phật lâm niết bàn ký pháp trú kinh · dâm, luận về nam, luận về nữ, luận về...

18
1 Phật lâm Niết Bàn pháp trú kinh Đại Đường Tam Tạng pháp sư phụng chiếu dịch. Dịch giả : Dương Đình Hỷ. Phần I - Dịch nghĩa kinh : Tôi nghe như vầy : Ở vùng đất lực sĩ, vùng Sa La song thụ thuộc thành Câu Thi. Bạc Già Phạm cùng vô số Thanh Văn, Bồ tát Ma ha tát, Chư thiên, người, A Tố Lạc (A Tu La) mọi người đều vây quanh. Lúc đó Bạc Già Phạm sắp vào Niết Bàn, vì thương chúng sinh nên dùng âm thanh nhỏ nhẹ từ ái bảo A Nan rằng : -Tôi nay sắp vào Niết Bàn, tất cả pháp hữu vi không gì không xả hết, tất cả mọi Phật sự đều hoàn thành. Tôi đã thoát ly hang hốc, pháp diệu cam lồ, pháp tối tự tại, pháp cực an vui, pháp cao sâu khó hiểu khó biết, không d ùng suy nghĩ mà được, mà các bậc thánh nội chứng. Tôi lại ba lần chuyển pháp luân uy mãnh đủ 12 tướng mà chư Sa môn, Bà la môn, Thiên ma phạm không thể chuyển được. Tôi đã vì chư thiên, người thổi loa pháp, đánh trống pháp để giác tỉnh họ trong đêm dài vô minh. Tôi đã vì Trời, người lập cờ pháp, đốt đuốc pháp, chiếu khắp cả, trừ tăm tối. Tôi đã vì các hữu tình bắc cầu lớn, làm thuyền lớn đưa tất cả những người yếu ớt qua dòng nước dữ. Tôi đã vì các hữu tình rót nước pháp, mưa pháp làm các cây khô được tươi tốt Tôi đã mở đường giải thoát cho những người đời lầm đường. Những người hữu tình đáng được độ, tôi đã độ hết rồi, còn những người chưa được độ, tôi cũng tạo nhân duyên cho được độ. Tôi đã hàng phục các ngoại đạo. Tôi đã tiêu diệt các tà thuyết, phá hủy tất cả cung ma, quân ma. Làm Phật sự như sư tử rống, thành tựu lời nguyền của bậc đại trượng phu, hộ trì pháp nhãn không cho hủy hoại, dạy dỗ Thanh Văn, thọ ký Bồ tát vì Phật nhãn tương lai thường chiếu thế gian

Upload: others

Post on 12-Jan-2020

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

Phật lâm Niết Bàn ký pháp trú kinh

Đại Đường Tam Tạng pháp sư phụng chiếu dịch.

Dịch giả : Dương Đình Hỷ.

Phần I - Dịch nghĩa kinh :

Tôi nghe như vầy :

Ở vùng đất lực sĩ, vùng Sa La song thụ thuộc thành Câu Thi. Bạc Già Phạm

cùng vô số Thanh Văn, Bồ tát Ma ha tát, Chư thiên, người, A Tố Lạc (A Tu

La) mọi người đều vây quanh. Lúc đó Bạc Già Phạm sắp vào Niết Bàn, vì

thương chúng sinh nên dùng âm thanh nhỏ nhẹ từ ái bảo A Nan rằng :

