12 tai bien thien nhien (pvhung).pdf
TRANSCRIPT
125
TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH VÀ
CÁC GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG, GIẢM NHẸ
Phạm Việt Hùng
Trung tâm Nghiên cứu Tài Nguyên và Môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
Trên phạm vi toàn cầu, trong vài thập kỷ gần đây, thiên tai xảy ra với mức độ ngày càng trầm
trọng, gây nhiều hậu quả nặng nề đối với cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người
nghèo. Thiên tai là hiện tượng tự nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, các hoạt
động của con người như đô thị hóa, công nghiệp hóa, bùng nổ dân số, suy thoái tài nguyên
môi trường đã làm gia tăng mức độ, hậu quả do thiên tai gây ra. Trong hai thập kỷ qua, trên
thế giới, trung bình mỗi năm có hơn 200 triệu người chịu ảnh hưởng trực tiếp của những thảm
họa do thiên tai gây ra. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, một trong năm ổ bão của
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thường xuyên phải đối mặt với các loại hình thiên tai.
Trong những năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước, gây ra nhiều tổn thất
to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi
trường. Trong 10 năm gần đây (1997-2006), các loại thiên tai như bão, lũ, hạn hán và các
thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, làm chết và mất tích gần 7.500
người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 1,5% GDP. Mức độ thiên tai ở Việt Nam
ngày càng gia tăng cả về quy mô cũng như chu kỳ lặp lại kèm theo những đột biến khó lường.
Bình Định là một tỉnh ven biển miền Trung, có diện tích tự nhiên 6.039 km2, bờ biển dài hơn
135 km, dân số hơn 1.578.900 người. Toàn tỉnh nằm gọn bên sườn phía Đông của dãy Trường
Sơn, có địa hình dốc và phức tạp. Hướng dốc chủ yếu từ Tây sang Đông, đồi núi và đồng
bằng xen kẽ nhau tạo thành các vùng, lưu vực sông riêng biệt, rất thuận lợi cho việc đón các
hoàn lưu khí hậu và tạo thành các đợt mưa lũ lớn trên địa bàn toàn tỉnh.
Khu vực đồng bằng, ven biển trù phú là nơi tập trung dân cư, các trung tâm kinh tế, chính trị
của tỉnh có Quốc lộ 1, Quốc lộ 19, đường sắt Bắc Nam xuyên quốc gia, cảng biển Quy Nhơn,
cảng hàng không Phù Cát, rất thuận lợi cho giao thông, liên lạc, giàu tiềm năng phát triển kinh
tế.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các yếu tố địa lý tự nhiên, địa hình, địa chất, khí hậu…, hàng
năm, Bình Định thường bị thiên tai, bão, lụt gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng về người, tài
sản, các công trình hạ tầng cơ sở và môi trường sống. Bình Định là tỉnh chịu thiệt hại về
người vào hàng cao nhất cả nước. Chỉ tính từ 1998 đến 2008 ở Bình Định, thiên tai đã làm
288 người thiệt mạng, thiệt hại về tài sản khoảng 1.789 tỷ đồng. Riêng 2 đợt mưa lũ lớn hồi
cuối năm 2008, đã làm 20 người chết, 6 người bị thương, hệ thống công trình hạ tầng, đê điều,
cầu đường, nhà ở, công trình phúc lợi xã hội, đồng ruộng, ao hồ bị tàn phá nghiêm trọng, đến
nay vẫn chưa khắc phục hết được. Đặc biệt, đợt mưa lũ muộn bất thường cuối tháng 12 đã
126
làm hàng chục ngàn ha lúa đông xuân 2008-2009 phải gieo sạ lại (đây là đợt mưa lũ muộn
chưa từng xẩy ra trong hơn 40 năm qua). Thiệt hại ước tính hơn 165 tỷ đồng1.
1. CÁC DẠNG TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở BÌNH ĐỊNH
Ở Bình Định, các dạng tai biến thiên nhiên thường gặp là bão, lụt, sạt lở đất, xâm nhập mặn,
hạn hán, cháy rừng và sa bồi. Các số liệu cụ thể về những tai biến thiên nhiên ở Bình Định:
1.1. Bão
Việt Nam nằm ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, là một trong những vùng bão với số
lượng lớn và cường độ mạnh, với xu thế ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong 3 thập kỷ gần
đây. Bão là một trong những loại hình thiên tai chủ yếu và nguy hiểm ở Việt Nam, trong vòng
hơn 50 năm (1954-2006) đã có 380 trận bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến Việt Nam,
trong đó, 31% đổ bộ vào Bắc Bộ, 36% đổ bộ vào Bắc và Trung Trung Bộ, 33% đổ bộ vào
Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Bão vào thường gặp lúc triều cường nước biển dâng cao, kèm
theo mưa lớn kéo dài, gây lũ lụt. Có tới 80-90% dân số Việt Nam chịu ảnh hưởng của bão.
Hàng năm, trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh Hòa, trung bình có 1,04
cơn bão đổ bộ vào. Bão là loại hình thời tiết nguy hiểm thường xuất hiện ở Bình Định từ
tháng 9 đến tháng 11, khả năng tập trung vào tháng 9 là 20%, tháng 10 khoảng 40%. Theo Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các tỉnh thành duyên hải Trung Bộ (trong đó có Bình
Định) thường xuyên gánh chịu khoảng 70% tổng số các cơn bão đổ bộ vào nước ta, trong đó,
có từ 60-65% số cơn bão có sức mạnh từ cấp 8-12. Gió bão thường đi kèm với triều cường
ven biển nên hậu quả gây ra đối với môi trường và đời sống sản xuất của nhân dân là rất lớn.
Bảng 1. Tần suất bão đổ bộ vào các vùng bờ biển Việt Nam, 1961-2008
Vùng bờ biển T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Quảng Ninh – Thanh Hóa 0,00 0,00 0,21 0,53 0,51 0,38 0,11 0,02 0,00
Nghệ An – Quảng Bình 0,00 0,00 0,02 0,09 0,23 0,32 0,23 0,00 0,00
Quảng Trị – Quảng Ngãi 0,00 0,04 0,09 0,02 0,13 0,36 0,21 0,06 0,02
Bình Định – Ninh Thuận 0,02 0,00 0,04 0,00 0,02 0,02 0,45 0,45 0,09
Bình Thuận – Cà Mau 0,00 0,00 0,02 0,00 0,00 0,00 0,09 0,17 0,00
Bắc Biển Đông 0,00 0,00 0,02 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Giữa Biển Đông 0,00 0,02 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,02 0,00
Dọc Biển Đông 0,02 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Tuy nhiên, bão diễn biến phức tạp qua các năm: Có năm tháng 6 đã có bão như trận bão số 2
ngày 30/6/1978 với tốc độ gió là 40 m/s và cũng có năm bão xuất hiện vào tháng 12 như cơn
bão số 9 đổ bộ vào Bình Định ngày 10/12/1972 có tốc độ gió đạt 39 m/s. Hàng năm, khả năng
1 Dựa theo chuỗi số liệu thống kê, bài báo phân tích đánh giá tai biến thiên nhiên ở Bình Định.
127
xuất hiện một cơn bão lớn chiếm 39%, khả năng không có trận bão nào chiếm 35% và có từ 3
cơn bão đến 4 cơn bão chỉ chiếm 4% đến 5%.
1.2. Lũ lụt
Lũ lụt là hiện tượng tự nhiên thường xẩy ra ở Bình Định. Tại các sông từ Quảng Bình đến
Bình Thuận, mùa lũ xuất hiện trong tháng 9-12. Lũ chính vụ thường xẩy ra trong 2 tháng 10
và 11. Mùa mưa, lũ chỉ kéo dài 4 tháng, nhưng năm nhiều có thể có 5-6 đợt lũ, năm ít có từ 1-
2 đợt lũ. Đây là khu vực có hệ thống sông ngắn, dốc, lũ lên nhanh, nhưng xuống cũng nhanh.
Các sông ở khu vực này có hệ thống đê ngăn lũ thấp hoặc chưa có đê. Nước lũ không chỉ chảy
trong dòng chính, mà còn chảy tràn qua đồng bằng, với biên độ dao động trên 8 m.
