thanh toán quốc tế của ngân hàng thương...
TRANSCRIPT
Chương I
Những vấn đề chung về Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
I/ kháI niệm và vai trò của Hoạt động thanh toán quốc tế
1. Khái niệm
Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc
tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các
tài khoản tại Ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền
của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu
thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt
qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào
cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên
thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là
đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một
nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có
khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP... Những năm gần đây do sự mất giá của đồng
USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do
đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng
nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó
trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện
các giao dịch.
Hiện nay phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu
điện, mạng SWIFT hoặc qua các uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng. Do
vậy tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong TTQT chiếm một phần không đáng kể.
TTQT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói
chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi
quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối
ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều kiện đó là:
+ Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó có thể
ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu.
+ Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán
hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của
đồng tiền đó biến động.
+ Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi lợi tức
và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy
xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì
muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn
phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ
giữa các bên liên quan.
+ Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong từng
món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua bán Quốc tế có
nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ
thu, thư tín dụng...
TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều kiện trên,
phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là người bán
dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong quan hệ mua
bán, người ta có thể chọn nhiều phương thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét
cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người
bán là thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng và
đúng hạn.
Người ta phân loại thanh toán quốc tế như sau:
*) Xét về mặt kinh tế
+ Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá, dịch vụ
thương mại kết hợp xuất nhập khẩu dựa trên giá cả Quốc tế. Trong thanh toán mậu dịch,
các bên liên quan sẽ bị ràng buộc với nhau theo theo các hợp đồng đã ký kết hoặc cam kết
thương mại. Nếu 2 bên không ký hợp đồng chỉ có đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào các đại
diện giao dịch.
+ Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến
hàng hoá, không mang tính chất thương mại. Đó là chi phí của các cơ quan ngoại giao ở
nước sở tại, các chi phí vận chuyển và đi lại của các đoàn khách, chính phủ, các tổ chức, cá
nhân.
*) Xét về mặt hình thức
+ Phương thức thanh toán chuyển tiền
+ Phương thức thanh toán nhờ thu
+ Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
2. Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại & hoạt động kinh doanh của
ngân hàng
2.1. TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại
+ TTQT là khâu quan trọng trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa
các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động TTQT thì
không có hoạt động kinh tế đối ngoại.
+ TTQT là cầu nối giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập
mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại giữa các nước thì điều kiện quan trọng
không thể thiếu được là phải thiết lập quan hệ TTQT.
+ TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại. Trong
hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của các bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế
việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua, đồng thời trong điều
kiện tiền tệ thường xuyên biến động thì khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, và việc
thực hiện hợp đồng TTQT ngày càng nhiều thì việc tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp
cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp
đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển hơn.
2.2. TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có vị trí
và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà được coi là một
mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ
cho những mặt hoạt động khác của ngân hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu
TTQT về giao dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình.
+ Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tín dụng
tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý
được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT qua Ngân hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như kinh doanh
ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ
sở đó nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế trên
cơ sở đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và
nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
+ Hoạt động TTQT giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh
của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp hoạt động ngân hàng vượt ra
khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng thế giới.
ii/ Nội dung của hoạt động TTQT
1. Đồng tiền sử dụng trong TTQT
Trong TTQT, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó, vì
vậy trong các hiệp định và hợp đồng đều có qui định việc sử dụng đồng tiền nào để tính
toán và thanh toán đồng thời cũng qui định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động.
Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương,
trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố
sau đây:
- Sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán;
- Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế;
- Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới;
- Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới.
Khi tiến hành thanh toán, bên nào cũng muốn dùng đồng tiền của nước mình vì có
những điểm lợi sau đây:
- Có thể nâng cao địa vị đồng tiền nước mình trên thị trường thế giới;
- Không phải dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài;
- Có thể tránh được rủi ro do tỷ giá tiền tệ nước ngoài biến động gây ra;
- Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của nước mình.
Địa vị của yên Nhật Bản, Mác Đức, trong những năm gần đây được nâng cao nhờ
cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai của họ thường dư thừa, nhưng
các đồng tiền này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế như bảng
Anh và đô la Mỹ, vì tỷ trọng xuất nhập khẩu trong mậu dịch quốc tế của các nước
này chưa lớn lắm so với Anh , Mỹ và khối lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế của thị
trường ngoại hối ở các nước này không nhiều bằng thị trường London và New York.
Đồng phrăng Thuỵ Sĩ từ lâu nay được coi là đồng tiền tự do “cứng” trên thế giới,
nhưng vì ngoại thương của nước này chiếm tỷ trọng nhỏ trong mậu dịch quốc tế, thị
trường vốn của nước này bé nhỏ, nên phrăng Thuỵ Sĩ không được sử dụng rộng rãi
trong thanh toán quốc tế.
Trong thanh toán ngoại thương, có những mặt hàng phải thanh toán bằng một loại
tiền tệ nhất định thường là những hàng nguyên liệu quan trọng đã bị một số nước
khống chế từ lâu về sản xuất và tiêu thụ, các nước này đã biến việc dùng loại tiền tệ
đó để thanh toán thành một “tập quán quốc tế”. Ví dụ mua cao su, thiếc và một số
kim loại mầu khác thường thanh toán bằng bảng Anh, dầu hoả bằng đô la Mỹ v.v..
Phân loại
Người ta phân loại tiền tệ thành 04 nhóm chính:
+ Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau:
- Tiền tệ thế giới (World currency): Hiện nay chưa có một vật nào khác thay thế
vàng thực hiện chức năng này.
- Tiền tệ quốc tế (International currency): là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối
kinh tế và tàI chính quốc tế như SDR, ECU...
- Tiền tệ quốc gia (National money): là đồng tiền riêng của từng nước. Sức mua
của đồng tiền này biến đổi thường xuyên & liên tục phụ thuộc vào tình hình chính
trị, kinh tế của quốc gia đó.
+ Căn cứ vào tính chất chuyển đổi của tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau:
- Tiền tệ tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là những đồngtiền quốc gia
mà pháp luật nước đó cho phép nó được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền của
nước khác. Có 02 loại tiền tệ tự do chuyển đổi: tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do
chuyển đổi từng phần.
- Tiền tệ chuyển nhượng (Transferable currency): là tiền tệ được quyền chuyển
nhượng từ người này qua người khác qua hệ thống tàI khoản mở tạI ngân hàng.
- Tiền tệ clearing (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản và không được
chuyển dịch sang một tàI khoản khác.
+ Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau:
- Tiền mặt (Cash): là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt. Trong TTQT người ta
rất ít khi sử dụng loại tiền này.
- Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền tàI khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tạI là
các phương tiện TTQT như hối phiếu, séc, T/T, M/T..
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau:
- Tiền tệ tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và
tính toán tổng giá trị hợp đồng.
- Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng trong thanh toán nợ
nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
2. Các phương tiện thanh toán quốc tế
2.1. Séc (Cheque)
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên tờ séc, hoặc trả theo
lệnh của người ấy, hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định bằng tiền mặt hay
bằng chuyển khoản.
Séc là một phương tiện TTQT được sử dụng trong thanh toán nội địa và quốc tế về cả
hàng hoá, dịch vụ và phi mậu dịch.
Đặc điểm của séc:
+ Séc chỉ được phát hành 1 bản
+ Séc có giá trị thanh toán như tiền
+ Séc có tính chất thời hạn, tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hay thanh toán nếu thời hạn
hiệu lực của nó chưa hết
+ Người ký phát séc là chủ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
+ Người hưởng lợi là người có tên trên tờ séc
Các loại séc
*) Căn cứ vào tác dụng lưu chuyển
+ Séc đích danh: là loại séc mà trên đó ghi tên người hưởng lợi, loại séc này không
thể chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu.
+ Séc vô danh: là loại séc mà trên đó không ghi tên người hưởng séc, người hưởng
lợi là bất kì người nào cầm tờ séc.
+ Séc theo lệnh: là loại séc ghi rõ trả theo lệnh của người thụ hưởng, séc được
chuyển nhượng theo thủ tục ký hậu. Trong TTQT loại séc này được sử dụng rộng rãi.
*) Căn cứ vào đặc điểm sử dụng
+ Séc tiền mặt: là loại séc được ngân hàng thanh toán trả bằng tiền mặt.
+ Séc chuyển khoản: là loại séc mà khi ngân hàng nhận được sẽ trích tiền từ tài
khoản của người ký phát sang tài khoản của người khác mà không được rút bằng tiền mặt.
+ Séc gạch chéo: là séc mà trên mặt phải của nó có 2 gạch chéo song song kể từ góc
này sang góc kia. Loại séc này chỉ được thanh toán chuyển khoản mà không được rút bằng
tiền mặt.
+ Séc xác nhận (séc bảo chi): là loại séc mà có ký xác nhận trả bằng tiền của ngân
hàng nên khả năng chi trả của tờ séc được đảm bảo chắc chắn.
+ Séc du lịch: được sử dụng đối với khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc, trên
tờ séc phải có chữ ký của người hưởng lợi và khi lĩnh tiền phải ký tại chỗ để ngân hàng
kiểm tra. Loại séc này do ngân hàng phát hành và được trả tiền ở các chi nhánh hay ở ngân
hàng đại lý của ngân hàng phát hành séc, nơi khách du lịch đến.
2.2. Hối phiếu (Bill of Exchange)
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một
người khác, yêu cầu ngân hàng này khi nhận được nó phải trả vào một ngày xác định trong
tương lai một số tiền nhất định cho người nào đó.
Hối phiếu là một phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong TTQT, nhất là
trong lĩnh vực thương mại.
Đặc điểm của hối phiếu:
+ Tính trừu tượng: trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan
đến việc trả tiền, không nói đến nguyên nhân phát sinh công nợ. Như vậy nghĩa vụ trả tiền
của hối phiếu là trừu tượng.
+ Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: người trả tiền ghi trên hối phiếu bắt buộc phải
trả đủ số tiền của hối phiếu cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn. Luật pháp không
chấp nhận bất cứ một lý do nào gây nên sự chậm trễ hoặc từ chối trả tiền của hối phiếu.
+ Tính lưu thông của hối phiếu: trong khi hối phiếu còn thời hạn hiệu lực thì nó có
thể chuyển nhượng từ người thụ hưởng này sang người thụ hưởng khác thông qua thủ tục
ký hậu ở mặt sau hối phiếu (Endorsement).
Các loại hối phiếu
*) Căn cứ thời hạn trả tiền
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhận được nó do người cầm hối phiếu
xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu có kì hạn: người trả tiền phải trả số tiền ghi trên tờ hối phiếu sau một
thời gian nhất định kể từ ngày người đó ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu hoặc kể từ
ngày phát hành nó.
*) Căn cứ vào chứng từ đi kèm
+ Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được chuyển đến cho người nhập khẩu
có kèm theo bộ chứng từ hàng hoá. Loại này gồm: Hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay
và Hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận.
+ Hối phiếu trơn: là hối phiếu được gửi đến người trả tiền mà không kèm chứng từ
hàng hoá. Trong TTQT, loại này thường dùng để thu tiền phạt, tiền bồi thường, cước phí
bảo hiểm, phí vận tải, lệ phí, thủ tục phí...
*) Căn cứ vào chủ thể lập hối phiếu
+ Hối phiếu thương mại: loại này do người xuất khẩu lập để làm chứng từ đòi tiền
người nhập khẩu trong các nghiệp vụ thanh toán về hàng xuất khẩu hay cung ứng dịch vụ.
Hối phiếu thường đi kèm chứng từ hàng hoá trong các hình thức thanh toán bằng L/C hay
uỷ thác thu.
+ Hối phiếu ngân hàng: loại này do ngân hàng phát hành để đòi tiền một người nào
đó hoặc chỉ định một người nhất định trả số tiền ghi trên hối phiếu.
*) Căn cứ vào sự chuyển nhượng
+ Hối phiếu đích danh: là hối phiếu ghi rõ tên người hưởng, không kèm theo điều
khoản trả theo lệnh, không chuyển nhượng được.
+ Hối phiếu vô danh: là hối phiếu không ghi tên người hưởng lợi và khi chuyển
nhượng không phải ký hậu.
+ Hối phiếu theo lệnh: trong hối phiếu này phải ghi rõ trả theo lệnh của người hưởng
lợi và khi chuyển nhượng phải thực hiện bằng ký hậu.
2.3. Lệnh phiếu - Kì phiếu (Promissory Note)
Lệnh phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra
hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi theo lệnh của người này trả cho người
khác quy định trong lệnh phiếu đó.
Đặc điểm cơ bản của lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với đặc điểm của hối phiếu. Vì
đặc điểm thụ động này mà trong TTQT ít dùng lệnh phiếu hơn các phương tiện thanh toán
khác. Ngoài ra lệnh phiếu còn có những đặc điểm riêng sau:
+ Kỳ hạn của lệnh phiếu được ghi rõ trên nó.
+ Lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một
hay nhiều người hưởng lợi.
+ Lệnh phiếu nhiều khi cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để
đảm bảo khả năng thanh toán.
+ Lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra chuyển cho người hưởng lợi.
2.4. Các phương tiện khác
Ngoài các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng như hối phiếu, kỳ phiếu, séc
nói trên trong giao dịch thương mại quốc tế người ta còn sử dụng một số các phương tiện
thanh toán quốc tế khác như: Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Thẻ tín dụng, Thư tín
dụng ngân hàng..
Thẻ tín dụng (Credit Card)
Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại do ngân hàng phát hành và bán
cho khách hàng của mình sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ đã cung ứng. Thẻ tín
dụng cho phép chủ thể sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ với hạn mức chi
tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc
tài sản thế chấp của chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một hình thức chi tiêu trước trả tiền sau với
một thời hạn ưu đãi không thu lãi (khoảng từ 10 đến 45 ngày). Chủ thẻ có thể thanh toán
một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng
(bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ). Thẻ tín dụng theo tên của nó đã là một
hình thức tín dụng nhưng khi thanh toán nó không phải dùng tiền mặt. Tuy nhiên việc cấp
phát tín dụng của ngân hàng có điểm đặc biệt ở chỗ không phải khách hàng sử dụng thẻ
này mua hàng ở đâu cũng được mà chủ thẻ chỉ được sử dụng thẻ ở những nơi trực thuộc
ngân hàng quản lý (Cơ sở chấp nhận thẻ, Ngân hàng đại lý). Nói tóm lại, ngày nay thẻ tín
dụng là phương tiện chủ yếu phục vụ thanh toán cá nhân thay tiền mặt thông dụng trên thế
giới, có thể dùng để thanh toán thay thế cho việc luân chuyển một phần tiền mặt từ nơi này
sang nơi khác ở trong nước và ngoài nước.
Điện chuyển tiền (Telegraphic Transfer)
Điện chuyển tiền là tập tin chuyển tải những thông tin nhất định liên quan đến giao
dịch thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng được lập theo tiêu chuẩn của SWIFT và được
truyền nhận trên mạng IBS và/ hoặc trên mạng SWIFT. Chuyển tiền bằng điện tốc độ
nhanh những chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT thì hầu hết chuyển tiền đều
thực hiện qua mạng.
Thư tín dụng của ngân hàng ( Bank Letter of Credit)
Thư tín dụng của ngân hàng là một cam kết thanh toán có điều kiện của Ngân hàng.
Chi tiết hơn, nó là một cam kết bằng văn bản của ngân hàng giao cho người bán theo yêu
cầu, và trên cơ sở các chỉ dẫn của người mua thanh toán hoặc vào một ngày tương lai xác
định một tổng số tiền đã định, trong một giới hạn thời gian và trên cơ sở các chứng từ đã
quy định.
Thư tín dụng ngân hàng là một phương thức tiện và an toàn nhất cho thanh toán xuất khẩu
trong các hình thức thanh toán hiện thời (nhờ thu, thanh toán trơn, thanh toán ứng trước,
thanh toán bằng séc..)
3. Các phương thức thanh toán quốc tế
3.1. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance)
Đây là phương thức mà trong đó khách hàng (người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng
của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi).
Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại:
+ Chuyển tiền bằng điện
+ Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer - M/T): Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp
hơn chuyển tiền bằng điện nhưng tốc độ chậm hơn.
Trong hạch toán chuyển tiền, ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện theo uỷ nhiệm để
hưởng hoa hồng chứ không bị ràng buộc trách nhiệm nào. Thanh toán chuyển tiền trong
ngoại thương có thể là thanh toán tiền ứng trước hay thanh toán sau. Trong trường hợp
thanh toán ứng trước thì rủi ro thuộc về người mua, trường hợp thanh toán sau thì rủi ro
thuộc về người bán vì việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và
khả năng thanh toán của người mua trong khi quyền lợi của người bán khó bảo toàn.
3.2. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment)
Đây là phương thức mà người bán (người xuất khẩu) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua (người nhập khẩu), uỷ thác cho ngân
hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài trên cơ sở hối phiếu do
người xuất khẩu ký phát.
Trong TTQT khi sử dụng hình thức này các nước thường vận dụng “Bản quy tắc
thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại - ICC 522” do Phòng thương mại quốc tế Paris
ban hành năm 1995.
Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn vẹn đầy đủ
các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương thì người nhập
khẩu có quyền từ chối thanh toán (một phần hay toàn bộ) số tiền trên giấy đòi tiền của
người xuất khẩu.
Trong thanh toán uỷ thác thu người xuất khẩu thông qua ngân hàng chỉ khống chế
được quyền định đoạt hàng hoá mà chưa khống chế được việc trả tiền của người nhập
khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng từ hàng hoá để kéo dài việc
trả tiền hoặc có thể không trả tiền khi tình hình thị trường bất lợi cho họ.
Thanh toán nhờ thu gồm các loại:
+ Nhờ thu không kèm chứng từ (nhờ thu phiếu trơn - Clean Collection): là phương
thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào thương
phiếu trơn. Thương phiếu trơn gồm một hoặc nhiều hối phiếu đã được chấp nhận hay chưa
được chấp nhận, kỳ phiếu, séc, biên lai hoặc các chứng từ tương tự khác để thu tiền mà
không có hoá đơn, vận đơn, giấy chứng nhận sở hữu, hoặc bất kỳ chứng từ tương tự nào
đính kèm. Loại này thường dùng trong thanh toán chi trả về dịch vụ cước phí bảo hiểm,
tiền phạt, tiền bồi thường...
+ Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): là phương thức trong đó người
bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào
hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm với điều kiện là nếu người
mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu thì mới trao chứng từ để nhận hàng.
Điểm khác biệt cơ bản với phương thức nhờ thu phiếu trơn là người xuất khẩu uỷ
thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ số tiền còn khống chế hàng hoá đối với người nhập
khẩu. Phương thức nhờ thu kèm chứng từ có 2 loại:
. Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents against Acceptance - D/A): người
nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối phiếu do người xuất khẩu ký phát thì mới
được ngân hàng trao bộ chứng từ hàng hóa để đi nhận hàng.
. Nhờ thu thanh toán đổi chứng từ (Documents against Payment - D/P): người nhập
khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ hối phiếu trả tiền ngay do người xuất khẩu lập thì mới
được quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá từ ngân hàng.
3.3. Phương thức thanh toán thư tín dụng (Letter of Credit)
Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân
hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành
mở và chuyển đến cho chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (ngân hàng
phục vụ người xuất khẩu) 1 L/C cho người được hưởng (người xuất khẩu) một số tiền nhất
định trong thời hạn quy định với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các
chứng từ phù hợp với những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng.
Trong TTQT nói chung và đặc biệt là trong thanh toán ngoại thương, hình thức thanh
toán bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận dụng vào hình thức thanh toán này các
nước dựa vào “Bản điều lệ và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP 500”
do Phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1993 có hiệu lực 1/10/1994.
Nét đặc thù trong thanh toán L/C là việc trả tiền của ngân hàng chỉ căn cứ vào sự phù
hợp của chứng từ hàng hoá với những điều kiện đã nêu trong L/C mà không trực tiếp dựa
vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vậy ngân hàng không bị ràng buộc bởi những
điều kiện trong nội dung của L/C và việc trả tiền chỉ dựa vào L/C khi nó đã được mở.
Thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục song các nguyên tắc thanh toán rất
chặt chẽ, rõ ràng nên việc nhận hàng và trả tiền luôn được đảm bảo. Vì vậy nó được sử
dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế.
Các loại thư tín dụng gồm:
+ Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): với loại này sau khi L/C được mở thì
nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào, không cần có
sự đồng ý của người được hưởng. Như vậy thư tín dụng này chưa phải là một cam kết trả
tiền thực sự, do vậy nó rất ít được sử dụng.
+ Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C): khi loại L/C này được mở thì
người yêu cầu mở L/C sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung
của nó nếu không có sự đồng ý của người hưởng L/C. Như vậy tính bảo đảm của L/C này
rất cao nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế.
. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Irrevocable Confirmed L/C) đây là loại
thư tín dụng không thể huỷ bỏ đồng thời có sự xác nhận trả tiền của một ngân hàng. Vì vậy
L/C này đảm bảo rất chắc chắn khả năng thu được tiền của người xuất khẩu. Đối với người
nhập khẩu khi phải mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn tại ngân hàng, trả thủ tục
phí mở L/C còn phải chịu thêm phí xác nhận L/C. Đó là bất lợi cho người nhập khẩu.
. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without Recourse L/C):
khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu (người hưởng L/C) phải phát hành một hối
phiếu ghi “không được truy đòi của người phát phiếu”. Như vậy sau khi đã thanh toán cho
người hưởng lợi, ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền của L/C bất kì trong
trường hợp nào. Loại L/C này được dùng phổ biến trong các hợp đồng mua bán chịu hàng
hoá.
. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng được (Irrevocable
Transferable L/C): đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định quyền của
ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người
khác theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C này chỉ được chuyển nhượng 1 lần,
chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
+ Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): thông thường khi tiến hành mua bán
qua trung gian thì người ta dùng loại thư tín dụng này, sau khi nhận được L/C do người
nhập khẩu mở cho mình thì người xuất khẩu dùng L/C này để mở 1 L/C khác cho người
hưởng với nội dung gần giống như L/C gốc. Như vậy L/C sau gọi là L/C giáp lưng.
+ Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): loại L/C này thường được dùng trong
phương thức mua bán quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư tín dụng đối
ứng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi 1 thư tín dụng đối ứng với nó đã được mở.
+ Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại thư tín dụng được dùng để trả tiền
nhiều lần trong khuôn khổ thời hạn do hợp đồng mua bán ngoại thương quy định. Sau khi
thư tín dụng trước đã được trả tiền xong thì thư tín dụng kế tiếp có hiệu lực.
+ Thư tín dụng dự phòng (Stand - by L/C): để đảm bảo quyền lợi cho người nhập
khẩu, ngân hàng của người nhập khẩu sẽ phát hành 1 L/C trong đó cam kết với người nhập
khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. L/C như thế được gọi là L/C dự phòng. Nó được áp dụng
phổ biến ở Mỹ trong quan hệ một bên là người đặt hàng (người mua) và một bên là người
sản xuất (người bán).
3.4. Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài (Escrow Account)
Đây là phương thức thanh toán mà 2 nhà xuất khẩu và nhập khẩu thỏa thuận treo tài
khoản ở nước người nhập khẩu để ghi có số tiền của nhà xuất khẩu bằng tiền của nước
nhập khẩu hoặc bằng ngoại tệ tự do. Số tiền này dùng để mua lại hàng của người nhập
khẩu.
Với phương thức này, nhà nhập khẩu phải mở L/C để mua lại hàng bởi vì nhà xuất
khẩu đã có sẵn tiền trên tài khoản Escrow Account tại nước người nhập khẩu. Phương thức
thanh toán này thích hợp với phương thức mua bán đền bù (Compensation Trade).
3.5. Thư bảo đảm trả tiền (Letter of Guarantee - L/G)
Dùng phương thức thanh toán này tức là ngân hàng bên mua theo yêu cầu của người
mua viết thư bảo đảm trả tiền cho người bán, bảo đảm sau khi hàng của bên bán đã gửi đến
địa điểm của bên mua quy định sẽ trả tiền hàng.
Phương thức thư bảo đảm khác với phương thức thư tín dụng là phương thức này căn
cứ vào hàng hoá để trả tiền chứ không căn cứ vào chứng từ để trả tiền. Thanh toán theo
phương thức này có 3 loại: Hàng đến trả tiền hoặc kiểm nghiệm xong trả tiền hay hàng đến
trả tiền một phần, phần còn lại trả sau khi có kết quả kiểm nghiệm.
3.6. Phương thức ghi sổ (Open Account)
là phương thức người bán mở tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán đã
hoàn thành việc giao hàng hay dịch vụ, đến từng kì (tháng, quý, năm) người mua trả tiền
cho người bán. Đặc điểm của phương thức này là không có sự tham gia của ngân hàng với
chức năng người mở tài khoản và thực chi thanh toán, chỉ mở tài khoản đơn biên, chỉ có 2
bên tham gia là người bán và người mua.
4. Các nguồn luật điều chỉnh trong thanh toán quốc tế
Những nguồn luật điều chỉnh hối phiếu:
Để thống nhất sự giải thích về hối phiếu, trong phạm vi quốc tế có hai Công ước.
Công ước quốc tế đầu tiên ký năm 1930 tạI Giơ-ne-vơ, trong đó có ban hành một luật điều
chỉnh về hối phiếu gọi là “ Luật điều chỉnh về hối phiếu” (Uniform Law for Bill of
Exchange, viết tắt là ULB 1930). ULB mang tính chất khu vực thuộc Châu Âu.
Uỷ ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, kỳ họp thứ 15, Newyork, từ ngày
26 tháng 7 đến 06 tháng 8 năm 1982 cũng ban hành văn kiện số A/CN, 9/211 ngày
18/02/1982 về Kỳ phiếu và Hối phiếu quốc tế (International Bills of Exchange and
Promissory notes, document No.A/CN, 9/211 18 February 1982). Văn kiện này mang tính
chất toàn thế giới.
Pháp tham gia Công ước Giơ-ne-vơ năm 1930, nhưng chính thức áp dụng luật ULB
vào năm 1936. Việt nam là thuộc địa của Pháp, nên lúc đó cũng phảI áp dụng luật này từ
năm 1937 trở đi theo nghị định của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương.
Đến 1962 ở Mỹ có Luật thương mại thống nhất (Uniform Từ sau ngày hoà bình lập
lại năm 1954, trong quan hệ thanh toán với các nước tư bản chủ nghĩa, nước ta sử dụng hối
phiếu trong khuôn khổ của ULB, mặc dù chúng ta không phải là thành viên của Công ước
Giơ-ne-vơ năm 1930. Vì vậy, việc giải thích hối phiếu ở nước ta cũng chỉ nên dựa vào
ULB hơn là các văn bản pháp lý khác, vì ULB được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Những văn bản khác thường gặp là: Luật hối phiếu 1882 của Anh (Bill of Exchange
Act of 1882), đây là nguồn luật điều chỉnh hối phiếu ban hành sớm nhất trên thế giới và
Luật thương mại thống nhất 1962 của Mỹ (Uniform Commercial Codes of 1962 - UCC).
Hai văn bản này mang tính pháp lý quốc gia.
Sự khác nhau chính trong các nhóm luật này là:
Nhóm luật quốc tế (ULB 1930,Văn kiện về Hối phiếu và Kỳ phiếu quốc tế số A/CN,
9/211 ngày 18/2/1982) quy định các điều khoản mang tính chính xác cao hơn nhóm luật
quốc gia Anh, Mỹ. Các điều khoản mang tính chất bắt buộc trong lưu thông hơn tuỳ ý.
Các nguồn luật điều chỉnh về séc
. Công ước Geneva về séc được ký vào năm 1931, được nhiều nước áp dụng trên thế
giới.
. Luật thương mại quốc tế về séc do Uỷ ban thương mại quốc tế của Liên hợp quốc,
kỳ họp thứ 15 ban hành ngày 18/2/1982 (số A/CN.9/212)
Các nguồn luật áp dụng trong các phương thức thanh toán quốc tế
Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của nhờ thu là “Quy tắc thống nhất về nhờ thu”
số 522 của Phòng Thương mại Quốc tế, bản sửa đổi năm 1995 (Uniform Rules for the
collection, 1995 Revision No. 522, ICC), có hiệu lực từ ngày 01/1/1996. Muốn sử dụng
bản quy tắc này, hai bên mua bán phải thống nhất quy định trong hợp đồng.
Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của tín dụng chứng từ là “Quy tắc và cách thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, bản sửa đổi năm 1993” của Phòng Thương
mạI quốc tế (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits ICC, 1993 Revision,
No. 500). Bản quy tắc này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là khi áp dụng nó các
bên đương sự phảI thoả thuận ghi vào L/C, đồng thời có thể thoả thuận khác, miễn là có
dẫn chiếu. Những nội dung chính của bản quy tắc này bao gồm những vấn đề sau đây:
- Nguyên tắc chung và định nghĩa về tín dụng chứng từ;
- Hình thức và thông báo thư tín dụng;
- Trách nhiệm cuả ngân hàng;
- Chứng từ thanh toán;
- Những điều khỏan khác như: quy định về số lượng và số tiền, giao từng phần,
ngày hết hiệu lực, cách bốc xếp hàng, xuất trình chứng từ thanh toán..
Hiện nay ở nước ta, các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh ngoại thương đã
thống nhất sử dụng bản Quy tắc này như một văn bản pháp lý điều các loại thư tín dụng
được áp dụng trong thanh toán quốc tế giữa Việt Nam và các nước ngoài.
Ngoài ra còn có các quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo tín dụng
chứng từ (URR) của (ICC) (Uniform Rules for Bank to bank Reimbusement under
Documentary Credits, N-525, 1995, ICC)
Chương II
Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại
NHCT ba đình
I/ vàI nét về NHct ba đình và Tình hình hoạt động kinh doanh của nó
1. Một số nét về NHCT Ba Đình
NHCT Ba Đình được thành lập năm 1961 với tư cách là 1 chi nhánh của Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) quận Ba Đình. Vì vậy NH hoạt động với 2 chức năng là quản lý nhà
nước và kinh doanh tiền tệ.
Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/03/1988 đã tạo tiền đề cho quá trình đổi mới
hoạt động Ngân hàng
Sau quyết định 402/CT của Chủ tịch HĐBT ngày 14/11/1990 về việc thành lập
NHCT Việt Nam, Ngân hàng Ba Đình trở thành chi nhánh của NHCT Hà Nội. Theo quyết
định số 93/NHCT-TCCB của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam (1/4/1993), NHCT Ba Đình
hoạt động với tư cách là chi nhánh của NHCT Việt Nam, có trách nhiệm tiến hành các
hoạt động kinh doanh theo các quyết định mà NHCT Việt Nam ban hành về việc áp dụng
các hình thức huy động vốn, cho vay, thanh toán, áp dụng biểu lãi suất như đã quy định và
tiến hành các dịch vụ Ngân hàng khác.
Từ đó đến nay, hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình được ổn định và phát triển
theo 4 định hướng lớn của ngành, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát, thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, đưa lại hiệu quả kinh doanh cao hơn so với
những năm trước.
Theo quy định mới đây NHCT Ba Đình là một chi nhánh Ngân hàng phụ thuộc
NHCT Việt Nam chứ không phải là trực thuộc.
2. Cơ cấu, tổ chức của NHCT Ba Đình
Chi nhánh NHCT Ba Đình là chi nhánh khá lớn mạnh với số cán bộ, công nhân viên
hơn 300 người, trong đó hơn 60% có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
Chi nhánh có Ban giám đốc gồm 5 người:
- 1 giám đốc phụ trách chung và đồng thời trực tiếp chỉ đạo hoạt động
tín dụng
- 4 phó giám đốc phụ trách riêng từng phòng ban và những lĩnh vực cụ thể
Chi nhánh có 7 phòng nghiệp vụ và 1 phòng giao dịch:
Phòng kinh doanh đối nội, gồm 3 nhóm:
+ nhóm tín dụng quốc doanh (tín dụng công nghiệp và tín dụng
thương nghiệp)
+ nhóm tín dụng ngoài quốc doanh
+ nhóm thống kê tổng hợp
Ngoài ra có các tổ cho vay đặt tại các phường trong quận. Hoạt động chủ yếu của
phòng là cho vay, tiến hành các hoạt động tiếp thị, tổng hợp thông tin và báo cáo.
Phòng kinh doanh đối ngoại thực hiện hoạt động thanh toán với nước ngoài như
mở L/C, thông báo L/C, bảo lãnh.., dịch vụ kiều hối, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán thẻ
tín dụng, kinh doanh vàng bạc đá quý và các dịch vụ khác.
Phòng kế toán tài chính làm dịch vụ mở tài khoản, quản lý tài khoản, tiền gửi,
thực hiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế, hạch toán chi nhánh.
Phòng nguồn vốn làm nhiệm vụ khai thác, huy động các nguồn tiền gửi với 9 Quỹ
tiết kiệm đặt rải rác ở các phường trong quận.
Phòng ngân quỹ thực hiện hoạt động thu chi tiền mặt, ngân phiếu và các quỹ tiết
kiệm, làm dịch vụ quản lý các chứng từ có giá.
Phòng kiểm soát nội bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh
về các mặt hoạt động của Ngân hàng, việc thực hiện các quy định, quy chế của nhà nước,
của NHCT Việt Nam.
Phòng tổ chức hành chính làm công tác điều động, thực hiện quản lý nhân sự, hành
chính, mua sắm tài sản, trang thiết bị.
Phòng giao dịch Cầu Diễn thực hiện các nghiệp vụ kế toán, tín dụng, kho quỹ.
3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình năm 2000
3.1 Về công tác huy động vốn
*) Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2000 đạt 1271 tỷ tăng 18,2% so cuối năm
1999. Trong đó:
+ Vốn huy động VND đạt 1088 tỷ tăng 21% so cuối năm 1999
+ Vốn huy động ngoại tệ quy VND đạt 183 tỷ tăng 3% so cuối năm 1999
*) Tổng nguồn vốn huy động bình quân năm 2000 đạt 1149 tỷ tăng 18,17% so bình
quân của năm 1999. Trong đó:
+ Vốn huy động bình quân VND đạt 975 tỷ tăng 18,17%
+ Vốn huy động bình quân ngoại tệ quy VND đạt 174 tỷ tăng 16%
*) Về cơ cấu huy động vốn đến cuối năm 2000:
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt gần 454 tỷ chiếm 35,7%
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư và huy động bằng kỳ phiếu đạt gần 817,6 tỷ chiếm
64,31%, trong đó kỳ phiếu đạt 73,32 tỷ chiếm 5,76%
3.2 Về công tác sử dụng vốn
*) Tổng dư nợ và đầu tư kinh doanh bình quân của năm 2000 đạt 593 tỷ tăng 18,6%
so với sử dụng vốn bình quân năm 1999. Trong đó:
+ Cho vay ngắn hạn bình quân đạt 472 tỷ tăng 19,54%
+ Cho vay trung dài hạn bình quân đạt 104 tỷ tăng 17,31%
*) Tổng dư nợ cuối năm 2000 đạt 552 tỷ so với cuối năm 1999 giảm 4 tỷ. Trong đó:
+ Dư nợ ngắn hạn 444 tỷ giảm 12 tỷ
+ Dư nợ trung dài hạn 108 tỷ tăng 8 tỷ
+ Nợ quá hạn 15,286 tỷ, chiếm tỷ trọng 2,7% tổng dư nợ, giảm 0,6% so năm 1999
Nhìn chung năm 2000 tốc độ cho vay cả ngắn hạn và trung dài hạn đều tăng từ 17
đến xấp xỉ 20%, song dư nợ cuối năm giảm 0,72% so với dư nợ cuối năm 1999. Lý do là
các doanh nghiệp bị tác động tâm lý về thuế giá trị gia tăng nên trong quý 4 năm 2000 tập
trung tiêu thụ hàng tồn kho, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu và
nguyên liệu ngoại nhập.
II. Thực trạng của một số phương thức TTQT tại NHCT BaĐình
Các phương thức thanh toán tại NHCT Ba Đình ngày càng đa dạng, tuy nhiên các
phương thức chủ yếu được sử dụng ở Chi nhánh gồm:
1. Nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền
1.1 Quy trình thanh toán chuyển tiền đi
Quy trình
thanh toán chuyển tiền đi ra ngoài hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho tất cả các chi nhánh)
a
a
a
Ghi chú:
Người chuyển tiền, người hưởng có thoả thuận thanh toán
Người chuyển tiền lệnh cho Chi nhánh trả tiền theo thoả thuận
a Chi nhánh ghi nợ tài khoản khách hàng
Chi nhánh lệnh cho NHCT Việt Nam thanh toán
a NHCT Việt Nam báo nợ Chi nhánh
NHCT Việt Nam lệnh cho Ngân hàng đại lý thanh toán cho người hưởng
a Ngân hàng đại lý ghi nợ tài khoản NOSTRO của NHCT Việt Nam
Ngân hàng đại lý A thanh toán cho Ngân hàng của người hưởng
Ngân hàng người hưởng báo có cho người hưởng
Tiếp nhận hồ sơ liên quan đến việc chuyển tiền bao gồm các chứng từ sau:
+ Hợp đồng mua bán ngoại thương
Người hưởng
N.H.C.T Việt Nam
Chi nhánh Ngân hàng người hưởng
Ngân hàng đại lý loại A
Người chuyển
+ Bộ chứng từ gửi hàng của người xuất khẩu gửi đến
+ Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
Thanh toán viên kiểm tra thấy phù hợp thì vào tập tin MT100 để chuyển về Hội sở
NHCT chuyển tiếp ra nước ngoài cho người hưởng.
Khách hàng có nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ lập chứng từ gửi đến Chi nhánh
(Ngân hàng khởi tạo lệnh thanh toán), Chi nhánh kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng
từ, số dư tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng của Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng lập
bảng kê ngoại tệ trên máy vi tính, kiểm soát và tính ký hiệu mật sau đó truyền bảng kê
bằng Modem về phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam. Phòng thông tin điện toán
NHCT Việt Nam chuyển tiếp tập tin bằng Modem về Phòng TTQT tại Hội sở NHCT Việt
Nam, làm thủ tục kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi chứng từ và kiểm soát số dư tài khoản
điều chuyển vốn hoặc hạn mức tín dụng của Chi nhánh (theo từng loại ngoại tệ)
- Nếu Ngân hàng nhận là Chi nhánh NHCT thì NHCT sẽ ghi nợ cho Ngân hàng
khởi tạo và ghi có cho Ngân hàng nhận đồng thời lập chứng từ trên máy vi tính, kiểm soát
tập tin và tính ký hiệu mật (đóng vai trò Ngân hàng khởi tạo) và chuyển tiếp tập tin về
Phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam để chuyển tiếp cho Chi nhánh Ngân hàng nhận
thanh toán qua Modem. Ngân hàng sau khi nhận được tập tin thanh toán ngoại tệ do Phòng
thông tin điện toán NHCT Việt Nam chuyển đến tiến hành kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi
chứng từ và hạch toán.
- Nếu Ngân hàng nhận thanh toán là Ngân hàng khác hệ thống trên lãnh thổ Việt
Nam hoặc Ngân hàng nước ngoài thì Phòng TTQT hội sở kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi
chứng từ, dùng chứng từ đó làm căn cứ để lập lệnh thanh toán chuyển tiếp cho Ngân hàng
nhận thông qua mạng SWIFT hay TELEX.
