lịch sử giáo dục phú yên 1945-2005

327
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – HỘI TÂM LÝ GIÁO DỤC TỈNH PHÚ YÊN ========================= LỊCH SỬ GIÁO DỤC PHÚ YÊN 1945-2005 1

Upload: vuongthu

Post on 28-Jan-2017

234 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – HỘI TÂM LÝ GIÁO DỤCTỈNH PHÚ YÊN

=========================

LỊCH SỬ GIÁO DỤC PHÚ YÊN1945-2005

1

Page 2: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

CHỈ ĐẠO THỰC HIỆNThS. Trần Văn ChươngThS. Nguyễn Văn TáNGƯT. Nguyễn CáchNGƯT. TS Nguyễn Xuân ĐàmThS. Lê NhườngCN. Nguyễn Thị Hoàng Lan

BAN BIÊN SOẠNNGƯT. TS Nguyễn Xuân Đàm – Chủ biênNGƯT. Nguyễn CáchNGƯT. Nguyễn ChuNGƯT. Trần NgọcTS. Nguyễn Văn ThưởngThS. Trần Khắc LễThS. Nguyễn Tấn HàoThS. Đoàn Văn TamNguyễn Minh HàoLê Văn HọcPhạm Văn Thiện

BAN BIÊN TẬPThS. Nguyễn Văn TáThS. Trần Khắc LễNGƯT. TS. Nguyễn Xuân ĐàmTS. Nguyễn Văn Thưởng

2

Page 3: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

“Học thức là tài sản lớn nhất của Quốc gia”Bia Văn Miếu Hà Nội

(1466)“Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia. Nguyên khí vững thì thế nước mạnh và

thịnh. Nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy. Cho nên các Thánh Đế Minh Vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài.”

Bia Văn Miếu Hà Nội(1470)

“Muốn xây dựng đất nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước phải trọng dụng người tài.”

Vua Quang Trung và Ngô Thì NhiệmChiếu lập học – 1790

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em!”

Hồ Chí MinhThư gửi học sinh nhân ngày khai trường

Năm học 1945“Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp Nhà nước và của toàn dân”

Luật giáo dụcNước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Năm 1998

3

(Ảnh Bác Hồ quàng khăn đỏ cho em học sinh)

Page 4: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

LỜI GIỚI THIỆU

Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc, bằng xương máu và trí tuệ của mình, nhân dân Phú Yên đã viết lên những trang sử vẻ vang của sự nghiệp giáo dục Phú Yên nhất là sau Cách mạng tháng 8 thành công. Cho đến nay, nó đã góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng tổ quốc ngày nay. Trước thềm thế kỉ XXI, thế kỷ của sự bùng nổ của khoa học – kỹ thuật, của văn hóa và nhân văn, của sự hội nhập toàn cầu thì việc nhìn lại quá trình hình thành nên người công dân, người chiến sĩ giải phóng đất nước hôm qua, để chuẩn bị cho con người xây dựng tương lai cho đất nước hôm nay là trách nhiệm hết sức nặng nề của ngành giáo dục nói chung và Phú Yên nói riêng. Việc nghiên cứu tổng kết một cách có hệ thống và dựng lại bức tranh toàn cảnh lịch sử của nền giáo dục cách mạng Phú Yên để góp một trang vào kho tàng lịch sử anh hùng của nhân dân Phú Yên làm hành trang cho thế hệ trẻ là mootj việc làm hết sức quan trọng và cấp bách. Vì lẽ đó mà Sở Giáo dục đào tạo và Hội khoa học tâm lý giáo dục Phú Yên cùng một số anh chị em cán bộ giáo dục Phú Yên đã nung nấu và có ý định từ lâu, nay được Sở Giáo dục đào tạo Phú Yên cho dự thảo bản đề cương nghiên cứu “Lịch sử giáo dục Phú Yên 1945-1005” được Hội đồng ngành giáo dục thông qua. Đây là đề tài cấp ngành, do Sở Giáo dục đào tạo quản lý, Hội khoa học tâm lý giáo dục làm chỉ trì. Ban biên tập do Giám đốc Sở Giáo dục ra quyết định thành lập: gồm các đồng chí Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ, Thạc sĩ nguyên là Giám đốc, Phó giám đốc, Trưởng ty, Phó trưởng ty, Trưởng, Phó phòng nghiệp vụ. Đây là những nhà trí thức trong cuộc, trải qua suốt ba giai đoạn cách mạng nối tiếp nhau từ kháng chiến chống thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ và sau giải phóng, hòa bình, xây dựng CNXH, Khó có một ban biên tập lịch sử nào được như vậy. Họ là những con người đầy tâm huyết và thực tế với công việc cống hiến của mình trong ngành giáo dục, với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tiếp tục sưu tầm, bổ sung tư liệu, hoàn chỉnh bản thảo, tiến hành nhiều cuộc hội thảo, lấy được nhiều ý kiến tham gia của các nhà giáo lão thành, tiếp cận được nhiều tài liệu quí hiếm, đa dạng về những sự kiện lịch sử của ngành Giáo dục trong những năm tháng chiến tranh ác liệt và khắc sâu ý nghĩa cao cả, những thành tựu mới của ngành ttrong thời kỳ xây dựng hòa bình. Tuy phạm vi lịch sử giáo dục Phú Yên viết từ năm 1945 đến năm 2005 nhưng công trình giáo dục Phú Yên vẫn nói đến trước năm 1945 để nối liền mạch tinh thần của truyền thống giáo dục dân tộc với nền giáo dục hiện đại sau Cách mạng tháng 8 là rất cần thiết. Sau Cách mạng 1945 đến 2005 với 2 giai đoạn lịch sử Cách mạng của dân tộc, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, công trình đã mô tả

4

Page 5: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đúng sự thật, giáo dục đã xứng đáng là một mặt trận cách mạng kiên cường, góp phần giáo dục, đào tạo những người chiến sĩ anh dũng hy sinh để giải phóng quê hương, thống nhất Tổ quốc. Với tầm nhìn xa trông rộng của Đảng, của Bác Hồ, trong chiến tranh ác liệt vẫn chuẩn bị cho tương lai lâu dài, đã đưa hàng ngàn con em học sinh Phú Yên đi đào tạo ở miền Bắc, mở những lớp bổ túc văn hóa ban đêm cho cán bộ chiến sĩ, mở các trường sư phạm miền núi, đồng bằng ở vùng giải phóng để đào tạo lớp thầy giáo tương lai sau giải phóng. Cộng với sự sẵn sàng c ủa miền Bắc chi việc giáo viên cho miền Nam, cho Phú Yên, giúp Phú Yên đủ sức tiếp nhận một môi trường giáo dục mới sau giải phóng. Sau khi giải phóng Phú Yên, thống nhất Tổ quốc, đây là giai đoạn phát triển vượt bậc, mạnh mẽ của nền giáo dục đương đại của đất nước, cũng như tinhrbnhaf được sự bổ sung cho nhau về kinh nghiệm, về cơ sở vật chất, về con người. Tỉnh Phú Yên đã xây dựng được một nền giáo dục tiên tiến, sánh vai cùng các tỉnh bạn và rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm cho sau này. Đây chính là điều Ban biên tập đã cố gắng dựng lên – một bức tranh toàn cảnh của nền giáo dục Phú Yên trong suốt chiều dài lịch sử 60 năm với cuộc kháng chiến trường kỳ hy sinh và anh dũng chiến đấu của các thế hệ thầy giáo và học sinh, sức mạnh của nhân dân và trí tuệ của Đảng đã xây dựng nên nền văn hóa dân trí của tỉnh nhà như ngày nay. Chẳng những phần nội dung chính của quyển lịch sử mà các bản phụ lục phía sau cũng đã chứng minh sự sưu tầm công phu và khá đầy đủ để người đọc, người xem hiểu về những vấn đề cụ thể của lịch sử giáo dục Phú Yên.Ai cũng biết lịch sử diễn ra chỉ một lần, nhưng viết sử phải viết đi viết lại nhiều lần để đảm bảo ngày càng chính xác, khách quan, trung thực và khoa học hơn. Mong rằng Lịch sử giáo dục Phú Yên 1945-2005 được nhiều bạn đọc gần xa, trong ngành, các thầy cô giáo, các cháu học sinh đọc và tham gia bổ sung những điều khiếm khuyết để sau lần tái bản sẽ đầy đủ và phong phú hơn.

Ngày 28 tháng 12 năm 2009

Nguyễn Duy LuânNguyên Ủy viên BCHTW Đảng

Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên

5

Page 6: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

LỜI NÓI ĐẦU

Tìm về cội nguồn dân tộc, tìm dấu khai nguyên của một miền đất nước là biểu hiện sự trưởng thành của ý thức con người, là yêu cầu của một nền văn hóa ở trình độ phát triển cao, là nguyện vọng thiết tha được nối mạch tinh thần từ hiện tại trở về quá khứ và hướng tới tương lai của mọi lớp người. Chỉ có thể khắc ấn từ những gì có thể tìm thấy được xa nhất trong cuộc biến thiên của trường kỳ lịch sử tồn giữ trong nền văn hóa vật chất và nền văn hóa tinh thần khả dĩ coi đó như là điểm khởi đầu.

Việc viết lịch sử giáo dục Phú Yên là một việc làm rất có ý nghĩa và mang tính cấp thiết. Từ năm 1945 đến năm 2005, 60 năm lịch sử ngành giáo dục là kết quả của một quá trình lao động và chiến đấu anh dũng, vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, là một bước vinh quang trong cuộc trường chinh vạn dặm của dân tộc nên không thể không nối mạch nguồn chôn nhau cắt rốn, với việc nuôi dạy của ông bà tổ tiên ta từ những ngày trước cách mạng tháng Tám, không thể không dành những trang kính trọng cho các chí sĩ trong công cuộc tìm con đường duy tân thoát khỏi nền giáo dục đô hộ của phong kiến, thực dân.

Qua hai cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt và mấy mươi năm xây dựng đất nước càng thấy sức mạnh vô địch của nền giáo dục cách mạng đã biến dân tộc ta từ một dân tộc yếu trở thành một dân tộc thông thái, vượt lên đứng vào hàng ngũ những nước tiên tiến trên thế giới. Cần phải khẳng định và đánh giá trong một công trình lịch sử ngành, từ đó rút những bài học kinh nghiệm quí báu về thực hiện quan điểm, đường lối phương châm giáo dục của Đảng, về nội dung phương pháp dạy và học ,về quản lý và phát triển nền giáo dục cách mạng để tiến bước trên con đường mới.

Tiếp bước những người làm công tác giáo dục, thế hệ thầy giáo hôm nay, chúng ta tự vươn lên làm tốt hơn nữa thiên chức “trồng người”, để các em học sinh học giỏi hơn, đạo đức tốt hơn, là người công dân lao động tốt, là chiến sĩ trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, giữ vững độc lập toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng tương lai xán lạn trên một nền giáo dục hiện đại, tiên tiến.

Mang tính khoa học và tính thực tiễn, công trình mong muốn được phản ánh rõ đạo lý, quan điểm truyền thống của dân tộc, của Đảng ta và dựng lại được toàn

6

Page 7: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

cảnh quá trình hoạt động thực tiễn của ngành giáo dục, công sức của nhân dân trong công cuộc xây dựng nền giáo dục.

Trong quá trình nghiên cứu, Ban biên tập chúng tôi đã nhận được sự quan tâm của lãnh đạo của Sở Giáo dục & Đào tạo, Hội khoa học Tâm lý giáo dục Phú Yên và sự giúp đỡ của các bậc lão thành cách mạng, các thầy cô giáo cao niên và cả những người đang đứng trên bục giảng, đang sáng tạo nên lịch sử của ngành, cung cấp nhiều tư liệu, ý kiến quý báu. Trước một kho tàng đồ sộ của những sự kiện, và độ dài của thời gian, sự phong phú của nội dung và mối liên hệ, quan hệ đa dạng với các ngành, các hoạt động khác của toàn xã hội, sự tế nhị của nghệ thuật giáo dục và sự tường minh của các khoa học nhất là khoa học giáo dục, chúng tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng gặp không ít khó khăn và khó tránh khỏi thiếu sót.

Công trình lịch sử ngành giáo dục hoàn thành như là một phẩm vật cao khiết dâng lên ngày lễ trọng đại của tỉnh- kỷ niệm 400 Phú Yên hình thành và phát triển.

Ban biên tập chúng tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của quí vị và bạn bè đồng nghiệp gần xa đã chung lòng, góp sức làm nên công trình này và mong nhận được sự chỉ giáo, bổ sung cho công trình hoàn thiện hơn.

TM. Nhóm tác giả

NGƯT.TS. Nguyễn Xuân Đàm

7

Page 8: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

PHẦN MỞ ĐẦU

KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THỐNGVĂN HÓA, GIÁO DỤC PHÚ YÊN

I. VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI PHÚ YÊNPhú Yên là tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh

Bình Định, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, phía Đông là biển Đông. Phú Yên có con đường Quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt đi ngang qua. Đường Quốc lộ 25, sông Đà Rằng (sông Ba) mở đường cho Tây Nguyên hướng ra biển cả. Đồng bằng Tuy Hòa và Tuy An, tuy không rộng lắm nhưng phì nhiêu màu mỡ được mệnh danh là vựa lúa của miền Trung. Với vị trí đặc biệt, địa lý tự nhiên lắm cách trở nhưng cũng nhiều thuận lợi, vừa khắc nghiệt lại vừa trù phú, hữu tình. Từ bao đời, miền đất này đã đóng vai trò chiến lược quan trọng trong trường kỳ phát triển của dân tộc.

Diện tích tự nhiên của Phú Yên là 5.045km2. Theo Niên giám thống kê tỉnh Phú Yên năm 2005, dân số Phú Yên là 861.110 người, trong đó ở thành thị 173.132 người và ở nông thôn là 687.978 người1. Từ rất sớm, vùng đất Phú Yên là nơi quần tụ của nhiều dân tộc anh em, bên cạnh người Kinh chiếm đa số (95,5%), là những buôn làng của người đồng bào Chăm (1,9%), Êđê (1,9%), Bana (0,4%). Về sau, có thêm một số đồng bào dân tộc thiểu số khác như Giai rai, Tày, Mường... đến định cư, chủ yếu vùng cao miền núi của tỉnh. Cộng đồng cư dân từ thời tiền sơ sử đến nay đã chung lưng đấu cật, đổ bao mồ hôi, xương máu, lao động trí tuệ để khai sơn phá thạch, xây dựng, bảo vệ và phát triển mảnh đất này.

Trên vùng đất Phú Yên, theo các nhà khảo cổ học, nghiên cứu lịch sử, họ đã sưu tầm và khai quật được những chiếc rìu, lưỡi cuốc, chiếc bôn bằng đá ở Lãnh Cao (Đồng Xuân), hòn Đồn (Sơn Hòa), hòn Cồ (Sông Hinh), hòn Miếu (Tuy Hòa), Phong Niên (Phú Hòa) đã chứng minh trên đất Phú Yên ngày nay, con người đã từng trải qua từ thời hậu kỳ đồ đá mới.

1 Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê tỉnh Phú Yên 2005. Cục Thống kê Phú Yên xuất bản,2006, tr.20.

8

Page 9: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Sự phát hiện các di tích: Eo Bồng (xã Sơn Thành, huyện Tuy Hòa), Gò Ốc (xã Xuân Bình, huyện Sông Cầu), Gò Cây Thị (xã Hòa Hiệp Nam, huyện Đông Hòa), Di tích Cồn Đình (còn gọi là Gò Đình, xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu), Gò Bộng Dầu (thôn Long Thủy, xã An Phú, thành phố Tuy Hòa ngày nay)... bộ đàn đá ở núi Một (xã An Nghiệp, huyện Tuy An), tù và đá ở thôn Phú Cần (xã An Thọ, huyện Tuy An), trống đồng ở gò Dưa (thôn Xuân Thạnh, xã Hòa Tân, huyện Tây Hòa), ở núi Lá (Hòa Mỹ, huyện Tây Hòa), ở thôn Phú Hòa (Hòa Hiệp Trung, huyện Đông Hòa) chứng tỏ ở đây đã tồn tại một nền văn hóa khoảng thế kỷ thứ II – I TCN tương đương với niên đại của nền văn hóa Sa Huỳnh ở cả các giai đoạn sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ.

Vùng đất Phú Yên là nơi tồn tại nhiều di tích của nền văn hóa Chăm như các giếng Chăm ở Sông Cầu, Tuy An, tháp Chăm ở thành phố Tuy Hòa, hòn Mốc (Hòa Định), thành Lồi (An Ninh Tây), thành Hồ (Hòa Định, Phú Hòa)2 …

Năm 1471, khi vua Lê Thánh Tông thống lĩnh 26 vạn quân thủy bộ tiến binh chinh phạt Chăm pa, chiếm được thành Chà Bàn (Qui Nhơn), quân Đại Việt đã vượt đèo Cù Mông tiến đến đèo Cả. Tương truyền vua Lê Thánh Tông cho khắc bia trên đá núi để ghi dấu chiến công, và phân định ranh giới Đại Việt ở phía Nam. Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn có ghi: “Núi Thạch Bi thuộc tỉnh Phú Yên là nơi phân cư-ơng giới giữa Tiên triều nước ta và nước Chiêm Thành”3.

Để ghi công ơn mở đất của tiền nhân, người dân Phú Yên lập miếu thờ tại thôn Long Uyên, huyện Tuy An. Câu đối của Bố chính Đinh Nho Quang đề năm

Tự Đức thứ 37 như sau:“Giang sơn khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự. Trở đậu

hinh hương thử địa, thanh linh trường đối thạch bi cao”Nghĩa: Non sông mở đất năm nào, phụ lão truyền nhau công Hồng Đức. Lễ

kính hương thơm đất ấy, danh thiêng xứng mãi ngọn bi sơn. Núi Đá bia mang ý nghĩa thiêng liêng của thời kỳ mở đất. Nơi đây đá hóa

thành văn và hòa vào di sản văn hóa dân tộc, một di tích vang vọng trang nghiêm như lời căn dặn của chúa Nguyễn Hoàng với con Nguyễn Phúc Nguyên: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở,

2 Địa chí Phú Yên – Nxb Chính trị Quốc gia – 200 3, tr. 141-152.3 Lê Quý Đôn. Phủ Biên tạp lục, tập 1. Nxb Sài Gòn,1972, tr.213.

9

Page 10: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng”4.

Năm 1578, người Chăm lại tiến hành việc lấn chiếm, Lương Văn Chánh đem quân đánh lấy Thành Hồ, xã An Nghiệp, phủ Tuy Hòa. Đến năm 1597, qua nội dung Sắc lệnh của Nguyễn Hoàng5, Lương Văn Chánh với chức quan trấn biên, đã chiêu tập lưu dân từ Thuận Quảng vào Cù Mông, Bà Đài khai khẩn đất đai, thiết lập vùng đất mới - Phú Yên. Việt Sử xứ Đàng Trong ghi rằng: “việc khai khẩn Phú Yên thuở ấy nhờ Lương Văn Chánh một phần lớn. Ông chiêu tập lưu dân, khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Xuân Đài, dời dân đến ở, lại mộ dân vỡ đất làm ruộng ở vùng sông Đà Diễn (Đà Rằng) chia lập thôn, ấp, các nơi ấy càng ngày càng đông đúc”6. Ông Lương Văn Chánh được xem là người có công đầu, là vị thành hoàng đã lập nên vùng đất Phú Yên ngày nay.

Thời gian trôi qua, vùng đất Phú Yên hình thành các quan hệ xã hội, dòng tộc, các thể chế quản lí làng xã dần được ổn định và phát triển. Năm 1611, phủ Phú Yên được thành lập với 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đúc ấn vương lên ngôi Chúa ở Phú Xuân, ban lệnh sửa đổi y phục, quy định triều phục văn võ, đổi mới tổ chức hành chánh, chia Đàng trong làm 12 dinh và 1 trấn. Phú Yên là một trong 12 dinh (dinh như đơn vị cấp tỉnh ngày nay), chính thức trở thành một cộng đồng trong đại gia đình Việt Nam, cùng với nhân dân cả nước chung lưng xây dựng giang san7.

Từ năm 1771, thời kỳ Tây Sơn – thời dấy nghiệp của 3 anh em người nông dân Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dựng cờ khởi nghĩa với lời hịch “Tưới dầm khi nắng hạn. Kéo dân cùng ra khỏi chốn lầm than”. Miền tây Phú Yên có dãy núi La Hiên hùng vĩ tiếp giáp với vùng núi An Khê, là một trong những căn cứ của nghĩa quân Tây Sơn thượng đạo. Nhân dân Phú Yên, cả người Kinh lẫn người Thượng đều rầm rộ hưởng ứng và tham gia phong trào ngay những ngày đầu tiên. Trong hội hùng binh đánh tan 3 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút (1785), và trong cuộc tiến quân thần tốc của đội hình tượng binh, kỵ binh, bộ binh, đạp dãy Trường sơn, ngược đường Thiên lý đánh tan 20 vạn quân Thanh ở trận quyết chiến Ngọc Hồi - Đống Đa chiếm lại thành Thăng Long giữa ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu 4 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục. Viện Sử học, 2004, T1, tr.37.5 Sắc lệnh năm 1597 của Nguyễn Hoàng, tài liệu1/3/2005 lưu tại đền thờ Lương Văn Chánh, Hoà Trị, Phú Hòa.6 Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong. Nxb Văn Học, TP. HCM,2001, tr.297.7 Địa chí Phú Yên, Sđd, tr.841-842.

10

Page 11: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

(1789) giải phóng đất nước, thống nhất giang san của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, trong tuyệt đỉnh vinh quang cuộc bùng nổ lịch sử của nông dân Việt Nam đó có sự đóng góp ít nhiều của nhân dân Phú Yên.

Phú Yên là “nơi đứng mũi chống giặc”, nằm trên lộ trình tiến quân của 2 lực lượng đối đầu giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh, nhân dân Phú Yên lại phải chịu đựng biết bao cuộc đọ sức ác liệt tàn khốc, công sức, thuế khóa, lính tráng, lao dịch cho các lực lượng chiếm đóng. Những ngọn núi, dòng sông trên vùng đất Phú Yên đã in dấu biết bao chiến công, biết bao sự tích bi tráng, thấm đẫm máu đào của người dân Phú Yên mà những nhân vật tiêu biểu là danh tướng như Võ Văn Dũng8, như đại tổng quản Tây Sơn văn thao võ lược – tiến sĩ Nguyễn Ký Chiêu 9, như danh sĩ Lưu Quốc Hùng, như chúa Thủy Xá – Ma Khương (dân tộc Chăm) và tiêu biểu nhất là mối đoàn kết Kinh – Thượng đã tạo nên sức mạnh của phong trào.

Vào nửa sau thế kỉ XIX (tháng 9-1858) thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Phú Yên đã có nhiều đóng góp cùng với triều đình chống giặc.

Sau sự kiện triều đình thất thủ ở Kinh thành Huế năm 1885, ngày 13 tháng 7 năm 1885 vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi thần dân trong cả nước nổi dậy chống thực dân xâm lược. Cùng với các sĩ phu yêu nước khắp Trung Kỳ từ Thanh Hóa vào đến Bình Thuận, các sĩ phu Phú Yên đã lãnh đạo nhân dân hưởng ứng lời hịch cứu nước một cách rầm rộ. Cuộc khởi nghĩa của Tú tài Lê Thành Phương là tiêu biểu cho phong trào Cần Vương ở Phú Yên.

Mặc dù cuộc khởi nghĩa đã gây cho địch nhiều tổn thất, nhưng rồi thất bại cùng bối cảnh chung của phong trào Cần Vương cả nước. Cuộc hưởng ứng Cần Vương cứu nước của nhân dân Phú Yên đã bị thực dân Pháp đàn áp. Thủ lĩnh của phong trào bị bắt, bị kẻ địch dụ dỗ, tra tấn dã man nhưng Lê Thành Phương đã khẳng khái trước mặt kẻ thù: “ninh thọ tử – bất ninh thọ nhục” (thà chịu chết chứ không sống nhục). Cuộc khởi nghĩa đã đi vào lịch sử mà niềm ngưỡng mộ cảm thương ngậm ngùi còn mãi với đất nước và con người Phú Yên.8Danh tướng Tây sơn, thời hàn vi đã từng theo người buôn ngựa vào Phú Yên, duyên may gặp lão trượng họ Lương - dòng dõi Lương Văn Chánh ở Tuy Hòa, thụ giáo được môn trường kiếm đoản đao, cách đánh trên bộ, ngựa trên đạt trình độ cao cường (theo cuốn “Nhà Tây Sơn” của Quách Tấn, Quách Giao – nhân kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc hồi-Đống đa – Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình xuất bản).9 Theo sách Nguyễn tộc thế truyền: Nguyễn Ký Chiêu – sinh năm Ất Dậu 1765 đậu tiến sĩ – đại tổng quản triều Quang Trung.Vợ là Lê Thị Mỹ Trinh – (con gái đại đô đốc Tây Sơn Lê Văn Hưng). Sau khi nhà Tây Sơn mất, Nguyễn Ký Chiêu cùng các tướng sĩ Tây Sơn lui về núi La Hiên, tổng hành dinh ở ma thiên động lập “bảo nghĩa kiến nghiệp hội”để mưu phục hồi nghiệp chủ.

11

Page 12: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Ô Loan nước lặng như tờThương người chí sĩ dựng cờ Cần vươngTrải bao gối đất màn sươngMột lòng vì nước, nêu gương anh hùng!

Nối tiếp cuộc khởi nghĩa của Lê Thành Phương, các cuộc vận động chống Pháp ở Phú Yên liên tục diễn ra như Nguyễn Hào Sự (1890-1892), Võ Trứ và Trần Cao Vân những năm 1898-1900, đã góp phần ngăn cản quá trình bình định của thực dân Pháp trên dải đất miền Trung và cả nước.

Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào duy tân của các sĩ phu yêu nước tiến bộ dưới ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, phong trào vận động chống đồi phong bại tục, mở trường dạy chữ quốc ngữ, cổ động dùng hàng nội hóa, chống cường hào nhũng nhiễu. Cuộc biểu tình của đông đảo nhân dân đòi giảm sưu, giảm thuế ở Phú Yên bắt đầu diễn ra (1906-1908). Những câu vè trong nhân dân địa phương còn lưu truyền, cũng phản ánh điều đó:

“Tai nghe Tam tổng đầu thầyĐồng bào tuyên thệ cúp rày đầu đi.Ngọ, Mùi mới khởi một khi,Năm này là chính vậy thì Mậu Thân”10 .

Nơi diễn ra chủ yếu của phong trào đó là ở Tuy Hòa, Tuy An, Đồng Xuân do nho sĩ Nguyễn Hữu Dực và Lê Văn Hanh lãnh đạo đã làm cho bộ máy Nam triều ở các địa phương trong tỉnh hoảng hốt, thực dân Pháp lo sợ liền có chính sách giảm sưu thuế11 cho nông dân.

Đầu năm 1930, phong trào yêu nước chống Pháp ở Phú Yên phát triển cùng với phong trào chung của cả nước, nhất là sự chuyển biến nhanh chóng của phong trào yêu nước sang khuynh hướng vô sản. Bước ngoặt của cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (2-1930) do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và lãnh đạo cuộc đấu tranh. Phú Yên sau sự kiện đó một thời gian, ngày 5 tháng 10 năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập do đồng chí Phan Lưu Thanh làm Bí thư.

1010 Nguyễn Đình Tư. Non nước Phú Yên. Nxb Tiền Giang, 1965, tr.153, 15611 Dấn theo: Nguyễn Văn Thưởng. Phong trào chống sưu thuế ở Phú Yên năm 1908, Tạp chí NCLS năm 2007 . (Giảm thuế thân từ 2,40 đồng xuống 2,20đồng, giảm 4 ngày sưu công ích xuống 3 ngày và không tăng 5% thuế điền nữa. Ngày 31-12-1908, Toàn quyền Đông Dương chuẩn y Nghị định ngày 31-12-1907, giảm số ngày đi xâu “hàng tỉnh” từ 8 ngày xuống còn 5 ngày)

12

Page 13: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bước sang một giai đoạn cách mạng mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chiến lược đúng đắn, phù hợp quy luật phát triển của thời đại, Đảng cộng sản đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân trong cả nước, khơi dậy ngọn lửa yêu nước, chiến đấu được hun đúc suốt chiều dài của lịch sử vùng lên như đợt sóng trào vĩ đại làm nên thắng lợi vẻ vang của cách mạng mùa Thu tháng Tám năm 1945.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, song niềm vui được xây dựng cuộc đời mới trong tự do, độc lập chưa được bao lâu, thì cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Phú Yên lại phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai xâm lược với âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Với tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh anh dũng, toàn dân đoàn kết triệu người như một “thà hy sinh tất cả, chứ nhất quyết không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không gì quý hơn độc lập, tự do” dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vẻ vang, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975. Với 54 đơn vị xã, huyện, thị và 15 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang với 14.000 liệt sĩ, 857 bà mẹ Việt Nam anh hùng đã nói lên diện mạo kỳ vĩ, cuộc chiến đấu anh hùng, sự hy sinh vô bờ bến của người dân trên đất Phú Yên này cho những giá trị giành được hôm nay!

Con người Phú Yên chất phác, hiền hòa, dũng cảm và thông minh đã sống, lao động và chiến đấu trong suốt chiều dài lịch sử để bảo vệ và dựng xây quê hương giàu và đẹp xứng đáng với niềm tự hào đứng trong hàng ngũ đại gia đình Việt Nam, điều đó đã được hun đúc nên một nền văn hiến ngàn đời của dân tộc, một nền văn hóa giáo dục đậm đà bản sắc Việt Nam.

II. TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA - GIÁO DỤC PHÚ YÊNTheo dòng lịch sử của dân tộc, Việt Nam được hình thành và lại phải sớm

đương đầu với giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Trong ngàn năm đấu tranh chống xâm lược của phong kiến phương Bắc cũng là ngàn năm dân tộc ta đấu tranh chống lại sự nô dịch bằng văn hóa giáo dục của kẻ thù. Dân tộc ta không bị nền giáo dục Nho giáo của Trung Quốc đồng hóa mà ngược lại còn biết lựa chọn, hấp thu những tinh hoa của nền văn hóa đó để xây dựng và phát triển cho nền văn hóa Việt Nam.

Trải qua các triều đại giành được độc lập tự chủ, ông cha ta đã xây dựng nên một nền văn hiến rực rỡ mà khởi đầu bằng việc ra đời Quốc tử giám – trường Đại học

13

Page 14: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đầu tiên của Việt Nam vào năm 1076. Quốc Tử giám được thành lập sớm hơn cả một số trường đại học lớn từ thời kỳ văn hóa phục hưng ở châu Âu12.

Sự tôn vinh 1347 vị tiến sĩ được khắc tên ở 82 bia Văn Miếu qua các triều đại phong kiến Việt Nam từ 1442 đến 1779 đã chứng tỏ từ lâu đời ông cha ta đã chú ý xây dựng một nền quốc học đậm đà bản sắc dân tộc. Tinh thần “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, các nhà khoa bảng, các nhà trí thức Việt Nam là rường cột của nền văn hiến đã cùng với các minh quân, lương thần xây dựng nên nhiều triều đại phong kiến cực thịnh ở nước ta.

Do điều kiện lịch sử, địa lý, tỉnh Phú Yên chưa xuất hiện nhiều nhà đại trí song các bậc tài trí ở Phú Yên như Lương Văn Chánh, Đào Trí, Nguyễn Công Nhàn, Lê Thành Phương, Nguyễn Hào Sự, Nguyễn Hữu Dực, Phan Lưu Thanh … cũng đã góp mặt vào pho sử vàng của dân tộc và các hàn sĩ, hương sư đã lặng lẽ góp phần bảo tồn và phát triển nền học vấn cho nhân dân lao động Phú Yên.

Dù trải qua thời Pháp thuộc, chúng dùng chính sách ngu dân kìm hãm dân ta trong vòng ngu tối, lạc hậu để hòng áp bức, bóc lột, song với lòng yêu nước, ý chí quật cường lớp lớp người Việt Nam đã vùng lên chống thực dân Pháp để giành độc lập, tự do. Đi đầu là các nhà nho, các chí sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Văn Tố… đã cổ súy phong trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục, truyền bá quốc ngữ để “khai dân trí”, “chấn dân khí”, “hậu dân sinh” để mưu cầu dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Và đặc biệt, từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, vai trò và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không những đã đem lại cho cách mạng Việt Nam con đường giải phóng đúng đắn mà từ năm 1943 với Đề cương văn hóa của Đảng đã chỉ ra con đường đấu tranh xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Giáo dục được xem như là một vũ khí sắc bén, một mặt trận đấu tranh cách mạng, để vận động, tập họp giác ngộ mọi tầng lớp quần chúng lao động,

12 Năm 1150 – trường Đại học Paris (Pháp)Năm 1167 – trường Đại học Oxford (Anh)Năm 1233 – trường Đại học Canbridge (Anh)Năm 1338 – trường Đại học Bologne (Ý)Năm 1385 – trường Đại học Heideinburg (Đức)

14

Page 15: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

giới trí thức, giáo giới, sinh viên học sinh… trong mặt trận đại đoàn kết dân tộc và đưa cuộc cách mạng đến thành công .

Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, Phú Yên chỉ sau một năm phát động hưởng ứng lời kêu gọi diệt giặc dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến tháng 7 năm 1947 đã có trên 10 vạn người thoát mù chữ, là một trong 3 tỉnh đi đầu của Liên khu V, được Chính phủ khen thưởng. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Phú Yên đã có trên hàng ngàn học sinh với hàng trăm giáo viên. Trường Lương Văn Chánh là trường trung học đầu tiên ra đời (10-1946) đánh dấu một bước tiến vượt bậc của nền giáo dục cách mạng của tỉnh.

Sau năm 1954, Phú Yên đã xây dựng được một nền giáo dục dân tộc dân chủ nhân dân với một hệ thống cả giáo dục bình dân và giáo dục phổ thông, từ các lớp mẫu giáo, tiểu học đến bậc trung học. Ngành giáo dục đã góp phần tích cực vào thắng lợi to lớn của công cuộc kháng chiến chống Pháp, hun đúc trong nhân dân và nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên lòng yêu nước nồng nàn, yêu chế độ dân chủ cộng hòa sâu sắc để họ trở thành những chiến sĩ yêu nước tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài suốt 21 năm, một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc và ác liệt, nhân dân Việt Nam phải đương đầu với một kẻ thù hùng mạnh nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, quân và dân cả 2 miền Nam Bắc đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân lần lượt đập tan các chiến lược quân sự của Mỹ.

Về giáo dục, trong thời gian này, trên miền Nam đã song song tồn tại 2 nền giáo dục: nền giáo dục ở trong vùng chính quyền Sài Gòn tạm thời kiểm soát và nền giáo dục cách mạng được xây dựng và phát triển ở trong vùng căn cứ, vùng giải phóng. Trong cuộc chiến tranh nhân dân, giáo dục được xem như là một mặt trận. Thầy giáo và học sinh là những chiến sĩ. Họ không chỉ dạy học văn hóa mà cùng tham gia đấu tranh chống giặc giữ làng, giải phóng quê hương.

Cùng trong bối cảnh toàn miền Nam, Phú Yên cũng như các tỉnh, dù chiến tranh diễn ra ác liệt, Tỉnh ủy Phú Yên vẫn chỉ đạo cho ngành giáo dục nỗ lực vượt mọi khó khăn mở các lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ, các trường nội trú cho các con em người dân tộc, gửi con em ra miền Bắc học tập để đào tạo cán bộ cho tương lai và đặc biệt là mở các trường sư phạm miền núi, sư phạm đồng bằng để đào tạo giáo

15

Page 16: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

viên chuẩn bị đón thời cơ phát triển ngành giáo dục sau ngày giải phóng. Tuy số lượng trường lớp, học sinh trong vùng căn cứ và vùng giải phóng chưa nhiều, phong trào lúc lên, lúc xuống phụ thuộc vào tình hình của chiến trường, song nền giáo dục cách mạng đã được hình thành và xây dựng thành một hệ thống tổ chức hoạt động có hiệu quả từ các nhóm học tập, các lớp, các trường học kháng chiến. Những hoạt động này có ý nghĩa chính trị lớn, nhất là khơi dậy và hun đúc lý tưởng yêu nước, tinh thần cách mạng giải phóng dân tộc đối với học sinh trong vùng kiểm soát của địch.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, ngày 1-4-1975 Phú Yên gải phóng, đất nước thống nhất. Tháng 11- 1975, tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên được hợp nhất thành tỉnh Phú Khánh. Nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục trong những ngày đầu giải phóng lúc bấy giờ là tổ chức lại ngành giáo dục theo hệ thống mới, sử dụng đội ngũ giáo viên vùng mới giải phóng, tổ chức học tập thấm nhuần quan điểm, nguyên lý, phương châm, nội dung, phương pháp của nền giáo dục cách mạng, xóa bỏ những ảnh hưởng, tàn dư của nền giáo dục nô dịch của Mỹ ngụy. Đồng thời ngành giáo dục đã nhanh chóng mở các trường Sư phạm mẫu giáo, Sư phạm sơ cấp, trung cấp để đào tạo đội ngũ giáo viên mới đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.

Nhà trường mới, thầy giáo và học sinh là nhân tố quan trọng trong việc góp phần ổn định tình hình xã hội, xây dựng đời sống mới sau ngày giải phóng. Phong trào lao động xây dựng trường lớp, giúp đồng bào sửa lại nhà cửa bị tàn phá trong chiến tranh, đắp đường giao thông, khai mương sản xuất, giúp dân gặt hái mùa màng. Ngành giáo dục là lực lượng nồng cốt trong phong trào xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa. Nguyên lý giáo dục Xã hội chủ nghĩa, qua lao động tập thể, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất, học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã hội đã từng bước thấm nhuần trong quá trình đào tạo của nhà trường mới.

Cùng với sự phục hồi và phát triển của kinh tế, giáo dục Phú Yên phát triển nhanh chóng. Hệ thống tổ chức quản lý của giáo dục từ xã, huyện đến tỉnh bước đầu được tổ chức chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu của phong trào giáo dục thời kỳ mới. Các ngành học mầm non, cấp 1, cấp 2 được mở rộng khắp các buôn làng. Từng cụm xã trong huyện có trường cấp 3. Phong trào thi đua dạy thật tốt, học thật tốt, chất lượng

16

Page 17: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

giáo dục toàn diện học văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, công tác xã hội, công tác Đoàn Đội ở Bắc Phú Khánh (Phú Yên) phát triển vượt trội nhờ tiếp tục phát huy truyền thống giáo dục cách mạng trong 9 năm kháng chiến chống Pháp và trong thời kỳ chống Mỹ.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - năm 1986, Đại hội đổi mới nền kinh tế chuyển mô hình tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động sâu sắc đến sự phát triển giáo dục.

Dưới ánh sáng của Nghị quyết TW4 (khóa VII) và Nghị quyết TW2 (khoá VIII) của ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác giáo dục, quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” ngày càng được quán triệt sâu sắc đến của các cấp. Tháng 7-1993, Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Yên ra quyết định giao cho Sở Giáo dục quản lý toàn diện theo ngành trên địa bàn toàn tỉnh như quản lý về tổ chức, nhân sự, chuyên môn, tài chính và cơ sở vật chất. Nhờ thế hiệu quả quản lý, chất lượng giáo dục được tăng lên rõ rệt, mối quan hệ giữa Sở giáo dục với các địa phương ngày một chặt chẽ, nhịp nhàng, hiệu quả hơn.

Về bậc Tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh tiểu học, ngành đã chú trọng đổi mới phương pháp, đảm bảo giảng dạy đủ 9 môn học trong tất cả các trường tiểu học kể cả các môn hát, nhạc và mỹ thuật.

Về bậc Trung học cơ sở (THCS), thực hiện cuộc đổi mới về hệ thống giáo dục, việc tách bậc THCS ra khỏi bậc học phổ thông cơ sở (PTCS) trước đây, lúc đầu cũng gây ra một số khó khăn song ngành đã nhanh chóng khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, trường lớp, sách giáo khoa, giáo viên, nên quy mô học sinh PTCS (cấp 2) không những duy trì mà còn phát triển mạnh mẽ, tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học từ 28,3% (năm học 90 – 91) giảm xuống 2,3% (năm học 1998 – 1999) tổng số học sinh PTCS tăng gần gấp đôi từ 31.058 học sinh (1992 – 1993) tăng lên 59.356 học sinh (năm học 1998 – 1999).

Về bậc Trung học phổ thông (THPT), thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trường học, ngoài hệ thống các trường công lập, tỉnh đã mở thêm 4 trường THPT bán công, 2 trường THPT dân lập. Chất lượng học sinh THPT dần được nâng cao, cùng sánh vai với các tỉnh khu vực Nam Trung bộ, trường THPT chuyên Lương Văn Chánh vẫn giữ vững được truyền thống học giỏi,

17

Page 18: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

hàng năm đạt được nhiều giải cao trong kỳ thi Quốc gia và kỳ thi Olypic khu vực phía Nam và kỳ thi tuyển vào Đại học.

Trường học cho con em học sinh các dân tộc miền núi đã xây dựng được 1 trường nội trú cấp tỉnh và 3 trường cấp huyện và đã đào tạo được hàng trăm học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, đưa vào học đại học và các trường chuyên nghiệp để chuẩn bị đội ngũ cán bộ các ngành cho các dân tộc anh em.

Năm 1989, bộ phận giáo viên, sinh viên từ trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang chuyển về Phú Yên khi tái lập tỉnh đã cùng với trường Trung cấp Sư phạm Phú Yên làm nhiệm vụ đào tạo giáo viên đáp ứng đầy đủ yêu cầu giáo viên tiểu học và trung học cơ sở cho tỉnh. Tháng 9/1995 được Chính phủ quyết định nâng cấp thành trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên nằm trong hệ thống trường Đại học, Cao đẳng của cả nước. Năm 1998, tỉnh Phú Yên đã được nhà nước công nhận hoàn thành xóa nạn mù chữ và phổ cập tiểu học.

Sau 15 năm tái lập tỉnh và đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, ngành Giáo dục Phú Yên đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để xây dựng và phát triển giáo dục quốc dân rộng khắp từ thành phố đến đồng bằng, từ miền núi đến vùng duyên hải, gồm đủ các bậc học mầm non, tiểu học, trung học đến cao đẳng, với đa dạng loại hình trường lớp: công lập, bán công, tư thục; chất lượng giáo dục toàn diện dần được nâng cao. Phú Yên là một trong một số ít tỉnh trong cả nước sớm phủ kín môn ngoại ngữ; phong trào xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; nhân dân tích cực tham gia xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp trang thiết bị nhà trường được khang trang, đổi mới. Đến năm 2005, ngành giáo dục Phú Yên đã góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội tỉnh nhà.

18

Page 19: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

PHẦN THỨ NHẤT

GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1945

CHƯƠNG I GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX

I. KHÁI QUÁT GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC KHI PHÁP XÂM LƯỢCDân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu đời. Nền

giáo dục dân tộc đã đào tạo biết bao thế hệ người Việt Nam cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, giáo dục nước ta đã được sử dụng như một lợi khí để chống lại âm mưu đồng hóa các dân tộc Việt Nam của phong kiến phương Bắc. Trong thời kỳ này, nhà trường lúc đầu chỉ dành cho con em người Hán. Sau đó, dần dần cũng có một số người Việt thuộc tầng lớp trên được vào học. Giáo dục lúc đầu chỉ đào tạo một số quan lại làm tay sai cho chúng chứ không mở mang học vấn cho toàn dân.

Năm 938, với trận thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã chấm dứt thời kỳ thống trị của phong kiến phương Bắc một nghìn năm, khôi phục lại nền độc lập cho đất nước, mở đầu thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia thống nhất, độc lập và tự chủ. Triều đại nhà Ngô khai sáng và tiếp nối là các triều đại Đinh, Tiền Lê, tất cả đều chăm lo củng cố chính quyền, ổn định việc ngoại giao hơn nữa thời gian trị vì còn ngắn ngủi nên chưa lo được nhiều trong việc tổ chức giáo dục. Từ triều đại nhà Lý (1009-1225), vua Lý Thánh Tông (1054-1072), năm 1070 cho xây dựng Văn miếu thờ Đức Khổng Tử và môn đồ (thất thập nhị hiền) để tỏ lòng tôn sùng nho giáo. Năm 1076, Quốc Tử giám một kiểu trường Đại học đầu tiên ở Việt Nam được thành lập ở Kinh đô Thăng Long (Hà Nội), Văn miếu - Quốc Tử giám là một minh chứng tiêu biểu cho nền văn hiến Việt Nam.

Bước sang đời Trần, Nho giáo vẫn tiếp tục phát triển, song chưa chiếm được địa vị độc tôn- đạo giáo và phật giáo nhất là phật giáo còn có ảnh hưởng rất lớn đối với nhà nước. Năm 1246, vua Trần Thái Tông định lệ thi Tiến sĩ, cứ 7 năm một

19

Page 20: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

khóa thi. Trong khóa thi tiến sĩ đầu tiên năm 1427, quy định vị thứ trúng tuyển với tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Theo “Đại Việt Lịch triều đăng khoa lục”, đời Trần và đời Hồ đã tổ chức 16 kỳ thi đại khoa, lấy đỗ 497 Thái học sinh và Tiến sĩ.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, chấm dứt ách đô hộ của nhà Minh. Lịch sử dân tộc bước sang thời kỳ mới. Chế độ phong kiến tập quyền được xây dựng và củng cố vững mạnh. Nước Đại Việt bước vào thời kỳ hưng thịnh. Văn hóa dân tộc phát triển nhanh và đạt nhiều thành tựu rực rỡ, giáo dục biến chuyển nhanh, việc thi cử vào nền nếp.

Về tình hình giáo dục xứ Đàng trong (trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh), các chúa Nguyễn ở phương Nam do phải lo toan mở mang bờ cõi, tổ chức di dân khai khẩn đất đai, tổ chức chính quyền cai trị, tuyển mộ binh lính, dự trữ lương thực, đào hào đắp lũy để đối đầu với họ Trịnh, nên việc giáo dục ở xứ Đàng trong chưa được phát triển.

Cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung đã đưa ra nhiều chính sách tiến bộ trong đó có chính sách giáo dục. Xuất thân từ nông thôn, Nguyễn Huệ - vua Quang Trung không chịu nhiều ảnh hưởng đạo lý của nho học, tự nhận “sinh ra ở chốn hẻo lánh, học ở sự nghe trông” nên đã đứng về phía nhân dân mà sửa đổi việc học, cho lập “sùng chính thư viện” có nhiệm vụ:

* Coi sóc việc học trong nước, tiến cử nhân tài, tuyên truyền đạo học để rèn đúc nhân tâm. Chủ trưởng dạy người từ gốc, chú trọng những điều thiết thực. Đây là nét khác nhau và tiến bộ so với lối học từ chương khoa cử.

* Lấy chữ Nôm làm Quốc tự, dùng trong hành chính và giáo dục.* Dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, tự vua Quang Trung đọc kỹ các bản dịch

và góp ý phê bình thẳng thắn, biểu thị một tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong giáo dục.

* Ngay khi mới lên ngôi, vua Quang Trung đã ban “chiếu lập học” (xây dựng việc học). Nội dung có đoạn:

“Chiếu này ban xuống, dân các xã nên lập nhà học của xã mình. Chọn những nho sĩ có học, có đức hạnh trong xã, đặt làm chức giảng dạy để dạy dỗ học trò trong xã. Còn như Từ Vũ (Miếu Văn Thánh) của các phủ, sai dân địa phương trông nom. Đợi đến khi chọn được sẽ sai quan huấn đạo của phủ đến đặt làm trường giảng tập

20

Page 21: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

của phủ. Hạn trong năm nay mở khoa thi Hương, lấy tú tài hạng ưu vào trường Quốc học, hạng thứ thì đưa về học Phủ. Những người đỗ Hương cống của triều đại cũ chưa được bổ nhiệm thì phải đến đợi tại Triều để bổ sung vào các chức Huấn đạo, Tri huyện. Các nho sinh và sinh đồ cũ, tất cả đều được đợi đến kỳ thi để vào thi. Loại ưu thì được vào tuyển, loại kém thì trả về trường học của xã. Các “sinh đồ ba quan (dốt nát) tất cả phải trả về hạng thường dân để cùng gánh vác phu phen tạp dịch với dân. Từ nay về sau các xã có đặt chức giảng dạy thì phải nộp danh sách cho quan huyện để chuyển di lên quan ở triều đình cấp bằng, khiến cho họ biết sự khích lệ của trẫm”13.

Nội dung tờ chiếu về giáo dục của triều Tây Sơn cho ta thấy ý nghĩa cải cách lớn lao trong quan điểm, đối tượng, nội dung và phương pháp giáo dục là rất tiến bộ trong lịch sử giáo dục Vệt Nam.

Thế kỷ XIX bắt đầu với triều đại nhà Nguyễn (Gia Long- 1802) lật đổ triều đại Tây Sơn, lên ngôi vua đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Áp dụng kinh nghiệm nhà Lê, các vua nhà Nguyễn đã nhận thức vai trò quan trọng của Nho giáo trong công việc xây dựng và củng cố chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế, tổ chức và phát triển giáo dục trên nền tảng nho học.

Hệ thống trường học ở các tỉnh được thành lập. Trường phủ có Giáo thụ, trường huyện có Huấn đạo, trường tỉnh hay đạo có Đốc học làm nhiệm vụ quản lý việc học của dân trong hạt và việc giảng dạy ở các trường. Đến năm 1807, khóa thi Hương đầu tiên được tổ chức lấy đỗ 61 hương cống. Từ năm 1825, dưới triều vua Minh Mệnh người đỗ hương cống được gọi là Cử nhân, người đỗ sinh đồ là Tú tài. Triều Nguyễn không lấy đỗ Trạng nguyên.

Từ 1829 lấy người thi Hội đỗ đầu là Tiến sĩ, dưới là Phó bảng (khóa thi Hội cuối cùng năm 1919 đỗ 7 tiến sĩ và 16 phó bảng). Dưới thời Nguyễn coi trọng phát triển giáo dục nho học nên đã có nhiều công trình học thuật về sử địa, hội điển, hiến chương… có chất lượng tốt và nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm có giá trị.

* Về phương pháp học tập của nền giáo dục phong kiến là kinh viện, giáo điều, hầu như tin tưởng tuyệt đối vào những lời dạy trong tứ thư, ngũ kinh. Hình thức làm bài phải tuân theo những qui tắc chặt chẽ, gò bó, máy móc theo luật bằng

13 Do Ngô Thì Nhậm thảo ghi trong “Hàn các Anh Hoa” (Đỗ Thị Hảo dịch)21

Page 22: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trắc, niêm luật đối câu, đối chữ. Trong các kỳ thi phải gò theo các qui tắc nghiêm ngặt, nhất là không được “phạm húy”.

* Về hệ thống nhà trường, dưới thời phong kiến nước ta bao gồm cả trường công và trường tư. Trường công được tổ chức ở Kinh đô, tỉnh và phủ, huyện. Quốc Tử giám lập ở Kinh đô, là trường công cao nhất. Trường tư được tổ chức khắp nơi.

* Về chế độ thi cử, tùy từng thời kỳ lịch sử được thể hiện khác nhau, nhưng nhìn chung có thể khái quát nền giáo dục phong kiến có 2 chế độ thi thông dụng: Thi Hương (ở tỉnh và liên tỉnh) và thi Hội – thi Đình (ở Kinh đô)

Nền giáo dục phong kiến nước ta đã tồn tại gần một ngàn năm lịch sử, có những đóng góp không nhỏ đối với việc phát triển nền văn hóa dân tộc.

Ở những giai đoạn nhất định của lịch sử, giáo dục nho học đã góp phần cũng cố và phát triển nhà nước phong kiến Việt Nam. Nhà nước phong kiến coi trọng giáo dục, bồi dưỡng tuyển chọn hiền tài, trọng dụng nho sĩ, coi trọng luân lí, lễ nghĩa đã góp phần cơ bản vào xây dựng nền đạo đức xã hội, phát triển truyền thống hiếu học của dân tộc.

Nền giáo dục cũ dẫu có nhiều hạn chế về mục tiêu, nội dung phương pháp dẫn đến những hạn chế về tác dụng xã hội. Song với tinh thần dân tộc, ý thức tự cường tự chủ của các triều đại phong kiến Việt Nam đã học tập và rút ra từ Nho học những yếu tố tích cực phù hợp với yêu cầu dựng nước, giữ nước cùng với truyền thống văn hóa dân tộc mà vun bồi cho nền văn hiến Việt Nam.

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1885 2.1. Hình thức tổ chức

Về tổ chức giáo dục, trường Tỉnh có quan Đốc học phụ trách, trường Phủ có Giáo thụ, trường Huyện có Huấn đạo. Học sinh tuổi nhỏ được học “khai tâm” từ các thầy đồ để tập nghe, tập đọc, tập viết chữ từ những bài học vỡ lòng (tam tự kinh, nhất thiên tự, tam thiên tự, ấu học quỳnh lâm, minh đạo gia huấn, minh tâm bửu giám). Các trường phủ, trường huyện, trường tỉnh được học các bộ sách kinh điển Nho giáo: Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử (trong chương trình cải cách 1908 học thêm chữ Quốc ngữ, Nam sử và có cả tiếng Pháp (tình nguyện) để đủ tiêu chuẩn năng lực được tuyển dự thi Hương. Sinh đồ Phú Yên dự thi Hương ở trường thi Gia Định, hoặc Thừa Thiên, sau tập trung về trường thi Bình Định (ngày xưa nhà giàu mới có

22

Page 23: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

điều kiện mời thầy giỏi phương xa đến như ở Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và nhiều nhất là thầy xứ Nghệ làm gia sư).

Năm 1813, triều đình Huế cho mở 2 trường thi hương tại Quảng Đức và Bình Định, sĩ tử Phú Yên ứng thí tại trường thi Bình Định và được hưởng quyền lợi cấp lương đi đường.

Do việc học ở Phú Yên ngày càng phát triển, năm Minh Mạng thứ 3 (tháng 7-1823), trấn Phú Yên được triều đình cho đặt chức Đốc học (Ông Phạm Vũ Phác là Đốc học đầu tiên)14. Tại phủ đặt 1 Chánh thất phẩm Giáo thụ. Mỗi huyện có 1 Chánh bát phẩm Huấn đạo để chuyên lo việc học trong địa phương. Đối với tổng, xã, chọn 2- 3 người có học lực khá, tuổi từ 50 trở lên làm đơn trình huyện, phủ và trấn xét cấp văn bằng để dạy bậc sơ học.

Năm 1823, vua Minh Mạng cho dựng nhà học ở phủ và huyện. Theo quy định của Bộ Công, nhà học ở phủ - huyện gồm 1 tòa 3 gian 2 chái. Nhà học ở phủ dài 4 trượng 4 thước, ngang 3 trượng 1 thước. Nhà học ở huyện dài 3 trượng 9 thước 2 tấc, ngang 2 trượng, 6 thước, 4 tấc. Với quy mô nhà học như trên, số lượng học trò được học ở trường không nhiều. Do vậy, các ông đồ, nho sĩ thường mở trường dạy tư, trình độ học trò phụ thuộc vào kiến thức và cách dạy của từng thầy.

Tự Đức thứ 1(1848), sĩ tử Phú Yên tăng lên gấp đôi, triều đình đặt lại chức Đốc học.  Tự Đức thứ 2 (1849) giảm 1 Giáo thụ phủ Tuy An. Tự Đức thứ 5 (1852) cho đặt trường Bình Định, lấy sĩ tử ở Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên vốn thi chung trường Thừa Thiên và sĩ tử ở tỉnh Khánh Hoà vốn thi chung trường Gia Định nay thi tại trường Bình Định.

Chức học quan hàng đầu chăm lo việc giáo dục của tỉnh Phú Yên từ đời Minh Mạng đến đời Tự Đức cũng có nhiều lần thay đổi.

Hai năm sau đốc học Phạm Vũ Phác thăng lên thiêm sự bộ Lễ. Ông Bùi Tuấn Tuyển, tri phủ Đoan Hùng, được cử làm đốc học Phú Yên. Năm 1828, đốc học Phú Yên là Lê Nguyên Trung. Giáo thụ Thái Bình là Bùi Xuân Bảng được cử làm đốc học Phú Yên thay Lê Nguyên Trung (thăng lên Viên ngoại thị lang – trung bộ Hộ). Năm 1831, giáo thụ Nam sách là Phạm Gia Lâm giữ chức đốc học Phú Yên15.

Từ năm 1832, vì số lượng học sinh Phú Yên ít nên triều đình Huế đã bỏ chức đốc học, đặt giáo thụ giảng dạy tại trường tỉnh. Đến năm 1846, do phát triển sĩ số 14 Quốc Sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục, T2. NXB Giáo dục, 2003, tr.297.15 Quốc Sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục.. sđd.

23

Page 24: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

khá cao tại huyện Tuy Hòa theo lời tấu trình của tỉnh thần, triều đình Huế chuẩn y, đặt chức huấn đạo huyện Tuy Hòa. Năm 1847, triều đình Huế đã có chỉ dụ cho bộ Lại và bộ Lễ: “việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình, cho nên các tỉnh đều đặt chức đốc học… duy có các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận ở tả kỳ và các tỉnh duyên biên ở Bắc Kỳ chưa đặt chức ấy… nay văn phong ngày một chấn khởi, nên mở rộng việc tác thành nhân tài, hạt nào nên đặt hay chưa nên đặt đều chiếu theo sĩ số nhiều hay ít để thỏa nghị tâu lên …”. Kết quả năm ấy, giáo dục Phú Yên phục hồi chức đốc học. Tám năm sau, năm 1853, tỉnh Phú Yên lại đổi thành đạo Phú Yên chức đốc học phải đặt lại chức giáo thụ. Năm 1875 đời vua Tự Đức thứ 28 lại thăng lên thành tỉnh Phú Yên, và chức đốc học được tái lập.

2.2. Giáo dục dân gian từ trong quần chúng lao động“Ví dầu cầu dán (ván) đóng đinh,Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi,Khó đi mẹ dắt con đi,Con đi trường học, mẹ đi trường đời!”

Lời ru thiết tha, dìu dặt đưa con vào giấc ngủ phải chăng đã nói lên tự đáy lòng người mẹ Việt Nam mong muốn và quyết tâm nuôi dạy con mình nên người mà tự nhiên còn khái quát được cả một nguyên tắc, phương châm của một nền giáo dục bình dân với sự kết hợp giữa trường học và trường đời, giữa hoạt động giáo dục trong thực tiễn đời sống với hoạt động dạy và học trong nhà trường.

Qua quá trình lao động, trao đổi kinh nghiệm sống với nhau, nhân dân lao động đã sáng tạo ra tri thức. Các thế hệ người nối tiếp truyền đạt tri thức cho nhau. Sự giáo dục dân dã của quần chúng lao động có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và sự tiến bộ của xã hội buổi đầu.

Trong thời kỳ phong kiến, các tỉnh dẫu có trường học lập ở phủ, ở huyện nhưng 99% nhân dân lao động vẫn bị mù chữ. Một nền giáo dục dân gian thể hiện từ gia đình, từ cuộc sống cộng đồng và quá trình lao động của bản thân. Thầy giáo là ông bà, cha mẹ, anh chị em, những người trong thôn xóm. Phương châm giáo dục của người bình dân xuất phát từ tình thương và trách nhiệm. Cha mẹ không chỉ có lòng thương, sự quán xuyến mà họ tìm ra các sáng kiến, các biện pháp giáo dục, giáo dưỡng thiết thực nhất để con cháu nên người.

24

Page 25: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Văn học dân gian, chuyện cổ tích, ca dao tục ngữ là kho sách giáo khoa đồ sộ, phong phú và toàn diện. Câu chuyện kể của bà, lời hát ru của mẹ, mang sâu sắc nội dung giáo dục đạo đức, tình cảm cho trẻ, truyền đạt một cách nhẹ nhàng, sinh động những kinh nghiệm sống, cách xử thế, kiến thức về quê hương, đất nước, con người.

2.3. Hệ thống trường học ở Phú YênTrường tỉnh ở Phú Yên đầu tiên được thành lập từ thời vua Gia Long, trường

tọa lạc tại làng Ngân Sơn (nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An).Năm 1846 (Thiệu Trị năm thứ 6), trường phủ Tuy An được thiết lập tại làng

Hội Phú (nay thuộc xã An Ninh, huyện Tuy An). Cùng năm, trường phủ Tuy Hòa thành lập tại làng Đông Phước (nay thuộc xã

Hòa An, huyện Phú Hòa).Năm 1847 (Thiệu Trị năm thứ 7), trường tỉnh được dời về làng Long Uyên,

sau đó chuyển ra làng An Thổ cũng đều thuộc địa phận huyện Tuy An ngày nay. 2.4. Những nhà khoa bảng ở Phú Yên

Dưới thời chúa Nguyễn, Phú Yên là vùng đất mới chưa ổn định, việc giáo dục khoa cử ở đây cũng chưa được đi vào nề nếp, người đi học chưa nhiều, người dự khóa thi rất ít.

Việc đặt ra chế độ khoa cử ở Đàng Trong đã đánh dấu bước tiến về Nho học cũng như sự trưởng thành đội ngũ quan lại của thời chúa Nguyễn. Việc thi cử này tuy mới chỉ dừng ở mức khảo thí quan lại đang làm việc chứ chưa đào tạo tuyển dụng được nhiều quan lại mới. Các quan lại đứng đầu phủ Phú Yên, huyện Đồng Xuân và huyện Tuy Hòa là những người trúng cách trong số 62 người đậu các kỳ thi Chính đồ. Đông đảo thuộc lại của ba ty ở dinh Trấn Biên, thuộc lại của các cấp trong phủ Phú Yên là những người trúng cách trong số 146 người đậu các kỳ thi Hoa văn.

Phú Yên là phủ mới lập, ở xa Chính dinh nên người đi học khó khăn và đi thi thì không nhiều, nên sách Đại Nam nhất thống chí chép là “ít người chuyên theo việc học”.16

Thời chúa Nguyễn, người Phú Yên ra thi ở Chính dinh và đỗ đạt cao là Bạch Doãn Triều, quê ở huyện Đồng Xuân. Ông là người đỗ đầu kỳ thi Hương năm Mậu Tý (1768), sách Đại Nam thực lục chép rõ là “người đương thời cho là xứng đáng”17. Sau khi thi đỗ, Bạch Doãn Triều được bổ ngay làm Tri huyện Đồng Xuân, 16 . Đại Nam nhất thống chí, Sđd, tr.13.17 . Đại Nam thự lục, Sđd, tr.172.

25

Page 26: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

phủ Phú Yên. Dưới triều Tây Sơn, tuy quá ngắn ngủi tình hình xã hội không được ổn định

song việc học hành thi cử cũng đã được quan tâm. Năm 1789 khoa thi đầu tiên được mở gọi là khoa Minh kinh. Hạng ưu khoa thi này là Phan Văn Biên, người huyện Tuy Hòa phủ Phú Yên. Sau kỳ thi đó ông được bổ làm huấn đạo ở Phú Yên.

Dưới thời nhà Nguyễn học trò Phú Yên được tạo điều kiện học tập, thi cử, nhưng không có người nào vào Điện thí. Từ khoa Đinh Mão, Gia Long thứ 6 (1807) đến khoa Ất Dậu, Hàm Nghi thứ 1 (1885) có 34 khoa thi Hương, Phú Yên có 15 người đậu cử nhân, đó là:

- Lê Đức Ngạn: người xã Cự Lộ, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân tại trường thi Gia Định, khoa Tân Tỵ, Minh Mạng năm thứ 2 (1821).

- Nguyễn Văn Thạnh, người xã Định An, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân tại trường Thừa Thiên, khoa Tân Mão, năm Minh Mạng thứ 12(1831).

- Nguyễn Duy Hiển: người xã Ngân Sơn, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân tại trường thi Thừa Thiên, khoa Giáp Ngọ, năm Minh Mạng thứ 15 (1834).

- Đào Tấn Tú: người xã Phú Lộc, huyện Tuy Hòa, đậu Cử nhân tại trường thi Thừa Thiên, khoa Tân Sửu, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841).

- Phạm Mẫn: người xã Tân Thạnh, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân tại trường thi Thừa Thiên, khoa Đinh Mùi, năm Thiệu Trị thứ 7 (1847).

- Nguyễn Hữu Thành: người huyện Tuy An, đậu Cử nhân tại trường thi Gia Định, đứng từ 9/17 tân khoa, khoa Kỷ Dậu, năm Tự Đức thứ hai (1849). Nguyễn Hữu Thành được bổ nhiệm làm Bố chánh Quảng Bình, bị can án, nhưng sau được bảo lưu và làm việc ở viện hàn lâm điển tịch.

- Mạnh Thế Tuyển: người xã Yên Thành, huyện Đồng Xuân, đậu cử nhân tại trường thi Thừa Thiên, khoa Canh Tuất, năm Tự Đức thứ 3 (1850).

- Đoàn Văn Diệu: người xã Cửu An, huyện Đồng Xuân, đậu cử nhân tại trường Bình Định, khoa Ất Mão, năm Tự Đức thứ 8 (1855).

- Lê Quan Quang: người xã Thạch Khê, huyện Đồng Xuân, đậu cử nhân tại trường thi Bình Định, đồng khoa với Đoàn Văn Diệu khoa Ất Mão, năm Tự Đức thứ 8 (1855).

26

Page 27: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

- Nguyễn Đăng Dinh, người xã Phương Đài, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân trường Bình Định, khoa Canh Ngọ, năm Tự Đức thứ 23 (1870).

- Trần Khải Địch, người xã Diêm Trường, huyện Đồng Xuân, đâu Cử nhân trường Bình Định, khoa Quý Dậu, năm Tự Đức thứ 26 (1873).

- Trần Kỳ Phong, người xã Xuân Đài, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân khoa Bính Tý trường Bình Định, năm Tự Đức thứ 29 (1876).

- Nguyễn Phong, người xã Mỹ Phú, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân trường Bình Định, Ân khoa Giáp Thân, năm Kiến Phúc thứ 1 (1884).

- Đặng Châu, người xã Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, đậu Cử nhân trường Bình Định, khoa Ât Dậu, năm Hàm Nghi thứ 1 (1885)18.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” đã nhận xét về đời sống của người dân Phú Yên thời xưa: “nghề nghiệp sinh nhai có đủ 4 hạng: sĩ, nông, công, thương. nhưng ít người chuyên việc học, duy có làm ruộng là khá đắc lực… những sản phẩm của các nghề thợ thì thô vụng, dân tục chất phát, thuần hậu”19. Trong cuốn “Non nước Phú Yên”, một tác phẩm có nhiều giá trị về biên khảo địa phương chí Phú Yên của Nguyễn Đình Tư đã nêu cảm nghĩ của tác giả về thiên nhiên, đời sống kinh tế - văn hóa của Phú Yên buổi đầu như sau: “Đèo cao, núi rậm, biển rộng bao la, đường đi ra khỏi tỉnh thật muôn vàn khó khăn nên người dân Phú Yên từ lâu đã nuôi sẵn tinh thần an phận thủ thường, sống theo nề nếp thanh đạm không có sẵn hoài bão to tát miễn sao được yên ổn làm ăn là đủ. Vì vậy, ngày xưa người dân Phú Yên ít ai nghĩ đến việc xuất tỉnh làm ăn hay học hành. Do đó, mà nhân tài không có cơ hội phát triển, văn hóa bị đình trệ”.

