT
Địa chỉ: Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh Điện thoại: +84 3 827 3069; Fax: +84 3 827 3070 Email: [email protected] ; website: www.ria1.org
Đại hội Công đoàn Viện Nghiên cứu NTTS I tổng kết nhiệm kỳ 2008 - 2011 và
phương hướng nhiệm kỳ 2011 - 2014
Hội nghị Giao ban công tác KHCN và Công đoàn khối Viện năm 2011
Đánh giá tác động của cá Tiểu bạc đến đa dạng sinh học và môi trường hồ Thác Bà
Phân biệt cá thể lưỡng bội và tam bội trên Hầu Thái Bình Dương bằng chỉ thị phân
tử microsatellite
BẢN TIN
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I
ISSN 1859-4174
Số 3
Quý III - 2011
2 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Giấy phép xuất bản số:37/GP-XBBT ngày 25/4/2011 của Cục Báo chí – Bộ Thông tin và Truyền thông
Bản quyền thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Cấm sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
Ban biên tập Trưởng ban
Phan Thị Vân
Phó Trưởng ban
Nguyễn Hữu Ninh
Ủy viên
Nguyễn Hữu Nghĩa Mai Văn Tài Nguyễn Thị Thu Hiền Nguyễn Thị Diệu Phương Vũ Thị Ngọc Liên Hoàng Nhật Sơn Trần Thị Kim Chi Trần Anh Tuấn Chu Chí Thiết
Thư ký
Hoàng Thu Thủy
Trang bìa: Cá tiểu bạc Neosalanx tangkahkeii (Wu, 1931)
Ảnh: Nguyễn Hải Sơn
Trong số này
Thư ngỏ 4
Tin tức 5
Đánh giá tác động của cá Tiểu bạc đến đa dạng sinh học và môi trường hồ Thác Bà 10
Kết quả nghiên cứu sản xuất giống cá Chạch sông Mastacembelus armatus (Lacepède, 1800) 11
Phân biệt cá thể lưỡng bội và tam bội trên Hầu Thái Bình Dương bằng chỉ thị phân tử microsatellite 12
Kết quả nghiên cứu về thành phần loài cá sông Đakrông, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị 13
Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật của Cộng hoà Séc với nuôi trồng thuỷ sản miền núi ở Việt Nam 15
Tập huấn chuyên môn cho cán bộ và cộng tác viên khuyến ngư của 12 tỉnh thành phía Bắc 17
Tập huấn kỹ thuật nuôi cá Lăng chấm tại Viện I 18
Những ngày đáng nhớ của các cán bộ Cuba khi học tập và làm việc tại Viện I 19
4 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Thư ngỏ
Kính thưa quý độc giả,
Thay mặt Ban biên tập, tôi rất vui
mừng thông báo với quý độc giả rằng
Bản tin của Viện Nghiên cứu nuôi
trồng thủy sản I đã chính thức được
cấp mã ISSN kể từ số thứ 3 này. Ban biên tập cùng
toàn thể cán bộ của Viện sẽ cố gắng củng cố và
nâng cao chất lượng của mỗi bản tin nhằm chuyển
tải tới quý độc giả những thông tin về các hoạt động
trên mọi lĩnh vực của Viện và những thông báo khoa
học chính xác và cập nhật nhất.
Quý 3, với tình hình thời tiết nắng mưa thất thường
cùng với bão lũ, Viện I, từ trụ sở chính tại Bắc Ninh
cho đến các đơn vị trực thuộc đều có kế hoạch
chuẩn bị phòng ngừa nhằm giảm thiểu những thiệt
hại do thiên tai gây ra, tuy nhiên cũng không tránh
khỏi những tổn thất nhất định. Mặc dù vậy, tất cả các
cán bộ đều cố gắng khắc phục, duy trì hoạt động
nghiên cứu và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Trong quý này, Đại hội Công đoàn của Viện đã được
tổ chức thành công, nhiều hoạt động văn hóa, thể
thao chào mừng nhân dịp sự kiện đã diễn ra, cũng
như các hoạt động khoa học của Viện đã được củng
cố để nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu. Với
sự nỗ lực hết mình, cán bộ của Viện đã đấu thầu
thành công nhiều đề tài trong và ngoài nước để thực
hiện trong những năm tới. Chúng tôi sẽ thông tin tới
quý vị về vấn đề này trong những số sau. Đây cũng
là thời điểm mà một số đề tài trong nước và dự án
hợp tác quốc tế gấp rút triển khai và giải quyết
những vấn đề còn tồn đọng nhằm kết thúc đúng tiến
độ đề ra.
Ngoài trời đã có chút lạnh đầu mùa, nhưng có thể
cảm nhận được sức nóng của lòng quyết tâm hoàn
thành công việc với chất lượng tốt nhất lan tỏa trong
từng cán bộ nghiên cứu ở đây. Mùa thu vàng đã tới…
Trân trọng,
Phan Thị Vân
Trưởng ban biên tập
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 5
Tin tức
Đại hội Công đoàn Viện Nghiên cứu NTTS I tổng kết nhiệm kỳ 2008 - 2011 và phương hướng nhiệm kỳ 2011 - 2013
Hoàng Thủy
Sáng ngày 25 tháng 8 năm 2011, Đại hội Công đoàn
Viện Nghiên cứu NTTS I lần thứ 24 được khai mạc
tại Hội trường lớn - Viện I. Tới dự Đại hội có ông
Nguyễn Mạnh Hiền - Phó Chủ tịch thường trực Công
đoàn ngành Nông nghiệp và đại diện một số ban
chuyên đề của CĐN. Về phía Viện I có Ban Lãnh
đạo Viện, lãnh đạo các Phòng ban, Trung tâm, Phân
viện, Ban Chấp hành (BCH) công đoàn khóa 23 và
79 đại biểu được bầu từ các Tổ công đoàn thuộc
đơn vị của Viện đã về dự.
Với tinh thần làm việc khẩn trương và đoàn kết nhất
trí cao, Đại hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết
Đại hội, phương hướng hoạt động nhiệm kỳ 2011 -
2013 và bầu ra BCH khóa 24 gồm 13 đồng chí để
tiếp tục lãnh đạo Công đoàn Viện. Chào mừng sự
kiện này, các hoạt động thể dục thể thao, văn hóa
văn nghệ đã được tổ chức . Các cán bộ viên chức
lao động của Viện đã tham gia nhiệt tình, sôi nổi
trong các giải thi đấu như bóng đá, cầu lông … góp
phần cho sự thành công của Đại hội Công đoàn
Viện.
Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng nhiệm vụ 2011 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Hoàng Thủy
Ngày 11 tháng 8 năm 2011 Bộ Nông nghiệp & PTNT
đã tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học
công nghệ giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng
nhiệm vụ 2011 - 2015 tại Hội trường nhà B6 - Bộ
NN&PTNT. Khách mời của Hội nghị có Phó thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ
NN&PTNT Cao Đức Phát tới dự và chỉ đạo Hội nghị.
Mở đầu Hội nghị đại diện Vụ Khoa học và Công
nghệ đã trình bày “Báo cáo chung của Bộ NN&PTNT
về công tác khoa học công nghệ 2006-2010, định
hướng 2011-2015” và “Báo cáo tổng kểt chương
trình Công nghệ sinh học giai đoạn 2006 - 2010”,
tiếp theo đó đại diện của Trung tâm Khuyến nông
Các cá nhân xuất sắc nhận bằng khen của Công đoàn ngành Ảnh: Nguyễn Hữu Nghĩa
Các cá nhân đạt giải trong thi đấu cầu lông. Ảnh: Hoàng Thủy
6 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Tin tức
Quốc gia trình bày “Báo cáo Khuyến nông giai đoạn
2006 - 2010”. Sau đó, các đại biểu được nghe tham
luận đến từ các Viện Khoa học Nông nghiệp Việt
Nam, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Viện Khoa
học Lâm nghiệp và tham luận của các Viện khối
Thủy sản. Trong buổi chiều các tham luận tiếp tục
được trình bày đến từ các Viện Chăn nuôi, Thú y,
Cơ điện - Công nghệ sau thu hoạch và cuối cùng là
Viện Chiến lược Chính sách.
