§êi sèng v¡n hãa cña c¦ d¢n ven biÓn hµ tÜnh thêi kú c¤ng...

251
1 BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI ĐẶNG THỊ THUÝ HẰNG §êI Sèng V¡N HãA CñA C¦ D¢N VEN BIÓN Hμ TÜNH THêI Kú C¤NG NGHIÖP HãA, HIÖN §¹I HãA LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC HÀ NỘI - 2015

Upload: others

Post on 18-Sep-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THUÝ HẰNG

§êI Sèng V¡N HãA CñA C¦ D¢N VEN BIÓN Hµ TÜNH

THêI Kú C¤NG NGHIÖP HãA, HIÖN §¹I HãA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC

HÀ NỘI - 2015

2

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THUÝ HẰNG

§êI Sèng V¡N HãA CñA C¦ D¢N VEN BIÓN Hµ TÜNH

THêI Kú C¤NG NGHIÖP HãA, HIÖN §¹I HãA

Chuyên ngành : Văn hoá học

Mã số : 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HOÁ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1, PGS.TS. Trịnh Thị Minh Đức

2, PGS.TS. Lê Quý Đức

HÀ NỘI - 2015

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ “Đời sống văn hóa của cư dân

ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” là công trình

nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, hình ảnh và kết quả

nghiên cứu của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận án

Đặng Thị Thúy Hằng

4

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC 1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2

MỞ ĐẦU 3

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG VEN BIỂN HÀ TĨNH 8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8

1.2. Cơ sở lý thuyết 17

1.3. Khái quát về vùng ven biển Hà Tĩnh 33

Tiểu kết 54

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA CƢ DÂN

VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TÍN NGƢỠNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC

56

2.1. Tín ngưỡng 56

2.2. Lễ hội 70

2.3. Phong tục 78

Tiểu kết 89

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA

CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TIÊU DÙNG VĂN HOÁ

91

3.1. Các phương tiện tiêu dùng văn hoá 91

3.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa 105

3.3 Mức độ tiêu dùng văn hóa 112

3.4 Nội dung tiêu dùng văn hóa 116

Tiểu kết 124

Chƣơng 4: XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,

HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

126

4.1. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh ở vùng

ven biển Hà Tĩnh

126

4.2. Xu hướng biến đổi đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh 130

4.3. Những vấn đề đặt ra 146

Tiểu kết 154

KẾT LUẬN 155

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 158

TÀI LIỆU THAM KHẢO 159

PHỤ LỤC 168

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á

BCH : Ban chấp hành

CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CN : Công nghiệp

ĐSVH : Đời sống văn hoá

HN : Hội nghị

KHCN : Khoa học công nghệ

LĐ : Lao động

NCS : Nghiên cứu sinh

Nxb : Nhà xuất bản

PL : Phụ lục

PLA : Phụ lục ảnh

QL : Quốc lộ

SCN : Sau công nguyên

TDVH : Tiêu dùng văn hoá

TP HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

TTCN : Tiểu thủ công nghiệp

TW : Trung ương

UBND : Uỷ ban nhân dân

VBHT : Ven biển Hà Tĩnh

XHH : Xã hội học

XD : Xây dựng

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1.Việt Nam có 3/4 diện tích là biển và đại dương, đường bờ biển dài

3260km kéo từ Móng Cái cho tới Hà Tiên, bao bọc lấy phía Đông, Nam và một

phần phía Tây của Tổ quốc, được xếp là quốc gia có đường bờ biển dài thứ 27 trong

tổng số 165 quốc gia có biển trên thế giới. Nếu tính vùng biển bao gồm cả nội thuỷ,

lãnh hải thì diện tích vùng biển của Việt Nam là 226.000 km2 và vùng đặc quyền

kinh tế biển là 1.000.000 km2 (theo Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 và

1994). Từ xa xưa, con người Việt Nam đã có sự gắn kết chặt chẽ với biển, nhóm cư

dân cư trú ở khu vực ven biển trong quá trình sinh tồn, để thích nghi được với môi

trường biển, khai thác, đánh bắt nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của biển đảm

bảo cho nhu cầu mưu sinh, họ đã tích luỹ được các tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết

về biển, về nguồn tài nguyên sinh vật biển, từ đó hình thành nên những nét văn hoá

đặc trưng so với các vùng, miền khác.

1.2. Bước vào giai đoạn CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban

hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về phát triển kinh tế vùng biển, ven biển và hải đảo.

Đặc biệt, có Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X

(ngày 9-2-2007) đã ban hành “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, đánh một

dấu mốc quan trọng, thể hiện tầm nhìn mới của Đảng và Nhà nước về vai trò kinh tế

biển đối với sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay. Trước sự tác động mạnh mẽ của sự

nghiệp CNH, HĐH và Chiến lược biển, đời sống kinh tế của cư dân vùng ven biển

nước ta tăng trưởng nhanh, kéo theo những biến đổi về đời sống văn hoá, dẫn đến

đời sống văn hoá của cư dân vùng ven biển đứng trước những cơ hội và thách thức

mới. Vấn đề bảo tồn, phát huy văn hoá truyền thống, chọn lọc tiếp thu văn hoá thời

đại, hình thành nên những giá trị văn hoá vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc,

góp phần đưa văn hoá Việt Nam thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đang được đặt ra đối với vùng ven biển

của cả nước nói chung và ven biển của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng.

1.3. Hà Tĩnh là tỉnh duyên hải Bắc Trung Bộ, có địa hình phong phú, bao gồm

miền núi - trung du, đồng bằng và ven biển. Sự phong phú về địa lý, địa hình, tự nhiên,

7

đã tạo cho địa bàn cư trú của cư dân Hà Tĩnh rất đa dạng: có nhóm cư dân cư trú ở

vùng núi như một số xã của huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh; có

nhóm cư dân cư trú ở vùng ven sông (như sông Lam, sông La của huyện Đức Thọ,

sông Ngàn Phố của huyện Hương Sơn); có nhóm cư dân cư trú ở vùng đồng bằng màu

mỡ như cư dân ở các huyện: Can Lộc, Hồng Lĩnh, Đức Thọ,…Hà Tĩnh còn có đường

bờ biển dài (137km), với 4 cửa biển là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng và cửa

Khẩu. Do đó, cư dân cư trú ở vùng ven biển Hà Tĩnh trải dài từ đầu đến cuối tỉnh

(dọc theo đường bờ biển) qua năm huyện: Nghi Xuân, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm

Xuyên, Kỳ Anh. Nhóm cư dân ven biển Hà Tĩnh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt

hải sản, có kết hợp với một số nghề phụ khác.

Do tụ cư ở các vùng địa lý, địa hình khác nhau, tạo ra sự đa dạng về đời sống

văn hoá của cư dân Hà Tĩnh. Trong sự phong phú, đa dạng đó có dấu ấn văn hoá của

nhóm cư dân định cư ở vùng ven biển, vì sống trong môi trường biển, nhóm cư dân này

đã tạo ra những bản sắc văn hoá riêng. Có thể nhận diện nét khác biệt về đời sống văn

hoá của nhóm cư dân này so với các vùng khác trong tỉnh qua các yếu tố: tín ngưỡng,

lễ hội; phong tục, tập quán,…

Hiện nay, dưới tác động của CNH, HĐH, đặc biệt là “Chiến lược biển Việt

Nam đến năm 2020” của Đảng và Nhà nước, vùng ven biển Hà Tĩnh đang có nhiều

thay đổi. Từ những làng quê nghèo, sống nhờ vào nguồn cá tự nhiên kiếm được ở biển,

đời sống kinh tế-xã hội rất khó khăn đã trở thành trung tâm kinh tế trọng điểm của khu

vực Bắc Trung bộ, với những khu kinh tế đặc thù, chuyên biệt, mang đậm dấu ấn của

thời kỳ CNH, HĐH. Đời sống vật chất của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ

CNH, HĐH được nâng lên một cách nhanh chóng, kéo theo đời sống văn hoá có những

biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi về đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh được

thể hiện với những xu hướng khác nhau, dẫn đến tính thuần nhất và nét đặc trưng độc

đáo về văn hoá của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh trước thời kỳ CNH, HĐH có xu thế

bị phá vỡ, nguy cơ đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống, ảnh hưởng văn hoá

ngoại lai, sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại, hiện tượng chạy đua theo trào lưu

văn hoá mới, bỏ quên, xa rời văn hoá truyền thống, chạy theo văn hoá thực dụng mà

xa rời các yếu tố văn hoá nhân bản, tiếp nhận các luồng văn hoá mới chưa được gạn

lọc, khơi trong,… đang có chiều hướng gia tăng ở vùng ven biển Hà Tĩnh trong thời

8

kỳ CNH, HĐH.

Với những lý do trên, việc nghiên cứu Đời sống văn hoá của cư dân ven biển

Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, nhận diện xu hướng vận động biến đổi là vấn đề trở

nên cấp thiết đối với giới nghiên cứu văn hoá ở nước ta hiện nay.Tuy vậy, cho đến

nay chưa có công trình chuyên sâu nào đề cập một cách đầy đủ, sâu sắc và hệ thống

về vấn đề này, do đó NCS chọn đề tài “Đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà

Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” để làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành

Văn hoá học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Chỉ ra thực trạng và bước đầu nhận diện xu hướng biến đổi Đời sống văn hóa

của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tập hợp và phân tích các công trình nghiên của các nhà nghiên cứu đi trước

đã viết về Hà Tĩnh, cư dân, văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh.

- Trình bày cơ sở lý thuyết nghiên cứu, khái niệm đời sống văn hoá, cơ cấu

của đời sống văn hoá và giới thuyết nội dung nghiên cứu của đề tài.

- Khảo sát, phân tích, nhận diện thực trạng Đời sống văn hoá của cư dân ven

biển Hà Tĩnh trước những tác động của sự nghiệp CNH, HĐH và xu hướng vận động,

biến đổi.

- Nhận định những vấn đề đặt ra đối với đời sống văn hóa của cư dân ven

biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, qua đó có những khuyến nghị, đề xuất.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của cư dân ven

biển Hà Tĩnh trong bối cảnh CNH, HĐH.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

* Phạm vi vấn đề nghiên cứu

Tập trung nghiên cứu đời sống văn hoá tinh thần qua một số thành tố: tín

ngưỡng, lễ hội, phong tục (có tính truyền thống); tiêu dùng văn hoá (có tính hiện

9

đại) của cư dân ven biển Hà Tĩnh trong thời kỳ CNH, HĐH.

* Phạm vi không gian

Nghiên cứu các làng/xã ven biển của 5 huyện: Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch

Hà, Lộc Hà, Nghi Xuân (lựa chọn một số làng/xã điển hình để khảo sát sâu).

* Phạm vi thời gian: Nghiên cứu đời sống văn hoá của cư dân ven biển hiện

nay (thời điểm khảo sát 2013- 2015), có đề cập đến đời sống văn hoá xưa (truyền

thống, trước CNH, HĐH - mốc trước 1995-Hội nghị TW7 khoá VII) để đối chiếu,

so sánh, nhận diện xu hướng biến đổi.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo

của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hoá trong quá trình kiến tạo xã hội

mới. Từ cơ sở phương pháp luận này, tác giả vận dụng vào nghiên cứu thực trạng

đời sống văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nhận diện xu

hướng vận động, biến đổi và những vấn đề đặt ra trong biến đổi đời sống văn hoá

của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hoá học: Luận án sử dụng

các khái niệm, phạm trù, kết quả của các ngành khoa học có liên quan đến văn hoá

học để nghiên cứu về đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh như: Dân tộc

học/ nhân học văn hoá, Xã hội học văn hoá, Folklore học, Tâm lý học,…

- Phương pháp phân tích và tổng hợp hệ thống tư liệu của các học giả đi

trước đã nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vùng ven biển Hà Tĩnh, cư dân

ven biển Hà Tĩnh và văn hoá ven biển Hà Tĩnh. Qua sự phân tích này, tác giả luận

án kế thừa và đưa ra những nhận định liên quan đến các vấn đề của đề tài luận án.

- Phương pháp khảo sát - điền dã của nhân học/dân tộc học văn hoá ở những

điểm nằm trong không gian nghiên cứu, để tìm hiểu thực tế, sưu tầm thu thập tư

liệu, thông tin qua cộng đồng cư dân tại thực địa.

- Phương pháp điều tra xã hội học thông qua việc phỏng vấn sâu và bảng hỏi,

để có những tư liệu định lượng, minh chứng cho những nhận xét, đánh giá định tính

10

về biến đổi văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa đời sống văn hoá truyền thống và hiện

đại của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh để tìm ra xu hướng vận động biến đổi.

- Phương pháp nghiên cứu đại diện: Chọn một số địa điểm ven biển tiêu

biểu của Hà Tĩnh để minh chứng cho vấn đề mà đề tài đang đề cập, đánh giá,

và bàn luận,…

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Đóng góp về mặt khoa học

- Luận án là công trình đầu tiên vận dụng lý luận về đời sống văn hoá với

nội hàm là đời sống văn hoá tinh thần vào nghiên cứu đời sống văn hoá của cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

- Nhận diện xu hướng vận động, biến đổi về đời sống văn hoá tinh thần của

cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

- Phân tích, làm rõ những vấn đề đặt ra trong đời sống văn hoá tinh thần của

cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH - HĐH.

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

- Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý tham khảo để hoạch định các chính sách

xây dựng, phát triển kinh tế-văn hoá -xã hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay.

- Làm tài liệu tham khảo để giảng dạy các chuyên ngành văn hoá tại các

trường cao đẳng, đại học.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án chia làm 4 chương:

Chƣơng 1:Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, khái quát về

vùng ven biển Hà Tĩnh

Chƣơng 2: Thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua tín

ngưỡng, lễ hội, phong tục

Chƣơng 3: Thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua tiêu

dùng văn hoá

Chƣơng 4: Xu hướng biến đổi đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh

thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những vấn đề đặt ra

11

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ

KHÁI QUÁT VỀ VÙNG VEN BIỂN HÀ TĨNH

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Hà Tĩnh, được mệnh danh là vùng “địa linh, nhân kiệt”, mang nhiều nét đặc

trưng về địa lý, tự nhiên, đã sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, nhiều nhà khoa

học lớn của đất nước… Nơi đây cũng đã lắng đọng nhiều giá trị văn hoá dân tộc,

kết hợp với đặc trưng vùng, tạo nên một Hà Tĩnh khác với các vùng, miền trong cả

nước,… Trong thời kỳ CNH, HĐH, Hà Tĩnh là một trong những vùng kinh tế

trọng điểm của đất nước. Thế nhưng, những nghiên cứu về Hà Tĩnh, về văn hoá

Hà Tĩnh thời hiện đại còn là một khoảng trống, đặc biệt còn thiếu những công

trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá vùng ven biển Hà Tĩnh. Đây là vùng mà

hiện nay đang có nhiều biến đổi trước những chủ trương lớn của Đảng, chiến lược

phát triển mới của đất nước. Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những nội dung có liên

quan đến đề tài luận án trong các công trình nghiên cứu đi trước để NCS có thể tiếp

thu, kế thừa, tìm ra cái mới. Vấn đề này, NCS xin được tổng hợp, phân tích, chia

làm ba nhóm nội dung cụ thể như sau:

1.1.1. Các công trình viết về vùng ven biển Hà Tĩnh

Đại Nam nhất thống chí, tập 2 [59] (Quốc sử quán triều Nguyễn), viết về đạo

Hà Tĩnh, chỉ có ba huyện nhưng cả ba huyện đều có phía đông giáp biển, đó là:

Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (đạo Hà Tĩnh lúc đó chỉ có ba huyện). Vì vậy, Hà

Tĩnh khi đó chỉ có hai cửa biển là cửa Nhượng và cửa Khẩu, cả hai cửa biển đều

nắm giữ vị trí chiến lược quan trọng của đất nước. Về địa hình của Hà Tĩnh, Đại

Nam nhất thống chí nhận định: dài và hẹp “Xung quanh là núi giáp biển. Chiều nam

bắc dài mà chiều đông tây ngắn, từ biển lên núi chỉ nửa ngày đường”[59, tr.87].

Bùi Dương Lịch trong công trình Nghệ An ký [49] gồm hai quyển viết về

Thiên chí, Địa chí và Nhân chí trên đất Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay).

Trong công trình này tác giả đã đề cập đến núi, sông và các cửa biển của Hà Tĩnh,

12

là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng và cửa Khẩu (trong tổng số 12 cửa biển của Nghệ

An thời đó). Tuy nhiên, về các ngọn núi được đề cập trong công trình này, ngày nay

tên gọi đã khác và địa giới hành chính giữa các xã, huyện của tỉnh Hà Tĩnh ngày

nay đã có nhiều thay đổi.

Đất nước Việt Nam qua các đời [1] của Đào Duy Anh (các trang 194-195;

208-209) ghi chép về sự thay đổi phạm vi hành chính của tỉnh Hà Tĩnh dưới thời

Minh Mệnh và Tự Đức (những năm 1822-1852). Ở thời điểm đó, tỉnh Hà Tĩnh chỉ

có hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa (bao gồm Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh ngày

nay), hai huyện Cam Môn, Cam Cớt (của nước Lào) thuộc trấn Đinh Lệ phủ Đức Thọ.

Về sau hai huyện Cam Môn, Cam Cớt thuộc lãnh thổ nước Lào (như ngày nay) và

tỉnh Hà Tĩnh về sau gồm có các huyện: Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Can Lộc, Nghi

Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ và phủ Hà Thanh (Hà Hoa).

Phong thổ ký các huyện tỉnh Hà Tĩnh [56] (nhiều tác giả), giới thiệu rất khái

quát các huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh (lúc đó chưa có huyện Vũ Quang và huyện Lộc

Hà như hiện nay) về các mặt: Lịch sử, địa dư, sơn lĩnh, sông hói (những lạch nước

nhỏ, khe nước nhỏ, nhánh nhỏ của dòng sông), nhân dân (nhân vật lịch sử), đường

sá,… Cho biết bốn huyện Nghi Xuân, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (4/5 huyện

ven biển của Hà Tĩnh hiện nay), có phía đông giáp biển. Đặc biệt Phong thổ ký các

huyện tỉnh Hà Tĩnh đã đề cập đến nghề biển và một số nghề có liên quan đến biển ở

bốn huyện này, như: nghề tết buồm cói ở Yên Hội, nghề nước mắm ở Cương Gián

(huyện Nghi Xuân), làm cá, làm muối (huyện Cẩm Xuyên), đánh cá, đan lưới

(huyện kỳ Anh), làm muối ở Hộ Độ, làm nước Mắm ở cửa Sót (thuộc hai xã Hộ Độ

và Thạch Kim của huyện Lộc Hà ngày nay).

Địa chí Cẩm Nhượng [48] (Phạm Lê chủ biên), khái quát lên bức tranh toàn

cảnh về xã cửa biển Cẩm Nhượng, từ cảnh quan thiên nhiên đến các phong tục tập

quán, tín ngưỡng lễ hội, phương thức đánh bắt, các ngành nghề chủ yếu của cư dân xã

Cẩm Nhượng từ những năm trước 1945 cho đến thời kỳ Đổi mới (1986),… Đây là

nguồn tư liệu quý, NCS sử dụng để so sánh đối chiếu với những biến đổi đời sống

văn hoá cư dân của xã Cẩm Nhượng ngày nay, và đối chiếu, so sánh với 34 xã ven

13

biển khác của Hà Tĩnh.

Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý [65] của tác giả Lê Bá Thảo, đề cập đến

địa lý, địa hình của các khu vực trong cả nước, đưa ra nhận định về miền Trung và

ven biển miền Trung (trong đó có Hà Tĩnh) rằng: đây là vùng có chiều dài gấp

nhiều lần chiều rộng, điều kiện tự nhiên có nhiều khó khăn, về tài nguyên thiên

nhiên “những tài nguyên với tới được thì không thật giàu hoặc đã bị phá hoại gần

hết, có những tài nguyên có tiềm năng lớn, thí dụ như tài nguyên hải sản hoặc

khoáng sản thì điều kiện khai thác khó khăn” [65, tr.386].

Như vậy, các công trình nghiên cứu đi trước trên đây đã cho biết địa danh một

số huyện giáp biển của Hà Tĩnh, cũng như các cửa biển thuộc về Hà Tĩnh xưa và nay.

Tuy nhiên số liệu không còn phù hợp, vì hiện nay các huyện của Hà Tĩnh đã khác.

1.1.2. Các công trình viết về cư dân ven biển Hà Tĩnh

Cư dân ven biển Hà Tĩnh đã được đề cập khá sớm ở một số công trình của

các học giả trong và ngoài nước.

Trước hết phải kể đến An - Tĩnh cổ lục [37] của Hippolyte le Breton, gồm hai

thiên, trong đó một thiên viết về người tiền sử trên mảnh đất An - Tĩnh (Nghệ An và

Hà Tĩnh). Từ những di vật tìm thấy ở các di chỉ khảo cổ học, Hippolyte le Breton

khẳng định: tất cả những “di vật đồ ăn thừa”ở vùng An - Tĩnh thuộc thời đại đồ đá

mới và con người thời đại đồ đá mới chỉ xuất hiện ở các đồng bằng ven biển của An -

Tĩnh và Quảng Bình, đó chính là cư dân Bàu Tró, nhóm cư dân này ngoài bắt các

nhuyễn thể ở các đầm phá ven biển và sông hồ để ăn, đã tiến hành đánh bắt các loài

cá ở biển, với dấu tích để lại ở các di chỉ khảo cổ học có xương của các loại cá biển

rất lớn. Thiên thứ hai trong An - Tĩnh cổ lục, Hippolyte le Breton ghi chép những

danh lam thắng cảnh và những di tích mang tính chất truyền thuyết và lịch sử của

vùng An - Tĩnh xưa, có nhắc đến núi Nam Giới (biên giới phía nam nước ta với

Chiêm Thành vào thế kỷ thứ VII-X, một ngọn núi giáp biển thuộc huyện Thạch Hà

ngày nay), đền Lê Khôi (ở cửa Sót – huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh) và bốn cửa biển

của Hà Tĩnh hiện nay (thuộc An - Tĩnh hồi đó) là cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng,

cửa Khẩu,…

14

Biển với người Việt cổ [19] công trình của Viện nghiên cứu Đông Nam Á,

nghiên cứu về người Việt cổ với việc khai thác tài nguyên sinh vật biển. Những kết

quả nghiên cứu của công trình đã cung cấp cái nhìn lịch đại để nhận thấy người Việt

thời tiền, sơ sử cho đến thời kỳ độc lập tự chủ và kể cả ngày nay luôn có mối quan

hệ khăng khít không tách rời biển. Vì vậy, mối quan hệ giữa người Việt với biển

được xem như là một tất yếu, khi mà đất nước Việt Nam có chiều dài bờ biển lên tới

3.260km, các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam rộng gấp ba lần diện tích

lãnh thổ trong đất liền, lại nằm trên trục đường giao thông của ngã ba Đông Nam Á,

thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một vị trí chiến lược quan trọng cho sự

phát triển kinh tế - chính trị - quân sự - văn hoá - xã hội, vị trí chiến lược cho việc

“tiến ra biển”,... Do đó, việc cư dân Việt sớm tiếp cận với biển theo các tác giả là

một tất yếu. Công trình nghiên cứu này còn cung cấp những thông tin cho thấy ở Hà

Tĩnh vào thời tiền sử (Đồ đá mới) có hai nhóm cư dân cư trú đã biết khai thác tài

nguyên sinh vật biển để sinh tồn, mặc dù chưa phải là chuyên hoá nghề biển, nhưng

đã biết khai thác biển bên cạnh sản xuất nông nghiệp và săn bắn, đó là cư dân của

văn hoá Quỳnh Văn với dấu vết để lại là di chỉ Phái Nam (Thạch Lâm - Thạch Hà)

và cư dân của văn hoá Bàu Tró - Thạch Lạc (Thạch Hà) với dấu vết để lại là 13 địa

điểm khảo cổ học trên đất Hà Tĩnh. Từ những nghiên cứu này cho thấy cư dân tiền

trú ở Hà Tĩnh đã tiếp xúc với biển.

Văn hoá Bàu Tró [55] của tác giả Phạm Thị Ninh, đã xác lập rõ những nét

đặc trưng của nền văn hoá Bàu Tró nói chung và văn hoá Bàu Tró trên đất Hà Tĩnh

nói riêng. Theo Phạm Thị Ninh về tính chất biển ở các địa điểm di tích của Hà Tĩnh

đậm nét hơn cả, thể hiện qua các di tích cồn sò điệp, các hiện vật và các dấu ấn hoạt

động kinh tế khai thác biển và sản xuất nông nghiệp của cư dân văn hoá Thạch Lạc

để lại. Như vậy, có thể nói vào thời tiền sử, Hà Tĩnh là địa điểm cư trú thích hợp

cho cư dân Bàu Tró sinh sống, trung bình các di tích cồn vỏ sò điệp của văn hoá

Bàu Tró có độ dày từ 4-5m, trong khi đó ở di tích Thạch Lạc (Thạch Hà - Hà Tĩnh)

dày tới 12m và có tới 4-5 tầng văn hoá; địa bàn phân bố của các di tích văn hoá Bàu

Tró ở Hà Tĩnh nơi gần biển nhất (hiện nay) là 4km, nơi xa nhất là 12km [55, tr.44].

15

Trong loại hình Thạch Lạc không chỉ dừng lại ở thu lượm những động vật thân

mềm sẵn có ở ven bờ, mà còn tiến hành đi khơi, đi lộng để đánh bắt cá, có di tồn

xương của những loài cá rất to thu được từ các cồn sò điệp Thạch Lạc, Thạch Lâm

đã chứng minh cho nhận định này. Tất cả những nghiên cứu về văn hoá Bàu Tró

trên đất Nghệ An - Hà Tĩnh, theo Phạm Thị Ninh đã nói lên cư dân văn hoá Bàu Tró

không chỉ có cuộc sống ổn định, lâu dài trên mảnh đất này, mà cuộc sống của họ

còn rất phong phú, sôi động. Dù cư trú ở cồn sò điệp ven biển, hay những cồn đất,

cồn cát ven cửa sông, lạch đều có xu hướng hướng ra biển, khai thác biển và gần

gũi với các nguồn nước, họ đã có sự phân công lao động và quan hệ trao đổi với

các nhóm cư dân văn hoá Bàu Tró ở các vùng. Kết luận cho cuốn sách, Phạm Thị

Ninh đưa ra nhận định: Văn hoá Bàu Tró có một vị trí quan trọng trong hệ thống

văn hoá vùng ven biển miền trung, là chiếc cầu nối giữa văn hoá Quỳnh Văn với

văn hoá Sa Huỳnh.

Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam [70] của tác giả Nguyễn Duy Thiệu, là công

trình nghiên cứu tương đối toàn diện và sâu các mặt đời sống của cộng đồng ngư

dân, về cơ cấu tổ chức xã hội và các phương thức, ngư cụ đánh bắt truyền thống, tác

giả cũng đã giới thiệu ba tín ngưỡng có tính đại diện của ngư dân trong đời sống

sinh hoạt tinh thần, đó là: thờ cá Ông, thờ Mẫu và thờ Thánh. Đặc biệt, công trình

đã đề cập đến cộng đồng ngư dân Cửa Sót (một trong bốn cửa biển của Hà Tĩnh) và

đưa ra nhận định: đây là vùng có đặc điểm cư dân bác tạp và đông đúc, đất đai chật

hẹp và cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, cửa biển bé nhỏ,… tác giả cũng đã giới thiệu

phương thức đánh bắt của ba nhóm cư dân chính ở cửa Sót, mà theo tác giả đã lấy

đánh cá làm nghề sống chính, đó là: nhóm thuỷ cư trên sông, nhóm thuỷ cư ở cửa

biển, và nhóm ngư dân sống trên đất liền. Tuy nhiên, hiện nay cả ba nhóm cư dân đều

sống trên đất liền và đã có những biến đổi.

Nghiên cứu về cư dân ven biển Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Thiệu còn

có một số công trình công bố trên các tạp chí, như: Các cộng đồng ngư dân thuỷ

cư tại vùng biển Việt Nam [75]; Người Bồ Lô và Vạn Kỳ Xuyên [69]; Nhật trình đi

biển của người Bồ Lô tại vùng biển Bắc Trung Bộ [71]; Người Việt (Kinh) vùng

16

ven biển miền Trung hội nhập cùng biển cả [76];… Trong các công trình này, hầu

hết Nguyễn Duy Thiệu quan tâm đề cập đến nhóm cư dân thuỷ cư chính (nhóm cư

dân chuyên nghề đánh bắt, có thuyền và các ngư cụ), trong đó có nhóm cư dân Bồ

Lô (nhóm cư dân này rất giỏi đánh bắt ở vùng biển, có cư trú ở một số địa điểm ven

biển Hà Tĩnh),...

Các công trình nghiên cứu về cư dân Hà Tĩnh trên đây, chủ yếu nhắc đến cư

dân tiền trú và có chung nhận định cư dân tiền trú trên đất Hà Tĩnh là cư dân văn hoá

Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró. Nhóm cư dân tiền trú ở Hà Tĩnh chủ yếu

sống ở đồng bằng ven biển, đánh bắt cá và các loài nhuyễn thể ở biển, sông, hồ. Về

cư dân hiện đại được các công trình đi trước đề cập có nguồn gốc bác tạp.

1.1.3. Các công trình viết về văn hoá ven biển Hà Tĩnh

Làng cổ Hà Tĩnh, 2 tập [29, 31] do Thái Kim Đỉnh chủ biên, đã giới thiệu 78

làng, xã của Hà Tĩnh, trong đó có 11 làng, xã ven biển. Về cơ bản, Làng cổ Hà Tĩnh

là cuốn biên niên sử về các làng, xã của Hà Tĩnh, nên tác giả chủ yếu tập trung viết

về lịch sử làng gắn với các truyền thuyết, các huyền thoại, các sự tích hình thành

làng, các dòng họ chính đã sinh cơ lập nghiệp ở làng. Tuy nhiên, trong đó tác giả đã

đề cập đến những nghề nghiệp chính của cư dân trong làng, mà đối với các làng ven

biển đó là nghề đánh cá và nấu muối.

Lễ hội dân gian ở Hà Tĩnh [30], Thái Kim Đỉnh chủ biên, giới thiệu một số

lễ hội tiêu biểu ở Hà Tĩnh, trong đó có ba lễ hội thuộc vùng ven biển, là: Tục thờ

Ngư Thần và lễ Cầu Ngư ở Hội Thống, lễ Cầu Ngư và hội Đua Thuyền ở Nhượng

Bạn, lễ hội du xuân - Cầu Ngư ở làng Động Gián. Khi giới thiệu các lễ hội này, tác

giả chỉ dừng ở cung cấp tên lễ hội, ngày diễn ra lễ hội, chưa mô tả tiến trình, cũng

như các yếu tố tín ngưỡng văn hoá diễn ra trong lễ hội.

Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh [12], Nguyễn Đổng Chi chủ biên, gồm

bảy phần, trong đó giới thiệu về đặc trưng tính cách của người xứ Nghệ, những tri

thức, hiểu biết về địa lý, kỹ thuật, y dược, lịch sử, triết lý sống, thơ, ca, âm nhạc,

nghệ thuật, món ăn dân gian, phong tục tập quán dân gian,… của người dân xứ

Nghệ từ những năm trước cách mạng Tháng Tám (1945). Đây là công trình công

phu của tập thể tác giả, việc giới thiệu văn hoá dân gian (folklore) của một không

17

gian rộng lớn mang nhiều nét đặc trưng vùng (huyện, làng, xã), thậm chí là từng

nhóm cư dân như xứ Nghệ không phải là điều dễ làm. Lời đầu cuốn sách Nguyễn

Đổng Chi đã tự nhận xét: “công trình nghiên cứu này mang tính giới thiệu hết sức

khái lược, vẫn chỉ có tính chất cưỡi ngựa xem hoa. Có lẽ cần chờ sự bổ sung của

những bộ địa chí về văn hoá dân gian của những đơn vị nhỏ (như huyện, xã) hay

của từng tộc người Nghệ Tĩnh,…” [12, tr.13]. Mặc dù là khái lược (như tác giả tự

nhận xét), nhưng Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, luôn là nguồn tư liệu quý, gợi

mở nhiều hướng nghiên cứu mới, chỉ ra các con đường mà những nhà nghiên cứu đi

sau có thể dựa vào đó để sưu tầm, thu thập tư liệu, khảo sát thực địa,…

Trong Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh, đã đề cập đến ba huyện ven biển

phía nam Hà Tĩnh là Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Thạch, Cẩm, Kỳ). Tác giả

cũng đã nhắc đến một số phong tục, kiêng kỵ, và sinh hoạt văn hoá dân gian của cư

dân vùng ven biển xứ Nghệ trước những năm 1945, trong đó có đề cập đến các

phường, hội nghề nghiệp của người dân Nghệ Tĩnh. Hội Vạn Chài được tác giả

nhắc đến với tư cách là một tổ chức hội nghề truyền thống, mở rộng ra toàn tỉnh,

lấy các cửa lạch làm đơn vị, luân phiên các địa điểm khác nhau hàng năm vào

tháng giêng họp lại để cúng Tứ vị mà đứng đầu là Thánh Mẫu (Bà Cờn), lễ cúng

có tam sinh và đặc biệt là có uống máu ăn thề, lời thề là cứu giúp nhau khi hoạn

nạn, tương thân tương ái, ai làm trái thì bị thần thánh làm hại,…

Văn hoá làng biển ở xứ Nghệ [35] của tác giả Ninh Viết Giao, đi vào phân

tích đặc điểm của các làng biển ở Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng như khắp

cõi Việt Nam, trước đây có hai dạng cơ bản là Bãi dọc và Bãi ngang, gần đây có

thêm một dạng mới là biển - đô thị, tác giả đi vào giải thích thế nào là làng bãi dọc

và làng bãi ngang. Tác giả Ninh Viết Giao khẳng định: Cư dân sớm nhất ở các làng

biển Nghệ Tĩnh phải kể đến là cư dân văn hoá Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu

Tró, hai nhóm cư dân tiền sử này có mặt ở cả Nghệ An và Hà Tĩnh. Đồng thời tác

giả có nhiều minh chứng từ các công trình nghiên cứu trong lịch sử cho rằng Nghệ

Tĩnh là một trong những vùng đất cổ, tác giả đưa ra những chứng minh, rồi nhận

định rằng trong số cư dân ven biển xứ Nghệ nói chung, Hà Tĩnh nói riêng hiện nay

có người bản địa từ xa xưa, có người ở đồng bằng Bắc Bộ, có người ở Thanh Hoá,

18

có người ở phương Bắc, có người ở phương Nam (tức là có người Việt Nam, có

người Trung Quốc, có người Chiêm Thành, có người Bồ Lô). Về nghề nghiệp của

cư dân ven biển Nghệ Tĩnh, theo tác giả vẫn tồn tại song song hai nghề: nông

nghiệp và đánh cá. Ninh Viết Giao quan tâm trình bày các phương thức đánh bắt và

các ngư cụ đánh bắt, quan tâm đến cuộc sống vất vả tất bật và không chắc chắn về

sinh mạng của cư dân nơi đây (khi không được nhà nước phong kiến quan tâm dự

báo thời tiết, khí hậu, thuỷ văn,...) được thể hiện qua những bài vè - một nét đặc

trưng văn hoá dân gian xứ Nghệ, nặng về phản ánh cuộc sống sinh hoạt hàng ngày

của người dân. Từ cuộc sống bấp bênh và bấp bênh đến cả tính mạng của cư dân

vùng ven biển Nghệ Tĩnh, ông nêu một số tín ngưỡng mà ngư dân tin tưởng thờ

cúng bằng những liệt kê: “Từ Quỳnh Lưu cho đến Kỳ Anh, dọc bờ biển ta thấy ngư

dân thờ các vị thần: Tứ vị thánh nương, Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn, Chiêu

Trưng vương Lê Khôi, Loan Nương Nguyễn Thị Bích Châu, Cao Sơn Cao Các,

Tam toà Thánh Mẫu mà đứng đầu là Liễu Hạnh công chúa, Ông Cá (tức cá Voi),

Tam toà đại vương Lý Nhật Quang,v.v…” [35, tr. 20].