Trong Hồi ký “Một cuộc đời” của Trần Sĩ, một nhà giáo lão thành đã kiên trì liên tục cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển giáo dục Phú Yên qua các thời kỳ lịch sử, viết về đất nước - con người Phú Yên ngày xưa: “Trong thời kỳ Hán học, các bậc nho sĩ Phú Yên, mặc dù ở trong hoàn cảnh, không thuận lợi: xa kinh đô, xa trường thi, thiếu phương tiện giao thông song các cụ cũng vượt được mọi trở ngại ra đi tìm đường học đạo để cầu tiến, nuôi chí lớn, vì giang sơn xã tắc. Nhiều cụ đã từng vận động dân chúng hưởng ứng các phong trào kháng Pháp như: “Cần vương, văn thân, duy tân, phong trào giảm sưu xin thuế và đã giữ tròn tiết tháo của

18 Cao Xuân Dục, Quốc triều Hương Khoa lục, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993.19 Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán (1964), "Tỉnh Phú Yên”, Đại Nam nhất thống chí, tập 10, Bộ Quốc gia Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, tr.13.

27

Page 28: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

các bậc chân nho như các cụ Nguyễn Hào Sự, Võ Thiệp và nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa chống Pháp của cụ Tú Phương. Tuy cuộc khởi nghĩa không thành công nhưng đã ghi một trong những trang lịch sử bi hùng của dân tộc. Vậy sao có thể nói người dân Phú Yên mang sẵn tinh thần an phận thủ thường được!”.

CHƯƠNG II GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI KỲ PHÁP THUỘC (1885-1945)

I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRONG CẢ NƯỚCSau khi chiếm được đất Nam Kỳ (1867), thực dân Pháp liền bãi bỏ nền giáo

dục Nho học, chấm dứt chế độ giáo dục và thi cử triều Nguyễn ở Nam Kỳ. Chúng 28

Page 29: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

mở ngay lớp dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp để đào tạo một số người làm công cụ phục vụ cho âm mưu xâm lược của chúng .

Thực dân Pháp tiếp tục đánh chiếm Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào những năm 1872-1873 và 1882-1883 để buộc triều đình nhà Nguyễn ký hàng ước Harmand (1883) và Patenotre (1884). Bắc Kỳ và Trung Kỳ từ sau năm 1884 trở thành đất “bảo hộ” của Pháp.

Thực dân Pháp coi giáo dục là một công cụ quan trọng để chinh phục thuộc địa. Mục tiêu chủ yếu của nhà trường thực dân là đào tạo một số công chức, nhân viên, công nhân cho bộ máy cai trị, cho các cơ sở kinh doanh của các nhà kỹ nghệ, của các thương nhân và chủ đồn điền. Chủ trương nhất quán của thực dân Pháp ở Đông Dương là thi hành “chính sách ngu dân”. Tháng 3 năm 1906 , Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Hội đồng hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (conseil de perfectionnement de l’enseignement indigène) nhằm nghiên cứu cải tổ nền giáo dục thuộc địa. Thực dân Pháp chính thức ra lệnh bãi bỏ giáo dục nho học phong kiến ở Bắc Kỳ năm 1915 và ở Trung Kỳ năm 1919. Năm 1924, Toàn quyền Merlin công khai tuyên bố quan điểm giáo dục và tiến hành một “chương trình phát triển giáo dục theo chiều nằm ngang, chứ không phải theo chiều đứng”. Bởi ông lập luận rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt Nam không có khả năng học hết bậc sơ học .

Ngày 30-10-1906, Pháp ra nghị định thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp Việt ở Trung Kỳ, cho phép mở rộng bậc Tiểu học Pháp – Việt, đặt thêm bậc Tiểu học bổ túc và sửa lại nền Hán học cũ. Về bậc học được chia thành 3 bậc như sau:

- Bậc Tiểu học ở phủ, huyện dạy chữ Hán, Quốc ngữ và tiếng Pháp là môn tình nguyện.

- Bậc Trung học ở tỉnh dạy chữ Hán, Quốc ngữ và tiếng Pháp bắt buộc.Học sinh tốt nghiệp bằng Primaire mới được thi tuyển vào trường Trung học

(Còn gọi Cao đẳng Pháp - Việt). Bậc học này gồm có 2 cấp: Cao đẳng Tiểu học và Tú tài. Trường Trung học Pháp - Việt mỗi tuần có 27 giờ 30 phút lên lớp. Trong đó có 12 giờ dạy tiếng Pháp, 8 giờ dạy các môn toán, lý, hóa; chữ Nho dạy không quá 3 giờ trong tuần. Tất cả các môn học đều dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ, riêng hai môn Hán văn và Việt văn giảng dạy bằng tiếng Việt. Thời gian đào tạo là 4 năm (Nhất niên, nhị niên, tam niên và tứ niên). Học sinh học xong năm thứ tư học sinh thi lấy bằng Diplome (Cao đẳng Tiểu học), sau đổi là Thành chung.

29

Page 30: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

+ Ở Bắc Kỳ : lycée albert saraut, lycée protectorat (trường Bưởi) collège de jeunnes filles (Trưng Vương ), collège de Nam Đinh .

+ Ở Trung Kỳ : có Lycée Khải Định, Lycé Yersin, có Collège de Vinh, collège de Thanh Hoa , collège dejeunnes filles Đồng Khánh, collège de Qui Nhơn.

+ Ở Nam Kỳ: có Lycée chasseloup laubat , Lycé Pestrus Ký, collège de jeunnes filles Gia Long, collège de Can Thơ, collège de My Tho.

Đến khóa học tháng 4-1913, “Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ” quyết định bỏ việc học chữ Hán trong các trường Pháp - Việt ở bậc Tiểu học và Trung học (còn gọi Bổ túc văn hóa) ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Cùng với việc dạy tiếng Pháp ở các trường Tiểu học và Trung học Pháp – Việt, ngày 11-10-1915, Khâm sứ Trung Kỳ ra nghị định thiết lập qui chế ngạch bậc giáo viên người Việt đang giảng dạy tại Trung Kỳ. Nghị định quy định: “Người có bằng Tiểu học Việt – Pháp mới được dạy ở các lớp dự bị; người có bằng Thành chung, bằng Cao đẳng tiểu học, bằng Trung học mới được dạy Tiểu học”20. Tuy nhiên những giáo viên dạy học phải qua một thời gian tập sự tại các trường do giáo viên người Pháp làm Hiệu trưởng. Trong thời gian tập sự, giáo viên phải thường xuyên bổ túc kiến thức vào dịp hè hoặc đi nghe các buổi thuyết trình về phương pháp sư phạm.

Trong diễn thuyết năm 1917, A. Sarraut cho rằng: “Việc mở mang giáo dục có lợi ích to cho đường yên ổn, lại còn có một cái to nữa là nhờ đó mà luyện tập được những người giúp việc giỏi, có tài, có học, có giá trị hơn để ra công giúp sức với chúng trong việc chính trị, việc hành chính, cũng là các trường hợp khác nữa”213. Nhưng thực chất của nó là thực dân Pháp muốn dìm dân ta trong vòng thất học, ngăn chặn mọi ánh sáng tiến bộ bên ngoài vào nhà trường. Chính sách giáo dục trước sau như một của thực dân Pháp đối với nhân dân ta là biến học sinh thành những người vong bản, xa rời nhân dân, quên hết quá khứ vinh quang và truyền thống anh dũng của dân tộc mình; chỉ biết hàm ơn và phục tùng chúng; cung cấp cho họ một ít hiểu biết vừa đủ để làm được viên chức thừa hành hạng nhỏ, đó chính là mục đích của giáo dục thực dân đối với nhân dân ta.

20 Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918, Sđd, tr.358.21 Dẫn theo: Nguyễn Thế Anh: Vài nét về giáo dục Việt Nam từ sau Đại chiến thế giới thứ nhất đến trước Cách mạng Tháng Tám, Tạp chí NCLS, số 102, 1967, trang 30.

30

Page 31: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Nhằm đẩy mạnh việc dạy và học trên toàn xứ Đông Dương, ngày 21-12-1917, Toàn quyền Đông Dương - A. Sarraut đã ban hành Nghị định: “Qui chế chung về giáo dục ở Đông Dương”2, đương thời gọi là “Học chính tổng quy” (Règlement Général de L’Instruction publique). Đây là đợt cải cách giáo dục lần thứ hai tiếp theo cuộc cải cách giáo dục của Toàn quyền Pôn-Be năm 1906. Riêng ở Việt Nam, Pháp cho phép mỗi xã mở một trường công bậc Tiểu học Việt – Pháp dành cho con trai, nhưng với điều kiện xã đó phải có tổng số người nộp thuế là 500 người. Trường hợp số người đóng thuế do nhiều xã nhập lại mới đủ 500 thì các xã đó hợp lại mở một trường chung. Pháp cho phép mỗi tỉnh mở một trường công bậc Tiểu học dành riêng cho con gái, nhưng nếu chưa đủ điều kiện mở trường cho con trai và gái riêng thì có thể nhập chung thành 1 trường, nhưng phải tổ chức cho con trai, con gái học riêng. Nơi nào đủ điều kiện mở trường thì phải làm đơn xin phép chính quyền cấp trên và chỉ khi có giấy phép mới được mở trường. Các chi phí cho việc xây dựng, mua sắm thiết bị, trả lương giáo viên đều do làng xã đóng góp.

Để thực hiện Nghị định này, Pháp tổ chức hệ thống bậc học ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ thành 2 bậc học:

1. Bậc Sơ học- Lớp Đồng ấu (7 tuổi) còn gọi là lớp Năm (Cours enfantin)- Lớp Dự bị (8 tuổi) còn gọi là lớp Tư (Cours Préparatoire) .- Lớp Sơ đẳng tiểu học (8 tuổi) còn gọi là lớp Ba (Cours Elémentaire)

Bậc học này thường được áp dụng ở các trường, xã, thôn, dạy quốc ngữ, quốc văn, toán, từ lớp đồng ấu đã được học tiếng Pháp (tùy trường có thầy giáo). Học sinh học hết lớp ba rồi thi lấy bằng sơ học yếu lược (Primaire Elémentaire).

2. Bậc Tiểu học- Lớp nhì năm thứ nhất (lớp nhì nhỏ)- Lớp nhì năm thứ hai ( lớp nhì lớn)- Lớp nhất (Cours Superieur).

Cuối năm lớp nhất, học sinh phải thi lấy bằng Tiểu học Pháp - Việt hay Sơ đẳng Tiểu học, gọi Pháp - Việt sơ học văn bằng (Certificat d’Etudes Primaire Franco – Indigène) viết tắt là CEPFI.

Việc giảng dạy các lớp cuối cấp (lớp nhì và lớp nhất) hoàn toàn dùng tiếng Pháp. Trường nào mở đủ 5 lớp đó gọi là Trường Tiểu học toàn cấp (École Primaire

31

Page 32: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

de plein exercice). Trường nào mở không đủ 5 lớp đó gọi là Trường Sơ đẳng Tiểu học (École Primaire Élémentaire). Pháp cho phép mỗi tỉnh được mở ít nhất 1 trường Tiểu học toàn cấp. Nam nữ giáo viên thuộc trường công bậc Tiểu học Pháp - Việt do Thống đốc hay Thống sứ, Khâm sứ bổ dụng theo đề nghị của Đốc học bậc Tiểu học.

Bậc Cao đẳng tiểu học (tương đương lớp 7 hệ 9 năm , hay lớp 9 hệ 12 năm), cao đẳng tiểu học phải qua 4 năm học. Trường học mở ở các thủ phủ ba xứ và ở các tỉnh lỵ lớn. Nội dung chương trình có các môn học như trước nhưng cao hơn, khó hơn, được diễn giảng toàn bằng tiếng Pháp và được dạy thêm một ít văn học Việt Nam. Thi tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học được cấp bằng “thành chung » (Diplome d’études primaires supérieures).

Trong những năm sau 1930, nhằm xoa diệu tinh thần đầu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp cho phép người Việt mở trường tư. Bởi vậy số trường và số học sinh có tăng lên , nhưng tỉ lệ học sinh so với dân số vẫn rất thấp. Những năm 1936-1937 thời điểm xứ Đông Dương có vẻ thịnh vượng nhất thì bức tranh giáo dục vẫn nhỏ bé và non yếu. Cả nước có 2322 trường sơ học, tức cứ 3.000 người dân thì có 1 trường sơ học với tỷ lệ 2% dân số được đi học. Bậc tiểu học 638 trường với tỷ lệ cứ 29.329 người có 1 trường tiểu học và 0,4% dân số được đi học. Bậc Cao đẳng tiểu học có 16 trường bình quân cứ 1.169.519 người dân thì có 1 trường với 0,05% dân số được học22.

Như vậy ta thấy rất rõ “phát triển giáo dục theo chiều hướng nằm” không có nghĩa là chính quyền thực dân chỉ chú ý việc mở mang việc học ở cấp thấp cho dân chúng, mà thực chất là hạn chế phát triển giáo dục đối với dân bản xứ.

Cùng với chủ trương không truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ, thực dân Pháp còn đưa vào nhà trường một nội dung giáo dục mang tính chất thực dân. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính được sử dụng trong giảng dạy và học tập. Nhà trường tách rời với cuộc sống thực tế .

Học sinh ra trường không thông thạo tiếng mẹ đẻ. Người Pháp âm mưu cắt đứt mọi giá trị văn hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc, đề cao văn hóa văn minh Pháp với những ngôn từ hào nhoáng như “khai hóa”, ‘văn minh”, “tự do” nhằm tạo ra một lớp người lai căn, mất gốc, phục tùng “nước mẹ đại Pháp », quên đi thân phận kẻ mất nước đang làm nô lệ cho thực dân Pháp .

22 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo 1945-1995. NXB Bộ Giáo dục, 1995, tr.14.32

Page 33: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tuy nhiên, về mặt khách quan, nền giáo dục Pháp - Việt đã thay thế nền giáo dục phong kiến lạc hậu, mang lại cho giáo dục Việt Nam những yếu tố tích cực, về khoa học tự nhiên, về khoa học nhân văn, xã hội, về nền văn hóa tư sản Pháp. Những khái niệm về “tự do”-“bình đẳng”-“bác ái" được học sinh Việt Nam tiếp thu theo một quan điểm mới, đã khơi dậy trong họ những ý tưởng mới, tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc độc lập, tinh thần đấu tranh, giải phóng đất nước thoát ách nô lệ. Nhiều người trong số họ đã trở thành những chiến sĩ cách mạng, những đảng viên Đảng cộng sản kiên cường lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc.

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI KỲ PHÁP THUỘC (1885 - 1945) 2.1. Số trường - lớp Năm Thành Thái thứ 11 (1899), triều đình Huế mở 4 trường công dạy Hán

học ở Phú Yên gồm: trường Tỉnh học ở An Thổ (nay là xã An Dân, huyện Tuy An), sau dời ra Sông Cầu, có đặt quan Đốc học; trường Phủ học Tuy An ở làng Hội Phú (nay là xã An Ninh Tây, huyện Tuy An), có chức Giáo thụ; trường Huyện học Đồng Xuân ở thôn Khoan Hậu (nay thuộc xã Xuân Thọ I, huyện Sông Cầu), có chức quan Huấn đạo; trường Huyện học Sơn Hòa ở làng Củng Sơn (nay là thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa), có chức quan Huấn đạo.

Đến năm 1900 tòa Công sứ Pháp và dinh quan tỉnh Phú Yên dời từ Tuy An ra Sông Cầu - thủ phủ mới của tỉnh. Trường học cũng được dời ra thôn Long Bình (nay thuộc thị xã Sông Cầu - huyện Sông Cầu).

Năm 1909, Pháp mở một trường Tiểu học toàn cấp ở Sông Cầu, nơi đóng tỉnh lỵ Phú Yên với tổng số 33 học sinh và 1 giáo viên người Việt.

Năm 1912, Pháp mở thêm trường Tiểu học Pháp-Việt ở Củng Sơn và Tuy Hòa. Trường Pháp - Việt Củng Sơn có 1 giáo viên người Việt và 7 học sinh. Trường Pháp - Việt Tuy Hòa có 1 giáo viên người Việt với 15 học sinh.

Những năm đầu thế kỷ XX, có những người giữ chức Đốc học tỉnh Phú Yên như Nguyễn Trác (1900-1902), Đào Phan Duân (1903-1906), Phạm Văn Chất (1907-1913), Phan Võ (1913-1919)23.

Một số làng mở trường tư, trường Ấu học do thầy đồ dạy tại tư gia, từ vỡ lòng cho đến khi đọc sách được thì vào trường Huấn, Giáo, Đốc (trường huyện, trường phủ, trường tỉnh). Thầy đồ thường từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam vào

23 “Province de Phu Yen", Annuaire general de l' Indochine, année 1900 – 1930. 33

Page 34: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

dạy. Các gia đình khá giả cho con đi học tại Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên. Học ở trường phủ, huyện gọi là thí sinh, học ở trường tỉnh gọi là học sinh. Những học sinh xuất sắc và các ấm sinh được dự kỳ thi Hương.

Thực hiện chương trình “Học chính tổng qui” và theo Dụ của vua Khải Định về việc bỏ khoa thi chữ Hán, việc dạy chữ Nho trong các trường học ở Phú Yên bị loại bỏ dần, thay vào đó là hàng loạt trường học Việt - Pháp ra đời. Bậc học cao nhất ở Phú Yên là Tiểu học với 3 loại trường: Tiểu học toàn cấp lập ở tỉnh, Sơ đẳng Tiểu học lập ở Phủ, huyện và Sơ học lập ở các tổng, xã. Song, lúc này đa số trường học trong tỉnh là trường Tiểu học không toàn cấp, chỉ dạy 3 lớp: Đồng ấu (lớp năm), dự bị (lớp tư) và sơ đẳng (lớp ba). Nhiều địa phương chỉ mở được trường 2 lớp (đồng ấu và dự bị).

Ở huyện Đồng Xuân có các trường Long Bình, Khoan Hậu, Trung Trinh, Triêm Đức, Long Phước, Hà Bằng, Bình Thạnh, Phú Xuân, Thạch Khê, Phú Long.

Phủ Tuy An có các trường Ngân Sơn, Phong Phú, Phú Sơn, Tiên Châu, An Thổ, Định Phong, Phong Hậu, Phú Thạnh, Hòa Đa, Phong Niên, Định Trung.

Phủ Tuy Hòa có các trường Phước Khánh, Hạnh Lâm, Lương Phước, Phú Thứ, Vĩnh Xuân, Phong Niên, Đông Mỹ, Phú Lâm, Bình Nhạn….

Huyện Sơn Hòa có các trường Lạc Mỹ, Trung Trinh, Củng Sơn…Bảng 1. Số lượng trường, học sinh trong hệ thống trường tư ở Phú Yên 190924:

Số TT Phủ/huyện

Tổng số trường tư hàng xã Số lượnghọc sinh Trường tư ở

các làngTrường

tư nhân mở1 Tuy An 6 9 2562 Tuy Hòa 8 12 2953 Sơn Hòa 4 0 1624 Đồng Xuân 4 7 200

Tổng cộng 22 28 913

Năm 1923, trường Tiểu học toàn cấp 5 lớp: lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì - (lớp nhì nhỏ - lớp nhì lớn) và lớp nhất, gọi là “trường kiêm bị” (école de plein

24 Statistique annuelles du Services de ľenseignement en Annam 1909-1912. RSA\HC 52734

Page 35: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

exercice) được mở ở Sông Cầu25 (tỉnh lỵ Phú Yên thời Pháp thuộc) do Tôn Thất Dương Thanh làm hiệu trưởng. Sau đó, thầy Trần Xuân Hoàn lên thay, thầy Trần Sĩ là giáo học tập sự.

Năm 1926, trường tiểu học được thành lập tại Tuy Hòa do Hoàng Minh Vui làm hiệu trưởng, đến tháng 9 năm 1937, thầy Trần Sĩ làm hiệu trưởng26.

Năm 1932, trường tiểu học được lập tại Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An do thầy Lâm Diệu Anh làm hiệu trưởng, sau đó là thầy Ngô Hưởng lên thay.

Năm 1937, trường tiểu học được thành lập ở La Hai, huyện Đồng Xuân.Năm 1940, trường tiểu học Bàn Thạch được thành lập, do ông Phan Văn

Thiện làm hiệu trưởng, Lê Thông là giáo viên.Ngoài 5 trường tiểu học dạng “trường Kiêm bị” (École de plein excercice), ở dọc

2 bên đường cái quan (Quốc lộ số 1, tỉnh lộ…) có mở các trường sơ học (École elémentaire). Trường có 3 lớp (lớp năm, lớp tư, lớp ba). Học sinh học xong trường này đi thi lấy bằng “sơ học yếu lược”.

Toàn tỉnh có 30 trường sơ học * Phủ Tuy Hòa- Tổng Hòa Lạc có trường sơ học Phú Thứ.- Tổng Hòa Đa có trường sơ học Phú Lâm, Vinh Ba.- Tổng Hòa Bình có trường sơ học Phong Niên.- Tổng Hòa Tường có trường sơ học Phước Hậu.* Huyện Tuy An - Tổng An Phú có trường sơ học Hòa Đa.- Tổng An Ninh có trường sơ học Phú Thạnh, Trung Lương.* Huyện Đồng Xuân- Tổng Xuân Phong có trường sơ học La Hai.* Huyện Sơn Hòa- Trường sơ học Củng Sơn.

25 Phú Yên kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 – Ban tuyên giáo Phú Yên xuất bản 1994- thì trường tiểu học Sông Cầu lập từ 1918; theo sách “ Phú Yên một thời để nhớ” thì trường tiểu học Sông Cầu lập từ năm 1920. 26 Hồi Ký “ Một cuộc đời- Trần Sĩ” - Nxb Thành phố HCM 1999- trang 36.

35

Page 36: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Đến năm 1940, Chính phủ “bảo hộ” và Nam triều cho lập ở những thôn, làng đông dân cư, có nhu cầu học tập các hương trường (École comminal), mỗi hương trường có 2 lớp (Đồng ấu và Dự bị).

Tuy Hòa có các hương trường ở Mỹ Lệ, Phước Mỹ, Lạc Nghiệp, Phước Nông, Phú Nông, Mỹ Thạnh, Thạnh Phú, Phú Đăng, Cảnh Phước, Mỹ Xuân, Xuân Mỹ… Nho Lâm, Bình Kiến, Phú Vang.

Tuy An có các hương trường ở Chí Thạnh, Xuân Dục, Phong Niên. Đồng Xuân có hương trường ở La Hai, Sơn Hòa có hương trường ở Củng Sơn.

Ngoài hệ thống trường công, trường tiểu học, sơ học, hương trường, một số người theo Hán học trước đây có trình độ Sơ học yếu lược cũng được phép mở các trường tư theo dạng “Gia đình học hiệu” dạy chữ cho con em trong gia đình và trong thôn xóm.

Nói tóm lại thực trạng giáo dục cả miền Nam Trung bộ nói chung và Phú Yên nói riêng dưới thời kỳ Pháp thuộc là rất thấp kém cả về số lượng và chất lượng so với cả nước. Ước tính 10.000 dân mới có được khoảng 60 người đi học đến bậc tiểu học (0,6%) và 1 người đi học trung học (0,01%). Từ Quảng Nam đến Bình Thuận chỉ có 1 trường trung học quốc lập đặt ở Quy Nhơn, mỗi năm chỉ thu nhận được từ 30 đến 40 học sinh trung học.. Những người có học thức đỗ đạt văn bằng từ tiểu học lên trung học chỉ đếm trên đầu ngón tay.

2.2. Việc dạy và họcDo điều kiện dạy và học ở Phú Yên còn hạn chế, học sinh Phú Yên muốn học

toàn cấp để thi lấy bằng Tiểu học thì phải ra Huế học tại trường Quốc học. Trường này mở từ năm 1896, nhưng đến năm 1909 mới tổ chức kỳ thi lấy bằng Tiểu học Pháp - Việt, Primaire trong dân gian gọi là bằng Ri-me. Năm 1920, ông Lê Hoàng Hà, người Phú Yên đầu tiên đậu bằng Primaire. Ông nguyên là học sinh của trường Hậu bổ Huế, trường này thành lập ngày 5-5-1911 theo dụ của vua Duy Tân. Mục đích của trường là bổ túc những “kiến thức cai trị hiện đại” của thực dân Pháp cho các bậc cựu học gồm Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, Tú tài trong thời gian 3 năm trước khi được bổ nhiệm ra làm quan ngạch Học chính và Hành chính trong Chính phủ Nam Triều ở Trung Kỳ. Ngày 15-10-1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định mở Trường Pháp - Chính Đông Dương (École de Droit et d’Adminstration), một trường chuyên đào tạo quan cai trị ngạch Tây thời hạn 3 năm thay cho trường Hậu bổ

36

Page 37: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Huế và trường Sĩ hoạn Hà Nội (nguyên là trường Hậu bổ Hà Nội, thành lập ngày 20-6-1903). Người tốt nghiệp được bổ dụng làm Tham biện ở các công sở thực dân. Theo quy định tại điều 17 của Nghị định “Ban hành quy chế chung về bậc Cao đẳng ở Đông Dương” (ban hành ngày 25-12-1918) cho phép những học sinh đã nhận vào trường Hậu bổ và trường Sĩ hoạn (Hà Nội) trước ngày 1-11-1917 vẫn tiếp tục học hết chương trình. Kể từ ngày 1-11-1917, hai trường này không được nhận học sinh mới. Trong quá trình giải thể, hai trường trên đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Ban Giám đốc bậc học Cao đẳng Đông Dương. Đến năm 1921, ông Quách Đình Liên đậu bằng Primaire tại Huế, và từ đó về sau Phú Yên mỗi năm bình quân có 5 người đậu bằng Sơ đẳng Tiểu học Pháp – Việt.

Đến năm 1921, trường Sơ đẳng Tiểu học Sông Cầu nâng thành Trường Tiểu học toàn cấp (Ecole primaire de plein exercise) dạy đủ 5 lớp (đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì, lớp nhất) sau đó được thăng lên trường tỉnh, đón nhận học sinh từ các phủ, huyện trong tỉnh về học.

Phủ Tuy Hòa có: Võ Mẹo, Đỗ Như Bảng, Đặng Mao, Đỗ Trực, Nguyễn Đức Kế, Cao Quang Minh.

Phủ Tuy An có: Nguyễn Cầu, Võ Cần, Huỳnh Hà…Huyện Sơn Hòa có: Hoàng Trinh…Huyện Đồng Xuân có: Nguyễn Ngọc Cầu, Phan Thanh Cưu..v..v..

Sự kiện mở trường Tiểu học toàn cấp của tỉnh tạo ra một bước ngoặt đối với nền giáo dục Phú Yên thời thuộc Pháp. Đánh dấu sự chấm dứt vai trò đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục phong kiến, cùng với nó là hệ thống giáo dục Pháp - Việt chi phối và quyết định đến việc đào tạo đội ngũ trí thức Phú Yên.

Năm 1922, Pháp cho xây dựng hai trường Tiểu học phủ Tuy Hòa và phủ Tuy An. Về sau do vị trí của đô thị Tuy Hoà ngày càng quan trọng trong chính sách khai thác thuộc địa, năm 1923 chính quyền Pháp cho mở thêm lớp Trung đẳng Tiểu học (lớp nhì), đến năm 1929 mở thêm lớp Cao đẳng Tiểu học (lớp nhất). Còn trường phủ Tuy An đến năm 1932 mới mở lớp nhì. Kỳ thi lấy bằng Tiểu học Pháp Việt (bằng Primaire) tổ chức lần đầu tiên tại trường Tiểu học Sông Cầu năm 1930.

Bên cạnh hệ thống trường công, Pháp cũng cho phép mở một số trường tư thục, nhưng số lượng không nhiều, hầu hết là trường sơ đẳng (2 lớp hoặc 3 lớp). Loại hình trường này trước năm 1930, phủ Tuy Hòa mở ở Bàn Thạch, Bàn Nham,

37

Page 38: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Phước Bình, Phú Lương, Năng Tịnh, Nhạn Tháp, Hòa Bình.… Ngoài ra, một số thầy giáo đã mạnh dạn đứng ra mở trường tư thục dưới dạng “Gia đình học hiệu” đào tạo học sinh từ lớp năm đến lớp ba (từ lớp 1 đến lớp 3 nay). Chương trình học gồm có chữ Hán và chữ Quốc ngữ, do vậy mà tình trạng mù chữ ở trẻ em nông thôn phần nào được giải quyết, nền giáo dục Nho học vẫn tiếp tục duy trì ở trường làng.

Theo Thống kê của Annuaire administratife de L’Indochine, năm 1931, Phú Yên có 2 trường Tiểu học toàn cấp, 1 trường Tiểu học dành cho con gái, 1 trường Sơ đẳng Tiểu học và các trường Sơ học hàng tổng, xã. Cùng với việc mở rộng hệ thống trường Tiểu học Pháp - Việt, chính quyền Pháp tăng cường đội ngũ giáo viên ở đây. Theo Thống kê của Annuaire administratife de L’Indochine, năm 1931, số lượng giáo viên ở Phú Yên có khoảng trên 45 người gồm: 13 thầy dạy ở trường Tiểu học toàn cấp và Sơ đẳng ở Tuy An, Tuy Hoà, Sông Cầu; 1 giáo viên nữ dạy lớp dành cho con gái nằm chung trong trường Tiểu học Sông Cầu và 31 giáo viên dạy tạm thời ở trường Sơ học hàng tổng, xã.

Đến kỳ nghỉ hè, nha Tiểu học tổ chức bồi dưỡng giáo viên cho cả trường công và trường tư tại Sông Cầu, thời gian học khoảng 2 tháng. Từng giáo viên chuẩn bị giáo án và lên giảng bài, các giáo viên khác ngồi dưới nghe giảng, song các giáo viên đóng góp ý kiến cho người giảng từ tác phong đến nội dung, rồi chấm điểm tiết giảng, cứ thế hết người này đến người khác.

Về chương trình học và thi cử ở các trường Pháp - Việt tỉnh Phú Yên tuân theo Học quy năm 1906 và Học chính tổng quy ban hành năm 1917. Đối với các Hương trường (trường tổng, xã), học sinh học hết lớp Ba phải nộp đơn xuống các trường Tiểu học ở phủ, huyện hoặc tỉnh để thi lấy bằng yếu lược. Thời kỳ này, Phú Yên có 2 trường tổ chức thi lấy bằng Yếu lược và Sơ đẳng Tiểu học Pháp - Việt, đó là trường Tiểu học Sông Cầu và trường Tiểu học Tuy Hoà. Trường phủ Tuy An cũng được phép tổ chức thi lấy bằng yếu lược. Sau khi tốt nghiệp trường Tiểu học toàn cấp, học sinh muốn học bậc Trung học phải ra Bình Định học tại trường Cao đẳng Quy Nhơn (Collège Quy Nhơn).

Năm 1923, M. Merlin được cử làm Toàn quyền Đông Dương. Ông đã có một số thay đổi và điều chỉnh trong cải cách giáo dục ở Việt Nam nhằm hạn chế việc học hành của thanh niên và học sinh Việt Nam. Theo M. MerLin, từ năm 1924 trở đi, với chương trình “bình diện”, học sinh ngay trong 3 năm học bậc Sơ học học sinh

38

Page 39: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

phải học tiếng Pháp, nên rất nhiều trẻ em ở nông thôn không thể theo học được. Mặt khác chương trình “bình diện” còn quy định hạn tuổi vào học các cấp rất chặt chẽ, khiến cho nhiều học sinh không thể tiếp tục học ở những bậc cao hơn. Biện pháp cải cách giáo dục của MerLin bị phản ứng, chống đối quyết liệt của người dân, đặc biệt là ở nông thôn. Vì vậy đến năm 1926, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập “trường phổ cập giáo dục”. Đây là kiểu trường do làng xã nắm quyền tự quản, chủ động xây dựng trường lớp, tuyển giáo viên, chi phí lương bổng và chi phí khác. Nha Học chính chỉ lo về chuyên môn. Ở Trung Kỳ do dân cư nhiều nơi còn thưa thớt, Nghị định cho phép có thể tổ chức thành trường “liên hương”. Do chương trình đào tạo ngắn hạn (1 đến 3 năm), đơn giản nên số học sinh theo học đông hơn.

Từ năm học 1926-1927, Nha học chánh Đông Dương sửa đổi lại chương trình học; mở thêm một lớp chuyển tiếp gọi là lớp nhì năm thứ hai (Cours moyen 2è année). Như vậy, bậc Tiểu học từ năm học 1926 – 1927 kéo dài 6 năm.

Với sự phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục Tây học, việc học chữ Hán không còn được mấy người chú ý. Người dạy ít dần, người học vắng vẻ. Báo Nam Phong năm 1926 mô tả “Sự học chốn thôn quê ngày nay thực là tiêu điều, vắng vẻ. Dân mình vốn là dân hiếu học, nhưng thầy không có, trường không có thì làm thế nào mà chả chịu dốt… ”27.

Thời gian đào tạo là 4 năm (Nhất niên, nhị niên, tam niên và tứ niên). Học sinh học xong năm thứ tư thì thi lấy bằng Diplome (Cao đẳng Tiểu học), sau đổi là Thành chung. Khai khoa bằng Thành chung ở Phú Yên là ông Trần Sĩ đậu năm 1929 tại Huế. Năm 1930, ông Huỳnh Thượng Thạch cũng đậu bằng Thành chung.

Nhìn chung trong những thập niên đầu thế kỷ XX, nền giáo dục Phú Yên cũng như khu vực miền Trung đã có nhiều thay đổi về mục đích, hệ thống tổ chức và nội dung đào tạo. Trước hết, thực dân Pháp từng bước thủ tiêu nền giáo dục Nho học truyền thống thay vào đó là nền giáo dục Pháp phù hợp với sự chuyển biến của thời đại.

Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và xã hội ở tỉnh Phú Yên chậm phát triển, nên việc dạy và học cũng bị ảnh hưởng theo. Đa số trường học Pháp – Việt ở Phú Yên đầu thế kỷ XX là trường dạy 3 lớp (đồng ấu, dự bị, sơ đẳng). Một số nơi chỉ mở 2 lớp gồm đồng ấu và dự bị, nhưng số lượng lớp và trường không nhiều. Ngay cả

27 Nguyễn Thế Anh: Vài nét về giáo dục Việt Nam, Sđd, tr.3539

Page 40: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trường Tiểu học Sông Cầu, Tỉnh lỵ Phú Yên nhưng đến năm 1920 mới mở được 3 lớp (đồng ấu, dự bị, sơ đẳng ), năm 1921 mở lớp nhì và lớp nhất. Do vậy, người nào muốn học cao hơn thì phải ra Huế hoặc Bình Định học tại Trường cao đẳng Tiểu học Qui Nhơn (còn gọi Trường Quốc học Qui Nhơn), thành lập năm 1921, đào tạo học sinh bậc Trung học cho các tỉnh từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Từ năm 1920 đến năm 1926, Phú Yên có 26 người đậu bằng Tiểu học. Đến năm 1929 và 1930 mới có 2 người đậu bằng Thành chung.

Số lượng trường, giáo viên, học sinh bậc tiểu học Pháp – Việt ở tỉnh Phú Yên năm 192928.

Loại trườngSố lượng trường

Số lượng giáo viên

Số lượng học sinh

Nam

Nữ

Tổng số

Trường tiểu học toàn cấp 2 13 404 404Trường sơ đẳng tiểu học 1 3 12 24 36Trường tiểu học dự bị 36 32 768 768

Tổng số 39 48 1.184 24 1.2082.3. Những người Phú Yên có bằng cấp thời kỳ Pháp thuộc 1885-1945Trong những năm 1885-1900, Phú Yên có 5 người đậu Cử nhân:-  Nguyễn Đức, xã Bình Thạnh, huyện Đồng Xuân, thi đậu Cử nhân trường

Bình Định, khoa Tân Mão, năm Thành Thái thứ 3 (1891). -  Nguyễn Bá Côn, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân trường Bình Định, khoa

Giáp Ngọ, năm Thành Thái thứ 6 (1894). -  Võ Phụng Cang, xã Diêm Điền, huyện Tuy An, đậu Cử nhân trường Bình

Định. Khoa Đinh Dậu, năm Thành Thái thứ 9 (1897). -  Võ Đôn Luân, xã Khoan Hậu, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân tại trường

Bình Định, khoa Đinh Dậu, năm Thành Thái thứ 9 (1897). -   Lê Mai, xã Triều Sơn, huyện Đồng Xuân, đậu Cử nhân trường Bình Định,

khoa Canh Tý, năm Thành Thái thứ 12 (1900)29 (cùng năm 1900 có cụ Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi hương tại Nghệ An, Huỳnh Thúc Kháng đỗ giải

28 Nguồn: Énignement en Annam. Eschusion a tour etablisement scolaires des élerver grévister 1929. Ouerture des Écoles 1929-RSA/HC 2428 .29 Dẫn theo :Tạp chí xưa và nay số 140 (2003), Chuyên đề Phú Yên xưa và nay, tr.15.

40

Page 41: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nguyên tiếp sau cả 2 cụ đều đỗ Tiến sĩ; Phan Chu Trinh đỗ năm 1901. Huỳnh Thúc Kháng đỗ Đình nguyên năm 1904).

Những năm đầu thế kỷ XX, Phú Yên có các nhà khoa bảng:- Lê Hoàng Lưu, xã Long Uyên, Tuy An, đỗ cử nhân tại trường thi Bình

Định, khóa Quý Mão năm Thành Thái thứ 15 (1903). Ông đỗ thứ 7/18 cử nhân tân khoa.

- Phạm Đàm, xã Năng Tịnh- Tuy Hòa, đỗ cử nhân tại trường thi Bình Định- đỗ thứ hạng 8/24 cử nhân tân khoa.

- Đặng Lang, xã Củng Sơn, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên- Lê Phụng Cảnh, xã Khoan Hậu, huyện Đồng Xuân- thứ 12/24 tại trường thi

Bình Định. - Trương Trọng Cầu, xã Vĩnh Xuân – Tuy Hòa, đỗ cử nhân tại trường thi Bình

Định, khoa Kỷ Dậu, năm Duy Tân thứ 3, đỗ thứ 6/16 cử nhân tân khoa. - Trần Khắc Đôn, xã Hảo Minh, huyện Đồng Xuân. Đỗ cử nhân tại trường thi

Bình Định, khoa Nhâm Tý, năm Duy Tân thứ 6 (1912), thứ 14/18 cử nhân tân khoa.- Đặng Trác Văn, Ngân Sơn, huyện Tuy An, đỗ cử nhân tại trường thi Bình

Định, khoa Ất Mão, năm Duy Tân thứ 9 (1915). Ông đỗ Á khoa nguyên hạng thứ2/18 cử nhân tân khoa; cùng cử nhân đồng khoa có :

- Nguyễn Viết Duy, xã Mỹ Phú, huyện Tuy An, đỗ hạng 15/18.- Bùi Cạnh, xã Long Uyên, huyện Tuy An, đỗ hạng 18/18.

- Trần Đình Hiến, xã Quy Hậu, huyện Tuy Hòa, đỗ cử nhân tại hội đồng thi Bình Định. Ông đứng thứ 4/12 cử nhân tân khoa- khoa Mậu Ngọ, năm Khải Định thứ 3 (1918), cùng đỗ cử nhân khoa này có:

- Lê Hoàng Hà, xã Long Uyên, huyện Tuy An tỉnh Phú Yên, đậu năm 19 tuổi (con trai của Lê Hoàng Lưu đậu cử nhân năm 1903)- đậu thứ 5/12 cử nhân tân khoa. Ông được bổ dụng chức tri huyện ở Quảng Ngãi, tri phủ huyện Tĩnh Gia, Đông Sơn, Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa, rồi tri phủ Tuy An, Phú Yên.

Một số người dự khóa thi hương, nhưng vì không đậu chính thức nên không được học vị cử nhân mà chỉ đạt học vị tú tài. Do đó, họ không được đưa vào “Quốc triều hương khoa lục” nói trên. Dựa vào kết quả sưu tầm của tư liệu văn hóa giáo dục xưa và các cá nhân nghiên cứu văn hóa giáo dục địa phương Phú Yên, có thể thống kê bước đầu được 21 tú tài: Trương Chính Đường, Ngô

41

Page 42: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Quang Khuê, Lê Thành Phương, Trần Đình Khánh, Nguyễn Hộc, Nguyễn Vận, Tô Quế, Huỳnh Thượng Trung, Nguyễn Tấn, Nguyễn Doãn, Lê Văn Hoành, Đinh Châu, Nguyễn Nho Trân, Huỳnh Huệ Dịch, Nguyễn Nhân Hiếu, Trình Châu, Trương Dụng Bút (tú tài hậu bổ), Lê Ngọc Cẩn, Lê Doãn Cung, Đặng Uyển, Phan Quế.

Các nhà khoa bảng Phú Yên tuy chưa có người hiển đạt đại khoa. Nhưng cũng có Hương cống đầu tiên của Phú Yên là ông Lê Đức Ngạn - người Đồng Xuân vào năm 1821 tại trường thi Gia Định, có Á nguyên thi hương năm 1915 là ông Đặng Trác Văn, có cả gia đình cha con đều đỗ cử nhân: cụ Lê Hoàng Lưu, người xã Long Uyên huyện Tuy An đỗ cử nhân lúc 29 tuổi (năm 1903) và con là Lê Hoàng Hà đỗ cử nhân lúc 19 tuổi (năm 1918). Các vị nho sĩ đã hiển đạt làm đến quan Án sát, Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo ở các nơi trong nước, nhiều người nổi tiếng thanh liêm. Nhiều nhà nho không hiển đạt trong khoa cử nhưng học vấn uyên thâm, tâm huyết quốc sự. Nhiều người từ bỏ chốn quan trường về quê dạy học để hoằng dương đạo lý, bồi dưỡng nhân tài. Có người thi đạt nhưng không xuất hành hoạn lộ mà đã biết vì nước quên mình dựng cờ cứu nước như Tú tài Lê Thành Phương. Có người không xuất thân thân từ hàng khoa bảng nhưng được tu dưỡng rèn luyện trong môi trường giáo dục gia đình và hoạt động của cuộc sống xã hội đa dạng, phong phú mà làm nên công nghiệp, lưu đức vọng đời như Thống chế Nguyễn Công Nhàn (1789-1872), Đào Trí. Trong những năm đầu chống Pháp xâm lược nước ta, Đào Trí đã từng được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng trong công việc phòng, chống ngoại xâm, với chức Tổng đốc Nam Ngãi, sung Kinh lược đại thần thiết lập hệ thống phòng thủ từ Quảng Nam đến Bình Thuận, Tổng đốc tham tán hải an quân vụ… trước tình hình đầy khó khăn thử thách khi triều đình Huế từng bước suy thoái và bất lực trước hiểm họa ngoại xâm, nhưng Đào Trí vẫn kiên tâm nỗ lực tổ chức việc bảo vệ đất nước. Tiếp đến là những tấm gương yêu nước chống Pháp được người đời ca ngợi, tôn kính như Nguyễn Hào Sự, Võ Trứ, Tham trấn Hòa Đa Nguyễn Hữu Dực, Lê Hanh, Trần Đôn…

Ngoài các cá nhân khoa bảng, trí thức còn có nhiều tấm gương hiếu tử được triều đình nhà Nguyễn khen thưởng như Nguyễn Văn Tựu, Nguyễn Văn Thiện, Phạm Văn Thụ, Tô Hỷ, Nguyễn Phác, Lê Văn Trạch…

Từ năm 1920 đến năm 1945, những người Phú Yên đỗ đạt, đáng kể là:

42

Page 43: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1. Những người đậu bằng Tiểu học Pháp- Việt- Lê Hoàng Hà, người đầu tiên đậu bằng Tiểu học Pháp – Việt ở Huế, năm

1920. (Ông cũng là người đậu bằng Cử nhân nho học năm 1918, khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn ).

- Quách Đình Liên, đậu bằng tiểu học tại Huế được hưởng “lễ vinh quy bái tổ” và được bổ làm Hiệu trưởng trường tiểu học ở Phú Thứ (Tuy Hòa) vào năm 1921.

- Phan Ngọc Thành, Huỳnh Tấn Dung, Trần Bính, Đặng Tín, Trương Tấn Tiếp đều đậu vào năm 1922.

- Võ Thị Trang là người phụ nữ đầu tiên của Phú Yên đậu bằng primaire vào năm 1923 cùng với các ông Đoàn Thuật và Cao Quang Minh.

- Phạm Tấn Khích, Ngô Phụng Lâm, Nguyễn Như, Nguyễn Đệ…năm 1924.- Huỳnh Anh, Lê Nguyên Thẩm, Huỳnh Thượng Thạch, Phan Thanh, Huỳnh

Nhân, Trần Lễ vào năm 1925.- Lê Kỉnh Hứa, Nguyễn Khiêm, Huỳnh Khinh, Đặng Nhơn, Phan Thanh Cưu,

Lê Cụ vào năm 1926.2. Những người đậu bằng thành chung (diplome)

- Ông Trần Sĩ, 19 tuổi, người khai khoa cho bậc Trung học Pháp - Việt của tỉnh năm 1929.

- Năm 1930 có Huỳnh Thượng Thạch.- Năm 1942 là Đào Sỉa.

3. Những người đậu bằng tú tài:- Năm 1939 có Nguyễn Tích, Trần Kỳ Doanh và Trần Ngũ Phương.- Năm 1943 có Trần Suyền.

Những người trí thức của Phú Yên lúc bấy giờ, khi đã đỗ đạt ra trường phần nhiều chọn nghề dạy học - một nghề thanh bạch, được trọng đãi trong xã hội đương thời, dẫu dạy ở hương trường cũng có mức lương tương đối khá đủ sống và nuôi vợ con. Người thầy giáo tiêu biểu là Trần Sĩ, sinh năm 1910, từ năm 1929 ông vào làm giáo viên tập sự những trường học tỉnh lỵ Sông Cầu. Năm 1937, làm Hiệu trưởng trường tiểu học Tuy Hòa. Với sở học uyên thâm, phương pháp sư phạm vững vàng, trách nhiệm dạy dỗ chu đáo, tình thương yêu học trò rất mực nhưng cũng rất nghiêm khắc nên đạt kết quả giáo dục rất cao. Học trò thi đậu nhiều, đạt thứ hạng

43

Page 44: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

cao, có uy tín lớn với nhân dân trong tỉnh. Tiếng thơm lang khắp tỉnh. Thầy Trần Sĩ được Đốc học cử làm Giáo sư hướng dẫn các lớp sư phạm đào tạo hương sư trong tỉnh. Cùng với ông Nguyễn Đình Cầm dạy tiểu học Phú Yên và viết chung cuốn sách “Địa dư tỉnh Phú Yên” xuất bản năm 1937 và đã được Toàn quyền Đông Đương ra Quyết định số 100 /ngày 10 tháng 10 năm 1938 công bố dùng quyển sách này làm tài liệu giáo khoa cho các trường tiểu học toàn xứ Đông Dương. Năm 1942, do những công lao dạy học, thầy Trần Sĩ được Chính phủ Nam triều tặng thương huy chương “Đệ ngũ long bội tinh”, đến năm 1944 được phong hàm “Hàn lâm viện thị giảng”.

Với lòng yêu nước được nung nấu và giữ gìn kín đáo, cùng với đức độ và tài năng sư phạm của mình, ông cùng với nhiều nhà giáo yêu nước khác đã tham gia vào cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 với tất cả nhiệt huyết của mình - ông được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức, xây dựng và làm Hiệu trưởng trường Trung học Lương Văn Chánh - trường Trung học đầu tiên của tỉnh Phú Yên năm 1946. Từ năm 1952, ông được cử giữ chức trưởng Ty giáo dục Phú Yên. Ông có công lao to lớn trông công cuộc xây dựng nền giáo dục cách mạng trong kháng chiến chống Pháp. Không đi tập kết, ông được phân công ở lại miền Nam tiếp tục dạy học. Sống trong chế độ của Mỹ ngụy, trên bục giảng ở các trường tư thục miền Nam, ông vẫn giữ vững khí tiết và lòng trung thành với Đảng với cách mạng, hun đúc lòng yêu nước cho học sinh, chống lại nền giáo dục vong bản, nô dịch của địch. Thầy Trần Sĩ đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba và Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục!

III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH PHÚ YÊN ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Tháng 3 năm 1907 trường “Đông Kinh nghĩa thục” được thành lập. Đây không chỉ là một trường học mà là một tổ chức cách mạng của các sĩ phu yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng dân chủ tư sản tiến bộ, tiêu biểu Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền…

Mục đích của “Đông Kinh nghĩa thục” là nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và cuộc sống văn minh, tiến bộ, phối

44

Page 45: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

hợp hành động với các sĩ phu đã xuất dương, hỗ trợ cho phong trào Đông du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân, do nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đề xướng. Nhằm thực hiện một lý tưởng vì sự tiến bộ của dân tộc, vì giải phóng đất nước với khẩu hiệu: “khai dân trí- chấn dân khí- hậu dân sinh”; “Khai dân trí” là nhằm mở mang trí tuệ cho dân chúng chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp; “Chấn dân khí”, trau dồi “luân lý quốc gia” là khơi dậy, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, tinh thần trách nhiệm công dân, nhuệ khí đấu tranh cho độc lập dân tộc, nhằm giải phóng dân tộc ra khỏi sách nô lệ lầm than kể cả sửa đổi những đồi phong tục đem lại một nếp sống văn minh tiến bộ cho dân chúng.

Nội dung nhà trường tân học không phải là tứ thư ngũ kinh của nho học, cũng không phải là những bài lịch sử ngụy tạo của thực dân “tổ tiên của người Việt Nam là giống người Gô-loa” nước Pháp”. Những bài học, môn học ở trong các trường Đông Kinh nghĩa thục là các môn lịch sử, địa lý nước nhà, là toán pháp, cách trí, vệ sinh, luân lý, thể thao, đề cao chữ quốc ngữ, văn học Việt Nam. Đông Kinh nghĩa thục đã nhanh chóng trở thành phong trào vận động quần chúng mang nội dung cách mạng tiến bộ rộng lớn, có lúc lên đến trên 2000 học sinh mở rộng ra các địa bàn Hà Nội. Bên cạnh các tỉnh phía Bắc, chỉ trong năm 1906 ở tỉnh Quảng Nam đã có hơn 40 trường tân học, phong trào lan đến các tỉnh Bình Định, Phú Yên.

Trong một báo cáo mật của Cherler, viên công sứ Pháp ở Quảng Nam gửi lên thượng cấp đã nhấn mạnh rằng, những bài giảng của các nhà nho duy tân đã kích thích tinh thần dân tộc và đó là điều đáng sợ đối với chế độ cai trị của Pháp. Bản báo cáo viết: “Họ nắm các trường học và điều hành việc dạy học. Họ trao cho học sinh những tài liệu kích thích tinh thần yêu nước, hận thù quân xâm lược, xem thường cái chết. Mỗi người phải sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Nhất là những bài học tuyệt vời về chí khí. Chỉ tiếc là chúng ta một ngày kia phải trả giá cho sự giáo dục ấy mà thôi”30. Lo sợ trước một phong trào cách mạng được nhen nhóm từ các trường tân học, bọn cai trị thực dân Pháp đã ra lệnh đóng cửa trường Đông Kinh nghĩa thục từ tháng 12 năm 1907.

Sau nhiều năm bôn ba hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Trung Quốc cuối năm 1924. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp những người Việt Nam yêu

30 Theo Tạp chí Xưa và Nay, số 327 tháng 9/2009.45

Page 46: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nước đang hoạt động ở đó thành tổ chức mang tên “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” vào tháng 6 năm 1925. Tại đây người trực tiếp đào tạo huấn luyện nhiều thanh niên ưu tú từ trong nước gửi sang học tập, rèn luyện về đường lối, phương thức cách mạng rồi phái họ trở về nước hoạt động.

Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ra đời chỉ trong mấy năm từ 1926-1929 đã xây dựng được cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng trên khắp đất nước. Đặc biệt, năm 1928 Hội đề ra chủ trương “vô sản hóa”. Nhiều hội viên là trí thức giáo chức, sinh viên học sinh hăng hái về hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để vừa học tập lao động vừa vận động giác ngộ cách mạng cho quần chúng.

Từ đó một phong trào yêu nước cách mạng của quần chúng lan rộng trong cả nước và đã có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh yêu nước cách mạng đến Phú Yên.

Một số sinh viên, học sinh Phú Yên tham gia bãi khóa ở Hà Nội, Huế, Qui Nhơn như Phan Lưu Thanh, Đỗ Trực, Đỗ Trang, Trần Công Sâm… bị đuổi học nên trở về quê nhà hoạt động.

Tháng 7- 1926, Phạm Đức - người học sinh quê ở An Nghiệp, Tuy An, dẫn đầu một số học sinh như Phan Lưu Thanh, Huỳnh Thượng Chánh (Đồng Xuân), Phạm Nghĩa, Đặng Tín (Tuy An) đến các tỉnh ngoài để học nghề theo tinh thần “chấn hưng hàng nội hóa” do Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đề ra. Sau một năm học tập, rèn luyện trong phong trào ở các tỉnh phía Bắc, số thanh niên này trở về Phú Yên cùng với Trần Chương, Võ Thị Trang… đang hoạt động ở tại địa phương tuyên truyền mở rộng phong trào chủ trương sản xuất hàng nội hóa, bài trừ hàng ngoại, chấn hưng kinh tế nước nhà, vận động góp vốn, lập ra chi nhánh “Hưng nghiệp Hội xã” một tổ chức thương mại công khai, nhưng thực chất là hoạt động yêu nước và bí mật gây quỹ để hoạt động. Tổ chức “Hưng nghiệp Hội xã” phát triển nhanh và mạnh ở Tuy Hòa, Phú Thứ, Bình Thạnh, Hòa Đa, La Hai, Chí Thanh, Sông Cầu… hoạt động của Hội có tác dụng tập hợp quần chúng giáo dục lòng yêu nước, ý thức dân tộc cho các tầng lớp công, thương, nông dân nhất là trong giới trí thức, giáo chức, thanh niên học sinh.

Ông Phan Thanh, người làng Năng Tịnh tổng Hòa Bình, phủ Tuy Hòa, nay là Phường 1, Thành phố Tuy Hòa. Ông sinh năm 1904, đỗ Primaire vào năm 1925, là

46

Page 47: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

một thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, vừa hoạt động phong trào vừa mở trường dạy học ở quê nhà. Học sinh theo học rất đông, dân làng yêu mến gọi ông là Giáo Hai.

Bên cạnh Giáo Hai, có Trần Chương người cùng làng vào những năm 1915 và năm 1918 có đi thi Hương ở Huế và ở Bình Định nhưng không đỗ, trở về quê dạy học ở Liên Trì, Đông Mỹ rồi mở trường tư vừa dạy chữ Hán vừa dạy Quốc ngữ cho con em trong gia đình, họ tộc và bà con làng xóm. Chính từ đây, trường đã trở thành một trong những cái nôi truyền bá cho sự cách tân giáo dục, những tư tưởng tiến bộ hun đúc lòng yêu nước, đào tạo ra nhiều chiến sĩ cách mạng cho quê hương Phú Yên.

Vào những năm 1926- 1927, thầy Phạm Ngọc Quế hoạt động trong Hội Thanh niên ở Nghệ Tĩnh bị đổi vào Phú Yên dạy ở trường tiểu học La Hai. Phong trào yêu nước ở Phú Yên lại thêm nhân tố mới31.

Tháng 1 năm 1929, đồng chí Hoàng Hữu Đàn là một cán bộ lãnh đạo của Hội VNCMTN Trung Kỳ liên lạc với thầy Phan Thanh, thầy Trần Chương và các học sinh Võ Thị Trang, Trần Hào, Huỳnh Lưu, Trương Thị Hảo cùng với Phạm Sĩ Vinh (Trưởng kíp sở dẫn thủy nhập điền phủ Tuy Hòa). Tất cả họ là những thanh niên tích cực tham gia hoạt động trong “Hưng nghiệp Hội xã” và là thành viên của Hội VNCMTN ở Tuy Hòa đầu năm 1929, Phan Thanh được cử làm Bí thư chi bộ. Sự ra đời của 2 chi hội VNCMTN ở Phú Yên (Sông Cầu và Tuy Hòa) là kết quả của quá trình vận động, tổ chức và hoạt động của giáo viên, học sinh yêu nước.

Tháng 6-1929, đồng chí Phan Thanh được triệu tập vào Sài Gòn để sang Quảng Châu - Trung Quốc dự lớp huấn luyện. Trên đường đi từ Tuy Hòa vào Sài Gòn bị địch phát hiện, ông đã cải trang nhiều lần nhưng vận bị theo dõi. Ngày 1 tháng 5 năm 1929, kế hoạch hành động của Hội VNCMTN ở Phú Yên bị lộ, không thực hiện được. mật thám theo dõi truy nã, khám xét bắt bớ các hội viên. Đồng thời lúc này, ở Quảng Trị nhiều cơ sở VNCMTN cũng bị lộ, đồng chí Hoàng Hữu Đàn bị bắt, các cơ sở “ Hưng nghiệp Hội xã” ở Phú Yên bị phát hiện.

Đến cuối 1929, các “Hưng nghiệp Hội xã” ở Tuy Hòa bị niêm phong, trường học bị đóng cửa, những người lãnh đạo hội, thầy Phan Thanh, Trần Chương và nhiều hội viên khác bị bắt giam tại nhà lao Sông Cầu. Sau 9 tháng bị địch dụ dỗ, tra tấn cực

31Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Quang 1930-1975. Ban Tuyên giáo Huyện ủy Đồng Xuân, 1999.

47

Page 48: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

hình nhưng thầy giáo, hội viên đều giữ tròn khí tiết, gan dạ, kiên cường làm cho Pháp và quan lại Nam triều phải thả họ vì không khai thác được gì.

Thầy giáo Phan Thanh vừa về nhà thì bị đột tử vì kẻ thù đầu độc ông lúc ở nhà lao Sông Cầu32. Thầy Phan Thanh hy sinh quá sớm, lúc mới bước vào tuổi 26 (1904-1930). Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng oanh liệt. Ông đã để lại một hình ảnh đẹp trong các thế hệ trí thức, giáo chức thanh niên, học sinh tỉnh Phú Yên. Sau ngày giải phóng, thầy Phan Thanh được truy tặng danh hiệu Liệt sĩ. Ông là người thắp lên ngọn lửa giáo dục cách mạng đầu tiên ở tỉnh, là một trong những người có công đầu trong việc thành lập Hội VNCMTN ở Phú Yên, người đã nêu tấm gương yêu nước, trung kiên bất khuất cho bao thế hệ thanh niên thầy giáo, học sinh của tỉnh noi theo.

Qua Hồi ký của các nhà cách mạng lão thành ở Phú Yên như đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, Phan Lưu Thanh, Huỳnh Lưu… về người Bí thư chi bộ đầu tiên của Hội VNCMTN ở Phú Yên - thầy Phan Thanh, đúng như lời tưởng niệm của đồng chí Lê Tấn Thăng33:

“Hồn thiêng đồng chí Phan Thanh,Mở đầu cách mạng rạng danh tỉnh nhà!”

Năm 1927, thầy giáo Phạm Đức Bân dạy trường tiểu học Thanh Hóa tham gia phong trào đấu tranh bị chuyển vào dạy ở Quảng Trị. Sau đó, tháng 9 năm 1927, chính quyền thực dân sở tại lại chuyển thầy vào dạy ở Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Cùng đi theo thầy có Nguyễn Văn Hợi, Trương Khâm, Phạm Ngọc Hổ.

Thầy Phạm Đức Bân được bổ dạy lớp Nhất ở trường tiểu học Sông Cầu. Sau thời gian ngắn, thầy liên lạc với các giáo viên Bùi Dung, Trịnh Bá Đài và một số công chức như Nguyễn Lân, Bùi Văn Hữu…ở Sông Cầu. Ngoài thời gian dạy học, vào ban đêm, ngày nghỉ, ngày lễ rất nhiều công chức, học sinh đến nhà Thầy để đọc sách báo. Như các cuốn “Quan Hải tùng thư”, “Báo Thần chung” “Tiếng Dân” và các loại văn thơ yêu nước như “Huyết lệ thư” của cụ Phan Bội Châu”, “Quân trị hay Dân trị” của cụ Phan Châu Trinh… những bài hát như: Chiêu hồn nước, Hỡi đồng bào, Người đi đày…

32 Lời kể Cô Phan Thị Ni (con gái Thầy giáo Phan Thanh – ở Nha Trang-)33 Đồng chí Lê Tấn Thăng, hội viên VNCMTN Phú Yên, ủy viên ban chấp hành Đảng bộ Phú Yên năm 1936.o.

48

Page 49: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Nhờ phương pháp hoạt động khéo léo và chủ trương đúng đắn là tập hợp mọi tầng lớp lao khổ đứng lên cứu nước, chỉ sau một thời gian ngắn Tân Việt cách mạng Đảng ở Sông Cầu mà nòng cốt là thầy Phan Đức Bân đã phát triển thêm nhiều đảng viên mới. Tính đến đầu 1928, sổ đảng viên Tân Việt đã lên đến 20 người.

Do ảnh hưởng của tư tưởng và đường lối cứu nước của Hội VNCMTN, những người ưu tú trong Tân Việt cách mạng Đảng đã chuyển dần hoạt động của tổ chức mình theo khuynh hướng vô sản và thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Những người đảng viên Tân Việt và Hội VNCMTN ở Phú Yên những năm từ 1928 đến 1929 đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào các tâng lớp nhân dân, giới trí thức yêu nước trong đó các nhà giáo và học sinh Phú Yên đã đóng vai trò hạt nhân, tích cực nhất.

Cuối năm 1929, Phan Lưu Thanh, hội viên Thanh niên hoạt động trong “hưng nghiệp hội xã" ở La Hai vào Sài Gòn học trường cơ khí Chu Văn Hai. Tại đây, phong trào “vô sản hóa” đang phát triển mạnh, Phan Lưu Thanh được tiếp xúc với một số đảng viên An Nam Cộng sản như thầy Nguyễn Chương (thầy dạy máy nổ) và Tư Rèn là Bí thư chi bộ Thị Nghè. Phan Lưu Thanh được chi bộ phân công về Phú Yên hoạt động, đồng chí đã tìm những thanh niên trí thức yêu nước đang hoạt động trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt để vận động, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa cộng sản. Phan Văn Lan và Bùi Xuân Cảnh (hội viên Tân Việt) là những thành viên được giác ngộ sớm nhất.

Ngày 5 tháng 10 năm 1930 tại thôn Đồng Bé xã Xuân Long (Đồng Xuân), Phan Lưu Thanh cùng với 7 đồng chí của mình là Bùi Xuân Cảnh, Phạm Ngọc Bích (Việt Hồng), Nguyễn Thạnh, Nguyễn Phục Hưng, Nguyễn Hữu Tánh, Nguyễn Diệp, Nguyễn Thị Hảo... đã thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Phú Yên. Đồng chí Phan Lưu Thanh được bầu làm Bí thư.

Vào tháng 3 năm 1931, đồng chí Phan Lưu Thanh được điều động về Xứ ủy Trung Kỳ. Đồng chí Trần Toại (tức Kim Tương) từ Quảng Ngãi về thay đồng chí Phan Lưu Thanh làm bí thư Tỉnh ủy. Trần Toại là một thầy giáo tiểu học, là một trong những người thành lập tổ chức “Hội Thiếu niên ái quốc” ở Mộ Đức. Khi được cử về làm bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, thầy Trần Toại nhanh chóng nắm tình hình và tổ chức thực hiện các tư tưởng chỉ đạo của Xứ ủy một cách sáng tạo và có hiệu quả. Nhiều cuộc mít tinh quần chúng liên tiếp diễn ra ở La Hai, Triêm Đức, Phước Lãnh,

49

Page 50: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Cồn Loi, Đá Mũ, Phước Long… thu hút đông đảo quần chúng, thầy giáo, học sinh, lôi cuốn cả Chánh tổng, lý hương tham gia.

Phong trào yêu nước phát triển mạnh, ngày 7-7-1931 thực dân Pháp và Nam triều tiến hành vây bắt các Đảng viên và cơ sở cách mạng ở La Hai. Bí thư Trần Toại bị bắt cùng với một số đồng chí khác (30 người). Những đồng chí chưa bị lộ như Nguyễn Thị Hảo, Phan Ngọc Bích phải chuyển vào hoạt động ở Tuy Hòa.

Trước sự đàn áp dã man của kẻ thù, phong trào cách mạng của nhân dân Phú Yên nói chung và của giáo chức và học sinh trong nhà trường có tạm lắng xuống và bước vào giai đoạn củng cố bảo vệ cơ sở để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới.

Đến những năm 1933-1934, học sinh Trần Hào ở làng Nho Lâm học xong chương trình sơ học yếu lược tại trường Pháp – Việt ở phủ Tuy Hòa. Trần Hào cùng với các bạn học sinh trong làng rủ nhau tự học bằng cách lập ra “Hội đọc sách báo” ở Nho Lâm, Hạnh Lâm, Long Tường, học sinh như Trần Văn Tấn (16 tuổi), Phan Văn Dự, Phan Khôi, Nguyễn Tự Đoan, Đào Thế Lữ (15 tuổi)... Các sách: Lịch sử tiến hóa nhân loại, Thế giới cường quốc chỉnh thể lược khảo, Cao dao tục ngữ Việt Nam... nội dung các sách báo đó đã có tác động sâu sắc đến lứa tuổi học sinh về lòng yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các nhóm học sinh tiến bộ được chọn làm nòng cốt, các hoạt động công khai như các nhóm đọc sách báo, các đội bóng đá, các lớp học ban đêm, các lớp xóa mù chữ, các nhóm lợp nhà, cấy lúa, vần đổi công được lập ra khắp nơi.

Hình thức bán công khai như Hội ái hữu nông dân, Hội tương tế nông dân, Hội ái hữu công nhân, thợ máy, phụ nữ, liên đoàn xe hơi, xe ngựa, nhóm giáo chức, học sinh ái quốc… được thành lập và hoạt động rộng khắp.

Năm 1937, có cuộc bầu cử Nghị viện Dân biểu ở Trung Kỳ, chủ trương Đảng ta tham gia các cuộc bầu cử để “lợi dung các cuộc tranh cử mà tuyên truyền khẩu hiệu của Đảng. Ở các cơ quan lập hiến, bênh vực cho các tầng lớp nhân dân bị áp bức”. Tỉnh ủy, chủ trương đưa thầy giáo Trần Chương ra ứng cử. Được sự ủng hộ và cổ vũ của quần chúng công nông, nhất là học sinh trong toàn tỉnh, thầy Trần Chương đã thắng cử. Thầy Trần Chương và cử nhân Phạm Đàm – nguyên tri huyện Điện Bàn, trở thành nghị viên Dân biểu Trung Kỳ khóa 1937 – 1941. Nhân các kỳ họp dân biểu nông dân đã đưa nguyện vọng đòi giảm thuế, chia lại ruộng đất công, giảm xâu, tăng lương cho công

50

Page 51: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nhân, giảm giờ làm đòi mở trường học … Được sự ủng hộ của nhóm dân biểu đối lập, kết quả là dự án tăng thuế của Pháp bị Viện Dân biểu bác bỏ.