Khoa học và Công nghệ luôn luôn là giải pháp ưu
tiên hàng đầu trong các hoạt động phát triển nông
nghiệp nông thôn để đạt được những kết quả nhanh
và chất lượng. Do đó ngân sách Nhà nước dành cho
KH&CN trong việc phát triển nông nghiệp và nông
thôn tăng trung bình khoảng 11%/năm trong giai
đoạn 2006 - 2010. Nhà nước và Bộ NN&PTNT đã
tạo ra những cơ chế và chính sách đổi mới để làm
thuận tiện việc tạo hành lang pháp lý cho các hoạt
động phát triển KH&CN. Hệ thống tổ chức của các
Viện Nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Bộ đã
được sắp xếp lại và hợp nhất nhằm đạt được hiệu
quả cao hơn.
Mục tiêu của KH&CN là: “Tiếp tục xây dựng một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa có năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao, phát triển ổn định, bền
vững trên cơ sở ứng dụng các thành tựu KHCN tiên
tiến, góp phần kiềm chế lạm phát và đảm bảo an sinh
xã hội cho khu vực nông thôn và nông dân”. (Trích
Báo cáo Kết quả nghiên cứu KH,CN và MT giai đoạn
2006-2010 và định hướng nghiên cứu 2011-2015)
Trong thời gian tham gia Hội nghị, Viện Nghiên cứu
nuôi trồng thủy sản I đã trưng bày những poster, tờ
rơi, sách giới thiệu những thành tựu và sản phẩm
mà các Đề tài/Dự án KHCN đã được nghiên cứu
thành công tại Viện. Hơn nữa, các sản phẩm mẫu
vật sống như cá Chép V1, Rô phi, cá Lăng, cá
Chạch sông và cá Chép cảnh, các mẫu thức ăn cho
cá và sản phẩm thuốc trị bệnh cho tôm, cá cũng
được giới thiệu và nhận được sự quan tâm của
nhiều đại biểu.
Viện I tham gia Hội chợ Triển lãm Xúc tiến thương mại - Đầu tư nông nghiệp khu vực Trung du miền núi phía Bắc năm 2011 tại Lào Cai
Trần Thị Kim Chi
Từ ngày 28 - 31 tháng 7 năm 2011, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã tổ chức Hội chợ triển lãm
Xúc tiến thương mại - Đầu tư nông nghiệp khu vực
Trung du miền núi phía Bắc năm 2011 tại thành phố
Lào Cai. Viện I đã có 3 đơn vị trực thuộc tham gia
gian hàng triển lãm bao gồm: Trung tâm Nghiên cứu
Thuỷ sản nước lạnh, Trung tâm Nghiên cứu và Sản
xuất thức ăn thuỷ sản và Trung tâm chế biến và
thương mại nghề cá phía Bắc.
Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Khánh Trường
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 7
Tin tức
Những sản phẩm của các Trung tâm đã mang đến
Hội chợ bao gồm: cá Tầm Nga, cá Hồi vân giống, cá
Tầm giống, cá Hồi phi lê, v.v. (thuộc Trung tâm
Nghiên cứu Thuỷ sản nước lạnh); thức ăn cá Hồi, cá
Tầm (thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất thức
ăn thuỷ sản); Cá Hồi xông khói nóng, cá Rô phi xông
khói, chả mực, chả cá, cá đông lạnh… (thuộc Trung
tâm Chế biến và Thương mại nghề cá phía Bắc).
Các sản phẩm tham gia triển lãm của Viện I không
những làm phong phú thêm cho Hội chợ mà còn thể
hiện tính đặc trưng của ngành thủy sản. Đi kèm với
Chương trình Hội chợ, Trung tâm Nghiên cứu thuỷ
sản nước lạnh cũng là một trong những điểm đến
tham quan của các đại biểu 15 tỉnh phía Bắc đến
tham gia triển lãm, đã có hơn 100 đại biểu đến tham
quan Trung tâm ngày 30 tháng 8 vừa qua.
Diễn đàn dinh dưỡng và thức ăn thủy sản khu vực lần thứ 3
Đàm Thị Mỹ Chinh
Trong hai ngày 01 & 02/7/2011, dự án ACIAR/
FIS/2006/141 “Nâng cao tính bền vững trong chế
biến và sử dụng thức ăn cho nuôi trồng hải sản tại
Việt Nam và Ôxtrâylia” đã tổ chức “Diễn đàn dinh
dưỡng và thức ăn thủy sản khu vực lần thứ 3” tại
khách sạn Star City - Thành phố Hồ Chí Minh. Hội
thảo là một trong những hoạt động thường niên của
dự án nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và sản
xuất thức ăn cho 5 đối tượng nuôi biển (cá Chẽm, cá
Giò, cá Song, cua bùn, tôm hùm) ở Việt Nam.
Tham gia diễn đàn có sự góp mặt của 85 khách mời
từ các công ty sản xuất thức ăn (Ocialis, Lái Thiêu,
Biomin, Novus, Ewos), các nhà khoa học của các
Viện nghiên cứu NTTS I, II, III và các trường đại học:
Đại học quốc tế thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Nha
Trang, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học Cần Thơ…, có 22 bài báo cáo của các báo
cáo viên với các nội dung rất đa dạng như nghiên
cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cá Chẽm, tôm hùm,
bổ sung một số axitamin thiết yếu nâng cao hiệu quả
sản xuất thức ăn…. Diễn đàn thực sự trở thành nơi
để giao lưu, trao đổi những kiến thức và kinh nghiệm
trong nghiên cứu và sản xuất thức ăn không chỉ ở
Việt Nam mà còn trên thế giới.
Tham dự hội thảo lần này, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng thủy sản I có 2 bài báo cáo của 2 cán bộ khoa
học trẻ (Đàm Thị Mỹ Chinh, Ngô Thị Dịu) là thành
viên của dự án. Đây là cơ hội rất tốt để các cán bộ
trẻ có thể học tập phương pháp nghiên cứu chuyên
sâu về dinh dưỡng và đặc biệt hơn là học tập được
kỹ năng thuyết trình Tiếng Anh.
Hội thảo lần thứ 4 dự kiến sẽ được tổ chức tại thành
phố biển Nha Trang vào tháng 5/2012. Hy vọng đây
sẽ là hoạt động lâu dài để các nhà nghiên cứu dinh
dưỡng, các công ty sản xuất thức ăn và người nuôi
có cơ hội gặp gỡ, từ đó có thể giải quyết được thực
trạng sử dụng thức ăn nuôi hải sản hiện nay.
Gian hàng của Viện I tham gia tại Hội chợ.
Ảnh: Trần Thị Kim Chi
8 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Tin tức
Hội nghị bàn giải pháp phát triển nuôi cá nước lạnh
Trần Thị Kim Chi
Ngày 17 tháng 9 năm 2011, Bộ NN&PTNT đã tổ
chức "Hội nghị bàn giải pháp phát triển nuôi cá nước
lạnh" tại TT Nghiên cứu thuỷ sản nước lạnh Sa Pa
(Viện I) do Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu chủ trì.