-Tôi nay sắp vào Niết Bàn, tất cả pháp hữu vi không gì không xả hết, tất cả

mọi Phật sự đều hoàn thành. Tôi đã thoát ly hang hốc, pháp diệu cam lồ, pháp

tối tự tại, pháp cực an vui, pháp cao sâu khó hiểu khó biết, không dùng suy

nghĩ mà được, mà các bậc thánh nội chứng. Tôi lại ba lần chuyển pháp luân

uy mãnh đủ 12 tướng mà chư Sa môn, Bà la môn, Thiên ma phạm không thể

chuyển được. Tôi đã vì chư thiên, người thổi loa pháp, đánh trống pháp để

giác tỉnh họ trong đêm dài vô minh. Tôi đã vì Trời, người lập cờ pháp, đốt

đuốc pháp, chiếu khắp cả, trừ tăm tối. Tôi đã vì các hữu tình bắc cầu lớn, làm

thuyền lớn đưa tất cả những người yếu ớt qua dòng nước dữ. Tôi đã vì các

hữu tình rót nước pháp, mưa pháp làm các cây khô được tươi tốt Tôi đã mở

đường giải thoát cho những người đời lầm đường. Những người hữu tình đáng

được độ, tôi đã độ hết rồi, còn những người chưa được độ, tôi cũng tạo nhân

duyên cho được độ. Tôi đã hàng phục các ngoại đạo. Tôi đã tiêu diệt các tà

thuyết, phá hủy tất cả cung ma, quân ma. Làm Phật sự như sư tử rống, thành

tựu lời nguyền của bậc đại trượng phu, hộ trì pháp nhãn không cho hủy hoại,

dạy dỗ Thanh Văn, thọ ký Bồ tát vì Phật nhãn tương lai thường chiếu thế gian

2

không đoạn tuyệt. A Nan, các ông phải giữ chánh pháp vô thượng này không

để mất đi. A Nan ! Tôi nay không còn gì để làm nữa, chỉ còn vào Niết Bàn.

Lúc đó, A Nan nghe Phật nói, lòng buồn vô cùng, một lúc sau mới thưa

rằng :

-Không biết chánh pháp vô thượng mà Như Lai vì các loài hữu tình, phải

khổ công trong nhiều kiếp, sau khi Phật nhập diệt rồi còn trụ thế bao lâu để

ích lợi cho Trời, người, A Tố lạc rồi mới bị diệt ?

Lúc đó Thế Tôn từ bi bảo A Nan :

-Chư Phật đều diệt độ như vậy! Ông chớ nên buồn, sau khi tôi tịch diệt rồi,

chánh pháp còn trụ thế ngàn năm làm lợi Trời, người, A tố lạc về sau dần dần

mất đi. A Nan, ông phải biết sau khi tôi vào Niết Bàn 100 năm, giáo pháp của

tôi vững chãi, các đệ tử thông tuệ, nghe nhiều, giỏi ăn nói, có thể thắng tà

thuyết, có sức lớn có ích cho các hữu tình. Vì cớ này Trời, rồng, vua, đại thần,

trưởng giả, cư sĩ đều giữ gìn bảo hộ, tạo ruộng phúc. Đối với Phật, pháp, tăng

sinh lòng tin, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi. Gần cuối 100 năm có một vị vua

tên là A DU Ca (A Dục) xuất hiện ở đời, một vị vua có uy lực ở Thiềm bộ

châu, xây 8 vạn 4 ngàn tháp cao, rộng nghiêm sức cúng đường Xá lợi của tôi

khiến người thấy, nghe vui vẻ sinh lòng giải thoát khỏi nghiệp.

-200 năm sau, giáo pháp của tôi vững chãi tịch tĩnh. Các đệ tử của tôi thông

tuệ, nghe nhiều là thầy của Trời, người có uy đức làm lợi nhiều người; vì cớ

ấy Trời, rồng, vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ vui vẻ giữ gìn, bảo hộ, tạo ruộng

phúc, đối với Phật, pháp, tăng sinh lòng tin cúng đường, tôn trọng, ca ngợi.

-300 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi chính hạnh. Các đệ tử của tôi

chứng tuệ giải thoát, cân phân giải thoát. Thân chứng có đến trăm ngàn. Vì có

nhiều người chứng thánh quả nên trời, rồng, vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ,

vui vẻ giữ gìn, bảo hộ, tạo ruộng phúc, đối với Phật, pháp, tăng sinh lòng tin,

cúng đường, tôn trọng, ca ngợi.

-400 năm sau : giáo pháp cũa tôi xa lìa vững chãi, các đệ tử của tôi trú

không, tu tịnh định vì cớ này Trời, rồng, vua , đại thần, trưởng già, cư sĩ, vui

3

vẻ giữ gìn, bảo hộ, tạo ruộng phúc. Đối với Phật, pháp, tăng sinh lòng tin,

cúng dường, tôn trọng, ca ngợi.

-500 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi ý nghĩa, các đệ tử của tôi yêu

thích chánh pháp, chăm chỉ tu học luận nghĩa, quyết trạch, vì cớ đó Trời, rồng,

vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ vui vẻ giữ gìn, bảo hộ, tạo ruộng phúc, đối với

Phật, pháp, tăng sinh lòng tin, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi.

-600 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi, các đệ tử của tôi chăm chỉ tụng

tập, tâm không áp lực, ích lợi vô lượng cho các loài hữu tình. Vì cớ này Trời,

rồng, vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ vui vẻ giữ gìn, bảo hộ, tạo ruộng phúc,

đối với Phật, pháp tăng sinh lòng tin sâu, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi,

nhưng đối với nghĩa thú vẫn còn hoài nghi.

