Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng...
TRANSCRIPT
1
Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp trong Đảng
bộ tỉnh Bắc Kạn
1. Tên đề tài: Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp trong
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn
2. Tổ chức chủ trì đề tài: Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Bắc Kạn
3. Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lý Quang Vịnh
4. Mục tiêu của đề tài:
- Làm rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của nhiệm vụ giám sát của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp trong
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, những ưu điểm, khuyết điểm, thuận lợi, khó khăn của
UBKT các cấp nhiệm kỳ vừa qua; phân tích nguyên nhân khách quan, chủ quan.
Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giám sát của
liên quan có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đối với UBKT các cấp thực hiện
tốt nhiệm vụ giám sát của Đảng; đề xuất với UBKT Trung ương chỉ đạo, ban
hành một số quy định, hướng dẫn liên quan đến nhiệm vụ giám sát.
- Xây dựng và ban hành một số quy trình giám sát phù hợp với điều kiện
thực tế ở địa phương, làm cơ sở để UBKT các cấp thuộc Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn
thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát.
5. Kết quả thực hiện:
5.1. Thực trạng công tác giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp ở Đảng
bộ tỉnh Bắc Kạn trong thời gian qua
5.1.1. Khái quát về đặc điểm tình hình của tỉnh và của Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn
* Sơ lược đặc điểm tình hình của tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc, phía bắc
giáp Cao Bằng, phía nam giáp Thái Nguyên, phía đông giáp Lạng Sơn và phía
2
tây giáp Tuyên Quang. Tỉnh Bắc Kạn có 8 đơn vị hành chính, gồm thị xã (thị xã
- tỉnh lỵ Bắc Kạn), 7 huyện (Ngân Sơn, Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông, Na Rì,
Chợ Mới, Pác Nặm) với 112 xã, 4 phường và 6 thị trấn. Diện tích tự nhiên của
tỉnh là 4.868, 41 km2, chiếm 1,45% diện tích cả nước, số dân 293.826 người, chỉ
chiếm khoảng 0,37% dân số toàn quốc, mật độ dân số 60 người/km2 (theo kết
quả điều tra năm 2009) Nhìn chung, Bắc Kạn được đánh giá là tỉnh có vị trí
quan trọng về mặt kinh tế và an ninh - quốc phòng.
Tài nguyên khoáng sản của Bắc Kạn tương đối phong phú, đa dạng, như
vàng, chì, kẽm, có diện tích rừng tự nhiên lớn với nhiều loại gỗ quý hiếm; tỉnh
có lợi thế về sản xuất nông - lâm nghiệp với các lĩnh vực trồng cây ăn quả, cây
công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc… đây là một trong những thế mạnh để phát
triển kinh tế-xã hội nói chung và công nghiệp khai thác, chế biến. Bên cạnh đó,
tỉnh còn có nhiều danh lam, thắng cảnh đẹp, có tiềm năng về du lịch đa dạng,
phong phú; đồng bào các dân tộc có truyền thống cách mạng và lòng hiếu khách.
Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, thương mai, dịch vụ...
Cộng đồng dân tộc cư trú ở Bắc Kạn chủ yếu gồm 7 dân tộc anh em. Đó là
người Tày, Nùng, Dao, Kinh, H’Mông, Hoa, Sán Chay. Trong đó, về số lượng,
đông đảo nhất là người Tày (chiếm 52,93% số liệu điều tra năm 2009). Dân cư
của Bắc Kạn phân bố không đều theo lãnh thổ. Nhìn chung, ở vùng thấp có địa
hình tương đối bằng phẳng hay tại các thị trấn, thị xã, gần đường giao thông, dân
cư trú mật độ lớn hơn. Ở các vùng cao, núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt, dân
số sống ở vùng nông thôn chiếm 86%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11,2% năm (từ năm 2005 - 2010).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; tỷ trọng công nghiệp, thương mại, du lịch
trong GDP tăng khá; các lĩnh vực văn hoá - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó quá trình phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh
còn gặp không ít khó khăn như địa hình chia cắt, giao thông giữa các vùng
không thuận tiện; đời sống của nhân dân mặc dù được nâng lên nhưng thu nhập
3
bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, trình độ dân trí không
đồng đều...
* Đặc điểm tình hình của Đảng bộ tỉnh, tình hình cán bộ UBKT các cấp
Một số nét khát quát về tình hình chung
Hiện nay Bắc Kạn có 11 Đảng bộ trực thuộc (trong đó gồm 8 đảng bộ
huyện thị, 2 đảng bộ lực lượng vũ trang, 1 đảng bộ khối các cơ quan) với 454 tổ
chức cơ sở đảng (trong đó: xã 112, phường 4, thị trấn 6, doanh nghiệp nhà nước
40, Doanh nghiệp cổ phần 16, công ty TNHH 3, công ty cổ phần tư nhân 1, cơ
quan hành chính 179, cơ sở sự nghiệp 43, quân đội 14, Công an 36). Tổng số
đảng viên là 24.791 chiếm 7,8% dân số (số liệu thống kê năm 2011).
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
đảng viên luôn được Đảng bộ quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần
quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh quốc
phòng, củng cố hệ thống chính trị ở địa phương. Qua phân tích chất lượng đảng
viên và tổ chức cơ sở đảng hằng năm thấy số tổ chức cơ sở đảng đạt TSVM
chiếm tỷ lệ khá cao bình quân trên 70%; số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ đạt trên 78%.
Tình hình cán bộ làm công tác kiểm tra
Bảng 1: Tình hình cán bộ làm công tác kiểm tra
Theo
các
cấp
Tổn
g
Trình độ chuyên môn Lý luận chính trị T.gian
làm công
tác kiểm
tra
(trên 5
năm)
Cao
học
Đại
học
Cao
đẳng
Trung
cấp,
sơ cấp
Chưa
qua
đào
tạo
Cử
nhâ
n
Cao
cấp
T.
cấp,
sơ
cấp
Chưa
học
Tỉnh 20 02 16 02 0 0 03 13 02 02 15
Huyệ
n 39 0 36 0 03 0 05 29 05 0 07
Cơ 651 0 212 26 135 278 13 52 328 258 233
4
sở
Tổng
cộng 710 02 264 28 138 278 21 94 335 260 255
Thời điểm thống kê (tháng 11/2011) tổng số cán bộ làm công tác kiểm tra
từ tỉnh đến cơ sở có 710 đồng chí. Qua kết quả thống kê cho thấy về trình độ
chuyên môn, chính trị, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra,
giám sát còn nhiều hạn chế, bất cập, còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát như về trình độ chuyên môn qua đào tạo (từ sơ cấp
trở lên) mới đạt 60,8%; chưa qua đào tạo chiếm 39.2% tập trung ở cấp cơ sở. Về
trình độ lý luận, chính trị qua đào tạo (từ sơ cấp trở lên) mới đạt 63,4%; chưa
qua đào tạo chiếm 36.6% và chủ yếu tập trung ở cấp cơ sở. Về kinh nghiệm làm
công tác kiểm tra đảng trên 5 năm chiếm 36%.
Những yếu tố tác động đến công tác giám sát của UBKT các cấp trong
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn giai đoạn hiện nay
Bắc Kạn là một tỉnh có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển kinh tế -
xã hội, là tỉnh có vị trí quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh đối với khu
vực Đông Bắc. Qua 15 năm tái thành lập tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự
nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, tích cực và sáng tạo của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh Bắc Kạn đã
đạt được những thành tựu nhất định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá
cao, trung bình 11,2%; thu nhập (GDP) bình quân đầu người hàng năm 600
USD; các tiềm năng và thế mạnh đã được khai thác, phát huy để phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong tỉnh
được cải thiện và nâng lên đáng kể. Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh
được giữ vững; các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội được
củng cố, hoạt động ngày càng có hiệu quả; công tác xây dựng Đảng được coi
trọng và đã đạt được những kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, Bắc Kạn vẫn là một tỉnh khó khăn; thu nhập (GDP) bình quân
đầu người của tỉnh dưới mức bình quân chung của cả nước; khoa học và công
5
nghệ còn ở trình độ thấp; cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nhiều nơi xuống cấp. Trên
địa bàn tỉnh còn nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết, như: Việc làm, thu nhập
của người dân, chất lượng dạy và học, khám và chữa bệnh, chăm sóc sức
khỏe,...các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy, mại dâm,... chưa được ngăn chặn
một cách triệt để, còn diễn biến phức tạp. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và
công chức còn một bộ phận suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống; tình trạng
tham nhũng, quan liêu, lãng phí chưa được ngăn chặn, tình trạng vi phạm kỷ luật
đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước là một trong những vấn đề bức xúc cần
được quan tâm giải quyết. Một số vấn đề bức xúc nổi cộm tại địa phương chưa
được giải quyết dứt điểm, trong đó có sự buông lỏng quản lý của chính quyền
địa phương cơ sở như tình trạng khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép. Năng
lực quản lý, điều hành một số nguồn vốn, chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư chưa
phát huy được hiệu quả...
Từ những tình hình nêu trên đã và đang đặt ra cho cấp ủy, tổ chức đảng, ủy
ban kiểm tra các cấp ở Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn nhiệm vụ quan trọng, trong đó cần
phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của
các tổ chức đảng trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa tỉnh Bắc Kạn cơ
bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển như mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ X đã đề ra.
5.1.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ giám sát của ủy ban kiểm tra các
cấp ở Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn từ năm 2007 đến năm 2011
* Việc quán triệt đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác giám sát
Nhận thức về công tác giám sát: Theo kết quả điều tra với đối tượng là cấp
uỷ viên các cấp, cán bộ làm công tác kiểm tra, đảng viên thấy cán bộ đảng viên
nhận thức đúng về công tác giám sát có 95% ý kiến trả lời nhiệm vụ giám sát
được quy định tại Đại hội X và việc đưa nhiệm vụ giám sát vào trong Điều lệ
Đảng như vậy là phù hợp.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò về công tác giám sát trong những năm qua cấp
ủy các cấp, ủy ban kiểm tra các cấp đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
6
quán triệt, triển khai thực hiện, như: Điều lệ Đảng; Nghị quyết Trung ương 5
khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Quy định của Ban
Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng, về ban hành hướng dẫn thực
hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong
Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng, về những điều đảng viên không
được làm và các hướng dẫn số 03, 04, 05, 06 -HD/TW của UBKT Trung ương
Đảng về công tác giám sát của cấp ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các
cấp và chi bộ; các quy định của Tỉnh uỷ và hướng dẫn Ủy ban Kiểm tra Tỉnh uỷ
Bắc Kạn về công tác giám sát đến các tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên
trong toàn tỉnh (các hướng dẫn này hiện nay không còn hiệu lực, đã được thay
thế bằng Hướng dẫn số 06-HD/UBKTTW, ngày 20/6/2012 của UBKT Trung
ương); đồng thời tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám
sát cho cấp uỷ viên và cán bộ kiểm tra từ tỉnh đến cơ sở. Qua đó, nâng cao nhận
thức về công tác giám sát trong Đảng nói chung và nhiệm vụ giám sát của cấp
ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ, tạo được sự thống
nhất trong nhận thức và triển khai thực hiện.
* Kết quả cụ thể
- Giám sát thường xuyên đối với tổ chức đảng từ năm 2007 đến tháng
6/2011 Ủy ban kiểm tra các cấp trong toàn Đảng bộ tỉnh đã giám sát 623 tổ chức
đảng, (trong đó: năm 2007 giám sát 2 tổ chức; 2008 giám sát 309 tổ chức và
năm 2009 giám sát 162 tổ chức, năm 2010 giám sát 72 tổ chức, sáu tháng đầu
năm 2011 được 78 tổ chức); cụ thể về cấp giám sát: Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ
giám sát: 135 tổ chức; Uỷ ban Kiểm tra cấp huyện và tương đương: 281 tổ chức;
Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở: 207 tổ chức. Nội dung giám sát: Việc lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước 200 tổ chức; Việc thực hiện nguyên tắc tổ
chức hoạt động của Đảng 161 tổ chức; Thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao 93 tổ chức; Thực hiện quy chế làm việc 125 tổ chức; Công tác tổ chức cán
bộ 30 tổ chức; Các nội dung khác 14 tổ chức. Qua giám sát đã phát hiện 40 tổ
chức đảng có dấu hiệu vi phạm, chuyển kiểm tra dấu hiệu vi phạm.