1.2.1. Lũ trên sông An Lão
Sông An Lão có diện tích lưu vực 1.466 km2. Dòng chính sông dài 85 km, bắt nguồn từ Nước
Lương ở độ cao 825 m. Phần đầu thượng nguồn sông chảy theo hướng Nam – Bắc, sau đó
chuyển hướng Bắc – Nam, tới Thanh Lương dòng chảy lại chuyển hướng Tây – Đông và đổ
ra Biển Đông tại Bồng Sơn. Hệ số uốn khúc của dòng chính đạt 2,99. Độ cao bình quân của
lưu vực sông An Lão là 277 m. Mật độ sông suối là 0,65 km/km2. Toàn bộ hệ thống có 7 phụ
lưu cấp 1 có chiều dài lớn hơn 10 km, phát triển mạnh về phía bờ phải, hệ số không cân bằng
lưới sông đạt 0,52, hệ số không đối xứng đạt 0,26 (Lê Quang Chút, 2000).
Lượng mưa trung bình nhiều năm trên lưu vực sông An Lão đạt 2.212 mm, có cường độ cao,
trong khi khả năng điều tiết của lưu vực kém, nên mức độ tập trung nước trên các triền sông
cao, dòng chảy lũ trên sông An Lão rất ác liệt.
1.2.2. Lũ trên sông Côn
Sông Côn, hay còn gọi là sông Hà Giao bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Rô cao 925 m (dãy Trường
Sơn). Dòng chính sông Côn ở thượng nguồn chảy theo hướng Bắc – Nam, tới trạm thủy văn
Cây Muồng đổi hướng chảy Tây – Đông, rồi đổ ra biển tại cửa Xuân Phương. Hệ số uốn khúc
của sông đạt 1,54. Lưu vực sông Côn có tổng diện tích 2.980 km2. Địa hình núi cao chiếm
phần lớn diện tích lưu vực, nên độ cao bình quân lưu vực sông Côn thuộc vào loại khá lớn là
567 m, do chiều dài lưu vực lớn, độ dốc trung bình lưu vực nhỏ 15,8%. So với các lưu vực
khác thì độ dốc trung bình lưu vực sông Côn không lớn, càng về hạ lưu độ dốc đáy sông càng
giảm. Mạng lưới sông vùng hạ lưu phát triển mạnh, nhưng chằng chịt như bàn cờ, đặc biệt ở
bờ trái, gây khó khăn cho việc tiêu thoát nước về mùa lũ. Mật độ sông suối trong lưu vực
thuộc loại tương đối dày, đạt 0,65 km/km2. Sự khác biệt về mặt địa hình đã hình thành hai
mạng sông suối hoàn toàn khác nhau giữa hai bờ vùng hạ lưu. Toàn bộ hệ thống có 17 phụ
lưu cấp 1, có chiều dài lớn hơn 10 km, trong đó có 11 phụ lưu đổ vào bờ phải, 6 phụ lưu đổ
vào bờ trái. Mạng lưới sông suối phát triển mạnh về bờ phải. Diện tích bờ phải chiếm 59%
diện tích lưu vực, với tổng chiều dài các sông suối bờ phải chiếm 57% tổng chiều dài toàn bộ
sông suối trong hệ thống (Lê Quang Chút, 2000).
Dòng chảy lớn nhất thường có giá trị rất lớn, gấp 40-50 lần lưu lượng cơ sở. Theo số liệu
quan trắc giai đoạn 1981-2003 tại trạm Cây Muồng, thì môđun dòng chảy lớn nhất trung bình
nhiều năm đạt 1.840 l/s.km2 và có hệ số biến động năm là 0,50. Giá trị cực đại đã quan trắc
được vào trận lũ tháng 11 năm 1987 là 6.340 m3/s (4,2 m
3/s.km
2), tương ứng với tần suất 5%.
128
Có thể thấy mức độ tập trung nước trên sông Côn không lớn, tuy nhiên, do sự đổi hướng dòng
chảy khi vào vùng hạ lưu cùng với vùng đồng bằng cửa sông có nhiều kênh rạch chằng chịt,
nên mức độ tiêu thoát nước kém, gây úng ngập khi có lũ trên sông (Lê Quang Chút, 2000).
Lũ quét, lũ bùn đá thường xảy ra ở vùng đồi núi, nơi có độ dốc lớn, cường độ mưa lớn mà
đường thoát nước bất lợi. Lũ quét cũng có thể xảy ra do vỡ hồ chứa nhỏ, sạt lở đất lấp dòng
chảy... Lũ quét đã xảy ra và có nguy cơ xảy ra ở hầu khắp tại 33 tỉnh miền núi trong cả nước
thuộc 4 vùng: vùng núi phía Bắc, Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Do sự biến đổi
của khí hậu trong những năm gần đây, lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta, bình quân
có từ 2 đến 4 trận lũ quét xảy ra trong mùa lũ hàng năm.
Có những nơi lũ quét xảy ra nhiều lần ở cùng một địa điểm. Lũ quét thường phát sinh bất ngờ,
xảy ra trong phạm vi hẹp, nhưng rất khốc liệt và thường gây những tổn thất nghiêm trọng về
người và của. Lũ quét hiện chưa dự báo được, nhưng có thể chủ động phòng tránh bằng cách
khoanh vùng những nơi có nguy cơ xảy ra lũ quét và xây dựng hệ thống cảnh báo.
Bảng 2. Các trận lũ lịch sử tại Bình Định, 1977-2008
Sông Trạm Năm Thời gian
bắt đầu
Thời gian
kết thúc
Lưu
lượng
nước
lớn
nhất
(m3/s)
Mực
nước
lớn
nhất
(cm)
Cấp
báo
động
Vượt
cấp
báo
động
An Lão An Hòa 2003 16/10/2003 27/10/2003 1.460 2.371 Cấp 2 71
An Lão An Hòa 1999 28/11/1999 12/12/1999 3.680 2.508 Cấp 3 108
Côn Bình Tường 2003 16/10/2003 17/10/2003 2.740 2.421 Cấp 2 121
Côn Bình Tường 1999 01/12/1999 04/12/1999 3.680 2.491 Cấp 3 41
Côn Bình Tường 1977 08/11/1977 30/11/1977 - 2.541 Cấp 3 91
Lai Giang Bồng Sơn 2007 03/11/2007 0 904 Cấp 3 604
Lai Giang Bồng Sơn 1977 02/11/1977 28/11/1977 - 1.567 Cấp 3 1157
Vệ Sông Vệ 2008 17/10/2008 0 486 Cấp 3 36
Vệ Sông Vệ 2007 01/11/2007 0 514 Cấp 2 94
Vệ Sông Vệ 1999 01/12/1999 06/12/1999 599 0
Bảng 3. Các trận lũ quét tại Bình Định, 1958-2008
Huyện Sông Thời gian
An Lão An Lão 03/12/1999
Phù Mỹ Hà Thanh 15/06/1990
Vĩnh Thạnh Côn 03/12/1999
129
Ngập úng thường do mưa lớn gây ra, ở một số vùng thời gian ngập úng kéo dài. Ngập úng tuy
ít gây tổn thất về người, nhưng ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và môi trường tự
nhiên.
Bảng 4. Số ngày mưa lớn trên 50 mm tại Bình Định trung bình nhiều năm, 1971-2008
Huyện Trạm
Năm
bắt
đầu
Năm kết
thúc
> 50
mm
> 100
mm
> 150
mm
> 200
mm
Hoài Nhơn Hoài Nhơn 1979 2008 0,27 0,13 0,13 0,00
TP. Quy Nhơn Quy Nhơn 1979 2008 7,97 2,50 1,07 0,37
Bảng 5. Phân bố số ngày mưa lớn trên 50 mm trung bình nhiều năm, 1979-2008
Trạm T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Hoài
Nhơn 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,03 0,00 0,13 0,10 0,00
Quy
Nhơn 0,00 0,00 0,07 0,03 0,27 0,27 0,07 0,33 0,90 2,83 2,47 0,73
1.2.3. Nguyên nhân gây lũ
Mưa lớn: Lượng mưa trung bình vùng đồng bằng từ 1.800 đến 2.000 mm/năm, vùng núi từ
2.600 đến 3.200 mm/năm. Mùa mưa chỉ có 4 tháng, nhưng tổng lượng mưa chiếm 70-80%
lượng mưa năm. Riêng 2 tháng 10 và 11, lượng mưa chiếm 70% lượng mưa trong mùa mưa.