Văn hoá dân gian làng ven biển [84], Ngô Đức Thịnh chủ biên, giới thiệu

văn hoá dân gian của cư dân một số vùng ven biển Việt Nam, trong số chín vùng

ven biển được giới thiệu trong công trình, tỉnh Hà Tĩnh có hai vùng là: Vùng biển

Cửa Sót (của tác giả Nguyễn Duy Thiệu) và làng biển Nhượng Bạn (của tác giả Võ

Quang Trọng). Trong đó, vùng biển Cửa Sót được tác giả Nguyễn Duy Thiệu đề cập

nhiều đến phương thức đánh bắt, các tri thức kinh nghiệm đánh bắt, cơ cấu tổ chức

xã hội truyền thống. Còn ở làng Cẩm Nhượng, Võ Quang Trọng đề cập đến các sinh

hoạt văn hoá dân gian của cư dân xã Cẩm Nhượng trước thời kỳ đổi mới. Cả hai tác

giả đã cung cấp nguồn tư liệu có giá trị làm cơ sở kế thừa và so sánh, đối chiếu với

các làng ven biển này trong thực tế xã hội hiện nay.

Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Tây Nam Bộ [41], ở công trình

nghiên cứu này, có bài viết của Nguyễn Trí Sơn đề cập đến hò Chèo Cạn và Hội

Đám Chay - nét sinh hoạt văn hoá tinh thần của ngư dân làng biển Nhượng Bạn (xã

Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Bài viết tập trung giới thiệu hai trong

số rất nhiều những lễ hội, trò diễn truyền thống tiêu biểu của ngư dân vùng biển

19

Cẩm Nhượng. Tuy vậy, hiện nay hội Đám Chay không còn tồn tại, còn hò Chèo

Cạn đã được phục dựng và có nhiều yếu tố mới mang màu sắc thời đại.

Đề cập đến văn hoá ven biển thời kỳ đổi mới có bài viết của Lê Hồng Lý,

Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển trong nền kinh tế thị trường [52]. Trong bài

viết của mình, tác giả đã khẳng định: Biển luôn ở cạnh người Việt, nhưng hình như

nó không được người Việt chú ý đến và việc khai thác biển của người Việt chủ yếu

là khai thác ven bờ và vùng nước lợ. Tác giả đã giới thiệu một số sinh hoạt văn hóa

tiêu biểu của các cộng đồng cư dân ven biển nước ta như: lễ hội cá Ông, lễ hội thờ

Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ tổ tiên với vấn đề nhà thờ họ hiện nay, các

phong tục thuyền mới, lưới mới. Tác giả cho rằng với cư dân ven biển, thường cùng

thờ nhiều vị thần có công trong dịp lễ hội,…Vấn đề mới trong bài viết của Lê Hồng

Lý là tác giả đã đề cập đến những tác động của thời kinh tế mở cửa, của nền kinh tế

thị trường, làm cho bộ mặt đời sống của cư dân ven biển có nhiều thay đổi, trở

thành nơi giao lưu buôn bán sầm uất và cũng từ nền kinh tế thị trường đã làm cho

nhiều yếu tố văn hoá biến đổi, tác giả đã chấm phá một số nét thay đổi cơ bản nhất

trong đời sống của cư dân ven biển.

Văn hoá dân gian người Bồ Lô ven biển Hà Tĩnh [87], luận án Tiến sĩ của

Phạm Thanh Tịnh, đã khái quát lên bức tranh toàn cảnh về người Bồ Lô ven biển

Hà Tĩnh trong xã hội truyền thống cho đến hiện nay. Tuy nhiên, cư dân Bồ Lô chỉ là

một bộ phận rất nhỏ của cư dân ven biển Hà Tĩnh, sống tập trung chủ yếu ở hai

trong số bốn cửa biển của Hà Tĩnh là Cửa Nhượng và Cửa Sót.

Tóm lại, từ những tập hợp, tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu đi

trước có liên quan đến đề tài luận án, nhận thấy:

- Về phương diện địa lý, tự nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước nhận

định Hà Tĩnh là tỉnh có bờ biển dài, biển Hà Tĩnh có nguồn tài nguyên sinh vật

phong phú, có nhiều hải sản quý, các cửa biển Hà Tĩnh đóng vai trò quan trọng về

kinh tế, quân sự, văn hoá, giao lưu,... Dọc bờ biển Hà Tĩnh về phía nam từ núi

Nam Giới (huyện Thạch Hà) trở vào (hết huyện Kỳ Anh) có đan xen những ngọn

núi mọc ra tận biển… Đây là các điều kiện tài nguyên, khoáng sản, địa lý tự

nhiên để Hà Tĩnh có một bộ phận cư dân sinh sống ở dọc ven biển, tạo dựng nên

20

một nền văn hoá biển và ngày nay trở thành trung tâm CNH, HĐH của tỉnh.

- Từ các di chỉ khảo cổ học trên đất Hà Tĩnh, các công trình nghiên cứu đi

trước đã khẳng định cư dân tiền sử đã từng cư trú trên đất Hà Tĩnh, chủ yếu là sinh

sống ở các vùng ven sông biển, ăn các loài nhuyễn thể và đã để lại dấu vết đánh bắt

ở vùng khơi, vùng lộng bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đó là cư dân văn hoá Quỳnh

Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró. Ngoài cư dân tiền trú, một số công trình nghiên

cứu còn nhận định vào khoảng từ thế kỷ thứ II - VIII (SCN) - vào đời Nam Tống

đến các triều đại phong kiến sau này, ở Hà Tĩnh còn có người Trung Quốc, người

Chiêm Thành, người Bồ Lô, người miền Bắc, người Thanh Hoá, người Quảng Bình

do chạy loạn hoặc đến làm quan hoặc do di cư đã đến lánh nạn, cư trú ở Hà Tĩnh và

họ sống chủ yếu ở các làng ven biển. Những công trình nghiên cứu này góp phần

khẳng định cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh có nguồn gốc bác tạp.

- Một số công trình nghiên cứu văn hoá đã đề cập đến các phương thức đánh

bắt, phương thức tổ chức đời sống xã hội, các nghề thủ công nổi tiếng ở một số

vùng thuộc ven biển Hà Tĩnh và một số nét sinh hoạt phong tục, tập quán, lễ hội của

cư dân ven biển Hà Tĩnh, nhưng chủ yếu đề cập ở góc độ xã hội truyền thống. Cũng

có công trình đề cập đến văn hoá ven biển trong nền kinh tế thị trường, nhưng chỉ

dừng ở một vài nét chấm phá về xu hướng biến đổi của văn hoá ven biển Việt Nam

nói chung trong phạm vi một bài báo. Hoặc như ở Luận án tiến sĩ của Phạm Thanh

Tịnh lại chỉ đề cập đến những biến đổi về văn hoá của một bộ phận cư dân Bồ Lô

ven biển Hà Tĩnh, cũng chỉ đến thời kỳ đổi mới, chưa có công trình chuyên sâu

nào đề cập đến đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

Vì vậy, việc nghiên cứu có hệ thống đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà

Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, nhận diện xu hướng biến đổi, là những vấn đề có giá trị,

ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn, đây chính là nội dung cơ bản mà đề tài luận

án tập trung giải quyết.

1.2. Cơ sở lý thuyết

1.2.1. Khái niệm đời sống văn hoá và cơ cấu của nó

1.2.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá

Ở nước ta thuật ngữ “Đời sống văn hóa” được đề xướng từ Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam (năm 1981). Văn kiện của Đại

21

hội đưa ra chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở: “Một nhiện vụ của cách

mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của

nhân dân. Đăc biệt chú ý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm cho mỗi nhà

máy, công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an

nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã,

phường, ấp, đều có đời sống văn hóa‟‟ [21]

Từ năm 1981 đến nay, thuật ngữ ĐSVH đã được sử dụng khá phổ biến trong

các sách báo, trong đời sống thực tiễn, song chưa có một quan niệm thống nhất. Tuy

có nhiều quan niệm khác nhau về ĐSVH, nhưng tựu trung có hai loại quan niệm

rộng và hẹp sau đây:

- Quan niệm rộng: Quan điểm của Viện Văn hóa-Bộ văn hóa trong sách Xây

dựng đời sống văn hóa ở cơ sở (năm 1984) „„Đời sống văn hóa là gì? Đó là một bộ

phận của đời sống con người nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt bao trùm

mọi lĩnh vực của đời sống con người, đời sống con người là một tổng thể, một tập

hợp những yếu tố vật chất và tinh thần là toàn bộ những hoạt động của con người để

thỏa mãn những yêu cầu vật chất và tinh thần của nó nhằm duy trì sự sống từ thế hệ

này sang thế hệ khác”‟[101, tr.21].

Cũng trong tài liệu trên, tác giả Mai Luân tán thành quan niệm Đời sống văn

hóa theo nghĩa rộng của Viện văn hóa và giải thích thêm: “ĐSVH bao trùm lên toàn

bộ đời sống con người (cũng là toàn bộ đời sống xã hội), hai khái niệm “đời sống

con người” và “đời sống văn hóa” cùng có một phạm vi giống nhau. Bởi vì con

người chỉ có thể trở thành con người khi con người trở thành con người văn hóa

(còn vấn đề con người trở thành con người- văn hóa đến mức nào đó là một vấn đề

khác)”[101, tr.121-122]. Ông đưa ra sơ đồ về mối quan hệ giữa đời sống con người

và đời sống văn hóa như sau:

Đời sống con người = đời sống văn hóa

Đời sống tinh thần = đời

sống văn hóa tinh thần

Đời sống vật chất = đời

sống văn hóa vât chất

22

Tác giả Hoàng Vinh trong tài liệu Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng

văn hóa ở nước ta (năm 1999) cho rằng: “Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời

sống xã hội, mà đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động của con người,

nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất được đáp ứng

làm cho con người tồn tại như một sinh thể. Còn nhu cầu tinh thần thì giúp con

người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa. Hai nhu cầu

này xuất hiện khi con người hình thành về mặt giống loài, tức là từ buổi bình minh

của xã hội loài người. Tuy vậy, khi xã hội phát triển lên cao, đạt tới trình độ phát

triển tương ứng. Từ hai nhu cầu cơ bản nêu trên hình thành nhu cầu văn hóa, thể

hiện khía cạnh, chất lượng của trình độ đáp ứng nhu cầu” [105, tr.262]

Cùng với quan điểm của các tác giả trên, tác giả Nguyễn Thị Phương Lan lại

diễn giải về ĐSVH như sau: “Đời sống văn hóa là tổng thể những yếu tố văn hóa

vật chất và tinh thần nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu tố hoạt động

văn hóa, những sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội tạo ra những quan hệ có

văn hóa trong cộng đồng người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người

trong xã hội” [47, tr.15].

Như vậy, các tác giả dù có diễn giải khác nhau (đôi chỗ mâu thuẫn với nhau)

song đều thống nhất với nhau rằng: “phải hiểu đời sống văn hóa theo nghĩa rộng

không bó hẹp tính văn hóa vào một lĩnh vực nào đó mà coi đời sống văn hóa là khái

niệm rộng rãi bao quát mọi mặt của đời sống xã hội: sản xuất, trao đổi, tiêu dùng,

nhận thức, sáng tạo”… “cả trong lĩnh vực sản xuất, trao đổi và tiêu dùng của cải vật

chất” [101, tr.24].

NCS cho rằng các quan niệm trên về ĐSVH tuy ít nhiều có sự hợp lý, nhưng

qúa rộng. Đúng là đời sống con người khác về bản chất so với đời sống động vật.

Bởi đời sống con người có sự thẩm thấu và bị quy định bởi thuộc tính văn hóa- một

thuộc tính đặc hữu, mang tính tộc loại của con người. Song dẫu vậy, đời sống con

người cũng không thể qui vào ĐSVH chỉ vì nó mang thuộc tính văn hóa. Đời sống

con người cũng còn mang và bị chi phối bởi thuộc tính sinh học. Song cũng không

ai qui đời sống con người là đời sống sinh học.

Nếu ĐSVH được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động liên

quan đến các sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần của xã hội, thì nội hàm của

23

khái niệm này quá rộng lớn, khó có thể nghien cứu thấu đáo. Hơn thế, nếu nói

ĐSVH Là toàn bộ hoạt đông sống của con người, bao gồm cả hoạt động vật chất lẫn

hoạt động tinh thần, thì điều đó có nghĩa là chúng ta đồng nhất “ĐSVH” với “hoạt

động sống”. Khi đó không cần phải có khái niệm đời sống văn hóa nữa, mà chỉ cần

nghiên cứu “hoạt động sống” là đủ [102, tr.68].

Chính vì vậy, cũng ngay trong sách Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của

Viện Văn hóa-Bộ văn hóa, các tác giả đã đề xuất cách hiểu đời sống văn hóa theo

nghĩa hẹp: “Tuy nhiên, trong khi giữ quan niệm tổng thể về đời sống văn hóa,

chúng ta có thể nói tới “đời sống văn hóa” theo nghĩa hẹp hơn: đó là lĩnh vực đời

sống con người có liên quan tới hưởng thụ và sáng tạo những sản phẩm văn hóa

được gọi là “tác phẩm văn hóa”. Đó là những sản phẩm mang tính biểu tượng được

thể hiện dưới hình thức:ngôn ngữ nói, văn tự, dấu hiệu đồ thị, dấu hiệu âm thanh,

dấu hiệu hình ảnh, dấu hiệu ứng xử, dấu hiệu pha trộn (…). Việc sản xuất và tiêu

thụ các tác phẩm văn hóa được tiến hành theo phương thức thẩm mỹ và chủ yếu

trong thời gian rỗi, nhất là về mặt tiếp thu” [101, tr.26]. Quan niệm về đời sống văn

hóa theo nghĩa “hẹp” này có mấy nội dung cơ bản:

-Đời sống văn hóa là một lĩnh vực của đời sống con người có liên quan đến việc

sáng tạo, hưởng thụ (tiêu dùng) sản phẩm văn hóa tinh thần hay “tác phẩm văn hóa”.

-Tác phẩm văn hóa dưới hình thức biểu tượng được tiến hành theo phương

pháp thẩm mỹ (đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ mang tính thẩm mỹ). Nhu cầu

thẩm mỹ chính là nhu cầu tinh thần chứ không phải là nhu cầu vật chất.

-Đời sống văn hóa diễn ra trong thời gian rỗi là chủ yếu (nhất là viêc tiếp

thu/hưởng thụ và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người).

Từ sự phân tích trên, NCS cho rằng: quan niệm về đời sống văn hóa theo

nghĩa “hẹp” gắn với đời sống tinh thàn của con người hơn và đặc biệt gắn với các

hoạt động tinh thần trong thời gian rỗi là chủ yếu. Nó đã khu biệt được nội hàm và

ngoại diên của khái niệm ĐSVH không có sự lẫn lộn giữa ĐSVH với đời sống con

người hay đời sống xã hội. Nó được diễn đạt một cách rõ ràng không còn trìu tượng

như cách hiểu theo nghĩa rộng: “Đó là một bộ phận của đời sống con người nói

chung, nhưng nó là một bộ phận đặc biệt, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con

người”[101, tr.21]. Nó cũng không giống như cách giải thích của tác giả Mai Luân,

24

Hoàng Vinh mà luận án đã dẫn ở trên. Đồng thời nó cũng khác với quan niệm của

tác giả Nguyễn Thị Phương Lan về đời sống văn hóa lẫn lộn với môi trường văn

hóa “đời sống văn hóa là những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần nằm trong cảnh

quan văn hóa…”.

NCS dựa vào quan niệm về ĐSVH theo nghĩa “hẹp” của Viện Văn hóa- Bộ

Văn hóa (đã trình bày ở trên) để đưa ra quan niệm về đời sống văn hóa sau đây: Đời

sống văn hóa là tổng thể sống động những hoạt động tinh thần của con người (cá

nhân và cộng đồng) trong thời gian rỗi là chủ yếu, bao gồm: sáng tạo, biểu hiện,

truyền bá, thưởng thức, tiêu dùng … các sản phẩm văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu

tinh thần của con người.

Quan niệm mà NCS đưa ra có những nội dung đáng chú ý sau:

- Đời sống văn hóa là tổng thể sống động những hoạt động tinh thần trong

thời gian rỗi là chủ yếu. Như vậy, ĐSVH gắn với hoạt động tinh thần hay nói cách

khác ĐSVH được dệt nên bởi hoạt động tinh thần.

Song có những hoạt động tinh thần không thuộc về ĐSVH khi nó được

tiến hành trong thời gian tất yếu (thời gian lao động tất yếu, bắt buộc của cá nhân

hoặc cộng đồng) như các hoạt động học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thậm

chí sáng tạo nghệ thuật do nghĩa vụ mà chủ thể của nó phải làm. Ngược lại có

những hoạt động tinh thần tuy diễn ra trong thời gian tất yếu như hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, ma chay, cưới xin,… lại thuộc về ĐSVH vì nó thể hiện

nhu cầu tinh thần, tâm linh của con người một cách tự do, tự nguyện. Về phương

diện xã hội, thời gian dành cho các hoạt động trên cũng là thời gian “rỗi” mà xã hội

tạo được, khi người ta có thể rút bớt được thời gian lao động tất yếu.

- Đời sống văn hóa là những hoạt động văn hóa tinh thần, nên chủ thể hoạt

động (con người văn hóa), thiết chế, thể chế văn hóa (cơ sở vật chất, bộ máy tổ

chức, quản lý văn hóa) tuy rất cần thiết cho hoạt động văn hóa nhưng không được coi

là yếu tố của đời sống văn hóa. Vì chúng là các yếu tố tĩnh, yếu tố có sẵn thuộc về

môi trường văn hóa - bảo đảm cho hoạt động văn hóa diễn ra. Do vậy, khi nghiên

cứu, khảo sát ĐSVH nếu cần thiết có thể đề cập đến các yếu tố đó như những tiền đề

quan trọng. Ngược lại các hoạt động xây dựng các cơ sở vật chất, bộ máy quản lý,

25

thậm chí cả việc kiến tạo môi trường văn hóa lại được xem là hoạt động văn hóa

thuộc ĐSVH. Bởi đó là một bộ phận hoạt động tinh thần của con người, biểu hiện

sự sáng tạo của con người. Tóm lại, NCS sử dụng quan niệm “hẹp” về ĐSVH như

trình bày ở trên làm cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu đề luận án là phù hợp.

1.2.1.2. Cơ cấu của đời sống văn hoá

Từ nhận thức trên đi đến việc xác lập cơ cấu (cấu trúc) của ĐSVH. Theo

NCS, các tác giả khi bàn về ĐSVH với nội dung quá rộng đã đưa ra một cơ cấu đời

sống văn hóa cũng rất phức tạp và chồng lấn sang nội dung và cơ cấu của môi trường

văn hóa, không gian văn hóa. Chẳng hạn, tác giả Hoàng Vinh cho rằng đời sống văn

hoá “phải có ba yếu tố: sản phẩm văn hoá, thể chế văn hoá, các dạng hoạt động văn

hoá và con người văn hoá. Ba yếu tố ấy tạo thành cấu trúc của đời sống văn hoá”

[104, tr. 266]. Tác giả Nguyễn Thị Phương Lan lại đưa ra một mô hình cấu trúc đời

sống văn hoá gồm: con người văn hoá, nhu cầu văn hoá, hoạt động văn hoá và sản

phẩm văn hoá tác động lẫn nhau trong môi trường văn hoá. Mô hình đó được sơ đồ

hoá như sau:

Điều đáng nói là các tác giả đã khẳng định “đời sống văn hoá là một tổng

Nhu cầu

Môi

trường

văn hóa

Con người

Sản phẩm

văn hóa

Hoạt động

văn hóa

26

thể/ phức hợp hoạt động của con người”, nhưng khi trình bày cấu trúc của ĐSVH

thì lại đưa cả những bộ phận không phải là hoạt động văn hoá vào (chủ thể văn hoá

và thiết chế văn hoá). Điều đó là không logic.

Do vậy, tác giả Đinh Thị Vân Chi cho rằng cơ cấu của ĐSVH chỉ có thể là

các hoạt động văn hóa trong thời gian rỗi, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con

người. Đó là:

“- Những hoạt động sáng tạo không vụ lợi các sản phẩm văn hoá: Làm thơ,

viết truyện, sáng tác nhạc, vẽ tranh, chụp ảnh nghệ thuật…

- Những hoạt động truyền bá không vụ lợi đối với các sản phẩm văn hoá:

biểu diễn văn nghệ, ngâm thơ, sinh hoạt câu lạc bộ nghệ thuật hoặc thể thao, chơi

trò chơi, chơi thể thao…

- Những hoạt động thưởng thức sản phẩm văn hoá: nghe nhạc, xem ti vi,

xem kịch, xem phim, đọc sách báo, dã ngoại…

Trong cơ cấu ĐSVH không thể có thiết chế văn hoá và chủ thể văn hoá vì đó

không phải là các dạng hoạt động. Nhưng để thực hiện hoá được ĐSVH thì rất cần

2 yếu tố đó. Để xây dựng ĐSVH cũng vậy.

Nghĩa là, khi nghiên cứu ĐSVH chúng ta hoàn toàn có thể xét đến chủ thể

văn hoá và thiết chế văn hoá, nhưng chỉ là khi bàn đến việc thực hiện và xây dựng

ĐSVH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chúng nằm trong cơ cấu của ĐSVH” [95].

Quan điểm của tác giả Đinh Thị Vân Chi phù hợp với quan niệm của tác giả

Hoàng Vinh về các “dạng hoạt động văn hoá phổ biến”. Tác giả Hoàng Vinh viết:

“có thể là một số dạng hoạt động văn hoá phổ biến như sau:

- Hoạt động sáng tác và biểu diễn văn nghệ, ứng dụng khoa học vào đời sống;

- Hoạt động khai trí - giáo dục nhằm nâng cao kiến thức cho mọi người: dạy

học, diễn giảng, toạ đàm, thư viện, thông tin;

- Hoạt động lưu giữ sản phẩm văn hoá: bảo tàng, lưu trữ, triển lãm, sưu tập;

- Hoạt động tiêu dùng sản phẩm văn hoá: đọc sách, báo, nghe âm nhạc, xem

nghệ thuật, phim ảnh, triển lãm, bảo tàng, tham quan, du lịch;

- Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, xây dựng phong tục nếp sống gia đình văn hoá;

- Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí trong thời gian rỗi”. [104, tr.267]

27

Như vậy, ĐSVH theo nghĩa “hẹp” thực chất là một bộ phận của ĐSVH theo

nghĩa rộng, bộ phận “hoạt động văn hóa phổ biến” của nó (như tác giả Hoàng Vinh

quan niệm).

Trong mục 1.2.1.1, NCS đã sử dụng quan điểm của Viện Văn hóa - Bộ Văn

hóa và Đinh Thị Vân Chi về ĐSVH để nghiên cứu đề tài luận án nên cũng tán thành

cách chia cơ cấu ĐSVH của tác giả dựa vào các dạng hoạt động văn hóa chung.

Song, NCS cho rằng tác giả Hoàng Vinh đưa ra cơ cấu các dạng hoạt động văn hoá

cụ thể hơn, phong phú hơn (và cũng không mâu thuẫn với tác giả Đinh Thị Vân Chi).

Do vậy, trong luận án nghiên cứu sinh dựa trên cơ cấu các dạng hoạt động văn hoá

của tác giả Hoàng Vinh là cơ bản. Tất nhiên như phần phạm vi nghiên cứu (ở phần

mở đầu), nghiên cứu sinh chỉ đi sâu vào hai dạng hoạt động trong ĐSVH của cư dân

ven biển Hà Tĩnh là: hoạt động tín ngưỡng, lễ hội, phong tục (có tính truyền thống)

và hoạt động tiêu dùng văn hoá (có tính đương đại) mà thôi.

1.2.2. Quan niệm về biến đổi văn hoá

Để nhận diện xu hướng vận động, biến đổi đời sống văn hoá cần chỉ rõ nội

hàm khái niệm biến đổi văn hoá và tính tất yếu khách quan của sự biến đổi đời sống

văn hoá của mỗi vùng, miền, mỗi quốc gia dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung.

Biến đổi văn hoá (cultural change) là chủ đề nghiên cứu rộng của nhiều

ngành khoa học: văn hoá học, xã hội học, nhân học... Theo Từ điển Nhân học, biến

đổi văn hoá là quá trình vận động của tất cả các xã hội. Có rất nhiều nhà khoa học

đã nghiên cứu về biến đổi văn hoá và đều có điểm chung giống nhau khi cho rằng

không có nền văn hoá nào đứng yên một chỗ, cũng như không có một nền văn hoá

nào không có sự thay đổi gì so với thời kỳ khai nguyên của nó. Có thể điểm qua

quan điểm về sự biến đổi văn hoá: Ngay từ thế kỷ XIX, các nhà khoa học khởi

xướng thuyết tiến hoá lụận là E.B.Tylor và L. Morgan cho rằng: “Sự phát triển tiến

bộ tiến hoá của các nền văn hoá là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Xu

hướng phát triển này là rất hiển nhiên, vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của

nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác định, mà không thể làm ngược lại” [109, tr.53].

Cuối thế kỷ XIX, thuyết truyền bá luận ra đời và phát triển phổ biến ở các

nước Âu - Mỹ. Tác giả Ph.Ratxen, người Đức trong cuốn Địa lý học nhân loại

28

Nhập môn dân tộc học đã có những kết luận về sự truyền bá các nền văn hoá trong

không gian, về sự hình thành và nguồn gốc của chúng. Ph.Ratxen nhìn nhận nguồn

gốc cơ bản của những biến đổi trong các nền văn hoá là ở những tiếp xúc qua lại

giữa chúng. Các đại biểu của xu hướng truyền bá luận cho rằng: truyền bá, tiếp xúc,

đụng chạm, hấp thụ, thiên di văn hoá là nội dung chủ yếu của quá trình lịch sử. Như

vậy, quan điểm nghiên cứu về biến đổi văn hoá của các nhà truyền bá luận đối lập

với quan điểm của các nhà tiến hoá luận.

Từ năm 1920 đến năm 1950, một phương pháp tiếp cận biến đổi văn hoá có

ảnh hưởng lớn ở nước Anh là thuyết chức năng, trong đó phải kể đến hai nhà

nghiên cứu Radcliffe Brown và Malinowski. Theo quan điểm của các nhà chức

năng luận, một nền văn hoá thay đổi khi nó chịu những tác động bên ngoài. Đưa ra

quan điểm này, các nhà chức năng luận không có ý định nghiên cứu sự thay đổi các

mối quan hệ xã hội, mà ý định của họ chính là nghiên cứu mối quan hệ qua lại về

chức năng của các hệ thống văn hoá, xã hội, chứ không phải nghiên cứu cách thức

hệ thống này được thay đổi.

Đến năm 1955, phương pháp tiếp cận biến đổi văn hoá khác trong nhân học

Bắc Mỹ về sinh thái văn hoá đã được Julian Steward khởi xướng, năm 1960

phương pháp này đã có ảnh hưởng lớn ở cả khu vực và trên thế giới. Julian Steward

cho rằng, biến đổi có thể là một sản phẩm ngẫu nhiên của lịch sử hay sự kiện tình

cờ do tiếp xúc giữa các nền văn hoá với nhau. Ông đưa ra nhiều nghiên cứu để

chứng minh rằng, biến đổi văn hoá có thể được giải thích chủ yếu xét về sự thích

nghi tiến bộ của một nền văn hoá nào đó với môi trường của chúng.

Biến đổi văn hoá diễn ra theo nhiều chiều và nhiều cấp độ khác nhau. Tuy

nhiên, đã có sự tương đối thống nhất về định nghĩa trong các cuốn Từ điển các khái

niệm nhân học văn hoá, Robert H.Winthdrop đã nêu rõ: “Biến đổi văn hoá bao hàm

những sự chia sẻ, những sự biến đồi tương đối lâu dài của những mô hình ứng xử

và niềm tin văn hoá. Nhìn ở khía cạnh lịch sử, xã hội nào cũng biểu lộ những sự

biến đổi, cũng trộn lẫn những sự tiếp nối và biến đổi” [110, tr.65-66].

Trong công trình Biến đổi văn hoá ở các làng quê hiện nay (trường hợp làng

Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) (2009),

29

Nguyễn Thị Phương Châm đã chia cuốn sách thành 3 chương, trong đó, tác giả

dành hẳn chương 1 viết về Biến đồi văn hoá: Những tiền đề lý thuyết và thực tiễn,

theo Nguyễn Thị Phương Châm: “Dù còn rất nhiều quan điểm, những sự phân tích

khác nhau về toàn cầu hoá và văn hoá, nhưng các nhà nghiên cứu có chung thống

nhất cho rằng sự biến đổi văn hoá là xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu hoá,

sự biến đổi ấy đã và đang diễn ra rất đa dạng, ở nhiều cấp độ và diễn ra theo nhiều

chiều hướng khác nhau” [11, tr.17].

Theo Nguyễn Thị Phương Châm: “Biến đổi văn hoá được hiểu là quá trình

vận động của các xã hội (...) Để nghiên cứu các chiều cạnh của biến đổi văn hoá,

các nhà nhân học, xã hội học, văn hoá học... thường gắn nó với phát triển, với toàn

cầu hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, công nghiệp hoá (...) Ở mức độ cụ thể hơn, sự

biến đổi văn hoá được tìm hiểu trong quá trình hiện đại hoá gắn với sự phát triển

kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở những xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp

sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại” [11, tr. 9, 11,

18]. Nghiên cứu biến đổi văn hoá ở nước ta hiện nay, tác giả viết: Công cuộc đổi

mới bắt đầu từ năm 1986 mang theo làn gió mới đến cho sự thay da đổi thịt ở các

làng quê (...) Tìm hiểu về những sự biến đổi văn hoá ở các làng quê, đặt làng trong

các dòng chảy kinh tế, xã hội và văn hoá là vấn đề trọng tâm trong các nghiên cứu

về làng Việt châu thổ sông Hồng trong hai thập kỷ qua” [11, tr.47 - 48].

Những nghiên cứu của các tác giả trên đều dễ dàng nhận thấy một điểm

chung về biến đổi văn hoá, rằng biến đổi văn hoá là một hiện tượng phổ biến, là một

bước tiến bộ trong sự phát triển của dân tộc và nhân loại; biến đổi văn hoá là do quá

trình thay đổi phương thức sản xuất, kỹ thuật sản xuất, dẫn đến thay đổi nếp nghĩ,

nếp sống, đời sống tinh thần phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội

trong từng giai đoạn lịch sử nhất định của mỗi dân tộc.

Nghiên cứu biến đổi văn hoá của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh là nghiên

cứu về biến đổi văn hoá truyền thống (chủ yếu là tín ngưỡng, lễ hội, phong tục) và

tiêu dùng văn hoá (sản phẩm, phương thức tiêu dùng) trong đời sống của họ như

phần phạm vi nghiên cứu đã đề cập.

30

1.2.3. Quan niệm về tiêu dùng văn hoá

Khi bàn về văn hoá tiêu dùng, tác giả Lê Như Hoa cho rằng: “Tiêu dùng văn

hoá tức là dùng những sản phẩm văn hoá (được sản xuất ra trong lĩnh vực tinh

thần) vào sinh hoạt hàng ngày, phục vụ cho sinh hoạt cá nhân, gia đình, cộng đồng;

vào mục đích văn hoá nhằm hoàn thiện nhân cách người, gia đình, cộng đồng”

[38]. Từ quan niệm trên có thể hiểu, tiêu dùng văn hoá là cách thức sử dụng các

sản phẩm văn hoá dưới dạng tinh thần trong đời sống thường nhật, việc tiêu dùng

này góp phần không nhỏ vào việc nâng cao ý thức và giá trị về mặt nhân cách của

người tiêu dùng.

Tác giả Nguyễn Tiến Mạnh cho rằng: “Tiêu dùng văn hoá là một khái niệm

chỉ một loại tiêu dùng mà ở đó, thông qua việc dùng các sản phẩm văn hoá hoặc

dịch vụ văn hoá mà nhu cầu tinh thần của con người được thoả mãn, đáp ứng” [53].

