nghệ thuật bài chòi

154
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC “BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI” Báo cáo đề dẫn và các bản tham luận tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi” do UBND tỉnh Bình Định và Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóa Dân tộc VN phối hợp tổ chức từ ngày 10/09 đến 11/9/2013 tại TP Quy Nhơn tỉnh Bình Định. 1

Upload: longvanhien

Post on 24-Jun-2015

1.001 views

Category:

News & Politics


9 download

DESCRIPTION

Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi” do UBND tỉnh Bình Định và Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóa Dân tộc VN phối hợp tổ chức từ ngày 10/09 đến 11/9/2013 tại TP Quy Nhơn..

TRANSCRIPT

Page 1: Nghệ thuật bài chòi

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC

“BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI”

Báo cáo đề dẫn và các bản tham luận tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn và

phát huy nghệ thuật Bài chòi” do UBND tỉnh Bình Định và Trung tâm Nghiên

cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóa Dân tộc VN phối hợp tổ chức từ ngày 10/09

đến 11/9/2013 tại TP Quy Nhơn tỉnh Bình Định.

HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2013

1

Page 2: Nghệ thuật bài chòi

Báo cáo đề dẫn:

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI

HƯỚNG TỚI LÀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

CỦA NHÂN LOẠI

GS. Hoàng Chương

TGĐ Trung tâm NCBT&PHVHDT Việt Nam

Cách đây 4 năm, Bộ trưởng Văn hóa Thể thao Du lịch Hoàng Tuấn anh có đề nghị

chúng tôi với tư cách là cơ quan nghiên cứu bảo tồn và phát huy VHDT nên lấy ý kiến thăm

dò các địa phương có nghệ thuật Bài Chòi là có nên làm hồ sơ trình UNESCO công nhận Bài

Chòi miền Trung là không gian văn hóa phi vật thể của nhân loại không? và chúng tôi đã thực

hiện. Kết quả, các giám đốc Sở Văn hóa TTDL các tỉnh Nam Trung Bộ đều có công văn trả

lời thực chất đề nghị Bộ Văn hóa TTDL tiến hành lập hồ sơ về Bài Chòi trình Ủy ban

UNESCO xem xét.

Tiếp theo Bộ Văn hóa TTDL lại giao cho Trung tâm NCBT & PHVHDT VN thực hiện

dự án "Phục hồi nghệ thuật Bài Chòi trên miền Bắc từ năm 2010" và sang đầu năm 2011 Bộ

Văn hóa Thể thao Du lịch lại phối hợp với tỉnh Bình Định tổ chức liên hoan Bài Chòi lần thứ

nhất tại TP Quy Nhơn. Thứ Trưởng Bộ VHTTDL Lê Tiến Thọ và Phó Chủ tịch tỉnh Bình

Định Nguyễn Thị Thanh Bình làm đồng Trưởng ban và tôi là Phó trưởng ban Chỉ đạo cuộc

liên hoan này. Sang đầu năm 2012 Sở Văn hóa TTDL Bình Định lại phối hợp với Trung tâm

NCBT & PHVHDT Việt Nam tổ chức Hội Bài Chòi tại Hà Nội và cuối tháng 5/2013 cuộc thi

Tuồng và dân ca Kịch (chủ yếu là Bài Chòi) lại được tổ chức tại TP. Nam Kỳ - Quảng Nam.

Chưa kể NXB Âm nhạc - Bộ Văn Hóa cùng Sở Văn hóa Bình Định đã tổ chức thực hiện

thành công đĩa DVD về nghệ thuật Bài Chòi cổ do tôi làm cố vấn, một công trình rất có giá trị

đang phát hành cả nước trong năm 2012.

Như vậy, trong vòng 5 năm qua đã liên tiếp diễn ra những hoạt động Bài Chòi gần khắp

đất nước, khiến cho toàn xã hội dù bị cuốn hút vào cơn bão kinh tế và nghệ thuật giải trí cũng

phải quan tâm tới một bộ môn nghệ thuật dân gian đặc sắc ở miền duyên hải Nam Trung Bộ,

cũng giống như sự vực dậy phong trào đờn ca tài tử Nam Bộ và cả hai đều hướng tới mục tiêu

đề nghị UNESCO công nhận mình là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Nhân dây tôi còn muốn cung cấp thêm một số thông tin về hoạt động học thuật Bài

Chòi trong vài thập kỷ qua để những ai quan tâm tới bộ môn nghệ thuật này tham khảo.

2

Page 3: Nghệ thuật bài chòi

- Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tháng 4/1975 Đoàn ca kịch Bài

Chòi LK5 từ miền Bắc về Nam phục vụ đồng bào, rồi được Bộ Văn hóa giao cho tỉnh Thuận

Hải quản lý và đổi tên là Đoàn ca kịch Thuận Hải. Vì đây là đoàn Bài Chòi mạnh nhất lúc bấy

giờ nên đến cuối năm 1980 một hội thảo khoa học đầu tiên về nghệ thuật Bài Chòi được tiến

hành ở TP Phan Thiết. Tại hội thảo này vấn đề đặt ra là bảo tồn và phát triển Bài Chòi như thế

nào để Bài Chòi không mất bản sắc? và vì sao lại dặt đơn vị Bài Chòi chủ lực trên mảnh đất

không có Bài Chòi nên không phát triển nổi? Vậy có nên đưa nó trở về cái nôi của nó là Bình

Định không? Cũng vì Bộ Văn hóa đặt nhầm chỗ, trồng cây không đúng đất nên sau ba năm thì

Đoàn Ca kịch Thuận Hải dần dần tan rã, dù hai con chim đầu đàn của nó là Nguyễn Tường

Nhẫn và Lệ Thi đã kêu tới thiên đình cũng không sao cứu nguy được. Đây là tổn thất lớn của

ngành Bài Chòi, một đàn chim vỡ tổ, nhiều nghệ sĩ thất nghiệp, bỏ nghề, ngành Bài Chòi mất

một đơn vị chủ lực !

Đến tháng 10 năm 1987 (Từ 10 - 14) nhân liên hoan dân ca kịch tại Đà Nẵng, cũng có

một hội thảo về Bài Chòi, nhưng vì tổ chức thiếu khoa học mà hiệu ứng không cao. Đến tháng

9 năm 1990 cũng nhân liên hoan Tuồng và Ca kịch miền Trung lại có một cuộc tọa đàm về

Bài Chòi, nhưng cũng không bàn sâu được về bảo tồn và phát triển Bài Chòi trong xu thế đất

nước đang chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, Bài Chòi bắt đầu gặp khó khăn về khán giả.

Hội thảo lớn nhất về nghệ thuật Bài Chòi được tiến hành trong 2 ngày liền (từ 30 - 10 đến 1 -

11 năm 1990) ở TP Nha Trang do Viện Sân khấu Việt Nam tổ chức, Bộ Văn hóa Thông tin

chỉ đạo. Hội thảo này tập trung gần đủ mặt những nhà nghiên cứu và nghệ sĩ Bài Chòi tên tuổi

cả nước, bàn rất sâu, tranh luận rất quyết liệt về truyền thống và cách tân, nổi bật là hai ý kiến

đối trọng giữa nhà nghiên cứu Mịch Quang và NSND Lệ Thi. Ông Mịch Quang thì phản đối

việc dân ca hóa Bài Chòi và cho rằng nên giữ Bài Chòi cổ và lấy thể Hô là chính. Vì từ xưa

tới nay người ta nói “hô Bài Chòi” chứ không ai nói “hát Bài Chòi”. Ngược lại, NSND Lệ Thi

thì cho rằng Bài Chòi phải luôn luôn được gia tăng những làn điệu mới từ nguồn dân ca LK5

và lấy thể Hát làm chính. Ý kiến của NNC Mịch Quang được các nghệ sĩ gạo cội của Bài

Chòi Bình Định như Phan Ngạn, Nguyễn Kiểm đồng tình. Còn ý kiến của NSND Lê Thi thì

phù hợp với cách làm của một số đoàn đang tích cực cải tiến, tìm cách tiếp cận với đông đảo

khán giả trẻ. Vì vậy, mà có đoàn không gọi tên Đoàn Bài Chòi mà gọi là Đoàn dân ca Kịch,

hoặc Đoàn ca Kịch Bài Chòi. Từ cải tên đoàn đã phản ánh hướng đi của đơn vị nghệ thuật ấy,

tức là dân ca hóa nghệ thuật Bài Chòi, mà khi các làn điệu gốc của Bài Chòi bị biến dạng, bị

lấn át, kể cả cách hô, hát thì tất nhiên màu sắc, căn cước của Bài Chòi bị mờ đi, và như vậy thì

gọi đoàn dân ca kịch là đúng, tức là dân ca hóa, hoặc kịch nói pha Bài Chòi. Như chúng ta

biết, nghệ thuật Bài Chòi đã ra đời từ mấy trăm năm trước và đã phát triển trong vòng 100

năm, tương ứng với nghệ thuật cải lương. Cải lương cũng từ nói thơ, rồi nhập vào đờn ca tài

tử, rồi học hát bội mà ca ra bộ lấy bài Dạ cổ Hoài lang của Cao Văn Lầu làm cơ sở để phát

triển thành bộ môn nghệ thuật cải lương theo phương châm: “Cải cách hát ca theo tiến bộ/

Lương truyền tuồng tích sáng văn minh”, tức là cải cách không bờ bến, không bị ràng buộc

trong quy tắc, nghiêm ngặc như Tuồng. Bài Chòi thi từ trò đánh Bài Chòi tiến lên hội Bài

Chòi, bài chòi chiếu, bài chòi ghế, rồi từ đất lên giàn và cuối cùng là Bài chòi chuyên nghiệp

3

Page 4: Nghệ thuật bài chòi

mà tiêu biểu là Đoàn Bài chòi LK5 được thành lập tại Hà Nội năm 1957, cũng là năm vở

Thoại Khanh - Châu Tuấn ra đời và giành được giải cao tại Hội diễn sân khấu toàn quốc cùng

năm ấy.

Vậy cái gì đã làm nên một vở ca kịch Bài chòi hiện đại đậm bản sắc dân tộc, rất Bài

chòi để cả giới sân khấu và toàn dân công nhận nó? Bởi trước đó giới sân khấu không công

nhận Bài Chòi là một kịch chủng dân tộc. Có người nói: đây là “nghệ thuật bài bạc”, cũng có

nói nói “Bài chòi cải lương LK5”.

Trước hết phải nói là Kịch bản văn học. Kịch bản Thoại Khanh - Châu Tuấn của

Nguyễn Tường Nhẫn đã dựa theo câu chuyện dân gian cùng tên chuyển sang ca kịch Bài chòi.

Ông là một nghệ sĩ có nghề đã từng là diễn viên Tuồng, đồng thời đã từng viết nhiều vở Bài

chòi thời chống Pháp. Cái vốn nghề Tuồng và Bài Chòi cùng với kinh nghiệm từ thực tế hoạt

động phong trào nên Nguyễn Tường Nhẫn đã viết được một vở Bài chòi khá tốt, nhất là văn

thơ đậm chất dân gian, trữ tình sâu lắng. Nhưng nếu không có những cộng sự tài năng như

Khánh Cao, Lệ Thi, Hoàng Lê, Văn Cận, Nguyễn Cung Nghinh ... thì không thể có được một

Thoại Khanh - Châu Tuấn như hôm nay để chúng ta được chiêm ngưỡng, được kế thừa, và

phát huy trong những sáng tạo nghệ thuật của mình.

Nói về âm nhạc về ca hát thì, trong vở Thoại Khanh - Châu Tuấn không chỉ có những

làn điệu như ta thấy ở Hội Bài chòi hoặc ở sân khấu Bài chòi chiếu trước đây như Xuân nữ,

Xàng Xê, Cổ Bàn, Hồ Quảng, hát Nam mà còn có nhiều bàn bản khác như: Dạ đơn hành,

Tình duyên cung oán, Trách hoa, Hò Quảng, Lý thương nhau và có cả ngâm thơ cổ nữa.

Nhưng có điều là những bài bản mới ấy rất ăn khớp với các làn điệu chính của Bài

chòi, khán giả vẫn có cảm giác là đang nghe hát Bài chòi. Ví dụ từ điệu nói lối của của hai vợ

chồng Thoại Khanh - Châu Tuấn chuyển sang hát điệu Xuân nữ rồi chuyển sang điệu Hò

Quảng rồi lại nối tiếp điệu Lý thương nhau mà nghe rất ngọt, rất Bài chòi.

Thoại Khanh: Nói lối:

Đây là tiền bán củi lâu nay em dành dụm

Để cho chàng lộ phí xuống trường an.

Anh ra đi giong ruổi bước dặm đàng.

Em ở lại vượt ngàn cơn cay đắng.

Nơi trường ốc may ra chàng chiếm bảng

(thì ...) cũng đừng quên người tri kỷ chốn lều tranh.

Đừng vì mùi chung đỉnh bả lợi danh.

Mà phụ phàng cảnh hàn vi nơi thôn dã.

4

Page 5: Nghệ thuật bài chòi

Em sẽ giữ trọn tấm lòng vàng đá

Cho đến ngày anh quay gót trở về ...

(chuyển sang hát Bài chòi Xuân nữ). Gió trăng lưng túi đề huề,

Đưa chàng đôi bước lòng se bên lòng.

Xa chàng, em chỉ cầu mong,

Chàng đi đến chốn thành công khi về.

Chàng đi hãy giữ lấy tình quê

Vinh hoa phú quý chớ hề say xưa.

Lều tranh chung sống từ xưa,

Mẹ già tựa cửa sớm trưa đợi chờ.

Bà mẹ ra hát Hò Quảng:

Mấy lời mẹ dặn con thơ,

Chữ tình chữ ngãi con lo cho tròn ...

Con đừng bận bựu vấn vương.

Bước đi còn lắm dặm đường còn xa.

Thoại Khanh (chuyển sang hát Lý thương nhau)

Đưa anh ngàn dặm, dặm ngàn

Dặn anh tròn vẹn đá vàng trăm năm.

Ta thấy từ nói lối, chuyển sang điệu Xuân nữ, rồi tiếp là Hò Quảng và kết đoạn là điệu

Lý thương nhau nghe rất vào, rất ngọt, không ai không công nhận là không Bài chòi ?

Như vậy ca nhạc Bài chòi dù phát triển tới đâu nhưng nếu biết giữ cái gốc, giữ bản sắc,

giữ căn cước của nó thì vẫn là Bài chòi. Giống như người trồng hoa, phải ghép hoa trên các

gốc của một cây hoa cổ thụ, thì dù bông hoa có khác màu sắc, nhưng vẫn là loại hoa mang tên

chính của nó.

Như vậy, khuynh hướng nghệ thuật này không thể dùng cách Hô trong bài chòi cổ

được mà phải hát theo trường phái của NSND Lệ Thi. Nhưng khi chúng ta hướng mục tiêu

của Bài chòi tới UNSECO thì phải thực hiện theo các tiêu chí nghiêm ngặt của UNSECO mà

họ đặt ra như các loại hình nghệ thuật khác đã thực hiện và đã thành công, như: Quan họ, Ca

trù, Hát xoan, và sắp tới là Ví dặm Nghệ Tĩnh, Đờn ca tài tử. Như vậy Bài Chòi phải trở lại

5

Page 6: Nghệ thuật bài chòi

với cái gốc của nó tức là hình thức Hội Đánh Bài chòi, hoặc Bài chòi chiếu ... như chúng ta

thấy nó đang tồn tại ở vùng đất miền Trung mà đặc biệt là ở Bình Định. Dĩ nhiên Bình Định

cũng như một số địa phương khác từ Quảng Nam đến Khánh Hòa đang tích cực bảo tồn và

phát triển nghệ thuật Bài Chòi và các hình thức biểu diễn dân gian khác chưa bị cải biên và lai

tạp còn phát triển thì như một số đoàn đã thực hiện thành công một số vở diễn để phục vụ cho

đại đa số khán giả trong và ngoài nước. Như vậy, Bài chòi một lúc phải đi hai chân, phải làm

hai hướng: Bảo tồn nguyên gốc và phát triển như vở “Thoại Khanh - Châu Tuấn” của Đoàn

Ca kịch Bài chòi Liên khu V cách đây 56 năm và vở “Khúc Ca bi tráng” của Đoàn Bài chòi

Bình Định hôm nay. Cả hai tác phẩm đỉnh cao này như một biểu trưng, một điển hỉnh của sự

thành công trong quá trình bảo tồn và phát triển nghệ thuật Bài chòi từ dân gian lên chuyên

nghiệp mà UNSECO có thể tham khảo để công nhận Bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể

của nhân loại .

Nhân đây cũng xin nhắc lại, tại Hội thảo Bài chòi năm 1990 ở TP Nha Trang, trong kết

luận của Thứ trưởng Bộ Văn hóa thông tin - GS Đình Quang có đề nghị thành lập một Trung

tâm nghiên cứu, bảo tồn miền Trung do các tỉnh có Bài chòi đóng góp nhân sự và ngân sách.

Trung tâm này nên đặt ở một vị trí trung tâm ở miền Trung, nơi có phong trào Bài chòi mạnh,

Bộ Văn hóa sẽ hỗ trợ một phần ngân sách. Như vậy đây cũng là một đề tài quan trọng mà ở

hội thảo này nên quan tâm bàn bạc. Tất cả vì mục đích bảo tồn phát huy và phát triển bộ môn

nghệ thuật bài chòi lâu dài và trước mắt là hướng tới làm hồ sơ trình UNESCO công nhận Bài

chòi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

PHÁT BIỂU CỦA Đ/C MAI THANH THẮNG - ỦY VIÊN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY, PHÓ CHỦ TỊCH

UBND TỈNH BÌNH ĐỊNH

Kính thưa quý vị đại biểu,

Trong không khí vui tươi phấn khởi giữa những ngày thu lịch sử cùng cả nước chào mừng kỷ niệm 68 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, hôm nay, tại thành phố biển Quy Nhơn, UBND tỉnh Bình Định phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc tổ chức Hội thảo khoa học “Nghệ thuật Bài chòi”. Thay mặt Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định, tôi nhiệt liệt chào mừng toàn thể quý vị đại biểu, đại diện các đoàn nghệ thuật Bài chòi, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ từ thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Định và nhiều địa phương khác trong cả nước về tham dự Hội thảo khoa học này.

Kính thưa các đồng chí và các bạn,

Bài chòi là loại hình nghệ thuật dân gian, hình thành và phát triển trong quá trình lao động sản xuất, giao lưu văn hóa của người Việt khi vào định cư, khai phá vùng đất Đàng

6

Page 7: Nghệ thuật bài chòi

Trong từ cách đây nhiều thế kỷ. Các làn điệu, lời ca bình dị, ngọt ngào của Bài chòi đã đi vào lòng người và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân ở khu vực miền Trung nói chung và vùng Nam Trung bộ nói riêng. Qua quá trình hình thành và phát triển, nghệ thuật Bài chòi đã tiến triển dần và được trình diễn dưới nhiều hình thức như: hô bài chòi, hội đánh bài chòi, sân khấu ca kịch bài chòi… Tuy là bộ môn nghệ thuật non trẻ nhưng nghệ thuật Bài chòi đã có những đóng góp tích cực cho nghệ thuật sân khấu nói riêng và kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nghệ thuật Bài chòi đã theo sát cuộc sống kháng chiến, phục vụ đắc lực công cuộc đấu tranh cách mạng, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Bình Định là một trong những cái nôi của nghệ thuật Bài chòi, là nơi còn lưu giữ được nhiều làn điệu Bài chòi cổ. Trên mảnh đất này, từ tâm hồn mỗi người dân, mỗi làng quê, thôn xóm đâu đâu cũng vang lên những âm điệu Bài chòi mượt mà, sâu lắng. Thời gian qua, lãnh đạo tỉnh Bình Định luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi trong việc bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật đặc sắc này, đồng thời làm cho các giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của quê hương luôn được kế thừa và phát huy. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có một đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp là Đoàn Ca kịch Bài chòi và một Đoàn Bài chòi cổ dân gian ngoài công lập thường xuyên tổ chức biểu diễn phục vụ nhân dân. Nhiều vở diễn đã được Đoàn Ca kịch Bài chòi đầu tư dàn dựng với đề tài phong phú, nội dung hấp dẫn, gặt hái được nhiều thành tích cao tại các kỳ Hội thi, Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc. Những năm gần đây, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phục hồi Hội Bài chòi cổ dân gian và tập huấn nhân rộng lực lượng diễn viên, hình thành các Câu lạc bộ Bài chòi ở nhiều địa phương trong tỉnh thường xuyên tổ chức trình diễn vào các dịp lễ, tết, hội dân gian truyền thống, được đông đảo nhân dân, du khách trong và ngoài nước ủng hộ, hưởng ứng tham gia. Đến nay trong toàn tỉnh Bình Định có 01 nghệ sĩ nhân dân, 06 nghệ sĩ ưu tú ở bộ môn nghệ thuật này.

Kính thưa quý vị đại biểu,

Việc tổ chức Hội thảo khoa học Nghệ thuật Bài chòi lần này có ý nghĩa nhằm nghiên cứu, tổng kết một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Bài Chòi, con đường từ Bài Chòi dân gian đến Bài Chòi sân khấu chuyên nghiệp, rút ra các bài học trong công tác bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật Bài Chòi cho hôm nay và mai sau. Chúng ta tin tưởng rằng Hội thảo lần này sẽ đem lại kết quả như mong muốn, sẽ làm sáng tỏ nhiều vấn đề về quá trình hình thành và phát triển, cùng các đặc điểm, tính chất và giá trị độc đáo, nổi bật của nghệ thuật Bài Chòi, qua đó tạo tiền đề hướng tới lập hồ sơ khoa học di sản Bài Chòi trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong thời gian đến.

Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc đã quan tâm phối hợp tổ chức Hội thảo, xin thân ái cảm ơn và gửi lời chúc sức khỏe, đến quý vị đại biểu, đại diện các đơn vị nghệ thuật Bài chòi, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ có mặt trong buổi Hội thảo hôm nay. Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn./.

7

Page 8: Nghệ thuật bài chòi

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI TRONG ĐỜI SỐNG HÔM NAY

NSND Lê Tiến Thọ

Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam

Năm 1964 (13 tuổi), lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với nghệ thuật Bài chòi ở khu Văn

công Mai Dịch (Hà Nội) khi được xem vở diễn “Đội kịch chim chèo bẻo”. Tiếp đó là vở

“Thoại Khanh - Châu Tuấn”, và trong quá trình hoạt động nghề nghiệp gắn bó với nghệ thuật,

tôi được xem vở “Tiếng sấm Tây Nguyên” và biết tới Nghệ thuật Bài Chòi nhiều hơn qua một

số vở diễn trong các đợt Liên hoan Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc. Vì vậy cảm

nhận được những cái hay cái đẹp của nghệ thuật sân khấu Bài Chòi.

Bài chòi sinh ra ở vùng Nam Trung bộ là sản phẩm văn hoá quý giá, độc đáo của đất

nước. Nó giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Nam

Trung bộ. Tôi cũng như nhiều khán giả miền Bắc được biết tới nghệ thuật Bài Chòi và Bài

Chòi phát triển trên đất Bắc suốt quãng thời gian mấy chục năm là nhờ công lớn của những

nghệ sĩ ở miền Trung ra Bắc đã gìn giữ được loại hình nghệ thuật rất riêng này. Các nghệ sĩ,

nhạc sĩ, tác giả đã mở ra công lớn, mở rộng đề tài cho loại hình sân khấu ca kịch này. Tôi nghĩ

phải chăng vì sinh ra ở vùng đất đã có sự phát triển của sân khấu Tuồng mà Bài Chòi đã tiếp

thu từ tinh hoa ấy mà phát triển được và khẳng định được những nét độc đáo riêng, đặc trưng

riêng trong chiếc nôi của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Nó vừa có nét

độc đáo nghệ thuật của một miền văn hoá vùng duyên hải miền Nam Trung bộ, vừa có nét

chung của sân khấu dân tộc góp mặt vào sự phong phú và đa dạng của nền nghệ thuật sân

khấu nước nhà. Ngoài tiếp thu có chọn lọc những cấu trúc của sân khấu nói chung, nghệ thuật

Tuồng nói riêng, Dân ca Bài Chòi còn tiếp tục làm giàu hệ thống làn điệu của mình bằng các

8

Page 9: Nghệ thuật bài chòi

làn điệu dân ca trong khu vực và sáng tạo của các nhạc sĩ cùng các nghệ nhân, nghệ sĩ biểu

diễn.

Cái gốc của sân khấu Bài Chòi có hô Bài Chòi, ca Bài Chòi, tấu Bài Chòi và cuối cùng

là ca kịch Bài Chòi. Sân khấu Bài chòi có thể diễn các đề tài dân gian - lịch sử - thần thoại -

chuyện thời đại - chuyện trong nước và ngoài nước, nhưng phải nói bằng tiếng nói của chính

mình, nội dung phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và đạo đức con người Việt Nam, phải

tiếp nối những câu chuyện dân gian quen thuộc mà người dân lao động đã được thưởng thức

từ khi ngồi trên chín cái chòi cách đây hàng trăm năm mà phát triển lên thành sân khấu

chuyên nghiệp. Trong sân khấu Bài Chòi, tùy theo vở diễn đề tài cận đại hoặc hiện đại mà tác

giả chỉ sử dụng 5 làn điệu: Xuân nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hồ quảng và Nói lối.

Có thể nói, nghệ thuật Bài Chòi đã có một thời vàng son đóng góp vào công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Việc

được giới sân khấu chuyên nghiệp đánh giá “Thoại Khanh – Châu Tuấn” là vở diễn xuất sắc

tại hội diễn năm 1957 đã chứng tỏ sự phát triển vượt bậc, làm mốc cho sự hình thành kịch

chủng dân ca Bài Chòi, đưa Bài Chòi lên thành sân khấu chính quy hiện đại. Tiếp đó là vở

“Tiếng sấm Tây Nguyên” tham gia hội diễn năm 1962 đã gây tiếng vang lớn trong giới sân

khấu và được đánh giá cao với gần 20 huy chương vàng, bạc dành cho kịch bản, âm nhạc, mỹ

thuật và diễn viên… đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc thể hiện đề tài mới của

nghệ thuật Bài chòi. Phát huy những thành quả đạt được, các tác giả sân khấu Bài Chòi đã mở

ra nhiều đề tài khác nhau với một loạt các vở diễn như: “Trước giờ tạm biệt”, “Chống cưỡng

ép di cư”, “Anh Tâm trở về”, “Đường sống”, “Đội kịch chim chèo bẻo”, “Tầm vóc Đại

Hồng”, “Một mạng người”, “Bà đô đốc áo đỏ”, “Lưu Bình - Dương Lễ”, “Kiều - Từ Hải”,

“Vượt Chư Lây”, “Người con thứ”, “Muối Bok Hồ”, “Ba cha con” … góp phần không nhỏ

trong việc phục vụ sự nghiệp xây dựng XHCN trên miền Bắc. Sau ngày thống nhất đất nước,

các nghệ sĩ Bài Chòi trở về Nam phục vụ, miền Bắc không còn đoàn nghệ thuật Bài Chòi nữa.

Nhờ trưởng thành trên miền Bắc mà khi trở về Nam, nghệ thuật sân khấu Bài Chòi vẫn tiếp

tục phát triển, vẫn biểu diễn và tham gia đầy đủ các đợt hội diễn lớn. Năm 2010, Hội diễn Sân

khấu Tuồng và Dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc tổ chức tại TP Đà Nẵng đã thu hút được

3 đoàn Ca kịch Bài Chòi tham gia. Với sự tìm tòi và sáng tạo mới, vở diễn “Thời con gái đã

xa” của Đoàn Ca kịch Bài Chòi Bình Định đã đạt huy chương bạc. Năm 2011, tại TP Quy

Nhơn, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Bình Định đã tổ chức Liên

hoan sân khấu Dân ca kịch Bài Chòi chuyên nghiệp toàn quốc. Các đoàn ca kịch Bài Chòi

Quảng Nam, Bình Định và Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa đã mang đến những

9

Page 10: Nghệ thuật bài chòi

vở diễn đề tài truyền thống, lịch sử, huyền sử, dân gian hoặc hiện đại… tạo nên sắc màu dân

tộc đậm đà của mỗi địa phương, nhưng vẫn nổi bật được giá trị riêng của nghệ thuật Bài Chòi.

Đặc biệt, đầu xuân 2011, UBND tỉnh Bình Định và Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch

Bình Định đã phục dựng, phát triển Bài Chòi và đưa Hội đánh Bài Chòi cổ dân gian của Bình

Định giới thiệu với công chúng Thủ đô tại không gian sân khấu Nhà hát Kim Mã (Hà Nội) đã

tạo một không khí rất sôi nổi những ngày đầu xuân và giúp người dân nơi đây được hiểu

nhiều hơn về đánh Bài Chòi cổ và nghệ thuật Bài chòi.

Thông qua việc giới thiệu và quảng bá về Bài Chòi với hình thức diễn xướng dân gian

và biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, có thể thấy, Bình Định là địa phương còn gìn giữ và

phát triển được hội đánh Bài Chòi cổ tại các lễ hội lớn trên địa bàn tỉnh. Bắt nguồn từ trò chơi

dân gian do Đào Duy Từ truyền dạy từ thế kỷ XVII, từ đó, Bài Chòi phát triển thành hình

thức đánh Bài Chòi - Lễ hội Bài Chòi. Hình thức này ra đời đã hơn 100 năm duy trì mãi tới

hôm nay, trải qua nhiều giai đoạn từ đất lên giàn, từ độc diễn đến tập thể biểu diễn. Dần dần,

Bài Chòi đã phát triển đi lên thành một nghệ thuật quần chúng.

Từ những năm Bài Chòi mới ra đời cho đến nay, Bình Định hiện cũng là địa phương có

thế mạnh về phát triển sân khấu Bài Chòi. Nhiều năm qua, Đoàn Dân ca kịch Bài Chòi Bình

Định đã gìn giữ, kế thừa và phát huy nghệ thuật dân ca Bài Chòi - một di sản tinh thần của

cha ông, đã quyện chặt vào tâm thức dân gian của người Bình Định. Và trải qua những năm

tháng thăng trầm của lịch sử, nhưng được nhân dân nuôi dưỡng coi như món ăn tinh thần

không thể thiếu nên Bài Chòi vẫn âm thầm tồn tại trong nhân dân, trong làng xã.

Hiện nay, Bài Chòi cũng như các loại hình sân khấu dân tộc khác đang đứng trước thử

thách gay go về việc giữ gìn và phát triển trong cuộc sống hôm nay. Nếu trước cách mạng

(1945) cả vùng Nam Trung bộ đều có phong trào hát Bài Chòi thì nay chỉ còn 03 đoàn Bài

chòi chuyên nghiệp (Bình Định, Quảng Nam, Khánh Hòa). Tuy số lượng các đoàn ít ỏi nhưng

vừa qua, Bộ Văn hoá, Thể thao & Du lịch vẫn quyết tâm tổ chức Cuộc thi Nghệ thuật Sân

khấu Tuồng và Dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc năm 2013 nhằm duy trì và khôi phục

loại hình nghệ thuật truyền thống này. Đây là dịp để các đoàn Dân ca kịch Bài Chòi chuyên

nghiệp giới thiệu quảng bá tác phẩm, kết quả bảo tồn phát huy các giá trị nghệ thuật Bài Chòi

trong những năm qua. Đây cũng là dịp để tôn vinh những nghệ sỹ, diễn viên có tâm huyết với

nghệ thuật Bài Chòi truyền thống… Tham dự cuộc thi năm nay có 3 đơn vị Dân ca kịch Bài

Chòi chuyên nghiệp trong toàn quốc là Đoàn Ca kịch Quảng Nam, Đoàn Ca kịch Bài Chòi

Bình Định và Nhà hát nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa. Tại cuộc thi này, Đoàn Ca kịch

Bài Chòi Bình Định đã gặt hái được thành công lớn với huy chương vàng cho vở diễn “Khúc

ca bi tráng” (Tác giả kịch bản: Văn Trọng Hùng, Chuyển thể: Đoàn Thanh Tâm, Đạo diễn:

10

Page 11: Nghệ thuật bài chòi

NSND Hoài Huệ), một lần nữa đã khẳng định sức sống của nghệ thuật Bài Chòi cũng như sự

trưởng thành lớn mạnh và sự tìm tòi, sáng tạo trong việc bảo tồn và thúc đẩy nghệ thuật Bài

Chòi ở Bình Định phát triển trong giai đoạn mới. Điều này cũng là niềm vinh dự, tự hào cho

tỉnh Bình Định khẳng định thế mạnh của nghệ thuật Bài Chòi, đồng thời cũng là động lực cho

những người tâm huyết với nghệ thuật Bài Chòi làm hết sức mình trong sự nghiệp bảo tồn,

phát huy và phát triển nghệ thuật Bài Chòi theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 khóa

VIII là “xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

- Để bảo tồn và phát triển nghệ thuật Bài Chòi trong cuộc sống hôm nay mà vẫn giữ

được những giá trị nguyên gốc, theo tôi cần có những giải pháp sau:

Sức sống của ca kịch Bài Chòi đã được gieo mầm và trưởng thành từ trong kháng

chiến, đến nay cần phải có sự bảo tồn, phát huy và phát triển phù hợp đáp ứng đúng với yêu

cầu của thời đại, đúng với môn nghệ thuật này đúng tầm với những loại hình khấu dân tộc của

nước ta, đáp ứng được yêu cầu thưởng thức cũng như giá trị chân, thiện, mỹ của loại hình

nghệ thuật độc đáo trong đời sống hiện đại hôm nay.

Nghệ thuật sân khấu nói chung và nghệ thuật Bài Chòi nói riêng có vai trò to lớn trong

đời sống xã hội, đặc biệt là trong việc nâng cao nhận thức; phát triển và hoàn thiện nhân cách

con người. Các nghệ nhân, nghệ sĩ đã xây dựng nền nghệ thuật truyền thống độc đáo từ chính

cuộc sống lao động sản xuất và sản sinh những di sản nghệ thuật quý giá trong kho tàng sân

khấu cổ truyền với Tuồng, Chèo, Cải lương… và những làn điệu, lời ca mượt mà, thấm đẫm

giá trị đạo đức, nhân văn của con người Việt Nam qua từng thế hệ. Với người dân Việt Nam,

nền nghệ thuật sân khấu truyền thống là kho báu về di sản văn hóa phi vật thể, là tinh hoa

sáng tạo nghệ thuật của bao thế hệ tiền nhân, là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt. Việt

Nam đã có nhiều loại hình âm nhạc truyền thống được UNESCO công nhận và xếp hạng là di

sản văn hóa phi vật thể của thế giới.

Việc lập hồ sơ trình UNESCO xét duyệt và công nhận Bài Chòi là Di sản văn hóa phi

vật thể của nhân loại nhằm tôn vinh đúng giá trị đích thực về khoa học, lịch sử, văn hóa của di

sản và có kế hoạch bảo tồn, phát huy nghệ thuật Bài Chòi có tính khả thi nếu chúng ta biết

làm cho đúng, cho có sức thuyết phục trong quá trình hội nhập quốc tế là vô cùng cần thiết.

Bài Chòi là nghệ thuật dân gian mang hình thái riêng biệt nên từ kịch bản đến đạo diễn, diễn

xuất, âm nhạc và trang trí đều phải xuất phát từ quan điểm dân gian mà sáng tạo. Hiện nay, xu

hướng hiện đại hóa Bài Chòi (dân ca hóa Bài Chòi và đưa nhạc sáng tác quá nhiều vào sân

khấu Bài Chòi) đã dẫn tới hệ lụy mất bản sắc Bài Chòi dân gian truyền thống, cái mà chúng ta

cần bảo tồn, cần phát huy và cũng là mục tiêu chúng ta đang phấn đấu để UNESCO công

nhận Bài Chòi là di sản phi vật thể của nhân loại. Do đó, nếu xây dựng hồ sơ trình UNESCO

11

Page 12: Nghệ thuật bài chòi

xét duyệt thì phải giữ tư liệu gốc của Bài Chòi trên cả 2 phương diện là Lễ hội Bài Chòi và

nghệ thuật biểu diễn Bài Chòi chuyên nghiệp.

Mục đích của việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật Bài Chòi chính là mang đến cho

công chúng những giá trị thẩm mĩ, vì vậy, chúng ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để

giữ gìn vốn cổ, trong đó chú trọng:

+ Tổ chức đưa nghệ thuật sân khấu Bài Chòi vào chương trình sân khấu học đường.

+ Thường xuyên tổ chức Liên hoan Sân khấu Bài Chòi (những vở sáng tác mới; Liên hoan

những vở diễn có tính truyền thống của nghệ thuật Bài Chòi).

+ Tổ chức nhiều Hội thảo khoa học để tổng kết đánh giá, rút ra những kinh nghiệm

trong sự hình thành và phát triển của nghệ thuật Bài Chòi từ một loại hình diễn ca (khô Bài) trở

thành loại hình nghệ thuật Sân khấu tổng hợp.

+ Tổ chức tập huấn nâng cao trình độ biểu diễn cho các nghệ sĩ trẻ hàng năm.

Thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị “tiếp tục xây dựng và phát triển Văn học

nghệ thuật trong thời kỳ mới”, các thế hệ nghệ nhân, nghệ sĩ Sân khấu đã không ngừng sáng

tạo nhiều tác phẩm có chất lượng cao, góp phần đưa Nghệ thuật Sân khấu nói chung và nghệ

thuật sân khấu Bài Chòi nói riêng phát triển trong xu thế hội nhập và đáp ứng yêu cầu của thời

đại.

Ta có thể tin vào một chặng đường mới, cuộc hành trình - tiếp tục vươn lên, đứng vững

để bảo tồn một nghệ thuật đặc sắc của văn hóa dân tộc: nghệ thuật Bài Chòi, như đã từng tin

vào sức sống của sân khấu Bài Chòi hôm qua, hôm nay và mai sau./.

BÀI CHÒI-NGHỆ THUẬT HỒN NHIÊN

Nhà thơ Thanh Thảo

Nghệ thuật dân gian nào mà chả hồn nhiên, vì nó đều được thể hiện và đồng sáng tạo bởi những nghệ nhân dân gian, những người nông dân hồn nhiên từ bản chất, ngày xưa chỉ quen ở bên trong lũy tre làng. Nhưng có lẽ trong nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, thì bài chòi và hô bài chòi là nghệ thuật hồn nhiên bậc nhất. Vì sao như vậy ?

Bài chòi và hô bài chòi là một trò chơi, một trò chơi văn nghệ nhằm giúp gây hưng phấn, vui thú, giải tỏa cho cả người trực tiếp chơi lẫn người xem. Một trò chơi, thì trước hết nó phải mang những đặc tính của trò chơi, nghĩa là phải thật sự hồn nhiên, hài hước và vô vị lợi. Trò chơi bài chòi được tổ chức vào những ngày đầu Xuân nên lại càng phơi phới những tươi vui. Đó là trò chơi có thưởng, có dùng những quân bài, nhưng không phải là trò đánh bạc. Không có chuyện sát phạt, ăn thua nhau về tiền hay vật dụng thưởng qui ra tiền, mà ở đây, chơi là chính, vui là chính, thưởng thức nghệ thuật là chính, thông qua những điệu hô chòi trầm bổng, nhịp nhàng, du dương mà người lĩnh xướng có tên là anh hiệu thể hiện. Anh

12

Page 13: Nghệ thuật bài chòi

hiệu-nghệ sĩ ẩn danh-chính là nhân vật trung tâm của bài chòi. Đó là một nghệ sĩ dân gian diễn xướng những bài bản có sẵn lẫn những sáng tạo tức thời mang tính ngẫu hứng,những bài thơ ứng tác đậm dấu ấn cá nhân. Có thể nói, anh hiệu chính là một nhà thơ dân gian, một người ngày xưa ít nhiều có học trong làng, dù dở dang. Và nhất là có năng khiếu đặt vè, hát thơ, sáng tác và nhất là ứng tác rất linh hoạt những bài vè hay thơ lục bát, lục bát biến thể một cách trực tiếp, hài hước, tươi vui, nhuần nhị. Có thể ngày xưa mỗi tổng hay mỗi làng đều có những anh hiệu như thế, họ vừa là nghệ sĩ bình dân vừa là tinh hoa văn nghệ của làng. Tôi nghĩ, có thể họ cũng được miễn những công việc tạp dịch trong làng, nhất là những khi làng có việc. Vì việc lớn nhất của họ mỗi độ Xuân về là làm anh hiệu, là hô bài chòi, phục vụ dân làng và bá tánh. Thế cũng là đủ. Sự hồn nhiên của nghệ thuật bài chòi bắt đầu từ anh hiệu, còn sự hồn nhiên dí dỏm thông minh của anh hiệu lại bắt đầu từ nhân dân. Thế còn nghệ thuật bài chòi ở miền Trung Việt Nam, nó khởi lên từ hồi nào?

Nhà âm nhạc học người Pháp tên là G.L.Bouvier đã đến Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX để nghiên cứu về các thể loại âm nhạc ở nước ta, ông Bouvier cho rằng: "Bài Chòi được hình thành và phát triển sau những năm 1470 Nam tiến, người Việt ra sức khẩn hoang từ vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cho tới Bình Thuận, đặc biệt đã thành công trong việc xây dựng kinh tế, văn hóa và đời sống vùng châu thổ ở Bình Định và Phú Yên rất phì nhiêu. Trong số đó, có nhiều người từ nhiều địa phương có truyền thống văn hóa lâu đời, phong phú và đa dạng, có điều kiện kết hợp nhanh chóng với nền văn hóa dân gian của địa phương, một số làn điệu dân ca, Hò, Lý, Hò chèo thuyền, Hò giã gạo, Hò đi cấy... còn giữ được bản sắc ban đầu, đồng thời phát triển, sáng tạo ra các làn điệu mới." (Theo lời dẫn của nhạc sĩ La Nhiên trong "Quê hương điệu hát Bài Chòi, Sài Gòn" 1974. Dẫn lại theo nhà nghiên cứu Trần Hồng).

Như thế, nghệ thuật bài chòi có lẽ thịnh nhất ngay từ thời Trấn quốc công Bùi Tá Hán (nửa đầu thế kỷ 16) lãnh đạo người Việt cùng người bản địa khai phá và canh tân miền Trung. Nó có thể theo chân những binh lính và lưu dân người Việt vào lập nghiệp ở miền này, nhưng đối tượng phục vụ của nó gồm cả người dân Việt và người dân Chàm. Đây có thể coi là một hình thức nghệ thuật diễn xướng đậm chất Việt, nhưng được thử thách và tồn tại ở ngay mảnh đất mà ban đầu, nghệ thuật của người Chàm giữ vị trí quan trọng. Lý do để nghệ thuật bài chòi có được chỗ đứng vững vàng trong sinh hoạt cộng đồng Việt-Chàm nằm ở ngay tính hồn nhiên và dân chủ của nó. Sức lan tỏa và thuyết phục của nó ở chỗ nó không phân biệt, nó bình đẳng với mọi người chơi và mọi người nghe. Tuồng hát bội ban đầu chỉ biểu diễn ở cung đình hay ở các nhà quan lớn, dành cho những đối tượng người xem chọn lọc. Về sau mới hướng về phục vụ cả dân chúng. Còn bài chòi, ngay từ đầu đối tượng phục vụ của nó đã là lính, là dân, là bất cứ ai ham thích trò chơi này, không phân biệt. Với cư dân nông nghiệp Việt Nam, mùa xuân là mùa lễ hội, mùa của sự thăng hoa và tinh thần dân chủ. Đó cũng là mùa của bài chòi. Ta thử nghe một đoạn bài chòi xem nhé:

“ Chỗ này là chỗ vui chơiCó trống nẫu nhịp, có cây kèn nẫu thổi ò í e...Có rượu rồi lại có chèCô cứ gác chân tréo ngoảy ngồi nghe hô bài(...)Tôi bưng khay rượu nạm vàngChúc mừng năm mới an khang xóm làng...”

13

Page 14: Nghệ thuật bài chòi

Cô gái “gác chân tréo ngoảy”, cái động tác ấy mới hồn nhiên và dân chủ làm sao! Và cũng dễ thương biết chừng nào! Ngay tên những con bài cũng đã nói lên tính bình dân và dân chủ rất rõ. Như câu hô thai (hô đố) Nhứt Nọc này:

“Tay cầm sào chống lái

Mắt liếc bãi lều tranh

Ở đây đưa rước bộ hành

Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề

Trải qua bãi bạc gành nghê

Tứ mùa chèo chống đôi bề sóng xao

Thú vui ngang dọc một sào

Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu

Tiếng ai văng vẳng kêu đò

Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người.”

Người nghe tinh ý biết ngay câu thai (đố) ấy ứng với con bài Nhứt Nọc. Đúng là đố vui có thưởng! Nhưng trên đường giải đố, người nghe đã được hưởng trọn vẹn một đoạn hô chòi rất hay, nó là tâm sự của một anh chèo đò, mà cũng là những câu thơ sinh động vẽ nên cảnh sông nước ngày xưa.

Nghệ thuật bài chòi trên đường hoàn thiện mình đã thu hút vào nó những làn điệu dân ca, những điệu lý có nguồn gốc từ âm nhạc Chàm. Nhưng tiêu chí để thu hút của nó vẫn là sự hồn nhiên. Trong bài chòi, cho đến nay còn giữ một số làn điệu dân ca có bản sắc ban đầu, như các điệu lý, điệu hò: lý con sáo, lý ngựa ô, lý quét nhà... hò chèo thuyền, hò cấy lúa, hò giã gạo…Toàn là những điệu lý điệu hò mộc mạc đúng như tên gọi của chúng.

Cùng với sự hồn nhiên, điểm thu hút đặc biệt của bài chòi là tính hài hước. Cái này là “độc quyền” của các anh hiệu. Những anh hiệu nào càng có những câu hô thai hài hước, thậm chí có những câu thơ ứng tác chọc cười có duyên nhất là những anh hiệu “ăn khách” nhất, được bà con hưởng ứng nhiều nhất, ủng hộ nhiều nhất. Và những câu hô thai ấy, dù không được ghi ra giấy, vẫn lưu lại lâu bền trong trí nhớ của những người dân chơi hay nghe bài chòi. Ở đây có thể coi bài chòi là một dòng văn học dân gian truyền miệng, một kiểu “trình diễn thơ” độc đáo mà bây giờ khó có nhà thơ “mô-đéc” nào theo kịp trong khả năng thu hút công chúng.