Đến năm 1939, các ông Nghị Trần và Đặng Mật sáng lập ra hương trường Ninh Tịnh (dạy ba lớp: đồng ấu, dự bị và sơ đẳng). Đây là ngôi trường làng do địa phương tự thành lập đầu tiên trong tỉnh. Nhà giáo Trần Chương nổi tiếng là người có kiến thức sâu rộng, có phương pháp giảng dạy rất hiệu quả và là người có tư cách đúng đắn, mẫu mực. Tiếng lành đồn xa, học trò từ các nơi như Phú Cốc, Phú Điềm, Nho Lâm, Hạnh Lâm, Liên Trì, Phước Hậu, cả ở Phú Lâm, Đông Mỹ, Bàn Thạch… kéo về học. Tùy theo lứa tuổi mà ông khéo khơi gợi lòng yêu nước cho học sinh. Một số người lớn học đã thông tiếng Pháp vẫn tìm đến trường để học chữ Hán, để “nghe sách” (giảng giải về nho học) từ “gia đình học hiệu” của thầy Trần Chương trở thành cái nôi hun đúc lòng yêu nước ý chí độc lập, tự do. Các thế hệ học trò mà thầy dạy dỗ nhiều người đã trở thành những công dân ưu tú, những chiến sĩ cách mạng kiên cường, những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước tiêu biểu như Nguyễn Châu - bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, Hà Đăng - ủy viên Trung ương Đảng, trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương... là những nhà giáo có công lao lớn trong việc góp phần xây dựng nền móng cho nền giáo dục cách mạng của tỉnh.

Cùng trong thời gian này, thầy Huỳnh Nựu, thầy Đặng Xiêm mở trường ở Liên Trì, thầy Đoàn Kham mở lớp ở Thạnh Đức, thầy Nguyễn Chấn, Đỗ Tương mở trường sơ học ở Phước Hậu. Sau sự kiện nhân dân ở Phước Hậu đấu tranh chống cường hào nhũng nhiễu địa phương và bầu lại chức sắc, thầy Đỗ Tương trúng cử Lý trưởng, thầy giáo Nguyễn Chấn trúng cử Hương bộ, Trần Tân trúng cử Hương mục. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh công khai của tỉnh nhà, trong lòng của hệ thống chính quyền thực dân phong kiến có một làng mà chính quyền thuộc về những người thầy giáo cộng sản.

Hưởng ứng phong trào “Truyền bá Quốc ngữ” do Mặt trận Dân chủ chủ trương, một số nhân sĩ trí thức, tiến bộ tiêu biểu như cụ Nguyễn Văn Tố được mời đứng ra lập “Hội truyền bá Quốc ngữ”. Tinh thần và các hoạt động của Hội nhanh chóng mở rộng trong cả nước và lan tỏa đến Phú Yên. Đông đảo giáo viên, học sinh hăng hái tham gia. Lớp học vừa là nơi dạy chữ, dạy đời sống mới, vừa là nơi tuyên truyền các chủ trương của Mặt trận dân chủ (tức là của Đảng Cộng sản) nơi tập hợp quần chúng để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.

51

Page 52: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Vào giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai, tình hình cách mạng trong nước có nhiều thay đổi thuận lợi, các sinh viên học sinh Phú Yên đang học tập ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Qui Nhơn hoặc do tham gia phong trào yêu nước mà bị đuổi học, hoặc không có điều kiện học tiếp như: Trần Suyền sắp bảo vệ bằng kỹ sư nông nghiệp tại Đại học Hà Nội, Cao Văn Hoạch học sinh trường Collège Quy nhơn đã xếp bút nghiên về quê, tiếp sức cùng với các trí thức, sinh viên học sinh địa phương mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng học tập và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở địa phương.

Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, thành lập Chính phủ độc lập giả hiệu Trần Trọng Kim. Bọn thân Nhật ở Phú Yên có cơ hội huênh hoang và tuyên truyền chính sách phản động Đại Đông Á của Nhật. Trước tình hình nước sôi lửa bỏng ấy, được sự lãnh đạo của Đảng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Hữu Dực ở nhà tù Buôn Ma Thuột, các đồng chí đảng viên, các chi bộ Đảng lâu nay đã bị đứt liên lạc nay được nối lại. Tỉnh ủy lâm thời được thành lập để thống nhất lãnh đạo phong trào. Tháng 7 năm 1945, Mặt trận Việt Minh của tỉnh được thành lập gồm 19 ủy viên đại diện cho các hội đoàn thể yêu nước cách mạng thông qua các hội cứu quốc nông dân, thanh niên, phụ nữ, công nhân, trí thức, giáo chức, học sinh... dưới sự lãnh đạo của Đảng với khẩu hiệu mục tiêu chung là: “Đánh đổ phát xít Nhật, đánh đổ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, Việt Nam độc lập muôn năm”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, các cuộc biểu tình có vũ trang thị uy nổ ra khắp nơi ở Sông Cầu, La Hai, Tuy An, Đồng Bò. Hai cuộc biểu tình với quy mô rất lớn vào ngày 22-8-1945 ở Chí Thạnh, Hòa Đa có trên 2000 người tham gia và ngày 23-8 ở phủ Tuy Hòa có đến trên 4000 người thị uy làm cho chính quyền Nhật và bè lũ tay sai hoang mang, rệu rã. Chiều ngày 23-8-1945, Phú Yên nhận được mệnh lệnh tổng khởi nghĩa. Từ ngày 24 đến ngày 28-8-1945 cả tỉnh giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc khởi nghĩa tháng Tám của nhân dân Phú Yên kết thúc thắng lợi cùng với lịch sử dân tộc, lịch sử của tỉnh Phú Yên đã mở sang trang mới: Độc lập, tự do và Chủ nghĩa xã hội.

** * *

52

Page 53: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại có sự đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức giáo giới, học sinh và sinh viên nói chung của cả nước, trong đó có đội ngũ giáo giới và học sinh Phú Yên nói riêng. Bản thân họ không những là những chiến sĩ tiên phong đóng góp phần máu xương và trí tuệ của mình mà họ còn giáo dục đào tạo bao thế hệ trẻ thành những người lao động, chiến sĩ, cán bộ chuẩn bị cho công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước.

Đồng chí tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: “Dưới chế độ nào cũng vậy, nhân dân ta luôn liên hệ rất khắng khít với tầng lớp trí thức của dân tộc mà tiêu biểu là giáo giới. Quần chúng rất coi trọng giáo giới, vì họ là tinh hoa của dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng cách mạng thông qua lớp trí thức dân tộc đó mà đi đến với quần chúng”.

53

Page 54: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

PHẦN THỨ HAI

GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975 -------------

CHƯƠNG 3

GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945- 1954)

I. TOÀN QUỐC NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập

tuyên bố thành lập Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ngay từ khi mới ra đời, nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đương đầu với những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Vận mệnh nước nhà như ngàn cân treo sợi tóc. Giặc ngoại xâm đe dọa, bọn phản động quấy phá, nạn đói hoành hành, kinh tế kiệt quệ, ngân sách quốc gia hầu như trống rỗng, đại bộ phận nhân dân thất học, mù chữ …

Để củng cố những thành quả cách mạng vừa mới giành được, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch đã nêu ra Chính phủ có 3 nhiệm vụ trước mắt và lâu dài là: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm”.

Ngày 5 tháng 9 năm 1945 - Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh toàn quốc nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Người đã xác định vai trò, mục tiêu của nền giáo dục là phục vụ cho sự phục hưng đất nước mới giành được độc lập.

Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời ký sắc lệnh về giáo dục, Sắc lệnh số 16 đặt ra ngạch “Thanh tra học vụ” để kiểm soát việc học theo đúng chương trình giáo dục của Chính phủ. Ông Đặng Thai Mai làm Tổng thanh tra học vụ bậc Trung học và ông Nguyễn Hữu Tảo làm Tổng thanh tra học vụ bậc Tiểu học.

- Sắc lệnh số 17 đặt ra cơ quan bình dân học vụ và cử ông Nguyễn Công Mỹ làm Giám đốc.

54

Page 55: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

- Sắc lệnh số 18 bãi bỏ ngạch học quan do thực dân Pháp đặt ra.- Sắc lệnh số 20 qui định việc học chữ quốc ngữ bắt buộc.- Sắc lệnh số 38 thiết lập Bộ quốc gia Giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục.- Sắc lệnh số 144 thiết lập Hội đồng cố vấn học chính.

Và ngày 4 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “toàn dân chống nạn thất học”.

Như vậy, từ những ngày đầu cách mạng thành công, giáo dục đã được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất. Đảng và Nhà nước đã hình thành một bộ máy chăm lo sự nghiệp giáo dục với những nội dung về tổ chức, về quản lý giáo dục, về chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu, mục đích nguyên tắc, phương châm giáo dục một cách rất cơ bản và cụ thể. Bộ Quốc gia Giáo dục lãnh đạo các hoạt động giáo dục trong cả nước, xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ, góp phần xây dựng và củng cố nhà nước Việt Nam non trẻ.

Thực hiện quyền dân chủ, bình đẳng của người công dân mới được cách mạng đem lại, ngày 6 tháng 1 năm 1946 lần đầu tiên cùng với đồng bào cả nước trên 98% cử tri của Phú Yên từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, đảng phái, tôn giáo đi bầu cử Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các trí thức như Huỳnh Lưu, Phạm Ngọc Quế, Trần Quỳnh, Phan Lưu Thanh đã trúng cử đại biểu Quốc hội của tỉnh Phú Yên, thay mặt nhân dân cùng Quốc hội chăm lo quốc kế dân sinh.

Trước tình hình thực dân Pháp phá hoại hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước 14 ngày 9 tháng 1946, quân Pháp tìm cách gây hấn khắp cả nước, đánh chiếm Hải Phòng, Hà Nội … quân ta càng nhân nhượng giặc Pháp càng lấn tới. Ngày 19- 12- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không phân chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. ai có súng thì dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc …”.

Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Đảng và vị Cha già kính yêu của dân tộc, cùng với nhân dân cả nước, các tầng lớp nhân dân Phú Yên thắt chặt mối đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, chiến đấu trên các măt trận quân sự, sản xuất, văn hóa, giáo dục, thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể do tỉnh đề ra góp

55

Page 56: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

phần xứng đáng trong công cuộc trường kỳ kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp giành thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.

Ở Phú Yên, một sự kiện đặc biệt, tháng 10 - 1946, Ủy ban Hành chính tỉnh đã đề ra kế hoạch xây dựng nền giáo dục dân tộc dân chủ và quyết định thành lập trường Trung học đầu tiên của tỉnh, lấy tên là trường Trung học Lương Văn Chánh để đào tạo đội ngũ cán bộ cho tương lai.

II. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở PHÚ YÊN (1945-1954)2.1. Giáo dục bình dânChủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt việc xóa nạn mù chữ là công việc cấp bách hàng

đầu vì “Nạn dốt là một trong những phương pháp thâm độc mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta … Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong lời kêu gọi “Toàn dân chống nạn thất học”, Người viết “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Chính phủ ra hạn trong một năm tất cả người dân Việt Nam đều phải biết chữ Quốc ngữ. Chính phủ đã lập Nha Bình Dân học vụ để trông nom việc học cho dân chúng. “Quốc dân Việt Nam, muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người việt nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Lời kêu gọi “nâng cao dân trí” của Chủ tịch Hồ Chí Minh xem việc học của dân chúng gắn liền với thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đã làm xúc động tâm can người dân Việt Nam. Hàng triệu người dân mới được giải phóng trong cả nước đã hăng hái đến các lớp học.

Thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên kỳ 1, khóa I, bộ máy hoạt động Giáo dục Phú Yên đã được thành lập từ tỉnh đến các huyện, xã, buôn làng để trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục trong toàn tỉnh.

Về bộ máy Bình dân học vụCấp tỉnh, vì tính cấp bách và tầm quan trọng đặc biệt của công cuộc xóa nạn

mù chữ, Ty Bình dân học vụ được thành lập, độc lập với Ty tiểu học. Từ tháng 9/1946 đến tháng 9/1948, thầy Nguyễn Đức Ràn – nguyên Ủy viên

giáo dục trong Ủy ban Nhân dân huyện Tuy Hòa, phó Thanh tra Tiểu học vụ tỉnh Phú Yên được cử làm Trưởng ty Bình dân học vụ.

Từ tháng 9 năm 1948 đến tháng 9/1949, thầy Võ Hồng làm Trưởng ty.

56

Page 57: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Từ tháng 9/1949 đến tháng 5/1951, thầy Nguyễn Chí Thống làm Trưởng ty. Để giúp việc cho Trưởng ty có Phó ty và các ban học vụ, ban kiểm soát.

Thực hiện chủ trương cải cách giáo dục lần thứ nhất của Chính phủ (tháng 7 năm 1950), ty Bình dân học vụ và ty Tiểu học được thống nhất lại thành ty Giáo dục do thầy Nguyễn Đức Ràn làm Trưởng ty.

Ở cấp Huyện, mỗi huyện, thị có Ban Bình dân học vụ, gồm 01 trưởng ban, 01 phó ban và 01 kiểm soát viên.

Ở cấp Xã, mỗi xã phường, buôn, làng có ban Bình dân học vụ xã, có đội giáo viên tự nguyện đi dạy các lớp xóa mù. Giúp ban Bình dân học vụ xã có ban bảo trợ, gồm các đại biểu Ủy ban nhân dân, đại diện Mặt trận Liên Việt, đại diện các đoàn thể thanh niên, phụ nữ và các cụ bạch đầu quân để động viên phong trào.

Về công tác vận động Ngay từ những ngày đầu hoạt động, ty Bình dân học vụ đã phát động một

phong trào xóa nạn mù chữ rộng khắp trong toàn tỉnh. Công tác tuyên truyền, cổ động rầm rộ động viên toàn xã hội tham gia “diệt giặc dốt” với các khẩu hiệu như “đi học bình dân học vụ là yêu nước” đã cuốn hút mọi người. Ở khắp nơi trong tỉnh, từ thành thị đến nông thôn, từ miền biển đến miền núi các lớp học xóa mù chữ được mọc lên.

Tiếng ê a đánh vần của các em bé hòa với tiếng cười vui hát hò, đố chữ ở các sân kéo vải, ở quanh các cối giã gạo nuôi quân của nam nữ thanh niên cùng với tiếng lập cập của các cụ bạch đầu quân đi động viên đôn đốc kiểm tra con cháu học hành làm thành một bản hòa tấu tươi vui rộn rã, đầy sức sống của những làng quê kháng chiến. Lớp học là đình, chùa, miếu, lẫm, là mái tranh nghèo, là bóng mát dưới gốc đa cổ thụ, là bến đò, cổng chợ … học bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào. Người nông dân học trên đường vác cày ra ruộng, trên đám ruộng cấy, trong lúc tát nước, nhổ mạ. Người chài lưới học trên sông nước. Sách vở, dụng cụ học tập thiếu thốn, kham khổ nên phấn viết thay bằng than củi, bảng học thay bằng nền nhà, sân đất; bút viết bằng que cây viết lên khay cát, lấy que nhọn vẽ lên lá chuối non. Ai may mắn lắm là được cuốn vở giấy nam trung còn gồ ghề xác rơm rạ, mực viết thì lấy nước từ hạt mồng tơi chín đỏ … Những vần ca dao mộc mạc mà đầy khích lệ được phổ biến rộng rãi ở Phú Yên:

57

Page 58: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

“Lấy chồng biết chữ là tiên, Lấy chồng dốt đặc là duyên con bò”

Nhiều thôn, xã lập các tổ kiểm tra Bình dân học vụ giăng dây hỏi chữ trên các ngả ba đường đến chợ, qua bến đò.

“Bình dân học vụRủ hết các nơiLớp học giữa trờiCó người đến hỏiNgười nào học giỏiThì mới được điNếu chưa biết gìThì về học lại”

Các ban bảo trợ Bình dân học vụ đến từng nhà kiểm tra việc học. Trong nhà có mấy người biết chữ thì vẽ thưởng mấy vòng trắng, mấy người chưa biết chữ thì vẽ mấy vòng đen lên tấm bảng treo trước hiên nhà. Giáo viên bình dân sẽ đến từng nhà dạy cho đến xóa kỳ hết vòng tròn đen mới thôi.

Những bài hát động viên đi học bình dân phỏng theo nhịp đi – hành khúc “một hai một”, được các đội dân quân Tự vệ hát vang trong các buổi tập quân sự.

“A cùng B suốt ngày mà lòng không chánChúng ta cố công học hànhTrí hèn mà lòng thêm sángThấm thoát chỉ vài ba thángBiết xem, viết thư tinh tườngLàm thông vài ba phép tínhSướng vui hát ca lên đườngGiết phường xâm lăng!”

Những khẩu hiệu mới về Bình dân học vụ kịp thời phổ biến rộng khắp, phục vụ và gắn liền với nhiệm vụ kháng chiến:

“Mỗi lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến”.“Mỗi giáo viên Bình dân học vụ là một đội viên tuyên truyền kháng chiến”.

“Đi học là kháng chiến”, “Có học thì kháng chiến mới thắng lợi”, “Tiền tuyến diệt xâm lăng - hậu phương trừ giặc dốt”.

58

Page 59: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Nội dung dạy và họcTrong những ngày đầu của phong trào Bình dân học vụ, chưa có tài liệu giảng

dạy, thầy giáo tự soạn tự giảng, chủ yếu dựa vào “vần quốc ngữ” lớp đồng ấu, sách của Hội truyền bá quốc ngữ ngày xưa. Về sau, những tập sách mỏng từ Liên khu gửi về được in litô, hoặc chép tay, giáo viên chuyền tay nhau mà dạy.

Ngày 2 tháng 9 năm 1948, Bác Hồ gửi thư cho chiến sĩ Bình dân học vụ hướng dẫn nội dung dạy học ở các lớp “dự bị bình dân”:

1/ Học thường thức vệ sinh để dân bớt đau ốm.2/ Thường thức khoa học để bớt mê tín nhảm.3/ Học 4 phép tính để làm ăn có ngăn nắp.4/ Học lịch sử và địa dư nước ta để nâng cao lòng yêu nước.5/ Học đạo đức của công dân để trở thành người công dân đứng đắn.Kết hợp với tình hình thời sự địa phương, ban học vụ của tỉnh, các giáo viên

soạn thêm các bài về chủ điểm vận động “đời sống mới”, với nội dung giữ gìn vệ sinh, ăn đũa hai đầu, ăn chín, uống sôi “tam tinh – tứ diệt” (3 sạch: ăn sạch, ở sạch, uống sạch; 4 diệt: diệt ruồi, diệt muỗi, diệt sâu bọ, diệt chuột), về chủ điểm kháng chiến có bài “Hũ gạo kháng chiến”, “Hũ gạo đồng tâm’, “Mùa đông binh sĩ”… mỗi lớp học, nhóm học bình dân là một cơ sở tuyên truyền cho kháng chiến, kiến quốc.

Phương pháp dạy và học Thầy dạy là người bình dân nên phương pháp dạy, phương pháp học phải thật dễ hiểu, dễ nhớ:

Chữ cái được diễn ca thành các câu lục bát : i, t (tờ) hai chữ giống nhau,

i thấp có chấm, t (tờ) dài có ngang. O tròn như quả trứng gà

Ô thời đội mũ, ơ thì mang râu. O, a hai chữ khác nhau,

vì a có cái móc câu bên mình. 5 dấu giọng cũng được bẻ thành câu ca :

Huyền (‘) ngang, sắc () dọc, nặng (.) tròn.Hỏi (?) lom khom đứng, ngã (~) buồn nằm ngang.

59

Page 60: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Học bằng mắt, nhìn tận nơi mà ngày nay ta gọi là “phương pháp trực quan”. Nong, nia quét vôi trắng, viết các chữ cái “a, b…” dựng ở các ngã đường. Chữ viết trên nón người đi chợ, trên đòn gánh người gánh hàng hoặc đặt thành câu ca, hò vè là cách dạy cho người học dễ hiểu, dễ nhớ.

Đội ngũ giáo viên Chủ tịch Hồ Chí Minh dù bận trăm công ngàn việc, hằng tuần vẫn dành một

buổi tối đến thăm các lớp học bình dân. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Người lại viết thư cho giáo viên BDHV trong cả nước.

… “Anh chị em yêu quý !Chương trình của Chính phủ ta là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng

có ăn, có mặc, có học. Vậy nên khẩu hiệu của chúng ta là :1. Tăng gia sản xuất.2. Chống nạn mù chữ”

Anh chị em là đội tiên phong trong sự nghiệp số 2 đó. Anh chị em chịu cực khổ khó nhọc, hy sinh phấn đấu, để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hóa sơ bộ cho dân tộc. Anh chị em là những người “vô danh anh hùng”. Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần của tương lai dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em. Tôi mong rằng trong một thời kỳ rất ngắn, lòng hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ có kết quả vẻ vang: Đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không bằng”.

Giáo viên là những thanh niên, học sinh, cán bộ thôn xã, người từ thành thị tản cư về nông thôn, là vợ, chồng, anh chị em trong gia đình. Người biết chữ dạy người chưa biết chữ… học được đến đâu dạy lại đến đó. Hết chữ lại đi học về dạy tiếp… họ dạy học tự nguyện, không nhận thù lao chỉ bằng sự hăng say và lòng nhiệt tình của người chiến sĩ “chia chữ” cho đồng bào.

Tháng 6 năm 1947, nha Bình dân học vụ quyết định công bố “huy hiệu Bình dân học vụ”, Bác Hồ gửi ảnh để tặng thưởng giáo viên có thành tích.

Để nâng cao chất lượng người dạy, ở các xã, huyện, tỉnh và liên khu thường xuyên mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng cấp tốc cho cán bộ giáo viên về nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, cách kiểm tra, đánh giá công tác giáo dục Bình

60

Page 61: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

dân, và đặc biệt là chú trọng 2 môn Toán và Văn. Họ còn được trao đổi về kinh nghiệm tổ chức, vận động bà con ra lớp, duy trì, giữ vững và phát triển phong trào.

Các cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng ở Tỉnh, Khu đều phải qua kì thi sát hạch và được cấp giấy chứng nhận ở hai ngạch :

Ngạch kiểm soát viên sơ cấp.Ngạch kiểm soát viên cao cấp.

Tỉnh Phú Yên có 4 giáo viên được cấp giấy chứng nhận kiểm soát viên cao cấp ngành Bình dân học vụ :

1. Nguyễn Chí Thống2. Văn Đức Trưng3. Trần Đắc Khoa4. Nguyễn Ngọc Châu

Chương trình, cấp, lớp họcTừ năm 1945 đến 1949, yêu cầu của ngành Bình dân học vụ là hoàn thành 02

trình độ:1. Lớp xóa nạn mù chữ, thời gian dạy và học là 3 tháng, yêu cầu học sinh

phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.2. Lớp dự bị bình dân, thời gian học 5 tháng, học sinh đã học xong xóa

mù chữ, yêu cầu là đạt trình độ cơ bản tương đương lớp 3 phổ thông. Cuối năm 1947, trong toàn tỉnh đã có đến 25% số người từ 8 tuổi trở lên 45

tuổi biết đọc, biết viết. Đến cuối năm 1948, xã Hòa Thắng (gồm cả Hòa Thắng và Hòa An hiện nay) và xã An Hòa (huyện Tuy An) được công nhận là những xã xóa mù chữ đầu tiên của Phú Yên. Riêng xã Hòa Thắng được công nhận là xã thanh toán nạn mù chữ sớm nhất Liên khu V. Lễ rước danh hiệu Lá cờ đầu được tổ chức trọng thể tại xã Hòa Thắng có đông đảo đại biểu các xã, huyện trong toàn tỉnh đến dự. Đặc biệt là ông Giám đốc Sở Bình dân học vụ Nguyễn Lê Thiệu và đại diện Ủy Ban KCHC Nam Trung bộ về chứng kiến, động viên, khen thưởng phong trào.

Sau đó, các xã khác như Hòa Quang, An Ninh, Hòa Bình, Hòa Thịnh, Hòa Tân, Phước Hậu, La Hai … lần lượt hoàn thành việc xóa mù chữ … Đến cuối năm 1949, toàn tỉnh đạt 70% số người trong độ tuổi (từ 15 đến 45) biết đọc, biết viết. 50 xã trong số 58 xã người Kinh đã thanh toán mù chữ. Đến cuối 1950, Phú Yên được Chính phủ công nhận là tỉnh đạt tiêu chuẩn hoàn thành thanh toán nạn mù chữ.

61

Page 62: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Những năm 1947 – 1949, Phú Yên đã cử 176 cán bộ cốt cán có trình độ tiểu học theo học các khóa của trường Trung học Bình dân tại Quảng Ngãi do Ủy ban KCHC Nam Trung bộ lập ra theo sáng kiến của Đồng chí Phạm Văn Đồng. Lúc đó Đồng chí là đại diện của Chính phủ tại Nam Trung bộ và được suy tôn là Hiệu trưởng danh dự của nhà trường.

Sau năm 1950, Bình dân học vụ mở thêm các lớp “Bổ túc bình dân” dành cho các học viên đã qua các lớp dự bị bình dân. Thời gian học lớp này là 8 tháng. Chương trình học là nội dung cơ bản, rút gọn chương trình cấp I phổ thông. Cụ thể 3 môn: Toán, Văn và Khoa học thường thức. Ngoài ra, qua các lớp này học sinh còn được truyền đạt những chủ trương chính sách của Nhà nước và địa phương.

Từ năm 1952, Phú Yên mở lớp “tiểu học bình dân” cấp tỉnh tại Hà Bằng (Xuân Sơn) học viên là cán bộ chủ chốt cấp xã, cấp huyện, chi ủy viên, huyện ủy viên. Năm 1953 mở thêm một lớp với tổng số học viên hai khóa được trên 80 người. Nội dung chương trình như cấp I nhưng phải học thêm môn Triết học Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử và các môn lý luận chính trị khác. Mãn khóa học viên được cấp bằng Tiểu học bình dân. Một số được tiếp tục học lên bậc Trung học bình dân.

Trên cơ sở phát triển của phong trào Bình dân học vụ, lần đầu tiên Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết số 52 vào tháng 6-1952 về “đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa”. Nghị quyết đã nêu lên một cách đầy đủ về nội dung, yêu cầu, phương châm, phương pháp của Bình dân học vụ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, trong thời kỳ chuyển mạnh sang “tổng phản công”.

Đến năm 1953 – 1954, trong điều kiện chiến tranh mở rộng, cuộc kháng chiến ác liệt, chống chiến dịch Át lăng của Pháp tấn công lấn chiếm Phú Yên, Tây Nguyên và đồng bằng Khu V, tuy thế phong trào xóa mù chữ và Bình dân học vụ vẫn duy trì.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), với hoàn cảnh đầy thử thách khó khăn, những thành tựu của công tác xóa mù chữ và bổ túc văn hóa là kết quả cửa sự nỗ lực phi thường của toàn ngành giáo dục và lòng hiếu học của nhân dân ta. 10 tỉnh đã được công nhận là đơn vị hoàn thành thoát nạn mù chữ34, trong đó Phú Yên vinh dự được công nhận là 01 trong 10 đơn vị ấy. Năm 1951, Nha bình dân học vụ được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Bác Hồ nói: “đó là sự khen thưởng rất xứng đáng, cũng là khen thưởng chung cho tất cả nam nữ cán bộ trong

34 50 năm phát triển Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Nxb Giáo dục , 1999, tr.267.62

Page 63: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nước và ngoài nước đã có công trên mặt trận diệt dốt, cho tất cả các vị phụ lão và các nhân sĩ đã ủng hộ Bình dân học vụ, cho tất cả đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài đã cố gắng thi đua thoát nạn mù chữ”. Tháng 5 -1952, thầy giáo Lê Thông, hiệu trưởng trường Tiểu học xã Hòa Quang, tấm gương tiêu biểu cho ngành giáo dục Phú Yên được cử đi dự Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua công nông binh Toàn quốc lần thứ I tại Việt Bắc. Thầy giáo Lê Thông là 1 trong 5 chiến sĩ thi đua tiêu biểu cho ngành giáo dục Toàn quốc và vinh dự được Bác Hồ khen thưởng.

2.2. Về giáo dục phổ thông 2.2.1. Giáo dục Tiểu học Năm học đầu tiên mới khởi sắc chưa bao lâu thì cuộc Kháng chiến toàn quốc

bùng nổ. Phú Yên là tỉnh địa đầu phía Nam của Khu V, là hậu phương trực tiếp của khu VI. Thực dân Pháp lâm le muốn đánh chiếm Phú Yên, đầu năm 1947 Pháp tấn công ra nam Phú Yên, chúng đã bị quân dân Phú Yên đánh trả quyết liệt buộc chúng phải co cụm lại tại núi Hiềm (xã Hòa Xuân). Thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” với khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, “bao vây kinh tế địch…” đồng bào, thầy giáo, học sinh phải tản cư về nông thôn, không có trường, không có lớp để dạy học đã làm cho ngành giáo dục bị xáo trộn. Phong trào giáo dục có phần giảm sút. Cuối năm học 1945 – 1946 cả tỉnh chỉ còn có 82 lớp học với 4826 học sinh, 104 giáo viên. Kỳ thi Tốt nghiệp tiểu học năm học 1946 – 1947 chỉ có 343 học sinh dự thi, phần nhiều là số học sinh lớn tuổi (tình hình giáo dục trong cả nước cũng sụt xuống: còn 4952 trường, 8720 giáo viên, 284.314 học sinh tiểu học).

Giữa năm 1947, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh thành lập “Hội bảo trợ học vụ” kêu gọi nhân dân đóng góp tiền của và công sức để xây dựng sửa chữa trường lớp; động viên, tạo điều kiện cho con em trở lại trường, vận động các trí thức tham gia dạy học. Cả tỉnh đến năm 1948 đã xây dựng được 136 trường tiểu học có 275 giáo viên với 11.300 học sinh.

Tổ chức các liên trường gồm các trường ở nông thôn trong một xã, hoặc ghép các trường của 2, 3 xã lân cận thành một trường. Năm học 1948 – 1949 toàn tỉnh có 186 trường, 24 liên trường và 13.450 học sinh (đạt 1/3 số học sinh đến tuổi đi học)35.

Mỗi liên trường có một Liên hiệu trưởng. Liên hiệu trưởng rất vất vả, trách nhiệm nặng nề quản lý các trường và hướng dẫn hoạt động dạy học phạm vi liên

35 Xem phần Chú thích Hiệu trưởng liên trường63

Page 64: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trường. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, soạn bài tập thể, trao đổi giáo khoa, kiểm tra các công tác quản lý, tổ chức công tác giảng dạy, chăm lo đời sống giáo viên, liên hệ với chính quyền địa phương, hội bảo trợ học vụ và hội cha mẹ học sinh.

Ngoài trường công lập, ở những thôn xã có điều kiện được mở trường tiểu học tư thục. Lúc bấy giờ Phú Yên có trường Trương Vĩnh Ký ở Mằng Lăng, trường tư thục ở xã An Thạch (Tuy An), xã Hòa Bình (Tuy Hòa)… đã góp phần tạo điều kiện cho con em học tập, nâng cao số lượng học sinh.

Bước sang năm học 1950-1951, cả nước thực hiện chủ trương cải cách giáo dục lần thứ nhất của Chính phủ, ngành giáo dục phổ thông thực hiện giảng dạy theo hệ 9 năm, chia làm 3 cấp.

Cấp I thay cho bậc tiểu học cũ, với 4 lớp (từ lớp 1 đến lớp 4). Cấp II thay cho bậc trung học đệ nhất cấp, với 3 lớp (từ lớp 5, lớp 6, lớp 7).

Cấp III thay cho bậc trung học đệ nhị cấp, với 2 lớp (lớp 8 và lớp 9).Từ năm 1950 – 1951, giáo dục phổ thông bắt đầu hoạt động theo tổ chức,

chương trình, nội dung cải cách thống nhất trong cả nước phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới.

Giáo dục phổ thông cấp I phát triển mạnh. Giáo viên thiếu rất nhiều. Sở giáo dục Liên khu V giao trách nhiệm cho trường Trung học Lương Văn Chánh mở lớp sư phạm cấp tốc thời gian 1 năm, đào tạo được 30 giáo viên cấp 1 bổ sung giáo viên cho tỉnh. Lớp Sư phạm dầu tiên này do thầy Trương Đống phụ trách, thầy Bùi Xuân Các dạy chính trị, thầy Trần Sĩ dạy môn nghiệp vụ.

Năm học 1952 – 1953, giáo dục cấp I Phú Yên phát triển mạnh nhất với khoảng 25.000 học sinh tăng gấp 25 lần và 550 giáo viên tăng gấp 5 lần so với trước cách mạng Tháng Tám.

Tình hình trường lớp, giáo viên, học sinh Phú Yên 1945-1953Năm học Số

trườngLớp Học

sinhGiá

o viênTrước tháng 8/1945 5 #

10001945 – 1946 35 82 4.826 1041948 – 1949 136 11.30

0275

64

Page 65: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1949 – 1950 186 13.450

322

1952 - 1953 186 25.000

550

2.2.2. Giáo dục Trung học Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, ngay trong phiên họp đầu

tiên của Hội đồng Nhân dân tỉnh vào tháng 5 năm 1946, cùng với những nghị quyết quan trọng về sản xuất và chiến đấu, còn có nội dung đề cập việc “diệt giặc dốt” để nâng cao dân trí, vừa có quyết định thành lập trường Trung học để nâng cao trình độ văn hóa, đào tạo nhân tài, cán bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Ông Lê Duy Trinh, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Phú Yên giao trách nhiệm cho thầy Trần Suyền (Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh) và thầy Trần Sĩ – Hiệu trưởng trường tiểu học Tuy Hòa chuẩn bị việc thành lập trường “Cách mạng mới thành công, mọi việc đều khó khăn thiếu thốn, tỉnh giao cho hai thầy lo liệu làm sao thì làm” 36.ong trân

Niên khóa đầu tiên của trường Trung học Lương Văn Chánh khai giảng vào ngày 15 tháng 10 năm 1946. Đây là ngày lịch sử đáng ghi nhớ của nền Giáo dục tỉnh, ngày ra đời của bậc Trung học trên đất Phú Yên. Trường thành lập nhưng cơ sở vật chất thiếu thốn, cơ sở hoạt động chỉ tạm vài phòng ở trường tiểu học Tuy Hòa (nay là trường Trung học cơ sở Lê Lợi). Khó khăn nhất là thiếu giáo viên. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, Ủy ban điều một số trí thức đang công tác ở các ngành khác sang chi viện cho trường như thầy Bùi Xuân Các (Trưởng ty Thông tin tuyên truyền, Tổng biên tập báo Chiến thắng - Phú Yên), thầy Đặng Ngọc Cư, thầy Đinh Nho Bát, thầy Võ Văn Sung. Số học sinh lên đến 120 người, phân làm 3 lớp đệ nhất niên.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946 lệnh Toàn quốc kháng chiến ban ra. Thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến, cơ quan, trường học ở thành thị đều tản cư về nông thôn. Thầy giáo, học sinh về địa phương tham gia kháng chiến. Đầu năm 1947, thầy Trần Sĩ được giao nhiệm vụ mở lại trường Lương Văn Chánh tại Hóc Lá, thôn Định

36 Đà Giang Trần Sĩ – Một cuộc đời. Nxb Tp. HCM, trang 157.

65

Page 66: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Phong, xã An Nghiệp, Tuy An. Số học sinh là 17 trong số 120 trở lại trường học, ghép thành 1 lớp.

Chương trình học ngày 2 buổi, học môn văn hóa và học nghề nông. Ngoài ra, học sinh còn phải tham gia dạy bình dân học vụ, xóa mù chữ, công tác xã hội, tuyên truyền đời sống mới, hoạt động thể dục thể thao. Nhân kỉ niệm 1.000 ngày Kháng chiến, trường Lương Văn Chánh và thầy Trần Sĩ được tuyên dương toàn Khu V.

Niên khóa thứ 2 (1947 - 1948), trường có 4 lớp gồm 1 lớp đệ nhị niên và 3 lớp đệ nhất niên với 184 học sinh. Lúc này trường dời về An Thổ, xã An Dân, Tuy An.

Niên khóa thứ 3 (1948 - 1949), trường phải chuyển đến chùa Phổ Bảo, dưới chân núi Ngang, Đồng Me, Tuy An với 7 lớp (1 lớp đệ tam, 2 lớp đệ nhị và 4 lớp đệ nhất) gần 300 học sinh. Lúc này trường đã phát triển với quy mô lớn, giáo viên được bổ sung, việc giảng dạy tổ chức quy cũ hơn. Giáo viên được chia thành các Nhóm chuyên môn như sau:

- Khoa học tự nhiên: môn Toán, Vật lý thầy Huỳnh Diệu, Nguyễn Khải phụ trách; môn Vạn vật : Trần Kỳ Doanh, Trần Văn Kỳ …

- Khoa học xã hội : môn Văn do thầy Bùi Xuân Các, môn Sử – Địa do thầy Bửu Thọ phụ trách; Ngoại ngữ: Pháp văn thầy Võ Hồng, Trần Thiện Căn phụ trách; môn Anh văn do cô Phan Diệu Báu, thầy Hồng Hà phụ trách

Tài liệu giảng dạy lúc này khan hiếm. Thầy Trần Sĩ có được 1 bộ “Larousse de xxe

- siècle” (Tự điển thế kỷ XX) của thư viện nhà máy đường Đồng Bò và sau đó có thêm bộ Larousse universelle (Tự điển Bách khoa) và cuốn từ điển Khoa học của Hoàng Xuân Hãn. Trên cơ sở các bộ từ điển đó và dựa theo chương trình của Bộ giáo dục về các môn khoa học tự nhiên, các giáo viên phân nhau dịch các từ điển rồi soạn thành bài giảng. Đối với môn khoa học xã hội, giáo viên dựa theo quyển “Thế giới sử” của Đào Duy Anh, “Việt Nam Sử lược” của Trần Trọng Kim để giảng dạy. Việt văn thì giáo viên chọn lọc trong số tác phẩm của nhóm Tự lực Văn đoàn, Văn Đàn bảo giám và các sách báo kháng chiến.

Các bài dạy đều thông qua tập thể với yêu cầu đơn giản, súc tích, chính xác và phục vụ công nông. Nhờ thế mà thầy dễ dạy, trò dễ học. Thầy Bùi Xuân Các, người viết chữ đẹp được phân công tổ chức xưởng in li-tô. Học sinh Phạm Bích đem bảng đá nhà thờ của mình cho trường mượn làm bảng in. Nhóm học sinh viết chữ đẹp như Phạm Bích, Lê Huỳnh, Bùi Sinh, Phan Bá Ngại, Nguyễn Tài Sum, Ngô Thượng Ẩn,

66

Page 67: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Vũ Văn Duật, Nguyễn Xuân Đàm…, viết chữ trái, vẽ hình ngược để in li-tô bài soạn của các thầy, rồi phát cho học trò.

Trường Lương Văn Chánh Phú Yên có truyền thống viết chữ đẹp, thường được gọi là nét chữ Bùi Xuân Các. Trường có y tá chuyên trách chăm sóc sức khỏe cho thầy và trò, có bếp ăn tập thể. Ngoài ra, trường còn nhận mở lớp Bổ túc văn hóa cho cán bộ, giáo viên tiểu học và nhân dân trong vùng.

Cuối năm 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn chuẩn bị tổng phản công, hưởng ứng lời kêu gọi của tiền tuyến, học sinh Lương Văn Chánh với nhiệt tình yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sục sôi, ngày 20/9/1949 học sinh tổ chức kéo nhau lên tỉnh xin “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Đoàn học sinh mấy trăm người kéo nhau thành hàng dài, đi trong mưa gió mùa đông, gây ấn tượng sâu sắc trong nhân dân. Tuy vậy Tỉnh chỉ nhận một trung đội với 40 người vào Vệ quốc quân37. Số học sinh còn lại trở về tiếp tục học tập để dựng xây Tổ quốc sau này. Trường có chi bộ đảng với 7 đảng viên. Cuối năm 1950 tăng lên 117 đảng viên.

Năm học thứ tư (1949 – 1950), mở đầu cho năm học lại là một trận bão lụt rất lớn, trường lớp sập đổ, hư hại nặng nề, thầy trò nhanh chóng khắc phục khó khăn, khôi phục trường lớp, tiếp tục dạy học với quy mô 11 lớp (1 lớp đệ tứ niên, 2 lớp đệ tam niên, 3 lớp đệ nhị niên và 5 lớp đệ nhất niên) với 400 học sinh và 14 giáo viên. Để giữ trọn lời hứa với đàn anh ra đi cứu nước, người ở lại cố gắng học tập và sẵn sàng chờ lệnh khi Tổ quốc cần. Kết quả là năm ấy học sinh lớp đệ tứ (cuối cấp trung học đệ nhất) đã mang về cho nhà trường những thành tích xuất sắc: Giải nhất bộ môn Toán kỳ thi học sinh giỏi toàn Liên khu V. Kỳ thi tốt nghiệp đệ tứ toàn Khu V, học sinh Lương Văn Chánh đỗ 100% và thủ khoa thuộc về anh Cao Chi, học sinh Lương Văn Chánh.

Năm học 1950 – 1951, Phú Yên từ 1 trường trung học đã phát triển thành một hệ thống trường cấp 2, gồm 3 trường:

- Trường cấp II Tuy An (Lương Văn Chánh cũ, đóng ở An Định) thầy Trần Sĩ tiếp tục làm Hiệu trưởng đến năm 1952 thì về tỉnh giữ chức Trưởng Ty giáo dục. Những thầy làm Hiệu trưởng trường cấp II Tuy An kế tiếp từ năm 1952 đến năm 1955 là thầy Võ Hồng, thầy Bùi Xuân Các, thầy Nguyễn Chí Thống, Nguyễn Cách .37 Các anh đã trở thành anh Bộ đội Cụ Hồ, dũng cảm chiến đấu hy sinh trên các chiến trường Nam Bắc. Nhiều anh đã trở thành sĩ quan cao cấp của quân đội nhân dân Việt Nam

67

Page 68: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

- Trường cấp II Tuy Hòa đóng ở Lò Tre thôn Định Thành, xã Hòa Định, huyện Tuy Hòa do thầy Huỳnh Diệu làm Hiệu trưởng với 9 lớp 300 học sinh và 15 giáo viên (Thầy Hồng Hà, Nguyễn Dương, Trần Văn Kỳ, Nguyễn Trắc, Cao Sĩ Liễu, Nguyễn Minh, Nguyễn Cách, Nguyễn Bá Quát…) Trong chương trình có thêm môn Hoa văn do thầy Nguyễn Minh phụ trách.

- Trường cấp II Đồng Xuân đóng ở Xuân Lộc (Gò Duối - Sông Cầu) do thầy Phạm Bôn làm Hiệu trưởng với 3 lớp, 150 học sinh, 6 giáo viên. Năm 1953 trường dời về Vũng Lắm, thôn Triều Sơn, xã Xuân Thọ 2 rồi về chùa Hóc Cát, dưới chân đèo Cây Cưa.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Phú Yên ngày một thắng lợi. Cuối năm 1950 địch rút khỏi núi Hiềm (Hòa Xuân). Phú Yên hoàn toàn giải phóng. Nhân dân chiến khu I muốn có một trường cấp 2 để đáp ứng yêu cầu học tập cho con em trong Huyện.

Năm 1951 - 1952 trường cấp II Tuy Hòa chia thành trường cấp 2 Tuy Hòa I, và cấp 2 Tuy Hòa II. Trường cấp 2 Tuy Hòa I đóng tại chợ Xởm, ở thôn Cảnh Phước (xã Hòa Tân). Do thầy Trần Thiện Căn làm Hiệu trưởng. Với 8 lớp, 300 học sinh và 8 giáo viên. Năm học 1952 – 1953 trường dời về vườn Mù U, thôn Phước Bình.

Trường cấp II Tuy Hòa II dời về Phú Lộc, xã Hòa Thắng do Thầy Trần Xuân Nam làm Hiệu trưởng. Trường có 2 lớp 7, 3 lớp 6 và 4 lớp 5.

Trường cấp II Xuân Lộc (Gò Duối – Sông Cầu) thầy Phạm Bôn làm hiệu trưởng. Và cũng trong năm này mở thêm trường cấp II ở La Hai, tại xã Xuân Long, trường chỉ có một lớp 5.

Ngoài hệ thống 5 trường cấp 2 quốc lập, tỉnh còn mở thêm 3 trường cấp II tư thục : 1 trường ở xã Hòa Bình do thầy Nguyễn Bình làm Hiệu trưởng, 1 trường ở Tuy An đóng ở xã An Ninh, lấy tên là trường Nguyễn An Ninh, do thầy Nguyễn Thúc Cưu làm Hiệu trưởng và trường tư thục công giáo Trương Vĩnh Ký ở Mằng Lăng xã An Thạch.

Năm học 1952 - 1953 là năm bậc học cấp II phát triển cao nhất. Toàn tỉnh có 8 trường cấp 2 (5 công lập và 3 tư thục) với 34 lớp, 1350 học sinh, 46 giáo viên. Phú Yên chưa có trường cấp III, gần 200 học sinh của 4 lớp 7 trong toàn tỉnh (2 lớp 7 trường cấp II Tuy An, 2 lớp 7 trường cấp II Tuy Hòa II) chỉ có học sinh xuất sắc được

68

Page 69: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

chọn đi học lớp 8 ở trường cấp III Nguyễn Huệ – An Nhơn – Bình Định rồi lên lớp 9 ở trường Lê Khiết – Quảng Ngãi. (Số học sinh này năm 1954 được tập kết ra Bắc, được đào tạo thành những cán bộ KH-KT cao cấp của Nhà nước).

Là hậu phương lớn cho khu VI, Tây Nguyên, hàng trăm gia đình nhân dân Phú Yên còn nhận nuôi trên 200 con em học sinh ở vùng bị chiếm như Khánh Hoà, Ninh Thuận, Đắc Lắc, Gia Lai. Các em học hết cấp I được chuyển lên học ở các trường thiếu sinh quân, các trường phổ thông cấp II. Một số học sinh trở về chiến trường cực nam tham gia chiến đấu. Một số trong các em được tập kết ra Bắc, tiếp tục học tập, sau này trở thành những cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ Đảng, chính quyền các cấp ở Trung ương và ở các tỉnh bạn ở Nam Trung Bộ38.

Cuối năm 1953, giặc Pháp mở chiến dịch Át Lăng, Phú Yên từ một tỉnh tự do của khu V đã biến thành một chiến trường lớn, các trường cấp 2 phải di chuyển nhiều nơi hoặc nghỉ dạy.

Đông Xuân năm 1953 – 1954, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, Tây Nguyên, quân và dân Phú Yên đã đánh bại chiến dịch Át Lăng của địch, buộc chúng phải co cụm lại ở thị xã Tuy Hòa. Các trường cấp 2 lần lượt được mở lại. Trường cấp II Tuy Hòa I được mở lại ở vườn lẫm thôn Mỹ Hòa (xã Hòa Thịnh) sau dời về Thạnh Phú xã Hòa Mỹ. Trường Cấp II Đồng Xuân dời về miếu Rậm thuộc thôn Lệ Uyên, xã Xuân Phương.

Tuy chiến tranh ngày càng ác liệt, song thầy và trò các trường cấp 2 trong tỉnh vẫn kiên cường duy trì trường lớp, giảng dạy và học tập cho đến ngày hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình được lập lại trên quê hương.

Tình tình giáo dục cấp 2 từ 1946 đến 1953

Năm học Số trường Số lớp Học sinh Giáo viên1946 – 1947 1 3 120 51947 – 1948 1 4 184 101948 – 1949 1 7 289 171949 – 1950 1 11 400 211950 – 1951 3 21 750 351951 – 1952 5 34 1.350 46

38 Trần Mạnh Trí, Huỳnh Sum, Đoàn Văn Điện... Trần Lịnh, Phạm Thị Minh Hà, Thái Phụng Nê, Nguyễn Đình Điện, Nguyễn Xuân Đàm, Trần Lịnh...

69

Page 70: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1952 – 1953 8 (3)

2.3.Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viênNăm 1949, Ty giáo dục mở lớp Sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học. Trường

tọa lạc ở xã An Định do thầy Trương Đống làm hiệu trưởng, thầy Nguyễn Thái làm giáo viên, thời gian học một năm. Số lượng 56 giáo sinh được tốt nghiệp bổ sung cho đội ngũ giáo viên cấp 1 trên phạm vi toàn tỉnh.

Đến năm 1950, trường Lương Văn Chánh được phép mở 1 lớp Sư phạm cấp 1 tại trường với số lượng 30 giáo sinh. Hè năm 1953, Ty giáo dục mở một lớp đào tạo giáo viên cấp 1 với thời gian 1 tháng do thầy Ngô Hưởng phụ trách. Đến cuối năm 1953, số giáo viên cấp 1 toàn tỉnh là 550 người.

Giáo viên Trung học (cấp 2) được Ủy ban Nhân dân tỉnh và Tỉnh ủy điều động một số cán bộ có trình độ từ các ngành khác như Ty thông tin, cơ quan tỉnh ủy và trong quân đội về trường Lương Văn Chánh. Từ niên khóa 1950 – 1951 được bổ sung một số thầy từ tỉnh Bình Định như các thầy Đinh Thành Bài, Nguyễn Trắc, Nguyễn Dương, Lê Bê và một số học sinh của trường Lương Văn Chánh vừa tốt nghiệp Thành chung được chọn làm giáo viên như Nguyễn Cách, Nguyễn Tài Sum, Cao Lan, Nguyễn Ân, Nguyễn Minh...

Đến năm 1953, giáo viên cấp 2 cả tỉnh có 50 người.2.4. Bộ máy ngành giáo dục (1945-1954)Trong giai đoạn Chín năm kháng chiến chống Pháp, bộ máy giáo dục cũng

được thay đổi theo từng giai đoạn để phục vụ kịp thời công cuộc cách mạng trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Từ tháng 9/1945 – 1946, Ty tiểu học do Trần Xuân Hoàn – Hiệu trưởng trường tiểu học Sông Cầu làm Trưởng ty.

Từ tháng 9/1946 - 9/1950, trước yêu cầu cấp bách và tầm quan trọng của công tác xóa nạn mù chữ, Ty Bình dân học vụ được thành lập – ngành giáo dục được tổ chức hoạt động thông qua 2 ty là Ty Bình dân học vụ và Ty Tiểu học.

* Ty Bình dân học vụ- Tháng 9/1947 đến tháng 9/1948, Nguyễn Đức Ràn làm Trưởng ty - Tháng 9/1948 đến tháng 9/1949, Võ Hồng làm Trưởng ty - Tháng 9/1949 đến tháng 5/1951, Nguyễn Chí Thống làm Trưởng ty

70

Page 71: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

* Ty tiểu họcTy tiểu học không có bộ máy giáo dục cấp huyện. Ty quản lý trực tiếp đến

trường học qua hệ thống thanh tra, qua hiệu trưởng và liên hiệu trưởng. Mỗi thanh tra viên phụ trách 1 hoặc 2 huyện.

- Năm 1946 – 1947, Nguyễn Đức Ràn làm Trưởng ty - Năm 1948 – 1949, ông Phạm Ngọc Quế làm Trưởng ty

- Năm 1949 – 1950, Nguyễn Đức Ràn làm Trưởng ty.Từ 1951 đến 1954, ty Bình dân học vụ và ty Tiểu học sáp nhập thành ty Giáo

dục Phú Yên. Từ tháng 9/1950 đến tháng 9/1951, thầy Nguyễn Đức Ràn làm Trưởng ty giáo dục. Từ năm 1952 đến 1954, thầy Trần Sĩ làm Trưởng ty giáo dục. Ông Lê Duy Hinh – Phó trưởng Ty. Các thanh tra viên: thầy Ngô Hưởng, Phạm Ngọc Ân, Phan Văn Thiện. Cán bộ nhân viên của Ty giáo dục là Nguyễn Văn Thái, Hồ Dốc, Bạch Ngọc Kỷ, Trần Đắc Khoa, Nguyễn Ngọc Châu, Lê Trọng …

III. TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THỂĐể lãnh đạo các hoạt động giáo dục, từ năm 1949, số lượng đảng viên ở Ty

giáo dục ít nên sinh hoạt chung với đảng viên của Ty thông tin, đến năm 1952 – 1953, Chi bộ giáo dục mới thành lập. Chi ủy lúc bấy giờ có 3 đồng chí Phạm Ngọc Ân, Trần Đắc Khoa và Nguyễn Văn Thái, do Phạm Ngọc Ân làm bí thư.

Ở trường Tiểu học, số đảng viên còn ít nên sinh hoạt tại Chi bộ địa phương. Đảng viên giáo viên là nòng cốt trong việc thực hiện đường lối giáo dục và tham gia mọi công tác kháng chiến ở địa phương.

Ở trường Trung học, mãi đến năm học 1947 - 1948, tỉnh tăng cường cho trường Lương Văn Chánh một đảng viên là Bùi Xuân Các. Tháng 10/1949 đã có 7 đảng viên, Chi bộ trường Lương Văn Chánh được thành lập do đồng chí Nguyễn Chi làm bí thư, đến cuối năm 1950 trường phát triển được 117 đảng viên39. Những năm 1950 – 1951, trường cấp II Tuy Hòa được thành lập, chi bộ Đảng do thầy Huỳnh Lâu làm bí thư.

Các tổ chức Đảng, các đảng viên trong ngành giáo dục thực sự xứng đáng là những hạt nhân, đầu tàu gương mẫu trong công cuộc xây dựng nền giáo dục dân tộc dân chủ, phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Công đoàn giáo dục39 Theo Bùi Xuân Các – Nguyễn Chu – “Chi bộ Đảng trường Lương Văn Chánh – Tập san kỷ niệm 50 năm”

71

Page 72: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Năm 1946, Đại hội thành lập Công đoàn giáo giới Phú Yên được tổ chức tại Hòa Đa (An Mỹ – Tuy An). Đại hội đã thông qua tôn chỉ, mục đích, điều lệ, chương trình hoạt động và bầu ban chấp hành công đoàn do đồng chí Nguyễn Đức Ràn làm thư ký công đoàn giáo giới Phú Yên.

Năm 1952, giáo giới các tỉnh khu V tiến hành đại hội thành lập công đoàn giáo dục toàn Liên khu.

Công đoàn giáo dục là một tổ chức quần chúng, phối hợp chặt chẽ với chính quyền vận động toàn thể giáo giới thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình, góp phần chăm lo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tư tưởng chính trị cũng như đời sống vật chất cho đoàn viên. Phương thức hoạt động công đoàn là lấy việc giáo dục giúp đỡ lẫn nhau, lấy việc tự phê bình và phê bình để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Năm 1951, Ty giáo dục cùng Công đoàn giáo dục tỉnh tổ chức Đại hội thi đua lần thứ nhất. Các thầy Trần Xuân Nam, Huỳnh Diệu, Nguyễn Châu, Nguyễn Chu được tuyên dương là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.

Năm 1952, tại Đại hội thi đua Công đoàn giáo dục Liên khu V, Thầy Lê Thông, Nguyễn Châu, Huỳnh Diệu, Cao Dần, Nguyễn Thái, Phạm Ngọc Ấn… được tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua Liên khu V”. Trong số đó, thầy Lê Thông được Chính phủ tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua Toàn quốc” và được Bác Hồ khen thưởng, cô giáo Nguyễn Thị Thanh ở Đồng Xuân được bầu Chiến sĩ thi đua diệt dốt của tỉnh Phú Yên và được Bác Hồ tặng Ảnh kỷ niệm.

Bên cạnh tổ chức công đoàn, năm 1952, tỉnh đoàn học sinh được thành lập do đồng chí Nguyễn Kén được bầu làm Tỉnh đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thái đại diện của Ty Giáo dục Phú Yên tham gia vào Ban chấp hành tỉnh đoàn.

Tổ chức đoàn thể học sinh Tất cả học sinh các cấp trong tỉnh đều được tổ chức sinh hoạt trong đoàn thể học

sinh. Học sinh cấp I được tham gia vào tổ chức “thiếu nhi cứu quốc” của thôn xã và hoạt động gắn liền với địa phương. Học sinh các trường cấp II được tổ chức sinh hoạt trong các Hiệu đoàn học sinh. Hiệu đoàn tập hợp tất cả học sinh trong trường, mỗi lớp là một phân đoàn học sinh.

Ban chấp hành Hiệu đoàn do đại hội học sinh bầu ra. Nhiệm kỳ một năm - Hiệu đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng nhà trường và tỉnh đoàn học sinh.

72

Page 73: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trước năm 1952, Hiệu đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc. Mãi đến năm 1952, mới thành lập tỉnh đoàn học sinh riêng để thống nhất lãnh đạo thanh thiếu niên trong nhà trường. Đồng chí Nguyễn Kén được bầu làm Tỉnh đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thái đại diện của Ty giáo dục Phú Yên tham gia vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn.

Hoạt động của Hiệu đoàn nhằm giúp học sinh rèn luyện lập trường tư tưởng cách mạng, xây dựng nền nếp phong cách học tập, lao động mới, thu hút đông đảo học sinh vào các hoạt động kháng chiến cứu nước. Hiệu đoàn đã góp phần xây dựng được ý thức, nền nếp tự quản, hình thành trong học sinh tinh thần tập thể trên các mặt hoạt động trong trường cũng như ngoài xã hội.

Đời sống học tập và hoạt động của học sinh thế hệ thời kháng chiến chống Pháp thật vất vả, gian khổ nhưng cũng đầy niềm vui, hào hứng.

Phương tiện học tập thì thiếu thốn mọi bề. Sách học không có, chuyền tay chép bài giảng của thầy, giấy viết bằng thứ giấy thủ công sản xuất từ rơm rạ, ẩm và nhám, gọi là giấy Nam Trung.

Việc học thì rất kỷ cương, trật tự, tự giác. Thầy - Trò gần gũi thân yêu, mỗi tuần có buổi sinh hoạt tập thể kiểm điểm tình hình học tập và công tác. Cuối năm có thi đua, khen thưởng học sinh gương mẫu, hầu như không có học sinh lêu lổng chơi bời. Năm 1952, Phan Huy Tô - học sinh lớp 7 trường cấp 2 Tuy Hòa II được bầu học sinh xuất sắc toàn tỉnh và tham gia đoàn chiến sỹ thi đua của tỉnh Phú Yên đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua Công nông binh toàn liên khu V lần thứ Nhất tại Bình Định.

Chưa đầy một năm, ngày 6 tháng 1 năm 1946, cử tri cả nước cũng như ở Phú Yên đã tự tay mình viết lá phiếu bầu cử Quốc hội, người thay mặt mình lo quốc kế dân sinh. Đó là chiến công đầu tiên vô cùng to lớn của Ngành giáo dục cách mạng.

Ngành giáo dục Phú Yên đã thực hiện tốt chiến lược “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Bình dân học vụ lo việc nâng cao dân trí cho toàn dân, dạy cho dân thực hiện đời sống mới, biết cách sản xuất, làm ăn tiến bộ, nâng cao ý thức nghĩa vụ làm người công dân tốt, đoàn kết, quyết tâm bảo vệ vùng giải phóng, hăng hái phục vụ chiến trường, đi tòng quân đánh giặc làm người chiến sĩ tốt. Được bổ túc văn hóa, cán bộ xã thôn làm tốt công tác quản lí xây dựng chính quyền cách mạng ở địa phương; trên trăm cán bộ Phú Yên được đi học trung học bình dân, lớp trí thức mới

73

Page 74: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đầu tiên sau cách mạng tháng Tám được đào tạo. Họ đã trở thành những cán bộ cốt cán của tỉnh nhà và các tỉnh Nam Trung Bộ.

Về giáo dục tiểu học và phổ thông, từ quy mô bé nhỏ, nghèo nàn về cơ sở vật chất, vượt qua mọi khó khăn gian khó của cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, giáo viên và nhân dân tỉnh Phú Yên đã xây dựng được một hệ thống nhà trường tiểu học khắp cả buôn, làng, đồng bằng miền núi. Năm 1954 là năm giáo dục Phú Yên phát triển mạnh nhất, có đến 26.350 học sinh với 596 giáo viên. Năm 1954 cả tỉnh đã có một hệ thống 8 trường cấp 2 (5 trường trung học công lập và 3 trường tư thục). Đây là một bước nhảy vọt về chất của nền giáo dục cách mạng Phú Yên.

Phú Yên là tỉnh trong vùng giải phóng liên khu V có phong trào giáo dục phát triển tốt, được Nhà nước tuyên dương. Thành công lớn nhất của Ngành giáo dục tỉnh Phú Yên trong giai đoạn này là đã góp phần hình thành trong toàn dân và nhất là thế hệ trẻ lòng yêu nước sâu sắc, sự gắn bó keo sơn với chế độ dân chủ cộng hòa và ý chí bảo vệ nhà nước cách mạng mà bằng xương máu do họ xây đắp nên. Đó là truyền thống cực kỳ quý báu, và sức mạnh tinh thần bất khả chiến thắng của nhân dân Phú Yên mang vào cuộc kháng chiến lần thứ hai chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng quê hương thống nhất nước nhà.

74

Page 75: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

CHƯƠNG IV GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬTrong Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Phú Yên là một tỉnh phía

nam vùng tự do rộng lớn của Liên khu V. Tuy thường xuyên bị địch uy hiếp, lấn chiếm ở phía Nam và Tây Nam của tỉnh nhưng Phú Yên vẫn là hậu phương trực tiếp và vững chắc của Khánh Hòa và nam Tây Nguyên.

Sau chiến thắng lịch sử lẫy lừng Điện Biên Phủ (7 - 5 - 1954) cùng với thắng lợi to lớn ở chiến trường Nam bộ, đồng bằng Bắc bộ, Bắc Tây Nguyên, trong đó có sự đóng góp của quân và dân Phú Yên đánh bại chiến dịch Át – Lăng của địch, buộc thực dân Pháp phải đàm phán vào ngày 20 tháng 7 năm 1954 ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.

Theo hiệp định này, Việt Nam tạm chia ra làm hai miền, lấy sông Bến Hải làm giới tuyến. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra được hoàn toàn giải phóng, nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào bàn giao cho chính quyền Sài Gòn tạm thời quản lý. Sau 02 năm (đến tháng 7/1956) sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất Tổ quốc.

Trong thư gửi đồng bào miền Nam ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi tin chắc rằng đồng bào miền Nam sẽ đặt lợi ích của cả nước lên trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước. Đảng, Chính phủ và tôi luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào. Tôi tin rằng đồng bào sẽ thắng lợi.”

75

Page 76: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, chúng nắm lấy lực lượng đại địa chủ phong kiến phản động mà đại diện là Ngô Đình Diệm, thiết lập chế độ thực dân kiểu mới với âm mưu hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn để phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ bằng cách tiến hành các cuộc khủng bố trả thù một cách tàn khốc, cùng với các thủ đoạn xâm nhập kinh tế, văn hóa … để xóa bỏ các thành quả thời kỳ kháng chiến 9 năm chống Pháp của chúng ta, trong đó có cả những thành quả tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng.

Nhân dân miền Nam Việt Nam lại bắt buộc phải tiến hành một cuộc đấu tranh cách mạng mới: Đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, tiếp tục đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG CĂN CỨ CÁCH MẠNG VÀ VÙNG GIẢI PHÓNG (1954-1975)

2.1. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1954-1960Sau tháng 7- 1954, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới.

Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương VI khóa II, kẻ thù của cách mạng Việt Nam không còn là thực dân Pháp mà là đế quốc Mỹ. Phương pháp đấu tranh cách mạng chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Giáo dục là một hoạt động cách mạng nên cũng phải chuyển theo chiến lược đó.

Hội nghị Liên khu ủy khu V và Hội nghị Tỉnh ủy Phú Yên mở rộng vào tháng 8 -1954 đã chủ trương mở đợt giáo dục tuyên truyền về nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ, về tình hình và nhiệm vụ mới, về phương châm, phương pháp đấu tranh để thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ trong toàn dân.

Ngày 31 tháng 8 năm 1954, Ty giáo dục Phú Yên tiến hành Hội nghị Giáo dục mở rộng tại Xuân Sơn huyện Đồng Xuân, gồm cán bộ quản lý ở Ty, Hiệu trưởng các trường cấp 1, cấp 2 cùng với cán bộ công đoàn ngành để nghiên cứu nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ và phổ biến phương pháp đấu tranh, nhiệm vụ giáo dục trong tình hình mới.

Các thầy giáo vẫn kiên trì bám trụ trường lớp, vượt qua khó khăn để tổ chức khai giảng năm học mới vào ngày 15 tháng 9 năm 1954. Thầy Nguyễn Cách – hiệu trưởng trường cấp 2 Lương Văn Chánh (ở Tuy An) vẫn duy trì hoạt động dạy – học đến tháng 1 năm 1955. Thầy Trần Sĩ trưởng Ty giáo dục Phú Yên và các thầy cô

76

Page 77: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

giáo khác như Trương Đống, Nguyễn Châu… được phân công ở lại để tiếp tục sự nghiệp giáo dục.

Ngày 7 tháng 9, Mỹ và tay sai gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh làm chết 64 người, bị thương 76 người. Nhiều giáo viên, cán bộ ty giáo dục bị bắt, bị tra tấn rồi giam ở nhà lao Ngọc Lãng. Thầy giáo Trương Đống - cán bộ ty giáo dục bị địch bắt thủ tiêu trong nhà tù năm 1956 (được truy tặng liệt sĩ năm 2000). Thầy giáo Thái Phụng Kỳ, Liên hiệu trưởng xã Hòa Thắng bị địch tra tấn đến tàn phế.

Theo báo cáo của Văn phòng Trung ương Đảng tháng 11/1954, chỉ tính trong 2 tháng 9 và 10 năm 1954 số đảng viên, cán bộ và thường dân bị giết ở Phú Yên lên đến 721 người, 500 người bị thương, 589 người tù đày.

Cách mạng miền Nam nói chung và Phú Yên nói riêng đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Cơ sở cách mạng bị thu hẹp, cán bộ bí mật thoát ly thiếu thốn mọi bề, đói cơm, lạt muối, nhiều đồng chí bị bắt, bị giam cầm, sát hại … Trước tình hình đó, Tỉnh ủy họp nghiên cứu chỉ thị của Khu ủy, phân tích tình hình, chống tư tưởng dao động, bi quan tiêu cực, nêu gương học tập các đơn vị, cá nhân đảng viên giữ tròn khí tiết cách mạng “sống anh dũng – chết vẻ vang”.

Những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu kiên cường bất khuất như đồng chí Nguyễn Thanh Hương ở Hòa Trị, Lê Văn Thành ở thị xã Tuy Hòa và nhiều đồng chí khác đã hy sinh rất anh dũng. Nhiều tấm gương kiên trung oanh liệt như là cô Nguyễn Thị Luận – nữ sinh trường Hòa Thịnh đã tham gia xây dựng cơ sở cách mạng bị địch bắt. Trước kẻ thù, cô đã giữ trọn khí tiết, kiên cường chịu đựng mọi cực hình tra tấn, từ trong nhà lao Tuy Hòa cô đã gửi những dòng tâm huyết về cho mẹ :

“… Đôi chân nhỏ mang chiếc xiềng 5 kýTay còng thêm vòng xích 2 cânCon lê mình trong ngục thất tối umMôi cắn chặt không một lần rên xiếtLưỡi lê đâm, dẫm nát mình – gót sắtLũ chúng nó một bầy ô trọcBạn bè con một dạ kiên trinhMẹ nhớ con, đừng gan nãn chí sờn !Vì yêu nước nên con đã quyết

77

Page 78: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Hiến tuổi xanh cho Tổ quốc quê hươngNát thân mình không thể nát tình thươngDù phải chết, con không hề sợ chếtMẹ ơi mẹ, nhớ mẹ hiền tha thiết Ơi mẹ hiền ! ơi đất nước Việt Nam !”