7
- Giám sát thường xuyên đối với đảng viên: Uỷ ban kiểm tra các cấp đã
giám sát được 3625 đảng viên, trong đó năm 2008 giám sát 1037 đảng viên;
2009 giám sát 1544 đảng viên và năm 2010 giám sát 331 đảng viên, sáu tháng
đầu năm 2011 giám sát được 713. Cụ thể về cấp giám sát: Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh
uỷ giám sát 752 đảng viên; Uỷ ban Kiểm tra cấp huyện và tương đương 1480
đảng viên; Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở: 1393 đảng viên. Nội dung giám sát
tập trung vào: Chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chỉ thị, nghị quyết; Thực
hiện tiêu chuẩn đảng viên, chức trách nhiệm vụ được giao; phẩm chất, đạo đức,
lối sống; Thực hiện những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm;
Thực hiện chế độ kê khai, công khai tài sản theo quy định; Việc chấp hành quy
chế làm việc của cấp ủy đối với cấp ủy viên; Tài chính đảng và các nội dung
khác. Qua giám sát đã phát hiện, chuyển kiểm tra dấu hiệu vi phạm 114 đảng
viên.
- Giám sát chuyên đề: Ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 266 cuộc; trong
đó, năm 2007 giám sát 2 tổ chức, 2008 giám sát 12, năm 2009 giám sát 162,
năm 2010 giám sát 72, sáu tháng đầu năm 2011 được 18; cấp giám sát: Uỷ ban
kiểm tra Tỉnh ủy giám sát 15 cuộc, Uỷ ban kiểm tra cấp huyện và tương đương
181 cuộc và Uỷ ban kiểm tra cơ sở giám sát 70 cuộc. Nội dung giám sát tập
trung vào việc thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở; việc thực hiện thông báo kết luận của cấp ủy sau cuộc kiểm tra; việc
chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên, chấp hành các quy chế, quy
định của Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, quản lý, giáo dục, rèn luyện nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách, lối sống của đảng viên; thực hiện
những điều cán bộ, đảng viên, công chức không được làm; thực hiện chức trách
nhiệm vụ được giao, về công tác cán bộ; về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, trách nhiệm của đảng viên trong thực hiện
tiêu chuẩn đảng viên, cấp ủy viên,...trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, an ninh
quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.
Ngoài giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề, thời gian qua Uỷ
ban kiểm tra Tỉnh uỷ và Uỷ ban Kiểm tra các cấp trong Đảng bộ đã thực hiện
8
việc giám sát đột xuất đối với tổ chức đảng và và đảng viên khi có dư luận,
phương tiện thông tin phản ảnh. Việc giám sát theo hình thức này khi triển khai
có xây dựng kế hoạch, có thành lập tổ giám sát dạng giám sát theo chuyên đề,
song không nằm trong kế hoạch năm. Qua triển khai thực hiện cho thấy hình
thức giám sát nay đem lại nhiều kết quả và có hiệu quả thiết thực, qua kết quả
giám sát đã đánh giá đúng, thực chất nguồn thông tin, dư luận phản ảnh và giúp
cho tổ chức đảng, đảng viên được giám sát kịp thời khắc phục, chấn chỉnh
những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và minh oan cho đối tượng được
giám sát.
5.1.3. Đánh giá kết quả giám sát của UBKT các cấp thời gian qua
* Những mặt đã đạt được
- Trong thời gian qua, cấp uỷ, các ban của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp
và chi bộ đã chủ động tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các
nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng và của cấp uỷ cấp trên về
công tác kiểm tra, giám sát nói chung và công tác giám sát nói riêng, tạo ra sự
thống nhất trong nhận thức và hành động; nhận thức của tổ chức đảng, đảng viên
và nhân dân về công tác giám sát dần được nâng lên.
- Uỷ ban Kiểm tra các cấp trong Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn đã thực hiện việc
giám sát theo chức năng, nhiệm vụ được giao, được quy định trong Điều lệ
Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng, của cấp uỷ cấp trên
và của cấp mình, thực hiện việc giám sát do cấp uỷ giao trong quy chế làm việc
của cấp uỷ hoặc do cấp uỷ giao đột xuất (khi có yêu cầu).
- Thực hiện quy chế làm việc, uỷ ban kiểm tra các cấp phân công cho thành
viên uỷ ban, cán bộ kiểm tra thường xuyên theo dõi, giám sát, nắm chắc tình
hình địa bàn để chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng
viên để tiến hành kiểm tra. Việc giám sát chủ yếu thông qua dự các cuộc họp
của tổ chức đảng cấp dưới (cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, các ban của cấp uỷ,...)
bàn triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng, công tác
kiểm tra,... Hoặc giám sát thông qua đơn thư phản ảnh, tố cáo, khiếu nại của
đảng viên, quần chúng gửi cho uỷ ban kiểm tra; qua phản ảnh của cơ quan báo
9
chí, các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội với uỷ ban kiểm tra; qua
nghiên cứu các báo cáo, văn bản của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới gửi cho uỷ
ban kiểm tra cấp trên theo quy định.
- Ngoài ra, uỷ ban kiểm tra các cấp còn giám sát thông qua thực hiện nhiệm
vụ do cấp uỷ giao, tổ chức cuộc giám sát đột xuất qua dư luận, phương tiện
thông tin phản ảnh; qua theo dõi, đôn đốc các tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên chấp hành kết luận, quyết định sau kiểm tra của uỷ ban kiểm tra hoặc của
cấp uỷ giao. Việc thực hiện nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định bao gồm: kiểm
tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố
cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên, giải quyết khiếu nại về kỷ luật đảng;
kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ cùng cấp.
Qua thực hiện khá toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra cũng là cơ sở cho việc thực
hiện nhiệm vụ giám sát, từ đó phục vụ trở lại cho thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
có hiệu lực, hiệu quả hơn. Qua thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp cấp uỷ và
nhiệm vụ do cấp uỷ giao cũng tạo điều kiện thuận lợi để uỷ ban kiểm tra các cấp
có thêm cơ sở, thông tin phục vụ tốt cho việc thực hiện công tác giám sát, kiểm
tra được kịp thời, chính xác, đem lại hiệu quả thiết thực.
- Nội dung giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên chủ yếu tập trung
vào việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao, về đoàn kết nội bộ, về giữ gìn phẩm chất, đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên, kể cả việc chấp hành Quy định của Bộ Chính trị
về những điều đảng viên không được làm và việc chấp hành chính sách, pháp
luật của cán bộ, đảng viên... Tuy nhiên, mỗi giai đoạn có yêu cầu nhiệm vụ
chính trị và công tác xây dựng Đảng khác nhau, mỗi uỷ ban kiểm tra có chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể khác nhau, do vậy, nội dung giám sát của mỗi
giai đoạn, của từng uỷ ban kiểm tra cũng có trọng tâm, trọng điểm khác nhau để
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đặt ra, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
10
- Uỷ ban kiểm tra các cấp đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ công tác
kiểm tra, giám sát toàn khoá, chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát
hằng năm (trong đó có nội dung về công tác giám sát). Đã tập trung chỉ đạo các
đơn vị chức năng của cơ quan uỷ ban chủ động bám sát địa bàn, tăng cường theo
dõi nắm tình hình phục vụ tốt việc phát hiện dấu hiệu vi phạm để kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; lựa chọn đối tượng,
nội dung kiểm tra theo các nhiệm vụ kiểm tra phù hợp (kiểm tra tổ chức đảng
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, việc thi hành kỷ luật trong đảng,
kiểm tra việc giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng và kiểm tra tài chính cấp uỷ cấp
dưới...). Các thành viên uỷ ban thực hiện tốt việc tham dự các cuộc họp của cấp
uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cấp mình theo quy định trong Quy chế làm việc của
Ban Chấp hành (khi được mời tham dự) bàn về công tác kiểm tra, công tác xây
dựng Đảng và các công việc khác có liên quan đến công tác kiểm tra, gám sát,
kỷ luật đảng. Uỷ ban kiểm tra các cấp đã cử thành viên uỷ ban và cán bộ của cơ
quan uỷ ban kiểm tra đến các tổ chức đảng để thực hiện nhiệm vụ giám sát,
kiểm tra, dự các cuộc họp của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, ban cán sự đảng,
đảng đoàn trực thuộc.
- Nhờ làm tốt công tác theo dõi, chủ động nắm tình hình từ nhiều nguồn,
nhiều kêng thông tin khác nhau nên uỷ ban kiểm tra các cấp phục vụ tốt việc lựa
chọn đối tượng, nội dung kiểm tra phù hợp, chất lượng kiểm tra được nâng lên;
đồng thời, giúp việc tham mưu cho cấp uỷ cấp mình xây dựng chương trình, kế
hoạch, chọn nội dung, đối tượng kiểm tra phù hợp. Khi tiến hành công tác nắm
tình hình, uỷ ban kiểm tra các cấp đã yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên báo
cáo tình hình, cung cấp tài liệu có liên quan phục vụ cho việc lựa chọn và quyết
định kiểm tra được sát hợp.
- Do chủ động giám sát, theo dõi, nắm tình hình, uỷ ban kiểm tra các cấp đã
kịp thời tham mưu, giúp cấp uỷ xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát hằng
năm phù hợp, việc tổ chức thực hiện kiểm tra có hiệu quả, có tác dụng tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng bộ về công tác kiểm tra, giám sát. Ngoài
ra do làm tốt công tác giám sát, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã phối hợp với ban tổ
11
chức của cấp mình thực hiện tốt việc giúp cấp uỷ nhận xét, cho ý kiến về đề bạt
cán bộ diện cấp uỷ các cấp quản lý. Đồng thời giúp cấp uỷ các cấp gợi ý, chỉ đạo
các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thuộc diện cấp uỷ quản lý thực hiện việc
tự phê bình và phê bình trong các đợt sinh hoạt chính trị hoặc kiểm điểm định kỳ
hằng năm đạt kết quả tốt.
- Nhìn chung, việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của uỷ ban kiểm tra các
cấp từ sau Đại hội X của Đảng đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận
thức về vị trí, vai trò của công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp được
nâng lên rõ rệt; việc thực hiện giám sát thường xuyên (giám sát trực tiếp và gián
tiếp) theo sự phân công của cấp uỷ và của uỷ ban kiểm tra từng bước đi vào nền
nếp và phát huy tác dụng; công tác giám sát chuyên đề đã dần được tổ chức thực
hiện; chất lượng và hiệu quả công tác giám sát được nâng lên, góp phần phát
huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
* Hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân
Đối với Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy (cấp tỉnh)
- Công tác tuyên truyền, quán triệt các quy định, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra, giám
sát còn hạn chế chưa kịp thời; kết quả cụ thể biểu sau:
Bảng 2: Kết quả cụ thể về công tác tuyên truyền, quán triệt các quy
định, chỉ thị, nghị quyết
Năm Thực hiện chuyên
mục phát trên truyền
hình
Tin bài đăng
trên báo địa
phương, tạp chí
Kiểm tra
Tổ chức hội nghị tập
huấn, triển khai văn
bản mới
2007 1 2 0
2008 1 2 0
2009 3 4 0
2010 5 5 0
2011 8 6 0
12
Ghi chú: Việc tập huấn từ 2007-2011 có chỉ đạo cấp huyện tổ chức tâp
huấn nghiệp vụ cho đối tượng ở cấp cơ sở; việc triển khai các quy định của
Trung ương liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát, năm 2012 mới triển khai
được, do ban hành chậm.