Hồn nhiên và hài hước, đó không chỉ là bí quyết trường thọ của bài chòi, mà còn là bí quyết trường thọ của văn học, của thơ ca. Sự tương tác với công chúng ở bài chòi đã đạt tới đỉnh cao, và nó tạo ra một từ trường đồng sáng tạo mà văn học nghệ thuật hiện đại luôn ao ước.

Mãi mãi, bài chòi thuộc về nhân dân.

14

Page 15: Nghệ thuật bài chòi

HỘI ĐÁNH BÀI CHÒI

VÀ SÂN KHẤU BÀI CHÒI DÂN GIAN BÌNH ĐỊNH

Nguyễn An Pha

Tương truyền Hội đánh Bài Chòi dân gian Bình Định do Đào Duy Từ sáng tạo từ khi ông rời nhà Lê vào Nam theo chúa Nguyễn. Khi vào Nam ông chọn Bình Định là nơi dừng chân buổi đầu, trước khi Quận công Trần Đức Hòa tiến cử ông về kinh giúp Chúa Sãi nhưng chưa có tài liệu chính thức nào để lại. Chỉ biết rằng xưa kia Bình Định còn chịu ảnh hưởng của vùng biên viễn Việt – Chiêm, những vùng trung du nhân dân còn thưa thớt, nạn thú rừng phá hoại mùa màn xảy ra thường xuyên, nhân dân dựng những cái chòi tranh, tre; trên chòi có sàn ngồi, trên sàn ngồi có mái lợp che nắng, che mưa cho người canh giữ, mỗi chòi có trang bị mõ, thanh la, trống hoặc các thứ để gây tiếng động. Mỗi khi có thú rừng kéo đến phá hoại mùa màn, hoặc uy hiếp người canh giữ, thì lập tức các chòi đồng loạt hô vang và gõ các công cụ hỗ trợ xua đuổi. Những lúc nhàn rỗi không có thú rừng quậy phá, những người canh chòi hô hát cho nhau nghe những điệu dân ca như: hò, vè, hát ru, hát kết, hát lí… từ đó nhân dân sáng kiến ứng dụng vào trò chơi đánh Bài trên Chòi, dần dần có tên gọi là Hội đánh Bài chòi; các thế hệ sau này gọi là “Hội đánh Bài chòi dân gian”.

Mô hình hội đánh Bài Chòi:

Cách bố trí hội Bài Chòi gồm có chín chòi theo hình chữ nhật. Hai dãy song song, đối diện nhau theo chiều dài, khoảng cách giữa 2 dãy chòi từ 8 đến 10m, mỗi dãy có 4 chòi (được tính từ chòi số 1 đến chòi số 8, gọi là các chòi con), chòi này cách chòi kia khoảng từ 3 đến 5m, chiều cao từ đất lên sàn ngồi khoảng 1,2m, từ sàn ngồi lên mái lợp khoảng 1,3m, chiều rộng mỗi chòi khoảng từ 1,2 đến 1,4 m. Một đầu giữa hai dãy chòi là chòi số 9, thường gọi là chòi Trung ương (hoặc chòi cái). Chòi trung ương lớn và cao hơn các chòi con. Trên các chòi được trang trí đẹp, các chòi con trang bị mỗi chòi một chiếc mõ làm bằng gốc tre già; chòi trung ương trang trí đẹp hơn so với các chòi con và được trang bị một cái trống cán (gọi là trống lịnh).

Đối diện chòi trung ương, giữa 2 dãy chòi con, nằm ở đầu bên kia là bàn Hội đồng, khoảng cách giữa bàn Hội đồng và chòi trung ương khoảng từ 15 đến 20m. Bàn Hội Đồng là một vị trí trang trọng, trên bàn trải khăn điều, có ghế ngồi dành cho các chức sắc trong làng xã, các thành viên ban tổ chức và người điều hành hội. Trên bàn Hội Đồng bày biện các vật dụng như: Ống thẻ, những con bài cái, bài con, cờ thưởng cắm trên một khúc chuối cây, tiền thưởng được đặt trong hộp thau (hoặc một cái đĩa tàu); trà, rượu cho các chức sắc dùng và cũng được sử dụng trong khi phát thưởng; một cái khay đựng rượu, tiền thưởng và các đồ dùng để phát thưởng cho các chòi thắng cuộc. Bên phải bàn hội đồng có đặt một cái trống chầu để ngừơi điều hành hội làm thủ tục khai hội và sử dụng đệm cho các hiệu hô bài trong cuộc chơi. Người thủ trống chầu phải là người có chức sắc, am hiểu sâu các thủ tục, nghi thức của Hội Bài Chòi. Bên trái bàn Hội Đồng là dàn nhạc cổ, thường là từ 3 đến 5 nghệ nhân chơi nhạc, được bố trí các nhạc cụ như: Trống chiến, mõ, thanh la, đàn nhị, đàn hồ, kèn bầu, đàn

15

Page 16: Nghệ thuật bài chòi

nguyệt… Về trang phục: Người điều hành Hội và nghệ nhân chơi nhạc mặc áo dài khăn đóng, các Hiệu mặc quần áo kiểu vạc hò, có khăn chít trên đầu.

Giữa sân trước bàn Hội Đồng và các chòi dựng một ống thẻ để anh Hiệu sử dụng trong cuộc chơi, ống thẻ là một đạo cụ di động để khi kết thức một ván hoặc một hội, đây là nơi hô Bài Chòi và diễn trò của các Hiệu phục vụ các chức sắc trong làng, người chơi bài và người dự hội.

Phía trước sân hội được xây dựng một cổng chào (gọi là cổng hội) trang trí đẹp, rực rỡ; trên cao có dòng chữ to căng ngang 02 trụ cổng: “Hội đánh bài chòi dân gian xuân…” tùy theo năm đó là năm gì, địa điểm nào thì có các chữ tiếp theo.

Bộ Bài Chòi trong Hội đánh Bài Chòi:

Bộ bài chơi hội đánh Bài Chòi, các nghệ nhân sáng tạo phỏng theo từ bộ bài Tam Cúc (Bình Định và các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ xưa kia có trò chơi Tam Cúc); bộ bài Tam Cúc gồm 3 pho: Pho văn, Pho vạn, Pho sách, mỗi pho gồm có 10 con bài (còn gọi là quân bài). Hội đánh bài chòi Bình Định sử dụng 27 con bài thành một bộ và chơi chín chòi, vì vậy khi Hiệu rao giới thiệu những con bài có câu “Chín chòi lẳng lặng mà nghe” (cũng trong 27 con bài nhưng mỗi hội, mỗi nơi có khác nhau một số con bài, vì đây là phỏng theo bộ bài Tam Cúc chứ không phải bê nguyên xi, và đây là trò chơi dân gian không mang tính bắt buộc, ví dụ có nơi dùng con bài nhì bí thì không dùng con nhì nghèo; nơi nào dùng con sáu ghe thì không dùng con sáu xưởng…). Một bộ bài có 2 loại thẻ: 9 thẻ bài cái (lớn) mỗi thẻ chứa đựng 3 con bài con (nhỏ) để bán cho các chòi; còn 27 con bài con là những con bài nhỏ lẻ, đựng trong ống thẻ dựng ở giữa sân hội, là công cụ để anh Hiệu điều khiển cuộc chơi. Vật dụng để làm những con bài (gồm bài cái và bài con) được làm bằng tre, hình những con bài làm bằng giấy vẽ màu mè, có hình tượng phù hợp với tên con bài và dán lên thẻ bài; phía dưới hình tượng các con bài, khi xưa thường viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, sau này các nghệ nhân có cải tiến, một mặt viết chữ Hán hoặc chữ Nôm, mặt còn lại viết chữ Quốc ngữ để lớp trẻ dễ nhận biết đó là con bài gì trong quá trình chơi bài. Một Hội chơi đánh Bài Chòi ban tổ chức thường chuẩn bị từ 2 đến 4 bộ bài có màu sắc khác nhau (xanh, đỏ, vàng,…) để tránh sự nhầm lẫn giữa Hội trước và Hội sau.

Cách chơi hội đánh Bài Chòi:

Hội đánh Bài Chòi dân gian Bình Định chỉ diễn ra trong dịp Tết Cổ truyền (tết Nguyên đán) của dân tộc, được tổ chức từ mùng 1 tết, đến khoảng mùng 5 tết, thường gọi là “Hội Bài Chòi xuân”, có nơi tổ chức kéo dài đến rằm tháng giêng, xưa có câu “tháng giêng là tháng ăn chơi” (Hội đánh bài chòi dân gian xưa ở Bình Định không diễn ra ở các lễ hội như một số bài viết đã nêu). Địa điểm tổ chức Hội Bài Chòi thường là sân đình làng hoặc một khoảng đất trống bằng phẳng, rộng rãi và thuận lợi cho người dự hội.

Những ngày từ 25 đến 29 tháng chạp, ban tổ chức Hội huy động người trong làng góp tranh, góp tre, người cho mượn vật dụng như: bàn, ghế, khay trà, bình rượu,… người góp công, ai không góp của góp công thì góp tiền; đến 30 tháng chạp là mọi việc chuẩn bị cho Hội Bài Chòi xuân được hoàn tất.

Sáng ngày mùng một tết, các vị chức sắc trong làng, các thành viên ban tổ chức có mặt sớm, người điều hành Hội dục trống chầu dóng ba, dàn nhạc cổ tấu bài chiến rao khai trường; Nhạc khai trường là hình thức thúc dục mời gọi người dự hội; nghe trống, nhạc khai trường mọi

16

Page 17: Nghệ thuật bài chòi

người lần lượt kéo đến, các anh Hiệu, chị Hiệu mời chào bán các con bài cái cho những người dự hội; Khi bán đủ 9 con bài cái, người mua đã lên chòi, anh Hiệu Hô (mỗi hội ít nhất là 3 Hiệu Hô và 2 Hiệu Chạy; Hiệu Hô là rút thẻ hô bài, Hiệu Chạy là đưa thẻ, phát thẻ, thu thẻ, có những hội Hiệu Hô kim luôn Hiệu Chạy) đến trước bàn Hội Đồng trịnh trọng thưa: “Hiệu phát bài đã đủ, cho Hiệu thủ bài tỳ” (thủ ống thẻ), lúc đó người điều hành hội sử dụng trống chầu làm thủ tục khai hội theo thể thức “đả cổ pháp” của một đêm diễn hát bội xưa: xuân tam, hè cửu, thu thất, đông ngũ (mùa xuân đánh 3 tiếng, mùa hè đánh 9 tiếng, mùa thu đánh 7 tiếng, mùa đông đánh 5 tiếng), dàn nhạc tấu lên, trống chầu thúc dục, trống lịnh ở chòi trung ương đánh 3 hồi, 9 tiếng, người trên chòi và người xem hội chăm chăm vào anh Hiệu, bắt đầu cuộc chơi.

Sau khi xong thủ tục khai hội, anh Hiệu Chính hai tay bê ống thẻ đã đựng 27 con bài con, đi vòng một lược trong sân hội giới thiệu từng con bài theo điệu nói vè (một hình thức kiểm tra 27 con bài trước khi bắt đầu cuộc chơi), hai Hiệu Phụ đi theo 2 bên gõ sanh sứa đệm cho Hiệu Chính hô:

Thò tay rút thẻ, trúng gã Ông Ầm

Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng

Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê

Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối

Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe

Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm

Hay đùm hay túm, là Tứ Xách đã quen

Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ

Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà

Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng

Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng

Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt

Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay

Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi

Khen ai khéo gói, Bánh Hai ngọt ngon

Mặt đỏ như son, Cửu Điều sặc sỡ

Một chồng hai vợ, Ba Bụng úp vô

Mập mái hại cồ, Chín Cu bay tới

Hai tay chới với, Nhứt Nọc chết rồi

17

Page 18: Nghệ thuật bài chòi

Lấy trã úp nồi, Thất Vung tròn lắm

Hay ôm hay ẵm, là chị Bát Bồng

Xứng vợ xứng chồng, là anh Lục Chạng

Ai làm bát rạn, Tám Miểng bể ra

Ai hút ve trà, Nhứt Trò rắn ráo

Hạt tấm hạt gạo, là chị Bảy Thưa

Dãi nắng dầm mưa, là cô Bảy Liễu

Muốn tròn chữ hiếu, đi tu Cửu Chùa.

Sau đó anh Hiệu hô một lớp bài chòi chúc tết. Tùy theo năm đó là năm con gì và Hội Bài Chòi được tổ chức ở làng nào, làng đó có đặc điểm gì thì Hiệu sáng tạo những câu bài chòi cho phù hợp.

Sau khi giới thiệu 27 con bài và chúc tết mọi người, các Hiệu lần lược đến ống thẻ rút từng con bài, rút ra con bài gì thì Hiệu hô tên con bài đó.

Ví dụ: Hiệu rút ra con bài Nhứt Trò, Tứ Tượng, … Hiệu giơ cao thẻ bài cho các chòi thấy, vừa làm điệu bộ vừa hô:

Hô là con nhứt trò này, hô là con tứ tượng nè… Chòi nào có con bài nhứt trò hay tứ tượng thì đánh 3 tiếng mõ (nếu là chòi trung ương thì đánh 3 tiếng trống cán) Hiệu lập tức đem dâng con bài cho chòi trúng…

Các Hiệu lần lượt rút thẻ hô tên con bài, Hiệu nào có năng khiếu thì diễn trò làm vui, các chòi chăm chú đợi trông anh Hiệu rút ra những con bài của chòi mình, còn người xem hội thì hào hứng nghe Hiệu hô, xem Hiệu diễn trò. Đến khi có một chòi nào đó tới đủ 3 con bài thì đánh một hồi mõ, nếu là chòi trung ương thì một hồi trống cán, Hiệu Chạy lập tức đến chòi có bài tới nhận 1 con bài cái và ba con bài con ra giữa sân hội hô to. Ví dụ:

Chòi số 1 ăn một con Nhứt Trò nè, một con Năm Dụm nè, tới một con Cửu Chùa nè. Anh Hiệu dứt lời, trống chầu thúc dục, dàn nhạc trổi vang, không khí hội tưng bừng náo nhiệt; các Hiệu Chạy đi thu tất cả những con bài ở các chòi cho vào ống thẻ chuẩn bị ván thứ hai. Còn Hiệu Hô đến tại bàn Hội Đồng, bưng cái khay, trong đó đã chuẩn bị sẵn tiền thưởng đựng trên hộp thau, 1 ly rượu (hoặc một chén nước trà), một cây cờ thưởng nhỏ màu đỏ hình tam giác cắm trên một khúc cây chuối và Hiệu bắt đầu nói lối theo điệu hát Nam Xuân, 2 Hiệu phụ đi 2 bàn đệm song loan, sanh sứa (âm nhạc trổi Nam Xuân, trống chầu điểm):

Vâng lệnh làng lãnh lấy khay tiền

Hiệu khẩn cấp dâng cờ đệ nhất a..

(nếu là ván thứ nhất).

Hiệu vừa đi vừa hát theo điệu Nam Xuân:

18

Page 19: Nghệ thuật bài chòi

Khẩn cấp dâng cờ đệ nhất.

Nói lối trong nền nhạc: Minh niên năm nay Hiệu tôi xin chúc gia quyến, ông, bà, cô, bác, anh, chị được dồi dào sức khẻo, đắc lộc, đắc tài…

Hát tiếp: chúc gia đình vạn sự bình an.

Người chơi trên chòi trúng thưởng nhận một ly rượu, (nếu là phụ nữ thì một chén nước trà; trẻ em chỉ thưởng tiền và cờ), cây cờ thưởng cắm vào ống tre trên chòi, nhận tiền thưởng. Theo tục lệ người nhận tiền thưởng trích một ít tiền lẻ thưởng lại cho Hiệu gọi là “lì xì” năm mới, tiền này Hiệu được hưởng riêng.

Xong việc phát thưởng mỗi ván, Hiệu Hô trình diễn một đoạn Bài Chòi cổ, nội dung liên quan đến chúc tết, chúc xuân hoặc có nội dung vui vẻ để phục vụ cho các vị chức sắc và những người xem hội. Trình tự cứ diễn ra như vậy cho đến ván cuối cùng của một Hội. Kết thúc Hội trống chầu đổ một hồi dài, mõ, trống cán các chòi cùng nhịp đổ hồi theo trống chầu, người xem vỗ tay hô vang, chúc mừng những người trúng thưởng, đón mừng hội chơi tiếp theo.

Kết thúc một Hội các Hiệu Chạy đi thu toàn bộ các thẻ bài cái, bài con trên các chòi về bàn Hội Đồng, đồng thời bán 9 con bài cái khác cho Hội chơi tiếp theo; những người chơi hội trước muốn tiếp tục chơi hội tiếp theo thì mua một thẻ bài cái khác, có thể ngồi lại chòi cũ mình vừa chơi hoặc chọn một chòi khác tùy ý.

Mỗi Hội đánh 8 ván, tiền thưởng mỗi ván bằng tiền mỗi chòi mua một thẻ bài; trong mỗi Hội tiền thu chín chòi mà thưởng tám chòi, vậy mỗi Hội Ban tổ chức thu được tiền bán thẻ của một chòi gọi là xâu, kết thúc cuộc chơi số tiền Ban tổ chức thu được dùng chi phí cho các anh Hiệu, Ban tổ chức và các khoản chi khác, thiếu thì trích quỹ làng bỏ vào, thừa thì góp vào quỹ Hội chơi năm sau.

Làn điệu bài chòi và hô bài chòi:

- Làn điệu Bài chòi:

Thời kỳ đầu của Hội đánh Bài chòi, các Hiệu chỉ rút thẻ hô tên con bài (như đã nói trên), dần dần các Hiệu nghiên cứu ra điệu áp dụng trong việc hô tên con bài để tăng sức hấp dẫn, làm phong phú cho Hội chơi; đầu tiên các Hiệu vận dụng từ điệu nói vè thành điệu bài chòi nhịp 1, nhịp 2 theo thể thơ 4 chữ. (Ví dụ: minh họa)

Vè gọi nghé: Huơ huơ nghé nhỏ

Lạc đàn theo chó

Lạc ngõ theo trâu

Nghe mẹ rống đâu

Đâm đầu mà chạy…

Bài chòi nhịp 1, nhịp 2:

19

Page 20: Nghệ thuật bài chòi

Song thằn An Thái

Dừa trái Tam Quan

Đường cát Dương An

Đĩa bàn nội phủ

Hàng hoa kể đủ

Đậu hũ xoa xoa

Bánh tráng kẹo cà

Hành ngò cúc cải

Dây dừa dầu rái

Kẹo đỗ kẹo dừa

Mấy chị ngủ trưa

Nẫu mua trợt lớt

Trợt lớt cái mà trợt lớt… hô là con ngũ trợt…

Không dừng lại bài chòi nhịp 1, nhịp 2 theo thể thơ 4 chữ, về sau các Hiệu đã sáng tạo ra điệu bài chòi Xuân nữ (hiện nay gọi là Xuân nữ cổ) theo thể thơ lục bát dựa theo những câu ca dao, tục ngữ, hát ru có từ mang tên con bài. Về làn điệu Xuân nữ theo người xưa kể lại: Các Hiệu đã vận dụng từ điệu hát ru đưa của điệu ru con Bình Định (ru con Bình Định có 3 điệu: ru xốc, ru đưa, ru muồi).

(Minh họa hát ru đưa và Xuân nữ cổ)

Chuột kêu chút chít trong rương

Anh đi kẻo trợt đụng giường mẹ hay… hô là con ngũ trợt

Hoặc - Cu kêu ba tiếng cu kêu

Cho mau tới tết dựng nêu ăn chè… hô là con chín cu nè.

- Về hô bài chòi:

Trong các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống ta thường dùng các từ: hát bội, hát chèo, ca cải lương, hô bài chòi… Hô bài chòi là việc anh Hiệu hô tên những con bài trong Hội đánh bài chòi, dần dần không biết từ khi nào trong dân gian đã lược hóa mà thành và sử dụng cho Hội đánh bài chòi và bộ môn Sân khấu bài chòi từ ấy đến nay…

Hội đánh Bài chòi dân gian là dịp người dự hội và người chơi bài được hòa mình vào một hội vui xuân, được nghe các Hiệu Hô, được xem các Hiệu diễn trò, được nghe Hiệu

20

Page 21: Nghệ thuật bài chòi

chúc tết, còn là dịp người chơi bài cầu lộc, cầu may đầu năm, là dịp mọi người vứt bỏ đi những gì chưa tốt đẹp của năm cũ, chúc nhau năm mới An Khang Thịnh Vượng.

Bài chòi trải chiếu trong Hội đánh Bài chòi

Hội đánh Bài chòi dân gian Bình Định từng bước phát triển sâu rộng, người dự hội càng động, lực lượng anh Hiệu ngày càng nhiều; để đổi mới hình thức cho Hội đánh bài chòi, đồng thời cũng là sự cạnh tranh giữa hội này với hội khác, các Hiệu luôn tìm tòi sang tạo ra những hình thức mới để tăng sức hấp dẫn cho người dự Hội. Khoảng từ sau năm 1925, loại hình “Bài chòi kể chuyện” trong Hội đánh bài chòi xuất hiện và đây là hình thức sơ khai của sân khấu Bài chòi.

Bài chòi kể chuyện là hình thức hô bài chòi kể một câu chuyện (gọi tắt là Bài chòi kể) các Hiệu ứng tác và ghi chép lại một câu chuyện bằng thể văn vần lục bát do 1 hoặc 2, 3 Hiệu thay nhau hô kể để phục vụ người dự hội giữa ván trước, ván sau; Hội trước, Hội sau vừa tăng sức hấp dẫn, đồng thời làm cho hội chơi được liên tục không bị ngưng lặng giữa các ván và các Hội.

Bài chòi kể do các Hiệu sáng tạo dựa theo các câu chuyện dân gian như: Thoại Khanh – Châu Tuấn; Lâm Sanh – Xuân Nương; Lang Châu – Lý Ân; Châu Đạt – Ngọc Hà; … hoặc một số lớp hay trong các truyện Tàu như: Tiết Nhơn Quý xuất thế (trong truyện Tiết Nhơn Quý chinh đông); Quan Công Phục Huê Dung (trong truyện Tam Quốc); lớp Trại Ba và Địch Thanh trong tuồng Ngũ hổ bình tây… các Hiệu vừa hô kể vừa diễn có nội tâm nhân vật, âm nhạc đệm tòng, trống chầu điểm. Hết lớp này đến lớp khác, hết chuyện này đến chuyện khác, người dự hội được chơi bài, được nghe hô bài chòi, được xem Hiệu diễn vừa theo dõi nội dung cốt chuyện diễn ra từ đầu đến cuối, những Hiệu hô hay, diễn giỏi còn được người xem thưởng tiền.

Các Hiệu trong Hội đánh bài chòi phần nhiều là những nghệ nhân Hát Bội, diễn giỏi, hô hay vì vậy không dừng lại hình thức Bài chòi kể, khoảng năm 1930 hình thức Bài chòi lớp trong Hội bài chòi ra đời. Bài chòi lớp là những trích đoạn được chuyển thể từ các tuồng Hát Bội như: lớp Cao Quan Bảo phá chiêu phu bài ở Song Tỏa Sang của Lưu Kim Đính (trong pho tuồng Tam hạ nan đàn); lớp thái tử Từ Quang trao trâm cho công chúa Thiên Hương (trong tuồng Thiên Hương quốc sắc); lớp Phạm Công vinh quy (trong pho tuồng Phạm Công – Cúc Hoa); …

Ở Bài chòi lớp các Hiệu hóa thân vào nhân vật (là các vai diễn) có hóa trang, phục trang, đạo cụ như Hát Bội nhưng đơn giản hơn. Bài chòi lớp thường trình diễn khi kết thúc một Hội. Khi kết thúc một Hội chơi, ống thẻ được chuyển vào trong, giữa sân Hội được trải từ 1 đến 2 chiếc chiếu lớn (ở Bình Định gọi là chiếu dài), âm nhạc trỗi lên, trống chầu thúc giục các vai diễn lần lượt xuất hiện theo tuyến nhân vật và trình diễn trên chiếu, đây là hình thức sân khấu Bài chòi trải chiếu trong Hội đánh bài chòi, thời kỳ này bài chòi chủ yếu vẫn chỉ có làn điệu Xuân nữ nên trong những lớp Tuồng các nghệ nhân có sử dụng một số làn điệu Hát Bội (Nam, Khách, Tẩu mã, …) để làm phong phú và tăng hấp dẫn người xem.

Bài chòi kể, Bài chòi lớp chủ yếu các Hiệu diễn ở giữa mỗi ván, một hội chơi để phục vụ cho người chơi và người dự Hội, cũng có khi đoạn kể, lớp diễn có những từ mang tên con bài thì các Hiệu sử dụng trong việc rút thẻ hô bài.

21

Page 22: Nghệ thuật bài chòi

Sân khấu Bài chòi trải chiếu thoát khỏi Hội đánh Bài chòi

Từ khi sân khấu Bài chòi lớp trong Hội đánh bài chòi ra đời đã thu hút ngày càng đông người đến dự hội, đông đến mức chật kín cả các không gian của Hội, người muốn chơi phải chen lấn, xô đẩy, tranh nhau mới được xem cho rõ không gian của Hội. Từ đó, lực lượng anh Hiệu càng đông, nhiều nghệ nhân có tài nghệ điêu luyện gọi là Hiệu xã (Hiệu chuyên nghiệp, thường đi làm Hiệu cho nhiều hội Bài chòi khác nhau trong vùng), khi đến Tết cổ truyền các anh chị Hiệu trở thành những nhân vật quan trọng của các Hội đánh bài chòi (còn một lực lượng Hiệu làng có trình độ thấp hơn chỉ chạy Hiệu cho hội đánh Bài chòi làng mình). Kết thúc Hội Bài chòi xuân, do nhu cầu thưởng thức của công chúng, sự đòi hỏi của lực lượng anh Hiệu tìm kế sinh nhai, các Hiệu đã tập hợp thành từng nhóm, mỗi nhóm từ 5 đến 7 người thành từng “Gánh” nhỏ đi về các làng quê, từ đồng bằng, miền biển, vùng trung du để biểu diễn phục vụ (đó là khoảng thời gian sau 1930); họ biểu diễn bất cứ nơi nào có nhu cầu, họ đi đến đâu cũng được nhân dân địa phương đón tiếp nồng nhiệt. Các “Gánh Bài chòi” của họ thường là những đôi vợ chồng và các con cháu trong gia đình, hoặc năm ba anh em, bạn bè, đồng nghiệp tập hợp lại, các nghệ nhân của từng “Gánh Bài chòi” vừa hô hay, đàn giỏi, họ có thể thay đổi nhau, người này diễn, người nọ đánh trống, thổi kèn, kéo đàn, khi đến vai diễn thì người kia diễn, người này lại đánh trống, thổi kèn, cứ thế họ luân phiên nhau. Gánh Bài chòi của họ chỉ là một đôi bầu quang gánh, mấy cây giáo, cây thương, cái trống chiến, cặp sanh, mấy cây đàn – kèn.

Khi các làng, xã muốn mời các “Gánh” bài chòi về biểu diễn rất đơn giản, không hợp đồng, không giấy trắng mực đen gì cả, chỉ ghi nhận, thỏa thuận “bằng miệng” giữa 2 bên, làng sẽ quyên góp chi cho Gánh mỗi tối là bao nhiêu, có khi không thỏa thuận gì về tiền bạc, mà làng chỉ mời Gánh về biểu diễn, người đi coi ủng hộ bao nhiêu cũng được vậy mà vẫn đủ chi phí; xong mỗi chuyến lưu diễn vẫn còn dư giả tích lũy mua sắm bổ sung các vật dụng cho gánh, chi phí cho gia đình của họ. Sân khấu của họ là sân đình làng, hoặc những khoảnh đất rộng, có khi một cái sân của gia đình nào đó; vài ba chảo đèn dầu phụng (khoảng sau năm 1950 có đèn măng-xông) cộng với hóa trang phục trang đơn giản, không phông màn cảnh trí, họ trải một vài chiếc “chiếu” giữa sân, dàn nhạc cũng ngồi trên chiếu cứ thế mà hô, mà diễn, mỗi tuồng từ 3 đến 5 đêm, hết tuồng này đến tuồng khác. Hình thức trải chiếu dưới đất để diễn trò gọi là “Sân khấu Bài chòi trải chiếu”.

Về tuồng tích: Các ông bầu và nghệ nhân chuyển thể từ các tuồng hát bội cổ và dựa theo các truyện dân gian sáng tác thành các tuồng hô bài chòi, mỗi tuồng thành một pho, mỗi pho từ 3 đêm diễn trở lên. (Bình Định hiện nay còn lưu giữ một số tuồng bài chòi cổ như: Tam hạ nam đàn; Phạm Công – Cúc Hoa; Lang Châu – Lý Ân; Lâm Sanh – Xuân Nương; Thoại Khanh – Châu Tuấn; Châu Đạt – Ngọc Hà …) Bầu đoàn thì ít người mà Tuồng thì nhiều nhân vật, vì vậy 1 người phải thủ từ 2 đến 3 vai. Người xem không câu nệ sao ông này, bà nọ lớp trước là Xích Phạm lớp sau là Tương Tử; vừa rồi là Cúc Hoa bây giờ là Tào Thị, … mà chủ yếu là họ nghe hô Bài chòi, theo dõi câu chuyện, tích trò mà họ yêu thích.

Trong giai đoạn này vì tự ái nghề nghiệp, không thể mãi vay mượn các làn điệu của Hát bội cho bộ môn nghệ thuật của mình, các nghệ nhân đã nghiên cứu sáng tạo 3 làn điệu Bài chòi là Xàng xê, Cổ bản và Hò quảng (Hồ quảng); theo các nghệ nhân cao niên trong nghề kể lại: điệu Xàng xê ra đời từ điệu hát Khách, điệu Cổ bản từ Nam Xuân của Hát Bội; điệu Hò quảng là tiếp thu theo điệu hát Quảng Đông Trung Quốc, khi các đoàn bán thuốc của

22

Page 23: Nghệ thuật bài chòi

tỉnh Quảng Đông sang miền Trung Việt Nam bán thuốc và diễn trò. Và 4 làn điệu Xuân nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hò quảng là những làn điệu cơ bản của sân khấu Bài chòi từ đó đến nay.

Sân khấu Bài chòi từ đất lên giàn

Từ năm 1933 sân khấu Bài chòi trải chiếu hết sức khó khăn, những gánh nhỏ lẻ ít người, Sân khấu chỉ vỏn vẹn trên một chiếc chiếu, đồ đoàn chỉ một đôi bầu dùng những cây thương cây giáo gánh trên vai, cạnh tranh với nghệ thuật Cải lương, nghệ thuật Hát bội diễn trên sân khấu là rất không thể. Nhưng với lòng tự ái về nghề nghiệp, không thể để bộ môn của mình mãi lẹt đẹt, hẩm hiu chỉ diễn trên những chiếc chiếu trải dưới đất như vậy được; mặt khác các nghệ nhân Bài chòi còn là mưu sinh cho bản thân và gia đình, cho bạn bè đồng nghiệp. Cuối cùng các ông Bầu nhóm họp bàn thảo, tìm lối để nâng cái nghệ của mình lên một bước; cách tân theo Cải lương và Hát bội tiểu thuyết thì không thể nào có khả năng, điều kiện của các Bầu vốn dĩ còn nghèo; cách tân là cần thiết là việc phải làm, đó là xu thế không thể dẫm chân, thậm chí là tụt lùi. Cái cốt lõi để các Bầu Bài chòi phải đổi mới cách tân đó là người xem, vì Hội đánh bài chòi, hô bài chòi, diễn bài chòi đã thấm sâu vào tâm hồn công chúng qua nhiều thế hệ, họ không thể quay lưng lại với Bài chòi, các ông bầu tin vào sức sống mãnh liệt của sân khấu Bài chòi trong lòng công chúng, cuối cùng các ông Bầu đã hợp lực đưa Sân khấu Bài chòi từ Sân khấu trải chiếu dưới đất lên sân khấu dựng cao có sàn diễn như sân khấu Hát bội mà các Bầu gọi là “giàn”, và trong lịch sử Sân khấu Bài chòi gọi là “từ đất lên giàn”. Người đề xướng việc đưa sân khấu từ đất lên giàn là cụ Phạm Đình Lang (tức ông Bốn Trang hay Bốn Nhỏ, người ta thường gọi là ông Bầu Trang) ông sinh năm 1910 tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Ông Bầu Trang mời ông Bầu Hượt (thường gọi là Ba Hượt) ông Sáu Cóc làm nòng cốt và những nghệ nhân giỏi như: Hai Miệt, Sáu Sính, ông Bảy Xin, ông Sáu Hổ, ông Ba Sơn, Nguyễn Đốc, Sáu Nghi, Bốn Chấn, … và lần đầu tiên có nghệ nhân nữ (đào nữ) tham gia (cũng như nghệ thuật Hát bội giai đoạn trước năm 1930 chỉ có nghệ nhân nam sắm đào, đóng mụ), tiêu biểu là các chị Bốn Dần, Năm Quạ, chị Nhảy, bà Năm Phi, chị Ba Điểm… Bộ phận nhạc có ông Bảy Mà, ông Tư Hạng và các nghệ nhân biểu diễn thay nhau. Khoảng cuối năm 1933 được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và sự giúp đỡ của nhân dân xã Mỹ Tài huyện Phù Mỹ, người góp tre, góp công, người cho mượn phản ngựa, bàn ghế, … dựng một cái sàn diễn, đêm biểu diễn đạt kết quả mỹ mãn.

Thành công bước đầu các nghệ nhân vô cùng phấn khởi và liền sau đó họ liên tiếp biểu diễn ở các xã: Mỹ Hiệp (Phù Mỹ); Cát Hanh, Cát Khánh (Phù Cát), … đợt biểu diễn kéo dài nhiều tháng liền, nhưng việc doanh thu dùng cho chi phí cũng như sân khấu trải chiếu, vẫn là nhân dân tự nguyện đóng góp, chính quyền địa phương hỗ trợ.

Thắng lợi lớn nhất là đầu xuân năm 1934 các nghệ nhân mạnh dạn vào diễn trong trường hát ở vạn Gò Bồi (Phước Hòa, Tuy Phước), lần đầu tiên diễn bán vé, người lớn 5 xu, trẻ nhỏ 3 xu, nhân dân hâm mộ tán thưởng nhiệt liệt, thế là nhóm nghệ nhân đã trụ được tại trường hát Gò Bồi bảy đêm liền.

Sau thắng lợi của sân khấu Bài chòi từ đất lên giàn, lần lượt những năm tiếp theo nhiều nghệ nhân xuất hiện tham gia sân khấu Bài chòi, nghệ nhân nam có: Phạm Đình Chi, Nguyễn Hoài Ân, Đinh Thái Sơn, thầy Tám Có, Đỗ Liên, Phan Ngạn, Nguyễn Kiểm, Trần Chức, ông Hai Mẹo… các nghệ nhân nữ có: chị Phạm Thị Đào, chị Lợi, chị Đinh Thị Hải, chị

23

Page 24: Nghệ thuật bài chòi

Liễu, … nghệ nhân nhạc cổ có: Nguyễn Hoài Ân (tục gọi là ông Tám Kèn), Trần Văn An, anh Tư Sứt, Văn Bá Ngưu (Văn Bá Anh), …

Thế rồi các gánh Bài chòi lần lượt xuất hiện lấy bảng hiệu tên Bầu, Đoàn như: gánh Ý Thành của ông Bốn Trang, ông Ba Hượt và ông Sáu Cóc (sau đổi thành Ý Đồng rồi Đông Hòa); gánh Long Vân của ông Hai Miệt, Ý Chung của Phạm Đình Chi; gánh Tân Xuân của ông Sáu Sính; có người không lấy tên bảng hiệu mà lấy tên mình hoặc tên làng làm Bầu như: gánh Bà Nhảy, gánh Ông Hai Trạng, gánh Bà Lợi, gánh Ông Cẩm, gánh Suối Tre, … các Bầu gánh Bài chòi không những lưu diễn trong tỉnh mà lan ra các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận. Từ đây các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ đâu đâu cũng có Hội đánh Bài chòi và sân khấu Bài chòi dân gian, nơi nào thuận lợi thì họ diễn trên sân khấu nơi nào khó khăn thì vẫn diễn theo hình thức Bài chòi trải chiếu. Có những gánh thi đua với các gánh Cải lương và Hát bội cách tân, họ diễn những tuồng Bài chòi tiểu thuyết như: Mã Thành Long đề cờ, Tam hùng kiệt, Thiên hương – Quốc sắc, … đứng vững vàng nhiều đêm trong trường hát như các gánh: Ý Đồng, Tân Xuân, Bầu Cẩm, … và từ đây Hội đánh bài chòi và Sân khấu bài chòi dân gian 2 loại hình hỗ trợ tăng thêm sức mạnh cho nhau, đến năm 1952 Sân khấu Bài chòi cách mạng ra đời, Đội Bài chòi thuộc Đoàn Văn công Liên khu V (về sau là Đoàn Dân ca Liên khu V), trên cơ sở những nghệ nhân của các gánh Bài chòi dân gian Bình Định làm nòng cốt như: Nguyễn Đốc, Đinh Thái Sơn, Nguyễn Kiểm, Đỗ Liên, Nguyễn Hoài Ân, Trần Văn An, Văn Bá Anh, Đinh Thị Bích Hải, …

N. A. P

Những gánh Bài chòi ở quê tôi

Nhạc sĩ Hình Phước Liên

Phó Chủ tịch Hội VHNT Khánh Hòa

Ở quê tôi – một làng biển nằm bên bờ Đầm Nha Phu, thị xã Ninh Hòa – đến nay vẫn còn lưu truyền câu hát: Bài chòi tôi đựng một vò/ tôi quên đậy nắp nó bò hết trơn. Ngẫm ra, câu hát tưởng như vu vơ ấy lại rất ứng với thực trạng của Bài chòi hiện nay. Bởi đâu phải Bài chòi ở đất Khánh Hòa không có, mà thậm chí có nhiều nữa là khác, nhưng do sơ ý, thiếu quan tâm hoặc bị bỏ bê…nên nó mới bò đi hết. Nhưng thế vẫn còn may, vì nó chỉ bò đi và lẫn khuất đâu đó, chứ chưa mất hẵn. Mà làm sao mất được, khi Bài chòi vẫn còn trong ký ức của mọi người. Với tôi, không thể nào nhạt phai ký ức về những đêm hát của các gánh Bài chòi thời thơ ấu.

1.

Còn nhớ, những năm 50, 60 của thế kỷ trước, Bài chòi là món ăn tinh thần không thể thiếu của bà con quê tôi. Cứ tầm từ sau Tết đến hết tháng ba âm lịch lại rộ lên mùa làm ăn của các gánh Bài chòi đến từ Bình Định, Phú Yên và cả các gánh Bài chòi sở tại. Hồi ấy, các làng

24

Page 25: Nghệ thuật bài chòi

làm nông thường tổ chức các hội chơi Bài chòi vào những ngày lễ tết và các tháng nông nhàn. Có làng mời các gánh hát về phục vụ ban đêm còn ban ngày thì tổ chức hội chơi Bài chòi, tiếng đàn, câu hát cứ gọi là thâu đêm suốt sáng; những làng không mời được cả gánh về phục vụ thì cũng có thể mời một anh Hiệu (người quản trò trong hội chơi Bài chòi) rồi tự tổ chức kiểu cây nhà lá vườn, ít tốn kém nhưng vẫn vui.

Ở làng biển, do đặc thù nghề nghiệp, cánh đàn ông thường ra khơi lúc quá nữa đêm rồi trở về khi trời hững sáng; ban ngày thì phải ngủ bù nên trò chơi Bài chòi ít được tổ chức, còn mấy gánh hát thì bao giờ cũng được hoan nghênh. Hầu hết các gánh đều do các làng mời về, bao ăn, bao ở và cứ tối xuống, thắp đèn măng-xông hát cho đến tận khuya… Và muốn có được gánh hát hay thì làng phải có hợp đồng với Bầu gánh đâu từ nửa năm trước đó. Nói vậy để biết, hồi đó ở vùng Bình Bịnh, Phú Yên, Khánh Hòa các gánh Bài chòi nhiều lắm.

Làng tôi cũng vậy, cứ sau Tết (chừng mùng 4, mùng 5) thể nào cũng phải mời cho bằng được một gánh hát về hát cho bà con và có khi đến hết rằm mới thôi. Ban đêm hát, ban ngày đào kép rãnh rỗi lại tụ tập với mấy anh em có máu văn nghệ trong làng “đờn ca sáo thổi”; cuộc chơi ấy kết nối tình cảm của họ với nhau, cho nên nhiều khi cuộc giao duyên ấy kéo dài đến hết tháng giêng mới dứt. Nói vậy cũng là để cho biết, hồi đó ở quê tôi các điệu hát Bài chòi đã phổ biến lắm và có nhiều người biết hát. Hát hay, hát dỡ còn tùy, nhưng để hát được mấy câu Bài chòi thì chẵng ai là không có thể…

2.

Các đoàn hát lưu động ấy ở quê tôi gọi là gánh hát, gánh Bài chòi. Gọi vậy, có lẽ do cách vận chuyển của họ chăng (!?) Thường thì mỗi gánh Bài chòi chỉ có từ 5 đến 7 người của một hoặc hai gia đình gộp lại, trong đó ông bầu cũng thường là kép chánh, còn lại là đào kép, nhạc công. Tất cả vật dụng thường ngày cũng như đạo cụ, phục trang sân khấu đều cất hết vào vài chiếc rương gỗ và được họ gánh đi trên đường lưu diễn. Điểm diễn là những khoảng đất trống giữa làng, đôi khi là mảnh sân của nhà một gia đình nào đó. Sân khấu được quy định trong tầm vài ba chiếc chiếu trãi dưới đất. Vì vậy mà gọi là Bài chòi trãi chiếu.

Ngoại trừ những đêm diễn được mời, còn lại những đêm diễn do đoàn tự đến thì thu nhập của các đoàn hoàn toàn phụ thuộc vào lòng hảo tâm của bà con, mà lòng hảo tâm ấy thì lại lệ thuộc vào những vụ mùa, những lần đi biển của dân làng. Vả chăng, những thành viên trong các gánh Bài chòi thời bấy giờ đều là những người bán chuyên, họ chỉ trở thành các nghệ sĩ mỗi khi rỗi việc đồng áng, còn việc hô hát chỉ là để thỏa mãn sự đam mê và tất nhiên cũng để có thêm thu nhập. Và vì không hoạt động chuyên nghiệp như những nghệ sĩ Hát bội, Cải lương nên việc thu nhập xem ra không phải là điều họ xem là quan trọng nhất.

Vì rằng, bắt đầu từ cách hô hát của trò chơi dân gian, khi chuyển sang hình thức sân khấu thì tuồng tích các gánh Bài chòi hầu như đều dựa vào các truyện thơ dân gian quen thuộc như: Phạm Công – Cúc Hoa, Lâm Sanh – Xuân Nương, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Chàng Nhái – Kiểng Tiên, Lang Châu – Lý Ân, Ông Xã – Bà Đội… để chuyển sang hình thức hát kể chuyện. Qua tít đề của các vở diễn, chúng ta cũng dễ nhận thấy các câu chuyện kể hầu hết là câu chuyện của hai người được diễn với theo một cấu trúc: Lời kể chuyện đan xen với các lớp diễn của nhân vật, mà chủ yếu là cặp đào kép chính. Với cấu trúc này, lời kể giữ vai trò chủ đạo dẫn dắt người xem theo dõi trình tự câu chuyện, còn các lớp diễn là điểm nhấn tạo thêm hương sắc. Chính vì vậy, vai trò người dẫn chuyện trong các vở bài chòi thời ấy là cực kỳ

25

Page 26: Nghệ thuật bài chòi

quan trọng, quyết định sự thành bại cho vở diễn và đa phần người dẫn chuyện cũng kiêm luôn cả các nhân vật chính. Về sau, để tăng sự phong phú cho dàn kịch mục, người ta có bổ sung thêm một số vở lấy từ sân khấu Hát bội như: Tam hạ Nam Đàng, Ngũ hổ bình Tây…nhưng cũng chỉ trích các đoạn có cặp đôi biểu diễn như: Cao Quân Bảo – Lưu Kim Đính, Địch Thanh – Thoại Ba… Từ nội dung, hình thức biểu diễn như trên, Bài chòi trãi chiếu nói theo kiểu ngày nay là lối sân khấu hóa truyện thơ, một hình thức tương cận với thời “Ca ra bộ” của sân khấu Cải lương Nam bộ.

Hậu tổ Tuồng Đào Tấn có câu đối viết về đặc trưng nghệ thuật Hát bội rất hay: Thốn thổ thị triều đình châu quận/ Nhất thân kiêm phụ tử quân thần, nhưng xem ra lại quá đúng với hoạt động của các gánh Bài chòi. Bởi lẽ, với diện tích chừng mươi, mười lăm mét vuông, không có cảnh trí, diễn viên không thay đổi trang phục trong suốt đêm diễn và một người đôi khi phải thủ nhiều vai trong cùng vở diễn thì cũng chỉ có ở Bài chòi trãi chiếu mà thôi. Với hình thức sân khấu hết sức giản đơn và nội dung câu chuyện cũng rất quen thuộc, được hát đi, hát lại mãi mà sao vẫn hấp dẫn được người xem?

3.

Thưa rằng, sức hút nằm ngay trong nghệ thuật hô hát Bài chòi!

Không được may mắn như các loại hình sân khấu khác, Bài chòi đi lên sân khấu với vốn liếng chỉ có mỗi lối “Hô thai” – làn điệu hát mang tính chất mô hình, được viết theo thể thơ lục bát và lục bát biến thể. Về sau, cũng từ điệu thức Nam hơi Oán và hơi Lụy (Ai) ấy, các nghệ sĩ đã cải biến thêm để hình thành nên hai làn điệu chính cho sân khấu Bài chòi.

Mặt khác, khi đã lên sân khấu thì không chỉ sử dụng cách hát đẹp giọng mà còn phải hát theo diễn tiến của câu chuyện kể, theo tâm trạng của nhân vật, nhất là khi có sự đối đáp của các nhân vật với nhau. Thế là, cùng với cách hát khoan thai, đều đặn của “Hô thai”, các nghệ sĩ lại cải biến thêm lối hát “đạp nhịp” để tạo ra những phách đảo, phách nghịch nhằm diễn tả các trạng thái tình cảm của nhân vật và diễn biến kịch.