(tháng 12/1959)Sau những ngày tháng đấu tranh quyết liệt kiên cường, địch buộc phải trả tự do

cho Cô. Năm 1960, Nguyễn Thị Luận thoát ly ra căn cứ, được bầu vào Thường vụ phụ nữ tỉnh và anh dũng hy sinh vào năm 1961 giữa 25 tuổi xuân xanh.

Từ cuối những năm 1959 đầu 1960, cách mạng đã có những vùng căn cứ giải phóng ở Thồ Lồ, từ khu bắc đến tây Sơn Hòa. Đảng đã chủ trương mở các lớp học xóa mù chữ và lớp 1, lớp 2 để dạy cho con em vùng căn cứ. Các thầy giáo Lê Thúc Chiên, xã An Dân dạy cấp 1 ở xã Thồ Lồ, căn cứ bí mật của Tỉnh ủy, Nguyễn Văn Chấn – học sinh trường Lương Văn Chánh thoát ly lên dạy ở căn cứ Phú Mỡ, Nguyễn Văn Long quê ở An Nghiệp lên dạy tại xã Suối Ché, Nguyễn Ngọc Anh ở Xuân Long, Trịnh Địch ở An Định lên dạy tại buôn Ma Chiêm, xã Phước Tân, căn cứ Sơn Hòa… Đây là những hạt giống của nền giáo dục cách mạng đã được nhen nhóm được phục hồi trên khu căn cứ địa, chuẩn bị cho sự phát triển sau này. 2.2. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1961-1965 Hội nghị BCH TW Đảng lần XV (tháng 1 năm 1959) đã nhận định tình hình miền Nam và đề ra đường lối đấu tranh: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân … Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hỗ trợ để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ”.

Đầu tháng 12-1959, Tỉnh ủy họp Hội nghị tại suối Heo, xã Bàu Bèn, huyện Sơn Hòa để quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Mấy năm liền ta đấu tranh chính trị gặp nhiều khó khăn, tổn thất nặng nề, nay được Trung ương cho phép sử dụng lực lượng vũ trang để đánh địch, phong trào cách mạng có điều kiện tiến lên.

78

Page 79: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tỉnh ủy đề ra chủ trương tiêu diệt tay sai để trấn áp địch, xây dựng căn cứ miền núi, rút thanh niên ra chiến khu, tổ chức lực lượng vũ trang.

Tháng 11-1960, miền Tây Phú Yên được giải phóng nối liền với các huyện đồng bằng và các tỉnh Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc, Khánh Hòa tạo thành một vùng căn cứ liên hoàn rộng lớn chiếm 50% diện tích toàn tỉnh với số dân là 13.000 người, tạo thế đứng vững cho lực lượng cách mạng tiến xuống giải phóng vùng đồng bằng.

Cuộc Đồng Khởi của nhân dân Bến Tre (đầu năm 1960), tin tức vùng lên tự giải phóng của nhân dân đã tác động đến tinh thần cách mạng đang sục sôi ở Phú Yên. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, sự thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, đánh đấu một bước ngoặc lịch sử trong cuộc đấu tranh của cách mạng giải phóng Miền Nam.

Đêm 22 tháng 12 năm 1960, nhân dân xã Hòa Thịnh, huyện Tuy Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vùng lên làm cuộc Đồng Khởi thắng lợi, bắt toàn bộ trung đội dân vệ, thu vũ khí, xóa bỏ ngụy quyền, lập nên chính quyền cách mạng, trên 40 thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang. Nhân dân Hòa Thịnh đã vùng lên tự giải phóng, làm chủ đời mình và trở thành “điểm mở đầu cho phong trào giải phóng các tỉnh đồng bằng khu V”.

Như phát pháo lệnh cho cuộc đấu tranh vũ trang, cuộc đồng khởi Hòa Thịnh đã kích thích nhân dân các xã Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Mỹ, Hòa Phong, Hòa Đồng, Hòa Hiệp, Sơn Thành, Hòn Nhọn (Tuy Hòa I) thôn Cẩm Tú, Thọ Bình (Hòa Kiến), thôn Đông Hòa, Đông Mỹ, Hạnh Lâm, Hòa Quang (Tuy Hòa II), An Lĩnh, An Thọ (huyện Tuy An); Các thôn Lãnh Tú, Đa Lộc (Xuân Lãnh), Háo Danh, Háo Nghĩa, Mỹ Lương (Xuân Thọ), Thạch Khê (Xuân Lộc)… lần lượt đứng lên giải phóng quê mình.

Tháng 10 năm 1961, tỉnh ta đã tổ chức giải thoát Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đang bị Mỹ ngụy quản thúc tại thị xã Tuy Hòa về chiến khu. Và Ông đã trở thành Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Uy tín của cách mạng Phú Yên lên cao hơn bao giờ hết.

Vào giữa năm 1962, các vùng giáp ranh đồng bằng được mở ra và nối liền với căn cứ miền núi. Dân số vùng đồng bằng được giải phóng lên đến 55.000 người (chưa kể 13.000 người miền Tây đã được giải phóng trước) với hơn 2/3 diện tích đất

79

Page 80: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đai toàn tỉnh gồm 105 thôn, 25 xã. Lực lượng vũ trang của tỉnh, các đoàn thể quần chúng được xây dựng, thành lập chính quyền nhân dân tự quản.

Tháng 10-1962, Tiểu ban giáo dục Trung ương cục (TWC) miền Nam (gọi tắt là Tiểu ban giáo dục Miền hoặc tiểu ban giáo dục R) được thành lập. TBGD Miền là một bộ phận của ban tuyên huấn Trung ương cục (TWC) chỉ đạo công tác giáo dục toàn miền Nam. Đồng chí Trần Thanh Nam (Hoàng Đào) cán bộ giáo dục khu V tập kết ra Bắc, nay trở về được chỉ định làm quyền Trưởng tiểu ban cùng với 4 cán bộ khác.

Đường lối giáo dục miền Nam Việt Nam đã được TWC thông qua trong Thông tư 44/TT ngày 13/02/1963 “Dựa vào lực lượng nhân dân, cán bộ giáo dục và các nhà giáo yêu nước kiên quyết đả phá các chính sách ngu dân và các hình thức giáo dục nô dịch, phản động, ngoại lai, đồi trụy của Mỹ ngụy, tích cực xây dựng nền giáo dục dân tộc dân chủ và khoa học theo chủ nghĩa MacLênin nhằm bồi dưỡng chính trị, văn hóa cho nhân dân lao động trước hết là cán bộ và chiến sĩ, biết yêu nước nồng nàn, có kiến thức, đạo đức và sức khỏe để tiếp tục sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và kiến thiết xã hội sau này”.

Ngày 19-5-1964 Đại hội giáo dục toàn MNVN được tổ chức, 100 đại biểu giáo dục các khu, tỉnh từ Bến Hải đến Cà Mau về dự. Đại hội nghiên cứu, học tập, quán triệt đường lối giáo dục của Đảng, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy của nhà trường cách mạng. Đại hội cũng tiến hành thành lập Hội nhà giáo yêu nước MNVN gồm 39 ủy viên Ban chấp hành do giáo sư Lê Văn Huấn làm Chủ tịch Hội. Cương lĩnh của Hội là “đoàn kết tập hợp tất cả các lực lượng giáo chức tiến bộ ở MNVN đấu tranh thực hiện một nền giáo dục dân tộc, dân chủ và tiến bộ, chống lại chính sách nô dịch của đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất” (trích điều lệ Hội Nhà giáo yêu nước MNVN).

Tháng 7-1964, đoàn cán bộ giáo dục thứ 3 của miền Bắc chi viện cho miền Nam đã về đến đơn vị. Đoàn đi Bác Ân (liên khu V) có đồng chí Nguyễn Văn Hiệu, đồng chí Tô Uyên Minh, đồng chí Nguyễn Bình, Nguyễn Tấn Hải, Võ Nham. Đoàn đi Ông Cụ (TWCMN) có đồng chí Ba Hoàng (Lê Văn Lực), Thanh Sơn (Nguyễn Xuân Đàm), Lý Minh Văn (Lý Hữu Tấn), Hồng Nhật (Ngô Văn Tư), Đức Triều (Nguyễn Văn Hơn).

80

Page 81: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tỉnh Phú Yên từ cuối năm 1961 đầu 1962, một số thầy giáo thời kháng chiến chống Pháp thoát ly ra vùng căn cứ tham gia cách mạng như thầy Tạ Tấn Tây, Đỗ Như Bảng, Nguyễn Khoa Cử, Nguyễn Châu, Nguyễn Tuần, Trần Kim Bôi, Biện Ngọc Hưởng, Trần Đình Tu, Huỳnh Sấn, Lê Khắc Thành, Nguyễn Long, Nguyễn Từ … Có thầy mở những lớp bình dân xóa mù chữ cho cán bộ, thanh niên vùng căn cứ, hay lớp Bổ túc văn hóa cho cán bộ nhân viên cơ quan huyện, tỉnh. Có thầy mở các lớp cấp 1 dạy cho con em vùng giải phóng. Có thầy chuyển làm công tác văn phòng, công tác tuyên huấn.

Từ tháng 4-1961, Hội nghị Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về việc củng cố các đoàn thể quần chúng và các Ban chuyên môn của Đảng trong đó có giáo dục. Trong Ban tuyên huấn của tỉnh có Tổ chỉ đạo công tác giáo dục. Tỉnh ủy chủ trương “Ở đâu có dân, có trẻ em dù ở vùng giải phóng hay vùng tranh chấp là ở đó phải có trường học cách mạng”, “nhóm học, lớp học bình dân, cho người lớn hoặc cho trẻ em là nơi tuyên truyền cách mạng, củng cố vùng giải phóng, chống âm mưu dồn dân, lập ấp chiến lược của địch”.

Từ năm 1963, giáo dục tỉnh đã nối được mối liên hệ chỉ đạo của Tiểu ban Giáo dục khu V và cả Tiểu ban giáo dục TWC miền Nam. Năm 1964, Phú Yên đã có những đoàn giáo viên từ miền Bắc trở về như các thầy Nguyễn Cách, Đào Thế Lữ, Vũ Hoài Đức, Hoàng Thành Phổ và năm 1965 có các thầy Bằng Tín, Nguyễn Áo, Nguyễn Ngọc Anh…. Đáng kể nhất là các thầy giáo từ tỉnh Hải Dương và các tỉnh khác trong cả nước vào Phú Yên chia lửa cùng đồng nghiệp trên mặt trận giáo dục. Cũng trong thời gian từ 1964-1973 Trường Sư phạm khu V do đồng chí Tô Uyên Minh, Phó Tiểu ban giáo dục khu V, làm Hiệu trưởng đã mở được 3 khóa đào tạo. Tỉnh nhà đã gởi được 23 học viên đi học (xem phụ lục). Đội ngũ giáo viên đã được tăng cường, đáp ứng được yêu cầu của phong trào. Đến giữa năm 1964, nhiều trường học trong tỉnh được mở, như trường tiểu học Xuân Lộc (Sông Cầu), Phú Mỡ (Đồng Xuân), Vân Hòa (Sơn Hòa), An Chấn, An Lĩnh (Tuy An), Hòa Quang, Mỹ Hòa, Hòa Thịnh (Tuy Hòa). Các huyện đồng bằng, có vùng giải phóng rộng như Tuy Hòa 1, Sơn Hòa, Đồng Xuân, Sông Cầu mỗi huyện đều có 1 trường cấp II. Toàn tỉnh có 4 trường cấp 2 trên 500 học sinh và 23 giáo viên. Đội ngũ giáo viên cấp II được đào tạo từ trường Sư phạm Khu V, số đông là giáo viên chi viện từ miền Bắc (chủ yếu giáo viên từ tỉnh Hải Dương - tỉnh kết nghĩa với Phú Yên).

81

Page 82: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tháng 7 năm 1965, với quy mô của ngành giáo dục ngày càng rộng lớn, yêu cầu cần phải có một bộ phận máy tương ứng, Tiểu ban giáo dục trực thuộc ban Tuyên huấn tỉnh được thành lập để phụ trách chỉ đạo công tác giáo dục. Thầy Đào Thế Lữ - nguyên Hiệu trưởng trường học sinh miền Nam số 19 ở Chương Mỹ - Hà Đông được chi viện về Phú Yên làm Trưởng ban giáo dục tỉnh. Đồng chí Nguyễn Chu làm Phó ban, Nguyễn Cách làm ủy viên.

Cùng thời gian này, Đại hội Giáo dục tỉnh diễn ra tại vùng I xã An Lĩnh - Tuy An để tổng kết phong trào giáo dục và đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển giáo dục trong tình hình mới. Đại hội giáo dục cũng đồng thời là Đại hội thành lập Hội Nhà giáo yêu nước của tỉnh. Ông Lê Trân, một nhà giáo yêu nước, từ Pháp về được mời ra căn cứ làm Chủ tịch Hội nhà giáo yêu nước tỉnh, Ủy viên Hội nhà giáo yêu nước khu V vừa là ủy viên Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam tỉnh Phú Yên. Ông Nguyễn Chu làm Phó hội trưởng. Hội là tổ chức đoàn thể nghề nghiệp nhằm tập hợp đoàn kết rộng rãi những giáo chức trong vùng giải phóng lẫn vùng tạm bị chiếm, vùng đô thị nhằm đấu tranh cho một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Năm 1965 là năm các trường cấp 2 được thành lập nhiều nhất (4 trường) hình thành một hệ thống các trường cấp 2:

- Trường cấp 2 Tuy Hòa : thành lập tháng 3 năm 1965, tại vườn Chân Bầu, thôn Mỹ Xuân, xã Hòa Thịnh, thầy Nguyễn Bang làm Hiệu trưởng. Sau đó, thầy Đào Thế Lữ - Trưởng TBGD tỉnh làm Hiệu trưởng. Những giáo viên giảng dạy tại trường như thầy Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn Cao, Đặng Chỉnh, Nguyễn Công, Hồ Huy Hoàng, Huỳnh Hượng,Ngô Thạch Ủng, Lê Văn Việt, Đặng Văn Vĩnh… Tổng số học sinh là 150, chia thành 3 lớp 5.

Chiều ngày 28-4-1965 trong lúc học sinh tập trung Hội trường chuẩn bị dự lễ Quốc tế lao động 1-5 thì bị máy bay Mỹ thả bom chết 8 em học sinh và thầy Đặng Văn Vĩnh cùng 9 em học sinh khác bị thương. Đây là một ngày lịch sử đau thương ghi dấu tội ác tày trời của giặc Mỹ đối với học sinh Phú Yên. Đài phát thanh giải phóng của Mặt trận dân tộc giải phóng MNVN đã cực lực lên án tội ác của giặc Mỹ trước dư luận trong nước và trên toàn thế giới. Trường phải dời về thôn Phú Thọ, rồi chuyển lên thôn Thạnh Phú xã Hòa Mỹ. Trường vẫn phát triển lên 3 lớp 5 và 2 lớp 6. Chiến tranh ác liệt, trường phải chuyển về rừng già Hòn Nhọn chỉ còn 1 lớp 5 và

82

Page 83: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1 lớp 6 với 60 học sinh của Hòa Thịnh, Hòa Mỹ, Hòa Đồng, Hòa Tân và Sơn Thành theo học, do thầy Nguyễn Bằng Tín làm Hiệu trưởng, thầy Huỳnh Văn Phong làm Hiệu phó. Ngày 2-12-1966, biệt kích Mỹ vào trường bắn chết thầy Nguyễn Công và bắn bị thương học sinh, đốt phá trường lớp. Trường lại chuyển ra xã Sơn Thành. Chỉ trong 2 năm xây dựng, trường cấp 2 Tuy Hòa dời đến 5 nơi; 1 giáo viên, 8 học sinh hy sinh và 10 học sinh bị thương. Song, thầy trò trường cấp 2 Tuy Hòa vẫn kiên cường dạy và học.

Trường cấp 2 Tuy An : Trường được quyết định thành lập ngày 10-3-1965 tại đèo Hóc Dáy, Gò Đình, xã An Lĩnh. Sau đó trường dời về Hóc Lá, thôn Định Phong, xã An Nghiệp. Trường gồm 7 lớp (4 lớp 5, 2 lớp 6 và 1 lớp 7) với 100 học sinh. Thầy Trương Bá Sám làm Hiệu trưởng, các giáo viên là Băng Sơn, Nguyễn Khang, Nguyễn Ngọc Trân, Hoàng Lạc Hà, Võ Cường, Nguyễn Ngọc Huynh.

Trường cấp 2 Sông Cầu, đồng chí Hoài Nam làm Hiệu trưởng và giáo viên Nguyễn Thị Thương phụ trách giảng dạy.

Trường cấp 2 Đồng Xuân, trường được thành lập tại Kỳ Lộ thuộc xã Xuân Quang huyện Đồng Xuân do đồng chí Nhất Nam – trưởng ban tuyên huấn huyện phụ trách. Những giáo viên tham gia giảng dạy tại trường như Nguyễn Văn A, Đỗ Vĩnh Tân…

Những năm 1964 - 1966, giáo dục Cách mạng có điều kiện phát triển mạnh. Vùng giải phóng đến đâu thì trường học mở đến đó. Cả tỉnh có 287 lớp cấp 1, có 347 giáo viên cán bộ và 10.500 học sinh.

Cùng với giáo dục phổ thông, phong trào giáo dục bình dân cũng phát triển mạnh. Các lớp bình dân học vụ được mở ra khắp nơi. Bà con rủ nhau đi học xóa nạn mù chữ. Các lớp bổ túc văn hóa được tổ chức bồi dưỡng văn hóa cho thanh niên, cán bộ các đoàn thể quần chúng, các cơ quan tỉnh huyện, trong lực lượng vũ trang.

2.3. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1966 - 1968“Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang “Chiến tranh cục

bộ” ở miền Nam và ra sức đánh phá miền Bắc. Trong mùa khô 1965 - 1966, chúng mở cuộc càn quét với mục tiêu “tìm diệt và bình định” đánh vào căn cứ Sơn Hòa, Tuy An, phía tây Đồng Xuân và Tuy Hòa II. Chúng càn quét và bắn chết hàng trăm đồng bào xã An Xuân, giết trên 30 em nhỏ ở xã An Lĩnh …

83

Page 84: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trước tình hình mới, Chỉ thị của Tiểu ban giáo dục miền Nam, ngày 01-10-1967 đã xác định: “Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục lúc bấy giờ là tập trung sức bảo vệ thầy, trò, giữ vững và phát triển các trường lớp ở vùng giải phóng. Đồng thời tuyên truyền tổ chức lực lượng ở vùng tranh chấp để tấn công ra vùng ven, đô thị”. Tiếp tục “Đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh chống văn hóa nô dịch, thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tay sai. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, phải hết sức chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ giáo viên nhất là giáo viên làm công tác tư tưởng chính trị”.

Khu ủy khu V, trong Chỉ thị nhiệm vụ năm học 1967 – 1968 đã nhấn mạnh “Quán triệt hơn nữa bình dân học vụ là công tác hàng đầu của giáo dục, phải tập trung khả năng giáo dục vào công tác này đúng với vị trí của nó”. Chỉ thị yêu cầu “Khẩn trương hoàn thành xóa mù chữ trước hết cho cán bộ, du kích, đảng viên, đoàn viên … Tích cực phát triển bổ túc văn hóa cấp I ở đồng bằng, miền núi, các cơ quan, đơn vị vũ trang. Duy trì, bảo vệ trường lớp phổ thông trước hết là cấp I, tích cực phát triển giáo dục dân tộc ở miền núi”.

Trước tình hình khó khăn do chiến tranh, Tỉnh ủy Phú Yên đã đề ra phương châm “Dân bám đất, giáo dục bám dân, giáo viên bám trường lớp …” cán bộ, giáo viên quyết tâm thực hiện. Trường học được phân tán chuyển thành các nhóm nhỏ, lớp học có hầm hào tránh phi pháo, nên phong trào duy trì ở mức độ nhất định.

Tháng 2 năm 1966, Tỉnh ủy quyết định thành lập “Trường dân tộc nội trú” dành cho con em người dân tộc do đồng chí La-Mô-Đức, dân tộc Chăm, Phó văn phòng Huyện ủy miền Tây làm Hiệu trưởng. Trường được xây dựng ở buôn Tân Dú giáp tỉnh Gia Lai. Năm 1967, trên cơ sở trường Dân tộc nội trú tỉnh, tháng 6-1967, Tỉnh ủy quyết định thành lập “Trường sư phạm miền núi”40, do thầy Đào Thế Lữ trưởng ban giáo dục tỉnh kiêm Hiệu trưởng. Đồng chí Ê-Ban-Thương - người dân tộc Bana quê xã Phú Mỡ làm Hiệu phó, thầy Y Niêng là giáo viên với 1 lớp 30 học sinh. Từ năm 1973-1975 thầy Nguyễn Thanh Sơn là Hiệu trưởng, thầy Lê Lực làm Phó Hiệu trưởng. Trong 5 năm, trường Sư phạm miền núi đã đào tạo gần 100 giáo viên, trong đó có nhiều giáo viên là người dân tộc miền núi.

2.4. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1969 -1975

40 Địa chí Phú Yên, NXB Chính trị Quốc gia, 2003, tr.660.84

Page 85: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Với chiến công lẫy lừng trong cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân miền Nam đã đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, đế quốc Mỹ lại thay đổi chiến lược, chiến tranh bằng “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Ngày 3-2-1969, tại xã Sơn Long (Sơn Hòa), tỉnh tổ chức Đại hội thành lập Ủy ban nhân dân Cách mạng (UBNDCM) để quản lý các vùng giải phóng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng, huy động nhân tài vật lực phục vụ kháng chiến trong tình hình mới. Đồng chí Trần Suyền - Bí thư tỉnh ủy được bầu làm chủ tịch. Đồng chí Cao Xuân Thiêm, Bá Nam Trung làm Phó chủ tịch. Các đồng chí Lê Duy Tường, Nguyễn Thị Điểm, Nguyễn Hoài Nam, Trần Đình Quảng làm ủy viên.

Để triển khai “Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh” quân Mỹ ráo riết tiến hành kế hoạch “quét và giữ”. Để bình định nông thôn chúng tiến hành nhiều kiểu “Bình định đặc biệt”, “Bình định cấp tốc”, đẩy mạnh “chiêu hồi”, “chiêu hàng” chúng tung các lực lượng gián điệp “Thiên Nga”, “Phượng Hoàng” vào đánh phá hàng ngũ cán bộ cách mạng của ta, chúng đôn quân bắt lính. Chúng rải chất độc hóa học tàn phá sản xuất, hòng làm cho sức dân kiệt quệ phải vào các “Khu trù mật”, “Ấp chiến lược” của chúng.

Năm 1972 quân và dân Phú Yên đẩy mạnh 3 cao trào : “Cao trào diệt và làm tan rã quân ngụy ; Cao trào tấn công và nổi dậy làm chủ toàn bộ nông thôn ; Cao trào đấu tranh chính trị ở thành thị” và đã đạt những thắng lợi to lớn. Lực lượng vũ trang loại khỏi vòng chiến đấu 9.312 tên địch, trong đó có 1.354 tên Nam Triều Tiên, 21 cố vấn Mỹ. Miền tây Đồng Xuân được giải phóng liên hoàn. Các xã An Lĩnh, An Xuân, An Nghiệp, An Định, An Ninh (Tuy An) Hòa Định, Hòa Kiến, Hòa Quang (Tuy Hòa II), Hòa Thịnh, Hòa Mỹ, Sơn Thành, Hòa Tân, Hòa Phong … (Tuy Hòa I) dân lại trở về làng cũ, phục hồi sản xuất phục vụ chiến trường …, và theo đó các lớp học, trường học cách mạng lại phục hồi.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tiểu ban giáo dục Miền, của khu V và của tỉnh ủy, Ban giáo dục Phú Yên vượt lên mọi khó khăn, hy sinh gian khổ, gắn chặt các hoạt động giáo dục với nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Phong trào giáo dục qua nhiều cam go, thử thách vẫn đứng vững trên vị trí của mình và phục hồi lớn mạnh dần lên theo đà phát triển của cách mạng Phú Yên.

Ngày 19-5-1969, UBNDCM tỉnh khai giảng trường “Bổ túc văn hóa tỉnh” đặt ở tại Càte - khu VII - Gia Lai - vùng giáp ranh giới Phú Yên. Khóa đầu tiên gồm

85

Page 86: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

41 học viên chia làm 2 lớp (lớp 2 và 3). Học viên đều là cán bộ, đảng viên. Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Thinh (Bốn Xuân). Từ năm 1972, thầy Nguyễn Châu - Ủy viên Tiểu ban giáo dục tỉnh làm Hiệu trưởng. Giáo viên tiếp tục được bổ sung từ miền Bắc vào chi viện như Hoàng Bé (Bắc Giang), Nguyễn Thịnh (Hải Hưng), Lê Văn Khuyến (Hải Phòng), Nguyễn Văn Diện (Ninh Bình), Trần Luyến (Hưng Yên). Năm 1973 trường Bổ túc văn hóa dời xuống vùng 1 An Lĩnh, sau về Bầu Bèn xã Phước Tân cho đến ngày giải phóng. Về đời sống vật chất, nhà trường sản xuất trên 5ha nuôi gia súc, gia cầm … thu hoạch lương thực, thực phẩm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống và công tác. Nhà trường còn tham gia tốt các hoạt động kháng chiến, vận chuyển lương thực, vũ khí ra chiến trường. Sau 6 khóa tồn tại, trường Bổ túc văn hóa tỉnh đã góp phần đào tạo nâng cao trình độ văn hóa cho hàng trăm cán bộ Đảng viên các cấp chính quyền của tỉnh. Thầy giáo Nguyễn Châu – Hiệu trưởng nhà trường 4 năm liền được đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, được các cấp khen thưởng.

Năm 1970, theo đề nghị của Ban giáo dục tỉnh, Ủy ban nhân dân cách mạng Phú Yên quyết định mở “Trường phổ thông nội trú” đóng tại Phước Tân do thầy Đỗ Vĩnh Tân làm hiệu trưởng. Trường thu nhận các em thiếu nhi, con em cán bộ tỉnh và gia đình có công với cách mạng vào học. Trong 2 năm trường đã phải di chuyển đến 5 lần từ Buôn Ma Hơ, suối Rễ (xã Sơn Hội) đến vùng 6 An Xuân.

Cùng thời gian này, UBND cách mạng huyện Tuy An mở “trường Bổ túc văn hóa” do thầy Biện Ngọc Hưởng làm Hiệu trưởng, sau đó là cô Hoàng Lan (1971-1975), giáo viên là Võ Thị Kim Sinh, Biện Trẻo, Trần Văn Quảng.

Trước yêu cầu phát triển giáo dục, vùng giải phóng được mở rộng xuống đồng bằng, tháng 6-1971, Ủy ban nhân dân cách mạng quyết định mở “Trường Sư phạm Sơ cấp đồng bằng”41 với nhiệm vụ đào tạo giáo viên cấp I. Trường lập tại Buôn Ma Hơ, xã Song Hà, bên bờ sông Hà Đan (thượng nguồn sông Kỳ Lộ) huyện Sơn Hòa, thầy Nguyễn Cách, ủy viên Tiểu ban giáo dục làm Hiệu trưởng, thầy Trần Khắc Luyện làm Hiệu phó. Đội ngũ giáo viên chủ yếu là miền Bắc chi viện, có các thầy Dương Ngô Cảnh, Nguyễn Cửu Đỉnh, Ngô Hải Loan, Chu Xuân Oanh, Lê Văn Tuận, Nguyễn Đình Thìn. Khóa đầu tiên có 24 học sinh. Muốn tồn tại và hoàn thành

41 Địa chí Phú Yên, NXB Chính trị Quốc gia, 2003, tr.660.86

Page 87: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nhiệm vụ của mình, nhà trường phải vừa là một đơn vị giáo dục vừa là một đơn vị sản xuất và chiến đấu. Trường có tổ hậu cần, may trang phục cho giáo sinh do cô Võ Thị Minh Nguyệt phụ trách. Tháng 10 năm 1972, địch càn đốt 6 tấn gạo và một kho thực phẩm đã làm cho nhà trường gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng thầy và trò Trường Sư phạm vẫn đứng vững.

Đến tháng 4-1975 trường Sư phạm Sơ cấp đồng bằng dời về thị trấn Sông Cầu (nay là trường THPT Phan Đình Phùng). Tháng 9-1975, có 27 giáo sinh khóa đầu tiên của trường tốt nghiệp. Họ hồ hởi mang ý chí và năng lực được rèn luyện trong chiến tranh bước vào công cuộc xây dựng quê hương thời hòa bình, đa số họ đã trở thành những cán bộ cốt cán của các ngành của tỉnh nhà42. Trong giai đoạn 1965- 1972, trường trung cấp Sư phạm khu V đã đào tạo 23 giáo viên cấp 2 cho tỉnh43.

Trong chiến dịch Mùa xuân 1975, nhà trường, thầy giáo, học sinh dốc toàn lực phục vụ chiến trường, tham gia vào các đoàn công tác cứu chữa thương bệnh binh, tiếp tế hậu cần cho đoàn quân chủ lực đang thần tốc tiến vào Nam, tham gia các đoàn công tác tiếp quản các công sở, chính quyền ngụy, tổ chức trật tự an ninh, tổ chức giúp đỡ đưa đồng bào về quê cũ làm ăn … và nhất là làm chủ lực quân trong việc tiếp quản và tổ chức lại nhà trường, bắt đầu xây dựng lại nền giáo dục cách mạng mà từ lâu họ mong ước.

III. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG VÙNG CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN TẠM THỜI KIỂM SOÁT

3.1. Hệ thống giáo dục Phú Yên trong vùng địch tạm chiếmỞ tỉnh lỵ, quận lỵ, thị trấn và các xã đồng bằng đông dân cư của tỉnh Phú Yên

mà chính quyền Mỹ tạm thời kiểm soát, những nơi Mỹ ngụy lập được chính quyền đều có mở trường tiểu học. Ở các xã khác có trường sơ cấp, hương trường. Tất cả các loại trường đều hoạt động theo chương trình giáo dục cộng đồng. Chuyển đa số các trường Trung học thành trường Trung học tổng hợp.

Một số giáo viên cộng đồng được đào tạo theo tinh thần “bài phong, đả thực, diệt cộng” để trở thành “vừa là ông thầy trên lớp học, vừa là cán bộ ngoài thôn xã” để “chứng minh và xứng đáng với vai trò quan trọng của nó trong công cuộc cải tiến nông thôn, bằng những hoạt động xã hội, bằng phương pháp giáo dục bắt nguồn từ địa phương để ảnh hưởng lại địa phương; Bằng chủ trương, vừa giáo dục con em, 42 Một thời để nhớ – Hồi ký lịch sử – Thư viện Phú Yên 2001 trang 354 – 355.43 Xem phần phụ lục.

87

Page 88: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

vừa cải tạo hoàn cảnh, bằng nghệ thuật mềm dẻo, linh động cho sát với thực trạng địa phương và tâm lý, nguyện vọng và khả năng dân chúng, để dọn đất ươm mầm cho những thế hệ thanh niên tiến bộ sẻ dốc lòng xây dựng quê hương xứ sở !”44

Thực chất của đường lối giáo dục cộng đồng là để phục vụ cho mục đích chính trị, cho các chiến lược quân sự “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Ở nông thôn đi đôi với chính sách bình định, dồn dân, lập “ấp chiến lược”, “ấp tân sinh” là trường Tiểu học cộng đồng được mọc lên.

Gắn liền với các hoạt động trong nhà trường và ngoài xã hội của giáo viên về các chủ điểm nghiên cứu địa phương (về vị trí địa dư, dân số, kinh tế, y tế, giáo dục...) là một đội công tác “bình định nông thôn” của Mỹ nguỵ. Những kết quả của những bài tập của học sinh về điều tra, ghi chép, vẽ bản đồ địa lý, địa hình, địa mạo, về phân loại các thành phần dân cư, về tình trạng đời sống tâm lý của dân chúng… quả là những tài liệu có ý nghĩa về quân sự, gián điệp.

Để thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh động viên nam giới từ 17-45 tuổi kể cả sinh viên, học sinh, giáo chức phải ra lính. Chúng lập 18 liên đoàn sinh viên, 63 liên đoàn học sinh, ra luật quân sự hóa giáo chức. Giáo chức phải đi thụ huấn quân sự 9 tuần. Giáo chức mãn lính không được xuất ngũ mà chuyển sang chế độ gọi là “biệt phái”, trở về ngành giáo dục nhưng vẫn ở trong biên chế ngụy quân, nhận nhiệm vụ theo quân lệnh.

Phó Thủ tướng liêm tổng trưởng giáo dục Sài Gòn Ngô Khắc Tỉnh đọc diễn văn trong dịp chủ tọa lễ bế giảng khóa huấn luyện quân sự cao cấp học đường tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung ngày 4-10-1969 với những lời lẽ ngọt ngào, lừa bịp đã lột trần bản chất phản động của nền giáo dục chính quyền Sài Gòn: “Tôi cảm động vì ý thức trách nhiệm của anh em sinh viên, học sinh trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, tạm thời rời bỏ nếp sống quen thuộc nơi học đường để dấng thân trên hành trình mới góp phần vào nỗ lực chung của toàn quân, toàn dân trong cuộc chiến đấu chống xâm lăng cộng sản... Các em sẽ lãnh nhiệm chỉ huy trong đại gia đình quân lực để góp sức công cuộc chiến đấu chung, công cuộc bảo vệ quốc gia, phục vụ dân tộc… “Tôi cầu mong các em luôn giữ gìn niềm tin và ý chí sắt đá đó!”.

44Ban giáo dục cộng đồng. Nha Tiểu học và giáo dục cộng đồng. Bộ giáo dục xuất bản. In lần thứ ba. 1971, tr. 46-47

88

Page 89: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Từ năm 1955 đến năm 1970, bộ máy lãnh đạo Giáo dục Phú Yên trong vùng địch kiểm soát chỉ có 1 Trưởng ty và 1 Thanh Tra. Đối với cấp tiểu học, từ năm 1960, học sinh được cấp chứng chỉ thay cho thi cuối cấp. Từ năm học 1973-1974 bỏ thi tú tài phần 1, chỉ thi lấy 1 văn bằng Tú tài phổ thông.

Từ năm 1972 ngành Trung học và Tiểu học hợp nhất thành Sở học chánh đặt dưới quyền của Chánh sự vụ và 2 phụ tá (1 phụ tá hành chính, 1 phụ tá chuyên môn). Sau một thời gian Sở học chánh đổi thành Ty giáo dục do Bộ giáo dục Sài Gòn bổ dụng. Ty tiểu học quản lý hệ thống các trường Tiểu học (kể cả trường công, trường tư, hương trường và các loại hình giáo dục tráng niên). Các trường Trung học công lập do Nha trung học quản lý. Các trường Trung học tư thục do Nha tư thục quản lý.

Về giáo viên, tham gia giảng dạy bậc sơ học tối thiểu giáo viên phải có bằng Tiểu học. Dạy bậc tiểu học tối thiểu phải có bằng Trung học, dạy Trung học đệ nhất cấp tối thiểu phải có bằng Tú tài II, dạy Trung học đệ nhị cấp tối thiểu phải có bằng cử nhân. Những người có bằng “Khả năng sư phạm” Tiểu học, trung học hay tốt nghiệp ĐHSP mới được công nhận là giáo viên, giáo sư chính ngạch (dưới chính quyền Sài Gòn thầy giáo Trung học được gọi là giáo sư). Nếu ai không có bằng sư phạm thì chỉ là giáo viên phụ khuyết, công nhật hay khế ước, lương thấp hơn chính ngạch hoặc tương đương nhưng không có lương hưu.

Về lớp Bình dân giáo dục (Giáo dục tráng niên), thực hiện được 4 lớp ở các nơi như: Bình Lợi: 69 học sinh, Bình Hòa: 41 học sinh, Bình An: 41 học sinh, Bình Nhạn: 40 học sinh.

Về bậc Trung học, từ năm học 1954-1955, trường Trung học đệ nhất cấp Nguyễn Huệ được lập tại Phú Thứ xã Hòa Bình do ông Trần Văn Kỳ làm Hiệu trưởng với 2 lớp ( 1 lớp đệ thất, 1 lớp đệ lục).

Ngày 26 - 6 - 1956, theo Nghị định số 463/GD-NĐ của bộ Quốc gia Giáo dục chính thức đặt tên trường Nguyễn Huệ, sau đó trường dời về địa điểm trường Hùng Vương hiện nay. Trường Nguyễn Huệ phát triển thành trường Trung học đệ nhị cấp theo hệ Trung học Tổng hợp (có học nghề nữ công gia chánh, dạy may, đánh máy chữ…) các ông Đinh Thành Bài, Vũ Trí Phú, Nguyễn Đăng Ngọc, Nguyễn Đức Giang, Lê Ngọc Giáng, Tôn Thất Quế lần lượt làm Hiệu trưởng nhà trường.

89

Page 90: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Sau trường Nguyễn Huệ, tháng 4-1959 trường Trung học Sông Cầu thành lập. Tháng 12-1968, trương Trung học Hiếu Xương thành lập.

Về giáo dục nghề nghiêp có trường Trung học Nông-Lâm-Súc tại xã Hòa An, Thị xã Tuy Hòa.

Theo thống kê năm 1969, trường Trung học công lập có 4 trường với 1.815 học sinh và 69 giáo sư. Trong đó, trương Trung học Tổng hợp Nguyễn Huệ Tuy Hòa có 21 lớp đệ nhất cấp với 1089 học sinh, 15 lớp trung học đệ nhị cấp (5 lớp đệ tam, 6 lớp đệ nhị, 4 lớp đệ nhất) với 667 học sinh. Trường Trung học Sông Cầu: có 8 lớp Trung học đệ nhất cấp (2 đệ thất, 2 đệ lục, 2 đệ ngũ, 2 đệ tứ) và 2 lớp trung học đệ nhị cấp (1 đệ tam, 1 đệ nhị ) với tổng số học sinh là 433 người, 5 giáo sư. Trường Trung học Đồng Xuân: có 4 lớp (1 đệ thất, 1 đệ lục, 1 đệ ngũ, 1 đệ tứ) với tổng số là 175 học sinh, 2 giáo sư. Trường Trung học Hiếu Xương: có 2 lớp đệ thất, tổng số là 118 học sinh. Hệ trung học tư thục gồm có các trường Trung học tư thục Bồ Đề do ông Huỳnh Tô làm Hiệu trưởng. Trường trung học tư thục Đặng Đức Tuấn do ông Nguyễn Cấp làm Hiệu trưởng. Trường trung học tư thục Đông Mỹ-Tuy Hòa. Trường trung học tư thục Văn Minh do ông Nguyễn Hường lập tại Phong Niên, xã Hòa Thắng. Trường trung học Cần Học tại Phú Thứ do ông Ngô Càng Phương sáng lập, ông Ngô Thạch Ủng làm Hiệu Trưởng. Trường Trung học tư thục Tân Dân do ông Nguyễn Kim Lãng tổ chức. Trường Trung học tư thục Minh Tân (Hội Khổng Học chủ trương). Trường tiểu học tư thục Bình Mỹ do ông Trần Đắc Khoa làm Hiệu trưởng (phường 4, thị xã Tuy Hòa). Bên cạnh đó, có trường thuộc hệ tư thục chuyên nghiệp như trường Thanh Hà dạy đánh máy chữ có 25 học sinh, trường Ngọc Lan dạy cắt may có 15 học sinh.

Số trường, lớp, giáo viên bậc Trung học công lập năm học 1974-1975 (số liệu từ phòng lưu trữ của Bộ giáo dục năm 1975) như bảng sau:

Trường Trung học đệ nhất cấp

Số trường

Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 TS

HS

TS

Lớp

TS

Giáo viên

Số HS Số lớp

HS Lớp HS Lớp HS Lớp

6 3.300 58 2.393 40 1.567 30 1.428 29 8.688 157 65 GVChính

90

Page 91: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

ngạch Trường trung học đệ nhị cấp

Số trường

Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 TSHS

TSLớp

TSGiáo viên

Số HS Số lớpHS Lớp HS Lớp

4 844 17 611 13 476 9 1931 3931 GVchính ngạch

3.2. Phong trào đấu tranh yêu nước của giáo viên, học sinh Phú Yên trong vùng kiểm soát tạm thời của địch

Thị xã Tuy Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, là trung tâm đầu não của chính quyền Sài Gòn tay sai tại Phú Yên, nơi tập trung đông các tầng lớp trí thức mà chủ yếu là đội ngũ giáo chức và học sinh các cấp. Để tô điểm cho bộ mặt văn hóa giáo dục của chính quyền tay sai, chúng cho mở nhiều loaị trường học: trường công, trường tư, trường do các tôn giáo; nâng cấp trường Trung học Nguyễn Huệ thành trường Trung học tổng hợp; hoàn chỉnh từ đệ thất đến đệ nhị cấp. Học sinh cả tỉnh phần lớn học trường Nguyễn Huệ. Trường Nguyễn Huệ trở thành trung tâm nhạy cảm nhất về văn hóa, về thời sự, chính trị, không chỉ trong giới trí thức trẻ, sinh viên học sinh mà cả trong đông đảo phụ huynh học sinh và các tầng lớp nhân dân Thị xã. Và do đó cũng là trọng điểm tranh thủ vận động của các lực lượng chính trị. Thành phần học sinh ở đây rất đa dạng. Họ là con em của giới công chức, của các tầng lớp công thương, tư sản, tiểu tư sản và số đông là con em các tầng lớp lao động thành thị và nông thôn.

Tuy nhiên, từ rất sớm năm 1958, đã có một số học sinh đầu tiên mà đi đầu là Lương Công Trấp đã rời ghế nhà trường, bí mật thoát ly lên chiến khu tham gia cách mạng. Đó là dấu hiệu của lòng yêu nước, ý thức đấu tranh giải phóng dân tộc đã kích thích tâm lý cho hành động vì nghĩa lớn của tuổi trẻ. Và tinh thần cách mạng đã đến với học sinh trường Nguyễn Huệ, học sinh Thị xã Tuy Hòa! Từ đầu năm 1960, Tỉnh ủy đã cử đồng chí Lương Công Bổ (Bốn Thệ), Võ Đông Thu (Mười Lệ) và Bùi

91

Page 92: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tân (Bảy Tính) tỉnh ủy viên về trực tiếp liên lạc, xây dựng cơ sở bí mật bồi dưỡng tư tưởng và phương pháp hoạt động cách mạng cho học sinh, thanh niên trí thức Thị xã Tuy Hòa.

Những học sinh đầu tiên trường Nguyễn Huệ được tiếp xuc với cách mạng, ở trung học đệ Nhị cấp như Nguyễn Trọng Huấn (Ly Sơn), Nguyễn Thúc Khang (Băng Sơn), Huỳnh Lư (Lữ Sinh), Nguyễn Thị Kim Thoa (Phương Lan)…do Trần Văn Lạc (Ngự Giang) phụ trách. Ở cấp trung học Đệ Nhất cấp có các học sinh Huỳnh Ngọc Sơn, Nguyễn Thị Kim Chi (Phương Loan)… do Trần Văn Tiến (Tử Minh) phụ trách.

Các hoạt động của nhóm học sinh nòng cốt này đã đưa hoạt động yêu nước của học sinh Nguyễn Huệ nói riêng và thanh niên học sinh thị xã nói chung dần dần đi vào quỹ đạo chung dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tối ngày 10-8-1964, tại Lẫm thôn Quan Quang xã Hòa Kiến, đội công tác đặc biệt (Bí danh là C6) do đồng chí Bảy Tính làm Bí thư đã tổ chức kết nạp 3 đồng chí vào Đoàn thanh niên, cử Trần Văn Lạc (Ngự Giang) làm bí thư chi đoàn. Chi đoàn thanh niên cách mạng đầu tiên của trường Nguyễn Huệ được thành lập. Qua những thử thách của hoạt động cách mạng, ngày 5-4-1965, đồng chí Trần Văn Tiến (Tử Minh) được kết nạp vào Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam45.

Các hoạt động của Chi đoàn là vừa phục vụ cho sự lãnh đạo của Thị ủy, vừa tuyên truyền phát triển trong lực lượng nòng cốt trong học sinh các trường ở thị xã và các huyện.

Từ năm 1963, chế độ độc tài gia đình trị Diệm-Nhu sụp đổ mở ra thời kỳ đấu tranh công khai hợp pháp trong sinh viên học sinh. Phong trào sinh viên, học sinh Phú Yên được nối liên lạc với phong trào đấu tranh cả nước như Huế, Sài Gòn.

Thầy Nguyễn Hữu Ngô được tổng Hội sinh viên Huế cử về giúp đỡ phong trào học sinh Phú Yên. Học sinh Nguyễn Huệ cùng với học sinh các trường Bồ Đề, Đặng Đức Tuấn, Thánh Giu-sê… xuống đường với những câu khẩu hiệu: “Đả đảo chế độ độc tài gia đình trị Diệm-Nhu”, “Đả đảo tay sai Nguyễn Đăng Ngọc” - vì có thái độ khinh miệt, hà khắc, o ép học sinh.

Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của học sinh, sinh viên Sài Gòn đã có ảnh hưởng tích cực đến phong trào ở Phú Yên. Những bài hát “Dậy mà đi”, “Hát cho 45 Trần Tử Minh. Trường THPT Nguyễn Huệ- Những năm tháng đáng nhớ. Sở Văn hóa Phú Yên XB, năm 2001, tr.41.

92

Page 93: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đồng bào tôi nghe”, “Tự nguyện”, “Người mẹ bàn cờ”… vang lên thúc giục trong các buổi sinh hoạt học đường. Phong trào “Về nguồn”, “Lễ giỗ tổ Hung Vương”, “Những cuộc cắm trại” được tổ chức thu hút hàng trăm học sinh các trường kể cả phụ huynh học sinh cũng tham gia, đã có tác dụng giáo dục ý thức bảo vệ giá trị lịch sử dân tộc, chống lối sống lai căn, mất gốc. Các hội đoàn học sinh như: Hội Hướng Đạo, gia đình Phật Tử, Thanh-Sinh-Công, Nhân-Trí-Dũng… được thành lập, thu hút nhiều học sinh tham gia. Mỗi Hội đoàn có tôn chỉ riêng, song cái chung nhất là xây dựng được nếp sống lành mạnh, tránh xa cuộc sống sa đọa, nghiện ngập, tẩy chay sự hiện diện của quân đội nước ngoài,…

Về giáo chức, phong trào hoạt động có đặc điểm khác hơn sinh viên, học sinh. Có một số giáo viên trẻ như Nguyễn Thúc Ngô, Phan Long Côn… trưởng thành từ phong trào sinh viên, học sinh Huế, Sài Gòn mạnh dạn hăng hái tham gia hướng dẫn những cuộc đấu tranh công khai hợp pháp của học sinh.

Từ năm 1966, nhiều học sinh tham gia chiến đấu tiếp lương, tải đạn. Học sinh Thị xã thoát ly lên chiến khu như Lương Công Đoan, Lương Công Hùng … càng thôi thúc hành động cho các lớp học sinh khác tiếp bước.

Trong những năm 1971-1972, học sinh phối hợp với công nhân lao động, thương binh đã làm 3 cuộc nổi dậy như: vụ đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn phải chịu trách nhiệm về cái chết của học sinh Nguyễn Thành Long kéo dài 31 ngày đêm; Vụ cảnh sát bắn chết Hà Trấp- học sinh Nguyễn Huệ, sau sự kiện này học sinh trường đã tiến hành một bạo động dữ dội, đập phá, đốt cháy chi cục cảnh sát quận, tiêu hủy nhiều tấn súng đạn, xăng dầu, tài liệu mật và phá nhà giam thả tù nhân do chúng giam giữ.

Phong trào đấu tranh của học sinh Tuy Hòa dần dần đã có sự kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng qua hoạt động bí mật chi đoàn TNNDCM với phong trào công khai, hợp pháp trong nhà trường rồi lan tỏa hòa nhập với phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình của các tầng lớp nhân dân lao động thành một làn sóng cách mạng quần chúng rộng lớn. Từ phong trào hoạt động xã hội, cách mạng của sinh viên, học sinh từ trong trường mà chính quyền Sài Gòn kiểm soát đã rèn luyện đào tạo nhiều chiến sĩ cách mạng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng quê hương năm 1975, tạo ra một đội ngũ cán bộ tham gia quản

93

Page 94: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

lý chính quyền cách mạng nhân dân, xây dựng quê hương, đất nước sau ngày đất nước thống nhất (4-1975).

IV. CHI VIỆN CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN XHCN MIỀN BẮC CHO GIÁO DỤC PHÚ YÊN

Mỗi một chiến công của quân và dân Miền Nam nói chung và Phú Yên nói riêng đều gắn liền với sự chi viện lớn lao của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Anh bộ đội cụ Hồ trong đoàn quân Nam tiến thời chống Pháp trước đây trở về với những người cha, người mẹ ở Phú Yên thời chống Mỹ. Người trung đoàn trưởng, liên trung đoàn 83 – 84 năm xưa, Tướng Lư Giang nay có mặt trong trung đoàn Trần Hưng Đạo, sát cánh cùng với các đồng chí Trần Suyền, Lương Công Huề, Nguyễn Duy Luân, … trong Bộ chỉ huy tiền phương A4 chỉ huy cuộc chiến đấu tiêu diệt quân Mỹ trên địa đạo gò Thì Thùng lịch sử, trong chiến thắng Đường 5 lẫy lừng quét sạch quân thù giải phóng Phú Yên.

Nhiều thầy cô giáo, học sinh là những người con Phú Yên tập kết ra Bắc được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ giáo dục nay được lần lượt trở về phục vụ quê hương. Thầy Nguyễn Chu về năm 1959, thầy Cao Văn Hoạch về năm 1962. Năm 1965 thầy Đào Thế Lữ – Hiệu trưởng trường học sinh miền Nam, thầy Nguyễn Cách, nguyên Hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh năm xưa nay lại trở về xây dựng tiểu Ban giáo dục Phú Yên… Năm 1973, thầy Nguyễn Tài Sum, thầy Phạm Hữu Sen về tiểu Ban giáo dục khu V.

Các chiến sĩ giải phóng quân nguyên là thầy giáo ở miền Bắc do nhu cầu công tác được trở lại với ngành, như thầy Trần Khắc Luyện, thầy Nguyễn Đình Mão, thầy Nguyễn Đình Thìn, Đỗ Văn Nhung. Nhất là sau hiệp định Pari 1973, để chuẩn bị cho tình hình mới, hàng loạt cán bộ giáo dục miền Bắc – phần đông là ở quê hương kết nghĩa Hải Dương đi B chi viện cho giáo dục Phú Yên. Nhân dân Phú Yên luôn biết ơn, tưởng nhớ sự hy sinh cao cả của các thầy giáo: Hoàng Luật (Nam Định), Cao Thành (Quảng Ngãi), Phạm Văn Mỹ (Thái Bình)… đã hy sinh vì sự nghiệp giáo dục Phú Yên.

Về lĩnh vực đào tạo cán bộ, từ đầu những ngày tập kết năm 1954, trong số lượng cán bộ ít ỏi được đi tập kết, tỉnh ta cũng đã có nhiều học sinh cấp III được đi

94

Page 95: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

ra Bắc để đào tạo. Sau này họ đều trưởng thành là những cán bộ khoa học kỹ thuật cao cấp của Nhà nước46.

Hằng trăm con em Phú Yên được gửi ra miền Bắc nuôi dưỡng, học tập một cách chu đáo ở các trường học sinh miền Nam: Chương Mỹ, Hà Đông, Hải Phòng, Đông Triều, trường bổ túc văn hóa cho thương bệnh binh ở Từ Hồ, … Nhiều học sinh được gửi đi học ở Liên Xô, các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em khác. Họ được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn nhiều ngành nghề đã trở thành lớp cán bộ cốt cán các cấp của tỉnh.

Chỉ 3 tháng sau ngày giải phóng, Phú Yên nhận được món quà vô cùng quý giá của Đảng bộ và nhân dân Hải Dương đó là một thư viện hoàn chỉnh gồm 1 vạn cuốn sách, 4 giá sách, 1 tủ mục lục và 6 cán bộ vào hướng dẫn nghiệp vụ thư viện - Thư viện mang tên Hải Phú đang được tiếp tục xây dựng và bổ sung ngày càng khang trang hiện đại đã góp phần vào phát triển văn hóa giáo dục Phú Yên. Thư viện Hải Phú mãi là biểu tượng của mối tình kết nghĩa keo sơn của Phú Yên - Hải Dương trong những ngày tháng chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 15 tháng 4 năm 1972, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Thanh niên của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam – Nguyễn Văn Kiết đã gửi thư cho Bộ trưởnng Bộ giáo dục nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Nguyễn Văn Huyên nói lên lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân miền Nam, của Ngành giáo dục miền Nam đối với nhân dân miền Bắc, ngành giáo dục miền Bắc về sự chi viện vô cùng to lớn, đầy tình nghĩa ruột thịt của hậu phương lớn đối với tiền tuyến. Bức thư cũng nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối vào ngày chiến thắng cuối cùng của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta, tin tưởng ở một ngày mai xây dựng trên đất nước ta một nền giáo dục thống nhất, văn minh, hiện đại, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu.

** * *

Giáo dục Phú Yên trong thời kỳ 1954 - 1975 gắn chặt với các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vô cùng oanh liệt và đầy hy sinh gian khổ của quân và dân tỉnh nhà.

46 Xem phụ lục95

Page 96: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trên thực tế trong giai đoạn này ở Miền Nam tồn tại 2 nền giáo dục hoàn toàn đối lập nhau, đấu tranh lẫn nhau về mặt chính trị quan điểm, nội dung và phương pháp trong những điều kiện chiến tranh ác liệt.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giáo dục cách mạng thực sự là một mặt trận. Thầy giáo, học sinh là những chiến sĩ kiên cường. Họ vượt lên mọi hy sinh, gian khổ trong mưa bom, bão đạn, trong đói cơm lạt muối để làm tròn nhiệm vụ xóa nạn mù chữ cho con em các dân tộc ở vùng căn cứ, bổ túc văn hóa cho cán bộ, bộ đội làm tốt hơn công tác, chiến đấu trên chiến trường.

Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai dùng bao nhiêu thủ đoạn tàn bạo hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta, kể cả việc thả bom triệt hạ trường học, bắn giết thầy giáo học sinh, xóa bỏ nền giáo dục cách mạng, gom dân lập ấp chiến lược v.v… nhưng thầy trò kiên quyết thực hiện khẩu hiệu “Dân bám đất, giáo dục bám dân, giáo viên bám lớp”, “một tấc không đi, một li không rời” để bám lấy vùng giải phóng, bảo vệ cách mạng, bảo vệ cán bộ, mở rộng vùng tự do, tăng thêm trường lớp.

Ngay trong chiến tranh ác liệt, Đảng đã sáng suốt nghĩ đến việc mở trường lớp sư phạm đào tạo thầy giáo, gửi con em ra Bắc để đào tạo cán bộ cho tương lai.

Nền giáo dục Cách mạng từng bước phát triển theo đà chiến thắng của cuộc kháng chiến cùng với chi viện mạnh mẽ của Miền Bắc xã hội Chủ nghĩa…

Tuy được nuôi dưỡng của cả bộ máy chiến tranh của đế quốc Mỹ, nền giáo dục trong vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn có tăng về số lượng trường lớp, phương tiện dạy học, nhưng cơ bản về âm mưu chính trị của chúng đã bị phá sản theo đà thất bại của cuộc chiến tranh. Cùng với sự ảnh hưởng tác động tích cực mạnh mẽ của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, của nhà trường cách mạng vùng giải phóng, tinh thần yêu nước, lòng căm ghét ngoại bang, ý thức độc lập dân tộc được khích lệ, đa số thầy giáo, học sinh vùng ngụy quyền kiểm soát hướng về cách mạng, về vùng giải phóng, nhiều người thoát ly đi theo kháng chiến, phong trào sinh viên học sinh bằng các hoạt động xã hội kết hợp với phong trào đấu tranh của các giới thành thị làm cho chính quyền ngụy lung lay rệu rã.

Bằng sức mạnh tổng hợp, quân dân của tình nhà đã đưa cuộc kháng chiến đánh thành công rực rỡ mở ra một chương mới cho lịch sử dân tộc, cho sự phát triển

96

Page 97: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng trong một nước Việt Nam thống nhất – Xã hội chủ nghĩa.

PHẦN THỨ BA

GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2005

CHƯƠNG V GIÁO DỤC PHÚ YÊN NHỮNG NGÀY ĐẦU GIẢI PHÓNG

VÀ TRONG THỜI KỲ HỢP NHẤT PHÚ YÊN- KHÁNH HÒA (1975 - 1989)

I. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG NHỮNG NGÀY ĐẦU GIẢI PHÓNG (4 - 11/ 1975)

1.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục Ngay từ những ngày đầu tiên cuộc hồi sinh vĩ đại của đất nước, với bao công

việc bộn bề, Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) ngày 17/6/1975 đã ra Chỉ thị số 21/CT-TW về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng. Chỉ thị nêu: “Trong tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng miền Nam hiện nay, công tác giáo dục giữ một vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển chế độ dân tộc dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, cùng với miền Bắc XHCN xây dựng một nước

97

Page 98: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nền giáo dục cách mạng của miền Nam phải nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động của nền giáo dục thực dân mới của Mỹ Ngụy ở vùng mới giải phóng, tích cực góp phần xây dựng con người mới và cuộc sống mới, đáp ứng yêu cầu cấp bách và lâu dài của cách mạng trên các mặt kinh tế, văn hóa và quốc phòng”.

Chỉ thị đã hướng dẫn các nhiệm vụ cụ thể về việc tích cực xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa, về việc phát triển mạnh và đều khắp các trường phổ thông, xây dựng ngành học mẫu giáo, về việc xây dựng các trường đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục …

Tiếp thu Chỉ thị của Đảng, tỉnh ủy Phú Yên đã có Nghị quyết về giáo dục, với mấy nhiệm vụ chính :

1- Tập trung duy trì, củng cố và nhanh chóng phát triển những cơ sở giáo dục cách mạng.

2- Tiếp quản tốt các cơ sở giáo dục của Mỹ ngụy.3- Ổn định lại tình hình nhà trường, kết thúc năm học 1974 -1975 và chuẩn bị

thật tốt cho năm học mới, năm học đầu tiên sau ngày giải phóng 1975 – 1976.Trong niềm vui giải phóng quê hương, các chiến sĩ giáo dục lại bước vào một

cuộc chiến đấu mới - công cuộc cải tạo nền giáo dục cũ và xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa trên quê hương độc lập của mình.

1.2. Tổ chức bộ máy giáo dụcCông việc đầu tiên của việc xây dựng lại một nền giáo dục cách mạng mới là

phải nhanh chóng hình thành hệ thống bộ máy giáo dục trong toàn tỉnh.Ở cấp tỉnh, Ban lãnh đạo Ty Giáo dục Phú Yên lúc bấy giờ do thầy Nguyễn

Chu (Nam Đà) làm Trưởng ty, thầy Nguyễn Cách, thầy Nguyễn Châu làm uỷ viên và một số cán bộ cơ quan Ty. Phụ trách giáo dục các huyện Sơn Hòa (bao gồm cả Sông Hinh ngày nay) là ông Nguyễn Thanh Sơn; huyện Đồng Xuân (bao gồm cả Sông Cầu ngày nay) là ông Trần Kim Bôi; huyện Tuy An là ông Biện Ngọc Hưởng; Tuy Hòa II là ông Nguyễn Văn Diện; Tuy Hòa I là ông Huỳnh Khanh. Giáo dục ở các xã, phường là do các Ủy ban nhân dân địa phương phụ trách.

Công tác quản lý, tổ chức và xây dựng lại sự nghiệp giáo dục một tỉnh mới giải phóng thật là khó khăn, vất vả và phức tạp. Nhưng với tinh thần của người chiến sĩ cách mạng, các Ban lãnh đạo giáo dục các cấp đã tập họp được đông đảo

98

Page 99: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

giáo viên cùng nhanh chóng ổn định tình hình, khôi phục và phát triển ngành giáo dục của tỉnh.

Trên cơ sở những lớp học đã duy trì được ở các vùng căn cứ, Tiểu ban giáo dục tỉnh đã cử cán bộ về củng cố lại, mở thêm trường lớp để đón con em đồng bào từ lâu phải bị tập trung ở các ấp chiến lược của địch, hay tản cư nay trở về làng cũ làm ăn, học tập.

Các trường tập trung của tỉnh ở chiến khu được dời về đồng bằng. Trường Sư phạm đồng bằng dời về Sông Cầu rồi vào Tuy Hòa. Trường Sư phạm sơ cấp đồng bằng chuyển dần lên thành Trường Sư phạm trung cấp Phú Yên.

Trường Sư phạm miền núi Phú Yên chuyển thành trường Thanh niên dân tộc nội trú Tân Lương (Sơn Hòa), lúc này gọi là trường 3 chức năng (sản xuất, học tập, sẵn sàng chiến đấu), dạy học sinh các dân tộc miền núi Sông Hinh, Sơn Hòa có trình độ cấp 2 với số lượng gần 120 em.

Bên cạnh hệ thống trường ở vùng căn cứ và vùng giải phóng, ngành giáo dục tiếp nhận và củng cố lại một số trường tiểu học ở thị xã Tuy Hoà, thị trấn Phú Lâm, các huyện Sông Cầu, Tuy An, Củng Sơn…. và các trường trung học tổng hợp Nguyễn Huệ Tuy Hòa, trường Trung học tỉnh hạt Hiếu Xương, Trường Trung học Sông Cầu…. Tất cả với số lượng vài nghìn học sinh và hơn một trăm giáo viên.

Thực hiện chỉ thị 21 của Trung ương, Ủy ban nhân dân cách mạng miền Nam Trung Bộ ra chỉ thị số 5 về việc quốc hữu hóa các trường tư thục, Ủy ban quân quản Phú Yên cùng Ban giáo dục tỉnh tổ chức hội nghị các chủ trường phổ biến chỉ thị số 5 của UBND CM Miền Trung và tiến hành các thủ tục quốc hữu hóa các trường tư thục. Trong khí thế chiến thắng của cách mạng, đa số các chủ trường đều hoan nghênh và tự nguyện chuyển giao nhà trường từ cơ sở vật chất đến giáo viên, học sinh cho Ban giáo dục tỉnh quản lý.

Sau một thời gian ngắn làm công việc tiếp quản và ổn định tình hình, ngày 11 tháng 4 năm 1975, trường cấp 3 Nguyễn Huệ (trường trung học tổng hợp lớn nhất Phú Yên lúc này) đã gộp thêm học sinh đệ nhị cấp (lớp 1012) của các trường tư thục trên địa bàn thị xã Tuy Hòa và trường Nông-Lâm-Súc, do thầy Phạm Hữu Sen làm Hiệu trưởng, đã ổn định và bắt đầu đi vào dạy học. Học sinh cấp tiểu học và học sinh trung học đệ nhất cấp (lớp 69) đưa về học tại các trường thuộc phường theo hình thức liên cư, liên địa. Ở nông thôn, một số nơi có điều kiện cũng sửa chữa lại

99

Page 100: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trường cũ, hoặc xây dựng trường tạm cho con em mới về quê học tập. Tất cả các trường học được mở cửa trở lại với yêu cầu hoàn thành nốt chương trình năm học 1974 – 1975. Mùa hè năm 1974-1975, tất cả học sinh cấp II, cấp III đều lên đường tham gia khai hoang, vỡ hóa để phục vụ sản xuất theo chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện nguyên lý giáo dục mới “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.

Kỳ thi tốt nghiệp PTTH đầu tiên của nền giáo dục cách mạng, sau giải phóng được tổ chức khắp 9 tỉnh miền Trung vào ngày 10 và 11 tháng 9 năm 1975, 500 học sinh lớp 12 của Phú Yên tham gia dự thi tại Hội đồng thi Nguyễn Huệ. Công tác chấm thi được tổ chức chung tại Đà Nẵng. Học sinh Phú Yên đỗ được 425 em, đạt 85%. Các lớp trung học, tiểu học cũng lần lượt hoàn thành chương trình năm học.

Tháng 9/1975, trường Nguyễn Huệ được UBHC Khu trung Trung bộ tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng 3 do thầy và trò Trường trung học tổng hợp Nguyễn Huệ đã có công trong kháng chiến chống Mỹ, với chiến công xuất sắc trong việc biểu tình, đánh chiếm và đốt cháy chi khu cảnh sát Tuy Hòa năm 1972.

Xây dựng lại trường lớp Bị chiến tranh tàn phá, trường lớp ở vùng căn cứ và giải phóng cũ bị đốt phá

xơ xác, tiêu điều, trường lớp ở vùng mới giải phóng ở đô thị cũng đã cũ kỹ, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn nghiêm trọng, Ban giáo dục các cấp cùng với chính quyền cơ sở là Uỷ ban cách mạng xã phường đã huy động bà con đồng bào cùng với việc vừa sửa chữa dựng nhà cửa của mình, vừa góp công sức tranh tre xây cất các lớp học mới để kịp thời đón học sinh các cấp vào học.

Học phẩm, học liệu càng thiếu thốn, thiếu thốn hơn cả là sách giáo khoa. Sách giáo khoa mới được miền Bắc XHCN viện trợ. Tỉnh phải về Khu giáo dục ở Đà Nẵng để tiếp nhận. Song số liệu sách không đủ đáp ứng nhu cầu học tập của đông đảo con em đang hồ hởi kéo nhau đến trường cách mạng.

Bước đầu xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên Một vấn đề có tính chất quan trọng đặc biệt là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ

giáo viên để xây dựng nhà trường mới. Số giáo viên trong vùng cách mạng được rèn luyện trong kháng chiến quá ít, phần nhiều đã trở thành cán bộ các cấp chính quyền ban ngành từ xã, huyện, tỉnh, một số tiếp tục công tác quản lý giáo dục các địa phương.

100

Page 101: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trường sư phạm Phú Yên sau 4 tháng nỗ lực từ tháng 8 đến tháng 12/1975, đã đào tạo cấp tốc được 350 cô giáo mẫu giáo, 401 giáo viên tiểu học, 58 giáo viên cấp 2. UBNDCM tỉnh đã chủ trương xem xét và tuyển giáo viên vùng mới giải phóng đã giảng dạy ở dưới chế độ cũ tiếp tục đứng lớp, góp phần ổn định tình hình nhà trường, chuẩn bị vào năm học mới.

Ngày 19 tháng 10 năm 1975, cùng với 4 triệu học sinh và gần mười vạn giáo viên các cấp khắp các tỉnh miền Nam, ở Phú Yên từ cả các trường từ mẫu giáo đến tiểu học, trung học với hàng vạn học sinh và hàng ngàn giáo viên trong cả tỉnh đã tưng bừng khai giảng năm học mới, năm học đầu tiên sau ngày giải phóng.