Theo đó, tiêu dùng văn hoá thể hiện trong một số lĩnh vực chủ yếu như: Du lịch, thể

dục thể thao, văn hoá, nghệ thuật giải trí, giáo dục… Trong bối cảnh hiện nay, tiêu

dùng văn hoá còn được hiểu chính là tính trào lưu, phổ biến, tính khoa học kỹ thuật,

tính đại chúng và tính toàn cầu hoá. Từ khái niệm nêu trên cho thấy, tiêu dùng văn

hoá là đề cập đến sản phẩm văn hoá tinh thần và dịch vụ văn hoá tinh thần được

người tiêu dùng văn hoá đánh giá cao, họ được sở hữu, tiêu dùng và thưởng thức

thông qua phương tiện tiêu dùng và cách thức tiêu dùng.

Từ những quan điểm của các tác giả đi trước viết về tiêu dùng văn hoá, NCS

thấy rằng, ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, tiêu dùng văn hoá đều có tính đặc trưng

của thời đại và đa phần là theo chiều hướng phát triển hướng tới tương lai. Tuy

nhiên, tiêu dùng văn hoá dù ở thời đại nào đi chăng nữa thì cũng cần phải có điều

kiện để tồn tại và phát triển, đó là điều kiện kinh tế và sự phát triển của khoa học

công nghệ. Điều kiện kinh tế sẽ quyết định đến mức độ, số lượng, chất lượng trong

tiêu dùng văn hoá của chủ thể văn hoá. Song các yếu tố về kinh tế chịu sự chi phối

của yếu tố khoa học công nghệ, bởi trên thực tế khi khoa học công nghệ chưa phát

triển, chưa sản xuất ra các sản phẩm hiện đại thì tiêu dùng văn hoá chỉ ở một mức

độ nhất định.

Từ những quan niệm về tiêu dùng văn hoá của các tác giả đi trước đã trình

31

bày ở trên, trong phạm vi nội dung của luận án, tiêu dùng văn hoá được NCS đề cập

là việc sử dụng những sản phẩm văn hoá để đáp ứng, thoả mãn nhu cầu tinh

thần của cư dân hiện nay, và việc tiêu dùng sản phẩm văn hoá này cũng chỉ đề

cập đến tiêu dùng sản phẩm tinh thần, gắn liền với sản phẩm tinh thần là công

cụ phương tiện tiêu dùng văn hoá và phương thức tiêu dùng văn hoá. Chẳng hạn,

trong tiêu dùng trực tiếp sản phẩm văn hoá như: tiêu dùng các chương trình truyền

hình, phim ảnh, phần mềm trò chơi điện tử, sách báo, tạp chí và cũng bao gồm các

loại sản phẩm phương tiện phục vụ tiêu dùng sản phẩm văn hoá liên quan cần có

như: Ti vi, đầu đĩa, máy tính… và hàng loạt hệ thống cơ sở thiết chế văn hoá như:

thư viện, nhà triển lãm trưng bày, nhà hát, rạp chiếu phim …

Việc nhận diện sự tiêu dùng (hành vi tiêu dùng) văn hoá của cư dân, có thể

được xem xét trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau dựa vào các tiêu chí khác

nhau. Căn cứ vào đối tượng (chủ thể) tiêu dùng, chúng ta có: tiêu dùng cá nhân, tiêu

dùng cộng đồng, tiêu dùng nhóm. Trong tiêu dùng nhóm, có thể được phân thành

các nhóm dựa vào lứa tuổi (trẻ em, thanh niên, người già…), dựa vào nghề nghiệp

(sinh viên, công nhân, ngư dân,…), dựa vào mức sống (giàu, nghèo,…). Căn cứ vào

phương thức tiêu dùng, ta có: đọc, nghe - nhìn, tổng hợp,… Căn cứ vào nội dung,

giá trị của sản phẩm văn hoá, có: văn hoá truyền thống, văn hoá hiện đại,… Căn cứ

vào phương tiện chuyển tải, có: đài, ti vi, truyền hình cáp, mạng Internet,… Căn cứ

vào không gian tiêu dùng, có: tiêu dùng tại gia đình, tiêu dùng tại địa điểm công

cộng. Căn cứ vào thời gian rỗi, có: tiêu dùng hàng ngày, tiêu dùng hàng tuần, tháng,

năm. Căn cứ vào loại hình sản phẩm văn hoá, có: văn nghệ, thể thao, vui chơi giải

trí,… Căn cứ vào loại hình nghệ thuật, có: phim (điện ảnh), ca nhạc,… Trong luận

án, tiêu dùng văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay được nhận diện dựa

trên tiêu chí không gian tiêu dùng, gồm có: tiêu dùng văn hoá tại gia đình và tiêu

dùng văn hoá tại các địa điểm công cộng. Tuy nhiên, dù cách phân loại dựa vào tiêu

chí nào cũng chỉ mang tính tương đối, vì trong hình thức phân loại này lại mang đặc

điểm của cách phân loại kia. Do đó, mặc dù luận án dựa vào tiêu chí không gian,

nhưng trong từng địa điểm không gian đó, lại được đề cập dựa trên phương tiện

chuyển tải. Vì vậy, sự phân loại ở đây chỉ có ý nghĩa giúp người nghiên cứu dễ dàng

32

hơn trong quá trình tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Từ đó có thể thấy được mức độ,

chất lượng, thị hiếu cũng như tác động của tiêu dùng sản phẩm văn hoá đến các chủ

thể văn hoá đang tụ cư tại vùng ven biển Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.

1.2.4. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Theo cách hiểu cổ điển, công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,

toàn diện các hoạt động sản xuất và sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử

dụng một cách phổ biến sức lao động dựa trên phát triển của ngành công nghiệp cơ

khí. Trong thời đại ngày nay, CNH được hiểu không chỉ là quá trình chuyển dịch từ

nền kinh tế trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo sang nền kinh tế công nghiệp

là chủ đạo, mà CNH còn được hiểu là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp

(hay tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội

công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.

Hiện đại hóa được hiểu là quá trình ứng dụng và trang bị các thành tựu khoa

học và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và

quá trình kinh tế-xã hội nói chung. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, HĐH là quá

trình chuyển biến từ tính chất truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại. Về ý

nghĩa kinh tế-xã hội, HĐH được giải thích là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã

hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Trong thời đại ngày nay, cũng có thể nói rằng

HĐH tương ứng với thời kỳ tri thức hóa.

Ở nước ta, thường sử dụng cả cụm từ CNH, HĐH với cách hiểu công nghiệp

hóa và hiện đại hóa luôn luôn gắn kết với nhau trong cùng một quá trình. Sự nghiệp

CNH, HĐH ở nước ta bắt đầu được khởi xướng từ những năm cuối của thế kỷ XX.

Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) diễn ra vào

ngày 25/7/1994, thảo luận và thông qua Nghị quyết về “Phát triển công nghiệp,

công nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp

công nhân trong giai đoạn mới”. Hội nghị lần thứ bảy cũng đã đưa ra định nghĩa về

CNH, HĐH là: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản,

toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ

sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động

cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự

33

phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội cao”[23]. Từ điển Bách khoa Việt Nam đã trích định nghĩa này làm

khái niệm CNH, HĐH có bổ sung: “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt

Nam hiện nay lấy CNH gắn với HĐH đất nước” là “Quá trình chuyển đổi căn bản,

toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ

sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động

cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự

phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội cao. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng nền công

nghiệp đại cơ khí có khả năng cải tạo (trước hết là nền nông nghiệp và toàn bộ nền

kinh tế quốc dân) nhằm biến một nước kinh tế chậm phát triển, sản xuất nhỏ là phổ

biến sang nền sản xuất lớn sang chuyên môn hóa, hiện đại hóa”[40, tr.732].

Theo quan niệm trên, nội dung CNH, HĐH chủ yếu ở nước ta gồm:

- Thực hiện cuộc cách mạng khoa học-công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất-

kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.

Để thực hiện hai nội dung trên, nội dung cụ thể được xác định ở những năm

trước mắt là: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ

các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; phát triển nhanh hơn công nghiệp,

xây dựng và dịch vụ; phát triển kinh tế vùng; phát triển kinh tế biển.

Như vậy, phát triển kinh tế biển được xác định là một trong những nội dung

trước mắt của CNH, HĐH đất nước “Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển

kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc

gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và

hợp tác quốc tế” [25].

Có thể nói, sự tác động của CNH, HĐH một mặt làm cho đời sống văn hóa

của cư dân ven biển Hà Tĩnh được nâng cao, tạo ra nhiều cơ hội mới trong giao lưu,

tiếp biến, sáng tạo,…Nhưng, mặt khác cũng đưa đến những thách thức mới trong

đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

34

1.2.5. Quan niệm vùng và vùng ven biển Hà Tĩnh

1.2.5.1. Quan niệm vùng

Vùng là một thuật ngữ được luận bàn khá nhiều ở nước ta cũng như ở một số

nước trên thế giới, nhiều nhất là vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Tuy nhiên, việc luận bàn này vẫn chưa đưa đến một khái niệm đồng nhất, do đó cách

hiểu và áp dụng thuật ngữ “vùng” vào thực tiễn ở nước ta vẫn còn rất khác nhau.

Trong các văn bản của nhà nước “vùng” được dùng để chỉ một không gian

địa lý nhất định có tính xa xôi hẻo lánh, cách trở về khoảng cách giữa vùng đó đến

với nơi trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá, như “vùng sâu”, “vùng xa”,…“Vùng”

có khi được dùng để chỉ một không gian lãnh thổ, bao gồm nhiều tỉnh mà các tỉnh đó

có chung đặc điểm hoặc một số đặc điểm nhất định nào đó, như: vùng Bắc Bộ, vùng

Tây Bắc, vùng Bắc Trung Bộ,.... Cách sử dụng này được thực hiện trong lịch sử phân

vùng của nước ta nhằm chủ yếu phục vụ cho mục đích quản lý.

Trong dân gian thuật ngữ “vùng” được sử dụng để chỉ một khu vực có mức

độ rộng, hẹp khác nhau, như “vùng Hưng Yên”, “vùng Nghệ Tĩnh”, “vùng Hải

Phòng”, “vùng Hà Tĩnh”, “vùng Nghi Xuân”, “vùng Đức Thọ”, “vùng Cầu

Giấy”,… Cũng trong dân gian, từ xa xưa đã từng gọi các miền, các vùng trong cả

nước bằng từ xứ: xứ Đông, xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc, xứ Thanh, xứ Nghệ, xứ

Quảng, … Với quan niệm vùng theo nghĩa này không chỉ đơn thuần dựa trên cái nhìn

địa lý, mà còn phần nào có sự chiêm nghiệm về văn hoá dân gian [106, tr.9].

Như vậy, sự khác nhau về khái niệm “vùng” được thể hiện trong cách nói,

cách sử dụng của người dân, cho đến sự phân chia, hoạch định vùng trong công

tác quản lý của các cấp quản lý... Sau đó giới khoa học đã quan tâm đến vấn đề

này. Xu hướng chung của các nhà khoa học đều bắt đầu từ việc đề cập khái niệm,

tiêu chí phân vùng và việc phân nước ta ra các vùng khác nhau dựa trên những

tiêu chí nhất định.

Trong công trình “Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hoá”, các tác giả

cho rằng: Vùng (Region) là một khu vực địa lý (vùng đất, vùng trời, vùng biển),

không gắn với sự trực thuộc về mặt hành chính, lãnh thổ (Territoire) thì được hiểu

là một vùng địa lý trực thuộc vào một cơ quan hành chính. Do đó trong một lãnh thổ

35

có thể có nhiều vùng và trong một vùng có thể gồm nhiều lãnh thổ [106, tr. 88-89].

Từ cách gọi vùng trong dân gian, cách phân vùng trong lịch sử quản lý, đến

quan niệm vùng của các nhà khoa học, cho thấy “vùng” thực chất là việc phân chia

không gian lãnh thổ ra những đơn vị có mức độ rộng, hẹp khác nhau (tuỳ vào mục

đích của việc phân vùng), mà ở đó có chung đặc điểm hoặc một số đặc điểm nhất

định, thường là để phục vụ cho một mục đích nào đó. Do đó, phân vùng là sản

phẩm của tư duy khoa học, dựa trên một số tiêu chí và phương pháp mà người làm

công tác nghiên cứu đã lựa chọn. Vì vậy trên cùng một lãnh thổ, có thể có nhiều sơ

đồ phân vùng khác nhau và khó có thể có một sự phân vùng “khách quan” tuyệt đối.

Tuy nhiên, cũng có thể coi vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một sắc

thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối quan hệ tương

đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó cũng như những mối quan hệ có

chọn lọc với các không gian các cấp bên ngoài.

1.2.5.2. Vùng ven biển Hà Tĩnh

Về vùng ven biển, được hiểu không chỉ là vùng nước chạy cặp bờ biển,

chịu ảnh hưởng của biển rõ rệt mà còn bao gồm cả dải đất liền ven biển bị ảnh

hưởng trực tiếp và gián tiếp của biển. Thí dụ như vùng các cửa sông bị tác động

bởi mực thủy triều lên, xuống, theo đó mang theo nguồn lợi từ biển vào sông, từ

sông ra biển. Về mặt đời sống vùng ven biển không chỉ có nghề cá mà ở đấy còn

có sản xuất nông nghiệp, làm muối, và các nghề thủ công liên quan như: làm câu,

đan lưới, đóng thuyền... Về mặt đời sống văn hóa vùng ven biển là vùng mà các

cư dân có tập tục chỉ dùng các sản phẩm từ biển, bị chi phối bởi “lịch con nước”

và bởi các tín niệm từ biển như tập tục thờ cá Ông (Voi)... Với các yếu tố như vừa

đề cập mà tùy theo đặc điểm địa lý cụ thể ở từng nơi, vùng ven biển có thể ăn sâu

vào trong đất liền ở các mức độ rộng, hẹp khác nhau, có nơi ăn sâu vào trong đất

liền hàng chục ki lo mét…

Theo như những gì đã đề cập trên đây, vùng ven biển được đề cập trong

luận án là một khu vực (không gian) địa lý (vùng đất) nằm dọc bờ biển Hà

Tĩnh, không gắn với sự trực thuộc về mặt hành chính lãnh thổ, được kéo dài từ

36

đầu tỉnh đến cuối tỉnh Hà Tĩnh, đi qua lãnh thổ của 5 huyện Nghi Xuân, Lộc Hà,

Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Đây cũng là một trong “bốn dạng địa hình cơ

bản ở Hà Tĩnh” là: vùng núi, vùng trung du, vùng đồng bằng (nội đồng) và vùng

ven biển [15, tr.48].

Căn cứ vào các yếu tố trên, vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay có 35 xã: Xuân

Hội, Xuân Trường, Xuân Đan, Xuân Phổ, Xuân Hải, Xuân Yên, Xuân Thành, Cổ

Đạm, Xuân Liên, Cương Gián (thuộc huyện Nghi Xuân), Thịnh Lộc, Thạch Kim,

Thạch Bằng, Thạch Châu, Mai Phụ, Hộ Độ (thuộc huyện Lộc Hà), Thạch Bàn,

Thạch Hải, Thạch Lạc, Thạch Trị, Thạch Văn, Thạch Hội (thuộc huyện Thạch Hà),

Cẩm Hoà, Cẩm Dương, thị trấn Thiên Cầm, Cẩm Nhượng, Cẩm Lĩnh (thuộc huyện

Cẩm Xuyên), Kỳ Xuân, Kỳ Phú, Kỳ Khang, Kỳ Ninh, Kỳ Hà, Kỳ Lợi, Kỳ Phương,

Kỳ Nam (thuộc huyện Kỳ Anh). Các xã ven biển Hà Tĩnh đều chịu sự tác động và

ảnh hưởng trực tiếp của môi trường biển.

1.3. Khái quát về vùng ven biển Hà Tĩnh

1.3.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế và văn hoá

1.3.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên

Tỉnh Hà Tĩnh thuộc vùng duyên hải Bắc Trung bộ có toạ độ địa lý từ

17053'50'' đến 18

045'40'' vĩ độ Bắc và 105

005'50'' đến 106

o30'20'' kinh độ Đông,

cách thủ đô Hà Nội 340 km về phía Nam, phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam

giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây là dãy Trường Sơn tiếp

giáp với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Diện tích đất tự nhiên 6.025,6 km2,

chiếm khoảng 1,7% diện tích toàn quốc. Địa hình Hà Tĩnh hẹp và dốc nghiêng dần

từ Tây sang Đông, ở phía Tây có nhiều dãy núi cao; phía dưới là vùng đồi thấp

giống bát úp; tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển; sau cùng là những bãi

cát ven biển với nhiều vũng, vịnh. Nhìn tổng thể địa hình Hà Tĩnh có 4 dạng: vùng

núi, vùng đồi trung du, vùng đồng bằng (nội đồng) và vùng ven biển.

Vùng ven biển Hà Tĩnh chiếm chưa đến 10% diện tích của tỉnh, bờ biển dài

137km, địa hình trung bình cao trên dưới 3m so với mực nước biển, bị uốn lượn

theo mức độ thấp ra cửa biển từ vùng đồi núi phía Tây, càng về phía Nam càng hẹp.

37

Phía Bắc giáp vùng biển của tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp vùng biển của tỉnh

Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây là vùng nội đồng nhỏ hẹp bị chia

cắt bởi các dãy núi, sông suối. Dọc bờ biển Hà Tĩnh có bốn cửa sông (cửa biển) là

Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng và Cửa Khẩu. Ven biển Hà Tĩnh có nhiều dãy núi

nhô ra tận biển, nhiều nhất là ở bờ biển phía nam (từ huyện Thạch Hà trở vào) như:

núi Nam Giới (Thạch Bàn, Thạch Hà), núi Thiên Cầm (thị trấn Thiên Cầm, Cẩm

Xuyên), núi Bàn Độ, núi Cao Vọng, núi Chóp Cờ (núi Kỳ Đầu), Đèo Ngang (huyện

Kỳ Anh). Ngược lại với bờ biển phía nam, bờ biển phía bắc (thuộc địa phận huyện

Nghi Xuân) địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi, với chiều dài 32km, được

ngăn cách với bờ biển của huyện Lộc Hà bởi ngọn Hồng Lĩnh. Các ngọn núi dọc bờ

biển Hà Tĩnh không cao lắm.

Về khí hậu, vùng ven biển Hà Tĩnh có chung một đặc điểm khí hậu của tỉnh,

nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa với đặc trưng của khí hậu miền Bắc,

Nhiệt độ bình quân ở Hà Tĩnh thường cao, nhiệt độ không khí vào mùa đông chênh

lệch thấp hơn mùa hè, bình quân mùa đông thường từ 18 - 22oC, mùa hè từ 25,5 -

33oC. Vùng ven biển Hà Tĩnh, cũng như Hà Tĩnh nói chung có lượng mưa nhiều,

trừ một phần nhỏ ở phía bắc, còn lại các vùng khác có lượng mưa bình quân hàng

năm đều trên 2000mm, cá biệt có nơi trên 3000mm.

Biển Hà Tĩnh có diện tích thềm lục địa 18.400 km2, có hai dòng hải lưu nóng

ấm, mát lạnh chảy ngược, hoà trộn vào nhau. Một dòng cách ven bờ khoảng 30 -

40km, một dòng ở ngoài và sâu hơn. Vùng biển có hai khối nước hỗn hợp pha trộn

thường nằm ở độ sâu 20 - 30m, vùng này cá thường tập trung sinh sống. Nhiệt độ

nước bề mặt cũng thay đổi theo mùa, nhiệt độ cực đại vào tháng 7, tháng 8 có giá trị

tuyệt đối khoảng 30 - 31oC và cực tiểu vào tháng 12 đến tháng 3 khoảng 18 - 22

oC,

nhiệt độ nước cũng tăng dần lên theo hướng Nam và Đông Nam. Biển Hà Tĩnh có

nhiều đảo nhỏ nằm ở gần bờ: Cách bờ biển huyện Nghi Xuân 4km có hòn Nồm,

hòn Lạp; ngoài khơi Cửa Nhượng huyện Cẩm Xuyên cách bờ 5km có hòn Én, cách

bờ 2km có hòn Bơớc; ở phía nam huyện Kỳ Anh cách bờ biển xã Kỳ Lợi 4km có

đảo Sơn Dương độ cao 123m, xa hơn phía Đông có hòn Chim,…

38

Vùng biển Hà Tĩnh có chế độ thuỷ triều, độ sâu, địa mạo, địa hình, đường

đẳng sâu đáy biển, gió mùa Đông Bắc... nên có đầy đủ thực vật phù du của Vịnh

Bắc Bộ, với 193 loài tảo, lượng phù sa của vùng sông Hồng, sông Mã, sông Cả

(sông Lam) tạo ra nhiều nguồn thức ăn cho các loại hải sản sinh sống, cư trú. Do đó

biển Hà Tĩnh có tiềm năng lớn về hải sản, trữ lượng cá ước tính 86.000 tấn (trữ

lượng cá đáy 45.000 tấn, cá nổi 41.000 tấn), trong đó có khả năng cho phép đánh

bắt 54.000 tấn/năm, có 267 loài cá thuộc 97 họ, trong đó có 60 loài có giá trị kinh tế

cao. Trữ lượng tôm khoảng 500 - 600 tấn, có 27 loài tôm, trữ lượng mực vùng lộng

3.000 - 3.500 tấn,…

Ngoài ra, do đặc điểm tự nhiên, địa hình, cấu tạo,... vùng ven biển Hà Tĩnh

còn có tiềm năng lớn về các mặt, như: có nhiều bãi biển đẹp có thể đầu tư xây dựng

các khu du lịch- đô thị ven biển như: bãi biển Thiên Cầm (huyện Cẩm Xuyên), bãi

biển Xuân Thành (huyện Nghi Xuân), bãi biển Đèo Con, bãi biển Kỳ Ninh (huyện

Kỳ Anh), bãi biển Thạch Bằng (huyện Lộc Hà), bãi biển Thạch Hải (huyện Thạch

Hà),... có nhiều bãi triều, cồn cát, các vùng đất ngập nước, dải cát ven biển,… rất

thuận lợi cho việc sản xuất muối và nuôi trồng thuỷ hải sản mặn, lợ,…Vùng biển

Hà Tĩnh còn nằm ở vị trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế hàng hải và giao

thương quốc tế, đó là: nằm trên hành lang của các tuyến hàng hải quốc tế, là cửa

ngõ ra biển của Lào và Thái Lan thông qua QL12A, có đường QL1A, xa lộ Bắc

Nam đi qua (và tương lai sẽ đấu nối với đường sắt Quốc gia). Ven biển Hà Tĩnh có

tiềm năng về hệ thống các cảng biển, gồm: Cảng thương mại Xuân Hải (hiện có 2

bến được thiết kế cho tàu trọng tải 1.000DWT), Cảng cá cửa Sót, cảng cá Cẩm

Nhượng, cảng cá Xuân Hội, cảng cá cửa Khẩu, … đặc biệt có cụm cảng nước sâu

Vũng Áng - Sơn Dương, là cảng biển quốc tế có khả năng tiếp nhận tàu từ 5 đến 20

vạn tấn, … Ven biển Hà Tĩnh có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản lớn, như: Mỏ

sắt Thạch Khê có trữ lượng khoảng 544 triệu tấn, có hàm lượng Fe 61,39 đến 62,38

%; quặng Titan ở ven biển Kỳ Anh có trữ lượng trên 5,3 triệu tấn, thuộc loại quặng

giàu, hàm lượng Ilmenite từ 63,3 đến 147,4kg/m3, Zircon từ 3-5,2kg/m

3. Từ năm

1999 đến nay đã tiến hành khai thác khoáng sản ven biển gồm sản phẩm từ Titan và

39

hiện tại đang tiến hành khai thác mỏ sắt Thạch Khê.

Với sự phong phú về tiềm năng, lợi thế, vùng ven biển Hà Tĩnh trong thời kỳ

CNH, HĐH đang trở thành khu kinh tế trọng điểm của Bắc Trung bộ, thu hút mạnh

mẽ nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư từ nước ngoài. Thực trạng đó làm cho

vùng ven biển Hà Tĩnh từ chỗ thuần nhất về nền kinh tế, văn hoá, đang từng bước

được phân hoá thành các khu kinh tế mới với những nét đặc thù của thời kỳ CNH,

HĐH. Hiện nay, ở vùng ven biển Hà Tĩnh hình thành các khu kinh tế mới đó là: khu

kinh tế đánh bắt, tập trung ở các xã cửa biển (Xuân Hội, Thạch Kim, Cẩm Nhượng,

Kỳ Ninh); khu kinh tế du lịch, tập trung ở các xã có bãi biển đẹp (Xuân Thành,

Thạch Bằng, Thiên Cầm, Đèo Con,…); khu kinh tế công nghiệp, tập trung ở địa bàn

giàu tài nguyên khoáng sản với đặc điểm cửa biển sâu, giao thông thuận lợi, các tàu

thuyền lớn ra vào dễ dàng, đó là các xã ven biển của huyện Kỳ Anh, nối liền với

cảng nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương, gồm có xã ven biển Kỳ Nam, Kỳ Phương,

Kỳ Lợi, Kỳ Ninh,…

Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng, lợi thế, biển Hà Tĩnh cũng bị ảnh

hưởng bởi điều kiện khí hậu khắc nghiệt, thời tiết không thuận lợi, thường xuyên

chịu ảnh hưởng của thiên tai; tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, dẫn

đến tình trạng xâm thực biển diễn ra mạnh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống

cộng đồng cư dân ven biển.

1.3.1.2. Đặc điểm dân cư

* Qúa trình hình thành cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh

Các nguồn tư liệu cho biết Hà Tĩnh là vùng đất cổ. Vào thời tiền sử đã có cư

dân văn hoá Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró cư trú, dấu vết để lại là các di

chỉ khảo cổ mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên, thành

phố Hà Tĩnh, Can Lộc, Đức Thọ, Nghi Xuân và một số địa điểm ở Hương Sơn,

Hương Khê,… Tất cả các di chỉ khảo cổ học đã cung cấp tư liệu để chứng minh cư

dân văn hoá Sơn Vi, cư dân văn hoá Quỳnh Văn, cư dân văn hoá Bàu Tró từng sinh

tồn và phát triển trên mảnh đất này. Trong đó đặc biệt đáng chú ý là cư dân văn hoá

Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró, cư dân của hai nền văn hoá này được các nhà

40

nghiên cứu khẳng định là cư dân văn hoá biển. Trong các đống di tồn mà cư dân của

hai nền văn hoá Quỳnh Văn và Bàu Tró để lại có xương của các loài cá biển rất lớn,

từ dấu vết đó, các nhà khoa học cho rằng cư dân của hai nền văn hoá này đã tiến hành

đi khơi, đi lộng và họ đã đánh bắt các loài cá lớn ở biển để ăn và để lại xương của các

loài cá đó trong đống di tồn. Hầu hết các địa điểm di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá

Quỳnh Văn và văn hoá Bàu Tró tìm thấy trên đất Hà Tĩnh chỉ cách bờ biển ngày nay

từ 4 - 12km, đó là: các di chỉ khảo cổ học ở Thạch Lạc, Thạch Lâm, Thạch Đài,

Thạch Vĩnh thuộc huyện Thạch Hà; di tích Cẩm Thành ở huyện Cẩm Xuyên; di tích

bãi Phôi Phối huyện Nghi Xuân; di tích núi Nài - thành phố Hà Tĩnh,... Căn cứ vào

những di vật thu lượm được cũng như độ dày tầng văn hoá và mật độ phân bố dày

đặc của 12 di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hoá Bàu Tró trên đất Hà Tĩnh, các nhà

Khảo cổ học nhận định “cư dân văn hoá Bàu Tró đã có cuộc sống định cư lâu dài trên

đất Hà Tĩnh và có xu hướng hướng ra biển, khai thác biển” [55, tr.152].

Tư liệu lịch sử còn cho biết, vào thời Hùng Vương vùng đất Hà Tĩnh thuộc bộ

Cửu Đức, một trong 15 bộ của nước Văn Lang, núi Hoành Sơn (Đèo Ngang) là biên giới

phía Nam của nhà nước Văn Lang với nhà nước Hồ Tôn (sau này là nước Lâm Ấp, rồi

Chăm-pa năm 808), “Hoành Sơn là biên giới phía Nam của nước Văn Lang” [35].

Đến thời Bắc thuộc, một số tài liệu cho biết cư dân vùng ven biển Nghệ Tĩnh

(bao gồm Hà Tĩnh và Nghệ An ngày nay), từ Quỳnh Lưu đến Kỳ Anh ngoài nghề

trồng lúa, đã dùng thuyền ra khơi đánh cá và biết phơi nước biển lấy muối. Trải qua

các triều đại phong kiến tự chủ “tại miền đất Hà Tĩnh đã có người Chiêm Thành

(Chăm), người Trung Quốc (Hoa) và cả một số ít người Nhật đến cư trú, sinh sống,

làm ăn, buôn bán. Nhưng ngày nay con cháu họ đã Việt hoá và một bộ phận đã hồi

cư vào những năm sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai. Sự đan xen ấy còn để lại dấu

ấn văn hoá, tập tục của các dân tộc đó trong đời sống cư dân Hà Tĩnh” [87].

Các giai đoạn phát triển về sau, đặc biệt là dưới thời Lê, Nguyễn với nhiều lý

do như: “Tìm miền đất lạ”, lánh nạn giặc ngoại xâm, nội chiến giữa các triều đại

phong kiến, đi lính, đến làm quan,… cư dân một số nơi đến cư trú trên vùng đất Hà

Tĩnh (thường là các cửa biển và vùng ven biển - vị trí thuận lợi trong giao thông

41

đường thuỷ - loại hình giao thông phổ biến trong lịch sử của dân tộc ta) rồi ở lại xây

cơ lập nghiệp trên mảnh đất này. Do đó cư dân ở Hà Tĩnh có người từ các tỉnh phía

Bắc (Nghệ An, Thanh Hoá, đồng bằng Bắc Bộ) vào, có người đằng trong (Quảng

Trị, Quảng Bình) ra, có người Bồ Lô cư trú (di điệu còn lại khá đông ở các cửa biển

Nghệ An và Hà Tĩnh), có cả người phương Bắc sang,...Đến thế kỷ thứ VII, VIII

(SCN) có người Bồ Lô đến cư trú. Đến đời Nam Tống bị quân Nguyên Mông đánh

thua ở Nhai Sơn, trên đường lánh nạn không ít trung thần nghĩa sĩ cuối nhà Nam

Tống chạy xuống Việt Nam vào Nghệ Tĩnh để tìm nơi lánh nạn, họ cư trú phần lớn

ở tại các làng ven biển. Từ đó về sau, ngoài cư dân bản địa, cư dân đến cư trú từ các

thế kỷ trước, có bao họ, bao người từ đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hoá, phương Nam

đến cư trú tại các làng ven biển Hà Tĩnh trong nhiều thời gian khác nhau, bây giờ họ

sống trong các cộng đồng làng xã ở ven biển Nghệ Tĩnh [35].

Trong số những người di cư từ các nơi đến sống ở vùng ven biển Hà Tĩnh có

người là thuỷ tổ, khai cơ tạo lập nên làng, con cháu họ hiện nay đã được địa phương

hoá. Các sách: Địa chí huyện, lịch sử Đảng bộ xã, “Làng cổ Hà Tĩnh” do Thái Kim

Đỉnh chủ biên, có đề cập đến nguồn gốc dân cư một số làng ven biển Hà Tĩnh.

Bên cạnh nguồn tư liệu bằng văn bản, dấu ấn về sự di cư này còn được lưu ở

các di tích thờ cúng nhân vật có công khai lập làng, như: Ở xã Xuân Hải (huyện

Nghi Xuân) có nhà thờ Đinh Công Trứ (cha của vua Đinh Tiên Hoàng sau này) đã

làm quan dưới triều Ngô, giữ chức thứ sử Hoan Châu, đã đem dân từ sông Hồng,

sông Mã vào khai thác đất hai ven bờ sông Cả lập nên làng Đan Hải (xã Xuân Hải

ngày nay), đôi câu đối tại nhà thờ ông ở xã Xuân Hải hiện nay có nhắc đến điều

này. Tại làng Hải Khẩu (thuộc xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh ngày nay) hiện còn miếu

thờ vị tổ lập nên làng là Lê Hữu Truyền (em Lê Hữu Trác) từ Hải Dương vào lập

nên làng Hải Khẩu,…

Như vậy, cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh có nguồn gốc bác tạp, ngoài nhóm

cư dân tiền trú còn có cư dân các vùng miền khác đến khai cơ, lập nghiệp rồi ở lại.

Tuy có sự khác nhau về nguồn gốc, nhưng cùng định cư trên một mảnh đất, cùng

chung một môi trường mưu sinh và cùng hưởng chung nguồn lợi từ biển, họ đã

42

được chính mảnh đất đó địa phương hoá trở thành cư dân ven biển Hà Tĩnh. Quá

trình lịch sử như vừa đề cập, khiến bây giờ chúng ta khó nhận ra hay phân biệt sự

khác nhau về gốc gác giữa họ, họ đã cùng nhau xây dựng nên một nền văn hoá

mang đặc trưng vùng biển Hà Tĩnh, cùng nhau vượt qua những khắc nghiệt của

thiên nhiên, giặc giã ngoại xâm, đùm bọc thương yêu nhau, cùng nhau đóng góp sức

mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

* Các khối cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay

Do không đủ số liệu, nên không thể xác định được trong khoảng 1,3 triệu

dân cư ở Hà Tĩnh hiện nay thì số lượng dân cư cư trú tại vùng ven biển chiếm bao

nhiêu phần trăm (%). Nhưng, có thể nhận định rằng đại đa số dân cư đều tập trung

cư trú tại khu vực đồng bằng nhỏ hẹp và khu vực ven biển (70% dân số/20% đất tự

nhiên của toàn tỉnh). Tại vùng ven biển, căn cứ theo các nghề mưu sinh của các

nhóm cư dân, trước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta có thể hình dung

sự phân bố các nhóm cư dân ven biển Hà Tĩnh như sau:

- Đa phần cư dân ven biển tập trung phân bố tại 4 cửa biển: cửa Hội, cửa Sót,

cửa Nhượng và cửa Khẩu. Đây là khu vực các cửa sông đổ ra biển (người địa

phương gọi là vùng bãi dọc), do có điều kiện để đưa thuyền vào sâu trong sông

tránh bảo nên nghề cá và nghề vận chuyển đường biển, đường sông tại đây rất phát

triển. Đi kèm theo đấy là các nghề chế biến hải sản, buôn bán và các nghề phụ, dịch

vụ cũng phát triển theo. Các cửa biển là những khu vực sầm uất, cư dân đông đúc,

kinh tế phát triển và đời sống văn hóa rất sôi động. Trong thời gian gần đây, vùng

các cửa biển cũng là những vị trí diễn ra quá quá trình CNH, HĐH một cách tập

trung. Chính vì thế mà để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi cũng đã chọn 3 trong 4

khu vực cửa biển làm các điểm khảo sát để thực hiện đề tài luận án: cửa Sót điểm

phát triển nghề cá, đánh bắt xa bờ; cửa Nhượng điểm phát triển du lịch, dịch vụ và

điểm cửa Khẩu (Vũng Áng) phát triển công nghiệp.

