· 1 mỞ ĐẦu . 1. lý do ch. ọ. n . đề. tài. thế kỷ xxi, đất nước việt nam...
TRANSCRIPT
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI, đất nước Việt Nam đã buớc sang một thời kỳ mới - thời
kỳ xây dựng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một đất nước công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải được xây dựng đồng thời với một nền văn minh, văn hóa
phát triển cao. Để có thể xây dựng một xã hội văn minh công nghiệp, một xã
hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, công tác nghiên cứu lý
luận được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách trong sự nghiệp đào tạo âm nhạc
nói chung và từng chuyên ngành nói riêng.
Trong nhiều luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ và các công trình nghiên
cứu cấp Bộ, cấp cơ sở, bước đầu đã có nhiều nhà khoa học đi sâu vào nghiên
cứu các khía cạnh của giáo dục học âm nhạc và tâm lý học âm nhạc.
Trên thế giới, các nghệ sỹ biểu diễn cũng như các nhà sư phạm về nghệ
thuật biểu diễn kèn Dăm kép đã có rất nhiều công trình lý luận về lĩnh vực
này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên số lượng công trình nghiên cứu
chuyên sâu về lĩnh vực này ở Việt Nam vẫn còn hạn chế. Để có thể nâng cao
chất lượng của công tác đào tạo nghệ sỹ biểu diễn, chúng ta còn cần rất nhiều
công trình nghiên cứu khác nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào
tạo âm nhạc tại Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đã
từ lâu, chúng ta có một quan niệm sai lầm trong việc đồng nhất “lý thuyết âm
nhạc” và “lý luận âm nhạc”. Lý luận âm nhạc bao hàm một ý nghĩa rộng lớn
hơn, trong đó lý luận về nghệ thuật biểu diễn chiếm một vị trí rất quan trọng
trong đời sống âm nhạc thế giới. Các vấn đề được đặt ra trong đầu thế kỷ XXI
như: kinh tế tri thức, học tập suốt đời, vai trò của giáo dục – đào tạo trong
việc phát triển nguồn nhân lực cho xã hội…trở thành những vấn đề bức xúc
và cấp thiết đối với Việt Nam. Chính vì những nguyên nhân nói trên, công tác
2
nghiên cứu lý luận về nghệ thuật biểu diễn, về Mỹ học âm nhạc, Tâm lý học
âm nhạc cũng như Giáo dục học âm nhạc trở thành một vấn đề cần được các
cấp lãnh đạo ngành Văn hóa – Nghệ thuật quan tâm và đầu tư thích đáng. Là
một giảng viên lâu năm tại các Nhạc viện ở Việt Nam, mặc dù còn có nhiều
hạn chế về kinh nghiệm và hiểu biết, nhưng trước nhu cầu cấp bách trong sự
nghiệp phát triển nền âm nhạc nước nhà nên tác giả mạnh dạn đi vào nghiên
cứu đề tài: “Nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép ở Việt Nam”
Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Về Nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép trên phạm vi thế giới đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu của các Giáo sư các Nhạc viện nổi tiếng:
• Tại Liên Xô cũ: (Moscow, St. Peterburg)
• Tại Đông Âu: (Bungari, Hungari, Tiệp Khắc, Đông Đức)
• Tại Tây Âu: (Pháp, CHLB Đức, Anh Quốc)
• Tại Bắc Mỹ: (Mỹ, Canada)
Để có thể phát triển được ngành dăm kép, các quốc gia trên thế giới đã
thành lập “Hiệp hội Dăm kép thế giới”, nơi thường xuyên tổ chức các hội
nghị và hội thảo quốc tế về kèn Dăm kép. Hiệp hội này đã có những trợ giúp
về nghề nghiệp cũng như về tài chính nhằm hỗ trợ các nghệ sỹ trẻ của các
chuyên ngành kèn Dăm kép phát triển, việc trợ giúp này được tiến hành hàng
năm bao gồm từ sách, nốt nhạc, nhạc cụ, dăm kèn.... cho đến những nghiên
cứu mới nhất về các vấn đề của nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép.
Tại Việt Nam, đã có một số những đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này.
Năm 1997 có đề tài “Một số vấn đề về phương pháp biểu hiện của kèn gỗ
Giao hưởng tại Việt Nam” của nghiên cứu sinh Nguyễn Phúc Linh đã được
bảo vệ thành công tại Viện Văn hóa – Nghệ thuật. Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả đã đề cập tới các vấn đề lịch sử, sự du nhập, phương pháp
3
diễn tấu và phương pháp biểu hiện của kèn gỗ Giao hưởng tại Việt Nam,
trong đó bao hàm đại cương về nghệ thuật biểu diễn của Flute, Hautbois,
Clarinette và Basson.
Luận văn cao học của Thạc sỹ Ngô Phương Đông – Giảng viên kèn
Hautbois, Phó trưởng khoa Kèn – Gõ, Học viện âm nhạc Quốc Gia Việt nam
có tiêu đề: “ Một số vấn đề về giảng dạy kèn Hautbois tại Nhạc viện Hà Nội”;
Luận án TS của tiến sĩ Ngô phương Đông “Đào tạo âm nhạc thế kỷ XX cho
kèn Hautbois tại HVANQGVN”, Luận án TS của Tiến sĩ Vũ đình Thạch –
chuyên ngành kèn Clarinet.....
Các tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học về phương pháp diễn
tấu và phương pháp biểu hiện, về phương pháp sư phạm cũng như lịch sử
chuyên ngành của ngành Kèn – Gõ nói chung và của các chuyên ngành kèn
Dăm kép nói riêng được tổ chức tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện âm
nhạc Quốc Gia Việt nam) và Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm qua.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các tài liệu, các luận án, luận văn
của các Tiến sỹ và Thạc sỹ các ngành Kèn hơi khác trong nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đề cập tới một số vấn đề sau:
• Một vài nét về lịch sử chuyên ngành kèn Dăm kép.
• Sự phát triển mang tính chuyên nghiệp trong đào tạo các chuyên
ngành kèn Dăm kép từ 1956.
• Tác động của Hệ thống Xã hội chủ nghĩa đối với bước nhảy vọt
trong đào tạo chuyên ngành kèn Dăm kép (tài liệu, giáo trình, tác phẩm,
4
phương pháp giảng dạy, việc tự xây dựng giáo trình – giáo án Việt Nam, việc
xây dựng đội ngũ giảng viên cho tương lai…)
• Quá trình phát triển chuyên ngành kèn Dăm kép tại Việt Nam.
• Xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp diễn tấu các chuyên
ngành kèn Dăm kép.
• Thế nào là xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp diễn tấu
các chuyên ngành kèn Dăm kép?
• Một số vấn đề trong phương pháp diễn tấu kèn Dăm kép.
• Những tiêu chí nhằm xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp
diễn tấu kèn Dăm kép.
• Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm
kép tại Việt Nam.
• Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các chuyên
ngành kèn Dăm kép tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đề cập tới một số nét về lịch sử chuyên ngành kèn Dăm kép, qua
đó tìm hiểu về sự phát triển mang tính chuyên nghiệp trong đào tạo các
chuyên ngành kèn Dăm kép từ 1956 tại Việt Nam. Việc tìm hiểu lịch sử phát
triển của ngành kèn Dăm kép sẽ giúp cho việc xây dựng nền tảng kỹ thuật
trong phương pháp diễn tấu. Từ đó, có những giải pháp phát triển cho tương
lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài còn đề ra những tiêu chí nhằm xây
dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp diễn tấu kèn Dăm kép. Từ đó, tác
giả công trình đề cập tới các giải pháp nhằm đổi mới về phương pháp giảng
dạy nhằm nậng cao chất lượng đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép tại
Việt Nam.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
• Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải.
• Phương pháp nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Các phương pháp nghiên cứu âm nhạc trên nhìn từ góc độ âm nhạc nhạc học,
mỹ học âm nhạc,Tâm lý học âm nhạc, Giáo dục học âm nhạc….
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Luận án sau khi hoàn thành với sự chỉ dẫn của các Giáo sư và các bạn
đồng nghiệp sẽ có một ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng nền lý luận của
nghệ thuật biểu diễn nói chung và nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép nói
riêng. Đây là một vấn đề có một tầm quan trọng trong lĩnh vực giáo dục âm
nhạc trong nước và thế giới hiện nay và đặc biệt đối với sự nghiệp giáo dục
các chuyên ngành kèn Dăm kép tại Việt Nam.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án sẽ có những đóng góp cụ thể sau:
• Tài liệu, giáo trình, tác phẩm các chuyên ngành kèn Dăm kép.
• Phương pháp giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép.
• Việc tự xây dựng giáo trình - giáo án tại Việt Nam.
• Tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các
chuyên ngành kèn Dăm kép tại Việt Nam…
7. Bố cục luận án
Mở đầu
Nội dung:
6
UChương 1U: Lịch sử hình thành và phát triển các chuyên ngành kèn Dăm kép
tại Việt Nam
UChương 2U : Quá trình phát triển kỹ thuật biểu diễn ở trình độ chuyên
nghiệp cao của các chuyên ngành kèn dăm kép UChương 3U: Nâng cao chất lượng biểu diễn và giảng dạy các chuyên ngành
kèn dăm kép
Kết luận và kiến nghị
7
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CHUYÊN NGÀNH
KÈN DĂM KÉP Ở VIỆT NAM
( Hautbois & Basson )
1.1. Một vài nét về lịch sử các chuyên ngành kèn Dăm kép
Khái niệm “Kèn dăm kép” được sử dụng trong luận án đề cập tới các
lĩnh vực thuộc họ hàng kèn Hautbois và họ hàng Basson. Trong lĩnh vực cấu
trúc nhạc cụ, phát âm, kỹ thuật biểu diễn cũng như phương pháp biểu hiện âm
nhạc, hai chủng loại nhạc cụ này có rất nhiều nét tương đồng. Chính vì vậy,
trên thế giới đã hình thành nên Hiệp hội kèn dăm kép Quốc tế. Lịch sử hình
thành và phát triển của hai loại kèn này gắn bó với nhau. Nhiều nhà nghiên
cứu đã cho rằng kèn Basson có xuất xứ từ họ hàng kèn Hautbois trước khi
hình thành kèn Bomhart và kèn Dulcian – những tiền thân của kèn Basson.
Chính vì lý do như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu lĩnh
vực “ Nghệ thuật biểu diễn kèn dăm kép tại Việt Nam”, một vấn đề còn hết
sức mới mẻ trong lý luận chuyên ngành Kèn.
1.1.1. Một số đặc điểm chung
Để tìm hiểu về sự du nhập của kèn Dăm kép và để có được những tư
liệu về lịch sử kèn Dăm kép nhằm giúp cho việc đào tạo sau này, nhất là việc
mở mang thêm kiến thức về lịch sử chuyên ngành, chúng ta không thể không
nghiên cứu về quá trình ra đời và phát triển của các loại kèn Dăm kép tại
Châu Âu. Thông qua quá trình ra đời và phát triển của các loại kèn Dăm kép
tại Châu Âu, chúng ta càng hiểu rõ hơn sự du nhập của các loại kèn Dăm kép
vào Việt Nam và quá trình phát triển của nó trong nửa sau của thế kỷ XX.
8
Để có được những tư liệu chính xác, mang tính khoa học cao, chúng
tôi đã nghiên cứu và tham khảo nhiều giáo trình giảng dạy về môn Lịch sử
các chuyên ngành kèn Dăm kép. Bên cạnh đó, những cứ liệu được trích dẫn
trong cuốn “Từ điển Bách khoa âm nhạc” của Nhà xuất bản Lausanne and
Berner (Encyclopédie des sciences, art et métiers) và những tư liệu trong Thư
viện Quốc hội Mỹ (Library of Congress, Washington, DC) đã giúp cho chúng
ta có những cơ sở khoa học tin cậy nhất trong quá trình thực hiện đề tài này.
Kèn Dăm kép là những loại nhạc cụ thuộc nhóm kèn gỗ Giao hưởng.
Nhóm kèn gỗ Giao hưởng bao gồm Flute, Hautbois, Clarinette, Basson.
Trong đó ba loại kèn gỗ: Flute, Hautbois, Basson là ba chủng loại có xuất sứ
trên năm thế kỷ. Đây là những loại nhạc cụ cổ trong các loại nhạc cụ Giao
hưởng ngày nay. Chính vì vậy, âm nhạc thời kỳ Phục hưng (Renaissance) và
âm nhạc thời kỳ tiền cổ điển (Baroque) đã dành cho chúng những vị trí xứng
đáng. Cả 3 loại nhạc cụ này đã chiếm giữ vị trí quan trọng thời đó trong cả 3
dòng âm nhạc :
• Dòng âm nhạc dân gian.
• Dòng âm nhạc cung đình.
• Dòng âm nhạc tôn giáo.
Từ đầu thế kỷ XX tới nay, trước sự phát triển ở mức cao của kỹ thuật
và công nghệ sản xuất kèn gỗ, những yêu cầu phát triển về kỹ thuật đã đạt tới
đỉnh cao. Cùng với sự cải tiến đó, những yêu cầu của các nghệ sỹ sáng tác về
việc gánh vác của bộ gỗ trong dàn nhạc Giao hưởng cũng tăng lên. Ngày nay,
bộ gỗ có một vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc đảm nhiệm các
phần solo của dàn nhạc mà còn tạo nên được những màu sắc mới cho âm nhạc
Giao hưởng đương đại.
9
Chúng ta cũng cần phải điểm lại lịch sử của các chuyên ngành kèn dăm
kép trước khi tìm hiểu chúng du nhập vào Việt nam từ bao giờ và bằng cách
nào…
1.1.2. Khái quát về lịch sử phát triển kèn Hautbois (tiếng Pháp: Hautbois;
Đức: Hoboe; Ý: Oboe; Anh: Oboe)
Kèn Hautbois là nhạc cụ hơi bằng gỗ dùng Dăm kép và có âm sắc cao
(Soprano), là loại nhạc cụ được các nhà âm nhạc học cổ đại xếp chung vào
loại kèn gỗ Dăm kép, nhưng ở Tây Âu kèn Hautbois được phân biệt rõ từng
loại dựa vào đặc điểm của thân kèn (ống để thổi), dăm, các phím bấm...
Chúng ta không nên nhận định một loại nhạc cụ này trong dàn nhạc có
vị trí quan trọng và có ưu thế hơn hẳn một loại nhạc cụ khác, bởi mỗi loại
nhạc cụ có một chức năng và vai trò khác nhau trong dàn nhạc. Trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhạc cụ, bộ gỗ trong dàn nhạc được xây dựng trên
nền tảng lấy Hautbois làm chuẩn. Bởi vậy, nó xứng đáng có một vị trí quan
trọng trong sự hình thành và phát triển của bộ kèn gỗ Giao hưởng và cần được
nghiên cứu một cách khoa học và có hệ thống.
Kèn Hautbois ngày nay được cấu tạo bởi một ống mỏng bằng gỗ cứng
có độ dài khoảng 59 cm (đôi khi là ebonit, nhựa, kim loại và trong thời kỳ đầu
là bằng gỗ Hồng hoặc Hoàng Dương – đây là những loại cây ăn quả ), gồm
ba phần tách rời nhau và được nối ráp với nhau khi sử dụng. Kèn Hautbois có
ống trong hẹp, thẳng, rộng dần và mở ra ở loa, cong như hình nón (tùy theo
nhà sản xuất khi nó được chế tạo ra để thử nghiệm). Độ dài của ống có thể
làm thay đổi số lỗ bấm từ 16 - 20 lỗ, trong đó 6 lỗ nằm trực tiếp dưới ngón tay
và các lỗ còn lại được điều khiển theo một cơ chế vô cùng tỉ mỉ, phức tạp.
Hiện nay có ít nhất 4 hệ thống phím bấm cho Hautbois.
10
Kèn Hautbois phát âm từ hai lưỡi gà làm bằng sậy ghép vào nhau, thực
ra nó là một loài cây thân thảo bán nhiệt đới Arundo donax hay Arundo sativa
gồm hai mảnh đặt đối diện nhau được buộc bằng chỉ vào ống kim loại được
làm dẹp đầu, gọi là “staple” (đó là ống đồng để buộc lưỡi gà - hay còn gọi là
cùi dăm). Dăm nối vào với thân ống kèn nhưng không gắn chặt vào thân kèn
mà nó chỉ được cắm vào thân kèn khi nào thổi. Dăm kèn là bộ phận quyết
định toàn bộ chất lượng của âm thanh. Đầu dăm được cạo mỏng và hai mảnh
sậy sẽ rung, dao động khi thổi. Sử dụng và điều khiển dăm kèn để phát ra
được những âm thanh đẹp, chuẩn xác về cao độ và có sức truyền cảm là một
trong những tổng hợp các kỹ thuật rất khó cho người chơi kèn Hautbois.
Họ hàng của Hautbois soprano hay Hautbois treble in C gồm những
thành viên tiếng trầm hơn: Hautbois d’amore, thường cũng được gọi là
mezzo-soprano; English Horn (Cor Anglais) in F, vẫn thuộc nhóm tenor mặc
dù vẫn được gọi là Alto, Hautbois baritone, cũng in C nhưng thấp hơn
Soprano một octave ( quãng tám). Vài trường hợp đã được tìm thấy tại Pháp
như Soprano Military in Bb. Các loại Hautbois lớn hơn có loa hình quả lê,
miệng loa thu nhỏ lại (liebesfuss), nhưng không thấy loa thẳng. Dựa trên cơ
sở này, vài học giả cho rằng cần phải phân nhóm riêng trong họ Hautbois theo
loại loa kèn. (Xem phụ lục 1.1.1)
Thuật ngữ tiếng Ý “oboe da caccia” (được nghiên cứu bởi Sachs và
Bessaraboff, đó là một dạng loa mở và cong của Oboe tenor với những lỗ
khoan rộng) có thể do xuất phát từ công dụng của chiếc kèn lúc đi săn bắn,
mặc dù những nghiên cứu mới nhất có xu hướng làm giảm giả thuyết này.
Mặt khác, giả thuyết đó còn thiếu những bằng chứng xác thực. Tuy nhiên,
Bach chỉ viết cho “oboe da caccia” hay “taille” trong tác phẩm của ông mặc
dù có thể ông đã nghĩ đến chữ tenor (Oboe tenor) trong khi đó từ “corno
inglese” đã được Jommelli sử dụng khoảng đầu 1741.
11
Loại kèn Hautbois “d’amour” hay “d’amore” dường như người ta đặt
tên mà không hề tính đến cấu trúc hay nguồn gốc, xuất xứ ..., tên này được
dùng chung cho nhạc cụ thấp hơn quãng 3 thứ so với âm chuẩn và nó là kèn
dăm, đặc biệt liên quan đến cái loa hình quả bầu. Điều nàỳ có thể, vì hiệu quả
của âm sắc mềm dịu, mờ ảo hơn thực tế, đây là đặc tính cổ xưa của nhạc cụ
này. Do đó thuật ngữ “d’amore bell” hay “liebesfuss” được dùng bất kể cao
độ thực sự của nó nằm ở bậc nào của thang âm.
Tính năng âm nhạc nổi trội của kèn Hautbois đã đạt được bằng cách bỏ
pirouette ( vòng tròn nhỏ sát môi), như vậy cho phép môi điều khiển Dăm nhẹ
nhàng hơn và có âm vực rộng hơn, với một số những sửa đổi về thiết kế trong
ống, thay đổi kích thước và sắp xếp lại lỗ bấm đã cho phép sử dụng được hệ
thống chromatic ( hệ thống nửa cung) suốt hai quãng 8 bằng những clé (khóa)
“đòn bẩy” và “chữ thập”. Song song với việc cải tiến hệ thống ngón bấm, các
quan hệ về quãng và âm chuẩn của hai quãng 8 cũng được hoàn thiện và phát
triển. Chẳng hạn những việc thay đổi kích thước bên trong, giảm bớt tính
năng các lỗ bấm... dường như phù hợp và rất thuận lợi đối với những cấu tạo
kiểu ống ghép. Chúng ta cũng thấy tính tao nhã, quý phái, tính nghệ thuật của
kèn Hautbois thời đó qua những đường nét được trang trí và những đường
viền tỉ mỉ, kỹ lưỡng trên thân kèn.
Kèn Hautbois được hầu hết những trung tâm âm nhạc Châu Âu biết đến
rộng rãi vào đầu thế kỷ XVII (1671), người ta cho rằng Lully đã từng giới
thiệu trước đó trong vở “L’amour malade ” (1657). Trong thời kỳ cuối thế kỷ
XVII Hautbois đã xuất hiện ở Anh nhờ ảnh hưởng của Cambert, trong vở
nhạc kịch Calisto. Để chơi tác phẩm này, người ta đã mời những nhạc công
Hautbois nổi tiếng từ Pháp sang, trong số đó có Paisible, de Bresmes, Guiton
và Boutet. Hai năm sau khi trình diễn vở Calsto, Etherege đã sử dụng
“hautbois Pháp” trong vở “The Man of Mode” (Người đàn ông kiểu mẫu);
12
1867 vở Horse Grenadiers (Kỵ Binh Hoàng Gia) chấp nhận Hautbois và ba
năm sau nó xuất hiện trong những tổng phổ của Purcell, Swifter, Isis, Swifter
flow. Bức họa Academy of Armoury (Kho vũ khí Hàn lâm) của Randle
Holme (1688 – Anh) nổi tiếng. Từ năm 1960 tới khi mất, Purcell đã dùng
Hautbois trong tất cả những tác phẩm lớn của ông và đã viết ít nhất ba phần
đệm cho Hautbois solo được thừa nhận đặc điểm, bản chất của kèn Hautbois –
là tính trữ tình và sôi nổi trong “come ye sons of art away” (1694), tính suy
tư biểu cảm, vượt xa người cùng thời.
Cũng cùng thời kỳ đó, ba cuốn sách tiếng Anh chỉ dẫn về Hautbois đã
ược xuất bản: đ- Plaine và Easie Directions (Sơ đồ và những chỉ dẫn cụ thể), - The Sprightly Companion (Sổ tay vui vẻ), - The Art of Playing on the Hautbois (Nghệ thuật chơi Hautbois – 1697).
Với thông tin khá phong phú và rõ rệt về hình dáng và cách sử dụng
kèn Hautbois sơ khai, nhưng thật đáng tiếc khi biết quá ít về cách sử dụng
dăm, mặc dù đây là điều cần thiết phải nghiên cứu và xem xét. Cả về cấu trúc,
sự mềm mại, mảnh dẻ và vật liệu làm Dăm… Nói chung, qua những tài liệu
được minh họa, có thể thấy rằng loại Dăm thời bấy giờ, theo như chuẩn hiện
đại, phần nào giống về độ dài và khe hở (độ mở của miệng dăm). Sự mềm
mại, thư thái và êm ái trong âm sắc của kèn Hautbois được so sánh với những
âm thanh đẹp nhất của Flute. Các nhạc sỹ thời đó đã công nhận và ca ngợi kèn
Hautbois, từ đó dẫn đến sự chấp nhận rộng rãi và nhanh chóng trong khán
thính giả châu Âu.
Suốt thời kỳ này, Hautbois được chấp nhận hoàn toàn trong sự phát
triển cùng với dàn nhạc. Đầu tiên là đi đồng âm với dàn dây, nhưng chỉ một
thời gian rất ngắn sau đó, những âm thanh có sức truyền cảm tuyệt vời của
13
kèn Hautbois đã trở thành những âm hưởng solo của dàn nhạc. Trong hòa tấu
thính phòng, Hautbois nhanh chóng chứng tỏ vị trí giá trị của mình trong dàn
nhạc và còn khơi nguồn cảm hứng cho một vài trong số những tác phẩm kèn
gỗ hay nhất của mọi thời đại. Đầu những năm 1700 (thế kỷ XVIII) đã thấy
xuất hiện những cuốn sách hướng dẫn quan trọng đầu tiên ở lục địa Châu Âu
của Freillon Poncein (1700), J.M. Hotteterre (1707), Eisel (Erfurt, 1773) và
Minguet Yrol (Madrid, 1754) qua việc tái bản những bộ sách tiếng Anh.
Nửa đầu thế kỷ thứ XVIII là thời kỳ phát triển vững chắc của kèn
Hautbois. Phím phụ D# ở tay trái thường ít được sử dụng, phím kép “great”
vẫn còn mang tính trang trí trong nhiều năm. Hautbois Baroque, với hình
dáng chạm trổ có thắt ngẫng và loe ra ở trên đầu làm chúng ta hình dung rõ
ràng đó là pirouette của Shawm. (Xem phụ lục 1.1.2)
Kiểu giữa thế kỷ thứ XVIII chủ yếu là kèn Pháp, phần trang trí hình
tròn chuyển thành phần bầu nhỏ gần đỉnh có đôi chút phình ra. Một kiểu dáng
riêng của Anh, với thân thẳng hoàn toàn và hơi phình ở những khớp nối. Cuối
thế kỷ XVIII, kèn Hautbois trở lại với vòng tròn trang trí, mặc dù ít thanh nhã
hơn với loa hình nón. (Xem phụ lục 1.1.3)
Từ nửa sau thế kỷ thứ XVIII có những chứng cứ đầu tiên rất rõ ràng về
cách dùng Dăm. Ở vài viện bảo tàng, có những lõi dăm (cùi dăm) bằng thép
cùng với dấu tích của sậy được gắn vào; được ghi chú khoảng năm 1770
(Xem phụ lục 1.1.4)
Chúng ta có thể thấy những chiếc dăm kèn Hautbois được sử dụng
từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20 như sau:
UDăm của cuối thế kỷ 18 (h. a)U; - Dăm do Triebert chế tạo năm 1850 (h. b);
14
- Dăm được làm theo phương pháp của Pháp (h. c); - Dăm được làm theo phương pháp Vienna (h. d); - Dăm được làm theo phương pháp Mỹ (h. e).