- Chưa thực hiện được việc chủ trì phối hợp với Ban tổ chức, Văn phòng
Tỉnh uỷ và các cơ quan liên quan giúp Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh giám sát,
theo dõi việc thực hiện quy chế làm việc của Ban Chấp hành được quy định
trong quy chế; đồng thời, việc phối với một số ban xây dựng đảng và các tổ
chức đảng trong các cơ quan thuộc khối nội chính cùng cấp trong thực hiện công
tác giám sát, kiểm tra còn hạn chế. Nguyên nhân chính do chưa có quy chế phối
hợp để thực hiện nhiệm vụ này.
- Thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên còn hạn chế, chưa thường
xuyên, nên chưa yêu cầu, đề nghị đối tượng giám sát phát huy ưu điểm, hoặc
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm. Đồng thời công tác giám sát thường xuyên,
khảo sát, nắm tình hình thông qua phản ánh của các đoàn thể chính trị - xã hội,
của các phương tiện đại chúng và phản ảnh của nhân dân, giám sát đối với cấp
ủy viên cùng cấp (Các đồng chí Ủy viên ban Chấp hành Tỉnh ủy) chưa kịp thời,
thiếu phương pháp; công tác giám sát chuyên đề đối với lĩnh vực dễ phát sinh
tiêu cực còn hạn chế, từ đó dẫn đến thực hiện nhiệm vụ kiểm tra dấu hiệu vi
phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên, cán bộ do Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản
lý thực hiện chưa nhiều; thể hiện biểu sau:
Bảng 3: Tình hình công tác giám sát từ năm 2007-2011
Năm Số cuộc
giám sát
chuyên đề
Cấp ủy viên
cùng cấp
được giám
sát
Giám sát theo
thông tin, dư
luận phản ảnh
(cuộc)
Kiểm tra DHVP cấp ủy
viên cùng cấp, cán bộ
do tỉnh quản (đảng
viên)
2007 2 8 1 2
2008 2 10 2 2
2009 4 12 2 4
13
2010 4 17 3 3
2011 3 24 3 5
Cộng 15 61 11 16
Nguyên nhân: Các thành viên uỷ ban và cán bộ cơ quan uỷ ban kiểm tra
các cấp còn ít được mời dự các cuộc họp của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, nhất
là các cuộc họp của ban cán sự đảng, đảng đoàn do cấp uỷ cấp mình quản lý bàn
về công tác xây dựng đảng; mặt khác, công tác giám sát thời gian qua chưa được
quy định cụ thể thành chế độ; cán bộ có nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm
làm công tác kiểm tra còn thiếu, nên đôi khi chưa bố trí để dự các cuộc họp, hội
nghị của tổ chức đảng cấp dưới (khi được mời dự), đồng thời khi dự các cuộc
họp của tổ chức đảng cấp dưới, cán bộ kiểm tra cũng chưa đặt ra mục tiêu, yêu
cầu giám sát cụ thể.
- Việc chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát theo dõi hoạt động kiểm tra, giám sát
đối với uỷ ban kiểm tra cấp dưới còn chậm, chưa thường xuyên, hạn chế. Việc
thu thập, tổng hợp các tài liệu liên quan đến công tác giám sát chưa thành nề
nếp, chưa lập và lưu trữ được hồ sơ giám sát thường xuyên theo quy định (Kết
quả điều tra có 85% ý kiến trả lời UBKT cấp trên có chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp
vụ), nguyên nhân chính do đội ngũ cán bộ UBKT Tỉnh ủy còn thiếu về số lượng,
chất lượng không đồng đều.
- Việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kết luận sau giám sát chưa sát sao, dẫn
đến có trường hợp chấp hành không kịp thời, chưa nghiêm túc, ảnh hưởng đến
hiệu quả, tác dụng của công tác giám sát.
Đối với ủy ban kiểm tra cấp huyện và tương đương (cấp huyện)
- Một số cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp chưa làm tốt công tác tuyên
truyền, quán triệt các quy định, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, hướng dẫn của Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương về công tác giám sát; một số uỷ ban kiểm tra cấp
huyện và tương đương chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch giám sát
toàn khoá và hằng năm; nội dung chương trình, kế hoạch giám sát chưa sát với
tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị. Việc thực hiện giám sát chuyên đề còn ít,
14
nội dung thiếu cụ thể, chất lượng và hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện nhiệm
vụ giám sát rất hạn chế, chưa đạt yêu cầu đề ra, chất lượng không cao, tác dụng
thấp; giám sát đối với cấp uỷ viên cùng cấp chưa giám sát được nhiều, đồng thời
kiểm tra DHVP đối với cán bộ do ban thường vụ huyện quản lý ít được kiểm tra.
Công tác chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát
đối với uỷ ban kiểm tra cấp cơ sở chưa thường xuyên. Kết quả tổng hợp qua 5
năm thực hiện như sau:
Bảng 4: Tình hình công tác giám sát tại Ủy ban kiểm tra cấp huyện và
tương đương
Đơn vị
Tập huấn
nghiệp vụ,
triển khai
văn bản
mới (lớp)
Xây dựng
chương trình,
kế hoạch
giám sát
hằng năm (cả
5 năm)
Số cuộc
giám sát
chuyên đề
(cuộc)
Số cấp ủy
viên được
giám sát
(lượt)
Số đảng
viên kiểm
tra DHVP
Chợ Mới 01 3 18 57 8
Na Rỳ 01 3 17 56 6
Bạch
Thông
01 3 15 47 6
Ngân Sơn 01 3 16 46 7
Ba Bể 01 3 16 45 7
Pác Nặm 01 3 16 58 7
Chợ Đồn 01 3 17 61 6
Thị xã 01 3 16 60 7
Đ.u CCQ 01 3 17 26 4
Quân Sự 01 3 16 30 4
Công An 01 3 17 28 6
Tổng cộng 11 33 181 514 68
15
- Việc phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra các cấp với một số ban xây dựng
đảng và các tổ chức đảng trong các cơ quan thuộc khối nội chính cùng cấp trong
thực hiện công tác giám sát, kiểm tra còn hạn chế.
- Chưa chú trọng sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác giám sát để rút
kinh nghiệm, có biện pháp tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
giám sát (32,5% ý kiến đánh giá UBKT, cấp uỷ chưa thường xuyên tổ chức sơ
kết, tổng kết công tác giám sát). Việc thu thập, tổng hợp các tài liệu liên quan
đến công tác giám sát chưa thành nề nếp, chưa lập và lưu trữ được hồ sơ giám
sát thường xuyên, một số cuộc giám sát chuyên đề không lập hồ sơ lưu trữ
theo quy định.
- Số liệu báo cáo tổng hợp thiếu thống nhất, không chính xác, chưa thể hiện
rõ được số liệu giám sát trực tiếp, gián tiếp, chuyên đề; nhiều đơn vị có thực
hiện giám sát nhưng không đưa vào báo cáo, một số đơn vị nhầm lẫn giữa số
liệu giám sát thường xuyên với giám sát chuyên đề.
Đối với ủy ban kiểm tra cấp cơ sở (cấp cơ sở)
- Việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát toàn khoá và hằng năm:
Qua khảo sát cho thấy nhiệm kỳ trước (2005-2010) hầu như đơn vị cơ sở không
xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát toàn khoá và hằng năm đến nhiệm kỳ
này có một số ít đơn vị trong chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn
khóa, hằng năm có thể hiện nhiệm vụ giám sát chuyên đề, song nội dung giám
sát chưa sát với tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị, nội dung còn chung
chung.
- Việc thực hiện giám sát chuyên đề còn rất ít; nội dung thiếu cụ thể, chất
lượng không cao, tác dụng thấp, còn nhầm lẫn giữa giám sát thường xuyên với
chuyên đề (theo kết quả điều tra có 37% ý kiến cho rằng chất lượng giám sát đạt
ở mức tốt, mức khá 56,5%, còn 6,5% ở mức trung bình). Từ việc giám sát không
đảm bảo chất lượng, hiệu quả cũng là nguyên nhân dẫn đến giám sát nhiều, song
chuyển sang kiểm tra dấu hiệu vi phạm ít (Theo kết quả tổng hợp trong 5 năm
cấp cơ sở giám sát 1393 lượt đảng viên và kiểm tra DHVP 30 đảng viên).
16
- Chưa chú trọng sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
để rút kinh nghiệm, có biện pháp tăng cường, nâng cao chất lượng công tác giám
sát (32,5% ý kiến đánh giá UBKT, cấp uỷ chưa thường xuyên tổ chức sơ kết,
tổng kết công tác giám sát).
- Việc thu thập, tổng hợp các tài liệu liên quan đến công tác giám sát chưa
thành nề nếp, chưa lập và lưu trữ được hồ sơ giám sát thường xuyên, cũng như
giám sát chuyên đề theo quy định; số liệu báo cáo không chính xác, chưa thể
hiện rõ được số liệu giám sát trực tiếp, gián tiếp, chuyên đề.
Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
+ Nguyên nhân khách quan
- Đây là nhiệm vụ mới được bổ sung từ Đại hội X của Đảng, nên kinh
nghiệm chưa nhiều. Quy chế giám sát trong Đảng mới được ban hành (tháng
6/2012). Việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp (cơ quan
kiểm tra chuyên trách của Đảng) chưa được cụ thể hoá thành quy chế, hướng
dẫn cụ thể. Chưa hình thành được tài liệu về lý luận công tác giám sát.
- Cán bộ kiểm tra phần đa còn thiếu, chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ một cách bài bản. Cán bộ kiểm tra đảng ở cơ sở là kiêm nhiệm, thường xuyên
thay đổi, chưa có tính chuyên môn hoá cao. Chế độ chính sách cho cán bộ làm
công tác kiểm tra kể cả chuyên trách, kiêm nhiệm không thoả đáng, còn nhiều
bất cập...
+ Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của một số cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp, nhất là
người đứng đầu cấp uỷ chưa thực sự coi trọng công tác giám sát, từ khâu lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát theo quy định của điều 30
Điều lệ Đảng; chưa thấy rõ được vị trí, vai trò của công tác giám sát trong Đảng;
một số nơi còn có biểu hiện “khoán trắng" cho uỷ ban kiểm tra về công tác kiểm
tra và giám sát.
- Uỷ ban kiểm tra các cấp chưa thực hiện tốt vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ
về việc đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, nên việc
17
thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát của tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các
cấp còn chậm so với yêu cầu của thực tiễn.
- Trình độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra các cấp so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay còn nhiều bất cập, một
bộ phận chưa thực sự nỗ lực phấn đấu vươn lên, tinh thần trách nhiệm và tính
chiến đấu chưa cao.
- Sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về công tác giám sát của uỷ ban kiểm
tra cấp trên đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra cấp dưới chưa thường
xuyên.
- Sự phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra các cấp với các ban của cấp uỷ, các tổ
chức đảng có liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát chưa nhịp
nhàng, thường xuyên và thiếu chặt chẽ.
Tóm lại: Việc thực hiện công tác giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp đối
với tổ chức đảng và đảng viên thời gian qua đã được thực hiện và đạt được một
số kết quả tốt, góp phần nhất định vào việc thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính
trị và công tác xây dựng Đảng trong toàn Đảng bộ. Tuy nhiên, do nội dung giám
sát còn hạn chế; chủ thể, đối tượng giám sát, hình thức, phương pháp giám sát,
thẩm quyền và trách nhiệm giám sát quy chế, cơ chế phối hợp với các tổ chức
nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội còn chậm ban hành, chưa có cơ chế khuyến
khích để phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong việc giám sát tổ chức
đảng và đảng viên, nên việc thực hiện giám sát còn giản đơn, hình thức, còn
lúng túng, gặp nhiều khó khăn, chất lượng hiệu quả thấp. Một số cấp uỷ, tổ chức
đảng, kể cả uỷ ban kiểm tra các cấp cũng chưa thực sự quan tâm thực hiện
nhiệm vụ giám sát được giao; chưa chú trọng sơ kết, tổng kết việc thực hiện
nhiệm vụ giám sát ở các cấp và trong toàn Đảng. Vì vậy, một thời gian dài,
nhiệm vụ giám sát trong Đảng nói chung của uỷ ban kiểm tra các cấp nói riêng
chưa chú trọng và tăng cường đúng mức, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
thực hiện công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
và công tác xây dựng Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng.