-700 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi lợi dưỡng Trời, rồng, dược xoa,

A Tố Lạc, đối với Phật, pháp, tăng cúng dường, tôn trọng, ca ngợi. Các đệ tử

của tôi chấp lợi lộc, kính trọng danh dự, không ra sức tu tập giới, định, huệ.

-800 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi tranh, chống. Các đệ tử của tôi

ganh ghét nhau, liên hệ kẻ ác, bài báng khinh thường những người giữ giới,

chê bai những người nghe nhiều, chẳng niệm sáu hòa, chuyên nghĩ đến những

việc vụng về của nhau, chẳng kính sư trưởng, chẳng trụ vào sự hiểu biết chân

chính, nói những lời thô bỉ như bọn Chiên đà la, cậy vào vua, đại thần, trưởng

giả làm tổn phí tài vật của Tam bảo, kết băng đảng với kẻ ác làm hại người

hiền.

-900 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi sự nghiệp. Các đệ tử của tôi

theo nghiệp đời : cầy cấy, buôn bán, đánh giá để sinh tồn. Đối với những gì

Như Lai tạo ra đều khinh mạn, phạm lỗi.

-1.000 năm sau : giáo pháp của tôi vững chãi hý luận. Các đệ tử của tôi

chuyên cần học tập mọi hý luận, xả bỏ chánh giáo : xuất thế gian pháp của

chư Phật. Cái gọi là khế kinh ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, tỷ dụ,

bản sự, bản sinh, phương quảng, hý pháp và luận nghĩa, chuyên cần tụng đọc

thế gian hý luận như : luận về vua, luận về giặc, luận về chiến tranh, luận về

ăn, luận về uống, luận về quần áo, luận về xe cộ, luận về cái tôi, luận về cái

4

dâm, luận về nam, luận về nữ, luận về các nước, luận về sóng và biển, luận về

các ngoại đạo. Các hý luận như thế khiến các sa môn, Bà la Môn làm hỏng và

sa sút chánh giáo của tôi. Ngay trong dòng pháp của tôi có những tỳ kheo ác,

tỳ kheo ni ác thân không tu giới, tâm không tu tuệ lại còn bài báng, còn hủy

hoại chê bai nhau, ham áo, bình bát, phòng xá, đồ bầy biện do cùng ác đồ tụ

tập, tuy đã nhiều năm giữ gìn giới cấm, nhưng dần dần cũng bị hủy diệt. Kinh

điển giữ tốt nhiều mất mát, suy thoái. Do đó Trời, rồng bi thương, ảo não

không giữ gìn bảo hộ. Vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ đối với tam bảo không

tín cẩn, chê bai, hủy hoại kinh, do đó mà chánh pháp bị hủy diệt. Từ đó về

sau, các tỳ kheo ác tạo ra các nghiệp ác càng ngày càng sâu. Vua, đại thần,

tưởng giả, cư sĩ không cung kính nữa, nhưng tam bảo không hoàn toàn bị tiêu

diệt. Lúc đó, có những tỳ kheo, tỳ kheo ni ít dục, biết đủ, bảo vệ cấm giới, tu

hành tĩnh định, thích nghe nhiều, thọ trì tam tạng giáo pháp của Như Lai, vì

chúng mà nói pháp, ích lợi vô cùng cho loài hữu tình, lại có vua, đại thần,

trưởng giả, cư sĩ thương tiếc chánh pháp đối với tam bảo cúng dường, tôn

trọng, ca ngợi, hộ trì không hối tiếc. Mới biết đó là những vị Bồ tát không thể

nghĩ bàn, lấy bản nguyện hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai, có ích cho

chư đại hữu tình.

Lúc đó, A Nan, Thanh Văn, Bồ tát, Trời, rồng, Dược xoa, người, phi nhân ,

tất cả chúng sinh nghe Bạc Già Phạm nói pháp huyền ký, các tỳ kheo đều bi

thán, tin tưởng tuân theo.

5

Phần II- Bản Hán văn và dịch âm :

佛 臨 涅 槃 記 法 住 經

Phật lâm Niết Bàn ký pháp trú kinh

大 唐 三 藏 法 師 玄 奘 奉 詔 譯

Đại Đường Tam Tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch

如 是 我 聞:

Như thị ngã văn :