(Xem phụ lục 1.1.5)
Thế kỷ thứ XIX và sau đó, mặc dù Hautbois hai phím vẫn còn sử dụng
và vẫn còn được chế tạo đến khoảng năm 1820 (ở đây cần lưu ý là sau những
thử nghiệm ban đầu, nước Anh đi chậm hơn sau các nước lục địa). Ở thế kỷ
thứ XIX là thời kỳ cơ giới hóa Hautbois. Giữa 1800 - 1825, tám phím mới
xuất hiện, trước hết là thay thế cho những thế bấm đã được chấp nhận, hoặc
cải thiện âm chuẩn; nhưng sau đó chủ yếu là tạo sự thuận lợi cho các ngón
bấm. Hầu như, chúng ta không có những ghi chép về ngày bắt đầu sử dụng
của các phím trên, nhưng thứ tự xuất hiện của chúng như sau: - Phím “Octave” hay “speaker” thường xuyên được tìm thấy như một sự bổ
xung hiển nhiên cho hai loại kèn phím bấm đã được ưa chuộng. - Phím G# cho ngón út trái, phụ thêm nhưng không cần thiết thay thế lỗ kép thứ
ba. - Một phím hổng giữa ngón 4 và ngón 5 tạo ra F#. Phím này được mở bằng
ngón út phải và mặc dù bất tiện, vẫn được dùng cho đến khoảng 1840 khi nó
được thay thế bằng khoen mở chuẩn hoặc “mắt kính” - thiết bị tự cải cách
của Boehm cho sáo và được dùng cho cả Hautbois và Clarinette. - Một phím đóng để loại trừ thế bấm bất định C#. - Một phím đóng F như của sáo cùng thời, được chế tạo giữa lỗ 5 và 6. - Một phím đóng Bb ở đoạn ráp nối trên. - Một phím đóng C# cũng ở phần ráp nối trên. - Một phím mở hình ống dài bao bọc một trong các lỗ hổng ở loa và mở rộng
tầm âm xuống tới nốt B.
15
Với hệ thống này lỗ thứ hai ở loa thường không được sử dụng nhưng
cũng không hẳn là luôn luôn bị bỏ quên. Ngón cái tay trái hoặc ngón trỏ tay
phải, đôi khi cả hai, đã được sử dụng để điều khiển miếng đệm nốt Bb, nốt C
cho ngón trỏ phải hoặc ngón đeo nhẫn tay trái và phím loa dùng cho hoặc
ngón út tay trái hoặc ngón cái tay trái. Tuy nhiên trong tất cả những bổ xung
đó, nốt C# thường được dùng cho ngón út phải để cho thấy nhiều sự đa dạng.
Từ khi phím che một lỗ nhỏ được đặt dưới phím C, cần vài thiết bị có thể có
một lực đơn đóng nó và đồng thời mở một cái khác để tạo âm C#, cũng như
cho phép C bị đóng độc lập ở nốt trên loa. Tuy nhiên trên vài kèn Đức giữa
thế kỷ, C# được định vị ở ngón út tay trái với một đòn bẩy xen giữa để đóng
nốt C, và trên những mẫu về sau cả hai thế bấm đều được sử dụng. (Xem phụ
lục 1.1.6)
Như vậy, một kèn Hautbois được trang bị đầy đủ như được biết trong
những năm cuối đời của Betthoven đã có 14 lỗ âm thanh và một phím
“speaker” (octave) và đã có hệ thống nửa cung (chromatique) đầy đủ từ B đi
lên trên mà không hề dùng đến thế bấm hình cái nĩa. Cũng trong thời gian
này, có những người chơi chuyên nghiệp bằng thế bấm đặc biệt và kỹ thuật
môi, mở rộng phạm vi lên đến F’’’ hay đặc biệt tới A’’’. Năm 1825, Josef
Sellner của dàn nhạc hoàng gia Vienne đã thêm vài miếng đệm đôi và như
vậy ông tạo ra cái được gọi là “Hautbois phím 13”, loại tiên tiến nhất lúc đó.
Ba chiếc kèn Hautbois của thế kỷ 19:
- Kèn Hautbois do S.Koch chế tạo tại Vienne năm 1825 (hệ thống 13
khóa);
- Kèn Hautbois do Triébert chế tạo tại Paris năm 1860 kiểu Barret;
- Kèn Hautbois do L-A.Buffet chế tạo tại Paris theo hệ thống Boehm
năm 1844. (Xem phụ lục1.1.7)
16
1.1.3. Chi tiết việc chế tạo các khóa kèn Oboe
(h.a) mặt phẳng nửa lỗ trong những kèn Oboe được Triébert chế tạo
sớm nhất; (h.b) mặt phẳng nửa lỗ của kèn Oboe được Brod chế tạo năm 1839;
(h.c) chuyển động của bề mặt ngón cái trong kèn Oboe Triébert; (h.d) chuyển
động của chuyển nốt si giáng và đô thăng của kèn “conservatoire-Triébert”
gồm cả mặt phẳng nửa lỗ (Xem phụ lục 1.1.8)
1.1.4. Khái quát về lịch sử phát triển kèn Basson (Pháp: Basson; Anh:
Bassoon; Đức: Fagott; Italy: Fagotto)
Basson thuộc họ kèn gỗ. Trong nhiều tư liệu về lịch sử kèn Basson, các
nhà khoa học đã khẳng định Basson có họ hàng với gia đình kèn Hautbois, có
nghĩa là thuộc họ kèn “Dăm” và còn là kèn “Dăm kép”. Trong dàn nhạc Giao
hưởng hiện nay, Basson thường nắm vị trí “nam cao” và “nam trầm” trong sự
phân bổ bè của bộ gỗ, bao gồm: Basson, Contre Basson (còn gọi là Double
Basson).
Basson là loại nhạc cụ có khả năng diễn tả rất rộng, có nhiều màu sắc
âm thanh đa dạng, phong phú; Chính vì vậy, đây là một thành viên rất “hữu
ích” trong dàn nhạc. Ngày nay, kèn Basson thường có âm vực từ contra B tới
E1 và cũng giống như Hautbois, Basson là loại nhạc cụ không phải dịch
giọng. Kèn Basson sử dụng khóa Pha & khóa Đô dòng 4 (còn gọi là khóa Đô
giọng nam trung); Đôi khi trong tác phẩm, các nhạc sỹ sáng tác những nốt ở
những âm vực cao nhất trong kèn, lúc đó người ta phải sử dụng cả khóa Sol…
Kèn Basson có họ hàng rất gần gũi với kèn Hautbois, chúng ta có thể tham
khảo những hình ảnh được trích trong “Từ điển bách khoa về Nhạc khí học”
của Đại học Havard. (Xem phụ lục 1.1.8)
Trong lịch sử phát triển Kèn Basson, sự gia tăng những phím bấm
thường thể hiện cho việc phát triển về cấu trúc của nhạc cụ. Trong hệ thống
17
kèn Basson Đức, lúc đầu chỉ có 5 phím bấm (Theo J.B de La Bordes trong
“Essai sur la Musique” – 1780). Cho đến khi hình thành loại kèn Basson kiểu
mới “Dulcian” hay còn gọi là Chorist – Fagott thì mới xuất hiện phím bấm
thứ sáu. Kèn Basson hiện đại là sự pha trộn giữa hai hệ thống Basson Đức và
Pháp. Đó là hệ thống “Heckel” của Đức và “Buffet” của Pháp. Những yếu tố
ưu việt của cả hai hệ thống được lưu lại trong việc sản xuất loại nhạc cụ mới,
hiện đại. Trên thế giới ngày nay, hệ thống Basson Đức đang chiếm vị trí ưu
thế tuyệt đối. Ngay trên nước Pháp cũng có nhiều nghệ sỹ chơi kèn Basson hệ
thống Đức.
Trong lĩnh vực chế tạo nhạc cụ, nhiều nhà chế tác đã sử dụng những
loại gỗ lấy từ cây ăn quả. Tuy nhiên sau này, các nhà sản xuất Đức và Hoa Kỳ
đã chọn những loại gỗ cứng hơn một chút, đó là gỗ “Hoa hồng” lấy từ Brazin
(Brazinlian Rose Wood). Nhiều nhà sản xuất hiện nay đang đi tìm những
hướng nghiên cứu mới ở phía bắc Ấn Độ, nơi loại gỗ Hoa hồng có độ cứng
thích hợp nhưng vẫn có độ mềm và đàn hồi cần thiết cho việc chế tác nhạc cụ.
Về công nghệ ngâm tẩm gỗ trong nhiều thế kỷ qua vẫn là những bí quyết
nghề nghiệp mà các nhà chế tác không thể truyền thụ lại cho ai ngoài những
người thừa kế sự nghiệp.
Triển lãm về kèn Basson chế tác tuyền gỗ được Lecompte tổ chức tại
Paris năm 1889, sau đó người ta thường dùng loại kèn Basson có xuất sứ từ
dàn Quân nhạc Anh quốc. Những kèn Basson được chế tác ngày nay đa phần
được sản xuất tại vùng núi của Đức và Áo. Trước chiến tranh thế giới lần thứ
II, người ta thường hong khô gỗ 12 năm trước khi sản xuất. Tại Bắc Mỹ,
người ta đã thể nghiệm sản xuất các loại kèn Basson bằng chất dẻo. Những
nhạc cụ này có âm sắc khá hay, tuy nhiên những nhạc cụ đích thực vẫn là
những nhạc cụ được sản xuất bằng gỗ và làm bằng tay. Để có thể mua được
một chiếc kèn Basson Đức hiệu “Heckel” người mua phải đặt trước tới 8 hoặc
18
9 năm. Hệ thống những lỗ khoan trên thân kèn và âm chuẩn của nó quyết định
đến chất lượng nhạc cụ. Hệ thống những lỗ khoan đó có thể được bấm bằng
tay hoặc bằng những nắm đậy bằng kim loại được phủ da. Giá tiền của kèn
Basson theo truyền thống đắt gấp nhiều lần so với các loại kèn khác.
Kèn Basson dài khoảng 134cm, được chia ra làm 4 khúc, một vòi và
dăm kèn. Độ dài tổng cộng là 254cm, đường kính của đường ống chỗ hẹp
nhất là 4mm, chỗ rộng nhất là 39mm. Trên phần nối của hai ống cuối thân kèn
có một đoạn nối bằng kim loại hình chữ U. Nối với thân nhỏ nhất của kèn là
một chiếc vòi hình chữ “S” được chế tạo bằng kim loại. Một đầu vòi được
cắm vào trong thân kèn, còn đầu kia dùng để cắm dăm kèn. Khi chơi kèn,
nhạc cụ được bắt chéo qua thân, trọng lượng của kèn được đỡ bởi một chiếc
dây vòng qua cổ hoặc vai. Đôi khi trong tư thế ngồi, người ta còn có thể đeo
kèn bằng cách lồng dây đeo dưới chỗ ngồi.
Như những nhà phối khí đã từng nhận định, âm sắc của kèn Basson
thường có giọng mũi. Đó là cách hiểu theo âm sắc của Basson Pháp. Âm sắc
của Basson hệ thống Đức mềm mại, đẹp và mượt gần với âm sắc của
Violoncelle và âm sắc kèn Cor. Do cách cấu tạo của kèn, một số nhạc cụ ban
đầu có những âm nghe hơi hài hước. Đây cũng là một điều may mắn cho các
nghệ sỹ kèn Basson sau này, bởi nhiều nhạc sỹ lại muốn khai thác khía cạnh
này.
Trong những năm gần đây, một số nhà chế tác kèn Basson còn có ý
định cấu trúc thêm nốt trầm và một số các phím bấm mới phục vụ cho kỹ
thuật láy âm. Trong 50 năm gần đây, hệ thống Basson Đức đã chiếm ưu thế
trong việc sản xuất những nhạc cụ có chất lượng cao trên thế giới. Ba nhãn
hiệu kèn Basson nổi tiếng nhất thế giới hiện nay đều thuộc hệ thống các nhà
sản xuất của Đức: Heckel, Puckner và Schreiber. Sau đó mới tới sản phẩm
19
của Mỹ, đó là: Fox. Ngày nay bên cạnh những chiếc kèn Fox bằng gỗ, chúng
ta còn thấy xuất hiện cả những cây kèn bằng chất dẻo nữa. Chất lượng âm
thanh của kèn Basson phụ thuộc vào chất lượng nhạc cụ, tuy nhiên vai trò của
dăm kèn cũng rất quan trọng.
Cũng giống như kèn Hautbois, Basson cũng là loại kèn Dăm kép. Dăm
kèn Basson được chế tác từ một loại sậy có xuất sứ ở miền nam nước Pháp,
Italie và trung Mỹ. Do kết quả của sự hợp tác Việt – Pháp, tại Học viện âm
nhạc quốc gia Việt Nam đã trồng thành công khóm sậy Pháp. Đã thu hoạch
trong năm 2004 và bước đầu đã thu được những kết quả rất khả quan trong
việc chế tạo dăm kèn Basson tại Việt Nam bằng chính những khóm sậy Việt
Nam trồng được.
1.2. Sự du nhập và phát triển của kèn Dăm kép tại Việt Nam
Khi nghiên cứu về nghệ thuật biểu diễn các nhạc cụ phương Tây tại Việt
nam, điều đầu tiên chúng tôi muốn đề cập là sự du nhập của loại nhạc cụ này
vào Việt nam. Lịch sử phát triển của kèn dăm kép – tức họ hàng kèn Hautbois
và Basson chỉ được phân tích một cách khoa học khi đặt trên nền tảng du
nhập vào cuộc sống âm nhạc bản địa. Mặc dù lịch sử phát triển của kèn dăm
kép đã có tới hơn 5 thế kỷ trên thế giới nhưng nó mới chỉ được du nhập vào
Việt nam gần một thế kỷ và thực sự phát triển trên con đường chuyên nghiệp
hơn nửa thế kỷ qua.
Bối cảnh du nhập và phát triển của kèn dăm kép phải được xem xét trong
quá trình du nhập và phát triển của ngành kèn nói chung.
1.2.1. Sự du nhập của kèn hơi nói chung và kèn Dăm kép nói riêng vào
Việt Nam
Ngày 11 tháng 11 năm1918 dàn nhạc kèn hơi đầu tiên của Việt Nam
được thành lập do ông Bùi Thanh Vân tổ chức và sáng lập, trực thuộc Nhà
20
binh tòa Khâm sứ Trung kỳ ở Huế (Musique Indigène de la Résidence
Supérieure de l’Annam à Hue). Nhạc trưởng đầu tiên người Pháp là Traineau
(chỉ huy dàn nhạc). Dàn nhạc gồm 64 nhạc công ở ba bộ: bộ gỗ, bộ đồng và
bộ gõ. Hai nhạc công Hautbois đầu tiên của Việt Nam chính là thành viên của
dàn nhạc này là các ông Nguyễn Hữu Hiệp (thổi solo) và ông Hoàng Quế.
Năm 1919 (Khải Định năm thứ ba) dàn nhạc kèn hơi trở thành dàn nhạc
kèn hơi riêng của vua Khải Định (Musique de la Garde Impérial) chuyên phục
vụ nghi lễ do triều đình tổ chức. Dàn nhạc lúc này do Thi độc học sĩ Trần Văn
Liên phụ trách và chỉ huy. Dàn nhạc lúc này thường chơi quốc ca Pháp, Quốc
ca Nam triều và nhiều bản nhạc của Việt Vam và quốc tế. Dàn nhạc có đi diễn
ở Hà Nội, Sài Gòn và đặc biệt còn tham gia biểu diễn âm nhạc ở hội chợ
Quốc tế tổ chức ở Paris mùa xuân năm 1931 và đã đoạt huy chương vàng liên
hoan âm nhạc bao gồm các nước thuộc địa của Pháp do Pháp tổ chức.
Các họat động của dàn nhạc kèn hơi Trung bộ:
- Năm 1922 biểu diễn ở nhà đấu sảo Hà Nội (Cung văn hóa Hữu nghị
bây giờ).
- Năm 1930 diễn ở Sài Gòn (khánh thành đường sắt).
- Năm 1931 Việt Nam có dàn nhạc kèn hơi đầu tiên đi biểu diễn quốc tế
tại hội chợ Paris – Pháp. Cũng trong năm này, dàn nhạc được đổi tên thành
dàn nhạc kèn hơi Nam triều (Musique de la Garde Impérial), do nhạc trưởng
Fournter chỉ huy. Tính từ 11 tháng 11 năm 1918 đến 9 tháng 3 năm 1945
(Ngày Nhật đảo chính Pháp), các nhạc trưởng sau đây đã chỉ huy dàn nhạc
kèn của Việt Nam:
- Traineau; Ribé; David; Colombo; Fournier Clément; Lebail và Đinh
ngọc Liên.
Sau đó dàn nhạc kèn hơi được đổi tên thành dàn nhạc kèn hơi chính
phủ Trần Trọng Kim, do Phạm Văn Minh chỉ huy.
21
Dàn nhạc kèn hơi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Thừa Thiên
- Huế. Sau cách mạng tháng Tám, dàn nhạc kèn hơi lấy tên là Ban âm nhạc
Trung bộ, chuyên biểu diễn phục vụ các buổi nghi lễ, dạ hội, phục vụ quân
đội, công an, tự vệ chiến đấu; Phục vụ các nhiệm vụ chính trị khác như: phục
vụ phong trào đẩy mạnh sản xuất cứu đói, phục vụ giảm tô, giảm tức, nam nữ
bình quyền; Tuyên truyền phổ biến âm nhạc cách mạng, xây dựng phong trào
ca múa nhạc quần chúng… Ngày 2 tháng 9 năm 1945 dàn nhạc kèn được vinh
dự phục vụ tại quốc khánh lịch sử đầu tiên tại quảng trường Ba Đình, Hà nội.
Tháng 11 năm 1946 ban nhạc kèn hơi Trung bộ chuyển ra vùng tự do đi
kháng chiến. Năm 1950 được Trung ương điều động lên chiến khu Việt Bắc
biểu diễn phục vụ các chiến sỹ bộ đội và dân công trong các chiến dịch như:
Chiến dịch Biên giới (1950), chiến dịch Hòa Bình (1951), chiến dịch Tây Bắc
(1952) và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954). Ngoài ra, ban nhạc kèn
hơi còn biểu diễn phục vụ các ngày lễ lớn của Đảng và Chính phủ, phục vụ
công tác đối ngọai của Đảng, Chính phủ và các công tác chính trị khác. Ngày
11 tháng 2 năm 1951 ban nhạc được vinh dự phục vụ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954 dàn nhạc kèn hơi do đồng chí Đinh ngọc Liên
chỉ huy vào tiếp quản thủ đô Hà Nội. Ngày 13 tháng 12 năm1954 dàn nhạc
được chuyển sang Bộ Ngoại giao và có tên gọi Đoàn nhạc đặc biệt thuộc Bộ
Ngoại giao, với các nhiệm vụ:
- Phục vụ các buổi nghi lễ lớn.
- Tiếp đón các phái đòan ngọai giao.
- Lễ trình quốc thư của đại sứ các nước…
Năm 1959, nhà hát giao hưởng - hợp xướng - nhạc vũ kịch Việt Nam
được thành lập do ông Dương Quang Thiện làm Giám đốc. Dàn nhạc được
22
chuyên gia người Triều Tiên Thôi Long Lân chỉ huy và dàn dựng. Dàn nhạc
có tới 114 diễn viên, hoàn chỉnh 4 quản. Như vậy lần đầu tiên ở Việt Nam hai
loại kèn Hautbois và Fagotte chính thức có mặt trong dàn nhạc Giao hưởng.
Dàn nhạc lúc đó có 3 Hautbois, 1 Cor Anglais và 3 Fagotte.
Từ khi kèn Hautbois và Basson được du nhập vào nước ta, nó đã đóng
vai trò quan trọng trong nghệ thuật biểu diễn âm nhạc. Sự phát triển của nền
âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện cho kèn Hautbois &
Basson có mặt ở hầu hết trong các dàn nhạc từ Trung ương đến địa phương.
Không chỉ tăng về số lượng, mà chất lượng nghệ sỹ, giảng viên kèn Hautbois
& Basson cũng ngày càng cao hơn.
Vai trò kèn Hautbois & Basson ngày càng được khẳng định khi nó
không những góp mặt trong dàn nhạc Giao hưởng để trình diễn những tác
phẩm âm nhạc kinh điển thế giới và những tác phẩm khí nhạc Việt Nam mà
nó còn được biết đến là những nhạc cụ phương Tây có âm sắc đặc biệt để thể
hiện rất có hiệu quả các tác phẩm âm nhạc truyền thống Việt Nam.
1.2.2. Một số nét về tính chuyên nghiệp của nghệ thuật biểu diễn kèn
Dăm kép giai đoạn trước năm 1956 (Hautbois & Basson)
Về tính chuyên nghiệp của nghệ thuật biểu diễn kèn Hautbois &
Basson giai đoạn trước năm 1956 đã có nhiều nhà khoa học bàn cãi về vấn đề
này. Theo các tài liệu lịch sử có được, riêng về tài liệu học tập và giảng dạy
đã vô cùng thiếu thốn, ảnh hưởng của dàn nhạc nhà binh đối với nghệ thuật
diễn tấu kèn Hautbois & Basson cũng như các loại kèn khác là rất rõ rệt. Nói
về thời kỳ đầu của lịch sử kèn Hautbois & Basson ngày nay chúng ta cũng
không nên phân tích quá chi tiết về những yếu kém của nó. Tuy nhiên tính
không chuyên nghiệp trong biểu diễn kèn Hautbois & Basson là điều chúng ta
không thể phủ nhận.
23
Một số những điều tốt đẹp và những yếu kém mà ngày nay chúng ta có
thể kế thừa, đó là:
Những cố gắng phát âm chuẩn xác về cao độ, (chúng ta cũng phải thừa
nhận rằng các ông thầy nhà binh Pháp thời đó tuy không có những tính
chuyên nghiệp cao nhưng cũng đã được thừa kế phương pháp sư phạm của
nền âm nhạc Pháp).
Những cố gắng có được sự chính xác về nhịp điệu và tiết tấu trong mỗi
một bản nhạc. Điều này chúng ta có thể thấy rõ hơn trong các ngành kèn phổ
cập hơn như kèn Trompette, Clarinette... Các “Cụ” thường dạy bảo con cháu
bằng roi vọt khi chúng không chơi chính xác nhịp điệu và tiết tấu của bản
nhạc. Sự nghiêm khắc này có trái với nguyên tắc sư phạm của chúng ta ngày
nay, tuy nhiên, những điều các cụ dạy thường được người đời sau “khắc cốt-
ghi xương”.
Nhìn chung so với âm sắc của các nghệ sỹ kèn Hautbois & Basson
ngày nay, âm sắc của thời kỳ đó mang nhiều tính quân nhạc, cứng rắn, thiếu
sự mềm mại, truyền cảm hơn. Điều này, ngày nay chúng ta có thể thông cảm
bởi nền âm nhạc cổ điển – Bác học ở Việt Nam cũng mãi tới nửa sau thế kỷ
XX mới được hình thành cùng với sự ra đời của Trường âm nhạc Việt Nam -
1956 (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam).
1.2.3 Âm sắc và sức thể hiện hình tượng âm nhạc của các loại kèn dăm
kép
a) Những đặc tính chung
Âm sắc và sức thể hiện hình tượng âm nhạc của các loại kèn Dăm kép
rất phong phú và đa dạng. Trong âm nhạc cổ điển phương Tây, ngoài nhiệm
vụ solo trong dàn nhạc, đây còn là nhóm nhạc cụ rất giàu có về màu sắc (xem
24
giao hưởng “Thế giới mới” của Dvorak và “Bản giao hưởng kỳ dị” của
Berlioz)…
Đối với việc thể hiện các làn điệu dân ca các dân tộc Việt Nam và các
tác phẩm của các nhạc sỹ Việt Nam, âm sắc và sức thể hiện của kèn dăm kép
đặc biệt thích hợp với dân ca các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Việt Bắc, Khơ
me Nam bộ…
b) Âm sắc và sức thể hiện âm nhạc của các loại kèn Dăm kép
• Hautbois:Âm sắc vang ấm ở âm khu trầm, mượt mà êm dịu ở âm
khu trung, lóng lánh, chói lọi ở âm khu cao.
• Hautbois d’amour: Âm sắc mơ màng, xa xôi, giàu tình cảm và
hoang dã.
• Cor anglais: Âm sắc trầm ấm, tình cảm, tâm tình.
• Basson: Âm sắc trầm ấm, dịu dàng, buồn man mác, đôi khi đến
đau thương. Có những lúc thể hiện rất tốt chất bi hùng, rùng rợn và cũng có
lúc lại thể hiện sự hài hước, dí dỏm và tinh nghịch trong các phim hoạt hình…
• Contrebasson: Âm sắc rất trầm và nặng nề, đe dọa, mang tính
kịch rất cao…
1.2.3. Sự phát triển mang tính chuyên nghiệp trong đào tạo các chuyên
ngành kèn Dăm kép
Mặc dù kèn Hautbois & Basson đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX nhưng yếu tố chuyên nghiệp trong nghệ thuật diễn tấu xuất hiện
muộn hơn. Ngày nay chúng ta càng hiểu rõ rằng trong thời kỳ đầu, mặc dù
các nhạc công kèn Hautbois & Basson đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên yếu tố
giáo trình, chương trình, sự đào tạo đồng bộ các môn kiến thức âm nhạc... còn
nhiều hạn chế. Số lượng giảng viên tốt nghiệp trình độ cao từ các Nhạc viện
nổi tiếng ở Châu Âu cũng chưa có. Chính những điều này đã khiến cho mức
25
độ thành đạt của ngành kèn Hautbois & Basson mới chỉ dừng ở trình độ
nghiệp dư hoặc bán chuyên nghiệp.
Bước sang nửa sau của thế kỷ XX, nhất là từ năm 1956, khi Trường âm
nhạc Việt Nam được thành lập, ngành kèn Hautbois & Basson nói riêng và
các nhạc cụ giao hưởng khác mới thực sự bước vào thời kỳ phát triển chuyên
nghiệp. Đây là một bước ngoặt lịch sử đưa nền âm nhạc Việt Nam trên nền
tảng của một đất nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên tiếp cận được với các
quốc gia có nền Công nghiệp phát triển. Đó cũng là lý do tại sao ngày nay,
chúng ta có một nền âm nhạc giao hưởng vào loại mạnh nhất trong khu vực
Đông Nam châu Á.