- Phần cư dân ven biển còn lại phân bố tại các vùng bãi ngang-các khu vực

ven biển không có cửa sông. Bởi không có cửa sông nên khi có bão họ không thể

đưa thuyền vào tránh, mà họ phải đưa thuyền lên bãi cát để cất dấu. Bởi thế họ

43

không thể sử dụng thuyền lớn và theo đó mà nghề cá không phát triển, họ chỉ đánh

bắt gần bờ và thu nhập từ nghề cá không cao. Bù vào đấy, họ kết hợp nghề cá với

sản xuất nông nghiệp và làm các nghề khác để sinh tồn. Do vậy, so với cư dân ở

vùng các cửa sông (bãi dọc) thì đời sống của các cư dân bãi ngang (trong đó có đời

sống văn hóa) thấp hơn. Cũng do các vùng này không có lợi thế nên quá trình CNH,

HĐH diễn ra tại đây còn chậm. Mặc dù đời sống mọi mặt, trong đó có đời sống văn

hóa của các cư dân ở khu vực này đã ít nhiều bị tác động bởi quá trình CNH, HĐH,

nhưng nhìn chung đời sống văn hóa truyền thống của các cư dân ở khu vực này vẫn

tiếp tục được duy trì. Trong phạm vi của đề tài luận án này chưa đủ điều kiện khảo

sát vùng này cho nghiên cứu so sánh. Hy vọng sau này sẽ có dịp trở lại để tìm hiểu

kỹ lưỡng hơn những vấn đề vừa đề cập.

1.3.1.3. Đặc điểm kinh tế

Hà Tĩnh là một trong 28 tỉnh, thành phố của cả nước có biển, với đặc điểm

địa lý, tự nhiên đã trình bày ở trên, ngành nghề chủ yếu của cư dân các xã ven biển

Hà Tĩnh là ngư nghiệp, nông nghiệp và một số nghề tiểu thủ công nghiệp (chế biến

hải sản, làm muối,...), thương nghiệp (buôn bán hải sản). Do đặc điểm khí hậu, địa

hình ở các xã ven biển Hà Tĩnh phức tạp, đất đai thổ nhưỡng chủ yếu là đất cát, cát

trắng và đất trũng sâu, nhiễm mặn,... nên nông nghiệp (bao gồm cả chăn nuôi)

không phát triển. Ở các xã bãi ngang, cư dân chủ yếu trồng các loại bầu, bí, khoai

lang, cải củ. Ở các xã bãi dọc như: Xuân Hội (Nghi Xuân), Cẩm Nhượng (Cẩm

Xuyên), Thạch Kim (Lộc Hà),... do diện tích đất hẹp, được dành chủ yếu cho việc

làm nhà ở và xây dựng các công trình phúc lợi, công trình công cộng, thổ nhưỡng

chủ yếu là cát nhiễm mặn, nên cư dân chỉ trồng được một số cây ăn quả như na, khế

và cây che bóng mát như phi lao, keo,... Một số xã vùng cửa biển ăn sâu vào nội

đồng, lợi dụng nước thuỷ triều lên để sản xuất muối. Với đặc điểm đất đai, thổ

nhưỡng như vậy, nên từ xưa đến nay, vùng ven biển Hà Tĩnh phát triển mạnh về

khai thác các tiềm năng kinh tế biển.

Kinh tế biển truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh, có: đánh bắt, chế

biến và buôn bán hải sản, làm muối, một số nghề thủ công phục vụ đánh bắt và chế

biến hải sản. Tuỳ theo môi trường đánh bắt (đánh bắt cửa sông, đánh bắt lộng, đánh

44

bắt khơi), mà ngư dân ven biển Hà Tĩnh áp dụng các phương thức và ngư cụ đánh

bắt khác nhau. Phương thức đánh bắt truyền thống chủ yếu là thủ công với các ngư

cụ đánh bắt, như: lưới Rút, lưới Xăm, lưới Mười, nghề Te, nghề Câu, nghề Thả

bóng, nghề vó sáng, đăng, đáy... Về chế biến hải sản truyền thống của cư dân ven

biển Hà Tĩnh, có: muối mắm (mắm lù, mắm chượp, mắm tôm,…) và nướng cá. Thủ

công truyền thống có nghề đóng thuyền và nghề đóng thùng, những lúc nông nhàn

rảnh rỗi hoặc bão tố không ra khơi cư dân có thêm một số nghề khác như: đan lưới,

tết buồm cói,... Bên cạnh các nghề trên, cư dân ở cửa biển có nghề làm muối. Về

buôn bán truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh, chủ yếu dành cho chị em phụ

nữ, họ thường mang cá và các sản phẩm chế biến từ hải sản (nước mắm, ruốc,…) đi

các chợ trong tỉnh bán. Nước mắm Hà Tĩnh xưa ngon có tiếng, với các làng nổi

tiếng như: nước mắm Cương Gián (xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân), nước mắm

Nhượng Bạn (xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên), nước mắm Hải Khẩu (cửa

Khẩu - xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh),... Do vậy, từ xưa ở vùng ven biển Hà Tĩnh

(chủ yếu các xã bãi dọc) xuất hiện một số thương nhân lớn vận chuyển nước mắm

đi ra các tỉnh phía Bắc và ra các nước bằng đường thuỷ để bán, do đó giao thương

buôn bán cũng là nghề sớm được phát triển ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Ngày nay các

làng nghề sản xuất nước mắm truyền thống của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh không

còn phát triển như trước.

Sang thời kỳ CNH, HĐH, vùng ven biển Hà Tĩnh với tiềm năng về tài

nguyên biển và lợi thế về mặt giao thông biển, nên không chỉ phát triển mạnh nghề

đánh bắt với những đầu tư thiết bị hiện đại, mà một số ngành nghề mới (của nền

kinh tế công nghiệp) đã xuất hiện và phát triển mạnh trong vùng, đó là: nghề nuôi

trồng thuỷ hải sản mặn, lợ (với hình thức nuôi chuyên canh công nghiệp, bán công

nghiệp), nghề du lịch (nhiều khu du lịch biển được hình thành), các ngành công

nghiệp (các khu công nghiệp ra đời), dịch vụ hàng hải (xây dựng các hải cảng

thương mại, trong đó có cả hải cảng thương mại quốc tế), buôn bán hải sản bằng ô

tô đi các tỉnh và ra các nước,... Tuy nhiên, bên cạnh đó một số nghề thủ công truyền

thống của vùng hiện nay không còn được phát triển, như: đóng thuyền, đóng thùng,

45

đan lưới, tết buồm cói. Bởi ngày nay những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất

bằng công nghệ hiện đại,thuyền ngày nay là những con tàu lớn được mua từ các

xưởng đóng tàu ở các tỉnh phía Nam, vì vậy nghề đóng thuyền trong vùng ngày

nay chỉ giữ vai trò sửa chữa khi có hư hỏng nhẹ. Nghề chế biến hải sản như muối

mắm ngày nay cũng đã sử dụng hệ thống thùng bê tông, thùng nhựa, hoặc đồ sành

(chum, choé, lon) thay cho thùng gỗ trước đây, vì vậy đóng thùng ngày nay cũng

không còn,... Nghề chế biến nước mắm ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay cũng

không còn nổi tiếng như trước. Nghề đánh bắt ngày nay được trang bị các thiết bị

công nghệ hiện đại. Tàu đánh cá có động cơ công suất lớn thay thế cho thuyền

buồm chạy bằng sức gió, các thiết bị hỗ trợ khác được lắp đặt trên tàu đánh cá

thay thế sức người với công nghệ tinh vi, như: máy dò cá, máy định vị, động cơ

kéo lưới,... Buôn bán hải sản ngày nay không chỉ dành cho nữ giới, mà phát triển

mạnh với những lái buôn lớn, họ thành lập các cơ sở thu mua, cơ sở đông lạnh,

chuyên chở hải sản bằng xe ô tô chuyên tải cỡ lớn đi ra các tỉnh và qua biên giới

đến các nước...

Với tính chất chuyên nghiệp và chuyên biệt là đặc điểm của thời kỳ CNH-

HĐH, vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay đang diễn ra sự phân hoá, hình thành các

khu kinh tế tập trung với ba dạng cơ bản là: 1/Khu kinh tế đánh bắt. 2/ Khu kinh tế

du lịch. 3/Khu kinh tế công nghiệp (sẽ còn được đề cập nhiều ở các mục sau).

Từ chỗ hình thành các khu kinh tế đặc thù, tập trung đã xuất hiện một số

ngành nghề mới và các dịch vụ đi kèm ra đời, đó là: nghề kinh doanh, xây dựng,

phục vụ khách du lịch, lái xe, vận tải, bốc vác,…; các dịch vụ: chở khách du lịch,

cho thuê xe du lịch, quán ăn hải sản, các trại sản xuất giống, cơ sở thu mua hải

sản, hậu cần nghề cá (mua, bán nhiên liệu, đá lạnh,…), khách sạn - nhà hàng, quán

ăn, nhà nghỉ; các dịch vụ vui chơi giải trí (karaoke, bi-a,…), các dịch vụ chăm sóc

làm đẹp, các cửa hàng tạp hoá, cửa hàng thiết bị điện tử, quán Internet, dịch vụ xe

đưa đón công nhân, dịch vụ vận chuyển hàng hoá và vật liệu xây dựng, công nhân,

thợ kỹ thuật,… Việc hình thành các khu kinh tế chuyên biệt, tập trung ở vùng ven

biển Hà Tĩnh, là qui hoạch có tính chiến lược của tỉnh về thực hiện CNH, HĐH

trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của từng khu kinh tế.

46

1.3.1.4. Đặc điểm văn hoá

Hà Tĩnh là vùng “địa linh”, cũng là vùng biên viễn “phên dậu” của nhà nước

Đại Việt, là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (dưới triều đại phong kiến

Lê mạt). Từ ngàn xưa đến nay, vùng đất Hà Tĩnh luôn đóng giữ vai trò, vị trí chiến

lược quan trọng của Tổ quốc. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hà

Tĩnh là “cái nôi” của cách mạng Việt Nam, sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, chí

sĩ cách mạng, các nhà chính trị lỗi lạc, các nhà khoa học trên các lĩnh vực…

Văn hoá ven biển Hà Tĩnh là một phần của văn hoá Hà Tĩnh, do đặc điểm có

các cửa biển, nên vùng ven biển Hà Tĩnh trong lịch sử là điểm giao thoa văn hoá

giữa các cộng đồng người và giữa các vùng, miền, là vị trí chiến lược thường diễn

ra các cuộc giao chiến giữa nhà nước Đại Việt với nhà nước Chăm-pa, giữa các

triều đại phong kiến Việt Nam với bọn xâm lược bên ngoài,… những dấu ấn lịch sử

này còn để lại trên đất Hà Tĩnh nói chung và vùng ven biển Hà Tĩnh nói riêng nhiều

di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh quan trọng.

Theo con số thống kê đầu năm 2014, Hà Tĩnh có trên 400 di tích danh thắng

đã được xếp hạng, trong đó có một di tích quốc gia đặc biệt, 73 di tích cấp quốc gia

và 348 di tích cấp tỉnh. Hệ thống di tích ở Hà Tĩnh phân bố đều khắp các huyện

trong tỉnh, phong phú đa dạng về loại hình, bao gồm: di tích khảo cổ học, di tích

lịch sử (ghi dấu sự kiện, cách mạng kháng chiến, lưu niệm danh nhân,…), di tích

kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh.

Các di tích, danh thắng vùng ven biển Hà Tĩnh chiếm số lượng khá lớn trong

hệ thống di tích danh thắng của Hà Tĩnh, đặc biệt là các di tích khảo cổ học nằm

chủ yếu ở các huyện ven biển, đó là: di tích Rú Trò và di chỉ Phái Nam, di tích

Thạch Lạc, di tích Thạch Đài (thuộc huyện Thạch Hà), di tích Cẩm Thành (thuộc

huyện Cẩm Xuyên), di tích Xuân An (thuộc huyện Nghi Xuân),… mang dấu ấn sinh

hoạt và cư trú của cư dân văn hoá Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró (thời kỳ

đá mới) trên đất Hà Tĩnh,

Hà Tĩnh còn phong phú các di tích lịch sử ghi dấu sự kiện, gồm có: Đèo

Ngang - Hoành Sơn, còn gọi là Hoành Sơn quan (cổng Hoành Sơn) ghi lại dấu ấn

47

biên giới phía nam giữa nước Đại Việt với nước Chiêm Thành. Về di tích lịch sử

cách mạng, kháng chiến có: Ngã ba Đồng Lộc, Ngã ba Nghèn, An toàn khu Hà

Tĩnh, khu di tích lịch sử cách mạng Rôộc Cồn,... Phong phú nhất ở Hà Tĩnh, là loại

di tích lưu niệm các danh nhân, như: Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn

Công Trứ, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lý Tự Trọng,…

Vùng ven biển Hà Tĩnh phong phú với loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật

(như đình, đền, chùa, miếu,…) mang đậm dấu ấn sinh hoạt văn hoá tinh thần, tín

ngưỡng, tôn giáo của cư dân ven biển Hà Tĩnh, tiêu biểu có: Đền Chế Thắng Phu

Nhân Nguyễn Thị Bích Châu (ở cửa Khẩu - Kỳ Anh), đền Lê Khôi (ở cửa Sót -

Thạch Hà), đền Ngư Ông, đền Cả (ở Cẩm Nhượng - Cẩm Xuyên), đình Hội Thống

(Xuân Hội-Nghi Xuân),… Danh lam thắng cảnh ở ven biển Hà Tĩnh, gồm có: danh

thắng “Quỳnh Viên” - núi Nam Giới với đền thờ Lê Khôi ở cửa Sót, xã Thạch Bàn,

huyện Thạch Hà; núi Thiên Cầm với hang “Đàn trời” ở thị trấn Thiên Cầm, huyện

Cẩm Xuyên,… Làng nghề thủ công truyền thống vùng ven biển Hà Tĩnh trước đây,

nổi tiếng có các làng sản xuất nước mắm như: làng Cương Gián (xã Cương Gián,

huyện Nghi Xuân), làng Nhượng Bạn (xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên), làng

Hải Khẩu (xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh),…

Ở Hà Tĩnh và ven biển Hà Tĩnh rất phong phú về mảng thơ ca dân gian, hát

nói, hò vè, “bước đầu các nhà nghiên cứu đã thống kê được gần 100 làn điệu dân ca

xứ Nghệ” [87], trong đó dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh và ca trù Cổ Đạm Hà Tĩnh (cùng

với ca trù của Việt Nam) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể

đại diện của nhân loại; hò chèo cạn Cẩm Nhượng (xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm

Xuyên) được Bộ VH,TT&DL công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Hát

ví vùng ven biển Hà Tĩnh thường diễn ra vào những đêm vá lưới, đan lưới dưới

trăng, nam nữ chia thành từng tốp hát đối đáp nhau rất tình tứ, có nhiều cặp qua

những đêm hát ví mà nên vợ thành chồng.

Cùng với hát ví, vè cũng là thể loại có tiếng ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà

Tĩnh. Vè là một loại hát nói phản ánh cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất của cư

dân. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh nổi tiếng với những bài vè về các loài cá, vè nhật

48

trình đi biển,vè nhật trình địa đồ từng vùng đánh bắt,…

Do cuộc sống chỉ biết dựa vào biển (cả sự hào phóng, cũng như những cơn

thịnh nộ bất thường), trong hoàn cảnh đó, cư dân tìm đến các vị thần. Và vì vậy, đời

sống tín ngưỡng của cư dân ven biển Hà Tĩnh vô cùng phong phú.Trước hết là tín

ngưỡng thờ Cá Voi (Ngư Ông). Cùng với tín ngưỡng thờ cá Voi, là các vị Thành

Hoàng làng. Thành Hoàng làng ở vùng ven biển Hà Tĩnh là những người có công

thành lập làng, hoặc các tổ nghề (thường là nghề đánh cá hoặc một số nghề liên

quan đến biển), hay những nhân vật có công với dân, với nước, những vị tướng

đánh giặc qua các thời kỳ lịch sử,... Trong gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh, rất coi

trọng thờ cúng tổ tiên và những vị thần linh tại gia khác.

Lễ hội, nét sinh hoạt văn hoá tinh thần mang tính tổng hợp, khá phong phú ở

vùng ven biển Hà Tĩnh. Gắn liền với hệ thống di tích đền, đình, chùa, miếu, là sự đa

dạng của các sinh hoạt lễ hội. Lễ hội của cư dân ven biển Hà Tĩnh đa dạng chẳng

kém gì hệ thống cơ sở tín ngưỡng trong vùng, thậm chí còn có phần phong phú đa

dạng hơn về sắc thái. Ngoài các lễ hội gắn với việc tưởng nhớ ngày mất của các vị

thần được thờ cúng tại các di tích đình, đền, miếu; một số làng còn lập đàn chay

cúng tế những người đi biển bị đắm tàu hoặc bị mất tích trên biển, lễ thí thực, lễ

Cầu Ngư, lễ Lục Ngoạt... đây là những lễ lớn được tổ chức trọng thể, có phạm vi

rộng và có tính phổ biến ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Trong lễ hội có các trò chơi, trò

diễn,… mang đậm sắc thái vùng biển, các sắc thái sinh hoạt văn hoá tinh thần này

của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Hà Tĩnh, và là

một bộ phận của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, về đặc điểm văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh được

biểu hiện phong phú, đang dạng, mang đậm bản sắc của môi trường biển, môi

trường đánh bắt, khai thác biển. Tuy nhiên, trước sự nghiệp CNH, HĐH đang diễn

ra mạnh mẽ ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nét văn hoá tinh thần truyền thống

đó của cư dân ven biển Hà Tĩnh đang có những biến đổi, diễn ra theo các xu hướng

khác nhau, xuất phát từ đặc điểm phát triển kinh tế của thời kỳ CNH, HĐH (nội

dung này sẽ được trình bày kỹ ở các chương 2 và 3 của luận án).

49

1.3.2.Tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven biển Hà Tĩnh

1.3.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

gắn với kinh tế vùng ven biển

Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh

phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ quan điểm của

Chỉ thị, cùng với chủ trương xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển,

phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển, gắn kết với yêu cầu bảo vệ

đất nước; đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác

với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để phát huy

thế mạnh và các tiềm năng của biển Việt Nam trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần thứ tư

ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW

ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn mạnh

"Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương” [25].

1.3.2.2.Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng ven biển Hà Tĩnh

Thực hiện đường lối đổi mới, CNH, HĐH và chiến lược biển của Đảng và

Nhà nước, từ năm 1997 đến nay, Chính phủ, Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban

hành nhiều văn bản triển khai, thực hiện, cụ thể hoá đường lối lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước, lập các quy hoạch, xây dựng các dự án, chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, vùng ven biển Hà Tĩnh hiện có các khu kinh tế,

khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu du lịch - đô thị và các cảng biển sau:

- Về khu kinh tế và cảng biển: có khu kinh tế Vũng Áng, với quan điểm, mục

tiêu xây dựng là: Phát triển Khu kinh tế Vũng Áng phù hợp với quan điểm phát

triển và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, tăng cường hợp tác

kinh tế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thích ứng linh hoạt với môi trường cạnh

tranh quốc tế.

- Về khu công nghiệp có: khu công nghiệp Vũng Áng I, nằm trong tổng thể

Khu kinh tế Vũng Áng.

- Cụm công nghiệp có cụm công nghiệp ở huyện Cẩm Xuyên và hạ tầng các

cảng Vũng Áng, Sơn Dương,…

50

- Khu du lịch ven biển có: khu du lịch quốc gia biển Thiên Cầm (1.577ha),

khu du lịch biển Xuân Thành (300ha), khu du lịch biển Lộc Hà (500ha), khu du lịch

biển Kỳ Ninh và Kỳ Xuân; khu du lịch Quỳnh Viên Lê Khôi, du lịch biển Thạch Hải.

- Khu đô thị có: khu đô thị tại thị trấn Kỳ Anh - Vũng Áng; các dự án nhà ở

cho công nhân và người lao động tại Khu kinh tế Vũng Áng, thành lập thị xã Kỳ

Anh (Nam Hà Tĩnh).

Ngày 27/11/2012 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến 2050. Quan điểm

phát triển của bản quy hoạch đề cập nhiều đến vấn đề tập trung nguồn lực để phát

triển các ngành kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế động lực, phát triển mạnh kinh tế

biển và ven biển, tạo chuyển biến căn bản, đột phá về chất lượng, tăng trưởng gắn

với thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; từng bước xây dựng Hà Tĩnh trở thành

một trong những trung tâm công nghiệp lớn của đất nước.

Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, quá trình CNH,

HĐH ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay diễn trên các lĩnh vực chủ yếu sau:

* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong khai thác, đánh bắt

Khai thác, đánh bắt là một trong những hoạt động kinh tế có tính đặc trưng

của cư dân ven biển so với các vùng, miền khác trong tỉnh từ trước đến nay. Hiện

nay, hoạt động khai thác, đánh bắt của cư dân ven biển có nhiều thay đổi so với

trước, thể hiện trong đầu tư trang thiết bị, ngư cụ đánh bắt, hoạt động đánh bắt, hiệu

quả đánh bắt, chế biến và tiêu thụ sản phẩm…

Theo con số thống kê của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tĩnh,

hiện nay (năm 2014) toàn tỉnh có 3.724 tàu khai thác hải sản; trong đó loại có công

suất dưới 20cv là 2.879 chiếc; loại có công suất từ 20cv đến dưới 50cv có 610

chiếc; loại từ 50cv đến dưới 90cv có 105 chiếc; loại từ 90cv trở lên có 130 chiếc.

Hầu hết các tàu đánh bắt xa bờ được trang bị thiết bị, công nghệ hiện đại, như: Máy

định vị, máy dò cá, máy bộ đàm, máy trực canh, điện thoại, hầm bảo quản sản phẩm

51

trên tàu cá và các trang thiết bị hỗ trợ ngư cụ đánh bắt như: Tời, cẩu thu lưới, buly,

con lăn,… Mặc dù, việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ đánh bắt được triển

khai rộng rãi ở tất cả các xã vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nhưng tập trung mạnh

nhất ở các xã thuộc khu kinh tế đánh bắt (các xã bãi dọc), vì đây là khu có nhiều tiềm

năng, lợi thế để đầu tư phát triển nghề cá (như đã giới thiệu ở trên). Tại khu kinh tế

này, hiện nay nhà nước có chính sách khuyến khích, cho ngư dân vay vốn để đầu tư

đóng tàu lớn và mua sắm trang thiết bị hiện đại, tập trung phát triển nghề cá và đảm

bảo an ninh vùng biển.

Theo quy hoạch của tỉnh, hiện có 4 làng cá nằm ở 4 cửa biển, thuộc 4/5

huyện ven biển là: làng cá Xuân Hội (xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân); làng cá

Thạch Kim (xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà); làng cá Cẩm Nhượng (xã Cẩm

Nhượng, huyện Cẩm Xuyên) và làng cá Kỳ Hà (xã Kỳ Hà, huyện Kỳ Anh). Tuy

nhiên, trong bốn làng cá, có hai làng nằm trong khu kinh tế đánh bắt là làng cá Xuân

Hội và làng cá Thạch Kim, tại hai làng này có 02 nghiệp đoàn nghề cá được thành

lập. Còn hai làng cá Cẩm Nhượng và Kỳ Hà nằm trong quy hoạch của khu kinh tế du

lịch, nên sẽ được phát triển thành làng nghề truyền thống. Hiện toàn tỉnh có 49 tổ, đội

đánh bắt hải sản trên biển, tập trung ở 4 làng cá. Những năm qua, sản lượng khai

thác, đánh bắt trên toàn tỉnh tăng dần qua từng năm, chỉ tính riêng năm 2013 đạt

30.145 tấn (trong đó vùng biển 26.975 tấn, vùng nội địa 3.170 tấn).

Cùng với việc tăng nhanh sản lượng khai thác, đánh bắt, tại khu kinh tế đánh

bắt đã hình thành các chợ trung tâm đầu mối thuỷ hải sản, chuyên cung cấp hải sản

đi các chợ lớn trong tỉnh, ra các tỉnh và ra thế giới, các cảng cá thương mại, các

công ty đông lạnh, nhà máy sản xuất đá lạnh, các nhà máy chế biến thuỷ hải sản,

các cơ sở cung cấp nhiên liệu, dịch vụ sửa chữa tàu cá,… phát triển rất mạnh ở khu

kinh tế này. Các dịch vụ vận tải, cơ sở hạ tầng, đường sá,… được đầu tư phát triển,

làm cho các xã vùng cửa biển (bãi dọc) vốn đã chật chội, nay trở nên sầm uất với

lượng xe thu mua, chuyên chở hải sản vào ra tấp nập, có cả xe trong tỉnh và xe từ

các tỉnh đến. Xe từ các tỉnh đến khu kinh tế đánh bắt ở vùng ven biển Hà Tĩnh

không chỉ để thu mua, mà còn bán, nhập cá từ các nơi khác đến.

52

* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nuôi trồng thuỷ hải sản

Bên cạnh khai thác, đánh bắt, CNH, HĐH đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động

nuôi trồng thuỷ hải sản ở vùng ven biển Hà Tĩnh, bởi hiệu quả nuôi trồng thuỷ hải

sản phụ thuộc rất lớn vào việc đổi mới khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Ở ven

biển Hà Tĩnh, hoạt động nuôi trồng thuỷ hải sản tập trung ở các xã cửa sông, trong

các đầm, phá nước lợ hoặc ở các xã bãi ngang, nơi có các lạch nước được con người

tạo ra để dẫn nguồn nước mặn vào. Những năm qua kinh tế nuôi trồng thuỷ hải sản

vùng ven biển Hà Tĩnh phát triển mạnh, diện tích nuôi trồng thuỷ sản ngày càng

được mở rộng, diện tích nuôi tôm trên cát theo hướng bán thâm canh, thâm canh

công nghiệp tăng nhanh, đã hình thành 52 vùng nuôi trồng thuỷ sản ven biển có quy

mô trên 15ha/vùng, mỗi năm thu hút thêm 1.000 lao động tham gia, góp phần thúc

đẩy phát triển kinh tế các xã ven biển. Năng suất thuỷ hải sản nuôi bình quân toàn

tỉnh đạt 1,83 tấn/ha, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,23%/năm. Tính đến cuối năm

2013, diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh đạt 7.870ha (trong đó nuôi ngọt 5.080ha;

nuôi mặn, lợ 2.790ha, diện tích nuôi thâm canh công nghiệp 300ha), tổng sản lượng

nuôi trồng đạt 11.746 tấn (trong đó nuôi ngọt 5.755 tấn, nuôi mặn, lợ 5.991 tấn).

* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển du lịch-đô thị biển

Du lịch bãi biển là một trong những tiềm năng, thế mạnh của vùng ven biển

Hà Tĩnh. Hiện tại Hà Tĩnh đã đưa vào khai thác, sử dụng các bãi tắm, như: bãi tắm

Thiên Cầm (thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên), bãi tắm Thạch Hải (xã Thạch

Hải, huyện Thạch Hà), bãi tắm Thạch Bằng (xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà), bãi

tắm Xuân Thành (xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân), bãi tắm Kỳ Ninh (xã Kỳ

Ninh, huyện Kỳ Anh). Trước đây, các bãi tắm này còn hoang sơ, chưa có đầu tư lớn

cho phát triển du lịch. Hiện nay, do tác động và chiến lược phát triển CNH, HĐH,

các bãi biển này hiện đang thu hút những dự án đầu tư lớn, hình thành nên các khu

du lịch nghỉ mát hiện đại theo quy hoạch của tỉnh.

Hiện nay, tỉnh Hà Tĩnh đã và đang kêu gọi đầu tư vào các khu du lịch ven biển

với những dự án đầu tư lớn, như: khu du lịch Thiên Cầm (huyện Cẩm Xuyên) được

đầu tư thành khu du lịch quốc gia, với tổng diện tích quy hoạch 1.557 ha, gồm thị trấn

53

Thiên Cầm, xã Cẩm Dương, xã Cẩm Lĩnh và toàn bộ diện tích đất tự nhiên xã Cẩm

Nhượng. Dự án hiện đang được triển khai thực hiện với tổng vốn đầu tư của dự án là

10.289 tỷ đồng, trong đó: giai đoạn 1 (từ năm 2010 - 2013) là 289 tỷ đồng và giai

đoạn 2 (từ năm 2014 - 2017) là 10.000 tỷ đồng, do Công ty Cổ phần đầu tư phát triển

Thiên Cầm làm chủ đầu tư. Khu du lịch biển Xuân Thành đã được đầu tư 38 tỷ đồng,

trong tương lai sẽ tiếp tục đầu tư các khu du lịch Kỳ Ninh (huyện Kỳ Anh), Thạch

Bằng (huyện Lộc Hà), Thạch Hải (huyện Thạch Hà),… Bên cạnh các nguồn vốn từ

ngân sách Nhà nước, có nhiều dự án đầu tư với quy mô lớn của các doanh nghiệp

trong và ngoài nước tại các khu du lịch như: Dự án “Hạ tầng du lịch phục vụ phát triển

toàn diện” do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) tài trợ, trong đó có nội dung xây

dựng hạ tầng khu du lịch Thiên Cầm, hạ tầng giao thông khu du lịch Xuân Thành, kết

nối với khu lưu niệm Danh nhân văn hoá thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du,…

Mặc dù các khu du lịch ven biển Hà Tĩnh hiện đang được triển khai ở giai

đoạn đầu, nhưng hoạt động bãi tắm và các cơ sở lưu trú, ăn uống phục vụ đón khách

du lịch đã đi vào hoạt động và phát triển khá mạnh. Tại các khu du lịch, hệ thống

các nhà hàng, khách sạn, quán ăn, các dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ đưa đón

khách du lịch, dịch vụ thuê xe du lịch, khu vui chơi giải trí giành cho các lứa tuổi,…

đã đi vào hoạt động và mang lại nguồn thu khá lớn cho ngân sách địa phương.

Chiếm số lượng lớn nhất là bãi tắm Thiên Cầm (thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm

Xuyên), hàng năm đã thu hút lượng khách du lịch khá lớn. Trong năm 2015 có

413.000 lượt khách du lịch biển, riêng khu du lịch Thiên Cầm đã có 130.000 lượt

khách. Hiện tại tỉnh Hà Tĩnh đã phê duyệt chiến lược phát triển du lịch đến năm

2020, trong đó xác định phát triển du lịch biển là mũi nhọn quan trọng trong phát

triển kinh tế của Hà Tĩnh.

*Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong xây dựng khu kinh tế tổng hợp ven

biển (Vũng Áng)

Nói đến CNH, HĐH ở ven biển Hà Tĩnh, rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất, biến đổi

lớn nhất, là ở khu kinh tế Vũng Áng. Đây là khu kinh tế tổng hợp ven biển của Hà

Tĩnh, được thực hiện theo Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg, ngày 03/4/2006 của Thủ

54

tướng Chính phủ, về việc thành lập Khu kinh tế Vũng Áng có tổng diện tích tự

nhiên 22.781 ha, thành khu kinh tế trọng điểm của khu vực Bắc Trung Bộ với

không gian kinh tế riêng biệt, với những mục tiêu cơ bản được đề ra là:

- Phát triển trở thành khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, với trọng

tâm là phát triển các ngành công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên,

nguồn nguyên liệu; các ngành công nghiệp gắn với khai thác cảng biển. Phát triển

đồng bộ khu liên hợp cảng Vũng Áng - Sơn Dương bao gồm việc đầu tư khai thác

hiệu quả khu liên hợp cảng, phát triển dịch vụ cảng và các dịch vụ vận tải biển để

trở thành một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của vùng Bắc Trung Bộ.

- Phát triển khu kinh tế Vũng Áng cùng với các khu kinh tế khác của khu vực

để tạo thành chuỗi các khu kinh tế có mối liên kết chặt chẽ với nhau và từng bước

trở thành những hạt nhân tăng trưởng, trung tâm công nghiệp - luyện kim - dịch vụ

cảng biển - Du lịch của khu vực Bắc Trung Bộ; là đầu mối giao lưu quốc tế quan

trọng, góp phần mở rộng thị trường khu vực Bắc Trung Bộ và trở thành cầu nối với

thị trường Lào và Đông Bắc Thái Lan.

Hiện tại, khu kinh tế Vũng Áng đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 84 dự án

với số vốn đăng ký trên 180.000 tỷ đồng. Một số công trình, dự án lớn đang được

đẩy nhanh tiến độ, như: Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng I (1.200MW); Khu Liên

hợp gang thép và Cảng Sơn Dương Formosa (Đài Loan); dự án thép của Tập đoàn

Tata (Ấn Độ), Khu Du lịch Hồ Tàu voi; Khu Đô thị - Dịch vụ Phú Vinh; Tổng kho

xăng dầu, khí hoá lỏng; Nhà máy Liên hợp gang thép của Công ty cổ phần gang

thép Hà Tĩnh... và nhiều dự án có quy mô lớn đang triển khai các bước để được cấp

giấy chứng nhận đầu tư, như: Nhà máy lọc hoá dầu công suất 16 triệu tấn/năm

(12,47 tỷ USD); Nhà máy luyện thép của Công ty cổ phần Sắt Thạch Khê; Nhà máy

Nhiệt điện Vũng Áng II... Nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng đã hoàn

thành và đưa vào sử dụng, như: Các cầu cảng số 1, số 2, nhà máy Nhiệt điện Vũng

Áng 1,... Tương lai không xa, khu kinh tế Vũng Áng sẽ là một khu vực phát triển

năng động, là một trọng điểm phát triển kinh tế của khu vực miền Trung, tạo động

lực mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh lân cận.