Khi nhịp phách đã thay đổi thì sự tiến hành giai điệu buộc cũng thay đổi theo. Để thích ứng với lối hát “đạp nhịp”, các nghệ sĩ Bài chòi đã thêm các hư từ, điệp từ vào các câu lục bát trong truyện thơ nhằm làm phong phú thêm điệu hát. Nhiều nghệ sĩ còn trộn cả các hơi để tạo thêm màu sắc mới. Chỉ một câu lục bát mà câu sáu thì hơi Oán còn câu tám lại hơi Lụy, đôi khi chỉ trong mỗi câu tám mà nghệ sĩ sử dụng cả hai hơi. Cách hát đầy ngẫu hứng và tài hoa ấy đã được chấp cánh bởi tính chất mô hình của làn điệu Bài chòi và thiết nghĩ cũng chỉ ở Bài chòi mới có. Về sau, Bài chòi lại tiếp thu cách hát Nam Xuân của Hát Bội, Xàng Xê trong nhạc Lễ để vào sân khấu của mình và định hình thành hệ thống làn điệu đặc trưng gồm: Hơi Oán, hơi Lụy, hơi Xuân và hơi Dựng mà ngày nay ta vẫn gọi là: Xuân Nữ, Xàng Xê lụy, Nam Xuân và Xàng Xê dựng. Với bốn làn điệu mang tính chất mô hình ấy, đã tạo điều kiện cho các nghệ sĩ Bài chòi thỏa sức sáng tạo theo cảm xúc của mình, làm cho vai diễn của mình mới trong từng đêm diễn để không làm khán giả bị nhàm chán.

Đấy là nói về tiến trình phát triển của cách hô hát Bài chòi. Nhưng, hát không đàn như càng không thiếp, vì dàn nhạc bao giờ cũng là kẻ giữ hồn, là người nâng đỡ cho tiếng hát bay lên. Thoạt đầu, dàn nhạc Bài chòi chỉ có cây đàn Nhị, một bộ Song loan và thêm cái trống Chiến. Đào kép đều hát chung bậc nữ, còn nhạc công thì đánh tòng theo hơi của diễn viên. Về

26

Page 27: Nghệ thuật bài chòi

sau, mà theo tôi có lẽ tiếp thu từ sân khấu Cải lương, nên đào kép hát riêng thành hai bậc cách nhau một quãng 4 đúng. Để chuyển giọng thì đàn phải có đoạn lưu không. Những bản nhạc đàn của Bài chòi cũng hoàn chỉnh dần theo từng năm tháng, nhưng sự tách giọng nói trên chính là cái mốc quan trọng trong sự phát triển của Bài chòi.

4.

Năm 1964, quê tôi Đồng khởi. Các làng quê và nhất là các làng ven biển đều trở thành vùng tranh chấp. Địa bàn hoạt động của các gánh Bài chòi vì thế cũng bị thu hẹp lại. Cũng giai đoạn này, nghệ thuật Cải lương đang trên đà phát triển mạnh, các đoàn Cải lương không chỉ hát ở các tỉnh phía Nam mà tràn ra tận miền Trung. Hơn thế nữa, Đài Truyền hình đầu tiên ở miền Trung được xây dựng tại Quy Nhơn cũng đã phủ sóng đến Khánh Hòa, càng làm cho hoạt động của các gánh Bài chòi thêm những khó khó khăn. Một số nghệ sĩ Bài chòi đã đầu quân sang các đoàn Hát Bội và cũng từ đó có thêm những vở Tuồng pha – Hát Bội pha với hô Bài chòi – thịnh hành ở quê tôi cho mãi đến những năm đầu giải phóng. Về học thuật xin được miễn bàn, nhưng cách hát, cách diễn ấy rất được bà con ái mộ. Điển hình là vở Cao Quân Bảo – Lưu Kim Đính mà cho đến nay, khi nhắc đến các gánh Bài chòi nhiều người ở quê tôi vẫn còn hít hà tiếc nuối.

Gần đây, cùng với trào lưu chấn hưng văn hóa truyền thống, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Khánh Hòa cũng đã có những bước đi ban đầu trong việc sưu tầm, phục dựng trò chơi Bài chòi và Bài chòi trãi chiếu. Qua công tác kiểm kê Di sản văn hóa phi vật thể, một số vở Bài chòi cổ đã được ghi chép lại và điều đáng mừng là vẫn còn những nghệ nhân đang khỏe mạnh và tha thiết với bộ môn nghệ thuật này.

Vừa qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Khánh Hòa đã mời Nghệ sĩ Minh Đức và Hoàng Việt của Bình Định vào Nha Trang trực tiếp truyền dạy và phục dựng trò chơi Bài chòi để tổ chức tại festival Biển Nha Trang 2013. Điều không ai ngờ là trò chơi đã được đông đảo nhân dân và du khách trong và ngoài ước nhiệt liệt hưởng ứng. Còn tôi, ngồi xem bà con chơi Bài chòi bên bờ biển Nha Trang mà lòng rưng rưng nhớ… Hồi ấy ở quê tôi có những gánh Bài chòi hay lắm!

Nha Trang, 05/9/2013

Tham luận Nghệ thuật Bài chòi:

SỨC HẤP DẪN CỦA NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI BÌNH ĐỊNH

Nguyễn Quang Long

Nhạc sĩ nghiên cứu lý luận

Nhà xuất bản Âm nhạc

27

Page 28: Nghệ thuật bài chòi

Kính thưa quý vị khách quý, các vị lãnh đạo cùng toàn thể các giáo sư, tiến sĩ, các học giả, nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ, báo giới và các bạn quan tâm đến bộ môn nghệ thuật Bài chòi đặc sắc của dân tộc. Tôi rất vui khi nhận được lời mời của Ban tổ chức Hội thảo Nghệ thuật Bài chòi và giáo sư Hoàng Chương để có được vinh dự có mặt tại đây ngày hôm nay.

Đối với nghệ thuật Bài chòi nói chung, Bài chòi Bình Định nói riêng tôi có một ấn tượng hết sức đặc biệt vì thế khi thực hiện DVD giới thiệu nghệ thuật Bài chòi Nhà xuất bản Âm nhạc đã chọn Bình Định là địa phương đại diện.

1. Lý do chọn Bình Định

Trước hết, xin nói về các dự án âm nhạc dân gian. Trong kế hoạch hoạt động của Nhà xuất bản Âm nhạc, mỗi năm nhà xuất bản thực hiện một dự án trọng tâm về âm nhạc dân gian nhằm góp phần bảo tồn, phát huy và quảng bá giá trị văn hóa - âm nhạc đặc sắc của dân tộc tới đông đảo công chúng trong và ngoài nước. Trước khi giới thiệu một loại hình nghệ thuật, chúng tôi chú ý tới tiêu chí thực hiện sao cho bao quát nhất không gian nghệ thuật cũng như vị trí địa lý nơi mà nghệ thuật đó tồn tại và phát triển nhằm giới thiệu tới công chúng một bức tranh khái quát nhưng cô đọng về nghệ thuật truyền thống đó. Đối với nghệ thuật Bài chòi, ban đầu chúng tôi muốn hướng tới đó chính là tất cả các địa phương được coi là vùng đất của Bài chòi trải dài từ các tỉnh thành từ Đà Nẵng tới Khánh Hòa. Cá nhân tôi mất gần một năm tìm hiểu qua các tư liệu, trên các phương tiện truyền thông và trò chuyện với GS Hoàng Chương cùng các nhà nghiên cứu am hiểu về nghệ thuật này. Sau hai lần tiền trạm, trực tiếp tới các địa điểm để tìm hiểu về nghệ thuật này vào tháng 12/2011 và tháng 5/2012, tháng 6 năm 2012 chúng tôi mới chính thức trở lại Bình Định để tổ chức thu âm ghi hình cho các tiết mục nằm trong DVD với tên đầy đủ là “Nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định”.

Sở dĩ từ ý định thực hiện ở nhiều tỉnh thành chuyển sang chọn đại diện tỉnh Bình Định bởi đây là địa phương duy nhất đang tồn tại tất cả các hình thức sinh hoạt của nghệ thuật thuật Bài chòi từ dân gian đến sân khấu chuyên nghiệp. Đặc biệt, hội chơi đánh Bài chòi cổ dân gian, một hình thức nguyên sơ nhất của nghệ thuật Bài chòi hiện chỉ còn duy nhất ở Bình Định sau những nỗ lực phục hồi của địa phương.

2. Nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định

Qua tìm hiểu, có thể bước đầu khẳng định, sự độc đáo của nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định được tạo thành từ tất cả các yếu tố cấu thành nên nó.

Ca từ trong các câu thai

Ca từ là một trong những nét thú vị nhất của nghệ thuật Bài chòi dân gian. Như nhiều loại hình nghệ thuật khác, Bài chòi khai thác vốn thơ ca dân gian để vận dụng vào các câu thai. Bên cạnh đó, các Hiệu còn sáng tác hoặc ứng tác trực tiếp trong lúc hô thai. Câu thai với nhiều nội dung đề tài khác nhau nhưng thường dễ nhớ, dễ thuộc được trình bày dưới dạng hát thơ, chủ yếu thể lục bát. Nội dung câu thai phải liên quan tới con bài vì thế trong lúc anh Hiệu hô người chơi và người xem có thể đoán được đó là con bài gì. Điều này khiến hội chơi thêm phần hồi hộp và hấp dẫn. Mặt khác, những câu thai bên cạnh chức năng để giới thiệu con bài thì bao giờ cũng ẩn chứa những thông điệp nhất định. Thông điệp ấy là quan niệm về nhân

28

Page 29: Nghệ thuật bài chòi

sinh quan, là vốn sống được chắt lọc từ đời sống thực tiễn hay thể hiện tâm tư, tình cảm, mong ước của nhân dân...

Để gửi gắm nỗi nhớ nhung, đề cao sự thủy chung tình yêu đôi lứa được các nghệ nhân vận dụng vào câu thai Cửu Điều (nghệ nhân Minh Đức hô) như sau: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều/ Trăm mối khó gỡ trăm điều lại mang/ Chiều chiều lại nhớ chiều chiều/ Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai” Hay trong câu thai Cửu Chùa (nghệ nhân Lâm Tới hô), mượn những câu thơ để khuyên răn con người ta sống sao cho giữ trọn đạo hiếu với mẹ cha: “Cửa chùa cửa phật tu hành/ Tu nhà cha mẹ để dành cho con/ Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”. Cũng có những câu thai chứ đựng triết lý về cuộc sống, về đời người như câu thai Nhứt Nọc (nghệ nhân Minh Liễu hô): “Tay cầm chèo chống lái/ Mắt liếc bãi lều tranh/ Ở đây đưa rước bộ hành/ Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề/ Trải qua bãi bạc gành nghê/ Tứ mùa chèo chống đôi bờ sóng xao/ Thú vui ngang dọc một sào/ Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu/ Tiếng ai văng vẳng kêu đò/ Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người”.

Sự hóm hỉnh chính là một trong những nét nổi bật trong lời ca Bài chòi. Trong câu thai Lục Chạng (nghệ nhân Minh Đức hô): “Cá sanh một lứa ngang vai/ Chạng đà xứng chạng nào ai thua gì/ Có giỏi chú cứ đi thi/ Chú ăn xó bếp nằm thì chuồng trâu/ Thôi thôi tôi chẳng ưng đâu/ Chạng không xứng chạng đừng hầu uổng công”. Còn trong câu thai Tám Miếng (nghệ nhân Hoàng Việt hô): “Văn chương đựng không đầy lá mít/ Võ cũng không đá nổi miểng sành/ Nghe vua treo bảng cũng xòng xành đi thi/ Bảng đề chẳng biết chữ chi/ Mài nghiên múa bút cũng có khi hết ngày”

Âm nhạc trong hội chơi Bài chòi dân gian

Âm nhạc sử dụng trong hội chơi Bài chòi dân gian Bình Đình theo quan sát của tôi khá đơn giản nhưng lại đạt hiệu quả cao. Trong hội chơi Bài chòi dân gian, các Hiệu chỉ sử dụng 4 điệu cơ bản đó là: Xuân nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hò Quảng. Dẫu thế, bằng cách thể hiện Hiệu có thể truyền đạt được nhiều trạng thái khác nhau. Khi hô thai nghệ nhân chủ động chọn điệu sao cho hiệu quả nhất. Thường chỉ sử dụng một điệu ứng với một câu hô thai, đôi khi có sự kết hợp giữa hai điệu tạo thêm những màu sắc. Dù có thể thể hiện những tâm trạng khác nhau nhưng nổi bật nhất vẫn là màu sắc tươi vui, rộn rã. Đây cũng là điểm đáng chú ý của âm nhạc trong hội chơi Bài chòi dân gian; bởi lẽ, khi thể hiện ở lễ hội cần phải có những giai điệu có âm hưởng lớn, tươi vui, hóm hỉnh mới phù hợp với không gian lễ hội và đủ sức thu hút mọi người tới tham dự. Dàn nhạc trong hội chơi Bài chòi dân gian về cơ bản vẫn là các nhạc cụ cổ truyền dân tộc thường thấy trong phường bát âm. Tuy nhiên, biên chế có thể linh hoạt phụ thuộc vào điều kiện mỗi địa phương. Các nhạc cụ chính là đàn nhị và trống con.

Mặc dù, âm nhạc chỉ là phần phụ và là chất xúc tác trong hội chơi Bài chòi, song vai trò của nó lại hết sức quan trọng quyết định sự thành công hay không của một hội chơi Bài chòi dân gian.

1.3. Các hình thức sinh hoạt khác của Bài chòi Bình Định

Bên cạnh hội chơi Bài chòi dân gian, Bình Định còn có lợi thế là địa phương tồn tại tất cả các hình thức trình diễn khác của nghệ thuật Bài chòi như Bài chòi trải chiếu, Bài chòi lên giàn, Bài chòi chuyên nghiệp.

29

Page 30: Nghệ thuật bài chòi

Giống như những gánh Chèo, Xẩm ở miền Bắc, Tuồng ở miền Trung và Cải lương ở miền Nam, Bài chòi cũng hình thành cách gánh hát. Sau mỗi mùa hội chơi Bài chòi đầu xuân kết thúc, những nghệ nhân sẽ lập thành các nhóm đi khắp nơi biểu diễn. Đây chính là quá trình vận động để trở thành loại hình sân khấu kịch hát truyền thống. Khi các nhóm hát trở nên quy mô, quan tâm tới cách trang trí sân khấu và chú trọng tới hành động sân khấu của diễn viên, quá trình diễn biến của nhân vật, đồng thời truyền tải cả một câu chuyện lớn thì lúc đó Bài chòi lên giàn ra đời và chính thức trở thành một loại hình kịch hát dân gian. Tôi được biết, các nhóm hát ở Bình Định vẫn còn hoạt động đến những năm 1970. Và hiện nay, Bình Định vẫn còn một số nghệ nhân xưa kia là thành viên của những nhóm hát này. Hiện họ là những hạt nhân tích cực trong hoạt động phục hồi và phát huy nghệ thuật Bài chòi của địa phương. Đây là một thuận lợi đối với Bình Định.

Hơn nữa, theo tư liệu của GS. Hoàng Chương, nghệ nhân Nguyễn Kiểm, khi sân khấu bài chòi chuyên nghiệp được hình thành ở miền Bắc cùng với sự hình thành của Đoàn Ca kịch bài chòi Liên khu 5 thì lực lượng nòng cốt lúc bấy giờ là các nghệ sĩ người gốc Bình Định. Đoàn Dân ca kịch Bài chòi liên khu 5 chính là tiền thân của Đoàn Dân ca kịch Bài chòi Bình Định ngày nay, một đơn vị luôn được đánh giá hàng đầu của nghệ thuật này.

Bởi vậy, trong tất cả các tiến trình của sự phát triển nghệ thuật Bài chòi, trải qua từng giai đoạn, tôi cho rằng Bình Định luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng.

Nghệ nhân

Với nghệ thuật dân gian, nghệ nhân có vị trí đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng nghệ thuật cũng như sự tồn vong của nghệ thuật đó. Trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị âm nhạc truyền thống, cá nhân tôi cho rằng, với bất cứ nghệ thuật dân gian nào có được một nghệ nhân “tinh”, tức là thực sự xuất sắc có thể coi như báu vật sống đã là vô cùng quý giá. Chẳng hạn như trước đây nghệ thuật Hát Xẩm có cố nghệ nhân Hà Thị Cầu, ca trù có cố NSND Quách Thị Hồ, hay hiện nay Hát Xoan có nghệ nhân Lê Thị Tú… thì nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định theo đánh giá của cá nhân tôi dựa trên thực tiễn tìm hiểu và làm việc trực tiếp với nghệ nhân thì Bình Định có tới 3 nghệ nhân “tinh” đó là nghệ nhân Minh Đức, nghệ nhân Minh Liễu và nghệ nhân - NSUT Lâm Tới. Trong đó, nghệ nhân Minh Đức được sinh ra, lớn lên và biểu diễn theo gánh Tuồng của gia đình. Bên cạnh Tuồng, gánh hát của gia đình bà cũng thể hiện Bài chòi. Nghệ nhân Minh Liễu sinh ra trong gia đình có truyền thống Bài chòi. Ngay từ nhỏ bà đã tham gia gánh hát gia đình. Còn nghệ nhân Lâm Tới gắn bó cả cuộc đời với nghệ thuật Bài chòi. Ở ông có một nét duyên, hóm hỉnh rất riêng và một chất giọng cá tính mỗi khi ông giữ vai trò là anh Hiệu hô thai trong hội chơi Bài chòi.

Ngoài ra, Bình Định còn có lớp nghệ nhân lớn tuổi, được coi là bậc thầy chẳng hạn như NSUT Nguyễn Kiểm, một trong những người đặt nền móng cho sân khấu Bài chòi chuyên nghiệp. Có thể Bình Định còn có những nghệ nhân “tinh” khác mà tôi chưa có may mắn được tiếp xúc. Bên cạnh đó, lực lượng nghệ nhân Bài chòi của Bình Định tương đối nhiều, thuộc nhiều lứa tuổi từ cao niên đến trung niên và thanh - thiếu niên và trải rộng trên nhiều địa phương trong tỉnh.

Như vậy, nghệ thuật Bài chòi Bình Định hội tụ đủ các yếu tố mà không phải địa phương nào trong khu vực cũng có được.

30

Page 31: Nghệ thuật bài chòi

3. Vài ý kiến về bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi Bình Định

- Nghiên cứu và đề ra chiến lược phát triển hội chơi Bài chòi dân gian trở thành một đặc sản văn hóa gắn liền với lễ hội mùa xuân của Bình Định. Nói cách khác, giống như Quan họ của mùa xuân Bắc Ninh, nên xây dựng sao cho Bài chòi trở thành “thương hiệu” của mùa xuân Bình Định.

- Tạo điều kiện để các hình thức biểu diễn nghệ thuật Bài chòi có cơ hội đến tiếp cận với công chúng thông qua việc trở thành môn học ngoại khóa trong các trường học, chẳng hạn thay vì học một làn điệu hay bài hát dân ca bằng việc cho các em xem một buổi biểu diễn nghệ thuật Bài chòi do các nghệ nhân/ nghệ sĩ trực tiếp về trường thể hiện; mở các lớp học, các câu lạc bộ trong các trường học thu hút các em học sinh quan tâm đến bộ môn nghệ thuật này.

- Nghiên cứu và phóng tác hội chơi Bài chòi dân gian thành các hình thức chơi Bài chòi phù hợp với du khách phục vụ ngay tại các địa điểm du lịch trọng điểm của Bình Định.

- Tăng cường quảng bá nghệ thuật Bài chòi Bình Định trên các phương tiện thông tin đại chúng trung ương và địa phương nhằm mục đích sao cho Bài chòi không chỉ trở thành một nghệ thuật dân gian quen thuộc với người dân Bình Định mà còn đối với người dân trong nước và du khách quốc tế.

-----

Tạm kết

Tới đây xin tạm đưa ra một vài ý kiến về nghệ thuật Bài chòi Bình Định coi như kết luận trước khi khép lại bài tham luận này:

- Bình Định là địa phương duy nhất hiện nay tồn tại đầy đủ các hình thức sinh hoạt của nghệ thuật Bài chòi.

- Việc Bình Định chủ động phục hồi hội chơi Bài chòi dân gian và đưa nét truyền thống đặc sắc này của dân tộc trở lại đời sống tinh thần nhân dân địa phương thể hiện tâm huyết, tầm nhìn của các cấp lãnh đạo tạo được sự đồng thuận của nhân dân trong tỉnh.

- Dù có nhiều biến cố thăng trầm nhưng Bình Định là địa phương vẫn luôn duy trì được các hình thức sinh hoạt nghệ thuật Bài chòi dân gian thông qua sự bảo tồn, phát huy của chính các nghệ nhân sinh ra tại các gia đình và các địa phương có truyền thống gắn với nghệ thuật này.

- Bên cạnh các nghệ nhân uy tín, Bình Định còn có đội ngũ các nhà nghiên cứu am hiểu về nghệ thuật này và sự ủng hộ khách quan của đội ngũ học giả, nhà nghiên cứu, giới văn nghệ sĩ trên cả nước.

- Bình Định hiện nay là địa phương có được nhiều thành công nhất trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi.

31

Page 32: Nghệ thuật bài chòi

Chính vì những lý do trên đây, theo tôi, Bình Định hoàn toàn xứng đáng với vị thế trọng tâm của nghệ thuật Bài chòi. Đồng thời nên coi Bình Định là điển hình trong công tác bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi dân gian truyền thống và nhân rộng mô hình này ra các địa phương khác trong khu vực. Đây là điều hết sức quan trọng nhất là khi chúng ta đang hướng tới việc lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Hà Nội, ngày 3 tháng 9 năm 2013

NQL

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. GS. Hoàng Chương (chủ biên), Nguyễn Có. Bài chòi và dân ca liên khu 5. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007.

2. DVD Nghệ thuật Bài chòi dân gian Bình Định. Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 2012

3. Nguyễn Quang Long. Tư liệu khảo sát Bài chòi Bình Định lần 1 - tháng 12 năm 2011.

4. Nguyễn Quang Long. Tư liệu khảo sát Bài chòi Bình Định lần 2 - tháng 6 năm 2012.

5. Nguyễn Quang Long. Tư liệu trò chuyện với các nghệ nhân: NSUT Nguyễn Kiểm, Lâm Tới, Minh Đức, Minh Liễu và nhà nghiên cứu Nguyễn An Pha thực hiện trong các tháng 6,9 năm 2012.

LUẬN VỀ BỘ BÀI CHÒI

Nguyễn Văn Ngọc

Sở VT,TT và DL Bình Định

Trong kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa Bình Định mang vẻ đẹp định danh, độc đáo. Nói đến Bình Định là nói đến một địa danh văn hóa. Bình Định - miền đất võ, cái nôi của nghệ thuật hát bội, ca kịch bài chòi, võ cổ truyền… Và còn nhiều, rất nhiều giá trị khác đã được cả nước tôn vinh, trong đó có nghệ thuật bài chòi tồn tại bao thế kỷ. Rủ nhau đi đánh bài chòi - Để con nó khóc cho lòi rốn ra, câu ca xưa phần nào cho thấy sức lôi cuốn của trò diễn xướng nghệ thuật bài chòi đối với nhân dân lao động.

Bao đời nay, các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân Bình Định dành nhiều tâm huyết để sáng tạo, vun đắp cho nghệ thuật bài chòi. Và hội đánh bài chòi cũng nhận được sự hưởng ứng tích cực của công chúng thưởng thức. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập và phát triển, nghệ thuật truyền thống nói chung, bài chòi cổ dân gian nói riêng đang đứng trước thử thách của

32

Page 33: Nghệ thuật bài chòi

kinh tế thị trường và thị hiếu thẩm mỹ của khán giả. Nhiều người không khỏi lo lắng trước sự mai một của các làn điệu bài chòi cổ, về sức sống, những giá trị đặc sắc của nghệ thuật bài chòi, về giá trị của một thời vàng son nay không còn nữa. Xuân này, Hội đánh bài chòi cổ dân gian ở Bình Định lại tiếp tục diễn ra ở lễ hội Chợ Gò và một số điểm du lịch trên địa bàn tỉnh. Trong bài viết này, tôi ghi lại một số tư liệu qua quá trình tìm hiểu về nguồn gốc bộ bài chòi được sử dụng trong hội đánh bài chòi ở Bình Định nói riêng và ở một số tỉnh miền Trung Việt Nam.

Bài chòi, bài tới

Hiện nay, có một số nhà nghiên cứu đưa ra luận cứ rằng Ðào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn vào Nam, điểm dừng chân đầu tiên của ông là Bình Định; trước khi Cống Quận công Trần Đức Hòa tiến cử ông cho chúa Sãi - Nguyễn Phúc Nguyên. Ông giúp dân tăng gia sản xuất, các hoạt động vui chơi giải trí ở Bình Định và Quảng Ngãi. Đào Duy Từ đã dựa theo mô hình tiêu khiển ở các chòi canh miền núi mà sáng lập ra hội bài chòi. Từ lối sinh hoạt văn hóa nương rẫy, ông ứng dụng vào trò chơi đánh bài trên chòi, dần dần có tên gọi là hội đánh bài chòi. Về sau, hội bài chòi thường được tổ chức trong những dịp xuân nên được gọi là hội đánh bài chòi xuân.

Một thực tế cho thấy, mặc dù bài tới phổ biến khắp Trung - Nam bộ, nhưng bài chòi chỉ phổ biến ở Trung bộ. Có lẽ vì lý do này mà một số nhà nghiên cứu cho rằng bài chòi ra đời muộn mằn hơn hát bội, hát sắc bùa?

Bài tới, theo định nghĩa của tác giả Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quốc âm tự vị (1896, tập II, trang 455), là “Thứ bài bắt cặp, ai bắt được đủ cặp trước thì gọi là tới, nghĩa là đến trước, rồi cũng được ăn tiền”. Chúng ta không có cứ liệu nào để xác định thời điểm ra đời của bài tới, nhưng trò chơi bài bạc này trong bối cảnh phong hóa cộng đồng dễ phát triển và lan tỏa theo quy luật trình mở cõi về phương Nam. Có lẽ đó cũng là lý do mà bài tới phổ biến đến tận Nam bộ.

Từ đánh cờ tướng với 2 người chơi đã tích hợp nhiều yếu tố người trình diễn biến thành trò chơi cờ người diễn ra ở sân đình, chùa, những nơi sinh hoạt văn hóa lễ hội nói chung. Đây là một ví dụ. Từ bài tổ tam (người Quảng Nam gọi là tổ tôm), bài tam cúc biến thành tổ tam điếm (chòi) là những ví dụ khác. Ở đây bài tới đã tích hợp với ca nhạc, với chòi/ điếm với rạp/ sân khấu (ngày nay) để trở thành hội đánh bài chòi hấp dẫn. Bài chòi phát triển mạnh đến mức lấn át danh tiếng và cách chơi khác nhiều so với bài tới, nhưng về bộ bài để chơi bài chòi lại cũng là bộ bài để chơi bài tới, không thay đổi gì cho mấy.

Bài chòi, bài tổ tam

Bộ bài chòi có 30 con, chia làm ba pho, gọi là pho Văn, pho Vạn, pho Sách; mỗi pho có 9 con bài (quân bài) và một con bài Yêu (ba con bài Yêu: Ông Ầm, Thái Tử, Bạch Huê). Tên gọi con bài tùy từng địa phương có cách gọi di bản khác nhau. Con bài làm bằng giấy bời, hình chữ nhật (2x 8,5cm), in một mặt đồ án biểu trưng cho con bài và lưng phét màu đỏ sẫm.

Do sự giống nhau của bộ bài chòi, bài tới và bài tổ tam ở chỗ cả ba loại bài đều chia thành ba pho và ba con bài Yêu nên không ít nhà nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ nguồn gốc của bài chòi, bài tới và bài tổ tam có quan hệ với nhau. Thực ra, xét đồ án hình họa

33

Page 34: Nghệ thuật bài chòi

của các con bài tương ứng bài chòi và tổ tam, chúng ta thấy nhiều khác biệt: Bài tổ tam vẽ đa số là hình người Nhật (đầu, mình, tứ chi, dụng cụ cầm tay, vác vai và thêm vào đó là hình tháp (con Ngũ vạn), cá (con Bát vạn), trái đào (con Nhị vạn), thuyền buồm (con Ngũ sách). Còn ở bộ bài chòi thì đồ án trang trí mang tính trừu tượng và hình người trừu tượng, chủ yếu là bán thân hay mặt người. Bài tổ tam mang dấu vết bộ bài chòi là các biểu tượng và chữ Hán - Nôm xác định số thứ tự của con bài.

Chữ Hán - Nôm: Từ chữ nhất đến chữ cửu trên 9 con bài của pho Vạn; và các chữ ghi tên 3 con bài Yêu: Ông Ầm, Thái Tử và Bạch Huê (Bạch Tuyết).

Về biểu trưng, có hai loại: Hình tròn nhỏ có chấm ở giữa (tạm gọi là nút), hiểu là nút chỉ số điểm của mặt xúc xắc, cũng có thể hiểu là đồng tiến điếu và hình tượng đồng tiền nguyên/ tròn giữa vuông hoặc một nửa đồng tiền/ bán nguyệt.

Biểu tượng thể hiện “phức nghĩa”, đặc biệt là các đồ hình trên 9 con bài của pho Sách là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và theo đó có những biện giải khác nhau. Chẳng hạn như con bài Nhứt Nọc (có địa phương gọi Nọc Thược, Nọc Đượng) được gán cho hình vẽ biểu tượng dương vật và cho rằng nó có nguồn gốc từ Linga của văn hóa Chăm. Theo đó, con Bạch Huê lại được coi là âm vật (Yoni) của văn hóa Chăm. Thế là từ cặp Linga - Yoni, một số nhà nghiên cứu cho rằng bài chòi có gốc gác chi đó với văn hóa Chăm. Thậm chí từ đồ hình quân bài Ba Gà, có người liên tưởng đến hình khắc trên trống đồng Đông Sơn. Các biện giải quá mức này chủ yếu dựa vào sự diễn dịch chủ quan và sự đối chiếu có tính liên tưởng mông lung. Thực ra, cách gọi tên con bài bài Chòi, bài Tới là của dân gian, “coi mặt, đặt tên”, tức dựa trên hình tướng đặc trưng nào đó của hình họa mà gọi tên. Và như vậy, trong cái nhìn trực quan là có thể đạt được sự thích đáng cần thiết để có thể phân biệt các con bài.

Khi xưa, chữ Quốc ngữ chưa có, chữ Hán - Nôm cũng không phổ cập rộng rãi trong dân gian, đặc biệt đối với người bình dân thì không phải ai cũng đọc được mặt chữ Hán - Nôm in trên con bài, thì các biểu tượng “nút” và “đồng tiền điếu” có chức năng chỉ số (nhất đến cửu) cho các con bài pho Văn và pho Sách. Đó là các ký hiệu để phân biệt các con bài của bộ bài chòi. Còn đồ hình ở pho Sách được các nhà nghiên cứu biện giải đa tạp, thật ra là hình vẽ các chồng, xâu tiền điếu cộng với dãi uốn cong như hình con rắn, để chỉ rõ chúng thuộc pho Sách. Sách, chữ Hán có nghĩa là dây (ví dụ Quyến Sách nghĩa là dây lụa). Nếu gọi là có mối quan hệ giữa bài chòi với bài tổ tam là hình vẽ dây lằng ngoằn, là một trong các bằng chứng tương đối rõ ràng nhất. Một bằng chứng khác, là con bài Bạch Huê (Bạch Tuyết) của bài chòi, bài tới tương ứng với con bài thang thang của bài tổ tam.

Nói chung, tuy có một số điểm tương đồng giữa bộ bài chòi, bài tới, bài tổ tam, xong xét một cách tường tận hơn thì có nhiều điểm bất cập. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thật dài hơi, đối chiếu với các loại bài giấy (chỉ bài) khác, đặc biệt là các loại bài gốc từ Diệp tử mã điếu của Trung Quốc.

Bài chòi, bài diệp tử mã điếu, bài toàn đối

Hình thức cờ bạc phổ biến nhất ở Trung quốc thời cổ là gieo xúc xắc. Một số trò trực tiếp thắng thua dựa vào kết quả của việc gieo xúc xắc; còn có nhiều trò phải kết hợp gieo xúc xắc với đánh cờ, đánh bài mới có thể quyết định thắng bại. Ngoài xúc xắc, hình thức cờ bạc tương đối quan trọng khác là bài xương, ra đời vào niên hiệu Tuyên Hòa thời Bắc Tống. Bài

34

Page 35: Nghệ thuật bài chòi

xương hoặc bài ngà, trên thực tế là biến thái từ xúc xắc, trên mặt mỗi con bài là do hai mặt xúc xắc kết hợp lại thành các con bài có điểm (nút) lớn nhỏ khác nhau. Đó là cội nguồn của hình nút (hình tròn nhỏ có chấm ở giữa) trên một số con bài của bộ bài chòi, bài tới đã nói ở phần trên.

Ngoài bài xương, bài ngà ở Trung Quốc còn phổ biến loại bài giấy. Thời cổ gọi là Diệp tử (xuất hiện từ thời Đường), đến thời nhà Minh, nhà Thanh trò chơi bài lá này đặc biệt thịnh hành. Bài diệp tử có hai loại: Diệp tử in theo điểm số của bài xương in ra và diệp tử mã điếu thì dùng nhiều lớp giấy bồi in lên. Diệp tử có 40 lá, chia làm 4 môn (pho): Thập tự, Vạn tự, Sách tự, Văn tiền.

Bài diệp tử mã điếu lưu hành từ niên hiệu Vạn Lịch thời Minh, đến đời nhà Thanh biến đổi thành bài mặc hòa, chỉ còn lại 3 pho: Pho Vạn, pho Sách và pho Văn. Ngoài loại bài mặc hòa, còn có một số loại biến thể khác như đấu hổ, chỉ trương.

Những dữ liệu về loại bài diệp tử mã điếu đã chỉ ra mối quan hệ loại bài này với bài chòi, bài tới, bài tổ tam, có số lá con bài, cơ cấu ba pho và đồ án hình họa tương đồng về phần “lý’; còn về phần “biểu” thì phải nói đến Đông Quan bài.

Đông Quan bài (bài Đông Quan) còn gọi là bài toàn đối, vốn xuất xứ và phổ biến ở huyện Đông Quan (Quảng Đông - Trung Quốc). Bộ bài này gồm 120 lá, chia làm bốn bộ (mỗi bộ 30 con bài), mỗi bộ có ba pho: Văn, Vạn, Sách, mỗi pho có 9 con bài, và 3 con bài lẻ (gọi là 3 con bài đặc biệt, bài Yêu): Đại hồng, Tiểu hồng và Bát xuyến. Các con bài của ba pho đều mang số từ 1 đến 9. Hình học của pho Văn và pho Vạn cũng dùng hình quan tiền và nút làm biểu tượng chỉ số điểm. Riêng pho Vạn vẽ hình nhân vật, trên mỗi lá bài có ghi số điểm bằng chữ Hán (Nhất…, Cửu).

Một vài nhận định

Về mặt đồ án (hình họa), mối quan hệ của bộ bài chòi, bài Tới với loại bài diệp tử mã điếu và đặc biệt là bài Đông Quan (Trung quốc) là rõ ràng hơn và trực tiếp hơn so với bài tổ tam. Theo đó, các biểu tượng của hình họa trên các lá bài của bài chòi, bài tới được hiểu tự sự đối sánh với các loại đồ án và chức năng khu biệt “danh - số” của diệp tử mã điếu và toàn đối.

Các con bài thuộc pho Vạn: Có chữ viết Hán tự, người bán thân và đồ án trang trí ở dưới cùng. Ở các con bài này, hình người bán thân hẳn bắt nguồn từ nhân vật Hý khúc hay nhân vật Thủy hử thuộc pho Vạn của diệp tử mã điếu và toàn đối. Đối với bộ bài chòi, bài tới trong chừng mực nào đó là mặt tuồng (hát bội) – loại hình “Hý khúc” chiếm vị trí thống trị một thời ở các tỉnh Trung bộ nói chung, Bình Định nói riêng, nơi bộ bài chòi, bài tới thịnh hành. Đặc trưng nhất là đôi mắt xếch, rất tuồng và đặc trưng khu biệt là khăn, mũ đội đầu như học trò (Nhứt trò), thầy (Cửu chùa) đội mũ Tì lư.

Bài diệp tử mã điếu có 4 pho, đến thời nhà Thanh biến đổi thành bài mặc hòa, đấu hổ, chỉ trương có 3 pho. Điều này cho phép đoán định niên đại ra đời của bộ bài chòi, bài tới ở nước ta sớm nhất trong thời nhà Thanh (Trung quốc), giữa cuối thế kỷ XVII trở về sau. Song vì lý do khách quan, bài chòi đòi hỏi tính tiêu khiển tập thể cao, mang tính cộng cảm cao và nhiều lý do khác nên ít thấy lưu lạc vào vùng đất Nam bộ theo chân các vị khai khẩn vùng đất mới.

35

Page 36: Nghệ thuật bài chòi

Tại cuộc hội thảo khoa học “Phát triển sân khấu ca kịch bài chòi miền Trung” do Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại Nha Trang tháng 10/1991, có ý kiến cho rằng: Cái gốc của các làn điệu cổ, xuân nữ, xàng xê... đang sử dụng trong hát bội, cải lương đều bắt nguồn từ bài chòi mà ra. Hư thực thế nào, vấn đề đang còn tranh luận. Duy nhất một điều được mọi người đồng ý với nhau: Là các điệu thức trong hô bài chòi có nhiều nét tương đồng với hát bội và cải lương. Đây không phải là sự pha tạp để làm mất cái nguyên gốc ban đầu của chính nó, mà chỉ thêm vào để một bài hô hay hơn và cùng song hành trong đời sống làng xã nông thôn Bình Định nói riêng, vùng đất miền Trung nói chung.

Đánh bài mặc hòa, đấu hổ, bài xì, tứ sắc, roulette hay cờ tướng... nếu không vay mượn của phương Tây thì cũng vay mượn của Trung Hoa, ngược lại đánh bài chòi là hoàn toàn của người Bình Định, người Việt Nam, do người Việt Nam nghĩ ra, không chịu ảnh hưởng nước ngoài nhiều, song cũng phải thừa nhận đã tiếp thu có chọn lọc của loại hình bài diệp tử mã điếu và toàn đối. Tên gọi của những lá bài hầu hết đề tên Nôm, rất ít từ Hán -Việt. Những chữ Hán, chữ Nôm trên các lá bài trộn lẫn vào nhau hầu như không theo một định lệ, khuôn thước nào. Điều này đủ để giúp chúng ta hiểu thêm tinh thần độc lập của người Việt, đồng thời chứng minh rằng đánh bài chòi là một trong những kiểu thức đặc trưng của văn hóa dân gian Bình Định, cũng như miền Trung Việt Nam.

Tính đơn giản trong tên gọi, khiến cho trò chơi đánh bài chòi được phổ thông hơn. Nó không giới hạn trong tính cách của người chơi, không ẩn dụ sau cánh cửa của các nhà quyền quý, cao sang mà cho tất cả mọi người cùng tham gia. Như vậy “Tính chất phổ thông hóa, bình dân hóa của trò chơi đánh bài chòi dễ kết nạp thêm yếu tố, một lối ca hát có nguồn gốc sâu xa vào trong sinh hoạt dân gian của người dân Bình Định nói riêng và các tỉnh Nam Trung bộ Việt Nam./.

N.V.N

ĐI TÌM DI SẢN BÀI CHÒI BÌNH ĐỊNH

TS.Đinh Bá Hòa

Bảo tàng Bình Định

Trong nền nghệ thuật dân gian ở Bình Định còn một loại hình nghệ thuật khác được người dân lao động ưa thích không kém gì hát bội, đó là bài chòi. Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng định nghĩa đơn giản và được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận nhất về bài chòi: là một kiểu đánh bài ngồi trên chòi mà đánh.

Một loại hình sân khấu truyền thống của Bình Định và một số tỉnh miền Trung được nhiều người ưa thích.

Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để cho con khóc tới lòi ruột ra

- Cách thiết kế một sân chơi bài chòi :

36

Page 37: Nghệ thuật bài chòi

Cách chơi bài chòi cũng rất giản dị, ít tốn kém. Trước khi mở hội dân làng chọn một đám đất rộng khoảng 200m2, đám đất có thể là trước sân đình, miễu, một đám ruộng mới thu hoạch chưa cày hoặc một đám gò đất hoang. Cách bố trí dựng chòi có 3 dạng, hình thuẫn, hình tròn, và hình chữ U ..Chòi được dựng theo hai kiểu, chòi kiểu không có sàn và chòi có sàn. Chòi không sàn gọi là chòi trệt, giống kiểu chòi giữ lúa; chòi có sàn, giống kiểu chòi giữ rẫy. Chính giữa các chòi người ta dựng một chiếc chòi được trang hoàng đẹp đẽ để trống 4 vách, chòi này gọi là chòi Cái. Thông thường người ta kê một tấm phản rồi làm mái che. Chính giữa đám đất sát chòi cái người ta chôn hai ống hoặc bốn ống tre để đựng thẻ bài. Một ống đựng thẻ đang chơi, một ống đựng thẻ thu về. Trong chòi cái có tốp nhạc công gồm các nhạc cụ đàn, kèn, sênh, trống mang tính cây nhà lá vườn không câu nệ cầu kỳ, và tham gia một cách tự nguyện, không phải thuê mướn. Xoay quanh chòi cái là những chòi con gồm 9 cái, chòi cất cao hơn qúa đầu người ba mặt vây kín, mặt để trống hướng tâm, bước lên chòi người ta làm một chiếc thang nhỏ leo lên, leo xuống, sàn chòi đủ để trải một chiếc chiếu hoa đủ chứa 3 - 4 người ngồi. Trên bậc thang lên xuống, trước mặt sàn chòi, có treo một chiếc mõ hoặc một chiếc trống tum, một khúc cây chuối tươi hay một bó rơm cột chặt dùng để cắm thẻ. Các chòi con cất cách nhau cứ 3 m một chòi. Chín chòi con này gọi là chín chân bài .

Chòi trung tâm được dựng tại một cạnh nối các chòi con thành một vòng tròn, chòi này cũng giống như chòi cái được dựng lên che bộ phản ngựa làm sàn. Một cạnh trong của bộ phản kê hai chiếc trống chầu, trước hai chiếc trống chầu được kê một chiếc bàn to. Trên bàn để khay tiền và đống lá cờ hiệu kiểu đuôi nheo bằng giấy hồng, cắt xéo hình tam giác rồi dán lên cán tre chẻ nhỏ. Những người có địa vị, uy tín trong làng ngồi ở chòi trung tâm này. Người tham dự đứng vây quanh các chòi để thưởng thức các bài ca, tiếng nhạc, xem múa và vui đùa.

- Con bài : Đánh bài chòi, người ta dùng con bài tam cúc dán lên thẻ. Mỗi con bài gồm có tên bài và hoa bài. Mỗi bộ có 27 cặp, tên bài là cái tên nôm na, dí dỏm gần với cuộc sống thường ngày của người dân lao động như Nhất Nọc, Nhì Nghèo, Ba gà, Tứ Tượng, Ngũ Dít, Lục Chạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Điều....Ông Ầm, Bạch Huê, Đổ ruột ... Tên bài có thể gồm cả tên chữ và tên nôm. Không cần có sự trong sáng, đã gọi theo tên chữ thì ghép hai tên chữ hoặc ngược lại. Ví dụ: Con cửu chùa chứ không gọi là con cửu tự; con bảy liễu chứ không gọi là con thất liễu ...

Tên bài không hạn chế, sự tự do định danh của người tham gia, cho nên có tình trạng mỗi người gọi mỗi khác, mỗi nơi có một cách gọi khác nhau. Hoa bài là những hình vẽ trên thân bài, sinh động và lạ mắt.

Thẻ có hai loại, thẻ bài con và thẻ bài cái; thẻ bài con là thẻ của những con bài, thẻ bài cái không có tên riêng nhưng lại có 3 hoa bài.

Pho: Trong bài chòi một bộ có 30 con (cặp) chia làm 3 pho, một yên; một yên có 3 con: lão, thang, chi. Một pho gồm 9 con bài, ba pho là pho văn, pho sách, pho vạn. Thứ tự các con bài trong ba pho lẫn lộn giữa hai cách gọi giữa Hán và Việt. Các tên gọi thuần Việt được xuất hiện trong các pho.

Pho văn : Chín, ba, sáu, bảy, tám.

Pho vạn : Không có.

37

Page 38: Nghệ thuật bài chòi

Pho sách : Ba, sáu, bảy, tám.

Cách gọi thứ tự các con số hình như ta thấy phảng phất về một kiểu triết lý của người Việt về sự ưa thích các con số, sáu, bảy, tám, chín.

Cách đánh bài chòi : Một chân bài chòi là một cửa hay một cột bài. Chín chân bài gồm chín cửa hay chín cột bài. Người điều khiển cuộc chơi gọi là anh Hiệu. Muốn giữ một chân bài trước khi lên chòi phải bỏ tiền mua một thẻ bài cái, cũng có thể người tham dự cuộc chơi bước lên chòi. Khi bắt đầu cuộc chơi anh Hiệu mang ống bài cái leo lên từng chòi rút bài, trả tiền cho vào một cái khay. Anh Hiệu đứng ở chòi cái rút trong thẻ đựng con bài, một thẻ. Rút được con nào anh hô con đó. Các chân bài ngồi trên các chòi nhìn vào thẻ bài cái của mình. Nếu thẻ bài cái của mình có hai con bài đã hô thì chân bài đánh ba tiếng mõ hoặc ba tiếng trống tum, báo hiệu tên con bài đó đã ứng vào thẻ bài cái của chòi mình. Đúng là một hiện tượng kẻ hô người ứng. Anh Hiệu leo lên trao bài trong tiếng nhạc chúc mừng .