Năm 1956, Trường âm nhạc Việt Nam được thành lập, đây là một sự
kiện lịch sử trọng đại đối với quá trình phát triển của nền âm nhạc Việt Nam.
Ngày nay, trên khắp mọi miền của đất nước ta, có rất nhiều các Giáo sư, Tiến
sỹ, các Nghệ sỹ và giảng viên đầu ngành của nhiều chuyên ngành âm nhạc, từ
sáng tác, lý luận, Chỉ huy tới các nghệ sỹ biểu diễn, từ nhà nghiên cứu tới các
cán bộ quản lý, làm công tác đào tạo... rất nhiều người đều có xuất xứ từ mái
trường thân yêu đó. Nhiều cán bộ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc cũng đã
trưởng thành từ mái trường Xã hội Chủ nghĩa này như (GS - TS - NSND
Quang Hải, PGS - NS Ca Lê Thuần, PGS - NS Thế Bảo, Cố PGS - TS Trần
Tấn Lộc, Cố GS - NSƯT Bích Ngọc....).
Đối với ngành kèn Hautbois & Basson, quá trình phát triển của nền âm
nhạc Việt Nam này cũng có tác động lớn lao tới việc đào tạo những thế hệ
nhà giáo, nghệ sỹ kèn Hautbois & Basson nổi tiếng ngày nay. Những giảng
viên kèn Hautbois & Basson đầu tiên tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
26
Nam và Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay đều được những người
thầy ban đầu của Trường âm nhạc Việt Nam bồi dưỡng đào tạo mà nên. Đó là
các cụ Hoàng Xuân Tiến, thầy Nguyễn Văn Vy, thầy Nguyễn Ngọc Linh
(Hautbois)... Cụ Nguyễn Quang Khải, Nguyễn Văn Thư, các nghệ sỹ Văn
Huyến, Xuân Ninh (Basson)… mà các thế hệ các giảng viên nổi tiếng ngày
nay còn nhớ mãi công ơn của các cụ.
a ) Những công lao khai phá sự nghiệp cũng những hạn chế của thế hệ
các nghệ sỹ kèn dăm kép đầu tiên
Những công lao khai phá sự nghiệp của thế hệ kèn dăm kép đầu tiên
đã được lịch sử nền âm nhạc Việt Nam ghi nhận. Từ xuất phát điểm không
được đào tạo cơ bản, các cụ tự học hoặc học qua các thày người Pháp trong
dàn nhạc kèn… các cụ đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục. Sau
này, nhiều cụ từ khởi điểm chơi kèn Saxophone đã chuyển qua chơi các loại
kèn dăm kép (Hautbois, Basson…). Từ những ban nhạc của các Bar và rạp
chiếu bóng, các cụ đã chuyển sang chơi trong các dàn nhạc Đài phát thanh
tiếng nói Việt Nam, dàn nhạc Giao hưởng, dàn nhạc xưởng phim truyện Việt
Nam…
Những hạn chế : Mặc dù có nhiều cố gắng những thế hệ đi đầu trong
lĩnh vực kèn Dăm kép cũng không khỏi có những hạn chế về nhiều mặt, đó
là:
• Về âm sắc: tiếng kèn còn bí, thiếu độ vang và óng của châu Âu.
• Môi ngậm chặt khiến độ vang bị hạn chế, thiếu chuẩn xác về cao
độ, cơ hàm, mặt căng cứng không thể chơi những tác phẩm dài…
27
• Phương pháp ngón bấm dễ tạo nên những cố tật cho học sinh.
Không giải phóng và lỏng các ngón tay nên gặp nhiều khó khăn trong xử lý
kỹ thuật ở tốc độ cao.
• Phương pháp lấy hơi, giữ hơi, truyền hơi và nhả hơi còn nhiều hạn
chế.
• Phương pháp sư phạm chưa được trang bị, thường giảng dạy theo
phương pháp truyền ngón, truyền nghề…
b) Thế hệ những giảng viên và nghệ sỹ kèn dăm kép được đào tạo
mang tính chuyên nghiệp cao.
PGS. TS. NSƯT Nguyễn Phúc Linh được học kèn Basson tại trường
âm nhạc Việt Nam năm 1958. Sau khi tốt nghiệp trung cấp âm nhạc hệ chính
quy (1965), ông đi học ở Trung Quốc và sau đó giảng dạy tại trường âm
nhạc Việt Nam. Năm 1977, tốt nghiệp Đại học âm nhạc tại Nhạc viện F.
Liszt (Hungarie). Giảng dạy tại Nhạc viện Hà nội, Viện trưởng viện âm
nhạc, Phó Giám đốc Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia
Việt Nam). PGS, TS, NSƯT Nguyễn Phúc Linh vừa là một nghệ sỹ kèn
Basson nổi tiếng của đất nước, vừa là một nhà sư phạm, một nhạc sỹ sáng tác
cho các loại kèn và một nhà lý luận về giáo dục âm nhạc.
NSƯT Nguyễn Trí Dũng (Basson), Soliste, Phó Giám đốc Dàn nhạc
Giao hưởng quốc gia Việt Nam.
Ths. NSƯT Phạm Ngọc Doanh - tốt nghiệp Đại học âm nhạc chuyên
ngành kèn Hautbois tại Nhạc viện quốc gia Bulgarie năm 1980. Ông là giảng
viên Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam),
Soliste dàn nhạc giao hưởng Nhạc viện Hà Nội. Từ năm 1990 ông được Bộ
Văn hoá – Thông tin điều động vào công tác giảng dạy tại Nhạc viện Thành
28
phố Hồ Chí Minh. Ông đã đi học tập và biểu diễn nhiều nước trên thế giới.
Hiện nay là giảng viên, Phó giám đốc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời ông cũng là Soliste của các dàn nhạc Giao hưởng tại thành phố Hồ
Chí Minh. Th.s, NSƯT Phạm Ngọc Doanh là một trong những người đặt nền
móng cho ngành kèn Dăm kép chuyên nghiệp của Việt Nam. Các thế hệ học
trò của ông hiện đang là những nghệ sỹ, giảng viên chủ chốt của các dàn
nhạc Giao hưởng quốc gia, các Học viện, Nhạc viện và các trung tâm đào tạo
lớn của đất nước.
NSƯT Vũ Thiện Cơ – tốt nghiệp Đại học âm nhạc chuyên ngành kèn
Hautbois tại Nhạc viện quốc gia Bulgarie năm 1972. Giảng viên Nhạc viện
Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Từ sau giải phóng
miền Nam, anh công tác tại Sở Văn hoá - Thông tin Thành phố Hồ Chí
Minh. Anh từng là Soliste của dàn nhạc Giao hưởng – nhà hát Giao hưởng &
Vũ kịch Thành phố Hồ Chí Minh.
Sang thập kỷ 90, với sự trở về nước của các nghệ sỹ Hautbois như
Phùng Hoài Sơn (Liên xô cũ), Phan Việt Cường (Hồng Kông, Pháp và
Australia), Ngô Phương Đông (Liên bang Đức, Pháp) cùng với sự tham gia
hội nhập của các sinh viên Việt Nam vào các dàn nhạc trẻ Châu Á (Phan
Việt Cường, Đỗ Kiên Cường).
Các nghệ sỹ kèn Basson như Ths. Đoàn Thanh Tùng, giảng viên Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam (tu nghiệp tại Cộng hòa Pháp), Nghệ sỹ
Văn Thanh Hà, Soliste Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam (tu nghiệp
tại Thụy Điển) – giải nhất Concour hòa tấu kèn Châu Á (Thái Lan)....; Đặc
29
biệt những đợt giảng dạy và biểu diễn của các nghệ sỹ giảng viên hàng đầu
các nước như Cộng Hoà Pháp, Liên Bang Đức, Anh, Mỹ, Úc, Đan Mạch…
đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn cũng như
kỹ năng sư phạm của các giảng viên, nghệ sỹ và sinh viên Việt Nam.
Có lẽ cũng từ thời gian này, con đường chuyên nghiệp hoá của ngành
kèn Hautbois & Basson mới thực sự bắt đầu. Quá trình chuyên nghiệp hoá là
một quá trình dài lâu và vô cùng gian nan vất vả. Sự thành công của ngày
hôm nay không phải tự dưng mà có, lịch sử đã ghi nhận nhiều đóng góp của
các vị nghệ sỹ kèn Hautbois & Basson tiền bối, trong đó có cả các liệt sỹ đã
hy sinh trong công cuộc chống Mỹ cứu nước như nữ Nghệ sỹ kèn Hautbois
Vũ Thu Hạ (Đoàn văn công giải phóng quân khu 5 – Chiến trường B5).
c) Tác động của âm nhạc Hệ thống Xã hội chủ nghĩa đối với bước nhảy
vọt trong đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép ở Việt nam
Với nhiệm vụ chiến lược lâu dài để nâng cao trình độ đội ngũ giảng
viên và được sự giúp đỡ chí tình của các nước XHCN (nằm trong hệ thống
các nước XHCN cũ), Đảng và Nhà nước ta đã gửi hàng loạt những sinh viên
ưu tú đi du học ở Châu Âu thuộc các ngành nghề khác nhau trong đó có các
sinh viên chuyên ngành âm nhạc như PGS.TS. Nguyễn Phúc Linh – Nhạc
viện F. Liszt (Hungary) Vũ Thiện Cơ, Ths. Phạm Ngọc Doanh (Nhạc viện
Quốc gia Bulgarie);
Cũng bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ 70, những giảng viên mới
này đã đưa vào trong chương trình đào tạo của Trường Âm nhạc Việt Nam
những phương pháp mới hiện đại, học sinh Hautbois & Basson được trang bị
30
những kỹ thuật rất cơ bản và chính quy. Đã bắt đầu có những sinh viên ra
trường với chất lượng cao như Nguyễn Ngọc Bách, Hoàng Minh Phương,
Nguyễn Mạnh Trí (Hautboi), Ths. Nguyễn Trí Dũng (Basson) - Dàn nhạc
Giao hưởng quốc gia Việt Nam, Ths. Lương Thăng Long (Basson) – Nhạc
viện Tp.HCM, Lê Trí Đức, Phạm Văn Duy (Giảng viên trường Đại học nghệ
thuật quân đội ).
Một số sinh viên đặc biệt xuất sắc lại tiếp tục được gửi đi tu nghiệp ở
nước ngoài như Phùng Hoài Sơn (Liên Xô cũ), Ths.Ngô Phương Đông (Cộng
hoà dân chủ Đức), Phan Việt Cường (Hong Kong, Paris, Vienne), Hoàng
Tùng (CHLB Đức), Nguyễn Tuấn Bình (Bulgarie), Nguyễn Trường Giang
(Liên bang Nga), Nguyễn Bảo Anh (Hồng Kong – London, Anh), Văn Thanh
Hà (Thụy Điển), Ths.Đoàn Thanh Tùng (Cộng Hòa Pháp)…
1.3.Những vấn đề về giáo trình, phương pháp giảng dạy và xây dựng đội
ngũ giảng viên kèn Dăm kép
Để đào tạo ra được những nghệ sỹ kèn dăm kép có tài năng đỉnh cao,
mỗi một cơ sở đào tạo cần có một hệ thống giáo trình đầy đủ, đa dạng và phù
hợp với năng lực, trình độ của cà thày và trò. Việc xây dựng một giáo trình
chuẩn khu vực và thế giới luôn là điều trăn trở của ngành dăm kép tại các
Học viện và Nhạc viện.Giáo trình này luôn được bổ sung với mục tiêu cập
nhật được nội dung giảng dạy tiên tiến của thế giới, đồng thời cũng đa dạng
hóa được phong cách âm nhạc và thế giới biểu hiện những cảm xúc âm nhạc.
Trong những quy định mềm hiện nay việc xây dựng được giáo trình chính
thức, giáo trình tham khảo và những tài liệu tham khảo là rất quan trọng.
31
Đây cũng là một hệ thống giáo trình mang tính mở với sự bổ sung những tác
phẩm đương đại mới được sáng tác hàng năm của các nhạc sỹ trên thế giới.
Từ nội dung của các giáo trình chuẩn này, các Giáo sư nhạc viện cần tìm ra
những phương pháp thích hợp để tiếp cận trong cả phương diện kỹ thuật diễn
tấu lẫn khả năng biểu hiện. Những phương pháp giảng dạy và học tập này
cần được thực hiện một cách khoa học và sáng tạo. Từ đó, từng bước bồi
dưỡng các nghệ sỹ có tài trong ngành dăm kép để họ phấn đấu trở thành
những giảng viên có năng lực tại các Học viện, Nhạc viện và các trường văn
hóa nghệ thuật trên phạm vi toàn quốc.
1.3.1. Tài liệu, giáo trình, tác phẩm
Những giáo trình nhập ngoại : Ở những năm của thập niên 70, tất cả
những giảng viên đi du học ở nước ngoài trở về đều coi sách vở, tài liệu,
băng, đĩa hát là “vật bất ly thân”. Điều đó có nghĩa là ở Việt Nam lúc ấy
không hề có tài liệu, sách vở để giảng dạy, ngọai trừ một số rất ít sách vở đã
quá lạc hậu và cũ kỹ. Trong bối cảnh các phương tiện thông tin liên lạc còn
rất thô sơ, nghèo nàn, con đường duy nhất để có được tài liệu để giảng dạy
và làm việc là tự mua và mang theo về nước. Có thể nói rằng, đấy là một
trong những yếu tố vô cùng quan trọng để tạo được những bước nhảy vọt có
tính lịch sử trong sự phát triển và hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo
chuyên nghiệp kèn Hautbois & Basson ở Việt Nam.
Việc tự xây dựng giáo trình - giáo án Việt Nam: Đây cũng là một
trong số những vấn đề đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm trong quá trình
thay đổi và phát triển công tác đào tạo các chuyên ngành kèn nói chung và
32
ngành kèn Dăm kép (Hautbois & Basson) ở Việt Nam nói riêng. Chúng ta
không phủ nhận vai trò quan trọng và công lao to lớn đóng góp cho sự phát
triển chuyên nghiệp hoá ngành kèn Hautbois & Basson ở Việt Nam của các
giảng viên đầu tiên đi du học ở Châu Âu về như PGS.TS.Nguyễn Phúc Linh,
Vũ Thiện Cơ, Ths. Phạm Ngọc Doanh.
Có thể nói, họ là những giảng viên đã làm thay đổi về “chất” trong
công tác đào tạo ngành kèn Hautbois & Basson. Nhưng cũng phải thừa nhận
rằng, những năm đầu sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài về, không phải không
có những trăn trở vì chất lượng học sinh chưa được như các thầy mong
muốn. Câu hỏi đặt ra là: tại sao? tại ai? và chỉ một thời gian ngắn, cuối cùng
cũng có câu trả lời, đó là vì giáo trình, giáo án của “Tây” không phù hợp với
cơ thể, tâm sinh lý của người Việt Nam. Đặc biệt là giai đoạn những năm của
thập niên 80, đời sống kinh tế của đất nước chúng ta đang ở vào thời điểm vô
cùng khó khăn. Với cường độ luyện tập để đảm bảo được khi lên lớp, học
sinh trả bài tương đối (chỉ là tương đối thôi!) trơn chu về kỹ thuật và âm
nhạc cũng là điều “mơ ước” !
Với ngành kèn hơi, sức khoẻ là điều kiện tiên quyết số một, đặc biệt là
chuyên ngành Hautbois - một trong những loại kèn “nặng” nhất trong các
chuyên ngành kèn. Xuất phát từ thực tế đó, việc soạn thảo một giáo trình,
giáo án Việt Nam là rất cần thiết và trở thành vấn đề cấp bách. Các giảng
viên đã phải tự soạn ra giáo trình, giáo án sao cho phù hợp với tâm sinh lý,
điều kiện cơ thể của người Việt Nam và cũng từ đó, kết quả học tập của học
sinh được nâng lên rõ rệt. Thực sự vấn đề “chất” trong công tác đào tạo đã
thay đổi.
33
1.3.2. Phương pháp giảng dạy
Bước sang thế kỷ XXI, những vấn đề về phương pháp giảng dạy đã trở
thành một lĩnh vực quan trọng trong giáo dục âm nhạc nói chung và trong sư
phạm kèn Dăm kép nói riêng. Việc bổ sung định kỳ hàng năm cho giáo trình
chính thức, giáo trình tham khảo và tư liệu giảng dạy đã đặt ra cho mỗi giảng
viên kèn Dăm kép nhiệm vụ phải nắm bắt được những giáo trình mới của thế
giới, những tác phẩm đương đại mới được sáng tác. Nhiệm vụ này phải được
tiến hành thường xuyên bằng cả hai cách: Nhập khẩu giáo trình, sách, tác
phẩm mới và cử các giảng viện đi tu nghiệp tại các trung tâm âm nhạc lớn
trên thế giới.
Các giảng viên trẻ được đào tạo cơ bản chính quy, khi trở về nước
mang theo những tài liệu, giáo trình giáo án chính quy, mang về những
phương pháp giảng dạy hiện đại và rất khoa học. Một điều rất logic là khi đã
đổi mới, chính quy hoá, và chuyên nghiệp hoá chương trình, giáo trình, giáo
án thì đương nhiên phải thay đổi phương pháp giảng dạy. Chúng ta không
thể và thậm chí không biết dạy học trò như thế nào trên những tài liệu, giáo
trình, chương trình chính quy mà không có những phương pháp thích hợp,
tương ứng và đặc biệt là phải đáp ứng được yêu cầu chuyên môn của chương
trình đó. Không thể dùng phương pháp giảng dạy chính quy, chuyên nghiệp
với một chương trình lạc hậu và nghèo nàn về tư liệu, giáo trình và ngược lại
cũng không thể sử dụng những giáo trình, chương trình cơ bản, chính quy,
chuyên nghiệp bằng phương pháp giảng dạy đã lỗi thời.
34
Đây là hai mặt của một vấn đề, nó luôn luôn tồn tại và phát triển song
song với nhau. Cũng chính vì thế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thông
tin bùng nổ như ngày nay, việc liên tục cập nhật thông tin, cập nhật tư liệu,
tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và luôn luôn phải học tập nâng cao,
nghiên cứu phương pháp giảng dạy cho phù hợp với sự phát triển về khoa
học, kỹ thuật cũng như trong lĩnh vực nghệ thuật của thế giới là điều vô cùng
cần thiết cho mỗi một cán bộ giảng dạy. Đặc biệt đối với nghành âm nhạc -
với đặc điểm là một ngành đặc thù.
Khoa kèn – gõ của các trung tâm đào tạo âm nhạc lớn của đất nước
như Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Nhạc viện Tp. HCM, Học viện
âm nhạc Huế cần phải có kế hoạch mời các Giáo sư Hautbois, Basson nổi
tiếng nước ngoài đến giảng dạy. Đồng thời, ngành kèn Dăm kép cũng phải
tích cực nghiên cứu những phương pháp giảng dạy đối với các em có tài
năng đặc biệt để bồi dưỡng đi dự thi các cuộc thi âm nhạc quốc gia và quốc
tế.
Để tổng kết những phương pháp giảng dạy mới trong đào tạo kèn Dăm
kép, cần tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề trong nước và liên kết với
Hiệp hội kèn Dăm kép Quốc tế tổ chức những hội thảo của khu vực. Bước
sang thế kỷ XXI, đất nước Việt Nam sẽ có những sự phát triển mạnh về kinh
tế và văn hóa. Để thực hiện việc nâng tầm trí tuệ trong giáo dục kèn Dăm
kép, công tác nghiên cứu về phương pháp giảng dạy là rất quan trọng.
35
1.3.3. Việc xây dựng đội ngũ giảng viên
Công cuộc hội nhập đã đặt ra cho chúng ta nhiều nhiệm vụ vô cùng
mới mẻ, vừa vinh quang nhưng cũng vô cùng khó khăn gian khổ. Đối với
việc xây dựng một đội ngũ giảng viên kèn Hautbois & Basson cho tương lai,
các cán bộ lãnh đạo của các Nhạc viện đều đã và sẽ cử nhiều giảng viên trẻ
đi học và tu nghiệp tại nước ngoài. Tất nhiên, việc nâng cao được trình độ
chuyên nghiệp tại Việt Nam cũng là vấn đề chúng ta không ngừng phải phấn
đấu. Chỉ có như vậy, nền âm nhạc Việt Nam mới có được nền tảng vững
chắc của âm nhạc Cổ điển Bác học.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt ra trong những năm
đầu thế kỷ XXI là việc xây dựng nhân sự cho đội ngũ nghệ sỹ, cán bộ giảng
dạy kèn Dăm kép. Đội ngũ này theo quan điểm của Đảng và Nhà nước phải
là những người “có tài và có đức”. Công tác đào tạo âm nhạc chiếm một vị
trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho đất nước. Việc đào
tạo nguồn nhân lực được tập trung trong hai lĩnh vực sau:
a / Đào tạo tài năng đỉnh cao: Đào tạo các nghệ sỹ kèn Dăm kép đỉnh
cao, hội nhập được với trình độ độc tấu và hòa tấu khu vực và thế giới.
b/ Đào tạo nhân lực trình độ cao: Đào tạo các cán bộ giảng dạy kèn
Dăm kép có học vị thạc sỹ, tiến sỹ, có tri thức chuyên môn sâu và rộng, cập
nhật được với sự phát triển nhanh của thế giới.
Việc xây dựng đội ngũ giảng viên âm nhạc nói chung và giảng viên
kèn Dăm kép nói riêng là một nhiệm vụ mang tính chiến lược. Hiện nay, các
36
cơ sở đào tạo âm nhạc trong toàn quốc đã có cơ sở vật chất tương đối hiện
đại. Tuy nhiên, yếu tố con người vẫn là yếu tố mang tính quyết định.
UTiểu kết chương 1
Trong hơn nửa thế kỷ qua, cùng với sự trưởng thành của nền âm nhạc
Việt Nam, chuyên ngành kèn dăm kép đã có những phát triển vượt bậc.
Ngày nay, nhiều sinh viên, nghệ sỹ trẻ kèn dăm kép đã vươn lên được
tới tầm khu vực và không bao lâu nữa, họ sẽ là những đại diện của chúng ta
trên trường quốc tế. Hiện nay tất cả những giảng viên, nghệ sỹ này vẫn đang
là những trụ cột trong các trung tâm đào tạo lớn và các dàn nhạc lớn của
quốc gia ở tất cả mọi miền của tổ quốc như Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
Nam, Nhạc Viện TP. HCM, Học viện Âm nhạc Huế, Dàn nhạc Giao hưởng
Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Việt
Nam, Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam, Dàn nhạc giao hưởng Nhạc viện TP
Hồ Chí Minh, Nhà hát giao hưởng và vũ kịch TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại
học Nghệ thuật quân đội… Họ là niềm tin và hy vọng của những thế hệ đi
trước và tương lai của sự phát triển sự nghiệp âm nhạc trong những năm đầu
của thế kỷ XXI.
Nhiệm vụ trước mắt của các nghệ sỹ, giảng viên đào tạo nhạc cụ
phương Tây nói chung và kèn dăm kép nói riêng còn rất nặng nề. Việc đuổi
kịp các quốc gia trong khu vực về kinh tế là một nhiệm vụ đã khó khăn,
nhưng nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa – âm nhạc tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc còn là một nhiệm vụ khó khăn hơn và lâu dài hơn. Tuy nhiên
37
chúng ta vẫn đặt trọn niềm tin vào tri thức và năng lực sáng tạo của thế hệ trẻ
trong sự nghiệp phát triển nền âm nhạc cách mạng Việt Nam.
UBiểu đồ 1U: Sự phát triển mang tính chuyên nghiệp
trong đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép
Chương 2
Giáo trình, tư liệu giảng dạy kèn dăm kép
Phương pháp giảng dạy kèn dăm kép
Phương pháp học tập kèn dăm kép
Xây dựng đội ngũ biểu diễn kèn dăm kép
Xây dựng đội ngũ giảng dạy kèn dăm kép
Đào tạo tài năng đỉnh cao kèn dăm kép
Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao kèn dăm kép
Sự phát triển mang tính chuyên nghiệp cao
trong đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép
38
CHƯƠNG II
PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT BIỂU DIỄN Ở TRÌNH ĐỘ CHUYÊN
NGHIỆP CAO CỦA CÁC CHUYÊN NGÀNH KÈN DĂM KÉP
Một nền biểu diễn nghệ thuật Giao hưởng nói chung và kèn Dăm kép
nói riêng có phát triển được hay không là nhờ ở những thành tựu của công
tác đào tạo. Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ ngày nay, những
phương tiện để tiếp cận với một nền giáo dục hiện đại đã mở cho chúng ta
một cơ hội để tiếp cận với những phương pháp đào tạo kèn Dăm kép hiện đại
nhất trên thế giới. Trong việc hội nhập với nền âm nhạc của khu vực và quốc
tế, yếu tố kỹ thuật trong nghệ thuật biểu diễn cũng như nghệ thuật giảng dạy
kèn Dăm kép giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy
và học. Hiểu biết sâu sắc về các tiêu chí đánh giá chất lượng này chính là cơ
sở quan trọng giúp chúng ta đi tới tương lai.
Trong hoàn cảnh ở Việt Nam, công tác nghiên cứu sâu về những lý
luận chuyên ngành chính là chìa khóa để nâng cao chất lượng đào tạo nhạc
cụ. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi mạnh dạn đề cập tới vấn đề xây dựng
nền tảng kỹ thuật trong phương pháp diễn tấu kèn Dăm kép.