一 時 薄 伽 梵, 在 拘 屍 城 力 士 生 地

Nhất thời Bạc Già Phạm, tại Câu Thi thành lực sĩ sinh địa

娑 羅 雙 林, 與 無 量 無 數 聲 聞 菩 薩

Sa La song lâm, dữ vô lượng vô số Thanh văn, Bồ tát

摩 訶 薩 俱, 並 諸 天 人 阿 素 洛 等, 一

Ma ha tát câu, tịnh chư thiên nhân A tố lạc đẳng, nhất

切 大 眾 前 後 圍 繞。 時 薄 伽 梵 臨 般

thiết đại chúng tiền hậu vi nhiễu. Thời Bạc Già Phạm lâm ban

涅 槃, 愍 眾 生 故, 以 慈 軟 音 告 阿 難

Niết Bàn, mẫn chúng sinh cố, dĩ từ nhuyễn âm cáo A Nan

6

曰: 吾 今 不 久 當 般 涅 槃, 一 切 有 為

viết : Ngô kim bất cửu đương ban Niết Bàn, nhất thiết hữu vi

無 不 悉 捨, 一 切 佛 事 皆 已 究 竟; 我

vô bất tất xả, nhất thiết Phật sự giai dĩ cứu cánh; ngã

已 宣 說 離 窟 宅 法 妙 甘 露 法 最 自

dĩ tuyên thuyết ly quật trạch pháp diệu cam lộ pháp tối tự

在 法 極 安 樂 法, 是 法 深 妙 難 解 難

tại pháp cực an lạc pháp, thị pháp thâm diệu nan giải nan

知, 不 可 尋 思 超 尋 思 境, 諸 大 聖 者

tri, bất khả tầm tư siêu tầm tư cảnh, chư đại thánh giả

自 內 所 證。 我 又 三 轉 無 上 法 輪, 其

tự nội sở chứng. Ngã hựu tam chuyển vô thượng pháp luân, kỳ

輪 威 勐 具 十 二 相, 諸 余 沙 門 或 婆

luân uy mãnh cụ thập nhị tương, chư dư sa môn hoặc Bà

羅 門 天 魔 梵 等, 皆 無 有 能 如 實 轉

la môn thiên ma phạm đẳng, giai vô hữu năng như thật chuyển

者。 我 已 為 諸 天 人 吹 大 法 蠡, 擊 大

giả. Ngã dĩ vi chư thiên nhân xuy đại pháp lãi, kích đại

法 鼓, 覺 悟 長 夜 無 明 睡 眠。 我 已 為

pháp cổ, giác ngộ trường dạ vô minh thuỵ miên. Ngã dĩ vi

諸 天 人 建 大 法 幢, 然 大 法 炬, 普 照

chư thiên nhân kiến đại pháp tràng, nhiên đại pháp cự, phổ chiếu

7

一 切 除 滅 暗 冥。 我 已 為 諸 有 情 作

nhất thiết trừ diệt ám minh. Ngã dĩ vi chư hữu tình tác

大 法 橋, 為 大 法 船, 濟 渡 一 切 暴 流

đại pháp kiều, vi đại pháp thuyền, tế độ nhất thiết bộc lưu

所 溺。 我 已 為 諸 有 情 注 大 法 流, 降

sở nịch. Ngã dĩ vi chư hữu tình chú đại pháp lưu, hàng

大 法 雨, 一 切 枯 藁 皆 令 潤 洽。 我 已

đại pháp vũ, nhất thiết khô cảo giai lệnh nhuận hiệp. Ngã dĩ

開 顯 解 脫 正 路, 引 諸 世 間 迷 失 道

khai hiển giải thoát chánh lộ, dẫn chư thế gian mê thất đạo

者, 若 諸 有 情 我 應 度 者 皆 已 度 訖

giả, nhược chư hữu tình ngã ưng độ giả giai dĩ độ ngật

諸 未 度 者 皆 亦 為 作 得 度 因 緣。 我

chư vị độ giả giai diệc vi tác đắc độ nhân duyên. Ngã

已 降 伏 一 切 外 道; 我 已 摧 滅 一 切

dĩ hàng phục nhất thiết ngoại đạo; ngã dĩ tồi diệt nhất thiết

邪 論; 我 已 傾 覆 諸 魔 宮 殿; 我 已 破

tà luận; ngã dĩ khuynh phúc chư ma cung điện; ngã dĩ phá

壞 一 切 魔 軍, 正 師 子 吼 作 大 佛 事

hoại nhất thiết ma quân, chính sư tử hống tác đại Phật sự

圓 丈 夫 本 所 誓 願, 護 持 法 眼 令 無

viên trượng phu bản sở thệ nguyện, hộ trì pháp nhãn lệnh vô

8

毀 缺, 化 諸 聲 聞, 授 菩 薩 記, 為 未 來

huỷ khuyết, hoá chư Thanh văn, thụ Bồ tát ký, vi vị lai

世 無 上 佛 眼, 開 照 世 間 常 無 斷 絕

thế vô thượng Phật nhãn, khai chiếu thế gian thường vô đoạn tuyệt

阿 難! 汝 等 當 於 如 是 無 上 正 法 勤

A Nan ! nhữ đẳng đương ư như thị vô thượng chánh pháp cần

加 護 持 令 不 滅 沒。 阿 難! 我 今 更 無

gia hộ trì lệnh bất diệt một. A Nan ! ngã kim cánh vô

所 作, 唯 大 涅 槃 是 所 歸 趣。

sở tác, duy đại Niết Bàn thị sở quy thú .