Tới : Là khái niệm chứng tỏ một chân bài đáp ứng với ba con đã vẽ trên thẻ bài cái của mình. Lúc này người chơi đánh một hồi mõ kéo dài báo hiệu sự vui mừng bài đã tới. Trống chầu ở chòi trung tâm được tấu lên để chúc mừng. Kết thúc một ván, tiền mua chân bài 9 chòi được để trên một cái khay. Anh Hiệu mang khay tiền và lá cờ đuôi nheo lên trao cho chòi được tới. Có khi người được chỉ nhận lá cờ còn tiền thì thưởng cho anh Hiệu. Anh Hiệu thu các con bài để chuẩn bị chơi hội tiếp.

Hô bài chòi, là hình thức tập trung nhất về mặt nghệ thuật, hô được xem như làn điệu gốc của ca kịch bài chòi. Hô tên con bài nhưng thực chất là hát lên những điệu có liên quan tới con bài, thường là một câu đố vui, dí dỏm để các chân bài và người dự hội đoán được tên con bài. Hô bài chòi được gọi là hô thai. Hô thai là cách nói rút gọn và phổ biến ở miền Trung. Thực chất là hô thẻ bài, nhưng nói nhanh thành hô thai. Anh Hiệu, người điều khiển cuộc chơi bài chòi bằng lời ca câu hát. Anh Hiệu phải là người có tài xuất khẩu thành thơ, sự ứng khẩu linh hoạt của anh có tác dụng tập trung chú ý của mọi người tham gia dự hội. Anh Hiệu phải là người thuộc hàng trăm bài thơ khác nhau, hàng ngàn câu ca dao, biết hát nam, hát khách ... những điệu có liên quan đến nghệ thuật tuồng rất phổ biến ở địa phương. Do sự điều khiển, lời hô dí dỏm của anh mà làm cho không khí trong hội đánh bài chòi thêm sôi động, kích thích sự chú ý của các chân bài và người tham gia dự hội, khêu gợi được sự tò mò suy đoán của mọi người. Người ngồi trên chòi hào hứng lắng nghe để hy vọng chân bài của mình sẽ tới, thả trí của mình theo lối diễn xướng của anh Hiệu để cầu mong một sự tốt lành vào dịp đầu xuân, đón hên xui ngày xuân 1.

Một ván bài có khi kéo hàng giờ, và ít khi một chòi ăn liên tiếp hai, ba con, trước khi hô tên con bài chú Hiệu phải theo tiếng đàn, nhịp trống, hô một câu ý nghĩa ăn với một con bài rút được, câu ngắn nhất 14 chữ, nhiều khi còn kéo dài hàng trăm chữ, vừa hô vừa điệu bộ như hát bội. Thỉnh thoảng xen đôi câu hát nam, hát khách ... cho thêm vui 2.

Bài chòi là một trò chơi dân gian thường được diễn ra vào mùa xuân, người ta đến xem ngoài mục đích tiêu khiển vui chơi trong ba ngày tết, còn có mục đích là đến nghe anh Hiệu thuật chuyện đời để suy ngẫm, lại có mạch lạc đi qua những tính khí khác nhau của những

1 . Diệp Đình Hoa, Bài chòi sân khấu ca kịch dân gian Bình Định, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, 1999, tr. 40-45.2 . Quách Tấn, Sđd, tr. 425 - 426.

38

Page 39: Nghệ thuật bài chòi

con người mà chỉ có anh Hiệu tự cải biến. Bài chòi giờ đã mang khái niệm bài thơ, bài hát. Ngoài ba ngày xuân bà con còn mời anh Hiệu đến sân nhà, rủ hàng xóm góp nông phẩm hoặc chút ít tiền thưởng khích lệ để nghe bài chòi kể chuyện cần giải tỏa những vướng mắc trong cuộc sống hàng ngày, như các bài "mẹ chồng nàng dâu" ăn ở ra sao cho phải đạo, hoặc "Giữ gìn khi thai nghén" dành cho những cô sắp lấy chồng biết cách sau này ăn kiêng ở cữ ... Thỉnh thoảng anh Hiệu quên, nhất là Hiệu mới thì có người nhắc hộ .Thế là các Hiệu kết nhau từ toán đêán "gánh " quanh năm đi vào làng khi đám cưới, khi khánh thành tân gia hoặc lễ mừøng thọ với những bài ứng khẩu chúc tụng ... Sau đó lại kể tích Quan Công phục Hoa Dung, Tề thiên đại thánh chiếm quạt ba tiêu của La sát ...

Cứ thế các Hiệu tiếp tục hành nghề và bộ sậu làm ăn đó đã phải kéo theo trống chiến, đàn nhị, mõ tre phối hợp bằng lối nhịp ba phách mỗi ô trải đều theo vần lục bát vừa sôi nổi qua nhịp nhanh, vừa thiết tha trong nhịp chậm dễ đi vào tâm hồn người lao động nông thôn.

Khi buồn phảng phất nét nam ai. Khi giận lại nhấn kiểu hát khách hoặc tẩu mã. Khoan thai đài các nhờ có vài luyến nam xuân.

Hài hước thì quay lại điệu xuân nữ nhưng tăng cường với trong nhịp và đẩy mức hóm hỉnh qua cách diễn kể. Nhưng tất cả vẫn tụ về với sắc riêng bài chòi. Đó là loại hình văn nghệ có tiết tấu độc đáo trên vần lục bát. Dù tiếp thu nhiều giai điệu của tuồng cổ cũng để vun cho cái gốc bài chòi bền vững và đi lên. Một môn văn nghệ dân gian ra đời và hình thành luôn gắn bó mật thiết như hai cực âm dương. Đó là quần chúng - nghệ nhân và nghệ nhân với quần chúng. Mà bài chòi từ đây đủ sức đưa các truyện dân gian như. Thoại Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa ... lên "sân khấu trải chiếu". Thuật ngữ xưa gọi "bài chòi từ đất lên giàn". Giàn có nghĩa - Dàn kịch mục - Dàn diễn viên và dàn nhạc sơ khai.

Đây được xem là điểm hẹn ra mắt sau những tháng năm bài chòi có duyên nợ vài cô dâu mặc cho ai đó thốt câu mỉa mai.

Phải chăng là gái lạc nòi

Theo gánh bài chòi chẳng kể mẹ cha

Dưới bóng rợp mái xanh làng dừa, người dân Bình Định vẫn tụ quanh tấm chiếu hoa bài chòi để nghe "chàng Bảy" "nàng Bốn" quê mình vẫn đưa giọng dẫn nhịp cho vơi bớt nỗi cực nhọc hàng ngày. Nhất là lớp trung niên trở lên, ngồi trầm tư qua khói thuốc miếng trầu mà thấm điều nhân ái, đạo nghĩa trong những câu chuyện ngày xưa. Thường các bà các chị, lại thích có chút bi thảm. Cứ mỗi lần Thoại Khanh tự róc thịt cắt tay nuôi mẹ chồng trên đường tìm Châu Tuấn , hay nàng Cúc Hoa hiện hồn bắt chí cho con trong truyện Phạm Công là mỗi lần chéo áo, khăn trầu các mẹ, các chị thấm đầy nước mắt ... Rồi lại sờ túi dăm xu cắc chắt chiu cho con cháu bài chòi. Cái hay và tính dân gian của bài chòi là người diễn viên có thể một lúc đóng rất nhiều vai trong một vỡ diễn, vừa thấy đóng Cúc Hoa nhưng một màn khác người ta lại thấy chị đó đóng vai Nghi Xuân, Tiến Lực, sự thay đổi vai có phần đột ngột nhưng người xem hầu như bị cuốn hút vào vở diễn, và gần như họ cũng nhập vai luôn lúc nào không biết. Thường thì bài chòi diễn ở các làng đều là những vở ngắn, không dài mang tính trích đoạn hơn, sân khấu không đòi hỏi, một góc sân hay một không gian nhỏ hẹp nào đó cũng có thể phục vụ được quần chúng. Khác với hát Tuồng thì có trống chầu, thưởng theo nhịp trống. Còn bài chòi có thể mang tính chất "xung kích" hơn, số lượng khán giả nhiều khi không đông, chỉ nội bộ trong một vài gia đình, hay một gia đình cũng có thể biểu diễn được.

39

Page 40: Nghệ thuật bài chòi

Thù lao có khi là tiền, nhưng có khi chỉ là sản phẩm nông nghiệp như : Lúa, gạo, ngô, khoai, sắn ... Hiện nay trên một số làng quê còn có những diễn viên dân gian như vậy. Khán giả luôn trung thành với họ là trẻ con trong từng thôn xóm mà họ đến.

Nhất là đám trẻ con bám sát gánh bài chòi di dời, đứa ôm giúp trống đàn, đứa cuốn chiếu vác theo đến từng xóm, từng ngã ba đường làng rồi ngồi chồm hổm chung quanh rồi giương mắt chờ cái thú vị trong anh chàng "bá nghệ" mà chúng thường buộc các chú phải cho nghe trước khi kể chuyện dài với người lớn , thế là chú Hiệu hát đến đâu chúng nhịp môi theo đến đó rồi ôm nhau cười lăn ra nhất là đoạn cắt tóc cho trẻ con.

...Thình lình chân nó đạp đầu nó xoay

Một tay bên trái tôi phay đi liền ...

Có đứa nài nỉ ba ông Phước - Lộc - Thọ cãi lại cho nghe. Cái khoái của chúng còn mang theo ra bãi cỏ chăn trâu, bò, ra đêm trăng bến cát đứa kể đứa nhắc, cả những đêm gia đình rỗi rãi bên ngọi đèn dầu chị nhịp em hô. Có đứa nhại lại chú Bảy, anh Bốn bài chòi giống hệt cả giọng điệu và bộ dạng khiến cả nhà vui như tết. Lúc này lại có câu mẹ hoặc cha ứng khẩu :

Bài chòi mình kể mình nghe

Tiền giành đi chợ tội gì đem cho

Là loại hình nghệ thuật dễ đi vào mọi tầng lớp nhân dân, cho nên nó đã được sử dụng trong công tác tuyên truyền đuờng lối chính sách của Việt Minh. Ở Bình Định, trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, bài chòi vẫn là hình thức tập hợp dân chúng để ttuyên truyền, nghe phổ biến các chỉ thị của Mặt trận Việt Minh, của Bác Hồ về công tác hậu phương hoặc tin thắng trận gởi về đều được ban thông tin làng bài chòi phát thanh với chiếc loa mo cau cuốn tròn cùng tiếng trống, tiếng nhị đưa điệu bài chòi với nội dung kháng chiến đến với mọi người như :

Giặc Tây là giống yêu tinh

Mình không đánh nó, nó đánh mình tiêu tan

Anh này khan tiếng thì chị khác lên thay làm cho không khí 9 năm kháng chiến, đêm phát thanh nào cũng như mang âm hưởng mùa xuân.

Từ Hội bài chòi mùa xuân cho bà con bói lộc với vài ba bài anh Hiệu rồi dần dần thành nghệ nhân như: Năm Khá, Chín Qúi, Năm Trong, Nguyễn Đốc và nhiều người được nhà nước phong danh hiệu nghệ sĩ Ưu tú, nghệ sĩ Nhân dân3. Bài chòi Bình Định một môn nghệ thuật dân gian đã trở thành sân khấu chuyên nghiệp phát triển ngày càng phong phú, đa dạng ...

Về nguồn gốc của loại hình nghệ thuật này, đã có nhiều cách giải thích khác nhau, trong cách lý giải đó, không chỉ có những nhà nghiên cứu Việt Nam mà còn có cả học giả nước ngoài. Giới nghiên cứu cho rằng bài chòi là một sản phẩm của riêng Bình Định và Phú Yên nhưng thời gian đích xác nó ra đời vào lúc nào thì đến nay chưa ai xác định được. Có tài

3 . Nguyễn Kiểm, Văn hóa cổ truyền các làng quê Bình Định, Sđd, tr. 286-291.

40

Page 41: Nghệ thuật bài chòi

liệu căn cứ vào sự phát triển của lịch sử dân tộc để nói đến sự phát triển của bài chòi. Trong khi đó một vài tài liệu khác thời lại xác định dấu mốc thời gian một cách rất mơ hồ.

Trước hết là cố nhà nghiên cứu Quách Tấn cho rằng: "bài chòi có từ lâu, nhưng bày ra điệu hô thì mới độ 50 - 60 năm nay" "có từ lâu" là từ thời nào ? Còn điệu hò chỉ cách chúng ta 70, 80 năm nay thôi sao?.

Trong khi đó, tác giả Vũ Ngọc Phan lại cho rằng : " Thời xưa, bài chòi là một thứ bài mà nhân dân miền Nam Trung bộ dùng để vui chơi trong dịp tết”4 Ở chương "Dân ca miền Nam Trung bộ " này, tác giả cũng chỉ đề cập đến bài chòi một cách khá sơ sài, không làm thỏa mãn một ai quan tâm đến nó. Trong các hình thức sinh hoạt dân ca, tác giả Đặng Văn Lung viết " Hô bài chòi là lối bắt nguồn từ lối chơi bài bạc, song khi nó phát triển lên thì cũng trở thành một loại dân ca độc đáo của liên khu V “5. Cũng như các tác giả Quách Tấn, Vũ Ngọc Phan,Tạ Chí Đại Trường cũng đưa ra một số ý kiến không mấy làm chắc chắn về dấu mốc thời gian khi ông bảo: "Hát hò có đời sống riêng của nó trước khi nhập vào trò chơi thành một hình thức, rồi khi tách ra lại đem hình thức mới lấy cải biên theo những điều kiện ấy ... Hô bài chòi theo viễn tượng này rõ là xưa hơn đánh bài chòi " 6. Riêng G.L Bouvier, nhà âm học Pháp gốc Ba Lan đã từng đến Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX để nghiên cứu về những thể loại âm nhạc ở nước ta đã giành riêng một chương dài có tên là " la chanson populaire de L' An nam" trong quyển Larousse musicale để nói về bài chòi. Ông cho rằng "bài chòi được hình thành và phát triển sau những năm Nam tiến, tức là sau năm 1470 7. Trong chương này ông đề cập rất kỹ đến bài chòi, thậm chí ông còn so sánh những câu ca của chúng ta với những câu dân gian ở tận Algérie : Avec un sac plein de piastre sur ses épaules, même parlant à tort et à travers on est tonjours très écouté..." tạm dịch : "Vai mang bị bạc kè kè ; Nói quấy nói qúa nẫu nghe rầm rầm". Ông chỉ lý luận mà không đưa ra một dẫn chứng nào khả dĩ thuyết phục được người đọc. Đại loại khi xuôi về phương Nam, người Việt ra sức khẩn hoang từ vùng Amaravarti đến Panduranga (tức từ Quảng Nam đến Bình Thuận), đặc biệt họ đã thành công trong việc xây dựng kinh tế, văn hóa và đời sống ở vùng châu thổ Vijaya (Bình Định và Phú Yên) phì nhiêu. Được như vậy là nhờ có sự tập hợp rộng khắp và hợp lý cùng một lúc các dân tộc anh em lại thành một khối. Trong số đó, có nhiều người từ nhiều địa phương mang truyền thống văn hóa lâu đời trên khắp mọi địa phương ở phía Bắc đến. Vốn có sự tập trung phong phú và đa dạng, về mặt văn hóa như thế, nên nhân dân ta có điều kiện kết hợp, hòa thuận nhanh chóng với nền văn hóa của địa phương (dân tộc Chăm) đã sống lâu đời ở đây, cải cách một số dân ca, dân vũ để phù hợp với nếp sống của mọi người lúc bấy giờ... Bài chòi ra đời trong hoàn cảnh như thế.

Dù đã trải qua 500 năm cải tiến không ngừng về mọi mặt, đến nay vẫn còn một số làn điệu dân ca giữ lại được bản sắc ban đầu như các điệu lý, điệu hò : lý con sáo, ngựa ô, quét nhà... hò chèo thuyền, kéo vải, cấy lúa giã gạo ... đồng thời sáng tác ra hai bộ môn mới hát bội và bài chòi 8.

4 . Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, 1978, tr.743.5 . Nghiên cứu Văn học, số 5, 1973.6 . Nguồn gốc và tương quan của cải lương bài chòi, Tân văn, Sài Gòn, 1968.7 . Bouvier, Larousse mucicalle, Paris, 1928.8 . La Nhiên, Quê hương điệu hát bài chòi ( bản chép tay)

41

Page 42: Nghệ thuật bài chòi

Nếu căn cứ vào hai tài liệu của ông Bouvier và La Nhiên, thì bài chòi được hình thành theo một tính cách rất đặc biệt, cùng với các tụ điểm cư dân đông đúc ở các trung tâm thị tứ hoặc lẻ tẻ ở những vùng núi rừng xa xôi hẻo lánh trong thời kỳ Nam tiến. Tại những nơi này, những cư dân (mới) cất nhà và làm rẫy đều phải dựa vào phần lớn kinh nghiệm của đồng bào địa phương. Nhà ở, nhà kho, chòi giữ rẫy đều làm theo kiểu nhà sàn nhằm tiện việc tháo dỡ mỗi khi chuyển vùng canh tác hoặc chống thú dữ. Trong các điều kiện sinh sống như thế, nhân dân còn bày ra các trò chơi để giải trí. Họ nghĩ đến cách hò hát trên chòi, đối đáp lẫn nhau giữa chòi này với chòi khác. Tất nhiên " bài bạc " không thể không có trong tính cách sinh hoạt nhàn nhã như vậy. Do đó đã nảy sinh ra đánh bài trên chòi , mỗi người, mỗi nhóm một chòi và chòi này với chòi khác. Họ vui chơi "bài bạc " trong điệu hò lời hô. Và thế là đánh bài chòi hình thành. Qua thời gian đãi lọc, chắc rằng bài chòi cũng lần lần biến dạng để cuối cùng có kiểu đánh bài chòi như hiện nay .

Như vậy, bài chòi thoạt tiên là lối hát rồi dần dần do điều kiện kinh tế sung túc trong những năm được mùa hoặc những khi lễ hội, chuyển thành đánh bài, kiểu như đánh bài xì, tổ tôm, tứ sắc... Có điều không ai đánh bài chòi trên chiếu hoặc trên bàn, mà chỉ đánh giữa trời, trên chòi cao. Nếu như đánh bài cẩu, bài xì, tứ sắc hay Roullete ... không vay mượn của Tây thì cũng mượn của Tàu , từ con bài đến cách đánh đều hoàn toàn giống nhau. Riêng bài chòi, vì tính cách của nó hoàn toàn Việt Nam, do người Việt nghĩ ra, không hề bị ảnh hưởng ngoại lai dưới bất cứ hình thức nào. Những tên gọi của của các lá bài hầu hết là từ Việt nôm, rất ít từ Hán - Việt. Tên Hán tên Nôm trộn lẫn với nhau, lộn xộn không theo một một phép tắc ngữ pháp nào cả.

Đọc tên các lá bài trong ba pho trên ta thấy nó ít nhiều gây "khó dễ " cho bậc túc nho đương thời, và làm đau đầu những ai bỏ công ra nghiên cứu nó. Trước hết tiếng Hán, tiếng Nôm lẫn lộn trong các lá bài, khi thì lục chạng, bát bồng khi thì sáu thường, ba bụng. Còn nghĩa trong các lá bài thì đành chịu : Tử cẳng; Ngũ dít; Nhứt nọc , là ý chỉ cái gì hay biểu tượng vật gì không ai đoán được. Có người giải thích, có lẽ đó là tên lóng dùng để gọi một anh nông dân, chị kéo vải thời kỳ đó chăng ? Hoặc do tính dễ dãi của người đương thời nên cứ gọi bừa lên như vậy ? Nhìn vào hình vẽ trên lá bài ta cứ tưởng như là hoa văn trên các ngôi mộ cổ Ai Cập, đền Hy lạp, hay các đền thờ của người Hồi Giáo ... Nó có vẽ gì đó ngô nghê, chơn chất như lá Ba gà, Sáu hộc , nhưng đôi khi lại có nét vẽ nguệch ngoạc rất giống nét vẽ của trường phái hội họa siêu thực, lập thể như ở các lá bài Nhì nghèo, Tứ tượng ...

Cũng là bài chòi, nhưng ở Phú Yên khác với Bình Định. Ví dụ như lá Liễu ở Bình Định phía trên đầu có một vòng tròn xoắn ốc, ở dưới hoa văn là bốn nữa đồng tiền, giữa chúng có một lá nằm ngang trông tựa như dé lúa. Trong khi đó lá Liễu ở Phú Yên lại có những nét khác; trên đầu là hai nữa đồng tiền, giữa có hình như hai người ôm nhau, rồi tiếp hai nữa đồng tiền tiếp theo, và cuối cùng là hình vành khăn ở giữa sơn đỏ như hột nút.

Tại sao không có sự thống nhất giữa các bộ bài chòi, giới nghiên cứu giải thích rằng : bài chòi trước hết hô rồi mới đến cách đánh nên nó có cùng đặc điểm truyền khẩu về từ, nhưng nghĩa có thể bị sai lệch, mà đã là truyền khẩu thì sự sai lệch là chuyện thường tình xưa nay, có khi người ta xem như là một dị bản. Còn về màu sắc con bài, người ta cũng chỉ nhớ những đường nét chính yếu mà thôi, những nét phụ người có thể thêm vào. Cho nên, bài chòi khác với những loại bài khác, tức là không do các họa sĩ chuyên nghiệp vẽ mà toàn là do các nghệ sĩ dân gian vẽ, họ không ai khác là những ông Thập, ông Cửu, ông Thủ, ông

42

Page 43: Nghệ thuật bài chòi

Hiệu ...cũng cày cũng cuốc. Nếu không là thợ đúc đồng, thợ rèn, thì cũng là người đan rổ, nong, nia ...ngay chính trong làng. Giấy dùng để vẽ không cần giấy tốt mà có thể vẽ trên bất cứ giấy nào có được. Màu vẽ chỉ độc nhất dùng hai màu đen và đỏ, sau đó họ cắt dán lên thẻ tre, thật đơn giản. Giải thích về vấn đề này người ta cho rằng: Bài chòi không phải là một trò chơi phổ biến trong một vùng rộng lớn, nó chỉ phổ biến trong phạm vi từ đèo Bình Đê tới chân đèo Cả. Qua bên kia hai chân đèo, không nghe ai nói đến trò chơi này. Qủa là còn nhiều vấn đề phải bàn đến loại hình văn hóa dân gian này trên vùng đất Bình Định.

Bài chòi Bình Định là một di sản văn hóa phi vật thể, là sản phẩnm của nhân dân lao động, được tồn tại bền bỉ kể từ khi mảnh đất này trở thành vùng đất Đại Việt từ 1471 đến nay đã trên 600 năm. Từ Bình Định nó lan tỏa ra các vùng phụ cận như hiện nay,thiết nghĩ ta nên tự hào về điều đó, đã đến lúc phải nâng tầm di sản văn hóa này không chỉ là quốc gia mà phải là của nhân loại.

CẦN BẢO TỒN VÀ GÌN GIỮ LOẠI HÌNH

NGHỆ THUẬT DÂN GIAN BÀI CHÒI

Hồ Thanh Hải

Bài chòi là loại hình nghệ thuật dân gian được nhân dân cả nước nói chung và đặc biệt là nhân dân miền Trung rất yêu thích. Bài chòi ra đời rất lâu nhưng lại được phát triển thịnh hành nhất là giai đoạn nhân dân ta kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Đây là loại hình nghệ thuật dân gian trữ tình, trong sáng và sâu lắng lôi cuốn nhất trong nhân dân lao động của các tỉnh Nam Trung bộ ở cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ XX.

Từ một loại hình hô hát để đánh bài trong chòi do một ông Hiệu (trưởng chòi) diễn xướng bằng sự sáng tạo độc đáo theo lối dân gian, đã phát triển thành một loại hình nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh. Chính sự phát triển đó nó đã nâng cao giá trị của nghệ thuật bài chòi đến gần gũi với công chúng từ nội dung kịch bản, hình thức biểu diễn cho đến giai điệu ngọt ngào của âm nhạc.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân ca bài chòi đã trở thành món ăn tinh thần chủ yếu đối với đồng bào và chiến sĩ vùng giải phóng của khu vực nam Trung bộ ngày ấy. Vì bản thân bài chòi xuất xứ từ dân gian nên nó được nhân dân tự sáng tác lưu truyền trong phong trào quần chúng để ca ngợi, đả kích, nêu gương,…những vấn đề nổi lên trong cuộc sống và chiến đấu.

Nội dung những bài ca, những vở diễn của ca kịch bài chòi đã thể hiện tính chiến đấu rất cao, nhằm đấu tranh phê phán những tệ hại của xã hội phong kiến (như Ông Xã Bà Đội); đả kích chống đối những âm mưu thâm độc dã man của bọn thực dân đế quốc và chính quyền tay sai, bán nước (như Đội Kịch Chim Chèo bẻo). Đồng thời bài chòi cũng thể hiện tính trữ

43

Page 44: Nghệ thuật bài chòi

tình một cách sâu lắng, nhằm ca ngợi tình yêu đất nước; tình yêu chung thủy (như Thoại Khanh Châu Tuấn, Hạt muối Bác Hồ); nêu gương những cán bộ, chiến sĩ và nhân dân dũng cảm chiến đấu hy sinh xả thân vì Tổ quốc (như Anh hùng Ngô Mây, Tiếng Sấm Tây Nguyên). Sân khấu bài chòi đã lôi cuốn người xem không chỉ về nội dung, tính chất mà còn lôi cuốn cả những tiết tấu sâu lắng của những làn điệu ngọt ngào và hấp dẫn.

Năm 1967-1968 tôi là một diễn viên của Đội kịch Chim Chèo bẻo thuộc Đoàn Văn công nghiệp dư cấp tỉnh. Khi đoàn đi diễn ở các địa phương vùng giải phóng ngày ấy, mặc dù ngày đêm đạn bom rất ác liệt nhưng không có môn nghệ thuật nào mà nhân dân say mê như dân ca kịch bài chòi. Thời ấy, nổi tiếng nhất là vở: Đội kịch Chim Chèo bẻo, Thoại Khanh Châu Tuấn, Hạt muối Bác Hồ, Tiếng Sấm Tây Nguyên,... Ngày ấy đi diễn rất gọn nhẹ. Chỉ cần một cây đàn nhị, một cây mandolin, một cây ghita và một chiếc trống cơm là đủ. Sân khấu thì mượn đồ của dân, cây tre làm trụ, ván ngủ làm sàn diễn. Ánh sáng thì mượn hai chiếc đèn manchon của ngư dân làm biển cộng thêm mấy cây đèn gió (đèn bấc) là đủ. Còn âm thanh thì chỉ mang theo một chiếc âm ly pin và vài cái micro là diễn được. Có những đêm diễn, pháo địch bắn cầm canh rơi gần điểm diễn nhưng bà con không bao giờ rời chúng tôi, mà còn động viên chúng tôi tiếp tục diễn cho hết kịch. Thời kỳ đó, nhân dân rất khát khao nghệ thuật, nhưng qua sân khấu bài chòi người xem không chỉ thưởng thức nghệ thuật, mà chính nơi ấy họ gửi gắm lòng mình, chia sẻ niềm vui, soi rọi cuộc đời; đồng thời qua nghệ thuật sân khấu bài chòi họ càng thấu hiểu sâu sắc những âm mưu thâm độc, những tội ác dã man của địch đã gây ra trên quê hương đất nước. Từ đó, tạo dựng một niềm tin, một tinh thần đấu tranh bất khuất, chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Tính độc đáo của bài chòi không chỉ phản ánh kịp thời các đề tài dân gian trên kịch bản sân khấu, mà nó còn thể hiện sức thu hút của các làn điệu trữ tình mang tính gợi cảm thướt tha mượt mà như làn điệu xuân nữ; hùng dũng mạnh bạo như điệu cổ bản, xàng xê; dịu dàng sâu lắng như điệu hò quảng, vè quảng và các điệu lý…Phải nói rằng kịch bản thể hiện đầy đủ các làn điệu mang tính chuẩn nhất của dân ca bài chòi thời đó cho đến bây giờ đó là vở : Thoại Khanh Châu Tuấn.

Không chỉ phục vụ ở chiến trường Khu V mà nghệ thuật bài chòi đã ra đất Bắc từ năm 1954. Những nghệ sĩ nổi tiếng về bài chòi như: Lệ Thi, Đinh Thái Sơn, Nguyễn Kiểm, Bích Liên, Hoàng Thư, Thanh Cảnh, Hữu Ích,…đã để lại trong lòng công chúng yêu bài chòi một tình cảm nghệ thuật sâu sắc. Có thể nói hơn 20 năm (1954-1975) ca kịch bài chòi đã phát triển trên miền Bắc một cách toàn diện, từ nội dung kịch bản đến mỹ thuật sân khấu, từ âm nhạc đạo cụ cho đến nghệ thuật hóa trang trong biểu diễn. Đó là một giai đoạn phát triển thịnh hành nhất của dân ca kịch bài chòi từ miềnTrung ra miền Bắc.

Tiếp nối sự phát triển tốt đẹp đó, sau năm 1975, các đoàn Dân ca kịch bài chòi của các tỉnh nam Trung bộ phục vụ nhân dân trong kháng chiến tiếp tục hoạt động sáng tác, dàn dựng với những kịch bản bài chòi nhằm vào những đề tài vừa mang tính hiện đại, vừa mang tính chất truyền thống độc đáo vốn là mãnh đất nơi đã sinh ra nó. Những kịch bản dân ca bài chòi được sáng tác sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng tiếp tục cuốn hút người xem không kém gì các loại hình sân khấu khác. Điển hình như vở : Bên dòng Sông Thu (của Đoàn Dân ca kịch Quảng Nam-Đà Nẵng); Mối tình qua Tết Li Boong (của Đoàn Dân ca kịch Phú Khánh); vở Đồng tiền Vạn Lịch (của Đoàn Dân ca kịch Bình Định)…

Tuy nhiên, việc kế thừa và phát triển nghệ thuật sân khấu dân tộc nói chung và dân ca bài chòi nói riêng trong giai đoạn gần đây bị tác động rất lớn của cơ chế thị trường nên càng

44

Page 45: Nghệ thuật bài chòi

ngày càng gặp nhiều khó khăn trong sáng tác kịch bản, đào tạo diễn viên và kinh phí hoạt động. Một số đoàn chuyên nghiệp ở cấp tỉnh có nguy cơ tan rã vì đời sống diễn viên quá thấp (một đêm diễn của đoàn chuyên nghiệp cấp tỉnh 40 người doanh thu chỉ có 5 triệu đồng); chính sách chế độ cho sáng tác kịch bản và diễn viên quá lạc hậu, (chế độ thanh sắc một đêm của một diễn viên chỉ có 50 đến 70 ngàn đồng)…Chính vì vậy mà những diễn viên tâm huyết gắn bó với bài chòi, những nhà viết kịch có tên tuổi không những không đào tạo được mà còn mai một với thời gian, bỏ nghề, bỏ đoàn đi kiếm sống bằng nghề khác có thu nhập hơn, mặc dù trong lòng họ vẫn đau đáu với bài chòi.

Từ thực tế đó, một số địa phương đã sáng tạo đề ra các giải pháp không chỉ cứu bài chòi thoát khỏi sự bế tắc trong thời buổi khó khăn này, mà còn bảo tồn tính truyền thống của bài chòi, đó là đưa bài chòi vào trong hệ thống nhà trường để học sinh tiếp cận với tính dân gian độc đáo đó (như ở Quảng Nam, Quảng Ngãi); tổ chức dạy hát dân ca trên truyền hình (như ở Đà Nẵng); tổ chức câu lạc bộ dân ca bài chòi (như ở Bình Định)… Nhưng đó cũng mới chỉ là những giải pháp cấp thời ở từng địa phương, nhằm giải quyết khó khăn trước mắt chứ chưa mang tính cơ bản lâu dài. Vấn đề quan trọng nhất là phải có chủ trương chỉ đạo thống nhất của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương và các bộ ngành chuyên môn; cần phải có những giải pháp tối ưu, những chính sách cụ thể đối với các loại hình văn nghệ dân gian nói chung và bài chòi nói riêng một cách thiết thực hơn, thì mới mong giúp cho môn nghệ thuật bài chòi có điều kiện ít nhất cũng phải giữ gìn và bảo tồn được vốn truyền thống dân gian của nó.

Theo tôi, bài chòi nhất định sẽ không mất đi. Bởi chính bản thân nó ra đời từ dân gian, lưu truyền từ đời này sang đời khác, nên nó sẽ sống mãi trong dân gian. Mặc dù trong cuộc sống hiện nay, dân ca bài chòi không đủ sức cạnh tranh được với các môn nghệ thuật hiện đại bây giờ, dù các phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều chương trình nghệ thuật, phim ảnh phong phú, nhưng người dân ở các tỉnh Nam Trung bộ vẫn không quên những giọng ca ngọt ngào mùi mẫn và những làn điệu trữ tình sâu lắng của dân ca bài chòi. Điều đó nó thể hiện sức sống mãnh liệt của bài chòi. Chỉ có điều là trách nhiệm của xã hội đối với nghệ thuật bài chòi như thế nào cho đúng. Tôi nghĩ rằng, nếu tại hội thảo này chúng ta khẳng định đây là môn nghệ thuật dân gian như: Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hát xoan, Cồng chiêng Tây Nguyên, Đờn ca tài tử,…thì bài chòi cũng sẽ có được một chỗ đứng xứng đáng và sẽ hướng tới trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

ĐỘC ĐÁO NGHỆ THUẬT DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG BÀI CHÒI

TS. Lê Thị Bích Hồng Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa – Văn nghệ

Ban Tuyên giáo Trung ương I. MỞ ĐẦU: Trong những dịp đi công tác các tỉnh miền Trung (Bình Định, Quảng Nam, Quảng

Ngãi…), tôi thường được nghe người dân từ già đến trẻ truyền tụng câu ca dân gian thế này: Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để cho con khóc đến lòi rún ra Vốn có nguồn gốc của hai miền quê thẫm đẫm chất dân ca quan họ và Hò Huế, nên tôi dễ “bén duyên” với những làn điệu dân ca truyền thống của dân tộc

Bắc, Trung Nam. Tôi mê nghe hát then, ưa hát chầu văn, say cải lương, đời ca tài tử, ấn tượng với hát đúm, hát ví dặm...Vì thế, từ tò mò muốn “giải mã” câu ca trên, tôi đã được “mục đích

45

Page 46: Nghệ thuật bài chòi

sở thị” và đắm mình vào không gian văn hóa đó ở Hội An (Quảng Nam). Quả là, tôi đã bị bài chòi “hút hồn” làm cho “mê muội lẫn cảm phục” (chữ dùng của nhà văn Nguyễn Minh Châu). Từ say, mê bài chòi mà tôi quan tâm tìm hiểu, đọc tài liệu. Dù hôm nay, trong số những nhà nghiên cứu, quản lý viết bài tham luận, có thể là kẻ “ngoại đạo”, nhưng tôi không từ chối, mà hào hứng nhận lời viết bài tham luận đóng góp cho Hội thảo khoa học “Bình Định với nghệ thuật Bài chòi” ở hai tư cách người “quan sát” và tình yêu với nghệ thuật độc đáo này.

Sẽ không lạ vì sự độc đáo của nó mà hôm nay UBND tỉnh Bình Định phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Nghệ thuật Bài chòi” tại TP Quy Nhơn xinh đẹp. Và sẽ càng không lạ hơn khi sự lan tỏa của nghệ thuật bài chòi khiến cho hiện đang là 1 trong 12 di sản văn hóa phi vật thể được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo một số đơn vị chức năng xúc tiến lập hồ sơ trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể giai đoạn 2012-2016.

II. MỘT LOẠI HÌNH DÂN CA DÂN GIAN ĐỘC ĐÁO Đi tìm nguồn gốc nghệ thuật bài chòi Bài chòi là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống đặc sắc của miền Trung,

phổ biến từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Ra đời từ trò diễn xướng dân gian (ngày xưa gọi là hội bài chòi). Cùng ra đời từ dân gian như như hát bộ, nhưng bài chòi không đi vào cung đình để trở thành nghệ thuật bác học như hát bộ, mà phát triển thành nghệ thuật chuyên nghiệp, nhưng vẫn bám rễ bền chắc trong lòng nhân dân lao động ở nông thôn. Hát chòi thường được tổ chức thành một lễ hội. Hội này thường được tổ chức ở làng quê vào dịp mùa xuân, tết Nguyên đán, lễ tết, lễ hội, đình đám....

Có thể chưa chưa biết chính xác hội bài chòi xuất hiện vào thời điểm nào. Song, qua một số cứ liệu đã đọc thì loại hình vui chơi này đã được tổ chức thường xuyên ở các tỉnh miền Trung vào những dịp lễ hội, xuân về từ khoảng 300-400 năm trước. Vùng đất Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định) trở thành lãnh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân phía Bắc vào còn thưa thớt, rừng núi rậm rạp, việc trồng trọt thường bị thú dữ tàn phá. Để bảo vệ hoa màu, trên vùng đất mới khai hoang, người dân dựng nhiều chòi. Để an toàn và tiện hỗ trợ lẫn nhau, tùy theo địa hình, các chòi bố trí làm sàn cao. Trên mỗi chòi đều có thanh la, mõ, trống để khi thú rừng kéo đến, các âm thanh đồng loạt đuổi thú dữ. Người dân dùng loa ca hát, đối đáp với nhau trước hết để giải buồn. Sau đó qua thời gian sang lọc, việc ca hát đối đáp đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy. Có giả thiết rằng, khi nâng cao chân chòi sẽ kích thích tính hiếu kì của người chơi. Vả lại, trên chòi cao, người chơi có tâm thế thoải mái hơn nơi cửa đình.

Các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, đâu đâu cũng biết chơi bài chòi. Nhưng nhiều nhất là ở Bình Định, có thể nói, đây là cái nôi của bài chòi. Theo truyền thuyết, ông Đào Duy Từ (1571-1634), người Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Định đã dựa theo mô hình văn nghệ ở các chòi canh miền núi mà sáng lập ra hội bài chòi. Hội bài chòi thường được dựng ở sân đình hoặc trước làng, do làng đứng ra tổ chức; . dựng 9 (hoặc 11 chòi), chia thành 2 bên, mỗi chòi cao độ 2-3m, rộng đủ vài ba người ngồi và một chòi trung tâm (chòi mẹ) ở giữa dành cho các vị chức sắc địa phương. Bộ bài để đánh bài chòi là bộ bài tam cúc cải tiến, gồm 33 lá, với những tên chuyển thành nôm na như: Nhứt nọc, nhì nghèo, ông ầm, thằng bí, lá liễu... vẽ trên giấy, dán vào thẻ tre. Mỗi thẻ tre dán ba con bài, không trùng lặp nhau.

Bộ bài gồm 3 pho, gồm: Pho văn (ông Ầm, tráng hai, ba bụng, tứ tượng, ngũ ruột, sáu miếng, lá liễu, tám miếng, chín cu, chín gối); Pho vạn (bạch huê, nhứt trò, nhì bí, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu điều); Pho sách (ông Tử, nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu bưởng, bảy thưa, tám dây, cửu điều). Mỗi pho có 10 lá, nhưng vì cần phải có 33 lá nên thêm 3 lá (ông ầm đen, tử cẳng đen và cửu điều đen) cho đủ bài chơi.

Hình thức chơi bài chòi gồm có tiền, cờ và bộ bài. Tiền do người chơi bài nộp. Cờ do Ban tổ chức bố trí gồm 8 chiếc, đề chữ đệ nhất, đệ nhị…đệ bát. Anh Hiệu (người hô) là nhân vật chính của đánh bài chòi, vừa phải hội đủ các yếu tố, như: Có kiến thức văn chương,

46

Page 47: Nghệ thuật bài chòi

độc diễn cùng với tiếng trống, tiếng đàn cò, phèng la...và có nhiệm vụ chia bài, rút bài, hô bài, đem tiền, giao cờ đến chòi thắng cuộc trong mỗi ván bài. Vào cuộc chơi, anh Hiệu xốc ống bài, rút ra một con và xướng tên con bài lên. Để tạo nên sự hồi hộp và bắt người chơi phải suy đoán, anh Hiệu hô lên một câu thai hoặc một câu ca dao có tên con bài. Chòi nào trúng tên con bài thì gõ mõ để anh Hiệu mang con bài đến. Nếu trúng 3 con bài là chòi đó đánh một hồi mõ dài. Khi đó, anh Hiệu sẽ cầm lá cờ nhỏ, bưng khay rượu tới trao phần thưởng cho người trúng. Lá cờ đuôi nheo bằng giấy cũng được cắm lên chòi để đánh dấu một lần thắng.

Tạo được sức hấp dẫn cho bài chòi là một ban nhạc cổ gồm: Đàn cò, kèn, sanh, trống hòa tấu lên khi có chòi. Lúc đầu, nhạc cụ phụ họa chỉ có đàn nhị và sanh sứa (là hai mảnh tre chuốt nhọn hai đầu cầm trong một tay, âm thanh chạm vào nhau nghe như tiếng ve kêu), sau thêm đàn nguyệt, ống sáo và song tiền. Bài bản và làn điệu của ca kịch bài chòi gồm các điệu hát ru, điệu lý thương nhau, lý tang tình, khoan hỡi hò khoan (Quảng Nam - Đà Nẵng), nói lía, chèo thuyền (Quảng Trị), hò mái nhì (Thừa Thiên). Lời hát là những bài thơ bốn chữ theo điệu vè và nhiều nhất là thơ lục bát, không có nét nhạc cố định mà tùy theo thanh giọng của câu thơ. Có ba điệu chánh là Xuân Nữ, Nam Xuân (hay cổ bản, gần hơi bắc của nhạc tài tử) và xàng xê (gần với hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử). Những làn điệu dân ca đã tiến xa với những tuồng tích hoàn chỉnh như: Lâm Sanh – Xuân Nương, Phạm Công – Cúc Hoa, Thạch Sanh – Lý Thông…

Về tiết tấu, bài chòi chỉ có nhịp đôi đều đặn hay nhịp ba bỏ một nhịp, nhưng cũng có thể biến tấu. Động tác trên sân khấu áp dụng các điệu múa sắc bùa, lục cúng, bát dạo. Ngôn ngữ bình dân trong hô bài chòi có thể bày tỏ tình cảm trai gái lứa đôi, ve vãn, chuyện thời tiết, mùa màng, phê phán những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân và thậm chí còn công kích quan lại phong kiến...

Nội dung các câu hát sử dụng trong hội bài chòi đều mang ý nghĩa nhân văn và có tính giáo dục cao (nét khác biệt căn bản để có thể phân biệt hội bài chòi với các trò cờ bạc khác). Các câu hát được sử dụng ở đây thường nói về tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi tình phụ mẫu, tình phu thê, đề cao những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người, phê phán những tệ nạn xã hội, những tập tục lỗi thời, lạc hậu...

Hình thức vui chơi không chỉ có ý nghĩa giải trí đơn thuần mà có thể coi hội bài chòi chính là một sân khấu trình diễn của làn điệu dân ca đặc trưng của Nam Trung Bộ. Đánh bài chòi là một trò chơi dân gian giải trí mang tính chất văn chương bình dân. Người ta đánh bài chòi để thử thời vận may rủi dịp đầu năm, chứ không tính chuyện ăn thua thử vận đỏ đen. Bài chòi đã được sân khấu hóa với sự ra đời của Kịch dân ca Bài chòi vào những năm 30 của thế kỷ 20 và phát triển cho đến hôm nay. Theo thời gian, bài chòi đã phát triển đi lên thành một nghệ thuật quần chúng. Từ một nghệ nhân ban đầu là anh Hiệu đóng đủ mọi vai khi bài chòi có tính cách tự sự, về sau xuất hiện nhiều nghệ nhân và hình thành một sân khấu hẳn hoi như sân khấu tuồng truyền thống.

Bài chòi là một loại hình nghệ thuật dân ca và trò chơi dân gian đặc trưng ở miền Trung Việt Nam, sau được phát triển thành một loại hình sân khấu ca kịch. Vừa qua, di sản Bài chòi đã được Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tiến hành tổng kiểm kê diện rộng trên địa bàn và bước đầu khẳng định Bình Định là cái nôi của Hội Bài chòi cổ dân gian.

Những nỗ lực “cứu” bài chòi trước nguy cơ “thất truyền”

Bài chòi cũng như các loại hình nghệ thuật truyền thống khác ở nước ta, đang đứng trước nguy cơ thất truyền, phai nhạt, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin đa phương tiện và xu thế hội nhập, toàn cầu hóa như hôm nay. Ngày nay, ở các vùng nông thôn, hiếm có nơi nào còn hội đánh bài chòi vào dịp đầu Xuân, các sân khấu ít diễn ca kịch bài chòi. Thực tế có một vài đoàn vốn ở “đất bài chòi” thì nay hoạt động lay lắt, cầm chừng để tồn tại. Vì không sống được với nghề, nhiều nghệ sĩ hát bài chòi đã bỏ sân khấu... Cơ quan quản lý nhà nước chưa chú trọng chỉ đạo; chưa thực sự quan tâm đến nghiên cứu khoa học, tổ chức Liên hoan;

47

Page 48: Nghệ thuật bài chòi

tổ chức một số hoạt động cũng chỉ mang tính chất “lồng ghép” nhiều bộ môn nghệ thuật, chứ chưa chuyên về nghệ thuật bài chòi.

Trước nguy cơ “thất truyền” của bài chòi, chính quyền, ngành văn hóa các và nhân dân địa phương “sở hữu” loại hình này đã nỗ lực tìm cách cứu bài chòi. Một trong những địa phương có phương án tốt là đưa bài chòi sống trong đời sống nhân dân đó là Bình Định, Quảng Nam… được nhân dân bản địa và du khách trong và ngoài nước hào hứng tiếp nhận.

Những năm qua, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, hội đánh bài chòi đã được tái hiện trong không gian mới là các khu du lịch, nhà hàng ở Quy Nhơn (Bình Định), trong khu phố cổ Hội An (Quảng Nam) và lễ hội ở các địa phương. Sau khi phố cổ Hội An được tổ chức Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới, Trung tâm văn hóa thể thao Hội An đã quyết tâm khôi phục lại sân chơi văn hóa này vừa là để bảo tồn, vừa là để quảng bá tới khách du lịch nét văn hóa đặc sắc của dân tộc; đưa bài chòi vào giảng dạy cho gần 20 trường tiểu học, trung học cơ sở (mỗi tuần có 1 – 2 tiết ngoại khóa để tạo đội ngũ kế cận). Hội An quan tâm nghiên cứu, dựng thành những tiết mục nghệ thuật Bài chòi hoàn chỉnh, tham dự các liên hoan nghệ thuật dân ca, dân vũ cấp khu vực, toàn quốc và quốc tế.