Thành phần tham dự bao gồm đại diện lãnh đạo Bộ
NN&PTNT, Bộ Khoa học & Công nghệ, Tổng cục
thuỷ sản, Viện kinh tế quy hoạch, Viện I và Viện III,
các đại diện của các tỉnh Lâm Đồng, Yên Bái, Lai
Châu, Sơn La và Lào Cai.... Đặc biệt, tới tham dự
Hội nghị có nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Công Tạn, nguyên Thứ trưởng Võ Văn Trác
và nguyên Thứ trưởng Bộ Thuỷ sản (cũ) ông
Nguyễn Việt Thắng. Về phía Viện I tham dự có các
đồng chí lãnh đạo gồm Viện trưởng, Tiến sỹ Lê
Thanh Lựu, Phó Viện trưởng, TS. Trần Đình Luân và
ông Nguyễn Tiến Sỹ, Chánh Văn phòng Viện.
Tại hội nghị, các đại biểu đã được nghe các báo cáo
tham luận và đóng góp ý kiến của Bộ Khoa học công
nghệ, Viện Kinh tế quy hoạch, Tổng cục Thuỷ sản,
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Viện I, Viện III và
đại diện các tỉnh Lào Cai, Lâm Đồng, Yên Bái, Lai
Châu, Sơn La, Tuyên Quang ... về vấn đề xây dựng
đề án quy hoạch tổng thể nuôi cá nước lạnh toàn
quốc bao gồm địa điểm nuôi phù hợp cho cá Tầm;
cá Hồi, tổng sản lượng toàn quốc, sản lượng chi tiết
của từng địa phương, kế hoạch xây dựng đề án phát
triển nuôi trồng thuỷ sản nước lạnh tại từng địa
phương.
Hội nghị sơ kết tình hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt năm 2011 và giải pháp triển khai năm 2012 tại miền Bắc
Hoàng Thủy
Ngày 19 tháng 9 năm 2011, tại Thành phố Hải
Dương, Bộ NN&PTNT và Tổng cục Thủy sản đã tổ
chức Hội nghị giao ban sơ kết tình hình nuôi trồng
thủy sản nước ngọt năm 2011 và giải pháp triển khai
năm 2012 do Thứ trưởng Nguyễn Thị Xuân Thu chủ
trì. Tới tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo Bộ,
Tổng cục thủy sản, các Sở NN&PTNT, Chi cục Thủy
sản/NTTS; Trung tâm giống và các Doanh nghiệp.
Hội nghị tập trung thảo luận và đóng góp ý kiến về
các vấn đề: i) Tình hình sản xuất, cung ứng, quản lý
chất lượng giống và nuôi trồng thủy sản nước ngọt
năm 2011; ii) Đề xuất giải pháp cho kế hoạch phát
triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt năm 2012.
Đại biểu tham gia thảo luận tại Hội nghị.
Ảnh: Trần Thị Kim Chi
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 9
Tin tức
Hội nghị giao ban công tác KHCN và Công đoàn khối Viện năm 2011
Hoàng Thủy
Thực hiện Chương trình công tác năm 2011 Bộ
NN&PTNT, Công đoàn NN&PTNT Việt Nam tổ chức
Hội nghị giao ban công tác KHCN và Công đoàn khối
Viện đối với các Viện trực thuộc Bộ năm 2011.
Thành phần tham dự họp có đại diện Lãnh đạo Bộ,
Vụ KHCN&MT, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Tài Chính,
Thường trực Công đoàn ngành, đại diện Lãnh đạo
các Viện, Chủ tịch (Phó Chủ tịch) Công đoàn Viện.
Khách mời tham dự có Thường trực LĐLĐ tỉnh Bắc
Ninh, Lãnh đạo Sở NN&PTNT, Sở KH&CN tỉnh Bắc
Ninh. Nội dung chính được thảo luận tại Hội nghị
gồm: Kết quả thực hiện Nghị định số 115/2005/NĐ-
CP của Chính Phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của tổ chức KHCN công lập và Nghị
định số 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về Doanh
nghiệp KHCN; Kết quả hoạt động công đoàn của các
Viện; những vấn đề cần xử lý trong quá trình tổ chức
và hoạt động công đoàn tham gia chuyển đổi Viện;
Những đề xuất, kiến nghị của các đơn vị với Bộ và
Công đoàn cấp trên.
Họp Hội đồng Khoa học Viện I phiên họp lần thứ nhất
Nguyễn Hữu Nghĩa
Ngày 07/9/2011 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản I đã tổ chức cuộc họp của Hội đồng Khoa học
lần thứ nhất. Nội dung cuộc họp bao gồm việc thảo
luận cho bản Đề án thành lập Viện Khoa học Thủy
sản và kiểm tra tiến độ những dự án quốc tế đang
triển khai tại Viện.
Những ý kiến góp ý cho đề án thành lập Viện Khoa
học Thủy sản đã được Hội đồng Khoa học đưa ra
dựa trên những phân tích tổng hợp về hiện trạng và
tương lai của ngành khoa học thủy sản. Ý kiến đóng
góp tập trung nhiều về cơ cấu tổ chức và cơ chế
hoạt động của Viện Khoa học Thủy sản trong tương
lai. Hội đồng Khoa học cũng đã đưa ra những ý kiến
đóng góp về việc điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức của
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, sẽ là đơn vị
thành viên của Viện Khoa học Thủy sản.
Cũng trong ngày, Hội đồng Khoa học đã kiểm tra tiến
độ hoạt động của 8 dự án quốc tế đang triển khai tại
Viện. Chủ nhiệm các dự án quốc tế đã báo cáo với
Hội đồng Khoa học kết quả thực hiện, tiến độ giải
ngân, những vướng mắc cần giải quyết và kế hoạch
thực hiện trong thời gian tới. Về cơ bản các dự án
quốc tế triển khai tại Viện đã thực hiện đúng tiến độ
và thực hiện tốt các nội dung đề ra. Hội đồng Khoa
học đã đưa ra các góp ý và định hướng cho các chủ
nhiệm dự án về những điểm cần khắc phục của các
dự án.
Nhằm kiện toàn hoạt động của Hội đồng Khoa học,
cũng trong cuộc họp này, dựa trên giới thiệu của
Chủ tịch, các thành viên của Hội đồng Khoa học đã
nhất trí bầu ThS. Kim Thị Thoa làm thư ký Hội đồng
Khoa học và sẽ đệ trình Viện trưởng phê duyệt.
10 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
Đánh giá tác động của cá Tiểu bạc đến đa dạng sinh học và môi trường hồ Thác Bà
Nguyễn Hải Sơn, Đặng Xuân Kỳ và Vũ Thị Hồng
Nguyên
Việc di giống thuần hóa các sinh vật thủy sinh được
xem là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để
nâng cao sản lượng thủy sản và phát triển kinh tế
của quốc gia. Một số sinh vật di nhập đã mang lại
những lợi ích rõ rệt với nền kinh tế xã hội của đất
nước, nhiều loài đã thích ứng với môi trường mới,
trở thành nguồn lợi thủy sản đáng kể. Bên cạnh đó
cũng có những đối tượng di giống đã đưa lại tổn thất
kinh tế, ảnh hưởng xấu đến môi trường và hệ sinh
thái. Vì thế, việc nghiên cứu tác động của việc di
giống thuần hóa cá Tiểu bạc tại hồ Thác Bà, tỉnh Yên
Bái là cần thiết và được thực hiện từ năm 2009. Sau
3 năm thực hiện, kết quả nghiên cứu của đề tài đã
khẳng định loài cá Tiểu bạc được di nhập vào hồ
Thác Bà có tên khoa học là Neosalanx tangkahkeii
(Wu, 1931) thuộc họ cá Ngần Salangidae, giống cá
Tiểu bạc Neosalanx. Đây là loài cá nhỏ, thân màu
trắng trong, khi trưởng thành có chiều dài trung bình
toàn thân từ 65 - 75mm. Cá phân bố tự nhiên chủ
yếu tại các vùng nước thuộc khu vực trung và hạ lưu
hệ thống sông Trường Giang, Trung Quốc. Cá Tiểu
bạc được di nhập vào hồ Thác Bà từ năm 2001, hiện
nay đã phát triển thành quần đàn và cho sản lượng
đáng kể. Cá có tập tính sống theo bầy đàn, tập trung
nhiều tại các vùng nước mát, chảy nhẹ, nền đáy
bằng phẳng thuộc khu vực trung và thương lưu của
hồ Thác Bà. Vòng đời của cá ngắn (1 năm), khi sinh
sản xong cá bố mẹ chết. Khi còn nhỏ, cá phát triển
nhanh về chiều dài thân, khi đạt kích cỡ thành thục
cá chủ yếu phát triển về trọng lượng. Cá chỉ có một
mùa vụ sinh sản trong năm, bắt đầu từ tháng 12 đến
tháng 3 hàng năm, sinh sản mạnh nhất vào trung
tuần tháng 2. Thời điểm sinh sản của cá Tiểu bạc là
sớm hơn so với các loài cá bản địa tại hồ Thác Bà,
đây là một trong những đặc điểm thuận lợi mang tính
thích nghi cao vì cá Tiểu bạc sinh sản tại thời điểm
này sẽ có môi trường thuận lợi cho cá con phát triển
và không có sự cạnh tranh về bãi đẻ cũng như
nguồn thức ăn tự nhiên trong hồ với các loài cá bản
địa khác. Thức ăn chủ yếu của cá là các loài động
vật phù du (copepods, daphnia….) chiếm 85% thành
phần thức ăn trong ruột cá, có bắt gặp một số ít các
loài tảo (5%) và tôm nhỏ trong thành phần thức ăn.