55

* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong khai thác chế biến khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản, là một trong những tiềm năng lớn của vùng ven biển

Hà Tĩnh. Hiện nay, vùng ven biển Hà Tĩnh có hai khu công nghiệp khai thác

khoáng sản là khu mỏ sắt Thạch Khê và khu công nghiệp Vũng Áng. Những năm

qua, việc khai thác mỏ sắt Thạch Khê để phục vụ cho phát triển ngành thép Việt

Nam đang được khẩn trương thực hiện. Dự án khả thi khai thác và tuyển quặng sắt

mỏ Thạch Khê, với quy mô 10 triệu tấn/năm đã được phê duyệt, do chủ đầu tư là

công ty Cổ phần sắt Thạch Khê gồm 9 cổ đông có tiềm năng kỹ thuật, tài chính.

Công tác giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư khu vực mỏ được địa phương tập

trung chỉ đạo quyết liệt; Hiện nay cơ bản đã thực hiện xong phần Quy hoạch vùng

tái định cư, đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống giao thông,

điện, nước đến mỏ đang được tập trung thi công; dự án thử nghiệm bóc đất đá và

phương pháp vận chuyển đã thực hiện với khối lượng bốc 1,5 triệu m3 đất cát đã cơ

bản hoàn thành. Phương án vận chuyển quặng từ mỏ vào Khu kinh tế Vũng Áng

hiện đã được tư vấn thiết kế.

Song song với tiến độ khai thác mỏ sắt Thạch Khê, tại khu công nghiệp

Vũng Áng, các dự án luyện cán thép đã được triển khai: Nhà máy thép liên hợp của

tập đoàn Formosa (Đài Loan) công suất giai đoạn 1: 7,5 triệu tấn/năm, giai đoạn 2:

15 triệu tấn/năm đang tập trung thiết kế, xây dựng cơ sở. Nhà máy sản xuất phôi

thép công suất 250.000 tấn/năm (giai đoạn 1), 500.000 tấn/năm (giai đoạn 2) của

Công ty Cổ phần Gang thép Hà Tĩnh đã hoàn thành 85% giá trị xây dựng cơ bản.

Các dự án luyện thép của Công ty cổ phần sắt Thạch Khê, Liên hợp thép của liên

doanh giữa tập đoàn TaTa (Ấn Độ), Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty xi

măng Việt Nam đang khẩn trương làm thủ tục về địa điểm... Việc thực hiện dự án

khai thác mỏ sắt Thạch Khê và các dự án thép tại Hà Tĩnh sẽ tạo bước phát triển đột

phá đối với Công nghiệp tỉnh nhà và của ngành thép Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc khai thác và chế biến sâu quặng Titan tại Hà Tĩnh cũng đã

được Chính phủ, Bộ Công Thương và tỉnh Hà Tĩnh tập trung thực hiện với dự án

sản xuất Pigment từ nguyên liệu Ilmenite đã được Bộ Công Thương thẩm định

56

thông qua với tổng mức đầu tư gần 120 triệu USD, công suất 30.000 tấn/năm. Dự

án do công ty cổ phần Đioxit Titan Việt Nam làm chủ đầu tư gồm 5 cổ đông là các

doanh nghiệp khai thác, chế biến Titan trong cả nước, trong đó có tổng công ty

khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh, đơn vị khai thác, chế biến Titan chính trên địa

bàn địa phương.

* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá dịch vụ cảng biển

Hà Tĩnh có 03 cảng thương mại là cảng biển nước sâu Sơn Dương, cảng

Vũng Áng và cảng Xuân Hải. Trong đó, cảng Vũng Áng: là khu bến tổng hợp,

năng lực tiếp nhận tàu trọng tải 3 - 5 vạn DWT, tàu container sức chở 4000 TEU.

Theo quy hoạch, cảng Vũng Áng được đầu tư xây dựng 15 bến. Hiện nay đã đầu tư

xây dựng 4 bến; trong đó 2 bến do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư, có tổng

mức đầu tư 950 tỷ đồng, năng lực xếp dỡ 1,32 triệu tấn/năm, 2 bến chuyên dùng

phục vụ Tổng kho xăng dầu và Nhà máy nhiệt điện. Hiện đang chuẩn bị đầu tư 2

bến thương mại và 1 bến chuyên dùng cho Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 2. Cảng

Sơn Dương: là cụm cảng nước sâu chuyên dụng, năng lực tiếp nhận tàu tải trọng 30

- 34 vạn tấn, thuộc Dự án Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương của

Tập đoàn Formosa Đài Loan, với công suất bốc dỡ hàng hoá giai đoạn 1 đạt 30 triệu

tấn/năm. Theo quy hoạch, Sơn Dương sẽ trở thành Khu liên hợp cảng nước sâu đặc

dụng cho tổ hợp nhà máy thép tại Khu kinh tế Vũng Áng, được mở rộng công suất

60 - 90 triệu tấn/năm vào năm 2020. Hiện Tập đoàn Formosa đang đầu tư 8 bến,

công suất 30 triệu tấn/năm và 4,2 km đê chắn sóng phục vụ trực tiếp cho Khu liên

hợp luyện thép, lọc hoá dầu, các cơ sở công nghiệp khác. Cảng Xuân Hải, gồm hai

cầu cảng: cầu cảng số 1 và cầu cảng số 2, có thể tiếp nhận tàu 30 nghìn tấn ra vào.

Bên cạnh các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay còn

thực hiện CNH, HĐH ở một số lĩnh vực khác như: Sản xuất muối, phát triển hệ

thống dịch vụ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, bởi giao thông tốt là yếu

tố thuận lợi để tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH.

CNH, HĐH ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà Tĩnh đang tiếp diễn, đã và đang

tạo nên những chuyển biến nhanh chóng về kinh tế-xã hội ở Hà Tĩnh nói chung và ở

57

vùng ven biển của tỉnh này nói riêng. Để đáp ứng nguồn lực cho quá trình chuyển

đổi, một bộ phận cư dân địa phương đã chuyển từ các nghề sản xuất truyền thống

sang làm các nghề mới như kinh doanh, dịch vụ du lịch.... Một bộ phận cư dân nơi

khác đến, kể cả người nước ngoài (Đài Loan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản...) cũng

đã tới đây để làm việc, làm cho mật độ cư dân tăng lên nhanh chóng và thành phần

cư dân đổi thay rõ rệt. Quá trình CNH, HĐH đã làm cho những vùng quê nghèo ven

biển nhanh chóng biến thành các khu kinh tế, các đô thị sầm uất với nhịp sống

nhanh đời sống kinh tế cao. Cùng với quá trình biến đổi kinh tế-xã hội ấy, một làn

sóng văn hóa bên ngoài đã tràn vào tạo ra ở địa phương những nhu cầu hưởng thụ

văn hóa mới. Bằng quan sát trên thực địa, người nghiên cứu có thể nhận thấy trong

đời sống văn hóa của các cư dân ở vùng này, xu hướng tiêu dùng văn hóa (người

hưởng thụ văn hóa mua các sản phẩm hàng hóa văn hóa từ bên ngoài để thỏa mãn

nhu cầu văn hóa) đang lấn át đời sống văn hóa truyền thống của người địa phương

(người hưởng thụ văn hóa chính là các chủ nhân đã sáng tạo nên các thành tố, các

giá trị văn hóa để thõa mãn các nhu cầu của đời sống tinh thần). Những xu hướng

như vừa đề cập và cả những vấn đề khác nữa nếu không được kịp thời nghiên cứu,

nhận thức và có các giải pháp để điều chỉnh thì sự quan ngại về các giá trị văn hóa

truyền thống bị mai một sẽ sớm trở thành hiện thực.

Tóm lại, sự nghiệp CNH, HĐH ở vùng ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây

đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế ven biển Hà Tĩnh, đem đến sự tăng trưởng

kinh tế nhanh góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nơi đây,

dẫn đến đời sống văn hoá của cư dân cũng có những biến đổi trên nhiều mặt.

Tiểu kết

Vùng đất, con người và văn hoá ven biển Hà Tĩnh đã được một số học giả

trong và ngoài nước nghiên cứu. Các học giả quan tâm đề cập đến cư dân tiền trú,

các cơ sở tín ngưỡng và những địa danh ven biển Hà Tĩnh qua các thời kỳ lịch sử.

Một số học giả đề cập đến tính bác tạp của cư dân ven biển Hà Tĩnh, do sự di cư từ

nhiều vùng, miền trong nước và nước ngoài đến.

58

Dưới góc độ dân tộc học, sử học,… một số học giả đề cập đến phương thức

mưu sinh, nét đặc trưng về phong tục, tập quán, đời sống tín ngưỡng của nhóm cư

dân ven biển Hà Tĩnh trong xã hội truyền thống và ở thời kỳ tiền CNH, HĐH. Về

thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước những tác động mạnh

mẽ của sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay là mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án,

chưa có công trình nào đề cập đến. Do đó, các công trình nghiên cứu của các tác giả

đi trước được tổng quan ở chương này là những tài liệu quý báu để NCS kế thừa, tiếp

thu vào luận án, cũng là cơ sở nền tảng gợi ý cho ý tưởng luận án.

Đời sống văn hoá là một phạm trù rộng, trên cơ sở các khái niệm, quan niệm

đời sống văn hoá của các học giả đi trước, NCS xác định đời sống văn hoá được

nghiên cứu trong luận án là đời sống văn hoá tinh thần, luận án tập trung đề cập đến

những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

Tuy nhiên, đời sống văn hoá tinh thần được các tác giả nêu ra cũng mang nội hàm

rộng, gồm nhiều thành tố, luận án chỉ giới hạn ở một số thành tố cơ bản trong đời

sống văn hoá tinh thần để khảo sát và đưa ra nhận định chung cho những biến đổi

đời sống văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, là: tín

ngưỡng, lễ hội, phong tục và tiêu dùng văn hoá.

Bước sang thời kỳ CNH, HĐH, xuất phát từ tiềm năng, thế mạnh, nền kinh tế

vùng ven biển Hà Tĩnh phát triển đa dạng hoá các ngành nghề, trong đó nổi bật với

ba mô hình kinh tế: đánh bắt; du lịch và kinh tế tổng hợp. Với sự ra đời của các khu

kinh tế dặc thù, trọng điểm, nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển ở vùng ven

biển Hà Tĩnh. Trước những thay đổi về kinh tế, đời sống vật chất của cư dân ven

biển Hà Tĩnh được nâng lên, kéo theo đời sống văn hoá của cư dân cũng có những

biến đổi mạnh mẽ, diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau, biểu hiện ngày càng

mạnh mẽ, rõ nét và nhanh chóng (sẽ được trình bày cụ thể ở các chương sau).

59

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA CƢ DÂN

VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TÍN NGƢỠNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC

Tín ngưỡng, lễ hội, phong tục là những sinh hoạt văn hóa tinh thần, thể hiện

nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân, cầu mong một cuộc sống bình an, may

mắn, hạnh phúc, làm ăn phát đạt. Sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội, phong tục trong

ĐSVH thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn Thánh, Thần và những

người đã mang lại cuộc sống bình yên, những giá trị về vật chất và tinh thần cho

cộng đồng và cá nhân,…Ở vùng ven biển Hà Tĩnh, thực trạng tín ngưỡng, lễ hội,

phong tục được thể hiện như sau:

2.1. Tín ngƣỡng

Ở phần này, luận án khảo sát thực trạng đời sống tín ngưỡng của cư dân ven

biển Hà Tĩnh qua hai nội dung cơ bản là các tín ngưỡng (thần chủ, cơ sở thờ tự) và

sinh hoạt tín ngưỡng (niềm tin, nghi lễ,…)

2.1.1. Các tín ngưỡng

2.1.1.1. Tín ngưỡng chung của cộng đồng

Tín ngưỡng chung của cộng đồng cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay rất

phong phú, đa dạng, bao gồm:

* Tín ngưỡng thờ thần biển:

Tín ngưỡng thờ thần biển là tín ngưỡng phụng thờ các linh vật, nhiên thần,

nhân thần có thần tích, thần phả, truyền thuyết,…mang những yếu tố liên quan đến

biển, phát huy vai trò, sự linh ứng ở môi trường biển, bao gồm:

1/. Tín ngưỡng thờ Cá Ông (cá Voi): Cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh cũng

giống với cư dân ven biển của cả nước nói chung (nhất là cư dân ven biển các tỉnh

duyên hải Trung Bộ) xem cá Voi là vị thần cứu tinh mỗi khi gặp sóng to bão tố ở

ngoài biển khơi, có lòng nhân ái giống như con người (Nhân Ngư). Ở Hà Tĩnh hiện

nay, theo khảo sát của NCS hầu hết các làng dọc ven biển từ huyện Nghi Xuân cho

đến huyện Kỳ Anh đều có miếu thờ cá Voi, cư dân gọi các miếu nay bằng những

60

tên tôn kính như: miếu Ông, miếu Đức Ông, miếu Ngư Ông, miếu Nhân Ngư. Tiêu

biểu cho các miếu thờ này hiện nay ở các xã: Xuân Hội, Xuân Hải, Xuân Trường,

Xuân Yên, Xuân Phổ, Xuân Thành, Cổ Đạm, Cương Gián (huyện Nghi Xuân);

Thạch Kim, Thịnh Lộc (huyện Lộc Hà); Thạch Văn, Thạch Hải, Thạch Bàn (huyện

Thạch Hà); Cẩm Dương, Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên); Kỳ Ninh, Kỳ Phú, Kỳ

Lợi (huyện Kỳ Anh);… Bên cạnh các miếu thờ cá là nghĩa trang cá (mộ Cá), ở xã

Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên) sau khu vực miếu thờ Đức Ngư Ông có trên 100

ngôi mộ cá. Có một số xã, người dân đóng các hòm gỗ lớn để đựng xương cá và thờ

trong miếu, đó là các xã Kỳ Ninh, Kỳ Phú, Kỳ Lợi (huyện Kỳ Anh). Ở xã Xuân Phổ

(huyện Nghi Xuân) có hai đền Cá nằm gần nhau được gọi là đền ông, đền mụ; xã

Xuân Hội cũng thuộc huyện Nghi Xuân có tới ba đền cá được bố trí gần nhau là đền

Ông, đền Cô và đền Cậu, trong đó đền Ông thờ cá voi to, đền Cô và đền Cậu thờ

cặp cá voi nhỏ, trong ba ngôi đền có hơn chục tiểu sành đựng hài cốt cá voi. Ở xã

Thạch Hải miếu thờ cá Ông Voi được bố trí kiểu tiền miếu hậu lăng, có hàng rào

bao bọc có lối đi xung quanh tạo thành khuôn viên bao gồm mộ và sân. Hầu hết các

ngôi miếu thờ cá ở vùng ven biển Hà Tĩnh đều được bố trí sát bờ biển, rất thuận tiện

cho ngư dân mỗi khi ra khơi lên thắp hương cầu khấn.

2/. Tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh Nương (Đại Càn Thánh Nương): Các truyền

thuyết về Tứ vị Thánh Nương có rất nhiều, nhưng theo thần tích tại các đền thờ Bà

ở Hà Tĩnh cho biết: Bà là Hoàng hậu nhà Nam Tống (Trung Quốc) cùng hai cô

công chúa và bà nhũ mẫu chết trên biển và trôi dạt về đền Cờn (Quỳnh Lưu, Nghệ

An), cư dân địa phương vớt xác, chôn cất và lập nên đền Cờn để thờ Bà. Sau khi

chết Bà được thượng đế ban cho làm thần biển, vào năm 1312 Bà đã giúp vua Trần

Anh Tông đánh thắng giặc Chiêm Thành, thắng trận trở về vua cho dựng lại đền thờ

Bà to đẹp hơn ở cửa Cờn. Hiện nay, ở vùng ven biển Hà Tĩnh có bốn nơi thờ Tứ vị

Thánh Nương là: Đền Thánh Mẫu (còn gọi là Miếu Bà) ở xã Thịnh Lộc, huyện Lộc

Hà; Đền Cả (còn gọi là đền Đại Càn) ở xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân (ghi rõ thờ

Thánh Mẫu Đại Càn - tức mẹ con bà Thái Hậu nhà Tống) [17, tr.458]; Đền thờ bà

Càn cùng thái hậu Quang Thục (mẹ vua Lê Thánh Tông) ở làng Hoàng Vân xã Cẩm

61

Dương, huyện Cẩm Xuyên; Đền Ngu, xã Thạch Trị phối thờ Tứ vị Thánh Nương và

một số vị thần khác. Ngoài ra, ở chân rú Voong, làng Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh, huyện

Kỳ Anh có ngôi miếu nhỏ, có người cho rằng đó là miếu thờ Đại Càn Thánh

Nương, có người lại cho rằng đó là miếu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hiện nay

chưa tìm thấy thần tích. Thế nhưng, nếu đúng ngôi miếu ở chân rú Voong thờ Tứ

vị Thánh Nương (Đại Càn Thánh Nương), thì cả 5 huyện ven biển của Hà Tĩnh

đều có đền thờ Bà và vị trí các ngôi đền (miếu) đều nằm gần các cửa biển xưa

hoặc nay của Hà Tĩnh. Như vậy, tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh Nương, về bản chất

được các nhà nghiên cứu (cũng như truyền thuyết) cho biết đó là tín ngưỡng thờ

thần Biển.

3/. Thờ Sát Hải, tức là Hoàng Tá Thốn - một tướng giỏi đời Trần (thế kỷ 13),

quê ở cửa Vạn Phần, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có tài lặn xuống biển đục

thủng thuyền chiến quân giặc, góp phần đánh tan quân Nguyên ở sông Bạch Đằng

(năm 1288). Sau khi mất, ông được phong là Sát Hải Đại tướng quân, Thiên Hồng

nguyên soái chi thần, trông coi các cửa bể, nhân dân nhớ ơn lập đền thờ Ông ở nhiều

nơi [31, tr.291]. Hiện nay, Ông được thờ ở các đền: Đền Ngu, xã Thạch Trị (Thạch

Hà); đền Đô Thống ở xã Xuân Hội (Nghi Xuân); Đền Sát Hải Đại Tướng Quân ở xã

Thịnh Lộc (huyện Lộc Hà), đền Sát Hải Đại Vương, xã Kỳ Ninh (Kỳ Anh), ...

4/. Thờ Tam Lang hay Tam Lang thần (ba con rắn). Theo chuyện kể: Ngày

xưa, khi vua Lê Thánh Tông đích thân đem quân đi đánh Chiêm Thành. Khi đoàn

thuyền của nhà vua qua cửa sông Đan Nhai (Xuân Hội), bỗng nhiên sóng gió nổi

lên, hiện ra ba quả trứng trên mặt nước, đoàn thuyền không vượt qua được, nhà vua

bèn cầu khấn: “Nếu thần giúp ta dẹp yên giặc, khi hồi quân sẽ được phong thưởng”.

Sau lời cầu khấn của nhà vua gió yên sóng lặng, thuyền đi như bay… Thắng trận trở

về, nhớ lại lời hứa vua cho lập đền thờ “Chân Long đại vương”, phong hiệu thần

“Tam Lang” [31, tr.314]. Hiện đền thờ Tam Lang có ở các xã: Thạch Trị, Thạch

Hải (huyện Thạch Hà), Xuân Hội, Xuân Hải (huyện Nghi Xuân).

* Tín ngưỡng thờ Mẫu:

Bên cạnh thờ thần biển, ở vùng ven biển Hà Tĩnh còn phổ biến với tín

ngưỡng thờ Mẫu. Hầu hết các làng/xã vùng ven biển Hà Tĩnh đều có đền thờ Mẫu,

62

tiêu biểu hiện nay có các đền (miếu) như: Miếu thờ Liễu Hạnh công chúa ở xã Kỳ

Nam; đền thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (còn gọi là đền Bà Hải)

ở xã Kỳ Ninh và xã Kỳ Lợi; đền thờ Đức Mẹ xã Kỳ Phú (huyện Kỳ Anh); đền Bà

chúa ở xã Cẩm Dương (huyện Cẩm Xuyên); đền thờ Nữ Hoa công chúa ở xã Thạch

Hải; đền thờ Đức mẹ ở xã Thạch Văn (huyện Thạch Hà); đền Tam toà Thánh Mẫu ở

xã Thạch Kim và xã Mai Phụ (huyện Lộc Hà); đền thờ Mai Hoa công chúa ở xã Cổ

Đạm; đền Bà Thần ở xã Xuân Trường; phủ thờ hai bà phi thời nhà Lê ở xã Xuân

Yên (huyện Nghi Xuân),… Các đền thờ Mẫu ở vùng ven biển Hà Tĩnh, ngoài

Thánh Mẫu Liễu Hạnh và các Thiên thần, có cả các Nhân thần (Những nhân vật lịch

sử đã hy sinh vì quốc gia, dân tộc).

* Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng:

Thành Hoàng làng là vị thần rất quen thuộc đối với cư dân các làng xã, hay

phố nghề (nơi đô thị) ở nước ta, được cư dân xem là vị thần tối linh, có thể bao

quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn

phát đạt, khoẻ mạnh và thường được thờ ở đình làng. Hầu hết các làng/xã ở vùng

ven biển Hà Tĩnh đều có đình, đền hoặc miếu thờ Thành Hoàng [PL4a, tr.218].

Thành Hoàng làng ở vùng ven biển Hà Tĩnh phần lớn là nhân thần, những người có

công với dân, với nước, có công lập làng, hoặc sáng lập ra nghề làm ăn nuôi sống

cư dân, được gọi là tổ nghề. Thông thường, ở mỗi làng thờ một vị Thành Hoàng,

song ở vùng ven biển Hà Tĩnh, một số làng thờ hai, ba hoặc nhiều vị Thành Hoàng,

và cũng có những vị Thành Hoàng được thờ ở nhiều làng [PL4b,tr.219].

* Tín ngưỡng thờ các vị thần khác:

1/. Thờ bản thổ, tức thờ thổ công long thần của làng/xã. Đền thờ bản thổ ở

các làng ven biển Hà Tĩnh nhiều không kể hết, hầu như làng ven biển nào cũng có

đền thờ bản thổ, phổ biến nhất là ở huyện Kỳ Anh và huyện Nghi Xuân. Ở hai

huyện này, thường mỗi xã có đến mấy nơi thờ, do xã có nhiều làng và mỗi làng đều

có bản thổ riêng của làng mình. Ngoài hai huyện Kỳ Anh và Nghi xuân, ở các

huyện ven biển khác như Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên hiện nay dấu tích thờ bản

thổ chỉ còn thấy ở xã Thạch Hải, chưa tìm thấy ở các xã khác.

63

2/. Thờ Cao Sơn Cao Các (còn gọi là Cao Các đại vương), thần là Cao Hiển,

người Bảo Sơn bên Tàu, vào khoảng năm Khánh Lịch (1014 - 1048) đỗ tiến sĩ làm

quan đến chức Thừa tướng, do dẹp yên “tứ di”, nên sau khi mất được phong là “Cao

Sơn đại vương”. Ở nước ta và ở Hà Tĩnh có nhiều nơi thờ, riêng vùng ven biển Hà

Tĩnh hiện có ở các xã: Thạch Bàn, Thạch Trị (huyện Lộc Hà); Xuân Hải, Xuân

Thành, Cương Gián (huyện Nghi Xuân); và một số xã của huyện Kỳ Anh. Ngoài các

xã vùng ven biển, Cao Sơn Cao Các còn được thờ nhiều ở các xã vùng núi Hà Tĩnh.

3/. Thờ ngũ phương: Tức thờ bốn phương và trung tâm, miếu phía đông thờ

Đông phương Thanh đế, cờ và áo mão đều màu xanh. Miếu phía tây thờ Tây

phương Bạch đế, cờ áo mão đều màu trắng. Miếu phía nam thờ Nam phương Xích

đế, cờ, áo mão đều màu đỏ. Miếu phía bắc thờ vị Bắc phương Hắc đế, cờ, áo, mão

đều màu đen. Chính giữa làng có miếu thờ vị Trung ương Hoàng đế, cờ biển áo

mão đều màu vàng. Thờ ngũ phương dấu vết hiện nay còn thấy ở các xã: Thạch

Kim (huyện Lộc Hà), Xuân Thành, Xuân Trường, Cương Gián (huyện Nghi Xuân).

Ngoài ra, rải rác ở một số xã ven biển huyện Nghi Xuân có thờ Tiên hiền

(tức những người dân trong xã ngày trước có công với làng) như ở xã Xuân Hội;

thờ Bạch Thạch ở xã Cương Gián (tương truyền thần là con trai bà Liễu Hạnh công

chúa, vì thần có tiếng linh thiêng, nên một số xã thờ thần); thờ thần Đại toát nam ở

xã Xuân Trường và xã Xuân Phổ, vị thần này có hiệu “môn hạ thị lang, hành khiển

chư giang hải đại toát”; đền thờ Cẩm sơn hầu ở xã Xuân Phổ, huyện Nghi Xuân,

tương truyền, do Nguyễn Trọng Hạ (một hiệu sinh quê ở làng) nhặt được một chiếc

áo từ biển trôi vào, trên cổ áo có thêu ba chữ “Cẩm sơn hầu”, Hạ đem về và đặt bàn

thờ, sau đó làng lập đền thờ [17, tr.99]. Riêng các xã ven biển huyện Kỳ Anh, phổ

biến có đền thờ Đức Thánh Tiên,… Tuy nhiên, các tín ngưỡng thờ cúng này chỉ

thấy ở các xã trên, chưa tìm thấy ở các xã, huyện khác trong vùng.

2.1.1.2. Tín ngưỡng trong gia đình

Bên cạnh tín ngưỡng chung của cộng đồng, tín ngưỡng trong gia đình của cư

dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay cũng phong phú và đa dạng, trong đó tiêu biểu có

các tín ngưỡng sau đây:

64

* Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tức thờ những người có cùng huyết thống đã

mất, như: cụ, kỵ, ông, bà, cha, mẹ... những người có công sinh thành, nuôi dưỡng và có

ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người đang sống.

Từ lâu, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết

sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam nói chung, là một trong

các thành tố tạo nên bản sắc văn hoá Việt. Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng

phổ biến của nhiều vùng, miền, dân tộc. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch

sử, ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác, và cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc được bồi

lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam. Vì vậy, thờ

cúng tổ tiên còn là biểu hiện của đạo lý dân tộc, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.

Trong các gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh, xưa cũng như nay, gia đình nào

cũng có bàn thờ tổ tiên, bàn thờ tổ tiên được bố trí ở nơi trang trọng nhất trong nhà

(hoặc thuyền trước đây). Trên bàn thờ tổ tiên, ngoài ngũ sự, một số gia đình thờ ảnh

của ông bà, cha mẹ (những người quá cố), thường là ảnh của thế hệ trước đặt ở vị trí

cao hơn thế hệ sau. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn thờ gia tiên còn là nơi thờ gia thần,

trong đó vị thần quen thuộc nhất là Táo quân (thần bếp) (cũng có khi đồng nhất thần

bếp với thổ công).

Cùng với thờ gia tiên, cư dân ven biển Hà Tĩnh còn có nhà thờ họ. Hiện nay,

cư dân ven biển Hà Tĩnh rất quan tâm đến việc trùng tu, xây dựng nhà thờ họ. Các

dòng họ đều có nhà thờ họ, những dòng họ giàu có, con cháu phát đạt thường dâng

cúng những bộ đồ thờ quý giá vào nhà thờ họ.

* Thờ Thiên thần (bằng cách lập cột Thiên đài phía trước sân nhà): Hầu hết

các gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây đều xây cột thiên đài phía

trước sân. Cột thiên đài thường được xây bằng gạch (hoặc đổ bằng bê tông), phía trên

có ban thờ, trên ban thờ được đặt bát hương thờ các thiên thần (thần linh trên trời

xuống hạ giới). Theo quan niệm của cư dân, Thiên thần là vị nữ thần Cửu thiên huyền

nữ (nữ thần bản mệnh), một trong những vị thần bảo vệ con người theo tuổi sinh.

* Thờ thần tài: Đối với những gia đình cư dân có làm nghề buôn bán,

thường có một khám thờ nhỏ đặt ở góc nhà, sát với mặt đất, mặt khám thờ hướng ra

65

cửa chính để thờ thần tài (hoặc ông địa). Mục đích thờ Thần Tài, nhằm cầu mong tài

lộc đến với gia đình ngày càng nhiều. Thần Tài, theo tín ngưỡng dân gian là một vị

thần mang đến tài lộc, của cải, sự sung túc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, gia

chủ thường cầu khấn Thần Tài. Tín ngưỡng thờ Thần Tài chỉ mới xuất hiện ở vùng

ven biển Hà Tĩnh giai đoạn CNH, HĐH, khi mà các nghề dịch vụ xuất hiện và phát

triển mạnh ở đây.

Bên cạnh các tín ngưỡng thờ cúng trên đây. Những năm qua, do xuất phát từ

lòng ngưỡng mộ, biết ơn sâu sắc tới công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác Hồ),

các gia đình cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh đã lập ban thờ Bác Hồ trong gia đình.

Ban thờ Bác Hồ được các gia đình thiết lập riêng và đặt cao hơn bàn thờ gia tiên.

Cùng với thờ Bác Hồ, một số gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh còn thờ ảnh Phật

trong nhà. Thờ ảnh Phật thường chỉ có ở những gia đình có thành viên là Phật tử,

các Phật tử ở vùng ven biển Hà Tĩnh chủ yếu là các cụ bà cao tuổi, nhàn rỗi, hàng

ngày các cụ thường đến chùa thắp hương và ăn chay vào ngày rằm, mồng một hàng

tháng để cầu phúc cho con cháu. Còn đối với những gia đình cư dân theo đạo Công

giáo trong nhà thường có thờ ảnh chúa Giêsu.

2.1.2. Sinh hoạt tín ngưỡng

Như đã đề cập ở mục 2.1.1, các tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay rất phong phú. Ở mục 2.1.2 (Sinh hoạt tín ngưỡng) không có điều kiện đề

cập đến sinh hoạt của tất cả các tín ngưỡng hiện có ở vùng ven biển Hà Tĩnh (như

đã nêu ở trên), NCS chỉ đề cập đến sinh hoạt của một số tín ngưỡng chủ yếu [PL4.1,

tr.196], có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cư dân ven biển Hà Tĩnh xưa cũng

như nay. Trong quá trình đề cập có so sánh, đối chiếu với sinh hoạt của các tín

ngưỡng này trước đây (xưa-trước thời kỳ CNH, HĐH) để nhận diện sự biến đổi.

Trước hết là sinh hoạt tín ngưỡng thờ cá Ông. Đây là sinh hoạt tín ngưỡng

mang nét đặc thù của cư dân vùng biển và được ngư dân thực hành chu đáo. Tuy

nhiên, hiện nay sinh hoạt tín ngưỡng này có xu hướng giảm trong cư dân, chỉ còn phổ

biến ở khu kinh tế đánh bắt và ở các làng nghề đánh bắt của khu kinh tế du lịch

[PL4.1, tr.196]. Từ xưa đến nay, ngư dân vùng ven biển Hà Tĩnh vẫn thực hành tang

lễ cho Cá Voi, mỗi lần nhìn thấy xác cá voi trôi dạt vào bờ, nhân dân lại tổ chức mai

66

táng với những thủ tục giống như tang lễ người, ai nhìn thấy xác cá voi đầu tiên

được xem là may mắn, là tang chủ, đứng ra lo tang lễ và để tang giống như cha (mẹ)

mình. Cứ năm nào có xác cá voi trôi dạt vào bờ, dân làng trong xã vui mừng, tin

tưởng năm đó dân làng sẽ được mùa cá, tôm… Mỗi lần có đám tang cá voi (Ngư

Ông), ngư dân trong xã cùng nhau đóng góp công, của lo đám tang cá voi chu đáo,

với tâm niệm “làm được việc tốt mang lại may mắn cho gia đình”.

Xuất phát từ quan niệm và niềm tin vào sự che chở của Đức Ngư Ông, ngư

dân vùng ven biển Hà Tĩnh xưa cũng như nay mỗi lần ra khơi vào lộng đều đến

miếu của Ông thắp hương cầu khấn. Ngoài ra, ngư dân còn đến miếu Đức Ngư Ông

thắp hương vào các ngày rằm, mồng một,… nhưng được tổ chức lớn nhất, khách

thập phương đến dự đông nhất và lễ vật cũng phong phú nhất là vào dịp lễ hội cầu

ngư diễn ra tại miếu Cá hàng năm.

Mặc dù đây là sinh hoạt tín ngưỡng đặc thù của cư dân vùng ven biển Hà

Tĩnh, nhưng so với xưa thì sinh hoạt tín ngưỡng này có xu hướng giảm. Biểu hiện

giảm mạnh nhất là ở khu kinh tế du lịch và khu kinh tế công nghiệp, do ngành nghề

của cư dân địa phương ở hai khu kinh tế này đã có sự chuyển đổi, cư dân chuyển

sang làm du lịch, làm công nhân tại khu công nghiệp và làm các dịch vụ. Kết quả

phiếu điều tra xã hội học về sinh hoạt tín ngưỡng này xưa và nay trong cư dân ở ba

khu kinh tế cũng thể hiện rõ điều này. Ở khu kinh tế đánh bắt có 76,1% số cư dân

được hỏi trả lời có thực hành tín ngưỡng này xưa, thì nay chỉ còn 67,7%. Ở khu

kinh tế du lịch xưa có 37,3%, nay chỉ còn 8% và ở khu kinh tế công nghiệp kết

quả này lại càng giảm mạnh, xưa có 24,6%, nay còn 0%.