18
5.1.4. Một số kinh nghiệm
Qua thực tiễn 5 năm (2007 - 2011) tham mưu cho cấp uỷ thực hiện nhiệm
vụ giám sát và triển khai, thực hiện nhiệm vụ giám sát ở Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn,
rút ra một số kinh nghiệm bước đầu như sau:
Một là, phải đẩy mạnh tuyên truyền công tác kiểm tra, giám sát đối với các
tổ chức đảng và đảng viên, trước hết là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các tổ
chức đảng từ tỉnh đến cơ sở về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác giám sát của
Đảng.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần nhận thức sâu sắc,
đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác giám sát của Đảng nói
chung và của cấp ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ nói
riêng; thường xuyên và chủ động tiến hành công tác giám sát theo chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Cùng với công tác kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của
Đảng, một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm
vụ của tất cả các cấp ủy và tổ chức đảng trong đảng bộ, trước hết là cấp ủy, đặc
biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Vì vậy, phải nắm vững mục đích,
yêu cầu, quan điểm, nội dung, đối tượng, thẩm quyền, trách nhiệm và thực hiện
tốt nguyên tắc giám sát. Điều đó, bảo đảm cho công tác giám sát đạt kết quả.
Từ thực tế cho thấy, ở nơi nào cấp ủy, bí thư cấp ủy nhận thức đúng đắn về
công tác giám sát, có trách nhiệm cao đối với công tác giám sát và đích thân chỉ
đạo công tác giám sát thì ở nơi đó công tác giám sát được tiến hành thường
xuyên và có chất lượng. Công tác giám sát sẽ góp phần chủ động phát hiện và
phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm từ khi còn mới manh nha, không để thiếu sót,
khuyết điểm trở thành vi phạm, vi phạm ít nghiêm trọng trở thành vi phạm
nghiêm trọng, vi phạm của cá nhân trở thành vi phạm của tổ chức. Và ở đó, uy
tín của tổ chức đảng và của cán bộ chủ chốt được đề cao; niềm tin của nhân dân
đối với Đảng và ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra được nâng lên.
19
Hai là, công tác giám sát phải xuất phát từ yêu cầu phục vụ thiết thực cho
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở từng địa phương,
cơ quan, đơn vị.
Công tác giám sát cũng như công tác kiểm tra không có mục tiêu nào khác
hơn là nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Vì vậy, công tác giám
sát phải lấy phục vụ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng làm mục
tiêu, phương hướng hoạt động.
Mỗi tổ chức đảng có tình hình đặc điểm, nhiệm vụ chính trị và yêu cầu về
công tác xây dựng Đảng khác nhau, ở mỗi giai đoạn có nhiệm vụ lãnh đạo khác
nhau. Vì vậy, phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của
đảng bộ mình, để xác định nhiệm vụ giám sát cho phù hợp.
Ba là, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát phải thường xuyên và
chủ động phối hợp với các ban xây dựng Đảng, thanh tra cấp mình và các cơ
quan chức năng có liên quan trên cơ sở quy chế phối hợp.
Trước hết ủy ban kiểm tra các cấp cần chủ động tham mưu cho ban thường
vụ cấp ủy cấp mình ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa ủy ban kiểm tra
với các ban của cấp ủy; đảng ủy công an, quân sự, thanh tra...trong việc thực
hiện nhiệm vụ công tác giám sát.
Trên thực tế đảng viên được phân công nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; một mặt đảng viên phải chấp hành quy định của Điều lệ
Đảng, nguyên tắc sinh hoạt đảng; gương mẫu, tiên phong chấp hành chính sách,
pháp luật của Nhà nước, điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội mà đảng viên
là đoàn viên, hội viên,...Mặt khác, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội
là thành viên của hệ thống chính trị, do Đảng trực tiếp lãnh đạo, mọi tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị đều phải chịu sự giám sát
của tổ chức đảng có thẩm quyền và của các tổ chức đó. Đảng viên vi phạm
chính sách, pháp luật của Nhà nước, vi phạm điều lệ các đoàn thể do mình tham
gia cũng là vi phạm kỷ luật đảng.
20
Vì vậy, muốn thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát do Điều lệ Đảng quy định;
tham mưu giúp ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cấp ủy cấp mình thực
hiện nhiệm vụ giám sát theo quy định của điều 30 Điều lệ Đảng thì cần có sự
phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với ban tổ chức, văn phòng cấp ủy, thanh tra,
đảng ủy quân sự và công an, tòa án, viện kiểm sát và các cơ quan, đơn vị có liên
quan,...trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Thực tế cho thấy,
nơi nào ủy ban kiểm tra làm tốt việc phối hợp với các tổ chức nói trên thì sẽ nắm
chắc tình hình của tổ chức đảng và đảng viên, quản lý cán bộ và đảng viên tốt
hơn, công tác giám sát sẽ có chất lượng và hiệu quả.
Bốn là, cần chăm lo xây dựng ủy ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra
các cấp có đủ phẩm chất chính trị và năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao là nhân tố rất quan trọng để không chỉ công tác kiểm tra mà cả
công tác giám sát đạt kết quả.
Ủy ban kiểm tra các cấp vừa phải thực hiện nhiệm vụ giám sát theo quy
định của Điều lệ Đảng và tham mưu giúp cấp ủy thực hiện nhiệm vụ giám sát,
khi tiến hành nhiệm vụ giám sát đều phải thông qua thành viên ủy ban và cán bộ
kiểm tra. Vì vậy, cán bộ kiểm tra phải thực sự là những cán bộ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, công tâm, khách quan, có phẩm chất, đạo đức lối sống trong sáng,
có uy tín,...am hiểu công tác xây dựng Đảng và tinh thông nghiệp vụ công tác
kiểm tra, giám sát thì công tác giám sát sẽ đạt kết quả.
Thực tế cho thấy, ở đâu ủy ban kiểm tra vững mạnh, nhất là chủ nhiệm ủy
ban kiểm tra nhiệt tình, trách nhiệm tâm huyết, có uy tín, có năng lực và phẩm
chất, đạo đức lối sống trong sạch, luôn quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ kiểm tra, đoàn kết nội bộ thì nơi đó, chất lượng công tác giám sát
được nâng lên.
Năm là, phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của
ban chấp hành, ban thường vụ cấp ủy và chỉ đạo, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra
cấp trên đối với việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và
ủy ban kiểm tra cấp dưới.
21
Ở nơi nào cấp ủy, mà trực tiếp là ban thường vụ cấp ủy, quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo hoạt động giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra cấp
dưới, chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ, ban hành nghị quyết, chỉ thị,
quy chế, quy định về công tác giám sát, tạo điều kiện về phương tiện, điều kiện
làm việc; coi trọng việc sơ kết, tổng kết công tác giám sát,...thì ở nơi đó công tác
giám sát sẽ đạt kết quả.
Ủy ban kiểm tra cấp trên cần coi việc nâng cao chất lượng công tác giám
sát của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra cấp dưới là nhiệm vụ của chính
mình, từ đó, có biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nhiệm vụ giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp dưới.
5.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát của ủy ban
kiểm tra các cấp ở đảng bộ tỉnh bắc kạn trong giai đoạn hiện nay
Thông qua kết quả nghiên cứu về đánh giá thực trạng công tác giám sát của
uỷ ban kiểm tra các cấp ở Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn thời gian qua, qua thực tiễn
thấy để phát huy ưu điểm, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong việc
thực hiện nhiệm vụ giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp ở Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn trong giai đoạn hiện nay, đề tài đề xuất một số giải pháp, phân theo nhóm
chủ yếu như sau:
5.2.1. Về nhận thức:
- Tăng cường phổ biến, quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm, nghị quyết,
quy định của Đảng về công tác giám sát, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra, trước hết là người
đứng đầu cấp uỷ về vị trí, vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện công tác giám sát.
- Việc tuyên truyền phải được tiến hành từ xây dựng chương trình, kế
hoạch, thống nhất trong cấp uỷ. Phương pháp tuyên truyền phải khoa học phù
hợp với yêu cầu hoàn cảnh thực tiễn, mang tính chủ động. Việc thực hiện tuyên
truyền có chương trình, kế hoạch đã giúp cấp uỷ, tổ chức đảng cơ bản nắm được
tình hình triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thi, quyết định, quy
định, quy chế... của Trung ương, của cấp trên và của cấp mình, việc chấp hành
22
chính sách pháp luật Nhà nước của tổ chức đảng và đảng viên. Nâng cao chất
lượng công tác giám sát phải không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp ủy,
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nhất là cấp uỷ viên và người đứng đầu cấp uỷ
về vị trí, tầm quan trọng của công tác giám sát của Đảng trong tình hình hiện
nay, từ đó mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác giám sát của mình đạt chất lượng, hiệu quả thiết thực.
Sau kết quả giám sát, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm, thì tiến hành kiểm tra, kết
luận rõ đúng, sai đối với từng trường hợp.
Kinh nghiệm cho thấy, ở nơi nào cấp ủy, bí thư cấp ủy nhận thức đúng đắn
về công tác giám sát, có trách nhiệm cao đối với công tác giám sát và chú trọng
đúng mức về lãnh đạo, chỉ đạo công tác giám sát thì ở những nơi đó công tác
giám sát được tiến hành một cách thường xuyên và có chất lượng, tạo sự đoàn
kết thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng,
góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị. Qua giám sát phát hiện và ngăn chặn
kịp thời những thiếu sót khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên. Kết quả
giám sát đã nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên trong
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
- Đa dạng hoá các hoạt động tuyên truyền, phối hợp với các cơ quan thông
tin đại chúng, phổ biến, quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm, nghị quyết, quy
định của Đảng về công tác giám sát, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cho tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của công tác
giám sát trong Đảng; nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân; tạo sự đồng thuận của quần chúng nhân dân.
- Công tác giám sát phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công tác
xây dựng Đảng. Qua giám sát góp phần làm ổn định tình hình chính trị, xã hội,
phát triển kinh tế, giữ vững an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống cho nhân
dân, củng cố được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng thêm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Làm tốt công tác giám sát góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, thực hiện thành công sự nghiệp công
23
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời tránh được nguy cơ tụt hậu, nguy
cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí.
- Hoạt động giám sát phải được tiến hành thường xuyên, cấp uỷ phải
thường xuyên sâu sát cơ sở, nắm bắt tình hình phục vụ kịp thời công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, cảnh báo, uốn nắn, chấn chỉnh, giúp tổ chức đảng và đảng viên có
ý thức hơn trong việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức thực hiện chức trách
nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống của đảng viên, cấp uỷ
viên.
Các cấp uỷ đảng phải thực hiện tốt công tác giám sát, công tác giám sát
phải trở thành công việc hàng ngày, thường xuyên, liên tục của cấp uỷ, các tổ
chức đảng chứ không giao khoán cho uỷ ban kiểm tra. Các cấp uỷ đảng lãnh đạo
công tác giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát; các tổ chức đảng và
đảng viên được giám sát phải chấp hành nghiêm túc việc giám sát của các tổ chức
đảng.
- Uỷ ban kiểm tra các cấp phải chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch,
phân công trách nhiệm rõ ràng, xem xét, đánh giá đúng bản chất sự việc, rút ra
những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, nhằm bổ
sung cho kế hoạch tiếp theo. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ chính trị cũng
là quá trình các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra phải thực sự coi trọng
nhiệm vụ giám sát, là nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan, đơn vị mình. Muốn
làm tốt điều đó phải nắm chắc Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định,
quy định của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hướng dẫn của uỷ ban
kiểm tra cấp trên và cấp mình, làm tốt công tác tư tưởng cho tổ chức đảng và
đảng viên, phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên thì công tác giám
sát sẽ đạt kết quả ngày một cao hơn.