Mặc dù có sự cạnh tranh thức ăn nhất định với một
số loài cá có tập tính ăn động vật phù du, tuy nhiên
những cạnh tranh này không làm thu hẹp hoặc mất
đi quần đàn của các loài cá bản địa trên hồ chứa
Thác Bà. Đây là loài cá có giá trị dinh dưỡng cao, có
đến 16 loại axit amin chiếm 19,34% trong thành
phần khối lượng khô của thịt cá. Trong đó có 7 loại
aixit amin không thay thế, chiếm 32% tổng số axit
amin trong thịt cá. Về sự biến động của một số chỉ
tiêu môi trường nước, kết quả phân tích cho thấy
môi trường nước hồ Thác Bà trong và sạch chưa có
Cá tiểu bạc Neosalanx tangkahkeii. Ảnh Nguyễn Hải Sơn
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 11
Khoa học và Công nghệ
biểu hiện bị ô nhiễm do việc di nhập cá Tiểu bạc và
đồng thời phù hợp cho quần đàn cá Tiểu bạc phát
triển. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra khu hệ cá
hồ Thác Bà năm 2010 đã bắt gặp 75 loài, 22 họ và
74 giống. So sánh với các số liệu nghiên cứu trước
đây cho thấy khu hệ cá hồ Thác Bà vẫn mang tính
đa dạng cao thông qua sự phong phú về số lượng
giống, họ của các loài hiện có. Về thành phần động
thực vật nổi, đã xác định được 66 loài tảo phân bố ở
6 ngành tảo khác nhau bao gồm tảo lục, tảo lam, tảo
silic, tảo giáp, tảo vàng ánh, tảo mắt. Về động vật
phù du, đã thu được 30 loài, thuộc 4 nhóm động vật
chính đó là nhóm luân trùng (Rotatoria), nhóm giáp
xác chân mái chèo (Copepoda), nhóm giáp xác râu
chẻ (Cladocera), và nhóm động vật nguyên sinh
(Protozoa). Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra thành
phần động thực vật nổi tại hồ Thác Bà vẫn phong
phú và chưa có biểu hiện biến động do các tác động
của việc di nhập cá Tiểu bạc. Kết quả điều tra về sản
lượng thủy sản tại hồ Thác Bà năm 2009 và 2010
cũng cho thấy sản lượng cá Tiểu bạc chiếm 1,5% -
2,0% trong tổng sản lượng thủy sản tại hồ Thác Bà.
Như vậy, việc góp phần nâng cao năng suất, sản
lượng của cá Tiểu bạc tại hồ chứa Thác Bà là có ý
nghĩa thiết thực. Việc phát triển của cá Tiểu bạc
trong thời gian gần đây đã không làm mất đi hoặc
ảnh hưởng đến các loài cá kinh tế đặc hữu bản địa
tại hồ so với các năm trước đây.
Kết quả nghiên cứu sản xuất giống cá Chạch sông Mastacembelus armatus (Lacepède, 1800)
Ngô Văn Chiến, Nguyễn Văn Khánh, Trần Thị Thúy
Hà
Cá chạch sông Mastacembelus armatus (Lacepède,
1800) là một trong những loài có giá trị kinh tế cao
trong hệ thống sông Hồng và một số sông suối khác
ở miền Bắc cho đến Nam Trung bộ. Hiện nay, giá cá
thương phẩm bán trên thị trường dao động từ
250.000 - 350.000đồng/kg và là món đặc sản của
nhiều nhà hàng sang trọng. Cá Chạch sông ưa sống
ở khe, hang hốc hoặc chỗ có giá thể kín, nơi có
nước chảy. Cá cũng thích tập trung nhiều ở các
chân kè, nơi rất dễ bị khai thác. Việc đánh bắt cá
Chạch sông quá mức bằng những phương tiện hủy
diệt và dụng cụ không đúng quy cách như xung điện,
thuốc nổ, lưới mau, lưỡi câu nhỏ... đã dẫn đến suy
giảm nghiêm trọng nguồn lợi loài cá này. Bên cạnh
đó, nuôi cá Chạch sông bằng lồng trên các sông, hồ
chứa bằng cách thu gom giống tự nhiên mang tính
chất mùa vụ, con giống không chủ động ảnh hưởng
lớn đến nguồn lợi. Để chủ động nguồn giống và phát
triển cá Chạch sông thành đối tượng nuôi phổ biến,
năm 2010 phòng Di truyền - Chọn giống (Viện I) đã
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu công nghệ sản xuất
giống cá Chạch sông Mastacembelus armatus
(Lacepède, 1800)”. Đề tài đã tiến hành thu mua,
thuần hóa và nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ trong điều
kiện nhân tạo, thử nghiệm các phương pháp kích
thích sinh sản và kỹ thuật ương nuôi cá bột lên cá
hương và cá hương lên cá giống. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ đẻ đạt 69,6%; tỷ lệ thụ tinh đạt
68,6%; tỷ lệ nở đạt 67,7%; tỷ lệ sống giai đoạn cá
bột lên cá hương đạt 68,1% và giai đoạn cá hương
lên cá giống đạt 69,6%.
Nhằm nâng cao một số chỉ tiêu trong quy trình sản
xuất giống, năm 2011 Phòng Di truyền - Chọn giống
đã tiếp tục thực hiện đề tài “Nghiên cứu công nghệ
sản xuất giống cá Chạch sông Mastacembelus
12 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
armatus (Lacepède, 1800)”. Đề tài tiến hành thí
nghiệm nuôi vỗ thành thục trong điều kiện nhân tạo
với các loại thức ăn khác nhau, thử nghiệm các
phương pháp kích thích sinh sản, thử nghiệm các
mật độ khác nhau, giai đoạn từ cá bột lên cá hương
và từ cá hương lên cá giống. Kết quả cho thấy, trong
điều kiện nhân tạo, cá Chạch sông thành thục tốt
và mùa vụ sinh sản bắt đầu từ tháng 5 cho đến hết
tháng 6. Cá bố mẹ được tuyển chọn tham gia sinh
sản có khối lượng >100g/con, tuổi thành thục >2
tuổi. Trong giai đoạn nuôi vỗ sử dụng hai loại thức
ăn: cá tạp và giun quế. Kết quả cho thấy: tỷ lệ thành
thục ở lô dùng cá tạp đạt (80%) cao hơn so với lô
dùng giun quế (60%). Nguyên nhân có thể do cá
Chạch sông được thuần hóa năm 2010 được cho ăn
cá tạp, khi chuyển thức ăn là Giun quế cá cần thời
gian dài để làm quen với thức ăn mới. Thời gian nuôi
vỗ từ tháng 1 đến tháng 4, nhiệt độ dao động từ 15 -
260C, trong điều kiện có sục khí và nước chảy.