2.1. Xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp biểu diễn kèn Dăm
kép
Trong đời sống biểu diễn âm nhạc tại Việt nam nói chung và trong
chuyên ngành kèn dăm kép nói riêng, nhiều năm qua thường xuất hiện
những cách nhìn nhận phiến diện và đôi lúc còn mang tính cực đoan. Khi đề
cao khả năng biểu hiện những cảm xúc âm nhạc, người ta thường xem nhẹ
yếu tố kỹ thuật trong diễn tấu kèn dăm kép. Trong những năm gần đây, các
39
giảng viên kèn dăm kép đã thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng nền
tảng kỹ thuật biểu diễn. Dù là độc tấu hay hòa tấu thính phòng hoặc chơi
trong dàn nhạc Giao hưởng thì yếu tố kỹ thuật thường được coi như trình độ
đạt được của người nghệ sỹ kèn dăm kép. Người chỉ huy dàn nhạc hay khán
thính giả âm nhạc sẽ không chấp nhận khi người nghệ sỹ chơi kèn rất có xúc
cảm âm nhạc nhưng mắc lỗi kỹ thuật quá nhiều. Mặt khác, để thể hiện những
xúc cảm âm nhạc cũng như những chi tiết tinh tế nhất trong phong cách âm
nhạc thì người nghệ sỹ phải sử dụng kỹ năng cao cấp nhất để thể hiện nó.
2.1.1. Như thế nào là xây dựng nền tảng kỹ thuật trong diễn tấu kèn Dăm
kép
Cũng như một thiết kế kiến trúc, phần thiết kế móng tạo nên sự an toàn
cho toàn bộ công trình, trong lĩnh vực âm nhạc, xây dựng được nền tảng kỹ
thuật còn bao hàm những ý nghĩa rộng hơn. Trên cơ sở những kinh nghiệm đã
đúc kết được trong phương pháp đào tạo kèn Dăm kép trên thế giới (Nhạc
viện Quốc gia Sofia, Nhạc viện F.Liszt – Hungary, Nhạc viện Quốc gia Paris
và một số các Nhạc viện, Học viện ở châu Âu…), chúng tôi cho rằng để xây
dựng nền tảng kỹ thuật chúng ta cần phải lưu ý những điểm sau:
a) Người thầy đặt nền móng ban đầu cho học sinh phải là người thầy
giỏi và có kinh nghiệm lâu năm.
b) Trong thời gian đầu, người học sinh phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt những yêu cầu cơ bản của người thầy.
c) Thời kỳ bắt đầu học kèn dăm kép phải được tiến hành theo phương
thức: “chậm và chắc” (những yêu cầu cụ thể về nền tảng kỹ thuật chúng tôi
sẽ đề cập ở phần sau)
40
d) Yếu tố xây dựng nền tảng còn có ý nghĩa tránh cho học sinh gặp
phải những khó khăn và cố tật trong quá trình học nhạc cụ.
e) Đã có nhiều trường hợp do xây dựng nền tảng kỹ thuật không tốt
nên ở bậc sơ cấp là một học sinh có tài năng, ở bậc trung cấp chỉ đạt mức độ
trung bình và ở bậc Đại học thì trở thành một Sinh viên kém và phải bỏ
nghề. Chính vì vậy, yếu tố xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương pháp
diễn tấu bảo đảm cho người học sinh tiến đều, tiến chắc.
f) Khác với nghệ thuật kiến trúc, thiết kế móng chỉ tạo nên sự vững
chắc của công trình. Trong đào tạo nghệ sỹ biểu diễn kèn Dăm kép từ nền
tảng kỹ thuật vững chắc người học sinh còn có thể phát triển xa hơn, trở
thành những nghệ sỹ biểu diễn kèn Dăm kép tài năng của đất nước.
Nói tóm lại việc xây dựng nền tảng kỹ thuật cho phương pháp diễn tấu
kèn Dăm kép là một vấn đề học thuật cao, cần có sự nghiên cứu chuyên sâu
của giảng viên các Nhạc viện, Học viện trên phạm vi toàn quốc. Để làm
được việc này yếu tố quyết định chính là phương pháp sư phạm của người
thầy.
Vai trò của người thầy ở đây cần phải được nhấn mạnh trong những
yếu tố sau:
1) Khẳng định được những tiêu chí của nền tảng kỹ thuật.
2) Biết cách truyền thụ bằng lý thuyết cho học sinh những tiêu chí
đó.
3) Tìm được ra những giải pháp nhằm ứng dụng những lý thuyết đó
vào trong thực tế giảng dạy (bao gồm cả gamme, etudes và tác phẩm cũng
như các bài hòa tấu thính phòng và dàn nhạc giao hưởng).
41
4) Trong thực tế giảng dạy kèn dăm kép ở Việt Nam cũng như trên
thế giới, những cố tật thường xuyên phát sinh trong quá trình học tập, người
thầy phải hết sức tỉnh táo và nhận biết khi có tật phát sinh.
Giống như người bác sĩ chữa bệnh, người thầy phải tìm ra những giải
pháp để khắc phục bằng quy trình sau:
UBiểu đồ 2 :
Tiếp tục vòng xoáy trôn ốc như đã thực hiện ở trên, việc xây dựng nền
tảng kỹ thuật trong đào tạo kèn Dăm kép là một quá trình mang tính tổng
hợp và hệ thống. Bởi vì, nếu sửa chữa cố tật một cách thiếu cân nhắc thì từ
cố tật này sẽ phát sinh những cố tật khác. Người thầy phải theo dõi Học sinh,
Sinh viên chặt chẽ trong suốt quá trình lên lớp. Chỉ có như vậy thì nền tảng
kỹ thuật mới có thể được duy trì và phát triển trong suốt thời gian 15 năm
học tập.
Phát hiện lçi, cố tật
Tìm giải pháp lý thuyết
Ứng dụng thực
Giao bài míi
Kiểm tra 2
Kiểm tra 1
42
Khái niệm về nền tảng kỹ thuật không phải là một quá trình bất biến,
trước đòi hỏi của những trường phái âm nhạc mới, của những phong cách âm
nhạc mới, người nghệ sĩ kèn Dăm kép phải đáp ứng được những yêu cầu đó.
Ví dụ, trong phương pháp rung tiếng của kèn Dăm kép bao gồm cả rung cơ
hoành cách, rung môi và rung ngón, rung họng. Theo nền tảng cổ điển thì
phương pháp rung hơi được coi là phương pháp đúng cơ bản nhất. Tuy
nhiên, trong những tác phẩm âm nhạc đương đại viết cho kèn Dăm kép, tất
cả những yếu tố rung trên đều được coi là những yếu tố kỹ thuật nền tảng.
Vấn đề là ở chỗ sử dụng lúc nào, nơi nào cho thích hợp.
2.1.2. Một số vấn đề về nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép
Trong khái niệm về nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép, chúng ta có thể
tham khảo về sự phân chia trên thế giới như sau:
a) Phương pháp diễn tấu.
b) Phương pháp biểu hiện âm nhạc.
Về phương pháp diễn tấu, các nhà nghiên cứu cho rằng chúng ta
cần phải nắm chắc những yếu tố kỹ thuật của kèn Dăm kép. Trong đó, bao
hàm cả yếu tố về cấu trúc cũng như tính năng nhạc cụ, đồng thời cũng bao
hàm cả những yếu tố kỹ thuật nhằm thể hiện được phong cách. Phong cách
âm nhạc có được thể hiện tốt hay không là nhờ ở phong cách diễn tấu của
mỗi một nghệ sĩ kèn Dăm kép.
Về phương pháp biểu hiện, người ta cho rằng nó tập trung để thể
hiện nên nội dung âm nhạc, phong cách thời đại, phong cách tác giả. Như
vậy, ở phương pháp biểu hiện cũng có những điểm chung so với phương
43
pháp diễn tấu. Tuy nhiên thuật ngữ “Điểm giao tiếp mờ” giữa phương pháp
diễn tấu và phương pháp biểu hiện nhiều khi chỉ được trả lời bằng đáp số của
“cảm xúc âm nhạc”.
Đối với những nghệ sỹ kèn Dăm kép nói chung và những Sinh viên
học kèn Dăm kép nói riêng thì nhiệm vụ quan trọng nhất là phải chuyển tải
được những âm thanh của tác giả tới những thính giả âm nhạc. Điều quan
trọng không phải là lý luận suông về những khái niệm thuật ngữ nói trên, mà
phải qua âm thanh làm xúc động lòng người, đồng thời chuyển tải những tư
tưởng nhân văn của tác phẩm về cái đẹp tới mọi người và toàn xã hội. Mặt
khác, chúng ta cũng không thể làm tốt phương pháp biểu hiện âm nhạc khi
không có phương pháp diễn tấu tốt. Mối quan hệ logic giữa hai khái niệm
trên được hiểu theo tính triết học của nó là: trong phương pháp diễn tấu có
phương pháp biểu hiện và trong phương pháp biểu hiện có phương pháp diễn
tấu. Điều này, chúng ta có thể liên hệ với thuyết âm dương trong triết học cổ
Trung Hoa là: “trong dương có âm” và “trong âm có dương”.
Sự kết hợp của âm dương chính là động lực để phát triển nghệ thuật
biểu diễn kèn Dăm kép tới đỉnh cao.
2.1.3. Những tiêu chí nhằm xây dựng nền tảng kỹ thuật trong phương
pháp diễn tấu kèn Dăm kép
Thuật ngữ tiêu chí ở đây nhằm xác định những lĩnh vực cụ thể trong
khái niệm về nền tảng kỹ thuật diễn tấu. Nếu xác định sai tiêu chí, con đường
phát triển sẽ hoàn toàn bị sai lệch. Nếu xác định thiếu tiêu chí thì nội dung
phát triển sẽ bị hạn chế. Nếu xác định quá nhiều tiêu chí sẽ dẫn tới sự hoang
mang của cả người thầy và học sinh trong quá trình hướng dẫn, đào tạo. Như
44
vậy việc xác định những tiêu chí nền tảng kỹ thuật trong phương pháp diễn
tấu cần phải được xem xét một cách khoa học và sát với thực tế. Trong lĩnh
vực âm nhạc nói chung và đào tạo kèn Dăm kép nói riêng. Ngoài những tiêu
chí chung, trong thực tế mỗi một học sinh,sinh viên có những điểm mạnh và
điểm yếu riêng cho nên khi ứng dụng không nên máy móc, rập khuôn. Sự
sáng tạo của người thầy và của Học sinh, Sinh viên trong quá trình áp dụng
những tiêu chí là điều quyết định đối với tiến bộ của học thuật.
Sau đây là những tiêu chí cơ bản nhằm xây dựng nền tảng kỹ thuật cho
phương pháp diễn tấu kèn Dăm kép.
a) Về tư thế biểu diễn
Trong thực tế giảng dạy và học tập nhạc cụ hơi thường gặp danh từ rất
phổ biến được gọi là “tư thế”. Hiểu danh từ ấy như thế nào? Thuật ngữ “tư
thế” mang tính chất tập hợp và có nghĩa là toàn bộ những quy tắc liên quan
đến vị trí tương quan của đầu, thân, tay, chân của người diễn tấu trên nhạc
cụ.
Mục tiêu của một tư thế đúng rất rõ ràng: Nó phải tạo điều kiện cho
việc đạt được kết quả diễn tấu cao nhất là tốn ít sức của người diễn tấu nhất.
Trong tư thế hợp lý, bộ máy diễn tấu của nghệ sỹ (hơi thở, hoạt động của
môi, các ngón tay…) hoạt động trong những điều kiện thuận lợi và tự nhiên,
nó giúp người diễn tấu tránh những căng cứng không cần thiết.
Tư thế diễn tấu bao gồm: thế đứng, cơ thể, đầu, mình, chân, tay, môi...
Tư thế diễn tấu hay nói một cách khác thế đứng khi thổi kèn của các
nghệ sỹ kèn hơi nói chung và của nghệ sỹ kèn Dăm kép nói riêng đóng một
45
vai trò vô cùng quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng âm thanh
và độ “dẻo dai” của người biểu diễn. Nếu chúng ta quan niệm “thổi kèn” chỉ
cần “nhiều hơi”, có sức khỏe tốt là có thể trình diễn một tác phẩm âm nhạc
có chất lượng nghệ thuật (chứ chưa nói đến chất lượng cao!) là hoàn toàn sai
lầm. Với quan niệm đó và phương pháp đó chắc chắn không bao giờ người
nghệ sỹ kèn hơi có thể trình diễn được một tác phẩm âm nhạc, thậm chí một
câu nhạc có chất lượng nghệ thuật cao. Ở góc độ khoa học, nếu phân tích
chúng ta sẽ thấy cột hơi được đẩy thẳng từ bụng qua cổ họng, vào khoang
miệng rồi vào ống kèn. Áp lực của cột hơi được đẩy ra theo hình parabol
(chúng ta hãy hình dung như một cái ống nước). Bởi vậy bất kỳ sự cản trở
nào (tạm gọi như vậy) đều không có lợi cho sự phát âm (sẽ trình bày ở phần
sau) chưa muốn nói là rất tai hại. Khi diễn tấu (thổi kèn) người nghệ sỹ phải
kết hợp được hài hòa, uyển chuyển toàn bộ cơ thể như thế đứng, đầu, mình,
chân, tay... bởi chỉ cần một trong những phần đó không đúng sẽ ảnh hưởng
ngay tới chất lượng của âm thanh. Ví dụ, đứng lệch, tức là trọng tâm dồn về
một phía (một chân), áp lực cột hơi sẽ bị yếu. Cũng như trong võ thuật, thế
đứng “tấn” là thế vững vàng nhất. Trọng lượng cơ thể phải dồn đều vào hai
chân hoặc gập cổ (mặt không nhìn thẳng mà cúi xuống), cột hơi sẽ bị nghẹt
lại. Hai cơ môi cứng, mím chặt, cột hơi cũng bị nghẹt hoặc toàn thân gồng
cứng, chân tay và mình cứng, áp lực của cột hơi hầu như sẽ rất yếu, mà trong
giới chuyên môn ngành kèn hay nói nôm na là “không có hơi”.
Tất cả những điều như chúng tôi vừa trình bày ở trên là những vấn đề
cơ bản nhất quyết định “chất lượng” của một nghệ sỹ kèn nói chung và một
nghệ sỹ kèn Dăm kép nói riêng.
46
b) Về nghệ thuật hơi
Cũng như nghệ thuật thanh nhạc, khái niệm về “hơi” đối với kèn hơi
nói chung, kèn Dăm kép nói riêng không thể chỉ được coi như “kỹ thuật
hơi”. Toàn bộ sự thành công của nghệ thuật diễn tấu kèn Dăm kép phụ thuộc
vào “nghệ thuật hơi” hay nói cách khác “nghệ thuật lấy hơi, giữ hơi, truyền
hơi, nhả hơi...”.
Nghệ thuật hơi là một tiến trình tâm sinh lý rất phức tạp và trừu tượng.
Nó được xuất xứ từ phương pháp khí công của phương Đông hay phương
pháp “yoga” của Tây Tạng, Ấn Độ. Có nhiều người cho rằng “thổi kèn” là
nghề có hại cho phổi.
Chúng tôi cho rằng nếu chơi kèn đúng phương pháp, nghĩa là ứng
dụng những bài bản kỹ thuật của dưỡng sinh và yoga vào trong nghệ thuật
hơi thì sức khỏe sẽ ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số những vấn đề cụ thể
của nghệ thuật hơi:
1) Lấy hơi
Có rất nhiều cách lấy hơi: Bằng miệng, bằng mũi, lấy hơi sâu, lấy hơi
bụng, lấy hơi ngực… Nhưng, đúng phương pháp nhất, nghĩa là ứng dụng
những bài bản kỹ thuật của dưỡng sinh và yoga là lấy hơi bụng, lấy hơi sâu.
2) Giữ hơi
Về khái niệm giữa giữ hơi và nhịn hơi: Ngày nay, trên thế giới người
ta đã tổ chức những cuộc thi nhịn hơi ở trong nước nhiều giờ đồng hồ. Khái
47
niệm giữ hơi trong nghệ thuật hơi của kèn Dăm kép không phải và không
đồng nghĩa với việc nhịn hơi.
Khi người nghệ sỹ biểu diễn kèn Dăm kép giữ hơi tốt sẽ có thể đáp
ứng được các yêu cầu sau:
- Chơi được những câu nhạc dài.
- Có thể chủ động trong việc điều tiết hơi phục vụ cho việc thay đổi
cường độ và âm sắc của tiếng kèn.
- Đối với kèn dăm kép việc giữ hơi tốt và nén hơi có thể tạo thuận lợi
cho việc chơi pp ở những âm vực cao của kèn.
- Việc nén hơi còn tạo nên sự bình quân trong cường độ của âm thanh
cũng như việc tạo nên những câu nhạc Legato mềm mại và liền tiếng.
- Việc giữ hơi tốt còn phục vụ cho những thể hiện âm nhạc mới trong
phong cách âm nhạc đương đại (đột ngột to, đột ngột nhỏ, nhảy quãng xa...).
3) Truyền hơi
Kỹ thuật truyền hơi là một đặc trưng nổi bật trong kỹ xảo kèn Dăm
kép. Nhiều nhà khoa học cho rằng, kỹ thuật truyền hơi của nền đào tạo kèn
Dăm kép phương Tây ngày nay có xuất xứ từ phương Đông. Chúng ta có thể
tham khảo kỹ thuật truyền hơi của sáo trúc và kèn Bầu của Việt Nam, kèn
Saranai của tộc người Chăm, kèn Sủona của Trung Quốc (Sona)... Nói đến
kỹ thuật truyền hơi có nghĩa là người nghệ sỹ trong quá trình thổi hơi ra đã
thực hiện một khâu kỹ thuật trữ sẵn hơi trong khoang miệng. Tiếp theo,
người ta đẩy những hơi dự trữ trong khoang miệng ra cùng một lúc với việc
lấy hơi vào ở mũi. Ở Việt Nam, trong các ban nhạc “hiếu hỷ” người chơi kèn
48
Bầu có thể chơi những câu nhạc dài hàng chục phút mà không cần dừng lại
để lấy hơi.
Tuy nhiên, kỹ thuật truyền hơi, theo quan điểm của chúng tôi chỉ đơn
thuần là một kỹ xảo diễn tấu, không nên lạm dụng. Trong khái niệm về phân
câu âm nhạc trong âm nhạc bác học phương Tây, không phải chỉ có kèn hơi
mà Piano, đàn dây, Accoordeon ... cũng cần phải có chỗ lấy hơi. Sự phân câu
âm nhạc thể hiện trong việc lấy hơi là điều cần thiết. Từ đó sự tiếp thu của
thính giả cũng trở nên dễ dàng hơn khi những câu nhạc được phân câu một
cách rõ ràng. Ngược lại, với kỹ thuật truyền hơi tức là kỹ thuật xã bớt hơi
trong kèn Dăm kép. Kỹ thuật xã bớt hơi nhằm giải thoát lượng hơi dư thừa,
tạo sự dăm nhỏ nên lượng hơi sử dụng nhiều khi bị dư thừa. Chính vì vậy,
việc lấy hơi và giữ hơi phải được tính toán trước cho phù hợp với yêu cầu
của câu nhạc và ý nhạc cần diễn tả. Nghĩa là người nghệ sỹ kèn Dăm kép cần
phải nghiên cứu kỹ trong phân câu tác phẩm và sau đó thiết kế một sơ đồ về
vấn đề lấy hơi và giữ hơi phục vụ cho mục đích thể hiện tác phẩm.
4) Nhả hơi
Đây là một kỹ thuật hay nói đúng hơn từ kỹ thuật này hình thành nên
nghệ thuật hơi. Yếu tố kỹ thuật trong nhả hơi có ảnh hưởng đặc biệt quan
trọng đến việc thể hiện tác phẩm. Nó còn ảnh hưởng tới cường độ, sắc thái,
màu âm của tác phẩm âm nhạc. Cũng trong khái niệm nhả hơi này, sự tiết
chế mạnh nhẹ của luồng hơi tạo nên sự rung tiếng (vibrato) - sự hấp dẫn và
cuốn hút của nghệ thuật biểu diễn.
49
Một điều hay được bàn cãi trong giới học thuật cao về kèn hơi ở
phương Tây, đó là việc tiếng kèn có chuyển tải trong không gian được xa
hay không. Ở Việt Nam nói chung và ở Nhạc Viện thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng, học sinh Sinh viên nhiều khi mới đạt được một tiếng kèn “to” chứ
chưa đạt được một tiếng kèn “vang, xa”. Tất nhiên, điều này cũng phụ thuộc
vào một thực tế khách quan là chỉ có những nhạc cụ có chất lượng cao (kể cả
đàn dây cũng vậy) mới có thể vang xa được. Ngoài vấn đề về nhạc cụ, dăm
kèn cũng giữ một vị trí quan trọng trong việc đưa âm thanh truyền ra xa.
Đó là về phía khách quan, nhưng đứng về phía chủ quan tiếng kèn có
vang xa được hay không còn phụ thuộc vào hai yếu tố:
Độ lỏng của môi và cơ mặt.
Độ căng của luồng hơi.
Chúng ta có thể hiểu một cách nôm na như sau: Một vòi nước máy
được bịt bằng một ngón tay sẽ tạo nên những tia nước mạnh và phun đi xa.
Trong kỹ thuật thanh nhạc, tương tự như vậy người ta cũng có kỹ thuật “ép
hơi”. Đối với kỹ thuật kèn Dăm kép, việc ép được luồng hơi thổi ra có một ý
nghĩa quan trọng trong kỹ thuật nhả hơi. Người nghệ sỹ kèn Dăm kép có
trình độ cao thường sử dụng được kỹ thuật “ép hơi” tốt. Kỹ thuật “ép hơi”
này có thể tạo nên những giai điệu mượt mà, liền tiếng, có thể nhảy quãng xa
mà không bị mắc lỗi kỹ thuật.
Có một số thầy trẻ cũng như một số Sinh viên kèn Dăm kép cho rằng
việc “ép hơi” đồng nghĩa với việc “thổi to”. Đúng như vậy, khi “ép hơi”
luồng hơi có một sức ép mạnh thường tiếng kèn dễ to. Tuy nhiên, đối với các
50
nghệ sỹ kèn điêu luyện, người ta có thể luyện tập kỹ thuật ép hơi ngay cả khi
chơi những đoạn nhạc có sắc thái pp hoặc ppp.
Đây là điều vô cùng quan trọng trong kỹ thuật hòa tấu thính phòng
cũng như hòa tấu dàn nhạc giao hưởng. Không chơi nhỏ được, hoặc chơi nhỏ
nhưng âm thanh thiếu độ căng và thiếu cảm xúc là những điều khiến cho các
nhạc công kèn Dăm kép phải suy nghĩ và “dằn vặt” trong nhiều năm.
Như đã trình bày ở phần trên, kỹ thuật nhả hơi còn ảnh hưởng cụ thể
tới các yếu tố kỹ thuật như: Legato, non Legato, Stacato, Portamento,
Maccato, Sf... Cùng với những yếu tố trên, kỹ thuật nhả hơi còn có vai trò
quyết định tới cường độ của âm thanh như: to, nhỏ, to dần, nhỏ dần... Cũng
như vậy, chỉ có người nắm chắc kỹ thuật nhả hơi mới có thể kiến tạo nên câu
nhạc, hơi thở âm nhạc. Trong thực tế, nhiều nhạc công đã mắc phải lỗi lầm
về kỹ thuật khi kết thúc câu nhạc bị thiếu hơi hoặc hơi không đủ độ căng. Có
lẽ, chỉ có những người chơi kèn ở trình độ cao mới hiểu được những khó
khăn về mặt kỹ thuật khi kết thúc một câu nhạc.
Một điều vô cùng quan trọng đối với các nghệ sỹ độc tấu là tạo nên
những âm sắc khác biệt cho kèn Dăm kép. Khác với các nhạc cụ Dây, âm sắc
được tạo nên bởi ngón bấm và tay kéo vỹ. Ở kèn Dăm kép ngón bấm không
có tác dụng tạo nên âm sắc. Tất cả những màu âm khác nhau được tạo nên
bởi những vị trí môi khác nhau và phương pháp nhả hơi “thiên biến vạn
hóa”. Người ngoài ngành âm nhạc khó có thể hình dung những màu sắc
xanh, đỏ , tím, vàng... tồn tại trong âm nhạc.
51
Người nghệ sỹ kèn Dăm kép khi độc tấu với phần đệm piano hoặc với
dàn nhạc phải hình dung được màu sắc hòa âm của Piano và dàn nhạc. Đặc
biệt, khi chơi concerto với dàn nhạc, họ còn phải lựa chọn những màu sắc
cho hòa hợp với tính năng của từng nhạc cụ kết hợp với mình. Sự chọn lựa
màu sắc âm thanh trong từng nốt nhạc có lẽ là một đỉnh điểm của phương
pháp diễn tấu âm nhạc mà không phải người nào cũng nắm bắt được.
Ngoài những ảnh hưởng chi phối như vừa trình bày ở trên của kỹ thuật
nhả hơi, những giáo sư kèn của các nhạc viện trên thế giới còn cho rằng:
Những kỹ thuật ép hơi và nhả hơi còn quyết định tới sự an toàn khi diễn tấu
một đoạn nhạc khó. Đối với kèn gỗ nói chung và kèn Dăm kép nói riêng sử
dụng kỹ thuật ép hơi tốt thì luồng hơi sẽ đủ lượng để nén vào các lỗ kèn.
Điều này, giúp cho người nghệ sĩ độc tấu và hòa tấu phát âm an toàn (không
bị tắt âm), đặc biệt, khi chạy với tốc độ nhanh thì chuỗi âm được phát ra đầy
đủ và đều đặn (bình quân luật được các nốt).
2.2. Sự đổi mới về chương trình và phương pháp giảng dạy
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy kèn dăm kép là một yếu tố tất
nhiên trong quá trình phát triển của nền nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp
của nước ta. Muốn có được chất lượng cao trong đào tạo thì đổi mới phương
pháp đào tạo phải kết hợp với đổi mới về nội dung đào tạo cũng như quy
trình đào tạo...
Khi bàn về Phương pháp đào tạo tức là bàn về những nội dung mang
tính lý thuyết chuyên ngành, một ngành mà ở Việt Nam bây giờ mới bắt đầu.