Biểu đồ 2.1: Sinh hoạt tín ngƣỡng thờ cá Ông xƣa và nay ở ba khu kinh tế

76.167.7

37.3

8

24.6

00

10

20

30

40

50

60

70

80

Khu kinh tế đánh

bắt

Khu kinh tế du lịch Khu kinh tế công

nghiệp

Xưa

Nay

Cùng với thờ Cá Ông, việc thực hành các sinh hoạt tín ngưỡng thờ Thành

67

Hoàng làng cũng có xu hướng giảm: ở khu kinh tế đánh bắt, với 33% số phiếu trả lời

nay vẫn thực hành tín ngưỡng này (so với xưa có 38,4%) và ở khu kinh tế công nghiệp

là 36,7% cho trả lời nay (43,9% cho trả lời xưa), riêng ở khu kinh tế du lịch việc thực

hành tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng có xu hướng tăng, tuy nhiên tỷ lệ tăng không

đáng kể, có 24,3% số phiếu trả lời nay (và 20,5% số phiếu trả lời xưa). Theo nhận thức

của NCS, sở dĩ có kết quả giảm sinh hoạt tín ngưỡng này trong cư dân hiện nay so với

xưa [PL4.1, tr.196], là do ở phiếu điều tra XHH cư dân chủ yếu nhìn nhận các sinh hoạt

tín ngưỡng qua sinh hoạt lễ hội, mà chưa quan tâm đến sinh hoạt lễ bái vào ngày rằm,

mồng một, vào những lúc gia đình cư dân có việc hệ trọng,…

Về sinh hoạt tín ngưỡng thờ người có công. Qua kết quả phiếu điều tra xã hội

học ở ba khu kinh tế, cho thấy: ở khu kinh tế đánh bắt tín ngưỡng này có xu hướng

tăng và được thực hành rộng rãi, với tỷ lệ phiếu trả lời cho thực hành xưa có 91,2%,

nay có 92%. Việc thực hành tín ngưỡng này ở khu kinh tế công nghiệp cũng có xu

hướng tăng, với kết quả trả lời xưa có 56,5%, nay có 68,8%. Ở khu kinh tế du lịch số

cư dân thực hành tín ngưỡng thờ người có công có số phiếu thấp nhất, biểu hiện xu

hướng giảm, mặc dù tỷ lệ giảm không lớn, có 32,7% số phiếu cho trả lời xưa và

32,1% số phiếu cho trả lời nay. Như vậy, tín ngưỡng thờ người có công là một trong

những tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng được cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay

rất quan tâm.

Cũng là tín ngưỡng thờ thần cộng đồng, ở vùng ven biển Hà Tĩnh còn có thờ

tổ nghề. Nhưng, so với các tín ngưỡng thờ thần cộng đồng trên đây, thì sinh hoạt tín

ngưỡng thờ tổ nghề hiện nay có xu hướng giảm mạnh so với xưa. Một số làng do

yếu tố thời gian cũng như do cơ sở thờ cúng không còn, dẫn đến tín ngưỡng thờ tổ

nghề cũng vì thế mà mất đi, hoặc cũng có những làng/xã cơ sở thờ cúng bị sóng

biển xói lở cuốn trôi, nên tổ nghề của làng được hợp tự về thờ chung với nhiều vị

thần khác trong làng, và từ đó các sinh hoạt lễ hội, tín ngưỡng liên quan đến tổ nghề

cũng vì thế mà không còn. Kết quả phiếu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế về

thực hành sinh hoạt tín ngưỡng thờ tổ nghề còn lại rất mờ nhạt. Ở khu kinh tế đánh

68

bắt, trả lời cho thực hành tín ngưỡng này ngày xưa có 23% và nay có 17,9%. Ở khu

kinh tế du lịch, trả lời cho xưa có 11,7%, nay có 9,6% số phiếu. Ở khu kinh tế công

nghiệp trả lời cho xưa có 5,3%, nay có 4%. Như vậy, về sinh hoạt tín ngưỡng thờ

cúng tổ nghề qua phiếu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế cho một kết quả rất thấp

và có xu hướng ngày càng giảm trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở vùng ven

biển Hà Tĩnh.

Bên cạnh thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng của cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh, việc xem xét thực trạng sinh hoạt các tín ngưỡng thờ cúng

tại gia đình cũng hết sức quan trọng. Đối với cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh, nói đến

tín ngưỡng thờ cúng tại gia đình, trước hết phải đề cập đến tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên, một tín ngưỡng rất được cư dân quan tâm xưa cũng như nay. Nhìn vào bảng

thống kê kết quả phiếu điều tra xã hội học [PL4.1, tr.196] ở ba khu kinh tế cho một

kết quả gần như 100% tỷ lệ phiếu trả lời xưa và nay vẫn thực hành tín ngưỡng này.

Thờ Bác Hồ hiện nay đang được thực hành rộng rãi trong cư dân vùng ven

biển Hà Tĩnh, có số phiếu cao ở cả ba khu kinh tế. Thờ Bác Hồ chỉ mới phổ biến ở

vùng ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây, vì vậy số liệu điều tra xã hội học cho

thấy có sự gia tăng đột biến so với trước khi tiến hành CNH, HĐH. Ở khu kinh tế

đánh bắt, trả lời cho câu hỏi xưa có 35,5%, trả lời cho nay có 92,8%. Ở khu kinh tế du

lịch trả lời cho xưa có 41,1%, nay có 97%. Ở khu kinh tế công nghiệp, trả lời cho

xưa có 35,4%, nay có 98,2%. Chị Nguyễn Thị Vân, 46 tuổi, ở thôn Xuân Phượng, xã

Thạch Kim, cho biết: “Khoảng 5-7 năm nay, từ lời kêu gọi của cựu chiến binh xã,

gia đình nào trong vùng cũng thờ ảnh Bác”.

Thờ Thần Tài cũng là một tín ngưỡng thờ cúng tại gia đình mới xuất hiện ở

vùng ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây và được cư dân rất quan tâm thực hành

rộng rãi. Qua kết quả phiếu điều tra xã hội học cho thấy tín ngưỡng thờ cúng này có

xu hướng tăng nhanh ở cả ba khu kinh tế, nhưng về thực trạng nhu cầu thực hành

trong cư dân thì ở khu kinh tế công nghiệp mạnh hơn cả, ở khu kinh tế này có số

lượng cư dân thờ Thần Tài nhiều hơn hẳn so với hai khu kinh tế còn lại. Sự tăng

69

nhanh nhu cầu thờ cúng Thần Tài ở khu kinh tế công nghiệp theo nhận thức của

NCS có lẽ là do trong thời kỳ CNH, HĐH, các dịch vụ buôn bán ở khu kinh tế công

nghiệp có nhiều lĩnh vực mới mẻ, khác hẳn so với buôn bán hải sản trước đây của

cư dân và do đó khi kinh doanh ở lĩnh vực mới, kinh nghiệm hiểu biết chưa nhiều,

tâm lý dựa vào thần linh và lực lượng siêu nhiên lại trỗi dậy, cư dân tìm đến với

thánh thần. Trong lĩnh vực kinh doanh, vị thần có ảnh hưởng lớn nhất là Thần Tài,

đây chính là lý do để giải thích tại sao ở khu kinh tế công nghiệp, số phiếu thừa nhận

có thực hành tín ngưỡng thờ Thần Tài hiện nay cao gấp hơn hai lần so với hai khu

kinh tế còn lại. Cụ thể ở khu kinh tế đánh bắt trả lời cho câu hỏi xưa có 8,3%, nay có

45,1%. Ở khu kinh tế du lịch, trả lời cho xưa có 4,6%, nay có 34,8%. Ở khu kinh tế

công nghiệp, xưa có 8,9%, nay có 70,8%. Như vậy, với tín ngưỡng thờ Thần Tài trong

thời kỳ CNH, HĐH hiện nay có xu hướng tăng nhanh ở cả ba khu kinh tế vùng ven

biển Hà Tĩnh, nhưng biểu hiện mạnh nhất là ở khu kinh tế công nghiệp.

Cuối cùng, thờ cúng tại gia đình của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay còn có

một số thần linh khác, như: Táo quân, Thổ công, thần sân, thần cổng,…Việc thực

hành thờ cúng các thần linh này trong cư dân cũng khá phổ biến, có xu hướng tăng ở

cả ba khu kinh tế, trong đó thể hiện nhu cầu lớn nhất vẫn là ở khu kinh tế công

nghiệp. Kết quả phiếu điều tra XHH của NCS thể hiện như sau: ở khu kinh tế đánh

bắt, tỷ lệ phiếu trả lời cho việc thực hành các tín ngưỡng này xưa 36,4%, nay 53,1%.

Ở khu kinh tế du lịch trả lời cho thực hành các tín ngưỡng này xưa 28,1%, nay

32,7%. Ở khu kinh tế công nghiệp, trả lời cho câu hỏi thực hành các tín ngưỡng này

xưa là 48,8%, nay 92,8%. Có thể nói ở khu kinh tế công nghiệp, bước sang thời kỳ

CNH, HĐH, một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ về phương thức sản xuất cũng như

phương thức kiếm sống của cư dân, những nghề làm ăn mới, các ngành kinh doanh

mới, sản phẩm mới xuất hiện ngày càng nhiều,…từ đó cư dân có nhiều bỡ ngỡ, lo

lắng trước những điều mới mẻ, nên nhu cầu thực hành tín ngưỡng thờ cúng trong cư

dân cũng thể hiện mạnh mẽ hơn so với hai khu kinh tế còn lại.

70

Biểu đồ 2.2: Tổng hợp thực trạng sinh hoạt các tín ngƣỡng

67.7

33

92

17.9

89.9

45.1

92.8

53.1

0

24.3

31.1

9.6

95

34.8

97

32.7

8

36.7

68.8

4

100

70.8

98.2

92.8

0 20 40 60 80 100 120

Thờ Cá Ông

Thờ Thành Hoàng Làng

Thờ người có công

Thờ tổ nghề

Thờ cúng tổ tiên

Thờ thần tài

Thờ Bác Hồ

Thờ các thần linh khác

Khu kinh tế công nghiệp

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế đánh bắt

Cùng với biểu hiện thực trạng về nhu cầu sinh hoạt các tín ngưỡng, là mức

độ (tần suất) sinh hoạt tín ngưỡng cũng phản ánh ĐSVH của cư dân. Kết quả phiếu

điều tra mức độ sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân ở ba khu kinh tế [PL 4.2, tr.197],

với các chỉ số đưa ra để khảo sát là: thường xuyên (rằm, mồng một, lễ tết), thỉnh

thoảng (khi nào tiện thì đi) và chưa bao giờ, thu được kết quả: có số phiếu cao nhất

về mức độ thường xuyên đi lễ của cư dân tại các cơ sở thờ cúng cộng đồng là ở khu

kinh tế đánh bắt với 82,4%, tiếp đến là khu kinh tế du lịch có 79,8%, và có số phiếu

thấp nhất về mức độ thường xuyên sinh hoạt tín ngưỡng ở các cơ sở thờ cúng công

cộng là cư dân ở khu kinh tế công nghiệp với 69,5%. Như vậy, phần lớn cư dân ở ba

khu kinh tế có mức độ đi lễ thường xuyên tại các cơ sở thờ cúng công cộng, điều

này nói lên thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng trong cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay rất mạnh.

Biểu đồ 2.3: Mức độ sinh hoạt tín ngƣỡng của cƣ dân

Cùng với sự gia tăng mức độ sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng, mức

độ thờ cúng tại gia đình cũng được cư dân quan tâm thực hành thường xuyên hơn

trước. Tất cả các gia đình cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay đều thắp hương

71

lên bàn thờ gia tiên và các gia thần đều đặn vào các ngày rằm và mồng một hàng

tháng (khác với trước đây chỉ thắp hương vào các ngày giỗ, tết). Bên cạnh đó, vấn

đề thờ cúng tổ tiên, họ tộc cũng ngày càng được cư dân quan tâm, thể hiện ở những

việc làm như: xây dựng, sửa sang nhà thờ họ, sửa sang mồ mả tổ tiên, ông bà, chuẩn

bị phần mộ cho bố mẹ, người thân (khi đang còn sống) có tuổi đã cao, tìm và bổ

sung gia phả, họp mặt những thành viên cùng họ….Ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện

nay, vào các kỳ tế lễ ở nhà thờ họ (thường là rằm tháng giêng và rằm tháng bảy),

con cháu gần xa đều về tụ họp đông đủ để dự lễ tế và bàn việc họ. Tế lễ xong, con

cháu trong dòng họ quây quần ăn uống đông vui … Anh Lê Quyết Diễn, 40 tuổi,

Trưởng Ban Văn hoá xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh cho biết: “Dòng họ Lê chúng tôi

mới xây xong nhà thờ họ vào tháng 7 năm 2014. Vào rằm tháng Giêng và rằm tháng

7 hàng năm chúng tôi tổ chức tế ở nhà thờ họ. Họ có gia phả và được ghi chép, bổ

sung chi tiết hàng năm, có hội khuyến học để khen thưởng con cháu trong dòng họ

có thành tích học tập (hai lần mỗi năm) vào ngày mồng 2/9 (đầu năm học mới) và

vào dịp tất niên (hoặc đầu năm mới)”.

Sự biểu hiện về nhu cầu thực hành tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Hà

Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH còn có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi làng/xã. Đó là vào

dịp đầu xuân (năm mới), cư dân có nhu cầu đến các ngôi đền miếu có tiếng linh

thiêng hoặc có phong cảnh đẹp trong vùng, hoặc của tỉnh khác (thậm chí của nước

khác) để tham quan và dâng hương lễ bái. Thực trạng này nói lên cư dân đang rất

quan tâm đến đời sống tín ngưỡng, đồng thời cũng thể hiện đời sống kinh tế của cư

dân đang ngày một khá giả. Anh Dương Tùng Lĩnh, Trưởng Phòng di sản Văn hoá

sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VH,TT &DL) Hà Tĩnh cho biết:

Ngoài sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra vào các ngày sóc vọng (rằm, mồng

một), một số đền có tổ chức cúng tế lớn vào dịp lễ hội, khách thập

phương và cư dân trong vùng đến dâng lễ rất đông, hiện tượng quá tải về

lượng khách diễn ra vào các dịp lễ hội, như: lễ hội đền Chế Thắng phu

nhân Nguyễn Thị Bích Châu ở xã Kỳ Ninh vào ngày 12/2 (âm lịch), lễ

hội đền Lê Khôi ở Thạch Hà, Lộc Hà vào ngày 3-5/5 âm lịch,... Vào dịp

72

lễ hội không chỉ có cư dân trong xã và trong tỉnh dâng lễ, mà còn thu hút

cư dân các vùng, miền và tỉnh khác (nhất là các tỉnh phía bắc và Hà Nội)

về dâng lễ. Việc dâng lễ ở những nơi nổi tiếng như thế này diễn ra trong

suốt cả năm, nhưng đông nhất là vào dịp đầu xuân (năm mới). Ngược lại,

cư dân Hà Tĩnh (trong đó có cả cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh) cũng có

nhu cầu được đi dâng lễ ở các đền, chùa nổi tiếng ngoại tỉnh.

Theo kết quả phiếu điều tra xã hội học về thực trạng đi lễ ở các cơ sở thờ

cúng nổi tiếng ngoại tỉnh của cư dân ba khu kinh tế [P4.3, tr.197], cho kết quả rất

cao (trên 50%) số cư dân ở cả ba khu kinh tế trả lời rằng họ có đi lễ ở các đền, chùa,

miếu nổi tiếng ngoại tỉnh.

Biểu đồ 2.4: Thực trạng cƣ dân đi lễ ở các nơi thờ cúng linh thiêng ngoại tỉnh

Song song với gia tăng nhu cầu thực hành tín ngưỡng, các lễ vật dâng cúng

trong thực hành tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay cũng phong

phú, đa dạng: có đầy đủ hoa, quả, trầu cau,… một số gia đình còn sắm cả tiền vàng

dâng cúng tổ tiên và các thần linh trong gia đình vào các ngày rằm và mồng một. Còn

vào ngày kỵ của người thân, hoặc những ngày lễ, tết, đầu năm mới, cư dân sắm sanh,

chuẩn bị lễ vật cho tổ tiên, ông bà và các gia thần chu đáo, cầu kỳ và phong phú hơn

nhiều so với xưa [P4.4a, tr.198-199]. Về đồ mã dâng cúng tổ tiên ông bà, ngoài tiền

vàng, đồ áo, có cả nhà lầu, xe hơi, ti vi, tủ lạnh, đô la, điện thoại di động,.v.v… Ở các

cơ sở thờ cúng công cộng vào ngày rằm, mồng một hàng tháng các lễ vật hoa tươi,

quả ngọt, bánh kẹo, …nhiều không kể xiết. Riêng vào các dịp lễ hội, lễ tết diễn ra ở các

cơ sở thờ cúng công cộng, lễ vật dâng các thần còn phong phú và đa dạng hơn gấp

nhiều so với xưa và so với lễ vật trong các gia đình cư dân, đồ vàng mã của các thánh

thần cũng được cư dân sắm sanh, chuẩn bị đa dạng các sắc màu vàng đỏ,…Việc mua

sắm các lễ vật cầu kỳ, chu đáo, phong phú, đa dạng có xu hướng ngày càng được chú

73

trọng ở cả ba khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay [PL4.4a, tr.198,199].

Qua nghiên cứu thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển

Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, cho thấy nhu cầu và mức độ sinh hoạt tín ngưỡng

trong cư dân hiện nay rất lớn, gắn với quan niệm đa thần, từ đó đa số cư dân ở ba

khu kinh tế thường đến các đền, miếu thắp hương vào các ngày rằm, mồng một, và

lễ tết [PL4.2, tr.197] và cư dân cũng thường xuyên thắp hương lên bàn thờ tổ tiên và

các gia thần vào các ngày này, cũng như vào những lúc gia đình có việc hệ trọng.

Thực trạng này vừa nói lên điều kiện kinh tế của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ

CNH, HĐH được nâng cao, đồng thời cũng nói lên những lo lắng của cư dân trước

vô vàn những rủi ro, bất trắc của cuộc sống hiện đại.

2.2. Lễ hội

2.2.1. Các lễ hội hiện nay

Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần rất phổ biến của cư dân ở các

làng quê ven biển Hà Tĩnh. Có thể nói, trong cuộc sống đời thường của cư dân có

bao nhiêu khát vọng, mong ước thì có bấy nhiêu vị thần được người dân sáng tạo,

tưởng tượng ra. Và cũng có bấy nhiêu lễ hội, bởi lễ hội là dịp để cư dân thể hiện

tấm lòng thành kính, biết ơn của mình đến các đấng thần linh và bày tỏ những

nguyện vọng, khát khao, mong ước của mình đến các vị thần, cầu mong được sự

chở che, giúp đỡ. Có thể phân lễ hội của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay thành lễ

hội dân gian và lễ hội tôn giáo.

2.2.1.1. Lễ hội dân gian

* Lễ hội cầu ngư:

Cầu ngư là hình thức sinh hoạt lễ hội dân gian gắn với tín ngưỡng thờ Cá

Ông, mang nét đặc trưng của cư dân ven biển Hà Tĩnh so với các vùng, miền trong

tỉnh. Lễ hội cầu ngư do cư dân làm nghề đánh bắt thực hiện. Trước đây, cứ đến dịp

lễ hội, ngư dân tự đứng ra tổ chức và lo mọi đóng góp. Ngày nay, lễ hội hàng năm

do chính quyền cấp xã đứng ra tổ chức, ngư dân tham gia thực hiện. Mục đích, ý

nghĩa của lễ hội xưa cũng như nay là nhằm cầu mong trời yên biển lặng, mùa cá bội

thu, vì vậy thường được tổ chức vào đầu năm hoặc đầu mùa cá. Lễ vật trong lễ hội

ngày nay phong phú hơn nhiều so với xưa, duy chỉ có một thứ lễ vật mà xưa cũng

như nay không thể thiếu, đó là một chiếc thuyền rồng bằng giấy, trên thuyền có các

hình nhân chèo thuyền và các vật phẩm, lễ xong thuyền giấy cùng các vật phẩm

74

được thả xuống biển để dâng cúng thần biển.

Lễ Cầu Ngư vùng ven biển Hà Tĩnh trước đây được tổ chức theo hai cách: lễ

Cầu Ngư trên cạn và lễ Cầu Ngư trên nước. Ngày nay, lễ Cầu Ngư chủ yếu được tổ

chức trên cạn, ngư dân dựng rạp trên bãi cát trước cửa đền Đức Ngư Ông, ba mặt và

mái rạp được che bằng Bạt (trước đây dùng buồm để che), giữa rạp đặt bàn thờ, trên

bàn thờ có bát hương cùng các lễ vật và bắt đầu làm lễ tế (có diễn trò chèo thuyền kết

hợp với hò ca ngợi công ơn Đức Ngư Ông),... Sau lễ tế ở đền cá, cư dân rước chiếc

thuyền giấy ra biển để làm lễ và thả thuyền giấy xuống biển. Lễ cúng ngoài biển

trước đây thường phải chờ cho tới khi cá voi (Nhân Ngư) xuất hiện gần khu vực làm

lễ, lúc đó mới thả lễ vật cùng thuyền giấy xuống biển và như vậy lễ tế mới được xem

là thành công, những lời cầu khấn đã linh ứng, mời được Đức Ngư Ông về chứng

giám. Ngày nay, ngư dân chèo thuyền ra biển làm lễ xong, thả lễ vật cùng thuyền

giấy xuống biển, không chờ đến lúc Cá Voi xuất hiện, mới thả lễ vật như trước.

Xưa kia, các làng/xã ven biển Hà Tĩnh đều tổ chức lễ cầu ngư, ngày nay qua

điều tra khảo sát chỉ còn ở các xã, như: Kỳ Phú (huyện Kỳ Anh), Xuân Hội, Xuân

Hải, Xuân Yên, Xuân Phổ, Xuân Thành, Cương Gián, (huyện Nghi Xuân), Cẩm

Nhượng (huyện Cẩm Xuyên), Kỳ Nam (thị xã Kỳ Anh), Thạch Kim (huyện Lộc

Hà),... Lễ cầu ngư ngoài mục đích tưởng nhớ, đền đáp công ơn cứu giúp của Đức

Ngư Ông đối với người đi biển, cầu được mùa cá, lễ còn là dịp để ngư dân thể hiện

tính tương trợ, tình đoàn kết, gắn bó cộng đồng và những sinh hoạt văn hoá tinh

thần của cư dân địa phương. Sau phần lễ và đan xen trong phần lễ là những sinh

hoạt văn hoá dân gian hát, hò, diễn xướng nghệ thuật, trò chơi dân gian… mang

đậm sắc thái vùng biển, đáng chú ý nhất là ở lễ cầu ngư của xã Cẩm Nhượng (huyện

Cẩm Xuyên) có trò diễn Chèo cạn (hình thức cách điệu của chèo thuyền) [PL5.2,

tr.222; PLA7.5.1, tr.241]. Ở xã Xuân Thành lễ Cầu ngư (cũng là lễ khai trương bãi

tắm Xuân Thành) có trò diễn “Sĩ, nông, công, ngư, thương” [PL5.3, tr.225].

Sau lễ cầu ngư, dân làng thường tổ chức đua thuyền. Đua thuyền cũng là nét

sinh hoạt văn hoá đặc sắc và có tính phổ biến của cư dân đánh bắt vùng ven biển Hà

Tĩnh. Đua thuyền không chỉ diễn ra trong lễ cầu ngư, mà còn được diễn ra ở hầu hết

các lễ hội dân gian của các làng/xã ven biển Hà Tĩnh. Trước khi hội đua thuyền diễn

ra, làng/xã rước các vị thần ở đình, đền, miếu của làng/xã ra cửa sông (biển) ngự giá

dự hội. Hội đua thuyền thường diễn ra như sau:

75

Thuyền thi được trang trí kiểu thuyền rồng, các thôn tổ chức thành các đội

thi có đội trưởng, đội trưởng bắt thăm màu cờ, áo (ngày xưa đóng khố, mình trần)

của đội mình (cờ, áo cùng màu), mỗi đội có 17 người, 14 tay chèo, một người cầm

lái, một người chỉ huy, một người cầm cờ bắt nhịp [PLA7.5.3, tr.242]. Hai chiếc

phao có cắm cờ tiêu được thả cách nhau khoảng 700 - 800m làm giới hạn đường

bơi. Các thuyền thi phải bơi ba vòng giữa các điểm này. Thuyền nào về trước là thắng

và đoạt giải. Khi đoàn thuyền bơi cả người thi lẫn người xem đều reo hò cổ vũ.

Hội đua thuyền trước đây rất phổ biến ở các xã ven biển, do ngư dân đứng ra

tổ chức và cùng nhau đóng góp. Ngày nay với nhiều lý do khác nhau, hội đua

thuyền không còn được tổ chức với quy mô như cũ, mà chỉ còn lại rải rác ở một số

xã như: xã Mai Phụ, xã Thạch Kim (huyện Lộc Hà), xã Kỳ Ninh (thị xã Kỳ Anh),...

* Lễ kỳ phúc lục ngoạt:

Lễ kỳ phúc lục ngoạt được diễn ra ở đình, gắn với tín ngưỡng thờ thần của làng

(Thành Hoàng Làng). Lễ thường được tổ chức lớn và công phu, hầu hết các làng/xã

thường tổ chức vào rằm tháng 6, trong khoảng thời gian hai ngày. Vào dịp này, nhân

dân tổ chức rước thần ở các đền về đình dự lễ tế. Cuộc rước thần và tế lễ hướng tới cầu

phúc cầu may, đem lại tinh thần hồ hởi, phấn khởi để động viên ngư dân vui vẻ bước

vào mùa làm ăn mới. Theo quan niệm của ngư dân, để đạt phúc lộc lớn, mâm xôi trong

lễ cúng lúc nào cũng đầy vun (tượng trưng phúc lộc tràn trề). Lễ kỳ phúc hiện còn ở

các xã: xã Xuân Hải, xã Xuân Yên, xã Xuân Thành, xã Cổ Đạm (huyện Nghi Xuân),

xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên), xã Thạch Trị (huyện Thạch Hà), xã Kỳ Ninh

(thị xã Kỳ Anh). Sau tế lễ có đua thuyền, đi cà kheo trên cạn [PLA7.5.3; 7.5.4, tr.242],

cướp cù [PL5.4; tr.226; PLA7.5.5, tr. 243], đập (phết) cù [PL5.5, tr.226],…

* Lễ hội tưởng nhớ anh hùng dân tộc (nhân vật lịch sử):

Hình thức lễ hội này gắn với tín ngưỡng thờ cúng anh hùng dân tộc, thường

được tổ chức vào ngày kỵ của các anh hùng dân tộc hoặc nhân vật lịch sử. Vì có

công với dân với nước, các nhân vật này được người dân lập đền thờ cúng và tổ

chức lễ giỗ hàng năm. Vào ngày chính kỵ của thần (anh hùng dân tộc hoặc nhân vật

lịch sử được cư dân suy tôn), cưư dân thường tổ chức lễ rước thần (thường được

rước bằng thuyền), cúng tế theo nghi thức truyền thống. Cùng với lễ có tổ chức hội,

hội thường diễn ra trước phần lễ và đan xen trong phần lễ với các trò chơi, trò diễn

phong phú, đa dạng gắn với địa bàn sống, môi trường sống và nghề nghiệp của cư

76

dân. Thông thường trong phần hội của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay, có các trò

diễn, trò chơi như: đua thuyền, bóng chuyền, đi cà kheo, hát, hò, diễn tích truyện,

cướp cù, cờ thẻ, kéo co, đi cầu Kiều, … [Các PLA7.5.1-7.5.8, tr. 241-244]. Hiện nay,

ở vùng ven biển Hà Tĩnh tiêu biểu cho lễ hội tưởng nhớ anh hùng dân tộc, có: lễ hội

đền Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu ở cửa Khẩu (xã Kỳ Ninh, thị xã Kỳ

Anh); lễ hội đền Lê Khôi ở vùng Cửa Sót (Lộc Hà, Thạch Hà),… Các lễ hội này hiện

nay, ngoài nghi lễ cúng tế, rước theo truyền thống, còn có đầy đủ các trò chơi, trò

diễn nêu trên. Tuy nhiên đối với đua thuyền, mặc dù là yếu tố của truyền thống được

lưu giữ, nhưng việc bảo tồn nó hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, do

yếu tố thời đại, nên hiện nay trong cả phần lễ và phần hội của cư dân ven biển Hà

Tĩnh có những yếu tố mới đan xen, thay thế các yếu tố của lễ hội truyền thống.

2.2.1.2. Lễ hội tôn giáo

Lễ hội tôn giáo là hình thức lễ hội gắn với các tôn giáo, thường được cư dân

theo tôn giáo đó đứng ra tổ chức. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, tiêu biểu có

hai lễ hội tôn giáo sau:

* Lễ hội Công giáo:

Lễ hội lớn nhất hiện nay của Công giáo là lễ Chúa giáng sinh (ngày sinh của

Chúa, lễ Noel) diễn ra ở nhà thờ Công giáo và trong các gia đình cư dân theo Công

giáo. Vào ngày lễ hội Công giáo (lễ Noel) diễn ra (ngày 24/12 dương lịch), ở những

gia đình theo Công giáo thường tổ chức ăn uống linh đình suốt mấy ngày liền trước

đó, có mời bạn bè khách khứa thân quen của gia đình đến ăn, các gia đình này còn

chuẩn bị cả “cây thông Noel” có đèn nháy điện tử treo lên cây thông thắp sáng liên

tục mấy đêm liền (gần giống với tết của người “lương”). Cùng với “cây thông

Noel” được đặt trong nhà (hoặc trước cửa), ở cổng các gia đình Công giáo có các

hang “Chúa ra đời” rất đẹp, lung linh, huyền ảo, bởi trong các hang này đều được sử

dụng bóng điện hoặc hệ thống đèn nháy. Không khí lễ hội Công giáo lan ra toàn xã

hội, kéo theo cả thành phần cư dân không theo Công giáo cũng tham gia “hội”, nhất

là lực lượng nam nữ thanh niên là dịp để cùng bạn bè kéo ra đường, toả về hướng

các nhà thờ với số lượng lớn để xem “hội”, xem “Chúa sinh”,… Còn đối với trẻ em

không theo Công giáo vào những ngày này cũng rất phấn khởi, vì các em được nhận

quả từ “Ông già Noel” giống với câu chuyện các em đã được đọc (Về thực chất quà

của “Ông già Noel” là do người lớn, bố mẹ các cháu đặt mua rồi nhờ “Ông già

77

Noel” phát cho các cháu). Một không khí lễ hội náo nhiệt (bởi hầu hết các làng/xã

ven biển Hà Tĩnh đều có cư dân Công giáo và các nhà thờ Công giáo) trong đêm

24/12 dương lịch, thanh niên kéo nhau ra đường làm tắc nghẽn giao thông trên các

tuyến đường, nhất là những tuyến đường gần các nhà thờ Công giáo. Những gia

đình cư dân Công giáo vào đêm 24/12 dương lịch họ tập trung về nhà thờ để cầu

nguyện suốt đêm. Có thể nói, từ quan sát thực tế, nhận thấy lễ Noel ở vùng ven biển

Hà Tĩnh hiện nay có sức lan toả lớn trong xã hội, với sự tham gia hưởng ứng nhiệt

tình của những nam nữ thanh niên không theo tôn giáo, đây là dịp để tuổi trẻ được

cùng bạn bè ra đường xem “hội”, được thoả mãn nhu cầu giao lưu, hiểu biết của

tuổi trẻ, mà hoàn toàn không có mục đích hoặc nhu cầu về tôn giáo.

* Lễ hội Phật giáo:

Đối với Phật giáo, hàng năm thường diễn ra một số lễ hội, nhưng tiêu biểu và

lớn nhất là lễ Phật Đản (ngày sinh của Đức Phật) diễn ra vào ngày 8/4 âm lịch ở

chùa Phật giáo. Lễ Phật Đản được tổ chức lớn, thành phần tham dự có đủ đại diện

chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước về dự và phát biểu. Sau phần nghi lễ được

tổ chức tại nhà chùa (có sự tham dự của chính quyền địa phương và cơ quan quản lý

Nhà nước về tôn giáo), là phần rước lễ - diễu hành với đoàn rước khá đông. Tuy

nhiên, do tính chất và thành phần tham gia lễ hội Phật giáo chủ yếu là các tín đồ

Phật tử (những người già) nên lễ rước không sôi nổi, rầm rộ như lễ diễu hành, rước

Chúa của Công giáo. Những lần lễ hội Phật giáo diễn ra, các tín đồ Phật tử (những

cư dân đi theo cửa Phật, tuy không phải là những nhà tu hành, nhưng các tín đồ Phật

tử thường đến chùa để lễ Phật, ăn cơm chay mỗi ngày, lực lượng này chiếm số

lượng khá đông ở các địa phương thuộc vùng ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây,

chủ yếu là các cụ bà nhiều tuổi) tập trung kín cả nhà chùa để hành lễ. Nhưng, do

tính chất, cùng với lực lượng tham dự lễ hội Phật giáo chủ yếu là Phật tử, người già

và phụ nữ, họ đến với lễ hội Phật giáo chủ yếu để hành lễ, cầu nguyện Đức Phật cứu

khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh, mang lại an lành cho gia đình (chứ không phải với

mục đích để vui chơi như lớp thanh niên tham dự lễ hội Công giáo),… đặc điểm

này làm cho lễ hội của Phật giáo có phần trầm lắng hơn so với lễ hội của Công giáo.

Ngoài các lễ hội truyền thống trên đây, ở vùng ven biển Hà Tĩnh trong thời

kỳ CNH, HĐH còn hình thành một số lễ hội mới như: lễ khai trương mùa du lịch

bãi biển diễn ra hàng năm ở các khu du lịch bãi biển Xuân Thành (xã Xuân Thành,

78

huyện Nghi Xuân), bãi biển Thạch Bằng (xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà), bãi biển

Thạch Hải (xã Thạch Hải, huyện Thạch Hà), bãi biển Thiên Cầm (thị trấn Thiên

Cầm, huyện Cẩm Xuyên),…

2.2.2. Sinh hoạt lễ hội

Bảng tổng hợp kết quả phiếu điều tra xã hội học [PL4.4b, tr.200], đã phản

ánh rõ thực trạng việc thực hành các sinh hoạt lễ hội truyền thống hiện nay trong cư

dân ở ba khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh.

Ở khu kinh tế đánh bắt, các sinh hoạt lễ hội truyền thống còn được cư dân

lưu giữ, thực hành khá đầy đủ, hầu hết các sinh hoạt lễ hội đều có tỷ lệ phiếu cao,

trên 70 và trên 80%. Trong khi đó, ở khu kinh tế du lịch, việc thực hành các sinh

hoạt lễ hội truyền thống có tỷ lệ phiếu thấp hơn nhiều so với khu kinh tế đánh bắt.