1.2 Quy trình thanh toán chuyển tiền đến
Quy trình
thanh toán chuyển tiền đến trong hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho tất cả các chi nhánh)
Người chuyển Người hưởng
a
a
Ghi chú:
Người chuyển tiền, người hưởng có thoả thuận thanh toán
Người chuyển tiền lệnh cho Ngân hàng của mình trả tiền theo thoả thuận
a Ngân hàng chuyển tiền ghi nợ tài khoản khách hàng
Ngân hàng chuyển tiền thanh toán qua Ngân hàng trung gian
a Ngân hàng trung gian ghi nợ Ngân hàng chuyển
Ngân hàng trung gian chuyển tiền qua NHCT Việt Nam
NHCT Việt Nam báo có cho Chi nhánh
Chi nhánh thanh toán cho người hưởng
Đối với nghiệp vụ này hiện nay NHCT Ba Đình đã hoàn toàn thực hiện qua mạng
máy tính. Khi nhận được lệnh chuyển tiền đến từ các Ngân hàng nước ngoài hoặc các
Ngân hàng khác hệ thống trên lãnh thổ Việt Nam cho người nhận có giao dịch với Chi
nhánh NHCT thì Phòng TTQT hội sở chính căn cứ vào thanh toán chuyển tiền đến lập
lệnh thanh toán, kiểm soát, tính ký hiệu mật và chuyển bằng Modem về Phòng thông tin
điện toán NHCT Việt Nam để chuyển tiếp cho Chi nhánh nhận. Tại đây sau khi nhận được
bức điện, tiến hành giải mã, kiểm soát, phục hồi chứng từ và hạch toán theo nội dung của
bức điện. Chi nhánh không có trách nhiệm gì giữa các bên liên quan mà chỉ làm trung gian
chuyển tiền và có trách nhiệm pháp lý với Ngân hàng phát lệnh chuyển tiền.
1.3 Kết quả đạt được của nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền
N.H.C.T Việt Nam
Chi nhánh Ngân hàng chuyển
Ngân hàng trung gian
Biểu 3: Kết quả TTQT theo phương thức chuyển tiền tại NHCT Ba Đình
Đơn vị: 1000 USD
Năm Tổng kim ngạch
chuyển tiền
Tốc độ tăng hàng năm Tỷ trọng trong tổng
phương thức thanh toán
1998 4.728 9,4%
1999 8.556 + 3.828 + 81% 16,4%
2000 19.695 + 11.139 + 130% 34%
NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1998, 1999,2000
Ta thấy rằng kim ngạch thanh toán bằng phương thức chuyển tiền năm 1999 đạt
8.556.000 USD, tăng gấp 1,8 lần năm 1998 với tỷ lệ tăng tương đối là +81%. Đến năm
2000 kim ngạch thanh toán theo phương thức này đạt 19.695.000 USD, tăng trên 2 lần so
với năm 1999 và tăng trên 4 lần so với năm 1998, với tỷ lệ tăng tương đối của năm
2000/1999 là +130%. Bảng số liệu cũng cho thấy tỷ trọng của phương thức chuyển tiền so
với tổng phương thức thanh toán đều tăng qua các năm, nếu năm 1998 tỷ trọng này là
9,4%, năm 1999 là 16,4%, thì đến năm 2000 đã tăng đến 34%, tăng gần 4 lần so với năm
1998. Có được kết quả này là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là trong
những năm trước đây thực hiện việc chuyển tiền trong thanh toán không chỉ có Ngân hàng
mà còn có sự cạnh tranh của Bưu điện. Ngoài ra việc chuyển tiền còn diễn ra trong thị
trường ngầm của nền kinh tế. Tuy nhiên càng ngày người ta càng nhận thấy rằng thực hiện
việc chuyển tiền qua Ngân hàng thuận lợi, an toàn hơn rất nhiều so với những hình thức
chuyển tiền khác. Đồng thời với việc tăng của phương thức chuyển tiền này là do khách
hàng của Chi nhánh và các đối tác nước ngoài đã có bề dày quan hệ với nhau nên đã có sự
tin tưởng lẫn nhau, do vậy mà có sự gia tăng mạnh của phương thức chuyển tiền. Mặt khác
lúc này NHCT Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đại lý với trên 40 nước. Điều này giải
thích vì sao tỷ trọng thanh toán theo phương thức chuyển tiền ngày càng tăng.
Biểu 3.1: Kim ngạch thanh toán chuyển tiền đến ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 676 312 410 -54% +31%
Số tiền (1000 USD) 500 1200 2100 +140% +75%
Tỷ trọng trong phương thức
chuyển tiền
10,6% 14% 10,7%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Bảng số liệu cho thấy năm 1999 có sự sụt giảm về số lượng chỉ còn 312 món (giảm -
364 món) với tốc độ giảm -54%, tuy nhiên về doanh số thì có sự gia tăng mạnh gấp hơn 2
lần năm 1998 đạt 1.200.000 USD với tốc độ tăng +140%. Giải thích về nguyên nhân của
sự gia tăng về doanh số và giảm về số lượng là do diễn biến không ổn định của tỷ giá trong
năm 1999, cung cầu ngoại tệ trên thị trường không cân bằng, nhiều cá nhân và tổ chức có
xu hướng giữ ngoại tệ trong khi đó hầu hết các món là do khách hàng ở nước ngoài chuyển
về trong nước theo dạng kiều hối. Do đó mà số lượng khách hàng sử dụng phương thức
chuyển tiền đến giảm qua đó số lượng cũng giảm theo. Nhưng cùng với việc phát triển bảo
lãnh dự thầu mà các nhà thầu chuyển tiền qua Chi nhánh với những món tiền khá lớn, do
đó mà doanh số chuyển tiền qua Ngân hàng tăng mạnh.
Đến năm 2000 lại có sự gia tăng mạnh về số lượng và trị giá, số lượng đạt 410 món
tăng +98 món với tốc độ tăng +31% so với năm 1999, trị giá của các món chuyển tiền đến
đạt 2.100.000 USD gấp gần 2 lần năm 1999, với tốc độ tăng +75% chậm hơn so với năm
1999. Sỡ dĩ là vì Ngân hàng luôn là người bạn đáng tin cậy đối với khách hàng, uy tín của
Ngân hàng dần được tạo lập. Khách hàng nhận ra rằng việc chuyển tiền qua Ngân hàng dễ
dàng, an toàn và nhanh chóng cộng với sự nhiệt tình, ân cần của các thanh toán viên đã
làm tăng nhanh doanh số chuyển tiền. Qua đó phí thu từ hoạt động TTQT tăng qua các
năm và đã góp phần tăng thêm lợi nhuận cho Ngân hàng.
Biểu 3.2: Kim ngạch thanh toán chuyển tiền đi ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 94 233 387 +148% +66%
Số tiền (1000 USD) 4.228 7.356 17.595 +74% +139%
Tỷ trọng trong phương thức
chuyển tiền
89,4% 86% 89,3%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Ta thấy qua các năm 98, 99, 2000 số lượng và doanh số của kim ngạch thanh toán
chuyển tiền đi đều có sự gia tăng mạnh. Năm 1999 số món là 233 món, tăng +94 món với
tốc độ tăng +148%, và doanh số đạt 7.356.000 USD, tăng +3.128.000 USD với tốc độ tăng
+74% so với năm 1998. Đến năm 2000 con số này tăng lên rất nhiều, số món đạt 387 món,
tăng +154 món với tốc độ tăng +66% và trị giá của tổng các món đạt 17.595.000 USD,
tăng +10.239.000 USD với tốc độ tăng +139% so với năm 1999. Như vậy qua 2 năm số
lượng chuyển tiền đi đã tăng lên khoảng gần 2 lần và giá trị cũng tăng lên trên 2 lần. Giải
thích cho sự gia tăng đó là vì chúng ta là nước nhập siêu, mặc dù mấy năm gần đây cũng
đã có giảm nhưng vẫn ở trong tình trạng là một nước nhập siêu. Do đó việc chuyển tiền ra
nước ngoài luôn chiếm tỷ lệ lớn, thêm vào đó là việc mở L/C nhập cũng kéo theo doanh số
chuyển tiền đi tăng. Các doanh nghiệp nhập khẩu ngoài việc mở L/C nhập thì cũng thường
sử dụng phương thức chuyển tiền để tạo thuận lợi trong việc quay vòng vốn nhanh, tránh
tình trạng vốn bị đọng.
ở phương thức thanh toán chuyển tiền đi ta thấy doanh số của nó bao giờ cũng cao
hơn so với phương thức chuyển tiền đến. Điều này thể hiện ở tỷ trọng của phương thức
chuyển tiền đi trong tổng thanh toán phương thức chuyển tiền năm 1998 chiếm 89,5%,
năm 1999 chiếm 86%, năm 2000 chiếm 89,3%; còn chuyển tiền đến năm 1998: 10,6%,
năm 1999: 14%, năm 2000: 10,7%.
Phương thức chuyển tiền tỏ ra thuận lợi vì thủ tục đơn giản, không có các chứng từ
phức tạp, người mua và người bán không phải gặp nhau để thanh toán. Nhưng nhược điểm
lớn nhất là độ an toàn trong thanh toán mậu dịch, không bảo đảm quyền lợi cho người bán
hàng vì việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Vì vậy phương thức này chủ
yếu để thanh toán phi mậu dịch, thanh toán các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu, kiều
hối, trả nợ... Nếu áp dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu thì chủ yếu là với khách hàng
quen biết có tín nhiệm cao.
2. Nghiệp vụ thanh toán nhờ thu
2.1 Quy trình thanh toán nhờ thu đi
Quy trình
Thanh toán nhờ thu đi trong hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho tất cả các chi nhánh)
Ghi chú:
Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương
Người bán thực hiện dịch vụ hoặc giao hàng
Người bán trình chứng từ nhờ thu qua Chi nhánh
Chi nhánh gửi chứng từ nhờ thu (trực tiếp hoặc qua NHCT Việt Nam)
Người bán Người mua
N.H.C.T Việt Nam
Chi nhánh Ngân hàng người mua
Ngân hàng người mua thông báo nhờ thu cho người mua
Người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán đổi chứng từ
Ngân hàng người mua thanh toán cho Chi nhánh qua NHCT Việt Nam
NHCT Việt Nam báo có cho Chi nhánh
Chi nhánh thanh toán cho người bán
Người mua đi nhận hàng
*) Tiếp nhận và xử lý chứng từ
Chi nhánh được phép trực tiếp nhận chứng từ nhờ thu của khách hàng và trực tiếp gửi
bộ chứng từ kèm chỉ dẫn thanh toán đến Ngân hàng của người trả tiền theo thông lệ Quốc
tế, theo phương thức chuyển phát nhanh qua bưu điện. Chỉ dẫn đòi tiền phải chuyển vào tài
khoản NOSTRO của NHCT Việt Nam tại nước ngoài.
Hồ sơ nhờ thu của khách hàng gồm:
+ Giấy yêu cầu nhờ thu kèm bảng kê chứng từ
+ Các chứng từ liên quan đến nhờ thu
Khi nhận được chứng từ của khách hàng, thanh toán viên cần kiểm tra đối chiếu số
lượng và các loại chứng từ với phần bảng kê chứng từ của khách hàng, phải đảm bảo đúng
đủ về mặt hình thức, không cần kiểm tra nội dung chứng từ.
Các thông tin sau trong hồ sơ nhờ thu của khách hàng phải được chỉ rõ:
. Nhờ thu thanh toán ngay hay nhấp nhận thanh toán
. Số tiền và loại tiền thanh toán ngay hay chấp nhận
. Giao chứng từ khi thanh toán toàn bộ hay thanh toán từng phần
. Tên, địa chỉ đầy đủ của người trả tiền và Ngân hàng của người trả tiền
Sau khi kiểm tra và xác định đầy đủ các yếu tố trên, Chi nhánh hoàn thiện chứng từ
để gửi đi nhờ thu:
- Ký hiệu các chứng từ tài chính liên quan
- Lập lệnh nhờ thu (bảng kê chứng từ kèm chỉ dẫn hoàn tiền)
Tất cả các lệnh nhờ thu của Ngân hàng trước khi gửi đi đều đánh số tham chiếu và
thực hiện quy định thống nhất 9 kí tự: xxx.CL.xx.xxxx, trong đó 3 kí tự đầu là mã liên
hàng của Chi nhánh, 2 kí tự tiếp thể hiện nghiệp vụ liên quan, 2 kí tự sau thể hiện năm phát
sinh nghiệp vụ và 4 kí tự cuối thể hiện số thứ tự phát sinh trong năm.
*) Gửi chứng từ và xử lý thông tin
Ngay khi chứng từ hoàn thiện, thanh toán viên có trách nhiệm gửi ngay bộ chứng từ
bằng phương thức chuyển phát nhanh qua bưu điện đến Ngân hàng nhận chứng từ theo
đúng tên và địa chỉ quy định trong lệnh nhờ thu. Nếu Chi nhánh chưa chắc chắn với khả
năng thực hiện nghiệp vụ của mình, trước khi gửi chứng từ đi có thể liên hệ với Phòng
TTQT NHCT Việt Nam để nhờ chuyển tiếp đến Ngân hàng nhận thu hộ.
Quá trình thanh toán nếu nhận được thông tin nào về tình trạng của bộ chứng từ thì
phải xem xét kỹ các thông tin, đối chiếu với hồ sơ lưu, nếu cần phải có thông tin tra soát
Ngân hàng nước ngoài qua TELEX, hay MT N99 hoặc nhờ NHCT Việt Nam chuyển tiếp
đến Ngân hàng nhận chứng từ. Sau 15 ngày kể từ ngày gửi chứng từ nếu không nhận được
báo có hoặc hồi âm từ Ngân hàng nhận chứng từ, Chi nhánh phải tra soát và nhắc nhở
thanh toán của Ngân hàng này.
2.2 Quy trình thanh toán nhờ thu đến
Quy trình
Thanh toán nhờ thu đến trong hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho tất cả các chi nhánh)
(11)
a a
Ghi chú:
Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương
Người bán Người mua
N.H.C.T Việt Nam
Ngân hàng người bán
Chi nhánh
Ngân hàng Khác
Người bán giao hàng
Ngân hàng người bán trình chứng từ nhờ thu cho Ngân hàng của mình
Ngân hàng người bán gửi chứng từ cho Chi nhánh qua NHCT Việt Nam
a Ngân hàng người bán gửi chứng từ cho Chi nhánh qua Ngân hàng khác
NHCT Việt Nam gửi chứng từ cho Chi nhánh
a Ngân hàng khác gửi chứng từ cho Chi nhánh
Chi nhánh thông báo nhờ thu cho người mua
Người mua thanh toán (chấp nhận) nhận chứng từ
Chi nhánh thanh toán cho Ngân hàng bán qua NHCT Việt Nam
NHCT Việt Nam thanh toán cho Ngân hàng bán
Ngân hàng người bán thanh toán cho Ngân hàng bán
(11) Người mua đi nhận hàng
*) Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ
Chi nhánh khi nhận được chứng từ nhờ thu (gồm cả nhờ thu trơn hoặc nhờ thu kèm
chứng từ) do Ngân hàng hay các TCTD trong nước và nước ngoài gửi đến, có trách nhiệm
là phải:
+ Kiểm tra lệnh nhờ thu của người gửi chứng từ, lệnh nhờ thu phải đảm bảo cung cấp
các chỉ dẫn, hướng dẫn một cách chính xác, đầy đủ, toàn diện như: tên, địa chỉ của người
thanh toán, người gửi chứng từ, người được uỷ thác (nếu có).
+ Chi nhánh chỉ được phép thực hiện theo đúng những chỉ dẫn được đưa ra trong
lệnh nhờ thu.
+ Nếu chỉ dẫn không rõ ràng hoặc vì một lý do nào đó không thể thực hiện được các
chỉ dẫn thì Chi nhánh phải tìm cách báo ngay cho bên gửi chứng từ.
+ Chi nhánh không có trách nhiệm phải kiểm tra nội dung của bất kì chứng từ nào
liên quan đến nhờ thu, tuy nhiên trước khi thông báo hoặc gửi chứng từ cho người trả tiền,
cán bộ thanh toán phải đối chiếu số lượng hoặc loại chứng từ thực tế nhận được với bảng
liệt kê chứng từ của người lập lệnh nhờ thu. Nếu phát hiện thấy sự khác biệt hoặc thiếu
mất chứng từ so với bản kê thì phải báo ngay cho bên gửi chứng từ cho Chi nhánh.
*) Thông báo nhờ thu và xử lý chứng từ
Sau khi nhận được và kiểm tra số lượng, loại chứng từ như quy định trên, Chi nhánh
tiến hành lập thông báo nhờ thu gửi cho khách hàng, người có trách nhiệm thanh toán hay
chấp nhận thanh toán như chỉ dẫn trong lệnh nhờ thu.
+ Đối với chứng từ nhờ thu thanh toán ngay (D/P) thì Chi nhánh chỉ giao chứng từ
cho khách hàng khi nhận đủ số tiền phải thanh toán cho người hưởng theo chỉ dẫn trong
lệnh đòi tiền và các khoản dịch vụ phí liên quan. Đối với nhờ thu phiếu trơn thanh toán
từng phần được chấp nhận, Ngân hàng chỉ giao chứng từ cho khách hàng khi toàn bộ số
tiền đã được thanh toán đủ
+ Đối với chứng từ nhờ thu chấp nhận (D/A) thì Chi nhánh chỉ giao chứng từ khi
nhận được sự chấp nhận thanh toán của người trả tiền, thủ tục chấp nhận về hình thức phải
hoàn hảo và chính xác theo thông lệ Quốc tế. Chi nhánh không phải chịu trách nhiệm về
tính đúng đắn, chân thực hay thẩm quyền của bất kì ai chấp nhận thanh toán.
+ Xử lý các vướng mắc
Quá trình nhận chứng từ thông báo và nhận tiền thanh toán từ người trả tiền nếu có
vướng mắc cần trao đổi, Chi nhánh trực tiếp liên lạc với người gửi chứng từ cho mình
(bằng thư, cable, hay qua bảng kê MT N99 trên mạng thanh toán nội bộ) tuỳ theo mức độ
quan trọng và tính cấp thiết của nó. Nếu bộ chứng từ bị từ chối thanh toán, Chi nhánh có
trách nhiệm thông báo ngay cho người gửi chứng từ kèm theo lý do từ chối, đồng thời
chứng từ phải được giữ nguyên như khi nhận để xử lý tiếp như theo chỉ dẫn của người gửi
chứng từ.
+ Thanh toán chấp nhận
Sau khi nhận được tiền thanh toán của người trả tiền kể cả trường hợp thanh toán
ngay hay thanh toán từng phần, sau khi trừ các khoản phí liên quan, số tiền còn lại phải
thanh toán ngay cho người hưởng theo đúng chỉ dẫn của nhờ thu trên cơ sở trích tài khoản
điều chuyển vốn ngoại tệ của Chi nhánh tại Hội sở thông qua bảng kê thanh toán MT100
theo quy định thanh toán chuyển tiền hiện hành.
Ngay khi nhận được chấp nhận thanh toán của người chuyển tiền, Chi nhánh phải
thông báo cho người gửi chứng từ sự chấp nhận trả tiền của người trả tiền thông qua
TELEX hoặc qua tập tin MT N99 trong mạng TTQT nội bộ hoặc gửi hối phiếu đã được
chấp nhận. Đến hạn thanh toán Chi nhánh có trách nhiệm nhắc nhở và đôn đốc khách hàng
trả tiền đúng hạn và thực hiện thanh toán cho người hưởng như quy định. Ngân hàng
không chịu trách nhiệm về việc chậm thanh toán của khách hàng, chỉ có trách nhiệm thông
báo những vướng mắc và thanh toán khi nhận được tiền theo chỉ dẫn như trong nhờ thu.
2.3 Kết quả đạt được của nghiệp vụ thanh toán nhờ thu
Biểu 4: Kết quả TTQT theo phương thức nhờ thu tại NHCT Ba Đình
Đơn vị: 1000 USD
Năm Tổng kim ngạch
nhờ thu
Tốc độ tăng hàng năm Tỷ trọng trong tổng
phương thức thanh toán
1998 1.391 2,7%
1999 1.940 + 549 + 39% 3,7%
2000 2.516 + 576 + 29% 4,4%
NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1998,1999,2000
Qua bảng số liệu ta thấy kim ngạch thanh toán theo phương thức nhờ thu đã có được
những kết quả đáng khích lệ. Về trị giá thanh toán năm 1999 đạt 1.940.000 USD, tăng
+549.000 USD với tốc độ tăng là +39% so với năm 1998, năm 2000 đạt 2.516.000 USD
tăng +576.000 USD với tốc độ tăng +29% so với năm 1999. Tuy nhiên về tốc độ tăng
tương đối năm 1998 lại giảm so với tốc độ tăng của năm 1999. Lý do giải thích cho sự
giảm của tốc độ là những diễn biến bất thường của nền kinh tế và đặc biệt là do Chi nhánh
mới tham gia vào hoạt động TTQT nên đang từng bước tạo dựng lòng tin trong các đối tác.