Khả năng điều tiết lũ của lưu vực: Vùng núi phía Tây tỉnh như một bức tường thành chặn
đứng các hoàn lưu khí quyển từ biển đi vào tạo nên những trận mưa lớn, tập trung trong thời
gian ngắn. Trong khi địa hình dốc, hẹp, tầng phủ thực vật mỏng, không có khả năng điều tiết
lũ, vì thế có mưa là phát sinh dòng chảy lũ, hết mưa một thời gian ngắn là dòng chảy cạn kiệt.
Hệ thống tiêu thoát lũ: Bình Định có hệ thống sông suối dày đặc, trong đó có 4 con sông
chính đều bắt nguồn từ sườn phía Đông của dẫy núi Trường Sơn nên ngắn và dốc. Phần
thượng lưu sông nằm trên vùng đồi núi cao có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh. Phần trung lưu
và hạ lưu lòng sông bằng phẳng hơn, nhưng bị bồi lấp, ngăn chặn do các hệ thống đê ngăn lũ,
ngăn mặn và các đập dâng trên sông để lấy nước tưới và các công trình giao thông đã tạo ra
sức cản lớn cho việc tiêu thoát lũ. Một đặc điểm nữa là phần trung lưu lòng sông rộng có nơi
tới 500-600 m, nhưng khi ra đến vùng đồng bằng ven biển sông chia thành nhiều nhánh nhỏ,
tạo thành mạng lưới dày đặc, nhưng lòng sông hẹp từ 10 đến vài chục mét, tập trung nước vào
các đầm phá trước khi đổ ra biển. Tại đây, dòng chảy chịu sự chi phối sâu sắc của yếu tố thủy
triều, nên khả năng thoát lũ kém.
Từ 1998 đến 2008, hầu như năm nào cũng có mưa lũ, trong đó có 5 năm mưa lũ rất lớn, diện
ngập và độ sâu ngập lụt ngang mức lũ lịch sử năm 1964 như 1998, 1999, 2005, 2007 và 2008.
Đặc biệt, từ 25/12/2008 đến 02/01/2009, đã xẩy ra đợt mưa lũ lớn rất bất thường (về thời
130
gian), chưa từng xẩy ra trong 40 năm qua, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhân dân các địa
phương trong tỉnh.
1.3. Sạt lở đất
Sạt lở là loại hình thiên tai thường xảy ra ở Việt Nam, bao gồm: sạt lở bờ sông, bờ biển, các
sườn núi dốc và lún, nứt đất. Sạt lở thường do các nguyên nhân: ngoại sinh (do nước), nội
sinh (do biến động địa chất) và dân sinh (do khai thác khoáng sản bừa bãi hoặc thi công các
công trình)... Trượt lở đồi núi, sườn dốc thường do mưa lớn tập trung, kết hợp với nơi có cấu
tạo địa chất yếu, hay tác động của con người như: bạt núi mở đường, chặt phá rừng... Trượt lở
đồi núi thường kèm theo lũ bùn đá, gây tổn thất nghiêm trọng đối với tính mạng và tài sản của
người dân trong vùng.
Tại Bình Định, sạt lở thường xuất hiện tại các vùng đồi núi có độ dốc lớn, địa chất mềm yếu,
tầng phủ mỏng, mưa lớn (như vùng núi Vân Canh, An Lão, khu vực đèo Bình Đê, khu vực
đèo Cù Mông, Lộ Diêu, tuyến Quy Nhơn – sông Cầu...). Dọc các tuyến sông có dòng chảy lũ
lớn, địa chất bờ sông mềm yếu, các tuyến đê, bờ ngự thủy không được gia cố của sông Hà
Thanh, sông Côn, La Tinh, Lại Giang và dọc theo bờ biển dài hơn 135 km và xã đảo Nhơn
Châu. Trong các nơi đó, có nhiều vùng đáng lo ngại vì tập trung dân cư với mật độ lớn ngay
sát mép biển như Thành phố Quy Nhơn và các huyện Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài
Nhơn.
Chỉ riêng mùa mưa lũ năm 2008, đã có 25.520 m đê sông, đê biển và nhiều điểm dân cư dọc
sông suối, bờ biển bị vỡ và sạt lở, trong đó có đoạn bị vỡ và sạt lở nhiều lần.
1.4. Xâm nhập mặn
Biển Quy Nhơn có chế độ nhật triều không đều đến nhật triều đều, với biên độ triều thay đổi
không đáng kể. Trong tháng có 18-22 ngày nhật triều đều, 2 lần triều cuờng, 2 lần triều kém.
Thời kỳ triều kém thường có 1 con nước nhỏ. Thời gian triều dâng dài hơn rút. Biên độ triều
1,5-2,0 m, biên độ triều kém 0,5 m. Chế độ triều ở vùng đầm và các cửa sông giống biển, sự
khác nhau chủ yếu là biên độ triều vùng đầm nhỏ hơn vùng biển. Chân triều vùng đầm cao
hơn chân triều vùng biển 0,4-0,6 m. Biên độ triều cường vùng đầm 1,3-1,4 m.
Giải pháp ứng phó: đắp đê, đập ngăn mặn, trồng cây chắn sóng gió bảo vệ các cồn cát ven
biển như một loại đê tự nhiên để ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển. Hiện nay, cao trình
mặt đê ngăn mặn ở Bình Định là 1,5 m. Trong tương lai, có thể phải nâng cao hơn để ứng phó
với tình trạng nước biển dâng cao.
1.5. Hạn hán
Do địa hình quá dốc, nên hàng năm sau khi mùa mưa kết thúc chỉ vài ba tháng, dòng chảy
trong sông đã cạn kiệt, trong khi đó, mùa khô ở Bình Định kéo dài từ tháng1 đến tháng 8,
lượng mưa chỉ đạt 20 đến 25% lượng mưa năm, nhiều năm không có mưa, hoặc mưa rất ít,
làm cho tầng phủ lưu vực và dòng sông khô kiệt, nền nhiệt độ cao, gió Tây khô, nóng đã làm
cây cối khô héo, hàng chục ngàn ha lúa bị hạn hán, nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt, nguy cơ
hỏa hoạn cao.
131
1.6. Sa bồi
Hàng năm, mưa lũ bào mòn vùng đồi núi, đưa cát, sỏi bồi lấp lòng sông, đầm và cửa biển.
Cách đây vài chục năm, sông Lại Giang, Hà Thanh, Côn tràn ngập hình ảnh trên bến dưới
thuyền, nay bị bồi lấp, các phương tiện vận tải thủy không thể hoạt động được. Các đầm phá
cửa sông, ven biển vốn là nơi ra, vào neo đậu của tầu thuyền, nay bị bồi lấp nghiêm trọng, nếu
không nạo vét hàng năm, tầu thuyền không thể ra vào được. Trong mỗi mùa mưa lũ, có hàng
trăm ha ruộng đất bị cát bồi lấp từ vài chục đến hàng trăm cm, không thể canh tác được.
Riêng đợt mưa lũ tháng 11/2008, đã có 455 ha ruộng bị sa bồi và đợt lũ cuối tháng 12/2008 có
328 ha bị sa bồi lại. Ngoài ra, do tác động của gió, hàng năm các cồn cát ven biển dịch chuyển
về phía Đông, xâm lấn đất đai đồng ruộng (chưa có số liệu quan trắc cụ thể).
1.7. Ảnh hưởng do biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế
kỷ 21. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên
phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, gây ngập lụt, gây nhiễm mặn
nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống
kinh tế-xã hội trong tương lai. Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình
năm đã tăng khoảng 0,5-0,7oC, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Biến đổi khí hậu đã
làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt.
Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu
cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát
triển bền vững của đất nước. Theo các kịch bản biến đổi khí hậu, khí hậu trên tất cả các vùng
của Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi. Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta
tăng khoảng 2,3oC; tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi lượng mưa
mùa khô lại giảm; mực nước biển dâng khoảng 75 cm so với trung bình thời kỳ 1980-1999
(Bảng 6).