Đề tài đã tiến hành thử nghiệm các loại kích dục tố
khác nhau và công thức dùng não thùy kết hợp với
HCG đạt hiệu quả nhất với tỷ lệ đẻ >90%. Thời gian
tiêm liều quyết định sau liều khởi động 24 giờ, tùy
theo nhiệt độ nước. Thời gian ương cá bột lên cá
hương (cỡ 2 - 3 cm) khoảng 40 ngày. Thức ăn sử
dụng trong tuần đầu là động vật phù du, những ngày
kế tiếp dùng giun chỉ, mật độ ương từ 10 - 20 con/lít,
tỷ lệ sống trung bình đạt >90%. Thời gian ương cá
hương lên cá giống (cỡ 5 - 7 cm) khoảng 30 ngày.
Thức ăn sử dụng là giun chỉ và giun quế cắt nhỏ, mật
độ ương từ 1.000 - 2.000 con/3 m3, tỷ lệ sống đạt
trung bình >80%. Sau 8 tháng nghiên cứu, đề
tài đã sinh sản và ương nuôi được hơn 10.000 con cá
giống cỡ 5 - 7 cm, lưu giữ được 200 cá bố mẹ cỡ
>130 g/con và cơ bản hoàn thiện quy trình sản xuất
giống nhân tạo. Thành công của đề tài giúp chủ động
sản xuất cá Chạch sông giống, mở ra triển vọng cho
nghề nuôi thương phẩm cũng như các nghiên cứu
khác trên đối tượng này trong tương lai không xa.
Phân biệt cá thể lưỡng bội và tam bội trên Hầu Thái Bình Dương bằng chỉ thị phân tử microsatellite
Trần Thị Thúy Hà, Nguyễn Duy Tuyến
Hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas thuộc lớp
hai mảnh vỏ, đơn tính và hiện tượng tam bội tự
nhiên xảy ra với tần số thấp. Tương tự các loài khác,
tam bội ở hầu được thực hiện nhân tạo bằng cách
tác động vào quá trình giảm phân trên trứng đã thụ
tinh. Trên thế giới, hầu tam bội được sử dụng nhiều
trong sản xuất do khả năng sinh trưởng nhanh và
việc tạo ra cũng không quá phức tạp như việc tạo ra
hầu có độ bội cao hơn. Phân biệt hầu tam bội giai
đoạn phát triển sớm có ý nghĩa kinh tế lớn, giúp lựa
chọn những cá thể đa bội đưa vào sản xuất giúp
nâng cao hiệu quả kinh tế. Các phương pháp phân
biệt hầu tam bội có thể sử dụng gồm: phân tích kích
Cá Chạch sông Mastacembelus armatus (Lacepède,
1800)”. Ảnh Hoàng Thủy
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 13
Khoa học và Công nghệ
thước tế bào hồng cầu; kiểu nhân; đo dòng chảy tế
bào; phân tích isozyme hoặc phương pháp di truyền
phân tử - dùng chỉ thị microsatellite. Trong đó,
phương pháp sử dụng chỉ thị phân tử microsatellite
có nhiều ưu điểm: đơn giản, độ tin cậy cao, chi phí
thấp, kiểm tra được cá thể có mang kiểu gen đa bội
từ sớm và không làm chết cá thể thí nghiệm.
Thí nghiệm tạo đa bội được thực hiện trên Hầu Thái
Bình Dương tại Cát Bà - Hải Phòng bằng cách sử
dụng 6-Dimethylaminopurine (6-DMAP), nồng độ
300mcrmol/l, thời gian 15 phút. Trong nghiên cứu
này, 40 mẫu hầu thuộc thí nghiệm trên được thu và
DNA từ mô cơ được tách chiết. Sau đó, DNA của
các mẫu được kiểm tra định lượng trên gel agarose
0,8% và kiểm tra định tính trên máy đo quang phổ
NanoDrop 2000. Nhằm phân biệt cá thể hầu lưỡng
bội và tam bội, DNA của các mẫu hầu được sử dụng
trong việc nhân các vị trí allele bởi 4 chỉ thị phân tử
microsatellite thông qua chương trình PCR.
Dựa vào nguyên lý xác định cá thể tam bội và lưỡng
bội, 27/40 mẫu hầu phân tích thuộc nhóm cá thể tam
bội và 13/40 thuộc nhóm cá thể lưỡng bội. Như vậy,
sử dụng chỉ thị phân tử microsatellite để xác định cá
thể tam bội và lưỡng bội cho thấy 67,5% mẫu hầu
phân tích thuộc nhóm tam bội và 32,5% mẫu hầu
phân tích thuộc nhóm lưỡng bội. Những mẫu hầu
được sử dụng trong nghiên cứu này thuộc quần đàn
thí nghiệm gây đa bội bằng cách sử dụng 6-DMAP
và quần đàn này được kiểm tra tỷ lệ tam bội bằng
phương pháp flow cytometry với tỷ lệ tam bội đạt từ
60 - 90%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi nằm
trong giới hạn dao động tỷ lệ hầu tam bội được kiểm
chứng bằng phương pháp flow cytometry. Với nhiều
ưu điểm, phương pháp chỉ thị dùng chỉ thị phân tử
microsatellite đã được áp dụng trong nghiên cứu này
để phân biệt cá thể lưỡng bội và tam bội. Tuy nhiên,
để phản ánh chính xác hơn tỷ lệ hầu được gây đa
bội thành công cần tăng số lượng cặp mồi và đặc
biệt là số lượng mẫu phân tích. Thêm vào đó, sử
dụng phương pháp chỉ thị phân tử microsatellite để
xác định độ bội trên các loài khác rất khả quan và
nên được áp dụng.
Kết quả nghiên cứu về thành phần loài cá sông Đakrông, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị
Nguyễn Thị Hạnh Tiên, Đỗ Văn Thịnh, Nguyễn Thị
Diệu Phương
Đakrông là huyện miền núi vùng cao biên giới phía
Tây Nam của tỉnh Quảng Trị, là một trong số 62
huyện nghèo của cả nước. Đakrông có hệ thống
sông suối chằng chịt, trong đó sông Đakrông là sông
chính chảy qua địa bàn huyện. Nơi đây người dân
Pa Cô, Vân Kiều sinh sống dọc theo 2 bên bờ sông
và có sinh kế gắn liền với dòng sông. Tuy nhiên,
nguồn lợi thủy sản của con sông này đang có xu
hướng suy giảm mạnh. Nghiên cứu về thành phần
loài cá của sông Đakrông nhằm góp phần đánh giá
đa dạng sinh học thủy sản và bổ sung thông tin cho
lập kế hoạch bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản
ở Quảng Trị.
Nghiên cứu bước đầu của dự án Bảo tồn và phát
triển nguồn lợi thủy sản vùng cao (HighARCS) về
thành phần loài cá trên sông Đakrông được thực
hiện từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2011. Mẫu vật
được thu bằng cách đánh bắt trực tiếp, thu mua từ
chợ địa phương và hợp tác với ngư dân thu mẫu.