Chính vì vậy mà tỷ trọng của phương thức nhờ thu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng
thanh toán của các phương thức TTQT, năm 1998: 2,7%, năm 1999: 3,7%, năm 2000:
4,4%. Nhưng với sự gia tăng tỷ trọng qua các năm thì dự báo trong tương lai không xa sẽ
có nhiều đối tác đến Ngân hàng để yêu cầu thực hiện nhờ thu. Và phương thức này sẽ đem
lại nguồn phí không nhỏ cho Ngân hàng, đóng góp vào sự gia tăng lợi nhuận cho Ngân
hàng.
Biểu 4.1: Kim ngạch thanh toán nhờ thu đến ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 13 24 48 +85% +100%
Số tiền (1000 USD) 321 774 1789 +141% +131%
Tỷ trọng trong phương thức
nhờ thu
23% 40% 71%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Ta thấy năm 1998 số món thanh toán nhờ thu là 13 món, trị giá 321.000 USD, đến
năm 1999 số món là 24 món, tăng +11 món với tốc độ tăng +85%, trị giá đạt 774.000
USD, tăng +453.000 USD với tốc độ tăng +141%. Năm 2000 đều có sự gia tăng cả về số
lượng và doanh số, số lượng đạt 48 món, tăng gấp 2 lần năm 1999 với tốc độ tăng +100%,
doanh số đạt 1.789.000 USD tăng +1.015.000 USD với tốc độ tăng là +131% so với năm
1999. Đây có thể nói là thành tích của Ngân hàng, đóng góp không nhỏ trong hoạt động
TTQT cũng như mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Biểu 4.2: Kim ngạch thanh toán nhờ thu đi ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 5 7 3 +40% -57%
Số tiền (1000 USD) 1.070 1.166 727 +9% -38%
Tỷ trọng trong phương thức
nhờ thu
77% 60% 29%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Qua bảng số liệu ta thấy doanh số nhờ thu đi năm 2000 giảm so với các năm trước.
Năm 1998 doanh số là 1.070.000 USD, năm 1999 là 1.166.000 USD, tăng +96.000 USD,
tốc độ tăng +9% so với năm 1998. Nhưng đến năm 2000 doanh số giảm -439.000 USD
còn 727.000 USD, tốc độ giảm -38% so với năm 1999. Sự gia tăng về số lượng và hình
thức thanh toán chứng tỏ nghiệp vụ TTQT tại NHCT Ba Đình đang ngày càng đa dạng hoá
và thu hút được nhiều khách hàng, tạo thêm thế mạnh cho Ngân hàng.
Qua 2 bảng số liệu ta thấy nghiệp vụ nhờ thu đến tăng mạnh gấp trên 2 lần năm 1999,
trong khi đó nghiệp vụ nhờ thu đến mới áp dụng ở Chi nhánh. Thế nhưng trị giá của mỗi
món nhờ thu đi (trung bình 170.000 USD/món) lớn hơn rất nhiều trị giá của mỗi món nhờ
thu đến (trung bình 27.000 USD/món). Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp xuất khẩu
trong nước thường là những doanh nghiệp lớn bán cho bạn hàng nước ngoài quen thuộc
theo đơn đặt hàng có giá trị cao, còn các doanh nghiệp nhập khẩu trong nước thường nhập
khẩu theo kiểu “đánh quả lẻ” từng đợt nhỏ hàng một, bán hết rồi mới nhập tiếp.
Trong thực tế thanh toán Chi nhánh nhận thấy với phương thức nhờ thu không kèm
chứng từ có ưu điểm là thanh toán tương đối nhanh, thực hiện đơn giản nhưng có rất nhiều
nhược điểm vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán do quá trình thanh toán và nhận
hàng của người mua hoàn toàn tách rời nhau. Cho nên nó phụ thuộc vào thiện chí của
người mua, người mua có thể nhận hàng mà không thanh toán hay thanh toán chậm trễ.
Trong trường hợp hối phiếu đến tay người mua trước khi họ nhận được chứng từ thì họ
vẫn phải trả tiền hay chấp nhận mặc dù không biết hàng hoá có đúng yêu cầu hay không.
Như vậy tính an toàn của phương thức này rất thấp đối với cả người xuất khẩu và nhập
khẩu. Vì vậy nó rất ít được sử dụng trong thanh toán có chăng chỉ là trong thanh toán dịch
vụ hoặc khi 2 bên tin cậy nhau, hoặc 2 bên cùng trong nội bộ công ty.
Còn với phương thức nhờ thu kèm chứng từ D/A thì người xuất khẩu chịu nhiều rủi
ro hơn so với phương thức D/P vì khi đến hạn trả tiền của hối phiếu, người mua có thể
không trả tiền vì một lý do nào đó trong khi đã nhận được hàng. Thêm vào đó thời gian
thanh toán lại bị kéo dài do phải phụ thuộc vào thời gian luân chuyển chứng từ giữa các
bên có liên quan. Với thanh toán D/P người nhập khẩu phải trả tiền khi nhận được bộ
chứng từ mà không được kiểm tra hàng hoá. Vì vậy người mua sẽ gặp rủi ro trong trường
hợp hàng hoá giao không đúng như mô tả trong chứng từ hoặc trong hợp đồng. Về phía
người xuất khẩu phải tin tưởng vào khả năng và thiện chí thanh toán của bạn hàng nước
ngoài vì các Ngân hàng tham gia hoàn toàn không chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu người
mua từ chối bộ chứng từ thì người xuất khẩu phải chịu chi phí chuyên chở hàng hoá và
mọi rủi ro trên đường vận chuyển. Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này, Ngân
hàng có thể khống chế được các chứng từ hàng hoá, quyền lợi của người xuất khẩu cũng
được bảo đảm hơn các phương thức nhờ thu phiếu trơn và chuyển tiền. Do vậy nhà xuất
khẩu Việt Nam vẫn sử dụng phương thức thanh toán này trong những hợp đồng có giá trị
nhỏ, thanh toán dịch vụ với khách hàng quen và tin cậy.
3. Nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ
3.1 Quy trình thanh toán thư tín dụng nhập khẩu
Quy trình
Thanh toán L/C nhập trong hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho các chi nhánh loại 1)
(12)
a
a (11)
Ghi chú:
Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương
Người mua làm đơn yêu cầu Chi nhánh phát hành L/C
Chi nhánh phát hành L/C qua NHCT Việt Nam
a NHCT Việt Nam báo nhận và phát hành L/C
NHCT Việt Nam phát hành L/C qua Ngân hàng đại lý
Ngân hàng đại lý thông báo L/C cho người bán
Người bán nhận L/C và giao hàng
Người bán trình chứng từ đến Ngân hàng chỉ định
a Ngân hàng chỉ định chiết khấu chứng từ thanh toán cho người hưởng
Người bán Người mua
N.H.C.T Việt Nam
Ngân hàng chỉ định
Chi nhánh
Ngân hàng chỉ định gửi chứng từ thanh toán cho Chi nhánh
Chi nhánh thanh toán qua NHCT Việt Nam nếu chứng từ phù hợp
NHCT Việt Nam thanh toán cho Ngân hàng chỉ định
(11) Chi nhánh giao chứng từ cho người mua
(12) Người mua đi nhận hàng
a) Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ
đây là khâu quan trọng vì chỉ trên cơ sở này Ngân hàng mới có căn cứ để mở L/C cho
người xuất khẩu giao hàng. Trên thực tế hồ sơ thường gồm:
+ Đơn xin mở L/C. Sau khi đã được Ngân hàng đồng ý mở thì đơn này trở thành một
khế ước dân sự giữa người nhập khẩu và Ngân hàng. Cơ sở pháp lý và nội dung của đơn
xin mở L/C là hợp đồng mua bán được ký kết giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.
+ Hợp đồng thương mại (bản gốc và bản photo)
+ Hạn ngạch (quota) nhập khẩu của từng chuyến hoặc giấy phép nhập khẩu
+ Các tài liệu liên quan đến thủ tục xác nhận hay vay ngoại tệ của Ngân hàng như thủ
tục bảo lãnh, luận chứng kinh tế kỹ thuật, khế ước vay ngoại tệ, uỷ nhiệm chi... (dùng
trong trường hợp khách hàng vay ngoại tệ)
Chi nhánh được phép tiếp nhận hồ sơ thanh toán L/C hàng nhập khẩu cho khách hàng
khi còn hạn mức sử dụng hoặc trong phạm vi hạn mức gia tăng (nếu có) theo quy định của
NHCT Việt Nam trong mối quan hệ điều chuyển vốn ngoại tệ nội bộ, chấp hành nghiêm
chỉnh mức phán quyết trong cho vay hay bảo lãnh theo quy định.
Khách hàng có nhu cầu thanh toán bằng phương thức L/C nếu không có tiền ký quỹ
hay mức ký quỹ dưới 100% thì trước khi làm thủ tục mở L/C đều phải làm thủ tục cam kết
thanh toán hoặc vay vốn thông qua Phòng kinh doanh, cam kết sử dụng vốn hoặc khế ước
vay vốn phải được lãnh đạo Chi nhánh phê duyệt.
Để nâng cao trách nhiệm của Chi nhánh, giảm bớt thủ tục phiền hà, Chi nhánh có thể
tiến hành phân loại, cấp hạn mức tín dụng mở L/C cho các khách hàng có quan hệ giao
dịch thường xuyên, quan hệ vay sòng phẳng, xác định mức ký quỹ tối thiểu cho từng đơn
vị có quan hệ giao dịch khi mở L/C thanh toán bằng vốn tự có. Hạn mức tín dụng mở L/C,
tỷ lệ ký quỹ khi mở L/C bằng vốn tự có hoặc cam kết thanh toán là do Giám đốc Chi
nhánh Ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm trên cơ sở đề xuất của Phòng kinh doanh
tuỳ theo mức độ tín nhiệm, khả năng tài chính, tài sản thế chấp... và thông báo cho bộ phận
TTQT vào đầu quý. Khi có nhu cầu cần bổ xung hoặc trao đổi phải được thông báo bằng
văn bản.
b) Mở và phát hành L/C
Khi hồ sơ thanh toán của khách hàng đã hội đủ các điều kiện, thanh toán viên tiến
hành mở và phát hành L/C theo yêu cầu của khách hàng trên cơ sở đơn xin mở L/C qua
mạng máy vi tính trên tập tin MT 700. Sau khi hoàn thiện nhập dữ liệu, thanh toán viên
cần phải kiểm soát lại nội dung của L/C trước khi ghi lại và thực hiện các bước tiếp theo
để chuyển L/C đã mở về Hội sở để chuyển tiếp cho người hưởng đồng thời lưu hồ sơ và
hạch toán theo quy định chung.
c) Tu chỉnh và tra soát
Theo thông lệ Quốc tế không có văn bản chính thức về quy tắc tu chỉnh L/C. Tuy
nhiên tu chỉnh L/C là một nghiệp vụ không thể thiếu được trong quá trình mở và thanh
toán thư tín dụng. Việc tu chỉnh L/C, Ngân hàng chỉ thực hiện khi có đề nghị chính thức
bằng văn bản có đủ tính chất pháp lý của người mở L/C. Bản tu chỉnh sẽ trở thành một bộ
phận cấu thành và không thể tách rời của L/C. Khi tiếp nhận được yêu cầu tu chỉnh L/C
của khách hàng, các thanh toán viên của Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các điều
khoản tu chỉnh, nếu hợp lý thì tiến hành nhập dữ liệu tu chỉnh vào tập tin MT 707 để
chuyển về NHCT Việt Nam như quy trình mở và phát hành L/C. Các tra soát liên quan đến
L/C nhưng không phải là tu chỉnh L/C cũng phải được nhập vào tập tin N99 và chuyển tiếp
về Hội sở qua mạng truyền tin. Khi nhận được yêu cầu sửa đổi đối với điều chỉnh giá trị
cũng như các điều chỉnh khác phải đủ các yêu cầu sau:
- Thư yêu cầu điều chỉnh của khách hàng (1 bản)
- Văn bản chứng minh sự đồng ý của các bên liên quan (1 bản)
Tất cả mọi sự điều chỉnh và sửa đổi hay huỷ bỏ đều phải thông báo cho Ngân hàng
hoặc Ngân hàng xác nhận nếu có. Các điều khoản không bị sửa đổi có giá trị như cũ. Nếu
không có quy định khác trong thư tín dụng, mọi điều kiện và điều khoản của tu chỉnh đều
được lập và thực hiện dựa trên cơ sở của “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ - UCP 500”.
d) Nhận kiểm tra chứng từ và thanh toán
Sau khi nhận được L/C và các sửa đổi liên quan, người bán sẽ tiến hành giao hàng và
lập bộ chứng từ thanh toán để gửi đến cho Chi nhánh thông qua Ngân hàng của họ, Chi
nhánh có trách nhiệm nhận, kiểm tra thanh toán và giao chứng từ cho khách hàng theo quy
định.
* Trường hợp thanh toán khi nhận chứng từ
Ngay sau khi nhận được bộ chứng từ bưu điện, Chi nhánh phải vào sổ theo dõi đồng
thời kiểm tra nội dung của bộ chứng từ. Chi nhánh có khoảng thời gian làm việc tối đa 5
ngày để kiểm tra kể từ khi nhận chứng từ, ngoài thời gian này mọi khiếu nại liên quan đến
chứng từ không có giá trị hiệu lực.
Trong khoảng thời gian cho phép nếu kiểm tra thấy sự sai sót về số lượng hay nội
dung chứng từ phải lập tức thông báo bổ sung các sai sót. Sau khi kiểm tra nếu thấy chứng
từ phù hợp hoặc có ý kiến chấp nhận thanh toán của người nhập khẩu trong trường hợp
chứng từ có sai sót thì Chi nhánh cần phải:
+ Thực hiện thanh toán ngay cho khách hàng theo chỉ dẫn trong thư đòi tiền của
Ngân hàng gửi chứng từ nếu là thanh toán ngay.
+ Thông báo chấp nhận thanh toán và ngày đến hạn thanh toán nếu L/C thanh toán có
thời hạn hoặc thanh toán chậm, theo dõi trả tiền đúng hạn như đã chấp nhận và chỉ dẫn
trong thư đòi tiền của Ngân hàng gửi chứng từ.
+ Giao chứng từ cho khách hàng sau khi đã hoàn tất các thủ tục cần thiết, việc thông
báo sai sót và chấp nhận thanh toán được thực hiện trên máy vi tính thông qua tập tin MT
N99
* Trường hợp thanh toán khi nhận điện đòi tiền
Khi nhận được điện đòi tiền theo chỉ dẫn của L/C, Chi nhánh phải tiến hành kiểm tra
nội dung bức điện theo đúng với nội dung quy định trong L/C, đồng thời phải xác thực bức
điện thông qua Hội sở hoặc Ngân hàng có liên quan trong bức điện. Dựa trên nội dung và
chỉ dẫn của điện đòi tiền đã được xác thực, lập bảng kê thanh toán cho Ngân hàng gửi điện
như trường hợp thanh toán khi nhận được bộ chứng từ. Khi nhận được chứng từ, trước khi
giao cho khách hàng, Chi nhánh vẫn phải tiến hành kiểm tra, liên hệ với khách hàng, thông
báo sai sót cho Ngân hàng gửi chứng từ như trường hợp trên hoặc có thể đòi hoàn tiền
trong trường hợp chứng từ bị từ chối thanh toán.
Khách hàng từ chối khi bộ chứng từ sai sót trong bất kì trường hợp nào cũng phải giữ
lại chứng từ khi nhận được để thông báo và chờ các chỉ dẫn từ Ngân hàng gửi chứng từ
hoặc chỉ dẫn từ Hội sở NHCT Việt Nam.
Ngân hàng chỉ ký hậu vận đơn hoặc bảo lãnh cho khách hàng nhận hàng khi chưa
nhận được bộ chứng từ nếu có văn bản chấp nhận thanh toán vô điều kiện của khách hàng,
kể cả khi bộ chứng từ có sai sót.
3.2 Quy trình thanh toán thư tín dụng xuất khẩu
Quy trình
thanh toán L/C xuất khẩu trong hệ thống NHCT Việt Nam
(áp dụng cho tất cả các chi nhánh)
(12)
a (11)
a a
Ghi chú:
Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương
Người mua làm đơn yêu cầu Ngân hàng của mình phát hành L/C
Ngân hàng của người mua phát hành L/C qua NHCT Việt Nam
a Phát hành L/C qua Ngân hàng khác
NHCT Việt Nam thông báo L/C qua Chi nhánh
a Ngân hàng khác thông báo L/C cho người bán qua Chi nhánh
Chi nhánh thông báo L/C cho người bán
Người bán giao hàng cho người mua
Người bán trình chứng từ cho Chi nhánh để chiết khấu
Người bán Người mua
N.H.C.T Việt Nam
Chi nhánh Ngân hàng phát hành
Ngân hàng khác
a Chi nhánh chiết khấu chứng từ thanh toán cho người bán
Chi nhánh gửi chứng từ thanh toán cho Ngân hàng phát hành L/C
Ngân hàng phát hành thanh toán qua NHCT VN nếu chứng từ phù hợp
NHCT Việt Nam báo có cho Chi nhánh
(11) Ngân hàng phát hành giao chứng từ cho người mua
(12) Người mua đi nhận hàng
a) Nhận thông báo và xác nhận L/C xuất khẩu
Chi nhánh được phép nhận thông báo L/C và các tu chỉnh liên quan cho khách hàng
của mình khi nhận được thông báo L/C từ Hội sở NHCT Việt Nam hoặc khi nhận được
thông báo L/C đã được xác nhận từ các Ngân hàng khác trong nước.
Trước khi thông báo cho khách hàng L/C và các tu chỉnh liên quan đến L/C phải đảm
bảo tính xác thực thông qua ký hiệu mật đã thoả thuận hoặc chữ ký, mẫu dấu đã đăng kí
của Ngân hàng thông báo đầu tiên. Việc xác nhận L/C chỉ được thực hiện thông qua Hội
sở NHCT Việt Nam.
Khi khách hàng có nhu cầu giao dịch, thương lượng chiết khấu L/C hàng xuất thì Chi
nhánh chỉ được nhận thương lượng chiết khấu thanh toán hoặc cho vay ứng trước thế chấp
bộ chứng từ khi L/C chỉ định có giá trị thương lượng, chiết khấu thanh toán tại bất cứ
Ngân hàng nào hoặc là tại chính Chi nhánh.
Điều đáng lưu ý là để đảm bảo quyền lợi của mìnhvà khách hàng, cán bộ thanh toán
NHCT Ba Đình trong quá trình tiếp nhận và thông báo L/C luôn xem xét cụ thể, chi tiết
từng điều khoản, điều kiện trong thư tín dụng có ràng buộc trách nhiệm của mình cùng với
các đơn vị xuất khẩu, xem xét các điều kiện trong L/C có phù hợp với lợi ích của đơn vị
xuất khẩu không, đồng thời tư vấn cho các đơn vị xuất khẩu những giải pháp thích hợp
nhất như yêu cầu huỷ bỏ hoặc sửa đổi điều khoản trong trường hợp các điều kiện không
đảm bảo quyền lợi cho đơn vị xuất khẩu.