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG THỜI KỲ HỢP NHẤT TỈNH PHÚ YÊN VÀ TỈNH KHÁNH HÒA (Từ 11-1975 đến 7-1989)

2.1. Tình hình chungSau ngày thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước quyết định hợp nhất một số

tỉnh để đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.Từ ngày 3 tháng 11 năm 1975 hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hợp nhất thành

tỉnh Phú Khánh. Tỉnh Phú Khánh kéo dài từ đèo Cù Mông đến Vịnh Cam Ranh. Tỉnh lỵ đóng ở Nha Trang. Tháng 12 năm 1976, Đại hội Đảng lần thứ IV vạch ra con đường cho cả nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Về vấn đề giáo dục, Nghị quyết Đại hội đã chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn cách mạng mới là phải đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới và thực hiện tốt nguyên lí, phương châm giáo dục của Đảng. Đại hội IV đã quyết định “tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, làm cho hệ thống giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng XHCN”.

Tháng 4 năm 1977, Ngành giáo dục đã mở Hội nghị Tổng kết 5 năm thi đua “Hai tốt” theo gương các điển hình tiên tiến. Ngày 21 tháng 3 năm 1978, Quyết định số 63/CP của Hội đồng Chính phủ đã thể chế hóa loại “trường phổ thông vừa học vừa làm”, quy định một số biện pháp để đảm bảo cho loại trường này có điều kiện phát triển. Ngày 16 tháng 6 năm 1978, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 47-CT/TW hướng dẫn công tác giáo dục miền Nam trong 3 năm (1978 - 1980) đề ra kế hoạch phát triển tích cực và vững chắc về bổ túc văn hóa, mầm non và phổ thông.

Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng (29-3-1989) ra Nghị quyết về công tác giáo dục. Nghị quyết nêu rõ:“Công tác giáo dục phải hướng trọng tâm vào

101

Page 102: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

việc từng bước ổn định tình hình giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo”..... “Hoàn thành tổng kết việc thực hiện cải cách giáo dục để tiếp tục điều chỉnh nhằm mục tiêu đào tạo thanh thiếu niên thành con người mới XHCN theo hướng hình thành nhân cách người lao động Việt Nam có bản sắc văn hóa dân tộc, năng động sáng tạo, ý chí đưa đất nước đi lên, có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp cần thiết để đáp ứng những yêu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa XHCN nhiều thành phần …”.

Trong 15 năm hợp nhất từ năm 1975 đến tháng 7 năm 1989, ngành giáo dục Phú Khánh luôn theo sát, thực hiện tích cực chủ trương đường lối về giáo dục của Đảng, Nhà nước và Bộ giáo dục cũng như các cấp Đảng và chính quyền địa phương, nỗ lực xây dựng và phát triển giáo dục ngày càng phát triển, có một vị trí xứng đáng trong đội hình giáo dục cả nước.

2.2. Các hoạt động giáo dục 2.2.1. Về tổ chức bộ máyTy giáo dục Phú Khánh là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh Phú Khánh.

Tổ chức bộ máy gồm cán bộ giáo dục tại chỗ của 2 tỉnh, một số cán bộ miền Bắc chi viện và một số cán bộ được Ban giáo dục khu Trung Trung bộ hoặc Bộ giáo dục cử đến.

Từ năm 1976, Giám đốc Sở giáo dục là ông Đinh Hòa Khánh, các phó Giám đốc là ông Cao Văn Hoạch, Nguyễn Cách, Nguyễn Sằng, Đặng Thanh Phương. Năm 1985 bổ sung các ông Trần Nguyên Cung, Đỗ Đăng Cao, Nguyễn Xuân Đàm. Ông Nguyễn Xuân Đàm – phó Giám đốc Sở kiêm Hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang.

Trước khi sáp nhập, Phú Yên đã có một nền giáo dục khá mạnh, hoàn chỉnh. Năm học 1975 – 1976 về ngành học mẫu giáo có 160 lớp, với 5760 em, 246 giáo viên; về cấp 1 có 20 trường với 1233 lớp với 56.326 học sinh và 846 giáo viên; về cấp 2 có 10 trường, 183 lớp 10.744 học sinh và 221 giáo viên; về cấp 3 có 3 trường 56 lớp, với 2766 học sinh và 77 giáo viên.

Theo báo cáo thống kê của Bộ Giáo dục về thực hiện quyết định 87/TTg (năm 1976), tổng số giáo viên vùng mới giải phóng của Phú Khánh được tuyển dụng lại và được bố trí công tác chính thức là 2.309 người đạt tỷ lệ 64,2%, tạm tuyển là 1.069 tỷ lệ là 29,6%, thôi việc là 219 tỷ lệ là 6%. Trong lúc tổng số giáo viên cũ của cả 21 tỉnh miền Nam là 81.076 người, được tuyển dụng lại là 67.020 tỷ lệ 62,7%,

102

Page 103: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

tạm tuyển 10.585 tỷ lệ 13%, thôi việc là 3.465 tỷ lệ 24,3%. Như vậy là việc tuyển dụng lại giáo viên ở Phú Khánh so với các tỉnh miền Nam là tốt, đạt tỷ lệ cao.

Ban lãnh đạo Ty Giáo dục Phú Khánh đã nghiêm túc chấp hành chính sách của TW, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, biết coi trọng công tác tư tưởng chính trị cho nên mặc dù trong hoàn cảnh rất khó khăn, phức tạp chỉ trong thời gian ngắn đã hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, phức tạp trong việc tuyển dụng lại đội ngũ giáo viên vùng mới giải phóng góp phần làm cho sự nghiệp giáo dục được ổn định, có chuyển biến mạnh mẽ theo đường lối cách mạng. Nhìn chung, tuyệt đại đa số giáo viên đã tiếp thụ tốt đường lối chính sách giáo dục, tiếp nối được truyền thống cách của quê hương, đem hết nhiệt tình xây dựng giáo dục. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có kẻ giả danh nhà giáo, tiếp tay cho địch, phản bội quê hương bị nhân dân lên án kịch liệt như Đàm Thái Sá, Nguyễn Công Hoan.

Đến ngày 01/01/1977, ngành đã xếp lương chính thức cho giáo viên cũ được tuyển dụng lại và giáo viên tuyển dụng mới, theo nguyên tắc phân phối theo lao động, thực hiện một bước thống nhất chế độ lương trong cả nước, xóa bỏ sự khác biệt trước đây. Đồng thời cố gắng thực hiện ngay một số chính sách khác, tạo điều kiện ổn định đời sống, khuyến khích anh chị em hăng hái công tác, giảng dạy theo đường lối giáo dục cách mạng.

Kết quả công tác sử dụng lại đội ngũ giáo viên cũ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và mở rộng đội ngũ giáo viên, ổn định cơ quan trường học, tình hình an ninh chính trị, trật tự an ninh trong ngành. Nhà trường về cơ bản đã giữ vững và góp phần ổn định tình hình chính trị và an ninh chung vùng mới giải phóng và toàn xã hội.

Việc thực hiện chính sách đối với giáo viên ở vùng mới giải phóng đã giúp cho các ngành, các cấp và nhân dân thấy rõ vai trò vị trí của ngành giáo dục, của người thầy giáo, đánh giá đúng đắn hơn đội ngũ giáo viên vùng mới giải phóng, để có cơ sở bố trí sử dụng hợp lí, phát huy được mặt tích cực của họ, phát triển được đoàn thể, xây dựng cán bộ cốt cán, tín nhiệm của giáo viên được nâng cao trong học sinh, cha mẹ học sinh và nhân dân, làm động lực tinh thần cho họ phấn đấu. Nền giáo dục Mỹ - Ngụy và hậu quả của nền giáo dục thực dân cũ và cả hậu quả của những năm dài chiến tranh… như báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IV đã nêu rõ: “Ở miền Nam chủ nghĩa thực dân cũ và mới cùng với 30 năm chiến tranh đã để lại những hậu quả nặng nề trên lĩnh vực

103

Page 104: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

văn hóa và tư tưởng. Bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, bọn Mỹ ngụy cố tạo ra một thứ “văn hóa” nô dịch, đồi trụy lai căn, cực kỳ phản động, xô đẩy một số thanh niên trong các thành thị chạy theo lối sống gấp, vị kỉ, sa đọa, ăn bám, hòng hủy hoại những giá trị của văn hóa dân tộc và nếp sống lành mạnh của nhân dân ta …”

Công cuộc xây dựng nền giáo dục cách mạng thống nhất trong cả nước cũng vẫn là một công cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ, vừa xây dựng vừa phát triển một cách sâu rộng, toàn diện trong quá trình hoạt động của ngành giáo dục.

2.2.2. Xây dựng hệ thống trường sư phạmViệc xây dựng hệ thống trường sư phạm các cấp để đào tạo bồi dưỡng đội ngũ

giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mới làm nòng cốt cho công việc xây dựng nền giáo dục cách mạng là hết sức quan trọng và cấp bách.

- Trường Sơ cấp nghiệp vụ nuôi dạy trẻ ở thị xã Tuy Hòa. Trường thành lập năm 1977, do thầy Nguyễn Mão làm Hiệu trưởng. Trường đã đào tạo hàng trăm cô nuôi dạy trẻ cho toàn tỉnh Phú Khánh.

- Trường Sơ cấp Sư phạm mẫu giáo thành lập tại Nha Trang do thầy Nguyễn Thanh Hà (tức Nguyễn Áo) làm hiệu trưởng. Trường đã đào tạo được hằng trăm giáo viên mẫu giáo, đến năm 1985 trường chuyển ra thị xã Tuy Hòa và hợp nhất với trường Trung học sư phạm Phú Khánh.

- Trường Trung học sư phạm Phú Khánh thành lập trên cơ sở trường Trung cấp Sư phạm Phú Yên đặt tại Thị xã Tuy Hòa năm 1976. Các thầy Nguyễn Cách, Đào Thế Lữ, Huỳnh Quang Vận, Nguyễn Châu, Trần Ngọc lần lượt làm Hiệu trưởng. Hằng năm, trường đào tạo trên 400 giáo viên cấp 1 song vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu phát triển trường lớp tiểu học theo nhu cầu học tập của nhân dân sau ngày giải phóng. Trường lại phải kiêm nhiệm luôn nhiệm vụ đào tạo giáo viên mầm non và bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên.

- Trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang, một trong ba trường CĐSP lớn ở miền Nam được thành lập sớm nhất sau ngày giải phóng từ ngày 1-4-1976. Hội đồng giáo viên được điều động từ các trường Đại học Sư phạm, CĐSP ở miền Bắc do thầy Lê Phương làm hiệu trưởng. Từ năm 1986, thầy Nguyễn Xuân Đàm, Phó Giám đốc Sở GD Phú Khánh kiêm Hiệu trưởng. Hàng năm, trường đào tạo từ 500 đến 600 giáo viên cấp 2 với 3 chuyên ngành khoa học xã hội; khoa học tự nhiên và ngoại ngữ (đào tạo giáo viên tiếng Anh –

104

Page 105: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Pháp). Năm học 1986- 1987 trường mở thêm khoa công tác Đoàn Đội, liên kết với Đại học Huế; Đại học ngoại ngữ, liên kết với Đại học Đà Lạt…

- Trường Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục tỉnh do các thầy Huỳnh Xuân Hoè, Trần Mạnh Quỳnh, Cao Phi Thăng, Lê Văn Xuân… lần lượt làm hiệu trưởng. Trường đã mở nhiều lớp ngắn hạn, dài hạn đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý Phòng giáo dục, cán bộ lãnh đạo các trường cấp 1, cấp 2. Trường thực sự góp phần tích cực trong việc củng cố tổ chức và phát triển phong trào, nâng cao chất lượng giáo dục trong toàn tỉnh.

Hệ thống các trường Sư phạm, trường Quản lý giáo dục Phú Khánh trong thời gian 15 năm hợp nhất đã có công lao đóng góp rất to lớn và quan trọng trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên các cấp với số lượng hàng vạn người, làm nòng cốt trong việc xây dựng một nền giáo dục cách mạng ngày càng mở rộng về quy mô, nâng cao chất lượng toàn diện, sánh vai cùng các tỉnh tiên tiến trong cả nước.

2.2.3. Xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóaChỉ thị số 221/CT-TW ngày 17/6/1975 của Ban CHTW Đảng đã ghi rõ:

“Tích cực xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, trước mắt phải được coi đây là một nhiệm vụ cấp thiết số một nhằm nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do chính sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ ngụy để lại, nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân lao động, tạo điều kiện cho việc giáo dục chính trị và phổ biến khoa học kỹ thuật , đẩy mạnh đào tạo cán bộ trong những người đã trải qua chiến đấu, sản xuất và công tác”.

Tính đến tháng 11 năm 1976 Phú Khánh đã có 70.880 người được xóa mù, một trong số 7/21 tỉnh đã căn bản hoàn thành công tác xóa mù chữ, và đã có trên 40% số người trong diện đã thoát nạn mù chữ, học lên các lơp bổ túc văn hóa.

Song song với đẩy mạnh XNMC vững chắc ở đồng bằng, từ hè 1976, tỉnh đã thành lập nhiều đoàn công tác xóa mũ chữ gồm 170 giáo viên và 59 giáo sinh sư phạm nối tiếp nhau lên công tác ở 26 xã miền núi từ 1- 2 tháng. Trước khi đoàn xung

105

Page 106: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

kích lên đường, Ty Giáo dục đã tổ chức bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho đoàn viên chu đáo và giao quân đến tận buôn làng.

Đến cuối năm 1978, toàn tỉnh có đến hàng trăm lớp Bổ túc văn hóa cho nhân dân và cán bộ cốt cán ở thôn xã, với 47.000 học viên bổ túc văn hóa tại chức và 2.500 học viên bổ túc văn hóa tập trung. Ở Phú Yên, các huyện Tuy Hòa, Thị xã Tuy Hòa, Đồng Xuân, Tuy An có phong trào bổ túc văn hóa sôi nổi và là những đơn vị mạnh trong toàn tỉnh Phú Khánh.

Xã Cà Lúi đã xóa mù chữ (XMC) được 217 người, có 3 trường cấp 1 với 116 học sinh từ lớp 1 đến lớp 3. Tháng 8-1978, miền núi mở được 11 lớp Bổ túc văn hóa cho dân buôn, có 305 học sinh. Được báo cáo điển hình trong hội nghị SKKN toàn tỉnh lần thứ nhất (04/1979), một đại biểu của đoàn huyện Sơn Hoà là thầy hiệu trưởng Nguyễn Xuân Phương đã nói “Bây giờ Cà Lúi là quê hương thứ hai của tôi. Chừng nào tất cả bà con xã Cà Lúi đạt phổ cập cấp 1 tôi mới nghĩ đến việc trở về xứ dừa, quê hương Sông Cầu của tôi”.

TÌNH HÌNH XÓA MÙ CHỮ VÀ BỔ TÚC VĂN HÓAỞ MỘT SỐ TỈNH PHÍA NAM (Tính đến hết quý 2 – 1977)47

TTT Đơn vịSố ngườimù chữ

Đã xóa xong nạn mù chữ

Tỷ lệSố huyện được công

nhận

Số xã được công

nhận04 Nghĩa Bình 185.056 119.043 95,19 14/14 260/26009 Phú Khánh 75.890 70.880 93,39 11/11 167/16715 Thuận Hải 60.661 47.155 77,73 7/10 87/13920 Đắc Lắc 49.610 25.017 50,42 0/6 36/8721 Gia Lai- Kon Tum 101.686 22.852 22,47 0/10 17/157

Theo bảng thống kê của Bộ, tính đến hết quý 2 năm 1977, 9/21 tỉnh miền Nam, trong đó có tỉnh Phú Khánh đã hoàn thành căn bản xong xóa nạn mù chữ cho

47 Báo cáo cảu Bộ Giáo dục- Văn phòng 2, số 753/VP2-BỘ GD.106

Page 107: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nhân dân, nói lên sự nỗ lực vượt bậc của ngành giáo dục Phú Khánh và được chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba.

Bên cạnh mạng lưới trường phổ thông các cấp, hệ thống trường bổ túc văn hóa cũng được thiết lập nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ cho cán bộ và thanh niên ưu tú. Ở cấp tỉnh, trường Phổ thông lao động Bắc Phú Khánh do thầy Nguyễn Chu làm Hiệu trưởng, trường có nhiệm vụ dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ chủ chốt các huyện, thị (từ huyện ủy viên trở lên). Trường Bổ túc Thanh niên công nông Nam Phú Khánh (Đồng Đế - Nha Trang) do thầy Nguyễn Thanh Liêm làm Hiệu trưởng làm nhiệm vụ đào tạo trình độ cấp 3 cho cán bộ chủ chốt các cơ quan Ban Ngành cấp tỉnh và thanh niên dân tộc trình độ cấp 2-3. Trường BTVH Thanh niên công nông Bắc Phú Khánh (Đông Tác) do thày Đào Thế Lữ làm Hiệu trưởng, các trường này làm nhiệm vụ đào tạo trình độ văn hóa cấp 2 (sau đó là cấp 3) theo chương trình bổ túc cho hàng trăm cán bộ và thanh niên ưu tú, những người đã tham gia cuộc chiến tranh giải phóng đất nước nên chưa có điều kiện học tập, nay yêu cầu cấp bách về cán bộ cho toàn hệ thống chính trị đã đặt ra cho các trường bổ túc văn hóa nhiệm vụ hết sức đặc biệt này. Phương pháp giảng dạy ở trường bổ túc chủ yếu là ôn, giảng, luyện. Ở các huyện cũng thành lập hệ thống trường phổ thông lao động huyện, thị đào tạo trình độ văn hóa cấp 2 theo chương trình bổ túc cho cán bộ huyện, xã và thanh niên công nông. Thanh niên dân tộc học ở 2 trường 3 chức năng (Tân Lương, Khánh Vĩnh) được tiếp tục đưa vào học và nội trú ở trường BTVH TNCN Nam Phú Khánh. Sau khi tái lập tỉnh Phú Yên, số học sinh dân tộc quê Phú Yên được đưa về học theo các lớp riêng tại trường BTVH tỉnh, các lớp này là tiền thân của loại hình trường PTDTNT về sau. Ngoài ra một số loại hình bồi dưỡng cấp tốc như bổ túc văn hóa cấp 2 trong 18 tuần với hình thức dạy học theo chuyên đề cho cán bộ xã, kết thúc được cấp bằng BTVH cấp 2 nhưng không được học lên cấp 3 bổ túc… Bổ túc văn hóa cấp 2,3 còn là nhiệm vụ của các trường phổ thông cùng cấp theo phương châm “một hội đồng hai nhiệm vụ”, hình thức này tỏ ra linh hoạt và tồn tại trong suốt thời gian dài. Đến nay, việc tổ chức hình thức học BTTH này được chuyển giao cho trung tâm GDTX và các trung tâm KTTH-HN ở các huyện.

107

Page 108: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tuy chất lượng đào tạo theo chương trình BTVH chưa cao nhưng các trường bổ túc đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là đào tạo hàng ngàn cán bộ kiên trung cung cấp bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể các cấp.

2.2.4. Thực hiện công cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3Sau 5 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1980 ngành giáo

dục miền Nam đã đạt được những kết quả to lớn để hòa nhập với nền giáo dục XHCN ở miền Bắc, tiến tới xây dựng một giáo dục cách mạng thống nhất trong cả nước. Ngày 11 tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 14/NQ – TW về cải cách giáo dục lần thứ 3. So với 2 cuộc cải cách giáo dục lần trước (lần thứ nhất 1950, lần thứ hai 1956), cuộc cải cách này được chuẩn bị rất công phu từ trước ngày giải phóng miền Nam, đến nay yêu cầu lại càng rộng lớn và sâu sắc hơn nhiều, xây dựng một nền giáo dục XHCN thống nhất trong cả nước, vừa cải tạo nền giáo dục thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam vừa xây dựng một nền giáo dục cách mạng hiện đại, tiên tiến thống nhất trong cả nước, phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 được đặt ra như sau:- Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ buổi thơ ấu cho đến lúc

trưởng thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới, con người làm chủ tập thể và phát triển toàn diện.

- Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành 3 cuộc cách mạng và tăng cường quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.

- Đào tạo và bồi dưỡng với qui mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học, kỹ thuật và quản lý phù hợp với yêu cầu phân công lao động trong nền sản xuất lớn XHCN.

Sau những năm dài chiến tranh ác liệt, đất nước bị chia cắt, nay giang sơn được quy về một nối, nhiều khó khăn và phức tạp thì việc xây dựng một nền giáo dục cách mạng thống nhất trong cả nước là vô cùng quan trọng và bức bách. Mở đầu cho công cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 là “tiến hành cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường học” 48. Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng nhằm làm cho hệ tư tưởng chính trị Mác – Lênin, đường lối cách mạng của Đảng thấm nhuần trong toàn bộ hoạt động giáo dục của nhà

48 Quyết định số 01 của Ủy ban cải cách giáo dục TW.108

Page 109: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trường mới ở miền Nam. Toàn bộ nội dung chương trình dạy học chính trị, đạo đức, giáo dục công dân được hoàn toàn đổi mới. Giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, hòa hợp đoàn kết dân tộc, tinh thần trách nhiệm công dân. Tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng được quán triệt trong nội dung chương trình, trong phương pháp giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nội khóa và các hoạt động ngoại khóa giữa nhà trường, gia đình và xã hội; lấy hoạt động lao động : lao động tự phục vụ xây dựng trường lớp, lao động học tập gắn liền với lao động sản xuất, cùng với công nông góp phần hàn vết thương chiến tranh, xây dựng đời sống mới, vừa là phương pháp vừa là nội dung để cải tạo nhà trường cũ thành nhà trường cách mạng.

Cuộc vận động giáo dục đạo đức cách mạng được toàn thể giáo viên, cán bộ, sinh viên, học sinh, cha mẹ học sinh và nhân dân đồng tình, ủng hộ và tích cực tham gia. Cuộc vận động nhanh chóng lan tỏa đi sâu vào toàn ngành và quần chúng nhân dân, đem lại một khí sắc mới, tinh thần mới, sức mạnh mới cho nền giáo dục cách mạng được hình thành và phát triển mạnh mẽ trên quê hương đang đổi mới.

2.2.5. Giáo dục mầm non và phổ thông Giáo dục mầm nonCùng với việc đẩy mạnh sản xuất sau chiến tranh, phong trào cải tạo công

thương nghiệp ở thành thị, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, nền giáo dục cũng được chú trọng phát triển một cách rộng khắp ở tất cả các địa phương, nhất là giáo dục mầm non.

Có thể nói hầu hết các thôn xã ở đồng bằng, buôn làng ở miền núi nơi nào có Hợp tác xã nông nghiệp là nơi đó có trường lớp mẫu giáo. Số học sinh mầm non của tỉnh Phú Khánh trong thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1984 đã tăng rất nhanh. Bình quân trong 10 năm tăng 10,23%/năm. Số học sinh mẫu giáo năm 1984 tăng so với năm 1975 là 30.327 em. Năm 1975 huy động được 26,70%, đến năm 1984 đã huy động được 51,50% số em trong độ tuổi mầm non. Lực lượng giáo viên mầm non tăng 11,75%/năm. Năm 1984 tăng đến 1.046 giáo viên. Chất lượng nuôi dạy còn ở mức độ thấp. Giáo viên mầm non nhiệt tình nhưng do phần đông là đào tạo cấp tốc, tay nghề chưa cao, cơ sở vật chất trường lớp chật hẹp, đồ dùng dạy học, sách vở còn thiếu thốn, thu nhập cô giáo mầm non còn phụ thuộc

109

Page 110: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

hoàn toàn vào từng hợp tác xã. Những năm về sau đã có nhiều tiến bộ. Một số đông cô mẫu giáo được đưa vào biên chế, trường học được xây dựng và hoạt động theo các mô hình tiên tiến lúc này.

Tình hình phát triển giáo dục mầm non Phú Yên (1975 – 1989)49

Năm học Số lớp Số học sinh Số giáo viên

NH 1975 – 1976 160 5.700 246NH 1985 – 1986 781 20.635 884NH 1988 – 1989 800 21.000 960So sánh từ năm

1975->1989Số lớp tănggấp 5 lần

Số học sinh tănggấp 3 lần rưỡi

Giáo viêntăng gần 4 lần

Nhìn vào bảng thống kê, so với năm học đầu tiên sau ngày giải phóng thì số lớp học mẫu giáo tăng gấp 5 lần, số học sinh tăng 3,69 lần, số giáo viên tăng 3,9 lần, học sinh mầm non đạt tỷ lệ 3,6% dân số và 45,6% so với số cháu trong độ tuổi mầm non (từ 3 đến 6 tuổi) (trung bình chung trong cả nước học sinh mẫu giáo đạt tỷ lệ 1,44% dân số).

Như vậy có thể nói bộ phận Bắc Phú Khánh (Phú Yên) số học sinh mẫu giáo được huy động đạt tỷ lệ cao, đứng vào các loại khá trong cả nước. Và cũng nói lên sự cố gắng, nỗ lực và kết quả tốt của ngành học mầm non Bắc Phú Khánh (Phú Yên). Trực tiếp thúc đẩy GD mầm non lúc này phát triển mạnh mẽ về qui mô và mạng lưới là vai trò của các Hợp tác xã nông nghiệp cùng với sự hoạt động tích cực của Uỷ ban bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em các cấp (TW, tỉnh và huyện – và đến năm 1982 được sáp nhập vào hệ thống quản lý giáo dục).

Về tình hình phát triển của cấp tiểu họcNăm học Số trường Số lớp Số học sinh Số giáo viên

NH 1975 - 1976 20 1.233 56.326 864NH 1985 – 1986 54 2.581 97.615 3.036NH 1988 – 1989 89 2.960 101.860 3.200

So sánh 1975-1989 Số trường tăng 4 lần

Số lớp tăng hơn gấp đôi

Học sinh tăng1,88 lần

Giáo viên tăng 3 lần

49 Số liệu trích từ báo cáo thống kê niên giám GD Phú Khánh110

Page 111: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

rưỡi rưỡi

Số trường tiểu học tăng gấp 4 lần rưỡi (89/20), số lớp tăng 2 lần rưỡi (2.960/1.233); số học sinh tăng gấp 2 lần (101.860/56.326); số giáo viên tăng gấp 1,88 lần (3200/864) là nhờ các địa phương thi đua thực hiện Chỉ thị 01 của TW.

Giáo dục phổ thông Trước đây, một bộ phận học sinh cấp 1 đi học chậm so với độ tuổi. Nhờ GD

mầm non phát triển mạnh, tạo nguồn cho cấp 1, nhịp độ tăng trung bình 2,54%/năm. Học sinh cấp 2 tăng với tốc độ lớn nhất, có năm đạt tới 10,89% (năm 1984) do chủ trương của ngành giáo dục là thỏa mãn tối đa cho học sinh tốt nghiệp cấp 1 lên học cấp 2. Học sinh cấp 3 tăng đạt tới 6,75%/năm.

Để đáp ứng với việc tăng nhanh số học sinh, lực lượng giáo viên đã phải tăng với tốc độ rất cao. Trung bình toàn ngành tăng 7,68%/năm. Trong đó cấp 1 tăng 4,86%/năm (tăng gấp 3 lần so với số học sinh) giáo viên cấp 2 tăng 14,51%/năm (tốc độ tăng gấp rưỡi so với H/S) số giáo viên cấp 3 tăng 10,4%/năm (tăng gấp rưỡi so với học sinh).

Về cơ sở vật chất, để đảm bảo cho dạy và học, tuy có nhiều cố gắng lớn của Nhà nước, nhân dân tích cực tham gia xây dựng trường lớp song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Trong khi tốc độ tăng của học sinh cấp 1, 2 bình quân 9,42%/năm mà tốc độ tăng phòng học chỉ tăng 2,39%/năm, tốc độ tăng học sinh cấp 3 tăng 6,70%. Phòng học chỉ tăng 3,91%/năm vì thế xuất hiện tình trạng có trường phải học 3 ca/ ngày.

Vấn đề mất cân đối giữa nhu cầu học tập và cơ sở vật chất, mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng giáo dục luôn là vấn đề bức xúc và kéo dài trong nhiều năm. Những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tình trạng trên được cải thiện tốt hơn. GD phổ thông của Phú Khánh vẫn được đánh giá là một trong những địa phương có phong trào giáo dục khá tốt trong cả nước. Và phong trào giáo dục Bắc Phú Khánh (Phú Yên) đã góp mặt bằng nhiều điển hình nhà trường tiên tiến. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” được phát động, duy trì ngày càng thúc đẩy nâng cao chất lượng.

Hàng năm, các đợt hội giảng giáo viên dạy giỏi các cấp (trường, huyện, tỉnh) được tổ chức thường xuyên. Đây là dịp tất cả giáo viên trao đổi kinh nghiệm

111

Page 112: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Năm học 1980 – 1981, ngành giáo dục thị xã Tuy Hòa có 30% giáo viên dạy giỏi các cấp, trong đó có 19 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 20 sáng kiến kinh nghiệm đạt giải nhất toàn ngành.

Công tác bồi dưỡng giáo viên về thay đổi phương pháp dạy học và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đặc biệt quan tâm. Cùng với việc thành lập Trung tâm Phương pháp tại Sở Giáo dục- Đào tạo, từ năm 1983, các huyện, thị đã mở Trường bồi dưỡng giáo dục với chức năng bồi dưỡng chuyên đề cho GV trong huyện thị, dạy BTTH cho cán bộ huyện và các xã, liên kết với trương Cao đẳng sư phạm Nha Trang để đào tạo chuẩn cho GV cấp 2… Trường bồi dưỡng GD thị xã Tuy Hòa do thầy Hồ Văn Tùng, Trưởng phòng GD kiêm Hiệu trưởng, thầy Huỳnh Văn Học làm Phó hiệu trưởng. Trường Bồi dưỡng GD huyện Tuy Hòa do thầy Lê Kim Anh, Trưởng phòng GD kiêm Hiệu trưởng, thầy Lê Nhường làm Phó hiệu trưởng, đến tháng 7/1988, Nguyễn Tấn Hào làm Hiệu trưởng.

Không chỉ qui mô giáo dục tăng mà các hoạt động giáo dục cũng sớm đi vào nền nếp chất lượng, có nhiều xã trở thành điển hình tiên tiến trong giáo dục. Năm học 1975-1976, toàn xã Xuân Lộc có gần 2.000 học sinh đi học, đến năm học 1978 – 1979 đã tăng lên hơn 4.500 học sinh. Từ 50 học sinh cấp 2 đi học ở xã khác đã có trường cấp 2 tại xã với 320 học sinh, từ13 phòng học nhà trường đã vận động nhân dân xây dựng thêm 19 phòng mới, cả trường được 42 phòng học. Cuối năm học, 75% giáo viên đạt danh hiệu lao động tiên tiến, học sinh lớp 9 tốt nghiệp 95%, trong đó 80% được tiếp tục lên học trường cấp 3, toàn trường có 8 HS được công nhận danh hiệu “cháu ngoan Bác Hồ”. Năm học 1978 - 1979 trường phổ thông cấp 2 Xuân Lộc – Sông Cầu đạt danh hiệu là lá cờ đầu toàn ngành giáo dục Phú Khánh, Hiệu trưởng Hoàng Huy Đoàn được báo cáo điển hình trong hội nghị tỏng kết thi đua toàn tỉnh.

Để đào tạo học sinh năng khiếu, được sự đồng ý của Sở giáo dục, Phòng giáo dục thị xã Tuy Hòa thành lập trường cấp 2 chuyên mang tên Lương Văn Chánh. Sau 34 năm (trong đó có 19 năm chống Mỹ chiến tranh tàn khốc, và đất nước bị chia cắt (từ năm 1954 1975) và 13 năm hàn gắn vết thương chiến tranh) đến năm học 1988 – 1989 trường Lương Văn Chánh đã được khôi phục. Trường PTTH Nguyễn Huệ, THPT Ngô Gia Tự (Tuy Hòa), THPT

112

Page 113: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Phan Đình Phùng (Sông Cầu) được mở rộng quy mô, các trường PTTH như trường Lê Hồng Phong, trường Lê Trung Kiên (huyện Tuy Hòa), trường Trần Quốc Tuấn (Thị xã Tuy Hòa), trường Trần Phú, trường Lê Thành Phương (Tuy An), trường Quang Trung (Sông Cầu), trường Lê Lợi (Đồng Xuân), trường Phan Bội Châu (Sơn Hòa) lần lượt xây dựng để đáp ứng một phần yêu cầu học lên cấp 3 của hàng ngàn học sinh tốt nghiệp cấp 2.

Về tình hình phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở Năm học Số trường Số lớp Số học sinh Số giáo viên

NH 1975 - 1976 10 183 10.744 221NH 1984 – 1985 10350 929 38.428 1.174NH 1988 – 1989 85 1085 40.340 1.440

So sánh 1989->1975Số trường tăng 8 lần

rưỡi

Số lớp tăng gấp 6 lần

Học sinh tănggần gấp 4 lần

Giáo viên tăng 6 lần

rưỡi

Số trường tăng gấp 8 lần rưỡi (85/10), lớp tăng 6 lần (1085/183), số học sinh tăng gấp 4 lần (40.340/10.744), giáo viên tăng gấp 6 lần rưỡi (1440/221).

Về tình hình phát triển giáo dục cấp trung học phổ thôngNăm học Số trường Số lớp Số học sinh Số giáo viên

NH 1975 - 1976 3 56 2.766 77NH 1984 – 1985 12 193 8.403 399NH 1988 – 1989 14 210 8.663 311

So sánh 1989-1975Trường tăng gấp hơn 4 lần

Lớp tăng gần 4 lần

Học sinh tăng gấp 3 lần

Giáo viên tăng hơn 4

lầnSố trường tăng gấp 4 lần (14/3), số lớp tăng gần 4 lần (210/56), học sinh

tăng gấp 3 lần (8663/2766), giáo viên tăng 4 lần (311/77).Trong hơn 10 năm xây dựng và phát triển giáo dục phổ thông, chất lượng giáo

dục của Phú Yên cũng dần được nâng lên. Đã xuất hiện nhiều trường học tiên tiến xuất sắc: trường mẫu giáo An Dân, trường cấp 1 Hoà Thành (huyện Tuy Hòa), cấp 1 Âu Cơ (Tx Tuy Hòa), cấp 2 Hòa Bình, cấp 2 Hoà Thắng, cấp 2 Xuân Lộc, cấp 3

50 Số trường từ 103 giảm còn 85 là do tách trường PT cấp 2 ra khỏi trường PT cấp 1-2113

Page 114: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Nguyễn Huệ… Danh hiệu tổ đội lao động XHCN, chiến sĩ thi đua cũng bắt đầu được trao tặng cho nhiều tập thể và cá nhân trong toàn ngành. Trong hầu hết các năm học, học sinh phía bắc Phú Khánh vẫn luôn dành nhiều giải cao hơn trong phong trào học sinh giỏi Văn và Toán ở lớp 5, lớp 9, lớp 12, rõ nét nhất là giỏi ở môn Toán.

Trường, lớp, cán bộ quản lý, giáo viên phổ thông

Cấp phổ thông cơ sở 1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984- Trường 243 249 197 200 207 209 222 232 244 255Trường cấp 1 195 175 68 57 51 51 38 40 40 44- CBQL trường PTCS … … … …. …. … 715 751 807 856- Lớp PTCS 4613 5245 5863 6475 6819 6819 7098 7204 7483 7763Trong đó cấp 1: 3893 4387 4792 5150 5283 5283 5355 5403 5511 5642- Giáo viên 4345 5478 5880 6144 6546 6546 6805 7178 7913 8290- Trong đó cấp 1 3471 4296 4272 4520 4516 4516 4515 4789 5198 5330

Cấp PTTH- Trường 12 13 15 17 17 17 20 20 22 23- Cán bộ quản lý … … … …. … … 54 59 67 63- Lớp 227 211 218 241 253 253 318 333 356 398- Gíao viên 371 405 420 466 591 591 605 718 824 884

Cộng cả 2 cấp học PT - Trường 255 262 212 217 225 225 242 252 266 278- Cán bộ quản lý … … … …. …. 7072 769 810 874 919- Lớp 4840 5456 6081 6716 7072 7137 7416 7537 7839 8161- Gíao viên 4716 5883 6300 6610 7137 410 7896 8737 9174

Giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghềNgoài Trường trung học sư phạm Phú Khánh, còn có trường Trung cấp Nông

nghiệp, trường Trung cấp lao động-tiền lương (nay là Phân viện Ngân hàng), trường Trung cấp Xây dựng số 6 (nay là Cao đẳng xây dựng số 3), trường Trung cấp Thuỷ lợi (đã giải thể), trường Trung học Địa chất (nay là Cao đẳng Công nghiệp), trường Trung học Y tế (lập năm 1989). Qui mô giáo dục chuyên nghiệp chưa được mở rộng và nâng cấp, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và duyên hải nam Trung bộ. Tháng 6-1986, lớp Đại học tại chức Khoa xây

114

Page 115: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

dựng đầu tiên được trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã tổ chức tại trường Trung học Xây dựng số 6 ở thị xã Tuy Hòa.

Thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng, giáo dục lao động được quán triệt sâu rộng trong tất cả các cấp học, trong nội dung giảng dạy và cả hoạt động thực tiễn của nhà trường. Coi giáo dục lao động như một thước đo, một yếu tố cơ bản để phân biệt giữa nhà trường mới với nhà trường cũ. Trong lãnh đạo nhà trường có một Phó Hiệu trưởng phụ trách công tác giáo dục lao động. Hầu hết các trường đều có vườn trường, ruộng thí nghiệm, xưởng trường để học sinh thực hành lao động sản xuất. Lao động được tiến hành toàn diện với các loại hình như lao động phục vụ sinh hoạt học tập, lao động công ích xã hội, lao động sản xuất nông, công nghiệp chủ yếu là thực hành nông nghiệp. Bước đầu đem lại kết quả thiết thực, nhất là giáo dục và nâng cao ý thức lao động cho thầy giáo và học sinh, xóa bỏ tư tưởng coi thường, tách rời lao động sản xuất của nhà trường cũ.

Tính riêng trong quý 1 năm 1981, các trường ở huyện Tuy Hòa đã tham gia sản xuất lúa nước và thu hoạch được hàng chục tấn, đi đầu là các trường cấp 2 Hòa Bình, cấp 2 Hòa Trị….hoặc tham gia trồng cây tạo rừng phòng hộ ven biển như trường cấp 3 Ngô Gia Tự, cấp 2 Hòa Hiệp Trung…trồng được 1.200.000 cây phi lao..

Thực hiện Chỉ thị 126/CP ngày 19/3/1981 của Hội đồng Chính phủ và Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ V, loại hình trường “Vừa học vừa làm” được thành lập ở Phú Khánh. Cùng với “Trường vừa học vừa làm Suối Dầu” (Khánh Hòa), “Trường vừa học vừa làm Sơn Thành” (Phú Yên) được xây dựng trên cơ sở Nông trường Sơn Thành. Chất lượng giáo dục khá tốt, đạt yêu cầu giáo dục văn hóa và lao động, xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, sản xuất tự túc được một phần. Năm học 1982-1983, kết quả kỳ thi PTTH toàn tỉnh Phú Khánh : Trường PTTH Trần Phú (Tuy An), trường VHVL Sơn Thành (Tuy Hòa) đạt tỷ lệ cao nhất : 90%, học sinh tốt nghiệp cấp 3. Một số học sinh đã trúng tuyển vào ĐHSP Quy Nhơn và trường ĐH Nông nghiệp 4, một số tham gia nghĩa vụ quân sự.

Công tác giáo dục hướng nghiệp được đẩy mạnh, nhiều trường ở huyện Tuy Hòa, Tuy An đã phối hợp với Ban lâm nghiệp soạn và giảng dạy một số kỹ thuật nông nghiệp: Cây lúa, cây bông, cây mía, cây dừa… trong đó cây bông cũng đã

115

Page 116: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

được hướng nghiệp và đưa vào trồng ở nhiều trường trong tỉnh như trường PTTH Nguyễn Huệ, trường tiểu học Phú Lâm 3...

Năm học 1984 – 1985 tại thị xã Tuy Hòa một “Trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp và dạy nghề” đã được thành lập. Trung tâm dạy các nghề mộc, kỹ thuật cơ khí ô tô, giâm cành, cây mô tế bào, đã tạo được giống cây mới, và có cây giống để bán như chanh Ơ-ri-Ka, mít không hột, nuôi và bán “con trun quế” … do thầy Nguyễn Tài Sum làm Giám đốc và Tiến sĩ Nguyễn Văn Uyển – Viện Khoa học sinh học nhiệt đới giúp đỡ. Cũng vào thời điểm này, một trường BTTH VHVL huyện Tuy Hoà (Hoà Bình) thành lập, Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Tấn Hào, Phó trưởng phòng giáo dục huyện làm kiêm nhiệm, thầy Võ Văn Nhâm làm Phó hiệu trưởng thường trực, trường được HTXNN Hoà Bình 2 chuyển giao 2 mẫu ruộng ở Phước Mỹ làm thực nghiệm trồng lúa nước. Để tăng cường hơn nữa chức năng đào tạo và dạy nghề, nhiều trường dạy nghề huyện, thị cũng được thành lập vào thời gian này như trường dạy nghề huyện Tuy Hòa do Ông Nguyễn Đình Luôn làm Giám đốc, trường đã tổ chức dạy nghề may, mộc cho một số lượng đáng kể thanh niên trong huyện.

Cùng với dạy học và giáo dục lao động, giáo dục quốc phòng và an ninh được chú trọng đúng mức. Trình độ giác ngộ cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, nếp sống lành mạnh, trật tự văn minh trong nhà trường, tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước… luôn đươc nâng cao và thường xuyên củng cố. Kế thừa được truyền thống cách mạng trên vùng đất Phú Yên, nhiều trường cấp 3 ở Bắc Phú Khánh được Bộ tư lệnh quân khu V và Bộ Quốc phòng nhiều lần khen thưởng về mặt giáo dục quốc phòng.

Hoạt động văn nghệ – thể dục thể thao trong các trường học Phú Khánh nói chung và Phú Yên nói riêng cũng là một mặt hoạt động sôi nổi, phong phú, có tác dụng góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh, gây một sinh hoạt, một lối sống tươi vui tập thể lành mạnh, đẩy lùi lối sống ích kỷ, cá nhân, đồi trụy của nền giáo dục Mỹ ngụy, xây dựng đời sống mới trong xã hội miền Nam sau ngày giải phóng.

Các cuộc hội diễn văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn, đội văn nghệ của giáo dục thị xã Tuy Hòa, thị trấn Sông Cầu đều vượt trội so với các đội thành phố Nha Trang, thị xã Cam Ranh và thường đạt giải nhất toàn Ngành.

Học sinh Phú Yên không những có truyền thống học giỏi mà còn có phong trào thể dục thể thao rất tốt. Hàng năm Phú Khánh có hơn 2 triệu lượt học sinh tham

116

Page 117: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

gia thể dục thể thao. Hè năm 1982, đội nam điền kinh trường PTCS Phường 4, TX Tuy Hòa được cử đại diện cho học sinh cấp 2 Việt Nam đi dự Đại hội điền kinh học sinh quốc tế ở Mông Cổ.

Hội khỏe Phù Đổng năm 1984, hàng ngàn vận động viên của 20 trường PTCS, 2 trường PTTH và 4 trường THCN tham gia. Về cờ quốc tế, giải nhất thuộc học sinh Nguyễn Như Ý (PTTH); nghi thức Đội, giải nhất thuộc thị xã Tuy Hòa; Bóng chuyển Giải nhất thuộc về trường PTTH Lê Lợi (Đồng Xuân)…

III. TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THỂ Công tác ĐảngĐường lối quan điểm giáo dục của Đảng không chỉ được thấm nhuần trong

chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, mà còn được quán triệt trong hệ thống tổ chức, trong hoạt động các đoàn thể chính trị quần chúng trong trường học. Tổ chức Đảng được hình thành ở cơ sở nhiều trường học. Thời gian mới giải phóng, số đảng viên trong ngành giáo dục ít, tập trung ở cơ quan Sở giáo dục, Phòng giáo dục và các trường chuyên nghiệp. Hầu hết các đảng viên được tín nhiệm bổ sung vào cán bộ cốt cán, quản lý của ngành. Chất lượng chính trị trong nhà trường được cải thiện. Số lượng đảng viên của giáo dục Phú Yên đến năm 1988 trên 800 người, chiếm 9-10% tổng số giáo viên. Những trường học chưa có chi bộ Đảng hoặc đảng viên thì nhà trường phải gắn chặt hoạt động của mình dưới sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy Đảng địa phương và vẫn đảm bảo việc thực hiện đúng theo đường lối giáo dục của Đảng.

Hoạt động Công đoànCông đoàn giáo dục là nơi tập hợp các nguồn giáo viên từ vùng căn cứ, vùng

mới giải phóng, từ miền Bắc XHCN vào đại gia đình nhà giáo cách mạng. Công đoàn giáo dục trong tỉnh tổ chức thành 4 cấp. Sau khi thành lập CĐCS ở trường, hầu hết các thầy giáo, cô giáo tiên tiến đều được kết nạp vào tổ chức công đoàn. Công đoàn hoạt động sôi nổi, có khí thế, đảm bảo là một tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp, là cầu nối giữa CB, CNVC, giáo viên và chính quyền Nhà nước và Đảng. Trong những ngày đầu giải phóng, kinh tế xã hội còn gặp rất nhiều thiếu thốn khó khăn, Công đoàn đã tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần, giúp đỡ nhau mọi mặt, xóa bỏ những khoảng cách của lịch sử để lại, xây dựng được khối đoàn kết nhất

117

Page 118: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trí trong tổ ấm nghề nghiệp, trong tình yêu người, yêu nghề để cùng hợp lực xây dựng nhà trường mới.

Ở cấp huyện, thị, Công đoàn giáo dục luôn gắn với Phòng giáo dục. Từ Đồng Xuân, Tây Sơn, Tuy An, Tuy Hòa, Thị xã… mỗi Phòng đều có một Thư ký công đoàn làm cán bộ chuyên trách. Các đoàn viên nhiệt tình có uy tín trong chuyên môn được cử làm thư ký công đoàn trường, huyện, thị và sau này số đông đều trở thành cán bộ cốt cán của ngành.

Công đoàn giáo dục tỉnh cùng với Sở giáo dục tổ chức và đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai tốt” xây dựng “Tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa” kết hợp với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Đoàn TNCS HCM) triển khai các phong trào thi đua “Xây dựng tập thể học sinh XHCN”, phong trào xây dựng “Chi đội mạnh”. Nhờ sức mạnh tổng hợp của đoàn thể mà xây dựng được nhiều điển hình nhà trường tiên tiến, tổ đội LĐXHCN, các chiến sĩ thi đua ngành giáo dục và đông đảo đoàn viên công đoàn xuất sắc, tiên tiến và cũng là nơi giới thiệu kết nạp nhiều đảng viên bổ sung cho tổ chức Đảng trong nhà trường.

Đoàn TNCS HCM Đoàn là tổ chức chính trị, nơi tập hợp, sinh hoạt chính trị của giáo viên trẻ và

học sinh ở các trường trung học phổ thông và chuyên nghiệp. Các hoạt động của Đoàn thanh niên sinh động, phong phú, hấp dẫn thu hút nhiều thanh niên giáo viên, học sinh hứng thú tham gia sinh hoạt. Tất cả các trường cấp 3 đều có đoàn trường, các trường cấp 2 đều có chi đoàn hay liên chi đoàn và liên đội TNTP HCM. Hoạt động của Đoàn, Đội gắn chặt với các hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử, giáo dục, chính trị, xã hội thực tiễn lao động xuất sắc, với các chủ đề thi đua. Với thanh niên có phong trào “Xây dựng tập thể học sinh XHCN” ; “Phong trào lao động sản xuất” … với Đội thiếu niên Tiền phong có phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “chiến sĩ nhỏ Điện Biên học tập thông minh dũng cảm” phong trào “Bảo vệ đường sắt quê em” ; “Phong trào học giỏi, điểm 10 làm hoa dâng Bác” và bao trùm lên là công cuộc thi đua trở thành “Cháu ngoan Bác Hồ”. Một điển hình tiêu biểu là em Cao Thị Bảo Linh, học sinh THCS Lương Văn Chánh Tx Tuy Hòa được đại diện học sinh toàn tỉnh tham gia Festival thanh niên thế giới tổ chức năm 1988 tại Bình Nhưỡng.

Công tác giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng trở thành một yêu cầu chính trị xã hội rộng lớn, trở thành một khoa học và nghệ thuật giáo dục. Từ năm

118

Page 119: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1986 – 1987 Hiệu trưởng trường CĐSP Nha Trang đã có sáng kiến xin đề xuất với Bộ giáo dục, TW đoàn TNCS HCM, Hội đồng Đội TN đề nghị ra một khoa mới “Khoa giáo dục Đoàn Đội”. Đây là trường CĐSP đầu tiên trong cả nước có mã số của Khoa đào tạo giáo viên Đoàn Đội (sau này gọi là giáo dục viên) có khả năng dạy 2 môn (như Văn – Đoàn Đội, Sử – Đoàn Đội, Thể Dục – Đoàn Đội …). Vừa xây dựng nội dung chương trình, vừa đào tạo giáo viên chuyên ngành, trường SPCĐNT đã đào tạo được hàng trăm giáo viên phụ trách công tác Đoàn Đội cho tỉnh Phú Khánh và sau này cho 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Khoa đào tạo mới này được rút kinh nghiệm và phổ biến thành lập trong hầu hết các trường CĐSP trong nước. Công tác Đoàn, Đội cũng là một mặt mạnh của tỉnh Phú Khánh trong toàn ngành giáo dục.

IV. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT Cơ sở vật chất của hầu hết các trường rất nghèo nàn, lạc hậu, để đáp ứng yêu

cầu học tập rộng lớn của nhân dân sau ngày giải phóng, ngoài việc chăm lo đầu tư của Nhà nước, nhân dân các nơi trong tỉnh nhất là các hợp tác xã nông nghiệp đã góp phần rất nhiều của cải, sức lực để xây dựng nhà trường, mua sắm bàn ghế để củng cố trường học từ mẫu giáo, cấp 1, cấp 2 và cấp 3.

Chỉ riêng năm học 1984 -1985, nhân dân huyện Tuy Hòa đã mua sắm 400 bộ bàn ghế học sinh, 200 bộ bàn ghế giáo viên, xây dựng 85 phòng học. Thị xã Tuy Hoà xây dựng 35 phòng học mới, tu sửa 41 phòng học cũ. UBND huyện Tuy Hòa và Tx Tuy Hoà còn huy động các hợp tác xã góp sức xây dựng cơ sở vật chất trường cấp 3 Lê Trung Kiên, trường cấp 3 Trần Quốc Tuấn. Cũng trên cơ sở phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều huyện đã vận động nhân dân, xã viên HTX vxây dựng rất nhiều phòng học và trang bị bàn ghế. Có thể nói phong trào thi đua xây dựng trường học vào những năm 1982-1986 trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nó hiện thực hoá rất rõ nét quan điểm của Đảng về giáo dục, đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.

Nhìn lại sau ngày giải phóng và trong 15 năm hợp nhất trong tỉnh Phú Khánh, nhân dân Phú Yên nói chung và đội ngũ thầy giáo và học sinh nói riêng đã vượt lên mọi khó khăn gian khổ, hăng hái tham gia vào công cuộc hàn gắn lại vết thương chiến tranh, xây dựng lại cuộc sống mới trên quê hương mình, mà sự phát triển mạnh mẽ của Ngành giáo dục như là biểu hiện tính ưu việt, bộ mặt tốt đẹp của chế độ mới.

119

Page 120: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Sự phát triển GD phổ thông Phú Yên 1975 – 1989

Nhìn vào biểu đồ ta thấy sau 15 năm giải phóng giáo dục Phú Yên có sự phát triển tốt. Nhất là cấp tiểu học (cấp 1), cấp trung học cơ sở phát triển mạnh, thu hút được nhiều con em vào học, đáp ứng được nhu cầu học tập của em sau ngày giải phóng. Về trung học phổ thông cũng có sự phát triển khá, nhưng quy mô hãy còn nhỏ so với các cấp học khác.

Tình hình phát triển giáo dục phổ thông cả 3 cấp I + II + III trong 15 năm hợp nhất từ 1975 đến 1989.

Năm họcTổng số trường học

Số lớpTổng sốhọc sinh

Tổng sốgiáo viên

NH 1975 - 1976 33 1.462 69.902 1.162NH 1985 – 1986 169 3.703 144.442 4.611NH 1988 – 1989 188 4.255 150.863 4.971So sánh sự phát triển 1975 ->1989

Số trường tăng lên 6 lần

Số lớp tăng gần 3 lần

Tổng số HS tăng gần 2 lần

Tổng số GV tăng trên 4 lần

120

Số lượng HSĐơn vị 10.000

Page 121: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

** * *

15 năm sau ngày giải phóng, trong tình hình một tỉnh hợp nhất, đây là một thời kỳ chuyển biến cách mạng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thời kỳ chuyển từ chiến tranh sang xây dựng hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền, với truyền thống tốt đẹp của mình, nhân dân Phú Yên đã vượt lên mọi sự tàn phá nặng nề của chiến tranh để xây dựng lại cuộc sống mới trên quê hương mình. Một nền kinh tế bước đầu dần được phục hồi và phát triển, xã hội ổn định và tiến bộ trong đó nổi bật lên là một nền giáo dục cách mạng được phát triển mạnh mẽ và lành mạnh. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho tính ưu việt của chế độ mới.

Ở đây, nền giáo dục nô dịch của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bị xóa bỏ, một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, khoa học tiên tiến thống nhất trong cả nước đã được xây dựng và phát triển ngày càng tốt đẹp.

Bộ máy quản lí giáo dục từ cấp tỉnh đến huyện được hình thành, tăng cường và củng cố ngày càng vững vàng đủ sức đưa Ngành giáo dục vững bước tiến lên thựchiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo cùng với cả nước.

Trong những năm 1975-1989, tuy cơ sở vật chất các trường học phía bắc Phú Khánh chưa được quan tâm đầu tư ngang bằng các trường học phía nam nhưng cũng đã tạo ra được những bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng đào tạo.

Việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mới được đặc biệt chú ý. Hệ thống các trường sư phạm mẫu giáo, Trung cấp, Cao đẳng được thành lập và phát triển đã nhanh chóng đào tạo cho Ngành hàng ngàn giáo viên, đầy năng lực và sức phấn đấu mới. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí các cấp tăng lên gấp 4 lần so với ngày đầu giải phóng. (Năm 1975 có 1.162 người đến năm 1989 tăng lên 4.971 người).

Đời sống nhân dân tuy còn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần hiếu học và trong niềm vui giải phóng, nhân dân Phú Yên đã góp phần xây dựng nhiều trường lớp mới, số trường tăng gấp 6 lần với 188 trường, số lớp tăng gấp 3 lần với 4.255 lớp đủ sức thu hút 150.863 học sinh phổ thông và 21.000 học sinh mẫu giáo, đông gấp 3 lần so với ngày đầu giải phóng.

Thành tựu của Ngành giáo dục Phú Yên trong 15 năm hợp nhất của Phú Khánh thật có ý nghĩa quan trọng. Nó tạo cơ sở cho sự phát triển giáo dục trên quy mô lớn trong thời kỳ tái lập tỉnh từ năm 1989 đến sau này.

121

Page 122: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

122

Page 123: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

CHƯƠNG VIGIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI KỲ TÁI LẬP TỈNH VÀ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1989-2000)

I. THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Hội nghị lần thứ II của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đã xác định: “Về

định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”51 là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sang, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Phát triển Giáo dục-đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, những tiến bộ khoa học-kỹ thuật. Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả là vấn đề ngành giáo dục quan tâm nhất. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Nghị quyết Trung ương II đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ 1996-2000 và đề ra những biện pháp chủ yếu để thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu trên.

Với mục tiêu nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là công việc hàng đầu, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh đủ sức để giải quyết những vấn đề được đặt ra trong bối cảnh mới của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì ngành giáo dục phải đảm đương. Trước hết là phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài bằng nhiều giải pháp cụ thể: phát triển giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động ở lứa tuổi 15-35, hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học trong cả nước và có chính sách giúp đỡ con em người dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, người tàn tật có điều kiện học tập, củng cố tăng cường trường chuyên, lớp chọn, mở thêm trường bán công, dân lập. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông. Bên cạnh đó đã tạo điều kiện đảm bảo chất lượng các cơ sở đào tạo nghề. Hoàn chỉnh và củng cố các trường sư phạm để khắc phục nhanh tình trạng thiếu giáo viên. Nâng cao chất

51 Nghị quyết số 01-NQ/NHTW, ngày 24-12-1996.123

Page 124: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

lượng giáo viên các cấp, tăng cường nghiên cứu khoa học giáo dục, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học.

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN GIAI ĐOẠN 1989-2000 Năm 1989 theo Nghị quyết số 83-QĐ/TW, ngày 4 tháng 3 năm 1989 của Bộ

Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI và Nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 5, từ ngày 01 tháng 7 năm 1989 tỉnh Phú Khánh được tách ra và tái lập hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà theo địa giới cũ.

Sau ngày tỉnh Phú Yên được tái lập, Tỉnh ủy Phú Yên đã xác định “Nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, toàn dân và toàn quân trong tỉnh là vừa phải nhanh chóng ổn định sự lãnh đạo và chỉ đạo, vừa đảm bảo thực hiện công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực theo Nghị quyết 6 của TW”. Đối với lĩnh vực giáo dục “nâng cao chất lượng dạy học và hiệu quả đào tạo của ngành giáo dục, nâng Trường trung học sư phạm lên thành Trường cao đẳng sư phạm; củng cố và mở rộng Trung tâm hướng nghiệp; mở rộng các hình thức phổ cập nghề nghiệp cho thanh niên, chú ý đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, xúc tiến lập trường THPT chuyên Lương Văn Chánh dạy số học sinh giỏi toán, văn, ngoại ngữ; chăm lo đời sống và điều kiện làm việc của giáo viên”52.

Để chuẩn bị cho cơ quan Sở GD-ĐT Phú Yên ra đời, đầu tháng 6/1989, Sở GD-ĐT Phú Khánh ra Quyết định thành lập Văn phòng Sở GD-ĐT Phú Yên ở 221-223 Trần Hưng Đạo, thị xã Tuy Hòa và điều động một số cán bộ cốt cán của các đơn vị Trường THSP Phú Khánh, Trường SP nuôi dạy trẻ, các Phòng Giáo dục về làm nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở vật chất và tiếp nhận tài sản được chia ra từ Sở GD-ĐT Phú Khánh. Những cán bộ từ Phú Yên được điều động về Văn phòng Sở GD-ĐT trước ngày 01/7/1989 là Huỳnh Văn Sí, Phạm Ngọc Anh, Trần Văn Liên, Trần Thị Sâm, Đặng Quang Dưỡng và Nguyễn Tấn Hào.

Ngày 12-7-1989, UBND tỉnh ra quyết định số 105/UB thành lập Sở Giáo dục Phú Yên. Cơ quan văn phòng Sở Giáo dục lúc bấy giờ có thêm 9 người chuyển về từ Sở Giáo dục Phú Khánh và Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang. Để sớm ổn định tình hình và tổ chức hoạt động, Sở Giáo dục đã tham mưu UBND tỉnh tiếp tục điều động và bổ nhiệm một số cán bộ cốt cán từ các Phòng Giáo dục và các đơn vị trường học để bổ sung và tổ chức biên chế bộ máy cơ quan văn phòng Sở Giáo dục.

52 Ngày 30/6/1989: Nghị quyết 01-NQ/TW- Nghị quyết của tỉnh ủy Phú Yên lần thứ Nhất.124

Page 125: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Thầy Nguyễn Cách làm Giám đốc Sở GD, thầy Nguyễn Xuân Đàm làm phó Giám đốc kiêm Hiệu trưởng cơ sở Cao đẳng Sư phạm Phú Yên. Đến tháng 9 năm 1991, thầy Nguyễn Xuân Đàm làm Giám đốc thay thầy Nguyễn Cách nghỉ hưu; các phó Giám đốc: thầy Lê Đức Công, thầy Trần Văn Chương (kiêm Giám đốc Trung tâm kỹ thuật-hướng nghiệp tỉnh). Cán bộ nhân viên toàn cơ quan lúc bấy giờ khoảng 30 người. Tổ chức cơ gồm: Phòng hành chính, Phòng thanh tra tổng hợp, Phòng giáo dục phổ thông, Phòng giáo dục chuyên nghiệp, Phòng tài vụ, Phòng tổ chức cán bộ, Ban quản lý dự án và Công đoàn ngành.

Để ngành Giáo dục có sự thống nhất và tập trung trong công tác quản lý đáp ứng với yêu cầu phát triển giáo dục, ngày 27 tháng 5 năm 1993 Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết số 10/NQ-TU, ghi rõ: “Thực hiện cơ chế quản lý mới trong toàn ngành giáo dục theo tinh thần Chỉ thị 287/HĐBT và Nghị quyết của Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 9 khoá XI, UBND tỉnh chỉ đạo ngành giáo dục xây dựng chu đáo đề án thực hiện quản lý tập trung, thống nhất trong toàn ngành giáo dục, đồng thời phát huy vai trò tích cực chủ động của địa phương và cơ sở đối với sự nghiệp giáo dục trong toàn tỉnh”.

Ngày 25 tháng 5 năm 1993 UBND tỉnh ra Quyết định số 637/QĐ-UB, giao cho Sở giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý sự nghiệp giáo dục trong toàn tỉnh. Tại Điều 1 của Quyết định ghi rõ: quản lý toàn ngành, bao gồm:

- Quản lý công tác chuyên môn.- Quản lý công tác tổ chức cán bộ và biên chế.- Quản lý kinh phí sự nghiệp giáo dục - đào tạo.Quyết định số 637/QĐ-UB của UBND tỉnh ra đời đúng lúc, phù hợp với yêu

cầu phát triển khách quan của ngành giáo dục, đã đem lại một niềm phấn khởi cho toàn ngành, tạo điều kiện phát triển giáo dục trên quy mô rộng lớn, đa dạng, phong phú hơn.

Giai đoạn thực hiện cơ chế quản lý toàn ngành, lãnh đạo Sở vẫn là thầy Nguyễn Xuân Đàm làm Giám đốc; thầy Lê Đức Công, thầy Trần Văn Chương và thầy Hồ Văn Tùng làm phó Giám đốc. Đầu năm 1998 thầy Nguyễn Xuân Đàm nghỉ hưu. Từ tháng 4 đến cuối tháng 5 năm 1998 thầy Hồ Văn Tùng làm Giám đốc; từ tháng 6 năm 1998 thầy Trần Văn Chương làm Giám đốc (đến năm 2010), thầy Lê Đức Công, phó Giám đốc trực tiếp làm Hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm Phú

125

Page 126: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Yên, cô Nguyễn Thị Hoàng Lan và thầy Lê Nhường bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo.

Quá trình phát triển tổ chức bộ máy cơ quan Sở đến năm 2000 được bổ sung hoàn chỉnh và vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của ngành. Cán bộ, nhân viên cơ quan văn phòng Sở cũng lần lượt được luân chuyển và bổ sung, đến năm 2000 toàn cơ quan có 53 người.

Thực hiện mô hình quản lý toàn ngành đã tỏ ra có hiệu quả cao, ngành giáo dục đạt những thành tựu mới, khắc phục được những nhược điểm của cơ chế quản lý cũ, đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho việc đổi mới nền kinh tế - xã hội. Về mặt quản lý tổ chức, nhân sự có những bước tiến rõ rệt. Sở Giáo dục đã nắm chắc được số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp, cán bộ quản lý trong toàn ngành, đã lập được kế hoạch bồi dưỡng và đến năm 1998, 100% giáo viên các cấp đạt được chuẩn đào tạo. Sở Giáo dục đánh giá xếp loại 417 cán bộ quản lý GD trong tỉnh. Năm học 1994-1995 đánh giá và bổ nhiệm lại toàn bộ Hiệu trưởng các trường cấp 1, cấp 2 và một số trường cấp 3 và giải quyết thuyên chuyển 97 giáo viên hoàn thành nghĩa vụ ở miền núi trở về miền xuôi và 135 giáo viên lên miền núi. Về cơ bản, Sở Giáo dục đã giải quyết được tình hình thiếu giáo viên ở miền núi, hải đảo. Cơ cấu tổ chức của các cơ quan chỉ đạo giáo dục của Sở, các Phòng giáo dục được củng cố, nâng cao. Mối quan hệ giữa Sở, Phòng và trường học được chặt chẽ, thông suốt có tác dụng nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong toàn ngành.

Công tác quản lý ngân sách giáo dục cả tỉnh được đổi mới, Sở Giáo dục quản lý toàn bộ kinh phí của ngành đã phục vụ tốt cho sự phát triển ngành. (Trước tháng 7/1993, Sở Giáo dục chỉ quản lý được ngân sách hành chánh của cơ quan Sở và các trường trực thuộc, ngân sách phòng giáo dục do UBND cấp huyện quản lý).

Cơ sở vật chất của ngành, xây dựng sửa chữa trường lớp được điều hành có kế hoạch, công bằng hợp lý giữa các huyện, giải quyết có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên cho miền núi, hải đảo. Năm học 1993-1994, nhân dân đã góp hàng tỷ đồng cùng với tỉnh xây dựng 297 phòng học mới, một số xã xây dựng được trường tầng. Đến những năm 1994-1995, cơ bản toàn tỉnh đã chấm dứt được tình trạng học ca 3. Sau hai năm vận hành theo mô hình quản lý toàn ngành, trong báo cáo tổng kết của Tỉnh uỷ năm 1994 đã khẳng định: “Trong năm qua, theo phương thức quản lý toàn ngành chúng ta đã duy trì, phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo, đã chú

126

Page 127: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trọng hơn việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức tại chức, kết thúc năm học 1993-1994 thắng lợi”53.

Tổng kết năm học 1995-1996, Bộ giáo dục và Đào tạo khen thưởng giáo dục Phú Yên (7/11 chỉ tiêu) đứng thứ 3 trong toàn quốc. Những kinh nghiệm tốt trong quản lý toàn ngành của Phú Yên cùng các Sở Giáo dục ở phía Nam đã đóng góp vào những bài học lý luận và thực tiễn về công tác quản lý giáo dục và đến năm 1998 trên toàn quốc đã có đến 46/61 tỉnh áp dụng mô hình này.

Đây là giai đoạn toàn ngành đã nỗ lực phát triển nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tập trung xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; coi trọng công tác tư tưởng chính trị đối với đội ngũ giáo viên và công nhân viên ngành giáo dục. Mở rộng loại hình trường bán công, trường dân lập cấp THPT, các hình thức học ngoài giờ, vừa học, vừa làm, học tập trung định kỳ, ngắn hạn nhằm nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực. Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ ở các trường phổ thông. Đẩy mạnh hướng nghiệp và dạy nghề PT cho học sinh, nâng cao chất lượng trường chuyên lớp chọn, quy hoạch đào tạo gắn với sử dụng, đào tạo theo địa chỉ, theo yêu cầu của các thành phần kinh tế, huy động sự đóng góp của nhân dân với sự hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư cho miền núi, mở rộng các trường nội trú, chăm lo tạo nguồn đào tạo cán bộ người dân tộc.