Theo cảnh báo của WHO và UNEP, nếu mực nước biển dâng cao 1 m, Việt Nam sẽ mất hơn
12% diện tích đất canh tác và hơn 65% diện tích rừng ngập mặn, đa dạng sinh học bị suy
giảm nghiêm trọng về số lượng và chất lượng, nhiều loại động thực vật sẽ bị tuyệt chủng hoặc
có nguy cơ bị tuyệt chủng cao, 25% dân số (ước chừng khoảng 30 triệu người vào thời điểm
đó) sẽ bị mất nơi cư trú, dịch bệnh và các căn bệnh lạ, hiểm nghèo sẽ xuất hiện trong các cộng
đồng dân cư và lan tràn không thể kiểm soát được do nhịp sinh học bị thay đổi… Do vậy, tỷ
lệ tử vong và số người nghèo đói sẽ tăng cao.
Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, nhiệt độ trung bình năm ở nước ta tăng khoảng
0,1oC/thập kỷ; nhiệt độ trung bình một số tháng mùa hè tăng khoảng từ 0,1-0,3
oC/thập kỷ; dao
động năm của El-Nino ngày càng có tác động mạnh đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu
ở nhiều khu vực; lượng mưa trên phần lớn lãnh thổ giảm rõ rệt trong các tháng 7, 8 và tăng
trong các tháng 9, 10, 11. Mực nước biển trung bình quan trắc được trong vòng nửa thế kỷ
qua tại trạm Cửa Ông và trạm Hòn Dấu cho thấy, mực nước biển đã dâng lên trung bình từ
2,5-3,0 cm/thập kỷ (gần gấp 10 lần so với mức độ tăng trung bình của toàn cầu). Mùa hoạt
động của bão kéo dài hơn và dịch lùi dần về các tháng cuối năm, quỹ đạo của các cơn bão
cũng có xu hướng chuyển dần về các vĩ độ phía Nam, khác với quy luật chung.
132
Nằm trong sự ảnh hưởng chung của BĐKH đến các tỉnh thành phố ven biển miền Trung, môi
trường và tài nguyên thiên nhiên Bình Định cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt do El-Nino – một
trong những biểu hiện của BĐKH toàn cầu. Số liệu quan trắc tại trạm Quy Nhơn cho thấy,
chu kỳ tác động của El-Nino có xu hướng tăng dồn trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu 21
(trung bình từ 2 đến 4 năm) so với tình hình chung của nửa thế kỷ 20 trở về trước (trung bình
là từ 3 đến 10 năm) và thậm chí hàng chục năm mới xuất hiện một lần. Các giá trị cực đại về
nhiệt độ trung bình của một số tháng mùa hè trong các năm 1986, 1987, 1992, 1998, 2003 và
2005 đều vượt quá giá trị nhiệt độ trung bình các tháng tương ứng trong nhiều năm từ 1-1,5oC
và vượt xa nhiệt độ trung bình năm từ 3,2-4,7oC, điển hình như tháng 6 và 7/1986, có nhiệt dộ
trung bình 30,1oC, tháng 6 và 7/1987 đều là 31,2
oC, tháng 8/1991: 30,5
oC, tháng 6, 7, 8/1998:
29,9oC, tháng 8/2003: 31,1
oC, tháng 5/2005: 30,2
oC tháng 6/2005; 31,3
oC…
Bảng 6. Các đặc trưng biến đổi khí hậu của vùng Nam Trung Bộ theo kịch bản phát thải
Kịch bản
phát thải
Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999
của vùng Nam Trung Bộ theo các kịch bản phát thải
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Thấp 0,4 0,5 0,7 0,9 1,0 1,2 1,2 1,2 1,2
Trung bình 0,4 0,5 0,7 0,9 1,2 1,4 1,6 1,8 1,9
Cao 0,4 0,5 0,8 1,0 1,2 1,5 1,8 2,1 2,4
Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999
của vùng Nam Trung Bộ theo các kịch bản phát thải
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Thấp 0,7 1,0 1,3 1,6 1,8 2,0 2,1 2,2 2,2
Trung bình 0,7 1,0 1,3 1,7 2,1 2,4 2,7 3,0 3,2
Cao 0,7 1,0 1,2 1,7 2,1 2,5 3,0 3,6 4,1
Mực nước biển dâng (mm) so với thời kỳ 1980-1999
của vùng Nam Trung Bộ theo các kịch bản phát thải
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Thấp 11 17 23 28 35 42 50 57 65
Trung bình 12 17 23 30 37 46 54 64 75
Cao 12 17 24 33 44 57 71 86 100
Nguồn: Các kịch bản biến đổi khí hậu do Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Chính phủ xem
xét ngày 10 tháng 7 năm 2009.
Hạn hán và gió Tây khô nóng hoành hành sớm từ đầu tháng 5 và kéo dài theo từng đợt từ 7-9
ngày, có năm hiện tượng nắng kéo dài suốt cả tháng (28 ngày của tháng 5/2005), đã làm tăng
cường hiện tượng nhiễm mặn, nhiễm phèn vào diện tích đất vốn đã nhỏ hẹp và kém phì nhiêu.
Ví dụ, năm 2003 và 2005, do nắng nóng khô hạn kéo dài gay gắt, đã làm diện tích đồng bằng
133
hạ lưu sông Hà Thanh có độ nhiễm mặn vào tháng 7 và tháng 8 lên đến 15,38%, riêng phường
Nhơn Bình bị nhiễm mặn đến 24,2%.
Lượng mưa trung bình phân bố trên địa bàn cũng có sự biến động mạnh trong nhiều thập kỷ
gần đây. So với lượng mưa trung bình nhiều năm, nhìn chung, lượng mưa có xu hướng tăng
trong giai đoạn 1955-1964, sau đó giảm rõ rệt trong giai đoạn 1965-1984, và tăng trở lại trong
giai đoạn 1985-2004. Trong đó, có những có năm đột biến liên tiếp nhau: 3.026 mm/1998,
2.019 mm/2000, 2.638 mm/2005, 2.241 mm/2007, nhưng có năm lại giảm xuống rất thấp:
1.490 mm/1995, 1.547 mm/1997, 1.339 mm/2001, 1.325 mm/2004, 1.293 mm/2006…
Theo quy luật chung, thông thường mưa bão và lũ chính ở TP. Quy Nhơn diễn ra vào cuối
tháng 10, nhưng gần đây có năm lũ đến rất sớm (2000, 2005) và có năm lũ rất muộn (2001)...
Do ảnh hưởng của bão và lũ làm mực nước biển và đỉnh lũ lần sau luôn luôn cao hơn lần
trước, đặc biệt, là những đột biến từ 2005-2007.
Các hệ sinh thái đặc trưng là rừng nguyên sinh đèo Cù Mông, Cồn Chim – đầm Thị Nại và
các bãi rạn san hô ở Cù Lao Xanh, Hòn Đất, Hòn Khô… rất mỏng manh và nhạy cảm trước
những tác động của BĐKH và của con người. Nhiều hộ cư dân ven đầm, ven biển đã khai
hoang lấn biển, biến các dãi rừng ngập mặn thành ao, đìa nuôi trồng thủy hải sản. Điều này
dẫn đến thách thức lớn về tài nguyên môi trường và phát triển kinh tế-xã hội: lớp trầm tích
mặt của đất ven bờ bị ô nhiễm do dư lượng thức ăn công nghiệp và các chất hữu cơ từ hoạt
động nuôi tôm cua cá, đồng thời với cường độ xâm nhập mặn lớn, nguồn nước ngọt bị suy
giảm và ô nhiễm…
Các tác động của biến đổi khí hậu tới tỉnh Bình Định:
+ Tăng mức độ ngập úng và lũ.
+ Thúc đẩy nhanh hơn quá trình xói lở bờ biển.
+ Nước biển lấn sâu vào vùng nước ngọt dưới đất.
+ Nước thủy triều xâm lấn sâu hơn vào vùng cửa sông và hệ thống sông.
+ Tăng nhiệt độ đất và nước mặt.
+ Tình hình trên sẽ tác động đến dạng bờ biển, khu vực cư trú và hạ tầng vùng bờ biển:
Nước biển dâng sẽ làm tăng mức ngập lụt vùng hạ lưu của các con sông, nước biển sẽ
lấn sâu vào các vùng cửa sông ven biển.