Theo quy định trong điều 7 của UCP, bản sửa đổi số 500 năm 1993 quy định trách
nhiệm của Ngân hàng thông báo: “ Ngân hàng thông báo nếu đồng ý thông báo thư tín
dụng thì phải kiểm tra với sự cẩn thận thích đáng tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng
mà mình thông báo. Nếu Ngân hàng thông báo không thể xác minh được tính chân thật bề
ngoài của thư tín dụng mà mình phải thông báo thì Ngân hàng không được chậm trễ phải
thông báo cho Ngân hàng mà các chỉ thị đã nhận được từ Ngân hàng đó biết rằng nó không
có khả năng xác minh được tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng và tuy nhiên nếu nó
đồng ý thông báo thư tín dụng thì phải thông báo cho người hưởng lợi rằng nó không thể
xác minh được tính chân thật của thư tín dụng”.
b) Sửa đổi thư tín dụng
Khi có những đề nghị sửa đổi thư tín dụng, với trách nhiệm của Ngân hàng thông
báo, thanh toán viên phải thông báo ngay lập tức điều chỉnh L/C cho đơn vị xuất khẩu và
nếu có điểm vướng mắc nào thì liên hệ với Ngân hàng mở để yêu cầu cung cấp những
thông tin cần thiết. Việc sửa đổi L/C phải làm bằng văn bản và có sự xác nhận của Ngân
hàng mở L/C. Văn bản sửa đổi sẽ trở thành một bộ phận cấu thành của L/C và huỷ bỏ
những nội dung cũ có liên quan.
Điều cần lưu ý là những nội dung sửa đổi chỉ có giá trị hiệu lực nếu việc sửa đổi tiến
hành trong thời hạn hiệu lực của L/C và trước thời hạn giao hàng. Đồng thời các nội dung
giao dịch có liên quan đến nội dung sửa đổi hay bổ sung L/C phải được tiến hành bằng văn
bản như điện báo, thư từ, điện tín, Telex có khoá mã... Tất cả các giao dịch này có thể tiến
hành trực tiếp giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, song kết quả cuối cùng phải có
sự xác nhận của Ngân hàng mở L/C.
Theo điều 11, 12 của UCP 500 (1993) nếu chỉ nhận được chỉ thị không đầy đủ hoặc
không rõ ràng để sửa đổi thư tín dụng thì Chi nhánh có thể thông báo sơ bộ cho người
hưởng lợi biết: ” Thông báo sơ bộ này phải được nói rõ chỉ có tác dụng là một thông báo
đơn thuần và Ngân hàng thông báo không chịu trách nhiệm”.
c) Nhận chứng từ do khách hàng gửi đến và kiểm tra chứng từ
Sau khi nhận được thông báo thư tín dụng, đơn vị xuất khẩu thực hiện giao hàng và
lập bộ chứng từ kèm công văn nhờ gửi chứng từ tới Ngân hàng nước ngoài gửi tới NHCT
Ba Đình. Theo quy định trong điều 14 UCP 500, Chi nhánh khi được uỷ quyền của Ngân
hàng phát hành để trả tiền hoặc cam kết trả tiền sau, chấp nhận hối phiếu hoặc chiết khấu
khi chứng từ được xuất trình xét bề ngoài phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng.
Chính vì vậy ngay khi nhận được chứng từ của khách hàng, cán bộ thanh toán cần
yêu cầu khách hàng xuất trình bản gốc L/C và sửa đổi gốc liên quan, đảm bảo xác minh
được tính xác thực của nó và phải chắc chắn L/C còn giá trị chưa thanh toán để có thể
thương lượng ở bất cứ một Ngân hàng nào (đối với L/C thanh toán và giao hàng từng
phần). Giá trị thanh toán, thương lượng tại Chi nhánh phải đúng với giá trị thanh toán của
lần giao hàng cần thanh toán. Trước khi thương lượng thanh toán và gửi chứng từ đòi tiền
cần kiểm tra số lượng, loại chứng từ đối chiếu với bảng kê chứng từ của khách hàng và
quy định trong L/C, kiểm tra các nội dung trên từng loại chứng từ đảm bảo khớp đúng với
các điều khoản, điều kiện quy định trong L/C và sự thống nhất giữa các loại chứng từ. Đặc
biệt thanh toán viên phải lưu ý kiểm tra trước các loại chứng từ không do người hưởng lập
như chứng từ vận chuyển, chứng từ bảo hiểm, các loại giấy chứng nhận, sau đó kiểm tra
những chứng từ được lập bởi người hưởng lợi như hối phiếu, hoá đơn thương mại...
Một bộ chứng từ thanh toán gồm các loại chứng từ sau:
- Hối phiếu (Draf)
- Hoá đơn thương mại (Commerce invoice)
- Vận đơn (Bill of lading/Airway bill)
- Bảng kê chi tiết (Detailed packing list)
- Chứng từ bảo hiểm (Insurance policy)
- Giấy chứng nhận trọng lượng, chất lượng, đóng gói (Certificate of Weight/ Quality/
Packing)
- Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin)
- Giấy chứng nhận kiểm nghiệm (Ispection certificate)
Ngoài ra còn có các loại chứng từ khác tuỳ thuộc vào từng loại hàng hoá, giá cả, điều
kiện thoả thuận giữa các bên. Một bộ chứng từ hoàn hảo thì phải phù hợp các điều kiện
sau:
+ Loại, số chứng từ xuất trình
+ Thời hạn xuất trình chứng từ
+ Nội dung của chứng từ phù hợp với quy định của L/C
Đối với các giấy chứng nhận luôn phải có chữ ký của người lập, chứng từ phải phù
hợp với nhau và số lượng kiện hàng, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì phải giống nhau
trên các chứng từ. Trong quá trình kiểm tra nếu thấy sự khác biệt hoặc sai sót của chứng từ
cần phải xử lý:
. Sai sót có thể thay thế được hoặc sửa chữa được, đề nghị khách hàng thay thế hoặc
sửa chữa
. Sai sót không thể thay thế hoặc sửa chữa được, đề nghị khách hàng tu chỉnh L/C
(nếu có thể) hoặc thông báo cho Ngân hàng phát hành nêu rõ các sai sót và xin chấp nhận
thanh toán
. Sai sót không thể được chấp nhận, đề nghị khách hàng chuyển sang hình thức thanh
toán nhờ thu hoặc trả lại chứng từ cho họ
d) Thương lượng, chiết khấu và thanh toán
Bộ chứng từ kiểm tra bảo đảm hoàn hảo và phù hợp với L/C hoặc chứng từ sai sót
nhưng đã có chấp nhận từ Ngân hàng phát hành là cơ sở để xem xét thương lượng và chiết
khấu chứng từ. Tỷ lệ chiết khấu thanh toán cho khách hàng được phép dao động trong
khoảng 90 - 98% (phí chiết khấu từ 2 - 10%) tổng giá trị mỗi lần thanh toán tuỳ theo loại
tiền, cách đòi tiền, thời gian dự kiến thanh toán, các chi phí liên quan, mối quan hệ với
Ngân hàng phát hành là do Giám đốc NHCT Ba Đình quyết định trên cơ sở tờ trình của bộ
phận thanh toán xuất khẩu. Giám đốc Chi nhánh quyết định có quyền thương lượng, chiết
khấu hoặc cho vay ứng trước và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
* Chiết khấu thanh toán ngay (bảo lưu quyền truy đòi)
Để được chiết khấu, khách hàng phải có đơn xin chiết khấu và cam kết quyền truy
đòi của Ngân hàng trong trường hợp không đòi được tiền theo chỉ dẫn của Ngân hàng phát
hành và chịu tất cả mọi phí tổn liên quan đến thanh toán L/C. Tỷ lệ thanh toán hoặc phí
chiết khấu được thực hiện theo thoả thuận giữa khách hàng và Chi nhánh, thương lượng
giới hạn trong mức dao động cho phép. Chứng từ đã gửi đi sau 15 ngày nếu không có hồi
âm thì NHCT Ba Đình có trách nhiệm lập điện tra soát, sau đó nếu vẫn không có trả lời thì
liên tiếp 5 ngày 1 lần thanh toán viên lập điện tra soát (N99) cho đến khi nhận được trả lời
từ Ngân hàng nước ngoài. Sau 1 tháng kể từ khi gửi chứng từ thanh toán mà không đòi
được tiền thì thanh toán viên chuyển hồ sơ cho bộ phận Tín dụng thông báo cho khách
hàng hưởng để thực hiện quyền truy đòi theo nội dung đơn xin chiết khấu của khách hàng.
3.3 Kết quả đạt được của phương thức thanh toán thư tín dụng
Trong hoạt động TTQT hàng hoá xuất nhập khẩu, phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ được sử dụng một cách rộng rãi, chiếm ưu thế hơn so với các phương thức thanh
toán khác do tính ưu việt của nó. Đối với NHCT Ba Đình tổng kim ngạch thanh toán
phương thức tín dụng chứng từ chiếm trên một nửa giá trị thanh toán.
Biểu 5: Kết quả TTQT theo phương thức L/C tại NHCT Ba Đình
Đơn vị: 1000 USD
Năm Tổng kim ngạch
L/C
Tốc độ tăng hàng năm Tỷ trọng trong tổng
phương thức thanh toán
1998 44.331 88,3%
1999 41.829 -2.502 -6% 81,3%
2000 36.052 -5.777 -14% 63,6%
NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1998,1999,2000
Bảng số liệu cho thấy kim ngạch thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
giảm qua các năm cùng với sự giảm tương ứng của tỷ trọng phương thức tín dụng chứng
từ trong tổng thanh toán. Năm 1998, kim ngạch đạt 44.331.000 USD chiếm tỷ trọng
88,3%. Năm 1999 kim ngạch thanh toán chỉ đạt 41.829.000 USD, giảm -2.502.000 USD
với tốc độ giảm -6% so với năm 1998, cũng tương ứng tỷ trọng giảm còn 81,3% trong cả
tổng thanh toán. Nguyên nhân là do sự biến động bất thường của cuộc khủng hoảng tài
chính ở các nước trong khu vực Đông Nam á và Châu á nói chung làm cho tỷ giá thay đổi
không ổn định, đồng thời là sự thay đổi chính sách mở tài khoản ngoại tệ đã làm cho
những bạn hàng lớn chủ yếu của Chi nhánh NHCT Ba Đình rút khỏi Chi nhánh, do đó đã
làm giảm bớt một nguồn thu nhập đáng kể của Ngân hàng. Ngoài ra sự tín nhiệm lẫn nhau
giữa các khách hàng đã làm giảm hoạt động thanh toán L/C mà làm tăng các phương thức
thanh toán khác. Thể hiện là năm 2000 kim ngạch thanh toán thư tín dụng còn 36.052.000
USD, giảm -5.777.000 USD với tốc độ giảm -14% so với năm 1999 và tương ứng tỷ trọng
của nó trong tổng thanh toán còn 63,6%.
Biểu 5.1: Kim ngạch thanh toán L/C nhập ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 466 483 561 +4% +33%
Số tiền (1000 USD) 43.710 41.655 34.952 -5% -16%
Tỷ trọng trong phương thức
thanh toán
thư tín dụng
98,6% 99,6% 97%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Trong tổng số lợi nhuận của hoạt động kinh doanh đối ngoại thì phần lợi nhuận thu
được từ nghiệp vụ L/C chiếm phần lớn đặc biệt là nghiệp vụ mở L/C cho người nhập khẩu.
Trước đây khi nghiệp vụ TTQT còn do NHNT độc quyền thì mặc dù nhiều doanh nghiệp
có tài khoản tại Chi nhánh NHCT Ba Đình nhưng lại phải tiến hành TTQT qua NHNT.
Chính vì vậy khi nghiệp vụ TTQT được tiến hành tại Chi nhánh thì hầu hết các khách hàng
đều thực hiện việc thanh toán của mình qua NHCT Ba Đình. Hơn thế nữa, nền kinh tế
nước ta còn trong tình trạng nhập siêu lớn nên các L/C nhập khẩu được mở nhiều làm cho
số lượng và kim ngạch thực hiện là khá lớn. Năm 1998 số lượng L/C mở tại Chi nhánh là
466 món với trị giá 43.710.000 USD. Đến năm 1999 do tình hình biến động kinh tế các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên trị giá L/C mở
tại Chi nhánh có phần giảm sút chỉ đạt 41.655.000 USD, giảm
-2.055.000 USD, tốc độ giảm -5% so với năm 1998; mặc dù vậy số lượng L/C mở vẫn
đảm bảo tăng hơn so với năm 1998 (+17 món). Điều này có nhiều nguyên nhân nhưng chủ
yếu vẫn là diễn biến phức tạp của thị trường do khủng hoảng tài chính khu vực gây nên, tỷ
giá ngoại tệ liên tục tăng gây khó khăn cho Chi nhánh trong việc mua bán ngoại tệ, lượng
ngoại tệ không đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Mặt khác các doanh nghiệp không
dám mạnh dạn vay vốn Ngân hàng để đầu tư kinh doanh. Năm 2000 tuy trị giá L/C mở chỉ
đạt 34.952.000 USD, giảm -6.703.000 USD với tốc độ giảm -16% so với năm 1999 nhưng
số lượng thì vẫn tăng đều đạt 561 món, tăng +78 món với tốc độ tăng +33%so với năm
1999. Điều này cho thấy do sự tín nhiệm giữa các khách hàng với nhau mà họ sử dụng
những phương thức thanh toán khác dễ dàng, thuận tiện hơn. Bên cạnh đó Chi nhánh đã lôi
kéo được một số khách hàng về mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng, để có được
thành tích này Ngân hàng đã từng bước áp dụng chính sách tiếp thị xuất nhập khẩu và có
chính sách ưu đãi với khách hàng.
Trong số những khách hàng quen thuộc và thường xuyên có quan hệ với Chi nhánh
có nhiều khách hàng là những doanh nghiệp lớn như: Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng
công ty xây dựng cầu Thăng Long, Tổng công ty xây dựng công trình 1, Tổng công ty xây
dựng đường thuỷ, Công ty TODIMAX, Công ty TRASERCO... Ngoài ra cũng có một số
doanh nghiệp nước ngoài và liên doanh thực hiện giao dịch với Ngân hàng. Điều này cho
thấy uy tín cũng như chất lượng dịch vụ của NHCT Ba Đình ngày càng được nâng cao.
Điều này được thể hiện trong sự phát triển về mọi mặt của Ngân hàng. Mặc dù nghiệp vụ
TTQT mới đưa vào hoạt động trong mấy năm gần đây song đã đóng góp không nhỏ vào sự
thành công của NHCT Ba Đình.
Hiện nay Chi nhánh mở L/C nhập khẩu với thị trường Châu á là chủ yếu. Năm 1999
nhập khẩu chiếm 75% kim ngạch thanh toán, năm 2000 nhập khẩu chiếm 70%. Về cơ cấu
mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nhựa chiếm 15,2%, máy móc chiếm 16%, hoá chất chiếm
16%, hàng tiêu dùng chiếm 20%. Chính vì tỷ lệ nhập khẩu quá cao từ các nước Châu á đã
tạo ra chênh lệch khá lớn giữa xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời làm cán cân thương mại
mất cân bằng trầm trọng và khi có khủng hoảng từ những nước này thì cũng sẽ dẫn đến
những thiệt hại cho không những khách hàng mà cả Ngân hàng.
Biểu 5.2: Kim ngạch thanh toán L/C xuất ở NHCT Ba Đình
Năm 1998 1999 2000 99/98 2000/99
Số món 4 4 49 -
Số tiền (1000 USD) 621 174 1100 -72% +532%
Tỷ trọng trong phương thức
thanh toán
thư tín dụng
1,4% 0,4% 3%
NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1998,1999,2000
Ta thấy đến năm 2000 có sự gia tăng mạnh về trị giá của L/C xuất đạt 1.100.000
USD gấp gần 2 lần năm 1998 và gấp trên 6 lần năm 1999. Đây có thể nói là một kỳ tích
của Chi nhánh. Tưởng chừng sau năm khủng hoảng tài chính thì số L/C xuất sẽ chưa thể
phục hồi kịp nhưng trái với dự đoán năm 2000 tốc độ tăng lại đạt +532% và số lượng tăng
+45 món. Qua đó thể hiện các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đã có những bước đi
đúng đắn trong việc tìm ra hướng đi mới cho chính mình. Nghiệp vụ thanh toán L/C xuất
khẩu tăng giúp Ngân hàng đa dạng hoá dịch vụ, góp phần nâng cao trình độ, kinh nghiệm
của các thanh toán viên, nâng cao uy tín của NHCT trong hệ thống NHTM.
Có thể nói phương thức tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm hơn hẳn các phương
thức thanh toán khác. Trên phương diện người mua, sử dụng phương thức tín dụng chứng
từ người mua chỉ trả tiền khi biết chắc chắn hàng hoá nhận phù hợp với yêu cầu trong hợp
đồng ngoại thương, người mua sẽ không phải thanh toán tiền hàng nếu nó không phù hợp
với yêu cầu thể hiện qua chứng từ. Trên phương diện người bán, sử dụng phương thức tín
dụng chứng từ sẽ đảm bảo việc thu tiền vì bản thân L/C là một cam kết của Ngân hàng về
việc trả tiền cho người bán khi họ thực hiện đúng những quy định trong L/C. Nếu là L/C
xác nhận thì cần có thêm sự đảm bảo của Ngân hàng trong trường hợp Ngân hàng mở L/C
không có khả năng thanh toán cho người nhập khẩu. Vì vậy người bán có thể yên tâm giao
hàng và xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo tại Ngân hàng để thu tiền nhanh chóng. Ngoài ra
người bán còn tránh được rủi ro về cơ chế quản lý ngoại hối của nước người mua vì khi
người mua mở L/C thì phải có giấy phép chuyển ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối.
Trên giác độ Ngân hàng, tiến hành nghiệp vụ này Ngân hàng thu được thủ tục phí khá lớn,
Ngân hàng còn huy động thêm khoản tiền gửi (khi ký quỹ) phục vụ cho hoạt động khác
như cho vay xuất nhập khẩu, bảo lãnh... Bên cạnh đó phương thức này cũng vẫn có một số
nhược điểm đó là quy trình thanh toán phải rất tỉ mỉ, đòi hỏi các bên khi tiến hành phải hết
sức cẩn thận nhất là khâu lập chứng từ và kiểm tra chứng từ. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong
việc lập chứng từ cũng có thể là nguyên nhân bác bỏ việc thanh toán. Chứng từ là căn cứ
duy nhất để Ngân hàng trả tiền, do vậy Ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm về chứng từ chứ
không chịu trách nhiệm về hàng hoá nên có khả năng người bán giả mạo chứng từ gây
thiệt hại cho người mua. Nếu người mua và người bán không thiện chí với nhau, người
mua có thể tìm ra lỗi nhỏ để từ chối thanh toán mặc dù hàng hoá giao đúng như trong hợp
đồng.
4. Đánh giá chung hoạt động TTQT của NHCT Ba Đình
4.1. Các kết quả đạt được
Kể từ năm 1990 do sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước
cũng như trên thế giới đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng biến động theo.
Trước tiên là việc nền kinh tế trong nước chuyển dịch theo cơ chế thị trường nên các giao
dịch ngoại thương không còn bị bó buộc bởi Nhà nước, do đó nền kinh tế đã bùng nổ theo
sự chỉ đạo của “bàn tay vô hình” dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên rõ rệt. Thêm
vào đó là việc hệ thống Ngân hàng đã chuyển từ 1 cấp sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, đã
có sự phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước của NHNN với chức năng kinh doanh vốn
có của 1 NHTM hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính. Đặc biệt từ sau khi Mỹ bãi bỏ
lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu. Trước tình hình đó nếu vẫn để NHNT độc quyền trong
TTQT thì chắc chắn NHNT không thể đảm đương nổi. Chính vì vậy ngày 24/05/92 Hội
đồng nhà nước đã ký Pháp lệnh số 38/L/CT - HĐNN cho phép các NHTM tham gia vào
quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế. Nhờ đó kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam
tăng trưởng không ngừng. Năm 1998 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức 18,4 tỷ
USD, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến tháng 3/1998 đã có khoảng 1600 dự án với
tổng số vốn đăng ký 27,185 tỷ USD.