Nâng cao nhận thức, xác định rõ vị trí tầm quan trọng công tác giám sát của
tổ chức cơ sở đảng; tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn
luyện đảng viên; nơi đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện
24
thắng lợi mọi chủ trương, đường lối, chính sách đó. Phải làm cho đảng viên, cấp
uỷ viên nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc thực hiện
công tác giám sát của Đảng, đảng viên phải chịu sự giám sát của các tổ chức
đảng. Vì vậy, công tác giám sát ở tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng đặc
biệt, có tác dụng trực tiếp và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Như vậy: Muốn nâng cao chất lượng công tác giám sát trước hết phải làm
chuyển biến nhận thức từ cấp uỷ, nhất là ban thường vụ cấp uỷ cho đến mọi tổ
chức đảng và đảng viên làm cho mọi người thấy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác giám sát, xác định công tác giám sát là công việc của toàn Đảng.
5.2.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
trên:
- Cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ tiếp tục tuyên
truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, tầm quan trọng công tác giám sát của
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng; tổ chức việc nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền,
phổ biến và triển khai thực hiện nghiêm túc Quy chế giám sát trong Đảng. Tập
trung chỉ đạo giám sát tổ chức đảng cấp dưới, trước hết là ban thường vụ, các tổ
chức đảng giữ vị trí quan trọng trong cơ quan nhà nước; giám sát cấp uỷ viên
các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý, trước hết là người đứng đầu,
cán bộ chủ chốt ở các cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, doanh
nghiệp nhà nước.
- Bám sát quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và hướng dẫn của Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương. Cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp cần chủ
động xây dựng ban hành quy chế hoạt động, bổ sung kịp thời, sát đúng với tình
hình thực tế ở địa phương, đơn vị, đảm bảo theo quy định của Điều lệ Đảng. Cấp
uỷ ban hành các quy chế phối hợp giữa ban thường vụ cấp uỷ với cấp uỷ các
ngành công an, quân sự..; ban hành và chỉ đạo thực hiện quy chế phối hợp giữa
ủy ban kiểm tra với các ban xây dựng Đảng, thanh tra, các cơ quan trong khối
nội chính và các ngành có liên quan, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức
25
và thực hiện nhiệm vụ giám sát của Đảng. Xây dựng chương trình, kế hoạch
kiểm tra, giám sát của cấp mình. Theo đó, cấp ủy các huyện, thị và các đảng bộ
trực thuộc và cấp cơ sở cũng đã ban hành các quy chế làm việc, quy chế phối
hợp đồng thời chỉ đạo cấp uỷ cơ sở xây dựng và triển khai thực hiện chương
trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm.
Tiếp tục hoàn thiện ban hành các quy định về công tác xây dựng Đảng, cụ
thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tự phê bình và phê bình;
nguyên tắc về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, xây dựng và từng bước
hoàn thiện các quy định về công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán
bộ. Chủ động và đích thân trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc giám sát của
mình theo kế hoạch đề ra. Qua mỗi cuộc giám sát phải có đánh giá rút kinh
nghiệm để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ
đạo. Để có những thông tin chính xác, kịp thời phục vụ việc lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị, cấp uỷ các cấp cần thực hiện thường xuyên giám sát việc
chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên
và của cấp mình nhằm phát hiện nhân tố tích cực để nhân rộng, những chủ
trương, chính sách chưa phù hợp để điều chỉnh, ngăn ngừa, hạn chế các sai
phạm của tổ chức đảng và đảng viên.
Cấp uỷ các cấp cần tổ chức thực hiện tốt việc giám sát tổ chức đảng, trước
hết là ban thường vụ, các tổ chức đảng giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan
nhà nước ở các cấp; giám sát cấp uỷ viên các cấp, cán bộ thuộc diện cấp uỷ các
cấp quản lý, trước hết là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở các cơ quan nhà nước.
Cấp ủy cấp trên phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn công tác giám
sát cho cấp ủy tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt công tác
giám sát. Chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát hằng năm; nội
dụng giám sát cụ thể và sát thực; phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở từng địa phương, cơ
quan, đơn vị. Mỗi cuộc giám sát phải chuẩn bị tốt nội dung, quy trình để thống
nhất lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát
26
phải luôn linh hoạt, vận dụng đồng bộ và sáng tạo các hình thức giám sát thường
xuyên và giám sát chuyên đề.
- Cấp uỷ, mà trực tiếp và thường xuyên là ban thường vụ, thường trực cấp
uỷ chỉ đạo các cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra thuộc
phạm vi cấp mình quản lý về thực hiện nhiệm vụ giám sát. Căn cứ vào nghị
quyết, chỉ thị của cấp trên và cấp mình, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng
tâm, trọng điểm công tác giám sát. Phải chủ động, gương mẫu thực hiện nhiệm
vụ giám sát. Uỷ ban kiểm tra các cấp phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát theo
quy định của Điều lệ Đảng, tích cực chủ động tham mưu cho cấp uỷ, xây dựng
và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình giám sát hàng năm. Phối hợp và
đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ của các ban theo nhiệm vụ phụ trách của từng
ban. Tăng cường chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ công tác giám sát cho các đồng
chí làm công tác giám sát. Phải kết hợp hài hoà giữa giám sát gián tiếp với giám
sát trực tiếp, giữa giám sát thường xuyên với giám sát chuyên đề. Lấy thông tin
từ giám sát thường xuyên làm cơ sở cho việc thực hiện giám sát chuyên đề.
- Tiếp tục đổi mới phương pháp giám sát, tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ
cấp trên, chỉ đạo hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với cấp dưới; phối
hợp với các ban của cấp uỷ, các cơ quan có liên quan để tạo sự thống nhất, đồng
bộ trong việc thực hiện công tác giám sát. Việc giám sát phải mở rộng, phát hiện
những thiếu sót khuyết điểm để nhắc nhở, cảnh báo và chấn chỉnh kịp thời.
Nâng cao hiệu lực chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với uỷ
ban kiểm tra cấp dưới và phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra cấp dưới với uỷ ban
kiểm tra cấp trên trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát. Thực hiện việc trao
đổi, cung cấp thông tin giữa cấp uỷ, các ban xây dựng Đảng, uỷ ban kiểm tra với
các tổ chức nhà nước, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Thông
qua công tác giám sát góp phần nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và đảng
viên, giúp cho tổ chức đảng và đảng viên nhận rõ những hạn chế, khuyết điểm,
góp phần phòng ngừa và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên. Các cấp uỷ đảng, người đứng đầu cấp uỷ và tổ chức đảng
phải chấp hành nghiêm túc nguyên tắc, nề nếp sinh hoạt đảng, thực hiện việc
27
giám sát qua sinh hoạt đảng góp phần gìn giữ kỷ cương, kỷ luật Đảng, xây dựng
cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị.
- Đổi mới việc sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra, giám sát nói chung và
công tác giám sát nói riêng. Hằng năm, cuối nhiệm kỳ, cấp uỷ các cấp, trước hết
là người đứng đầu cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo sơ, tổng kết nhiệm vụ giám sát ở
cấp mình. Kịp thời khen thưởng động viên đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức
đảng thực hiện tốt công tác giám sát trong Đảng.
5.2.3. Về nguyên tắc, phương pháp, nghiệp vụ:
- Công tác giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên
có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ giám sát theo thẩm quyền quy định và sự
phân công của tổ chức đảng theo các nguyên tắc sau:
+ Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng.
+ Tổ chức đảng cấp trên được quyền giám sát tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên.
+ Đảng viên được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có
thẩm quyền.
Như vậy, về nguyên tắc giám sát, cần chú ý chỉ có tổ chức đảng cấp trên
được quyền giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng cấp
dưới không được giám sát tổ chức đảng cấp trên. Đảng viên không được tự ý
giám sát, chỉ được tham gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có
thẩm quyền
- Nắm vững phương pháp và quy trình công tác giám sát của Đảng.
Công tác giám sát phải dựa vào tổ chức đảng vì tổ chức đảng là cơ quan
lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên về mọi mặt. Dựa vào tổ chức
đảng vừa là phương pháp cơ bản của công tác giám sát, vừa là vấn đề có tính
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Trong thực tiễn, muốn công tác giám
sát của các cấp ủy, các ban xây dựng đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ đạt
kết quả thì phải thường xuyên nắm chắc diễn biến của các tổ chức đảng cấp
dưới, tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp trên và cấp dưới, thực hiện tốt tự phê
bình và phê bình.
28
Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên. Tổ chức đảng
được thành lập theo nguyên tắc tổ chức của Đảng, có mục tiêu và nhiệm vụ
chính trị cụ thể do Điều lệ Đảng quy định. Trong quá trình tiến hành giám sát, tổ
chức đảng cấp dưới cần thực hiện tốt vấn đề sinh hoạt đảng, chỉ đạo giám sát và
chịu sự giám sát của tổ chức đảng có thẩm quyền.
Về phương pháp: Phương pháp giám sát trực tiếp là quan trọng nhất, đạt
hiệu quả cao nhất, phương pháp này vừa đảm bảo tính tập trung cao độ, vừa phát
huy tính dân chủ tập thể. Vì vậy, sẽ biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của các tổ
chức đảng có thực hiện đầy đủ chỉ thị, nghị quyết của Đảng hay không, từ đó có
biện pháp giải quyết kịp thời, nhằm khắc phục việc nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên chỉ dừng lại ở cấp ủy, không được phổ biến, triển khai cụ thể đến từng cấp
ủy cấp dưới và từng đảng viên.
Phương pháp giám sát gián tiếp phổ biến là dựa vào nắm bắt tình hình, tin
tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc số liệu thống kê, báo cáo của
các cấp ủy, đảng viên... để phân tích, đánh giá. Đây là phương pháp giám sát
không thể thiếu được, nhưng muốn đạt được kết quả cao cần phải xử lý tốt các
nguồn thông tin. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thường xuyên, định kỳ
theo quy định.
Mỗi hình thức, phương pháp giám sát đều có cách làm, tác dụng riêng
nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Do đó, trong khi
tiến hành công tác giám sát UBKT các cấp phải vận dụng, kết hợp linh hoạt các
phương pháp giám sát để chất lượng các cuộc giám sát đem lại hiệu quả.
Về hình thức giám sát: Tùy theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng, các cấp uỷ, các ban xây dựng Đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và
chi bộ cần lựa chọn nội dung, hình thức giám sát cho phù hợp.
Giám sát đột xuất: Hình thức này được áp dụng khi có sự việc đột xuất xảy
ra cần phải tiến hành giám sát hoặc khi có yêu cầu giám sát của cấp uỷ cấp trên.
Giúp cho các cấp ủy đánh giá, nhận xét sự việc một cách nhanh chóng, chính
xác, khách quan.
29
Giám sát định kỳ: Tùy vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và công
tác xây dựng Đảng mà xác định nội dung và thời gian định kỳ giám sát cho phù
hợp. Đây là hình thức giám sát tốt nhất, giúp cho các cấp ủy, các ban xây dựng
Đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ nắm chắc tình hình đều đặn trong từng
giai đoạn nhất định, để có biện pháp chỉ đạo kịp thời.
Tăng cường công tác giám sát việc chấp hành nghị quyết của cấp ủy, ý kiến
nhận xét đánh giá của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức đảng thông qua
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Giám sát thường xuyên và định kỳ việc
chấp hành nghị quyết là một khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng,
giúp phát hiện sáng kiến, đúc kết kinh nghiệm, biểu dương thành tích, điển hình
tiên tiến. Qua đó đề xuất những chủ trương mới thiết thực hơn.
- Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát Uỷ ban kiểm tra các cấp
phải tuân thủ quy trình giám sát, quy chế giám sát trong Đảng, đó là những quy
định về trình tự hoạt động trong quá trình tiến hành giám sát, bắt buộc khi tiến
hành giám sát yêu cầu phải đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng quy định.