Xói lở bờ biển tăng cùng với nước biển dâng sẽ tác động đến các đô thị, vùng dân cư,
các công trình giao thông, công nghiệp, công trình tiêu thoát nước, các cơ sở nghỉ mát
du lịch...
BĐKH làm thay đổi các vùng đất ngập nước, nhất là hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Xâm nhập mặn sâu hơn vào nội địa, nhất là khi có hạn hán, ảnh hưởng đến khả năng
cấp nước ngọt, giảm chất lượng nước mặt và nước ngầm. BĐKH sẽ làm cho diện tích
bị nhiễm mặn ở vùng ven biển tăng lên đáng kể, làm giảm sút sản lượng lúa và nhiều
hậu quả khác về môi trường.
134
Tăng ảnh hưởng của sóng, gió, nước dâng do bão, dẫn đến tăng tác động xấu đến các
công trình và hệ sinh thái ven bờ, đến đời sống của người dân, nhất là dân nghèo.
Tác động tiêu cực đến các rạn san hô. BĐKH làm thay đổi phân bố của vi khuẩn gây
bệnh, dẫn đến tăng dịch bệnh.
Nước biển dâng cũng ảnh hưởng đến việc nuôi trồng thủy sản. Các đầm phá nuôi trồng
thủy sản sẽ bị thay đổi do mực nước biển dâng. Lũ lụt tăng cũng đe dọa nhiều hơn đến
các khu vực nuôi trồng thủy sản ven biển.
Thay đổi lưu lượng dòng chảy của các dòng sông, mùa lũ, tần suất và cường độ các trận
lũ, các đợt hạn, lượng nước trong đất.
Lượng nước trong các hồ chứa bị giảm và biến động mạnh. Lòng hồ bị bồi lắng nhanh
hơn do sạt lở đất, một số hồ chứa có thể trở thành hồ chết sớm hơn. Chất lượng nước
các hồ chứa thay đổi thường theo chiều hướng xấu đi.
Lớp nước ngầm có nhiều thay đổi. Nước ngầm trên các vùng ven biển dễ bị nhiễm
mặn, làm cho việc khai thác nước ngầm khó hơn.
Các hệ sinh thái (HST) trên các vùng thấp ven sông, trong sông và đặc biệt vùng cửa
sông, các HST trong các hồ chứa cũng sẽ chịu tác động mạnh do những thay đổi của
mưa, dòng chảy mặt và nước ngầm cùng với một số đặc trưng của chất lượng nước, các
chất dinh dưỡng.
Thiên tai liên quan đến nước, nhất là lũ lụt và hạn hán... có xu hướng tăng lên, làm tăng
thiệt hại cả về người và của đối với các vùng đồng bằng và ven biển.
Lũ quét cũng xảy ra thường xuyên hơn do sự kết hợp giữa cường độ mưa lớn với rừng
bị suy kiệt và phương thức canh tác nông nghiệp (trồng lúa, ngô, sắn) trên đất rừng có
độ dốc lớn.
Cháy rừng thường gắn với hạn hán nên cũng có xu hướng tăng không chỉ ở các vùng
núi mà cả trên các vùng đất ngập nước.
Việc cung cấp và sử dụng nước, việc tiêu thoát nước, nhất là đối với các đô thị lớn, sẽ
trở nên khó khăn hơn.
2. CÁC GIẢI PHÁP, CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN ỨNG PHÓ VÀ GIẢM NHẸ THIỆT
HẠI DO THIÊN TAI Ở BÌNH ĐỊNH
2.1. Ứng phó
Để ứng phó đối với biến đổi khí hậu, chúng ta cần có kế hoạch hành động nhằm giảm thiểu
các chất thải gây hiệu ứng nhà kính. Trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh, cần gắn với các dự báo về biến đổi khí hậu toàn cầu như sự nóng lên của Trái đất và
theo các nhà khoa học dự báo, khoảng năm 2100, mực nước biển dâng lên khoảng 1,0 m.
Cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia xây các mô hình dự báo về biến đổi khí hậu để phục vụ
cho sự phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với sự biến đổi khí hậu toàn cầu.
135
Nhằm ứng phó, giảm thiểu thiệt hại và thích ứng với BĐKH, góp phần đảm bảo phát triển bền
vững, cần tích cực nghiên cứu triển khai đồng bộ một số giải pháp tổng thể như sau:
+ Dự báo, cảnh báo ảnh hưởng của BĐKH đối với các ngành kinh tế và các lĩnh vực liên
quan theo từng giai đoạn: nông lâm ngư, đa dạng sinh học, đất ngập nước, các hệ sinh thái
đặc trưng, thủy lợi, nông thôn… Trên cơ sở đó, xây dựng các giải pháp ứng phó, thích
nghi theo điều kiện cụ thể của từng khu vực.
+ Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành kinh tế để có kế hoạch khai thác hợp lý và bền
vững các điều kiện môi trường và tài nguyên thiên nhiên hiện có, góp phần hạn chế tiến
trình cũng như ảnh hưởng của BĐKH trên địa bàn Thành phố nói riêng và cả tỉnh nói
chung.
+ Rà soát, quan trắc, đánh giá và lập bản đồ phân vùng xâm nhập mặn, trượt đất, sạt lở, ngập
lụt, biến đổi đường bờ biển, cửa sông… theo các kịch bản khác nhau của nước biển dâng
để có căn cứ khoa học nhằm cải thiện, bảo vệ đất; chuyển đổi mô hình sản xuất; cải thiện,
xây dựng hệ thống đê sông, đê biển; phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng ngập mặn,
trồng cây chắn sóng, chắn gió và chắn cát ven biển…, góp phần giảm thiểu thiệt hại của
thiên tai, chống xói mòn, rửa trôi và hạn chế quá trình di động cát, sa mạc hóa.
+ Rà soát quy hoạch hệ thống hạ tầng nông nghiệp – nông thôn, đặc biệt là hệ thống sông
suối và các hồ chứa nước trên địa bàn; nghiên cứu biến động tài nguyên nước, khai thác
triệt để khả năng trữ nước để mở rộng diện tích tưới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
phù hợp với điều kiện sinh thái của từng khu vực, theo hướng nông nghiệp bền vững, đảm
bảo năng suất, sản lượng cây trồng.
Trước mắt, tích cực xây dựng chương trình nghiên cứu và thực hiện ngay việc chọn giống
cây trồng, đặc biệt là giống cây lương thực chịu được ngập úng và mặn, chịu được hạn và
có khả năng chống chịu cao với sâu bệnh cũng như các điều kiện thời tiết bất lợi khác.
+ Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất thông qua các chủ trương, chính sách
tác động cụ thể. Chẳng hạn như đẩy mạnh công tác khuyến nông, đào tạo nguồn nhân lực
để tăng cường năng lực trong tiếp cận công nghệ, xây dựng các mô hình sản xuất công
nghệ cao từ đơn giản đến phức tạp, thử nghiệm và nhân điển hình; hỗ trợ và phát triển
nguồn nhiên liệu sạch, rẻ tiền hoặc nguồn nhiên liệu mới.
+ Xây dựng chiến lược giảm thiểu và thích ứng BĐKH, trong đó, thích ứng là ưu tiên. Tuy
nhiên, cần phải coi trọng các biện pháp có thể giảm thiểu ảnh hưởng của BĐKH như thay
đổi kỹ thuật canh tác, nuôi trồng thủy hải sản; sử dụng tiết kiệm và khôn ngoan các nguồn
tài nguyên sinh vật, tài nguyên nước mặt và nước ngầm; hạn chế việc phá rừng, đốt nương
làm rẫy; đốt phế phụ phẩm, xử lý rác thải; vệ sinh môi trường nơi ở và khu dân cư; sử
dụng và phát triển nguồn nhiên liệu sạch…
+ Quan trọng và có ý nghĩa hơn hết là phải triển khai ngay một chiến dịch giáo dục thông
tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về BĐKH, nhằm huy động tất cả mọi cộng đồng dân
cư của tỉnh thực hiện một cách tích cực, có trách nhiệm và hiệu quả cho mục tiêu đối phó,
giảm thiểu và thích ứng với BĐKH, đảm bảo phát triển bền vững.