Coi trọng nâng cao chất lượng, duy trì phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, quản lý tốt các trường chuyên, lớp chọn để đào tạo năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục Phú Yên luôn quan tâm giáo dục ở miền núi, xóa mù chữ để chấm dứt nạn mù chữ vào cuối năm 1995, tổ chức lớp bổ túc văn hóa ban đêm cho nhiều đối tượng cần nâng cao trình độ văn hoá; chỉ đạo sử dụng có hiệu quả sách giáo khoa, cải tiến thi cử, mở rộng mạng lưới trường ngoài công lập từ đầu những năm 90. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề bằng nhiều phương thức năng động thiết thực, tăng cường quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề.

Chủ trương đổi mới giáo dục là phát triển các loại hình đào tạo, củng cố và sắp xếp lại hệ thống trường học. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dưới ánh sáng của các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), các Quyết định của Chính phủ, sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, ngành giáo dục Phú

53 Báo cáo tổng kết Tỉnh uỷ Phú Yên số 85/BC.TU ngày 12/01/1995127

Page 128: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Yên với tinh thần tự lực, tự cường đã vượt lên mọi khó khăn thử thách của thiên tai, của nền kinh tế thấp kém trong suốt 10 năm tái lập tỉnh (1989-2000). Ngành đã xây dựng được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ về cơ cấu. Tốc độ phát triển nhanh về số lượng, với quy mô lớn rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ hải đảo đến miền núi; đa dạng hóa các loại trường lớp: công lập, bán công, dân lập, tư thục; các hình thức học tập: tại chức, từ xa… Ngoài hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục thường xuyên, phong trào xóa nạn mù chữ, hệ thống các lớp bổ túc văn hóa; các nhà trường giáo dục đặc biệt như trường nuôi dạy trẻ em khuyết tật, trung tâm giáo dục trẻ mồ côi; hệ thống các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, các trung tâm kỹ thuật, hướng nghiệp; hệ thống các trường dân tộc nội trú. Trên cơ sở đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, các nguồn lực huy động cho giáo dục được tăng cường và sử dụng có hiệu quả.

Công tác thanh tra, kiểm tra là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý giáo dục. Năm 1997, Sở giáo dục mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác thanh tra tập trung 6 tuần cho tất cả thanh tra chuyên nghiệp và kiêm nhiệm. Chất lượng công tác thanh, kiểm tra được nâng lên rõ rệt. Các cơ sở giáo dục ở địa phương cũng như lãnh đạo Sở Giáo dục - Đào tạo điều chỉnh các hoạt động quản lý, chấn chỉnh tổ chức, nâng cao chất lượng giảng dạy, giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ cán bộ nhân viên ngành giáo dục, góp phần đề cao vị thế ngành giáo dục trong toàn xã hội.

Tổ chức thanh tra Sở, thanh tra viên và thanh tra kiêm nhiệm được củng cố và tăng cường, có lúc lên đến 186 người (năm 1995) và trên 200 người vào những năm sau. Thanh tra được huấn luyện nghiệp vụ, công tác thanh tra xây dựng được nền nếp, kỷ cương, kỷ luật đồng thời đảm bảo chuyên môn, dân chủ công bằng và đoàn kết thống nhất trong toàn ngành.

Phong trào thi đua được cụ thể hoá thành các cuộc vận động với những nội dung thiết thực thể hiện các nhiệm vụ trọng tâm từng năm học. Đó là cuộc vận động dân chủ hoá trong nhà trường, xã hội hoá giáo dục, thực hiện “kỷ cương-tình thương-trách nhiệm”, “giỏi việc nước-đảm việc nhà”. “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”… Các đơn vị trường học đã triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động, đạt hiệu quả và tác dụng cao. Hằng năm, ngành đều tổ chức các Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp khuyến khích phong trào tự học, tự nâng cao tay nghề, nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đã xuất

128

Page 129: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

hiện hàng trăm giáo viên dạy giỏi, đóng góp nhiều kinh nghiệm quý giá trong đổi mới phương pháp giảng dạy.

Nhiều nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Huy chương vì sự nghiệp giáo dục, nhiều đơn vị, trường học được công nhận trường tiên tiến xuất sắc và đề nghị các cấp tặng Bằng khen, Cờ thi đua. Các đơn vị đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba đó là: trường Cao đẳng Sư phạm, trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, THPT Nguyễn Huệ và THPT Phan Đình Phùng.

Phong trào thi đua trong 10 năm (1990-2000), toàn ngành giáo dục đã góp phần tạo ra những chuyển biến tốt đẹp trong việc mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả. Riêng năm học 1999-2000, toàn ngành đã bình chọn các danh hiệu thi đua, các cấp khen thưởng: Lao động giỏi có 5.720 người, Chiến sĩ thi đua cơ sở có 341 người, giáo viên giỏi – giáo viên tổng phụ trách giỏi 496 người, có 419 tổ Lao động giỏi, 214 tổ Lao động xuất sắc, 108 trường tiên tiến và tiên tiến xuất sắc. Nhiều cá nhân và tập thể khác được Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh và Bộ Giáo dục-đào tạo tặng bằng khen. Sở Giáo dục-Đào tạo Phú Yên được Bộ Giáo dục-đào tạo tặng cờ thi đua cho đơn vị khá trong Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc 1996 (toàn đoàn xếp thứ 14/63, đội bóng đá nam THPT đoạt huy chương bạc toàn quốc sau khi thua đội chủ nhà Hải Phòng 0-1), Đội điền kinh học sinh THPT của Phú Yên được đại diện HS cả nước tham dự giải điền kinh học sinh ASEN vào năm 1999 tại Singapore. Phú Yên cũng được Bộ GD-ĐT chọn là nơi đăng cai tổ chức giải điền kinh HKPĐ toàn quốc và giải bóng đá khu vực III vào năm 2000 của cấp tiểu học và THCS (2 đội bóng đá nam Phú Yên đều vô địch khu vực), được Uỷ ban Thể dục thể thao TW cũng đã tặng cờ thi đua xuất sắc phong trào giáo dục thể chất trường học giai đoạn 1996-2000.

Ngân sách tài chính được quản lý thống nhất toàn ngành, thực sự là đòn bẩy cho phát triển giáo dục. Việc phân bổ ngân sách trong hệ thống giáo dục, cho đào tạo bồi dưỡng, cho xây dựng cơ bản được thực hiện theo đúng nguyên tắc tài chính.

Tuy nguồn lực vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu phát triển ngành nhưng công tác tài chính đã phục vụ hết sức có hiệu quả cho công cuộc phát triển giáo dục tỉnh nhà.

2.1. Sự phát triển của giáo dục Mầm non

129

Page 130: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Từ năm 1989 đến năm 1992, khi bắt đầu đổi mới trong sản xuất nông nghiệp với khoán 10 và Chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW, các HTX sản xuất nông nghiệp không còn quản lý sản xuất tập trung mà thực hiện theo phương thức khoán hộ … Cơ chế mới này trong HTXSXNN đã tác động ngược đến qui mô phát triển của GD mầm non. GD mầm non ở tỉnh phát triển gắn với cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp nay không còn cơ sở bảo trợ, thiếu nguồn kinh phí trả lương cho cô giáo, cơ sở vật chất trường lớp nhà trẻ, mẫu giáo không có tổ chức chăm lo. Ngành học mầm non gặp nhiều khó khăn, nhóm trẻ, lớp mầm non tan rã từng mảng. Tư tưởng chỉ đạo chung của Tỉnh ủy, UBND tỉnh là quan tâm đến việc phục hồi GD mầm non. Từ đó, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng lần thứ XI, XII của tỉnh chỉ đạo đối với GD mầm non càng cụ thể, sâu sát hiệu quả hơn. Với chỉ thị 223 của HĐBT, quy hoạch lại trường lớp theo địa bàn dân cư cho phép mở trường, lớp mầm non tư thục (NQ TW4 khóa VII); Xác định rõ GDMN giữ vị trí đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân (NĐ 90/CP năm 1990). Với mục tiêu: “Phát triển trường lớp học mầm non theo điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, theo yêu cầu của nhân dân; Mỗi huyện phải xây dựng 1 trường mầm non trọng điểm, chất lượng cao để làm mẫu. Ưu tiên huy động triệt để trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo, đảm bảo số lượng, chất lượng cho lớp 1 tiểu học…”

Đội ngũ giáo viên mầm non (nhà trẻ, mẫu giáo) còn thiếu và yếu, chưa đồng bộ, đại bộ phận chưa qua đào tạo, trình độ tay nghề chuyên môn thấp. Đời sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp đang còn gặp nhiều khó khăn, sự đãi ngộ còn quá thấp chưa tương xứng với sự lao động của giáo viên, chưa có chế độ chính sách cụ thể. Trường, lớp đồ dùng dạy học quá thiếu thốn, nghèo nàn. Trong thời gian đầu, phần nhiều giáo viên chỉ làm được việc “giữ trẻ” hơn là “nuôi-dạy-trẻ”…

Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, trực tiếp là Sở Giáo dục-Đào tạo, từng bước đội ngũ giáo viên mầm non tăng lên về số lượng, đáp ứng được yêu cầu mở rộng qui mô trường lớp, về chất lượng văn hóa, nghiệp vụ ngày càng được cải tiến qua việc tổ chức nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, phong phú, để dần dần đến năm học 1999-2000 cơ bản đã chuẩn hóa được đội ngũ giáo viên mầm non và có một số giáo viên được đào tạo trẻ trên chuẩn làm nòng cốt cho phong trào.

Tỷ lệ khám sức khỏe định kỳ cho các trường quốc lập 100%, các lớp nhóm tư thục 100%, các lớp trường dân lập 60%. Chất lượng giáo dục đối với trẻ 5 tuổi (lớp

130

Page 131: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

mẫu giáo lớn - lớp kết thúc GD mầm non, chuyển lên cấp tiểu học) được đánh giá như sau: có cơ thể khẻ mạnh, vận động tốt: 85%; có khả năng nhận biết, đếm con số, nhận mặt chữ, có khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ: 90%; có ý thức, hành vi lễ phép, trung thực: 75%; có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường : 76%; có tình cảm tốt đối với người thân và những người xung quanh 90%....

Trong 10 năm (1989-2000), tình hình kinh tế - xã hội Phú Yên có nhiều thay đổi, có lúc gặp khó khăn nhưng xu hướng chung của giáo dục mầm non Phú Yên vẫn phát triển tốt, khá vững chắc. Thực hiện quan điểm xã hội hóa giáo dục của Đảng, GD mầm non mang tính chất xã hội hóa ngày càng sâu sắc và hiệu quả tốt. Trong thời kỳ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa trước Đại hội VI (1986) nhà trẻ, mẫu giáo được kinh tế tập thể, hợp tác xã bảo trợ, từ thời kỳ đổi mới kinh tế, lúc đầu có gặp khó khăn, nhưng thời kỳ giảm sút qua nhanh, giáo dục mầm non lại được xã hội hóa với nhiều loại hình trường lớp phong phú, đa dạng, ngành học mầm non của tỉnh lại phục hồi và phát triển nhanh và vững chắc cả về số lượng và chất lượng.

Đến năm 2000, Phú Yên đã đưa trên 85% tổng số trẻ em 5 tuổi vào trường mẫu giáo (trong lúc bình quân cả nước đạt 75%) và đưa 98,5% tổng số trẻ 6 tuổi vào lớp 1. Có thể nói, tuy là một tỉnh có nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển, song ngay từ những ngày đầu tái lập tỉnh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh rất quan tâm chỉ đạo và đầu tư cho ngành giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, tỉnh đã có những chủ trương, biện pháp cụ thể quyết vực dậy GD mầm non thoát khỏi những khó khăn do điều kiện kinh tế - xã hội ràng buộc. HĐND tỉnh đã 2 lần ra Nghị quyết về chính sách đãi ngộ cho giáo viên mầm non dân lập. Lần đầu, tháng 9/1995 cho phép hỗ trợ 100.000đ/tháng giáo viên, số còn lại ngân sách xã, huyện cấp. Lần thứ 2 (tháng 6/2000) cho phép trích ngân sách tỉnh giải quyết lương cho giáo viên mầm non dân lập như chế độ lương và bảo hiểm xã hội của giáo viên công lập trong tỉnh. Kinh nghiệm này đã được Chính phủ ghi nhận, và Bộ Giáo dục phổ biến, vận dụng trong toàn Ngành. 2.2. Sự phát triển của giáo dục phổ thông

2.2.1. Cấp Tiểu họcTiểu học là cấp nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân nên được ngành

quan tâm phát triển khá nhanh và đồng bộ. Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa VI (29/03/1989) đã xác định: công tác giáo dục phải hướng trọng

131

Page 132: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

tâm vào việc từng bước ổn định tình hình giáo dục nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Về giáo dục phổ thông cần tăng cường đầu tư để thanh toán nạn mù chữ và phổ cập giáo dục cấp 1, tập trung làm tốt giáo dục toàn diện ở cấp 1, lớp 1.

Trường cấp 1 là cấp học riêng, từ năm 1979, theo Nghị quyết cải cách giáo dục lần thứ 3, trường cấp 1 hợp nhất với các trường cấp 2 và gọi là trường phổ thông cơ sở với mục đích thực hiện phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở 9 năm. Sau đó, thực hiện đường lối đổi mới đã điều chỉnh mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 với tư tưởng ưu tiên cho cấp 1, lớp 1. Năm 1989, Bộ giáo dục- Đào tạo đã quyết định tách trường cấp 1 quay lại về với tên cũ là trường tiểu học. Đến năm 2000, đã cơ bản hoàn thành việc tách cấp 1 ra khỏi trường phổ thông cơ sở thành hệ thống trường tiểu học hoàn chỉnh.

Tháng 3 năm 1992, Sở giáo dục và Đào tạo Phú Yên tổ chức cuộc hội thảo khoa học và mở cuộc vận động cải tiến quản lý trường Tiểu học với mục tiêu phục hồi, mở rộng quy mô tiểu học, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, cải tiến phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, chuẩn hóa giáo viên tiểu học. Cùng với cuộc vận động “Ngày toàn dân đưa con em đến trường”, phong trào “ Vở sạch chữ đẹp”, phát âm đúng chuẩn tiếng Việt; viết đúng ngữ pháp, chính tả được phát động trong học sinh, phong trào thi đua dạy tốt, hội thi, thao giảng đã đưa cuộc vận động quản lý trường tiểu học đạt kết quả.

Trong những năm đầu tái lập tỉnh, giáo dục Phú Yên gặp nhiều khó khăn, thiên tai liên tiếp xảy ra nhưng tỷ lệ học sinh bỏ học và lưu ban ở Phú Yên thấp hơn các tỉnh duyên hải miền Trung54. Điều đó nói lên sự quyết tâm cố gắng nỗ lực vượt bậc của nhân dân và ngành giáo dục Phú Yên trong việc duy trì và phát triển phong trào giáo dục của tỉnh.

Thực hiện việc tách trường tiểu học ra khỏi trường phổ thông cơ sở là việc không đơn giản, nhưng các địa phương đã nỗ lực tiến hành được kịp thời, từ 72 trường phổ thông cơ sở trong toàn tỉnh năm 1989 đến năm 2000 còn lại 12 trường. Năm 1999, Bộ Giáo dục đã kiểm tra và công nhận 2 trường tiểu học Lạc Long Quân (thị xã Tuy Hòa) và trường tiểu học số 1 Phú Lâm (Huyện Tuy Hòa) đạt trường chuẩn Quốc gia. Đó là hai đơn vị trường tiểu học đầu tiên của tỉnh theo mô hình giảng dạy toàn diện cho toàn cấp học. Đến tháng 5 năm 2000, 5 trường tiểu học:

54 Nguồn Tổng cục thống kê NXB Thống kê Hà Nội 01/1997132

Page 133: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

tiểu học Phú Lâm 2, tiểu học Phú Lâm 3, tiểu học số 1 Hòa Hiệp Trung, tiểu học số 1 Hòa Thành, (huyện Tuy Hòa), tiểu học số 1 Xuân Phước (Đồng Xuân) cũng được công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia.

Thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học và Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, ngay trong những năm đầu tái lập tỉnh tuy còn nhiều khó khăn, UBND tỉnh quyết định thành lập Trường nuôi dạy trẻ em khuyết tật, sau đổi tên là “Trường Niềm Vui55”. Năm 1997 trường Niềm Vui vinh dự nhận quà tặng của đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười gồm 1 tỷ 300 triệu đồng, cùng với ngân sách từ nguồn xổ số kiến thiết của tỉnh, một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ gồm nhà học, ký túc xá, nhà khách công vụ quốc tế đã được ra đời... Năm học 1997-1998 trường đã nhận gần 100 học sinh khuyết tật vào học. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là thầy Lê Văn Thăng. Cũng thời gian này, Trung tâm Vòng tay ấm tại thị xã Tuy Hòa cũng được ra đời, tập hợp hàng trăm trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ về đây học tập. Ông Nguyễn Quốc Thể, một cán bộ của thị xã Tuy Hòa về nghỉ hưu, là người có công lớn đối với Trung tâm.

Về đội ngũ giáo viên tiểu học, vào những năm đầu tái lập tỉnh và thực hiện cơ chế đổi mới kinh tế-xã hội, tình hình giáo dục gặp nhiều khó khăn, nhiều giáo viên chuyển ngành, bỏ nghề dạy học gây tình trạng thiếu giáo viên… không ổn định trong nhà trường. Nhờ sự cố gắng của toàn ngành, sự nỗ lực của trường Trung học Sư phạm Phú Yên đào tạo giáo viên không những đủ bù số giáo viên bỏ dạy mà còn đáp ứng đủ cho yêu cầu phát triển số lượng và nâng cao chất lượng của giáo viên tiểu học. Đến năm 2000 có 78,69% giáo viên tiểu học đã đạt chuẩn đào tạo trung học sư phạm hệ 9+3 rồi nâng lên hệ 12+2; một số được đào tạo trên chuẩn (Cao đẳng tiểu học, hoặc Đại học tiểu học), đảm bảo tỷ lệ 1,11 giáo viên mỗi lớp và có đủ giáo viên thể dục, âm nhạc, mỹ thuật, ngoại ngữ… 9 môn học. Toàn tỉnh có 80% tổng số giáo viên đạt chuẩn THSP (hệ 12+2 ).

Ngày 28-11-1990, Tỉnh ủy Phú Yên ra chỉ thị số 12-CT/TU “Đẩy mạnh công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học” và ngày 20/3/1995, UBND tỉnh ra Chỉ thị số 13.CT/UB “tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh”. Đến tháng 5-1996, Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XII, ra Nghị quyết về thời gian hoàn thành công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, toàn tỉnh đạt chuẩn

55 Quyết định số 1409/QĐ-UB, ngày 13/9/1993.133

Page 134: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

quốc gia vào năm 1998. Với vai trò chủ động, ngành giáo dục từ cấp tỉnh, huyện, xã đã chủ động phối hợp, liên kết với các ban, ngành, đoàn thể tiến hành cuộc vận động giáo dục rộng lớn này.

Hội Liên hiệp phụ nữ tích cực vận động chị em còn mù chữ ra lớp xòa mù, giúp đỡ gia đình khó khăn đưa con cháu ra các lớp phổ cập. Lồng ghép với nội dung xóa mù chữ vào những chuyên đề kế hoạch hóa gia đình, nuôi dạy con có khoa học, trao đổi kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, làm kinh tế gia đình. Hội Nông dân và hợp tác xã nông nghiệp là thành viên nòng cốt trong Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục sau khi xóa mù chữ, hỗ trợ tích cực về cơ sở vật chất để duy trì lớp học, giúp đỡ gia đình khó khăn, miễn giảm đóng góp ngày công lao động công ích để động viên đối tượng ra lớp, khen thưởng học viên, giáo viên hoàn thành nhiệm vụ.

Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng vai trò xung kích trong các chiến dịch “Ánh sáng văn hóa hè” tại địa bàn khó khăn ở các huyện miền núi Sơn Hòa, Sông Hinh. Hàng năm, đoàn viên TNCS các trường chuyên nghiệp như Cao đẳng Sư phạm, Trung cấp xây dựng, trường trung học Y tế v.v.. đã về với buôn làng mở các lớp học tình thương, huy động được 4500 học viên ra lớp xóa mù chữ và được công nhận hoàn thành các mức đến 94,1%. UBMTTQ Việt Nam thực sự đóng vai trò trung tâm điều hành các đầu mối liên kết lại phát huy sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy phong trào. Các chỉ tiêu Phổ cập giáo dục và xóa mù chữ được xem là một nội dung thi đua, chỉ tiêu quan trọng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”. Qua 4 năm, từ 1995-1998 cuộc vận động đã đạt nhiều kết quả. Từ năm 1990 đến 1998, toàn tỉnh đã huy động 15.081 lượt người đến lớp xóa mù chữ, trong đó có 8.061 người được công nhận biết chữ (hết lớp 3).

Đến ngày 13/10/1998, toàn tỉnh có 92/98 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, đạt tỷ lệ 93,8%. Trong đó, khu vực miền núi có 36/42 xã, thị trấn đã hoàn thành chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ đạt tỷ lệ 85,7%; khu vực đồng bằng có 56/56 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành, đạt tỷ lệ 100%.

Tiếp tục làm tốt cuộc vận động “Ngày toàn dân đưa con em đến trường” để có trên 98% số trẻ 6 tuổi đến 11 tuổi được học ở trường tiểu học, hạn chế trẻ lưu ban dưới 3%, bỏ học dưới 1%, nâng dần tỷ lệ người biết chữ lên 99% trong diện xoa mù

134

Page 135: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

(15-35 tuổi); 100% đơn vị trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia về PCGD ở tuổi 12; huy động 40% số người thoát mù tham gia các lớp chuyên đề sau xóa mù, hoặc bổ túc văn hoá tiểu học. Hiệu quả đào tạo tăng từ 40% lên 86,75% (tăng 46,75%), tăng trung bình 4% /năm. Đó là một tỉ lệ cao, thể hiện sự nỗ lực đáng kể của cấp tiểu học trong tỉnh.

Thành tựu giáo dục tiểu học trong 10 năm (1989-2000), thể hiện sự phát triển nhanh, mạng lưới trường lớp học rộng khắp từ đồng bằng ven biển đến miền núi, hải đảo đều có trường tiểu học, khắc phục hoàn toàn tình trạng buôn làng trắng cơ sở giáo dục. Ngày toàn dân đưa con em đến trường đã huy động trên 98% trẻ em 6 tuổi vào lớp 1. Trong năm học 1999-2000, cơ sở vật chất cho cấp tiểu học được cải thiện rõ rệt chấm dứt tình trạng học ca 3, không còn trường lớp tạm bợ, đã có nhiều trường kiên cố mà tiêu biểu là hệ thống các trường ODA, các trường tầng do nhân dân xây dựng, trang thiết bị dạy học được tăng cường một bước, trường tiểu học đã trở thành bộ mặt văn hóa mới của làng quê. Chất lượng giáo dục được từng bước nâng cao, vững chắc toàn diện; tỷ lệ học sinh lưu ban giảm từ 13,3% năm học 1990-1991 xuống 2,8% năm học 1999-2000. Kết quả tổng hợp của nền giáo dục tiểu học chính quy và phong trào xóa mù chữ của quần chúng đã mang lại một sự kiện lịch sử trọng đại là tháng 12/1998 tỉnh Phú Yên được TW công nhận đạt chuẩn quốc gia về PCGD tiểu học và XMC.

2.2.2. Trung học cơ sởGiáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến lớp 9.

Học sinh vào lớp 6 phải có bằng tốt nghiệp tiểu học, độ tuổi là 11 tuổi. Giáo dục trung học cơ sở giúp học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về Tiếng việt, Toán, Lịch sử dân tộc; kiến thức chung về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật và tin học, ngoại ngữ. Có những hiểu biết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học lên THPT, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Giáo dục trung học cơ sở dựa vào nội dung cơ bản mà Bộ Giáo dục qui định, 5 nội dung thể hiện rõ về thế giới quan, nhân sinh quan cho học sinh. Giáo dục tư tưởng, chính trị, pháp luật, đạo đức và cách cư xử. Cung cấp cho học sinh có những hiểu biết sơ đẳng về nguồn gốc vật chất của thế giới; về sự phát triển của tự nhiên và xã hội; về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới chung quanh; hiểu ý

135

Page 136: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nghĩa của lao động trong sự hình thành con người, vai trò và sức mạnh của con người trong việc cải tiến tự nhiên xã hội và con người…56

Bên cạnh những nội dung yêu cầu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn quan tâm đến việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học để đạt đến tính hoàn chỉnh, hoàn thiện trong công tác đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa. Hướng học sinh vào đời sống lao động có ích hoặc vào trường học nghề, hoặc hướng đi lên học tiếp trung học phổ thông. Chương trình và sách giáo khoa thay đổi, nội dung khắc phục những khiếm khuyết của bộ sách cũ như thiên về lý thuyết, ít tính thực tiễn, ít rèn kỹ năng thực hành, nhiều chỗ không đáp ứng được cuộc sống hiện tại. Bộ GD-ĐT chỉ đạo biên soạn sách mới tăng phần thực hành, thực tiễn. Tỷ lệ lý thuyết thực hành là 1/1... tích hợp môn Tiếng việt và môn Văn thành ngôn Ngữ văn, giảm xuống 4tiết/tuần ở lớp 6, tăng cường các môn xã hội nhân văn, tin học, kỹ thuật. Sách giáo khoa mới vừa cung cấp nội dung, vừa hướng dẫn phương pháp tự học. Chương trình mới rất chú ý đến các hoạt động ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi, tham gia công tác xã hội… nhằm tăng cường vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống, đặc biệt tăng cường kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa, làm cho quá trình học tập của học sinh được sinh động hứng thú và năng động hơn.

Trong những năm từ 1989-1995, nền kinh tế xã hội nước ta trong thời kỳ đầu thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống còn khó khăn nên nhiều học sinh không đủ điều kiện học tiếp lên cấp học cao hơn, học sinh trung học cơ sở tăng chậm. Trong 4 năm từ 28.649 học sinh (năm 1989-1990) tăng lên 31.058 (năm học 1992-1993) chiếm (8,4%). Sau đó, số lượng học sinh tăng dần, năm 1992-1993 từ 31.058 học sinh đã tăng lên 62.112 trong năm 2000. Trong 10 năm, học sinh trung học cơ sở đã tăng 216,46%. Hiệu quả đào tạo trường trung học cơ sở từ 42% (năm học 1992-1993) tăng lên 68% (năm học 1998-1999). Số học sinh lưu ban giảm từ 7,8% (năm học 1990-1991) xuống 1,7% (năm học 1999-2000), số học sinh bỏ học giảm từ 28,3% (năm học 1990-1991) xuống 2,1% (năm học 1999-2000).

Đến năm 2000, toàn tỉnh có 81/101 xã phường có trường trung học cơ sở. Trong 20 xã chưa có trường trung học cơ sở như huyện Đồng Xuân có 1 xã, huyện Sông Cầu 2 xã, huyện Tuy An 3 xã, huyện Sơn Hòa 7 xã, huyện Sông Hinh 6 xã và huyện Tuy Hòa 1 xã.

56 Theo Quyết định số 305/GDĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục, ngày 26/3/1986.136

Page 137: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

2.2.3. Trung học phổ thôngGiáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những

kết quả của trung học cơ sở hoàn thiện học vấn trung học phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Thực hiện chủ trương thí điểm phân ban, năm học 1994-1995, Phú Yên tiến hành thực hiện 2 trường THPT Nguyễn Huệ và THPT Ngô Gia Tự, năm học 1995-1996 mở rộng thêm 2 trường PTTH Phan Đình Phùng và THPT chuyên Lương Văn Chánh, năm học 1996-1997 tiếp tục mở rộng thêm 5 trường: PTTH Trần Phú, THPT Lê lợi, THPT Lê Hồng Phong, THPT Lê Trung Kiên, THPT Trần Quốc Tuấn và đến năm học 1999-2000 là năm học cuối cùng của thí điểm phân ban. Thời điểm này học sinh có xu hướng đăng ký học ban A nhiều hơn ban C nên số lượng học sinh vào ban A chiếm tỉ lệ khá cao (53,27%), ban C ít hơn (19,55%), ban B chương trình nặng nên việc dạy và gặp khó khăn (26,1%). Nhờ sự tập trung chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi, nên kết quả học tập và thi tốt nghiệp PTTH các trường và lớp phân ban đạt kết quả cao hơn các trường, lớp học theo chương trình đại trà.

Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh được thành lập từ năm 1990 là một đơn vị điển hình đào tạo chất lượng cao trong hệ thống 62 trường chuyên trong cả nước lúc bấy giờ. Từ năm 1990 đến 2000, trường đã đào tạo được 1.032 học sinh ở hầu hết các bộ môn trường phổ thông, đã có 1.032 học sinh lớp 12 các khóa đã tốt nghiệp đạt tỷ lệ 100%, 9 em đỗ thủ khoa các kỳ thi tú tài, 492 em đạt giải học sinh cấp tỉnh, 56 em đạt học sinh giỏi cấp Quốc gia. Thi học sinh giỏi Olimpic các tỉnh phía Nam đội Phú Yên cũng đạt nhiều giải cao, xếp vị thứ cao trong khu vực. Hàng năm, học sinh trường Lương Văn Chánh trúng tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng với tỷ lệ cao, có nhiều em trúng tuyển vào 2,3 trường một lúc. Trong 9 năm, trường đã có 1.055 lượt học sinh trúng tuyển vào Đại học, có đến 20 em đạt thủ khoa, có 8 em học sinh được đi du học. Trường chuyên Lương Văn Chánh xứng đáng được vinh dự nhận nhiều phần thưởng và bằng khen của Sở Giáo dục, UBND tỉnh, của Bộ Giáo dục và Huân chương lao động hạng Ba của Nhà nước trao tặng.

Để chất lượng đào tạo được nâng cao, đội ngũ giáo viên PTTH được quan tâm giải quyết đủ để số lượng, tương đối đồng bộ về các bộ môn. Từ 421 giáo viên cấp 3

137

Page 138: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trong năm học 1989-1990 lên đến 811 giáo viên trong năm học 2000-2001, số lượng tăng gấp bội. Chất lượng được nâng cao bằng các chủ trương đào tạo và thực hiện tốt các chu kỳ bồi dưỡng của Bộ đề ra do trường ĐHSP Huế phụ trách. Đến năm 2001, có 98% giáo viên đã được chuẩn hóa, một số đã và đang học sau đại học. Trong 10 năm từ 1990-2000, toàn tỉnh đã có 27.827 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, 57.326 lượt dự thi vào cao đẳng, đại học (tính lượt vì có thể dự thi 2,3 trường cho 1 thí sinh) và đã có 10.738 lượt học sinh trúng tuyển vào các trường cao đẳng, đại học đạt tỷ lệ trung bình là 23,39%/năm; số học sinh người dân tộc trúng tuyển vào cac đẳng, đạo học là 2.79%/năm. So với tình hình chung của cả nước, đây là một chỉ số rất đáng mừng nói lên chất lượng đào tạo cấp trung học phổ thông. Bên cạnh đó công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng được quan tâm đúng mức, đội tuyển học sinh giỏi toàn quốc tỉnh Phú Yên tham gia dự thi ở bảng A (bao gồm các địa phương mạnh như Hà Hội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nam Định,…) đã đạt từ 8 giải, 12 giải, 13 giải những năm học trước 1993, đến năm học 1994-1995 đã tăng lên 19 giải, 22 giải.

Những năm học 1995-1999 học sinh Trung học phổ thông tăng lên. Số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở năm 1989-1990 vào học lớp 10 chỉ chiếm 55%, đến năm học 1999-2000 đã tăng lên 85%. Tổng số học sinh trung học phổ thông trong 10 năm từ 1989-2000 đã tăng từ 50628 học sinh lên 23.048 học sinh, tăng gấp 4 lần. Số học sinh bỏ học từ 7,3 % (năm học 1990-1991) giảm xuống 1%, năm học 1997-1998 và những năm sau nữa là không đáng kể.

Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông theo học các trường ngoài công lập (bán công và dân lập) chiếm 39% tổng số học sinh trung học. Tại huyện Tuy Hòa có 7 trường trung học phổ thông thì có đến 04 trường trung học phổ thông bán công, đó là trường Nguyễn Trường Tộ ở Phú Lâm, trường Nguyễn Công Trứ ở Hòa Vinh, trường Nguyễn Thị Minh Khai ở Hòa Bình và dân lập Lê Thánh Tôn ở Hòa Xuân. Nhờ mở rộng loại hình trường ngoài công lập đã tạo điều kiện thu nhận hết số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở có nhu cầu vào học lớp 10, một mặt đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đồng thời giảm tải cho các trường trung học phổ thông công lập.

Đối với bộ môn ngoại ngữ, trong những năm đầu thập kỷ 90, theo chương trình thống nhất trong nhà trường phổ thông học hai thứ tiếng Nga, Anh. Song, vì Liên Xô sụp đổ, tình hình khách quan và tâm lý người học tiếng Nga không tồn tại

138

Page 139: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

được, lãnh đạo Sở đã nhanh chóng đưa trên 50 giáo viên tiếng Nga đi học tiếng Anh vừa để bảo vệ đội ngũ giáo viên Tiếng Nga, vừa đào tạo nhanh đội ngũ giáo viên tiếng Anh. Cơ sở trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên chuyển từ Nha Trang về Phú Yên đã lập ngay khoa ngoại ngữ có cả tiếng Anh, tiếng Pháp để đào tạo giáo viên cấp II. Sở Giáo dục cử 20 giáo viên tiếng Anh vừa tốt nghiệp CĐSP tiếp tục ra ĐHSP Huế để đào tạo cử nhân tiếng Anh, đồng thời mời chuyên gia tình nguyện người Anh về dạy tại trường CĐSP và trường chuyên Lương Văn Chánh. Thời gian 5 năm, đội ngũ giáo viên tiếng Anh của tỉnh từ 28 giáo viên năm 1990 tăng 32 giáo viên năm 1991 và 68 giáo viên năm 1996.

Việc phục hồi tiếng Pháp ở nhà trường tỉnh Phú Yên cũng có ý nghĩa về hoạt động văn hóa - hữu nghị tốt đẹp. Từ năm học 1991-1992, Sở Giáo dục đã có mối liên hệ với Trung tâm phổ biến tiếng Pháp ở Huế. Năm học 1992-1993, Phú Yên tham gia vào chương trình hợp tác văn hóa giáo dục Pháp- Việt Nam, là một trong số 17 tỉnh được “Giảng dạy tăng cường tiếng Pháp” từ lớp 1 do Chính phủ Pháp tài trợ. Số lượng giáo viên ngoại ngữ tiếng Anh - tiếng Pháp tăng đáp ứng đủ yêu cầu. Từ năm học 1994-1995, các trường Trung học phổ thông trong tỉnh đều học ngoại ngữ từ lớp 10, nghĩa là toàn bộ cấp PTTH, năm học 1997-1998 phủ kín các lớp học ngoại ngữ từ lớp 6 nghĩa là toàn bộ cấp THCS. Đến năm học 1999-2000, toàn tỉnh đã có 16 trường Tiểu học với 4.699 học sinh được học Tiếng Anh, 2 trường tiểu học với 14 lớp và 1.046 em học sinh được học Tiếng Pháp theo chương trình tiếng Pháp tăng cường. Tính trong toàn tỉnh tỷ lệ học sinh tiếng Anh là 90%, tiếng Pháp là 10%.

Ở 1 Tỉnh lẻ như Phú Yên ta xây dựng được 1 phong trào học ngoại ngữ ở trường Phổ thông cũng như trong nhân dân là 1 cố gắng rất lớn đáng được ghi nhận.

Phát triển trường – phòng học - lớp - học sinh - giáo viên PTTH (1989- 2000)

Năm họcTrường Phòng

họclớp học Tỷ lệ

lơp/phHọc sinh Tỷ lệ

HS/LớpGiáo viên

Tỷ lệ GV/lớpC2 +3 PTTH

NH 89-90 12 127 159 1,25 5628 35,40 421 2,6590-91 12 116 142 1,22 4773 33,61 395 2,7891-92 7 6 139 141 1,01 4975 35,28 418 2,96

139

Page 140: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

92-93 8 8 157 170 1,08 6246 36,74 507 2,9893-94 10 7 161 186 1,16 7661 41,19 425 2,2894-95 10 7 218 9281 42,57 509 2,3395-96 11 7 200 248 2,24 10835 43,69 525 2,1296-97 11 7 242 280 1,16 12055 43,05 538 1,9297-98 10 9 258 335 1,30 14714 43,92 544 1,6298-99 9 12 307 383 1,25 17440 45,54 601 1,5799-2000 6 15 319 457 1,43 21319 46,65 624 1,37

Qua bảng thống kê cho thấy trong 10 năm (từ năm 1989-2000) số học sinh PTTH tăng gần 4 lần, số lớp học tăng 2,5 lần, số giáo viên tăng 1,5. Số lượng học sinh tăng rất mạnh, quy mô rất lớn, trong lúc số lượng giáo viên cấp 3, lớp học tăng chậm, không tương ứng với yêu cầu. Đây là vấn đề của đầu thế kỉ XXI.

2.3. Phát triển giáo dục miền núi, hải đảoPhú Yên có 3 huyện miền núi với 36 xã, thị trấn. Mỗi huyện đều có xã vùng

cao và người dân tộc thiểu số sống xen kẽ với người Kinh hoặc rải rác trên nhiều địa bàn hiểm trở. Toàn tỉnh có trên 30.000 người dân tộc, gồm dân tộc Eđê, Bân, Chăm H’roi, Tày, Nùng,… trong 4 huyện, thị xã còn lại địa phương nào cũng có xã miền núi, bán đảo, vùng khó khăn. Do những đặc điểm nói trên nên vấn đề phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội gặp rất nhiều khó khăn.

Huyện Sông Hinh, từ năm 1975 đến 1985 vẫn là vùng đất hoang vu của huyện Sơn Hòa, đến năm 1985 huyện Sông Hinh thành lập. Huyện Đồng Xuân tình hình giáo dục thuận lợi hơn. Song 3 huyện miền núi sau năm 1975 có 5 trường cấp I và 1 trường cấp II ở Đồng Xuân. Tổng cộng khoảng 700 học sinh.

Đến những năm 1990, tình hình giáo dục có sự chuyển biến tốt. Tại Thị trấn La Hai (Đồng Xuân), tỉnh chủ trương mở thêm trường cấp II-III. Bên cạnh trường phổ thông, các lớp bổ túc văn hoá được lập ra để giảng dạy cho cán bộ, thanh niên. Nông trường Sơn Thành (huyện Tuy Hòa) đã có trường Phổ thông lao động cấp II-III vừa học, vừa làm.

Tình trạng thiếu giáo viên, thiếu phòng học còn phổ biến. Nhiều nơi học sinh phải học ca 3. Do vậy, số lượng học sinh phát triển chậm, chất lượng yếu kém kéo dài trong nhiều năm liền chưa thể khắc phục được. Đó là chưa kể một số xã, buôn còn tình trạng “trắng” về giáo dục.

140

Page 141: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định số 72 của Hội đồng bộ trưởng và Chỉ thị số 525 của Thủ tướng Chính phủ đã tác động thúc đẩy giáo dục miền núi phát triển. Hình thức tổ chức lồng ghép thu hút trẻ em ở các buôn làng đến lớp, xây dựng được hệ thống 4 trường nội trú Dân tộc (1 trường tỉnh, 3 trường huyện).

Theo thống kê năm học 1989-1990 tổng số học sinh 3 huyện miền núi có 16.430 em, cụ thể: Huyện Sông Hinh có 2.707 học sinh; huyện sơn Hòa có 5.388hs; huyện Đồng Xuân có 7.744 học sinh; trường phổ thông cấp II-III Lê Lợi có 315 học sinh và trường phổ thông cấp II-III Sơn Hòa có 186 học sinh; trường phổ thông cấp II-III Sơn Thành có 90 học sinh. Trong đó số, học sinh người dân tộc thiểu số là 3.294 em, chủ yếu là học sinh người dân tộc Êđê, Bana và chăm H’roi.

Từ khi tái lập tỉnh (7/1989), Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã có những quan tâm sâu sát, cụ thể đối với giáo dục miền núi và dân tộc. Để khắc phục tình trạng giáo dục còn kém phát triển, chất lượng chưa cao, giáo viên thiếu và yếu, kỳ họp HĐND khóa II, kỳ họp thứ IV từ ngày 28 đến 31/7/1990 đã ra Nghị quyết về giáo dục trong đó có ghi: “Giữ chế độ luân chuyển giáo viên từ miền xuôi lên miền núi, không thu học phí đối với các cấp ở miền núi”. Đồng thời, UBND tỉnh có chế độ chính sách cụ thể đưa giáo viên luân chuyển giữa đồng bằng và miền núi57.

Năm học 1992-1993, huyện Sông Hinh chỉ có 13 học sinh lên lớp 10 nên chưa đủ điều kiện thành lập trường cấp III. Để tạo điều kiện thuận lợi việc dạy và học của cán bộ và học sinh miền núi, tháng 9 năm 1992 UBND tỉnh đã có quyết định thành lập trường cấp II-III Sông Hinh do thầy Nguyễn Đoàn làm Hiệu trưởng.

Năm 1995, 36 xã của 3 huyện miền núi đều có trường lớp học. Trung tâm xã Ea-Lâm huyên Sông Hinh, ngôi trường được xây dựng với 4 phòng học khang trang, có bể đựng nước, có 229 học sinh người dân tộc và 9 giáo viên. Trạm y tế cũng được xây dựng, dân làng dời nhà đến 2 bên đường đông đúc. EaLâm trở thành điểm sáng văn hóa được bừng lên giữa đại ngàn Sông Hinh. Các xã Eaba, Eabá, Sông Hinh, Buông Kít, Buông Bầu, Buông Đức, Eatơrôn và các xã Phước Tân (buôn Ma-

57 Chỉ thị số 36 CT/UBND, ngày 20/9/1990.141

Page 142: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

gao, Ma I, Ma giấy), Sơn Hội, Cà Lúi, Hòa Ngãi (Sơn Định), Phú Mỡ, Kỳ Lộ, Xí Thoại (Đồng Xuân), HảoDanh, Hảo Nghĩa (Sông Cầu).

Cuối năm 1995, tổng số học sinh dân tộc miền núi được học trong 4 trường nội trú là 507 em (Đồng Xuân: 100 học sinh; Sơn Hòa: 157 học sinh; Sông Hinh: 100 học sinh và trường dân tộc Nội trú tỉnh: 150 học sinh). Đến năm 2000, có 600 học sinh người dân tộc được học ở các trường DTNT. Phú Yên là tỉnh có tỷ lệ học sinh vào học các trường nội trú dân tộc ở hạng cao trong cả nước. Số học sinh 3 huyện miền núi mỗi năm được tăng trưởng rõ rệt như năm 1995 có 5.368 học sinh đến năm 2000 lên 7.815 học sinh .

Những chế độ chính sách đối với giáo viên miền núi, học sinh dân tộc, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất đã mang lại nhiều tiến bộ rõ rệt cho giáo dục miền núi, mang lại cơ hội học tập cho các dân tộc anh em góp phần làm cho đời sống kinh tế - xã hội miền núi của tỉnh phát triển.

Bên cạnh việc phát triển giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số, giáo dục vùng ven biển, hải đảo cũng được ngành quan tâm đúng mức. Năm học 1994-1995, Sở GD-ĐT tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá sự phát triển của giáo dục vùng núi, dân tộc, vùng ven biển, hải đảo. Nếu như giáo dục vùng núi có những bước khởi sắc từ XMC-PCGD/TH đến THCS, PTTH thì giáo dục vùng ven biển hải đảo có những chuyển mới rất đáng phấn khởi. Từ huyện Sông Cầu đến huyện Tuy An, thị xã Tuy Hòa đến huyện Tuy Hòa, các lớp học mầm non, PCGD/TH-XMC được hình thành và phát triển. Ở xã Xuân Lộc- Sông Cầu có thầy Phước và Hội Chữ thập đỏ lập 2 lớp học trẻ em nghèo, mồ côi. Cô giáo Cảnh Xuân với các lớp Mầm non ở xã Xuân Cảnh. Bán đảo Từ Nham có Ban nhân dân thôn lập các lớp tiểu học trên đảo… Ở Tuy An, thầy Huỳnh Xuân Đào phụ trách các lớp PCGD/TH-XMC ở xã An Hải. Ở huyện Tuy Hòa, các xã Hòa Hiệp, Hòa Tâm đều có sự quan tâm đến sự phát triển giáo dục các vùng ven biển. Đóng góp cho giáo dục vùng ven biển, hải đảo Phú Yên là nói đến các “thầy giáo mang quân hàm xanh” và vai trò của các đơn vị bộ đội Biên phòng các huyện Sông Cầu, Tuy An, Thị xã Tuy Hòa và Huyện Tuy Hòa. Họ vừa là anh, là chú vừa là những thầy giáo rất “thân thiện” của các em, các cháu.

III. HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP VÀ CAO ĐẲNG – TRUNG TÂM GIÁO DỤC

142

Page 143: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trước tháng 04/1975, Phú Yên hầu như không có một cơ sở đào tạo nghề ngoài một trường “Nông-Lâm-Súc” nhỏ nhoi ở Hòa An. Sau ngày giải phóng, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 222-CT-TW ngày 17/6/1975, nêu rõ “phải từng bước biến các trường Đại học và chuyên nghiệp ở Miền Nam thành nơi đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng chế độ mới, kinh tế mới, con người mới”. Được sự hỗ trợ tích cực của các Bộ chuyên ngành, các trường dạy nghề, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học được phục hồi, cải tạo và xây dựng mới ở các tỉnh miền Nam.

Từ 1980, thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TW “Tích cực mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng và các trường THCN ở Trung ương và các địa phương theo yêu cầu phát triển của đất nước về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng” (1), tỉnh Phú Yên đã từng bước hình thành, xây dựng và phát triển ngành giáo dục chuyên nghiệp. Trên địa bàn tỉnh, có hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng trực thuộc các Bộ do Trung ương quản lý và các trường chuyên nghiệp trực thuộc địa phương do tỉnh quản lý.

3.1.Các trường do TW quản lý- Trường Cao đẳng xây dựng số 3.Để đáp ứng kịp thời nhu cầu cán bộ ngành xây dựng cho các tỉnh Nam Trung

Bộ và Tây Nguyên, ngày 14 tháng 2 năm 1976 Bộ xây dựng đã ra Quyết định số 85/QĐ-TCCB thành lập trường Trung học Xây dựng số 6 đóng tại Thị xã Tuy Hòa - Phú Yên. 30 cán bộ đầu tiên của nhà trường được điều động từ các trường Trung học xây dựng số 1, số 2, số 3 ở miền Bắc và các cơ quan trong ngành xây dựng. Với những điều kiện vật chất ban đầu thiếu thốn đủ mọi bề, trên bãi cát trắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy nhà trường, từ 1992 đến 2004, thầy và trò Trường trung học Xây dựng số 6 quyết tâm vượt qua bao khó khăn, gian khổ để xây dựng về mặt đội ngũ, chương trình, cơ sở vật chất … đáp ứng nhu cầu học tập. 95% học sinh, sinh viên ra trường được các cơ sở sản xuất tiếp nhận sử dụng. Nhiều người đã trở thành cán bộ chủ chốt của ngành xây dựng các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Đội ngũ cán bộ, giáo viên đến năm 2000 đã lên tới 97 người (trong đó có 13 thạc sĩ, cao học, 31 kỹ sư xây dựng, 28 cử nhân các ngành).

(1) Nghị quyết 14 NQ/TW của Bộ chính trị Ban CH TW Đảng Cộng sản VN về cải cách giáo dục.143

Page 144: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Cơ sở vật chất của nhà trường được xây dựng khang trang, kiên cố đầy đủ các tiện nghi làm việc, giảng dạy, học tập. Qua 25 năm xây dựng và trưởng thành, Trường trung học xây dựng số 6 đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba, cờ thưởng, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, cờ thưởng, bằng khen của Bộ xây dựng, Bộ Giáo dục-Đào tạo, của UBND tỉnh Phú Khánh và Phú Yên. Trường đã được Bộ Xây dựng đề nghị và Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 3069/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 23 tháng 5 năm 2001 nâng cấp thành trường Cao đẳng Xây dựng số 3. Trường đào tạo cán bộ, công nhân các ngành nghề kỹ thuật xây dựng cho 14 tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH của cả vùng. Nhân dân Phú Yên ghi nhận công lao của Trường Trung học Xây dựng số 6 trước đây và trường CĐXD số 3 hiện nay đã góp phần xuất sắc vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, khoa học kỹ thuật, nâng cao dân trí và văn hóa của địa phương.

- Trường Trung học kĩ thuật - công nghiệp Tuy Hòa.Cũng trên địa bàn thị xã Tuy Hòa ngay từ năm 1978, Cục địa chất đã có

Quyết định số 281/QĐ-TC thành lập trường Trung học địa chất II, để đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực và nhu cầu xây dựng đất nước trong hòa bình. Đến cuối năm 1991, trường đã được Bộ Công nghiệp nặng Quyết định đổi tên trường Trung học kỹ thuật công nghiệp Tuy Hòa58 đáp ứng việc đào tạo nguồn nhân lực cho cả khu vực miền Trung và Tây nguyên trong thời kỳ đất nước đổi mới. Trường trở thành trung tâm đào tạo đa ngành (gần 20 ngành nghề). Công tác nghiên cứu khoa học có bước phát triển, các đề tài nghiên cứu tập trung khoa học công nghệ và cơ khí như: Xử lý chất độc hại Xyanua, ứng dụng Multimedia để xây dựng các bài mô phỏng động cho dạy học tự động… hay thiết kế chế tạo đồ dùng dạy học, nhà trường đã có 6 sản phẩm được tặng giải tại các kỳ thi cấp tỉnh và Quốc gia. Nhiều thành thành tích đạt được của nhà trường đã ghi nhận thông qua số lượng học sinh được đào tạo, nhà trường đã nhận Huân chương Lao động hạng Ba vào năm 1998, hạng Nhì năm 2003… và cờ thi đua của Bộ công nghiệp, của tỉnh Phú Yên trao tặng.

- Học viện ngân hàng – phân viện Phú Yên.Trải qua gần 30 năm xây dựng và trưởng thành lịch sử kế tiếp nhau của quá

trình hình thành và phát triển từ trường Trung học Ngân hàng 2 TW đến chi nhánh

58 Theo Quyết định số 575 QĐ/TC ngày 21-12-1991, Bộ Công nghiệp nặng.144

Page 145: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng và ngày nay là Học viện Ngân hàng-Phân viện Phú Yên. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chất lượng đào tạo luôn là nội dung được Ban lãnh đạo nhà trường, các khoa, phòng, Bộ môn quan tâm hàng đầu, thực hiện phương châm “dạy tốt, học tốt, phục vụ tốt”. Chất lượng được nâng cao dần. Số học sinh khá giỏi hàng năm đạt trên 20%. Sinh viên tốt nghiệp ra trường được các cơ sở tiếp nhận, đánh giá cao. 27 năm Học viện Ngân hàng-Phân viện Phú Yên đã đào tạo và số sinh viên tốt nghiệp, tổng số sinh viên tốt nghiệp các hệ là 7.272/8.497 đạt tỷ lệ 85,58%. Đó là một tỷ lệ cao. Năm 1996, Chủ tịch nước CHXHCNVN tặng Huân chương lao động hạng Ba và nhiều tập thể Khoa, Phòng, Ban và cá nhân được Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành và Tỉnh tặng bằng khen.

3.2. Các trường do Tỉnh quản lí- Trường Trung học Kinh tế - Kĩ thuật Phú Yên.Ngoài các trường trung ương đóng trên địa bàn thị xã Tuy Hòa còn có một số

trường trung cấp trực thuộc địa phương quản lý như Trường Trung học Kinh tế – Kỹ thuật Phú Yên. Đây là ngôi trường có khả năng đào tạo đáp ứng kịp thời yêu cầu đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật phục vụ công cuộc phát triển nông nghiệp của địa phương. Đầu năm 1976, UBND tỉnh Phú Khánh đã ra quyết định thành lập “Trường nông nghiệp Hòa An”, thị xã Tuy Hòa trên cơ sở tiếp quản trường Nông-Lâm-Súc của chế độ cũ. Nhà trường đào tạo trình độ sơ cấp nông nghiệp với 2 ngành trồng trọt và chăn nuôi – thú y, phục vụ cho các hợp tác xã nông nghiệp, các nông trường, trạm trại quốc doanh nông nghiệp.

Ngày 28 tháng 7 năm 1977, UBND tỉnh Phú Khánh ra Quyết định số 1360/QĐ-TC.UB thành lập “Trường Hợp tác hóa nông nghiệp” do các đồng chí Nguyễn Quyền, Nguyễn Khải và Vũ Tâm Tư phụ trách. Nhà trường đã đào tạo bồi dưỡng hàng trăm cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ cho các hợp tác xã nông nghiệp góp phần tích cực trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của tỉnh Phú Khánh.

Ngày 12/03/1980 trường “Trung học nông nghiệp” trên cơ sở nâng cấp trường nông nghiệp Hòa An. Ngày 28/7/1988, hợp nhất trường Trung học Nông nghiệp và trường hợp tác hóa nông nghiệp thành “Trường Trung học nông nghiệp Phú Khánh”, đặt tại thị trấn Phú Lâm, huyện Tuy Hòa. Sau khi tái lập Tỉnh, tháng 7 năm 1989 trường được đổi tên thành “Trường Trung học nông nghiệp Phú Yên”.

145

Page 146: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trường đào tạo 5 ngành chuyên môn: trồng trọt, chăn nuôi – thú y, lâm sinh, kinh tế nông –lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản.

Tháng 12 năm 1995, UBND tỉnh Phú Yên ra quyết định đổi tên trường Trung học nông nghiệp thành “Trường trung học kinh tế – Kỹ thuật Phú Yên” dưới sự quản lý trực tiếp của Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Qua trên 25 năm xây dựng và phát triển, nhà trường đã đứng vững và có bước phát triển mới với đa dạng phong phú ngành nghề đào tạo với các hình thức tập trung chính quy, vừa học vừa làm, hướng nghiệp nghề cho học sinh phổ thông, học sinh dân tộc thiểu số, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã. Nhà trường còn liên kết đào tạo chuyên ngành Đại học nông nghiệp …. Hằng năm, nhà trường tuyển sinh khoảng 200-250 học sinh chính quy, 100-150 học viên tại chức, 50-100 sinh viên Đại học tại chức, góp phần tích cực cho nhu cầu phát triển nông nghiệp của tỉnh.

- Trường Trung học Y tế Phú Yên.Để đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh,

sau khi tái lập tỉnh, tiếp nhận 169 học sinh, 3 giáo viên và một số tài liệu ít ỏi từ trường Trung học Y tế Phú Khánh chuyển giao, Sở Y tế Phú Yên đã nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ sở đào tạo cán bộ y tế cho tỉnh. Ngày 8/01/1991 UBND tỉnh Phú Yên ra quyết định số 21/QĐ-UB thành lập trường Trung học y tế Phú Yên.

Sau 10 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, trường Trung học y tế đã có một cơ sở vật chất khang trang, đạt tiêu chuẩn chuyên môn đào tạo cán bọ y khoa, có thư viện và vườn cây thuốc nam phong phú. Đội ngũ giáo viên từ 3 người đến năm học 2001 nhà trường đã có 31 giáo viên chuyên trách và kiêm chức (3 thạc sĩ, 12 chuyên khoa 1, 70% CB CNV có trình độ Đại học, 98% giáo viên chuyên trách đã qua đào tạo sư phạm bậc 2). Từ năm 1990 đến năm 2001, trường đã đào tạo được 1926 học sinh, trong đó có 1.153 học sinh hệ Trung học và 773 học sinh hệ sơ học. Nhà trường đã được Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Bộ y tế, 9 bằng khen của UBND Tỉnh, bác sĩ Phạm Đình Thái được Nhà nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú.

- Trường Chính trị Tỉnh Phú Yên.Đối với sự ra đời của Trường chính trị tỉnh thì ngay từ sau cách mạng tháng

Tám năm 1945, để phục vụ cho công cuộc xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ngày 14 tháng 11 năm

146

Page 147: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1949 Tỉnh ủy Phú Yên quyết định thành lập “Trường đào tạo cán bộ công nông tỉnh Phú Yên” do đồng chí Võ Học, Thường vụ tỉnh ủy phụ trách, đồng chí Văn Gói làm Hiệu trưởng và kế tiếp là các đồng chí Nguyễn Nghị (1950) và đồng chí Huỳnh Nựu (1953). Từ giữa năm 1961, Tỉnh ủy thành lập “Trường Đảng tỉnh”. Sau ngày tái lập tỉnh Phú Yên (giai đoạn 1989-1993), trường Đảng Phú Yên trở lại với nhiệm vụ của chính mình là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp để xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội Phú Yên trong thời kỳ mới.

Từ Trường đào tạo cán bộ tỉnh Phú Yên (1993-1995) đến trường Chính trị tỉnh Phú Yên (từ tháng 12-1995) là mô hình mới, vừa là một trường học, lại vừa là một Ban của Đảng, một cơ quan của UBND tỉnh, có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân trong tỉnh. Trường chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, chịu sự quản lý Nhà nước của UBND tỉnh và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Học viên hành chính quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đồng chí Đặng Kiếm Ba đến đồng chí Trương Ngọc Phụng được bổ nhiệm Hiệu trưởng nhà trường. Cùng với việc tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo trường, các khoa, phòng, giảng viên được củng cố, tăng cường cả số lượng và chất lượng. Trong 10 năm tái lập tỉnh từ 1989 đến 1999, trường Chính trị tỉnh đã mở được 168 các loại lớp các cấp, các ngành chuyên môn. Với 14.491 học viên.

- Trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên.Từ khi tái lập Tỉnh, tháng 7-1989, trường Trung học Phú Khánh được đổi tên

lại thành Trường Trung học Sư phạm Phú Yên. Số giáo viên và sinh viên người Phú Yên của Trường CĐSP Nha Trang trở về Thị xã Tuy Hòa lập Cơ sở CĐSP Phú Yên. Thầy Nguyễn Xuân Đàm - nguyên Hiệu trưởng CĐSP Nha Trang, vừa là Phó Giám đốc Sở GDĐT Phú Yên, kiêm Hiệu trưởng Cơ sở CĐSP Phú Yên.Thầy Trần Ngọc làm Hiệu trưởng Trường trung học sư phạm Phú Yên cho đến hết năm học 1989-1990. Ngày 14-6-1990, UBND tỉnh Phú Yên ra quyết định hợp nhất trường Trung học Sư phạm và Cơ sở cao đẳng Sư phạm Phú Yên thành “Trường Sư phạm Phú Yên” do thầy Nguyễn Xuân Đàm làm Hiệu trưởng, thầy Trần Ngọc làm Phó Hiệu trưởng. Đến hết HK1 của năm học 1990-1991, thầy Nguyễn Xuân Đàm được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở GD-ĐT Phú Yên, thầy Trần Ngọc làm Hiệu trưởng Trường

147

Page 148: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

sư phạm Phú Yên, các thầy Lâm Văn Hiệp, Nguyễn Huy Vị được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng.

Trong những năm 1990-1995, Trường sư phạm Phú Yên đã đào tạo được 2.236 giáo viên tiểu học và 1.677 giáo viên trung học cơ sở, trong đó 1.323 giáo viên ngoại ngữ; 354 giáo viên các ngành học khác và bồi dưỡng chuẩn hóa 1.722 giáo viên tiểu học và trung học cơ sở.

Tháng 9/1993, với sự phối hợp của Viện Nghiên cứu giáo dục đại học và THCN của Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT Phú Yên tỏ chức Hội thảo xây dựng Đại học cộng đồng ở Phú Yên, với sự tham dự của đồng chí Nguyễn Duy Luân, UVBCHTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Trần Minh Mạch, PCT UBND tỉnh cùng đại diện nhiều sở, ban, ngành tham gia.

Tại Hội thảo khoa học, đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Ban chấp hành TW Đảng đã nói lên lòng mong muốn thiết tha của Đảng bộ và nhân dân Phú Yên là có được 1 trung tâm đào tạo nhân lực bậc cao, đội ngũ cán bộ quản lí cán bộ KHKT để phục vụ cho nhu cầu nhanh chóng chấn hưng và phát triển KT-XH của địa phương lên ngang tầm với các tỉnh bạn. Không có giải pháp nào tốt hơn là xây dựng 1 trường đại học đa cấp đa ngành ở Phú Yên. Nguyện vọng “ăn cơm nhà đi học đại học” là nguyện vọng thiết tha của nhân dân, cũng là điều kiện để thu hút mạnh mẽ chất xám của cả nước về với Phú Yên, nhằm khai thác 1 vùng đất nhiều tiềm năng nhưng hãy còn nghèo nàn. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa XI và tờ trình số 818 ngày 23-6-1994 của Ủy ban Nhân dân Tỉnh gửi Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập trường đại học cộng đồng Phú Yên lấy trường sư phạm làm nòng cốt là phù hợp với thực tiễn phát triển KT-XH do đồng chí Phó Chủ tích Trần Minh Mạch kí.

Tư tưởng đúng đắn ấy lại được thể hiện ở Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Tỉnh Đảng bộ (1995-2000).

Tờ trình lần thứ 2 gởi lên Thủ tướng Chính phủ số 576/CV-UB ngày 25-9-1996 do đồng chí Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh Lê Văn Hữu kí đã nói lên sự kiên trì, 1 tư tưởng khoa học đúng đắn.

Ngày 7 tháng 4 năm 1994 đồng chí Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam về tỉnh Phú Yên đã giành thời gian thăm trường Sư phạm. Đồng chí Đỗ Mười nói: “Nghe qua báo cáo của Đ/c Giám đốc Sở Giáo dục – Đào tạo, của Hiệu

148

Page 149: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trưởng trường Sư phạm Phú Yên, Tôi thấy rằng từ khi tách tỉnh đến nay, chỉ trong một thời gian ngắn các Đ/c đã làm được nhiều việc và xu hướng của các công việc ấy đang theo tinh thần đổi mới, đang bắt được nhịp phát triển của thế giới, của khu vực và của đất nước ta. Thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin biểu dương thành tích của thầy và trò ngành giáo dục Phú Yên và Trường Sư phạm Phú Yên”.

Ngày 25 tháng 9 năm 1995 với Quyết định số 602/TTg Thủ tướng Chính phủ đã nâng cấp Trường trung học sư phạm Phú Yên thành trường Cao đẳng sư phạm Phú Yên – một mốc son trên con đường phát triển của ngành giáo dục Phú Yên. Lịch sử hình thành của Trường CĐSP Phú Yên cũng chính là lịch sử ngành sư phạm trong hệ thống nền GD cách mạng Phú Yên. 28 năm qua, kể từ ngày có quyết định thành lập “Trường Sư phạm miền núi” (tháng 6-1967) đến ngày thành lập Trường CĐSP Phú Yên (25-9-1995) các trường sư phạm đã lần lượt nối tiếp nhau ra đời từ trong khói lửa chiến tranh đến những ngày xây dựng hòa bình. Các thế hệ thầy cô giáo, giáo sinh sư phạm trước đây đã hy sinh phấn đấu hoàn thành xuất sắc sứ mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Trường CĐSP Phú Yên ngày nay vinh dự tiếp tục giương cao truyền thống vẻ vang của các trường sư phạm tiền thân và tiếp bước trên con đường thênh thang rộng mở, phục vụ đắc lực hơn nữa cho công cuộc phát triền kinh tế giáo dục tỉnh nhà. Trường CĐSP Phú Yên qua 10 năm xây dựng và phát triển (từ 1995 – 2000) trở thành trung tâm, đào tạo bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học lớn nhất trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ: 144 CB-Gv-CNV (trong đó có 1 Tiến sĩ, 20 Thạc sĩ, 7 học viên Cao học). Bộ máy hành chính: 4 ban, phòng (Phòng tổ chức-Chính trị; Phòng đào tạo; Phòng Hành chính - Tổng hợp; Ban quản lý Ký túc xá; Bộ máy chuyên môn: gần 6 khoa, 2 tổ và 2 trung tâm trực thuộc (Khoa Tiểu học mầm non, Khoa tự nhiên, Khoa xã hội, khoa Ngoại ngữ, Khoa Thể dục-Nhạc họa, Khoa Đào tạo-Bồi dưỡng tại chức; Tổ Tâm lý-Giáo dục; Đoàn đội, Tổ Chính trị-Mác-Lênin; Trung tâm tin học, trung tâm Ngoại ngữ).

Trường CĐSP quan tâm giáo dục toàn diện, rèn luyện người sinh viên sư phạm thành người giáo viên kiểu mới trong môi trường “sư phạm – phổ thông – cuộc sống”. Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục đạo đức – chính trị – tư tưởng, lòng yêu nghề mến trẻ mà Đảng bộ nhà trường là hạt nhân trung tâm. Từ một Chi bộ với 11 đảng viên trong ngày đầu xây dựng, đến năm 2000 đã trở thành một Đảng bộ

149

Page 150: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

lớn mạnh với 4 Chi bộ, 45 đảng viên, trong đó có 7 đảng viên là sinh viên sư phạm. Các họat động Công đoàn, Đoàn thanh niện Cộng sản Hồ Chí Minh, công tác họat động ngoại khóa, thể dục thể thao, văn nghệ, các cuộc thi nghiệp vụ cấp quốc gia, khu vực, cấp tỉnh đã được tổ chức có chiều sâu mang tính nghiệp vụ sâu sắc, là cơ hội để sinh viên sư phạm rèn luyện khả năng giáo dục toàn diện cho học sinh ở nhà trường phổ thông. Trong các cuộc hội thi Sư phạm toàn quốc CĐSP Phú Yên đã giành được 5 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, 6 huy chương đồng đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè trong cả nước. Năm 2002, nhà trường đã được tặng Huân chương lao động hạng Nhì và các Bằng khen của Bộ Giáo dục-Đào tạo, Bộ Văn hóa-Thông tin, Bộ Công an.

Ngày 22 tháng 4 năm 2004 có một cuộc Hội thảo cấp tỉnh về “Đề án thành lập và xây dựng trường đại học Phú Yên” do UBND tỉnh Phú Yên làm chủ dự án và Viện nghiên cứu thiết kế trường học Bộ GD&ĐT là cơ quan lập đề án, Sở GD&ĐT Phú Yên là cơ quan phối hợp lập đề án quyết tâm xúc tiến thành lập một trường Đại học ở tỉnh.