52
2.2.1. Sự đổi mới về chương trình và giáo trình giảng dạy
Giáo trình là một tập hợp của nhiều mặt nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo kèn Dăm kép. Những thành tố để xây đắp nên tính hiệu quả trong kỹ
thuật diễn tấu kèn Hautbois được dựa chủ yếu vào các giáo trình sau:
Giáo trình luyện tiếng;
Giáo trình luyện ngón (Ngón liền bậc, hợp âm rải, quãng 3,4,5...)
Bên cạnh những giáo trình vừa kể trên, chúng ta còn thấy những
giáo trình độc lập về các dạng thang âm như: Thang âm trưởng, thứ, ngũ
cung, toàn cung, Chromatique...
Có những giáo trình dùng để luyện riêng về cường độ của âm
thanh, về các dạng tiết tấu riêng biệt (cả bài chỉ có một dạng tiết tấu cố định,
phối hợp với những nét giai điệu khác nhau).
Có những giáo trình mang tính tổng hợp, có nghĩa là luyện cùng
một lúc cả nhịp điệu, tiết tấu, quãng nhảy, cường độ, sắc thái...
Ngoài những giáo trình nhằm phát triển kỹ thuật diễn tấu kèn Dăm
kép, trong kho tàng tác phẩm âm nhạc giành cho kèn Dăm kép chúng ta còn
có thể kế thừa được những vấn đề kỹ thuật trong việc thể hiện phong cách
các thời đại, tác giả và tác phẩm. Mặc dù khối lượng các tác phẩm giành cho
kèn Dăm kép không lớn như những tác phẩm giành cho đàn Piano, Violon,
những chưa có một nghệ sỹ kèn Dăm kép nào có thể chơi được hết số tác
phẩm được viết cho kèn Dăm kép dù họ có là bậc thầy của thế giới. Ngoài
những giáo trình giảng dạy về độc tấu kèn dăm kép, chúng ta còn thấy có
53
những giáo trình hoà tấu ở những thể loại khác nhau cho kèn Dăm kép như:
Duo, Trio... với Piano, với đàn Dây...
UVÍ DỤ
• Duo hai kèn Haubois Suite No 4 của J. SELLNER
• (sách 32 etudes của LOYON – trang cuối)
• Trio No 1 của J. HAYDN cho Flute, Haubois và Clarinette.
• (sách Trio No 1 – chương 2 Andante)
• Concerto F - Dur của J. S. Bach cho Haubois solo và dàn nhạc dây
• (sách con. F-dur oboe và dn)
Trong kho tàng âm nhạc thế giới dành cho kèn Hautbois, những giáo
trình giảng dạy trích trong kho tàng các tác phẩm cho dàn nhạc Giao hưởng
cũng giữ một vị trí rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia có nền âm nhạc tiên
tiến trên thế giới, việc sử dụng những giáo trình hoà tấu thính phòng và hoà
tấu dàn nhạc giao hưởng để đào tạo những nghệ sỹ kèn Hautbois nói riêng và
những nghệ sỹ giao hưởng nói chung đã trở thành một chủ thể quan trọng
trong đào tạo sinh viên ở các Nhạc viện.
Một vấn đề lớn trong khoa học sư phạm kèn dăm kép là: việc phối hợp
giảng dạy các loại giáo trình trên trong lĩnh vực kèn dăm kép. Cùng với
những giáo trình được biên soạn tại Việt Nam trong những năm qua, việc bổ
sung thêm những giáo trình mới, tác phẩm mới là điều cần thiết. Tuy nhiên
liều lượng của mỗi một loại giáo trình chính là yếu tố quyết định đến chất
lượng đào tạo.
54
Việc phân bổ những loại giáo trình này trong giáo án trực tiếp cho mỗi
một học sinh chứng minh cho khả năng sư phạm của một người thầy. Như
vậy khái niệm giáo trình kèn Hautbois phải được hiểu như một quá trình
“Động” và “Mở”. Có những giảng viên coi giáo trình là một định hướng bất
biến, chúng tôi cho rằng: Khung giáo trình thì nên giữ, nhưng luôn luôn nên
được bổ xung và chỉnh lý...
2.2.2. Kỹ thuật phát âm
Ngày nay, sự khác biệt trong chất lượng của biểu diễn âm nhạc, của
đào tạo âm nhạc phụ thuộc cơ bản bởi phương pháp phát âm. Điều này, có
quan hệ chung tới không chỉ ngành kèn mà còn có quan hệ với cả ngành dây,
gõ, piano...
Kỹ thuật phát âm theo quan điểm của các nhà vật lý học cũng như âm
nhạc học có ảnh hưởng tới các lĩnh vực sau: Độ chuẩn của âm thanh, cường
độ của âm thanh, màu sắc của âm thanh, chất lượng các mặt khác của âm
thanh... Theo những tài liệu khảo sát của các nhà vật lý châu Âu thì màu sắc
của âm thanh được xác định bởi đầu mút phát âm của âm thanh. Phần còn lại
của âm thanh chỉ nhằm mục đích duy trì màu sắc âm thanh đã được phát ra.
Theo kinh nghiệm của các giáo sư cũng như của các nhà âm nhạc học,
xuất phát từ phong cách âm nhạc cổ điển châu Âu, cường độ âm thanh khi
phát ra thông thường cần phải được duy trì tiếp tục. Tránh trường hợp bị
“chửa” tiếng. Có một số người cho rằng tại các nước ở Đông Á do ngữ điệu
của ngôn ngữ phong phú (tiếng Hán có 5 thanh sắc, tiếng Việt có 6 thanh
sắc...) từ đó ảnh hưởng sang tới việc tạo âm trong đàn dây và các loại kèn.
55
Trước đây, sự thay đổi quá nhiều màu sắc âm thanh theo quan điểm âm nhạc
của phương Tây được coi là thiếu cơ bản.
Gần đây, trong kỹ thuật phát âm của các nghệ sĩ Trung Quốc và Việt
Nam đã có nhiều thay đổi. Tiếng đàn, tiếng kèn đã ổn định hơn về màu sắc
âm thanh. Đây là điều mà ở Việt Nam các thầy thường gọi nôm na là tiếng
đàn hoặc tiếng kèn của người này “Tây” hơn người khác. Như vậy, đứng cả
về hai mặt vật lý và phong cách âm nhạc thì kỹ thuật phát âm là một đặc
điểm quan trọng tạo nên âm nhạc “bác học” ngày nay.
Trong kỹ thuật phát âm của ngành kèn nói chung và kèn dăm kép nói
riêng, chúng ta thấy xuất hiện ba thành tố đóng góp vào việc tạo nên chất
lượng âm thanh. Đó là:
1 - Vị trí và sự hoạt động của lưỡi.
2 - Vị trí và sự hoạt động của môi.
3 - Kỹ thuật nhả hơi.
Trong kỹ thuật phát âm của kèn Dăm kép, như chúng ta đã trình bày ở
phần trên, kỹ thuật nhả hơi có vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, kỹ
thuật phát âm lại chưa tốt không chỉ bởi kỹ thuật nhả hơi. Trong hơn nửa thế
kỷ qua, nhiều giảng viên dạy nhạc cụ đã sử dụng không đúng những thuật
ngữ cần thiết như đánh đàn, đánh lưỡi... Đối với khái niệm đánh đàn, chúng
ta nên chuyển sang khái niệm chơi đàn như những thuật ngữ “play” (tiếng
Anh), “jouer” (tiếng Pháp), “uгpamb” (tiếng Nga)...
Cũng tương tự như vậy, trong kỹ thuật kèn Dăm kép chúng ta nên sử
dụng thuật ngữ “phát âm” hơn là sử dụng thuật ngữ “đánh lưỡi”. Rất nhiều
56
học sinh kèn Dăm kép đã hiểu chữ “đánh” lưỡi như một động tác mạnh. Sai
lầm hơn nữa, nhiều em còn cho rằng khi “thổi to” thì cần phải “đánh lưỡi”
mạnh. Cũng từ nguyên nhân này, những âm thanh được phát ra thường bị
cứng, sắc nhọn... thực ra trong khái niệm của âm nhạc cổ điển, tất cả mọi âm
thanh đều mềm mại (soft).
Nếu chúng ta thay đổi được khái niệm trong kỹ thuật phát âm trong
kèn Dăm kép cũng như trong các nhạc cụ giao hưởng thì chất lượng âm
thanh của dàn nhạc giao hưởng sẽ được nâng cao lên một mức đáng kể. Như
vậy, sự hoạt động của lưỡi chỉ góp phần như một thành tố tạo nên âm thanh.
Đặc trưng của ngành kèn nói chung và kèn Dăm kép nói riêng, sự hoạt động
của lưỡi không tạo nên âm thanh khi không có hơi. Bởi vậy, cường độ mạnh
hay yếu phụ thuộc vào áp suất của luồng hơi thổi vào trong kèn chứ không
phụ thuộc vào đánh lưỡi mạnh hay yếu. Như vậy, nếu hoạt động của lưỡi lúc
nào cũng nhẹ nhàng và nét (bằng đầu lưỡi) thì chúng ta sẽ có những âm
thanh đồng nhất trong kỹ thuật phát âm.
Tuy vậy, cũng không phải chỉ có kỹ thuật duy nhất là bật đầu lưỡi.
Trong những chương chậm, cần phải miêu tả sự mềm mại, uyển chuyển thì sự
phát âm ở giữa lưỡi (đu, đa, đi) đó là cách phát âm mềm. Đôi lúc, trong
những kỹ thuật đặc tả của kèn gỗ, người ta còn sử dụng rung lưỡi hay rung
cuống lưỡi.
Kỹ thuật này được sử dụng rất nhiều trong những tác phẩm độc tấu
viết cho kèn Dăm kép của các tác giả thế kỷ XX.
57
Những điều bàn ở trên, khiến cho chúng ta suy nghĩ tới việc kỹ thuật
phát âm trên cây kèn Dăm kép không chỉ phục vụ cho kỹ thuật diễn tấu mà
còn phục vụ cho phương pháp biểu hiện phong cách tác giả, tác phẩm.
Những điều trình bày ở trên đã khẳng định vị trí và sự hoạt động của lưỡi
cũng như kỹ thuật nhả hơi, góp phần quan trọng trong việc phát âm kèn Dăm
kép.
Yếu tố thứ ba tác động đến chất lượng âm thanh của sự phát âm, đó là
vị trí và sự hoạt động của cơ môi. Có lẽ do những yếu tố bẩm sinh của con
người, khi cảm thấy căng thẳng, sức nặng trong quá trình biểu diễn người
chơi kèn Dăm kép thường ngặm chặt môi. Chúng ta có thể coi đó là những
phản ứng tự lỏng những cơ môi khiến cho tiếng kèn dễ phát hơn, âm sắc của
tiếng kèn mềm mại và óng mượt hơn. Đây cũng là những phương pháp cơ
bản mang tính nền tảng trong sự phát triển phương pháp diễn tấu kèn Dăm
kép nói chung và phương pháp phát âm kèn Dăm kép nói riêng.
Nói đến phải thả lỏng các cơ môi cũng có nghĩa là phải thả lỏng toàn
thân bởi cơ môi là một trong những loại cơ nhạy cảm nhất trong cơ thể con
người. Khi cơ môi ngậm chặt, luồng hơi dự trữ trong cơ thể sẽ bị nghẽn tắc
khi truyền vào trong thân kèn. Điều này, trong giới nghệ sĩ kèn Dăm kép
thường dùng một từ dân dã để thể hiện đó là “tiếng kèn bí”.
Ngoài những điều vừa trình bày mang tính cách chung về phương
pháp ngậm môi thì cũng còn những điều ngoại lệ. Nhìn chung, khi chơi ở âm
khu cao, môi cũng phải ngậm chặt hơn khi chơi ở âm khu trung và trầm. Ở
những nghệ sĩ bậc cao, trong kỹ thuật phát âm thì sự kết hợp giữa ba yếu tố:
58
hơi, môi và lưỡi là cả một nghệ thuật. Xét về mặt định lượng, cả ba yếu tố
trên đều hết sức “trừu tượng” đối với người nghệ sĩ biểu diễn.
Để phát ra một âm thanh an toàn và đẹp, để phát ra một âm thanh có
màu sắc phù hợp với tư tưởng của tác giả và tác phẩm thì sự phối hợp giữa
ba yếu tố trên là công việc cần phải nghiên cứu cả cuộc đời. Cũng có người
trong cả cuộc đời không tìm được ra những âm thanh vừa ý, cũng có người
coi đó là những tài năng “thiên bẩm”. Nhưng chúng tôi cho rằng, sự tìm tòi
và nghiên cứu cũng như việc ứng dụng những tìm tòi và nghiên cứu đó trong
thực tế chắc chắn sẽ đem lại những thành quả cho tương lai.
2.2.3. Kỹ thuật ngón
Nếu như ở kèn đồng kỹ thuật ngón đứng về tầm quan trọng được xét
dưới kỹ thuật về môi thì trong khái niệm của kèn gỗ kỹ thuật ngón chiếm
một phần quan trọng. Các yếu tố hơi, môi và lưỡi đóng góp trực tiếp vào việc
phát ra âm thanh, nhưng âm thanh ở cao độ nào phải nhờ có sự hỗ trợ của
các thế bấm của ngón. Trong các loại hình kèn gỗ có những loại phải sử
dụng cả 10 ngón tay như Basson; còn ở Flute, Hautbois và Clarinette người
ta phải dùng 1 ngón cái để giữ nhạc cụ, chỉ còn lại 9 ngón để phục vụ cho
việc thay đổi cao độ.
Cao độ của kèn Dăm kép được hình thành bởi luồng hơi nén vào ống
kèn. Khi luồng hơi tới những lỗ khoan trên thân kèn, không khí thoát ra tạo
nên sự thay đổi trong cao độ của âm thanh. Cũng như các loại kèn gỗ khác,
kèn Dăm kép cũng có những âm thanh cơ bản, những âm thanh này do
những lỗ khoan chính tạo nên. Những âm thanh còn lại là những âm thanh
59
mang tính chất bồi âm. Chính do những âm thanh bồi âm nên hệ thống ngón
bấm của kèn Dăm kép trở nên cực kỳ phức tạp.
Chúng ta hãy hình dung kèn Dăm kép chơi một bản nhạc một bè, thì
hệ thống ngón bấm tương tự như khi chơi một bản nhạc trên đàn piano mà
mỗi một nốt nhạc là một hợp âm khác nhau. Cũng như vậy, chúng ta có thể
so sánh với những nhạc cụ dây khi phải diễn tấu những tác phẩm phức điệu
của Bach. Điều này có nghĩa là trong nghệ thuật ngón bấm kèn Dăm kép có
những ngón phải giữ, có những ngón phải mở và có những ngón phải đóng.
Chính vì lý do trên, vấn đề đặt nền móng và phát triển hệ thống ngón bấm
trên kèn Dăm kép luôn luôn được các nhà sư phạm quan tâm và nghiên cứu.
Ở nhiều nước Châu Âu, người ta đã cho trẻ em học đàn Piano trước
khi học kèn dăm kép. Quá trình chuẩn bị trước này tạo nên phản xạ tự nhiên
cho các ngón hay nói một cách khác là làm tăng khả năng độc lập của mỗi
ngón và chủ động điều khiển được trọng lực của mỗi ngón tay.
Trong giáo trình kèn Dăm kép có những phần dành riêng cho việc
phát triển kỹ thuật ngón.
2.2.4. Biểu cảm âm nhạc
a) Biểu cảm âm nhạc và Phong cách âm nhạc Cổ điển
Mối quan hệ giữa Biểu cảm âm nhạc và Phong cách âm nhạc:
Trong thế giới âm nhạc, không thể có một loại biểu cảm chung chung mà
bao giờ biểu cảm âm nhạc cũng gắn liền với Phong cách âm nhạc các thời
kỳ, các tác giả và các tác phẩm.
60
Mối quan hệ giữa Biểu cảm âm nhạc và Phong cách âm nhạc thời
kỳ Cổ điển, lãng mạn.
Những yếu tố phong cách của tác giả, tác phẩm ảnh hưởng đến cảm
xúc âm nhạc. Một vấn đề đặt ra trong cuộc sống biểu diễn, đó là:
- Nhiều nghệ sỹ kèn Dăm kép chơi rất đúng phong cách tác giả, tác
phẩm nhưng lại thiếu cảm xúc âm nhạc.
- Ngược lại, có những người chơi concerto Haendel, Haydn viết cho
Dăm kép, rất giàu cảm xúc âm nhạc nhưng lại không có gì liên quan đến
phong cách âm nhạc của tác giả.
- Đối với những người biểu diễn kèn Dăm kép có tài thì việc đầu tiên
phải trung thành với tác giả, tác phẩm. Bản thân sự rung cảm âm nhạc cùng
với tác giả cũng đã tạo nên cảm xúc âm nhạc.
Tiến thêm một bước nữa, trong khuôn khổ của phong cách tác giả,
người nghệ sỹ biểu diễn kèn Dăm kép còn phải tìm ra cho mình những
phong cách biểu diễn mới. Nói một cách nôm na là phải diễn có cảm xúc
trong phong cách hay phải diễn đúng phong cách trong cảm xúc.
b) Đối với các tác phẩm của các nhạc sỹ Việt Nam
Đối với các tác phẩm của các nhạc sỹ Việt Nam, cảm xúc về phong
cách có khác biệt với các nhạc sỹ cổ điễn phương Tây. Trong thực tế, khi
diễn tấu những tác phẩm Việt Nam, những nghệ sỹ kèn dăm kép trẻ, do thiếu
kinh nghiệm sống, thiếu những hiểu biết nhất định về âm nhạc dân gian Việt
Nam nên trình diễn không thành công. Điều này trong thực tế rất khó lý giải
nên cần có sự trau dồi vốn sống và kinh nghiệm. Tất nhiên sự nhạy bén trong
61
việc diễn tả âm nhạc cũng đóng vai trò quan trọng. Ví dụ, đã có nhiều nghệ
sỹ kèn hơi nước ngoài biểu diễn những tác phẩm Việt Nam rất thành công.
Như vậy, đối với người nghệ sỹ kèn Dăm kép, việc kết hợp giữa vốn
sống và nhạy cảm âm nhạc chính là chìa khoá để mở cánh cửa kho tàng âm
nhạc Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Biểu cảm âm nhạc và Phong cách âm nhạc
thời kỳ Cận- Đương đại.
Phong cách âm nhạc đương đại và những kiểu kỹ thuật của kèn
Dăm kép:
Nhìn chung, khi chơi những tác phẩm đương đại của thế kỷ XX, người
nghệ sỹ kèn Dăm kép luôn vấp phải những khó khăn trong kỹ thuật về ngón.
Những khó khăn này nhiều khi nằm ngoài toàn bộ sự chuẩn bị kỹ thuật trong
nhiều năm. Chúng ta hãy xem xét những nhóm âm trì tục trong âm nhạc
đương đại và nhận thấy rằng những quãng nhảy xa như quãng 7, quãng 9,
quãng 11 thường xuất hiện nhiều và được chơi trong tốc độ nhanh. Những
nhóm âm trì tục này lại được điệp đi điệp lại nhiều lần khiến cho người nghệ
sỹ vấp phải những khó khăn tưởng chừng như không thể giải quyết nổi.
Trong thực tế, nhiều nghệ sỹ kèn Dăm kép đã phải bỏ ra một nữa thời gian
để luyện tập những chỗ khó như vậy.
Trong phong cách âm nhạc đương đại thế kỷ XX, nhiều tác giả còn sử
dụng những thế bấm mới tạo nên những chùm âm phát ra cùng một lúc trên
kèn Dăm kép. Việc luyện tập những thế bấm mới như thế đã nói ở trên cũng
tạo nên những khó khăn trong kỹ thuật ngón ở kèn Dăm kép. Đôi khi trong
62
kèn Dăm kép người ta còn sử dụng kỹ thuật láy đồng âm, nghĩa là trên cùng
một cao độ, với những kỹ thuật ngón khác nhau, người ta tạo ra những âm
sắc khác nhau. Đây cũng là một sáng tạo mới trong kỹ thuật ngón của kèn
Dăm kép.
Mặc dù, số lượng tác phẩm Việt Nam đương đại chưa có nhiều dành
cho kèn Dăm kép nhưng theo chúng tôi, từ những thang âm ngũ cung của
phương Đông, từ những xúc cảm âm nhạc phương Đông, chắc chắn cũng sẽ
nảy sinh ra những khó khăn mới trong kỹ thuật kèn Dăm kép. Trong mối
quan hệ chung nhu vậy, sự phối hợp giữa kỹ thuật ngón và màu sắc âm nhạc
cũng như phong cách âm nhạc là điều khiến cho các nhà sư phạm kèn Dăm
kép phải tìm tòi, suy nghĩ. Sự chuẩn bị cho học sinh trong những ngày ở nhà
trường là rất quan trọng. Chỉ có những người thầy có nhiệt huyết và có
phương pháp giảng dạy khoa học mới có thể giúp cho thế hệ nghệ sỹ tương
lai kèn Dăm kép đáp ứng được với mọi yêu cầu về kỹ thuật.
Gần đây, nhạc sỹ Nguyễn Phúc Linh đã sáng tác và xuất bản một tác
phẩm mới cho kèn Hautbois và kèn Basson với những thủ pháp sáng tác mới
mang tính đương đại.
Trong chương II tác phẩm “ Petite Suite” cho Hautbois và Piano của
nhạc sỹ Phúc Linh mới sáng tác ( 2010 ), chúng ta thấy xuất hiện những
chùm hợp âm trên kèn Hautbois ( Double harmonic):
63
Trong chương III của tác phẩm này, chúng ta lại thấy sự xuất hiện của
những chùm hợp âm màu sắc…..
Trong tác phẩm” Hoàng hôn Tây hồ” ( 2011) viết cho kèn Basson solo
khong phần đệm, chúng ta cũng thấy nhạc sỹ Phúc Linh có cách thể hiện
tương tự:
Tất cả các cơ sở nền tảng của nghệ thuật diễn tấu kèn Dăm kép đều để
đạt tới đỉnh điểm của cảm xúc âm nhạc. Theo quan niệm như vậy, chúng ta
64
sẽ đụng chạm đến hai vế của một vấn đề. Đó là vế kỹ thuật và vế cảm xúc
trong nghệ thuật diễn tấu. Mối quan hệ tương tác giữa hai phạm trù này có
người cho rằng, kỹ thuật là những vấn đề khô khan, cứng nhắc và cảm xúc là
thế giới của tâm linh. Cũng có người cho rằng những sáng tạo về mặt cảm
xúc âm nhạc lại chính là yếu tố kích thích để phát triển và nâng cao nghệ
thuật diễn tấu, kỹ thuật. Cũng có người lại cho rằng sự thành thục mọi kỹ
thuật là chưa đủ, bởi mục đích của kỹ thuật là thể hiện được cảm xúc của âm
nhạc. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là, để diễn tấu một tác phẩm, yếu tố kỹ
thuật là yếu tố cần thiết và yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành công của
tác phẩm chính là cảm xúc âm nhạc.
Cảm xúc âm nhạc đối với những người nghệ sỹ ở trình độ cao không
hẳn đã là vấn đề trừu tượng. Sức hấp dẫn của buổi biểu diễn không chỉ dừng
ở những cảm xúc âm nhạc mang tính trừu tượng. Trong luận án tiến sĩ “Một
số vấn đề về phương pháp biểu diễn của kèn, gõ giao hưởng...” của Phó Giáo
sư - Tiến sĩ Nguyễn Phúc Linh có đề cập tới khái niệm “tĩnh” và “ động ”
trong nghệ thuật biểu diễn.
Những yếu tố kỹ thuật là một quá trình vận động mang nhiều tính chất
“ động ”. Khi người nghệ sỹ đã đạt được tới đỉnh cao của kỹ thuật thì tính
chất “động” đó biến hóa thành tính chất “tĩnh”. Nhờ tính chất “tĩnh” này mà
những người nghệ sỹ tài năng vừa có thể tỉnh táo trong khi diễn tấu những
bản nhạc khó, nhưng đồng thời họ cũng “đắm say” trong những âm hưởng
âm nhạc do mình tạo ra. Điều này cũng rất phù hợp với quy luật: trong “tĩnh”
có “động”, trong “động” có “tĩnh”. Từ đó, chúng ta có thể cho rằng trong kỹ
thuật có cảm xúc và trong cảm xúc âm nhạc cũng có kỹ thuật.
65
Chúng ta có thể xem xét những vấn đề kỹ thuật ảnh hưởng đến cảm
xúc âm nhạc như sau:
- Âm sắc của tiếng kèn.
- Độ chuẩn của tiếng kèn.
- Độ vang của cường độ, sắc thái.
- Những vấn đề về nhịp điệu, tiết tấu.
2.3. Vai trò của các giáo trình phát triển kỹ thuật
Đối với việc đào tạo biểu diễn âm nhạc phương Tây nói chung và đào tạo
biểu diễn kèn dăm kép nói riêng, việc phát triển kỹ thuật diễn tấu có một tầm
quan trọng đặc biệt. Những vấn đề kỹ thuật được hình thành qua lịch sử cải
tiến nhạc cụ trong nhiều thế kỷ đã tạo nên được nền tảng cho sự phát triển kỹ
thuật diễn tấu của kèn dăm kép. Đối với mỗi loại kèn hơi lại có những
phương pháp luyện tập kỹ thuật khác nhau và từ đó hình thành nên những
giáo trình phát triển kỹ thuật khác nhau. Quá trình phát triển kỹ thuật của kèn
dăm kép đi từ những vấn đề kỹ thuật đơn giản đến phức tạp và chuyên sâu ở
nhi u kỹ thuật khác nhau. Ví dụ: ề- Giáo trình kỹ thuật luyện tiếng: luyện tiếng đơn, luyện nhảy quãng
gần, luyện nhảy quãng xa….. - Giáo trình luyện kỹ thuật các loại Gamme khác nhau: Gamme trưởng,
thứ, Gamme ngũ cung, Gamme toàn cung, Gamme Cromatique…. - Giáo trình Etudes: Etudes gamme, Etudes chuyên về một dạng kỹ
thuật, Concerto Etudes…
66
- Đối với các tác phẩm âm nhạc đương đại thế kỷ XX và XXI, nhiều
vấn đề mới mẻ được đặt ra, vì vậy còn có những giáo trình luyện tập
kỹ thuật riêng về tiết tấu, nhịp điệu, về sự thay đổi nhịp, về các kỹ
thuật lưỡi, về sự thay đổi đột ngột của cường độ, sắc thái….