136
2.2. Chủ động phòng, tránh, thích ứng
Theo Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 được ban hành
theo Quyết định 172/2007/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 1997, căn cứ Kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội đến năm 2010, tầm nhìn năm 2020 của tỉnh Bình Định đã được xác định là
“chủ động phòng, tránh, thích nghi để phát triển”.
Mục tiêu chung của Bình Định là huy động cao nhất các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả
công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai trong cả ba giai đoạn: chuẩn bị, ứng phó, khắc
phục hậu quả, nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, hạn chế các thiệt
hại về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, các công trình hạ tầng, các di sản văn hóa, góp
phần đảm bảo an ninh, quốc phòng và sự phát triển bền vững của tỉnh theo phương châm “chủ
động phòng, tránh, thích nghi để phát triển” với các mục tiêu và nội dung cụ thể gồm:
1. Quy hoạch khu dân cư, khu công nghiệp, khu du lịch; quy hoạch, xây dựng công trình
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, công trình hạ tầng giao thông, bảo đảm chống ngập và
tiêu thoát lũ.
2. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc thù thiên tai của vùng và tận
dụng được điều kiện tự nhiên thuận lợi trên đất liền, trên biển để phát triển; chống sự xâm lấn
của các cồn cát vào vùng đồng bằng, chống hoang mạc hóa.
3. Thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp đê điều, tận dụng và bảo tồn các cồn cát tự
nhiên để ngăn sóng thần, ngăn nước biển, ngăn mặn; xây dựng các hồ chứa, tăng cường trồng
rừng, triển khai các giải pháp tăng cường dòng chảy mùa kiệt và nước ngầm, tăng cường các
công trình thủy lợi để chống hạn, chống úng; xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở bờ
sông, bờ biển, nạo vét luồng lạch; xây dựng các khu neo đậu tầu, thuyền, nâng cấp và phát
triển các trạm thông tin ven biển, phục vụ cảnh báo bão, nước biển dâng và sóng thần.
4. Tăng cường nghiên cứu đề xuất các giải pháp chống bồi lấp cửa sông, nạo vét lòng
dẫn, tăng cường khả năng thoát lũ, kết hợp giao thông thủy.
5. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo bão, lũ, hạn hán, sạt lở đất, động đất, sóng thần và
các hiện tượng thời tiết nguy hiểm. Trọng tâm là nâng cao thời gian dự báo bão, áp thấp nhiệt
đới, cảnh báo lũ trước 72 giờ.
6. Đảm bảo 100% cán bộ chính quyền địa phương các cấp trực tiếp làm công tác phòng,
chống thiên tai được tập huấn, nâng cao năng lực và trình độ về công tác phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai.
7. Từng bước nâng cao nhận thức cộng đồng về phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ thiên tai,
thảm họa dựa vào cộng đồng. Phấn đấu đến năm 2020, ít nhất 50% dân số của tỉnh và trên
70% số dân các xã thuộc vùng thường xuyên bị thiên tai được phổ biến kiến thức về phòng,
chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai.
8. Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ chắn sóng, gió, cát ven biển, không
ngừng nâng cao độ che phủ rừng, góp phần giảm nhẹ thiên tai.
9. Rà soát, bảo đảm các quy hoạch phát triển, quy chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội và khu dân cư trong vùng thường xuyên bị thiên tai phù hợp với tiêu chuẩn phòng,
137
chống bão, lũ, thiên tai của từng vùng; gắn kết quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và các quy
hoạch ngành với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai để phát
triển bền vững.
10. Từng bước tái định cư và ổn định đời sống nhân dân vùng thiên tai, phù hợp với tình
hình biến đổi khí hậu. Trước mắt, từ nay đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thành việc di
dời dân ra khỏi các khu vực có nguy cơ cao về lũ quét, triều cường, sạt lở đất và các vùng
nguy hiểm đến nơi an toàn, đồng thời, cơ bản hoàn thành chương trình giúp các hộ nghèo xóa
nhà ở tạm, xây dựng nhà kiên cố.
11. Tu bổ, sửa chữa, nâng cấp, nâng cao mức bảo đảm chống lũ cho hệ thống đê điều, khắc
phục tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển để bảo vệ dân cư, phát triển kinh tế biển, bảo đảm an
ninh, quốc phòng vùng ven biển.
12. Xây dựng và bảo đảm an toàn cho các hồ chứa đa mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế
và điều tiết lũ, đặc biệt là nâng cao độ an toàn cho các hồ chứa nước lớn, các hồ chứa có khu
dân cư đông đúc hoặc cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, công trình quốc phòng, an ninh quan
trọng ở hạ lưu công trình.
13. Hoàn thành việc xây dựng các khu neo đậu tầu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch đã
được phê duyệt. Hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc nghề cá, đảm bảo 100% tầu, thuyền
đánh bắt xa bờ có đủ thiết bị thông tin liên lạc; từng bước nâng cấp khả năng hoạt động của
tầu thuyền và các phương tiện an toàn hàng hải theo quy định.
14. Tu bổ, sửa chữa, nâng cấp hệ thống đường giao thông, mở rộng khẩu độ cầu, cống để
tiêu úng, thoát lũ, xây dựng cầu vượt để thay thế các tràn xả lũ trên các tuyến đường huyết
mạch, phấn đấu mỗi xã có ít nhất một tuyến đường vượt lũ đến trung tâm xã để phục vụ công
tác phòng chống lụt bão (PCLB) và tìm kiếm cứu nạn (TKCN).
15. Chuyển đổi mùa vụ cây trồng, vật nuôi theo hướng chuyển từ sản xuất 3 vụ sang sản
xuất 2 vụ/năm đối với những vùng thấp, trũng để tránh lũ chính vụ.
16. Xây dựng quy chế phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng tìm kiếm cứu
nạn để chủ động ứng phó khi có tình huống cấp bách xảy ra; bảo đảm việc đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị và phát triển nguồn nhân lực phục vụ tìm kiếm
cứu nạn theo nội dung đề án quy hoạch tổng thể lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn.
2.3. Các chương trình, dự án
Để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó tình hình biến
đổi khí hậu, cần tiến hành đồng thời 2 nhóm dự án theo 2 nhóm giải pháp phi công trình và
công trình như sau:
Giải pháp phi công trình:
1. Thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
2. Kiện toàn tổ chức bộ máy chỉ huy, chỉ đạo
3. Công tác quy hoạch
4. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo
5. Nâng cao nhận thức cộng đồng
138
6. Chăm sóc và bảo vệ rừng đầu nguồn
7. Tăng cường năng lực quản lý thiên tai và ứng dụng khoa học công nghệ
8. Xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt, nguy cơ sóng thần
9. Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ
10. Sơ tán
11. Cứu trợ, cứu nạn
12. Phục hồi, tái định cư
13. Đánh giá thiệt hai
14. Bảo hiểm thiên tai
Giải pháp công trình:
1. Công trình ngăn lũ
2. Công trình cắt lũ
3. Công trình thoát lũ
4. Công trình phòng, chống sạt lở
5. Công trình neo đậu tàu, thuyền
6. Tái định cư vùng thiên tai
7. Kiên cố hóa nhà ở, trường học, trạm y tế kết hợp tránh lũ, bão
8. Trồng rừng.
2.4. Các nhiệm vụ trọng tâm hàng năm
2.4.1. Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các hồ chứa nước
Hiện nay, tỉnh Bình Định có 154 hồ chứa nước với tổng dung tích chứa 630 triệu m3, nhiều hồ
chứa vừa và nhỏ do nhân dân làm đang tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ sự cố ở đập đất, tràn xã lũ,
cống lấy nước cần phải được gia cố lại, trong đó có 32 hồ chứa cần sửa chữa gấp.
2.4.2. Đẩy mạnh công tác tu bổ, sửa chữa, nâng cấp, kể cả các biện pháp gia cố tạm để hạn
chế thiệt hại về đê điều
Hiện nay, toàn tỉnh có 145,9 km đê sông, 75 km đê biển, trong đó khoảng 30% đã được xây
dựng hoàn chỉnh, tuy nhiên hiện nay, còn rất nhiều tồn tại và tiềm ẩn nhiều nguy cơ sự cố.