Còn ở khu kinh tế công nghiệp, sự biến đổi sinh hoạt lễ hội được biểu hiện có xu

hướng giảm sinh hoạt ở tất cả các lễ hội và mất dần các sinh hoạt lễ hội nghề

nghiệp, chỉ có lễ hội tưởng niệm anh hùng dân tộc còn được thực hành sinh hoạt với

số phiếu khá cao đạt 66,3%, các lễ hội còn lại số phiếu trả lời có sinh hoạt chỉ đạt

ngưỡng trên hoặc dưới 10%.

Biểu đồ 2.5: Thực trạng sinh hoạt lễ hội của cƣ dân

91.288.2

92.8

16.3

88.2

73.2

82

74.7 87.3

52.1

2.1

32.7

83.1

54.6

17

8 10.72.24

66.3

7.1712.5

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

100

Lễ kỳ

phúc lục

ngoạt

Nghi lễ

công

giáo

Nghi lễ

phật

giáo

Lễ hội

thờ tổ

nghề

Lễ hội

tưởng

niệm

anh

hùng

dân tộc

Hội đua

thuyền

Lễ cầu

ngưSeries1

Series2

Series3

Từ những phân tích trên đây, cho thấy thực trạng sinh hoạt lễ hội trong cư

dân ở ba khu kinh tế ven biển Hà Tĩnh hiện nay biểu hiện khác nhau: ở khu kinh tế

79

đánh bắt, các lễ hội truyền thống còn được thực hành sinh hoạt rộng rãi trong cư

dân. Hai khu kinh tế còn lại có xu hướng giảm sinh hoạt lễ hội truyền thống, số cư

dân thừa nhận có sinh hoạt các lễ hội ít hơn ở khu kinh tế đánh bắt.

Về thành phần cư dân tham gia sinh hoạt lễ hội xét dưới góc độ nghề nghiệp

ngày nay có phong phú và đa dạng hơn xưa ở cả ba khu kinh tế, vì ngày nay (ở thời

kỳ CNH, HĐH) ngành nghề kiếm sống của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh cũng đa

dạng (như đã đề cập ở Chương1), không phải chỉ có làm nghề biển và buôn bán hải

sản đơn thuần như trước, hơn nữa các nhóm cư dân tuy nghề nghiệp kiếm sống có

khác nhau, nhưng đều có chung nhu cầu được sinh hoạt lễ hội truyền thống của

làng/xã, cụ thể qua phiếu điều tra xã hội học [PL4.5, tr.201] thể hiện như sau:

Ở khu kinh tế đánh bắt, thành phần cư dân làm nghề kinh doanh tham gia

vào lễ hội có 79%, thành phần cư dân làm nghề biển có 86,1%, thành phần cư dân

làm nông nghiệp có 37,2%, thành phần công nhân có 6,27%, thành phần trí thức có

35,5%, công chức viên chức có 48,1%, khách thập phương có 83,2%. Như vậy,

chiếm tỷ lệ phiếu thấp nhất tham gia các sinh hoạt lễ hội ở khu kinh tế đánh bắt là

công nhân, do thời gian rỗi của công nhân không nhiều nên để tham gia lễ hội họ

không có điều kiện về thời gian. Cao nhất trong tham gia lễ hội vẫn là cư dân làm

nghề biển, sau đó đến khách thập phương, như vậy, khách thập phương hiện nay

tham gia sinh hoạt các lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh khá lớn, đây cũng là biểu

hiện nhu cầu về đời sống tinh thần tâm linh, tín ngưỡng của cư dân thời kỳ CNH,

HĐH. Cư dân làm nghề kinh doanh tham gia vào lễ hội hiện nay cũng có tỷ lệ phiếu

khá cao, đây là nghề mới ở vùng ven biển Hà Tĩnh, nhưng nhu cầu sinh hoạt lễ hội

ở nhóm cư dân này cũng rất lớn. Bên cạnh đó, cư dân thuộc nhóm nông nghiệp, trí

thức và công chức viên chức cũng là lực lượng không nhỏ tham gia vào các lễ hội ở

vùng ven biển Hà Tĩnh, đặc biệt là các lễ hội liên quan đến các anh hùng dân tộc,

danh nhân văn hoá,….Kết quả này cho thấy cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ

CNH, HĐH có nhu cầu sinh hoạt lễ hội rất lớn không phân biệt nghề nghiệp...

Ở khu kinh tế du lịch, tham gia sinh hoạt lễ hội, thành phần cư dân trong

doanh nghiệp có 97,8%, cư dân làm nghề biển có 97%, cư dân làm nông nghiệp

80

6,3%, cư dân là công nhân có 14,7%, cư dân là trí thức có 71%, cư dân là công chức

viên chức có 67,2%, khách thập phương 71%. Như vậy, ở khu kinh tế du lịch, thành

phần cư dân tham gia lễ hội ít nhất là nông dân, bởi căn cứ vào thực tế ở khu kinh tế

này, cư dân làm nông nghiệp ít, do khu kinh tế du lịch thường là khu vực thị trấn,

đô thị, nên xa với địa bàn sinh sống của cư dân nông nghiệp, do đó các lễ hội nói

chung ở khu kinh tế này thường số cư dân làm nông nghiệp tham gia không nhiều.

Nhưng về thành phần cư dân là doanh nghiệp và ngư nghiệp lại tham gia vào lễ hội

ở khu kinh tế du lịch gần như gần hết, đạt gần 100% số phiếu. Còn trí thức, công

chức viên chức và khách thập phương cũng là lực lượng lớn tham gia vào các lễ hội

ở khu kinh tế du lịch, chiếm tỷ lệ phiếu trên dưới 70%. Riêng lực lượng công nhân,

cũng giống với khu kinh tế đánh bắt do thiếu điều kiện về thời gian rỗi nên họ vẫn là

thành phần tham gia lễ hội ít, đứng sau cư dân nông nghiệp ở khu kinh tế này.

Ở khu kinh tế công nghiệp, tham gia lễ hội thành phần doanh nghiệp có

40,8% số phiếu, thành phần ngư nghiệp có 1,7%, thành phần nông nghiệp 50,6%,

công nhân 11,2%, trí thức 30,4%, công chức viên chức 33,6%, khách thập phương

56,5%. Như vậy, ngược lại với hai khu kinh tế trên, ở khu kinh tế công nghiệp tham

gia lễ hội có tỷ lệ phiếu ít nhất là thành phần cư dân ngư ngiệp, điều này nói lên

rằng ở khu kinh tế này cư dân làm ngư nghiệp hiện nay rất ít, đa số đã chuyển đổi

ngành nghề, nên thành phần cư dân ngư nghiệp hiện nay còn lại ở khu kinh tế công

nghiệp không nhiều. Tiếp đến là công nhân, cũng có tỷ lệ phiếu thấp trong số các

thành phần cư dân tham gia lễ hội ở khu kinh tế công nghiệp, điều này hoàn toàn

ngược lại với cư dân ngư nghiệp, bởi số lượng công nhân làm việc ở khu kinh tế

công nghiệp rất nhiều, nhưng do yếu tố thời gian rỗi ít và điều quan trọng hơn là

số công nhân ở khu kinh tế này có nguồn gốc từ nhiều vùng miền khác nhau trong

cả nước, có cả cư dân nước ngoài mới di cư đến làm ăn, sinh sống, định cư trên

mảnh đất này nên họ chưa kịp hòa nhập với các tín ngưỡng, tâm linh của cư dân

bản địa, vì vậy công nhân vẫn chiếm tỷ lệ rất ít tham gia vào các sinh hoạt lễ hội ở

đây. Còn cư dân nông nghiệp và khách thập phương là những thành phần tham gia

lễ hội nhiều nhất ở khu kinh tế công nghiệp, tiếp theo là công chức, viên chức.

81

Biểu đồ 2.6: Thành phần cƣ dân tham gia lễ hội

83.2

48.1

65.5

6.27

37.2

86.1

79

71

67.2

71

14.7

6.3

97

97.8

56.5

33.6

30.4

11.2

50.6

1.7

40.8

0 50 100 150

Khách thập phương

Công chức viên chức

Trí thức

Công nhân

Nông nghiệp

Nghề biển

Kinh doanh

Khu kinh tế công nghiệp

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế đánh bắt

Như vậy, về số lượng, loại hình lễ hội của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay tuy phục hồi chưa được nhiều, nhưng so với thời kỳ trước CNH, HĐH thì

các lễ hội được phục dựng hiện nay đã thực sự đi vào đời sống sinh hoạt tinh thần,

tâm linh, tín ngưỡng của cư dân và đã khơi dậy tình đoàn kết, tính tương trợ cộng

đồng, mang lại niềm vui, niềm phấn khởi hăng say trong lao động, sản xuất của cư

dân. Cư dân thuộc các thành phần kinh tế, các nghề nghiệp khác nhau ở vùng ven

biển Hà Tĩnh đều có nhu cầu tham gia sinh hoạt lễ hội.

2.3. Phong tục

Phong tục thường được hiểu đó là những thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã

hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo. Với cách hiểu đó,

phong tục của cư dân ven biển Hà Tĩnh rất phong phú, đa dạng. Phạm vi luận án chỉ

đề cập đến ba phong tục trong chu kỳ vòng đời người và một số phong tục trong mưu

sinh của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh. Tuy vậy, trong quá trình nghiên cứu phong

tục, luận án không chia nội dung nghiên cứu thành các phong tục và thực hành các

phong tục (giống như đã nghiên cứu ở phần tín ngưỡng và lễ hội), mà sẽ lồng ghép

cả hai nội dung rồi lần lượt xem xét từng phong tục và việc thực hành phong tục đó

trong cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay.

82

2.3.1. Phong tục trong chu kỳ vòng đời người

Chu kỳ vòng đời người, là sự đánh dấu những chặng đường trưởng thành của

mỗi con người kể từ khi ra đời (hoặc còn là bào thai) cho đến lúc qua đời. Dưới đây

là những phong tục, nghi lễ liên quan đến ba giai đoạn quan trọng trong vòng đời người

của cư dân ven biển Hà Tĩnh.

2.3.1.1. Phong tục sinh đẻ

Đề cập đến phong tục sinh đẻ của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua phiếu điều tra

xã hội học [PL4.6, tr.202] ở ba khu kinh tế, thể hiện như sau:

Các phong tục, nghi lễ được cư dân thực hành nhiều hiện nay và có xu hướng

tăng so với xưa là: tục bán phong long, lễ chẵn tháng và lễ chẵn năm. Ở cả ba khu

kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay đều biểu hiện gia tăng thực hành ba phong

tục này trong đời sống của cư dân (so với xưa), và có tỷ lệ phiếu cao nhất ở cả ba

khu kinh tế là lễ chẵn tháng. Thực trạng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển

của xã hội, khi điều kiện kinh tế, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, việc

quan tâm đến sức khoẻ, quan tâm đến những dấu ấn quan trọng như: trút bỏ những

kiêng khem của quan niệm ở cữ (bán phong long), đánh dấu thời điểm đứa trẻ được

bế ra khỏi buồng đẻ tiếp xúc với xã hội (chẵn tháng), đánh dấu đứa trẻ tròn một tuổi

đầu đời, chuyển sang một giai đoạn mới- tập đi (chẵn năm, còn gọi là thôi nôi),…đó

là những thời khắc quan trọng đánh dấu quá trình lớn lên của đứa trẻ, những dấu ấn

kỷ niệm này rất đáng trân trọng đối với con người thời nay nói chung và cư dân ven

biển Hà Tĩnh ngày nay nói riêng.

Ngược lại với ba phong tục trên đây, những phong tục sinh đẻ khác trong cư

dân có xu hướng giảm mạnh so với xưa, đó là: tục treo cây dứa dại trước cổng và tục

để khúc củi cháy dở trước cửa. Một số phong tục đã mai một, không còn được thực

hành trong cư dân ở ba khu kinh tế, là: Tục nhúng đứa trẻ xuống biển ngay sau khi đứa

trẻ mới được sinh ra, tục dội gáo nước lên mái nhà khi sinh đứa trẻ, tục cúng Bà Mụ

sau khi sinh, …Đây là những phong tục gắn với cuộc sống trên thuyền, chứa đựng ý

nghĩa và quan niệm sống của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước đây [PL4c, tr. 218].

83

Biểu đồ 2.7: Thực hành phong tục sinh đẻ của cƣ dân hiện nay

55.2

72.3 71.9

0 0 0

10

26.3

41.5

86.1

40.7

0 0 0

11

27.7

67.2

73.5

51.1

0 0 04

6.7

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

100

Lễ chẵn

năm

Lễ chẵn

tháng

Bán phồng

long

Cúng bà

mụ

Tục dội

gáo nước

lên mái

nhà

Nhúng đứa

trẻ xuống

nước

Để khúc

củi cháy

dở trước

cửa

Treo cây

dứa dại

trước cổng

Khu kinh tế đánh bắt

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế công nghiệp

Từ thực trạng về thực hành các phong tục sinh đẻ truyền thống của cư dân

ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nhận thấy: các phong tục gắn với môi trường sống trên

thuyền, gắn với điều kiện kinh tế-xã hội cũ có xu hướng giảm dần và mất hẳn trong

cư dân. Còn những phong tục có ý nghĩa, giá trị với cuộc sống đương đại được cư

dân kế thừa tiếp tục thực hành và có những biến đổi phù hợp với cuộc sống, xã hội

đương đại. Đồng thời với các xu hướng này, một số phong tục mang màu sắc của

thời kỳ CNH, HĐH cũng xuất hiện trong đời sống sinh hoạt của cư dân ven biển Hà

Tĩnh, như: tục mừng “phong bì” (tiền) trong các lễ chẵn tháng, chẵn năm,…thực

trạng việc thực hành các tín ngưỡng này được biểu hiện tương đối đồng nhất ở ba

khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh.

2.3.2.2. Phong tục cưới xin

Thực trạng về thực hành các phong tục cưới xin của cư dân vùng ven biển

Hà Tĩnh hiện nay [PL4.7, tr.203] có tính tương đối đồng nhất ở ba khu kinh tế: cả

ba khu kinh tế đều duy trì đầy đủ bốn nghi lễ cưới xin truyền thống, đó là: lễ dạm

ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Theo kết quả thu được qua phiếu điều tra xã hội

học cả bốn nghi lễ này trong thực hành của cư dân ngày nay có xu hướng tăng so

với xưa. Điều này có nghĩa xưa cũng như nay cư dân ven biển Hà Tĩnh duy trì và

84

thực hành nghiêm các phong tục cưới xin truyền thống, cả bốn nghi lễ chủ yếu trên

luôn được cư dân chú trọng thực hành đầy đủ. Riêng lễ vấn danh có xu hướng giảm

mạnh, còn lễ nộp cheo cho làng đã mất hẳn trong cư dân.

Biểu đồ 2.8: Thực hành phong tục cƣới xin trong cƣ dân hiện nay

92.896.6

94.6

37.2

6

.3

17.9

92.891.5

85.6

0 0 0

97.499.999.9

90.7

95

86

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

100

Lễ bỏ

trầu

Lễ vấn

danh

Lễ hỏi Lễ nộp

cheo

Lễ cưới Lễ lại

mặt

Khu kinh tế đánh bắt

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế công nghiệp

Có thể nói việc duy trì thực hành bốn nghi lễ cưới xin truyền thống ở vùng

ven biển Hà Tĩnh là những nét đẹp văn hoá dân tộc. Lễ Dạm ngõ mang tính chất hai

gia đình gặp mặt nhau được cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh coi trọng và thực hành

phổ biến. Lễ hỏi là nghi lễ thể hiện quyền nuôi con của gia đình nhà gái do đó vẫn

được duy trì, tuy vậy trong nghi lễ này có sự biến đổi so với xưa, đó là tục thách

cưới không còn và gộp luôn cả lễ nạp tài (dẫn cưới), nên trong lễ ăn hỏi ngày nay ở

một số gia đình khá giả thường có cả sính lễ cho cô dâu (ngày xưa ở lễ nạp tài mới có

sính lễ này). Lễ cưới, là nghi lễ quan trọng, đánh dấu sự hợp thành của đôi nam nữ,

có sự chứng kiến của họ hàng và bạn bè hai bên. Sau lễ cưới là lễ lại mặt cũng được

cư dân ven biển Hà Tĩnh quan tâm thực hành, đây là nghi lễ thể hiện lòng biết ơn của

chú rể đối với gia đình nhà vợ. Khi đã chính thức là vợ chồng, người con rể phải sang

báo hiếu với gia đình vợ, thể hiện lòng biết ơn công sinh thành nuôi dưỡng, dạy bảo

của gia đình nhà vợ đã cho anh được cô vợ như ý.

Còn việc giảm thực hành nghi lễ vấn danh là một biến đổi phù hợp với thực

tế xã hội hiện nay. Bởi trước đây khi muốn dựng vợ gả chồng đều phải nhờ mối lái

qua bà mối, nên nhà trai có thể chưa biết tên tuổi của cô gái mà nhà mình sẽ hỏi làm

85

dâu, nên khi được bà mối cho biết nhà gái đã ưng thuận, lúc đó nhà trai mang chút

lễ vật trầu cau sang nhà cô gái để hỏi rõ tên, tuổi (thực chất có cả xem mặt) cô gái

xem có hợp hay không để tiến hành các bước hôn sự. Tục lệ này ở thời kỳ CNH,

HĐH có khác, tên tuổi cô gái, chàng trai và gia đình nhà trai có thể dễ dàng biết

được, thậm chí chàng trai còn biết rất kỹ trước khi đến chơi nhà cô gái lần đầu tiên, qua

bạn bè của cô gái, qua những người láng giềng của cô gái, qua trang mạng cá nhân

(Facebook),… Như vậy, do quan hệ, giao lưu ngày nay được mở rộng, phương tiện

thông tin truyền thông hiện đại, nên nghi lễ vấn danh mặc dù không còn, nhưng tên tuổi

của cô gái vẫn được nhà trai nắm rõ. Còn lễ nộp cheo lần cuối cùng tồn tại ở vùng ven

biển Hà Tĩnh khoảng những năm đầu của thế kỷ XX. Như vậy, lễ nộp cheo từ lâu

không còn tồn tại trong cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh.

Một biến đổi nữa trong cưới hỏi ở ven biển Hà Tĩnh hiện nay, là địa điểm tổ

chức lễ cưới, chuyển từ tổ chức tại gia đình sang tổ chức tại nhà hàng, khách sạn.

Số liệu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế [PL4.7, tr.203], cho thấy ở khu kinh tế

đánh bắt, sự biến đổi này diễn ra rất phổ biến, do thực tế diện tích đất ở các làng/xã

thuộc khu kinh tế này từ xưa đến nay rất chật hẹp, nhà nào cũng có diện tích đất ở

khiêm tốn, nên khoảng trống không gian còn lại ít, khi tổ chức lễ cưới muốn mời họ

hàng bạn bè đến ăn uống tiệc tùng khoảng vài chục mâm cỗ đã không có đủ chỗ.

Hơn nữa, ở khu kinh tế đánh bắt, nghề đánh cá dễ mang lại đồng tiền cho cư dân,

nên hệ thống dịch vụ phát triển mạnh ở khu này, vì vậy thích hợp nhất với cư dân ở

khu kinh tế đánh bắt là lựa chọn tổ chức tiệc cưới tại nhà hàng, khách sạn. Ngược lại

với khu kinh tế đánh bắt, ở khu kinh tế công nghiệp, tuy sự biến đổi này diễn ra chưa

phổ biến, nhưng dấu hiệu cho thấy phát triển nhanh, từ chỗ không phần trăm trả lời

cho câu hỏi “xưa”, thì ở câu hỏi “nay” lên tới 37%, điều đó nói lên thực tế ở khu kinh

tế công nghiệp tốc độ phát triển kinh tế nhanh, việc kiếm tiền của cư dân nơi đây dễ

dàng hơn trước, công việc cũng vì thế mà trở nên bận rộn, thời gian dư giả không

nhiều, cư dân không có đủ thời gian chuẩn bị tiệc cưới. Do đó, số người lựa chọn tổ

chức tiệc cưới tại nhà hàng, khách sạn ở khu kinh tế công nghiệp tăng nhanh trong

thời kỳ CNH, HĐH.

86

2.3.2.3. Phong tục ma chay

Kết quả điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay

[PL4.8, tr.204], có số phiếu rất cao trả lời hiện nay vẫn thực hành khá phổ biến các

phong tục ma chay truyền thống, với tổng số 13 nghi lễ, phong tục chủ yếu được

thực hành là: che mặt người chết, khâm liệm, nhạc hiếu, thầy cúng làm lễ, xem giờ

phát tang, xem giờ hạ huyệt, tang phục, cúng ba ngày, cúng 49 ngày, cúng trăm

ngày, giỗ đầu, giỗ hết, sang cát (bốc mộ).

Với 13 phong tục, nghi lễ ma chay được thực hành phổ biến trong cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay. Ở khu kinh tế đánh bắt có tỷ lệ phiếu thừa nhận có

thực hành các nghi lễ, phong tục ma chay hiện nay thấp nhất. Có hai phong tục,

nghi lễ đạt trên 90% số phiếu là tục che mặt người chết và khâm liệm, lần lượt

90,7% và 97%. Các nghi lễ, phong tục còn lại từ 49,7% cho đến 87,8%. Riêng tục

cúng tuần và lên chùa không có phiếu nào.

Ngược lại với khu kinh tế đánh bắt, ở khu kinh tế du lịch tỷ lệ phiếu thừa

nhận có thực hành các nghi lễ, phong tục ma chay hiện nay cao nhất. Có 10 nghi lễ,

phong tục đạt tỷ lệ từ 96,6% đến 100% số phiếu; ba phong tục, nghi lễ còn lại có tỷ

lệ thấp nhất là 80,1% và cao nhất là 87,7%. Còn cúng tuần và lên chùa (lúc đủ 49

ngày) lần lượt có tỷ lệ 16,8% và 10,5%.

Xếp sau khu kinh tế du lịch và có tỷ lệ phiếu cao hơn nhiều so với khu kinh

tế đánh bắt là khu kinh tế công nghiệp. Ở khu kinh tế này, tỷ lệ phiếu trả lời có thực

hành các nghi lễ, phong tục ma chay truyền thống thể hiện như sau: có chín nghi lễ,

phong tục đạt tỷ lệ từ 93,2% đến 100% phiếu. Có ba nghi lễ, phong tục là che mặt

người chết, nhạc hiếu và tang phục lần lượt 85,6%, 86,5% và 89,6%. Còn lại tục

khâm liệm ở khu kinh tế này có tỷ lệ phiếu thấp 50,6%, đây là con số thấp nhất về

tỷ lệ thực hành phong tục này ở ba khu kinh tế, thấp hơn rất nhiều so với hai khu

kinh tế trên. Riêng về tục cúng tuần và lên chùa lúc 49 ngày cũng giống với hai khu

kinh tế trên, có tỷ lệ phiếu rất thấp chỉ 4,48% số cư dân được hỏi trả lời có thực

hành tục cúng tuần cho người quá cố và 3,58% trả lời có thực hành tục lên chùa cho

người quá cố khi đủ 49 ngày.

87

Với những kết quả trên đây có thể khẳng định tục cúng tuần và lễ lên chùa

(lúc người quá cố đủ 49 ngày) không phổ biến ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà Tĩnh

từ xưa đến nay, kết quả điều tra xã hội học ở khu kinh tế đánh bắt không có người

nào trả lời có thực hành lễ lên chùa cho người quá cố khi 49 ngày. Còn ở khu kinh

tế du lịch và khu kinh tế công nghiệp có một tỷ lệ rất nhỏ trả lời có cúng tuần và lên

chùa lúc 49 ngày cho người quá cố, theo NCS sở dĩ có kết quả này là do những cư

dân ở nơi khác đến nhập cư sinh sống ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay đã mang

theo phong tục này từ quê hương đến nơi ở mới. Qua tìm hiểu, khảo sát thực địa và

phỏng vấn sâu một số cụ cao niên ở ba khu kinh tế cũng được các cụ cho biết ở ven

biển Hà Tĩnh không thực hiện hai nghi lễ này. Cụ Hoàng Minh, 79 tuổi, thôn Thắng

Lợi, xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh (phỏng vấn ngày 12/6/2014) cho biết: “Ở làng

chúng tôi từ xưa đến nay không có tục lệ cúng tuần cho người mất, cũng không

rước hồn người thân lên gửi cửa chùa, mà để người thân ở nhà, con cháu phải thờ

cúng”. Cụ Lê Thị Chắt, 78 tuổi, thôn Giang Hà, xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà,

(phỏng vấn ngày 12/01/2014) cũng cho biết: “Tục cúng tuần xưa nay ở vùng (xã)

này không có, cũng không có tục gửi người thân đã mất lên chùa, mà phải cúng

người thân trong gia đình, xã chúng tôi gia đình nào cũng có bàn thờ gia tiên, thế

nên tại sao lại gửi người thân lên chùa được, họ (chỉ người đã mất) có gia đình, con

cháu mà”. Thực ra, đúng như lời các cụ cao niên ở địa phương cho biết, tục cúng

tuần không phổ biến ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà Tĩnh. Cũng như vậy, tục rước

linh hồn người chết lên chùa khi đủ 49 ngày, là phong tục mới xuất hiện những năm

gần đây ở các tỉnh phía bắc, ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà Tĩnh tục này không

phổ biến, hầu hết cư dân thờ cúng người thân ở nhà, chỉ trong trường hợp chết trẻ

hoặc chết tai nạn mới làm lễ xin gửi lên nhà chùa. Bên cạnh đó, tục ăn uống rườm

rà trong đám tang vốn rất phổ biến ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày xưa, thì nay đã

giảm; tục con cháu ra thăm mộ người quá cố mỗi ngày hai lần (sáng sớm và chiều

tối) sau khi chôn cất cho đến hết lễ ba ngày (gắn với quan niệm giữ mộ) nay cũng

không còn được thực hành trong cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh.

88

2.3.2. Phong tục trong mưu sinh

Hầu hết cư dân ven biển Hà Tĩnh trước đây và một bộ phận chủ yếu làm

nghề đánh bắt hiện nay, quanh năm sống cùng biển khơi, do đó có những kiêng kỵ

và phong tục, nghi lễ liên quan đến nghề đánh bắt. Hầu hết những nghi lễ này đã có

trong xã hội truyền thống và được duy trì cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vì là nghi lễ

liên quan đến nghề nghiệp, nên khi nghề nghiệp thay đổi, các phong tục nghi lễ liên

quan cũng có những biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nó.

Trong số các phong tục được luận án đề cập, thì phong tục liên quan đến nghề đánh

bắt (phong tục mưu sinh) có sự biến đổi mạnh mẽ và rõ nét hơn cả trước những tác

động của sự nghiệp CNH, HĐH, được thể hiện như sau:

* Kiêng kỵ: Ngày nay, những kiêng kỵ nghề nghiệp truyền thống của cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh không còn phổ biến như trước, cư dân chỉ lưu giữ một số

kiêng kỵ mang tính nhân văn và có ý nghĩa với cuộc sống hiện đại, phù hợp với đạo

lý dân tộc, với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay để thực hành trong đời sống của

họ. Những kiêng kỵ không còn phù hợp đã được xoá bỏ, vì trình độ nhận thức, hiểu

biết của cư dân đã được nâng cao và điều kiện kinh tế - xã hội hình thành nên nó

cũng đã thay đổi. Có thể nói trước những thành tựu của sự nghiệp CNH, HĐH và sự

phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại ngày nay đã làm giảm thiểu và

hạn chế những rủi ro, tai nạn nghề nghiệp mà cư dân đánh bắt vùng ven biển Hà

Tĩnh thường gặp trong xã hội truyền thống,… Vì vậy, những kiêng kỵ nghề nghiệp

trong cư dân ngày nay cũng ít hơn, chỉ còn những kiêng kỵ như: không bước qua

mũi thuyền, không đánh cá vào ngày cá vượt vũ môn (8/4), không đi biển khi nhà

có người mới mất hoặc vợ bị sảy thai, con chết yểu,... (Trước đây còn có những

kiêng kỵ như: kiêng gặp phụ nữ trên đường đi đánh cá, kiêng để phụ nữ lạ lên tàu

đánh cá, kiêng nói các từ “chó”, “mèo”, “lật”, “úp”, mà phải nói từ “may” khi nhổ

neo đi đánh cá,…)

* Nghi lễ: Cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay chỉ còn lưu giữ rất ít nghi

lễ có liên quan đến nghề đánh bắt truyền thống, đó là: nghi lễ cúng thuyền mới (còn

gọi là lễ hạ thuyền hay lễ hạ thuỷ). Đối với ngư dân, chiếc thuyền vừa là ngôi nhà

vừa là công cụ đánh bắt kiếm sống trên biển, trước đây khi đóng một con thuyền,

89

ngư dân có ba nghi lễ chính là: lễ phạt mộc, lễ làm mui và lễ hạ thuỷ, trong đó lễ hạ

thuỷ được coi trọng hơn cả. Ngày nay cư dân chỉ chú trọng vào lễ hạ thuỷ (vì ngày

nay cư dân không còn mua gỗ rồi tự đóng thuyền như trước, mà thuyền chủ yếu

được mua sẵn), lễ hạ thuỷ là lễ tế thuỷ thần để nhập thuyền vào biển. Lễ hạ thuỷ

hoàn toàn tuỳ thuộc vào từng gia đình mà việc sắm sửa lễ vật có khác nhau, nhà bình

thường cũng phải có chõ xôi, con gà, hương vàng, trầu rượu để cúng Hà Bá và mừng

con thuyền chạm nước. Nhà khá giả thì sau khi cúng có mâm cao cỗ đầy mời bà con

họ mạc, có nhà còn làm cả thuyền bằng giấy để cúng rồi đốt thế mạng cho thuyền nhà

mình,... Thông thường khi chọn được ngày tốt, chủ thuyền làm cỗ xôi, con gà và ít lễ

vật khác như: trái cây, rượu, tiền vàng,… Sau đó chèo thuyền ra biển (hoặc cửa lạch)

làm lễ cúng Hà Bá cầu cho con thuyền được bình an, làm ăn thuận lợi, may mắn.

(Trước đây còn có lễ cúng khi sửa chữa thuyền).

Bảng tổng hợp kết quả phiếu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế [PL4.9,

tr.206], cho thấy: cư dân ở khu kinh tế đánh bắt hiện nay còn thực hành nhiều phong

tục, kiêng kỵ liên quan đến nghề đánh bắt truyền thống và có tỷ lệ phiếu cao hơn hai

khu kinh tế còn lại. Kết quả này hoàn toàn hợp lý, bởi ở khu kinh đánh bắt đa số cư

dân làm nghề đánh cá, do đó tỷ lệ cư dân thực hành các phong tục, nghi lễ liên quan

đến nghề đánh bắt vì thế nhiều hơn hai khu kinh tế còn lại. Các phong tục và nghi

lễ: cúng thuyền mới, kiêng bước qua mũi thuyền đều giữ ở mức trên năm mươi

phần trăm tỷ lệ phiếu trả lời ngày nay vẫn thực hành các phong tục, nghi lễ này

(cúng thuyền mới 79%, kiêng bước qua mũi thuyền 58,1%). Với ngư dân con

thuyền giống như ngôi nhà thứ hai (về giá trị kinh tế còn lớn hơn ngôi nhà), do đó

khi đóng một con thuyền cũng giống như xây cất một ngôi nhà, đều có các nghi lễ

cúng bái kể từ khi bắt đầu cho đến kết thúc (lễ phát mộc, lễ làm mui, lễ hạ thuỷ). Một

số phong tục khác ở khu kinh tế này cũng có tỷ lệ phiếu cao so với hai khu kinh tế

còn lại, đó là: cúng thuyền ra khơi 47,3%, kiêng đánh cá vào ngày cá vượt vũ môn

25,9%. Các nghi lễ, phong tục còn lại dưới 20%.

Ở khu kinh tế du lịch, tục phóng sinh cá ở mẻ lưới đầu tiên của thuyền mới,

lưới mới và kiêng đánh cá vào ngày 8/4 (ngày cá đi thi, cá vượt vũ môn) có tỷ lệ

phiếu thực hành cao nhất trong ba khu kinh tế, lần lượt là 66,8% và 30,6% cho trả

90

lời hiện nay. Đây là hai phong tục có tính nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa nhắc nhở cư

dân làm nghề đánh bắt, cần có những thời điểm thiêng thể hiện lòng nhân văn, nhân

ái, sự biết ơn đối với những sinh vật đã đem đến nguồn sống cho mình, mà trừ ra

không thực hiện đánh bắt. Dưới góc độ thực tiễn, cư dân đã đánh bắt cả năm, cũng

cần có thời gian nghỉ, để cá và các loài sinh vật dưới biển có điều kiện sinh sôi nảy

nở, đem lại nguồn tài nguyên dồi dào cho ngư dân ở những vụ đánh bắt tiếp theo,

tránh khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, cắt đi nguồn sống tương lai, do đó ở khu

kinh tế du lịch, cư dân rất coi trọng các phong tục này. Các phong tục có số phiếu

cao tiếp theo ở khu kinh tế này là kiêng không bước qua mũi thuyền và lễ cúng

thuyền mới lần lượt 41,1% và 21% cho trả lời hiện nay. Các nghi lễ, phong tục còn

lại dưới 10%.

Ở khu kinh tế công nghiệp, các nghi lễ phong tục liên quan đến đánh bắt có

xu hướng biến đổi mạnh, với tỷ lệ phiếu rất thấp thừa nhận có thực hành các phong

tục nghi lễ này hiện nay. Sự biến đổi này đã nói lên một thực tế đang hiện hữu ở

khu kinh tế này, đó là số người làm nghề biển còn lại rất ít, chủ yếu ngư dân đã

chuyển sang làm các nghề dịch vụ và làm việc trong khu công nghiệp. Kể từ khi

khu kinh tế Vũng Áng được hình thành, ngư trường đánh bắt của ngư dân ven biển

Kỳ Anh không chỉ bị thu hẹp mà còn trở nên khan hiếm về tài nguyên sinh vật, làm

cho nghề biển vốn đã rất vất vả từ xưa, nay lại càng trở nên khó khăn hơn, hầu hết

ngư dân chuyển sang làm nghề mới, do đó các phong tục liên quan đến đánh bắt

cũng như các nghi lễ trong đánh bắt cũng vì thế không còn được cư dân thực hành

nhiều ở khu kinh tế này, do cư dân làm nghề biển còn lại rất ít. Trong số các nghi lễ,

phong tục hiện nay, có lễ cúng thuyền mới có 25.1%, kiêng bước qua mũi thuyền

19.2%, còn lại các phong tục và nghi lễ khác đều có tỷ lệ dưới 10%.