Nói tóm lại, đối với các Học viện âm nhạc, các giảng viên kèn dăm
kép cần sưu tầm đấy đủ các giáo trình phát triển kỹ thuật. Từ đó hệ thống
hóa lại một cách khoa học và phân bổ một cách khoa học trong từng giai
đoạn học tập của sinh viên. Việc tìm ra một phương pháp giảng dạy nhằm
phát triền kỹ thuật biểu diễn kèn dăm kép là một vấn đề cấp bách hiện nay tại
Việt nam và nhiều Quốc gia trong khu vực.
2.3.1. Vấn đề luyện tập gam trên kèn Dăm kép
Trong qui trình giảng dạy về các chủng loại gam cho Học sinh, Sinh
viên kèn Dăm kép, những người thầy luôn luôn phải tuân thủ nguyên tắc:
- Từ chậm đến nhanh.
- Từ dễ đến khó.
- Từ đơn giản đến phức tạp.
- Tứ âm vực ngắn đến âm vực dài.
Để đáp ứng những nguyên tắc trên, mỗi một Nhạc viện nổi tiếng trên
thế giới đều xuất bản những giáo trình luyện tập gam của riêng mình. Tất cả
những giáo trình đó đều phải tôn trọng những nguyên tắc đã nêu ở trên. Tất
nhiên, trong những giáo trình luyện tập gam của các giáo sư khác nhau đều
có những sự sáng tạo riêng biệt. Đây là một hệ thống mở, có nghĩa là họ có
thể tham khảo những phương pháp luyện tập của nhau. Ngày nay, trên thế
67
giới mỗi một giáo sư Nhạc viện lại còn sáng tạo nên những bài tập luyện
ngón riêng biệt. Những bài tập luyện ngón này đem lại những lợi ích thiết
thực cho tất cả Học sinh, Sinh viên từ sơ cấp đến cao học. Thậm chí, nó còn
rất lợi ích cho cả những nghệ sỹ biểu diễn nổi tiếng thế giới. Đôi khi người ta
coi những bài tập luyện ngón này như những động tác khởi động trong các
hoạt động thể dục thể thao. Ở những đất nước có thời tiết giá lạnh, những
hoạt động của ngón có tác dụng làm tăng sự lưu thông máu ở khu vực các
ngón tay, nhiệt độ của các ngón tay tăng lên và tạo nên sự mềm mại, linh
hoạt khi diễn tấu các đoạn nhạc khó.
Các hình thức luyện tập gam cũng như luyện ngón được tiến hành theo
những trình tự như sau:
Sự nhận biết của thị giác với những bài tập đã cho.
Sự thực hiện những bài tập với sự phối hợp của các ngón tay.
Sự tăng tốc hoạt động từ chậm đến nhanh của sự phối hợp đó.
Sự lặp đi lặp lại nhiều lần của các thế bấm mà theo các nhà
khoa học tạo nên sự phản xạ có điều kiện của các ngón tay.
Sự phản xạ có điều kiện đó được nhận biết bởi cảm giác và
được truyền về bộ não chuyển sang bộ nhớ.
Hiện tượng này cũng gần giống như sản xuất đồ hộp hoặc lương
khô, khi gặp phải những bản nhạc có những thế bấm tương tự thì những phản
ứng đã được ghi nhận trong bộ não sẽ tự điều hành (automatique)sự họat
động và phối hợp hoạt động của các ngón tay.
68
Như vậy, quá trình tích lũy và ghi nhớ những hoạt động của ngón tay
là quá trình làm giàu ngân hàng động tác của những ngón tay trong bộ não.
Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng tới quá trình gửi tiền và rút tiền
trong ngân hàng tài chính.
Chúng ta bước sang một lĩnh vực thứ hai là lĩnh vực tập các chủng loại
gam. Việc luyện tập gam cũng giống như tập các bài tập luyện ngón. Nó
được tiến hành như các bài tập thể dục buổi sáng. Điều khác hơn là những
chủng loại gam này gắn liền với những tác phẩm âm nhạc của từng thời
kỳ.Ví dụ:
- Thời kỳ Trung Cổ và Phục Hưng: gam tự nhiên.
- Thời kỳ Tiền cổ điển, Cổ điển và Lãng mạn: người ta sử dụng những
loại gam trưởng , gam thứ hòa thanh và thứ giai điệu. Bên cạnh đó, người ta
còn sử dụng gam bán cung, gam 12 âm (Chromatique)
- Thời kỳ Cận đại - Trường phái Ấn tượng: người ta phải luyện tập
gam ngũ cung và gam toàn cung kết hợp với hệ thống gam trưởng, thứ và 12
âm.
- Thời kỳ âm nhạc Đương đại thế kỷ XX: người ta sử dụng tất cả các
loại thang âm đã có trong lịch sử âm nhạc.
Đối với những nghệ sỹ kèn Dăm kép (đặc biệt là đối với các nghệ sỹ
kèn Hautbois) Việt Nam, việc luyện tập các loại hình gam ngũ cung là việc
cần thiết. Trên cơ sở các loại hình gam ngũ cung, các nhạc sỹ sáng tác hoặc
các giảng viên kèn dăm kép nên soạn thảo những giáo trình Etudes nhằm
phát triển những vấn đề kỹ thuật trong Etudes ngũ cung.
69
2.3.2. Vai trò của các giáo trình Études trong việc phát triển kỹ thuật
ngón
Những giáo trình études chính thống trong hệ thống các bậc học Sơ
cấp, Trung cấp và Đại học được coi là những giáo trình nền tảng của sự phát
triển kỹ thuật ngón. Cũng như việc luyện tập gam, những bài etudes giải
quyết những khúc mắc trong sự kết hợp hệ thống ngón bấm. Tuy nhiên, tác
dụng của études với sự phát triển kỹ thuật ngón còn có những điểm khác biệt
so với luyện tập gam. Nhiều giáo trình études được xây dựng để nhằm phát
triển kỹ thuật chạy gam.
Có những bài études chuyên cho 1 dạng kỹ thuật của kèn dăm kép. Ví
dụ:
• Études chạy gam liền bậc chuyển đổi giữa điệu thức trưởng và thứ.
• Études chạy hợp âm rải cùng với sự chuyển đổi điệu thức trưởng và
thứ, kết hợp légato, staccato, détaché, marcato (lần 1 légato, lần 2 stacato, lần
3 détaché…)
• Études về các kiểu nốt trang trí và Trille.
• Études về những quãng nhảy xa.
• Cũng có nhiều giáo trình etudes còn mang theo trong nó những
cảm xúc âm nhạc, khi tập chúng người ta phải tập như tập một tác phẩm âm
nhạc.
• Có những bài etudes được phối thêm phần đệm Piano và phát triển
lớn hơn đã trở thành hình thức Concerto Études.
Một điều cần phải lưu ý trong kỹ thuật études là người học sinh luôn
luôn phải bắt đầu tập chậm, tránh mắc phải những lỗi kỹ thuật tạo nên những
70
nét hằn sâu trong bộ não về lỗi kỹ thuật đó. Trong việc phát triển kỹ thuật
ngón, chúng ta còn cần lưu ý tới một đặc điểm của kèn Dăm kép, đó là hệ
thống ngón bấm của kèn Dăm kép được xếp theo thang âm Chromatique. Ở
những études xảy ra những vấn đề kỹ thuật phải giải quyết về ngón bấm mà
những người thầy và học sinh hay gọi là “chéo ngón”. Chúng ta phải tập
trung thời gian, sức lực và trí tuệ để giải quyết trứơc những khó khăn về kỹ
thuật đó.
Trong những giáo trình etudes được sử dụng có những giáo trình
chính, giáo trình phụ và giáo trình tham khảo. Trong phạm vi có hạn của đề
tài, chúng tôi chỉ đưa ra những giáo trình chính ở trên. Đây là những giáo
trình đã được các nhạc viện nổi tiếng trên thế giới chọn lựa. Có tính bắt buộc
đối với mỗi học sinh - sinh viên của từng cấp học.
2.3.3. Sự hoàn thiện về vấn đề giáo trình và tư liệu giảng dạy các chuyên
ngành kèn Dăm kép
a) Tầm quan trọng của việc mở rộng nguồn tư liệu nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép.
• Hệ thống giáo trình các chuyên ngành kèn Dăm kép Tây Âu: Pháp,
Anh, Đức…
• Hệ thống giáo trình các chuyên ngành kèn Dăm kép Bắc Mỹ: Hoa Kỳ,
Canada…
• Hệ thống giáo trình các chuyên ngành kèn Dăm kép Đông Bắc Á: Nhật
bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…
• Sử dụng nguồn tác phẩm mới trong nước và quốc tế nhằm bổ xung tư
liệu cho các chuyên ngành kèn Dăm kép.
71
• Tham khảo và nghiên cứu các hệ thống giáo trình các chuyên ngành
kèn Dăm kép của Tây Âu và Bắc Mỹ.
c) Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cập nhật tư liệu nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép
Ngày nay, công nghệ thông tin đã tác động đến hầu hết các ngành nghề trên
thế giới. Việc tận dụng được công nghệ thông tin để phục vụ cho việc sưu
tầm. bổ sung các tài liệu, giáo trình nhằm phát triển kỹ thuật diễn tấu kèn dăm
kép là điều cần thiết. Chúng ta có thể dựa vào công nghệ thông tin để nâng
cao chất lượng đào tạo với các giải pháp sau:
- Sử dụng và truy cập Internet
- Thông qua công nghệ thông tin mua tư liệu, tác phẩm mới trên phạm vi
toàn thế giới.
- Tận dụng sự giúp đỡ của hiệp hội Dăm kép thế giới thông qua công
nghệ thông tin
- Tham dự các Hội thảo Quốc tế về phương pháp sư phạm các chuyên
ngành kèn Dăm kép.
UTiểu kết chương 2
Cũng như các nhạc cụ phương tây khác, việc tiếp cận với những
phương pháp sư phạm đỉnh cao trong đào tạo nhạc cụ phương Tây nói chung
và kèn Dăm kép nói riêng cũng là một vấn đề khoa học cần phải được nhiều
nhà nghiên cứu xem xét. Là một nghệ sĩ, giảng viên kèn Dăm kép tốt nghiệp
ở nhạc viện nước ngoài và đã có thời gian công tác khá lâu năm, tác giả luận
án cho rằng, việc nghiên cứu về giáo dục học âm nhạc cho các chuyên ngành
biểu diễn là điều phải thực sự được đẩy mạnh trong thế kỷ XXI.
72
Quá trình phát triển mang tính chuyên nghiệp cao của các chuyên
ngành kèn dăm kép ở Việt nam được xây dựng trên nền tảng phát triển kỹ
thuật diễn tấu và phương pháp biểu hiện âm nhạc trên kèn dăm kép. Sự đổi
mới về chương trình và giáo trình giúp ích cho việc xây dựng nền tảng kỹ
thuật cao trong nghệ thuật biểu diễn :
Giáo trình luyện tiếng;
Giáo trình luyện ngón (Ngón liền bậc, hợp âm rải, quãng 3,4,5...)
Giáo trình độc lập về các dạng thang âm như: Thang âm trưởng,
thứ, ngũ cung, toàn cung, Chromatique...
Có những giáo trình dùng để luyện riêng về cường độ của âm
thanh, về các dạng tiết tấu riêng biệt
Có những giáo trình mang tính tổng hợp, có nghĩa là luyện cùng
một lúc cả nhịp điệu, tiết tấu, quãng nhảy, cường độ, sắc thái. Tất cả các vấn đề về kỹ thuật phát âm, kỹ thuật ngón, kỹ thuật hơi….
Đều được thể hiện qua nội dung đào tạo nằm trong các giáo trình. Việc tìm
ra những phương pháp thích hợp để truyền đạt cho sinh viên các chuyên
ngành kèn dăm kép là một nhiệm vụ quan trọng.
73
UBiểu đồ 3U: Vai trò của các giáo trình Gamme, Études
trong phát triển kỹ thuật biểu diễn kèn dăm kép
CHƯƠNG 3
Sự nhận biết của thị giác với những bài tập đã cho
Kü thuËt vÒ h¬i
Kü thuËt ph¸t ©m
Kü thuËt ngãn
Sù phèi hîp c¸c ngãn tay
Sù phèi hîp vÒ h¬i, ngãn,
m«i, r¨ng l−ìi
Sù lÆp ®i lÆp l¹i nhiÒu lÇn cña c¸c
ho¹t ®éng
Sù t¨ng tèc cña c¸c ho¹t ®éng
phèi hîp
Sự thùc hiÖn
c¸c bài tập đã cho
Sự phản xạ có điều kiện đó được nhận
biết bởi cảm giác và được truyền về
não bộ - chuyển sang bộ nhớ.
74
CHƯƠNG III
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BIỂU DIỄN VÀ GIẢNG DẠY
CÁC CHUYÊN NGÀNH KÈN DĂM KÉP
Bước sang thế kỷ XXI, sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng của đội
ngũ giảng dạy âm nhạc nói chung và giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm
kép nói riêng giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng con người mới và
xã hội văn hóa mới. Để có thể có được một chất lượng đào tạo cao tương
đương với trình độ giáo dục âm nhạc quốc tế và khu vực, việc hoàn thiện và
nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép
giữ một vị trí quyết định.
Ông cha ta đã dạy rằng: “Có thầy tốt mới có trò tốt”, chính vì vậy, công
tác nghiên cứu lý luận nhằm nâng cao kiến thức cho người thầy sẽ giúp cho
phương pháp luận sư phạm sẽ ngày càng cao hơn.
Sau nhiều thế kỷ hoạt động đào tạo của các trung tâm đào tạo âm nhạc,
các nhạc viện trên thế giới, các nhà nghiên cứu về giáo dục âm nhạc đã công
nhận một chu kỳ phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ nghệ sĩ và
giảng viên âm nhạc nói chung và giảng viên kèn Dăm kép nói riêng.
Biểu đồ 4: Chu trình phát triển
Nghệ sĩ biểu diễn giỏi Học tập về lý luận sư phạm âm nhạc
Thực tập giảng dạy âm nhạc Trở thành giảng viên âm nhạc
Trở thành các Giáo sư giảng dạy tại các nhạc viện Đào tạo
ra những nghệ sĩ giỏi.
75
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, một đất nước khi có những nghệ sĩ
giỏi cùng với việc hoàn thiện về tri thức sẽ dẫn đến hiệu quả là có thể nâng
cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy âm nhạc nói chung và các chuyên
ngành kèn Dăm kép. Một hiện tượng thường xảy ra là một quốc gia có nhiều
nghệ sĩ giỏi, qua chu trình phát triển nói trên lại càng có nhiều nghệ sĩ giỏi và
giáo sư giảng dạy nhạc cụ giỏi. Ngược lại, khi một quốc gia không có hoặc có
ít các nghệ sĩ biểu diễn kèn Dăm kép giỏi thì rất khó có khả năng sản sinh ra
nhiều giáo sư dạy nhạc cụ giỏi.
3.1. Tầm quan trọng của việc đào tạo sau đại học các chuyên ngành kèn
Dăm kép
Nền giáo dục âm nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam được bắt đầu vào
năm 1956 cùng với chủ trương và quyết định của nhà nước về việc thành lập
Trường Âm nhạc Việt Nam. Ở vào giai đoạn đầu này, các khóa đào tạo chỉ
với thời gian 18 tháng, sau đó mới phát triển thành trung cấp ngắn hạn 4 năm.
Cũng vào thời điểm này cũng bắt đầu có đào tạo sơ cấp âm nhạc. Nhiều nghệ
sỹ giảng viên đứng đầu một số chuyên ngành đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc
trong trường sơ cấp này. Những năm đầu của thập kỷ sáu mươi của thế kỷ XX
(1961) đã bắt đầu có sự hiện diện của khóa trung cấp chính quy đầu tiên. Hai
hình thức đào tạo ngắn hạn và dài hạn bậc trung học này đã phát triển ra khắp
các địa phương trên toàn quốc cho tới ngày nay.
Trong hoàn cảnh kháng chiến chống Mỹ, những học sinh tốt nghiệp bậc
trung học đã đáp ứng được với nhu cầu công tác của xã hội. Tuy nhiên, với sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 60,
Trường Âm nhạc Việt Nam đã mở những khóa dự bị đại học đầu tiên. Phải
chờ đến những năm đầu của thập kỷ 70, khi một số giảng viên trẻ tốt nghiệp ở
76
các Nhạc viện Liên xô (cũ) và Đông Âu trở về chúng ta mới mở những khóa
đại học đại trà cho các nhạc cụ kèn Dăm kép.
Xác định được tầm quan trọng của việc đào tạo sau đại học cho ngành
âm nhạc nói chung và cho ngành Dăm kép nói riêng, Nhà nước, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Bộ Văn hóa – Thông tin đã cho phép Nhạc viện Hà Nội (nay là
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) và Nhạc viện Tp.HCM đào tạo những
khóa đầu tiên của bậc cao học. Những khóa đầu tiên này được mở vào những
năm 90 của thế kỷ XX đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong
đào tạo âm nhạc chính quy tại Việt Nam.
3.1.1. Ý nghĩa của việc đào tạo cao học, nghiên cứu sinh trong việc nâng
cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy các chuyên ngành kÌn D¨m kÐp
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XX, bên cạnh việc đào tạo bậc
học cao học, Nhà nước còn cho phép đào tạo bậc học nghiên cứu sinh. So với
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta có một may mắn lớn là có
một đội ngũ các GS, PGS, TSKH, TS được Liên xô (cũ) và các nước XHCN
Đông Âu đào tạo. Lực lượng các nghệ sỹ giảng viên đầu ngành này tuy
không dư thừa nhưng cũng đủ để đào tạo sau đại học.
Ý nghĩa của việc đào tạo sau đại học là nhằm vào việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ làm công tác biểu diễn, sáng tác, lý luận và sư phạm âm
nhạc. Trong đội ngũ cán bộ này, chúng ta thấy có sự xuất hiện của các nghệ
sỹ giảng viên kèn Dăm kép.
Đội ngũ những nghệ sỹ, giảng viên kèn Dăm kép đã có những đóng
góp cho sự nghiệp phát triển nền âm nhạc Việt Nam nói chung và đào tạo kèn
Dăm kép nói riêng. Chúng ta có thể thấy những gương mặt nghệ sỹ giảng viên
kèn Dăm kép như:
77
a/ Kèn Basson
- PGS –TS - NSUT Nguyễn Phúc Linh – nguyên Phó Giám Đốc, Bí thư
Đảng ủy, Viện trưởng Viện Âm nhạc Nhạc viện Hà nội (nay là Học Viện Âm
nhạc Quốc Gia Việt Nam).
- Ths. NSUT Nguyễn Trí Dũng, PGĐ, Soliste Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam.
- Ths. Lương Thăng Long - Giảng viên nhạc viện Tp.HCM, Soliste Dàn
nhạc Giao hưởng Tp.HCM, Dàn nhạc Giao hưởng Nhạc viện Tp.HCM.
- Ths. Đoàn Thanh Tùng – Giảng Viên HVANQGVN, Soliste Dàn
nhạc Giao hưởng Hà Nội.
b/ Kèn Hautbois
- Ths. NSUT Phạm Ngọc Doanh – Phó Giám Đốc Nhạc viện Tp.HCM,
Soliste Dàn nhạc Giao hưởng Tp.HCM, Dàn nhạc Giao hưởng Nhạc viện
Tp.HCM.
- Ths. Ngô Phương Đông – Phó chủ nhiệm khoa Kèn – Gõ
HVANQGVN, Soliste Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội.
- Phan Việt Cường – HV cao học HVANQGVN, Soliste Dàn nhạc Giao
hưởng Hà Nội.
Đội ngũ các Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ chuyên ngành kèn Dăm kép
là một lực lượng rất quan trọng trong việc bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ
cao và đào tạo tài năng đỉnh cao trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Mặc
dù đội ngũ này còn mỏng nhưng với sự trợ giúp của các GS, TS các chuyên
ngành biểu diễn nhạc cụ phương Tây, có thể đảm đương được trách nhiệm
đào tạo đại học và bước đầu đào tạo thạc sĩ tại Việt Nam.
Tại các cơ sở đào tạo âm nhạc nói chung và đào tạo kèn Dăm kép nói
riêng trên phạm vi toàn quốc, lực lượng cán bộ có trình độ sau đại học còn
78
quá mỏng. Nhà nước, Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch cần có những định
hướng và những kế hoạch cụ thể cho sự nghiệp đào tạo sau đại học này.
Để phục vụ cho mục tiêu nói trên, chúng ta cần mở rộng các hoạt động
trên các lĩnh vực sau:
a/ Mở rộng việc đào tạo cao học ngành biểu diễn âm nhạc trong đó có
chuyên ngành kèn Dăm kép (về số lượng).
b/ Mở rộng và cấp phép cho việc liên kết đào tạo cao học âm nhạc
trong đó có chuyên ngành kèn Dăm kép với các Nhạc viện trên thế giới.
c/ Tăng cường mời các giáo sư, nghệ sĩ chuyên ngành kèn Dăm kép nổi
tiếng nước ngoài đến giảng dạy cho bậc đào tạo sau đại học ở Việt Nam.
d/ Thường xuyên cử những sinh viên giỏi và các giảng viên trẻ kèn
Dăm kép đi học sau đại học ở nước ngoài.
e/ Mở rộng các hoạt động biểu diễn giao lưu trong nước và quốc tế cho
các học viên cao học và nghiên cứu sinh.
f/ Thường xuyên tổ chức các hội thảo, báo cáo chuyên đề khoa học cho
các học viên cao học và nghiên cứu sinh nhằm rèn luyện khả năng nghiên cứu
khoa học và khả năng thuyết trình.
Trên thực tế, trong những năm qua, những giảng viên đã tốt nghiệp Đại
học trong và ngoài nước sau khi tốt nghiệp cao học đã có những thành tựu khả
quan về sư phạm. Điều này được chứng minh bằng kết quả học tập của Sinh
viên kèn nói chung và kèn Dăm kép nói riêng trong các ký thi Concours trong
nước và Quốc tế. Nhiều Sinh viên qua quá trình được học tập với các GS, TS,
Ths. Đã có chỗ đứng xứng đáng trong các dàn nhạc Giao hưởng. Những nhu
cầu phát triển và nâng cao chất lượng trong các lĩnh vực độc tấu, hòa tấu thính
phòng và hòa tấu Giao hưởng của đất nước ngày càng tang khi bước vào thập
kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Như vậy, đội ngũ nhân lực trình độ cao, hay nói
79
cách khác là đội ngũ nghệ sĩ giảng viên có học hàm, học vị sẽ là nguồn nhân
lực chính trong công tác đào tạo sau Đại học.
3.1.2. Đào tạo sau đại học – một quá trình đẩy mạnh công tác nghiên cứu
khoa học chuyên ngành
Nhiệm vụ chính trị của các Học viện và Nhạc viện bao gồm các công
tác chính:
a/ Công tác đào tạo Đại học và sau đại học.
b/ Công tác biểu diễn học thuật và biểu diễn phục vụ chính trị, xã hội.
c/ Công tác nghiên cứu khoa học.
Ba công tác nói trên vừa có những chức năng riêng biệt, vừa có khả
năng hỗ trợ lẫn nhau trong sự phát triển. Chúng ta có thể phân tích những
chức năng đó như sau:
- Công tác đào tạo Đại học và sau đại học là nhiệm vụ trung tâm của
một trường đại học.
- Công tác biểu diễn bên cạnh những nhiệm vụ phục vụ chính trị xã hội
còn là một phương pháp thực hiện khẩu hiệu: “Học đi đôi với hành”.
- Công tác nghiên cứu khoa học ngoài mục tiêu phục vụ cho việc đổi
mới giáo trình còn đi vào các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và đồng thời là môi trường cho các học viên cao học và nghiên cứu sinh
thực tập công tác nghiên cứu khoa học.
Bước sang thế kỷ XXI, trên phạm vi toàn thế giới những nghiên cứu
liên ngành về giáo dục âm nhạc đang được mở rộng. Bên cạnh đó, việc
nghiên cứu sâu về các lĩnh vực khoa học chuyên ngành trong biểu diễn và sư
phạm âm nhạc cũng rất phát triển. Đó là những nghiên cứu trên các lĩnh vực
lý luận về nghệ thuật biểu diễn âm nhạc, sư phạm âm nhạc, giáo dục học âm
nhạc, tâm lý học âm nhạc, mỹ học âm nhạc và xã hội học âm nhạc. Đi sâu hơn
80
nữa là các lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử chuyên ngành (Dăm kép) và phương
pháp sư phạm chuyên ngành (Dăm kép).
Đối với việc đào tạo cho chuyên ngành Hautbois và Basson sau đại học
chúng ta có hai hình thức đào tạo:
a) Đào tạo Thạc sĩ biểu diễn.
b) Đào tạo Thạc sĩ Sư phạm biểu diễn.
Đối với bậc đào tạo Tiến sĩ Nghệ thuật âm nhạc cho các chuyên ngành
biểu diễn âm nhạc phương Tây nói chung và kèn Dăm kép nói riêng chúng ta
hiểu rằng đó là hai lĩnh vực nghiên cứu:
a) Nghiên cứu về Lý luận nghệ thuật biểu diễn.
b) Nghiên cứu về Lý luận sư phạm biểu diễn âm nhạc.