NHCT Việt Nam chính thức được Thống đốc NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ
TTQT từ năm 1991. Năm 1992 hoạt động TTQT được triển khai tại Hội sở NHCT Việt
Nam. Cuối năm 1993 nghiệp vụ TTQT mới được triển khai xuống các Chi nhánh NHCT.
Từ đó NHCT Ba Đình đã được phép tham gia vào hoạt động TTQT, song Chi nhánh xét
thấy chưa đủ khả năng và cũng chưa có nhu cầu từ phía khách hàng nên vẫn chưa thực sự
tham gia vào hoạt động này. Nhưng cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế, đứng trước
thực trạng là khách hàng có quan hệ tín dụng với NHCT Ba Đình, có tài khoản mở tại chi
nhánh, song nếu có quan hệ TTQT lại phải thực hiện thông qua NHNT, điều đó kéo theo
nhiều thủ tục rườm rà. Để giải quyết vấn đề này, năm 1994 tổ kinh doanh ngoại tệ ra đời
với chức năng TTQT và kinh doanh ngoại tệ. Năm 1996 được nâng cấp thành Phòng kinh
doanh đối ngoại với các chức năng sau:
- Tổ chức, thực hiện nghiệp vụ TTQT
- Kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và kế toán ngoại tệ
Ban đầu Chi nhánh có gặp rất nhiều khó khăn do chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực
này, nhưng được sự chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo NHCT Việt Nam cùng với trình
độ chuyên môn và sức sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại, Chi
nhánh NHCT Ba Đình đã đạt được rất nhiều kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh
hết sức mới mẻ này
Biểu 1: Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 98,99,2000
Đơn vị: 1000
Năm 1998 1999 2000 So sánh
2000/99
Nội dung
1. Kinh doanh ngoại tệ
USD + Mua
+ Bán
151.333
150.228
43.570
44.410
47.053
44.821
108%
101%
DEM + Mua
+ Bán
2.206
2.202
3.082
3.111
2.257
2.244
73%
72%
FRF + Mua
+ Bán
-
-
1.246
1.241
318
327
26%
26%
JPY + Mua
+ Bán
16.635
16.624
150.235
148.425
160.251
162.022
107%
109%
Thu chênh lệch mua bán (quy
VND)
1.281.646 2.025.000 2.600.000 128%
2. Doanh số chi trả kiều hối
USD 467 388 992 256%
DEM 1.637 925 274 30%
3. Tổng trị giá thanh toán séc
du lịch (USD)
-
11
7
64%
4. Thanh toán L/C
L/C nhập khẩu (USD) 43.710 41.655 34.952 84%
L/C xuất khẩu (USD) 621 174 1.100 632%
5. Thanh toán nhờ thu
Nhờ thu đến (USD) 321 774 1.789 231%
Nhờ thu đi (USD) 1.070 1.166 727 62%
6. Phí thu từ hoạt động TTQT
(VND)
3.039.000 3.100.000 3.000.000 98%
7. Tổng thu từ hoạt động kinh
doanh đối ngoại (VND)
4.367.000
5.125.000
7.600.000
148%
8. % trên lợi nhuận ròng 15,9
%
16% 34%
Qua bảng số liệu trên ta thấy hoạt động kinh doanh đối ngoại của Chi nhánh nói
chung là có hiệu quả mặc dù phí thu từ hoạt động TTQT đến năm 2000 đạt 3.000.000.000
VND giảm so với các năm trước, cụ thể là giảm -2% so với năm 1999, giảm -1% so với
năm 1998, tuy nhiên tổng thu từ hoạt động kinh doanh đối ngoại tăng lên đáng kể đạt
7.600.000.000 VND, tăng +48% so với năm 1999, tăng +74% so với năm 1998. Điều này
chứng tỏ NHCT Ba Đình đã chú trọng vào việc mở rộng và phát triển hơn nữa các loại
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
Sè ti
Òn
1.00
0.00
0 VN
D
1998 1999 2000
N¨m
PhÝ thu tõ ho¹ t ®éngTTQT
Tæng thu tõ ho¹ t ®éngkinh doanh ®èi ngo¹ i
hình thanh toán khác, qua đó Chi nhánh đã tạo được uy tín lớn đối với Ngân hàng nước
ngoài và với các khách hàng của mình. Đó cũng chính là hình ảnh của các thanh toán viên
phòng kinh doanh đối ngoại mặc dù khối lượng nghiệp vụ TTQT lớn nhưng họ luôn đảm
bảo chất lượng kinh doanh của ngân hàng, cố gắng không để sai sót nào làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của khách hàng cũng như uy tín của Chi nhánh. Họ tận tuỵ trong công việc
sát sao trong từng nghiệp vụ. Họ tư vấn giúp khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán
thích hợp, điều tra thông tin của khách hàng đối tác để tránh rủi ro trong quá trình thực
hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Đây không chỉ là nghiệp vụ mới đối với Chi nhánh NHCT
Ba Đình mà còn đối với nền kinh tế nói chung, nó có ý nghĩa thiết thực đối với quyền lợi
của khách hàng và cũng chính là một trong những mục tiêu của chiến lược Marketing
Ngân hàng.
Phòng kinh doanh đối ngoại cũng đã có nhiều ý kiến cho Ban lãnh đạo chi nhánh góp
phần cho việc đầu tư vốn ngoại tệ có hiệu quả hơn, chấp hành đúng các văn bản hiện hành
của NHNN và của NHCT Việt Nam.
Tuy nhiên có thể thấy rằng với tuổi đời non trẻ trong hoạt động kinh doanh đối ngoại
của Chi nhánh NHCT Ba Đình thì không thể không tránh khỏi những khó khăn do chủ
quan và khách quan gây nên. Nguyên nhân chủ yếu là chưa được đầu tư đầy đủ từ phía
NHCT Việt Nam, cũng như tình hình biến động của nền kinh tế trong nước và trên thế
giới, đặc điểm của các đơn vị kinh doanh trên địa bàn quận Ba Đình.
Tóm lại, kể từ khi thực sự tham gia vào hoạt động TTQT, Chi nhánh NHCT Ba Đình
đã nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ này và không ngừng hoàn thiện các mặt
công tác, đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như của chính Ngân hàng, nâng cao hơn
nữa vị thế của Chi nhánh nói riêng và của hệ thống NHCT nói chung trên thương trường
trong nước và quốc tế.
Trước đây hoạt động TTQT của hệ thống NHCT Việt Nam được thông qua 2 đầu
mối là Hội sở NHCT Việt Nam (đối với các chi nhánh phía Bắc) và chi nhánh NHCT
thành phố Hồ Chí Minh (đối với các chi nhánh phía Nam). Từ năm 1995 để đảm bảo sử
dụng vốn ngoại tệ một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất đồng thời để phát huy được sức
mạnh của cả hệ thống và đảm bảo vai trò kiểm soát của NHCT Việt Nam, hoạt động
TTQT của cả hệ thống NHCT được tập trung vào 1 đầu mối là NHCT Việt Nam.
NHCT Việt Nam là 1 đầu mối duy nhất của cả hệ thống thực hiện nghiệp vụ TTQT,
các Chi nhánh phụ thuộc của NHCT Việt Nam có đủ điều kiện tham gia TTQT đều thực
hiện qua đầu mối duy nhất đó. Chỉ có NHCT Việt Nam mới được phép đặt quan hệ đại lý
và mở tài khoản NOSTRO tại Ngân hàng đại lý ở nước ngoài, mở các tài khoản tiền gửi,
tiền vay tại NHNN và các NHTM khác trên lãnh thổ Việt Nam.
NHCT Việt Nam mở tài khoản điều chuyển vốn ngoại tệ, tiền gửi DTBB... cho các
Chi nhánh theo từng loại ngoại tệ và thực hiện tính lãi cho các Chi nhánh. Các Chi nhánh
được yêu cầu NHCT Việt Nam chuyển đổi từ loại ngoại tệ này sang loại ngoại tệ khác.
Hàng quý, NHCT Việt Nam thông báo hạn mức sử dụng ngoại tệ cho từng Chi nhánh
(bao gồm hạn mức tối thiểu và hạn mức gia tăng) để Chi nhánh chủ động trong việc giải
quyết các mối quan hệ với khách hàng. Nếu Chi nhánh có nhu cầu tăng thêm phải báo cáo
ngay về NHCT Việt Nam. Việc thanh toán ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCT Việt
Nam, giữa hệ thống NHCT Việt Nam với các ngân hàng khác hệ thống và các ngân hàng
nước ngoài, việc mở L/C và thông báo L/C đều được thực hiện trên máy vi tính theo một
chương trình phần mềm thống nhất.
Mọi quy trình của nghiệp vụ TTQT đều được thực hiện theo quyết định số 26/NHCT
- QĐ ngày 1/3/1996 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, quyết định số 311/NHCT - KT
ngày 23/3/1994 về việc hướng dẫn hạch toán kế toán ngoại tệ và bản “Quy tắc và thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ” của Phòng thương mại quốc tế năm 1993 số 500
(UCP-500).
Sau một thời gian hoạt động với các nghiệp vụ TTQT, Chi nhánh đã đạt được một số
thành tích đáng khích lệ như sau:
Biểu 2: Tình hình hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
Đơn vị: 1000USD
Phương thức 1998 1999 2000
1. Thanh toán T/T 4.728 8.556 19.695
2. Thanh toán nhờ thu 1.391 1.940 2.516
3. Thanh toán L/C 44.331 41.829 36.052
Cộng 50.450 52.325 58.263
NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1998,1999,2000
0 10000 20000 30000 40000 50000
Doanh sè (1000 USD)
1998
1999
2000
N¨m
T×nh h×nh ho¹ t ®éng TTQT t¹ i NHCT Ba § ×nh
Thanh to¸n L/CThanh to¸n nhê thuThanh to¸n T/T
Qua bảng số liệu trên ta thấy mặc dù nghiệp vụ TTQT mới được triển khai nhưng đã
có bước phát triển đáng kể. Năm 1998 doanh số TTQT đạt được 50.450.000 USD thì sang
năm 1999 doanh số đã lên tới 52.325.000 USD với tốc độ tăng +4%. Sang đến năm 2000
mặc dù vẫn còn dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á và một số
diễn biến bất thường của nền kinh tế thế giới, bên cạnh đó là những khó khăn trong nước
như thiên tai, hạn hán và tình trạng Việt Nam là nước nhập siêu dẫn đến mất cân đối cung
cầu ngoại tệ nhưng vượt lên trên những khó khăn đó với sự nỗ lực của Chi nhánh và có
những giải pháp, bước đi đúng đắn, doanh số TTQT không dừng lại mà còn tăng lên đạt
58.263.000 USD, tốc độ tăng +11% so với năm 1999 và +15% so với năm 1998. Chất
lượng nghiệp vụ thanh toán ngày càng được nâng cao, tuy khối lượng TTQT lớn nhưng
Chi nhánh không để xảy ra sai sót nào làm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng cũng
như của Ngân hàng. Uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao. Nhờ phát triển
nghiệp vụ TTQT, NHCT Ba Đình đã thu hút thêm được nhiều doanh nghiệp xuất nhập
khẩu về giao dịch, vay vốn và TTQT qua Chi nhánh. Qua đó Ngân hàng thu được khối
lượng phí lớn đóng góp một phần đáng kể vào kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Năm
1998, phí thu được từ hoạt động kinh doanh đối ngoại đạt 4.367.000.000 VND, năm 1999
con số này là 5.125.000.000 VND với tốc độ tăng +17% so với năm 1998, và đến năm đạt
được 7.600.000.000 VND với tốc độ tăng +48% so với năm 1999. Con số này không
những phản ảnh sự tăng về mặt số học mà còn có ý nghĩa kinh tế là lợi nhuận của Ngân
hàng cũng tăng theo, vị thế của NHCT Ba Đình đã từng bước được khẳng định, khách
hàng đã “quen thân” với Ngân hàng.
4.2. Một số tồn tại và nguyên nhân
NHCT mới tham gia nghiệp vụ TTQT chưa lâu, vì vậy trong quá trình hoạt động có
những hạn chế là không tránh khỏi. Qua thực tiễn hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy
nổi lên một số vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho Ngân hàng
thực hiện tốt hơn nữa chức năng thanh toán.
*) Một số tồn tại chung
+ Chế độ chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, các chính sách kinh tế sẽ tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng
và hoạt động của cả nền kinh tế nói chung. Song bên cạnh đó chính sách quản lý xuất khẩu
còn một vài hạn chế, thể hiện sự chưa tập trung còn có tình trạng mạnh ai người đó xuất
khẩu, cung cầu giả tạo... Mặt khác những thay đổi trong chính sách vốn chưa hoàn thiện
cũng đã gây ra không ít thiệt hại cho các doanh nhân Việt Nam.
+ Hành lang pháp lý cho hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói
riêng còn thiếu, bất cập. Chúng ta chưa có riêng một quy chế, văn bản pháp lý hướng dẫn
giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho riêng ngành Ngân hàng và từng ngành chức năng
liên quan, chưa có luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc của riêng Việt Nam. Các văn bản
hiện hành thì quy định chồng chéo, qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu
quả pháp lý chưa cao.
+ Việt Nam chưa có thị trường hối đoái hoàn chỉnh, hiện nay mới có thị trường ngoại
tệ liên Ngân hàng nhưng hoạt động của thị trường còn kém sôi động, nghiệp vụ còn đơn
giản, mới chỉ có hình thức mua bán trao ngay, đối tượng mua bán chủ yếu là USD (chưa
thực hiện mua bán các phương tiện TTQT), thành viên tham gia thị trường còn hạn chế,
chỉ có Hội sở các NHTM và NHNN. Việc điều hành tỷ giá của Nhà nước đã phản ảnh
cung cầu ngoại tệ song việc thực hiện còn nhiều hạn chế, chưa kịp thời, có thời gian cầu
rất lớn so với cung. Nhiều NHTM có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài
nhưng không thể mua được trên thị trường này cũng như không mua được ngoại tệ từ quỹ
điều hoà của NHNN. Điều này phần nào ảnh hưởng đến khả năng TTQT và uy tín của
NHTM trên trường Quốc tế.
+ Cán cân vãng lai và cán cân thương mại Quốc tế còn thâm hụt nghiêm trọng dẫn
đến mất cân đối cung cầu về ngoại tệ, ảnh hưởng đến khả năng mua bán ngoại tệ của các
NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động TTQT.
*) Về phía Ngân hàng
+ Công nghệ thanh toán chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hệ thống thanh toán ngoại tệ
và TTQT của các Chi nhánh trong nội bộ hệ thống NHCT Việt Nam tuy đã thực hiện trên
máy vi tính nhưng chương trình phần mềm chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, mức tự động
chưa cao, việc truyền nhận tin vẫn do con người thực hiện thông qua hệ truyền tin Scom3.
Vì vậy việc truyền tin chậm trễ, dễ mất mát tập tin trên đường truyền dẫn tới chậm trễ
trong thanh toán làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng. Thêm vào đó chương trình kế
toán ngoại tệ trên máy tính chưa được thực hiện thống nhất nên vẫn xảy ra trường hợp
thông báo về lượng ngoại tệ dùng để thanh toán L/C hoặc ký quỹ mở L/C từ bộ phận kho
quỹ với bộ phận kế toán trong Ngân hàng còn nhiều chậm trễ, không cập nhật ngay được
thông tin gây ách tắc trong quá trình thanh toán chứng từ tại Chi nhánh.
+ Quy mô hoạt động TTQT còn chưa rộng, lượng L/C xuất khẩu thông báo và chiết
khấu qua Ngân hàng còn ít, trong khi đó lượng L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn gây khó
khăn cho Chi nhánh trong việc tự cân đối nhu cầu mua bán ngoại tệ. Hoạt động tín dụng
tài trợ xuất nhập khẩu chưa được đẩy mạnh.
+ Hình thức dịch vụ chưa đa dạng, hiện nay NHCT Ba Đình mới chỉ thực hiện và
thanh toán 3 loại séc du lịch là Thomat Cook, Citi Corp, Amex, chưa có hệ thống rút tiền
tự động.
+ Ngân hàng có thể chịu nhiều rủi ro trong trường hợp Ngân hàng bảo lãnh cho
người nhập khẩu đi nhận hàng khi chứng từ chưa về đến, người nhập khẩu có thể gây khó
khăn thậm chí không thanh toán cho Ngân hàng trong khi Ngân hàng chỉ nắm giữ một số
tiền ký quỹ không lớn. Hoặc trong trường hợp người xuất khẩu và người nhập khẩu cấu
kết để lừa đảo thì mọi hậu quả Ngân hàng phải gánh chịu.
+ Môi trường hoạt động kinh doanh nói chung và TTQT nói riêng của NHCT Ba
Đình có sự cạnh tranh rất lớn của các Ngân hàng khác đặc biệt là NHNT, Ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam...
+ NHCT Ba Đình đóng trên địa bàn nơi có trung tâm chính trị với hầu hết các đơn vị
hành chính sự nghiệp, các ban ngành trọng yếu của Đảng và Chính phủ, sản xuất kinh
doanh kém phát triển vì vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
+ Do NHCT Ba Đình mới tham gia vào hoạt động TTQT nên uy tín trên trường Quốc
tế chưa cao, hệ thống Ngân hàng đại lý còn chưa rộng. Vì vậy lượng L/C xuất khẩu thông
báo qua Ngân hàng còn hạn chế.
+ Trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT tuy đảm bảo được yêu cầu song kinh
nghiệm thực tế chưa nhiều dẫn đến tốc độ và độ chính xác chưa cao.
*) Về phía khách hàng
Khách hàng ở đây là những đơn vị xuất nhập khẩu trong nước đã và đang thực hiện
việc thanh toán xuất nhập khẩu qua NHCT Ba Đình. Bên cạnh những đơn vị lâu năm có
nhiều kinh nghiệm trong công việc thì cũng có không ít những đơn vị chưa có kinh
nghiệm, trình độ hiểu biết về nghiệp vụ thanh toán thấp. Do đó thường nảy sinh các sai sót
gây tổn hại không những đến chính các đơn vị này mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của
Ngân hàng.
+ Về hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu: trong thực tiễn hoạt động, thanh toán viên
đã gặp không ít trường hợp không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc
phải từ chối không thanh toán tiền hàng cho khách. Lý do là người xuất khẩu tuy đã được
nhắc nhở song vẫn không nộp chứng từ kịp thời, lập bộ chứng từ không khớp với L/C như
mô tả sai hàng hoá so với L/C hoặc không đầy đủ.
+ Về thanh toán hàng nhập khẩu: người nhập khẩu trong một số trường hợp thường
thắc mắc mở L/C mà không lấy được hàng đúng thời hạn do không lấy được bộ chứng từ
thanh toán từ Ngân hàng. Tuy nhiên nguyên nhân chính là do người nhập khẩu đã mở L/C
không đúng với thời gian quy định trong hợp đồng. Thêm vào đó có trường hợp do các
hợp đồng thương mại thiếu chặt chẽ, khách hàng Việt Nam thiếu thông tin về đối tác.
Đồng thời người nhập khẩu chưa coi trọng tham mưu của Ngân hàng trong việc ký kết hợp
đồng. Điều này có thể khiến Ngân hàng gặp khó khăn trong việc giao dịch với đối tác nước
ngoài hoặc Ngân hàng thông báo theo hợp đồng quy định do không có quan hệ đại lý. Việc
sửa đổi, khắc phục hậu quả sẽ gây nhiều phiền phức tốn kém cả thời gian và tiền bạc.
Nói tóm lại, NHCT Ba Đình có những ưu thế nhất định trong hoạt động TTQT, thành
quả mà Ngân hàng đã đạt được là đáng trân trọng cần phải phát huy hơn nữa. Bên cạnh đó
có không ít những khó khăn và tồn tại mà Chi nhánh cần phải khắc phục mà trước mắt cần
thiết phải đề ra những kiến nghị và giải pháp làm sao cho phát triển hơn nữa hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng, tạo cho Ngân hàng uy tín lớn đối với các khách hàng, giúp
Ngân hàng tăng được lợi nhuận qua đó làm mạnh hơn nữa hệ thống NHCT nói chung và
NHCT Ba Đình nói riêng.