(Nguyện vọng đó được trở thành hiện thực bằng quyết định của Chính phủ thành lập Trường Đại học Phú Yên trên cơ sở thống nhất 2 trường CĐSP Phú Yên và Trường Trung học - Kĩ thuật Phú yên năm 2007)

- Trung tâm Giáo dục thường xuyên.Để nhanh chóng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ,

viên chức, ngày 03/06/1991, UBND tỉnh ra quyết định số 402/ QĐ- UB thành lập “Trung tâm đào tạo bồi dưỡng tại chức Phú Yên”. Ngày 22/6/1993 UBND tỉnh ra Quyết định số 747. QĐ- UB thành lập “Trung tâm đào tạo mở rộng Phú Yên” trên cơ sở trung tâm đào tạo bồi dưỡng tại chức. Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh trở thành một trong những đơn vị ngành giáo dục đạt nhiều thành tích cao và tạo được niềm tin cậy trong tỉnh. Trong 10 năm, Trung tâm Giáo dục thường xuyên đã liên kết đào tạo với 12 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp vơi 20 ngành học về kỹ thuật, kinh tế, xã hội nhân văn như: Luật, xây dựng cầu đường, nông nghiệp, quản trị kinh doanh, kinh doanh tiền tệ, ngoại thương, kế toán, tài chính kế toán, điện tử viễn thông, xây dựng thủy lợi, thủy điện, hóa thực phẩm, thư viện thông tin,…đã có 2.974 học sinh, sinh viên tốt nghiệp các loại hình đào tạo. Bồi dưỡng ngắn hạn văn hóa, nghiệp vụ cho 400 học viên. Trung

150

Page 151: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

tâm đã vươn lên tự đào tạo 1.813 học viên chiếm 52% tổng số học viên của trung tâm trong năm học 2001. Sự đầu tư của Nhà nước còn có hạn, trung tâm đã trích từ nguồn học phí để xây dựng được cơ sở vật chất cần thiết cho dạy và học, như phòng máy vi tính, thư viện…nhà cho sinh viên xa ở trọ, phòng khách… Trung tâm đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ văn hóa chuyên môn nghiệp vụ để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ đã có hơn 314 người tốt nghiệp các ngành học ở Trung tâm đảm nhiệm chức vụ từ trưởng phó phòng ban trở lên. Trong đó có nhiều đồng chí làm cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ quan Đảng, chính quyền huyện và Tỉnh.

- Trung tâm Ngoại ngữ tại chức.Nhận thức đúng đắn và nhạy bén của tầm quan trọng chiến lược phát triển

Ngoại ngữ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, Sở GD-ĐT Phú Yên thành lập Trung tâm ngoại ngữ tại chức nhằm đáp ứng phong trào học ngoại ngữ của quần chúng, thanh niên, cán bộ ngoài nhà trường vốn đã được nhen nhóm ngay từ những ngày đầu tái lập tỉnh. Trung tâm ngoại ngữ tại chức Phú Yên được sự bảo trợ của Trung tâm ngoại ngữ quốc gia miền Trung- Huế đã hoạt động từ năm 1990, đến tháng 8/1995 Trung tâm ngoại ngữ tại chức Phú Yên được chính thức thành lập59 .

Nhiệm vụ của Trung tâm ngoại ngữ tại chức Phú Yên có nhiệm vụ đào tạo và cấp chứng chỉ trình độ A,B cho các thứ tiếng Anh, Pháp theo chương trình quy định của bộ GD-ĐT quy định cho cán bộ công chức Nhà nước, thanh thiếu niên và nhân dân lao động trong tỉnh. Là đơn vị trực thuộc Sở GD-ĐT với nguyên tắc tài chính “lấy thu bù chi”. Trong 10 năm hoạt động Trung tâm đã giảng dạy trên 10.000 lượt người theo học, đã cấp được 6.619 chứng chỉ A, 1.370 chứng chỉ B và 116 chứng chỉ C. Để triển khai chỉ thị 422/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo ngoại ngự cho cán bộ công chức nhà nước. Từ tháng 8-1996, Ban tổ chức chính quyền tỉnh giao cho TTNNTC thực hiện 5 khóa đào tạo, tổng số 1720 lượt người đăng ký theo học đã có 1183 người đạt chứng chỉ A,B,C, hiệu suất đào tạo là 68,78%. trong đó có 644 chứng chỉ A ( đạt tỷ lệ 54,45%); 399 chứng chỉ B ( tỷ lệ 61,96%) so với tổng số chứng chỉ A và 140 chứng chỉ C (tỷ lệ 35,96%) so với tổng số chứng chỉ B.

- Trung tâm Tin học.

59 Quyết định số 1010/QĐ- UB của UBND tỉnh Phú Yên151

Page 152: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Sở GD-ĐT Phú Yên cũng đã sớm tiếp cận với Tin học. Từ những năm 1991-1992 Sở đã tổ chức hội thảo Tin học trong sự phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội trong nhà trường. Đến năm 1992 Trung tâm Tin học trực thuộc Sở GD-ĐT được thành lập do thầy Nguyễn Hưng Nghi làm Giám đốc.

Để đào tạo giáo viên kịp thời đáp ứng cho việc dạy Tin học trong nhà trường, năm 1995, Sở GD-ĐT đã sáp nhập Trung tâm Tin học vào trường CĐSP. Ngành Tin học đã trở thành một mã số đào tạo của trường; được tăng cường trang thiết bị, cán bộ giảng dạy, ngoài nhiệm vụ đào tạo giáo viên Tin học cho trường THCS , cho các Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp huyện, Trung tâm mở các lớp tin học thực hành các chứng chỉ A, B cho học sinh phổ thông và thanh niên thị xã. Các Trung tâm kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp huyện, một số trường PTTH các Sở, Ban ngành, các Phòng giáo dục huyện.

- Các lớp bổ túc văn hóa tại chức.Vào những năm giữa thập kỉ 90 theo yêu cầu chuẩn hóa cán bộ công chức của

Chính phủ, phong trào học bổ túc văn hóa được tổ chức sôi nổi ở các trường PTTH, các huyện thị. Các kì thi tốt nghiệp hệ BTVH cấp THCS, THPT đã thu hút hàng ngàn người dự thi. Chưa nói đến chất lượng học tập, thái độ thi cử, dẫu sao việc cố gắng đi học, đi thi bổ túc văn hóa cũng là điều đáng khích lệ. Việc tổ chức thi cử cũng đã được cải tiến tốt hơn qua từng năm học.

- Trung tâm Giáo dục Lao động, Kĩ thuật tổng hợp, Hướng nghiệp.Ngay sau khi tái lập tỉnh, Sở GD-ĐT đã thành lập Trung tâm giáo dục kỹ

thuật tổng hợp tỉnh do thầy Trần Văn Chương làm Giám đốc. Trung tâm này có quy mô lớn để làm hạt nhân cho hệ thống Trung tâm giáo dục ở các huyện. Đến năm 2000 toàn tỉnh dã có 7 Trung tâm ở các huyện. Các trung tâm này đã tham gia đào tạo nghề phổ thông, nghề ngắn hạn, chuyển giao công nghệ v.v… chủ yếu là đào tạo nghề phổ thông và kỹ thuật ứng dụng cho học sinh các trường phổ thông và chuyên ban. Song so với yêu cầu trong thời kỳ mới, các Trung tâm giáo dục còn nhiều bất cập, trước hết là vấn đề nhận thức, chưa quán triệt được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm giáo dục trong các cấp chỉ dạo giáo dục nên chưa có sự tăng cường đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất kỹ thuật, chưa có đội ngũ giảng viên tương xứng, bộ máy quản lý yếu, không đồng bộ, sự phối hợp giữa Trung tâm với các Trường Phổ

152

Page 153: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

thông trong công tác dạy nghề cho học sinh chưa được chặt chẽ, cơ cấu giáo viên ngành nghề chưa hợp lý.

TTGDLD của Tỉnh và các huyện đang có kế hoạch củng cố và tăng cường các điều kiện cần thiết để đáp ứng được yêu cầu của công tác giáo dục lao động trong nhà trường.

IV. XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ Tổ chức ĐảngDưới sự lãnh đạo của Đảng, nền giáo dục cách mạng Việt Nam nói chung và

giáo dục Phú Yên nói riêng luôn được tổ chức và phát triển theo sự trưởng thành của cách mạng. Đảng lãnh đạo qua đường lối, mục tiêu giáo dục, qua chương trình, nội dung giáo dục. Trong công cuộc xây dựng hoà bình, những đảng viên trong ngành giáo dục được tập họp, cuốn hút đội ngũ giáo viên cùng thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, biến những Nghị quyết của Đảng về kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế-xã hội thành hiện thực trong cuộc sống. Từ số lượng đảng viên ít ỏi trong những ngày đầu cách mạng, qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng nhất là qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đội ngũ đảng viên cộng sản trong ngành giáo dục ngày càng đông đảo và được tôi luyện vững vàng, họ đã phát huy mạnh mẽ truyền thống tốt đẹp ấy vào công cuộc xây dựng nhà trường mới phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-văn hoá-xã hội của tỉnh.

Về tổ chức, ở những cơ quan giáo dục Sở, Phòng và đơn vị trường học có đủ 03 đảng viên thì thành lập chi bộ, nếu ít hơn thì sinh hoạt ghép với tổ chức chi bộ địa phương. Những đơn vị chưa có đảng viên vẫn được Chi bộ Đảng ở địa phương lãnh đạo một cách toàn diện và kịp thời. Toàn ngành giáo dục có Ban cán sự Đảng do đồng chí Giám đốc Sở làm Bí thư, các đồng chí Phó giám đốc, trưởng phòng tổ chức cán bộ và Chủ tịch công đoàn ngành làm uỷ viên, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thường vụ tỉnh uỷ, chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn diện về công tác giáo dục của tỉnh. Công tác phát triển Đảng trong ngành giáo dục ngày càng được chú ý. Để trẻ hoá đội ngũ của Đảng, một số học sinh, sinh viên xuất sắc ở các trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, trường dân tộc nội trú, cả ở trường trung học phổ thông cũng được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đến năm 2000, phần nhiều các đơn vị giáo dục trong tỉnh đã có Chi bộ Đảng. Số đảng viên và chi bộ Đảng trong ngành giáo

153

Page 154: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

dục, tuy có phát triển hơn trước, song so với một ngành có quy mô to lớn và tầm chiến lược quan trọng như vậy mà sự phát triển Đảng vẫn còn chậm.

Tổng số đảng viên và chi bộ Đảng ngành giáo dục Phú Yên đến năm 2000

Đảng viên Chi bộNăm TS đảng viên Tỷ lệ ĐV/TSĐV Chi bộ Đảng Đơn vị GD TlệCB/ĐVGD1996 674 6,2% 551998 1056 9,8% 66 342 19%2000 2064 14,75% 87 396 22%

Công đoàn ngành giáo dụcNăm 1989, khi tái lập tỉnh, Công đoàn giáo dục Phú Yên đã phối hợp cùng

với ngành giáo dục triển khai nhiệm vụ xây dựng lại nền giáo dục của tỉnh. Sự phối hợp công tác giữa Sở Giáo dục-đào tạo với Công đoàn giáo dục Phú Yên rất phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, linh họat về phương pháp và đã đạt được nhiều thành tựu. Với phương hướng, mục tiêu chung “Nâng cao nhiệt tình cách mạng, ý thức tự lực tự cường, động viên cán bộ công nhân viên, giáo viên hăng hái thi đua giảng dạy, công tác, tham gia quản lý trường học, chăm lo đời sống, điều kiện làm việc cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên tăng cường bồi dưỡng cán bộ công đoàn, cải tiến một bước các hình thức, phương pháp họat động Công đoàn” (1). Năm 1994, phương hướng mục tiêu chung “Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Vì lợi ích và vị trí xã hội của giáo giới và những người lao động trong ngành, tiếp tục đổi mới tổ chức và họat động Công đoàn, góp phần xây dựng đội ngũ và thực hiện nhiệm vụ mục tiêu cơ bản của Giáo dục và Đào tạo tỉnh Phú Yên nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH”(3).

Từ năm 1990 đến năm 1999, chủ tịch Công đoàn giáo dục Phú Yên là thầy Lê Đức Công. Từ tháng 5-1999, công đoàn giáo dục do thầy Văn Sum phụ trách. Công đoàn giáo dục với những hoạt động cụ thể như xây dựng kế hoạch, tổ chức quản lý phong trào thi đua, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách, chăm lo đời sống, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp và đảm bảo điều kiện phương tiện làm việc trong quá trình phối hợp công tác.

(1) (2) (3) Công đoàn giáo dục Phú Yên – 10 năm xây dựng và phát triển (7/2001)154

Page 155: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Cùng với sự phát triển của ngành, công đoàn giáo dục Phú Yên đã từng bước lớn mạnh về số lượng, 6.000 đoàn viên năm 1989 đã phát triển 10.923 đoàn viên năm 2001 với 356 đơn vị Công đoàn cơ sở. Tổ chức công đoàn đã tuyên truyền giáo dục đoàn viên nghiên cứu, học tập quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần và thực hiện quan điểm đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, nâng cao lòng yêu nghề, yêu trẻ, thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nghiên cứu khoc học, nâng cao tay nghề, góp công sức, trí tuệ vào công cuộc xây dựng nhà trường XHCN. Đến năm 2000 đã có 60,2% giáo viên mầm non; 96,45 giáo viên tiểu học; 95,88% giáo viên Trung học cơ sở; 98,2% giáo viên Trung học phổ thông đạt chuẩn. Tỷ lệ trên chuẩn các cấp đạt tỷ lệ trên 10%.

Công đoàn giáo dục đã tổ chức và thu hút tuyệt đại đa số CB CNVC và đoàn viên Công đòan tham gia phong trào thi đua “hai tốt”. Khẩu hiệu và nội dung thi đua được thay đổi và phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ phát triển của ngành. Từ cuộc vận động “Mỗi thầy giáo là tấm gương sáng cho học trò noi theo”, cuộc vận động “kỷ cương-tình thương-trách nhiệm” đến cuộc vận động “dân chủ hóa nhà trường” (dân chủ, công khai trong công tác quản lý, quá trình đào tạo của nhà trường). Hòa nhập với phong trào thi đua của xã hội do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đề xướng, trong nhà trường có cuộc vận động “gia đình nhà giáo văn hóa”, nữ giáo viên “giỏi việc trường- đảm việc nhà”, thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình (gia đình nhà giáo không đẻ con thứ ba). Các đơn vị Công đoàn và đoàn viên CĐGD hầu hết là những đơn vị, đoàn viên tiên tiến, gương mẫu, là điểm sáng trong phong trào thi đua của địa phương. Năm học 2000-2001, 279 đơn vị Công đoàn cơ sở đạt danh hiệu Công đoàn vững mạnh, 20% nhà trường đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc, 30% giáo viên giỏi và chiến sĩ thi đua. Nhà giáo được nhận huy chương vì Sự nghiệp giáo dục và 8 nhà giáo vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”: thầy Lê Thông, thầy Nguyễn Cách năm 1990; thầy Nguyễn Chu, thầy Nguyễn Xuân Đàm, Bác sĩ Phạm Đình Thái năm 1994; thầy Nguyễn Chấn, thầy Trịnh Đốc, thầy Nguyễn Văn Thiệu năm 2000.

Công đoàn giáo dục đã kịp thời đề ra những biện pháp tương trợ giúp đỡ nhau tăng gia sản xuất, làm nghề phụ, xây dựng quỹ tương trợ, góp vốn, giúp nhau làm kinh tế gia đình, quỹ của CĐGD tỉnh luôn có vốn đến 500 triệu đồng. Toàn Công đoàn xây dựng được 5 nhà tình nghĩa với kinh phí 75 triệu đồng, phụng dưỡng suốt

155

Page 156: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đời 8 bà mẹ Việt Nam anh hùng, tặng 50 sổ tiết kiệm cho gia đình liệt sĩ giáo dục với 45 triệu đồng, xây dựng các nhà ở tập thể cho giáo viên vùng khó khăn Sơn Định (Sơn Hòa), Đa Lộc (Đồng Xuân).

Hoạt động Đoàn - Đội Ở tất cả các trường Trung học phổ thông đều có tổ chức Đoàn trường, có Chi

đoàn TN học sinh do 1 ủy viên Chi bộ là giáo viên làm Bí thư đoàn trường. Hoạt động Đoàn, Đội trong nhà trường, phong trào thi đua học tập “điểm 10 dâng Bác”, “đôi bạn cùng tiến”, các họat động xã hội “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”: “đường sắt quê em”, “áo lụa tặng Bà”, “tìm địa chỉ đỏ”, “đền ơn đáp nghĩa”, “chữ thập đỏ”, “an toàn giao thông”, “an ninh thôn xóm”.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã cùng với đội ngũ thầy cô giáo giáo dục, rèn luyện đội thiếu niên học sinh thực hiện tốt “5 điều Bác Hồ dạy” trở thành cháu ngoan Bác Hồ, nhiều đoàn viên, thanh niên có trình độ học vấn trung học phổ thông, có lòng yêu nước, yêu chế độ, hăng hái tham gia lao động để xây dựng đất nước hoặc tiếp tục học tập, rèn luyện nghề nghiệp để hình thành đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục. Ngày 27 tháng 09 năm 1995, Đại hội lần thứ nhất của Hội khoa học Tâm lý và Giáo dục được tiến hành. Hội đã phát triển trên 292 hội viên chính thức, với các Chi hội cơ quan Sở Giáo dục Đào tạo, Chi hội Trường CĐSP, Chi hội huyện Tuy Hòa, Tuy An, Thị xã Tuy Hòa, Chi hội ngành giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, Chi hội Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em, Chi hội Bệnh viện Phú Yên, Chi hội ngành công an … Nhiệm kỳ thứ nhất từ 1995 – 2000, do Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Đàm, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Tâm lý Giáo dục học VN làm chủ tịch, Thạc sĩ Trần Văn Chương, Ủy viên Ban CHTW, đ/c Trần Khắc Luyện làm Phó Chủ tịch và nhà giáo Phạm Văn Thiện làm Tổng thư ký. Nhiệm kỳ II từ 2001 – 2005 do Thạc sĩ Lê Nhường, Phó Giám đốc Sở Giáo dục Phú Yên làm Chủ tịch và Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Huy Vị làm Phó chủ tịch.

Qua 10 năm hoạt động, Hội đã phát triển khá mạnh. Hội đã phối hợp với Sở Giáo dục tổ chức hơn 15 cuộc hội thảo khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới giáo dục: về vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục ở cấp học mầm non, tiểu học, trung học và cao đẳng sư phạm; về giáo dục đạo đức

156

Page 157: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

cho học sinh trường PTCS, PTTH; về giáo dục dân số, giới tính và sức khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên; về vấn đề hướng nghiệp cho học sinh lớp 12; về vấn đề tâm lý, sự chăm sóc và phát huy tiềm năng người cao tuổi … Hội đã tham gia tư vấn, phản biện và nghiệm thu các cấp ngành, cấp tỉnh về văn học, lịch sử, địa lý địa phương, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về giáo dục học sinh năng khiếu, về lịch sử giáo dục Phú Yên.

Hội cũng là một trong những thành viên nghiên cứu đề tài “xây dựng mô hình trường cao đẳng cộng đồng, đại học đa ngành cho địa phương tỉnh” trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Tổ chức Hội và các hội viên làm nòng cốt trong việc vận dụng Khoa học Tâm lý, giáo dục qua các hội giảng thu hút được hàng trăm giáo viên tham gia và đã đạt được nhiều giải cao ở các cấp. Thực sự Hội đã góp phần nâng cao tiềm lực khoa học, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục của tỉnh nhà.

Các hội “Ái hữu” tự nguyện trong giáo giới và học sinh được thành lập. “Hội thầy trò Lương Văn Chánh” ra đời do thầy Trần Suyền, người có công lớn trong những ngày đầu tổ chức, xây dựng trường Lương Văn Chánh - trường Trung học đầu tiên của tỉnh nhà (tháng 9-1946). Ông nguyên là Bí thư Tỉnh ủy, làm Chủ tịch Hội. “Hội cựu học sinh Trung học Phú Yên” do đồng chí Lương Công Đoan, một trong những hạt nhân tích cực của phong trào sinh viên học sinh trong trường Trung học Tổng hợp Nguyễn Huệ thời chống Mĩ, nay là Bí thư Tỉnh ủy làm Chủ tịch Hội. Các Hội không chỉ là nơi đoàn tụ các thế hệ giáo viên học sinh trong tình cảm Thầy – Trò, tình cảm đồng môn mà còn có ý nghĩa mục đích rộng lớn, tích cực tốt đẹp hơn là góp phần xây dựng phát triền ngành giáo dục của tỉnh nhà. Các Hội đã vận động xây dựng được quỹ Hội hàng tỉ đồng, cùng với các tổ chức văn háo từ thiện khác như Hội Nhà báo Phú Yên, Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, các quỹ học bổng “tiếp sức cho em đến trường”, “Quỹ học bổng đèn đom đóm”, “Quỹ tài năng trẻ”, Hội đồng hương Phú Yên tại Thành phố Hồ Chí Minh hàng năm đều tổ chức trao phần thưởng cho học sinh giỏi các cấp, cấp học bổng cho học sinh khuyết tật, học sinh nghèo, cứu trợ cho học sinh vùng sâu vùng xa, các vùng bị thiên tai lũ lụt. Các hoạt động khuyến học khuyến tài đã có tác dụng rất tốt trong việc động viên học sinh phát huy truyền thống “Yêu nước – học giỏi – kính thầy mến bạn”, rèn

157

Page 158: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

luyện trở thành người công dân tốt, người chiến sĩ tốt trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương. V. CƠ SỞ VẬT CHẤT NGÀNH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO

Ngày 25 tháng 5 năm 1993, UBND Tỉnh quyết định số 637/QĐ-UB giao cho Sở giáo dục quản lý ngân sách Giáo dục-đào tạo trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện để ngành chủ động và tăng cường hiệu quả quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trận lụt và bão thế kỷ tháng 11-1993 ập vào Phú Yên, riêng ngành giáo dục có 1.016 phòng học đã bị sập, nhiều sách vở, tài liệu và thiết bị khác bị cuốn trôi trị giá trên 20 tỷ đồng, 23 em học sinh bị chết. Khó khăn lại chồng chất, nhiều nơi học sinh phải học ca 3, ca 4. Toàn tỉnh đã dấy lên phong trào hành động cách mạng, cùng sự hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của bạn bè trong cả nước, ngành giáo dục Phú Yên đã nhanh chóng phục hồi và vững bước đi lên đạt kết quả tốt, được Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Bộ Giáo dục-đào tạo đánh giá cao.

Trong 4 năm, từ 1993 đến 1996, toàn tỉnh đã huy động được 44.811.870.000đ để xây dựng, tu sửa và 6.230.000.000đ để mua sắm trang thiết bị, sách tham khảo, đồ dùng dạy học trang bị cho các trường học. Trong đó, nguồn vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp và huy động nguồn vốn từ Xổ số kiến thiết là: 9.490.154.000đ, chiếm 21,2% tổng kinh phí đầu tư xây dựng toàn ngành. Chỉ mới tập trung xây dựng các trường mới như trường chuyên Lương Văn Chánh, trường Dạy nghề kinh tế kỹ thuật, trường Niềm Vui, trường THPT Phan Đình Phùng. Nguồn vốn xây dựng cơ bản chưa đầu tư xây dựng thêm phòng học do nhu cầu phát triển học sinh hàng năm và chưa đầu tư để nâng cấp các trường phổ thông hiện có. Nguồn vốn chương trình quốc gia về Giáo dục-đào tạo là 19.766.165.000đ, chiếm 44,1% tổng kinh phí đầu tư xây dựng toàn ngành. Nguồn vốn này đã đầu tư xây dựng được các trường Nội trú dân tộc tỉnh, trung tâm giáo dục thể chất và quốc phòng, trường Cao đẳng sư phạm. Ngoài ra còn phân phối về các địa phương, các trường để hỗ trợ, kích thích sự đóng góp của nhân dân và các nguồn kinh phí khác. Nhờ có sự hỗ trợ kinh phí của chương trình quốc gia nên trong những năm qua các địa phương đã huy động được sự đóng góp đáng kể của các nguồn kinh phí khác, góp phần làm cho bộ mặt nhà trường khang trang hơn, sáng sủa hơn. Nguồn kinh phí sự nghiệp, mặc dù nội dung chính của nguồn kinh phí này là dùng để chi lương, các khoản phụ cấp theo lương cho cán bộ, giáo viên và chi cho các họat động trong

158

Page 159: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nhà trường và các họat động chung trong toàn ngành, nhưng Sở giáo dục đã chỉ đạo các Phòng giáp dục, các trường tiết kiệm chi tiêu để đầu tư xây dựng, tu sửa, mua sắm tăng cường cơ sở vật chất trường học. Trong năm 2000, các trường trong tỉnh đã trang bị được 115 máy vi tính, 4 phòng LAB. Tất cả các trường đều tương đối đủ sách giáo khoa, sách tham khảo dành cho giáo viên. Hầu hết các trường Tiểu học đều được trang bị thiết bị đồng bộ; 2/3 số trường THCS và PTTH được trang bị bộ thí nghiệm lý -hóa -sinh, tranh ảnh phục vụ giảng dạy. Nguồn kinh phí do ngân sách huyện, xã hỗ trợ trong 4 năm được: 5.380.220.000đ, chiếm 12% tổng kinh phí đầu tư xây dựng toàn ngành, chủ yếu là ngân sách xã. Địa phương hỗ trợ nhiều nhất là huyện Tuy Hòa với tổng kinh phí là 4.054.000.000đ. Các huyện còn lại hỗ trợ được 1.326.220.000đ. Nguồn kinh phí này được sử dụng để xây dựng trường cao tầng như trường ở Hòa Thành, Hòa Bình 1, Hòa Bình 2, Hòa Kiến, Hòa Đồng, Hòa Quang và xây dựng phòng học cấp 4 để xóa ca 3, tu sửa nâng cấp các phòng học như các xã Hòa Tân Đông, Hòa Mỹ Đông, Hòa Phú, Hòa Hiệp Trung, Hòa Thắng, Hòa Định Đông, Bình Kiến, Hòa Trị, Xuân Lộc, Thị trấn Sông Cầu, Xuân Thọ 1, Xuân Thịnh, Xuân Phước, Xuân Quang 3, Xuân Sơn Nam, An Lĩnh, An Ninh Đông, Sơn Hòa, Cà Lúi… Nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp theo Quyết định 248 TTg trong 4 năm qua là: 4.517.665.000đ, chiếm 10,1% tổng số kinh phí đầu tư xây dựng toàn ngành. Nguồn kinh phí này cùng với các nguồn kinh phí của ngân sách huyện, xã, chương trình mục tiêu và kinh phí chi thường xuyên đã kịp thời sửa chữa các phòng học xuống cấp, xây dựng được một số trường cao tầng ở một số địa phương, góp phần làm cho bộ mặt nhà trường khang trang hơn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.

Từ năm 1993-1996, cả tỉnh xây dựng thêm được 707 phòng học bằng nguồn vốn sổ số kiến thiết, 531 phòng học khác bằng nguồn vốn huy động của nhân dân; Xây mới các loại phòng sinh hoạt, nhà vệ sinh, giếng nước… trị giá 1.987.000.0000; Xây mới 7.047m tường rào; Bêtông hóa 16.375m2 sân chơi; Tu sửa lớn và nâng cấp được 378 phòng; Tu sửa nhỏ 515 phòng; Đóng mới 38.719 ghế ngồi cho học sinh, 12.201 bộ bàn ghế cho giáo viên giảng dạy trên lớp và các phòng làm việc, 341 bảng đen, 375 tủ hồ sơ các loại; Mua sách và thiết bị đồ dùng dạy học trị giá 6.230.000.000đ; Mua sắm thiết bị văn phòng trị giá 1.708.286.000đ…

159

Page 160: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

VI. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, HỢP TÁC GIÁO DỤC

Về công tác nghiên cứu khoa học, năm học 1991-1992, Hội đồng khoa học của ngành giáo dục-đào tạo Phú Yên được thành lập. Các thành viên hội đồng gồm lãnh đạo Sở, các Trưởng phòng chuyên môn, Chủ tịch công đoàn Ngành và một số chuyên viên do Giám đốc Sở làm Chủ tịch. Quá trình hoạt động đã phối hợp với Công đoàn giáo dục phát động phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy rộng khắp trong toàn ngành từ cấp trường, phòng đến cấp sở. Xây dựng được hệ thống đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục cấp ngành phục vụ cho đổi mới giáo dục, triển khai các nghị quyết Trung ương về giáo dục (NQTW 4 khoá 7- NQTW 2 khoá VIII). Về phổ cập giáo dục tiểu học và xoá nạn mù chữ; về đề án xây dựng các loại trường đặc biệt, về xã hội hoá giáo dục. Các đề tài cấp ngành như “Trường nuôi- dạy trẻ em khuyết tật Phú Yên”, “Thực trạng và mô hình trung tâm giáo dục trẻ em mồ côi, lang thang, cơ nhỡ Phú Yên”, “xây dựng trường Cao đẳng- Đại học cộng đồng Phú Yên” do TS. Nguyễn Xuân Đàm chủ nhiệm; tiếp đến các đề tài cấp tỉnh: “nâng cao chất lượng dạy và học bậc tiểu học phục vụ chiến lược con người tỉnh Phú Yên” do Thạc sĩ Trần văn Chương làm chủ nhiệm; đề tài “đào tạo và bồi dưỡng học sinh năng khiếu” do thầy Lê Đức Công chủ nhiệm,…

Các hội nghị khoa học đã được tiến hành như về “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục”. Hội nghị khoa học: “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức- chính trị cho học sinh phổ thông trung học - 1998”. Phú Yên đăng cai các Hội nghị KH “Xã hội hoá giáo dục các tỉnh Tây Nguyên- miền Trung, miền Đông Nam bộ” do Bộ Giáo dục-Đào tạo và Công đoàn GD Việt Nam tổ chức (4-1995), “Nâng cao chất lượng giáo dục mầm non các tỉnh miền Trung” (4-1996).

Trong 10 năm, từ 1991 đến 2000, ngành giáo dục đã có trên 30 luận văn Thạc sĩ về các chuyên ngành Văn học, Toán, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Quản lý GD của giáo viên, cán bộ giáo dục…. Các luận văn đã được vận dụng trong việc nâng cao chất lượng công tác quản lý, giáo dục, giảng dạy và các lĩnh vực khoa học có liên quan.

Về quan hệ đối ngoại và hợp tác giáo dục, Hội nghị khoa học “Kỷ niệm 200 năm đại Cách mạng tư sản Pháp 1789-1989”, tổ chức tại trường CĐSP Nha Trang, có sự tham gia của Hội sử học Việt Nam, đại diện văn hóa Pháp ở Sài Gòn, hai

160

Page 161: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Giáo sư Sử học Trường đại học Paris gởi băng hình sang tham dự… Không khí hợp tác văn hóa giáo dục giữa Phú Khánh và Cộng hòa Pháp đã bắt đầu từ đó.

Ngay từ sau ngày tái lập tỉnh Phú Yên, mối quan hệ này được tiếp tục phát triển. Đại diện tổ chức Văn hóa Pháp ở Huế, ông Phi-lip-Ca-tơ-lanh hỗ trợ về vật chất, sách giáo khoa để mở lớp đào tạo giáo viên tiếng Pháp ở trường Sư phạm, cùng với chương trình hỗ trợ của phu nhân Tổng thống Pháp Phơ -Răng-xoa Mit-tơ-răng, mở các lớp tiếng Pháp miễn phí ban đêm, câu lạc bộ Hội hữu nghị Việt – Pháp cũng được thành lập.

Tháng 10-1993, Bộ giáo dục nước Cộng hòa Pháp mời Giám đốc sở Giáo dục-đào tạo Phú Yên sang tham quan và nghiên cứu về vấn đề đào tạo giáo viên, chương trình sách giáo khoa, giáo dục mẫu giáo, phổ thông và thanh tra của Pháp, ở trường Đại học Paris 7, Đại học Sư phạm Gronoble, Trung tâm giáo khoa, bồi dưỡng giáo viên tiếng Pháp, thanh tra viên … tiếp đến chuyến thăm Việt Nam và Phú Yên của Giáo sư TS. Comiti Claude - phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm tỉnh Gronoble vào tháng 2.1994 đã mở rộng thêm mối quan hệ hợp tác giáo dục Việt - Pháp. Đi đầu trong việc đào tạo - bồi dưỡng giáo viên tiếng Pháp là trường CĐSP Phú Yên mở khoa đào tạo giáo viên tiếng Pháp từ 1990 – 1997, 3 khóa đào tạo được 61 giáo viên THCS; liên kết ĐHSP Huế đào tạo chuyển tiếp 24 giáo viên tiếng Pháp THPT.

Từ năm học 1994-1995, việc giảng dạy tiếng Pháp mở rộng ở 6 huyện, thị và các cấp, đến năm học 1995-1996 đã có 1117 học sinh cấp tiểu học, với 33 lớp, 14 giáo viên tại 19/133 trường tiểu học, chiếm 1,5% số trường học. Ở cấp THCS, 2674 học sinh, với 70 lớp, 35 giáo viên tại 16/72 trường THCS: chiếm 22,2% số trường. Ở cấp THPT, 1.349 học sinh, 30 lớp, 10 giáo viên tại 7/19 trường chiếm 36,8% số trường PTTH. Tổng số học sinh tiếng Pháp các cấp 5.140 em với 133 lớp với 59 giáo viên.

Phú Yên là một trong 18 tỉnh trong cả nước tham gia “chương trình dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp” do tổ chức AUPLF thực hiện từ năm 1995-1996. Sự hợp tác giữa Bộ GD-ĐT Việt Nam và Bộ Giáo dục cộng hòa Pháp với 2 lộ trình. Lộ trình A: Học sinh được học tiếng Pháp từ lớp 1 ; lộ trình B: học sinh được học tiếng Pháp từ lớp 6. Nhờ có sự quản lý và viện trợ lương giáo viên, phương tiện dạy học nên chất lượng dạy học đạt tốt.

161

Page 162: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Đến năm học 1995-1996, Sở giáo dục Phú Yên là một trong 12 tỉnh đã phủ kín việc dạy ngoại ngữ trong nhà trường PTTH (tiếng Anh 90%, Tiếng Pháp 10%). Tuy chất lượng học ngoại ngữ chưa cao, song là một cố gắng và thành tích đáng ghi nhận. Đến năm học 2001-2002, học sinh Tốt nghiệp THPT không còn phải thi môn thay thế ngoại ngữ - và học sinh lớp 12 tiếng Pháp đầu tiên thi tốt nghiệp PTTH, 3 em học sinh giỏi tiếng Pháp được nước Cộng hòa Pháp cấp học bổng du học.

Sự viện trợ qua các tổ chức phi Chính phủ như chương trình ODA, qua các đại sứ quán Australia, tổ chức UNICEF, các tổ chức nhân đạo HEDO (giúp đỡ giáo dục miền núi) của Bộ giáo dục do TS Trịnh Ngọc Trình làm Giám đốc, Ủy ban 2 Hà Lan, Hội Huynh đệ Việt Nam tại Pháp, Hội người Việt tại CH Liên bang Đức, Tổ chức SAP – VN người Việt Nam tại Mỹ … các cá nhân Việt Kiều đã trợ cấp cho giáo viên học sinh gặp khó khăn trong thiên tai bão lụt, tặng học bổng cho học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, trang bị đồ dùng dạy học, xây cất trường lớp, bàn ghế ở vùng bão lụt, vùng đồng bào dân tộc… với số tiền lên đến 2.803.710.000 đồng Việt Nam, 102.000USD, và Tổng Bí thư Đỗ Mười tặng cho trường Niềm vui 1.300.000.000đ.

Nhờ có sự nhận thức đúng đắn về hoạt động hợp tác quốc tế trong giáo dục nên tuy mới là những hoạt động ban đầu, chưa có kinh nghiệm nhưng cũng đã đem lại những kết quả đáng trân trọng về ý nghĩa giáo dục, ý nghĩa quốc tế trước bối cảnh mở rộng giao lưu văn hóa, hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới.

** * *

Chủ trương tái lập tỉnh Phú Yên của TW đã phù hợp với thực tiễn yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội trong điều kiện mới, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, truyền thống tâm lý – văn hóa xã hội địa phương, mặc dù trong những ngày đầu, cũng như các ngành khác, ngành giáo dục và đào tạo gặp không ít khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, với tinh thần tự lực tự cường, lòng quyết tâm chấn hưng sự nghiệp giáo dục, với những thầy giáo dày dạn kinh nghiệm cùng với các bạn trẻ hăng hái nhiệt tình, toàn ngành cùng chung lòng, chung sức chỉ trong thời gian ngắn đã hình thành và ổn định được cơ quan đầu ngành là Sở Giáo dục và Đào tạo với đủ các Phòng, Ban đi vào hoạt động.

162

Page 163: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1- Thời kỳ củng cố tổ chức, mở rộng quy mô giáo dụcQuan tâm đầu tiên của lãnh đạo Ngành là xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức

cơ cấu, đồng bộ của toàn ngành. Hai đơn vị sư phạm được thống nhất thành Trường sư phạm Phú Yên làm nhiệm vụ đào tạo đủ giáo viên phục vụ cho việc phát triển tiểu học và trung học cơ sở.

Hệ thống các trường tiểu học, các trường phổ thông cơ sở, các lớp cấp 2 nhô, các trường cấp 1, 2 được mở rộng khắp nơi đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Đa dạng hóa các loại hình trường và củng cố các trường công lập, mở nhiều trường trung học bán công, thỏa mãn nhu cầu học lên cấp 3 của học sinh tốt nghiệp cấp 2, đồng thời mở trường và lớp Bổ túc văn hóa, lớp phổ cập giáo dục, lớp học tình thương, lớp linh hoạt, lớp chuyên đề sau XMC… đáp ứng nhu cầu học tập mọi lứa tuổi, mọi địa bàn… Các trường giáo dục đặc biệt như trường nuôi dạy trẻ em khuyết tật, trung tâm vòng tay ấm để giáo dục trẻ mồ côi, lang thang cơ nhỡ. Bên cạnh đó mở các trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp cấp tỉnh và huyện, trung tâm giáo dục thường xuyên.

Giáo dục miền núi hải đảo được đặc biệt quan tâm. Hệ thống trường nội trú dân tộc các huyện được củng cố, mở nội trú dân tộc tỉnh. Hệ thống các trường mầm non, nhà trẻ dân lập, tư nhân được quan tâm hỗ trợ thành lập.

2- Thời kỳ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện Trường tiểu học phấn đấu dạy học đủ 9 môn của chương trình đề ra. Trường

sư phạm đào tạo giáo viên Nhạc, Họa đáp ứng yêu cầu dạy môn Mỹ thuật, ca hát, hoạt động văn nghệ trong các trường tiểu học, THCS.

Xây dựng hệ thống các trường trọng điểm ở các cấp học. Trường PTTH chuyên Lương Văn Chánh được thành lập, được đầu tư toàn diện và trường đã làm tốt được vai trò của một trung tâm chất lượng cao.

Phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” được phát động, duy trì, trở thành nếp sinh hoạt thường xuyên. Các buổi thao giảng ở cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh, các cuộc triển lãm đồ dùng dạy học có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục.

Chú trọng thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho giáo viên các cấp. Kết quả học sinh Phú Yên thi học sinh giỏi ở bảng A đạt nhiều giải cao so với các tỉnh bạn. Có nhiều giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp

163

Page 164: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

quốc gia. Năm 1997, ngành Giáo dục Phú Yên được Bộ khen thưởng đạt 9/10 chỉ tiêu thi đua chất lượng của Bộ.

3. Thời kỳ phát động mở rộng phong trào học ngoại ngữ trong nhà trường, trong CBCNV và ngoài xã hội. Đào tạo bồi dưỡng mở rộng đội ngũ giáo viên Tiếng Anh, chuyển giáo viên Tiếng Nga sang học và dạy Tiếng Anh, đưa Tiếng Pháp vào nhà trường. Thực hiện chương trình dạy học Tiếng Pháp tăng cường ở cả cấp 1 và cấp 2.

Phú Yên là một trong số ít tỉnh phủ kín ngoại ngữ trong các trường cấp 2 từ năm 1996. Và đến năm 2001 là tỉnh không còn thí sinh thi môn thay thế trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học. Trung tâm ngoại ngữ của Sở GD-ĐT có tác động tốt trong việc phát động phong trào học Tiếng Anh sôi nổi trong CBCNV và nhân dân lao động.

4- Thời kỳ đưa nền dân trí tỉnh nhà bước qua ngưỡng cửa phổ cập tiểu học. Kiên trì tổ chức duy trì phong trào học xóa mù chữ, rộng khắp. Đông đảo nhân dân miền núi cũng như hải đảo ra lớp xóa mù. Toàn tỉnh được công nhận xóa mù chữ và phổ cập tiểu học vào năm 1998.

5- Thời kỳ củng cố và phát triển hệ thống các trường chuyên nghiệp và cao đẳng; lần lượt các trường trung học chuyên nghiệp được nâng cấp thành trường cao đẳng; trường CĐSP chuẩn bị các điều kiện để nâng lên thành trường đại học. Công tác đào tạo nhân lực được chú ý để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.

6- Công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế đã được chú ý và mang lại kết quả bước đầu khá tốt.

Nhìn lại phát triển giáo dục trong thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, đây là thời kỳ hoạt động giáo dục sôi nổi, có chiều sâu trên nhiều lĩnh vực, là thời kỳ giáo dục vừa được mở rộng qui mô, vừa nâng cao chất lượng toàn diện, vừa phát huy được hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Có thể nói, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã thực sự gắn chặt và thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đồng thời tạo được những bước phát triển mới, ghi những dấu son tốt đẹp để rồi mở ra những trang sử tươi sáng hơn cho giáo dục Phú Yên đầu thế kỷ XXI.

164

Page 165: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

CHƯƠNG VII GIÁO DỤC PHÚ YÊN - NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2001 - 2005)

I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO Năm học 2001-2002, năm học mở đầu của thế kỷ XXI, năm đầu tiên triển

khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XIII. Trong giai đoạn này, quan điểm phát triển giáo dục đã được Bộ Giáo dục-đào tạo xác định: phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục là nền tảng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đở người nghèo học tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài năng. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe và thẩm mỹ, phát triển được năng lực của cá nhân, đào tạo những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc lập và CNXH, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chiến lược phát triển giáo dục những năm 2001-2010 đã nêu một số chỉ tiêu cụ thể cho giai đoạn. Giai đoạn 2001-2005: Tăng tỷ lệ thu hút trẻ đến nhà trẻ và mẫu giáo tương ứng từ 12% và 50% năm 2000 lên 15% và 58% vào năm 2005; Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở 50% số tỉnh, thành phố vào năm 2005; Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005; Thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005; Thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005; Thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và học các chương trình dạy nghề bậc cao đạt 5% năm 2005. Mỗi tỉnh, thành phố có ít nhất một trường dạy nghề địa phương, mỗi quận, huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề. Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ

165

Page 166: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

118 năm 2000 lên 200 năm 2010.Tăng quy mô đào tạo thạc sỹ từ 11.700 học viên năm 2000 lên 38.000, nghiên cứu sinh từ 3.900 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010.

Phát huy những thành tựu đã đạt được giai đoạn trước, chiến lược phát triển giáo dục của tỉnh Phú Yên giai đoạn 2001-2005 xác định: Đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa tỉnh nhà. Mở rộng quy mô giáo dục-đào tạo đi đôi với coi trọng chất lượng và hiệu quả sử dụng. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh phổ thông. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành của học sinh. Đẩy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đi đôi với chống tái mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học, đặc biệt là tệ nạn ma túy. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường giáo dục về nhận thức chính trị, đạo đức phẩm chất, trách nhiệm và lương tâm của đội ngủ giáo viên. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ xở vật chất từng bước hiện đại hóa các điều kiên dạy học đến 2005 hoàn thành việc tách các bậc học. Củng cố các trường dạy nghề hiện có, khuyến khích phát triển trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục để tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo. Chuẩn bị điều kiện, nhất là đội ngũ giáo viên có trình độ sau đại học để trên cơ sở trường Cao đẳng sư phạm thành lập trường Đại học đa ngành. Có chính sách đào tạo cán bộ tại chỗ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ trên một số lĩnh vực, trước hết trong các ngành kinh tế, giáo dục. Thu hút, sử dụng con em địa phương đã đào tạo đại học chính quy. Tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục-đào tạo; củng cố hội đồng giáo dục và thành lập hội khuyến học các cấp.

Có thể xem đây là giai đoạn mà hệ thống giáo dục Phú Yên được xây dựng, củng cố và phát triển đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Giáo dục vùng sâu, vùng xa có những tiến bộ rõ rệt, trình độ dân trí đã được nâng lên một bước. Chủ trương xã hội hóa giáo dục được triển khai mạnh mẽ, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục của địa phương. Mạng lưới các cấp học, bậc học, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục được quan tâm đầu tư và bố trí hợp lý theo phân bố dân cư. Cơ sở vật chất kỹ thuật trường học được nâng cấp và cải thiện. Số trường lớp được xây dựng mới theo tiêu chuẩn quốc gia ngày càng tăng.

166

Page 167: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Về tổ chức quản lý, ngày 23 tháng 8 năm 2001, UBND tỉnh Phú Yên đã ban hành quyết định số 2369/2001/QĐ-UB, chuyển phòng Giáo dục-đào tạo huyện, thị xã từ Sở giáo dục-đào tạo về UBND huyện cùng cấp, theo đó phòng giáo dục-đào tạo là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thị xã. Phòng có tư cách pháp nhân, có khuôn dấu riêng và được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước huyện, thị xã. Căn cứ đề án số 901/ĐA, ngày 12/6/2001 của Sở Giáo dục-đào tạo, ngày 31 tháng 12 năm 2001 UBND tỉnh tiếp tục ban hành quyết định số 3921/2001/QĐ-UB phê duyệt đề án kiện toàn tổ chức và tinh giản biên chế Sở giáo dục-đào tạo. Theo quyết định, tổ chức bộ máy văn phòng Sở gồm:

- Phòng mầm non-tiểu học- Phòng trung học phổ thông- Phòng giáo dục thường xuyên và chuyên nghiệp- Phòng kế hoạch-tài chính- Phòng tổ chức cán bộ- Phòng Hành chính-tổng hợp- Thanh tra Sở- Ban quản lý dự án xây dựng cơ bản.Sở Giáo dục-đào tạo quản lý trực tiếp 32 đơn vị, trong đó gồm trường Cao

đẳng Sư phạm Phú Yên, 07 trường trung học phổ thông, 07 trường phổ thông cấp 2-3, trường trung học phổ thông chuyên Lương Văn Chánh, trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh, trường dạy trẻ khuyết tật (trường Niềm Vui), 05 trường trung học phổ thông bán công, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp tỉnh, trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh, trung tâm ngoại ngữ tại chức và 06 trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp huyện. Biên chế hành chính có 39 người và biên chế sự nghiệp giáo dục-đào tạo có 1.212 người. Về biên chế, trường trung học phổ thông công lập cho phép biên chế bộ máy quản lý 03, biên chế giáo viên, nhân viên cân đối trong chỉ tiêu biên chế tỉnh giao, tính theo định mức của Trung ương quy định để bố trí phù hợp.; trường trung học phổ thông bán công 04 biên chế cho bộ máy quản lý, giáo viên, nhân viên sử dụng nguồn học phí để trả lương; Trung tâm giáo dục thường xuyên 05 biên chế; Trung tâm giáo dục-kỹ thuật huyện bố trí 04 biên chế cho bọ máy và 10 biên chế giáo viên; Trung tâm giáo dục-kỹ thuật hướng nghiệp tỉnh bố trí 03 biên chế cho bọ máy quản lý và 32 biên chế giáo viên nhân viên;

167

Page 168: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trung tâm ngoại ngữ tại chức tỉnh là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo phương thức lấy thu bù chi không giao chỉ tiêu biên chế. Văn phòng Sở Giáo dục-đào tạo 39 biên chế. Biên chế hành chính, sự nghiệp của Sở Giáo dục-đào tạo sau khi thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP là: biên chế quản lý Nhà nước 30, biên chế sự nghiệp giáo dục-đào tạo 1.212. Hàng năm sẽ xem xét, bổ sung theo định mức của Trung ương trên cơ sở quy mô phát triển của ngành.

Giữa năm 2001, cô Nguyễn Thị Hoàng Lan, Phó Giám đốc Sở nghỉ hưu, UBND tỉnh quyết định bổ nhiệm thầy Nguyễn Văn Tá, Trưởng phòng tổ chức cán bộ làm Phó Giám đốc. Như vậy, trong giai đoạn 2001-2005, lãnh đạo Sở có 4 người, thầy Trần Văn Chương làm Giám đốc, thầy Lê Nhường, thầy Nguyễn Văn Tá và thầy Lê Đức Công làm phó Giám đốc (thầy Lê Đức Công trực tiếp làm Hiệu trưởng trường CĐSP Phú Yên). Số cán bộ cơ quan Sở có 55 người. Cũng vào cuối năm này (12/2001), cơ quan văn phòng Sở Giáo dục-đào tạo chuyển về làm việc tại cơ sở mới, số 56-Lê Duẩn, thị xã Tuy Hoà.

Sau năm học đầu tiên của thế kỷ XXI, năm học 2001-2002 mặc dù toàn ngành đã hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra, song cơn bão số 8 đã để lại hậu quả rất nặng nề đối với toàn ngành giáo dục-đào tạo (có 2 học sinh bị chết do bão và tổng thịêt hại về cơ sở vật chất trên 23 tỷ đồng). Quyết tâm vượt qua những khó khăn, phát huy những thành quả đã đạt được, năm học 2002-2003 ngành đã quyết định chọn là “Năm giáo dục Phú Yên”, năm học với sự nỗ lực vươn lên mở ra một thời kỳ mới đối với ngành Giáo dục-đào tạo Phú Yên. Với quan điểm tiếp tục chấn chỉnh nề nếp, kỷ cương; xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh; mở rộng quy mô giáo dục trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo; thực hiện đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp giáo dục ở các cấp học, bậc học; chăm lo phát triển giáo dục mầm non; củng cố thành quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tăng cường xã hội hoá giáo dục và thực hiện công bằng trong giáo dục; phát triển giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc và các địa bàn kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, tạo thêm cơ hội học tập cho mọi ngưồi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, góp phần xây dựng xã hội học tập. Đây cũng là năm học quyết định bỏ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học hàng năm mà chỉ lấy kết quả kiểm tra hai môn Toán và tiếng Việt làm cơ sở để xét tốt nghiệp đối với bậc học này.

168

Page 169: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Giai đoạn 2001-2005, ngành giáo dục-đào tạo quán triệt và triển khai một số nội dung quan trọng của Đảng, Nhà nước và của Ngành chỉ đạo thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên môn, chế độ chính sách và tổ chức biên chế của ngành như: Quyết định số 161/2002/TTg của Thủ tướng chính phủ và Thông tư liên ngành số 05 về phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn; Quyết định số 797 QĐ-UB ngày 12/4/2004 của UBND tỉnh Phú Yên ban hành đề án phát triển giáo dục mầm non tỉnh Phú Yên đến năm 2010. Chỉ thị 40 –CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và nâng cao chất lượng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Thông tư liên tịch số 21/TTLT ngày 23/7/2004 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục-đào tạo về hướng dẫn thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở địa phương…

Những năm 2001-2005, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi ra lớp năm sau cao hơn năm trước, chất lượng từng bước được cải thiện, tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần và tỷ lệ học sinh đổ tốt nghiệp các cấp học ngày càng tăng. Học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp quốc gia tăng lên. Đây là tiền đề thuận lợi cho việc phổ cập và giáo dục trung học cơ sở và đào tạo đội ngũ lao động, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh trong tương lai.

Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trực tiếp đứng lớp phát triển cả về số lượng và chất lượng, giáo viên luôn được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Đên năm 2005, toàn ngành có 14.186 người, bao gồm biên chế 11.470 người và hợp đồng 2.716 người. Trong đó số cán bộ, giáo viên, nhân viên thuộc UBND huyện, thị xã quản lý là 12.079 người và trực thuộc Sở Giáo dục-đào tạo quản lý là 2.107 người.

II. GIÁO DỤC MẦM NON VÀ PHỔ THÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2001-2005)

2.1. Phát triển giáo dục Mầm nonĐối với giáo dục Mầm non, Quyết định số 2500 QĐ-UB ngày 27/9/2000 của

UBND tỉnh Phú Yên về chính sách đối với giáo viên mầm non như một luồng không khí mới tác động mạnh mẽ đến tâm lý và đời sống của đội ngũ giáo viên mầm non. Bước vào năm học 2001-2002, bằng những biện pháp tích cực nhằm củng cố trường, lớp nhóm trẻ hiện có, tăng cường chỉ đạo, đầu tư trường công lập trọng

169

Page 170: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

điểm; chỉ đạo dạy kỹ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi người dân tộc… ngành học mầm non đã có những bước phát triển đáng kể. Bên cạnh các trường mầm non quốc lập như Hướng Dương (thị xã Tuy Hòa), Hoa Hồng (huyện Tuy Hòa), Hoa Mai (huyện Sông Hinh) có những trường mầm non dân lập đã nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ như mẫu giáo dân lập Hòa Trị, mẫu giáo dân lập Phường 4 (thị xã Tuy Hòa); một số giáo viên đạt thành tích xuất sắc trong dạy học như cô giáo Dương Thị Bạch Tuyết (trường mầm non Hướng Dương) cô Nguyễn Thị Út (trường mầm non Họa Mi)... Năm học 2002-2003, các trường mầm non phối hợp với ngành Y tế tổ chức hội thi “Nụ cười xinh của bé”, kết quả đạt giải nhất trường mầm non Sơn Ca (thị xã Tuy Hòa), giải nhì trường mầm non Họa Mi (huyện Tuy Hòa), giải ba trường mầm non Hòa Đồng (huyện Tuy Hòa). Tham gia dự thi cấp quốc gia tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, trường mầm non Sơn ca đạt giải nhì toàn đoàn trên 21 đoàn tham gia thuộc 30 tỉnh, thành phía Nam.

Căn cứ Quyết định số 161/2002/TTg của Thủ tướng chính phủ và Thông tư liên ngành số 05 về phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn, ngày 12/4/2004 của UBND tỉnh Phú Yên có Quyết định số 797 QĐ-UB ban hành đề án phát triển giáo dục mầm non tỉnh Phú Yên đến năm 2010. Theo đề án này đến năm 2010 hầu hết trẻ em trong toàn tỉnh đều được chăm sóc giáo dục bằng những hình thức thích hợp, theo hướng đa dạng hóa các loại hình mầm non. Với phương châm Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non.

Dưới sự chỉ đạo của ngành học, đến năm 2005 toàn tỉnh có 28.523 cháu, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 1,62%. Trong đó, cháu đến nhà trẻ bình quân mỗi năm tăng 6,23%. Tuy nhiên số trẻ trong độ tuổi 0-3 tuổi ra lớp còn thấp, nhất là vùng nông thôn, vùng, sâu vùng xa, miền núi. Dưới 3 tuổi đến nhà trẻ chiếm 6,01% dân số trong độ tuổi (tương đương 3.109 cháu/153 nhóm ), tỷ lệ thấp hơn so với bình quân chung cả nước (cả nước 8,6%), bình quân 20,3 cháu/nhóm trẻ. Tuy nhiên, đối với cháu mẫu giáo giai đoạn này tỷ lệ cháu đến lớp có chiều hướng tăng mỗi năm. Tỷ lệ trẻ 3-5 tuổi đến trường, lớp mẫu giáo đạt 52,5% dân số trong độ tuổi (tương đương 25.414 học sinh), tỷ lệ thấp hơn bình quân chung cả nước (cả nước 63.4ỷ lệ trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 98,3% so với độ tuổi(15.039 cháu), cao hơn so với bình quân chung cả nước (cả nước 85%), bình quân 22.85 học sinh/ lớp.

170

Page 171: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Với đội ngũ giáo viên, đến năm 2005 toàn tỉnh có 1.658 giáo viên, tăng bình quân 4,6%, trong đó, giáo viên mẫu giáo chiếm 87%, cô nuôi dạy trẻ chiếm 13%. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn chiếm 95,36%. Toàn tỉnh có 214 cô nuôi dạy trẻ, bình quân có 2,3 cô /nhóm trẻ (7,9 cháu/cô) và 1.444 giáo viên mẫu giáo, bình quân 1,2 cô /lớp .

Toàn tỉnh có 126 trường Mầm non và số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm 3,2% (4 trường). Trường lớp mẫu giáo ở trung tâm huyện, thị ngày càng phát triển, trường tăng bình quân 2,49%/năm, lớp tăng bình quân 4,1%/năm. Tuy nhiên, một số địa phương lớp mẫu giáo phải mượn phòng học tạm của các xã, hợp tác xã, các trường tiểu học. Phần lớn cơ sở vật chất mẫu giáo ở khu vực nông thôn, miền núi đều xuống cấp.

Tiếp tục duy trì và phát triển hệ thống giáo dục Mầm non với các loại hình trường, lớp phù hợp điều kiện từng vùng… Năm 2001, có 99/101 xã phường có trường lớp Mẫu giáo; 2 xã chưa có lớp Mẫu giáo là Ea Lâm và Phước Tân đã mở được lớp (cuối năm 2001), tăng 7 xã so với cuối năm học trước, phủ kín ngành học Mầm non trên toàn tỉnh. Hầu hết đơn vị trường Mầm non, nhà trẻ, Mẫu giáo thực hiện tốt theo trương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở các độ tuổi .

Sở Giáo dục-đào tạo đã chỉ đạo 100% trường lớp nhà trẻ, mẫu giáo thực hiện chương trình chăm sóc nuôi dạy trẻ do Bộ Giáo dục-đào tạo quy định. Từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy ở từng nhóm, lớp. Chuẩn bị tốt các tiết dạy, các hoạt động ngoài trời, lồng ghép hợp lý các nội dung giáo dục dinh dưỡng, dân số, luật an toàn giao thông... đồng thời chú ý rèn luyện các thao tác giữ gìn vệ sinh, hành vi lễ phép cho trẻ. Tỷ lệ bé khỏe, bé ngoan tiếp tục được giữ vững và nâng cao ở nhiều địa phương qua từng năm học. Đặc biệt, các huyện miền núi việc nuôi dạy trẻ có nhiều đổi mới, số lượng trẻ người dân tộc đi nhà trẻ hằng năm tăng dần. Chuyên đề phòng chống suy dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm đến các cơ sở giáo dục mầm non. Tham gia các trương trình, dự án với các ban ngành có liên quan: Dự án ngôn ngữ tư liệu cho trẻ khuyết tật do Ủy ban dân số-giáo dục-trẻ em tỉnh chủ dự án cùng với Trung tâm bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, giám sát chương trình suy dinh dưỡng quốc gia, phối hợp với ngành Y tế thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng… Sở Giáo dục-đào tạo đã chỉ đạo các trường chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật, trẻ khiếm thị, khiếm thính được nhận vào học tại trường Niềm Vui.

171

Page 172: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Năm học 2002-2003, Phú Yên đã giữ vững số lượng trường lớp mầm non, 100% đơn vị xã phường đều có trường mẫu giáo. Loại hình nhóm trẻ gia đình, lớp Mẫu giáo tư thục phát triển mạnh ở khu vực thị xã, thị trấn. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm 2,63%, trình độ chuyên môn của giáo viên Mần non được chú trọng, tỷ lệ GV đạt chuấn là 73,12% (Chỉ tiêu của Bộ đề ra cho các tỉnh là 60%).

Thực hiện quyết định số 979 QĐ/UB của UBND tỉnh, các trường, lớp mầm non công lập ở địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội phát triển chuyển sang loại hình trường bán công. Đồng thời chuyển các trường mầm non, mẫu giáo dân lập trước đây do hợp tác xã đầu tư sang loại hình trường công lập. Khuyến khích phát triển các loại hình trường lớp mầm non dân lập, tư thục ở thị xã, thị trấn, khu công nghiệp. Theo kế hoạch, năm học 2004-2005 chuyển 20 trường mầm non dân lập ở 20 xã đặc biệt khó khăn thành trường công lập; trong chương trình trình kiên cố hóa trường học mầm non, toàn tỉnh đã xây dựng được 150 phòng học, chiếm ½ tổng số phòng xây dựng thuộc đề án.

Về chế độ chính sách đối với giáo viên, thực hiện đúng tinh thần Quyết định 161/2002/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ đối với cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên Mầm non ở tất cả các loại hình trường lớp công lập, bán công, dân lập, tư thục. Triển khai chính sách cho giáo viên mầm non dân lập, bán công, dân lập, tư thục và giáo viên mầm non dân lập lớn tuổi nghỉ việc một lần hưởng chế độ 1 năm công tác bằng nửa tháng lương. Xét biên chế cho 261 CBQL, GV ngành học mầm non.. Toàn tỉnh có 13 trường Mầm non trọng điểm, trong đó 2 trường đạt chuẩn Quốc gia là trường Mầm non Sơn Ca thành phố Tuy Hòa và trường Mầm non Hoa Hồng ở Phú Lâm.

Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho CBQL, GV mầm non, sở Giáo dục-đào tạo giao trường CĐSP Phú Yên mở các lớp bồi dưỡng chuẩn hóa 9+3, 12+2; liên kết với trường ĐHSP TP HCM mở các lớp ĐH tại chức. Một số cán bộ quản lý được cử học trường Cao đẳng nhà trẻ mẫu giáo Trung ương 1, 2, 3 góp phần nâng cao chất lượng của ngành học.

Số lượng và cơ cấu giáo viên Mầm non (2001-2005)

TT Chỉ tiêu 2000-01 2001-02 2002-03 2003-04 2004-05

172

Page 173: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

1 Cô nuôi dạy trẻ 215 194 206 226 207- Công lập 109 109 111 113 111- Bán công 106 85 95 113 96

2 GV Mẫu giáo 1.002 1.053 1.097 1.166 1.228-Công lập 116 120 120 119 128-Bán công 886 933 977 1.047 1.100

2.2. Sự phát triển của các bậc học giáo dục phổ thông2.2.1. Giáo dục Tiểu họcĐối với giáo dục tiểu học, từ năm học 2001-2002 Sở Giáo dục đã chủ trương

tích cực đổi mới phương pháp dạy và học, triển khai giảm tải, tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ dạy và học (phòng học âm nhạc, mỹ thuật và phòng đọc); thực hiện dạy đủ 9 môn. Năm 2002 có 61 trường học ngoại ngữ, 64 trường học 2 buổi/ngày, đến năm 2003 có 85 trường học ngoại ngữ và 95 trường học hai buổi/ngày; ổn định việc dạy tiếng Pháp tăng cường ở các trường tiểu học Âu Cơ và Lạc Long Quân. Hầu hết các trường đều triển khai phong trào “xanh-sạch-đep”. Một chủ trương lớn của ngành trong năm học này là phát động phong trào “giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Với phong trào này, kỳ thi cấp tỉnh tổ chức vào cuối tháng 3/2002 đã đánh giá huyện Tuy Hòa là đơn vị xuất sắc nhất. Giải cá nhân học sinh xuất sắc thuộc về các em Võ Lâm Vân Anh (tiểu học An Chấn), Lê Lan Vy (tiểu học Âu Cơ) và Dương Xuân Vinh (tiểu học Sông Cầu 2). Giải cá nhân giáo viên xuất sắc là cô Phạm Thị Liên Triều (tiểu học số 2 Hòa Thành). Tại hội thi toàn quốc, thầy Nguyễn Hùng Hớn, trường tiểu học Âu Cơ là giáo viên lớn tuổi nhất đạt giải nhì.

Sở Giáo dục-đào tạo đã tích cự chỉ đạo việc xây dựng trường tiểu học chuẩn quốc gia bằng nhiều biện pháp: Hội thảo giữa huyện, xã, phòng giáo dục và nhà trường xây dựng cam kết trách nhiệm giữa lãnh đạo địa phương và ngành Giáo dục, đã có 25 trường được Bộ kiểm tra công nhận cho đến cuối năm học 2002-2003. Có 5 trường tiểu học phấn đấu xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2 (2001-2005) đó là tiểu học Lạc Long Quân, tiểu học La Hai 1, tiểu học Phú Lâm 1, tiểu học Hòa Vinh và tiểu học Hòa Trị 2.

Năm 2001 đến 2005 là giai đoạn mà số lượng học sinh tiểu học giảm mạnh, trung bình mỗi năm giảm vài nghìn học sinh. Từ 107,9 nghìn học sinh năm học

173

Page 174: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

2000-2001 còn 84,561 nghìn học sinh năm học 2005-2006. Tuy nhiên, tỷ lệ huy động học sinh đến lớp đúng độ tuổi đạt 106%, trong đó, tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 107%, cao hơn so với bình quân chung cả nước (cả nước 95%) bình quân 26 học sinh/lớp .

Từ việc sĩ số học sinh tiểu học hàng năm giảm dẫn đến đội ngũ giáo viên ngày càng dôi dư mà không thể khắc phục được, đến năm 2005 có 4.726 người, đạt tỷ lệ 1,46 giáo viên /lớp, trong ki đó tỷ lệ cho phép là 1,1 giáo viên /lớp. Tình trạng thừa thiếu cục bộ, do sự phân bổ giáo viên không đều giữa các vùng nhưng thiếu giáo viên thuộc các bộ môn âm nhạc, mỹ thuật, tin học và thể dục. Năm 2005, tỷ lệ giáo viên tiểu học đạt chuẩn và trên chuẩn là 98,33%, trong đó trên chuẩn là 44,41%.

Về quy mô trường lớp, đến năm 2005, toàn tỉnh có 159 trường Tiểu học và 1 trường dạy trẻ khuyết tật. Số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm 26,3% (42 trường). Trường tiểu học được phân bố ở các xã, phường, thị trấn, bình quân 1 đến 2 trường/đơn vị xã (phường, thị trấn). Ngành giáo dục đã phối hợp với các địa phương tách 58 trường tiểu học ra khỏi trường phổ thông cơ sở, hình thành các trường tiểu học và trung học cơ sở theo chủ trương của Bộ Giáo dục-đào tạo. Hầu hết các trường tiểu học đều có thư viện, phòng đọc, phòng giáo dục nghệ thuật, phòng đồ dùng dạy học, tuy chưa đồng bộ và đầy đủ nhất là ở vùng nông thôn và miền núi. Giáo dục tiểu học dạy đủ 9 môn học và từng bước nâng cao chất lượng các môn học, chú trọng chất lượng môn âm nhạc, mỹ thuật, giáo dục sức khỏe.Vừa nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường tiểu học miền núi, vùng khó khăn, đồng thời chỉ đạo giáo viên soạn giảng theo chương trình và theo nội dung giảm tải của Bộ Giáo dục-đào tạo, các trường đều tổ chức học tập quán triệt Thông tư 15/GD-ĐT của Bộ về việc kiểm tra đánh giá phân loại học sinh theo 5 chuẩn quốc gia.

Nhìn chung bậc giáo dục tiểu học trong giai đoạn này có những bước phát triển vững chắc và thuận lợi từ tác động của việc triển khai dự án “Phát triển giáo viên tiểu học” với các nội dung: đánh giá thí điểm chuẩn nghề nghiệp cho 2.100 giáo viên tiểu học ở 79 trường trong 8 huyện, thị xã; bồi dưỡng cho 1.400 giáo viên đang dạy lớp 1, lớp 2 (MBD1,MBD2); bồi dưỡng đổi mới công tác quản lý giáo dục tiểu học (MBD11) cho 97 hiệu trưởng tiểu học và cán bộ quản lí tại các phòng giáo

174

Page 175: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

dục huyện, thị xã; tuyển sinh đào tạo liên thông từ trung học sư phạm lên cao đẳng sư phạm cho 549 giáo viên tiểu học.