Là cái nôi của bài chòi, những năm qua, tỉnh Bình Định đã tập trung phục dựng, phát triển Bài chòi bằng nhiều hình thức, như: Hội đánh Bài chòi cổ dân gian tại các Lễ hội lớn trên địa bàn tỉnh; tổ chức Hội đánh bài chòi cổ dân gian thường xuyên 3 buổi/tuần để phục vụ du lịch gắn với việc bảo tồn di sản; tổ chức tập huấn về Hội đánh bài chòi cổ dân gian; xây dựng kế hoạch nhân rộng việc tổ chức hội đánh bài chòi cổ về cơ sở; quan tâm công tác bảo tồn và phát triển nghệ thuật bài chòi Bình Định qua bài chòi cổ “Phá bản Chiêu Phu”, “Thoại Khanh - Châu Tuấn”….

Tiền thân là Đoàn Nghệ thuật Bài chòi Liên khu V, năm 1962, Bình Định đã quan tâm thành lập Đoàn Dân ca Kịch Bài chòi tỉnh. Đặc biệt, Bình Định rất quan tâm giữ phong cách bài chòi cổ. Vở “Thoại Khanh – Châu Tuấn” - một vở diễn ra đời và thành công cách đây hơn 40 năm cho đến nay vẫn tồn tại ở nhiều đoàn bài chòi của khu vực miền Trung. Vở diễn này chỉ sử dụng 4 làn điệu xuân nữ, xàng xê, cổ bản và hồ quảng, nhưng nó không hề đơn điệu. Hơn 40 năm qua, Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định luôn khẳng định một “thương hiệu”. Tiếp nối truyền thống, tập thể và cá nhân của đoàn đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, giành được nhiều Huy chương vàng, huy chương bạc và được phong tặng danh hiệu cao quý của Nhà nước. Riêng trong 2 năm 2010-2011, qua các liên hoan, cuộc thi, 8 diễn viên trẻ của đoàn đã đoạt được 3 Huy chương vàng, 6 Huy chương bạc. Đặc biệt, tại Cuộc thi Nghệ thuật Sân khấu Tuồng và Dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc (tổ chức tại tỉnh Quảng Nam tháng 5/2013), Đoàn Ca kịch bài chòi Bình Định đã đạt kết quả xuất sắc với Huy chương vàng cho vở diễn “Khúc ca bi tráng” và Giải tác giả kịch bản xuất sắc nhất cho tác giả Văn Trọng Hùng, cùng 2 huy chương vàng và 3 huy chương bạc cho 5 diễn viên khác. Thành tích trên đã khẳng định hướng đi đúng của Đoàn Ca kịch bài chòi Bình Định những năm qua và cũng thể hiện rõ bước đi đúng đắn của tỉnh trong việc bảo tồn, phát huy nghệ thuật bài chòi.

Xác định tầm quan trọng của nơi khởi nguồn nghệ thuật độc đáo này, năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với UBND tỉnh Bình Định tổ chức Liên hoan sân khấu dân ca kịch bài chòi chuyên nghiệp toàn quốc tại TP Quy Nhơn. Đây là một trong những hoạt động văn hóa nghệ thuật nằm trong khuôn khổ chương trình “Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Nam Trung Bộ – Phú Yên 2011” nhằm quảng bá các di sản văn hóa và tiềm năng du lịch của các tỉnh Nam Trung Bộ với du khách trong và ngoài nước. Tham dự

48

Page 49: Nghệ thuật bài chòi

Liên hoan có 3 đơn vị ca kịch bài chòi chuyên nghiệp toàn quốc là Đoàn Ca kịch Bình Định, Đoàn Ca kịch Quảng Nam và Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa. Mỗi đơn vị nghệ thuật mang đến Liên hoan 2 vở diễn gồm: Một vở ca kịch bài chòi truyền thống và một vở có đề tài lịch sử, huyền sử, dân gian hoặc hiện đại.

Đồng thời, nhiều nghệ sĩ và nhà nghiên cứu tâm huyết đã tích cực đề nghị và nhiệt tình tham gia cùng các ngành chức năng tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo, liên hoan sân khấu bài chòi… ở các cấp độ khác nhau và đã thu được những kết quả đáng mừng.

UBND tỉnh Bình Định đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bộ có ý kiến chỉ đạo các đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch phối hợp với UBND tỉnh Bình Định lập hồ sơ khoa học di sản bài chòi Bình Định trong giai đoạn 2013 – 2017; xem xét, trình Chính phủ đưa di sản Bài chòi Bình Định vào danh mục đề cử lên UNESCO công nhận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. việc đề cử này nhằm tôn vinh đúng giá trị đích thực về khoa học, lịch sử, văn hóa của di sản và có kế hoạch bảo tồn, phát huy nghệ thuật bài chòi trong quá trình hội nhập quốc tế.

Giải pháp để Bài chòi được tôn vinh và phát triển

- Bảo tồn, phát triển giá trị vật thể và phi vật thể của Nghệ thuật Bài chòi và Kịch hát bài chòi trong thời đại hội nhập và phát triển của đất nước. Cùng với các hoạt động nghiệp vụ của giới chuyên môn (điền dã, khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu… ), cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch cần chủ trì tổ chức một số hội thảo khoa học cấp quốc gia.

-Tổ chức Liên hoan nghệ thuật chuyên đề về bài chòi (định kỳ 3 năm hoặc 5 năm);

- Nghiên cứu, sưu tầm, khảo sát và thống kê đội ngũ nghệ nhân nghệ thuật Bài chòi.

-Tổ chức các hội thảo khoa học về bảo tồn và phát triển Nghệ thuật Bài chòi và Kịch hát Bài chòi.

-Công tác đào tạo:

+ Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghệ thuật Bài chòi và Kịch hát Bài chòi; Phục hồi một số vở diễn kinh điển của Nghệ thuật Bài Chòi và Kịch hát Bài chòi;

+Tổ chức biên soạn đề cương chi tiết môn học và tập bài giảng Nghệ thuật Bài chòi: Tổ chức biên soạn chương trình đào tạo và giáo trình giảng dạy chuyên ngành Nghệ thuật Bài chòi và Kịch hát Bài chòi, trình độ đại học và cao đẳng; tổ chức biên soạn chương trình đào tạo chuyên ngành Nghệ thuật Bài chòi và Kịch hát Bài chòi liên thông từ trung cấp - cao đẳng - đại học.

Xây dựng lộ trình đào tạo Nghệ thuật Bài chòi: Môn học - Chuyên ngành. Chuyên ngành bố trí trong chương trình đào tạo ngành Diễn viên Sân khấu kịch hát ở trình độ cao đẳng và đại học.

-Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần chỉ đạo các ngành chức năng và các địa phương là những cái nôi của nghệ thuật bài chòi triển khai các bước lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận nghệ thuật bài chòi là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại, trong đó cần quan tâm Bình Định là một trong những cái nôi của nghệ thuật bài chòi. Quá trình hình thành và phát triển cùng các đặc điểm và tính chất nổi bật của nghệ thuật Bài chòi dân gian, từ

49

Page 50: Nghệ thuật bài chòi

Bài chòi trò chơi đến Bài chòi hát trải chiếu và Bài chòi gánh, đến sân khấu Bài chòi chuyên nghiệp là một thành tựu đáng tự hào của nền sân khấu mới; bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật Bài chòi cho hôm nay và mai sau. Cùng với nghệ thuật Tuồng, Bài chòi cũng đã xuất hiện sớm và là một loại hình nghệ thuật dân gian quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân khu vực Duyên hải miền Trung nói chung, đặc biệt ở nơi khởi nguồn nghệ thuật bài chòi - tỉnh Bình Định nói riêng. Đây chính là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước dành sự quan tâm khảo sát, xây dựng cứ liệu nghệ thuật bài chòi bắt đầu từ quê hương Bình Định.

Hội thảo khoa học “Nghệ thuật Bài chòi” tổ chức tại miền đất cội nguồn của nghệ thuật bài chòi hôm nay có ý nghĩa khoa học và nhân văn. Một mặt vừa nghiên cứu, tổng kết các giá trị độc đáo về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của nghệ thuật Bài chòi dân gian nói chung và Bài chòi dân gian Bình Định nói riêng; con đường từ Bài chòi dân gian đến Bài chòi sân khấu chuyên nghiệp; rút ra các bài học về bảo tồn, phát huy di sản nghệ thuật Bài chòi…Điều quan trọng hơn từ “rốn” của nghệ thuật bài chòi, tỉnh Bình Định sẽ cần đóng góp tích cực trong việc lập hồ sơ khoa học trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong giai đoạn 2013-2017.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1.Rủ nhau đi đánh Bài Chòi (Báo Phú Yên).2. Bài chòi Bình Định (Lâm Hà)

NHỮNG NÉT ĐẸP ĐỘC ĐÁO TRONG CA KỊCH BÀI CHÒI

Ở BÌNH ĐỊNH

NSƯT Nguyễn Gia Thiện

Chúng ta đều biết nghệ thuật ca kịch bài chòi đang được khảo sát , đánh giá nét văn hóa độc đáo để trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đã có nhiều bài viết về nghệ thuật Bài chòi nên trong bài viết này xin phép chỉ đề cập tới những nét đẹp độc đáo trong ca kịch bài chòi để góp phần có một cách nhìn đúng đắn, chính xác về loại hình sân khấu này

I Nguồn gốc từ trò chơi dân gian 1. Giả thuyết thứ nhất :

Các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, đâu đâu cũng biết chơi bài chòi. Nhưng nhiều nhất là ở Bình Ðịnh, có thể nói, đây là cái nôi của trò chơi lý thú này. Cứ vào dịp Tết Nguyên đán, khắp miền quê, hội bài chòi được tổ chức trong khoảng thời gian dựng nêu, tức từ 30 tháng chạp đến mồn 7 Tết. Ðôi khi cuộc chơi kéo dài đến rằm tháng giêng âm lịch, tức từ Tết Nguyên đán đến Tết Thượng nguyên.

Vùng đất Vijaya trở thành lãnh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân các tỉnh phía Bắc vào định cư còn thưa thớt, nơi đây rừng núi rậm rạp đan xen với chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, việc trồng tỉa thường bị tàn phá bởi thú hoang. Trên những vạt đất khai khẩn, phải dựng nhiều chòi có người canh giữ, bảo vệ hoa màu. Ðể được an toàn, các chòi phải vững chắc, sàn cao quá tầm tấn công của mãnh thú và bố trí theo hình vuông, chữ nhật, hay hình thuẫn tùy theo địa

50

Page 51: Nghệ thuật bài chòi

hình để tiện thanh viện cho nhau. Trên mỗi chòi đều có thanh la, mõ, trống; khi thú rừng kéo đến, các âm thanh đồng loạt nổi lên rung chuyển cả rừng núi, dã thú dù gan lì đến đâu cũng phải khiếp sợ bỏ chạy và không dám bén mảng đến phá phách. Rồi có những đêm trăng thanh gió mát, đối cảnh sinh tình, giữa các chòi người ta dùng loa nói chuyện hay ca hát đối đáp nhau cho giải buồn, dần dần trở thành một mô hình sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy. 

Theo truyền thuyết, do nhiều nghệ nhân của tỉnh nhà, đơn cử như cụ Phan Ðình Lang tức là nghệ sĩ Bốn Trang, sinh năm 1910, người xã Nhơn Thành huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, kể lại rằng lúc cụ còn trẻ đã từng nghe ông nội, ông thân và nhiều bô lão truyền lại là chính Ðào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Bình Ðịnh, đã dựa theo mô hình văn nghệ ở các chòi canh miền núi mà sáng lập ra hội bài chòi. Ðáp ứng trình độ thưởng thức văn nghệ dân gian ngày càng cao, đến thế kỷ 20 người ta lập ra điệu hò để nâng cao nghệ thuật của bộ môn này. Ðiệu bài chòi theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói lối bốn chữ rất thích hợp với điệu bộ này. Người hô phải theo nhịp trống, nhịp sanh, có tiếng đàn tiếng kèn đệm theo, làm cho điệu hò thêm réo rắt, hấp dẫn. Người hô với chức năng quản trò, được gọi là "Hiệu". Tùy theo tuổi tác và giới tính, người ta gọi là "anh Hiệu", "chú Hiệu", hay "cô Hiệu", người này phải rành các điệu hát nam, hát khách, hát lý... thuộc nhiều thơ và ca dao, biết pha trò đồng thời ứng đối nhanh nhẹn.

Vậy bài chòi là lối đánh bài mà người chơi ngồi trên 9 cái chòi cất sẵn. Có nơi, để giản tiện người chơi bài ngồi trên ghế thay chòi, nên gọi là bài chòi ghế. Nhưng cả hai lối chơi bài này không có tính cách sát phạt, đỏ đen, mà chỉ nặng tính văn nghệ.

2- Giả thuyết thứ 2 :

  Nói về nguồn gốc của bài chòi, theo ông Phan Ngạn - nghệ sĩ ưu tú, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Bài chòi cổ dân gian Bình Định cho biết: từ thời xa xưa, cứ vào dịp xuân về, trong gia đình, trong từng nhóm dân cư thường tổ chức chơi bài (tứ sắc, tam cúc...). Người ta chơi trên chiếu, quây quần từ 5-10 người. Cuộc vui có tính chất hạn hẹp và đơn điệu. Về sau người ta mới sáng tạo xây chòi cao, giống như nhà sàn nhỏ của đồng bào dân tộc ở vùng núi Tây Nguyên. Như vậy có bài, có chòi nên mới gọi là bài chòi. Đầu tiên đặt ra đánh bài chòi, người ta sáng tác những câu hò, những làn điệu dân ca, rồi xuất hiện các nghệ nhân mà điển hình là "Anh hiệu".  Vào năm 1962, Đoàn Dân ca Kịch Bài chòi Bình Định được thành lập, tiền thân của nó là Đoàn Nghệ thuật Bài chòi Liên khu V. Tên đoàn chắc chắn cho ta rõ là bài chòi đã theo hướng phát triển của nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, với những nghệ sĩ danh tiếng như nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Kiểm, Hoài Huệ, Hồ Thu...   

I- VỀ ÂM NHẠC

Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), còn có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mã, lý thượng... Về âm nhạc ngoài đờn cò, kèn, sanh, trống còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết nhưng không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng có trụ đèn lồng thắp dầu, về sau có đèn măng sông.

Ở đám bài chòi, lúc nào cũng có tiếng kèn trống, âm thanh rộn rã vang xa, lôi cuốn thúc dục:

"Rủ nhau đi đánh bài chòi Ðể cho con khóc đến lòi rún (rốn) ra".

       Trống chầu một hồi ba tiếng rống lên, giàn nhạc tiếp theo phụ họa, cuộc chơi bắt đầu

51

Page 52: Nghệ thuật bài chòi

Ðiệu bài chòi theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói lối bốn chữ rất thích hợp với điệu bộ này. Người hô phải theo nhịp trống, nhịp sanh, có tiếng đàn tiếng kèn đệm theo, làm cho điệu hò thêm réo rắt, hấp dẫn. Người hô với chức năng quản trò, được gọi là "Hiệu". Tùy theo tuổi tác và giới tính, người ta gọi là "anh Hiệu", "chú Hiệu", hay "cô Hiệu", người này phải rành các điệu hát nam, hát khách, hát lý... thuộc nhiều thơ và ca dao, biết pha trò đồng thời ứng đối nhanh nhẹn.Về âm nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức Nguyễn Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh (An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu Hoạch...

Hò bài chòi là loại dân ca được diễn xướng trong trò đánh bài tới -Một trò chơi quen thuộc của người dân miền Trung.

Người ta đặt ra những câu hò có nội dung gợi nghĩ đến những lá bài trong bộ bài tới

mang hình vẽ dân gian đặc sắc. Để làm cho cuộc chơi bài ngày tết trở nên sôi nổi và lôi cuốn, người ta dựng những chòi tre được trang trí đẹp, mỗi người chơi ngồi trong một chòi. Một nghệ nhân sẽ di chuyển giữa các chòi, dùng lời hò để loan báo tên con bài cho tất cả cùng đoán. Ví dụ như có người đi quân bài “ chín gối” thì người ta sẽ hò:

Đêm nằm gối gấm không êmGối lụa không mềm bằng gối tay anh.Khi có người đi quân bài "Nhì nghèo”, thì câu hò sẽ là:Chồng em chết bữa ba mươi tếtKhông biết mượn cuốc nơi mô,Đưa hai tay bụm cát lấp mồTình sâu nổi thảm biết chừng mô hỡi trời! Rao bài chòi góp phần thêm hào hứng cho cuộc chơi, giúp người nghe vừa được

thưởng thức điệu hò, vừa rèn sắc trí tuệ, biến trò chơi đỏ đen thành trò chơi văn chương tao nhã.

Hò bài chòi của Huế có nhiều hình thức biến thái, ví dụ như hò bài thai hoặc hò bài

tiệm. Hò bài thai là trò chơi nhỏ trong các phiên chợ. Người cầm cái có một cái bàn gỗ dán

đủ các quân bài của bộ bài tới.Giữa bàn có một cái chén úp, trong đó người cầm cái đặt một quân bài bí mật, rồi hò lên một câu có nội dung gợi liên tưởng đến con bài. Người nghe suy đoán là con bài gì thì đặt tiền vào con bài tương ứng dán trên bàn gỗ. Đợi người chơi đặt xong, người cầm cái mở chén để công bố kết quả và chung tiền cho ai thắng cuộc.

II- SÂN KHẤU BÀI CHÒI:

Sau này vì sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất chòi vẫn dùng 9 cái ghế thay cho 9 chiếc chòi và thể thức vẫn như cũ. Khuyết điểm của bài chòi ghế là không thể thay thế hết được chức năng của chòi nên kém phần sôi nổi, giảm sự hào hứng của người chơi bài và cả người xem. Từ hình thức bài chòi ghế, những năm đầu thế kỷ 20, có một số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô hình truyền thống để kiến tạo một lối mới gọi là bài chòi chiếu. Ðặc tính của bài chòi này không phụ thuộc vào thời vụ. Nghĩa là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp Tết Nguyên Ðán. Bài chòi chiếu cũng không có chòi. Sân khấu vẫn còn trệt nhưng đã được giới hạn trong phạm vi chiếu rải. Bài chòi chiếu cũng không còn độc diễn của Hiệu mà đã phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng còn đơn giản, chủ yếu là giọng ca mùi mẫn diễn những lớp trong các truyện tuồng như Lưu Kim Ðính, Phàn Lê Huê, Nguyệt Nga, Lục

52

Page 53: Nghệ thuật bài chòi

Vân Tiên... Tuy vậy, sự trình diễn chỉ để giải trí và nêu tên con bài ở những câu thơ cuối lớp, chứ chưa đủ trình độ kết cấu nghệ thuật để trở thành mục diễn, nên người ta gọi là bài chòi lớp.

       Một biến cố lớn trong bộ môn bài chòi là sự ra đời của bài chòi truyện. Vào giữa năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập gồm Bốn Trang (tức Phan Ðình Lang người xã Nhơn Thành, An Nhơn) và Ba Nhỏ (tức Ba Huợt người xã Cát Sơn, Phù Cát) cùng với sự cộng tác của Tư Liên (Ðỗ Liên), Năm Oanh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ) và nhiều nghệ nhân khác; lần đầu tiên trình diễn bài chòi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An Lương xã Mỹ Chánh huyện Phù Mỹ. Ðây là lần thử nghiệm, không tránh khỏi nhiều trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái những kết quả khích lệ. Bài chòi truyện hoàn toàn dứt bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên sàn sân khấu có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa trang, có sự nhập vai, diễn xuất các động tác theo qui luật ước lệ và cách điệu. Làn điệu cũng phát triển để phù hợp tình cảm của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), còn có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mã, lý thượng... Về âm nhạc ngoài đờn cò, kèn, sanh, trống còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết nhưng không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng có trụ đèn lồng thắp dầu, về sau có đèn măng sông.

       Dịp Tết Giáp Tuất (1934) gánh bài chòi của ông Bốn Trang và Ba Nhỏ kiện toàn đội ngũ lập thành đoàn hát Tân Xuân đến lưu diễn ở thị trấn Gò Bồi (phủ Tuy Phước). Nhờ rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận nồng nhiệt và bán vé thu được một số tiền lớn.

III- PHÁT TRIỂN và Thể Nghiệm

Trong các hội thảo về ca kịch bài chòi, có hai ý kiến của hai nhà nghiên cứu là Mịch Quang và Lệ Thi thường đối nghịch nhau. Mịch Quang thì luôn bảo vệ quan điểm giữ bài chòi cổ và chỉ nên gọi là "hô bài chòi", không nên dùng từ "ca hoặc hát bài chòi". Còn Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi thì kiên trì đi theo xu hướng cải tiến bài chòi, cách làm mà bà đã thành công trong nhiều vở như Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tiếng sấm Tây Nguyên... Rõ ràng cả hai ý kiến đều có những lý lẽ để bảo vệ cho quan điểm của mỗi người. Nhiều người cho rằng ở Bình Định còn giữ phong cách và mực thước của bài chòi cổ nếu được xem vở Thoại Khanh - Châu Tuấn, một vở diễn đã ra đời và thành công cách đây hơn 40 năm và cho đến nay vẫn tồn tại ở nhiều đoàn bài chòi khắp miền Trung. Trong vở này chỉ sử dụng có 4 làn điệu là xuân nữ, xàng xê, cổ bản và hồ quảng, thế mà không thấy đơn điệu chút nào. Người nghe cảm nhận lời ca xoáy sâu vào lòng, rồi đọng lại những dư âm không bao giờ tan biến. Vào năm 1962, Đoàn Dân ca Kịch Bài chòi Bình Định được thành lập, tiền thân của nó là Đoàn Nghệ thuật Bài chòi Liên khu V. Tên đoàn chắc chắn cho ta rõ là bài chòi đã theo hướng phát triển của nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, với những nghệ sĩ danh tiếng như nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Kiểm, NSND Hoài Huệ, NSƯT Hồ Thu..

Như vậy ta có thể thấy , nghệ thuật sân khấu ca kịch Bài Chòi được bắt nguồn từ một trò chơi dân gian, nghệ thuật vừa mang tính bài bản vừa mang tính ngẫu hứng và xu thế phát triển thành một loại hình sân khấu có khả năng tốt tiếp cận ,đi vào lòng người trong tình hình hiện nay, Đặc biệt Nghệ thuât sân khấu phát triển rất tốt ở Bình Định.

BÀI CHÒI – SỨC SỐNG VĂN HÓA VIỆT

NGUYỄN THỊ MỸ LIÊM

Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh

Kính thưa…

53

Page 54: Nghệ thuật bài chòi

Ham mê cái thứ Bài Chòi

Để con nó khóc cho lòi rún ra…

(Quân bài Rún hay Ngũ Rún)

Đó là câu hát (hô con bài) mà ai nghe cũng cảm giác thật ấn tượng, thật thú vị và chí ít sẽ rất tò mò: vì sao người ta lại có thể ham mê một trò chơi đến vậy? Và, sau khi tìm hiểu về Bài Chòi, được tham gia cuộc chơi, được xem một vở kịch hát Bài Chòi, ai cũng dễ dàng thông cảm, công nhận vì sao người ta ham thích Bài Chòi, vì sao người ta hát như vậy !

Khi có người đến thăm Bình Định và được hỏi nơi này có đặc trưng văn hóa gì, người dân ở đây đều tự hào trả lời: “Nếu đến Bình Định mà không xem Tuồng, không dự một cuộc chơi Bài Chòi, không thăm lầu ông Hoàng… là chưa đến Bình Định…”

Vậy, những ý gần như thống nhất nhau nêu trên đã khiến chúng ta đến cùng nhau trong một ý tưởng: Nghệ thuật Bài Chòi, đặc trưng và sức sống văn hóa Việt trong một thể loại nghệ thuật của vùng đất Bình Định.

1. Bảo tồn, phát huy – kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc trong nội dung nghệ thuật Bài Chòi:

Tìm về nguồn gốc, từ câu hô thai – câu đố trong trò chơi dân gian “xổ cổ nhơn” cho đến những câu hô con bài của anh Hiệu trong trò Bài Chòi, câu hát của “Bài Chòi lớp”, “Bài Chòi truyện” và sau này là sân khấu kịch hát, nội dung lớn nhất quán xuyến toàn bộ thể loại này là giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách cho con người; là những bài học về nhân – lễ - nghĩa- trí – tín; về đạo làm người – nhân đạo…

Chúng ta lắng nghe một câu hô thai:

Chỉ vì cái lưỡi đa đoan

Cho nên cúc rã, lan tàn hỡi ai! (câu thai cái kéo)

Cho đến câu hô con bài:

Ngồi buồn nghĩ chuyện xưa nay

Trai tài gái sắc sao tày người xưa

Đời nay ăn sớm ngủ trưa

Ngồi lê đôi mách lại thưa việc nhà…

(câu hô con bài “Bảy thưa” – ông Trần Thanh Nam Hoài Nhơn – Bình Định, theo tiểu luận của Trần Đức Hùng –Nhạc Viện Tp. HCM)

Dù chỉ là câu hô một con bài, nhưng anh Hiệu đã hàm ý trong đó những lời răn cho nhân gian. Bài Chòi đã thể hiện chức năng giáo dục của văn hóa – nghệ thuật, và không ngoài truyền thống văn hóa Việt. Chưa kể, qua những câu hát, lớp truyện, lời đối đáp của các nhân vật trong kịch hát, Bài Chòi trở thành “túi khôn” cho dân gian, cho người nghe những kiến thức xã hội, cách ứng xử, giao tiếp...

Từ những câu chuyện dân gian, những tích chuyện cảm động về lòng hiếu thảo, nghĩa vơ chồng, đạo quân – sư – phụ… Bài Chòi như dòng nước ngọt ươm mầm nhân cách cho người dân. Có lẽ không có cách giáo dục nào thú vị, gần gũi, dễ hiểu, không có lối tuyên truyền nào đi vào lòng người dễ dàng và in sâu đậm như những câu hát Bài Chòi.

Có thể nói, cho đến nay, chúng ta chưa có một công trình chuyên biệt nào để sưu tập, nghiên cứu câu hô - lời hát Bài Chòi. Điều này hết sức cần thiết, bởi qua đó, có thể nhận thức được văn hóa Việt, con người Việt trong từng câu hô, lời hát, nhận thức được giá trị của Bài Chòi và từ đó, có những chương trình bảo tồn, phát huy Bài Chòi, góp phần trong sự nghiệp xây dựng con người hiện nay.

54

Page 55: Nghệ thuật bài chòi

2. Âm nhạc Bài Chòi: Bảo tồn, phát huy – kế thừa và phát triển âm nhạc truyền thống:

Âm nhạc Bài Chòi được các nhà nghiên cứu ghi nhận từ giọng hô theo điệu Xuân Nữ, đến khi phát triển thành sân khấu kịch hát, Bài Chòi đã hình thành một hệ thống bài bản, làn điệu đa dạng, phong phú. Đó là một quá trình dài. Âm nhạc Bài Chòi có một phong cách riêng gắn liền với lối nói – âm điệu tiếng nói dân gian của người Bình Định, là sự sáng tạo bằng cách tự nâng cao tính nhạc trong câu hô của anh Hiệu, câu hát lớp của của Bài Chòi lớp – Bài Chòi truyện… và trong đó có cả sự tiếp thu âm nhạc Hát Bội, nghệ thuật sân khấu cùng được sinh ra từ cái nôi Bình Định. Bài Chòi trong quá trình xây dựng và phát triển, đã chọn lọc, kế thừa và chuyển hóa các thể loại âm nhạc dân tộc để hình thành nên một hệ thống bài bản làn điệu với những nét đặc trưng riêng cho mình. Trong âm nhạc Bài Chòi còn có cả việc tham gia sáng tác của các nhạc sĩ, những vẫn hoàn toàn trên nguồn cội của âm nhạc dân tộc, âm nhạc quê hương. Sức sáng tạo trong kế thừa âm nhạc dân tộc của Bài Chòi thật lớn:

-Kế thừa những bài bản hát Bội, Cải lương, Tài tử, Ca Huế… như Xàng Xê, Nam Xuân, Cổ Bản… nhưng chuyển hóa thành Xàng Xê lụy, Xàng Xê dựng; Nam Xuân pha Xuân Tình; Tây Thi, Cổ Bản hay Kim Tiền nhưng (theo nhiều nhà nghiên cứu) có rất ít điểm gần với nhạc Tài tử, nhạc Cải Lương hay Ca Huế mà lại mang âm hưởng rất riêng của Bài Chòi với đặc điểm của lối hát nói pha Xuân Nữ, lối luyến láy riêng của câu hô có từ thời các anh Hiệu hô con bài xưa.

-Kế thừa và tiếp thu làn điệu dân gian như Hò, Lý và cả Bả Trạo, Sắc Bùa…nhưng khi hát lại kết hợp với điệu Xuân Nữ (chẳng hạn) để phù hợp với nội dung và vẫn giữ nguyên đặc điểm của thể loại.

-Sáng tạo những bài bản mới, nhạc đệm, nhạc dạo, nhạc nền… cho kịch hát Bài Chòi nhưng dựa trên chất liệu của phong cách dân ca hoặc bài bản nhạc cổ truyền là cách làm đặc biệt của các nghệ sĩ, nhạc sĩ. Từ đó, tạo cho Bài Chòi có một hệ thống bài bản phong phú, nhưng trên hết vẫn có một phong cách nền tảng riêng của thể loại.

Khó có thể kể hết những sáng tạo trong âm nhạc của Bài Chòi bởi chúng vô cùng phong phú, đa dạng. Mặc dù có xuất phát từ diễn xướng dân gian nhưng âm nhạc Bài Chòi được phát triển bằng con đường kế thừa các giá trị lớn của nghệ thuật dân tộc với những sáng tạo mới mang tính học thuật. Chúng ta cũng đã có nhiều nghiên cứu quý giá của các giáo sư, các bậc thầy, họ là những người đã góp công xây dựng nghệ thuật này, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người khi nghe hát Bài Chòi vẫn nhầm lẫn với Hát Bội hoặc nhiều sinh viên tại các nhạc viện, học viện âm nhạc Việt Nam vẫn lầm lẫn giữa nghệ thuật kịch hát Bài Chòi với nghệ thuật Cải Lương ! Như vậy, chúng ta vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để có một khẳng định về “phong cách”, cái “chất’ riêng của câu hát Bài Chòi, những yếu tố về mặt cấu trúc giai điệu, những đặc điểm luyến láy, xử lý âm, kết câu, thang âm… Những tài liệu này không chỉ nêu lên “cái chất”, “cái hồn”, cái tinh túy của Bài Chòi mà còn là những tài liệu quý giá dành cho đào tạo, cho các thế hệ nghệ sĩ, nhạc sĩ và tất cả những ai muốn tìm hiểu về nghệ thuật này. Chúng ta rất cần có những “bài học” về âm nhạc của Bài Chòi trong các trường nghệ thuật, trường âm nhạc và cho công cuộc giáo dục âm nhạc dân tộc đối với các thế hệ sau, với người dân.

3. Nghệ thuật sân khấu Bài Chòi: kề thừa và phát huy những giá trị, nghệ thuật sân khấu kịch hát truyền thống dân tộc và thế giới:

Không dễ trong một bài tham luận mà chúng ta có thể tổng kết hết những giá trị văn hóa (nhân văn và đạo đức) hay nghệ thuật (âm nhạc, sân khấu…), nhưng chúng tôi vẫn mong muốn nêu những giá trị nghệ thuật sân khấu trong Bài Chòi. Đó có thể là sự kế thừa và phát huy nghệ thuật Hát Bội trong việc học tập chuyển hóa cách xử lý ngữ điệu, ngữ khí, ngữ phong… của hát Bội; Học tập lối diễn xuất của hát Bội, sân khấu Cải Lương, sân khấu kịch nói v.v…

55

Page 56: Nghệ thuật bài chòi

Tuy nhiên, kịch hát Bài Chòi vẫn giữ lỗi diễn xướng dân dã, không quá chuyên nghiệp với những quy ước biểu trưng hết sức phức tạp của Hát Bội, không mang những đặc điểm quy định về đài từ, về diễn xuất, động tác kịch… của sân khấu kịch nói; không ướt át-tình cảm… như Cải lương. Kịch hát Bài Chòi có những yếu tố đồng thời vừa sân khấu, vừa mang tính tự sự của chuyện kể dân gian, vừa có những diễn xuất gần với tính biểu trưng của sân khấu hát Bội truyền thống nhưng lại vừa gần gũi, gắn bó với người xem bằng phong cách hô bài Chòi lớp, Bài Chòi Truyện hay hô con bài trong trò chơi của anh Hiệu thuở nào. Đặc điểm này có thể cũng là một điểm góp phần vào phong cách của Bài Chòi và là điểm đáng trân quý của Bài Chòi.

Tất nhiên, những kế thừa và sáng tạo về âm nhạc, về nghệ thuật sân khấu trong Bài Chòi đã dần đưa nghệ thuật này đến mức độ hoàn thiện hơn, chỉnh chu hơn, bớt những điểm yếu khi hát cương, ngẫu hứng… Nhưng, đối với Bài Chòi nói riêng, thể loại âm nhạc dân gian nói chung, tính sáng tạo, ngẫu hứng trong diễn xướng vẫn là đặc điểm khá phổ biến, đôi khi là đặc trưng của thể loại. Đây cũng là điểm cần bảo tồn đối với các thể loại nghệ thuật truyền thống nói chung và Bài Chòi nói riêng.

TẠM KẾT:

Bài Chòi cần được bảo tồn cả dưới hình thức trò chơi dân gian lẫn hình thức sân khấu kịch hát dân tộc. Đây là một nghệ thuật sân khấu tổng hợp, thể hiện truyền thống văn hóa Việt, dưới hình thức nghệ thuật đặc thù, có âm nhạc riêng gắn liền với phong cách, ứng xử, âm điệu tiếng nói… người dân liên khu V và Bình Định. Bài Chòi chứa trong nó những đặc trưng riêng của một thể loại văn hóa – nghệ thuật dân tộc gắn liền với lịch sử và đặc trưng vùng miền…

Có thể thấy, vì những giá trị văn hóa, nghệ thuật chính trong bản thân thể loại, Bài Chòi rất cần giữ gìn, bảo tồn và phát huy nhất là trong tình hình toàn cầu hóa và sự xâm lấn văn hóa như hiện nay. Bảo tồn Bài Chòi không chỉ trong sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá… mà còn bằng con đường trình diễn và đào tạo. Hãy gìn giữ Bài Chòi như một nét riêng, một giá trị riêng của Bình Định và các tỉnh Nam Trung Bộ…

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30/8/2013

BÀI CHÒI BÌNH ĐỊNH

Trần Thị Cúc

A- PHẦN MỞ ĐẦU

Vượt ra ngoài hội chơi, Bài chòi Bình Định dần dần vươn lên thành một loại hình nghệ thuật truyền thống đặc thù của nhân dân Bình Định nói riêng và Nam Trung Bộ nói chung.

Ngôn ngữ của Bài chòi mộc mạc, thường mượn ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân, nên quần chúng dễ nghe, dễ nhớ. Những tố chất đó, cộng với nội dung nhân nghĩa làm nên cái gần gũi mà thâm trầm, quyến rũ của Nghệ thuật Bài chòi; Vì vậy, dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Nghệ thuật Bài chòi vẫn là một nghệ thuật của nhân dân, được nhân dân gìn giữ, vun đắp.

Tiếng hát Bài chòi trong những năm kháng chiến không chỉ là lời thúc giục nơi hậu phương, mà còn có mặt nơi tiền tuyến theo yêu cầu của Cách Mạng; khả năng cảm hóa và sức

56

Page 57: Nghệ thuật bài chòi

mạnh chiến đấu của Nghệ thuật Bài chòi đã trở thành một thứ vũ khí kỳ diệu của Cách Mạng Việt Nam trên chiến trường Bình Định suốt những năm 1962 - 1975.

Dưới ánh sáng đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng ta, Nghệ thuật Bài chòi tiếp tục được bảo tồn và phát triển lớn mạnh cả về chất và lượng.

Và ngày nay, Bài chòi đã trở thành một bộ môn nghệ thuật đặc sắc trong đại gia đình sân khấu dân tộc Việt Nam, được nhân dân cả nước vô cùng yêu thích.

B- PHẦN NỘI DUNG

1/ Sự ra đời của làn điệu Bài chòi

Bài chòi, một loại hình nghệ thuật dân tộc độc đáo ra đời từ trò diễn xướng dân gian mà ngày xưa gọi là “Hội Bài chòi” (1); đây là một hình thức vui xuân của nhân dân trong những ngày tết, lễ hội,… Hội Bài chòi có xuất xứ từ Bình Định, về sau mới lan dần ra đến các tỉnh lân cận: Quảng Ngãi, Quảng Nam và vào tới Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận.

Hội Bài chòi do ông Đào Duy Từ (1571 - 1634) sáng lập. Hội Bài chòi được dựng ở sân đình hoặc trước làng và do làng đứng ra tổ chức; Hội Bài chòi gồm có 9 chòi, bố trí thành hai dãy, mỗi dãy 4 chòi nối tiếp ở giữa là chòi Trung ương (2) xếp thành hình chữ U, mỗi chòi đều được treo một cái mỏ để khi thắng cuộc thì gõ lên để thông báo.

Hình thức chơi Bài chòi gồm có: Tiền, cờ và bộ bài. Tiền, do người chơi bài nộp vào để tổ chức cả cuộc chơi. Cờ, do ban tổ chức bố trí 8 chiếc, mỗi chiếc đề chữ “đệ nhất”, “đệ nhị”,… cho đến “đệ bát” để Anh Hiệu đem dâng cho các chòi thắng cuộc. Bộ bài, gồm 30 lá chia thành 3 pho: Văn, Vạn, Sách và mỗi pho có 10 lá bài; xin giới thiệu các tên bài của pho Văn là : Nhứt nọc, nhì nghèo, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu chùa, cửu điều. Còn “Anh Hiệu” là người quản trò cho cuộc chơi do làng gọi đến; Anh Hiệu phải là người hát hay, ứng khẩu linh hoạt, khả năng diễn xuất nhạy bén, hài hước. Anh Hiệu có nhiệm vụ chia bài, rút bài, hô bài, đem tiền và giao cờ đến chòi thắng cuộc trong mỗi ván bài. Nói chung Anh Hiệu là người điều khiển cho cuộc chơi được sôi nổi và hấp dẫn. Vai trò Anh Hiệu không chỉ dừng ở người quản trò, mà còn là người sáng tạo ra điệu hát Bài chòi về sau. Do, mỗi khi hô tên con bài Anh Hiệu thường kèm theo những điệu hô, rồi phát triển dần thành điệu hát Bài chòi có nội dung đối xứng với nội dung của tên con bài, nhằm mục đích tạo cho người nghe không nhàm tai, dễ cuốn hút và tạo tính hấp dẫn lâu dài.

Ví dụ: Hô đến tên con bài “tứ móc” thì anh hát rằng:

“Nực cười chị bán thịt heo

Hai vai gánh nặng lại đèo móc cân”. Hô là con “tứ móc”.

Để đạt được điều đó, Anh Hiệu phải trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo trong nghề nghiệp và qua quá trình lao động, sáng tạo trong nghệ thuật của nhiều đời Anh Hiệu, mà từ Hội Bài chòi sản sinh ra làn điệu Bài chòi. Tuy giai điệu hẵn còn là đơn giản, nghèo nàn, kết thúc chưa trọn vẹn, nhưng sự ra đời của “Làn điệụ Bài chòi” đầu tiên (3) đã đánh dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử Bài chòi là: Điệu Bài chòi ra đời từ Hội chơi Bài chòi.

2/ Quá trình hình thành và phát triển của Nghệ thuật sân khấu Bài chòi

57

Page 58: Nghệ thuật bài chòi

(1) Hội Bài chòi: Là một cuộc chơi bài, ngồi đánh trên các chòi. Gọi là Hội Bài chòi

(2) Chòi Trung ương: Là chòi cái, cầm cái cả cuộc chơi.

(3) Làn điệu bài chòi đầu tiên: Là điệu bài chòi cổ Xuân Nữ

2.1- Bài chòi trên sân khấu trải chiếu

Vượt ra ngoài hội chơi, Bài chòi phát triển nhanh chóng cả về chất và lượng; Những gánh Bài chòi nhỏ được số đông Anh Hiệu hợp tác thành lập và trực tiếp biểu diễn phục vụ ở các vùng thôn quê, ở trước sân đình, làng, ngã ba chợ,… trên “sân khấu trải chiếu”. Hoạt động quanh năm, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt; Giai đoạn này là giai đoạn Bài chòi trên sân khấu trải chiếu (giai đoạn đầu trong lịch sử Bài chòi) và đó là giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám. Giai đoạn này có mấy vấn đề cần lưu ý sau:

- Hình thúc sân khấu còn nghèo nàn, đơn sơ, một hình thức văn nghệ dân gian mang tính tự chủ (Về kinh phí, về môi trường hoạt động,…), nghệ nhân biểu diễn không có hóa trang, phục trang, chỉ mặc quần áo đời thường để biểu diễn. Hóa thân vào nhân vật chỉ thông qua nội dung lời ca để chuyền tải đến người xem; tuy vậy, mà khán giả vẫn cuồng nhiệt say mê như điếu đổ, họ reo mừng tán thưởng qua những pha diễn tài nghệ của diễn viên.

- Bài chòi do phục vụ rộng rãi trong quần chúng nên những vấn đề phản ánh thường được các nghệ nhân chú trọng như: Phản ánh cái xấu, cái tốt, việc oán, việc ân, chuyện xưa, chuyện nay,… Từ sự phong phú của nội dung, đến việc tiếp xúc nhiều thể loại dân ca các địa phương, các nghệ nhân Bài chòi đã chuyển hóa thành nhiều làn điệu, và phát triển thành nhiều hình thức biểu diễn:

* Về nội dung: Không chỉ có các bài lẽ, độc tấu như trước, mà các nghệ nhân đã sáng tác ra nhiều thể loại như: loại độc tấu nội dung tuyên truyền, giáo dục châm biếm, đã kích; loại kể chuyện sự tích, tuồng tích Việt Nam - Trung Quốc; loại đối đáp phản ánh về phong tục, tập quán, nhận thức; loại ca kịch soạn từ truyện thơ dân gian Việt Nam như: “Ông xã - bà đội”, “Thoại Khanh - Châu Tuấn”, “Phạm Công Cúc Hoa”, “Lâm Sanh - Xuân Nương”,… hay các pho truyện Trung Quốc như: “Tam Hạ Nam đường”, “Quan Công phục Hoa - Dung”, “Lưu Kim Đính hạ san”,…

* Về hình thức biểu diễn: Loại độc tấu; loại kể chuyện có minh họa với nhiều vai diễn hoặc một người sắm tất cả các vai; loại ca kịch phát triển cao hơn, tức hình thức biểu diễn đã phát triển thành một ca cảnh, hoạt cảnh, hay một vở kịch với phương tiện trang trí, sân khấu vẫn còn đơn điệu, ước lệ nhiều.

* Về làn điệu: Thông qua hoạt động nghệ thuật tích cực, sáng tạo của các nghệ nhân Bài chòi, mà ở giai đoạn này đã phát triển thành 4 làn điệu cơ bản: Xuân Nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hò quảng; ngoài ra, còn có một số biến điệu phụ khác.

2.2- Bài chòi từ đất lên giàn

Bước sang giai đoạn hai, Bài chòi được đưa lên tập sự trên sân khấu chính thức vào những năm 1934. Đó là sự kiện đưa Bài chòi “Từ đất lên giàn” (1) của cụ Ba Hượt và cụ Phan Đình Lang những người sáng lập ra sân khấu Bài chòi. Công trình thử nghiệm sân khấu Bài chòi của hai cụ được thành công bước đầu tại điểm diễn An Quang - Mỹ Tài - Phù Mỹ rồi lan dần ra các địa phương khác.

Các công việc chuẩn bị trước điểm diễn như: tuyển diễn viên, dạng đào kép, biên soạn lại các câu bài, tập hợp các vở diễn hay được chuẩn bị chu đáo. Những nhân tài được tập hợp ở giai đoạn này để nghiên cứu biên soạn và biểu diễn có: ông Sáu Cóc (cùng bậc thầy Cụ

58

Page 59: Nghệ thuật bài chòi

Lang), ông Sáu Nghi, ông Bốn Chấn, thầy Tám Có (vừa làm nghề thầy thủy vừa đi hô Bài chòi, người Gò Bồi) và một số nhạc công như: anh Quý, anh Công, Tư Hạng, gồm đủ bộ 3: Kèn, đờn, trống. Vào đầu xuân 1934 Bài chòi đã chính thức biểu diễn trên sân khấu của trường hát Gò Bồi - Phước Hòa - Tuy Phước - Bình Định; đợt biểu diễn đã kéo dài 7 đêm liền, lôi cuốn đông đảo người xem, được nhân dân tán thưởng, đồng tình với loại hình sân khấu Bài chòi mới lạ này, một bước ngoặc mới, mang đầy triển vọng cho sự nghiệp phát triển nghệ thuật Bài chòi… Các nghệ nhân Bài chòi trong tỉnh, tiếp tục bắt tay vào công tác nghiên cứu

phương hướng phát triển và mở rộng quy mô trên mọi mặt về chương trình kịch mục, về tổ chức đoàn,… thành lập ra gánh Bài chòi Tân Xuân, biểu diễn khắp nơi trong tỉnh vào những năm 1935 - 1937. Sự hoạt động mạnh mẽ ấy, đã cổ vũ các gánh Bài chòi khác trong tỉnh xuất hiện như gánh: Ông Sáu Cóc, ông Trang, vợ chồng anh Sinh ở An Thái, vợ chồng chị Lợi ở Phước Nghĩa, vợ chồng anh Dần ở Bồng Sơn, gánh Long Vân của vợ chồng anh Miệt, gánh Ý Chung của Phan Đình Chi và một số nghệ nhân Bài chòi hoạt động đơn lẻ rộng khắp…

Nói chung, khoảng bảy tám năm trước Cách mạng Tháng Tám phong trào Bài chòi ở các gánh đã phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, rầm rộ nhất là từ năm 1937 - 1945 (trong đó, gánh Bài chòi có tiếng vang lớn lúc bấy giờ là gánh Long Vân, đây là đoàn nghệ thuật Bài chòi có đầy đủ phương tiện biểu diễn và được lưu diễn trên sân khấu chính thức); Sự hoạt động mạnh mẽ của Bài chòi ở thời kỳ này, mang tính cạnh tranh, kiếm sống để tồn tại.