爾 時 阿 難 聞 佛 語 已 悲 慕 感 絕, 良

Nhĩ thời A Nan văn Phật ngữ dĩ bi mộ cảm tuyệt, lương

久 而 言: 未 審 如 來 為 諸 有 情, 三 無

cửu nhi ngôn: vị thẩm Như Lai vi chư hữu tình, tam vô

數 劫 勤 苦 所 得 無 上 正 法, 於 佛 滅

số kiếp cần khổ sở đắc vô thượng chánh pháp, ư Phật diệt

後 住 世 幾 時, 饒 益 天 人 阿 素 洛 等

hậu trú thế kỷ thời, nhiêu ích thiên nhân A tố lạc đẳng

當 漸 隱 沒?

đương tiệm ẩn một ?

爾 時 世 尊 重 以 慈 音 告 阿 難 曰: 諸

Nhĩ thời Thế Tôn trọng dĩ từ âm cáo A Nan viết: chư

9

佛 化 跡, 法 皆 如 是, 勿 複 憂 悲。 無 上

Phật hoá tích, pháp giai như thị, vật phức ưu bi. Vô thượng

正 法 於 我 滅 後, 住 世 千 年 饒 益 天

chánh pháp ư ngã diệt hậu, trụ thế thiên niên nhiêu ích thiên

人 阿 素 洛 等, 從 是 已 後 漸 當 隱 沒

nhân A tố lạc đẳng, tòng thị dĩ hậu tiệm đương ẩn một

阿 難 當 知! 我 涅 槃 後 第 一 百 年, 吾

A Nan đương tri ! Ngã Niết Bàn hậu đệ nhất bách niên, ngô

聖 教 中 聖 法 堅 固, 我 諸 弟 子 聰 慧

thánh giáo trung thánh pháp kiên cố, ngã chư đệ tử thông tuệ

多 聞, 無 畏 辯 才 能 伏 邪 論, 具 大 神

đa văn, vô uý biện tài năng phục tà luận, cụ đại thần

力, 於 諸 有 情 多 所 饒 益; 由 是 義 故

lực, ư chư hữu tình đa sở nhiêu ích; do thị nghĩa cố

天 龍 歡 喜 勤 加 守 護, 國 王 大 臣 長

thiên long hoan hỷ cần gia thủ hộ, quốc vương đại thần trưởng

者 居 士 亦 復 如 是, 善 識 福 田, 於 佛

giả cư sĩ diệc phục như thị, thiện thức phúc điền, ư Phật

法 僧 深 生 淨 信, 供 養 恭 敬 尊 重 讚

pháp tăng thâm sinh tịnh tín, cung dưỡng cung kính tôn trọng tán

歎。 一 百 年 末 有 大 國 王, 名 阿 輸 迦

thán. Nhất bách niên mạt hữu đại quốc vương, danh A thâu già

10

出 現 於 世, 具 大 威 力 王 贍 部 洲, 建

xuất hiện ư thế, cụ đại uy lực vương Thiệm bộ châu, kiến

窣 堵 波.

tốt đổ ba.

高 廣 嚴 飾, 其 數 滿 足 八 萬 四 千, 供

Cao quảng nghiêm sức, kỳ số mãn túc bát vạn tứ thiên, cung

養 吾 身 所 留 舍 利, 令 無 量 眾 見 聞

dưỡng ngô thân sở lưu xá lợi, lệnh vô lượng chúng kiến văn

歡 喜 皆 樹 生 天 解 脫 之 業。

hoan hỷ giai thụ sinh thiên giải thoát chi nghiệp

我 涅 槃 後 第 二 百 年, 吾 聖 教 中 寂

Ngã Niết Bàn hậu đệ nhị bách niên, ngô thánh giáo trung tịch

靜 堅 固, 我 諸 弟 子 聰 慧 多 聞, 如 天

tĩnh kiên cố, ngã chư đệ tử thông tuệ đa văn, như thiên

人 師, 具 大 威 德 多 所 饒 益, 以 是 義

nhân sư, cụ đại uy đức đa sở nhiêu ích, dĩ thị nghĩa

故, 天 龍 歡 喜 常 加 守 護, 國 王 大 臣

cố, Thiên long hoan hỷ thường gia thủ hộ, quốc vương đại thần

長 者 居 士 亦 復 如 是, 善 識 福 田, 於

trưởng giả cư sĩ diệc phục như thị, thiện thức phúc điền, ư

佛 法 僧 深 生 淨 信, 供 養 恭 敬 尊 重

Phật pháp tăng thâm sinh tịnh tín, cung dưỡng cung kính tôn trọng

11

讚 歎。

tán thán.