Chương III
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình trong năm tới
1. Định hướng hoạt động chung
Đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút các khách hàng lớn, các doanh nghiệp Nhà nước,
các Tổng công ty và các đơn vị có hoạt động xuất nhập khẩu về giao dịch với Chi nhánh.
Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi khách hàng. Phấn đấu giữ vững và phát triển mọi mặt
hoạt động kinh doanh đối ngoại.
Ngân hàng cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng phục vụ cho hoạt
động thẩm định. Trong đó tập chung những thông tin cần thiết về ngành, về lĩnh vực, về
tình hình kinh tế các khu vực khác nhau trong cả nước. Phát triển theo các hướng chi
nhánh thu thập và lưu trữ thông tin về tình hình cụ thể trên địa bàn chi nhánh, trung ương
lưu trữ và những thông tin cụ thể trên toàn quốc, giữa trung ương và chi nhánh thực hiện
trao đổi thường xuyên qua hệ thống thông tin nội bộ.
Cần gặp gỡ trực tiếp và phỏng vấn doanh nghiệp xin vay vốn. Làm như vậy, ngân
hàng sẽ biết thêm về xu hướng phát triển và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tìm
hiểu đánh giá được năng lực, mức độ kinh nghiệm và sự chín chắn của doanh nghiệp cũng
như khả năng của ban lãnh đạo các doanh nghiệp.
Tăng cường hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng. Từng bước tăng cường cơ sở
vật chất một cách đồng bộ như xây dựng và áp dụng những phương pháp như lưu trữ, xử
lý, phân tích, cung cấp và quản lý thông tin hiện đại bằng các ứng dụng thông tin hiện đại
nối mạng trong hệ thống thông tin Ngân hàng, nối mạng trên toàn quốc và nối mạng toàn
cầu. Từ đó, ngân hàng sẽ có được các thông tin về giá cả các loại sản phẩm, hàng hoá,
thông tin về thị trường, công nghệ..
a) Các mục tiêu phấn đấu
Tiếp tục thực hiện phương châm chiến lược “ổn định, an toàn, hiệu quả và phát
triển”, năm 2001 Chi nhánh đề ra mục tiêu sau:
+ Huy động vốn bình quân tăng 20% so với mức huy động cuối năm 2000.
+ Mức dư nợ bình quân cho vay tăng 20% so với mức dư nợ đến 31/12/2000. Nợ quá
hạn dưới 2,5%.
+ Điều chuyển vốn tăng 10% so với mức điều chuyển vốn bình quân năm 2000.
+ Lợi nhuận hạch toán tăng 5% so với lợi nhuận hạch toán thực hiện năm 2000.
b) Các biện pháp chủ yếu
* Bám sát vào các mục tiêu và biện pháp chỉ đạo của NHCT Việt Nam, Chi nhánh
tiếp tục thực hiện chính sách của Nhà nước và của ngành về chấn chỉnh hoạt động của
Ngân hàng, đặc biệt là nâng cao chất lượng và mở rộng đầu tư vốn tín dụng đối với mọi
thành phần kinh tế, đồng thời đẩy mạnh công tác tiếp thị thu hút khách hàng, các doanh
nghiệp Nhà nước, các Tổng công ty và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu.
* Kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trên cơ sở các chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước.
* Linh hoạt trong kinh doanh nội tệ và ngoại tệ trong phạm vi cho phép. Tăng cường
bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ cán bộ, động viên kịp thời cán bộ để phấn đấu hoàn
thành tốt các mục tiêu đề ra.
2. Định hướng hoạt động thanh toán quốc tế
Kết hợp chặt chẽ với các Phòng chức năng của NHCT Việt Nam triển khai mọi
nghiệp vụ TTQT, phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện, tăng cường sử dụng hạn
ngạch tài trợ xuất nhập khẩu.
Năng động trong kinh doanh, áp dụng linh hoạt tỷ giá mua bán ngoại tệ và các giao
dịch ngoại tệ trong phạm vi cho phép.
Nâng cao chất lượng thanh toán phục vụ khách hàng xuất khẩu để mở rộng nguồn
vốn ngoại tệ.
Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ truyền thống như thanh toán xuất nhập khẩu, tài
trợ thương mại quốc tế, chuyển tiền.. cần xúc tiến triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ tín
dụng Visa và Master, đẩy mạnh dịch vụ chuyển tiền kiều hối để tăng thu ngoại tệ cho ngân
hàng và cho đất nước.
ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng vào lĩnh vực thanh toán thẻ, dịch vụ thanh
toán trong thương mại điện tử và dịch vụ ngân hàng tại nhà cho một số công ty, khách
hàng có khối lượng giao dịch lớn.
Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn, đảm bảo 100% cán
bộ công tác trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại có trình độ ngoại ngữ bằng C trở lên,
động viên kịp thời cán bộ có thành tích trong công tác và học tập.
II/ Các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động TTQT tại NHCT Ba Đình
Trong những năm gần đây, kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường quan hệ kinh
tế đối ngoại ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, hứa hẹn nhiều thành tựu to
lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trong bối cảnh đó cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh,
NHCT Ba Đình đã và đang hết sức coi trọng công tác đổi mới, hoàn thiện và phát triển
hoạt động kinh doanh đối ngoại và TTQT. Tuy nhiên đứng trước những khó khăn và tồn
tại mà Ngân hàng đang phải đối mặt thì việc thực hiện được không phải là điều đơn giản.
Để góp phần vào việc giải quyết những khó khăn, tồn tại và nâng cao hiệu quả hoạt
động TTQT tại NHCT Ba Đình, tôi xin đề xuất một số kiến nghị và giải pháp sau:
1. Các giải pháp vĩ mô
1.1 Hoàn thiện chính sách kinh tế của Nhà nước và tạo môi trường pháp lý cho
hoạt động TTQT.
Chúng ta phải thừa nhận rằng đổi mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung
và lĩnh vực TTQT nói riêng không thể tách rời khỏi cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà
nước mà đặc trưng cơ bản nhất của thực trạng quản lý ở Việt Nam hiện nay là tính chất
quá độ, thể hiện: Cơ chế thị trường chưa được xây dựng và phát huy đầy đủ, các yếu tố của
kinh tế thị trường đã được xây dựng nhưng phần nào chưa hoạt động theo pháp luật. Đặc
trưng này thể hiện rất rõ ở tất cả các mặt của nền kinh tế từ những chính sách và quyết
định ở tầm vĩ mô đến những hoạt động ở tầm vi mô. Do đó trong thời gian trước mắt
chúng ta cần thực hiện những vấn đề sau:
Cụ thể hoá đường lối quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đảm bảo
đúng định hướng XHCN, củng cố an ninh quốc phòng và tự chủ về kinh tế.
Phải có những quy chế bắt buộc khi đủ điều kiện về tài chính, phương hướng hoạt
động kinh doanh thì mới cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, không tiến hành ồ ạt như hiện
nay để tránh rủi ro không đáng có. Trước mắt Nhà nước cần rà soát lại các doanh nghiệp
không đủ điều kiện tham gia xuất khẩu thì phải chuyển sang uỷ thác xuất khẩu.
Cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác
kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư hấp dẫn trong nước để
thu hút các nguồn vốn đầu tư. Cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu nhằm khuyến
khích mạnh mẽ xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước. Có chính sách thuế quan và chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích của
người sản xuất và người tiêu dùng trong nước trước sự lan tràn ồ ạt của hàng hoá nhập lậu.
Thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước.
Về hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT thì hầu như chưa có mặc dù trong thời
gian qua đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động Ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường. Do đó để
phát triển hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng cần:
Khẩn trương phổ biến, cụ thể hóa 2 luật Ngân hàng đến từng cán bộ trong ngành và
đến các bộ ngành liên quan.
Nghiên cứu ban hành luật ngoại hối:
Công tác quản lý và chính sách về ngoại hối có vai trò rất quan trọng, nó được coi là
công cụ đắc lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ thông qua các chính sách về quản lý
ngoại tệ, quản lý vay nợ và đầu tư nước ngoài, quản lý vàng bạc và kiều hối, điều hành tỷ
giá... Chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính sách huy động vốn trong nước và
nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế, đến hoạt động của các Ngân
hàng và là đầu mối quan tâm chung của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp. Mặc dù
hiện nay ngành Ngân hàng đã có văn bản của chính phủ về quản lý ngoại hối, đó là Nghị
định 63 ban hành ngày 17/8/1998 (NĐ 63/1998 - NĐCP, 17/8/1998) nhưng vẫn cần phải
có một văn bản mang tính chất pháp lý cao hơn đó là Luật ngoại hối. Việc nghiên cứu để
sớm ban hành Luật ngoại hối là việc làm cần thiết, vì chỉ như vậy mới tạo lập được môi
trường pháp lý đầy đủ làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ và TTQT của Ngân
hàng, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và vấn đề thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Trên cơ sở Luật ngoại hối thì mới tiến tới tổ chức thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở
Việt Nam qua đó loại trừ dần tình trạng đô la hoá như hiện nay.
Nghiên cứu ban hành luật hối phiếu, luật séc và văn bản pháp luật liên quan đến
hoạt động TTQT:
Trong hoạt động TTQT thông thường áp dụng 2 loại văn bản pháp lý đó là các thông
lệ quốc tế và tập quán quốc gia. Hiện nay các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất
nhiều như: Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do Phòng thương mại
quốc tế ban hành năm 1933, 1975, 1962, 1974, 1983 và Bản sửa đổi ban hành năm 1993
(UCP 500), Luật thống nhất về hối phiếu theo Công ước Geneva năm 1930, Luật hối phiếu
nước Anh năm 1982, Công ước Geneva về séc năm 1931, Luật điều chỉnh hối phiếu và kỳ
phiếu, Luật về séc quốc tế của Uỷ ban thương mại quốc tế thuộc Liên hợp quốc ban hành
năm 1982, Quy tắc về nhờ thu chứng từ... Nói chung nhiều văn bản pháp lý mang tính chất
thông lệ quốc tế được chúng ta sử dụng một cách tuỳ tiện.
Bên cạnh văn bản pháp lý mang tính chất thông lệ quốc tế cần có những văn bản
pháp lý mang tính chất tập quán quốc gia. Thời gian qua nước ta đã ban hành một số bộ
luật như Luật dân sự, Luật thương mại... tuy nhiên chúng ta lại chưa có luật về hối phiếu,
luật séc... Nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động
TTQT, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia đồng thời
để tránh được những tranh chấp và những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hợp
đồng ngoại thương thì cần sớm nghiên cứu ban hành Luật hối phiếu, luật séc, và các văn
bản pháp luật về hoạt động TTQT.
1.2 Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và cải thiện cán cân TTQT
Thực tế cho thấy trong điều kiện hiện nay không thể phát triển kinh tế bằng cách xây
dựng một nền kinh tế “khép kín”, tự cô lập trong một nước thậm chí trong một nhóm nước.
Xu hướng chung trong thế kỷ tới là sự toàn cầu hoá nền kinh tế. Một quốc gia không
những tìm cách tự tăng cường tiềm lực kinh tế của mình mà còn mở rộng buôn bán với thế
giới. Mở cửa nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Trong nền
kinh tế mở cửa, các nhà sản xuất có điều kiện và động lực đổi mới công nghệ, tiếp nhận
công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, kể cả bí quyết công nghệ mới. Trong môi trường có tính
chất cạnh tranh cao, các công ty luôn tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành bằng cách tăng
năng suất lao động. Việc tăng trưởng xuất khẩu sẽ làm tăng thu nhập thực tế, khả năng tiết
kiệm tăng, đầu tư trang trải bằng nguồn tiết kiệm trong nước cũng sẽ tăng... Trong bối
cảnh hiện nay nền kinh tế nước ta cần chủ động tham gia vào thị trường khu vực và thế
giới, chủ động tìm kiếm các bạn hàng, khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong
nước đi đôi với việc tranh thủ công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại, không ỷ lại trông chờ bên ngoài, đồng thời tìm mọi cách mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và
cùng có lợi. Việc Mỹ bỏ cấm vận và sự kiện Việt Nam tham gia vào Asean đã tạo ra nhiều
cơ hội và thách thức trong việc phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta.
Bên cạnh việc mở rộng kinh tế thì việc cải thiện cán cân TTQT cũng là việc làm hết
sức cấp bách và cần thiết. Cán cân TTQT là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá,
phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoá, dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài.
Tình trạng cán cân TTQT liên quan đến khả năng thanh toán của một quốc gia, của
các ngân hàng và tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Để cải thiện
cán cân TTQT cần:
Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu:
Về định hướng xuất nhập khẩu như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2000 đã đề ra “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu,
nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả
đáng vào việc làm hàng xuất khẩu như nhập máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng dây
chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng các khu chế xuất...”. Cơ cấu xuất nhập khẩu của
nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đất nước. Hiện nay
hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của
nước ta với các nước khác được mở rộng và có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản
phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn, chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn,
định hướng phát triển nền kinh tế của chúng ta nhiều khi còn quá thiên về thay thế hàng
nhập khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đòi hỏi chúng ta phải có những biện
pháp sau:
+ Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại với những thị
trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối Asean, Trung Quốc, các nước EU...,
từng bước tham gia tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái Bình Dương, tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
+ Cần phải khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai,
cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng các
mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào những
sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản và lâm sản, các
sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt...
+ Hướng xuất khẩu phấn đấu từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu những sản
phẩm đã qua chế biến. Vì vậy cần phải coi trọng việc phát triển công nghiệp chế biến, coi
trọng các công nghệ từ khi thu hoạch đến khi chế biến. Mở rộng hợp tác và liên doanh với
nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu.
+ Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử
dụng các công cụ quản lý vĩ mô như thuế, lãi suất cho vay đối với các mặt hàng xuất khẩu,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm
giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đối với
các hàng nông sản nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp người nông dân tránh được
những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa, đồng thời cũng là biện pháp giúp họ
yên tâm sản xuất và cải thiện đời sống người nông dân.
+ Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường các nước để có những
cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Mở rộng các hình
thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng chính nguyên liệu của mình hoặc của người
đặt hàng.
+ Bên cạnh các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, cần có giải pháp nhằm quản lý nhập
khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập
khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
trong nước đã sản xuất được, tăng cường công tác chống buôn lậu...
+ Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, tỷ giá phải luôn bảo đảm có lợi cho
nhà xuất khẩu, đảm bảo sự kích thích xuất khẩu, giảm bớt thâm hụt cán cân vãng lai, giảm
dần tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài:
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước, Đảng ta khẳng định rằng “Nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn
vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng”. Tuy nguồn vốn nước ngoài không có ý nghĩa
quyết định nhưng trong giai đoạn đầu khi mà thu nhập của chúng ta còn thấp, khả năng
tích luỹ chưa cao, nền kinh tế thường xuyên đói vốn thì việc tạo môi trường pháp lý thuận
lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp càng cần thiết hơn. Việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại cho chúng ta một nguồn vốn mới mà
điều quan trọng là qua quá trình đầu tư chúng ta sẽ nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, tiếp
thu bí quyết công nghệ của các nước tiên tiến. Bên cạnh đó làm việc với chuyên gia nước
ngoài sẽ là một môi trường lý tưởng để công nhân Việt Nam nâng cao tay nghề. Để thu
hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và quản lý một cách hiệu quả thì trong việc cấp giấy phép
đầu tư Nhà nước cần phải chú trọng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động xuất khẩu thì phải cân đối ngoại tệ, không
được mua ngoại tệ từ các Ngân hàng trong nước để nhập nguyên liệu, vật tư thiết bị và
chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ để phục vụ
mình.
Việc quản lý vay nợ viện trợ cần phải được hoàn thiện, phải đáp ứng 2 mục tiêu: một
là nâng cao hiệu quả vốn vay, hai là giữ được mức nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương
ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Phải có chiến lược vay nợ viện trợ và quy chế sử
dụng vay nợ viện trợ. Việc quản lý vay nợ viện trợ phải bao quát tất cả các khoản vay nợ
như vay nợ của Chính phủ, của các NHTM và các doanh nghiệp (kể cả vay thương mại).
Phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý và sử dụng vay nợ
viện trợ.
1.3 Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vai trò quan
trọng, một ngân hàng không thể thiếu được công nghệ thanh toán hiện đại, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế trong nước đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới. Thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm
hiện đại hoá công nghệ thanh toán của mình như trang bị máy tính, phát triển các phần
mềm ứng dụng, hiện đại hoá công nghệ thanh toán trong nội bộ từng NHTM, nối mạng
thanh toán viễn thông tài chính quốc tế (SWIFT). Tuy nhiên công nghệ thanh toán của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam vẫn còn manh mún, chưa đồng bộ, mức độ tự động hoá chưa
cao, chưa được cập nhật tức thời. Vì vậy vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế với
khối lượng thanh toán gia tăng nhanh chóng của nền kinh tế thương mại, công nghiệp... và
dân cư, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu với thị trường tài chính quốc tế. Nguyên nhân
của vấn đề thì nhiều nhưng một nguyên nhân quan trọng là hiện đại hoá hệ thống ngân
hàng phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ phát triển của ngành bưu chính viễn thông đồng thời
cần phải có sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ.
Giai đoạn trước mắt, hệ thống Ngân hàng cần phải xây dựng cho được một Trung
tâm thanh toán bù trừ quốc gia, hệ thống chuyển tiền liên Ngân hàng và Thanh toán bù trừ
tỉnh, thành phố. Hệ thống thanh toán của NHTM có Trung tâm xử lý trung ương và mạng
thanh toán xuống các NHTM cơ sở. Các NHTM phải xây dựng hệ thống thanh toán của
mình với quy mô thích hợp để có đủ điều kiện tham gia hệ thống thanh toán bù trừ quốc
gia.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng phải trên cơ sở tận dụng
triệt để những cái mà ta đã có, đồng thời việc thiết kế hệ thống thanh toán và phần mềm
ứng dụng phải tạo ra khả năng linh hoạt để có thể dễ cải tạo, kế thừa và phát triển không
gây ra lãng phí. Hệ thống thanh toán mới cũng phải tạo khả năng dễ dàng cho việc mở
rộng và hoà mạng quốc gia của các NHTM khi có điều kiện tham gia.
Để có hệ thống thanh toán hiện đại như ngày nay các nước phát triển đã phải tự
nghiên cứu và phát triển mất nhiều năm. Đối với nước ta là nước đi sau thì việc học hỏi
kinh nghiệm và tận dụng sự giúp đỡ của các Ngân hàng đi trước là việc làm hết sức cần
thiết nhằm nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng Việt
Nam.
1.4 Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài
Hệ thống Ngân hàng đại lý có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển
hoạt động TTQT, phát triển Ngân hàng đại lý là nhiệm vụ hàng đầu mang tính chất mở cửa
cho hoạt động Ngân hàng bước ra khỏi phạm vi quốc gia.
Để phát triển hoạt động TTQT, NHCT Việt Nam cần tiếp tục phát triển hệ thống đại
lý đặc biệt ở những nước có quan hệ thương mại lớn như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, các
nước Asean, các nước EU... Thông qua hệ thống Ngân hàng đại lý mà tìm hiểu thông tin
về các đối tác trong hợp đồng của khách hàng nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện
hợp đồng của khách hàng cũng như của hệ thống NHCT, khai thác nguồn vốn tài trợ của
các Ngân hàng đại lý để bổ sung cho nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi nhằm đáp ứng nhu cầu vay
vốn ngoại tệ của khách hàng. Đồng thời tích cực tranh thủ sự trợ giúp của các Ngân hàng
đại lý về đào tạo cán bộ, tổ chức hội thảo về nghiệp vụ TTQT và tranh thủ sự giúp đỡ để
tiếp cận nhanh với công nghệ tiên tiến trên thế giới.