Sau mùa mưa lũ năm 2007-2008, hàng chục km đê điều, bờ sông tiếp tục bị vỡ và sạt lở
nghiêm trọng, cần đầu tư sửa chữa nâng cấp lại.
2.4.3. Đảm bảo an toàn dân cư
Toàn tỉnh có 14.687 hộ với 58.734 nhân khẩu, thuộc 268 thôn, 87 xã, phường thuộc các
huyện, thành phố nằm trong vùng thiên tai nguy hiểm, trong đó, vùng ven biển có 11.059
hộ/45.392 khẩu và 5.946 hộ/27.642 khẩu nằm trong vùng ngập sâu, lũ quét, sạt lở đe dọa
nghiêm trọng, cần tái định cư về nơi an toàn (từ năm 1999 đến năm 2008, tỉnh đã di dời 792
hộ/3.414 nhân khẩu, trong đó, năm 2008 di dời 296 hộ/1184 khẩu). 14 xã thuộc 5 huyện nằm
trong các trung tâm mưa lớn, đồi núi dốc dễ phát sinh lũ quét.
2.4.4. Đảm bảo an toàn cho ngư dân và tàu thuyền
Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 8.000 tàu thuyền với hơn 100 nghìn ngư dân làm nghề đánh bắt
thủy sản trên các vùng biển, trong đó có gần 4.000 tầu đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, đa số tàu
139
thuyền là tàu gỗ nhỏ đã sử dụng nhiều năm, máy móc thiết bị thiếu và lạc hậu, vì vậy, khả
năng hoạt động và chịu đựng sóng gió của tàu thuyền yếu, đa số chưa được trang bị máy
thông tin, liên lạc. Năng lực, nhận thức của ngư dân còn hạn chế và chưa được thường xuyên
cập nhật. Các bến bãi neo đậu chưa đủ điều kiện để tầu thuyền ra vào, neo đậu an toàn, cần
được tiếp tục xây dựng, củng cố.
2.4.5. Nâng cao năng lực tìm kiếm cứu nạn
Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh là cơ quan thường trực tìm kiếm cứu nạn của Ban chỉ huy Phòng
chống Lụt bão và Tìm kiếm Cứu nạn tỉnh, chịu trách nhiệm chuẩn bị lực lượng, phương tiện,
vật tư, tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Văn phòng Thường trực TKCN và Sở chỉ huy
TKCN, tham mưu và phục vụ cho UBND tỉnh, Ban chỉ huy PCLB và TKCN tỉnh trong hoạt
động tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn người, phương tiện, công trình. Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng
chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức công tác tìm kiếm cứu
hộ, cứu nạn trên biển. Các cấp, các ngành, tổ chức lực lượng, phương tiện, vật tư tìm kiếm
cứu nạn chuyên ngành, phối hợp với Văn phòng Thường trực TKCN và Sở chỉ huy TKCN để
tham mưu và phục vụ cho ban chỉ huy PCLB và TKCN các cấp trong công tác tìm kiếm, cứu
nạn, cứu hộ người, công trình và thực hiện lệnh điều động khi cần thiết.
Tuy nhiên, phương tiện tìm kiếm, cứu nạn trên biển của tỉnh chỉ hoạt động được khi gió dưới
cấp 6, lực lượng tìm kiếm không chuyên nghiệp, không được đào tạo, nên hạn chế trong thực
hiện nhiệm vụ. Vì vậy, hàng năm UBND tỉnh đều có ưu tiên đầu tư mua sắm, sửa chữa trang
thiết bị, huấn luyện lực lượng phục vụ công tác TKCN, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành
trung ương tăng cường hỗ trợ tỉnh và các tỉnh lân cận lực lượng TKCN tại chỗ. Tuy nhiên, do
hạn chế về tài chính nên đến nay, công tác này vẫn còn rất bất cập.
Giải pháp ứng phó: Để bảo vệ mùa màng, tính mạng, tài sản của nhân dân, giảm nhẹ thiệt hại
do mưa lũ gây ra, tỉnh đã áp dụng tổng hợp các biện pháp như: (i) nâng cao nhận thức và năng
lực cộng đồng; (ii) xây dựng các hồ điều tiết, xây dựng đê điều (đến nay đã đắp 157 km đê
sông để ngăn lũ và 75 km đê biển để ngăn mặn) và công trình tiêu thoát lũ; (iii) trồng rừng
phòng hộ; (iv) tổ chức lại sản xuất; và (v) quy hoạch các khu dân cư theo hướng thích nghi
với tình hình lũ lụt ở địa phương. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh phí, nên hệ thống đê còn
nhiều bất cập và tiềm ẩn nhiều nguy cơ sự cố (hàng năm cứ có mưa lũ là có đê vỡ và hàng
chục km khác bị sạt lở), các biện pháp khác đang được tiến hành chậm so với yêu cầu.
Đối với vùng cao không bị ngập lụt, phương châm là hạn chế mưa trực tiếp xói mòn mặt đất
tự nhiên, giữ nước, làm chậm dòng chảy, chống xói mòn, cải tạo và bảo vệ đất. Đối với vùng
thấp trũng bị ngập lụt, thì xây dựng công trình chống được lũ tiểu mãn, lũ đầu vụ và lũ cuối
vụ, phòng, né tránh, thích nghi và chung sống với lũ chính. Tuy nhiên, để tăng cường năng
lực phòng tránh, ứng phó với lũ lụt, cần tăng cường giải quyết các vấn đề sau:
2.4.6. Bảo vệ phát triển rừng đầu nguồn
Áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp để giữ nước, làm chậm lũ, chống xói mòn, cải tạo
và bảo vệ đất như: (i) chọn cơ cấu cây trồng và kỹ thuật trồng vừa có giá trị kinh tế vừa tạo
được lớp phủ trên bề mặt, chống xói mòn, chắn cát và giữ nước; (ii) xây dựng đồng ruộng
theo đường đồng mức, đào mương tiêu nước kiểu xương cá; và (iii) dùng phế thải nông
nghiệp hoặc nilông phủ trên mặt đất để giữ ẩm…
140
Xây dựng hoàn chỉnh các hồ chứa nước, khai thác triệt để khả năng trữ nước của các hồ chứa
để mở rộng diện tích tưới. Xây dựng các hồ chứa nước ở thượng nguồn trên 4 con sông lớn
của tỉnh (Côn, Lại Giang, Hà Thanh và La Tinh) để cắt một phần lượng nước lũ đổ xuống hạ
lưu, gây ngập lụt. Củng cố vững chắc các đê sông, đê biển theo hướng sống chung với lũ
chính vụ. Tăng cường năng lực thoát lũ tiêu úng của các sông suối và các công trình.
Xây dựng các khu dân cư phù hợp với bão lụt và sát thực tế.
Tăng khả năng thoát lũ trên các tuyến giao thông, tuyến kênh mương; xây dựng kiên cố hóa
các tuyến đường giao thông; bê tông hóa kênh mương phù hợp với tình hình lũ lụt trên địa
bàn.
Xây dựng và tăng cường năng lực các cảng cá, đảm bảo tàu thuyền ra vào thuận lợi và trú ẩn
an toàn khi có bão lũ. Tăng cường năng lực con người và phương tiện đánh bắt hải sản thích
ứng với tình hình thiên tai trên biển.
Tăng cường năng lực dự báo, dự tính, thông tin cảnh báo để chủ động đối phó với thiên tai.
Tăng cường năng lực tìm kiếm cứu nạn trên biển và trên đất liền.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao hiểu biết cho cộng đồng về thiên tai và
ý thức chấp hành pháp luật trong công tác phòng chống thiên tai.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CỤ THỂ
Đẩy mạnh công tác chăm sóc, quản lý rừng đầu nguồn, trồng rừng theo Chương trình 5 triệu
ha rừng. Nghiên cứu đưa chương trình trồng rừng thêm nhiệm vụ trồng tre ven các bờ sông để
chống sạt lở sau khi đã quy hoạch xác định tuyến chỉnh trị sông.