我 涅 槃 後 第 三 百 年, 吾 聖 教 中 正

Ngã Niết Bàn hậu đệ tam bách niên, ngô thánh giáo trung chánh

行 堅 固, 我 諸 弟 子 證 慧 解 脫 俱 分

hành kiên cố, ngã chư đệ tử chứng tuệ giải thoát câu phân

解 脫, 身 證 見 至 無 量 百 千, 由 是 多

giải thoát, thân chứng kiến chí vô lượng bách thiên, do thị đa

人 得 聖 果 故, 天 龍 歡 喜 常 加 守 護

nhân đắc thánh quả cố, Thiên long hoan hỷ thường gia thủ hộ

國 王 大 臣 長 者 居 士 亦 復 如 是, 善

quốc vương đại thần trưởng giả cư sĩ diệc phục như thị, thiện

識 福 田, 於 佛 法 僧 深 生 淨 信, 供 養

thức phúc điền, ư Phật pháp tăng thâm sinh tịnh tín, cung dưỡng

恭 敬 尊 重 讚 歎。

cung kính tôn trọng tán thán.

我 涅 槃 後 第 四 百 年, 吾 聖 教 中 遠

Ngã Niết Bàn hậu đệ tứ bách niên, ngô thánh giáo trung viễn

離 堅 固, 我 諸 弟 子 樂 住 空 閒 勤 修

ly kiên cố, ngã chư đệ tử lạc trụ không gian cần tu

寂 定; 以 是 義 故, 天 龍 歡 喜 常 隨 守

tịch định; dĩ thị nghĩa cố, Thiên long hoan hỷ thường tuỳ thủ

12

護, 國 王 大 臣 長 者 居 士 亦 復 如 是

hộ, quốc vương đại thần trưởng giả cư sĩ diệc phục như thị

善 識 福 田, 於 佛 法 僧 深 生 淨 信, 供

thiện thức phúc điền, ư Phật pháp tăng thâm sinh tịnh tín, cung

養 恭 敬 尊 重 讚 歎。

dưỡng cung kính tôn trọng tán thán.

我 涅 槃 後 第 五 百 年, 吾 聖 教 中 法

Ngã Niết Bàn hậu đệ ngũ bách niên, ngô thánh giáo trung pháp

義 堅 固, 我 諸 弟 子 愛 樂 正 法, 精 勤

nghĩa kiên cố, ngã chư đệ tử ái lạc chánh pháp, tinh cần

修 學 論 議 決 擇; 由 是 義 故, 天 龍 歡

tu học luận nghị quyết trạch; do thị nghĩa cố, Thiên long hoan

喜 常 勤 守 護, 國 王 大 臣 長 者 居 士

hỷ thường cần thủ hộ, quốc vương đại thần trưởng giả cư sĩ

亦 復 如 是, 善 識 福 田, 於 佛 法 僧 深

diệc phục như thị, thiện thức phúc điền, ư Phật pháp tăng thâm

生 淨 信, 供 養 恭 敬 尊 重 讚 歎。

sinh tịnh tín, cung dưỡng cung kính tôn trọng tán than.

我 涅 槃 後 第 六 百 年, 吾 聖 教 中 法

Ngã Niết Bàn hậu đệ lục bách niên, ngô thánh giáo trung pháp

教 堅 固, 我 諸 弟 子 多 於 教 法 精 勤

giáo kiên cố, ngã chư đệ tử đa ư giáo pháp tinh cần

13

誦 習 心 無 厭 倦, 能 多 饒 益 無 量 有

tụng tập tâm vô yếm quyện, năng đa nhiêu ích vô lượng hữu

情; 以 是 義 故, 天 龍 歡 喜 勤 加 守 護

tình; dĩ thị nghĩa cố, Thiên long hoan hỷ cần gia thủ hộ

國 王 大 臣 長 者 居 士 亦 復 如 是, 善

quốc vương đại thần trưởng giả cư sĩ diệc phục như thị, thiện

識 福 田, 於 佛 法 僧 深 生 淨 信, 供 養

thức phúc điền, ư Phật pháp tăng thâm sinh tịnh tín, cung dưỡng

恭 敬 尊 重 讚 歎, 然 於 義 趣 多 有 懷

cung kính tôn trọng tán thán, nhiên ư nghĩa thú đa hữu hoài

疑。

Nghi.