2. Các giải pháp vi mô
2.1 Chiến lược Marketing để thu hút khách hàng
Cạnh tranh để tồn tại đã trở thành quy luật ngẫu nhiên đối với hoạt động Ngân hàng
trong cơ chế thị trường hiện nay. Để có thể thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, mỗi Ngân
hàng phải đề ra một chiến lược cho riêng mình trong đó khai thác triệt để những thế mạnh
sẵn có của Ngân hàng và hạn chế tối thiểu những điểm yếu của Ngân hàng đó. Một trong
những chiến lược đó là chiến lược Marketing. Mục tiêu của chiến lược này để khách hàng
biết đến Ngân hàng và nắm được các loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng, đem lại
sự thuận tiện, an toàn và hiệu quả như đúng khẩu hiệu đã đề ra của NHCT Ba Đình. Để
thực hiện được chiến lược này NHCT Ba Đình cần chú trọng vấn đề sau:
Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường để nắm bắt tập tính, thái độ, động cơ của khách hàng khi họ
lựa chọn Ngân hàng, phân tích dự đoán sự phát triển của thị trường, dự đoán phản ứng của
thị trường trước những ứng xử có tính chất đổi mới của Ngân hàng. Qua đó nhằm phát
triển thị trường tức là làm tăng số lượng khách hàng. Thực tế đã chứng tỏ rằng sự lựa chọn
Ngân hàng của khách hàng thường được so sánh trên các tiêu chuẩn như: chất lượng dịch
vụ, quan hệ tín dụng, hình ảnh về sức mạnh và sự an toàn của Ngân hàng. Do khách hàng
đến với Ngân hàng không đồng nhất nên Chi nhánh phải có những đối sách thích hợp, linh
hoạt với từng khách hàng để đảm bảo lợi ích của cả 2 bên.
Các chính sách trong chiến lược Marketing:
* Chính sách sản phẩm: Sản phẩm của Ngân hàng là cung cấp các khoản tín dụng và
các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong chính sách sản phẩm của mình, chi nhánh cần phải
lưu ý vai trò của các dịch vụ bổ sung. Những dịch vụ này không phải hoạt động sinh lời
của Ngân hàng nhưng chúng lại có tác động thu hút khách hàng, làm tăng sự trung thành
của khách hàng.
* Chính sách giá cả: trong Marketing Ngân hàng, chính sách giá cả không phải là bộ
phận quan trọng bởi giá sản phẩm Ngân hàng được quy định tương đối chặt chẽ và không
có sự chênh lệch lớn giữa các Ngân hàng. Điều quan trọng trong chính sách giá của Ngân
hàng là áp dụng mức giá cả sao cho hợp lý, phù hợp với từng khách hàng và với địa bàn
mà chi nhánh phục vụ.
* Chính sách phân phối: là bộ phận quan trọng trong Marketing Ngân hàng. Điều này
do đặc điểm quan hệ trực tiếp giữa Ngân hàng với khách hàng trong việc cung ứng dịch vụ
Ngân hàng. Chính sách này bao gồm: địa điểm Ngân hàng và mạng lưới phục vụ. Do vậy
chi nhánh cần mở rộng mạng lưới hoạt động để thu hút các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp
tham gia vào các dịch vụ Ngân hàng, mở tài khoản tiền gửi, vay vốn một cách thuận lợi vì
đó chính là một tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn Ngân hàng của khách hàng. Việc mở
rộng mạng lưới sẽ nâng chi phí của Ngân hàng lên cao nhưng nếu đem so với khoản lợi ích
mà Ngân hàng thu được thì cũng chỉ như muối bỏ biển.
* Chính sách giao tiếp: trong Marketing Ngân hàng chính sách giao tiếp ngày càng
có vị trí quan trọng. Các Ngân hàng thường có xu hướng chỉ tập trung vào chính sách
quảng cáo trong đó nêu bật tính an toàn, sử dụng có hiệu quả các khoản tiền gửi hay tiền
vay trên các phương tiện truyền thông mà quên đi yếu tố chất lượng phục vụ của nhân viên
Ngân hàng là cách quảng cáo gây ấn tượng và sức thu hút lớn nhất đối với khách hàng
đồng thời cũng là phương thức quảng cáo có chi phí thấp nhất. Bởi vì trong mắt khách
hàng, nhân viên là hình ảnh của Ngân hàng nên khi thực hiện nghiệp vụ họ cũng không
biết chính mình đang làm Marketing. Do vậy nhân viên Ngân hàng phải thể hiện phong
cách giao tiếp văn minh lịch sự trước khách hàng, giải quyết công việc nhanh gọn đúng
thời gian, đúng quy trình nghiệp vụ, giúp đỡ và tư vấn khách hàng trong việc ký kết hợp
đồng xuất nhập khẩu với những điều khoản và áp dụng phương thức thanh toán an toàn
nhất và có lợi nhất.
* Chính sách khách hàng: Để lôi kéo và giữ được khách hàng, Ngân hàng cần xây
dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, không phân biệt
thành phần kinh tế, áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách
hàng, đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng
được một chính sách khách hàng hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối
với các khách hàng, Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách chắc chắn, tạo
cho khách hàng yên tâm và tin cậy khi giao dịch và TTQT qua Chi nhánh. Ngân hàng phải
là chỗ dựa lâu dài, nơi hậu thuẫn vững chắc cho khách hàng trong việc tư vấn để quản lý
tài chính, đầu tư kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Chính sách khách hàng gắn liền
hiệu quả kinh doanh của khách hàng với hiệu quả, an toàn của Ngân hàng. Yêu cầu củng
cố thị trường, mở rộng có chọn lọc thêm khách hàng mới và thị trường mới, có bước đi
vững chắc. Đối tượng khách hàng được ưu đãi:
+ Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng có quan hệ lâu dài với
Ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có vay
trả sòng phẳng.
+ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ có khả năng trở thành bạn hàng
lâu dài.
Chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng
và các hình thức ưu đãi. Việc rà soát lại khách hàng phải được tiến hành thường xuyên.
Hình thức ưu đãi:
- Ưu đãi về vốn vay và lãi suất khi vay vốn
- Ưu đãi trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn
- Ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ trong việc mở L/C
- Ưu đãi về phí dịch vụ, trong đó có phí TTQT
- Ưu đãi về giá mua bán ngoại tệ phục vụ TTQT
Như vậy để có thể thành công trong hoạt động kinh doanh của mình, Chi nhánh
phải đề ra chiến lược phát triển trong đó khai thác trên mọi khía cạnh tiềm năng lợi thế của
bản thân Ngân hàng cũng như của đối thủ và có những kế sách linh hoạt đảm bảo sự thắng
lợi trong cuộc cạnh tranh này.
2.2 Đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh đối ngoại
Để đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng cần nghiên cứu nhằm
đa dạng hoá các sản phẩm, các dịch vụ Ngân hàng trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa
Ngân hàng với khách hàng đồng thời nâng cao uy tín, quy mô hoạt động của Ngân hàng.
Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh như bảo lãnh đấu thầu quốc tế, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh khả năng cung cấp hàng, bảo lãnh nhận hàng, bảo lãnh
tiền đặt cọc... Tuy nhiên đi đôi với việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh cần nâng cao chất
lượng nghiệp vụ bảo lãnh.
Phát triển các dịch vụ thanh toán séc du lịch và triển khai hệ thống rút tiền tự động,
tham gia tổ chức Master Card quốc tế.
Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh
doanh cũng như các hình thức kinh doanh ngoại tệ (Spot, Forward) để đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của khách hàng.
+ Mua bán trao ngay: nhằm cân bằng ngoại tệ cho các hoạt động đối ngoại của
khách hàng và trực tiếp kinh doanh với khách hàng.
+ Mua bán có kì hạn: có thể ký hợp đồng mua ngoại tệ có kì hạn của khách hàng
ngay từ khi khách hàng nhận được thông báo L/C hoặc ký hợp đồng bán ngoại tệ có kì hạn
cho khách hàng để thanh toán ra nước ngoài trong thời gian tới.
2.3 Nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
Để nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ (là
phương thức chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng phương thức TTQT), NHCT Ba Đình cần:
* Đối với thanh toán hàng xuất khẩu: cần nghiên cứu, triển khai quy trình thông báo
và thanh toán hàng xuất, cải tiến việc chuyển tiếp thông tin nhằm thu hút khách hàng chọn
Ngân hàng mình là Ngân hàng thông báo và chiết khấu, phấn đấu tăng tỷ trọng của L/C
xuất khẩu. Phối hợp các bộ phận nghiệp vụ liên quan ban hành quy chế thanh toán hàng
xuất trên cơ sở thương lượng và chiết khấu chứng từ.
* Đối với thanh toán hàng nhập khẩu: tiếp tục nghiên cứu xem xét những vướng mắc
trong quá trình thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. Chẳng hạn đối với tỷ
lệ ký quỹ mở L/C là vấn đề hết sức quan trọng. Với trường hợp mở L/C bằng vốn tự có thì
tỷ lệ ký quỹ là 50%, đối với Tổng công ty 90/91 thì tỷ lệ ký quỹ là 30%. Nếu tỷ lệ ký quỹ
cao thì sẽ có tác động đến tình hình vốn của đơn vị, đặc biệt là những đơn hàng nhập khẩu
có giá trị lớn. Nếu tỷ lệ ký quỹ thấp khi đến hạn thanh toán nếu đơn vị không còn tiền thì
buộc Ngân hàng phải đứng ra cho vay để thanh toán, dẫn đến tình trạng nợ quá hạn kéo
dài. Để đảm bảo phòng tránh rủi ro đồng thời thu hút khách hàng nên có chính sách phân
định linh hoạt về tỷ lệ ký quỹ đối với từng loại khách hàng.
2.4 Giải pháp an toàn trong hoạt động TTQT
Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là khó khăn
nhất, thứ đến là thầu khoán và đơn giản nhất là kinh doanh bình thường. Nhưng có lẽ lĩnh
vực khó khăn nhất là lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao nhất. Ngân hàng trong thời đại hiện
nay luôn chịu tác động của nhiều yếu tố, của các quy luật của thị trường. Chính vì vậy để
có thể tồn tại trước sóng gió thị trường đòi hỏi Ngân hàng cần phải thận trọng đề phòng rủi
ro.
Nếu trong lĩnh vực tín dụng hoạt động Ngân hàng gặp phải nhiều rủi ro như rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất... thì hoạt động TTQT của Ngân hàng cũng gặp phải rủi ro như rủi ro
tỷ giá, rủi ro không đảm bảo được ngoại tệ trong thanh toán... Mỗi hình thức rủi ro đều có
những nguyên nhân riêng nhưng tựu chung lại là do việc thanh toán được thực hiện giữa
các chủ thể ở cách xa nhau về mặt địa lý với phong tục khác nhau, chịu sự chi phối của
những thể chế pháp luật khác nhau.
Tuỳ thuộc vào từng loại rủi ro khác nhau mà Chi nhánh có những giải pháp khác
nhau. Chẳng hạn với loại hình rủi ro trong thanh toán, Ngân hàng phải thường xuyên theo
dõi tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam.
Thông qua hệ thống đại lý của NHCT mà điều tra, khai thác thông tin về tình hình tài
chính, khả năng giao hàng, tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hoạt động kinh
doanh. Thêm vào đó để hạn chế bớt thiệt hại của các bên đối tác, theo tôi Chính phủ nên
cùng Ngân hàng thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng. Khi có rủi ro xảy ra thì quỹ bảo hiểm sẽ
chịu bảo hiểm 70% đến 80%, như vậy nhà xuất khẩu của Việt Nam sẽ chỉ chịu 30% rủi ro
về thanh toán với nguyên nhân là kinh tế và 20% với nguyên nhân là chính trị.
Để tránh rủi ro về tỷ giá, Ngân hàng cần dự trữ đa dạng ngoại tệ, dự báo chính xác về
sự biến động tỷ giá trên cơ sở đó mà thay đổi kết cấu sao cho có lợi nhất. Nhằm tạo thêm
doanh lợi cho các nhà xuất khẩu đồng thời áp dụng kỹ thuật hối đoái bảo hiểm rủi ro về tỷ
giá trong hoạt động xuất nhập khẩu, Ngân hàng nên phát huy hơn nữa nghiệp vụ mua bán
ngoại tệ có kì hạn. Nghiệp vụ này giúp đỡ nhà nhập khẩu được mua bán ngoại tệ theo một
tỷ giá đã định sẵn trong tương lai. Ngoài ra Ngân hàng nên tăng cường áp dụng việc mua
bán ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách trả trước VND thu ngoại tệ có tính phí
thời hạn, đồng thời bán trước ngoại tệ cho doanh nghiệp nhập khẩu thu lại VND sau.
Nghiệp vụ mua bán kì hạn này giúp đỡ doanh nghiệp xuất nhập khẩu được sử dụng VND
theo mức phí ngang bằng với lãi suất vay từ quỹ bình ổn hối đoái của NHTW.
2.5 Tăng cường hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu
Có rất nhiều yếu tố tạo nên sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các đơn vị
xuất nhập khẩu, một trong những yếu tố đó là hoạt động tài trợ tài chính cho các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp về
mặt tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh, giúp các
doanh nghiệp không bỏ lỡ những cơ hội đầu tư quý báu để đẩy mạnh và mở rộng quy mô
sản xuất. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là một trong những giải pháp quan
trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT của hệ thống NHCT Việt Nam nói chung và
NHCT Ba Đình nói riêng.
Hoạt động tài trợ xuất khẩu
bao gồm hình thức sau:
- Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu:
Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc căn cứ
vào L/C đã được thông báo, Ngân hàng cấp tín dụng để giúp đơn vị thu mua hoặc sản xuất
hàng xuất khẩu. Việc làm này vừa mang ý nghĩa sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động
vừa củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng để họ thấy rằng Ngân hàng Ba
Đình không chỉ là người bạn mà còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong hoạt động
kinh doanh từ đó khách hàng sẽ tích cực thanh toán qua Ngân hàng.
Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn kinh doanh, Ngân hàng có thể thay mặt
khách hàng thương lượng với đối tác nước ngoài mở L/C theo điều kiện ứng trước tiền
hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ thực hiện bảo lãnh nguồn tiền ứng trước này. Việc bảo lãnh sẽ
giúp doanh nghiệp sử dụng một nguồn vốn ngoại tệ mà không phải trả lãi, có chăng chỉ là
trả phí bảo lãnh. Kinh nghiệm xuất khẩu nhiều năm cho thấy rằng doanh nghiệp Việt Nam
nào xác lập được chữ tín trên thị trường thì Ngân hàng nước ngoài sẵn sàng ứng trước tiền
hàng để mua hàng xuất khẩu của Việt Nam.
- Chiết khấu bộ chứng từ hoàn hảo:
Căn cứ vào bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo, Ngân hàng mua lại bộ chứng từ để giải
phóng vốn cho khách hàng, giúp họ tăng nhanh vòng quay vốn.
- Chiết khấu hối phiếu:
Căn cứ vào hối phiếu đã được Ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn
thanh toán, Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại hối phiếu đó.
Nghiệp vụ ứng trước tiền hàng cũng gần giống như nghiệp vụ chiết khấu nhưng khác
ở chỗ Ngân hàng không mua đứt bộ chứng từ mà chỉ cho vay dựa trên bộ chứng từ làm vật
thế chấp. Dĩ nhiên lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất chiết khấu song bù lại độ an toàn cao
hơn vì trong trường hợp không đòi được tiền từ nhà nhập khẩu thì có thể đòi tiền ở nhà
xuất khẩu. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể sử dụng nghiệp vụ chiết khấu
bởi độ rủi ro không cho phép. Như vậy trong những trường hợp đó ta có thể sử dụng
nghiệp vụ ứng trước tiền hàng để thay thế vừa đảm bảo độ an toàn vừa khuyến khích có lợi
cho khách hàng.
Việc triển khai rộng rãi nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ ứng trước tiền hàng không
những làm Ngân hàng tăng được lợi nhuận mà còn giúp các doanh nghiệp tăng nhanh vòng
quay của vốn, khuyến khích nhà xuất khẩu thiết lập bộ chứng từ hoàn hảo. Bên cạnh đó nó
còn tác dụng tích cực đến việc hình thành sớm hơn nữa thị trường vốn ở Việt Nam, tạo
môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động tài trợ nhập khẩu
Cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C hàng nhập qua Ngân hàng. Mọi L/C đều do
Ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu, tuy nhiên không phải lúc nào nhà nhập
khẩu cũng đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo thư tín dụng. Thực tế cho thấy rằng khoảng
cách thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là quá dài, nếu Ngân hàng khống
chế số dư tài khoản của nhà nhập khẩu điều này ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của
họ. Bất kì một sự khoanh vốn nào đều gây thiệt hại về mặt kinh tế. Nhưng khi mở L/C thì
L/C lại thể hiện một sự đảm bảo trừu tượng, một sự đảm bảo thanh toán của Ngân hàng.
Do đó Ngân hàng mở L/C phải gánh chịu rủi ro một khi nhà nhập khẩu không có khả năng
thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền. Để tránh cản trở tới hoạt
động kinh doanh của nhà nhập khẩu và đảm bảo uy tín của Ngân hàng thì Ngân hàng mở
ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể
cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu qua hình thức cho vay để thanh toán tiền đạt cọc cho phía
nước ngoài hoặc cho vay trong thời gian nhà nhập khẩu bán hàng hoá cho đến khi thu
được tiền hàng.
Để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt hoạt động nhập khẩu thì Chi nhánh
phải có nguồn ngoại tệ lớn để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng gia tăng của khách hàng. Có
đẩy mạnh hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì hoạt động TTQT cũng sẽ được phát triển
theo, do đó NHCT Ba Đình cần:
- Đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ
- Tích cực khai thác nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài
- Nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ
- Cải tiến chế độ tín dụng gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo thủ tục bằng các hợp đồng tín
dụng nguyên tắc, quy định đầy đủ chặt chẽ các yếu tố từng lần sử dụng của khách hàng.
2.6 Giải pháp về đào tạo đội ngũ cán bộ TTQT
Vai trò của Con người trong công cuộc phát triển ngành Ngân hàng là không thể phủ
nhận được bởi vì có hàng vạn những định chế quản lý kì diệu nhưng thiếu đi yếu tố con
người thì những định chế đó cũng chỉ là con số không. Thực tế đã chứng minh rằng nếu
một Ngân hàng nào đó có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh
thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì chắc chắn Ngân hàng đó có thể đứng vững và
phát triển trước sóng gió thị trường.
Để có thể phát triển được hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động
TTQT nói riêng, NHCT Ba Đình đã có một đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giỏi chuyên môn và
nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực ngoại thương, am hiểu các luật lệ và tập quán quốc tế về
ngoại thương và TTQT. Có khả năng tư vấn cho khách hàng trong các hợp đồng xuất nhập
khẩu, giúp họ chọn lựa và áp dụng các phương thức và điều kiện thanh toán có lợi nhất
nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để có thể làm tốt hơn những điều đó
đòi hỏi NHCT Ba Đình phải có chiến lược phát triển con người với các giải pháp sau:
+ Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ TTQT, các cuộc hội thảo về
TTQT nhằm giúp các cán bộ trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT,
học tập được kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động TTQT
+ Cử những cán bộ có năng lực đi học tập những kinh nghiệm của các Ngân hàng
trên thế giới mà có quan hệ với NHCT để có thể tìm hiểu và đúc rút những ý kiến có lợi
cho Ngân hàng, giúp hệ thống NHCT cũng như Chi nhánh NHCT Ba Đình tạo được niềm
tin và uy tín đối với các khách hàng và bạn hàng trong nước cũng như trên thế giới.
+ Hàng năm nên tổ chức các kì thi sát hạch về nghiệp vụ và tổ chức thi tuyển công
khai, nghiêm túc để có thể tuyển được những cán bộ mới có năng lực chuyên môn và giàu
kinh nghiệm.
+ Không chỉ hoàn thiện về mặt tri thức, nghiệp vụ, cán bộ làm công tác TTQT cũng
cần phải chú trọng đến phong cách giao dịch với khách hàng. Điều này sẽ giúp Ngân hàng
thu hút thêm khách hàng mới và củng cố vững chắc hơn mối quan hệ với các khách hàng
đã có.