Mẫu cá được giữ trong bình đựng dung dịch formol
14 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Khoa học và Công nghệ
để làm tiêu bản. Định loại theo phương pháp hình
thái học, so sánh với các khóa phân loại và mô tả về
cá Việt Nam của các tác giả Mai Đình Yên
(1978,1992), Trần Thị Thu Hương và Trương Thủ
Khoa (1993), Nguyễn Văn Hảo (1993, 2001, 2008)
và Kottelat (2001); về cá Trung Quốc của Chu và ctv.
(1989, 1990), Amon (1986) và Pan (1991), về cá
Campuchia của Rainboth (1996), về cá Lào của
Kotlelat (2001) và FAO (1998). Mỗi loài được nêu
tên Việt Nam và tên khoa học. Trình tự các bộ, họ,
giống, loài được sắp xếp theo sách cá nước ngọt
Việt Nam của Nguyễn Văn Hảo (2001, 2005). Các
mẫu vật được so sánh với mẫu vật chuẩn ở Bảo
Tàng cá Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I. Quá
trình giám định loài có sự giúp đỡ của chuyên gia
ngư loại Nguyễn Văn Hảo. Nghiên cứu này đã định
loại được 38 loài cá thuộc 26 giống, 9 họ và 5 bộ
khác nhau (Bảng)
Bảng: Cấu trúc thành phần loài cá sông Đakrông
Họ Giống Loài TT Bộ n % n % n % 1 Anguilliformes 1 11,12 1 3,85 1 2,64 2 Cypriniformes 3 33,32 18 69,23 25 65,79 3 Siluriformes 2 22,22 2 7,69 2 5,26 4 Synbranchiformes 1 11,12 1 3,85 2 5,26 5 Perciformes 2 22,22 4 15,38 8 21,05
Tổng 9 100 26 100 38 100
Trong số mẫu cá thu được, đa dạng nhất là họ Cá
chép (Cyprinidae) có 19 loài (chiếm 50%), tiếp theo
là họ Cá Bống trắng (Gobiidae) có 6 loài (16%), họ
Cá Chạch vây bằng (Balitoridae) có 4 loài (11%), các
họ còn lại có số loài rất ít.
Trong 38 loài bước đầu thu được có 15 loài có giá trị
kinh tế cao. Đáng kể có 8 loài (chiếm 21%) cá kinh tế
quan trọng là: Cá Chình hoa Anguilla marmorata
(Quoy & Gaimord, 1824), Cá Chát đuôi chấm
Acrossocheilus sp1, Cá Chày đất Spinibarbus
hollandi (Oshima, 1919), Cá Sỉnh gai Onychostoma
laticeps (Günther, 1896), Cá Dầm Neolisschilus
stracheyi (Day, 1871), Cá Chép Cyprinus carpio
(Linnaeus, 1758), Cá Chạch sông Mastacembelus
armatus và Cá Sộp quảng trị Channa sp2. Xác đinh
được 3 loài sắp nguy cấp trong Danh mục các loài
thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cần được
bảo vệ, phục hồi và phát triển của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn năm 2008 là Cá Sỉnh gai
Onychostoma laticeps (Gunther, 1896), Cá Chình
hoa Anguilla marmorata (Quoy & Gaimord, 1824) và
Cá Chày đất Spinibarbus hollandi (Oshima,
1919).
Trong 38 loài thu được, có 5 loài có khả năng là loài
mới, đặc hữu của địa phương như Cá chát vây đen
Acrossocheilus sp3, Cá Bỗng vây đen Spinibarbus
sp, Cá Tràu suối Quảng Trị Channa sp1, Cá Sộp
Quảng Trị Channa sp2 và Cá Bống sọc ngang
Cryptrocentrus sp.
Trong thời gian tới Dự án HighARCS sẽ tiếp tục thu
mẫu để có đánh giá hoàn chỉnh hơn về thành phần
loài và nguồn lợi cá ở đây. Kết quả nghiên cứu sẽ là
cơ sở để xây dựng kế hoạch hành động tổng hợp
nhằm bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi thủy
sản tại địa phương.
Hình 1: Cấu trúc thành phần loài theo họ
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 15
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật của Cộng hoà Séc với nuôi trồng thuỷ sản miền núi ở Việt Nam
Bùi Thế Anh, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Quang
Thái và Petra Holikova
Dự án "Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản miền núi Việt
Nam", mã số 29/MZe/B/08-10 được Chính phủ Séc
tài trợ với tổng kinh phí tài trợ lên tới 10 tỷ đồng Việt
Nam. Dự án do Viện Nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc
Đại học Khoa học tự nhiên Praha và Viện I đồng thực
hiện tại hai tỉnh miền núi phía Bắc là Lạng Sơn và
Cao Bằng (8/2008 - 11/2010). Mục tiêu của dự án là
đưa các tiến bộ về nuôi trồng thuỷ sản nhằm phát
triển hoạt động nuôi cá tại các hồ chứa thuỷ lợi ở hai
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói trên.
Tại hai tỉnh này dự án đã lựa chọn 05 hợp tác xã
(HTX) thuỷ sản có hoạt động nuôi cá tại các hồ chứa
nhỏ có diện tích từ 12 - 18ha. Cụ thể, tại Lạng Sơn,
dự án đã lựa chọn 02 HTX Hợp Thịnh (huyện Cao
Lộc) và Nà Pia (huyện Văn Lãng) và 03 HTX là Nà
Tấu và 1 - 4 (huyện Hoà An), HTX Bản Nưa (huyện
Hà Quảng) tại tỉnh Cao Bằng.
Trong bốn năm triển khai dự án, các nội dung hoạt
động được cụ thể hoá theo các năm thực hiện như
đánh giá tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản (2008), lựa
chọn các HTX và nâng cao năng lực cho các thành
viên, trình diễn các mô hình tiên tiến và chuyển giao
khoa học kỹ thuật (2009), đẩy mạnh thực hiện các mô
hình nuôi thuỷ sản và hoàn thiện, hỗ trợ kỹ năng khai
thác cá hồ chứa và thị trường tiêu thụ (2010 - 2011).
Đến nay dự án đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Các nghiên cứu về môi trường nước, chất
lượng thịt cá đánh bắt tại các hồ chứa cho thấy môi
trường nuôi hoàn toàn đảm bảo an toàn cùng với
sản phẩm thuỷ sản đạt chuẩn EU. Tuy nhiên, một số
hồ chứa cũng có một ít hàm lượng các kim loại nặng
được xác định do cấu tạo địa chất và được
Tập huấn kỹ thuật khác thác cá hồ chứa ở HTX Bản Nưa. Ảnh Bùi Thế Anh
16 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
nằm trong ngưỡng an toàn đối với sức khoẻ con
người. Các nghiên cứu về khu hệ cá Cao - Lạng đã
thu được những kết quả tốt với hơn 30 loài cá được
thu tại lưu vực của sông Kỳ Cùng và sông Bằng
Giang, chủ yếu thuộc các bộ Chình Anguilliformes,
bộ cá Chép Cypriniformes, bộ cá Vược Perciformes
và bộ cá Nheo Siluriformes. Bên cạnh đó, dự án
cũng đã hỗ trợ xác định đối tượng nuôi ngoại lai (cá
trôi Trường Giang) được nuôi phổ biến tại Việt Nam
là loài cá có xuất xứ từ Nam Mỹ với tên la tinh là
Prochilodus lineatus được biết đến với tên
Curimbata. Loài cá ăn các mùn bã hữu cơ này được
nhập qua Trung Quốc có khả năng phát triển rất
nhanh trong các thuỷ vực tự nhiên có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng tới hệ sinh thái. Các phát hiện về đối
tượng này đã được thông báo tới các cơ quan hữu
quan như Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi để đưa
đối tượng này vào danh mục các đối tượng ngoại lai
cần theo dõi. Tại khu vực miền núi phía Bắc Việt
Nam, hoạt động nuôi cá hồ chứa nhỏ được coi là
một hướng phát triển bền vững. Viện I đã có được
những bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu và
hỗ trợ người dân vùng cao trong hơn 10 năm trở lại
đây. Các lựa chọn tối ưu về kỹ thuật như áp dụng
mật độ thả phù hợp dựa vào hiện trạng môi trường
và dinh dưỡng của thuỷ vực, các loài cá nuôi phù
hợp được khuyến cáo tới người dân địa phương.