Áp dụng mô hình tổng hợp về canh tác trên đất đốc là giữ nước, chống xói mòn, bảo vệ và cải
tạo đất: trên đỉnh trồng cây lâm nghiệp, lưng chừng đồi trồng cây ăn quả, tiếp theo là vườn đồi
và đến hàng rào; xen giữa hai hàng rào chắn cát (trồng cây răng cưa, cây dứa ta...), xây dựng
nhà ở hoặc đất canh tác; tiếp theo đường giao thông có trồng tre chắn cát, chắn gió và mương
tiêu nước (mương tiêu nước có tác dụng tập trung nước, cắt và lọc phèn); dưới cùng là ruộng
lúa hoặc cây trồng cạn.
Rà soát quy hoạch, lập dự án chỉnh trị sông ngòi, cửa sông, cửa biển, làm cơ sở từng bước
củng cố vững chắc, cải tạo toàn diện các tuyến đê, các công trình tiêu úng thoát lũ, khai thông
dòng chảy trên các sông suối, cải tạo những đoạn sông quá gấp khúc, đảm bảo tiêu úng thoát
lũ dễ dàng. Di chuyển dân cư, công trình xây dựng tại những nơi làm cản trở dòng chảy và
ảnh hưởng đến an toàn của đê. Đẩy mạnh chương trình bê tông hóa kênh mương, nhằm tiết
kiệm đất, giảm tổn thất nước và an toàn phòng chống bão lũ.
Xây dựng các cụm dân cư, các kiểu nhà cao trên mực nước lũ lịch sử, kết hợp với các công
trình công cộng cao tầng để nhân dân tạm trú khi xảy ra lũ lớn nhằm đảm bảo an toàn lâu dài
cho nhân dân các vùng thấp trũng, vùng hạ lưu các hồ chứa. Di dân ra khỏi các vùng thường
bị bão lụt uy hiếp và các vùng thuộc phạm vi bảo vệ các công trình theo quy định của pháp
luật.
141
Tăng cường khả năng thoát lũ trên các tuyến đường bằng cách cải tạo mở rộng khẩu độ thoát
lũ các cầu, cống đã có; xây dựng thêm cầu, cống, tràn thoát lũ trên các tuyến đường, đặc biệt
là tuyến đường Bắc – Nam; kết hợp quy hoạch các tuyến đường với quy hoạch các khu dân cư
mới theo hướng dòng chảy lũ. Các tuyến đường ở vùng lũ cần đạt một cao trình tiêu chuẩn
vượt lũ nhất định, các đoạn đường thấp dưới lũ cần đổ bê tông mặt và kè đá hai bên.
Xây dựng và tăng cường năng lực các cảng cá Tam Quan, Quy Nhơn và Đề Gi. Cải tại các
cửa sông Lại Giang, cửa Hà Ra, tạo điều kiện cho việc tiêu úng thoát lũ và đảm bảo tàu
thuyền ra vào trú ẩn an toàn khi có bão lũ.
Xây dựng các trạm xử lý nước quy mô nhỏ ở các vùng trũng thấp thường xuyên bị ngập lụt.
Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân áp dụng “Sổ tay xử lý nước và vệ sinh môi trường trong
mùa mưa lũ” của Bộ Y tế. Xây dựng các bãi xử lý rác ở các huyện, xử lý phế thải và xác động
vật trôi tại các vùng rốn lũ.
Tăng cường năng lực dự báo, dự tính, thông tin cảnh báo về bão lũ để chủ động đối phó với
thiên tai. Từng bước củng cố, tiêu chuẩn hóa các trạm thủy văn ở các sông chính và cửa biển,
kết hợp với quan trắc môi trường nước nhằm thu thập đầy đủ, kịp thời các thông tin phục vụ
cho dự báo, phòng chống và khắc phục hậu quả lũ lụt.
Xây dựng bản đồ ngập lụt tỉnh Bình Định.
Đầu tư Trung tâm Tìm kiếm Cứu nạn trên Biển của tỉnh đủ mạnh để hàng ngày liên lạc được
với các phương tiện đánh bắt hải sản trên biển và xây dựng lực lượng cán bộ đủ năng lực độc
lập tiến hành công tác tìm kiếm, cứu hộ trên vùng biển của tỉnh và lân cận. Chủ động hình
thành các đội tàu cứu nạn của nhân dân tại các cửa sông, cửa biển. Thường xuyên quan hệ với
Ủy ban Tìm kiếm Cứu nạn Trung ương phối hợp hành động khi có sự cố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Quang Chút, 2000. Quy hoạch phát triển nông nghiệp – nông thôn tỉnh Bình Định đến
năm 2010. Tuyển tập khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh Bình Định 1991-
2000. Bình Định: 118-122.
2. Nguyễn Lập Dân (Chủ nhiệm), Nguyễn Thị Thảo Hương, Lê Duy Bách, Trần Gia Lịch và
nnk., 2005. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho các giải pháp tổng thể dự báo phòng tránh lũ
lụt ở miền Trung. Đề tài nghiên cứu. Viện Địa lý, Hà Nội, 450 trang.
3. Lê Văn Dũng, 1996. Đợt mưa lớn kéo dài cuối tháng 12 năm 1995 ở Bình Định. Khí
tượng Thủy văn, No.5: 42.
4. Lê Văn Dũng, 1997. Áp thấp nhiệt đới và đợt mưa lũ ngày 2-4 tháng 11 năm 1996 ở Bình
Định. Khí tượng Thủy văn, No.1: 30-31.
5. Nguyễn Trọng Hiệu, 2001. Nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa và ngăn chặn các quá
trình hoang mạc hóa vùng Trung Trung Bộ (Quảng Ngãi – Bình Định). Tuyển tập Hội
nghị khoa học về tài nguyên và môi trường. Trang 477-487.
142
6. Nguyễn Hiếu Hòa, 2000. Tổng quan về thực trạng và vấn đề bảo vệ rừng phòng hộ đầu
nguồn Bình Định. Trung tâm Khoa học, Công nghệ và Môi trường Bình Định, Bình Định,
No.2-3: 29-30.
7. Đào Xuân Học (Chủ nhiệm), 2001. Nghiên cứu các giải pháp giảm nhẹ thiên tai hạn hán ở
các tỉnh duyên hải miền Trung (từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận). Tập I: Báo cáo chung
(Chương I, II, III). Đề tài nghiên cứu. Trường Đại học Thủy lợi, Hà Nội, 390 trang.
8. Phạm Hùng (Chủ nhiệm), 2005. Nghiên cứu dự báo hạn hán vùng Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên và xây dựng các giải pháp phòng chống ĐTN: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp
công trình giảm nhẹ hạn hán. Đề tài nghiên cứu. Trường Đại học Thủy lợi Cơ sở 2, TP.
Hồ Chí Minh: 270.
9. Chí Hữu, 2001. Hậu quả lũ lụt – Tác động xấu đến môi trường Bình Định. Trung tâm
Khoa học, Công nghệ và Môi trường Bình Định, Bình Định, No.2: 15.
10. Đàm Văn Lợi, 2009. Thiên tai và công tác tổ chức ứng phó với thảm họa do thiên tai gây
ra ở Bình Định. Hội thảo đối thoại, học hỏi và chia sẻ về ứng phó biến đổi khí hậu,
27/02/2009, Quy Nhơn.
11. Lương Ngọc Lũy, 2004. Đặc điểm mưa bão, áp thấp nhiệt đới ở khu vực Bình Định. Tổng
cục Khí tượng Thủy văn, No.10: 48-50.
12. Từ Mạo (Chủ nhiệm), 1991. Nghiên cứu chiến lược phòng tránh và hạn chế thiệt hại do
bão lũ gây ra ở nước ta đặc biệt là các tỉnh ven biển miền Trung. Đề tài nghiên cứu. Ban
Chỉ đạo Phòng chống Bão lụt Trung ương, 48 trang.
13. Nguyễn Duy Sơn (Chủ nhiệm), 1991. Nghiên cứu các biện pháp bảo vệ phòng tránh thiệt
hại do lũ bão gây ra đối với các công trình giao thông cho các tỉnh miền Trung. Đề tài
nghiên cứu. Bộ GTVT và BĐ, 72 trang.
14. Lương Thị Vân, 2009. Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển bền vững và định
hướng thích nghi ở TP. Quy Nhơn. Hội thảo đối thoại, học hỏi và chia sẻ về ứng phó biến
đổi khí hậu, 27/02/2009, Quy Nhơn.