Tóm lại, trải qua hai giai đoạn Bài chòi sinh ra và hoạt động trong hội chơi và Bài chòi vượt ra ngoài hội chơi để hoạt động trên sân khấu trải chiếu rồi phát triển lên giàn , thể loại nghệ thuật sân khấu Bài chòi được hình thành và phát triển từ đây.

2.3- Bài chòi phát triển dưới ánh sáng Cách mạng

Đến Cách mạng Tháng Tám nghệ thuật sân khấu Bài chòi bước sang thời kỳ phát triển thịnh hành nhất, phục vụ nhân dân rộng khắp, đồng thời phát triển nhanh chóng phong phú.

Đặc biệt ở giai đoạn này, Bài chòi phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Liên khu V. Bài chòi có mặt khắp nơi, Bài chòi theo bộ đội ra tiền tuyến, động viên cổ vũ chiến đấu và phục vụ tăng gia sản xuất ở hậu phương, bài chòi giúp vui trong những đêm lửa trại, phục vụ hội nghị, đại hội mừng công.

Lực lượng sáng tác và biễu diễn Bài chòi hoạt động trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, chủ lực là anh em cán bộ làm công tác văn hoá văn nghệ, và các tầng lớp thanh niên trong bộ đội, cơ quan, trường học trong tỉnh, chính lực lượng mới này đã làm cho phong trào bài chòi nổi lên mạnh mẽ, nhiều tác phẩm mới được ra đời cùng quá trình tham gia hoạt động Cách mạng trong sản xuất và chiến đấu ở hậu phương đã có những tác phẩm “Tăng gia sản xuất”, “Đánh giặc giữ làng”; khi ca ngợi các anh hùng trong chiến đấu thì có những câu Bài chòi về: La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót,…; khi phục vụ cho bộ đội nơi tiền tuyến thì có những tác phẩm Bài chòi như: “Thư em gái gửi anh bộ đội”, “Tây ăn thịt heo” hay những vở ca cảnh “Hạ đồn thủ thuỷ”, “Giải phóng Kon Tum”.

Văn nghệ kháng chiến ở Liên khu V ngoài văn thơ ra, hầu như chỉ có Tuồng và Bài chòi nên đã dễ dàng thu hút được số đông lực lượng tham gia.

59

Page 60: Nghệ thuật bài chòi

Nhìn lại phong trào Bài chòi ở giai đoạn này, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ văn nghệ phục vụ chính trị trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Liên khu V. Về mặt phát triển nghệ thuật xuất hiện thêm hai làn điệu mới là : Xuân Nữ mới và điệu Xàng xê dựng (ngoài 4 làn điệu cơ bản nói trên).

2.4- Bài chòi đưa lên sân khấu ca kịch dân tộc hiện đại

Sau hoà bình lập lại, Bài chòi được đưa ra Bắc cùng với nghệ thuật tuồng; Những ngày đầu giới thiệu Bài chòi lên sân khấu miền Bắc còn khó khăn bỡ ngỡ do công chúng còn mới lạ đối với loại hình nghệ thuật này. Vở ca kịch Bài chòi “Thoại Khanh Châu Tuấn” dài 5 màn (phỏng tác của Nguyễn Tường Nhẫn) là vở diễn đầu tiên được đưa lên sân khấu hiện đại và cũng là bước đầu thể nghiệm thành công của những người làm công tác nghiên cứu đã mạnh dạn đưa các làn điệu dân ca Liên khu V “Hò, Lý, Vè” bổ sung cho Bài chòi, nhằm tăng thêm sự phong phú, hấp dẫn trong nghệ thuật bài chòi; tuy nhiên, điệu Bài chòi vẫn là trụ cột. Bên cạnh, tiếp tục hỗ trợ cho Bài chòi về phần âm nhạc như : Nhạc đệm, nhạc nền vở diễn, để tạo nên sự hoàn chỉnh cho nghệ thuật Bài chòi về sau.

Bài chòi đã phục vụ đông đảo cán bộ nhân dân và phát triển mạnh mẽ trên sân khấu xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ (do đoàn văn công Liên khu V hoạt động).

Vở “Thoại Khanh Châu Tuấn” công diễn thành công vào năm 1957, đến giữa năm 1958 đưa vào dự thi tại hội diễn nghệ thuật miền Bắc và đoạt giải A. Đoàn vừa phục vụ, vừa xây dựng và phát triển nâng cao nghệ thuật, nên cuối năm 1959 bộ phận Bài chòi đựơc tách ra lập thành một đoàn lấy tên là đoàn Ca kịch Liên khu V.

Cho đến năm 1961 ngoài vở “Thoại Khanh Châu Tuấn” phát triển thêm nhiều vở mới được đưa ra công diễn như: Vở “Lòng son sắc“ của Trần Nguyên, “Kiều - Từ Hải” của Nguyễn Tường Nhẫn, “Nghìn thu vọng mãi” của Lưu Trọng Lư, “Tiếng sấm Tây Nguyên” của Thanh Nha - Thế Lữ (vở tham gia hội diễn toàn miền Bắc lần thứ hai đoạt giải xuất sắc),…

Với sự thành công của vở “Thoại Khanh Châu Tuấn”, Bài chòi chỉ mới thành công ở đề tài dân gian, nhưng qua vở diễn “Tiếng sấm Tây Nguyên” Bài chòi đã khẳng định được sự thành công về đề tài hiện đại, làm bước nhảy vọt cho những vở Bài chòi hiện đại về sau ra đời, như: vở kịch “Chim chèo bẽo”, “Ba cha con”, “ Bà mẹ Gò nổi”, “Một mạng người”, “Diệt rọ”,…

Những vở Bài chòi mang hơi thở hiện đại cũng đã kịp thời cổ vũ động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam chống Mỹ. Theo lệnh Đảng, theo tiếng gọi quê hương gần 200 văn nghệ sĩ của 2 đoàn nghệ thuật (tuồng và ca kịch Liên khu V) lên đường về Nam công tác.

Còn trên quê hương Bình Định, người dân với lòng say mê bài chòi đã tự nguyện hợp thành một lực lượng ca diễn Bài chòi, hình thành một binh chủng đăc biệt mang tính sung trận trong kháng chiến chống Mỹ với tên gọi “Đoàn văn công giải phóng” do Tỉnh Ủy thành lập năm 1962 (Nay là đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định thành lập năm 1976). Đó là đội vũ trang tuyên truyền với lời ca tiếng hát Bài chòi là chính để phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm. Đặc biệt, với các tiết mục“ Súng Mỹ lòng ta”, “ Sóng ngầm phước lý”, “Chỉ một

60

Page 61: Nghệ thuật bài chòi

con đường”, “Người con gái xứ dừa”,… đã đánh thức những tâm hồn u ám của binh sĩ địch, Bài chòi đã tham gia công tác binh vận rất tốt.

Càng trãi qua hoạt động biểu diễn trong chiến tranh, làn điệu Bài chòi càng mượt mà phong phú đa dạng. Nghệ thuật Bài chòi thật sự đã đi cùng nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Ủy qua những tháng năm đấu tranh oanh liệt…

Qua gần 15 năm hoạt động, những nghệ sỹ đã thực hiện sứ mệnh phục vụ chiến trường, phục vụ đồng bào vùng giải phóng, vùng tạm chiếm… các nghệ sỹ đã mang tiếng hát Bài chòi đến với đồng đội, đồng bào đầy gian khổ hy sinh, lời ca của họ hàng ngàn lần cất lên giữa vùng bom đạn và trở thành một thứ vũ khí tinh thần của Cách mạng Việt Nam trên chiến trường Bình Định suốt những năm 1962 - 1975 và từ bấy đến nay, Bài chòi Bình Định vẫn tiếp tục phát triển trong không khí hoà bình của đất nước.

Cũng phải nhìn nhận rằng, cơ sở từ phương hướng xây dựng vở “Thoại Khanh-Châu Tuấn” và qua quá trình hoạt động hơn 20 năm trên sân khấu xã hội chủ nghĩa đã bổ sung và nâng cao, cải tiến không ngừng về âm nhạc, về làn điệu, về kịch mục luôn thích ứng với mọi đề tài, mọi hoàn cảnh xã hội… đã tạo nên loại hình nghệ thuật sân khấu ca kịch bài chòi với một nét phong cách riêng biệt như ngày nay.

3/ Thực trạng nghệ thuật sân khấu Bài chòi trong thời kỳ đổi mới:

3.1- Mặt thành tựu

Từ những năm 1975 - 1985, đất nước bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân ra sức khắc phục hậu quả sau chiến tranh, lập lại khí thế hòa bình trên cả nước; Đây là giai đoạn thuận lợi về môi trường xã hội cho hoạt động của loại hình nghệ thuật truyền thống như: Tuồng, Chèo, Cải lương, Ca kịch Bài chòi,… Sân khấu Bài chòi có một số vở diễn nỗi cộm lúc bấy giờ như: vở “Tiếng sấm Tây nguyên”, “Núi rừng năm ấy”, “ Đoàn tụ”, “ Ba cha con”,… đã phát huy được vai trò xung kích trên mặt trận văn hoá - văn nghệ, đưa ánh sáng văn hoá - văn nghệ về tận vùng sâu, vùng xa và rộng khắp cả nước.

Đặc biệt, quan điểm nhất thống của Đảng ta về vấn đề bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc của văn hoá văn nghệ, đó là tiếp thu một cách có sáng tạo những giá trị tiến bộ của nền văn hoá thế giới để xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đã tạo được “thế” và “lực” cho dòng nghệ thuật dân tộc truyền thống phát huy. Trong đó, nghệ thuật sân khấu bài chòi có chuyển biến mới mẽ về: Phong cách, làn điệu, kịch mục hấp dẫn hơn so với trước đây; Công tác nghiên cứu khoa học, công tác đào tạo nghệ sỹ được chú trọng.

Tổng kết những thành quả lao động, sáng tạo nghệ thuật đã gặt hái được qua hơn 35 năm xây dựng và phát triển dưới ánh sáng đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng ta:

Về lực lượng đoàn Đã thành lập được đoàn Ca kịch Bài chòi trong đoàn văn công nhân dân Trung ương

và một đội bài chòi trong đoàn văn công quân đội Liên khu V (năm 1955). Từ năm 1962 đến năm 1965 có 5 đoàn văn công giải phóng tổng hợp ca múa nhạc kịch bài chòi tại 5 tỉnh: Quảng Nam, Đà nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Đến năm 1972 thành lập thêm đoàn dân ca khu 5B tại miền Bắc. Và từ 1975 - 1985 ở 4 tỉnh Nam Trung Bộ: Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghĩa Bình (nay là Bình Định), Phú Khánh, Thuận Hải, mỗi tỉnh đều thành lập một đoàn ca kịch bài chòi chuyên nghiệp, nhiều đoàn ca kịch bài chòi chuyên nghiệp dân doanh và rất nhiều đoàn - đội bài chòi nghiệp dư của các huyện, xã và hợp tác xã.

61

Page 62: Nghệ thuật bài chòi

Tại Bình định, ngoài đoàn Ca kịch Bài chòi chuyên nghiệp còn có các đội bài chòi cổ: Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ.

Về kịch mụcĐã có hàng trăm kịch mục đưa ra công diễn và tham gia liên hoan, hội diễn với đa

dạng đề tài lịch sử, dân gian, hiện đại, kể cả kịch nước ngoài được chuyển thể Ca kịch Bài chòi như: “Chuyện tình nàng Sita”, “Công chúa Tô Lan”, “Đồng tiền Vạn lịch”, “Tây Thi”, “ Mùa tôm”, “Tiếng sét trong cơn giông”,…

Số kịch mục được đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định dàn dựng và công diễn tính đến nay chiếm đến gần 100 vở. Có những vở diễn đạt kết quả cao trong các kỳ hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, như vở: “Tội lỗi”; “Đồng tiền Vạn Lịch” ;“Anh hùng với giai nhân” ;“Cuộc đời tôi”; “Khúc ca bi tráng”, …

Về nghiên cứu khoa họcNhững công trình nghiên cứu được đưa vào sử dụng trong công tác đào tạo: Giáo trình

đào tạo diễn viên và nhạc công bậc Trung cấp Nghệ thuật Ca kịch Bài chòi - năm 2005 do Trường Trung học Văn hoá Nghệ Thuật Bình Định biên soạn; Lịch sử ca kịch và âm nhạc bài chòi - 2001 do cố nhạc sỹ Hoàng Lê biên soạn và một số bài bản sưu tầm biên soạn của các nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu tú, nghệ nhân lão thành.

Hội nghị chuyên đề năm 1978 tại Nha trang và hội nghị tổng kết 25 năm công tác của nghành năm 1980 tại Phan thiết do Viện nghiên cứu sân khấu và Bộ Văn hoá - Thông tin tổ chức. Hội nghị khai thác nghệ nhân bài chòi lần thứ nhất, lần thứ hai -1978 tại Quy Nhơn do ty Văn hoá - Thông tin Nghĩa Bình tổ chức.

Hội thảo khoa học về sự hình thành và phát triển nghệ thuật bài chòi do sở Văn hoá - Thông tin Nghĩa Bình tổ chức -1982, Hội thảo khai thác nghệ nhân bài chòi lần thứ hai -1983 tại thành phố Huế do Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam tổ chức…

Về tổ chức đào tạoĐội ngũ diễn viên, nhạc công đại đa số được đào tạo qua trường lớp hệ Trung cấp

chính quy. Ở tỉnh Bình định, có trường Trung học Văn hoá Nghệ Thuật Bình Định là nơi đào tạo cung ứng đắc lực đội ngũ nghệ sỹ cho đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định; tính đến nay đã đào tạo được 6 khoá học gồm trên 250 học sinh của chuyên ngành này. Chủ lực là đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc công cho đoàn Ca kịch Bài chòi chuyên nghiệp, một số ít về địa phương làm công tác phong trào ở cơ sở. Ngoài ra, Đoàn Ca kịch Bài chòi còn đào tạo cấp tốc một số diễn viên theo yêu cầu công tác.

3.2- Mặt hạn chế

Tuy nhiên, nghệ thuật Bài chòi trong giai đoạn hiện nay đang trên đà phát triển theo hai xu hướng:

- Xu hướng thứ nhất: đi về “cái cổ” tức là giữ nguyên bản phong cách, sắc thái Bài chòi cổ. Xu hướng này, đang phát triển ở các đội Bài chòi cổ dân gian nhỏ lẻ ở một số tỉnh miền Trung (trong đó có Bình Định). Vở diễn của các đội Bài chòi cổ là những vở kịch cổ dân gian (được phục hồi), điệu Bài chòi cổ (Xuân nữ cổ) là điệu hát chủ lực xuyên suốt cả vở diễn theo lối hát: hô và xướng nguyên bản.

62

Page 63: Nghệ thuật bài chòi

Hoạt động biểu diễn của các đội Bài chòi cổ mang tính nghiệp dư, không thường xuyên, không được đầu tư đúng mức, hoạt động còn manh mún…

- Xu hướng thứ hai: đi theo cái “cách tân” tức là đưa Bài chòi đi theo một xu hướng cải tiến; trong lối hát, cách hát, điệu Bài chòi bị “pha tạp” một vài làn điệu Dân ca, một chút nét của chất Tuồng, thậm chí có cả Cải lương. Đặc biệt, là lớp diễn viên trẻ ưa thích lối xướng hò Bài chòi theo lối xuống vọng cổ trong nghệ thuật Cải lương; Hay một số kịch hát Bài chòi đã bị Dân ca hóa, “chỗ đứng” của làn điệu Bài chòi bị mờ nhạt trong suốt vở diễn. Xu hướng này, đang rộ lên ở một số Đoàn nghệ thuật Ca kịch Bài chòi và còn “len lỏi” vào trong cả những đợt hội thi, hội diễn chuyên nghiệp,…

C- PHẦN KẾT LUẬN

Trên bước đường phát triển theo xu hướng cải tiến, cách tân, làm mới Bài chòi đã có lúc, có nơi Bài chòi bị biến dạng và mờ bản sắc.

Muốn cho Bài chòi tồn tại và phát triển, thì nhất thiết phải giữ cho Bài chòi không lai tạp, biến dạng; Bài chòi là loại hình nghệ thuật do dân gian sáng tạo nên, thì phải trả nó về với giá trị đích thực của nó từ cách “hô” cho đến “lối xướng”.

Bài chòi Bình Định là một loại hình nghệ thuật đặc sản quý hiếm của Bình Định nói riêng và cả miền Trung nói chung; Cần phải coi trọng, bảo tồn, giữ gìn và phát triển nó đúng hướng, đúng mức, để nghệ thuật Bài chòi luôn giữ được một sắc thái độc đáo, riêng biệt.

Việc kế thừa, khai thác, giới thiệu loại hình nghệ thuật này đến với rộng rãi công chúng trong và ngoài nước, là việc làm góp phần “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Viêt Nam”, trách nhiệm này không chỉ của riêng ai, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân ta…

VỀ "HÔ" CÁC LÀN ĐIỆU TRONG TRÒ CHƠI BÀI CHÒI VÀ KỊCH HÁT BÀI CHÒI

Trương Đình Quang

Lâu nay, cái tên "hô bài chòi", "hô thai" thường được hiểu là bắt nguồn từ tên "quân bài" trong bộ bài trùng, bài tới, với việc "hô" câu thai về tên quân bài, trong trò chơi bài chòi. Theo nhiều nguồn ca, hát, diễn xướng dân gian cổ truyền, thì "hô" không hoàn toàn chỉ là việc gọi (có mầm mống ca xướng) tên quân bài, mà là một thể loại trong diễn xướng dân gian gồm: hò, hô, lý, v.v... Việc dùng câu thơ 6/8 (lục bát) hoặc bài thơ 6/8 biến cách hô các làn điệu trong trò chơi bài chòi, hình thành thể loại "hô" trong dân ca miền Nam Trung bộ. Cách hô và giọng điệu nguyên sơ gắn bó với sắc thái "tấu" hơn là ca hát. Trong diễn xướng dân

63

Page 64: Nghệ thuật bài chòi

gian, các thể loại hò, hô được áp dụng cho những diễn xướng tự do, chưa có khúc thức chặt chẽ như ở các thể loại hát, lý, ca dân gian.

"Hô" câu thai, câu bài là thế "tấu" thơ cổ truyền, là nền móng cho "kịch bài chòi", rồi đi đến "kịch hát bài chòi", vào giữa những năm 50 của thế kỉ trước9

Đặc trưng của thể loại "hô-tấu thơ" là không phát triển về giai điệu, mà phát triển về ngữ điệu, ngữ khí10 và tiết tấu. Trong âm nhạc dân tộc, ở phạm vi giai điệu, thể loại làn điệu, giọng có cái khả năng chuyển hóa tài tình. Ở đây, giai điệu có thể thay đổi cung bậc ở vào những phách nhất định, miễn là một cung bậc chính vẫn giữ tương đối nguyên vị. Và, bất cứ một khổ thơ nào của dân tộc cùng thể nào, gắn với giai điệu gốc, cũng có thể ngâm, hát, hô, hò theo làn điệu đó, giọng đó, tất nhiên là có sự chuyển hóa bên trong, do tài năng và tâm hồn người và nhóm diễn xướng... Khả năng khắc họa hình tượng, nếu như để tạo một không khí, thể hiện một tâm trạng, thì thật là sở trường.

Đặc trưng của thể loại "hô – tấu thơ" (làn điệu, giọng) là cùng với sự phát triển về giai điệu, chú trọng phát triển về ngữ điệu, ngữ khí 2 và tiết tấu. Từ lúc hô trong hội chơi, do tiết tấu của thể thơ lục bát thuần hơi đơn điệu, các nghệ nhân dân gian hô thấy cần dặm thêm từ vào câu thơ gốc, nhằm biến cách nó về tiết tấu. Do đó, thể thơ thích ứng cho hô không phải là lục bát thuần, mà là lục bát biến cách. Đấy là đặc trưng rất cơ bản của thể thơ hô, cần được bảo tồn và phát huy. Vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, các nghệ nhân hô tập kết ra miền Bắc, ít người giỏi về hô biến cách. Cho đến nay, những người chuyển biên và tác giả sân khấu này cũng chưa thành thạo viết lục bát biến cách, và trong vài đoàn kịch hát bài chòi, ít diễn viên giỏi hô thể biến cách.

Thêm một đặc trưng quan trọng của thể điệu trong hò, hô. Đó là về âm nhạc, nó chỉ có yếu tố điệu thôi, nên sự vận động của điệu hoàn toàn tùy thuộc vào lời thơ. Trổ thơ dài bao nhiêu, người hô hô bấy nhiêu. Câu thơ mấy từ, người hô hô từng ấy từ.

Chúng ta xem xét một trổ từ câu hô cổ "Ông Xã ve Mụ Đội", chẳng hạn:

Ông Xã hô: ... Mụ chỉ lo son điểm phấn tô

nhỏng nha nhỏng nhảnh tựa như đồ lầu xanh

Hèn chi thiên hạ họ nói hành

rằng vợ ông Xã Bảy như con tinh trên đầu đèo

Xưa rày, hàng xóm họ đồn reo

9 Trước đây, có nhiều tên: Dân ca kịch Khu V, Dân ca kịch Nam Trung bộ, Dân ca kịch Quảng Nam – Đàà Nẵng, Dân ca kịch Khánh Hòa.

10 Ngữ khí: ngữ điệu biểu lộ thái độ, tình cảm. Ngữ điệu: những biến đổi về độ cao của giọng khi nói, khi đọc, có liêên quan đến cả một ngữ đoạn và có thể dùng để biểu thị một số ý nghĩa bổ sung.

64

Page 65: Nghệ thuật bài chòi

Tao chỉ mong cho mụ chết quách đặng tao vật heo ăn mừng

... ... ...

Lối hô biến cách không làm hỏng nội dung trong lời thơ. Nếu ta thử thu gọn về lục bát thuần, như sau:

... Mụ lo son điểm phấn tô

nhỏng nha nhỏng nhảnh tựa đồ lầu xanh

Hèn chi thiên hạ nói hành

Vợ ông Xã Bảy con tinh đầu đèo

Xưa rày, hàng xóm đồn reo

Tao mong mụ chết, vật heo ăn mừng

... ... ...

thì trổ hô kém hấp dẫn, do tính đơn điệu về tiết tấu của thể lục bát thuần. Mà, ở sàn hô diễn hoặc sân khấu, tính tiết tấu song song với tính hành động, tính giai điệu song song với sự thể hiện tình cảm.

Một anh hiệu hô câu Quan Công phục Huê dung đạo (Quan Công đón bắt Tào Tháo ở đường Huê dung, đổi là Ba dung):

Nói lối: Vạn cổ trung can huyền nhựt nguyệt

Thiên thu nghĩa khí quán càn khôn

Quan Công hầu tiết liệt nhứt môn

lập đoan văn bắt Tào Tháo, chẳng tha hồn Tào man

Hô: Chốn chiến trường đoan thệ rõ ràng

qua Ba dung bắt Tào tặc, mổ lấy gan gian hùng

Trên quân sư rồi ngài chẳng thuận tùng

e Quan hầu ngài vị nghĩa tha cùng Tào gia

Dạ, dạ, Quan Công tôi bẩm với ca ca

Em xin xuất trận đào ba Hớn trào

Ví dù Tào nó có mưu nào

Em xin ra sức anh hào trả nợ trai

Phân làm nhị đạo binh oai

65

Page 66: Nghệ thuật bài chòi

Triệu Tử Long, Trương Dực Đức mà trấn hai nẻo đàng

Ngõ Ba dung rồi binh mã ông sang

Phen này, Tào tặc mắc đường là (nguy) lâm nguy!

Từ Ba dung gắn với tên quân bài Thất vung (đọc chệch v thành d). Theo lối hô diễn, từ khúc nói lối đến "trên quân sư rồi ngài chẳng thuận tùng", anh hiệu kể về Quan Công, và diễn việc làm tờ cam đoan của ông với Khổng Minh, là không vì nghĩa cũ mà tha Tào Tháo. Rồi, hiệu chuyển ngay thành vai Khổng Minh, và hô "e Quan hầu, ngài vị nghĩa tha cùng Tào gia. Lập tức, hiệu quay lại hướng Lưu Bị để nhờ sự can thiệp của ông anh kết nghĩa vườn đào, cho ông đi bắt Tào Tháo: là Quan Công vừa nói và quỳ xuống hô: "Dạ! dạ! Quan Công tôi bẩm với ca ca... đến hai nẻo đàng" thì hiệu đứng lên, trở về vai trò người kể chuyện, hô tên quân bài "Ngõ Ba Dung rồi binh mã ông sang, Phen này, Tào tặc mặc đường là (nguy) lâm nguy.

Điệu hô, dù còn nghèo nàn về âm điệu, nhưng có khá đủ yếu tố hô diễn sân khấu. Đó là: yếu tố kể chuyện (tự sự), yếu tố hành động, yếu tố diễn xuất. Chính nhờ đấy, hô diễn đã lên sàn diễn khá sớm với những cảnh, những vở kịch chuyển biên từ các truyện thơ nôm: Thoại Khanh – Châu Tuấn, Lâm Sanh – Xuân Nương, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga...

Trong tiến trình "từ đất lên dàn" (trước khi lên sân khấu), thể loại này đã có sự cải tiến quan trọng về âm nhạc và sân khấu. Về âm nhạc, điệu hô với một điệu thức, hô theo nhịp sanh hoặc nhịp trống con, đàn cò đệm tòng đơn giản, đã chế biến thêm ba điệu thức: Xuân nữ, Nam Xuân, Xàng xê, Hồ quảng:

- Xuân nữ hơi Xuân nữ hát bộ chuyển hóa hơi xuân, ai, oán, dựng, bi.

- Nam xuân từ hơi Nam xuân nhạc hát bộ.

- Xàng xê gần với hơi nhạc cổ và hơi hạ nhạc tài tử.

- Hồ quảng tiếp nhận và chuyển hóa từ hơi Quảng, nhạc cải lương tuồng Tàu.

Đáng tiếc là, từ khi sân khấu bài chòi có tác giả (trước kia là tự biên tự diễn), thì những đặc trưng ấy của văn thơ các thể điệu, thể hô, hò, không còn được kế thừa, phát huy. Phần đông người chuyển biên, tác giả đều viết thể lục bát thuần, và cũng chưa người nào dùng lời văn, lời thơ để làm phong phú làn điệu. Tức là, họ chưa kết hợp nhuần nhuyễn thi luật học (lời văn, lời thơ ở bài hô, kịch bản) với âm luật học (âm thanh, thanh điệu, ngữ điệu, ngữ khí), để làm phong phú cách hô gắn với nhân vật trên sân khấu.

Trong sân khấu này, từ những bước đầu thực nghiệm, cùng với nói (để độc thoại, để đối thoại, nói vè) là hô (làn điệu thể lục bát thuần và biến cách), kết hợp với hò (giã gạo, mài dừa, kéo lưới) và hát (lí: thương nhau, vọng phu, thiên thai...) và bài hát sáng tác: Vọng Kim lang, Đất Hồ lòng Hán, Con chim tung, Trách hoa, Ngoạn cảnh (của NSƯT Hoàng Lê, NSƯT Cung Nghinh, Trương Đình Quang, Trần Hồng (lâu nay, bị gọi nhầm là dân ca (!) kể cả trên Đài TNVN).

66

Page 67: Nghệ thuật bài chòi

Một cảnh trong vở ĐỘI KỊCH "CHIM CHÈO BẺO"

(kịch nói: Nguyễn Văn Niêm, chuyển biên: NSƯT nhạc sĩ Hoàng Lê; đạo diễn: Cao Anh

– Đoàn kịch hát bài chòi Liên khu 5,1969, Hà Nội)

Vở "Dân ca kịch Liên khu V – Thoại Khanh – Châu Tuấn của Nguyễn Trường Nhẫn ra đời năm 1957 ở Hà Nội, với sự đổi mới về hô, cộng thêm ca (hát, đã là cái mốc chuyển hẳn phong cách thanh nhạc của ngành từ "hô" thuộc dòng thanh nhạc biểu đạt mà ngữ điệu, ngữ khí là xương sống, sang "ca" "hát" thuộc dòng thanh nhạc biểu hiện, mà giai điệu là xương sống.

Với kịch bài chòi, chỉ nói đến "hô". Với kịch hát bài chòi hoặc kịch dân ca (pha trộn hô bài chòi với hát các dân ca khác, như các đội TTTT lưu động ở xã, phường, hay làm theo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt), thì có thể hô, hát. Vì quá chú trọng đến ca hát, đã xuất hiện lối "mùi mẫn hóa" điệu Xuân nữ bài chòi, đến gần với bài ca Vọng cổ của kịch hát cải lương, từ nói lối đến xuống hò, gây sự nhìn nhận "Vọng cổ dởm" hoặc "cải lương dởm", trong công chúng xem nghe kịch hát bài chòi.

Nhiều người cho rằng ca là từ Hán – nôm, mà từ Hán có nghĩa là hát. Nhưng, tìm hiểu cách dùng trong dân gian, từ ca chỉ dùng để gọi loại thanh nhạc phòng (ca trù, ca Huế, ca cải lương, ca tài tử) cho nên xét về mặt Việt hóa thuần túy, thì ta có phân biệt với hát về phong cách. Chẳng hạn, ca vọng cổ, hát nam, hát khách, hát quan họ, hát chèo.

Nghĩ về "ca" "hát" bên cạnh "hô" trong kịch hát bài chòi là vấn đề cần được bàn bạc, lắng nghe ý kiến của người làm và người xem nghe thể loại kịch hát này.

67

Page 68: Nghệ thuật bài chòi

ĐÀO TẠO NGÀNH SÂN KHẤU CA KỊCH BÀI CHÒI

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Th.s – NSƯT Hoàng Minh Tâm

Hiệu trưởng Trường CĐ VHNT & DL Nha Trang

Là một trong những tinh hoa của truyền thống nghệ thuật dân tộc, hàng trăm năm qua,

ngành kịch hát dân tộc (gồm tuồng, chèo, cải lương, ca kịch bài chòi cùng một số hoạt động

nghệ thuật biểu diễn khác) đã in đậm dấu ấn trong đời sống tinh thần - thẩm mỹ của các thế hệ

người Việt Nam. Mấy mươi năm trước đây, hầu như mỗi người Việt Nam đều đã được

thưởng thức các vở diễn chứa đựng những phẩm chất văn hóa tinh thần giúp con người hướng

tới chân - thiện - mỹ. Rồi cùng với thời gian và quá trình phát triển của cuộc sống hiện đại,

với sự phong phú về phương tiện truyền tải, với tính đa dạng của các loại hình nghệ thuật mới

như điện ảnh, âm nhạc, sân khấu kịch nói, đặc biệt là khi nhu cầu thẩm mỹ của công chúng -

nhất là công chúng trẻ, đã đạt tới một trình độ mới,... thì sân khấu truyền thống (SKTT) trong

đó có sân khấu Ca kịch bài chòi không còn giữ vai trò chủ đạo trong sinh hoạt nghệ thuật của

xã hội. Tình trạng này đã và đang đặt ra câu hỏi: Cần phải làm gì, phải làm như thế nào để sân

khấu Ca kịch Bài chòi có thể tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp phát triển văn hóa, nghệ thuật

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của giải đất khu Trung trung bộ và xã hội? Đây là

câu hỏi thu hút được rất nhiều sự quan tâm, trong đó có Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật

và Du lịch Nha Trang- một sơ sở đào tạo về nghệ thuật truyền thống (NTTT) trọng điểm của

khu vực Nam Trung bộ.

I. Sơ lược về lịch sử phát triển của nhà trường

Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và du lịch Nha Trang là cơ sở đào tạo có uy tín

đối với các chuyên ngành thuộc loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống (sân khấu Tuồng,

sân khấu ca kịch Bài chòi) của tỉnh Khánh Hòa nói riêng và khu vực Nam trung bộ nói chung.

Ngay từ khi thành lập (1977) với tên gọi là Trường Nghiệp vụ văn hóa Phú Khánh, nhà

trường đã mở các lớp nghiệp vụ sân khấu Tuồng, Bài chòi ngắn hạn và đã gặt hái được những

giải thưởng cao trong các kỳ liên hoan tài năng trẻ sân khấu truyền thống toàn quốc.

Năm 1988, trường được nâng cấp với tên gọi Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật

Khánh Hòa. Trong thời gian 16 năm, trường đã đào tạo được 6 khóa diễn viên nhạc công sân

khấu truyền thống (tuồng và bài chòi). Số diễn viên này hiện đang công tác hầu hết ở các đoàn

nghệ thuật chuyên nghiệp trong tỉnh và một số tỉnh khác như Phú Yên, Ninh Thuận, Đồng

Nai, thành phố Hồ Chí Minh… và nhiều đoàn nghệ thuật không chuyên khác. Các diễn viên

68

Page 69: Nghệ thuật bài chòi

tốt nghiệp ra trường từ ngày đầu ấy, nay đã có một số vinh dự được nhà nước phong tặng

danh hiệu nghệ sĩ ưu tú, hoặc sắm những vai trọng yếu trong vở diễn của đoàn.

Năm 2004, trường được nâng cấp thành trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du

lịch Nha Trang. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của trường là phải tập trung đào tạo

được đội ngũ viễn viên nhạc công cho các đoàn nghệ thuật sân khấu truyền thống (SKTT) của

tỉnh Khánh Hòa cũng như các tỉnh trong khu vực có đầy đủ năng lực chuyên môn cũng như

phẩm chất đạo đức, nhằm phát huy và gìn giữ những tinh hoa và bản sắc của nghệ thuật sân

khấu truyền thống mang đặc điểm văn hóa vùng miền.

II. Thực trạng công tác tuyển sinh, đào tạo ngành ca kịch Bài chòi

II.1. Công tác tuyển sinh

Các trường đào tạo nghệ thuật sân khấu truyền thống khó lòng tuyển đủ chỉ tiêu là câu

chuyện phổ biến đã gần chục năm nay của các trường VHNT trên toàn quốc, Trường Cao

đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Nha Trang có số học sinh đăng kí thi vào ngành SKTT

cũng rất ít, đặc biệt là ca kịch Bài chòi. Mặc dù nhà trường đã đăng tải đầy đủ, chi tiết thông

tin tuyển sinh trên website, báo chí, băng rôn, tờ rơi phát tới tận tay học sinh THPT, THCS ở

Khánh Hòa và các tỉnh trong khu vực …nhưng số lượng thí sinh đăng kí thi rất hạn chế, thậm

chí vài năm gần đây không có thí sinh dự tuyển. Nhà trường buộc phải vận động, thuyết phục

các sinh viên trúng tuyển ngành âm nhạc có chất giọng và các tố chất dân ca chuyển sang theo

học ngành ca kịch Bài chòi. Trước kì tuyển sinh chính thức, nhà trường đã giao nhiệm vụ cho

một số giáo viên bộ môn khoa Sân khấu đi tới những vùng sâu, vùng xa để tuyển chọn học

sinh có năng khiếu đưa về trường đào tạo. Mặc dù vậy, số lượng học sinh cho mỗi khóa học

chỉ được 2 - 3 học sinh/lớp.

Khó khăn trong công tác tuyển sinh là thế, khó khăn trong kinh phí đào tạo của nhà

trường cũng có phần không kém. Nhà trường đào tạo mỗi khóa 3 năm, mỗi năm phải chi trên

53 triệu đồng để trang trải chi phí đào tạo cho các lớp nghệ thuật sân khấu truyền thống (bao

gồm chi phí cho giờ học, thời gian thực tế thực tập, kinh phí tốt nghiệp, thù lao cho các nghệ

nhân). Trong khi đó ngân sách tỉnh Khánh Hòa cấp cho ngành này mỗi năm là 6.8 triệu

đồng/sv. Số kinh phí này quá chênh lệch so với chi phí thực mà nhà trường phải chi trả hàng

năm. Đây là khó khăn tài chính không nhỏ, gây không ít áp lực đối với nhà trường.

II.2. Công tác đào tạo

Để công tác đào tạo sân khấu ca kịch Bài chòi thực sự đạt chất lượng và hiệu quả,

trường đã dành sự đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho việc tập

luyện và biểu diễn như nhà biểu diễn thực hành, phòng thu thanh, phòng học hát cách âm và

trang thiết bị đạo cụ…Trong số những ngành nghề mà Khoa Sân khấu đào tạo, bộ môn sân

khấu ca kịch Bài chòi được khoa đặc biệt chú ý. Với đội ngũ giảng viên nhiệt huyết với nghề,

được đào tạo chính quy tại các trường Đại học Sân khấu, Khoa Sân khấu đã từng bước đổi

mới phương pháp giảng dạy, áp dụng phương pháp tích cực trong giảng dạy phát huy tính chủ

69

Page 70: Nghệ thuật bài chòi

động cao cho học sinh. Bên cạnh đó, khoa cũng tập trung sưu tầm, nâng cao, hệ thống hóa các

môn học như kỹ thuật biểu diễn, các động tác cơ huấn; tìm hiểu khai thác cách hát riêng của

từng Đoàn ca kịch Bài chòi Quảng Nam-Đà nẵng, Đoàn Bài chòi Hội An, Bình Định, Khánh

Hòa …Nhờ vậy người học có được sự tự tin khi biểu diễn và tiếp thu bài học một cách bài

bản, có hệ thống.

Trong công tác đào tạo diễn viên SKTT, khoa chú trọng rèn luyện cho học sinh, sinh

viên thành thục trong hát, múa, diễn xuất vươn tới tinh hoa của sân khấu truyền thống, rèn

luyện để đạt được các yếu tố Thanh, Sắc, Thục, Tinh, Khí, Thần. Song song, khoa kết hợp với

Đoàn ca kịch Bài chòi của nhà hát truyền thống Khánh Hòa cho sinh viên được đi thực tế

ngay từ năm thứ hai. Những học sinh, sinh viên khi tham gia thực tế đều được học thêm vai

mẫu, trích đoạn trong các vở mà nhà hát đang công diễn, để các em được thể hiện vai diễn,

được tiếp cận với không khí làm việc và phong cách biểu diễn nghệ thuật của nhà hát. Học

sinh, sinh viên được rút kinh nghiệm trong từng buổi tập, từng vai diễn và có bài viết thu

hoạch sau kì thực tế, thực tập.

Chẳng hạn như với nghệ thuật Tuồng và Bài chòi, trong công tác tuyển sinh, trường

luôn coi đây là lớp năng khiếu đặc biệt, như Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đang tiến hành

với các lớp điền kinh, bóng đá, võ thuật được nuôi từ bé, giống như lớp đồng ấu xưa, khác

hơn một chút, lớp năng khiếu đặc biệt này sẽ được đào tạo tại trường. Phải đào tạo diễn viên

Bài chòi và Tuồng nắm vững cơ bản về môn võ thuật dân tộc, vì chính môn này sẽ dạy cho

diễn viên cách vận khí trong quá trình biểu diễn. Học võ và vận khí được, người diễn viên

mới làm chủ trong các động tác, khí tạo thần nên múa vừa đẹp vừa lột tả được thần sắc của

nhân vật qua từng ý tứ của lời văn trong hoàn cảnh cụ thể của nhân vật. Về học vai mẫu,

ngoài một số trích đoạn để diễn viên nắm bắt tính mô hình hóa trong từng lớp diễn, cần chú ý

đào tạo nguyên vai. Các giải pháp ở nghệ thuật sân khấu Bài chòi không chỉ dừng lại ở công

tác đào tạo diễn viên mà còn phụ thuộc vào tác giả kịch bản dùng lối viết văn như thế nào, câu

từ có phù hợp với cách nói lối, hô hát, tính cách nhân vật và phong cách vở diễn hay không…

cho đến khâu đạo diễn, âm nhạc, mỹ thuật. Không thể coi nhẹ công tác đạo diễn, xưa người ta

gọi là thầy Tuồng, người tổng hợp các loại ngôn ngữ sân khấu, chỉ đạo mọi hành động, thổi

hồn cho vở diễn thành công.

Để giúp cho công tác đào tạo ngày càng chuyên sâu, Trường đã mời những nghệ sĩ

nhân dân, nghệ sĩ ưu tú của nhà hát NTTT Khánh Hòa giảng dạy theo lối truyền nghề, cầm

tay chỉ việc ở tất cả các môn chuyên ngành (hát, vũ đạo, vai mẫu, trích đoạn mẫu, hóa trang,

các môn cơ sở…), tạo sự hứng thú, niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật cho người học

III. Lời giải cho bài toán nhân lực ngành sân khấu Ca kịch Bài chòi hiện nay

Bối cảnh xã hội hiện tại không thuận lợi cho các loại hình nghệ thuật truyền thống phát

triển trong đó có Ca kịch Bài chòi (Thế hệ trẻ ngày nay ít được tiếp xúc với SKTT, họ chỉ

quen với các chương trình giải trí hiện đại. Các phương tiện truyền thông ít đưa tin về các

nghệ sĩ, các học viên theo học SKTT, mà chủ yếu là giới thiệu, quảng cáo cho các ca sĩ, diễn

70

Page 71: Nghệ thuật bài chòi

viên, người mẫu… Thu nhập của người làm SKTT cũng thấp hơn nhiều so với các môn nghệ

thuật khác). Trong khi đó, bản thân loại hình nghệ thuật này lại đang ở những khúc quanh đầy

khó khăn. Vì vậy để sân khấu truyền thống ( ca kịch Bài chòi ) thoát khỏi tình trạng “sống dở

chết dở” như hiện nay không phải là vấn đề của một vài cá nhân nào đó mà là vấn đề chung

của cả nền sân khấu, cần sự chung tay góp sức của nhà nước, nhân dân và toàn xã hội.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy sân

khấu Ca kịch Bài chòi trong giai đoạn hiện nay

III.1 Nhà trường đào tạo

Trong tất cả các hình thức để bảo tồn và phát triển SKTT, đào tạo là khâu vô cùng quan

trọng, cần ưu tiên hàng đầu. Bởi, có đào tạo, mới chuyển giao được những tri thức về SKTT

cho thế hệ sau, tạo nên lực lượng kế cận đủ tài năng để bảo tồn, phát triển SKTT đúng hướng.

Diễn viên là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc chuyển tải thông điệp tác phẩm

cũng như làm nổi bật giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc; yếu tố trực tiếp dẫn dắt khán giả thâm

nhập sâu vào đời sống bên trong tác phẩm, vì vậy, để có được chuẩn đầu ra là diễn viên đạt

tới Thanh, Sắc, Thục, Tinh, Khí, Thần thì cần kết hợp giữa phương pháp truyền khẩu, truyền

nghề với ứng dụng các phương pháp truyền thụ kiến thức tiên tiến, hiện đại.

Đối với công tác tuyển sinh, trường phải phân công giáo viên về các vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa để tuyển lựa những em có năng khiếu thật sự và có sự định hướng cho sinh

viên để khi ra trường các em tìm được một công việc ổn định, đúng ngành nghề đào tạo.

Hàng năm, nên tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tế, thực tập ở các đơn vị nghệ thuật

truyền thống theo sở trường, nguyện vọng.

Việc liên kết đào tạo giữa các cơ sở trong nước và nước ngoài cũng là giải pháp quan

trọng. Bên cạnh việc cử giảng viên, sinh viên giỏi đi học tập, nghiên cứu ở các nước có nền

văn hóa tương đồng với Việt Nam, chúng ta nên tăng cường các chuyến giao lưu, biểu diễn

cho học sinh, sinh viên. Đây sẽ là cơ hội để các em rèn luyện kỹ năng biểu diễn SKTT trong

thời kỳ hội nhập. Cùng với đó, việc trao đổi, phối hợp giữa các cơ sở đào tạo trong nước sẽ

trao truyền cho nhau mặt mạnh của cơ sở mình để tạo nên diện mạo mới trong công tác đào

tạo.

III.2 Cơ quan quản lý cần quan tâm đầu tư

Mức thu nhập bình quân của giáo viên SKTT, các nghệ sĩ Nhà hát truyền thống Khánh

Hòa, cũng như các đoàn SKTT trên cả nước: Mặc dù đã có một vài chế độ ưu đãi như thanh

sắc, bồi dưỡng nghề hàng tháng, tiền thuê nhà ở…Nhưng so với mặt bằng chung của xã hội

thì đời sống của các nghệ sĩ SKTT còn rất thấp, trong khi giá cả thị trường leo thang hàng

ngày.

71

Page 72: Nghệ thuật bài chòi

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người nghệ sĩ yêu nghề, say nghề có thể sống bằng

nghề, tồn tại với nghề, phát triển nghề (cả trong nước và được thế giới biết tới) chứ không chỉ

là làm thế nào để nghề ấy không mất đi; làm thế nào để chèo, tuồng, cải lương, dân ca bài

chòi… có đất diễn, có khán giả thật sự của riêng mình trước khi có được khán giả đại trà? Và

quan trọng hơn cả là bảo tồn để phát triển chứ không chỉ để tồn tại. Những câu hỏi này luôn

làm nhức nhối những người trong cuộc và trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, đòi hỏi cơ quan

quản lí cần có sự đầu tư đúng mức, cụ thể là:

- Cơ quan quản lí cần quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên

chuyên ngành văn hóa nghệ thuật truyền thống, bổ sung kinh phí đào tạo, chỉ đạo định hướng

về chiến lược phát triển cho các trường văn hóa nghệ thuật trong xu thế hội nhập và phát triển

hiện nay.

- Nhà nước cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với những giáo viên của SKTT, các

tài năng trẻ trong học sinh sinh viên ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, có chính sách ưu tiên đặc

biệt cho các em học ngành sân khấu truyền thống.

III.3. Phương tiện truyền thông quảng bá và công tác đào tạo khán giả

Một tác phẩm nghệ thuật SKTT muốn đến được với đông đảo người xem đòi hỏi phải

có một chương trình quảng bá rộng rãi. Công tác tuyên truyền, quảng bá giúp cho khán giả -

giới trẻ biết và hiểu hơn về văn hóa dân tộc, từ đó biết tôn trọng và gìn giữ vốn di sản thiêng

liêng và quý báu này. Tuy nhiên, việc quảng bá cũng chỉ là giải pháp tức thời, bởi nghệ thuật

truyền thống có tính đặc thù riêng. Vì vậy, để có một lượng khán giả ổn định và yêu mến

SKTT thì ngoài việc tạo ra sản phẩm sân khấu có chất lượng và quảng bá cho tác phẩm đó,

khâu đào tạo để công chúng hiểu và yêu mến nghệ thuật truyền thống sẽ tạo nên sức sống lâu

dài cho loại hình nghệ thuật này.