Như vậy, dù đào tạo cho các nghệ sĩ và giảng viên kèn Dăm kép ở bậc
Cao học hay ở bậc Nghiên cứu sinh thì học viên và nghiên cứu sinh đều phải
nghiên cứu lý luận và trong thực tế, đó là sự khởi đầu của con đường nghiên
cứu khoa học trong âm nhạc. Dù là học biểu diễn hay học sư phạm biểu diễn
thì đều phải nghiên cứu về lý luận chuyên ngành. Những lý luận biểu diễn và
sư phạm chuyên ngành này được soi sáng bởi các khoa học liên ngành như:
Giáo dục học âm nhạc, Mỹ học âm nhạc, Tâm lý học âm nhạc và Xã hội học
âm nhạc…
Nói tóm lại, đây là một quá trình đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học chuyên ngành. Quá trình này giúp cho người học lý giải được những hiện
tượng xảy ra trong quá trình đi sâu vào nghệ thuật biểu diễn và giúp cho
người thày lý giải được cho Học sinh, Sinh viên những yêu cầu mang tính trù
tượng của nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép khi diễn tấu các tác phẩm âm
nhạc.
81
Việc đi sâu nghiên cứu khoa học sẽ giúp cho người giảng viên các
chuyên ngành biểu diễn âm nhạc trong đó có kèn Dăm kép được trang bị thêm
những phương pháp khoa học trong sư phạm âm nhạc. Từ đó, họ lại gợi mở
cho Sinh viên phương pháp học tập đúng, tăng khả năng hiểu biết và tăng tính
độc lập, sáng tạo cho Sinh viên.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, quá trình đào tạo sau đại học là một
quá trình tự đi sâu vào công tác nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của “Cán bộ
hướng dẫn khoa học”. Sự hướng dẫn trong phương pháp luận khoa học là một
quá trình gợi mở, quá trình tự sắp xếp mà từ đó sẽ dẫn tới những thành công
trong cả hai lĩnh vực lý luận và thực hành.
3.1.3. Nghiên cứu khoa học chuyên ngành và vấn đề nâng cao năng lực sư
phạm của giảng viên kèn Dăm kép ở các Nhạc viện tại Việt Nam
Trong khoa học về sư phạm âm nhạc, nếu người giảng viên chỉ biểu
diễn giỏi là chưa đủ. Họ cần bồi dưỡng kiến thức chung về âm nhạc và những
kiến thức chuyên sâu về nghệ thuật biểu diễn, về sư phạm âm nhạc. Sự kết
hợp giữa những kinh nghiệm biểu diễn tích lũy được qua nhiều năm tháng với
những kiến thức lý luận sẽ giúp cho người giảng viên dạy chuyên ngành kèn
Dăm kép có thể lý giải cho học sinh những hiện tượng cụ thể trong biểu diễn,
sự độc lập trong tư duy biểu diễn, sự sáng tạo trong nghệ thuật biểu diễn…
Để có được năng lực giảng dạy tốt, người giảng viên kèn Dăm kép cần
tham gia công tác nghiên cứu khoa học thường xuyên, một cách có ý thức
nhằm rút ra được những tri thức bổ ích cho việc phát triển sự nghiệp sư phạm
âm nhạc của bản thân.
Công việc nghiên cứu của những giảng viên kèn Dăm kép ở các Học
viện, Nhạc viện bao gồm:
82
- Thường xuyên đọc sách, truy cập Internet để tra cứu những tư liệu
mới nhất của thế giới về chuyên ngành của bản thân.
- Hàng năm định kỳ rà soát lại giáo trình giảng dạy và bổ xung những
tài liệu giảng dạy mới trong nước và quốc tế.
- Tham gia viết các công trình nghiên cứu chuyên đề về ngành nghề,
các tham luận trong các Hội thảo của khoa và của Nhạc viện…
- Tham gia viết các bài báo chuyên ngành cho các Tạp chí Âm nhạc.
- Thể nghiệm trong dàn dựng những tác phẩm đương đại mới của các
nhạc sĩ sáng tác Việt Nam và thế giới. Tiếp cận với phong cách biểu diễn của
các nghệ sĩ nước ngoài tới biểu diễn ở Việt Nam.
- Tiến hành thử nghiệm làm và sửa chữa kèn, dăm với mục đích nâng
cao chất lượng biểu diễn và giảng dạy kèn dăm kép.
- Nghiên cứu những diễn biến tâm lý của học sinh qua thực tế giảng
dạy.
Như ở phần đầu của chuyên đề này, chúng tôi đã trình bày về việc
chuyển hóa từ một “Nghệ sĩ biểu diễn kèn Dăm kép giỏi” trở thành “một
giảng viên dạy kèn Dăm kép giỏi”, đây là một quá trình chuyển hóa trong
diễn biến của “Tư duy phức hợp”.
Thế kỷ XX, “ tư duy đơn giản” ngày càng bộc lộ những bất cập, những
hạn chế và sai lầm của nó khiến cho con người bất lực không nhận ra được
tính phức hợp của giáo dục học âm nhạc nói chung và giáo dục biểu diễn nhạc
cụ nói riêng. Chính vì vậy, “Tư duy phức hợp” trở thành một con đường, một
quá trình tự rèn luyện, tự nghiên cứu tất yếu trong thời đại ngày nay, khi một
nghệ sĩ muốn trở thành một nhà sư phạm.
Một giảng viên, một nhà sư phạm giảng dạy kèn Dăm kép cần hiểu
rằng, việc giảng dạy, truyền thụ kiến thức và kinh nghiệm cho một con người
để họ có thể chơi nhạc cụ nói chung và chơi kèn Dăm kép nói riêng là một
83
quá trình rất phức tạp. Vào cuối thế kỷ XX, Edgar Morin đã cho rằng: “Chỉ có
tư duy phức hợp mới khai hóa được tri thức của chúng ta mà thôi”. Để xác
lập cơ sở vững chắc cho tư duy phức hợp, ông đã tập trung mọi nỗ lực vào
việc “triển khai một lý thuyết, một logic, một trí thức luận về tính phức hợp
để có thể nhận biết con người” F
1F.
Nghiên cứu khoa học chuyên ngành là một vấn đề thiết yếu nhằm nâng
cao năng lực sư phạm của giảng viên kèn Dăm kép ở các Nhạc viện tại Việt
Nam. Để truyền đạt được tri thức và những trải nghiệm về nghệ thuật biểu
diễn cho Sinh viên, chúng ta phải luôn nhớ rằng, Sinh viên là một con người –
một thực thể sống và luôn vận động, tư duy và sáng tạo. Họ có thể tiến bộ
nhanh, tiến bộ chậm, có thể mắc lỗi và có thể có những đột biến trong sự tiến
bộ. Chính vì vậy, việc truyền thụ kiến thức và tiếp thu kiến thức về nghệ thuật
biểu diễn là một quá trình “tư duy phức hợp”. “Tư duy phức hợp” khi diễn
biến trong việc truyền thụ và tiếp thu những sáng tạo vĩ đại của con người
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn âm nhạc thì phải được hiểu như một quá
trình “ triển khai một lý thuyết, một logic, một trí thức luận về tính phức hợp
để có thể nhận biết con người”...
3.2. Vai trò của sự đổi mới về phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo các chuyên ngành kèn Dăm kép
Phương pháp giảng dạy âm nhạc nói chung và giảng dạy kèn Dăm kép
nói riêng giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Phương pháp giảng dạy được tạo dựng nên bởi tri thức và kinh nghiệm của
người thầy trải qua nhiều thập kỷ biểu diễn và giảng dạy. Phương pháp học
1 Edgar morin “ Nhập môn tư duy phức hợp” ( Introduction à la pensee complex) Chu Tiến Ánh, Chu
Trung Can dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu.( Nhà xuất bản tri thức và Editions du Seuil-
2005)
84
tập của người Sinh viên âm nhạc vừa phải chịu ảnh hưởng phương pháp giảng
dạy của người thầy, vừa có tính độc lập tương đối. Để có một phương pháp
giảng dạy tốt, người thầy giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép cần phải
hiểu biết sâu sắc về những lĩnh vực sau:
a/ Khả năng tiếp thu của người học sinh mình dạy.
b/ Năng khiếu bẩm sinh của người học sinh mình dạy.
c/ Những năng khiếu thông qua rèn luyện của người học sinh mình dạy.
d/ Khả năng ghi nhớ của người học sinh đối với những dặn dò trên lớp
của người thày
e/ Khả năng sáng tạo của người học sinh mình dạy.
Ngoài ra, sự phát hiện của người thày về những lỗi mang tính hệ thống
(bước đầu của việc hình thành những cố tật) sẽ rất quan trọng để tìm ra những
biện pháp “trị liệu”.
Ở trình độ cao hơn như trình độ đại học kèn Dăm kép, tư duy của Sinh
viên không chỉ dừng ở vấn đề năng khiếu, sự cần cù luyện tập mà còn đòi hỏi
họ phải có tư duy hệ thống, tư duy lô gic và tư duy sáng tạo.
Bước sang thế kỷ XXI, việc đổi mới phương pháp giảng dạy của các
chuyên ngành biểu diễn nhạc cụ phương tây trong đó có kèn Dăm kép đã trở
thành một vấn đề phổ biến trên phạm vi toàn thế giới.
Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy kèn Dăm kép đã trở thành một
vấn đề bức thiết tại Việt Nam. Sự đổi mới này được đặt trong mối quan hệ
tương tác giữa nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy và quy trình, hình
thức giảng dạy.
Để có một phương pháp giảng dạy kèn dăm kép tốt, chúng ta cần lưu ý
những điểm sau:
85
a/ Phương pháp giảng dạy dù mang tính độc lập tương đối vẫn rất lệ
thuộc vào nội dung giảng dạy. Nội dung giảng dạy trong thời đại thế giới
phát triển không ngừng luôn cần được cập nhật và bổ sung định kỳ. Hàng
năm, số lượng tác phẩm đương đại được sáng tác và những giáo trình được
biên soạn cho chương trình giảng dạy kèn Dăm kép luôn được tăng thêm với
số lượng lớn. Khi đưa những tài liệu trên vào giảng dạy tại Việt Nam, chúng
ta đã đổi mới phần kỹ thuật diễn tấu cũng như vấn đề biểu cảm và phong cách
âm nhạc đương đại trong nội dung giảng dạy.
b/ Sự thay đổi, bổ sung về nội dung giảng dạy trong nhiều trường hợp
sẽ dẫn đến sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy. Nhiều tác phẩm nổi
tiếng mới được sáng tác trên thế giới nếu người giảng viên kèn Dăm kép
không được tiếp cận với sách (tổng phổ), đĩa CD hoặc DVD, không được tiếp
cận với các nghệ sỹ biểu diễn hoặc các giáo sư nước ngoài sẽ rất khó tìm ra
phương pháp hướng dẫn cho Học sinh, Sinh viên.
c/ Gần đây, trong các Học viện, Nhạc viện tại Việt Nam đã dần dần có
những quan niệm rõ ràng hơn trong mục tiêu đào tạo nghệ sỹ độc tấu, nghệ
sỹ hòa tấu thính phòng và nghệ sỹ giao hưởng. Do mục tiêu đào tạo các dạng
nghệ sỹ nói trên khác nhau (trong đó có nghệ sỹ kèn Dăm ké ) nên chắc chắn
sẽ dẫn đến sự khác biệt trong phương pháp đào tạo. Mặt khác, khi thực hiện
khẩu hiệu “học đi đôi với hành”, chúng ta cũng cần hiểu rằng bên cạnh việc
tăng cường vấn đề thực hành, chúng ta cần xác định chữ “hành” được thực
hiện một cách hoàn toàn khác biệt trong phương pháp giảng dạy nghệ sỹ độc
tấu, nghệ sỹ hòa tấu thính phòng và nghệ sỹ giao hưởng.
Qua kinh nghiệm của các giáo sư đầu ngành khi đưa sinh viên đi tham
dự các Concours quốc gia và quốc tế, chất lượng chuyên môn của các Học
sinh, Sinh viên các chuyên ngành biểu diễn nhạc cụ phương Tây nói chung và
86
kèn Dăm kép nói riêng ngày càng được nâng cao. Việc tìm hiểu nguyên nhân
và tìm ra những giải pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao
chất lượng đào tạo là vô cùng quan trọng. Tất nhiên, bên cạnh yếu tố phương
pháp giảng dạy, chất lượng học tập của Sinh viên còn phụ thuộc vào những
yếu tố khác như:
- Môi trường học tập của học sinh.
- Trình độ của người thầy.
- Khả năng tiếp thu và sáng tạo của Học sinh.
- Tiềm năng kinh tế của gia đình Học sinh.
- Cơ sở vật chất, chất lượng nhạc cụ phục vụ cho việc giảng dạy và học
tập.
- Những trang thiết bị như: Internet, thư viện điện tử, kho băng
đĩa….phục vụ cho việc cập nhật thông tin của thày và trò.
- Điều kiện để cử thày và trò đi tham dự các Concours Quốc tế.
Tất cả những yếu tố nói trên (bên cạnh những yếu tố về đổi mới
phương pháp giảng dạy) sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng đào tạo kèn
Dăm kép trở thành hiện thực.
3.2.1. Đào tạo nghệ sỹ độc tấu và hòa tấu thính phòng kèn Dăm kép
Như chúng ta đã biết, vai trò của nghệ sỹ độc tấu và hòa tấu thính
phòng kèn Dăm kép đã được khẳng định trên phạm vi toàn thế giới. Tại Việt
Nam, khi đời sống âm nhạc cổ điển bác học từng bước được nâng cao, vị thế
của nhũng nghệ sỹ và giảng viên kèn Dăm kép cũng từng bước được cải
thiện. Mỗi một loại hình đào tạo nghệ sỹ kèn Dăm kép đều có những nét đặc
trưng cần được tôn trọng. Tất nhiên, theo quan niệm thông thường,vị thế của
người nghệ sỹ độc tấu thường được xếp cao hơn người nghệ sỹ hòa tấu thính
87
phòng, cũng như vậy, vị thế của người nghệ sỹ hòa tấu thính phòng cũng
được xếp cao hơn nghệ sỹ hòa tấu giao hưởng.
Tuy nhiên, điều mang tính đặc trưng đối với các nghệ sỹ kèn Dăm kép
là những loại hình đào tạo nghệ sỹ kèn Dăm kép trên đều có những mối quan
hệ mật thiết với nhau. Nhìn ra thế giới, ít thấy những nghệ sỹ nổi tiếng kèn
Dăm kép chỉ biểu diễn độc tấu mà không tham gia hòa tấu thính phòng, chơi
giao hưởng hoặc giảng dạy trong các Nhạc viện. Khác với các ngành đào tạo
Piano, Violon và thanh nhạc… nơi công tác đào tạo được tập trung đỉnh cao
đối với nghệ thuật biểu diễn độc tấu, người nghệ sỹ kèn Dăm kép còn thực
hiện nhiệm vụ độc tấu trong hòa tấu thính phòng và dàn nhạc giao hưởng.
Tầm quan trọng và vị thế độc tấu của Hautbois và Basson trong hòa tấu
thính phòng và dàn nhạc giao hưởng ngày càng được khẳng định. Trong đời
sống âm nhạc của nhiều quốc gia trên thế giới, sẽ rất một màu khi chỉ có
những buổi hòa nhạc Giao hưởng mà không có các chương trình độc tấu và
hòa tấu thính phòng. Đối với ngành kèn gỗ nói chung và kèn Dăm kép nói
riêng, việc kết hợp giữa độc tấu và hòa tấu thính phòng trong một chương
trình biểu diễn là điều thường xảy ra. Chính vì vậy, người nghệ sỹ độc tấu kèn
Dăm kép cũng cần phải thành thục các kỹ năng hòa tấu thính phòng. Mặt khác
những kỹ năng hòa tấu thính phòng cũng đóng một vai trò quan trọng trong
hòa tấu dàn nhạc giao hưởng.
Chính vì những lý do trên, trong các khoa Kèn – Gõ của các Học viện,
Nhạc viện, chương trình đào tạo nghệ sỹ độc tấu cần được kết hợp chặt chẽ
với đào tạo nghệ sỹ hòa tấu thính phòng.
3.2.2. Đào tạo nhạc công kèn Dăm kép cho dàn nhạc giao hưởng
Bước sang thế kỷ XXI, trên đất nước Việt Nam đã hình thành những
thiết chế văn hóa và những tổ chức dàn nhạc giao hưởng có thể đáp ứng được
88
sự phát triển của nền âm nhạc cổ điển bác học của đất nước. Sự phát triển này
đã là một điều tất yếu đối với những quốc gia phát triển trong khu vực như
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn quốc và các quốc gia Đông Nam Á.
Điều đáng tự hào đối với đất nước Việt Nam là:
- Những nhạc công các dàn nhạc giao hưởng đều là những người Việt
Nam.
- Những tác phẩm của các nhạc sĩ Việt Nam sáng tác cho dàn nhạc giao
hưởng ngày càng nhiều đã chứng minh vị thế của âm nhạc giao hưởng trong
đời sống xã hội.
- Số lượng thính giả nghe giao hưởng tại các thành phố lớn ngày càng
tăng.
- Bên cạnh những chương trình biểu diễn các tác phẩm giao hưởng, dàn
nhạc Giao hưởng còn đóng góp vào các hoạt động biểu diễn khác như: chơi
Concerto cho độc tấu nhạc cụ với dàn nhạc, đơn ca với dàn nhạc giao hưởng,
biểu diễn những đêm giao hưởng hợp xướng, phần dàn nhạc cho Opera và
Ballet…
Số lượng những dàn nhạc giao hưởng lớn đã tăng lên đến 5 dàn nhạc:
Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam, Dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội
(Hanoi Philharmonic), Dàn nhạc giao hưởng Nhạc vũ kịch, Dàn nhạc Giao
hưởng Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Dàn nhạc Nhà hát Giao hưởng –
Nhạc vũ kịch Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh những dàn nhạc Giao hưởng
lớn, chúng ta đã manh nha có những dàn nhạc Giao gưởng nhỏ như: Dàn nhạc
Giao hưởng – thính phòng Học viện Âm nhạc Huế ( đã biểu diễn ra mắt tháng
3/2011 tại Huế). Dàn nhạc Giao hưởng thính phòng Nhà hát Quân
đội…Chúng ta có thể lạc quan về những thành tựu do các dàn nhạc Giao
hưởng trên đã đóng góp cho nền âm nhạc hàn lâm Việt Nam.
89
Qua những phân tích trên, nhiệm vụ đào tạo nhạc công giao hưởng của
các Học viện, Nhạc viện trong những năm tới là rất quan trọng. Tuy nhiên,
trong quá trình nhiều thập kỷ qua, sự giáo dục biểu diễn kèn Dăm kép còn chú
ý quá nhiều tới đào tạo nghệ sỹ độc tấu mà còn bỏ qua nhiều công đoạn đào
tạo kỹ năng hòa tấu dàn nhạc giao hưởng. Sự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của
các quốc gia có nền đào tạo nhạc công giao hưởng tiên tiến là điều cần thiết.
Qua nghiên cứu, tìm tòi, học tập, chúng ta cần vạch ra những sự đổi mới thiết
thực trong giáo trình giảng dạy hòa tấu dàn nhạc giao hưởng. Tại nhiều Nhạc
viện nổi tiếng, các Giáo sư ngành Kèn – Gõ nói chung và chuyên ngành kèn
Dăm kép nói riêng đã rất chú trọng đối với chương trình đào tạo nhạc công
giao hưởng. Chúng ta có thể tham khảo những giờ học sau đây
a) Mỗi nhạc viện có từ một đến hai dàn nhạc sinh viên. Dàn nhạc thứ
nhất thường dành cho các sinh viên từ Đại học 1 đến Đại học 2. Dàn nhạc thứ
hai dành cho những Sinh viên từ Đại học 3 đến Đại học 4… Tại Việt Nam,
nhiều nhạc viện còn có dàn nhạc cho Học sinh Trung cấp bên cạnh dàn nhạc
dành cho Sinh viên ( như Dàn nhạc trẻ của Học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam, Dàn nhạc của học sinh, sinh viên Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh).
b) Trong các giờ học bắt buộc, nhiều nhạc viện còn tổ chức những giờ
thị tấu các phân phổ dành cho kèn và gõ. Trong một giờ, sinh viên có thể thị
tấu những đoạn khó trong các bản giao hưởng khác nhau. Điều này sẽ rất ích
lợi cho Sinh viên sau khi ra trường, tham gia các dàn nhạc.
c) Nên tổ chức biểu diễn nhiều cho các em tham gia dàn nhạc ở trong
nước và quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc cho các em tham gia dàn nhạc
trẻ Đông Nam Á và Dàn nhạc trẻ Châu Á làm cho các em yêu nghề thêm và
tích lũy thêm những kinh nghiệm trong nghệ thuật biểu diễn dàn nhạc Giao
hưởng.
90
d) Nếu có điều kiện, cho các em tham gia các Festival và các cuộc thi
Concours dành cho dàn nhạc giao hưởng trẻ được tổ chức hàng năm trên thế
giới.
e) Nên tổ chức thu thanh, thu hình, sản xuất đĩa tiếng và đĩa hình cho
dàn nhạc Sinh viên nhằm quảng bá thành tựu đào tạo nhạc công giao hưởng
nói chung và đào tạo kèn Dăm kép nói riêng ở trong nước và quốc tế.
f) Vấn đề nhạc cụ và các trang thiết bị phục vụ cho việc học tập kèn
Dăm kép cũng cần được lưu ý. Học sinh cần có nhạc cụ tốt, kèn tốt, dăm tốt,
các chế độ bảo dưỡng hàng năm cần được tiến hành.
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm
kép – một nhu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng nghệ thuật của các
dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy các chuyên
ngành biểu diễn nhạc cụ phương Tây nói chung và giảng viên kèn Dăm kép
nói riêng là một nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Chất lượng của
nền âm nhạc giao hưởng nói chung và chất lượng biểu diễn của các dàn nhạc
Giao hưởng Việt Nam nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của đội
ngũ giảng dạy.
Trong giai đoạn mới, chúng ta cần chú trọng nâng cao chất lượng của
người giảng viên kèn Dăm kép trên nhiều mặt khác nhau:
a) Nâng cao chất lượng về khả năng biểu diễn.
b) Nâng cao chất lượng về sư phạm biểu diễn.
c) Nâng cao chất lượng về các mặt kiến thức khác.
91
3.3.1. Nâng cao chất lượng về khả năng biểu diễn
Để nâng cao chất lượng giảng dạy cho các giảng viên kèn Dăm kép,
điều quan trọng nhất là phải nâng cao trình độ biểu diễn. Đây chính là đặc thù
của việc dạy các chuyên ngành biểu diển âm nhạc. Người Sinh viên không chỉ
“nghe và tin” những lời thầy giải thích và giảng giải, mà còn tiếp thu trực tiếp
những kỹ thuật biểu diễn và những xúc cảm âm nhạc trong những lần thị
phạm của người thầy.
Muốn có một trình độ thị phạm tốt trong giờ dạy, bản thân người thày
dạy kèn Dăm kép phải là một nghệ sỹ xuất sắc trong cả độc tấu, hòa tấu thính
phòng và chơi dàn nhạc.
Để thị phạm tốt trong giờ dạy, người thầy phải có một trình độ cao, có
một sự chuẩn bị công phu trước giờ dạy, phải tập luyện trước những tác phẩm
sẽ phải thị phạm trong giờ dạy. Bởi số lượng học sinh đông, số lượng tác
phẩm học sinh chơi cũng rất nhiều nên việc thị phạm rất gần với việc thị tấu.
Như vậy, khả năng thị tấu của người thầy cũng phải đạt được trình độ xuất
sắc.
Những điều nói trên đã chứng minh sự khó khăn của các cơ sở đào tạo
kèn Dăm kép khi tuyển chọn những nghệ sỹ giỏi vào làm thầy. Đó là những
phân tích về những tiêu chuẩn cần và đủ trong nghệ thuật biểu diễn đối với
việc chọn lựa đội ngũ giảng viên kèn Dăm kép trên phạm vi toàn quốc.
Nếu phân tích về mặt ý nghĩa xã hội, người học sinh kèn Dăm kép và
đồng nghiệp sẽ rất quý trọng những người thày có nhiều chương trình biểu
diễn độc tấu và hòa tấu trong các phòng hòa nhạc hoặc xuất hiện trên truyền
hình… Uy tín thực sự của người thầy giảng dãy kèn Dăm kép là sự kết hợp
hài hòa giữa trình độ biểu diễn và khả năng sư phạm.
92
3.3.2. Nâng cao chất lượng về sư phạm biểu diễn
Sự kết hợp hài hòa giữa trình độ biểu diễn và khả năng sư phạm là một
bảo đảm cho sự hình thành những thành tích giảng dạy kèn Dăm kép. Đây là
mối quan hệ giữa “lý luận và thực hành”, giữa “nói và làm”, mối quan hệ này
tạo nên uy tín của người thầy qua nhiều năm tháng. Nói một cách giản dị hơn,
năng lực biểu diễn của người thầy thể hiện yếu tố “tay nghề” và năng lực sư
phạm của người thầy thể hiện “kiến thức và kinh nghiệm tích lũy” của người
thầy.
Khi bàn về việc nâng cao chất lượng về sư phạm biểu diễn kèn Dăm
kép, chúng ta hiểu rằng, người thầy bên cạnh việc có trình độ cao trong nghệ
thuật biểu diễn còn được trang bị những kiến thức về sư phạm đại cương và
những kiến thức sư phạm về chuyên ngành. Khác với những bộ môn sư phạm
khác, sư phạm biểu diễn vừa phải áp dụng những nguyên lý về giáo dục nói
chung vào lĩnh vực âm nhạc, vừa phải độc lập sáng tạo trong lĩnh vực biểu
diễn.
Giải thích được những điều mình làm trong biểu diễn tác phẩm cho
Sinh viên là một quá trình của tư duy trừu tượng, tư duy phức hợp. Hơn thế
nữa, việc hướng dẫn cho Sinh viên nắm những vấn đề về kỹ thuật diễn tấu và
khả năng biểu cảm cũng như phong cách âm nhạc còn được dựa vào khả năng
cảm thụ trực tiếp (khả năng bắt chước) bên cạnh những phân tích mang tính
khoa học.