Điều này đã giúp cải thiện năng suất khai thác (tăng
khoảng 20% sản lượng cá nuôi khai thác) và mở ra
nghề phụ với thu nhập đáng kể cho các HTX thuỷ
sản (câu cá giải trí).
Kỹ thuật nuôi cá lồng cũng đã được dự án giới thiệu
tới các HTX với mô hình lồng nuôi có nhiều ưu điểm
như tuổi thọ cao, sức chống chịu với gió, bão tốt, dễ
làm, dễ lắp đặt và di chuyển, chi phí đầu tư thấp với
các nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương đã được
áp dụng ở nhiều địa phương khác nhau, gồm nuôi
cá thương phẩm, ương cá hương lên giống, nuôi cá
kết hợp (nuôi cá-vịt). Lần đầu tiên cá Lăng chấm
Hemibagrus guttatus được nuôi thử nghiệm trong
lồng tre để tạo môi trường sống thuận lợi cho cá.
Tuy nhiên, các kết quả nuôi ban đầu chưa thực sự
thành công nhưng dự án đã phát hiện thấy cá Lăng
chấm địa phương thuộc lưu vực sông Châu Giang-
Trung Quốc, khác với cá Lăng chấm của Viện I
thuộc lưu vực sông Hồng-Việt Nam với các đặc điểm
di truyền khác biệt. Do vậy, dự án khuyến cáo nên
sử dụng con giống tại chỗ để nuôi để giảm nguy cơ
lai tạp và địa phương cần cân nhắc khi chọn giống
và lựa chọn đàn cá bố mẹ trong tương lai.
Dự án cũng hỗ trợ các HTX nuôi giun quế nhằm giải
quyết lượng chất thải lớn từ chăn thả gia súc và các
nguồn chất thải khác. Hai loài giun Perionyx
excavatus và Eudrilus euganaie đã được giới thiệu tới
người dân. Kết quả cho thấy sau một thời gian nuôi,
các HTX đã có thể chủ động sản xuất, đặc biệt một số
HTX đã phát triển việc nuôi giun lên quy mô lớn hơn
Nuôi cá lồng được nhân rộng tại HTX Nà Tấu, Hòa An, Cao Bằng. Ảnh Bùi Thế Anh
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 17
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
với nhiều hộ thành viên tham gia. Giun quế được sử
dụng cho nuôi cá Lăng chấm trong lồng và các hoạt
động chăn nuôi khác của thành viên HTX.
Cải thiện hoạt động khai thác cá hồ chứa và xúc tiến
thị trường là một trong những ưu tiên của dự án khi
hỗ trợ các HTX. Dự án đã tổ chức các cuộc tiếp xúc
giữa người nuôi (HTX) với các đầu nậu cá tại địa
phương và các nhóm khai thác cá chuyên nghiệp
nhằm tăng cường hiểu biết về thị trường và xúc tiến
các giao dịch thương mại cần thiết. Bên cạnh đó, dự
án đã đưa vào thử nghiệm loại lưới vó hơi (PLN)
được thiết kế bởi các chuyên gia CH Séc. Tuy nhiên,
phương pháp này còn cần có nhiều cải tiến về mặt
kỹ thuật khi đưa vào sử dụng. Dự án đã xây dựng
các phương án đánh bắt riêng cho từng hồ chứa với
phương pháp chủ đạo là kỹ thuật dồn chắn rê
chuồng đã được áp dụng thành công tại các hồ chứa
ở Việt Nam ở những năm thập kỉ 70 và được các
HTX đánh giá cao.
Các đánh giá khác về kinh tế xã hội tại vùng dự án
cho thấy:
• Hạn chế lớn nhất đối với nuôi cá hồ chứa là việc
không thể duy trì mực nước ổn định và tỷ lệ cá
chết cao trong vận chuyển cá.
• Người dân địa phương mong muốn phát triển
nuôi trồng thuỷ sản và sẵn sàng học hỏi kinh
nghiệm từ các hoạt động hỗ trợ của dự án tới
các HTX.
• Nuôi cá lồng là hoạt động mang lại lợi nhuân
cao và ổn định.
• Các thành viên HTX đều cho rằng sẽ tiếp tục
phát triển thuỷ sản và mong muốn phát triển
nuôi cá lồng ở quy mô lớn hơn, ổn định hơn.
Dự án tạo cho các chuyên gia từ các quốc gia khác
nhau có cơ hội làm việc cùng nhau cho sự thành
công và cải thiện sinh kế đối với người dân vùng dự
án. Sự cộng tác giữa nhóm nghiên cứu Czech - Việt
Nam đã đem lại sự gắn kết chặt chẽ cho một mối
quan hệ và hợp tác hiệu quả.
Tập huấn chuyên môn cho cán bộ và cộng tác viên khuyến ngư của 12 tỉnh thành phía Bắc
Nguyễn Hải Đăng
Thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kỹ thuật
chuyên ngành nuôi trồng thủy sản cho các cán bộ
khuyến ngư và cộng tác viên khuyến ngư, Viện I đã
phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ
chức 4 lớp tập huấn “Kỹ thuật ương nuôi cá Rô
đồng, cá Trắm cỏ”, “Quản lý môi trường và bệnh khu
nuôi trồng thủy sản nước ngọt tập trung” và 2 lớp
“Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt theo quy trình GAP” cho
112 học viên đến từ 12 tỉnh thành phía Bắc, tại
Thành phố Hải Dương (từ ngày 2 - 6/8/2011) và Thái
Nguyên (từ ngày 9 - 13/8/2011). Mục đích chính của
khóa tập huấn năm nay nhằm nâng cao kiến thức kỹ
thuật cho các cán bộ khuyến ngư địa phương. Các
giảng viên của Viện I đã cung cấp và giới thiệu khái
quát về quy trình GAP trong nuôi cá nước ngọt, sơ
lược một số các mối nguy trong môi trường nuôi cá
nước ngọt; Cập nhật phương pháp quản lý môi
trường khu nuôi trồng thủy sản nước ngọt tập trung
và sức khỏe động vật thủy sản. Bên cạnh đó cũng
hoàn thiện và hệ thống lại kỹ thuật ương, nuôi
thương phẩm cá Rô đồng, cá Trắm cỏ; Những điểm
mới, cập nhật trong hoạt động nuôi trồng thủy sản
hiện nay trong nước và đòi hỏi của thị trường quốc
tế cũng đã được đề cập đến.
18 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Đào tạo - Tập huấn - Hợp tác quốc tế
Nét nổi bật của khóa tập huấn lần này là sự tích cực
của học viên và giảng viên trong việc tham gia thảo
luận, trao đổi kinh nghiệm, đề xuất, kiến nghị về một
số vấn đề có liên quan đến chế độ, chính sách và kỹ
thuật. Tổng hợp phiếu đánh giá và nhận xét của các
học viên của cả 4 lớp, kết quả thu được từ khóa tập
huấn là thiết thực và phần nào đáp ứng được yêu
cầu của các học viên. Các Khóa học được tổ chức
và thực hiện đầy đủ nội dung, nghiêm túc theo kế
hoạch đề ra.