Đáp ứng yêu cầu trên, nhà trường sẽ tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ

quan ban ngành trong các hoạt động nghệ thuật như nghệ thuật đường phố, hội diễn văn hóa

nghệ thuật quần chúng, gắn hoạt động sân khấu vùng miền với hoạt động du lịch đồng thời

tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật SKTT trên các phương tiện

thông tin đại chúng, đưa chương trình tìm hiểu sân khấu vào học đường; xây dựng các câu lạc

bộ SKTT với những hình thức nghệ thuật tương ứng trong trường; hàng năm tổ chức các cuộc

thi về SKTT cho học sinh, sinh viên. Nhà nước cần tạo ra một sân chơi mới cho các bạn trẻ

với hình thức giải trí vui nhộn, những nội dung bổ ích gắn liền với tìm hiểu SKTT; tổ chức

các cuộc thi cho nhiều đối tượng tham gia, có giải thưởng hấp dẫn.

III.4. Nội lực của sân khấu truyền thống Ca kịch Bài Chòi

Sân khấu ca kịch Bài chòi phải tự đổi mới tư duy, nếp nghĩ, cách làm để tự cứu mình.

Đội ngũ diễn viên để sống được với nghề không chỉ cần có sự đam mê mà phải biết hy sinh

để giữ nghề, cần phải nỗ lực rèn luyện để thành tài. Người nghệ sĩ thời nay không chỉ có mỗi

nhiệm vụ là hát hay diễn mà phải thể hiện được khả năng thích nghi của mình đối với cơ chế

72

Page 73: Nghệ thuật bài chòi

thị trường, phải lao tâm khổ tứ để tự phấn đấu vươn lên, làm sao để khán giả nhớ đến mình,

đến vai diễn, giọng hát của mình. Trước khi đổ lỗi cho thời thế, bản thân những nghệ sĩ phải

hiểu rằng thời hiện đại mọi khó khăn cũng là một sự sàng lọc cần thiết để từ đó, trong cơn

tuẫn nạn biết được thực lực tồn tại của những nghệ sĩ tài năng, để bồi dưỡng và phát huy họ,

còn những người không thực sự có tài, thì nên tìm một con đường khác để đi, vì nếu không có

tài hoặc ít tài thì thời nào và ở ngành nghề nào cũng sẽ chịu nhiều nỗi khổ.

III.5. Trách nhiệm của khán giả đối với Sân khấu truyền thống Ca kịch Bài chòi

Sân khấu truyền thống chính là kết tinh của văn hóa dân tộc, là sản phẩm của lịch sử.

Tôn trọng, gìn giữ và phát huy sân khấu truyền thống chính là tôn trọng, giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là trách nhiệm của cả cộng đồng, của cả dân tộc.

Bảo tồn, phát triển SKTT không phải là trách nhiệm của riêng ai, nó cần sự chung tay

của cả cộng đồng xã hội. Trường CĐVHNT-DL Nha Trang cam kết thực hiện đúng nhiệm vụ

đào tạo và rất cần có được sự chung tay của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để công tác đào tạo

của nhà trường đáp ứng đủ và kịp thời nguồn diễn viên trẻ có trình độ, tâm huyết với nghề

cho Nhà hát NTTT tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh trong khu vực, góp phần bảo tồn, gìn giữ và

phát huy NTTT của dân tộc, đặc biệt bảo tồn nghệ thuật Dân ca Bài chòi đang trình Unesco

công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể thế giới, đưa công tác đào tạo của nhà trường ngày càng

tiến xa hơn nữa, góp phần tạo nên diện mạo mới cho SKTT nước nhà.

BÀI CHÒI BÌNH ĐỊNH:

ĐẶC TÍNH BA TRONG MỘT CỦA MỘT TRÒ CHƠI

Nhà thơ, nhà nghiên cứu VHDG Mai Thìn

(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội VNDG Việt Nam)

1- Từ hội bài chòi

1.1- Nguồn gốc

Cứ mỗi độ xuân về, tết đến, người dân Bình Định khắp vùng xuôi ngược lại có nhiều hội vui. Ở miền biển có múa bả trạo, hội đua ghe, hội cầu ngư... người đồng bằng có hát bộ, hội đổ giàn, đấu võ dân tộc, đá gà; miền núi thì có phóng lao, hội cơm mới... Tất cả đều góp phần tạo nên nét đẹp riêng của một vùng đất vốn đã có nhiều truyền thống văn hoá đặc sắc. Đặc biệt ở Bình Định còn có một hội vui xuân không kém phần độc đáo, đó là trò chơi đánh bài chòi, khởi nguồn của sân khấu ca kịch bài chòi ngày nay.

73

Page 74: Nghệ thuật bài chòi

Xuất hiện từ lâu, hội bài chòi là thú vui cho mọi người dân trong mùa tết đến. Đây là một cuộc chơi bài, nhưng không phải các tụ điểm đỏ đen như ngày nay. Người chơi bài không ngồi trên nhà hay trên chiếu mà ngồi trên các chòi cất lên giữa bãi đất rộng. Vì đặc điểm này nên cuộc chơi gọi là Hội bài chòi.

Theo các cụ cao niên và nhiều tài liệu để lại thì Hội bài chòi Bình Định xuất hiện vào thời kỳ mới di dân lập ấp. Để bảo vệ hoa màu, xua đuổi thú rừng, người ta dựng nên các chòi canh nơi nương rẫy. Mỗi chòi đều được làm kiên cố, cao đủ tầm để muông thú khỏi tấn công, và trang bị các loại phèn la, trống, mõ để xua đuổi thú. Rồi để tiêu khiển trong những đêm trăng dài dặc, người ta nghĩ ra cách hát hò, đối đáp giữa các chòi với nhau. Từ đó mà sinh ra loại hình sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy.

Tương truyền, người nghĩ ra cách chơi đánh bài chòi đầu tiên là danh nhân Đào Duy Từ - người Thanh Hóa, vào làm quan cho chúa Nguyễn, dựng nghiệp ở Hoài Nhơn Bình Ðịnh. Ông đã dựa theo mô hình văn nghệ ở các chòi canh rẫy mà sáng lập ra hội đánh bài chòi từ đó đến ngày nay.

Đây là một cuộc chơi bài trong dịp xuân về tết đến, nhưng không phải như các tụ điểm đỏ đen, mà hàm ý nghĩa vừa là ngày hội, vừa là cuộc chơi có thưởng, người chơi có dịp cầu lộc, cầu may đầu năm. Từ 30 tháng chạp cho đến rằm tháng giêng, trên nhiều vùng của Bình Định và các tỉnh duyên hải miền Trung thường có Hội đánh bài chòi.

2.1- Cách làm và bố trí các chòi

Trước đó, bắt đầu từ 25 tháng chạp, người ta đã phân công nhau chặt tre, đánh tranh dựng chòi trên những khu đất rộng là sân chợ, sân đình làng, hoặc một đám đất trống. Vật liệu để làm chòi chủ yếu là tranh, tre. Nơi nào nghèo, thì làm tạm bợ như chòi canh rẫy, nơi dư dả thì làm vững chắc, bốn trụ là bốn gốc tre già vững chãi, trên có mái che lợp bằng lá dừa, cỏ tranh săn hoặc rạ lúa trì, lúa nhe còn thơm mùi ải.

Chòi được cất theo kiểu nhà sàn cao quá đầu người, chứa được 5 sáu người, và có thang lên xuống. Nơi nào nghèo thì chòi được làm tạm bợ, chỉ đôi tấm tranh và vài cây khung tre che nắng, như nhất thiết mỗi chòi phải có một cái mõ, một cái ống trảy hoặc một khúc thân cây chuối hay bó rơm để người chơi găm con bài và cờ đuôi nheo.

Hội gồm có chín chòi, nằm ở vị trí hình chữ U, hai dãy hai bên và một chòi nằm giữa nối liền hai dãy này. Chòi giữa là chòi trung ương nằm đối diện với người xem. Hình thức của chín chòi này giống như chòi canh rẫy, nhưng được trang hoàng đẹp đẽ.

74

Page 75: Nghệ thuật bài chòi

(Sơ đồ một hội đánh bài chòi)

Chòi trung ương được trang hoàng đẹp đẽ hơn với câu đối chúc xuân, chúc phúc được trang bị một cái trống cán (thường gọi là trống lịnh). Chòi này thường được dành cho các vị chức sắc trong làng, cũng có thể dành cho cặp vợ chồng mới cưới, hoặc những vị khách đặc biệt muốn tham gia cuộc chơi.

Công việc khó nhất là làm mõ. Người ta phải lựa những củ tre già nằm sâu trong đất, phơi khô rồi vạt bỏ rễ, vỏ, tạo hình sừng trâu. Ruột phải khoét sao cho mõ kêu to và giòn, mới thể hiện được niềm vui của người thắng cuộc trong ngày đầu xuân.

Đối diện với chòi trung ương là bàn hội đồng. Đây là nơi dành cho các chức sắc trong làng, được trang bị trống chầu và ban nhạc để người đại diện điều hành khai hội, trên bàn hội đồng có khay rượu, khúc chuối cây cắm cờ thướng, một hộp thau hoặc cái đĩa cổ đựng tiền thưởng và ống thẻ bài để phát cho các chòi. Đây cũng là nơi anh Hiệu làm nghi thức xin phép phát thẻ bài, chuẩn bị bắt đầu cuộc chơi; và cũng là nơi đến nhận khay rượu và các vật dụng để phát thưởng cho người thắng cuộc.

3.1- Các con bài và cách chơi bài

Hội bài chòi là một lối đánh bài, mà các con bài được bình dân hóa bằng các tên gọi nôm na, dị kỳ. Bên cạnh những tên gọi vừa Hán vừa Việt, như: Nhất trò, nhì nghèo, tam quăng, tứ cẳng, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng… là những danh từ thuần Việt như: Chín gối, ba bụng, sáu ghe, tứ móc... tất cả đều đượm tính hội hè, vui nhộn và ý lực phồn thực của lẽ sinh tồn.

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi

Chòi trung ương

Rạp, nơi đặt bàn hội đồng và các ống thẻ, cờ thướng

Cây nêu

75

Page 76: Nghệ thuật bài chòi

Hình vẽ trên những lá bài Chòi, bài Tới, bài Tam cúc có phỏng theo bộ bài "Diệp tử mã điếu" và bài "Toàn đối" xuất hiện thời Đường ở Trung Quốc vừa mang tính biểu trưng bằng thủ pháp cách điệu, vừa có ý tả thực. Mỗi lá bài được vẽ trên giấy (xanh, đỏ, vàng…) với hai bên mặt lá có ký hiệu hoa văn để khuôn biệt, rồi dán lên thẻ. Có nơi kỹ hơn, người ta vẽ trực tiếp lên những mảnh tre mỏng, hình mái chèo, dài gần 3 tấc. Thẻ bài cái to được thể hiện tổng hợp 3 con bài con.

Tùy theo mỗi vùng mà có nhiều cách chơi khác nhau, ứng theo đó là số lượng con bài cũng khác nhau. Ở Bình Định, bộ bài có 27 cặp, gồm 9 thẻ bài cái và 27 thẻ bài con, được chia làm ba pho: Pho văn, pho vạn và pho sách.

Trước khi chơi, người ta bán bài cái cho các tay chơi, với chín chòi là chín tay chơi. Mỗi chòi chỉ được mua một thẻ bài cái. Bài cái còn được gọi là con bài nọc hay bài gốc.

Khi chín thẻ bài gốc được bán hết, các tay chơi đã yên vị trên chòi thì người điều hành làm thủ tục khai hội. Sau khi khai hội anh Hiệu đến trước bàn hội đồng xin phép điều khiển hội chơi, rồi cầm cái ống thẻ ra đứng giữa sân, vừa đi vừa hô lên tên 27 con bài lẻ. Anh Hiệu vừa hô tên con bài vừa làm trò phụ họa rộn rã. Đây cũng là cách để giới thiệu cho người chơi kiểm tra toàn bộ những con bài trong cuộc chơi. Anh Hiệu phải lắc mạnh ống đựng thẻ nhiều lần để chứng tỏ sự công bằng, tránh gian lận rồi mới bắt đầu phần hồi hộp nhất của cuộc chơi là rút và hô tên một con bài bất kỳ trong tiếng trống chầu và dàn nhạc liên hồi dồn dập. Để kích thích lòng mong đợi của mọi người, anh Hiệu còn múa may những động tác vui nhộn, rồi cất cao giọng, hô điệu bài chòi, gọi là hô thai bằng hai hoặc nhiều câu lục bát mà trong câu hô bao giờ cũng có chữ chỉ tên con bài vừa được rút.

Trên chòi ai có con bài trùng với con bài anh Hiệu hô thì đánh ba tiếng mõ, nếu là chòi trung ương thì đánh 3 tiếng trống báo hiệu chòi mình đã tới con bài đó. Cuộc chơi lần lượt như thế cho đến khi chòi nào nhận được ba con bài lẻ trùng với ba con bài trong thẻ bài cái của mình thì đánh một hồi mõ hoặc hồi trống lịnh (nếu là chòi trung ương) thông báo thắng cuộc. Chòi thắng cuộc được Hiệu làm thủ tục phát thưởng: mời rượu, trao cờ và tặng thưởng theo đúng nghi thức của cuộc chơi.

Ở một số nơi khác, bộ bài chòi có 30 lá, chia làm 3 pho: pho văn, pho vạn, và pho sách. Mỗi pho có một lá cầm đầu màu đỏ và chín lá kia toàn màu đen, có tên gọi từ nhất (một) đến cửu (chín).

Pho văn có 10 lá gồm: cửu điều, nhứt nọc, nhì nghèo, tam quăn, tứ móc, ngũ trượt, lục chạng, thất vung, bát bông, cửu chùa.

Pho vạn gồm 10 lá với tên gọi là: ông ầm, nhứt trò, nhì bí, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu miễn, bảy liễu, tám miễn, chín cu.

Pho sách gồm 10 là, có tên là: thái tử, bạch huê, tráng trai, ba bụng, tứ tượng, ngũ rún, sáu hột, bảy thưa, tám hội, chín gối.

Cũng có nơi, người ta sử dụng bộ bài chòi phải có đủ 30 cặp, chia làm 3 pho, một yên.

Một yên có 3 con: Lão, Thang, Chi.

76

Page 77: Nghệ thuật bài chòi

Lão, con ông Ầm.

Thang, con Thái tử.

Chi, con Bạch Huê.

Một Pho có 9 còn bài, gồm:

STT

Pho Văn Pho Vạn Pho Sách

1

2

3

4

5

6

7

8

9

Chín Gối

Nhì Bánh

Ba Bụng

Tứ Tượng

Ngũ Rốn

Sáu Xướng

Bảy Liễu

Tám Miểng

Chín Cu

Nhất Trò

Nhì Bí

Tam Quăng

Tứ Ghế

Ngũ Trượt

Lục Trạng

Thất Vung

Bát Bồng

Cửu Chùa

Nhất Nọc

Nhì Nghèo

Ba Gà

Tứ Xách

Ngũ Dụm

Sáu Hướng

Bảy Thưa

Tám Dây

Cửu Điền

Tên gọi các lá bài chòi rất nôm na, còn hình vẽ trên những lá bài vừa mang tính biểu trưng bằng thủ pháp cách điệu, vừa có ý tả thực. Mỗi lá bài được vẽ trên giấy hồng, với hai bên mặt lá có ký hiệu hoa văn để khuôn biệt, rồi dán lên những mảnh tre mỏng, hình mái chèo, dài gần 3 tấc (giống như chiếc đũa bếp).

Trong cuốn Làng cây dừa 11 TS. Diệp Đình Hoa có đoạn mô tả rất kỹ về trò chơi đánh bài chòi ở huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định:

“Mở đầu ngày hội bài chòi, từ sáng sớm, chiêng trống đã nổi lên rền vang khắp xóm làng để thúc giục mọi người đi dự hội trong sự náo nức của ngày xuân.

Dàn nhạc ở chòi cái, giữa sân tấu lên các khúc nhạc quen thuộc…Thường thì giai đoạn này lớp trẻ con chiếm lĩnh trận địa: reo hò, đuổi bắt, chòng ghẹo nhau làm náo loạn cả lên, trong lúc chờ đợi để hội đủ chín chân bài.

11 Làmg Cây Dừa, Tập I, NXB KHXH, 2004.

77

Page 78: Nghệ thuật bài chòi

Sau một hồi trống chầu đĩnh đạc, nghiêm trang, anh hiệu xuất hiện. Lời giới thiệu của anh hiệu thường là bài ca nói về các con bài:

Gió xuân phảng phất bụi tre

Xin mời cô bác lắng nghe "Bài Chòi"

Mùa xuân vui khắp nơi nơi,

Xin mời cô bác cùng tôi chơi bài.

Các em đừng có la rân,

Để cho người lớn lại gần vui chơi.

Hãy nghe tôi kể sự đời,

Kể tên kể tuổi mấy đôi quân bài.

- Đỏ gay mặt mũi là gã "ông Ầm"Trượt ngã xuống hầm, là anh "Tứ Cẳng"

Nước da trăng trắng, là chị "Bạch Huê… »

Tên các con bài sẽ được anh hiệu vận dụng đưa vào câu thơ, bài vè một cách nhuần nhuyễn.

Người hô bài chòi luôn sử dụng ngôn ngữ dân gian khi nói đến những “kiên kỵ” của người ta hoặc lối “đố tục giảng thanh” hết sức lí thú.

Tiếc công mẹ đẻ cha nuôi

Thân em không giữ, lại lùi thâu đêm,

Đàn ông có một cái nêm,

Đàn bà nửa nhụy lại thêm mẻ đèn

Đàn bà sáng rực ao sen,

Đàn ông giữ cửa, nọc chèn hai bên.

(Nhì nọc)

78

Page 79: Nghệ thuật bài chòi

2- Anh Hiệu và cách hô bài chòi

Người giữ vai trò quan trọng trong trò chơi đánh bài chòi là anh Hiệu. Ban đầu, anh Hiệu chỉ làm nhiệm vụ thông báo tín hiệu của mỗi con bài, chia bài đem đến cho các chòi, rút bài trong ống và hô tên nó lên cho các chòi nghe để đánh bài và đem tiền, rượu và cờ trao cho các chòi thắng cuộc trong mỗi ván. Lâu dần, để tạo không khí cho cuộc chơi, người ta tìm những anh Hiệu có giọng hay, có tài ứng khẩu linh hoạt, mở miệng xuất thơ làm quản trò. Từ đó, anh Hiệu không chỉ là người đơn thuần điều khiển cuộc chơi, thông báo tên các con bài mà còn làm cho cuộc chơi luôn sôi động, hấp dẫn bằng những lời hô bài chòi đầy ngẫu hứng về tên lá bài mà người chơi trông đợi. Chính vì vậy, anh Hiệu phải thuộc thật nhiều thơ, ca dao, và tự ứng tác những câu thai có tên con bài; ngoài hô bài chòi còn phải biết hát nam, hát khách… những làn điệu phổ biến ở địa phương.

Lời hô bài chòi của anh Hiệu là hình thức tập trung nhất về mặt nghệ thuật của cách đánh bài chòi. Vì thế, hô bài chòi được xem là làn điệu gốc của ca kịch bài chòi ngày nay.

Thường thì trong một hội bài chòi có từ 2 đến 3 Hiệu chính và một hoặc hai Hiệu phụ, trong đó có đủ nam nữ thì diễn xuất mới linh hoạt. Ban nhạc, ngoài trống chầu, để làm thủ tục khai hội và đệm cho Hiệu hô bài còn có khoản bốn người: một trống chiến kiêm mõ, thanh la, một đàn nhị, một đàn hồ tiểu hoặc kèn, một gõ xập xõa, sanh.

Vào những năm sau thập niên 30 của thế kỷ XX, ở Bình Định có nhiều anh, chị Hiệu tài hoa, Hiệu nam có các ông: Bốn Trang, Sáu Bóc, ông Bùng, Sáu Sính, Ba Hượt, Phạm Đình Chi, Nguyễn Đốc, Tư Liên… Hiệu nữ có cô Đạm, cô Hương, Năm Dần, ba Điểm, Bốn Nhảy… Trong đó, ông Bốn Trang là một trong những hiệu nổi tiếng ở Nhơn Thành.

3- Đến nghệ thuật diễn xướng dân gian ngoài trời và nền sân khấu ca kịch bài chòi

Nghệ thuật hô bài chòi và diễn trò của Hiệu là hình thức tập trung nhất về mặt nghệ thuật của Hội đánh bài chòi. Vì thế, hô bài chòi được xem là làn điệu gốc của ca kịch bài chòi ngày nay. Những câu bài chòi của anh hiệu cũng giống như những câu hô thai. Đó là những câu lục bát, ngầm chỉ một vật gì, mà người ta sẽ đoán ra. Còn ở trò chơi bài chòi thì anh Hiệu phải hô những câu có nội dung gợi cho người chơi nhận biết tên con bài mà mình cần thông tin.

Hiệu thông minh là người biết vận dụng đưa tên con bài vào câu thơ, bài vè một cách nhuần nhuyễn. Khi gặp những điều kiêng kỵ, phạm húy, thì người hô bài chòi còn biết sử dụng ngôn ngữ dân gian hoặc lối “đố tục giảng thanh” hết sức lí thú để né tránh mà vẫn đạt hiệu quả truyền đạt thông tin đến người chơi.

Lâu dần, để đáp ứng nhu cầu của khán giả, tạo không khí vui vẻ hơn cho cuộc chơi bài, anh Hiệu đã nâng từ hai câu lục bát lên thành một bài có cốt chuyện, có nội dung thế nào để thông tin cho được tên con bài mà anh cần nói.

Chẳng hạn con bài mang tên "Ba bụng" được thông qua câu chuyện thơ: Phước Lộc Thọ, con bài Bát bồng có tích chuyện Tề Thiên phá động La Sát, con bài “Lục chạng” trong chuyện: Tam hạ Nam Đường… Tăng phần hấp dẫn cho mỗi câu chuyện kể bằng thơ này của

79

Page 80: Nghệ thuật bài chòi

anh Hiệu là sự trợ giúp của dàn nhạc (cũng ngày càng phát triển), từ đó hình thành nên các làn điệu của nghệ thuật bài chòi ngày nay.

Lâu dần, hội chơi bài chòi trở thành một loại hình nghệ thuật diễn xướng, thu hút người ta đến dự, vừa chơi bài vừa để được nghe kể chuyện bằng nghệ thuật hô bài chòi của anh Hiệu. Từ đó, nhiều người đâm mê bài chòi đến độ, dân gian đã đúc kết thành những câu:

Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để con nó khóc, mà lòi rún ra

Hay:

"Thà rằng ăn mắm mút dòi,

Cũng nghe bài chòi cho sướng cái tai"…

Như vậy, hội bài chòi không chỉ là một trò chơi đơn thuần, mà còn là một hoạt động diễn xướng dân gian khá sôi động, gắn liền với đời sống người nông dân. Chính vì thế nhiều nhà nghiên cứu về kịch hát bài chòi đã khẳng định, hội chơi bài chòi là "tiền thân" của nền sân khấu ca kịch bài chòi ngày nay, với nhiều làn điệu xuân nữ, xàng xê, hò quảng, cổ bản... làm đắm say biết bao thế hệ.

Theo các nhà nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của ca kịch bài chòi, thì "Những câu hát gọi là câu thai ấy tuy để dùng cho một trò chơi nhất định, nhưng lại chứa đựng một nội dung xã hội khá phong phú. Đầu đề của nhiều câu hát dùng để gọi tên con bài nêu lên được chủ đề xã hội của những câu hát đó... Do đó từ chỗ là những bài hát dùng trong trò chơi đánh bài chòi, hô bài chòi đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn nghệ độc lập. Những người hiệu về sau ngoài việc làm Hiệu trong Hội đánh bài chòi, họ lập từng nhóm thoát ra khỏi Hội bài chòi đi đến những chỗ đông người diễn những tích trò Hô bài chòi có nội dung xã hội. Dần dần họ lập thành những đoàn, gánh nhỏ đi hô, diễn ở nhiều nơi cả nông thôn và thành thị, và sau đó thì hô bài chòi đã phát triển thành một loại hình sân khấu bài chòi như ngày nay”12.

4- Đặc tính ba trong một

Nét độc đáo khác biệt của trò chơi đánh bài chòi là từ thở sơ khai, khi mới hình thành hội đánh bài chòi, sau đó là bài chòi trải chiếu, tiếp theo là từ đất lên giàn rồi phát triển thành sân khấu ca kịch bài chòi thì tất cả các hình thức này đều song song, tồn tại và bổ trợ lẫn nhau để phục vụ đa dạng nhu cầu thưởng thức văn nghệ của nhân dân. Đây là tính 3 trong 1 của trò chơi đánh bài chòi ngày nay.

12 Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Văn Học Dân Gian T2, NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, HN 1977.

80

Page 81: Nghệ thuật bài chòi

Nghĩa là, sau mỗi một ván, một hội bài, để giải lao, các anh chị Hiệu trình diễn các câu bài chòi lẻ và diễn những trích đoạn trong các vở bài chòi như: Tam hạ Nam Đàng, Ông xã bà đội, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lang Châu - Lý Ân… thu hút sự chú ý của đông đảo người xem. Người dân ban ngày chơi đánh bài chòi xong, ban đêm còn được xem các vở sân khấu ca kịch bài chòi do các nghệ sĩ hay các nghệ nhân Hiệu trình diễn.

Hội chơi bài chòi đã trở thành một tập tục đươc tổ chức vào dịp đầu xuân, không chỉ đơn thuần vui chơi giải trí, mà còn mang tính chất khuyến khích sáng tác và duy trì thi ca bình dân. Ngày xuân cầm những thẻ bài với nhiều sắc màu hồi hộp, vui vẻ với bà con làng xóm trong không khí hội hè chính là một nét đẹp truyền thống của người dân Bình Định.

5- Và một Dự án được nhân dân yêu thíchChính vì điều này mà ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Định đã quyết

tâm phục dựng hội đánh bài chòi. Dự án Bảo tồn Hội đánh bài chòi cổ dân gian ở Bình Định đã được thực hiện thành công, đưa vào phục vụ công chúng kể từ Tết năm Tân Mão, và đến nay đã được nhân rộng ra ở nhiều nơi trong cả nước như: Nha Trang, TP. HCM, Hà Nội…

Không chỉ trong những ngày đầu xuân mà lần đầu tiên đưa vào các dịp lễ hội, như: Lễ hội Chùa Bà - Nước Mặn, hoặc trong dịp Festival Lâm sản Việt Nam lần thứ nhất, Liên hoan sân khấu dân ca kịch bài chòi chuyên nghiệp toàn quốc năm 2011 tại thành phố Quy Nhơn… Hội đánh bài chòi cũng được tổ chức biểu diễn phục vụ, thu hút sự tham gia của đông đảo công chúng về dự hội. Tại cơ sở Anh Nhật Gia Viên trên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Quy Nhơn, đã thường xuyên tổ chức phỏng theo hội đánh bài chòi cổ cũng trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu cho thực khách…

Bình Định là miền đất thượng võ, luôn coi trọng văn chương nghệ thuật. Nơi đây đã sản sinh ra những phái võ truyền thống nổi tiếng, cũng đã sinh ra tiếng trống hát bội, điệu bài chòi, vần lục bát với những câu nam ai nam bình, những điệu Bài chòi xao xuyến mãi với non sông.

Ngoài đơn vị sân khấu truyền thống chuyên nghiệp là Đoàn Ca kịch Bài chòi, hiện nay ở Bình Định còn có câu lạc bộ bài chòi cổ dân gian đã thu hút khá nhiều khán giả. Các nghệ nhân vừa làm Hiệu cho hội đánh bài chòi, vừa tổ chức biểu diễn các vở bài chòi cổ, từng bước nhân diện mô hình này ra nhiều địa phương trong tỉnh. Đây là một trong những động lực và cũng là nguyên nhân góp phần cho Dự án Bảo tồn Hội đánh bài chòi cổ dân gian ở Bình Định thành công.

Có thể nói, Dự án này không chỉ góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền thống, mà còn mở ra một cách làm mới về việc hình thành mô hình câu lạc bộ bài chòi cổ dân gian, mở ra hướng xây dựng sản phẩm của ngành Du lịch tỉnh Bình Định giới thiệu thêm nét văn hóa đặc sắc cho quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ. Và đây cũng là tiền đề giúp UBND tỉnh Bình Định có thêm cơ sở đề nghị Bộ VH-TT&DL xem xét, trình Chính phủ đưa di sản Bài chòi Bình Định vào danh mục đề cử lên UNESCO công nhận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Mấy suy nghĩ

81

Page 82: Nghệ thuật bài chòi

về bảo tồn và phát huy nghệ thuật bài chòi

Đại tá, nhà thơ MAI NAM THẮNG

Trước hết, là một người lính đang tại ngũ, một cán bộ làm công tác VHNT trong

quân đội, tôi nhận thấy Bài Chòi là một bộ môn nghệ thuật rất gần gũi với người lính và hình

thức diễn xướng của nó có nhiều nét tương đồng với hoạt động tác chiến của người lính. Đặc

điểm này thể hiện ở mấy nét sau đây:

1- Tùy điều kiện và hoàn cảnh, một đơn vị nghệ thuật bài chòi có thể hết sức gọn nhẹ

nên tính cơ động rất cao. Có thể ví một đơn vị nghệ thuật bài chòi giống như một phân đội

xung kích, sẵn sàng cơ động nhanh, đánh nhanh, rút nhanh, hiệu quả chiến đấu cao. Đặc điểm

này chắc chắn ai ai cũng nhận thấy nên tôi xin phép không trình bày thêm nữa.

2- Trong thực tế, những năm kháng chiến, trên địa bàn Quân khu 5 đã có nhiều tổ,

đội văn công xung kích mang nghệ thuật bài chòi đi phục vụ quân và dân theo phương thức

nhanh, gọn và hiệu quả như thế. Tiêu biểu là Đoàn Văn công Giải phóng Bình Định thực sự

là một đơn vị chiến đấu, mỗi chuyến đi biểu diễn là một trận đánh hiểu theo đúng nghĩa đen

của thuật ngữ quân sự này. Và trong hơn 13 năm chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đơn vị đã

có nhiều cán bộ, diễn viên anh dũng hi sinh trong khi biểu diễn nghệ thuật, như: Đoàn trưởng

Hoàng Ngọc Ẩn, Đoàn trưởng Nguyễn Tuấn Anh, Đội trưởng Nguyễn Văn Minh, Diễn viên

Nguyễn Mẹo, Nhạc công Nguyễn Ngọc Hà v.v…

3- Nghệ thuật Bài Chòi được cán bộ, chiến sĩ các LLVT rất mến mộ. Xưa đã vậy mà

nay cũng vậy. Là bộ đội thì ai cũng yêu thích văn hóa nghệ thuật bởi mỗi bộ môn có những

nét hấp dẫn, độc đáo riêng. Với nghệ thuật bài chòi, lính ta yêu thích có lẽ vì tính chất vui

nhộn, hoạt náo, ứng biến… phù hợp với “chất lính”. Vai trò của Anh Hiệu trong bài chòi phần

nào giống với các vai tấu nói vốn là một hình thức nghệ thuật sản sinh từ đời sống văn nghệ

của bộ đội trong kháng chiến trước đây. Ngày nay, bộ đội vẫn thích bài chòi. Bằng chứng là

mỗi lần có đơn vị nghệ thuật của tỉnh Bình Định ra thăm và biểu diễn ở đơn vị kết nghĩa là sư

đoàn 3 - tức sư đoàn Sao Vàng, thành lập năm 1962 tại An Lão, Bình Định, hiện nay đang

đóng quân tận Lạng Sơn - bao giờ bộ đội cũng yêu cầu hô bài chòi và đó là những tiết mục

được cổ vũ nhiệt liệt nhất.

Từ những điều nêu trên cho thấy Bài Chòi là một đặc sản nghệ thuật của vùng Nam

Trung Bộ gắn liền với cuộc sống, lao động sản xuất và đấu tranh giải phóng dân tộc của quân

82

Page 83: Nghệ thuật bài chòi

và dân Liên Khu Năm kiên cường, bất khuất; đặc biệt trong 2 cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quôc Mỹ xâm lược.

Nhưng Bài Chòi cũng như các loại hình nghệ thuật truyền thống khác ở nước ta,

đang đứng trước nguy cơ thất truyền, phai nhạt; nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin đa

phương tiện và xu thế hội nhập, toàn cầu hóa… Ngày nay, trừ một số địa phương như Bình

Định, Khánh Hòa, Quảng Nam… vẫn thường xuyên biểu diễn Bài Chòi ở các tụ điểm văn

hóa-du lịch, còn lại hiếm có nơi nào còn hội đánh Bài chòi vào dịp lễ hội dân gian đầu Xuân.

Ngay cả các sân khấu nghệ thuật quần chúng cũng ít có các tiết mục Ca kịch Bài Chòi. Nhiều

nghệ sĩ Bài Chòi chuyên nghiệp cũng dần dần phải chuyển sang biểu diễn các bộ môn nghệ

thuật dân tộc khác; thậm chí phải tham gia cả sân khấu và âm nhạc hiện đại để được tiếp tục

sống với nghệ thuật.

Thực tế không phải nhân dân ta đã chán Bài Chòi; hoặc đây chỉ là một thứ nghệ

thuật nhà quê nôm na, đơn giản, nghèo nàn… không phù hợp với thời hiện đại, với công

chúng trẻ và bạn bè quốc tế. Bằng chứng là những năm gần đây, thực hiện chủ trương xã hội

hóa hoạt động văn hóa, hội đánh Bài Chòi đã được tái hiện trong không gian mới là các khu

du lịch trong một số nhà hàng ở Quy Nhơn – Bình Định, trong khu phố cổ Hội An – Quảng

Nam, khu du lịch Nha Trang - Khánh Hòa… và nhiều lễ hội địa phương khác, được nhân dân

bản địa và du khách trong và ngoài nước hào hứng tiếp nhận… Đồng thời, nhiều nghệ sĩ và

nhà nghiên cứu tâm huyết đã tích cực đề nghị và nhiệt tình tham gia cùng các ngành chức

năng tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo, liên hoan sân khấu bài chòi ở các cấp độ khác

nhau và đã thu được nững kết quả đáng mừng. Đặc biệt, năm 2011, tại TP Quy Nhơn, Bộ

Văn hóa – Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Bình Định đã tổ chức Liên hoan

sân khấu Dân ca kịch Bài chòi chuyên nghiệp toàn quốc. Đây là một trong những hoạt động

văn hóa nghệ thuật nằm trong khuôn khổ chương trình “Năm du lịch Quốc gia Duyên Hải

Nam Trung Bộ – Phú Yên 2011” nhằm quảng bá các di sản văn hóa và tiềm năng du lịch của

các tỉnh Nam Trung Bộ với du khách trong và ngoài nước. Tham dự Liên hoan có 3 đơn vị Ca

kịch Bài chòi chuyên nghiệp toàn quốc là Đoàn Ca kịch Quảng Nam, Đoàn Ca kịch Bình

Định và Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa. Mỗi đơn vị nghệ thuật mang đến Liên

hoan 2 vở diễn gồm: một vở Ca kịch Bài chòi truyền thống và một vở có đề tài lịch sử, huyền

sử, dân gian hoặc hiện đại.

Theo đánh giá của Ban Tổ chức, với những đề tài khác nhau, dù truyền thống hay

hiện đại, nhưng các đoàn tham gia Liên hoan sân khấu dân ca kịch Bài chòi chuyên nghiệp

toàn quốc năm 2011 đều đã thể hiện được ý thức bảo tồn và phát triển nghệ thuật Bài chòi

trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Hầu hết các vở diễn đều giữ được đặc trưng, vẻ đẹp của

83

Page 84: Nghệ thuật bài chòi

Bài chòi – môn nghệ thuật đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân miền

Trung từ mấy trăm năm qua. Các đoàn đều có dàn diễn viên trẻ trung, yêu nghề, có khả năng

kế tục sự nghiệp của lớp đàn anh đi trước trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị của nghệ

thuật Bài chòi.

Gần đây nhất, Cuộc thi Nghệ thuật Sân khấu Tuồng và Dân ca kịch chuyên

nghiệp toàn quốc – năm 2013, tổ chức tại tỉnh Quảng Nam với 15 vở diễn của 11 đơn vị

nghệ thuật nhiều vùng, miền tham gia, thì 1 trong 2 vở được trao Huy Chương Vàng là vở

“Khúc ca bi tráng” của Ðoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định (tác giả kịc bản Văn Trọng Hùng,

Ðoàn Thanh Tâm chuyển thể, NSND Hoài Huệ đạo diễn). Lấy bối cảnh lịch sử giai đoạn

thoái trào của nhà Tây Sơn dưới thời vua Cảnh Thịnh, xoay quanh các nhân vật lịch sử ở hai

chiến tuyến, “Khúc ca bi tráng” ca ngợi những tấm gương nghĩa khí mà cái chết của họ đã

thành bất tử. Đáng chú ý là trong lúc nhiều đoàn thường dành các vai diễn quan trọng nhất

cho các nghệ sĩ tên tuổi, có có thâm nien nghề nghiệp và bề dày thành tích đảm nhận để đi thi

thố, thì Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định đã giao vai chính thể hiện nhân vật lịch sử Trần

Quang Diệu cho một diễn viên trẻ 32 tuổi và diễn viên này đã vượt qua được áp lực để thể

hiện tốt vai diễn, là một trong những diễn viên trẻ nhất đoạt huy chương Bạc của cuộc thi.

Từ những sự kiện sinh động và cụ thể trên đây, cho thấy rõ ràng nếu được quan tâm

đầu tư đúng mức và có những cách làm tốt, thì nghệ thuật Bài Chòi vẫn được công chúng các

thế hệ hôm nay hâm mộ; Bài Chòi vẫn còn nhiều thế hệ nghệ sĩ và diễn viên tài năng, tâm

huyết gắn bó; những giá trị văn hóa của bộ môn nghệ thuật này vẫn được giữ gìn và phát huy,

phát triển. Để thực hiện được điều đó, xin kiến nghị 2 biện pháp sau đây:

Một là: Cần có một đề tài cấp Nhà nước về bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài Chòi

trong thời đại hội nhập và phát triển của đất nước. Để thực hiện đề tài này, cùng với các hoạt

động nghiệp vụ của giới chuyên môn, như: điền dã, khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu… thì cơ

quan quản lý Nhà nước là Bộ VH-TT-DL cần chủ trì một số hội thảo khoa học cấp quốc gia

và tổ chức những cuộc Liên hoan nghệ thuật chuyên đề về Bài Chòi. Các hội thảo và Liên

hoan này có thể theo định kỳ 3 năm hoặc 5 năm; không nên để quá thưa, quá dài, quá xa…

như thời gian qua và nói cho chính xác thì một số hoạt động gần đây vừa nêu trên đây cũng là

“lồng ghép” nhiều bộ môn nghệ thuật chứ không chuyên về Bài Chòi.

Trước mắt, Bộ VH-TT-DL cần chỉ đạo các ngành chức năng và các địa phương là

những cái nôi của nghệ thuật Bài Chòi triển khai các bước lập hồ sơ đề nghị UNESCO công

nhận nghệ thuật Bài Chòi là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Xét trên mọi phương

diện, nghệ thuật Bài Chòi hoàn toàn xứng đáng được tôn vinh như thế. Theo tôi, nếu tiến hành

84

Page 85: Nghệ thuật bài chòi

tích cực công việc này sẽ tạo nên “hiệu quả kép”: Một mặt, quá trình thu thập tư liệu và xây

dựng luận chứng để trình UNESCO sẽ thúc đẩy hoạt động sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và

phát triển nghệ thuật Bài Chòi có những nét khởi sắc hơn. Mặt khác, nếu được UNESCO

công nhận Bài Chòi là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại thì sẽ mở ra một cơ hội mới,

với những điều kiện mới để việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài Chòi thuận lợi hơn và đạt

được những kết quả to lớn hơn.

Hai là: Nhà nước cần đầu tư xây dựng một Nhà hát Bài Chòi tại Nam Trung Bộ.

Hiện tại, ở vùng đất quê hương của Bài Chòi này chưa có một Nhà hát riêng xứng tầm với

tiềm năng di sản nghệ thuật Bài chòi. Gần đây, một số địa phương đã quan tâm xây dựng

được những Đoàn nghệ thuật Bài Chòi chuyên nghiệp - không còn là dân ca kịch tổng hợp

nữa - nhưng đó cũng chỉ là những đơn vị nghệ thuật biểu diễn, không có chức năng nghiên

cứu và đào tạo. Vì vậy, phải có một Nhà hát Bài Chòi thì mới đáp ứng được các yêu cầu về

biểu diễn phục vụ nhân dân, nghiên cứu bảo tồn phát huy nghệ thuật Bài Chòi và giảng dạy,

đào tạo nghệ thuật Bài Chòi cho các thế hệ kế tiếp.

Theo chúng tôi, Nhà hát này nên xây dựng tại tỉnh Bình Định và giao cho tỉnh Bình

Định trực tiếp quản lý. Bởi lẽ: Bình Định không chỉ là một trong những cái nôi của nghệ thuật

Bài Chòi, mà trên thực tế nhiều chục năm qua, đây là đạt được những thành tựu khá nhất

trong việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Bài Chòi. Trải qua hơn nửa thế kỉ dựng xây

và phát triển, Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định đã trở thành một “thương hiệu” ở miền

Trung. Tập thể và nhiều cá nhân của Đoàn đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc, được khen

thưởng và phong tặng các danh hiệu cao quý của Nhà nước. Riêng trong 2 năm 2010-2011, đã

có 8 diễn viên trẻ của Đoàn đoạt được tổng cộng 3 huy chương Vàng, 6 huy chương Bạc tại

các liên hoan, cuộc thi. Đặc biệt tại Cuộc thi Nghệ thuật Sân khấu Tuồng và Dân ca kịch

chuyên nghiệp toàn quốc, tổ chức tại tỉnh Quảng Nam hồi tháng 5-2013, Đoàn ca kịch Bài

Chòi Bình Định đã gặt hái những kết quả xuất sắc: Huy Chương vàng cho vở diễn “Khúc ca

bi tráng” và Giải tác giả kịch bản xuất sắc nhất cho tác giả Văn Trọng Hùng, cùng 2 HCV và

2 HCB cho 5 diễn viên khác. Thành tích trên đã khẳng định hướng đi đúng của Đoàn Ca kịch

Bài chòi Bình Định những năm qua. Các thế hệ nghệ sĩ đi trước đã tận tình dìu dắt những

người trẻ mới vào nghề, từng bước tạo điều kiện để các diễn viên trẻ thử sức ở những vở diễn

“kinh điển”, hay vai chính trong các vở mới dàn dựng. Từ đó, các diễn viên trẻ có được môi

trường hoạt động nghệ thuật tốt để trưởng thành. Đây chính là cơ sở để chúng ta hoàn toàn có

thể tin tưởng vào tương lai của nghệ thuật Bài Chòi trên quê hương Bình Định!

85

Page 86: Nghệ thuật bài chòi

ĐIỆU HÔ BÀI CHÒI

VÀ SÂN KHẤU BÀI CHÒI CHIẾU

NSƯT Nguyễn Kiểm

Tham gia hội thảo về hát bài chòi dân gian hôm nay chắc quý vị cùng các bạn đồng nghiệp ít nhiều đã từng điểm mặt Bài chòi ra đời từ trò chơi dân gian đánh bài qua 9 chòi vào những ngày đầu xuân AL hằng năm của người dân vùng quê Nam Trung Bộ nói chung, Bình Định nói riêng, không những từ nguyên nhân xuất hiện trò chơi nầy mà còn biết cả cách thức chơi của nó…

Vì vậy, tôi chỉ đi vào giới thiệu vài nét chính về ĐIỆU BÀI CHÒI DÂN GIAN thuộc diện văn hóa phi vật thể theo lập luận của các nhà sưu tầm nghiên cứu lâu nay.

Thưa quý vị và các bạn. Chúng ta vô cùng biết ơn nhiều lớp NGHỆ NHÂN xưa có biệt danh từ ngày đầu là “Hiệu Bài Chòi” đã mở ra một lịch trình tiếp thu và sáng tạo rất phong phú đa dạng để lại đến ngày nay. Chúng ta nhớ lại, khởi đầu là 5 tiếng “Hô” báo tên thẻ bài như “Ông ầm” “Tứ móe” “Tứ cẳng” “Bạch huệ” v.v.. với những đơn âm để thông tin là chính, thì sau nhiều năm do yêu cầu của người chơi hội trùng hợp với tình yêu đầy cảm khoái nên các “Hiệu” đã cố gắng sáng tạo tìm cái hay cái đẹp để hằng năm đến với hội xuân đáp ứng lòng mong muốn của người dân thích chơi Bài Chòi. Đó là từ tên từng thẻ bài với 5 tiếng hô như: “Hô … là ông ầm nầy”, “Hô … là tứ móc nầy” đã được “Hiệu” hợp lý bằng 2 vế lục bát.

“Anh ngồi vực thẳm anh câu,

Trượt chân rớt xuống vũng sâu ầm cái ẦM”

Nếu bằng gam rê, thì ban sơ đã hình thành các nốt nhạc:

Son rề sí sí son la

Mì son son sí sí son sí rề .v.v..

Và tùy theo gieo từ bằng, trắc những câu khác. Theo « Hiệu Khoa » tức (Nguyễn Đăng Khoa). Cha tôi dặn anh tôi (cố nghệ nhân Nguyễn Đốc) trước lúc ra thay « Hiệu » rằng : « các ông xưa áp kiểu ru con vô rồi, dễ nhớ lắm »

Để kiểm nghiệm điều nầy, chúng ta thử chia câu ru con Bình Định ra làm 3 nhóm ngữ điệu.

Nhóm 1 : (Ru) À ơi ớ ơ hà hời…

Nhóm 2 : (Hát) Một mai ai chớ bỏ ai

Chỉ thêu nên gấm sắt mài KIM NÊN KIM.