我 涅 槃 後 第 七 百 年, 吾 聖 教 中 利

Ngã Niết Bàn hậu đệ thất bách niên, ngô thánh giáo trung lợi

養 堅 固, 天 龍 藥 叉 阿 素 洛 等, 於 佛

dưỡng kiên cố, Thiên long dược xoa A tố lạc đẳng, ư Phật

法 僧 供 養 恭 敬 尊 重 讚 歎, 我 諸 弟

pháp tăng cung dưỡng cung kính tôn trọng tán thán, ngã chư đệ

子 多 著 利 養 恭 敬 名 譽, 於 增 上 學

tử đa trước lợi dưỡng cung kính danh dự, ư tăng thượng học

戒 定 慧 等 不 勤 修 習。

giới định tuệ đẳng bất cần tu tập.

14

我 涅 槃 後 第 八 百 年, 吾 聖 教 中 乖

Ngã Niết Bàn hậu đệ bát bách niên, ngô thánh giáo trung quai

爭 堅 固, 我 諸 弟 子 多 相 嫌 嫉 結 搆

tranh kiên cố, ngã chư đệ tử đa tương hiềm tật kết cấu

惡 人, 塵 坌 訕 謗 輕 訶 持 戒, 鄙 賤 多

ác nhân, trần bồn san báng khinh kha trì giới, bỉ tiện đa

聞 不 念 六 和, 專 思 乖 爭 見 不 善 巧

văn bất niệm lục hoà, chuyên tư quai tranh kiến bất thiện xảo

不 敬 師 長 不 正 知 住, 欺 誑 諂 曲 言

bất kính sư trưởng bất chánh tri trụ, khi cuống siểm khúc ngôn

詞 麁 獷 如 栴 茶 羅, 依 附 國 王 大 臣

từ thô quảng như chiên trà la, y phụ quốc vương đại thần

長 者, 方 便 損 費 三 寶 財 物, 結 惡 朋

trưởng giả, phương tiện tổn phí tam bảo tài vật, kết ác bằng

黨 折 挫 善 人。

đảng chiết toả thiện nhân.

我 涅 槃 後 第 九 百 年, 吾 聖 教 中 事

Ngã Niết Bàn hậu đệ cửu bách niên, ngô thánh giáo trung sự

業 堅 固, 我 諸 弟 子 多 營 俗 業 耕 種

nghiệp kiên cố, ngã chư đệ tử đa doanh tục nghiệp canh chủng

商 估, 通 致 使 命 以 自 存 活, 於 諸 如

thương cố, thông trí sứ mệnh dĩ tự tồn hoạt, ư chư Như

15

來 所 製 學 處, 慢 緩 毀 犯。

Lai sở chế học xứ, mạn hoãn huỷ phạm.