Tập huấn kỹ thuật nuôi cá Lăng chấm
Trần Thị Thúy Hà
Ngày 13 và 14 tháng 9 năm 2011, khóa tập huấn về
“Kỹ thuật nuôi cá Lăng chấm” đã được triển khai tại
Viện I, Phòng Di truyền - Chọn giống là đơn vị tổ
chức chương trình. Đến dự khai mạc, TS. Nguyễn
Hữu Ninh, Phó Viện trưởng Viện I đã chia sẻ những
kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản nói chung và
nuôi cá Lăng nói riêng cùng với những lời chúc tốt
đẹp cho khóa tập huấn. Hai đơn vị tiếp nhận công
nghệ là Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật Hải Dương và Vườn Quốc gia Ba Bể. Các học
viên đến tham gia khóa tập huấn gồm: 2 cán bộ
chương trình cùng với 6 nông hộ nuôi cá Lăng thuộc
Dự án chuyển giao công nghệ. Cán bộ phòng Di
truyền - Chọn giống tham gia hướng dẫn khóa đào
tạo là những người có kiến thức tốt và kinh nghiệm
trong nuôi trồng thủy sản và nuôi cá Lăng chấm.
Nhiều vấn đề đã được thảo luận và nhiều thông tin
bổ ích về nuôi cá Lăng chấm được chia sẻ trong
khóa tập huấn. Kết thúc chương trình tập huấn, bà
Trần Thị Thúy Hà - Trưởng phòng Di truyền chọn
giống đã tổng kết và chúc sức khỏe các học viên.
Đại diện Viện I, ông Nguyễn Hữu Ninh, đã trao
chứng chỉ đào tạo cho các học viên tham dự khóa
tập huấn.
Lớp tập huấn Kỹ thuật nuôi cá Lăng chấm. Ảnh Hoàng Thủy
Các học viên tham gia thảo luận nhóm. Ảnh Hải Đăng
Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011) 19
Gương mặt trong quý
Những ngày đáng nhớ của các cán bộ Cuba khi học tập và làm việc tại Viện I
Bài viết của Lesvia Calderón Herrera và Mercedes
Dominguez Graveran dưới đây nói về những ngày
họ đã sống và làm việc tại Viện I, cảm nhận của họ
về đất nước và con người Việt Nam cũng như tình
bạn sâu sắc mà họ đã có với các cán bộ Viện I.
Lesvia Calderón Herrera
Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu về bản thân mình.
Tên tôi là Lesvia Calderón Herrera, tôi là người Cuba
và đến Việt Nam vào ngày 24/7/2011. Ở Cuba tôi đã
làm việc được 19 năm ở một trang trại cá Rô phi
thuộc Trại sản xuất giống “La Juventud” tại tỉnh Pinar
del Rio, là tỉnh sản xuất xì gà tốt nhất trên thế giới.
Tôi đã học Đại học Havana và có bằng cử nhân sinh
học.
Khi tốt nghiệp năm 1991, tôi không hề có ý nghĩ là
mình sẽ làm việc trong ngành Thủy sản. Lúc đó, ước
mơ của tôi là được làm việc trong ngành Công nghệ
sinh học. Nhưng một sự tình cờ như là duyên may,
khi kết thúc chương trình học tôi được giao cho công
việc liên quan đến nuôi trồng thủy sản, bắt đầu từ
lĩnh vực sản xuất hàng loạt của các sinh vật phù du
và tôi bắt đầu bị cuốn hút bởi thế giới của các loại
tảo luân trùng cladocerans, copepods (rotifers là 1
trong 3 nhóm chính của động vật phù du copepods,
cladocerans giữ vai trò là cầu nối chuyển hóa năng
lượng bậc hai trong chuỗi thức ăn và là nguồn gốc
thức ăn quan trọng của động vật không xương sống,
cá) và cá nước ngọt. Từ năm 2005 đến nay, tôi đã
làm việc được 14 năm với tư cách là Trưởng phòng
thí nghiệm ở La juventud, là người đứng đầu trang
trại cá Rô phi, nơi đã đạt được những kết quả tốt
nhất trong việc nuôi trồng thủy sản ở Cuba.
Trong giai đoạn 2006 - 2008, tôi làm việc với tư cách
là một chuyên gia của Chương trình Hợp tác Nam -
Nam (South - South Cooperation) của FAO cho vùng
biển Caribe tại Saint Vincent và Grenadines - một
đảo quốc thuộc chuỗi đảo Tiểu Antilles trong lòng
biển Caribe. Khi hoàn thành nhiệm vụ của mình, tôi
đã trở về trang trại nuôi cá Rô phi và mở rộng việc
nuôi cá Chép .
Chuyến thăm Việt Nam lần này với mục đích là giúp
chúng tôi tham gia vào một khóa đào tạo về chuyển
đổi giới tính của cá Rô phi và học hỏi được những kỹ
thuật ấp trứng và ương cá bột từ phía các bạn.
Chúng tôi luôn có ý định cải thiện năng suất và hệ số
chuyển đổi thức ăn trên mỗi ha để tăng sản lượng cá
rô phi ở Cuba. Trong hai tháng sống và làm việc tại
Viện I, chúng tôi đã học được những kỹ thuật cần
thiết để cải thiện việc nuôi cá Rô phi ở Cuba, cũng
như đã học hỏi được nhiều điều từ phong tục tập
quán và văn hóa của đất nước anh em Việt Nam.
20 Bản tin Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, Số 3 (Quý III năm 2011)
Gương mặt trong quý
Tiến sĩ Mercedes Dominguez Graveran
Tên tôi là Mercedes Dominguez Graveran, tốt nghiệp
trường Đại học Khoa học Nông nghiệp Havana với
tấm bằng Tiến sĩ Thú y. Mong muốn của tôi là được
làm việc trong một bệnh viện tư nhân trong nước về
động vật, nhưng thật tình cờ tôi đã đến với ngành
Thủy sản. Không bao giờ tôi có thể nghĩ rằng mình
lại có thể gắn bó lâu như thế trong ngành này.
Tôi đã làm việc tính đến nay tròn 20 năm trong
ngành Thủy sản. Trong suốt quãng thời gian này, tôi
đã được tiếp xúc với nhiều loài động vật khác nhau
và cũng có cơ hội làm việc với các chuyên gia nước
ngoài là Nga và Trung Quốc. Chính những điều này
đã mang lại nhiều kinh nghiệm cho tôi. Nhưng chưa
bao giờ tôi có cơ hội đi ra nước ngoài và tìm hiểu về
một đất nước, một nền văn hóa khác với đất nước
tôi đang sống. Có thể nói, Việt Nam là một trải
nghiệm đầu tiên của tôi. Tôi thật sự ấn tượng bởi tất
cả những gì tôi thấy và học được từ đất nước các
bạn, những con người Việt Nam tuyệt vời, thân thiện
và đoàn kết giống như người Cuba.
Tại Viện I, tôi đã học được nhiều vấn đề liên quan tới
việc chuyển đổi giới tính cho cá. Những kỹ thuật này
đã được sử dụng ở đất nước chúng tôi nhưng chúng
tôi lại gặp vấn đề về tỷ lệ sống của cá. Trong thời
gian tập huấn chúng tôi được học cách làm sao để
chuẩn bị hoóc môn, thức ăn và kỹ thuật kiểm tra
tuyến sinh dục. Chúng tôi mong đợi có thể ứng dụng
những kỹ thuật đã học hỏi được sau khi quay về đất
nước để giúp cho trại giống nơi tôi làm việc có thể
nâng cao được năng suất, sản lượng và có thể phổ
biến công nghệ này cho toàn bộ trên đất nước tôi.
Lesvia Calderón Herrera và Mercedes Dominguez
Graveran chia sẻ: “Chúng tôi đánh giá cao sự
giúp đỡ nhiệt tình của các bạn. Chắc chắn khi
quay trở về Cuba, chúng tôi sẽ mang theo lòng
biết ơn đối với những người bạn ở Viện I, những
người đã giúp đỡ và hỗ trợ chúng tôi trong suốt
thời gian qua”. Người dịch Nguyễn Hải Đăng