Nhóm 3 : (Ru kết) Ơ hờ là sắt mài…

Thì BÀI CHÒI

Nhóm 1 : (Tung tín hiệu) Huơ mà huơ huwo .a.

Nhóm 2 : (Hô) Nực cười chị bán thịt heo

86

Page 87: Nghệ thuật bài chòi

Hai vai ghánh nặng còn đèo CÂN MÓC CÂN.

Nhóm 3 : (Kết câu) « Hố !... là tứ móc nầy »

Ru cho con nghe thì vào đầu : à ơi ớ ơ hà hời

Còn bài chòi với ngày hội náo nhiệt thì cần sự chú ý : « Huơ mà huơ huơ a »

Ru con cuối vế 8 : Sắt mài KIM NÊN KIM

Bài chòi cuối vế 8 : còn đèo « CÂN MÓC CÂN »

Rõ ràng bài chòi khởi đầu đã đi tư làng quê tình mẹ làm nguồn cảm hứng lâu dài. Thế rồi quả thật năm nầy qua năm khác, nhu cầu của người chơi hội càng tăng. Các « Hiệu » từ một câu lục bát « ông ầm » để kể chuyện người đi câu và nhiều câu khác tương tự trong bộ bài, thì vần lại tiếp vần « Hiệu » kể chuyện dài hơi hơn, nhằm cung cấp nhiều câu chuyện dân gian như : Thoại Khanh Châu Tuấn - Lâm Sanh Xuân Nương - Lưu Bình Dương Lễ .v.v…xin trích đoạn cuối bài Lưu Bình Dương Lễ :

« … Đêm ngày nấu sử xôi kinh

Châu Long nuôi đã hết tình thủy chung

Trời xui mở mặt anh hùng,

Lưu Bình chiếm đặng bảng rồng Vua bang

Châu Long xem thấy rõ ràng

Làm thơ dán lại lánh đàng ra đi.

Trở về với Dương Lễ một khi

Căn nguyên tỏ hết sự chi không còn.

Mấy lời thề nước hẹn non

“Huê” thơm như cũ trăng tròn xưa như xưa”

“Hô! Là Bạch Huê!”

Hiệu còn trích Tây Du Ký với bài “TỀ THIÊN PHÁ ĐỘNG LA SÁT”

“Chung vui một tiệc rựu nồng

La Sát tưởng chồng lấy quạt ra coi

Cùng nhau hồng diệp hẳn hòi

Ông Tề lập tức cầm coi cười gằn

Coi rồi liền nhét kẽ răng

Ta đây vốn dĩ là thằng Ngộ Không

La Sát tức giận cành hông

Tề Thiên khoái chí bềnh bồng mây trên mây”

“Hô!...là bát bồng nầy !”

87

Page 88: Nghệ thuật bài chòi

Đương nhiên muốn mưu sinh thì cần tinh tế hấp dẫn về Chất. Chất đây là « Điệu » và bạn đồng hành của Điệu phải luôn là nhạc cụ dân tộc có mặt sớm nhất của đàn nhị, trống chiến và cặp sanh tre gõ nhịp dẫn đường.

Để chuẩn bị cho sáng tạo « ĐIỆU », các « Hiệu » (Nghệ nhân) tìm cho bài chòi của mình một con đường TỰ DO, và TỰ DO CÓ LUẬT. Đó là « TIẾT TẤU » haycòn gọi là kiểu nhịp của bài chòi.

- Một là nói về con đường Tự Do. Tên gọi « Bài Chòi » là do hô bài qua 9 chòi mà ra, tuyệt nhiên không có ( Bài bài chòi ) như bài vọng cổ, trường tương tư, hay bài Tây Thi, xuân tình trong cải lương, hay Phú lục, Nam ai, Nam bình .v.v... của ca Huế và những bài bản của các bộ môn ca hát khác.

Bài chòi thể hiện theo hướng chuyện kể và xen biểu diễn.

Chuyện ít hát kể ngắn. - chuyện nhiều hát kể dài.

Nếu gặp nhân vật trong chuyện thì giải bày tâm tư tình cảm và sẵn sàng khai thác tâm lý tính cách triệt để. Vì vậy nghệ nhân bài chòi dân gian tha hồ nhấn nhá luyến láy SÁNG TẠO HỢP LÝ VỀ ĐIỆU không theo sự quy định của bài nầy bản kia phải bao nhiêu câu bấy nhiêu nhịp, thậm chí hát cả đêm khi câu chuyện còn đầy. Đó là con đường « TỰ DO » của bài chòi.

- Hai là nói về LUẬT của hô bài chòi.

Thuật ngữ xưa có câu « Không hô nhịp 3 không ra bài chòi »

Vậy các nghệ nhân xưa tiếp thu nguồn nào để sáng tạo và mãi mãi là một đặc trưng tiết tấu của loại hình nầy ?

Thưa quý vị và các bạn.

Xưa nay ai cũng biết Bình Định có SK HÁT BỘI (Tuồng) là gốc cội. Theo tôi từng chung sống thì xin bảo đảm là hầu hết « Hiệu » (Nghệ nhân) bài chòi xưa đều biết hát bội. Do đó nhịp 3 phách gõ đều của bài chòi được tiếp thu từ bài « Trống nhịp I » (Thuật ngữ của Hát Bội)

• Ví dụ : cắc rụp cắc + cắc rụp cắc...

Kết hợp cùng 3 phách nổi của nhịp 4/4 trong các bài Nam Xuân – Nam Ai .v.v..., 3 phách nhẹ nầy gắn với bài trống nhịp 1 cắc rụp cắc và nổi bật 3 tiếng cốc_ cốc_ cốc của cặp phách sanh tre, cần chậm thì gọi « Nhịp nới » hay « Nhịp mở », cần chuyển sang nhanh thì gọi « Nhịp thúc » hay « Nhịp thắt » lúc to, lúc nhỏ, lúc chậm, lúc nhanh, có lúc lướt trên nền tiếng reo mặt trống và đàn nhị rung cung dẫn câu chuyện kể qua dòng thơ lục bát càng trở nên sinh động hấp dẫn.

- LUẬT TIẾT TẤU CỦA BÀI CHÒI thông thường có III kiểu nhịp.

I. NHỊP KHỞI

II. NHỊP ĐI

III. NHỊP KẾT

I NHỊP KHỞI : Trong nhịp khởi có hai cách chính.

1. Người hát báo tín hiệu vào nhịp trước.(…)

2. Nói lối xuống hò, nhạc vào nhịp trước.(…)

88

Page 89: Nghệ thuật bài chòi

II NHỊP ĐI (Còn gọi “Nhịp dẫn”) vốn giữ đúng mỗi nhịp 3 phách đi đều nhưng nghệ sĩ hát xử lý linh hoạt bằng lời không theo nhịp mà vẫn đúng nhịp(…)

III NHỊP KẾT có 2 cách

1. là ở vế 8, nếu từ thứ 6 mang dấu huyền thì nhất thiết phải 2 nhịp 6 phách (…)

2 là ở vế 8 từ thứ 6 không mang dấu thì thường 3 nhịp 9 phách.(…)

Nếu không muốn hát nhịp dôi ở từ thứ 6 thì vần 2 nhịp 6 phách như trường hợp 1.

Có thể nói TIẾT TẤU bài chòi mà các « Hiệu » (N.N) xưa đã tìm ra con đường « Tự do » theo luật (mở) là điều kiện tối ưu cho hát kể xen biểu hiện nhân vật một cách thoải mái cho « Điệu » bỗng trầm, nhanh chậm hấp dẫn đi vào cuộc mưu sinh qua SÂN KHẤU CHIẾU DẠO. Hình thức sân khấu nầy theo « Hiệu Khoa » cha tôi cho biết có từ khoảng năm 1920, và quá trình tồn tại cũng có những « Hiệu » tách ra hợp cùng đào kép hát bội đưa « BÀI CHÒI TỪ ĐẤT LÊN GIÀN » để thu hút lượng khán giả yêu thích 2 bộ môn cùng xen nhau hát trong từng vở diễn. Tuy nhiên nghiệp bài chòi chuyên « CHIẾU DẠO » vẫn luôn có mặt để kiếm sống quanh năm, nhất là những ngày mùa và kể cả những lúc nông nhàn cho đến ngày toàn quốc khởi nghĩa tháng 8-1945. Ngày ấy tôi vừa tròn 10 tuổi đã theo anh vào đội tuyên truyền văn nghệ xã và vẫn dùng hình thức « Bài chòi chiếu » nầy dạo khắp thôn xóm, góc chợ, bến xe... hát kể chuyện dân gian làm nền cho bài chòi độc tấu các bài thơ của Bác Hồ viết từ những năm 1940-1941 như « CÔNG NHÂN – DÂN CÀY- và bài mà Bác lấy tên là : « CA SỢI CHỈ » động viên toàn dân đoàn kết kháng chiến cứu quốc. Trong bài CÔNG NHÂN của Bác có câu :

« Thợ thuyền ta phải đứng ra,

Trước là cứu nước, sau ta cứu mình.

Mau mau vào HỘI VIỆT MINH »

.v.v..

Đặc biệt nói về « ĐIỆU » thì cả hành trình « Bài chòi SÂN KHẤU CHIẾU » chỉ một điệu XUÂN NỮ quán xuyến - Sở dĩ lấy tên « Xuân Nữ » cũng là điệu đầu tiên khi đã có câu chuyện dài là do các tay nhạc quê nhà xé bài « Xuân Nữ » của hát bội để tiếp cận thơ lục bát mà xưa gọi rằng «đưa hơi cho người hô bài » và đó cũng là mở đầu cho quá trình tiếp thu sáng tạo xây dựng tính phức hợp nghệ thuật của bài chòi sau nầy. Xin đơn cử một điệu XNỮ nhưng có những cách hát (+++)

Thưa quý vị và các bạn.

Ở đây nổi lên vấn đề là SÁNG TẠO ??

Theo tôi, muốn nói SÁNG TẠO thì trước hết phải nói đến TIẾP THU. Ngược lại không tiếp thu lấy gì sáng tạo ? Nói riêng về nghệ thuật, không có bộ môn nào ra đời như trên trời rơi xuống rồi tự mình lớn lên mà không qua giao lưu tiếp thu những thành quả của người đi trước. Vậy các nghệ nhân bài chòi xưa tiếp thu từ điệu ru con bằng ca dao và khi bài có lượng nội dung dày hơn thì tiếp thu nghệ thuật hát bội, một bộ môn nghệ thuật biểu mẫu mà trước hết là nắm bắt và sáng tạo cho mình một loại hình TIẾT TẤU ... xin nhắc lại thuật ngữ xưa :

« Không hô nhịp 3 không ra bài chòi ».

89

Page 90: Nghệ thuật bài chòi

Đúng vậy ! Nhịp bài chòi không trùng với nhịp của bộ môn ca hát nào trên cả nước. ( Phần đầu của Phú lục Huế có nhịp 3 phách, nhưng khác về tiết tấu chung và nhịp phú lục không vào thơ lục bát như bài chòi, hơn nữa là phần kết của phú lục là nhịp 1) (2/4).

Về ĐIỆU thì đã tiếp thu bài Xuân nữ vào bài chòi. Tiếp thu của người để rồi bằng con tim khối óc nhào nặn một cách nhuần nhuyễn thành của riêng ta. Nghe điệu bài chòi không ai nhầm đó là Hát bội, cải lương hay bộ môn nào khác. Có thể nói : Văn nghệ dân gian luôn luôn là linh hồn của người dân bản địa và nó cũng là kho tàng chất liệu văn hóa, hãy bằng tình yêu, trí tuệ và trách nhiệm tiếp thu trung thành và sáng tạo đích thực để phục vụ cuộc sống mới một cách dễ chấp nhận vì nó đi từ gốc mà đâm chồi nảy lộc xanh tươi.

Cần tránh tiếp thu theo lối « Nhổ râu ông nọ cắm cằm bà kia » như nghe cò lã, trống quân, của vùng Kinh Bắc hay, lại ngắt vài bông về cho vào bài chòi Nam Trung Bộ - nghe hò Mái nhì xứ Huế có nốt « đô » của giọng rê xúc động lại thú vị bỏ vào túi bọc về gắn vào hò chèo thuyền Quảng Ngãi gọi là sáng tạo.

Trước khi tổ chức hội thảo nầy, trong quán cà phê có khán giả từng mê bài chòi hỏi tôi : « Hô bài chòi dùng nói lối vọng cổ được không ? »

Xin thưa là không ! Vì nói lối để ca vọng cổ thuộc nghệ thuật cải lương là món ăn tinh thần của riêng người dân Nam Bộ. Hơn nữa cải lương thuộc dòng nhạc tài tử mang tính chất bài bản, còn bài chòi thuộc dòng nhạc dân gian của vùng Nam Trung Bộ. Do đó gọi (ca cải lương) chứ không ai gọi (ca bài chòi). Hơn nữa bài chòi các nghệ nhân xưa đã tìm cho nó nhiều kiểu nói lối hợp lý hợp tình rồi, còn nói lối vọng cổ không thể hợp lý hóa vào nhịp 3 phách của đặc trưng bài chòi, nên dù lèo lách cách gì thí nó vẫn lộ diện của loại giống không thể lai ghép được. Vì vậy sáng tạo, cải tiến không có nghĩa là lượm lặt mẫu mã cũ của người về làm cái mới của mình. Theo tôi, tiếp thu và sáng tạo nghệ thuật phải đi từ cơ sở vốn có của bản địa để thổ dân chấp nhận chính mình đi lên đời sống mới.

Nếu sáng tạo nghệ thuật làm mờ mòn bản sắc chính thống là một tội lỗi.

Chủ trương của Đảng hội nhập quốc tế là để tiếp thu nền khoa học tiên tiến thế giới rồi xây dựng chủ nghĩa XHVN. Không có CNXH chung chung.

Thưa quý vị và các bạn.

Đề dẫn của Hội thảo nầy theo tôi hiểu, chỉ đề cập đến tính dân gian phi vật thể của ĐIỆU HÔ BÀI CHÒI nên tôi dừng lại ở thời điểm SÂN KHẤU BÀI CHÒI CHIẾU VỚI ĐIỆU XUÂN NỮ mà nhân dân và chúng ta xưa nay đồng cảm, vì vậy tôi không đề cập đến « BÀI CHÒI TỪ ĐẤT LÊN GIÀN » cũng có nghĩa đây chưa phải cuộc hội thảo về sân khấu KỊCH HÁT BÀI CHÒI nhất là từ đầu năm 1955 Đoàn VCLK5 tập ra Bắc kết đến nay với nhiều làn điệu bài ca khác rất tuyệt vời của 2 từ « SÁNG TẠO » theo kiểu DÂN GIAN.

PHỤ BẢN

« ...trong bài Nam xuân, Nam ái. Xướng âm theo tiết tấu.”

TIẾT TẤU BC

Thông thường có: III Kiểu nhịp.

I- NHỊP KHỞI

II- NHỊP ĐI

III- NHỊP KẾT

90

Page 91: Nghệ thuật bài chòi

Trong NHỊP KHỞI có 2 cách chính

1. Người hát báo tín hiệu vào nhịp trước

* vạn cổ trung can…

Quán càn…khôn…quan công hầu +

2. Nói lối xuống hò – nhạc vào nhịp trước.

* vạn cổ trung can…chẳng tha…hồn.+ + + o + + + chẳng tha hồn Tào Man.

II. NHỊP ĐI: ( còn gọi “ Nhịp dẫn”)

Không theo nhịp nhưng vẫn đúng nhịp

* Bà má Hậu giang, Thằng tây…

* Lê duy Hiên “… Từ lận đận…”

III. NHỊP KẾT:

-Kiểu 1: Một mình lo 7…

“ già” từ 6-

-Kiểu 2: vì đâu… xa cây (6)

Cũng là tính phức hợp nghệ thuật bài chòi sau nầy.

Một điệu XN có nhiều cách hát .

Anh về Đập Đá Gò Găng

Bỏ em kéo chỉ sáng trăng một mình

Thương chi cho uổng công tình…

VÀI NÉT VỀ PHÁT TRIỂN BÀI BẢN, LÀN ĐIỆU

CỦA SÂN KHẤU BÀI CHÒI CÁCH MẠNG

Tác giả Nguyễn Sỹ Chức, Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Nha Trang.

Tuy chưa có lịch sử lâu dài với những vở diễn đồ sộ, mẫu mực như sân khấu Tuồng,

Chèo; lại chưa có được sự năng động, đều khắp như sân khấu Cải lương, nhưng kịch hát Bài

Chòi vốn được hình thành và phát triển từ nền dân ca, dân vũ miền Nam Trung Bộ - dải dất

nối liền hai đầu đất nước, kịch hát Bài chòi đã tạo được một dáng vẻ riêng- mộc mạc, chân

chất nhưng cũng không kém phần đằm thắm, thiết tha…

91

Page 92: Nghệ thuật bài chòi

Ra đời trong thập niên 30 của thế kỷ 20, rồi trải qua những giai đoạn phát triển khác

nhau, nhưng phải đến đầu năm 1956, nhờ phương hướng nghệ thuật của Đảng và sự quan tâm

của Nhà nước, kịch hát Bài Chòi mới có điều kiện phát triển đúng hướng và nhanh chóng trở

thành một loại hình sân khấu dân tộc. Với sự ra đời của đoàn Ca kịch Liên khu 5 tại thủ đô Hà

Nội, một loạt vở diễn như: Thoại Khanh Châu Tuấn (1956), Lòng son sắt (1958), Tiếng sấm

Tây Nguyên (1962), Đội kịch chim Chèo bẻo (1965) và các vở khác như: Quê hương dậy

sóng, Tiếng hát rừng dừa, Người mẹ trẻ, Tấm phà, Lá cờ, Đô đốc Bùi Thị Xuân, Tấm vóc Đại

hồng, Thái hậu Dương Vân Nga v.v… được dàn dựng từ năm 1966 đến năm 1974, và sau này,

sau ngày đất nước thống nhất, các đoàn sân khấu Bài Chòi như: Đoàn ca kịch Bình Định,

Đoàn ca kịch giải phóng khu Trung – Trung bộ (đoàn dân ca Khánh Hòa hiện nay), Đoàn ca

kịch Quảng Nam - Đà Nẵng, Đoàn ca kịch Thuận Hải với hàng trăm vở diễn sân khấu đã

được các đoàn này liên tục dàn dựng. Ngoài các làn điệu Bài Chòi như: Xuân Nữ (cũ, mới),

Xàng Xê (luỵ, dựng) Cổ Bản, Hò Quảng, thì việc đưa những điệu dân ca Nam Trung Bộ như

Lý, Hò, Vè và những bài bản do các nhạc sĩ sáng tác (lấy chất liệu từ dân ca Nam Trung Bộ)

vào vở diễn, tính đến nay, kịch hát Bài Chòi đã trải qua nhiều bước nâng cao, thể nghiệm, và

dĩ nhiên, kịch hát Bài Chòi đã lần lượt ra mắt khán giả trong cả nước với đầy đủ yếu tố của

một loại hình kịch hát dân tộc hiện đại.

1. Việc phát triển làn điệu:

Kịch hát Bài Chòi chịu ảnh hưởng của nghệ thuật sân khấu Tuồng đó là điều dễ hiểu,

bởi vì nó được sinh ra trên quê hương Bình Định - nơi đã có nghệ thuật Tuồng phát triển từ

những thế kỷ trước. Nhiều câu bài thời kỳ còn Hô Thai (đố tên con bài) đã dùng cách nói lối

của Tuồng để mở đầu. Chẳng hạn khi hô tên con bài “Bạch huê”, dựa theo tuồng Quan Công

phục Huê Dung đạo, anh Hiệu đã có cả một “sắp hát theo điệu “Lạc Nô” nhưng hai câu Nói

lối lại vay mượn của Tuồng:

“Vạn cổ trung can huyền Nhật Nguyệt

Thiên thu nghĩa khí quán Càn Khôn”, rồi mới vào câu Bài Chòi:

“Quan Công hầu, tiết liệt nhất môn

Lập đoan văn bắt Tào tặc chẳng tha hồn Tào Man

Chốn chiến trường đoan thệ rõ ràng

Qua Hoa Dung bắt Tào tặc mà tỏ lá gan anh hùng…”

92

Page 93: Nghệ thuật bài chòi

Ở giai đoạn sau, ngoài hai điệu Xuân Nữ và Xàng Xê dựa theo điệu hát Nam và hát

Khách của nghệ thuật Tuồng, thì điệu Cổ Bản lúc mới ra đời được gọi là điệu Nam Xuân.

Nhưng vì sợ trùng tên với điệu Nam Xuân của sân khấu Tuồng nên các nghệ sĩ đầu ngành đã

đặt tên là Cổ Bản (tức Bản cổ), còn điệu Hò Quảng, một điệu hát mang âm điệu, hơi hướng

của Cải lương Hồ Quảng - cố NSƯT nhạc sĩ Hoàng Lê trong cuốn: “Hoàng Lê - Lịch sử âm

nhạc Bài Chòi” – Sở VHTT Bình Định xuất bản năm 2001), đã viết: “Trong các làn điệu Bài

chòi thì ngay như điệu Cổ Bản cũng là điệu đã ảnh hưởng từ điệu Nam Xuân của Tuồng

nhưng là đã có trước chứ không phải mới có trong thời kỳ này. Còn điệu Hò quảng là điệu đã

ảnh hưởng các bài bản Quảng của Cải lương rất là đậm nét từ điệu thức đến giai điệu.

Nhưng có điều nó đã bị Bài Chòi hóa bằng lời ca trên thơ lục bát và giai điệu đi theo một tổ

chức tiết tấu đặc biệt của Bài Chòi, nên khi hô lên, ai cũng công nhận nó là Bài Chòi…” .

. Sau việc định hình bốn làn điệu của Bài Chòi, tiếp theo, đó là sự cải biên về cách nói

lối, xuống hò rồi vào hát điệu Xuân Nữ. Có thể nói ngay rằng, vì sự thiếu thốn về làn điệu và

bài bản, nên kịch hát Bài Chòi phải học tập, vay mượn một số bài bản của các loại hình sân

khấu dân tộc ra đời trước nó. Bởi vậy, việc Bài Chòi học cách Nói lối, xuống hò theo điệu

Vọng cổ của sân khấu Cải lương để tăng thêm độ mùi mẫn, từ đó tạo cho câu hát dễ đi vào

lòng người, đó là điều dễ hiểu. Có điều, các nghệ sĩ Bài Chòi thời kỳ này từ cách viết câu cho

Nói lối đến xuống hò, vào hát điệu Xuân Nữ bao giờ cũng ngắn hơn chứ không dài như sân

khấu Cải lương. Trước khi có vở Bài chòi Thoại Khanh Châu Tuấn của tác giả Nguyễn

Tường Nhẫn (Đoàn ca kịch Liên Khu 5 dàn dựng ở Hà Nội) thì hô Bài Chòi không có nói lối,

xuống hò… Thời gian gần đây, các tác giả đã có những thử nghiệm như: Nói lối không xuống

hò, mà gài nhịp vào hát luôn, hoặc là Nói lối điệu Xuân Nữ, sau đó vào một điệu dân ca hoặc

một bài bản thích hợp và nối tiếp với những sắp Bài Chòi sau đó. Làm vậy, sẽ phá được sự

chậm rãi, đều đều qua kết cấu của câu thơ lục bát, tạo nên sự xôm tụ, phóng túng về cách hô

diễn, và tạo sự hưng phấn về nhạc cảm cho người nghe.

2. Về phát triển bài bản:

Ở giai đoạn đầu của sân khấu Bài chòi - những năm 50 và 60 của thế kỷ trước, nhất là

khi dàn dựng các vở: Thoại Khanh Châu Tuấn, Lòng son sắt, Tiếng sấm Tây Nguyên, Đội

kịch chim Chèo bẻo…các nghệ sĩ đầu ngành như: Lệ Thi, Hoàng Lê, Cung Nghinh, Văn Cận,

Võ Bài, Trương Đình Quang, Trần Hồng…, và nhất là nhạc sĩ Đặng Nguyễn sau này, đã liên

tục dựa theo chất liệu của các điệu dân ca Nam Trung bộ như Hò, Vè, Lý, điệu nói Lía của

vùng đất Bình Định, và chất liệu từ các làn điệu Bài Chòi để sáng tác những bài bản mới

nhằm bổ xung cho sự thiếu hụt bài bản của kịch chủng. Những bài bản sáng tác mới, từ

chuyên dùng đến đa dùng (sử dụng một lần cho một vở diễn đến sử dụng nhiều lần cho các vở

93

Page 94: Nghệ thuật bài chòi

diễn khác) đã trở thành bài bản được dùng cho các vở diễn sau này, đó là cả một giai đoạn dài

được gạn đục khơi trong qua hàng ngàn bài sáng tác mới của các thế hệ nhạc sĩ trong và ngoài

ngành từng cộng tác trong các Ê kíp sáng tạo của những vở diễn do 04 đoàn nghệ thuật kịch

hát Bài Chòi dàn dựng. Có thể nói, nếu không có nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi thì sân khấu Bài

chòi không có được bài Lý Thương nhau (vở Thoại khanh Châu Tuấn), Dâng tướng quân,

Vượt tường hoa (vở Ngàn thu vọng mãi), Hận Tình, Hoảng loạn (vở Hai dòng sữa mẹ);

Không có cố NSƯT - nhạc sĩ Hoàng Lê thì chúng ta không thể có được bài: Vọng Kim Lang,

Đất Hồ lòng Hán (vở Ngàn thu vọng mãi), bài: Tài chi trưởng, Ghẹo vàng anh, (Đội kịch

chim Chèo bẻo); bài: Lía phấu (Trên núi Phìn Hồ); bài: Tấm vóc đại hồng, Áo tân khoa (vở

Tấm vóc đại hồng); Các nhạc sĩ Cung Nghinh, Văn Cận, Võ Bài với bài: Lý Chiêu Quân;

Tình duyên cung oán, Cung oán ngâm khúc (Thoại Khanh Châu Tuấn); nhạc sĩ Trương Đình

Quang bài: Con chim Tung (Tiếng sấm Tây Nguyên), nhạc sĩ Cung Nghinh bài: Lía Phôn

(Tiếng sấm Tây Nguyên), nhạc sĩ Trần Hồng bài: Lính say, Nhớ Thăng Long, (Nguyễn Huệ);

Đi xin ăn (Lục vân Tiên) ; nhạc sĩ Phan Ngạn bài: Lý Cây Tùng (vở Nàng Xi Ta) v.v… Đặc

biệt, ở thập niên 1980 và 1990 của thế kỷ 20, để đáp ứng nhu về thẩm mỹ của khán giả, cùng

với sự bổ sung về lực lượng diễn viên, nhạc công thì sự đầu tư trang thiết bị cho sân khấu

cũng được quan tâm hơn. Ngoài những nhạc cụ truyền thống như: Nhị, Sến, Nguyệt, Bầu,

Tranh, Sáo,… thì ghi ta phím lõm, tam thập lục, các nhạc cụ phương Tây như: Organ,

Guitabass cũng được các dàn nhạc tăng cường. Dàn nhạc vừa thực hiện nhiệm vụ làm nền

diễn tả không gian, thời gian (nhạc bối cảnh), vừa làm nhiệm thể hiện tâm trạng, lột tả tính

cách của nhân vật kịch … Ngoài nhạc nền, việc các nhạc sĩ liên tục sáng tác bài bản mới cho

nhân vật kịch đã góp phần tạo một bước cao hơn về chất lượng, nâng tầm nhận thức của công

chúng về Chân Thiện Mỹ qua mỗi vở diễn Bài Chòi.

Trong sự phát triển mạnh mẽ về lượng, chúng ta cũng phải tính đến sự phát triển về

chất, sự đóng góp tích cực của âm nhạc – xương sống của kịch chủng. Đến hôm nay, không ai

có thể quên đi sự âm thầm sáng tạo để đóng góp cho sân khấu Bài chòi của các nghệ sĩ, nhạc

sĩ đầu ngành. Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi trong hầu hết các vở Bài chòi của Đoàn ca kịch Thuận

Hải, ngoài vai trò là cố vấn nghệ thuật, bà vẫn phát huy tốt khả năng sáng tạo bài bản mới và

các bài bản này đã được các tác giả khác sử dụng rất nhiều lần. Nhạc sĩ Hoàng Lê với các bản

sáng tác mới như: Cảnh và Tình, Tâm Sự (vở Một sự trả giá), bài: Thăm mộ Xuân Nương (vở

Lâm Sanh Xuân Nương). Còn với nhạc sĩ Đặng Nguyễn thì, từ những năm 1980 – 1999,

ngoài các vở diễn: Ánh Lửa Trong Đêm, Mối tình qua Tết Lirboong, Vua Hóa Hổ, Hai dòng

sữa Mẹ - Đoàn dân ca kịch Khánh Hòa, rồi các vở: Nước mắt Diêm vương, Huyền Trân công

chúa - Đoàn ca kịch Bình Định dàn dựng, nhạc sĩ Đặng Nguyễn đã có hơn hai chục bài bản

sáng tác mới được phát triển từ các điệu Lý Năm canh, Lý con ngựa, Ru con, Hò chèo thuyền

94

Page 95: Nghệ thuật bài chòi

và cả hơi hướng của làn điệu Xàng Xê, Xuân Nữ. Trong đó, các bài như: Tìm con, Lão say,

Trăng của đôi ta…từ lâu đã trở thành bài bản trong hệ thống bài bản của kịch hát Bài Chòi,

riêng bài Tim em (vở Nước Mắt Diêm Dương) được sử dụng hết sức hiệu quả giai đoạn từ

1991 cho đến hôm nay ở tất cả các đoàn kịch hát Bài Chòi.

3. Việc sử dụng các bài sáng tác mới – những điểm cần lưu ý:

Ngoài những Bài bản đã được nêu trên, những năm 60 của thế kỷ trước, nhạc sĩ Hoàng

Lê đã lấy chất liệu điệu nói Lía - Bình Định để sáng tác bài Lía Phấu, Lía Mo Xảo (vở Trên

núi Phìn Hồ), lấy chất liệu điệu Xuân Nữ viết bài: Trách Hoa (vở Thoại Khanh Châu Tuấn),

lấy chất liệu điệu Cổ Bản để viết bài Tấm vóc đại Hồng (vở Tấm vóc đại Hồng) v.v…. Bài

Tấm vóc đại Hồng thực ra chỉ là một sắp hát Bài Chòi theo điệu Cổ Bản, nhưng được trình

bày một cách chậm rãi, thoáng đạt về nhạc điệu, lời ca dựa trên thơ lục bát phá thể, vì vậy, nó

thể hiện rất đậm nét đài các, hào sảng của một phu nhân họ Trần: “Tấm vóc Đại hồng!/ Bao

lâu nay, ta mơ ước trong lòng/ Được nhìn con cất bước gác rồng, đền lân…

Bao năm nay, lòng mẹ mơ màng/ Cửa nhà vinh hiển, rỡ ràng tên con”.

Từ chất liệu của điệu Xuân Nữ, nhạc sĩ Hoàng Lê đã sáng tác bài Thăm mộ Xuân

Nương (vở Lâm Sanh Xuân Nương), với nhịp điệu chậm buồn, nhớ thương, day dứt…, bài

này đã chuyển tài được nỗi lòng của người chồng, người bạn tình trăm năm của Xuân Nương,

khiến như có gì đó đang xiết chặt tâm can của người nghe: “Xuân Nương ơi, này bạn có hay/

Phần mộ này núi ấp, rừng che

Đây đường quên sớm tối đi về./ Này có hoa, kìa có bướm tứ bề reo ca…

Bạn ơi về đây, về đây như về lại thăm nhà.

Mà thủy chung như một có ta cùng mình…”

Nhạc sĩ Đặng Nguyễn (Hoành Loan), trong vở Huyền Trân công chúa (Đoàn ca kịch

Bình Định dàn dựng), để diễn tả tâm trạng của người con gái phải xa quê hương, xa người

yêu thực hiện điều đã hứa của vua cha, từ chất liệu của dân ca Nam Trung bộ, nhạc sĩ đã thể

hiện nét tài hoa của mình trong ca khúc Trăng của đôi ta:

“Em đi rồi, để gió ru anh, để nắng hôn anh

Anh ơi đừng buồn. Chẳng còn nữa đâu mà tìm đến nhau

Anh ơi đôi ta chia xa. Em đi rồi! Ngựa hồng trao anh,

95

Page 96: Nghệ thuật bài chòi

Ngày buồn trao anh, anh có thương không?

Xa anh rồi!/ Chỉ còn nỗi nhớ/ Nỗi nhớ thương anh nơi quê hương!”

Những lần sau, nếu sử dụng bài này, tác giả có thể cho nối ngay vào điệu Bài chòi

Xuân Nữ, hoặc điệu Bài chòi Xàng Xê, và với cách xử lý như thế, sẽ tạo nên hiệu ứng bất ngờ

cho người nghe, đây chính là một trong những cách chuyển làn, bẻ điệu đầy hiệu quả của kịch

hát Bài Chòi kể từ sau ngày đất nước thống nhất cho đến những năm đầu của thế kỷ thứ 21.

. Phải nói thật rằng, sau năm 1987 (khi NSƯT Hoàng Lê qua đời) và sau năm 2000 –

khi nhạc sĩ Đặng Nguyễn không tham gia viết nhạc cho các vở diễn của 03 đoàn Bài Chòi

còn lại ở miền Trung, kịch hát Bài Chòi lại lâm vào tình cảnh thiếu hụt bài bản mới, đúng như

thời kỳ mà nó vừa được đưa lên sân khấu cách mạng. Trong sự lúng túng ấy, các tác giả, các

đạo diễn có lúc đã lấy cả những bản nhạc nền của vở Thoại Khanh Châu Tuấn được viết

cách nay hơn nửa thế kỷ để phổ lời mới, thậm chí có tác giả chuyển thể đã lấy bài nhạc nền

được nhạc sĩ Hoàng Lê phát triển từ điệu Lý Con Ngựa để phổ lời ca thể hiện tính cách nhân

vật ở một vở diễn khác. Làm như vậy, xét về tâm đối với nghề thì không nỡ trách. Nhưng theo

tôi, cách làm ấy, vô hình trung sẽ góp phần làm cho sân khấu Bài Chòi mãi dậm chân tại chỗ.

Bởi lẽ, một bản nhạc nền thì nó chỉ có giai điệu và tiết tấu, và mục đích của nó là để làm nền

cho diễn xuất của diễn viên, nó thiếu hẳn sự kết cấu và tính bài bản của sân khấu ca kịch, nên

không thể thể chuyển làn, bẻ điệu khi được áp dụng với một sắp hát Bài Chòi sau đó. Không

phải ca khúc nào cũng có thể trở thành bài bản của kịch chủng. “Điều này, cũng giống như

không phải bất cứ một văn bản kịch nói nào cũng có thể chuyển thể thành vở diễn Bài Chòi”,

bởi nó không được cấu trúc theo mô tip của một vở ca kịch. Cố gắng lắm, ta cũng chỉ cho ra

đời một vở kịch nói pha ca. Chúng ta cứ tính lại hàng ngàn ca khúc do các nhạc sĩ đã sáng tác

và hàng trăm vở diễn Bài Chòi trong hơn nửa thế kỷ qua của sân khấu Bài Chòi sẽ rõ.

* Gần 60 năm sân khấu Bài Chòi xuất hiện trong nền nghệ thuật sân khấu dân tộc, biết

bao thế hệ nghệ sĩ, tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ, họa sĩ, biên đạo múa… đã dày công đóng góp,

hết lòng học tập, nghiên cứu các loại hình nghệ thuật dân tộc đã trưởng thành trước kịch

chủng Bài Chòi, với sự trải nghiệm và tinh thần lao động sáng tạo nghệ thuật thực sự nghiêm

túc, để đến hôm nay, hàng mấy trăm vở diễn của 04 đoàn ca kịch Bài Chòi đã đến với công

chúng cả nước qua rất nhiều giai đoạn. Nhưng, đã đến lúc nghệ thuật Sân khấu Bài Chòi rất

cần một Nhà hát đúng nghĩa, để cùng lúc có thể thực hiện đồng bộ các chức năng của một

Nhà hát chuyên ngành của kịch chủng như: Biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị và thực hiện

giao lưu với các loại hình nghệ thuật sân khấu trong cả nước; Nghiên cứu thực nghiệm nghệ

thuật truyền thống; Thực hiện bảo tồn sống nghệ thuật ca kịch Bài Chòi; Đào tạo diễn viên,

96

Page 97: Nghệ thuật bài chòi

nhạc công bổ sung cho các đơn vị biểu diễn của Nhà hát và các đoàn; Xây dựng bảo tàng loại

hình Dân ca kịch nhất là đối với các vở diễn kinh điển, mẫu mực của kịch chủng; Hướng dẫn

phong trào Dân ca kịch tại các địa phương!... Và, không đâu tốt hơn, chính quê hương mà sân

khấu Bài Chòi từ đất lên giàn và cũng là nơi tổ chức hội thảo hôm nay, mong rằng, trong một

tương lai gần, Nhà hát sân khấu Bài Chòi sẽ ra đời. Tôi ước mong thế, và, tôi tin thế! Bởi,

chỉ có làm được như thế, chúng ta mới có thể tự hào để nói rằng: Sân khấu Bài Chòi đã, đang

và sẽ mãi mãi tồn tại trong nền Nghệ thuật Sân khấu dân tộc Việt Nam.

THÔNG CÁO CHUNG

Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi” do UBND

tỉnh Bình Định và Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóa Dân tộc

VN phối hợp tổ chức từ ngày 10/09 đến 11/9/2013 tại TP Quy Nhơn đã thành

công tốt đẹp.

Tham dự hội thảo có đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Lê Hữu Lộc,

đồng chí Lê Kim Toàn - Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bình

Định và nhiều vị lãnh đạo các Sở VH,TT&DL, các Hội VHNT các tỉnh miền Trung

cũng như đông đảo những người hoạt động sân khấu Bài chòi trong cả nước.

NSƯT Vương Duy Biên – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, Phó

Chủ tịch UBND tỉnh Mai Thanh Thắng, GS Hoàng Chương – Tổng Giám đốc

Trung tâm NCBT&PHVHDTVN, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Bình

Định Văn Trọng Hùng đã chủ trì hội thảo. Nhiều nhà nghiên cứu, lý luận, các

nhà hoạt động sân khấu như tác giả, đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ… của cơ quan

trung ương và của các tỉnh Nam Trung bộ và TP Hồ Chí Minh đã tham dự.

Tham gia hội thảo còn có các đoàn nghệ thuật Bài chòi các tỉnh miền

Trung, các nhà báo của các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa

phương như báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam,

Báo Tuổi trẻ, Báo Lao động, Đài PT – TH Bình Định, Báo Quân đội Nhân dân, Báo

Bình Định, Tạp chí Văn Hiến VN, Tạp chí Văn nghệ Khánh Hòa, Đài Tiếng nói

nhân dân TP Hồ Chí Minh…

97

Page 98: Nghệ thuật bài chòi

Sau bài phát biểu chào mừng của Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Mai

Thanh Thắng và bài đề dẫn của GS Hoàng Chương, hơn 30 tham luận của các

đại biểu, Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi” hướng

tới UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại bước đầu có

những ý kiến thông báo và đề nghị gửi tới các cơ quan hữu quan những vấn đề

sau:

I. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ VÀ GIÁ TRỊ CỦA BÀI CHÒI:

Bài chòi sinh ra ở vùng Nam Trung bộ là sản phẩm văn hóa quý giá, độc

đáo của một miền đất nước. Nó giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong đời

sống tinh thần của nhân dân Nam Trung bộ.

Xét những thành tựu đạt được trên phương diện thực tế hoạt động và

trên những đặc trưng nghệ thuật của nguyên lý lý luận sân khấu, hội thảo

thống nhất nhận định Bài chòi có nhiều yếu tố sân khấu đẹp và độc đáo. Là một

loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc của địa phương, xứng đáng đứng cùng

đội ngũ sân khấu dân tộc khác như Tuồng, Chèo, Cải lương… Nó vừa có nét độc

đáo nghệ thuật của không gian văn hóa miền Trung, vừa có nét chung của sân

khấu dân tộc, góp mặt vào sự phong phú và đa dạng của nền nghệ thuật sân

khấu nước nhà.

II. VIỆC DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BÀI CHÒI ĐƯỢC NHÌN

NHẬN THEO NHỮNG HƯỚNG SAU:

1. Thống nhất việc duy trì và phát triển nghệ thuật bài chòi trên cơ sở lý

luận và thực tiễn hoạt động của nghệ thuật Bài chòi thông qua một cơ quan

khoa học đại diện đặt tại chính trên cái nôi của bài chòi.

2. Khẳng định những thành tựu đã đạt được qua các vở diễn như “Thoại

Khanh – Châu Tuấn”, “Tiếng sấm Tây Nguyên”, “Đội kịch chim chèo bẻo”… và

mới đây là vở “Khúc ca bi tráng” của Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định.

98

Page 99: Nghệ thuật bài chòi

Mặt khác, duy trì bảo tồn phong trào Bài chòi dân gian với những lễ hội

đánh Bài chòi, hình thức truyền thống đang tồn tại ở các địa phương và những

vở diễn, những trích đoạn Bài chòi tiêu biểu.

3. Phát triển Bài chòi trên cơ sở cách tân có sự giao lưu, học hỏi giữa Bài

chòi với các hình thức khác của sân khấu dân tộc và sân khấu thế giới. Sự cách

tân phải giữ được hơi hướng, bản sắc và điệu Bài chòi, bảo đảm được nét độc

đáo, riêng biệt của bài chòi và tiếp tục sáng tạo làm giàu có, phong phú thêm

bộ môn nghệ thuật quý giá này. Có nghĩa là:

- Phát triển bài chòi dựa trên nguyên tắc giữ được cái lõi Bài chòi cổ trên

cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn đặc trưng của kịch hát dân tộc với 4 yếu tố: Hô,

Hát, nói lối, vũ đạo hóa trên nguyên tắc cách điệu và tượng trưng của sân khấu

dân tộc.

Về nội dung đề tài hiện nay cần tập trung khai thác những kịch bản phù

hợp với ngôn ngữ nghệ thuật của thể loại, tập trung giải quyết những vấn đề

tâm lý, xã hội hiện nay như nhân tình thế thái, bồi dưỡng nhân cách đạo đức

con người, tạo ra một cuộc sống xã hội lành mạnh, tích cực, mang được hơi

hướng thời đại.

- Có hệ thống lý luận về sân khấu Bài chòi đặt trong hệ thống lý luận

chung của sân khấu dân tộc và trên thế giới. Từ đó, qua những công trình

nghiên cứu khoa học, qua những vở thể nghiệm về sân khấu Bài chòi, cần rút ra

những nét độc đáo, riêng biệt của sân khấu bài chòi và tìm ra nét chung hòa

nhập trong cộng đồng dân tộc, trong sự phong phú của toàn bộ nền nghệ thuật

sân khấu nước nhà.

99

Page 100: Nghệ thuật bài chòi

5. Tổ chức hệ thống đào tạo chính quy chuyên ngành về bộ môn Bài chòi,

nhằm tạo ra đội ngũ diễn viên kế tục và những tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ chuyên

ngành về sân khấu Bài chòi.

6. Có chế độ đãi ngộ thích đáng cho các nghệ sĩ, các nhà hoạt động sân

khấu hiện nay, cụ thể về đời sống, tài chính, danh hiệu nghệ sĩ.

III. NHỮNG KIẾN NGHỊ CỤ THỂ: TOÀN BỘ ĐẠI BIỂU HỘI THẢO ĐỀ NGHỊ:

1. Trước tình hình cụ thể hiện nay, nghệ thuật Bài chòi cần được bảo trợ,

tài trợ để duy trì và phát triển trên tinh thần Trung ương và địa phương cùng

làm:

- Đề nghị các cơ quan hữu quan sớm tổ chức cơ quan đại diện khoa học

về nghệ thuật Bài chòi tại miền Trung. Trước mắt có thể là dựa vào cơ quan đại

diện của Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn & Phát huy Văn hoá Dân tộc VN ở Nam

Trung bộ và Tây Nguyên tại TP Quy Nhơn, Bình Định.

- Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch dành một phần kinh phí hàng năm trong

quỹ phát triển sân khấu truyền thống cho sân khấu Bài chòi. Có kế hoạch lưu

giữ các vở “bảo tàng” và các vở “thể nghiệm”.

2. Bộ Văn hoá, Thể thao & Du lịch sớm có văn bản báo cáo Chính phủ cho

phép tỉnh Bình Định hoàn thành hồ sơ trình UNESCO công nhận Bài chòi là di

sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Đề nghị Trung tâm NCBT&PHVHDTVN

phối hợp với UBND tỉnh Bình Định và Viện Văn hoá có sự chuẩn bị chu đáo

thống nhất tư liệu để trình UNESCO.

3. Thường xuyên tổ chức tạo đàm, hội thảo về bảo tồn và phát huy, phát

triển Bài chòi.

100

Page 101: Nghệ thuật bài chòi

4. Xây dựng bảo tàng loại hình Dân ca kịch bài chòi và xây dựng không

gian Bài chòi và Nhà hát sân khấu Bài chòi trong tương lai gần.

5. Tăng cường quảng bá bài chòi trên các phương tiện thông tin đại

chúng.

Hội thảo đã kết thúc, là một trong những mốc quan trọng trên con

đường phát triển nghệ thuật Bài chòi.

Hội thảo kêu gọi các cấp lãnh đạo, các cơ quan hữu quan và đông đảo

công chúng nhiệt thành tích cực ủng hộ, giúp đỡ để nghệ thuật Bài chòi thực sự

là nghệ thuật độc đáo của miền Nam Trung bộ, đóng góp vào sự phong phú của

sân khấu dân tộc. Đồng thời, hội thảo nhận định Bình Định là cái nôi của nghệ

thuật Bài chòi, cần bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài chòi bằng nhiều giải

pháp, góp phần chăm lo, gìn giữ vốn văn hóa, văn nghệ dân gian cổ truyền của

dải đất miền Nam Trung bộ một cách có kế hoạch để nơi đây thực sự trở thành

không gian văn hóa của nghệ thuật Bài chòi, tiến tới mục tiêu trình UNESCO

công nhân nghệ thuật Bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Quy Nhơn, ngày 11/9/2013

Toàn thể đại biểu dự hội thảo

101