- Nội dung giám sát của Uỷ ban kiểm tra các cấp
Tăng cường giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, trước hết là cấp
ủy, tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện
cấp uỷ cấp mình quản lý. Qua giám sát, kịp thời phát hiện các tổ chức trong hệ
thống chính trị làm trái chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước, kiến nghị các cơ quan và tổ chức đảng có thẩm quyền
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chủ trương, chính sách mới cho phù
hợp với thực tế; xem xét và xử lý kịp thời, nghiêm túc đối với tổ chức đảng và
đảng viên có vi phạm.
Bên cạnh sự quan tâm của cấp uỷ thì vai trò tham mưu của uỷ ban kiểm tra
các cấp là rất quan trọng, điều cần hết sức lưu ý trong một phạm vi khá rộng cả
về nội dung và đối tượng giám sát, như vậy phải biết chọn lựa để thực hiện việc
giám sát có trọng tâm, trọng điểm, nội dung từ đơn giản đến phức tạp, từ điểm
đến diện, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương, đơn vị; công
tác giám sát phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với tinh thần chủ động
30
cao và phải huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân và sự phối hợp giám sát
của các tổ chức chính trị - xã hội… Uỷ ban kiểm tra các cấp phải nắm chắc tình
hình chính trị tư tưởng, đoàn kết nội bộ, phẩm chất đạo đức, lối sống. đồng thời
phải tăng cường chỉ đạo các tổ chức, các cá nhân liên quan thực hiện nghiêm túc
kết luận thanh tra, kiểm tra. Có như vậy thì hoạt động giám sát của uỷ ban kiểm
tra các cấp mới có hiệu quả.
- Nắm vững tâm lý của chủ thể giám sát và đối tượng giám sát để vận dụng
thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Tâm lý của chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có ảnh hưởng rất lớn
đến việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của chủ thể giám sát chịu sự giám sát của
đối tượng giám sát. Xác định rõ tâm lý của chủ thể giám sát sẽ giúp cho việc
thực hiện giám sát của chủ thể giám sát được chủ động, có kết quả, hạn chế
được các biểu hiện lệch lạc tác động đến chủ thể giám sát khi thực thi nhiệm vụ
được giao; giúp cho đối tượng giám sát chấp hành nghiêm chỉnh khi được giám
sát, ngăn ngừa các biểu hiện lệch lạc của đối tượng giám sát khi được giám sát,
từ đó cộng tác, tạo điều kiện thuận lợi, không gây khó khăn, trở ngại cho việc
thực hiện nhiệm vụ giám sát của chủ thể giám sát.
Chủ thể giám sát là tổ chức đảng cấp trên, nhưng cán bộ tham gia giám sát
khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công nhiều khi lại có chức vụ thấp
hơn đối tượng giám sát, nên thường có tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm vì
nhiều nguyên nhân. Nếu chủ thể giám sát không có bản lĩnh, không nêu cao ý
thức tự phê bình (với chính mình) và phê bình với đối tượng giám sát thì sẽ rất
khó trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát được giao, ảnh hưởng đến kết quả
giám sát. Nếu chủ thể giám sát có thái độ không đúng, không có tác phong,
phong cách công tác giản dị, gần gũi, sâu sát, không công tâm, trung thực,
không thận trọng, bình tĩnh, lối sống không lành mạnh, trong sáng thì khó thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao; hoặc tính tình nóng nẩy, phong cách ứng xử thiếu
linh hoạt, máy móc, cứng nhắc sẽ dễ bị đối tượng giám sát cho là kiêu ngạo,
hách dịch, thiếu tôn trọng, hiểu không đúng chủ thể giám sát... Vì vậy, uỷ ban
kiểm tra phải thường xuyên giáo dục cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát phải
31
thường xuyên trau dồi phẩm chất, đạo đức cách mạng, rèn luyện bản lĩnh, lối
sống, tác phong công tác phù hợp, xác định rõ trách nhiệm của mình để thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao. Trước khi tiến hành giám sát, chủ thể giám sát phải
nắm vững đối tượng giám sát để làm công tác tư tưởng cho cả bản thân, cả đối
tượng giám sát, chủ động có hình thức, phương pháp, biện pháp giám sát phù
hợp, thể hiện rõ bản lĩnh, chính khí trong quá trình giám sát, không bị động,
thiếu tự tin trước đối tượng giám sát.
Nếu đối tượng giám sát có nhận thức không đúng về công tác giám sát,
thường có biểu hiện tâm lý sợ bị mất uy tín, sợ bị đưa ra công khai về thiếu sót,
khuyết điểm hoặc vi phạm của mình,...nên không muốn cộng tác, thậm chí gây
khó khăn, trở ngại cho việc giám sát của chủ thể giám sát. Vì vậy, trước khi tiến
hành giám sát, chủ thể giám sát phải nắm vững tâm lý của đối tượng giám sát
trong từng vụ việc, từng trường hợp giám sát cụ thể để có biện pháp động viên,
thuyết phục đối tượng giám sát có nhận thức đúng và tạo điều kiện thuận lợi cho
chủ thể giám sát thực hiện tốt nhiệm vụ. Việc nắm bắt tâm lý đối tượng giám sát
chính xác, động viên, thuyết phục có kết quả tuỳ thuộc vào khả năng, kinh
nghiệm của chủ thể giám sát, đòi hỏi chủ thể giám sát phải thường xuyên học
tập, đúc rút kinh nghiệm trong thực tế để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong
mọi tình huống.
5.2.4. Xây dựng quy chế và sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên
quan:
- Việc thực hiện sự phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng,
đơn vị có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ giám sát của Đảng:
+ Trong điều kiện Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, việc uỷ ban kiểm
tra các cấp thực hiện sự phối hợp với các tổ chức đảng có liên quan trong thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng là yêu cầu không thể xem nhẹ.
Vì vậy, cần thực hiện tốt Quyết định 129-QĐ/TW ngày 24/01/2008 của Ban Bí
thư Trung ương và quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trong
từng nhiệm kỳ. Uỷ ban kiểm tra các cấp tham mưu giúp ban thường vụ cấp uỷ
ban hành quy chế phối hợp và chủ trì, tổ chức thực hiện quy chế phối hợp giữa
32
uỷ ban kiểm tra các cấp với các tổ chức, cơ quan, ban ngành cùng cấp có liên
quan như: Ban tổ chức, thanh tra nhà nước, công an, quân sự, kiểm sát, toà án,
văn phòng cấp uỷ,….
Quy chế phối hợp phải quy định rõ phạm vi, nguyên tắc, nội dung, trách
nhiệm và phương pháp phối hợp theo quy định của Điều lệ Đảng. Trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan mà xác định việc phối hợp
nhằm đảm bảo việc tham mưu giúp ban chấp hành, ban thường vụ cấp uỷ lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng
nói chung và công tác giám sát nói riêng.
Về phạm vi phối hợp: Uỷ ban kiểm tra các cấp phối hợp với tổ chức đảng
liên quan trong việc thực hiện công tác giám sát của Đảng; tham mưu giúp ban
chấp hành mà trực tiếp và thường xuyên là ban thường vụ cấp uỷ cùng cấp chỉ
đạo, hướng dẫn giám sát việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, chấp hành Điều lệ
Đảng và thực hiện nhiệm vụ do cấp uỷ giao theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mỗi cơ quan, đơn vị.
Nguyên tắc phối hợp: Phải căn cứ vào Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đảm bảo sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất của các cấp uỷ đảng; việc phối hợp dựa trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, nhằm tham mưu giúp ban chấp hành, ban
thường vụ cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị,
công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác giám sát nói riêng; quá trình phối
hợp phải thống nhất tư tưởng hợp tác và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau cùng
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Những văn bản tài liệu trao đổi về nội dung trong quá
trình phối hợp phải được quản lý theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
Nội dung phối hợp: Bao gồm việc trao đổi thông tin về những nội dung liên
quan đến công tác giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên và nhiệm vụ liên
quan đến cán bộ lãnh đạo quản lý trong chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
33
Đảng và pháp luật của Nhà nước; nghiên cứu, tham mưu giúp ban chấp hành,
ban thường vụ về những nội dung liên quan đến công tác giám sát; Phối hợp
trong việc thực hiện nhiệm vụ do cấp uỷ giao liên quan đến công tác giám sát;
Phối hợp trong việc tham mưu giúp ban thường vụ cấp uỷ quyết định những vấn
đề về xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của địa
phương, đơn vị mình.
Trách nhiệm phối hợp:
Đối với uỷ ban kiểm tra các cấp: Khi tiến hành công tác giám sát theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc do ban thường vụ cấp uỷ giao, nếu có vấn đề
liên quan đến tổ chức đảng cùng phối hợp thì gửi văn bản đề nghị phối hợp thực
hiện; chủ trì, phối hợp với tổ chức đảng có tên trong quy chế phối hợp cùng thực
hiện các nội dung có liên quan trong quá trình giám sát theo kế hoạch hoặc do
cấp uỷ giao; Uỷ ban kiểm tra thông báo bằng văn bản đến đơn vị phối hợp về
tình hình thực hiện nhiệm vụ giám sát có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của đơn vị cùng phối hợp; thực hiện việc trao đổi về tổ chức bộ máy
và công tác cán bộ của đơn vị cùng phối hợp trước khi thống nhất với ban tổ
chức trình ban thường vụ cấp uỷ xem xét quyết định.
Đối với tổ chức cùng phối hợp: Khi thực hiện nhiệm vụ theo chức năng
được giao nếu có đơn thư tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng thì gửi đến uỷ ban kiểm
tra cùng cấp để giải quyết theo quy định của Điều lệ Đảng; khi thực hiện công
tác giám sát theo chức năng và quyền hạn, hoặc nhiệm vụ do cấp uỷ giao về
giám sát, nếu có yêu cầu cần phối hợp thực hiện thì gửi văn bản đề nghị uỷ ban
kiểm tra cùng cấp phối hợp thực hiện; khi ban hành các văn bản như nghị quyết,
chỉ thị, quy định, báo cáo thường kỳ và đột xuất gửi ban thường vụ cấp uỷ thì
đồng thời gửi uỷ ban kiểm tra cùng cấp; các kỳ họp có liên quan đến công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng thì gửi giấy mời hoặc thông báo cho
uỷ ban kiểm tra cùng cấp cử thành viên uỷ ban hoặc cán bộ theo dõi tới dự để
thực hiện chức năng giám sát.
Phương pháp phối hợp: Để thực hiện phối hợp, cơ quan yêu cầu phải chủ
động gửi văn bản đến cơ quan được đề nghị cử cán bộ tham gia thực hiện;
34
những văn bản cần trao đổi, tham gia ý kiến phải gửi trước 10 ngày để cơ quan
tham gia ý kiến có thời gian nghiên cứu nội dung và chuẩn bị; hai cơ quan chủ
động trao đổi, cung cấp thông tin bằng văn bản, tài liệu về những vấn đề có liên
quan đến công tác giám sát. Đối với những nội dung quan trọng cần phải họp để
trao đổi, thống nhất thì cơ quan nêu vấn đề chủ trì tổ chức họp đại diện lãnh đạo
hai cơ quan trước khi quyết định theo thẩm quyền của mỗi cơ quan hoặc trình
ban thường vụ cấp uỷ quyết định.
+ Để thực hiện quy chế phối hợp, mỗi cơ quan phân công đồng chí cấp phó
thường trực chỉ đạo trực tiếp việc phối hợp, thường xuyên giữ mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Uỷ ban kiểm tra các cấp chủ trì việc tổ chức họp, trao đổi rút kinh
nghiệm và bàn biện pháp tiếp tục thực hiện quy chế phối hợp theo định kỳ 6
tháng và hằng năm. Thực hiện việc sơ kết hằng năm và giữa nhiệm kỳ, tổng kết
thực hiện quy chế trong nhiệm kỳ, từ đó bổ khuyết các nội dung còn thiếu,
những vấn đề chưa hoàn chỉnh và đề ra những giải pháp hữu hiệu trong phối hợp
thực hiện nhiệm vụ giám sát của Đảng.