我 涅 槃 後 第 十 百 年, 吾 聖 教 中 戲

Ngã Niết Bàn hậu đệ thập bách niên, ngô thánh giáo trung hý

論 堅 固, 我 諸 弟 子 多 勤 習 學 種 種

luận kiên cố, ngã chư đệ tử đa cần tập học chủng chủng

戲 論, 捨 出 世 間 諸 佛 正 教, 所 謂 契

hý luận, xả xuất thế gian chư Phật chánh giáo, sở vị khế

經 應 頌 記 別 諷 誦 自 說 緣 起 譬 喻

kinh ứng tụng ký biệt phúng tụng tự thuyết duyên khởi thí dụ

本 事 本 生 方 廣 希 法 及 與 論 義, 精

bổn sự bổn sinh phương quảng hy pháp cập dữ luận nghĩa, tinh

勤 習 誦 世 間 戲 論, 所 謂 王 論 賊 論

cần tập tụng thế gian hý luận, sở vị vương luận tặc luận

戰 論 食 論 飲 論 衣 論 乘 論 我 論 婬

chiến luận thực luận ẩm luận y luận thừa luận ngã luận dâm

論 男 論 女 論 諸 國 土 論 諸 河 海 論

luận nam luận nữ luận chư quốc thổ luận chư hà hải luận

諸 外 道 論; 由 樂 此 等 種 種 戲 論, 令

chư ngoại đạo luận; do lạc thử đẳng chủng chủng hý luận, lệnh

諸 沙 門 婆 羅 門 等 輕 毀 退 失 我 之

chư sa môn Bà la môn đẳng khinh huỷ thối thất ngã chi

16

聖 教。 於 我 正 法 毘 奈 耶 中, 當 有 如

thánh giáo. Ư ngã chánh pháp tỳ nại gia trung, đương hữu như

斯 諸 惡 苾 芻 苾 芻 尼 等, 不 善 修 習

tư chư ác tất sô tất sô ni đẳng, bất thiện tu tập

身 戒 心 慧, 更 相 忿 爭 謀 毀 誹 謗, 耽

thân giới tâm tuệ, cánh tương phẫn tranh mưu huỷ phỉ báng , đam

著 妙 好 種 種 衣 鉢 房 舍 敷 具, 由 與

trước diệu hảo chủng chủng y bát phòng xá phu cụ, do dữ

諸 惡 徒 黨 集 會, 雖 經 多 年 守 護 淨

chư ác đồ đảng tập hội, tuy kinh đa niên thủ hộ tịnh

戒, 於 須 臾 頃 悉 皆 毀 犯, 雖 經 多 年

giới, ư tu du khoảnh tất giai huỷ phạm, tuy kinh đa niên

集 諸 善 本, 由 多 憂 恚 悉 皆 退 失。 以

tập chư thiện bổn, do đa ưu huệ tất giai thoái thất. Dĩ

是 因 緣 天 龍 等 眾, 悲 傷 懊 惱 捨 不

thị nhân duyên Thiên long đẳng chúng, bi thương áo não xả bất

守 護, 國 王 大 臣 長 者 居 士, 於 三 寶

thủ hộ, quốc vương đại thần trưởng giả cư sĩ , ư tam bảo

所 不 生 淨 信 誹 謗 輕 毀, 由 是 因 緣

sở bất sinh tịnh tín phỉ báng khinh huỷ, do thị nhân duyên

令 正 法 滅。

lệnh chánh pháp diệt .

17

從 是 已 後 諸 苾 芻 等 造 惡 轉 深, 國

tòng thị dĩ hậu chư tất sô đẳng tạo ác chuyển thâm, quốc

王 大 臣 長 者 居 士 益 不 恭 敬, 三 寶

vương đại thần trưởng giả cư sĩ ích bất cung kính, tam bảo

馀 勢 猶 未 全 滅, 故 於 彼 時 復 有 苾

dư thế do vị toàn diệt, cố ư bỉ thời phục hữu tất

芻 苾 芻 尼 等, 少 欲 知 足 護 持 禁 戒

sô tất sô ni đẳng, thiểu dục tri túc hộ trì cấm giới

修 行 靜 慮 愛 樂 多 聞, 受 持 如 來 三

tu hành tĩnh lự ái lạc đa văn, thụ trì Như Lai tam

藏 教 法, 廣 為 四 眾 分 別 演 說, 利 益

tạng giáo pháp, quảng vi tứ chúng phân biệt diễn thuyết, lợi ích

安 樂 無 量 有 情; 復 有 國 王 大 臣 長

an lạc vô lượng hữu tình; phục hữu quốc vương đại thần trưởng

者 及 居 士 等, 愛 惜 正 法, 於 三 寶 所

giả cập cư sĩ đẳng, ái tích chánh pháp, ư tam bảo sở

供 養 恭 敬 尊 重 讚 歎, 護 持 建 立 無

cung dưỡng cung kính tôn trọng tán thán, hộ trì kiến lập vô

所 顧 戀。 當 知 皆 是 不 可 思 議 諸 菩

sở cố luyến. Đương tri giai thị bất khả tư nghị chư Bồ

薩 等, 以 本 願 力 生 於 此 時, 護 持 如

tát đẳng, dĩ bổn nguyện lực sinh ư thử thời, hộ trì Như

18

來 無 上 正 法, 與 諸 有 情 作 大 饒 益

Lai vô thượng chính pháp, dữ chư hữu tình tác đại nhiêu ích

爾 時 阿 難 聲 聞 菩 薩 天 龍 藥 叉 人

Nhĩ thời A Nan, Thanh Văn, Bồ tát, Thiên long, dược xoa, nhân

非 人 等 一 切 大 眾, 聞 薄 伽 梵 懸 記

phi nhân đẳng nhất thiết đại chúng, văn Bạc Già Phạm huyền ký

當 來 法 住 時 分 諸 苾 芻 等 行 業 差

đương lai pháp trú thời phân chư bật sô đẳng hành nghiệp si

別, 皆 增 悲 歎, 信 受 奉 行。

biệt, giai tăng bi thán, tín thụ phụng hành .