Ở cấp độ cao hơn, người giảng viên dạy nhạc cụ nói chung và giảng
viên kèn Dăm kép nói riêng còn phải nghiên cứu phương pháp hướng dẫn sao
cho sinh viên không phát triển nghệ thuật biểu diễn một cách máy móc, dập
khuôn và thụ động. Phương pháp giáo dục âm nhạc ngày nay trên thế giới rất
93
đề cao việc học tập tích cực của Sinh viên nhằm phát triển khả năng độc lập
và sáng tạo của người học.
Trong những năm tới, việc mở thêm những khóa bồi dưỡng về sư phạm
âm nhạc cho những Sinh viên Đại học biểu diễn là điều cần thiết. Hiện nay,
trong các trường văn hóa nghệ thuật, những Sinh viên tốt nghiệp Đại học biểu
diễn thường được tuyển thẳng vào giảng dạy mà không qua bất kỳ một khóa
học về sư phạm âm nhạc nào. Điều này chắc chắn sẽ gây trở ngại cho quá
trình phát triển chung của nền giáo dục âm nhạc tại Việt Nam.
3.3.3. Nâng cao chất lượng về các mặt kiến thức khác
Trong nhiều năm đã qua, phương pháp giảng dạy nhạc cụ nói chung và
giảng dạy kèn Dăm kép nói riêng chủ yếu vẫn dựa vào phương pháp “truyền
nghề trực tiếp”. Người giảng viên dạy kèn Dăm kép vẫn được gọi là “thầy
đàn” hoặc “thầy kèn”, như vậy, chúng ta đã không đề cao vị thế của một
người giảng viên trong lĩnh vực tri thức khi bản thân một giảng viên âm nhạc
vừa là nghệ sĩ, vừa là một trí thức.
Việc trau dồi các mặt kiến thức khác sẽ bổ xung một cách hữu ích cho
quá trình giảng dạy kèn Dăm kép. Sau đây là những mặt người giảng viên kèn
Dăm kép cần nghiên cứu và học tập nhằm bổ xung cho kho tàng kiến thức của
bản thân:
a) Kiến thức về khoa học xã hội nhân văn
Ngày nay, khi các môn kiến thức chung của các ngành khoa học xã hội
– nhân văn đã ảnh hưởng trực tiếp đến các bộ môn chuyên ngành và tạo nên
các môn khoa học chuyên ngành thì việc tiếp cận với kho tàng tri thức rộng
lớn của nhân loại này đối với các giảng viên kèn Dăm kép là điều cần thiết.
Tất nhiên, những ngành khoa học này chỉ là những cơ sở nền tảng của tri thức
94
chung, nhưng nó cũng có vai trò “chìa khóa” trong việc mở tiếp những tri
thức về văn học, nghệ thuật.
b) Kiến thức về văn hóa nghệ thuật
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật, vì vậy những kiến thức về văn hóa
nghệ thuật sẽ là một bổ xung quan trọng trong kiến thức của một người giảng
viên kèn Dăm kép. Sự thể hiện những hình tượng nghệ thuật trong biểu diễn
âm nhạc gắn liền với những hình tượng về thiên nhiên, về con người và cuộc
sống xã hội. Thiếu những hiểu biết nhất định về văn hóa văn hóa nghệ thuật,
trí tưởng tượng của người thầy sẽ dễ bị “khô cứng”, thiếu tính sáng tạo và
cách xa với cuộc sống xã hội. Chính vì vậy, những kiến thức về văn hóa nghệ
thuật sẽ giúp cho người giảng viên kèn Dăm kép toàn diện hơn trong nghệ
thuật biểu diễn và trong cách truyền đạt của mình cho Sinh viên.
c) Kiến thức về các môn lý thuyết, lịch sử, phân tích âm nhạc…
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật được dựa vào sự thể hiện của âm
thanh. Âm thanh trong âm nhạc được tổ chức một cách khoa học bởi những lý
thueets và cơ cấu tổ chức của âm nhạc trong bản thân mỗi tác phẩm. Các môn
kiến thức âm nhạc như lý thuyết, lịch sử, phân tích âm nhạc… sẽ làm sáng rõ
nội dung của tác phẩm, giúp cho người giảng viên kèn Dăm kép hiểu đúng và
truyền đạt hiệu quả cho học sinh.
Những môn kiến thức này mang trong nó những khái niệm mang tính
lịch sử, tính dân tộc, tính biểu cảm, tính khoa học trong cấu trúc tác
phẩm…Điều này cũng tạo nên những ý nghĩa phong cách của tác giả, tác
phẩm và nghệ thuật biểu diễn kèn Dăm kép nhờ đó có thể thể hiện những tư
duy triết học, tư duy về thẩm mỹ mang tính giáo dục cho thính giả và thế hệ
trẻ sau này.
d) Kiến thức về ngoại ngữ và tin học
95
Bước sang thế kỷ XXI, để có thể hội nhập sâu với thế giới trong giáo
dục âm nhạc chuyên nghiệp, trong đào tạo các nghệ sĩ biểu diễn kèn Dăm
kép, người giảng viên tại các Học viện, Nhạc viện cần trang bị cho mình
những kiến thức tối thiểu về ngoại ngữ và tin học. Người giảng viên kèn Dăm
kép cần phấn đấu tới một trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) đủ để đọc và hiểu
những tư liệu trên thế giới viết về ngành nghề của mình. Điều này sẽ giúp cho
họ luôn cập nhật được với những biến động nghề nghiệp luôn đổi mới của thế
giới âm nhạc nói chung và kèn Dăm kép nói riêng.
Những sự trợ giúp của công nghệ thông tin như Internet, thư viện điện
tử… sẽ bổ xung những thông tin về chuyên ngành kèn Dăm, những hội nghị,
hội thảo và những công trình nghiên cứu mới được công bố của chuyên ngành
kèn Dăm kép. Ngoài ra, người giảng viên kèn Dăm kép còn được bổ xung
thêm những kiến thức mới về phương pháp biểu diễn các tác phẩm đương đại
mới được các nhạc sĩ thế giới sáng tác qua sự trợ giúp của Internet, qua những
tư liệu nghe và nghe nhìn (CD, DVD..) được chuyển tải từ Internet…
UTiểu kết chương 3
Bước sang thế kỷ XXI, sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng của đội
ngũ giảng dạy âm nhạc nói chung và giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm
kép nói riêng giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng con người mới và
xã hội văn hóa mới. Để có thể có được một chất lượng đào tạo cao tương
đương với trình độ giáo dục âm nhạc quốc tế và khu vực, việc hoàn thiện và
nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép
giữ một vị trí quyết định. Ông cha ta đã dạy rằng: “Có thầy tốt mới có trò tốt”,
chính vì vậy, công tác nghiên cứu lý luận nhằm nâng cao kiến thức cho người
thầy sẽ giúp cho phương pháp luận sư phạm sẽ ngày càng cao hơn.
96
Chúng ta cần xác định được tầm quan trọng của việc đào tạo sau đại
học các chuyên ngành kèn Dăm kép. Từ đó thấy rõ ý nghĩa của việc đào tạo
cao học, nghiên cứu sinh trong việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng
dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép. Chóng ta cần đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học chuyên ngành và vấn đề nâng cao năng lực sư phạm của giảng
viên kèn Dăm kép ở các Nhạc viện tại Việt Nam.
Ngoài vấn đề đổi mới về nội dung đào tạo, vai trò của sự đổi mới
phương pháp giảng dạy, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các chuyên ngành
kèn Dăm kép.
Một số vấn đề cần được lưu ý trong mối quan hệ giữa nội dung và
phương pháp giảng dạy:
a/ Phương pháp giảng dạy dù mang tính độc lập tương đối vẫn rất lệ thuộc
vào nội dung giảng dạy.
b/ Nội dung giảng dạy trong thời đại thế giới phát triển không ngừng luôn
cần được cập nhật và bổ sung định kỳ.
c/ Sự thay đổi, bổ sung về nội dung giảng dạy trong nhiều trường hợp sẽ dẫn
đến sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy.
97
UBiểu đồ 5U:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BIỂU DIỄN VÀ GIẢNG DẠY
CÁC CHUYÊN NGÀNH KÈN DĂM KÉP
X¸c ®Þnh tầm quan trọng cña viÖc n©ng cao chÊt l−îng cña ®éi ngò gi¶ng d¹y
kÌn D¨m kÐp
Ph¸t triÓn c«ng t¸c ®μo t¹o sau ®¹i häc, x©y
dùng nguån nh©n lùc tr×nh ®é cao
kÌn D¨m kÐp
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành kèn Dăm kép
Nâng cao năng lực sư phạm của giảng viên kèn Dăm kép ở các Nhạc viện tại Việt
Nam
NghÖ sÜ ®éc tÊu kÌn D¨m kÐp
NghÖ sÜ hßa tÊu thÝnh phßng vμ
giao h−ëng
Gi¶ng viªn kÌn D¨m kÐp
Đổi mới về néi dung và phương
pháp giảng dạy, nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo các chuyên
ngành kèn Dăm kép
98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
UKẾT LUẬN
Bước sang thế kỷ XXI, sự hoàn thiện và nâng cao chất lượng của đội
ngũ giảng dạy âm nhạc nói chung và giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm
kép nói riêng giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng con người mới và
xã hội văn hóa mới. Để có thể có được một chất lượng đào tạo cao tương
đương với trình độ giáo dục âm nhạc quốc tế và khu vực, việc hoàn thiện và
nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng dạy các chuyên ngành kèn Dăm kép
giữ một vị trí quyết định.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, cùng với sự trưởng thành của nền âm nhạc
Việt Nam, chuyên ngành kèn Dăm kép đã có những phát triển vượt bậc.
Ngày nay, nhiều sinh viên, nghệ sỹ trẻ kèn Dăm kép đã vươn lên được
tới tầm khu vực và không bao lâu nữa, họ sẽ là những đại diện của chúng ta
trên trường quốc tế. Hiện nay tất cả những giảng viên, nghệ sỹ này vẫn đang
là những trụ cột trong các trung tâm đào tạo lớn và các dàn nhạc lớn của quốc
gia ở tất cả mọi miền của tổ quốc.
Cũng như các nhạc cụ phương tây khác, việc tiếp cận với những
phương pháp sư phạm đỉnh cao trong đào tạo nhạc cụ phương Tây nói chung
và kèn Dăm kép nói riêng cũng là một vấn đề khoa học cần phải được nhiều
nhà nghiên cứu xem xét. Là một nghệ sĩ, giảng viên kèn Dăm kép tốt nghiệp
ở nhạc viện nước ngoài và đã có thời gian công tác khá lâu năm, tác giả luận
án cho rằng, việc nghiên cứu về giáo dục học âm nhạc cho các chuyên ngành
biểu diễn là điều phải thực sự được đẩy mạnh trong thế kỷ XXI.
99
Quá trình phát triển kỹ thuật biểu diễn ở trình độ chuyên nghiệp cao
của các chuyên ngành kèn dăm kép ở Việt nam được xây dựng trên nền tảng
phát triển kỹ thuật diễn tấu và phương pháp biểu hiện âm nhạc trên kèn dăm
kép. Sự đổi mới về chương trình và giáo trình giúp ích cho việc xây dựng nền
tảng kỹ thuật cao trong nghệ thuật biểu diễn.
Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy kèn Dăm kép đã trở thành một
vấn đề bức thiết tại Việt Nam. Sự đổi mới này được đặt trong mối quan hệ
tương tác giữa nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy và quy trình, hình
thức giảng dạy.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy các chuyên
ngành biểu diễn nhạc cụ phương Tây nói chung và giảng viên kèn Dăm kép
nói riêng là một nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Chất lượng của
nền âm nhạc giao hưởng nói chung và chất lượng biểu diễn của các dàn nhạc
giao hưởng Việt Nam nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của đội
ngũ giảng dạy trong đó có các giảng viên kèn Dăm kép.
“Có thầy tốt mới có trò tốt”, chính vì vậy, công tác nghiên cứu lý luận
nhằm nâng cao kiến thức cho người thầy sẽ giúp cho phương pháp luận sư
phạm sẽ ngày càng cao hơn. Chuyên đề này sẽ giúp cho công tác bổ xung
những lĩnh vực lý luận chuyên ngành kèn Dăm kép vào kho tàng lý luận của
các nhạc cụ Kèn – Gõ. Trong những thập kỷ tiếp theo, giới nghiên cứu sư
phạm chuyên ngành sẽ đi sâu nghiên cứu và tiếp tục đúc kết những vấn đề
khoa học giúp cho phương pháp sư phạm âm nhạc của Việt Nam tiến xa hơn
và có thể hội nhập được với khu vực và thế giới.
100
UKIẾN NGHỊ
a) Nên tổ chức biểu diễn nhiều cho Giảng viên và Sinh viên kèn Dăm
kép tham gia dàn nhạc ở trong nước và quốc tế. Trong điều kiện hiện nay,
việc cho các em Sinh viên tham gia dàn nhạc trẻ Đông Nam Á và Dàn nhạc
trẻ Châu Á làm cho các em yêu nghề thêm và tích lũy thêm những kinh
nghiệm trong nghệ thuật biểu diễn dàn nhạc giao hưởng.
b) Nếu có điều kiện, cho các em sinh viên tham gia các Festival và các
cuộc thi Concours dành cho dàn nhạc giao hưởng trẻ được tổ chức hàng năm
trên thế giới với sự hướng dẫn của giảng viên chuyên ngành.
c) Nên tổ chức thu thanh, thu hình, sản xuất đĩa tiếng và đĩa hình cho
dàn nhạc giao hưởng trường và dàn nhạc Sinh viên nhằm quảng bá thành tựu
đào tạo nhạc công giao hưởng nói chung và đào tạo kèn Dăm kép nói riêng ở
trong nước và quốc tế.
d) Vấn đề nhạc cụ và các trang thiết bị phục vụ cho việc học tập kèn
Dăm kép cũng cần được lưu ý. Giảng viên và học sinh kèn Dăm kép cần có
nhạc cụ tốt, kèn tốt, dăm tốt, các chế độ bảo dưỡng hàng năm cần được tiến
hành.
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
UA. Sách tham khảo Việt Nam
1. DƯƠNG QUANG THIỆN - “Sử liệu lịch sử âm nhạc Việt nam”
2. NGUYỄN THỊ NHUNG - “Âm nhạc Thính phòng Giao hưởng Việt
Nam – Sự hình thành và phát triển – Tác giả và tác phẩm” - Viện Âm
nhạc, 2001
3. PGS. TS. NGUYỄN PHÚC LINH - “Một số đặc điểm về phương
pháp biểu hiện của kèn gỗ giao hưởng trong các tác phẩm Việt Nam”
- luận án Tiến sỹ Nghệ thuật học – bản tiếng Việt
4. THỤY LOAN - “Lược sử Âm nhạc Việt Nam” - NXB Âm nhạc 1993
5. VIỆN ÂM NHẠC 2003 - “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu Lý luận
Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” - Tập I
UB. Tài liệu tham khảo ở nước ngoài
6. EDGAR MORIN “ Nhập môn tư duy phức hợp” ( Introduction à la
pensee complex) Chu Tiến Ánh, Chu Trung Can dịch, Phạm Khiêm Ích
biên tập và giới thiệu.( Nhà xuất bản tri thức và Editions du Seuil-2005)
7. A.CARSE - “Musical Wind Instruments” - (London, 2/ 1867)
8. A.CARSE – “Musical Wind Instruments” - (London, 1939/R 1965)
9. A.C. BAINES – “Wood wind Instruments and their History” -
(London, 1957, 3/1967)
10. ALFREDO CASELA – VIRGILIO MORTARI - “Kỹ thuật dàn nhạc
ngày nay” - NXB Âm nhạc Budapest, 1978.
11. A.M. – R. BARRET - “Complete Method” - (London, 2/ 1862)
102
12. D. DIDEROT and J. d, ALEMBERT - “Encyclopédie, ou
Dictionnaire raisonné des sciences, arts métiers” - (Lausanne and
Berne, 1751 – 65; suppls., Paris 1766, 1780)
13. Edited by GEOFFREY HINDLEY - “The Larousse Encyclopedia of
Music”
14. Edited by STANLEY SADIE - “The new GROVE Dictionary of
Music and Musicians”
15. E. ROTHWELL - “Oboe Technique” - (London, 1953)
16. F.J.GARNIER - “Méthode raisonnée pour le Hautbois” - (Paris, c
180).
17. G. GIELIAZOV - “Phương pháp luận giảng dạy kèn”
18. G. VOGT - “Méthode de Hautbois” - (MS, F – Pn, after 1813)
19. H. BROD - “Méthode” - (Paris, 1835)
20. H. LAVOIX - “Histoire de L’Instrumentation” – (Paris, 1878)
21. J. MARX - “The Tone of the Baroque Oboe”, - GSJ, iv (1951), 3
22. J.M.HOTTETERRE - “Principles de la Flute traversiere…et du
Haut-bois” - (Paris, 1707, 7/1741; Eng. Trans., 1968).
23. J.P.FREILLON PONCIEN - “La véritable maniere d’apprendre à
jouer en perection du Hautbois” - ( Paris, 1700)
24. L. BAS - “Méthode nouvelle de Hautbois” - (Paris, n.d.)
25. MORIS BOUGE – “Phương pháp giảng dạy kèn Hautbois và hoà
tấu thính phòng”
26. M. PIGUET - “The Baroque Oboe” - Recorder and Music Magazine,
27. NAZAROV - “Phương pháp giảng dạy kèn Hautbois”
103
28. OXFORD - “Từ điển Bách khoa Âm nhạc”, “Từ điển Nhạc khí
học”
29. P.A.T. BATE - “The Oboe” - (London, 1956, rev. 2/1962, 3/1975)
30. PAUL MICHEL - “Những cơ sở tâm lý học về Giáo dục âm nhạc” -
NXB Âm nhạc Budapest, 1974.
31. PIPKOV - “Phương pháp diễn tấu kèn Hautbois trong dàn nhạc
giao hưởng thính phòng”
32. PUCHENHIKOV - “Phương pháp giảng dạy kèn Hautboi”
33. WILLI REICH - “Alban Berg”, - Vienna House – New York, 1963.
UC. Những giáo trình đã được sử dụng tại HVANQGVN, Nhạc viện
TPHCM, HVAN Huế
UC.1. Những giáo trình trong nước
34. Ca lê Thuần – “Những ngày đã qua”
35. Hoàng Vân – “Tiếng hát bên máy khoan địa chất”
36. Hoàng Vân – “Voi kéo gỗ trên lâm trường”
37. Hồng Đăng – “Ước mơ tuổi trẻ”
38. Nguyễn Đình Long – “Trường sơn”
39. Nguyễn Tùng – “Chiều quê”
40. Phạm Văn Chừng – “Chung thủy”
41. Phúc Linh – “Cây trúc xinh”
42. Phúc Linh – “Dòng sông quê hương”
43. Phúc Linh – “Fantasie”
44. Phúc Linh – “Ngồi tựa mạn thuyền”
45. Phúc Linh – “Piece for Basson solo”
46. Phúc Linh – “Scherzo”
104
47. Phúc Linh – “Thanh minh trong tiết tháng Ba”
48. Phúc Linh – “Ước mơ đi xa”
UC.2. Những giáo trình nước ngoài
49. Alekseiev – “Sonate”
50. Bach – “Aria”
51. Bach – Gounod – “Ave maria”
52. Bach (J.Ch) – “Concerto B Dur”
53. Bach (J.Ch) – “Concerto Eb Dur”
54. Bach (J.S ) – “Concerto c Moll”
55. Bach (J.S ) – “Suite”
56. Bach (J.S) – “Suites”
57. Balacsivad – “Concertino”
58. Baret – “Oboe Method Complete Method”
59. Barret – “Oboe Method”
60. Bartos – “Concertino”
61. Boirmostier – “2 Sonate”
62. Bozay - “Episodi”
63. Bozay - “Episodi”
64. Bozza - “15 Etudes”
65. Bozza – “Concertino”
66. Bozza – “Fantasie”
67. Bruhns – “Concerto N. 2”
68. Bruhns – “Concerto N.1”
69. Bruhns – “Concerto N.2”
70. Bruhns – “Concerto N.3”
71. Bruns - “2 Sonate”
105
72. Chopin – Glazounov – “Etude d Moll”
73. Christo Petkov – “Etudes for the Oboe”
74. Christo Petkov – “Method for the Oboe”
75. David – “Concertino”
76. Debussy – “5 Preludes”
77. Devienne – “Concerto etude”
78. Dubrovay – “5 pieces”
79. Dubrovay – “5 pieces”
80. Duklo - “3 Nocturnes”
81. Dvarionnas – “Theme et Variations”
82. E. Prill – “Etudes for the Oboe”
83. Ernest Loyon – “32 Etudes pour Hautbois”
84. Ferling Bleuzet – “24 Etudes for the Oboe”
85. Ferling Bleuzet – “48 Etudes for the Oboe .op.31”
86. Gekeler - “First Book Of Practical Studies for Oboe”
87. Flosmann – “Concertino”
88. Fushs – “Concerto B Dur”
89. G. Khinke – “Etudes for the Oboe”
90. G. Khinke – “Etudes for the Oboe”
91. G. Sikeira – “Etudes for the Oboe”
92. Galliard – “6 Sonate”
93. Gatti – “Etudes”
94. Gekeler - “Method for Oboe” – Book Two
95. Gekeler – “Method for Oboe” – Book Two
96. Gekeler – “Methodfor Oboe” – Book One
106
97. Gekeler – “Method for Oboe” – Book One
98. Glier – “Valse”
99. Grieg – “Valse”
100. Haendel – “Aria”
101. Hildemith – “Sonate”
102. Hildemith – “Sonate”
103. Hlobyl – “Divertimento”
104. Humel – “Concerto in F Dur”
105. Puchenikov – “Etudes for the Oboe” 106. Puchenikov – “Oboe Method” – Section 1-2
107. Ibert – “Arabeska”
108. Jakobi – “Etudes”
109. Joliver – “Concerto”
110. Kampanyoli - “Romance”
111. Karoly – “Contorni”
112. Karoly – “Contorni”
113. Kastlan – “2 Concerto Etudes”
114. Keszler – “Oboe Method”
115. Kornakov – “Suite”
116. Kozeluk – “Concerto C Dur”
117. Krakamp – “30 Etudes”
118. Kreutzer – “Etudes”
119. L. Videman – “Etudes for the Oboe”
120. L. Videman – “Etudes for the Oboe”
121. Liadov – “Prelude”
122. Loipov – “Concerto”
107
123. Luft – “24 Etudes pour Hautbois”
124. Luft – “48 Etudes pour 2 Hautbois”
125. M. Bourge – “Etudes pour Hautbois”
126. M. Bourge – “Etudes pour Hautbois”
127. Marcello – “Sonate e Moll”
128. Maros – “Concertino”
129. Mendelssohn – “Bài ca không lời”
130. Mildje – “Concwerto N. 2”
131. Mildje – “25 Etudes gamme”
132. Mildje – “25 Concerto etudes” (I)
133. Mildje – “25 Concerto etudes” (II)
134. Mildje – “25 Etudes Gamme”
135. Mildje – “50 Concerto Etudes” ( 25 bài tập I và 25 bài tập II);
136. Mozart – “Concerto Rondo”
137. Mozart - “Concerto B Dur”
138. Mozart – “Sonate e Moll”
139. Mozart – “Sonate A Dur”
140. N. Nazarov – “Etudes for the Oboe”
141. N. Nazarov – “Etudes for the Oboe” - Section 1-2-3-4
142. N. Nazarov – “Oboe Method” – Section 1-2
143. Neukirchner - “Etudes”
144. New Barret – “Oboe Method”
145. Orchestral Oboe Excerpts 30 Repertoire Pieces Piano
Accompaniment
146. Orefici – “Studi di bravura”
108
147. Orefici – “Studie di bravura”
148. Oromszergi – “10 Etudes hiện đại”
149. Oromszergi – “50 Etudes hiện đại”
150. Oromszergi – “10 Giáo trình Etudes đương đại”
151. Oromszergi – “50 Etudes đương đại”
152. P. Tornea – “Etudes for the Oboe”
153. P. Tornea – “Etudes for the Oboe” Section 4-5-6
154. Pauer - “Concerto”
155. Pauer - “Concerto”
156. Petrovitch – “Passacarlia in blues”
157. Pivonka – “Etudes”
158. Podkovires – “Sonate”
159. Raina East – “Etudes for the Oboe”
160. Raina East – “Etudes for the Oboe” Section 1-2
161. Raina East – “Technical Exercises for the Oboe ED 11233”
162. Rainh east – “Etudes for the Oboe Section 3-4”
163. Rakov – “9 pieces”
164. Rene Bernier – “Bassonnerie”
165. Rimski – Korsakov – “Concerto fantasie”
166. Rothwell – “Modern works for Oboe and English horn”
167. Ferling – “48 Famous Studies” Book One
168. Ferling – “48 Famous Studies” Book Two
169. Rothwell - “Difficult Passages” Vol.1
170. Rothwell - “Difficult Passages” Vol.2
109
171. Rothwell – “Difficult Passages” Vol.3
172. Saint – Saens – “Sonate”
173. Saint – Saens – “Sonate”
174. Satzenhoffer - “Etudes”
175. Schubert – “Sonate”
176. Schubert – “Valse”
177. Seler – Kolli - “Recitativ and Final”
178. Sestak – “Divertimento”
179. Sireika – “Concertino”
180. Smirnova – “Suite”
181. Sokolevsky – “2 pieces”
182. Solos for Oboe 30 Repertoire Pieces with Piano
Accompaniment
183. Solos for the OboePlayerMyFirstBarret-Niemann
184. Sukhanek – “Concertino”
185. Svatov – “Serenade”
186. T. Niman – “Etudes for the Oboe”
187. T. Niman – “Etudes for the Oboe”
188. Tchaikovsky – “Melodie”
189. Tchernov – “Scherzo”
190. Telemann – “Sonate e Moll”
191. Telemann – “Sonate f Moll”
192. Telemann – “Sonate Es Dur”
193. Tomazzi – “Concerto”
194. Tomazzi – “Concerto”
195. Ton that Tiet – “Solo pour Basson”