- Duy trì mối quan hệ thường xuyên giữa cấp ủy đảng nơi đảng viên công
tác và nơi cư trú:
Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên làm việc trong các cơ quan của
Đảng và Nhà nước không chú ý rèn luyện tư cách công dân, ít quan hệ với cộng
đồng nơi cư trú, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý ít tham gia sinh hoạt với
dân phố, làng xóm, thiếu tôn trọng sự giám sát, kiểm tra của nhân dân, thậm trí
có biểu hiện xem thường tổ chức đảng và chính quyền nơi cư trú, bản thân và
gia đình thiếu gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Vì vậy, việc duy trì mối
quan hệ thường xuyên giữa cấp ủy đảng nơi đảng viên công tác và nơi cư trú
trong việc quản lý, giáo dục đảng viên theo Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính
trị là một chủ trương đúng đắn và là hình thức nhằm tăng cường quản lý đảng
viên trong tình hình mới, là điều kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động
và các quan hệ xã hội của đảng viên, đóng góp ý kiến xây dựng cho đội ngũ
đảng viên đang công tác nói riêng và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, qua
đó giúp đảng viên rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống. Đây cũng là
35
cơ hội thuận lợi để cấp ủy nơi cư trú động viên, khai thác khả năng và kinh
nghiệm lãnh đạo, quản lý về nhiều lĩnh vực của đảng viên đương chức vào việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Mặt khác, hiện nay tham nhũng, tiêu cực
không những xảy ra ở nơi công tác mà nhiều vụ xảy ra tại nơi cư trú, đảng viên
và quần chúng nơi cư trú là những người nắm rõ hơn ai hết. Như vậy, không
những đảng viên đương chức phải giữ mối liên hệ chặt chẽ với cấp uỷ nơi cư trú
mà cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ nơi đảng viên công tác và cấp uỷ
nơi cư trú trong việc giáo dục, quản lý, giám sát đảng viên.
Đối với cấp uỷ nơi đảng viên cư trú, thực hiện phân công cấp uỷ viên, hoặc
cán bộ văn phòng cấp uỷ lập sổ theo dõi tình hình đảng viên được giới thiệu về
sinh hoạt tại địa phương đồng thời giới thiệu đảng viên trực tiếp sinh hoạt ở các
chi bộ tổ phố, thôn xóm nơi đảng viên đang cư trú. Tổ chức sinh hoạt định kỳ
đều đặn 6 tháng và cuối năm gắn với sơ kết và tổng kết năm, qua đó thông báo
cho đảng viên sinh hoạt theo quy định 76 nắm được tình hình kinh tế, chính trị -
xã hội, công tác xây dựng đảng… của địa phương, đồng thời tranh thủ được trí
tuệ của cán bộ “đảng viên 76” về những vấn đề địa phương quan tâm. Mặt khác
cũng nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời những đảng viên và gia đình chưa nghiêm
túc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và các quy định của địa phương.
Cấp uỷ nơi đảng viên công tác cần nắm chi tiết, cụ thể số đảng viên đã
được giới thiệu về cấp uỷ địa phương nơi cư trú theo Quy định 76. Thực hiện
phân công cấp uỷ viên theo dõi, định kỳ 3 tháng, 6 tháng và khi đột xuất trao đổi
với đại diện cấp uỷ nơi đảng viên cư trú để nắm tình hình đảng viên thực hiện
trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Thông qua kết quả nắm tình hình về đảng
viên của đơn vị mình chấp hành các quy định của địa phương nơi cư trú, về thực
hiện nghĩa vụ công dân, về chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước… làm cơ sở xem xét, đánh giá, phân loại đảng
viên hằng năm.
- Phát huy và đề cao trách nhiệm của các đoàn thể quần chúng trong việc
tham gia xây dựng Đảng và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên.
36
+ Đảng thông qua các đoàn thể quần chúng để đưa chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng vào công nhân, viên chức, lao động và động viên họ tích
cực tham gia thực hiện. Công đoàn thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai
trò trường học của mình, tham gia quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội, thuyết phục quần chúng phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công cuộc
xây dựng xã hội mới, thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Công đoàn là tổ
chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, là “chiếc cầu” và “sợi dây” liên
hệ nối liền Đảng với quần chúng. Công đoàn phát huy vai trò tham gia, kiểm tra,
giám sát hoạt động của Nhà nước, của cán bộ, đảng viên. Cùng với các đoàn thể
chính trị - xã hội khác, tổ chức Công đoàn phát huy tác dụng tích cực trong quá
trình xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững ổn định chính trị,
phát huy dân chủ, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
+ Đối với tổ chức Đoàn thanh niên: Quán triệt quan điểm: Xây dựng Đoàn
là góp phần xây dựng Đảng trước một bước, không ngừng xây dựng, củng cố tổ
chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và hành động, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, thực sự
là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên. Đặc biệt coi trọng nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Đoàn và chất lượng đội ngũ cán bộ, thường xuyên giới thiệu
cho Đảng những đoàn viên ưu tú có chất lượng, những cán bộ Đoàn tâm huyết,
có đạo đức và gắn bó với quần chúng, có trí tuệ và năng lực tổ chức hoạt động
thực tiễn, dám nghĩ, dám làm, chấp nhận những khó khăn để bổ sung nguồn sinh
lực mới cho Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước...
+ Đối với quần chúng nhân dân:
Nghị quyết Trung ương 5 Khoá X nêu: “ Kiểm tra phải dựa vào dân, chú
trọng vai trò giám sát của nhân dân” [18, tr 79]. Tại Đại hội XI của Đảng, Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: Đại hội X của Đảng đã xác định phải dồn
sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng;.. thực hiện tốt nguyên tắc “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”…, phải
37
được cụ thể hóa bằng việc khuyến khích nhân dân tham gia góp ý kiến về sự
lãnh đạo của chi bộ, về cán bộ, đảng viên, qua đó góp phần xây dựng sự đoàn
kết nhất trí trong Đảng. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn ở cơ sở nhân dân
đã thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát qua đó phát hiện những nhân tố mới tích
cực để giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng; mặt khác phát hiện đấu tranh với
những biểu hiện và hành động sai trái, vi phạm pháp luật góp phần làm trong
sạch Đảng. Đảng thực hiện việc lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng
góp ý kiến về việc bố trí đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo. Trước mắt, vận
động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải
quyết kịp thời những vướng mắc, bảo vệ quyền, lợi ích của nhân dân. Cần có cơ
chế để nhân dân có quyền và có nghĩa vụ xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị,
phải có cơ chế để nhân dân bày tỏ được khát vọng của mình. Đảng nắm bắt được
khát vọng đó và thể hiện nó trong đường lối, tư tưởng chỉ đạo của mình trong
các giai đoạn lịch sử tương ứng. Sự phù hợp giữa đường lối của Đảng với những
khát vọng của nhân dân là tiêu chí nói lên tính đúng đắn về đường lối chính trị
của Đảng trong giai đoạn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Đảng đã khẳng
định sự cần thiết phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; Đảng chịu sự giám
sát của nhân dân, phải hoàn thiện cơ chế để nhân dân giám sát và phản biện
công việc của Đảng; các cấp uỷ Đảng phải tin dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến của các tầng lớp nhân dân... Để nhân dân có thể giám sát, phản biện được
đối với mọi hoạt động của Đảng, Đảng cần có một thiết chế mở, công khai hóa,
minh bạch hóa mọi hoạt động của Đảng - từ hoạt động xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng, tổ chức đến công tác cán bộ. Đó là một nhu cầu đã chín muồi trong
thực tiễn cuộc sống ở nước ta hiện nay.
Trong điều kiện sự lãnh đạo của Đảng là độc tôn cũng có mặt trái là: Đảng
dễ quan liêu, xa rời nhân dân, chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, đặc quyền đặc lợi.
Đại hội XI nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng sinh hoạt dân chủ và nâng cao
chất lượng lãnh đạo tập thể phải tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối
với cá nhân, của tổ chức đối với cán bộ, đảng viên, của nhân dân đối với Đảng,
kể cả đối với những người lãnh đạo chủ chốt. Trong những năm qua, một mặt
38
thông qua các tổ chức quần chúng, tai mắt của nhân dân để phát hiện và đấu
tranh loại bỏ những tư tưởng và hành động sai trái, tệ quan liêu tham nhũng,
sách nhiễu nhân dân, chống phá cách mạng, phá hoại Đảng. Qua đó, từng bước
làm trong sạch Đảng , củng cổ niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Nhìn chung trong thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT để đảm bảo chất
lượng và hiệu quả phải có sự kết hợp và phối hợp. Kết hợp chặt chẽ giám sát của
UBKT với giám sát của cấp uỷ, các ban của cấp uỷ với giám sát của cơ quan nhà
nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế và nhân dân. Phối hợp chặt chẽ
công tác giám sát của UBKT với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của Nhà
nước, thanh tra nhân dân, của các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng cường phối
hợp giám sát giữa UBKT của cấp uỷ với các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là
đối với cơ quan thanh tra (kể cả thanh tra chuyên ngành), điều tra, truy tố, xét
xử,.. Việc kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước, các đoàn thể
chính trị - xã hội phải thông qua các quy định cụ thể của pháp luật, các quy định
của Đảng và giám sát của nhân dân thông qua quy chế dân chủ ở cơ sở và quy
chế nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng và đảng viên. Phối hợp và phát huy
tốt vai trò giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên thông qua việc thực hiện
phản biện xã hội và dư luận xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng.
Đồng thời phối hợp chặt chẽ công tác giám sát với công tác kiểm tra, nhất là
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng
viên,..để phục vụ công tác kiểm tra được chủ động, có chất lượng. Qua đó công
tác kiểm tra phục vụ trở lại cho việc thực hiện tốt công tác giám sát.
5.2.5. Công tác tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ:
- Xây dựng cơ quan giúp việc ủy ban kiểm tra cấp huyện và cấp tỉnh để
hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khoá X đã xác định: Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, các cấp uỷ thực hiện: “Xây dựng các quy định, quy chế để cụ thể hoá
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý, tôn
trọng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức, người đứng đầu tổ chức trong
39
công tác cán bộ; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện chiến lược
cán bộ, xem đây là một trong những trọng tâm lãnh đạo của Đảng hiện nay” [18,
tr 102]. Đây là một trong những chủ trương giải pháp quan trọng nhằm tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, trong đó tổ chức của UBKT các
cấp phải theo mô hình thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện các quy định, quy chế; xây dựng đội ngũ
cán bộ kiểm tra đủ về số lượng, vững mạnh về chất lượng, đáp ứng với yêu cầu
công tác kiểm tra, giám sát trong giai đoạn hiện nay.
Về tổ chức bộ máy của UBKT các huyện, thị, thành uỷ và các đảng uỷ trực
thuộc. Căn cứ Quy định số 222-QĐ/TW ngày 08/5/2009 của Ban Bí thư Trung
ương, UBKT Tỉnh uỷ thực hiện phối hợp chặt chẽ với ban thường vụ cấp uỷ về
việc thay đổi, bổ sung nhân sự và đề nghị ban thường vụ cấp uỷ chuẩn y kịp
thời, đáp ứng yêu cầu công tác của từng địa phương, đơn vị. Uỷ ban kiểm tra các
cấp phải chủ động trong việc phối hợp với ban tổ chức tham mưu giúp ban
thường vụ cấp uỷ về cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế của cơ quan ủy ban kiểm
tra đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của
từng đơn vị mình; trong đó cần hạn chế việc xáo trộn, thay đổi đội ngũ cán bộ.
Cơ quan ủy ban kiểm tra là bộ máy giúp việc cho ủy ban kiểm tra các cấp
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập thể điều hành
công tác và giải quyết mọi vấn đề về công tác nội bộ cơ quan. Mỗi cán bộ, công
nhân viên trong cơ quan đều chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của uỷ ban, chịu trách
nhiệm trước uỷ ban và cán bộ phụ trách về thực hiện nhiệm vụ được giao, đoàn
kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ và tích cực đóng góp xây dựng cơ quan.