Số lượng và cơ cấu giáo viên Tiểu học (2001-2005)

TT Chỉ tiêu 2000-01 2001-02 2002-03 2003-04 2004-05 2005-06GV Tiểu học 4.131 4.476 4.714 4.740 4.799 4.726

2.2.2. Giáo dục Trung học cơ sở Thực hiện phân cấp quản lý, từ năm 2001 trường trung học cơ sở và phổ

thông cơ sở do UBND huyện, thị xã quản lý, trường phổ thông cấp 2-3 do Sở Giáo dục-đào tạo trực tiếp quản lý. Có thể thấy rõ năm học 2001-2002, số lượng học sinh trung học cơ sở toàn tỉnh phát triển ổn định, đến năm 2005 có 73.756 học sinh, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường trung học cơ sở là 93,6% cao hơn so với bình quân chung cả nước (cả nước 80%).

Công tác chỉ đạo đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học và phong trào học sinh giỏi đối với bậc học này đã được lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo quan tâm sâu sát. Việc tổ chức các kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 được tổ chức hàng năm. Kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh được chia làm 2 bảng (Bảng A: huyện Tuy Hòa và thị xã Tuy Hòa, Bảng B: các huyện còn lại).

Năm học 2001-2002, Hội thi nghiệp vụ Sư phạm cấp tỉnh bậc trung học cơ sở được tổ chức có 121 giáo viên của 8 phòng giáo dục huyện, thị xã và 5 trường phổ thông cấp 2-3 tham gia thi ở 3 nội dung: trắc nghiệm kiến thức về giáo dục-đào tạo; sáng kiến kinh nghiệm về làm và sử dụng đồ dùng dạy học; tổ chức 1 tiết dạy trên lớp theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập cuả học sinh. Qua đó, Sở giáo dục-đào tạo đã chỉ đạo các trường học phát huy những mặt tích cực, đồng thời rút kinh nghiệm những tồn tại để từ đó tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy - học trong những năm học sắp tới .

Về đội ngũ, đến năm 2005 có 3.931 giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 98,77% trong đó trên chuẩn là 26,53%. Số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm 9,8% (9 trường). Phong trào kiên cố hóa trường học trung học cơ sở theo mô hình Nhà Nước và nhân dân cùng làm và phát triển mạnh, góp phần làm cho cơ sở vật chất ngày càng tốt hơn, Phú Hòa là một trong những địa phương thực hiện tốt phong trào này. Giai đoạn 2001-2005, số lượng trường tăng bình quân 6,7%/năm,

175

Page 176: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

lớp học tăng bình quân 5,9%. Cuối năm 2005, toàn tỉnh có 4 trường phổ thông cấp 2-3 và 23 trường Trung học cơ sở.

Số lượng và cơ cấu giáo viên THCS (2001-2005)

Chỉ tiêu 2000-01 2001-02 2002-03 2003-04 2004-05 2005-06GV THCS 2.586 2.890 3.490 3.570 3.855 3.931

2.2.3.Giáo dục Trung học phổ thông Đối với bậc trung học phổ thông, từ năm học 2001-2002 Sở Giáo dục-đào

tạo tiếp tục chỉ đạo phát triển quy mô trường, lớp. Ngày 7/2/2002, trường phổ thông cấp 2-3 Xuân Phước, huyện Đồng Xuân được thành lập. Tháng 9 năm 2003, trường THPT Trần Suyền, huyện Phú Hòa được thành lập; ngày 24/10/2003, tách trường phổ thông cấp 2-3 Sông Hinh để thành lập trường THPT Nguyễn Du và tách trường phổ thông cấp 2-3 Phan Bội Châu để thành lập trường THPT Phan Bội Châu và trường THCS; ngày 21/11/2005, tiếp tục thành lập trường THPT Nguyễn Văn Linh, huyện Đông Hòa. Như vậy đến cuối năm 2005 toàn tỉnh đã có 27 trường THPT.

Năm học 2001-2002 là năm thứ 2 toàn ngành tiếp tục triển khai đề án cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng tích cực hoạt động học tập, phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực tự học của học sinh, khắc phục dần tình trạng dạy học theo phương pháp dạy cũ. Sử dụng các thiết bị hiện có và làm thêm đồ dùng dạy học, tăng cường thực hành thí nghiệm minh họa bài dạy. Phần lớn các trường tổ chức thực hiện đầy đủ các tiết thực hành môn vật lý, hóa học và sinh học.

Giai đoạn này số lượng học sinh trung học phổ thông tăng nhanh, đây là điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo đội ngũ lao động và phát triển nhân lực của tỉnh. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường. Tính đến 2005 là 56,3%, cao hơn so với bình quân chung cả nước (cả nước 45%). Riêng số học sinh tuyển vào lớp 10 đạt 70,76% so với học sinh tốt nghiệp THCS năm học trước, bình quân 44,1 học sinh /lớp. Đội ngũ giáo viên đến năm 2005 toàn tỉnh có 1.494 người, tỷ lệ giáo viên/lớp đạt 2,09 (theo quy định là 2,1 giáo viên /lớp); tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 99.1% trong đó trên chuẩn là 4,7%.

Trong công tác chỉ đạo chuyên môn, đây là giai đoạn mà lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo tăng cường chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, chấn chỉnh việc sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học hiện có và tự làm, quan tâm đến xây dựng phương

176

Page 177: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

pháp học tập bộ môn và tự học của học sinh. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy nghề phổ thông, tin học, bố trí cho học sinh đã học chương trình ngoại ngữ 4 năm ở trung học cơ sở tiếp tục học ngoịa ngữ hệ 7 năm ở trung học phổ thông. Qua đó việc tổ chức hội giảng cấp trường, cấp huyện và phong trào dự giờ thăm lớp trong các trường trung học phổ thông đã được quan tâm triển khai thường xuyên nên chất lượng dạy và học có nhiều chuyển biến tích cực. Nhiều đơn vị tiến hành tổ chức thao giảng, cải tiến phương pháp dạy và học, bước đầu đạt được những kết quả cao. Các trường trung học cũng đã phối hợp chặt chẽ với các Trung tâm kỹ thuật tổng hơp-hướng nghiệp trong việc tư vấn nghề và dạy nghề phổ thông cho học sinh. Vì thế hầu hết học sinh khối lớp 9 và lớp 12 đều được tham gia các buổi sinh hoạt hướng nghiệp.

Năm học 2004-2005, lần đầu tiên sở Giáo dục-đào tạo tổ chức hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh bậc trung học phổ thông với chuyên đề soạn giảng giáo án điện tử. Có 154 tiết dạy của 25/26 trường tham gia, kết quả hội giảng có 135 tiết được xếp loại tốt tỷ lệ 87,7%, 19 tiết xếp loại khá tỷ lệ 12,3%. Các trường trung học phổ thông chuyên Lương Văn Chánh, trung học phổ thông Lê Trung Kiên, Ngô Gia Tự, Nguyễn Huệ, Nguyễn Trãi, Phan Đình Phùng… đã có nhiều cố gắng chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng tạo sự hấp dẫn và hứng thú học tập đối với học sinh. Nhiều giáo viên ở thị xã Tuy Hòa và huyện Tuy Hòa cũng đã đi tiên phong qua 41 tiết dạy lớp 8 với giáo án điện tử.

Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, Sở Giáo dục-đào tạo rất chú trọng đến công tác tổ chức thi và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi các cấp từ cơ sở đến tỉnh. Năm 2001 toàn tỉnh có 520 học sinh dự thi học sinh giỏi các cấp. Số học sinh đạt giải cấp tỉnh: 258 em, qua đó tuyển chọn được 10 đội tuyển gồm 71 học sinh tham gia dự thi chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia.

Với quyết tâm giành thành tích cao và cũng để học tập kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo Phú Yên đã cử thầy Nguyễn Văn Thưởng đưa đoàn gồm 15 học sinh có điểm thi cao nhất ở tất cả các môn dự thi ra bồi dưỡng ở trường Trung học phổ thông chuyên Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian 1 tháng. Kết quả năm đó đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 tỉnh Phú Yên đạt được 32 giải, trong đó có 3 giải nhì, 15 giải ba và 14 giải khuyến khích. Từ trước đến thời điểm này, đây là năm Phú Yên có số học sinh

177

Page 178: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

giỏi lớp 12 đạt giải quốc gia nhiều nhất; em Phan Thành Nam, học sinh lớp 11 chuyên Toán của trường chuyên Lương Văn Chánh được Bộ Giáo dục-đào tạo cơ cấu vào đội dự tuyển Quốc gia chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi Quốc tế năm 2002. Năm 2002 toàn tỉnh có 705 học sinh dự thi học sinh giỏi các cấp. Số học sinh đạt giải cấp tỉnh; 323, tỉ lệ : 45,8%, trong đó có 6 giải nhất, 28 giải nhì, 104 giải ba, 183 giải khuyến khích; tuyển chọn được 10 đội tuyển/10 môn học, gồm 76 HS tham gia dự thi chọn HS giỏi quốc gia. Kết quả kỳ thi đội tuyển học sinh giỏi Phú Yên đã xuất sắc đạt 48 giải, trong đó đặc biệt có 1 giải nhất, 3 giải nhì, 19 giải ba và 25 giải khuyến khích. Em Đào Trung Uyên, học sinh lớp 12 trường trung học phổ thông Nguyễn Huệ là học sinh đầu tiên của tỉnh Phú Yên đạt giải nhất môn ngữ văn, giải nhì môn vật lý thuộc về em Lê Hoàng Duy, học sinh lớp 11 trường chuyên Lương Văn Chánh, 2 giải nhì môn hoá học đều là học sinh trường chuyên Lương Văn Chánh đó là em Nguyễn Thị Quỳnh Như, học sinh lớp 11 và em Dương Chí Tuyến, học sinh lớp 12. Trong tổng số 48 HS đạt giải, học sinh trường chuyên Lương Văn Chánh có 40 giải, trường Ngô Gia Tự 1 giải, trường Trần Quốc Tuấn 1 giải, trường Lê Hồng Phong 1 giải và trường Trần Phú 1 giải. Năm học 2003-2004 đội tuyển Phú Yên có 39 học sinh đạt giải, trong đó học sinh trường chuyên Lương Văn Chánh có 33 giải, trường Nguyễn Huệ 2 giải, trường Lê Hồng Phong 1 giải, trường Ngô Gia Tự 1 giải, Lê Trung Kiên 1 giải và trường phổ thông cấp 2-3 Sơn Thành 1 giải. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm học 2004-2005, Phú Yên có 76 em dự thi, kết quả có 47 học sinh đạt giải, trong đó, 4 giải nhất, 4 giải nhì, 20 giả ba và 19 giải khuyến khích.

Ngoài ra trường trung học phổ thông chuyên Lương Văn Chánh còn đạt nhiều giải cao và thứ hạng cao trong các kỳ thi học sinh giỏi Olimpic truyền thống tổ chức tại các tỉnh phía Nam hàng năm. Năm 2003, trường đã xuất sắc xếp vị thứ 7/88 đoàn tham gia dự thi từ tỉnh Quảng Trị trở vào. Đoàn có 32/39 em đoạt giải, trong đó có 12 huy chương vàng, 12 huy chương bạc và 8 huy chương đồng. Năm 2004 trường xếp vị thứ 6/91 đoàn tham gia dự thi. có 39 em đoạt giải gồm: 13 huy chương vàng, 16 huy chương bạc và 10 huy chương đồng. Em Trần Thanh Phong, học sinh lớp 11 đạt thủ khoa môn Toán (20/20/điểm). Đây cũng là năm đầu tiên trường trung học phổ thông dân lập Duy Tân cử 3 học sinh lớp 10 tham gia dự thi và đã đạt được 1 huy chưong vàng, 1 huy chương bạc môn Toán.

178

Page 179: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Giai đoạn này chất lượng giáo dục trung học phổ thông mỗi năm một nâng cao. Có thể chứng minh điều đó qua kết quả tốt nghiệp trung học phổ thong hàng năm như sau: năm học 2000-2001: 85,81%, năm học 2001-2002: 77,37%, năm học 2002-2003: 89,45%, năm học 2003-2004: 98,45%, năm học 2004-2005: 98,45%.

Số lượng và cơ cấu giáo viên THPT (2001-2005)

Chỉ tiêu 2000-01 2001-02 2002-03 2003-04 2004-05GV THPT 811 923 1.254 1.285 1.358- Công lập 811 923 1.254 945 1.004- Bán công 0 0 0 340 354

2.3. Giáo dục miền núi và học sinh dân tộc

Năm 2001 hệ thống trường, lớp ở miền núi Phú Yên dần được củng cố và phát triển, 04 trường phổ thông Dân tộc nội trú gồm trường trung học phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh và 03 trường trung học cơ sở Dân tộc nội trú ở các huyện Sơn Hòa, Đồng Xuân và Sông Hinh.

Nhằm đào tạo và giảng dạy cho học sinh dân tộc để tạo nguồn cán bộ tại chỗ, có 03 trường trung học cơ sở nội trú dân nuôi ở Sơn Hội, EaChàrang (huyện Sơn Hoà) và ở Tân Lập (huyện Sông Hinh); 33 trường tiểu học của 29 xã vùng đồng bào dân tộc; 100% xã miền núi có trường tiểu học và lớp mẫu giáo.

Năm học 2001-2002, toàn tỉnh Phú Yên có 9227 học sinh dân tộc ở miền núi, tăng gần 1000 học sinh so với năm học 2000-2001, trong đó: mẫu giáo: 697 học sinh; tiểu học, trung học cơ sở: 1440 học sinh và trung học phổ thông: 212 học sinh. Hệ thống các trường phổ thông Dân tộc nội trú và các trường nội trú dân nuôi từng bước được đầu tư hoàn chỉnh. Các đơn vị đều thực hiện kỷ cương, nền nếp trong hoạt động dạy và học. Tuy nhiên, về cơ sở vật chất, chất lượng của đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục toàn diện vẫn còn chuyển biến chậm, thiếu đồng bộ. Năm học 2002-2003, Phú Yên có 29/101 xã phường thị trấn có học sinh người dân tộc, mỗi xã miền núi của tỉnh đều có trường tiểu học, các bản, buôn đều có lớp.

Ngành Giáo dục-đào tạo rất quan tâm công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng và đời sống sinh hoạt của học sinh dân tộc ở các trường nội trú, bán trú. Chế độ, chính sách cho cán bộ, giáo viên đang công tác tại các trường miền núi, học sinh dân tộc các trường nội trú, bán trú đã ban hành giúp cho giáo viên an tâm công tác, học sinh

179

Page 180: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

an tâm học tập. Ngoài ra, các chế độ hỗ trợ kinh phí cho học sinh các trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh, huyện: 30.000đ/tháng/học sinh; cho các trường bán trú dân nuôi 100,000đ/tháng/học sinh và hỗ trợ chi phí đi lại cho sinh viên Phú Yên là người dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường cao đẳng, đại học trong cả nước60.

Lãnh đạo của các trường phổ thông Dân tộc mội trú cùng tập thể giáo viên đã rất cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục cho con em học sinh người dân tộc miền núi. Mặc dù số lượng lớp học ở các trường không nhiều (khoảng 6-7 lớp) nhưng cán bộ quản lý cũng như giáo viên không ngừng nâng cao trình độ, tổ chức hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao, tạo nguồn lao động có trình độ cho khu vực miền núi của tỉnh.

Năm 2003, UBND tỉnh Phú Yên ban hành quy định về các chế độ hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số đang theo học tại các trường bán trú nuôi ở các huyện miền núi là 30.000đ/tháng/học sinh. Riêng huyện Đồng Xuân, UBND huyện đã trợ cấp thêm mỗi em 50.000đ/tháng. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng học sinh được nhà trường hết sức quan tâm. Chế độ học bổng của học sinh đảm bảo, thực hiện đầy đủ. Sức khỏe của học sinh được bộ phận y tế chăm sóc tốt.Các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao ở các trường phổ thông Dân tộc nội trú phát triển rất mạnh. Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh có nhà tập đa chức năng góp phần năng cao giáo dục thể chất toàn diện cho học sinh.

Về cơ sở vật chất, trang thiết bị ở các trường cơ bản đáp ứng được nhu cầu giảng dạy và học tập cũng như nhu cầu ăn, ở cho học sinh. Các trường đều đảm bảo số phòng học, phòng ở, phòng ăn, thư viện, phòng thí nghiệm, đồ dung dạy học.

Năm 2004, tổng số học sinh người dân tộc là 12.207 học sinh, tăng hơn so với cuối năm học trước 929 học sinh (tỷ lệ tăng 8,2%), trong đó: nhà trẻ, mẫu giáo: 1.778 cháu; tiểu học: 7.232 học sinh, trung học cơ sở: 2.637 học sinh; trung học phổ thông: 499 học sinh. Đến năm 2005, tổng số học sinh người dân tộc là 12.874 em, tăng so cuối năm học trước là 667 học sinh. Một số học sinh trung học cơ sở người dân tộc ở các xã khó khăn được tổ chức học tại các trường bán trú dân nuôi của ba huyện miền núi. Tại huyện Đồng Xuân, mở 1 lớp 10 riêng cho học sinh người dân tộc trong trường trung học phổ thông Lê Lợi. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn

60 Quyết định số :1289/2002/QĐ-UB, ngày 13/5/2002 của UBND tỉnh Phú Yên 180

Page 181: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

diện, phần lớn học sinh tại các trường phổ thông Dân tộc nội trú được học 2 buổi ngày theo quy định của Bộ.

III. GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN VÀ GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP Giáo dục chuyên nghiệp trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến tích cực.

Quan hệ phối hợp, quản lý và chỉ đạo giữa Sở Giáo dục-đào tạo với hệ thống các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh ngày càng có hiệu quả. Công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đến các lớp bổ túc văn hóa đều thực hiện đúng qui định. Ngay từ năm học 2001-2002, lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo đã chú trọng tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp; việc tổ chức thi tốt nghiệp nghề phổ thông tại các trung tâm cũng được cải tiến bằng cách sử dụng bộ đề chung; việc tổ chức thi chứng chỉ trình độ A,B tin học, ngoại ngữ cũng đã đi vào nề nếp đúng qui chế.

Năm 2002, tham gia quản lý về mặt Nhà nước của Sở Giáo dục-đào tạo đối với hệ thống các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh ngày càng chặt chẽ hơn. Các trường chuyên nghiệp trong quá trình giảng dạy đã gắn với các đơn vị sản xuất để tổ chức cho học viên tham quan học tập, kiến tập, thực hành rèn luyện tay nghề. Trường Cao đẳng xây dựng số 3, Trung học công nghiệp kỹ thuật Tuy Hòa đã làm tốt việc gắn công tác đào tạo với việc sử dụng sinh viên ra trường.

Về công tác Giáo dục thường xuyên, năm 2002 các đơn vị được giao nhiệm vụ đào tạo hệ không chính quy đã chủ động mở các lớp bổ túc văn hoá, tin học, ngoại ngữ, liên kết đào tạo các lớp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và được xã hội đồng tình ủng hộ. Tháng 12-2002, UBND tỉnh Phú Yên quyết định thành lập Trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp huyện Phú Hoà.

Năm 2003 các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp bắt đầu thực hiện đổi mới công tác tuyển sinh và việc ra đề thi theo đúng qui định mới của Bộ Giáo dục-đào tạo. Tháng 5-2003, Sở Giáo dục-đào tạo tổ chức Hội giảng giáo viên dạy giỏi khối trung học chuyên nghiệp và dạy nghề lần thứ 3 tại trường Trung học kỹ thuật công nghiệp Tuy Hòa, có 28 giáo viên tham gia chia làm 2 bảng. Kết quả bảng A khối các trường chuyên nghiệp có 01 giáo viên dạy giỏi, 13 giải nhì, 01 giải ba. Bảng B khối các trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp có 01 giáo viên dạy giỏi, 03 giải nhì, 06 giải ba và 02 giải khuyến khích.

181

Page 182: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Năm 2004, triển khai thực hiện chỉ đạo của Bộ Giáo dục-đào tạo về tăng cường quản lý về tuyển sinh và đào tạo đối với hệ đào tạo không chính quy, tiếp tục ổn định quy hoạch đào tạo không chính quy trên địa bàn tỉnh. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo không chính quy, đặc biệt là ở các hệ đào tạo cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Giữ vững quy mô và mở rộng thêm một số ngành đào tạo từ xa.

Cũng trong thời gian này Sở Giáo dục-đào tạo tiếp tục xem xét và tổ chức các đơn vị mở lớp đào tạo ngoại ngữ và tin học trình độ A, B kể cả các cơ sở tư nhân, có ưu tiên cho các địa bàn khó khăn. Quản lý và kiểm tra việc dạy đủ và đúng chương trình đối với từng hệ đào tạo, cải tiến tổ chức thi cử đúng quy chế, nghiêm túc và thuận lợi cho học viên. Mở rộng các hình thức học ngoại ngữ và tin học (học theo trường, lớp, tự học), tạo sự liên thông giữa các loại chương trình để người học có thể bổ sung kiến thức và tham gia dự thi khi có đủ trình độ. Học sinh cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có đăng ký với Sở Giáo dục-đào tạo và có học thêm một số đơn vị kiến thức quy định sẻ được dự thi lấy chứng chỉ A ngoại ngữ và tin học.

Trong năm 2005 Sở Giáo dục-đào tạo đã tổ chức hai hoạt động phong trào dành cho khối các trường cao đẳng-trung cấp chuyên nghiệp-dạy nghề gồm: Hội thi an toàn giao thông và Hội thi tiếng hát sinh viên học sinh.

Công tác phát triển Trung tâm học tập cộng đồng trong thời gian này cũng được các địa phương hết sức quan tâm. Năm học 2004-2005 có 40% số xã, phường có Trung tâm học tập cộng đồng. Năm 2005, Hội khuyến học Tỉnh Phú Yên cũng được thành lập do ông Nguyễn Duy Luân, nguyên ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên bí thư tỉnh ủy làm chủ tịch danh dự, ông Lê Văn Hữu nguyên chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh làm Chủ tịch đã đi vào hoạt chính thức. Hội khuyến học tập trung vào 2 nhiệm vụ chính: khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động giáo dục trong nhà trường chính qui; vận động nhân dân tham gia vào các hình thức học tập không chính qui nhằm mục tiêu giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời, nhất là đối với người lớn để tiến tới một xã hội học tập trong nền văn minh hiện đại. Phù hợp với yêu cầu của thời đại nguyện vọng của nhân dân nên Hội đã nhanh chóng phát triển và mang lại những hiệu quả thiết thực. Đến nay, Hội đã phát triển được 827 chi Hội có đến 53.676 Hội viên. Đặc biệt, là Hội tích cực vận động xây dựng “Gia đình hiếu học” “Họ tộc khuyến học”, phát triển quỹ khuyến học khuyến tài, phối hợp với Sở giáo dục đào tạo xây dựng các Trung tâm học tập cộng đồng. Các Hội

182

Page 183: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

đoàn tự nguyện của quần chúng như Hội thầy trò Lương Văn Chánh, Hội cựu học sinh Trung học Phú Yên và rộng rãi hơn là Hội cha mẹ học sinh ở tất cả các đơn vị trường học đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển nền giáo dục của nước nhà trên con đường hiện đại hóa.

Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 50 trung tâm học tập cộng đồng. Các huyện Đông Hòa, Tây Hòa và Đồng Xuân đã có 100% xã, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng. Dù mới bước đầu hình thành, song các trung tâm học tập cộng đồng ở nhiều địa phương đã phát huy tích cực, hiệu quả, thể hiện được sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương và sự phối hợp chặt chẽ của ngành Giáo dục-đào tạo. Tháng 4-2005 ngành Giáo dục-đào tạo đã phối hợp với Hội khuyến học tỉnh tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm xây dựng và phát triển Trung tâm học tập cộng đồng và bàn kế hoạch tiếp tục thành lập các trung tâm mới cho những địa phương còn lại.

IV. PHỔ CẬP GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Thực hiện chỉ thị số 61-CT/TW ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị, Nghị

quyết số 41/2000/QG10 của Quốc hội khóa X, UBND tỉnh Phú Yên đã tham mưu Tỉnh ủy xây dựng chương trình hành động số 05-Ctr/TU ngày 26/7/2001 về thực hiện chỉ thị số 61-CT/TW của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII về thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Xây dựng đề án phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2007 và được UBND tỉnh phê duyệt tại Nghị quyết số 27/2001/NQ-HĐND trong kỳ họp lần thứ 7 từ ngày 17 đến 19/7/2001.

Ngày 11/5/2000, UBND tỉnh ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục trung học cơ sở cấp tỉnh với 18 thành viên do đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban, thầy Trần Văn Chương - Giám đốc Sở Giáo dục-đào tạo làm phó trưởng ban thường trực. Các thành viên được phân công các nhiệm vụ khác nhau bao gồm lãnh đạo các ngành Tài chính, kế hoạch đầu tư, Lao động thương binh-xã hội, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban tổ chức chính quyền tỉnh, Liên đoàn lao động, Hội cựu chiến binh, Tỉnh Đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân. Đến ngày 14/9/2001, UBND tỉnh ra quyết định số 2602/QĐ-UB ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Để đẩy mạnh công tác này, lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 24/2004/CT-UB ngày 23/9/2004 về việc tiếp tục tăng cường

183

Page 184: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

công tác phổ cập giáo dục phổ thông. Theo đó ban chỉ đạo phổ cập giáo dục tiểu học, ban chỉ đạo phổ cập giáo dục trung học cơ sở được thống nhất ở các cấp thành ban chỉ đạo phổ cập giáo dục phổ thông, việc thống nhất này đã giúp UBND các cấp chỉ đạo tập trung hơn.

Sau khi đề án phổ cập giáo dục trung học cơ sở được ban hành, UBND tỉnh ra quyết định số 1514/QĐ-UB ngày 31/5/2001 quy định tạm thời định mức chi cho công tác phổ cập gồm 250.000đ/hs/lớp/năm. Đến tháng 5 năm 2005 UBND tỉnh ra quyết định số 1146/2005/QĐ-UB tăng mức chi là 500.000đ/hs/lớp/năm cho các đối tượng khu vực đồng bằng và 600.000đ/hs/lớp/năm cho các đối tượng miền núi. Tổng hợp kinh phí chi phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong những năm này như sau: năm 2001: 400 triệu, năm 2002: 509 triệu, năm 2003: 695 triệu, năm 2004: 695 triệu và năm 2005: 700 triệu đồng.

Trên cơ sở kết quả cuộc tổng điều tra phổ cập giáo dục Trung học cơ sở tháng 2-2000, Ban chỉ đạo tỉnh đã xây dựng đề án phổ cập giáo dục Trung học cơ sở giai đoạn 2000-2005, có 87/101 xã, phường, thị trấn và 4 huyện Tuy Hòa, Tuy An, Đồng Xuân, Sông Cầu và thị xã Tuy Hòa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.

Năm 2002 hướng dẫn kiểm tra kết quả phổ cập giáo dục trung học cơ sở 61. Tháng 12-2003, Phú Yên đã có 2 huyện, thị xã và 65 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về PCGD THCS và 14 xã tiếp tục phấn đấu đạt chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, định mức kinh phí nhà nước cấp cho công tác này còn thấp, việc huy động học viên người dân tộc ra lớp gặp khó khăn. Tỷ lệ học sinh bỏ học ở các vùng biển, vùng núi còn nhiều.

Năm 2004, ngành giáo dục Phú Yên có những giải pháp cụ thể để thực hiện Phổ cập giáo dục THCS cấp huyện, thị xã, phường đúng theo qui định, trong đó chú ý đến lãnh đạo các trường PT cấp 2,3 trên địa bàn. Phòng giáo dục các huyện, thị tiếp tục huy động toàn xã hội cùng tham gia công tác phổ cập giáo dục THCS như Đoàn thanh niên tổ chức chiến dịch “Ánh sáng văn hóa hè”, Hội phụ nữ, Hội nông dân… tham gia huy động học sinh chưa hoàn thành cấp học đến các lớp bổ túc THCS; hội cựu chiến binh, lực lượng vũ trang bảo đảm trạt tự các lớp học BTVH ban đêm, bộ đội biên phòng (thầy giáo mang quân hàm xanh) tổ chức các lớp phổ cập trên địa bàn đóng quân…Tháng 12-2004, toàn tỉnh có 78/104 xã, phường, thị 61 Căn cứ Quyết định số 26/QĐ-BGD&ĐT ngày 5 tháng 7 năm 2001 và hướng dẫn số 6170/THPT ngày 18/7/2002 của bộ GD&ĐT.

184

Page 185: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

trấn, 3/8 huyện, thị xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng thêm 1 huyện và 13 xã.

Nhờ phối hợp tốt giữa nhà trường, gia đình và xã hội, ban chỉ đạo phổ cập các cấp đã tích cực huy động nhiều học sinh bỏ học, học sinh diện khó khăn ra các lớp không chính quy, các lớp bổ túc trung học cơ sở ban đêm. Có thể nói đây là biện pháp rất quan trọng để toàn tỉnh có thể hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Số học viên được huy động ra các lớp bổ túc trong các năm như sau: năm 2001có 221 lớp/4.145 học viên; năm 2002 có 195 lớp/3.855 học viên, năm 2003 có 227 lớp/4.941 học viên; năm 2005 có 231 lớp/5.021 học viên.

Xác định phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi là nhiệm vụ quan trọng trong mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở nên lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo đã tập trung chỉ đạo thống nhất mục tiêu trong nhiệm vụ chung. Đi đôi với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, ban chỉ đạo phổ cập giáo dục các cấp đã có những biện pháp thích hợp đảm bảo mục tiêu kế hoạch thực hiện từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đối với những vùng khó khăn (vùng sâu, vùng xa, miền núi) tỉnh đã có sự lựa chọn ưu tiên trong quá trình phổ cập, đầu tư kinh phí có trọng điểm, tổ chức mạng lưới trường lớp thích hợp để thu hút trẻ trong độ tuổi đến trường, đồng thời đa dạng hóa các hình thức học tập tạo điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học, đặc biệt chú ý trẻ em ở lứa tuổi “tiền học đường”, mẫu giáo 5 tuổi chuẩn bị vào lớp 1. Tính đến cuối năm 2005 đã có 7/9 huyện, thị xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở gồm: - Thị xã Tuy Hòa (đạt chuẩn 12/2002) - Huyện Tây Hòa (tách ra từ huyện Tuy Hòa, đạt chuẩn 12/2003) - Huyện Đông Hòa (tách ra từ huyện Tuy Hòa, đạt chuẩn 12/2003) - Huyện Phú Hòa, đạt chuẩn 12/2004 - Huyện Đồng Xuân, đạt chuẩn 12/2005 - Huyện Sông Cầu, đạt chuẩn 12/2005 - Huyện Tuy An, đạt chuẩn 12/2005. Toàn tỉnh có 94/106 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (Thị xã Tuy Hòa 14/14, Đông Hòa 10/10, Tây Hòa 11/11, Phú Hòa 8/8, Đồng Xuân 10/11, Tuy An 15/16, Sông Cầu 10/11, Sông Hinh 07/11, Sơn Hòa 07/14).

185

Page 186: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

V. CÔNG TÁC AN NINH TRẬT TỰ TRƯỜNG HỌC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH

Trong giai đoạn 2001-2005, mô hình “trường-phường” được các đơn vị trường học đẩy mạnh một bước. Phương châm phối hợp giữa các lực lượng trong nhà trường, gia đình và xã hội trong việc xây dựng an ninh trật tự trường học góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh được Sở Giáo dục-đào tạo hết sức quan tâm. Sở Giáo dục đã chọn 8 đơn vị trường học và 2 huyện để làm điểm là trường trung học phổ thông Nguyễn Huệ, Trần Quốc Tuấn, Phan Đình Phùng, Lê Hồng Phong, cấp 2-3 Sơn Thành, Phan Bội Châu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, phòng Giáo dục-đào tạo huyện Tuy Hòa và huyện Sông Cầu.

Các chuyên đề về phòng chống tệ nạn xã hội xâm nhập trường học như ma túy, phòng chống HIV/AIDS được triển khai với nhiều hình thức phong phú đã có tác động giáo dục đạo đức cho học sinh. Chú trọng tăng cường trật tự kỷ cương, củng cố nề nếp, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phấn đấu để mọi hoạt động của nhà trường đều có tác dụng giáo dục đạo đức sâu sắc đối với học sinh, sinh viên; tiếp tục xây dựng các tập thể sư phạm nhà trường mẫu mực và các tập thể học sinh-sinh viên tiên tiến, giỏi toàn diện. Nhiều trường học đã tích cực ngăn ngừa, phòng chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm xâm nhập trường học. Hầu hết cán bộ, giáo viên nhân viên và học sinh có ý thức cao trong việc chấp hành kỷ luật, tôn trọng và giữ gìn an ninh trường học, an toàn giao thông, trật tự đô thị, xây dựng môi trường “Xanh - Sạch - Đẹp”. Điển hình trong phong trào này là các trường: Tiểu học Xuân Phước, huyện Đồng Xuân; trung học phổ thông Nguyễn Huệ; trung học cơ sở Hùng Vương; trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Sơn Hòa.

Công tác Hội và phong trào “Thanh thiếu niên Chữ thập đỏ” trong các trường học của tỉnh Phú Yên trong năm 2001-2002 bắt đầu phát triển. Tổng số hội viên chữ thập đỏ (Đội thanh niên xung kích trường học) là 58.131 hội viên/209 trường học. Đây là lực lượng nòng cốt trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng lối sống cho học sinh. Nhiều trường đã tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt truyền thống, quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục môi trường tạo một bước chuyển biến về thái độ và hành vi đối với học sinh. Triển khai nội dung chương trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên qua các môn sinh học, địa lý, giáo dục công dân; tổ chức tốt buổi sinh hoạt ngoại khóa về an toàn giao thông và các tác dụng giáo dục ý

186

Page 187: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

thức chấp hành Luật giao thông trong học sinh. Nhiều trường học đã phát huy vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đội thiếu niên tiền phong, đội thanh niên xung kích trường học trong công tác tự quản học tập và tổ chức ca múa hát tập thể theo các bài hát qui định, phong trào chữ thập đỏ, an toàn giao thông, xây dựng phong trào Đoàn, Đội vững mạnh.

VI. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ CHUẨN HOÁ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

Để nâng cao trình độ giáo viên các cấp, công tác đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên các cấp được lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo hết sức quan tâm. Năm 2001, trường CĐSP Phú Yên thực hiện nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa 33 lớp cho 432 giáo viên mầm non, 128 giáo viên tiểu học, 572 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm tiểu học, 90 giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm thể dục, âm nhạc, mỹ thuật. Liên kết với Đại học sư phạm Qui Nhơn đào tạo 60 giáo viên có trình độ cử nhân giáo dục tiểu học, 140 giáo viên có trình độ đại học sư phạm ngành vật lý và lịch sử. Liên kết với ĐHSP Hà Nội mở 1 lớp cử nhân Quản lý giáo dục cho 83 cán bộ. Bồi dưỡng cho 78 cán bộ trường Tiểu học. Đào tạo 96 học viên làm công tác thư viện có trình độ trung cấp. Liên kết với trường ĐHSP Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh đào tạo ĐHSP Kỹ Thuật cho 146 cán bộ giáo viên và học sinh. Ngoài ra, Sở Giáo dục-đào tạo còn cử 26 cán bộ, giáo viên dự thi Cao học (thi đỗ 23); gần 500 giáo viên tham gia học đại học tại chức và từ xa.

Một trong những hoạt động tích cực, nhạy bén của lãnh đạo Sở Giáo dục-đào tạo Phú Yên về phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ cao đáp ứng yêu cầu giáo dục thời kỳ đổi mới và hội nhập. Thực hiện đúng theo định hướng phát triển chung của tỉnh, từ năm 2001, Sở Giáo dục-đào tạo đã xây dựng chính sách hỗ trợ kinh phí đối với những cán bộ, giáo viên đi học thạc sĩ, tiến sĩ. Đến năm 2005 toàn ngành đã có hơn 80 cán bộ giáo viên có trình độ thạc sĩ, 11 cán bộ, giáo viên đang nghiên cứu sinh. Chủ trương này thực hiện ở Phú Yên sớm hơn các tỉnh khác trong khu vực miền Trung và Tây nguyên.

Đặc biệt, ngày 15 tháng 6 năm 2004, Bộ chính trị BCHTW Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW về “xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt

187

Page 188: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

chú trong nâng cao bản lĩnh chính trị, bản chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Triển khai Chỉ thị này, toàn ngành đã tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và đội ngũ nhà giáo một cách mạnh mẽ và có chất lượng hơn. Sở Giáo dục-đào tạo liên kết với trường đại học sư phạm Hà Nội mở hai lớp cử nhân quản lý giáo dục cho hầu hết cán bộ quản lý cấp trường, phòng giáo dục và Sở Giáo dục-đào tạo. hàng trăm cán bộ quản lý và giáo viên được cử đào tạo thạc sỹ và nghiên cứu sinh trong giai đoạn này.

VII. PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤCCác Phòng giáo dục, các đơn vị trực thuộc Sở phối hợp với Ban Tuyên giáo

các huyện tổ chức quán triệt kịp thời và triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đến cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, sinh viên. Trong các năm học (2001-2005), Trường CĐSP, Phòng Giáo dục-đào tạo huyện Tuy Hòa, trường THPT Lương Văn Chánh là những đơn vị làm tốt công tác phát triển Đảng trong giáo viên, học sinh, sinh viên.

Trong năm học 2000-2001, toàn ngành đã kết nạp được 225 đảng viên, nâng tổng số đảng viên lên 1.627 đồng chí, chiếm tỷ lệ 14,57% tổng số cán bộ, giáo viên toàn ngành. Công tác phát triển Đảng trong Đoàn viên học sinh, sinh viên được tiếp tục được chú trọng. Từ năm 1997-2005, có 23 Đoàn viên học sinh, sinh viên của các trường CĐSP, phổ thông DTNT tỉnh, trường chuyên Lương Văn Chánh được đứng vào hàng ngũ của Đảng CSVN. Đây là những học sinh, sinh viên có nhiều thành tích xuất sắc trong học tập và rèn luyện, tu dưỡng chính trị, đạo đức, hội đủ những yêu cầu cần có của một người Đảng viên. Một số đơn vị làm tốt công tác xây dựng Đảng như ngành GD-ĐT huyện Sơn Hòa, đảng viên chiếm 18,8% tổng số cán bộ, giáo viên. Huyện Tuy An 15,8%, huyện Đồng Xuân 14,3%, thị xã Tuy Hòa 13,7%.

Năm 2002, thực hiện chỉ thị 34CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 09- NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy Đảng ngành GD&ĐT phối hợp với các huyện, Thị ủy, Đảng ủy Dân chính Đảng tiếp tục trú trọng tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ công chức, công tác xây dựng , củng cố tổ chức cơ sở Đảng và phát triển Đảng viên trong trường học. Trong năm học đã kết

188

Page 189: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

nạp được 228 Đảng viên mới, nâng tổng số Đảng viên toàn ngành lên 1.855, đạt tỷ lệ 13,46% so với tổng số cán bộ , công chức của ngành. Toàn ngành có 2 Đảng bộ, 185 chi bộ và chi bộ sinh hoạt ghép với các địa phương.

Đến cuối năm học 2003, toàn ngành được kết nạp được 360 Đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên lên 2.163 đồng chí, chiếm tỷ lệ 16,37% so với tổng số cán bộ, công chức trong ngành. Những đơn vị làm tốt công tác phát triển Đảng trong cán bộ, giáo viên, nhân viên trường THPT Lê Hồng Phong, THPT Nguyễn Huệ THPT Lê Thành Phương, THPT Lê Lợi, THPT Nguyễn Du, PGD huyện Tuy Hòa… Đến cuối năm học 2004, toàn ngành đã nạp được 313 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên lên 2.492 đồng chí, chiếm tỷ lệ 17,92% so với tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên toàn ngành (tăng hơn năm trước: 1,55%). Trong thời gian 5 năm từ 2001 đến 2005 toàn ngành đã kết nạp được 1294 đảng viên nâng tỷ lệ sơ đảng viên trong cán bộ công chức toàn ngành là 20,2%.

* * *Đây là giai đoạn nhận thức của xã hội về vai trò của sự nghiệp giáo dục

trong thời kỳ đổi mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng đầy đủ hơn. Đại bộ phận nhân dân trong tỉnh có tinh thần hiếu học, đã tổ chức được nhiều quỹ khuyến học ở các làng xã, họ tộc nhằm giúp đỡ động viên con em nâng cao tinh thần học tập. Thực hiện tốt chủ trương đa dạng hóa các loại hình giáo dục và nguồn kinh phí, huy động toàn xã hội cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Giai đoạn này hệ thống giáo dục quốc dân đã được củng cố và phát triển khá toàn diện, hình thành các loại hình trường lớp công lập, bán công, dân lập có bản đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng đều khắp trên tất cả các địa bàn. Cơ sở vật chất được tăng cường, nhiều trường học được xây dựng mới, khang trang. Chất lượng giáo dục-đào tạo cũng được nâng cao, tỷ lệ huy động học sinh đến lớp đúng đọ tuổi ngày càng tăng, học sinh lưu ban, bỏ học giữa chừng giảm, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp cao, nhiều học sinh đạt gải cao trong các kỳ thi gọc sinh giỏi cấp quốc gia. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành giáo dục cũng được quan tâm đúng mức, số lượng giáo viên và cán bộ quản lý có trình độ chuẩn và trên chuẩn đạt trên 97%.

189

Page 190: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Trong giai đoạn này, lĩnh vực đào tạo nghề cũng phát triển cả về quy mô và chất lượng, cung cấp được phần lớn lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 14,05% năm 2000 lên 23,5% năm 2005. Nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề, cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị dạy nghề được cải thiện một bước; công tác xã hội hóa dạy nghề cũng được mở rộng; đào tạo nghề theo modul được áp dụng, giảm đáng kể thời gian học nghề cho người lao động.

190

Page 191: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

KẾT LUẬN

Thời gian 60 năm (1945-2005) của ngành giáo dục là một quá trình đấu tranh, bảo vệ và xây dựng, phát triển, một giai đoạn lịch sử hào hùng và vô cùng oanh liệt. Sự nghiệp giáo dục cả nước nói chung, giáo dục Phú Yên nói riêng đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình đấu tranh gìn giữ và phát triển đất nước.

Tinh thần hiếu học của dân tộc ta được khẳng định từ sớm và bừng sáng lên sau lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” tháng 8 năm 1945. Nhân dân cả nước vừa kiên cường chiến đấu để bảo vệ nhà nước cộng hòa non trẻ vừa quyết tâm xây dựng nền giáo dục dân chủ nhân dân.

Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ thử thách của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với phương châm “ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” nền giáo dục Phú Yên đã lập nên những thành tích đáng tự hào không chỉ đào tạo nên những thế hệ công dân, những chiến sĩ kiên cường chiến đấu hy sinh cho công cuộc giải phóng đất nước mà còn chuẩn bị đội ngũ công nhân, cán bộ có trình độ để quản lý xã hội, phát triển kinh tế.

Từ năm 1975, đất nước thống nhất. Trong giai đoạn 15 năm hợp nhất hai tỉnh, giáo dục Phú Khánh bước vào giai đoạn phát triển mới. Tỉnh Phú Khánh đã phát triển giáo dục các cấp lên một bước mới, xóa bỏ nền giáo dục nô dịch của chế độ cũ, xây dựng một nền giáo dục cách mạng, đổi mới toàn diện thốn nhất trong cả nước.

Sau khi tái lập tỉnh Phú Yên từ năm 1989, trước bối cảnh của đất nước từng ngày đổi mới, với tinh thần chấn hưng, giáo dục Phú Yên đã biết kế thừa những thành quả đã đạt được, nhanh chóng củng cố và vượt lên tiến kịp các tỉnh bạn trong cả nước.

Những năm đầu của thế kỷ XXI (2000-2005), Phú Yên đã có một vị thế nhất định, bên cạnh các ngành khác, ngành giáo dục phát triển tương đối mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội. Tuy chưa đạt mức phát triển bền vững nhưng đã hiển hiện những tiềm năng và triển vọng lớn. Trong những thành tựu về văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật vừa qua của toàn tỉnh, giáo dục được đánh giá như một nét đặc sắc, một thành công khá toàn diện:

1- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý Nhà nước, ngành giáo dục tỉnh Phú Yên đã thực hiện đúng những quan điểm, đường lối chiến lược, mục tiêu, nguyên lí,

191

Page 192: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

phương châm về giáo dục do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đề ra qua các thời kỳ cách mạng.

Toàn ngành đã đoàn kết nhất trí vượt mọi khó khăn, thực hiện một cách chủ động và sáng tạo, năng động và có hiệu quả qua 3 cuộc cải cách giáo dục (1950,1956,1979) và công cuộc đổi mới hiện nay đưa nền giáo dục tỉnh có được diện mạo và vị thế nhất định trong cả nước.

2. Giáo dục Phú Yên từng bước xây dựng được một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ về cơ cấu các ngành học, đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung, rộng lớn về qui mô, phủ kín khắp các địa bàn trong tỉnh từ thành phố đến nông thôn, từ miền núi dến hải đảo nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân.

3. Về nhiệm vụ đào tạo nhân lực đã được quan tâm hơn từ ngày tái lập tỉnh. Hệ thống trường chuyên nghiệp được hình thành gồm các trường dạy nghề, trung học, Cao đẳng chuyên nghiệp của Trung ương và địa phương. Các trường Trung cấp dần được nâng lên thành trường Cao đẳng, từng bước dáp ứng nhu cầu đội ngũ công nhân cán bộ khoa hoc kỹ thuật cho sự phát triển công, nông nghiệp, du lịch ở địa phương và vùng miền. Việc chuẩn bị hình thành một trường Đại học đa ngành của tỉnh cũng được xúc tiến.

Vấn đề đào tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ngày càng bức xúc đòi hỏi sự đầu tư lớn về ngân sách, cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên và có sự liên kết chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương.

4. Về chất lượng, ngành giáo dục và đào tạo đã theo sát và đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp giáo dục Phú Yên là một tỉnh hàng đầu trong liên khu V, có tác dộng tích cực trong công cuộc xây dựng đời sống mới, trong lao động sản xuất, trong chiến đấu bảo vệ vùng tự do, là hậu phương lớn, cung ứng nhân tài vật lực cho công cuộc kháng chiến ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngành giáo dục Phú Yên là một mặt trận chiến đấu ác liệt, thầy và trò đã chiến đấu kiên cường trên mặt trận quân sự và chính trị, góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hòa bình lập lại, toàn ngành giáo dục Phú Yên sánh bước cùng xây dựng và phát triển sự nghiệp đổi mới đất nước.

192

Page 193: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

Tuy chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các vùng, song học sinh Phú Yên vẫn nổi tiếng là cần cù, siêng năng, học giỏi và hạnh kiểm tốt. Học sinh trường Chuyên Lương Văn Chánh, trường Nguyễn Huệ… qua các thời kỳ vẫn nêu cao truyền thống yêu nước, học giỏi kính thầy, mến bạn. Các em đạt nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi Toàn quốc, Olimpic khu vực, và thi tuyển vào Đại học.

Trong xu thế hội nhập quốc tế, sự giao lưu giữa các nền văn hóa giáo dục, yêu cầu chất lượng giáo dục, chất lượng đạo đức, chính trị ở nhà trường ngày càng cao hơn. Nhà trường phải là vườn ươm mầm non dân tộc, nhân tài thời đại, đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc.

5. Cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên là nhân tố quyết định cho những thành tựu của nền giáo dục. Đội ngũ giáo giới Phú Yên hình thành sớm, tập hợp nhiều thế hệ, nhiều nguồn đào tạo, nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Tất cả với tinh thần đoàn kết, lương tâm nghề nghiệp, gắn bó trong công đoàn giáo dục, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong nghề nghiệp tạo ra những thành quả mà nhân dân ngưỡng mộ. Noi gương các nhà giáo tiền bối cách mạng, nhất là lớp nhà giáo qua 2 cuộc kháng chiến đã anh dũng kiên cường vừa tham gia kháng chiến vừa kiến quốc để tạo ra thế hệ tiếp nối thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ hòa bình và đổi mới. Nếu so với mấy chục thầy giáo thời Pháp thuôc, vài trăm giáo viên thời kháng chiến chống Pháp thì con số trên 1 vạn giáo viên các cấp trong đó hàng trăm giáo viên có trình độ thạc sỹ vào năm 2005 và tiến sĩ thì thật là một bước tiến khổng lồ. Cùng với chính sách ưu đãi về lương, phụ cấp nghề nghiệp, sự tôn vinh của nhân dân sẽ là động lực cho giáo viên phấn đấu vươn lên.

6. Công tác quản lý giáo dục có nhiều tiến bộ cùng với sự phát triển của công tác quản lý hành chính nhà nước. Ngành giáo dục có hệ thống trường học với quy mô lớn, hàng trăm đơn vị của các cấp học, hàng vạn giáo viên, hàng chục vạn học sinh với nội dung quản lý rất đa dạng và phức tạp. Qua các thời kỳ phát triển bộ máy quản lý ngành dần được định hình và củng cố, những non yếu được khắc phục. Các cán bộ quản lý giáo dục ở Sở, Phòng được tuyển chọn từ những giáo viên giỏi về chuyên môn, được bồi dưỡng về quản lý nên công tác ngày càng có hiệu quả.

Nâng cao nhận thức và hoạt động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân về vị trí vai trò của Giáo dục-đào tạo trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Ngành giáo dục đã xây dựng được mối liên hệ

193

Page 194: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

và quan hệ ngày càng tốt giữa nhà trường-gia đình-xã hội, hình thành được môi trường giáo dục lành mạnh đem lại hiệu quả thiết thực không những cho việc giáo dục học sinh trong nhà trường và cả đời sống văn hoá trong xã hội.

Ngành giáo dục-đào tạo đã biết dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở vật chất trường học, chăm lo đời sống cho giáo viên nhất là hệ thống trường mầm non, bán công, dân lập, … cùng với Nhà nước phát triển một nền giáo dục trên quy mô lớn.

7. Quán triệt quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, các cấp ủy Đảng và chính quyền đã quan tâm đến việc đầu tư ngân sách và cơ sở vật chất, tăng cường xây dựng thiết bị hiện đại cho trường học để phù hợp với bước tiến giáo dục thời đổi mới. Phong trào thi đua “Học thật tốt”, ”Dạy thật tốt” vẫn được duy trì và phát triển liên tục trong tất cả các bậc học, cấp học từ ngành học mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp và cao đẳng. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên từng bước khá vững chắc và đã xuất hiện nhiều cá nhân, tập thể đơn vị giáo dục tiêu biểu. Một mốc son trong lịch sử giáo dục Phú Yên là tháng 12/1998 Phú Yên được Nhà nước công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học và xoá nạn mù chữ. Phú Yên về đích trước 2 năm so với mốc của cả nước. Từ đây nền dân trí của tỉnh đã bước qua khỏi ngưỡng cửa đầu tiên của nền học vấn để bước tiếp lên bậc cao hơn của một nền giáo dục quốc dân, văn minh và hiện đại trong thế kỷ XXI.

Tuy Phú Yên vẫn còn ở tình trạng một tỉnh nghèo, nhiều thiên tai bão lụt giáo dục cũng gặp nhiều khó khăn, song so với tình tình chung cả nước, giáo dục Phú Yên cho đến thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI vẫn được đánh giá là một tỉnh có nền giáo dục phát triển vào loại tốt, toàn diện.

Những thành tựu giáo dục và đào tạo đã góp phần xứng đáng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, làm đổi mới bộ mặt văn hoá xã hội của tỉnh. Trên cơ sở chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Phú Yên đã có chính sách sử dụng, bổ nhiệm nhân lực được đào tạo chính quy, có chất lượng cao, có chính sách hợp tình hợp lý để đổi mới và nâng cao chất lượng trong bộ máy Nhà nước và các cơ sở doanh nghiệp sẽ kích thích công tác đào tạo và tự đào tạo.

Trải qua chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển, nền giáo dục cách mạng Phú Yên đã có những bước tiến đáng kể, tạo đà cho từng giai đoạn phát triển chung của toàn xã hội. Sau những lần cải cách giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của các ngành khác, giáo dục Phú Yên ghi lại những dấu ấn của thắng

194

Page 195: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

lợi với bao thành tích đáng tự hào trên nhiều phương diện, góp phần tích cực vào sự nhiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Đảng bộ và nhân dân Phú Yên đã xây dựng một nền giáo dục mới cùng cả nước thực hiện tốt quá trình đổi mới của đất nước với một hệ thống trường lớp hoàn chỉnh, đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập; tạo nguồn cán bộ, giáo viên đạt cả về chất lượng và số lượng; có cơ sở vật chất ngày càng đầy đủ, khang trang và hiện đại.

Xuyên suốt chiều dài của lịch sử đương đại, nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại, nhà giáo dục lỗi lạc Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh bằng những hoạt động thực tiễn của mình đã biến những ham muốn tột bực là “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành’, bằng cuộc vận động cách mạng “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, giặc ngoại xâm”, đã làm cho dân tộc ta từ một dân tộc yếu trở thành một dân tộc thông thái đứng vào hàng ngũ của các dân tộc tiên tiến trên thế giới. 60 năm, tuy phải qua mấy cuộc chiến tranh tàn khốc nhưng đã hình thành được một nền dân trí phát triển, một đội ngũ nhân lực ngày càng đa dạng phong phú từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, một đội ngũ trí thức với trình độ cao Thạc sĩ, Tiến sĩ… ở hầu hết các ngành Khoa học kỹ thuật hiện đại. Đó là vốn quí, là tài sản vô giá cần được tập hợp và sử dụng cho sự phồn vinh của quê hương nói riêng, đất nước nói chung.

195

Page 196: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

TÀI LIỆU THAM KHẢOI. Sách, Tạp chí

1. Đào Duy Anh : Việt Nam Văn hóa sử cương, tái bản NXB Đồng Tháp 1998.2. Nguyễn Thế Anh: Vài nét về giáo dục Việt Nam từ sau Đại chiến thế giới thứ nhất đến

trước Cách mạng Tháng Tám, Tạp chí NCLS, số 102, 1967.3. Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên: Phú Yên kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 –

1954). Ban Tuyên giáo, 1994.4. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945).

Ban tuyên giáo, 1999. 5. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên: Lịch sử Phú Yên kháng chiến chống Mỹ cứu

nước (1954 -1975). Ban Tuyên giáo, 1996.6. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung Ương: Chủ tịch Hồ Chí Minh - NXB Sự thật-

Hà Nội 1975.7. Bộ giáo dục và Đào tạo: 50 năm phát triển của sự nghiệp GD và ĐT 1945-1995,

Bộ Giáo dục xuất bản, 1995.8. Phan Huy Chú: Lịch triền hiến chương loại chí, Bản dịch Nxb Sử học, 1961.

9. Nguyễn Đình Cầm, Trần Sĩ: Địa dư tỉnh Phú Yên. Imprime Rie Quynhơn, 1937.10. Cao Xuân Dục: Quốc triều hương khoa lục, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993.11. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán: "Tỉnh Phú Yên”, Đại Nam nhất

thống chí, tập 10, Bộ Quốc gia Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, 1964.12. Đảng bộ Huyện Sông Cầu: Lịch sử đấu tranh Cách mạng của Đảng bộ và nhân

dân Huyện Sông Cầu 1930 – 1975. Huyện ủy Sông Cầu, 2001.13. Đảng bộ Huyện Tuy Hòa: Lịch sử Đảng bộ Huyện Tuy Hòa 1930 - 1975. Huyện

ủy Tuy Hòa, 2000.14. Đảng bộ xã Hòa Quang: Hòa Quang trên đường Cách mạng, 1998.15. Đảng bộ xã Bình Kiến: Bình Kiến mảnh đất kiên trung, 2000.16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tư.

NXB Sự thật - Hà Nội, 1997.17. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban chấp hành Trung ương: Nghi quyết của Bộ

Chính trị vê cải cách giáo dục. NXB Sự thật - Hà Nội, 1997.18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, NXB

Sự thật - Hà Nội, 1987.

196

Page 197: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW khóa VII, tháng 2/ 1993.

20. Nguyễn Xuân Đàm: 50 năm nền giáo dục Cách mạng Phú Yên. Báo Phú Yên 651/1995.

21. Lê Quí Đôn: Phủ biên Tạp lục, bản dịch NXB KHXH, Hà Nội, 1977.22. Đà Giang - Trần Sĩ - Một cuộc đời - Thành phố Hồ Chí Minh 1999.23. Phạm Minh Hạc (Cb): Sơ thảo giáo dục Việt Nam 1945 – 1990. NXB Giáo dục

1992.24. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.25. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.26. Nguyễn Văn Huyên: Những bài nói và viết về giáo dục. NXB Giáo dục, 1990.27. Huyện ủy Tuy Hòa: Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy Hòa 1930 – 1975, 2000.28. Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong. Nxb Văn Học, TP. HCM, 2001.29. Trần Tử Minh: Trường THPT Nguyễn Huệ- Những tháng năm đáng nhớ. Sở

Văn hóa thông tin Phú Yên 2001.30. Nhiều tác giả – Phú Yên một thời để nhớ, 2001.31. Lê Nhường: Biện pháp quản lí công tác bồi dưỡng trưởng phó phòng giáo dục

và đào tạo tỉnh Phú Yên. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, 2002.32. Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918. NXB Giáo dục,

2001.33. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục. T1. Viện Sử học, 2004. 34. Sở Giáo dục& Đào tạo Hà Tĩnh: Lịch sử giáo dục Hà Tĩnh. NXB Chính trị Quốc

gia, 2005.35. Sở Khoa học & Công nghệ Phú Yên: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Phú Yên 395

năm, 2006.36. Nguyễn Tấn Hào: Đổi mới công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi

cấp THPT của Tỉnh Phú Yên trong giai đoạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ – Hà Nội 2002.

37. Nguyễn Khánh Toàn: Về văn học và giáo dục. NXB Khoa học xã hội, 1972.38. Nguyễn Văn Thưởng: Sơ lược về Giáo dục và thi cử ở nước ta nửa đầu thế kỷ

XIX. Tạp chí Trí thức Phú Yên, Số 6&7-2009.

197

Page 198: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

39. Nguyễn Văn Thưởng (Cb): Các phong trào yêu nước và cách mạng ở Phú Yên (1885-1930). NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2009.

40. Nguyễn Đình Tư : Non nước Phú Yên, Nxb Tiền Giang, 1964.41. ỦY ban nhân dân tỉnh Phú Yên: Phú Yên 10 năm xây dựng và phát triển. Ủy ban

nhân dân tỉnh, 1999.42. ỦY ban nhân dân tỉnh Phú Yên: Địa chí Phú Yên - NXB Chính trị quốc gia Hà

Nội 2003.43. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam: Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ

Chí Minh. NXB KHGD Hà Nội, 1990.II. TÀI LIỆU LƯU TRỮ CỦA BỘ GIÁO DỤC VIỆT NAM CỘNG HÒACác Văn bản – Tư liệu của Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa.

Quyển I ( 1954 – 1975)

44. Tập lưu công văn 1959 -1960 của Bộ quốc gia Giáo dục Việt Nam Công Hòa.45. Biên bản học tập thông điệp của Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa trước phiên

họp của Quốc hội ngày 2 /11/1968.46. Diễn từ của Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Bộ giáo dục trong dịp Chủ tọa lễ

Bế giảng khóa huấn luyện quân sự cao cấp học đường tại trung tâm huấn luyện Quang Trung tháng 10 / 1969.

47. Diễn văn của Ngô Khắc Tỉnh trong buổi lễ kỉ niệm 102 nhân ngày mất của Nguyễn Trường Tộ.

48. Bài đáp từ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong buổi lễ khai giảng Viện Đại học Sài Gòn ngày 18 /1/1971.

49. Báo cáo kết quả hoạt động của khối tiểu học, Trung học trong năm 1972 và dự án thực hiện năm 1973 của Bộ Giáo dục.

50. Nghị định của Bộ Giáo dục về thể thức tổ chức kì thi văn bằng khả năng sư phạm tiểu học cho Giáo viên tiểu học thực thụ 4 năm. Năm 1958

51. Bảng tổng kết kinh phí thực hiện niên khóa 1974 - 1975 của Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên.

52. Tổng kết ngân sách Quốc gia năm 1975 của Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên. 53. Dụ số 9 ngày 14/7/1950 của Bảo Đại về việc ấn định quy chế công chức Việt

Nam.

198

Page 199: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

54. Nghị định của phủ Thủ tướng năm 1968.55. Sự vụ lệnh bổ nhiệm, chỉ đạo điều động giáo sư năm 1975 của tỉnh Hậu

Giang, Phú Yên, Tây Ninh, Châu Đốc, Vĩnh Long. III. TÀI LIỆU LƯU TRỮ VỀ GIÁO DỤC VÙNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM ( 1972 -1975) VÀ NHỮNG NĂM ĐẦU THỐNG

NHẤT ĐẤT NƯỚC. (Quyển II)

56. Báo cáo phong trào giáo dục khu V 2 năm 1973-1974 ở vùng giải phóng.57. Thông tư của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam về công tác

cán bộ giáo dục. 1974.58. Chỉ thị của Ban Chấp hanh TW về công tác giáo dục các tỉnh thành miền Nam

trong 3 năm 1978- 1980.59. Báo cáo tình hình khai giảng năm học 1975-1976 các Ty Giáo dục miền Nam. 60. Báo cáo tổng kết 3 đợt học tập, cải tạo cho công nhân viên chức, giáo chức

ngụy quyền năm 1975 của Bộ Giáo dục và Thanh niên.61. Quy chế tạm thời của Bộ Giáo dục về tổ chức quản lí trường phổ thông ở miền

Nam 1975.62. Quy định tổ chức bộ máy quản lí giáo dục các cấp địa phương miền Nam 1976.63. Quyết định của Phủ Thủ tướng về chính sách sử dụng giáo viên vùng mới giải

phóng ở miền Nam 1975.64. Danh sách hồ sơ giáo viên giao cho Ty Giáo dục Phú Khánh. 65. Chỉ thị của Ban CHTW về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn

giải phóng. Năm 1975.66. Tham luận về cải cách giáo dục của bà Nguyễn Thị Bình – Đại biểu Quốc hội

thành phố Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Giáo dục tại kì họp khóa 2 Quốc hội khóa VI 1977.

67. Kế hoạch báo cáo tình hình, mục tiêu chương trình đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên ở các tỉnh phía Nam năm 1978.

=========================================================

199

Page 200: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

MỤC LỤCLỜI NÓI ĐẦU

PHẦN MỞ ĐẦU . KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, GIÁO DỤC PHÚ YÊN

I. VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI PHÚ YÊN II. TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA - GIÁO DỤC PHẦN THỨ NHẤT . GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1945CHƯƠNG I. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX I. KHÁI QUÁT GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC KHI PHÁP XÂM LƯỢC II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1885 2.1. Hình thức tổ chức 2.2. Giáo dục dân gian từ trong quần chúng lao động 2.3. Hệ thống trường học ở Phú Yên 2.4. Những nhà khoa bảng ở Phú YênCHƯƠNG II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI PHÁP THUỘC (1885-1945) I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRONG CẢ NƯỚC II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI PHÁP THUỘC (1885 - 1945) 2.1. Số trường – lớp

2.2. Việc dạy và học 2.3. Những người Phú Yên có bằng cấp thời Pháp thuộc 1885-1945

III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH PHÚ YÊN ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 PHẦN THỨ HAI . GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1975CHƯƠNG III. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN (1945 - 1954) I. CẢ NƯỚC NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN II. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở PHÚ YÊN (1945-1954) 2.1. Giáo dục bình dân 2.2. Giáo dục phổ thông 2.2.1. Giáo dục Tiểu học 2.2.2. Giáo dục Trung học 2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên 2.4. Bộ máy ngành giáo dục Phú Yên (1945-1954) III. TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THỂCHƯƠNG IV. GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI KỲ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG CĂN CỨ CÁCH MẠNG VÀ VÙNG GIẢI PHÓNG (1954-1975)

2.1. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1954-19602.2. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1961-19652.3. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1966 – 19682.4. Giáo dục Phú Yên giai đoạn 1969 -1975

III. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG VÙNG CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN TẠM CHIẾM 3.1. Hệ thống tổ chức giáo dục Phú Yên trong vùng địch tạm chiếm

3.2. Phong trào đấu tranh yêu nước của giáo viên – học sinh Phú Yên trong

Trang

200

Page 201: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

vùng kiểm soát tạm thời của chính quyền Sài Gòn IV. CHI VIỆN CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN XHCN MIỀN BẮC CHO GIÁO DỤC PHÚ YÊN

PHẦN THỨ BA . GIÁO DỤC PHÚ YÊN TỪ NGÀY THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2005CHƯƠNG V. GIÁO DỤC PHÚ YÊN NHỮNG NGÀY ĐẦU GIẢI PHÓNG VÀ TRONG THỜI KỲ HỢP NHẤT PHÚ YÊN VỚI KHÁNH HÒA

(1975 – 1989) I. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG NHỮNG NGÀY ĐẦU GIẢI PHÓNG (TỪ THÁNG 4 ĐếN THÁNG 11 NĂM 1975) 1.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục 1.2. Về tổ chức bộ máy giáo dục II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN TRONG THỜI KỲ HỌP NHẤT PHÚ YÊN VÀ KHÁNH HÒA (11 - 1975 đến 7 -1989) 2.1. Tình hình chung 2.2. Các hoạt động giáo dục 2.2.1. Về tổ chức bộ máy 2.2.2. Xây dựng hệ thống trường Sư phạm

2.2.3. Xóa mù chữ và Bổ túc văn hóa 2.2.4. Thực hiện công cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3

2.2.5. Giáo dục mần non và phổ thông III. CÔNG TÁC ĐẢNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THỂ TRONG GIÁO DỤC IV. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤTCHƯƠNG VI. GIÁO DỤC PHÚ YÊN THỜI KỲ TÁI LẬP TỈNH

VÀ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1989-2000) I. THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG THỜI KỲ MỚI

II. GIÁO DỤC PHÚ YÊN GIAI ĐOẠN 1989-2000 2.1. Sự phát triển giáo dục Mầm non

2.2. Sự phát triển giáo dục phổ thông 2.2.1. Cấp Tiểu học

2.2.2. Trung học cơ sở 2.2.3. Trung học phổ thông

2.3. Phát triển giáo dục miền núi, hải đảo III. HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP, CAO ĐẲNG – TRUNG

TÂM GIÁO DỤC IV. XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ V. CƠ SỞ VẬT CHẤT NGÀNH GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO VI. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, HỢP TÁC GIÁO DỤC CHƯƠNG VII. GIÁO DỤC PHÚ YÊN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

(2001 - 2005) I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO

TRONG TÌNH HÌNH MỚI II. GIÁO DỤC MẦM NON VÀ PHỔ THÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ

KỶ XXI (2001-2005)2.1. Bước phát triển của giáo dục Mầm non

201

Page 202: Lịch sử Giáo dục Phú Yên 1945-2005

2.2. Sự phát triển của các bậc học giáo dục phổ thông 2.2.1. Giáo dục Tiểu học

2.2.2. Giáo dục Trung học cơ sở 2.2.3.Giáo dục Trung học phổ thông

2.3. Giáo dục miền núi và học sinh dân tộc III. GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN VÀ GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP

IV. PHỔ CẬP GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ V. CÔNG TÁC AN NINH TRẬT TỰ TRƯỜNG HỌC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LÝ

TƯỞNG CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH VI. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ CHUẨN HOÁ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN VII. TỔ CHỨC ĐẢNG TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤCKẾT LUẬNTÀI LIỆU THAM KHẢOPHỤ LỤC

202