Mọi hoạt động của cơ quan tham mưu, giúp việc phải tuân theo sự chỉ đạo tập
trung, thống nhất của thường trực uỷ ban. Các đơn vị trong cơ quan uỷ ban kiểm
tra phải chủ động phối hợp, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt động
của cơ quan uỷ ban kiểm tra phải tuân thủ theo đúng Quy chế làm việc của cấp
uỷ, Quy định về chế độ làm việc của cơ quan uỷ ban kiểm tra.
Hiện nay, các phòng chuyên môn Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ được
tổ chức theo mô hình hoạt động kết hợp giữa thực hiện toàn diện các nhiệm vụ
40
theo Điều 32 Điều lệ Đảng với theo dõi, phụ trách khu vực. Mô hình này có
nhiều ưu điểm và thuận lợi hơn, thực hiện toàn diện các lĩnh vực hoạt động,
không đùn đẩy trách nhiệm, tránh được chồng chéo và sót việc, phát huy được
năng lực toàn diện của cán bộ, có điều kiện nắm chắc được tình hình hoạt động
của cấp dưới, chỉ đạo sâu sát từng mặt công tác.v.v.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp
Trước yêu cầu đòi hỏi của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra vững
mạnh là nhiệm vụ mang tính cấp thiết và tính chiến lược của Ngành Kiểm tra
Đảng. Vì sự công bằng và lẽ phải, vì sự tiến bộ và trường tồn của Đảng. Đảng ta
xác định: Đội ngũ cán bộ kiểm tra là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quyết định
việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của uỷ ban kiểm tra các cấp, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ kiểm tra “vừa hồng vừa chuyên” là yêu cầu rất quan trọng không
những trong tình hình hiện nay mà cả lâu dài về sau. Vì vậy, Đại hội X của
Đảng yêu cầu: “Kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện
điều kiện, phương tiện làm việc của uỷ ban kiểm tra các cấp” [49, tr 84]. Đối với
cấp cơ sở, theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về công tác kiểm tra, giám
sát, thực hiện mô hình có cán bộ kiểm tra chuyên trách cho uỷ ban kiểm tra xã,
phường, thị trấn, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp có từ 300 đảng viên trở lên.
Tiến tới tăng cường số lượng thành viên uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Để đáp ứng việc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng
công tác cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp và cơ quan giúp việc cần thực hiện
tốt các nội dung sau:
+ Thứ nhất, cần tạo nguồn để xây dựng đội ngũ. Xuất phát từ thực trạng
của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra và đòi hỏi công việc thực tiễn. Xây
dựng nguồn cán bộ kiểm tra không nên chỉ giới hạn trong đội ngũ cán bộ công
tác đảng, không chỉ những người đã có kinh nghiệm thực tiễn, mà cần mở rộng
đối tượng đến đội ngũ sinh viên mới ra trường. Đây là lực lượng được đào tạo
chính quy và sự năng động của sức trẻ là nguồn lực quý để tuyển dụng công
chức dự bị cho ngành.
41
+ Thứ hai, Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đa ngành. Do nội dung công
tác và lĩnh vực thực thi về chuyên môn của Ngành kiểm tra rất đa dạng, liên
quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Để xem xét, kết luận vụ việc một
cách khách quan, chính xác, đòi hỏi người cán bộ kiểm tra phải có kiến thức
chuyên môn vững trong lĩnh vực kiểm tra đó. Muốn được như vậy, một mặt
người cán bộ kiểm tra phải được tập huấn kỹ theo từng chuyên đề, lĩnh vực; mặt
khác phải không ngừng tự nghiên cứu, tự học hỏi từng bước tích luỹ kinh
nghiệm và kiến thức cho mình, có như vậy mới tạo uy tín cá nhân và góp phần
tạo uy tín cho ngành kiểm tra của Đảng.
+ Thứ ba, Chuẩn hoá đội ngũ. Việc chuẩn hoá cán bộ kiểm tra phải được
tiến hành theo lộ trình hợp lý. Từ việc chuẩn hoá tiêu chuẩn, năng lực nghiệp vụ
chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp, trình độ chính trị và khả năng hoạt động
thực tiễn… Uỷ ban kiểm tra các cấp phải có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều
kiện cụ thể trong việc tiếp nhận và chuẩn hoá cán bộ như trình độ chuyên môn
phải đại học, lý luận chính trị trung, cao cấp, sử dụng thành thạo vi tính văn
phòng. Phải có kinh nghiệm thực tiễn, đã qua rèn luyện, đào tạo. Coi trọng việc
tuyển chọn cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ
kế cận.
Quán triệt tốt tinh thần không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm tra, theo lời dạy của Bác: “Cán bộ là cái gốc của công việc”, ủy ban kiểm
tra các cấp phải luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến
thức đội ngũ cán bộ kiểm tra. Uỷ ban kiểm tra cấp dưới phối hợp với ủy ban
kiểm tra cấp trên thực hiện tập huấn kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn theo định
kỳ hằng năm; phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh trong đào tạo cán bộ có trình độ đại học chuyên ngành về công tác kiểm
tra, giám sát; mở các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho
các địa phương, không ngừng nâng cao độ đồng đều về chất lượng, hiệu quả
công tác cho cán bộ kiểm tra ở tất cả các lĩnh vực; thường xuyên, tăng cường tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ kiểm tra
cấp cơ sở
42
+ Thứ tư, Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các
cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển cán bộ lãnh đạo uỷ ban
kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ kiểm tra. Nghiêm túc và khẩn trương triển khai thực hiện việc luân
chuyển cán bộ theo Thông báo kết luận số 312-TB/TW ngày 09/3/2011 của Ban
Bí thư, nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ về nhận thức và hành động
của các cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp và từng cán bộ, cụ thể:
Thực hiện việc luân chuyển một cách thận trọng, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa luân chuyển với ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn sâu. Coi
trọng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác và đảm bảo mục đích bồi dưỡng, rèn
luyện cán bộ; việc luân chuyển được thực hiện từ cấp trên xuống cấp dưới, từ
cấp dưới lên cấp trên và ngang cấp. Cán bộ luân chuyển được giữ chức vụ tương
đương hoặc cao hơn; cán bộ luân chuyển phải có đủ tiêu chuẩn, có triển vọng
phát triển, trong nguồn quy hoạch. Phải chấp hành nghiêm quyết định của tổ
chức đảng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Không thực hiện luân chuyển
những cán bộ bị kỷ luật, uy tín giảm sút, không đảm bảo tiêu chuẩn về phẩm
chất đạo đức và năng lực; khi thực hiện luân chuyển phải thực hiện đúng nguyên
tắc theo quy định và hướng dẫn của Trung ương. Chú ý làm tốt công tác tư
tưởng trước khi luân chuyển để cán bộ thông suốt và thống nhất về nhận thức để
tự giác, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ mới.
5.2.6. Đảm bảo điều kiện vật chất, trang bị, phương tiện làm việc:
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
“phát triển kinh tế tri thức” đồng thời “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm không ngừng nâng cao
Công nghệ thông tin không chỉ là một ngành công nghiệp mà còn là động
lực để phát triển các ngành khác và đem lại giá trị gia tăng và xã hội trí thức,
cũng như công cụ trong minh bạch hóa quản lý. Công nghệ thông tin không
những là công cụ then chốt cho sự phát triển con người và xã hội, mà còn là yếu
tố thúc đẩy sự thay đổi trong tư duy, trong cách mà con người quan hệ, giao tiếp
43
và về lâu dài sẽ là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng nền kinh tế dựa trên tri
thức và rộng hơn là xây dựng xã hội dựa trên tri thức.
Chúng ta biết rằng công cụ lao động là yếu tố quan trọng quyết định đến
năng suất lao động. Trong thời kỳ chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá X, khoá
XI. Việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng công tác là một giải pháp cần thiết.
Thực tế qua các giai đoạn phát triển của các chế độ xã hội chứng minh rằng
cũng những con người đó khi có công cụ, phương tiện làm việc mới, tiên tiến
năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu công tác
đòi hỏi ngày càng cao và khẩn trương trong gia đoạn hiện nay trong ngành kiểm
tra của Đảng các cấp uỷ cần:
Quan tâm đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện, điều
kiện làm việc đảm bảo cho hoạt động của uỷ ban kiểm tra các cấp. Trước mắt
mỗi cán bộ làm công tác kiểm tra được trang bị 01 bộ máy vi tính, có nối mạng
Internet phục vụ tra cứu văn bản và cập nhật thông tin, tiến tới trang bị máy tính
xách tay và máy ghi âm, mỗi phòng nghiệp vụ trang bị 01 máy in; đẩy mạnh
việc ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin gắn với đổi
mới hiện đại hoá các thiết bị, cơ sở vật chất đi đôi với cải cách thủ tục hành
chính và sửa đổi lề lối, tác phong làm việc, góp phần nâng cao hiệu quả công tác
giám sát. Tăng cường đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho việc nghiên cứu, dự
báo về công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu
để phục vụ tốt cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ các cấp.
5.2.7. Tăng cương công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm:
- Nhiệm vụ giám sát là nhiệm vụ mới, chính thức được quy định trong Điều
lệ Đảng khoá X, còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được làm rõ; nghiên cứu làm
rõ về lý luận, thực tiễn, qua đó đề xuất tổ chức đảng có thẩm quyền ban hành
quy chế giám sát, văn bản hướng dẫn, các chế tài có liên quan cho phù hợp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giám sát.
44
- Từ nhận thức công tác sơ kết, tổng kết nói chung và trong công tác giám
sát của Đảng nói riêng luôn bao hàm nhiều tác dụng và ý nghĩa. Một mặt nhằm
đánh giá về tốc độ khả năng và chất lượng của việc đưa nghị quyết, chỉ thị, chủ
trương, đường lối… của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước vào cuộc
sống; mặt khác đánh giá việc chấp hành của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, đồng
thời qua sơ kết, tổng kết thực hiện việc đánh giá về phương pháp và chất lượng
của tổ chức và cá nhân thực hiện công tác giám sát.
Để các nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, công tác kiểm tra,
giám sát gắn liền với việc sơ kết, tổng kết là tất yếu. Việc thành lập các đoàn
giám sát và Ban chỉ đạo của ban thường vụ cấp uỷ trong thời gian qua là để phát
huy hiệu quả của công tác này và trên thực tế đã có tác dụng rất thiết thực.
Thông qua sơ kết, tổng kết công tác giám sát, sẽ rút ra được những ưu điểm,
khuyết điểm và nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như đánh
giá khách quan và chính xác được tính hiệu quả của nghị quyết; từ đó đúc kết
được kinh nghiệm, bổ cứu kịp thời những mặt hạn chế, bảo đảm cho nghị quyết
của Đảng sát với cuộc sống hơn. Mặt khác, qua giám sát để có đầy đủ thông tin
để đánh giá về phong trào, về cán bộ, đảng viên chính xác hơn; khắc phục bệnh
thành tích, báo cáo sai sự thật, ngăn chặn có hiệu quả những đối tượng vi phạm
đường lối, chính sách, lợi dụng dân chủ làm ảnh hưởng uy tín cán bộ và tổn hại
đến tập thể. Cũng qua sơ kết, tổng kết về giám sát, những kết quả thu được sẽ là
căn cứ, làm cơ sở cho việc cân nhắc, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, đảng
viên theo phương châm “vừa có lý, vừa có tình”, thiết thực động viên được
phong trào. Để thực hiện tốt công tác này, yêu cầu uỷ ban kiểm tra các cấp chủ
động tham mưu, giúp cấp uỷ cấp mình thực hiện nhiệm vụ này.
6. Thời gian bắt đầu và kết thúc: Từ tháng 01/ 2011 đến tháng 6/2012
7. Kinh phí thực hiện: Tổng số 247.500.000 đồng