Như vậy, kết quả phiếu điều tra xã hội học [PL4.9, tr.206], cho thấy ở khu

kinh tế đánh bắt còn bảo lưu được nhiều phong tục tập quán về nghề đánh bắt truyền

thống, hai khu kinh tế còn lại do thay đổi nghề nghiệp nên các phong tục này có dấu

hiệu biến đổi mạnh. Riêng tục chọn ngày đi biển, vốn rất phổ biến với ngư dân ở một

số tỉnh hiện nay, nhưng lại không tồn tại ở vùng ven biển Hà Tĩnh, khi phỏng vấn ngư

dân ven biển Hà Tĩnh về vấn đề này, anh Lưu Đạt, 45 tuổi ở thôn Long Hải, xã Thạch

91

Kim cho biết: “Chúng tôi không chọn ngày, mà cứ ngày nào biển yên là ngư dân

chúng tôi đi biển”. Như vậy, có thể khẳng định, tục chọn ngày đi biển chưa có ở vùng

ven biển Hà Tĩnh cho đến hiện nay.

Biểu đồ 2.9: Thực hành các phong tục mƣu sinh của vƣ dân hiện nay

0

25.9

14.3

58.1

18.4

7.1

11.2

47.3

4.6

79

0

30.6

9.2

41.4

8.8

22.2

66.8

7.5

7.5

21

0

6.7

7.4

29.5

4.9

7.6

7.17

13

6.7

35.4

0 50 100

Chọn ngày đi biển

Kiêng đánh cá vào ngày cá

vượt vũ môn

Kiêng phụ nữ lạ leo lên tàu

đánh cá

Kiêng không bước qua mũi

thuyền

Kiêng đi đánh cá gặp phụ nữ

kiêng không đếm lưới

Tục phóng sinh cá

Cúng thuyền ra khơi

Cúng lưới mới

Cúng thuyền mới

Series3 Series2 Series1

Ngoài các phong tục, nghi lễ liên quan đến nghề đánh bắt, hiện nay ở vùng

ven biển Hà Tĩnh xuất hiện một số nghi lễ, tục lễ mới, phản ánh những phương thức

ngành nghề mưu sinh mới của cư dân nơi đây, như; lễ khởi công, khánh thành, khai

trương các công ty, công trình, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh,

các dịch vụ, khu du lịch, các cửa hàng, quán ăn, nhà nghỉ, khách sạn,... Tại các lễ

này, các đơn vị (tổ chức, cá nhân) là chủ nhân sắm cỗ xôi (gà), trái cây, bánh kẹo để

cúng long thần, thổ địa ở địa điểm xây dựng (đặt) cơ sở kinh doanh, nhà máy, xí

nghiệp, công ty,... Cùng với lễ cúng thần linh, các chủ nhân còn thực hành một nghi

lễ hết sức quan trọng dành cho người sống, đó là nghi lễ khánh tiết. Lễ khánh tiết

thường được tổ chức hoành tráng, có các thành phần khách mời (gồm đại diện chính

quyền các cấp, các ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội, đài báo, các đơn vị đồng

ngành, đơn vị là đối tác,…), nội dung của lễ khánh tiết chứa đựng đầy đủ nghi thức

92

của một buổi lễ long trọng, như: giới thiệu đại biểu, đọc diễn văn, phát biểu ý kiến

của đại diện chính quyền, của cấp trên, cắt băng (nếu là lễ khai trương hoặc khánh

thành) hoặc động thổ (nếu là lễ khởi công)… Phần cuối cùng là tổ chức liên hoan.

Nếu chủ nhân là cá nhân làm ăn, kinh doanh nhỏ như mở nhà hàng, quán ăn, các cơ

sở kinh doanh nhỏ,… thì sau lễ cúng long thần, thổ địa, chỉ mời một số bạn bè, hàng

xóm, người thân đến uống chén rượu hoặc ăn liên hoan (mang tính chất thông báo

và tranh thủ sự ủng hộ trong quá trình làm ăn kinh doanh). Những nghi lễ trong làm

ăn kinh doanh mới xuất hiện ngày càng nhiều ở vùng ven biển Hà Tĩnh, trong đó

phát triển mạnh và nhiều nhất là ở khu kinh tế công nghiệp, tiếp đến là khu kinh tế du

lịch, sau cùng là khu kinh tế đánh bắt.

Tiểu kết

Khảo sát thực trạng đời sống tín ngưỡng của cư dân ven biển Hà Tĩnh, trong

đó có diện mạo các thần linh được phụng thờ, cùng các sinh hoạt nghi lễ, nhận thấy:

trước hết về hệ thống các thần linh được phụng thờ ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày

nay có khác so với xưa. Ngoài các vị thần có trong xã hội truyền thống gắn với

vùng biển, nghề biển như thờ Cá Ông, thờ Tứ vị Thánh Nương,… xuất hiện một số

tín ngưỡng và hiện tượng thờ cúng mới trong các gia đình cư dân vùng ven biển Hà

Tĩnh, như: thờ thần tài, thờ các thiên thần, thờ Bác Hồ, thờ Phật,… Cùng với sự

xuất hiện những thờ cúng mới, các sinh hoạt tín ngưỡng và thực hành nghi lễ trong

cư dân cũng gia tăng, không chỉ diễn ra vào các dịp lễ hội, lễ tết, lễ giỗ, mà còn

được cư dân thực hành đều đặn vào các ngày sóc vọng trong gia đình cũng như tại

các cơ sở thờ cúng công cộng. Ngoài ra, vào những ngày gia đình có việc hệ trọng cư

dân cũng thực hành các nghi lễ thờ cúng. Lễ vật thờ cúng ngày nay cũng được cư dân

chú trọng, mua sắm đầy đủ, phong phú và đa dạng hơn so với xưa.

Gắn liền với hệ thống tín ngưỡng là lễ hội. Lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay có nhiều biến đổi so với truyền thống: trong lễ hội ngày nay đã sử dụng

các thiết bị hiện đại, có phần khánh tiết và nghi lễ dâng hương của cấp chính quyền

quản lý và các đoàn thể chính trị; lễ vật trong lễ hội ngày càng phong phú, đa dạng;

thành phần cư dân tham dự lễ hội mở rộng cả về phạm vi không gian và nghề

93

nghiệp. Ngoài nhóm cư dân bản địa, lực lượng du khách từ các vùng, miền trong cả

nước và người nước ngoài sinh sống và làm việc tại vùng ven biển Hà Tĩnh cũng

tham dự lễ hội với số lượng khá đông, đặc biệt là các lễ hội có màu sắc mới như lễ

khai trương bãi tắm ở các khu du lịch Xuân Thành, Thiên Cầm,… chiếm số lượng

lớn nhất vẫn là du khách. Có thể nói lễ hội hiện nay ở vùng ven biển Hà Tĩnh vừa

mang nét văn hoá truyền thống vừa mang nét văn hoá hiện đại.

Về phong tục của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH biểu hiện

trong chu kỳ vòng đời người và trong mưu sinh, nhận thấy đây là những phong tục

khá đặc thù như: tục treo cây chứa trước cổng khi gia đình có người mới sinh, tục

chôn người chết đầu hướng ra biển; và những kiêng kỵ liên quan đến nghề đánh bắt,

như: kiêng gặp phụ nữ mới sinh, kiêng nói các từ “lật”, “úp”, “chó”, “mèo”, kiêng

đếm lưới,... Tuy nhiên, trên thực tế, bước sang thời kỳ CNH, HĐH một số phong

tục tập quán truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh mất đi, một số phong tục tập

quán tiếp tục tồn tại nhưng mang thêm hơi thở, màu sắc mới của thời đại, như: lễ

chẵn tháng, chẵn năm, tục cưới xin, ma chay,…Đồng thời một số phong tục của

thời kỳ CNH, HĐH cũng hình thành và phát triển.

94

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH QUA TIÊU DÙNG VĂN HOÁ

Ở chương này, luận án nghiên cứu thực trạng tiêu dùng văn hóa của cư dân

qua việc trang bị các phương tiện tiêu dùng văn hóa và nhu cầu, mức độ, nội dung

tiêu dùng văn hóa.

3.1. Các phƣơng tiện tiêu dùng văn hóa

Phương tiện tiêu dùng văn hoá là một yếu tố phản ánh nhu cầu và khả năng

đáp ứng hoạt động tiêu dùng văn hoá (TDVH) của chủ thể. Khi nhu cầu tiêu dùng

văn hoá phát triển, điều kiện kinh tế cho phép, năng lực tiếp nhận, tiêu dùng văn

hoá được nâng cao, chủ thể tiêu dùng văn hoá sẽ lựa chọn những phương tiện tương

ứng để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mình. Hiện nay, người dân vùng ven biển Hà

Tĩnh đã sử dụng đa dạng, phong phú các phương tiện TDVH trong cuộc sống hàng

ngày. Có thể phân loại các phương tiện TDVH của cư dân ở đây thành các phương

tiện TDVH tại gia đình và các phương tiện TDVH tại địa điểm công cộng.

3.1.1. Phương tiện tiêu dùng văn hóa tại gia đình

Tiêu dùng văn hoá qua phương tiện truyền thông tại gia đình là hình thức khá

phổ biến trong đời sống của cộng đồng cư dân Hà Tĩnh nói chung, cư dân vùng ven

biển Hà Tĩnh nói riêng. Đây là phương thức tiêu dùng chiếm ưu thế trên nhiều mặt,

vừa tiện lợi về thời gian, không gian, lại vừa có ý nghĩa gắn kết quan hệ giữa các

thành viên trong gia đình. Trong khoảnh khắc thời gian rỗi để các thành viên gia

đình có điều kiện quây quần bên nhau sau khi lao động vất vả, tất bật với lo toan

của cuộc sống hàng ngày. Để tìm hiểu thực trạng các phương tiện TDVH tại gia

đình của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay, chúng ta cần xem xét việc trang bị các

phương tiện truyền thông tại gia đình của cư dân.

3.1.1.1. Ti vi (truyền hình vô tuyến): Ti vi là một trong những phương tiện

truyền thông quan trọng nhất, đáp ứng tốt mọi nhu cầu TDVH, như: cập nhật thông

tin, hưởng thụ, thưởng thức các giá trị văn hoá, các chương trình giải trí,… Trong

số các phương tiện truyền thông mà người dân trang bị để thưởng thức, TDVH tại

gia đình chiếm số lượng lớn nhất hiện nay vẫn là ti vi [PL4.10, tr.208]. Hiện nay, ở

95

vùng ven biển Hà Tĩnh, có nhiều gia đình trang bị từ 02 đến 03 ti vi trong nhà

[PL4.10, tr.208], nhằm phục vụ cho nhu cầu thưởng thức, TDVH ngày càng phong

phú, đa dạng của các thành viên trong gia đình. Với số lượng ti vi được trang bị

nhiều trong các gia đình cũng đã phần nào nói lên đời sống kinh tế của cư dân vùng

ven biển Hà Tĩnh trong thời kỳ CNH, HĐH đang ngày một phát triển, mặt khác

cũng cho thấy cư dân đang rất quan tâm đến đời sống tinh thần, quan tâm đến việc

đáp ứng, làm thoả mãn nhu TDVH của mỗi cá nhân trong gia đình, hướng tới thị

hiếu TDVH mang tính cá nhân. Chị Nguyễn Thị Trang, 38 tuổi, trưởng Ban Văn

hoá & Xã hội thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên cho biết: “Do đời sống kinh tế

phát triển, nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần được nâng cao, thông tin

phải cập nhật hàng ngày. Nên, hiện nay đối với các hộ gia đình trên địa bàn thị trấn

chúng tôi đều có ti vi để xem, có khoảng 2/3 số hộ có số lượng ti vi từ 2 đến 3

chiếc, đặc biệt là số lượng ti vi tích hợp công nghệ cao khá nhiều”.

Thực tế ngày nay, các chương trình văn hoá, văn nghệ, thể thao, vui chơi,

giải trí… được phát trên sóng truyền hình rất phong phú. Cùng một thời gian phát

sóng có rất nhiều chương trình khác nhau được phát trên các kênh của truyền hình,

mỗi thành viên trong gia đình lại có nhu cầu, thị hiếu thưởng thức, TDVH khác

nhau. Vì vậy, các gia đình đã lựa chọn giải pháp trang bị nhiều ti vi trong nhà để đáp

ứng, làm thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần cho từng thành viên. Với cách mua sắm

trang bị vô tuyến truyền hình (ti vi) trên đây của người dân, cho phép đưa ra nhận

định: nhu cầu tiêu dùng văn hoá qua vô tuyến truyền hình (ti vi) của người dân hiện

nay rất cao và trở nên phổ biến. Ông Nguyễn Đình Hà, 62 tuổi, sinh sống cạnh khu

công nghiệp Vũng Áng (Thôn Thắng Lợi, xã Kỳ Phương, thi xã Kỳ Anh) cho biết:

Trong nhà tôi hiện nay có 03 chiếc ti vi: 01 ti vi 32 inch mới mua để ở

phòng khách; 02 ti vi còn lại đặt ở các phòng của con cháu theo nhu cầu

xem của từng thành viên. Tôi nhớ lại cách đây 10 năm về trước, ti vi ở

quê tôi rất hiếm, kinh tế lúc đó rất khó khăn, gia đình tôi thuộc diện khá

giả trong làng, tiết kiệm lắm mới mua được chiếc ti vi Samsung 21 inch

phục vụ cho cả làng xem. Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển, đời

sống kinh tế được nâng cao, nên gia đình tôi cũng như các gia đình khác

96

trong làng mua sắm nhiều thiết bị gia đình rất hiện đại, những gia đình có

02 - 03 ti vi trong nhà giống như gia đình tôi chiếm số lượng khá lớn,

chiếm khoảng 2/3 số hộ gia đình trong làng.

Kết quả phiếu điều tra xã hội học [PL4.10, tr.208], cho thấy: ở khu kinh tế

đánh bắt có 84,9% số người trả lời trong nhà có trang bị ti vi, số gia đình có một ti

vi chiếm 82%, gia đình có hai ti vi chiếm 2,5%, gia đình có ba ti vi chiếm 0,4%.

Trong khi đó ở khu kinh tế du lịch có tới 98,7% số người trả lời có trang bị ti vi

trong nhà và số gia đình có một ti vi chiếm 16,3%, gia đình có hai ti vi chiếm

70,5%, gia đình có ba ti vi chiếm 11,7%. Ở khu kinh tế công nghiệp có 97,7% số

người trả lời có trang bị ti vi trong gia đình, số gia đình có một ti vi chiếm 76,6%,

gia đình có hai ti vi chiếm 16,1%, gia đình có ba ti vi chiếm 2,24%.

Như vậy, ở khu kinh tế du lịch, số gia đình có từ 2 đến 3 ti vi trong gia đình

chiếm số lượng lớn, trên 80% số phiếu, trong khi đó số gia đình có 1 ti vi chỉ chiếm

số lượng nhỏ, trên 16% số phiếu. Điều này phản ánh đặc điểm nổi bật của khu kinh

tế du lịch, nơi có dịch vụ vui chơi giải trí phát triển mạnh, cư dân có điều kiện về

kinh tế, thời gian, cũng như môi trường để phát triển nhu cầu văn hoá. Vì vậy nhu

cầu, thị hiếu TDVH cá nhân ở khu kinh tế này được đề cao, xu hướng trang bị nhiều

ti vi trong nhà rất được quan tâm. Đứng vị trí thứ hai về số lượng gia đình có từ 2

đến 3 ti vi trong nhà là ở khu kinh tế công nghiệp, đây cũng là khu vực có kinh tế

tăng trưởng nhanh những năm gần đây, kéo theo đời sống vật chất của cư dân được

nâng cao, do đó việc đáp ứng nhu cầu, thị hiếu TDVH của các thành viên trong gia

đình cũng được quan tâm, cư dân có xu hướng sắm thêm ti vi để hướng tới thoả

mãn nhu cầu TDVH của từng thành viên trong gia đình. Thấp nhất trong ba khu

kinh tế về số gia đình có trang bị 2 đến 3 ti vi trong nhà, là khu kinh tế đánh bắt, với

cư dân làm nghề biển, mỗi chuyến ra khơi thường phải trải qua hàng tuần, có khi

hàng tháng trên biển, nên mặc dù nhu cầu tinh thần rất quan trọng đối với cư dân,

song do điều kiện thời gian lênh đênh trên biển nhiều hơn ở nhà, nên mục tiêu sắm

nhiều ti vi trong nhà ở khu kinh tế này không phải là tối ưu.

3.1.1.2. Truyền hình cáp và các dịch vụ truyền hình khác: Việc lắp đặt vô

97

tuyến truyền hình của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay không dừng lại ở vô tuyến

truyền hình thông thường, mà lắp đặt thêm truyền hình cáp và các dịch vụ truyền

hình trả tiền khác như MyTV, truyền hình số,…để tăng số kênh, làm phong phú các

chương trình theo nhu cầu TDVH. Việc lắp đặt truyền hình cáp và các dịch vụ

truyền hình trả tiền ở vùng ven biển Hà Tĩnh là bước khẳng định rõ nét về sự phát

triển nhu cầu TDVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh ngày nay, cư dân sẵn sàng trả chi

phí để được xem các chương trình mà mình yêu thích, phù hợp với điều kiện thời

gian của bản thân. Đây cũng là minh chứng cho những thành tựu phát triển rực rỡ

của khoa học công nghệ và quá trình hội nhập mạnh mẽ ở vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay. Người dân không chỉ xem các chương trình truyền hình trong nước mà

còn xem các kênh và các chương trình truyền hình của nhiều nước [PL4.12- 4.13,

tr.210]. Kết quả điều tra cho thấy: ở khu kinh tế đánh bắt có 61% số người được hỏi

trả lời đã “mắc” truyền hình cáp, ở khu kinh tế du lịch số này có 69,7%, ở khu kinh

tế công nghiệp có 71,7%. Chị Lê Thị Hà, 46 tuổi, ở tổ dân phố Trần Phú, thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên, cho biết:

Gia đình tôi có 02 ti vi và mắc truyền hình cáp được gần 1 năm. Sử dụng

dịch vụ truyền hình cáp quả thật rất tiện ích, có nhiều kênh, có nhiều

chương trình hay mà trên truyền hình thông thường không có. Tuy phải

bỏ tiền ra trả chi phí cho dịch vụ nhưng gia đình vẫn rất thích vì nó đáp

ứng được nhu cầu của cả gia đình. Ở tổ dân phố chúng tôi, nhiều hộ gia

đình đã sử dụng truyền hình cáp của tỉnh và sử dụng dịch vụ Internet vì

mục đích tiêu dùng văn hoá, học tập, kinh doanh….

Với tỷ lệ cao về mắc truyền hình cáp, có thể khẳng định nhu cầu tinh thần và

việc đáp ứng nhu cầu này ngày nay trở nên rất quan trọng, được cư dân vùng ven

biển Hà Tĩnh đặc biệt quan tâm. Tỷ lệ này còn góp phần khẳng định thành tựu của

quá trình CNH, HĐH ở Hà Tĩnh và vùng ven biển Hà Tĩnh đã xoá dần khoảng cách

giữa thành thị và nông thôn, xoá dần sự chênh lệch giữa nghề đánh bắt với các nghề

khác trong vùng. Ông Phạm Danh Cường, 48 tuổi - Trưởng đài phát thanh truyền

hình huyện Cẩm Xuyên cho biết:

“Cho đến thời điểm hiện nay, 100% các hộ gia đình trên địa bàn huyện

98

đã có ti vi để xem, trong đó có khoảng hơn 50% các hộ gia đình sử dụng

truyền hình Cáp. Các hộ sử dụng truyền hình cáp tập trung chủ yếu ở khu

vực thị trấn, cạnh khu du lịch, còn các thôn, làng ở xa trung tâm huyện

chưa có điều kiện sử dụng truyền hình cáp. Trong tương lai không xa,

chúng tôi xin chủ trương của huyện, tỉnh để đấu nối điểm chờ về tới các

vùng xa trung tâm”.

Bên cạnh truyền hình cáp, là dịch vụ truyền hình My TV, cũng là một trong

những dịch vụ truyền hình đáp ứng tốt nhu cầu TDVH hiện nay của cư dân. Sử

dụng dịch vụ truyền hình My TV, cư dân có thể xem các chương trình theo yêu cầu

của bản thân bằng hình thức trả phí dịch vụ, có thể xem nhiều kênh của nhiều nước

khác nhau, ở bất cứ thời điểm nào. My TV được ví như một thư viện phim đủ thể

loại, cả những chương trình đã được phát sóng trên ti vi vẫn có thể xem lại,… ngoài

ra My TV còn rất phong phú với các chương trình vui chơi giải trí, các thông tin

kinh tế-chính trị-xã hội và nhiều chương trình khác, …Có thể nói My TV rất tiện

ích, phù hợp với sự bận rộn và quỹ thời gian rỗi ít ỏi, cố định của cư dân ở thời kỳ

CNH, HĐH. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, theo kết quả phiếu điều tra xã hội

học ở 03 khu kinh tế, số cư dân lắp đặt My TV trong gia đình chiếm số lượng khá

cao: khu kinh tế đánh bắt có 53,9%, khu kinh tế du lịch có 83,1%, khu kinh tế công

nghiệp có 83,4%. Anh Hồ Xuân Hải, 36 tuổi, Trưởng phòng Văn hoá và Thông tin

huyện Lộc Hà cho biết:

Tuy số lượng ti vi trong các hộ gia đình đã đạt 100%, nhưng việc sử

dụng truyền hình Cáp và My TV mức độ phủ sóng chưa đồng đều. Ở địa

bàn chúng tôi quản lý hiện nay, do điều kiện kinh tế khá giả, đời sống

tinh thần ngày một nâng cao, nên số hộ gia đình sử dụng dịch vụ My TV

khá nhiều, theo con số thống kê tại thời điểm này cho thấy cứ 10 hộ gia

đình thì có 4,5 hộ đã sử dụng chương trình trên. Trong thời gian tới, các

gia đình còn lại sẽ tiếp tục sử dụng các dịch vụ tiện ích này.

Như vậy, sự nghiệp CNH, HĐH đã góp phần nâng cao đời sống vật chất của

cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh, đưa đến nhiều cơ hội và khả năng, điều kiện để cư

dân mua sắm, trang bị các phương tiện tiêu dùng văn hoá tốt, hiện đại và tiện ích

99

nhất hiện nay. Ngoài truyền hình cáp, My TV, các dịch vụ truyền hình số khác cũng

đã có mặt ở vùng ven biển Hà Tĩnh, góp phần khẳng định thành tựu của KHCN mà

sự nghiệp CNH, HĐH mang lại và khẳng định nhu cầu TDVH của cư dân ven biển

Hà Tĩnh hiện nay rất lớn, cư dân sẵn sàng chi một khoản tài chính nhất định để thoả

mãn nhu cầu của các thành viên trong gia đình.

3.1.1.3. Internet: Internet là một hệ thống gồm các mạng thông tin máy tính

được liên kết với nhau trên phạm vi toàn thế giới theo giao thức TCP/IP thông qua

các hệ thống kênh viễn thông [62, tr.33]. Internet và việc sử dụng Internet là thành

quả của một nền khoa học hiện đại và là kết quả do sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

mang lại. Hiện nay ở vùng ven biển Hà Tĩnh số gia đình lắp đặt Internet khá nhiều.

Ở khu kinh tế đánh bắt, có tới 24,2% số người được hỏi cho biết gia đình họ đã lắp

đặt Internet, một con số không nhỏ ở vùng quê vốn quen nghề chài lưới từ trước tới

nay, lại thuộc tỉnh nghèo miền duyên hải Trung Bộ như Hà Tĩnh, chỉ sau 6 - 7 năm

thực hiện CNH, HĐH, tỷ lệ người dân lắp đặt (kết nối) và sử dụng loại công nghệ

truyền thông hiện đại này chiếm gần ¼ dân số. Cũng cùng một câu hỏi về lắp đặt

Internet trong gia đình ở khu kinh tế du lịch, có 25,2% số người trả lời cho biết gia

đình đã kết nối Internet, và con số này được biểu hiện ở khu kinh tế công nghiệp là

46,1% (chiếm gần 50% dân số).

Với kết quả trả lời cho việc lắp đặt Internet trong gia đình ở ba khu kinh tế

ven biển Hà Tĩnh hiện nay, cho thấy sự nghiệp CNH, HĐH và xu thế hội nhập kinh

tế thế giới đã góp phần làm cho nhu cầu thưởng thức, tiêu dùng văn hoá của cư dân

ven biển Hà Tĩnh hiện nay phát triển mạnh, cư dân tiếp cận nhanh chóng với công

nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng tối đa cho nhu cầu tiêu dùng văn hoá phong phú và

ngày càng cao của cá nhân. Anh Hoàng Tiến Đạt, 45 tuổi, Giám đốc Công ty Viettel

chi nhánh huyện Kỳ Anh, cho biết:

Chi nhánh chúng tôi thành lập được 05 năm, chuyên cung cấp và lắp đặt

mạng Internet cho các hộ gia đình trên địa bàn huyện. Cho đến thời điểm

hiện nay, với tổng số trên 7.000 hộ gia đình sử dụng truyền hình thì có

khoảng gần 3.000 hộ gia đình đã sử dụng Internet. Trong thời gian tới,

100

chúng tôi sẽ tiếp cận các địa bàn xa trong huyện để mở rộng việc sử dụng

Internet tại các hộ gia đình nơi đây.

3.1.1.4. Đài/radio: Theo bảng tổng hợp kết quả phiếu điều tra xã hội học về

phương tiện truyền thông được trang bị tại các gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh

[PL4.10, tr.208], cho thấy đài thu thanh/radio là phương tiện được cư dân sử dụng ít

nhất trong số các phương tiện truyền thông hiện nay. Chúng ta biết rằng, ngày nay

nhân loại đang sở hữu một nền khoa học công nghệ hiện đại, nhiều thiết bị, phương

tiện truyền thông đã thay thế hoàn toàn radio và có nhiều chức năng, công dụng tiện

ích hơn so với radio. Chẳng hạn chỉ với một chiếc điện thoại di động nhỏ gọn trên

tay có thể đọc, nghe, xem các chương trình rất phong phú, có thể xem các chương

trình phát trên vô tuyến truyền hình (ti vi), có thể vào mạng Internet, có thể xem

phim, có thể nghe nhạc, có thể chơi game, có thể chat,… rất hiện đại, tiện ích và dễ

mang theo, dễ sử dụng. Do đó, với những trang thiết bị thông tin truyền thông hiện

đại ngày nay, có thể đáp ứng nhu cầu thưởng thức, tiêu dùng các chương trình văn

hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí ở mọi lúc, mọi nơi và ở bất cứ thời điểm nào con

người muốn. Đó chính là lý do để giải thích tại sao ngày nay, vùng ven biển Hà

Tĩnh nói riêng và các vùng khác trong cả nước nói chung, chiếc đài thu thanh/radio

gần như không còn tồn tại [PL4.10, tr.208]. Theo ông Lê văn Hưu, 68 tuổi, tổ dân

phố Song Yên, thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên, cho biết: “Cách đây hơn 10

năm về trước, cứ 10 hộ gia đình trong làng/thôn thì có 06 hộ gia đình sử dụng

đài/radio, nhưng hiện nay, số gia đình sử dụng chúng đã giảm đi nhiều vì trước đây

chủ yếu là nghe truyền thanh. Song hiện nay do đời sống kinh tế - xã hội phát triển,

đời sống của người dân nâng cao nên họ đã chuyển sang dùng vô tuyến truyền hình

các loại. Số gia đình sử dụng đài/radio hiện nay rất hiếm”.

Ngày nay nhu cầu thưởng thức văn hoá tinh thần của cư dân vùng ven biển

Hà Tĩnh rất phong phú, cư dân có nhu cầu sử dụng thời gian rỗi để hưởng thụ các

sản phẩm văn hoá, nhìn vào cách trang bị các phương tiện truyền thông trong gia

đình của cư dân hiện nay, ta thấy rõ điều này. Mục đích trang bị các phương tiện

thông tin truyền thông trong gia đình của cư dân ngày nay, không dừng lại ở nghe

(hoặc xem) dự báo thời tiết, mà còn để phục vụ nhu cầu hiểu biết, nắm bắt thông tin

101

trong nước, quốc tế cũng như để thưởng thức các chương trình, sản phẩm văn hoá

rất phong phú trên vô tuyến truyền hình, thậm chí còn cả chương trình trên truyền

hình cáp, My T.V, Internet,…

3.1.2. Phương tiện tiêu dùng văn hóa tại địa điểm công cộng

Ngoài các hình thức, phương tiện tiêu dùng văn hoá tại gia đình, cư dân ven

biển Hà Tĩnh ngày nay còn tham gia hoạt động tiêu dùng văn hoá tại các thiết chế

văn hoá, các địa điểm vui chơi, giải trí công cộng.

Các điểm sinh hoạt văn hoá, vui chơi giải trí công cộng có vai trò quan trọng

trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân, đó có thể là một quảng trường, một

sân bóng, hoặc cũng có thể là các thiết chế văn hoá công cộng có chức năng tổng

hợp hay chuyên biệt như nhà văn hoá, rạp hát, điểm bưu điện xã, thư viện, … các

điểm vui chơi giải trí như quán karaoke, sàn nhảy,… Dù tính chất và công năng có

khác nhau, nhưng đây là các địa điểm sinh hoạt mà thông qua đó cư dân có thể

thưởng thức và sáng tạo văn hoá (tiêu dùng văn hoá), tạm xếp các thiết chế, địa

điểm này như là nơi cung cấp các phương tiện, mà thông qua đó cư dân thực hiện

hành vi TDVH của mình. Qua kết quả khảo sát và căn cứ vào số liệu thống kê về

các thiết chế văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí ở ba khu kinh tế do Ban Văn hoá các

xã cung cấp [PL4.14, tr. 211, 212], có thể khái quát các thiết chế văn hoá, thể thao,

vui chơi giải trí hiện có ở vùng ven biển Hà Tĩnh như sau:

* Quán Karaoke: Là địa điểm giải trí lý tưởng, nhất là đối với những người

luôn phải làm việc trong môi trường căng thẳng thì không có một phương tiện giải

trí nào hữu hiệu hơn là hát karaoke. Karaoke đã trở thành một ngành công nghệ giải

trí bằng âm nhạc hấp dẫn. Đối với con người thời kỳ CNH, HĐH, những áp lực của

cuộc sống và của công việc dồn nén,…thì hát karaoke là một hình thức giải trí, xả

stress khá hiệu quả, giúp người hát cảm thấy khoẻ khoắn, tỉnh táo và bớt căng thẳng

hơn. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh, mặc dù karaoke xuất hiện muộn (khoảng 7-8 năm

trở lại đây), nhưng theo con số thống kê tại các xã nằm trong diện khảo sát sâu của

luận án [PL4.14, tr.211, 212] thể hiện như sau: xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà có 4

điểm kinh doanh dịch vụ karaoke; thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên có 13

102

điểm kinh doanh dịch vụ karaoke; xã kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh có 3 điểm kinh

doanh dịch vụ karaoke. Như vậy, về dịch vụ giải trí karaoke ở khu kinh tế du lịch

(điểm khảo sát là thị trấn Thiên Cầm) có số lượng gấp 3-4 lần so với hai điểm khảo

sát còn lại, do đây là khu kinh tế du lịch, nên du khách cũng như cư dân đến đây

thường là để nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi giải trí. Ở khu kinh tế du lịch không chỉ

có dịch vụ karaoke phát triển mà nhiều hình thức vui chơi giải trí hiện đại được ra

đời và phát triển mạnh để đáp ứng và phục vụ một cách tối đa cho nhu cầu TDVH

của cư dân và du khách. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó hoặc nó có thể bị

lợi dụng, nhưng xét về mặt tích cực karaoke đã và đang là một xu hướng TDVH mới

ngày càng được lan rộng ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Đây là hình thức giải trí giúp mọi

người vừa thư giãn, vừa thể hiện được bản thân, vừa đáp ứng được nhu cầu giao lưu,

sinh hoạt tinh thần mang tính tập thể, nhóm,…

* Quán Internet: Quán Internet là hình thức kinh doanh dịch vụ giải trí mới

dành cho lớp trẻ, mà chủ yếu là lứa tuổi thanh thiếu niên. Các em đến quán Internet

là để chơi game, hình thức giải trí này đang trở nên có sức thu hút lớn đối với các

em, có nhiều em đã trở thành những con nghiện khó cai khi chơi các trò game ở

quán Internet. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh dịch vụ giải trí này tuy mới xuất hiện

khoảng 3-4 năm trở lại đây, nhưng về số lượng và biểu hiện có điểm khác nhau ở ba

địa bàn khảo sát: ở khu kinh kinh tế đánh bắt, địa bàn khảo sát là xã Thạch Kim có

03 quán Internet, trong khi đó ở thị trấn Thiên Cầm thuộc địa bàn của khu kinh tế

du lịch chỉ có 01 quán Internet, ở xã Kỳ Phương, thuộc địa bàn của khu kinh tế công

nghiệp con số lên tới 14 quán Internet. Thực tế các số liệu này đã phản ánh rõ đặc

điểm của từng khu kinh tế. Ở khu kinh tế đánh bắt, các em nhỏ ngoài giờ học ở

trường còn phải tham gia lao động cùng bố, mẹ, anh, chị (người lớn) những công

việc phụ của nghề đánh bắt, như: gỡ lưới, bốc dỡ cá, vá lưới, lo cơm nước, …Vì

vậy, quán Internet ở khu kinh tế đánh bắt không nhiều, điểm này cũng giống với

khu kinh tế du lịch. Các em nhỏ ở khu kinh tế du lịch, hoặc là con của những gia

đình còn làm nghề đánh bắt, hoặc là gia đình có kinh doanh du lịch hay bán hàng

phục vụ khách du lịch chiếm số lượng chủ yếu, nên các em phải giúp bố mẹ, gia

103

đình trong những khoảng thời gian ngoài giờ lên lớp, do đó thời gian rỗi mà bố mẹ

buông lỏng để các em có thể ra quán Internet chơi game không nhiều. Ngược lại với

hai khu kinh tế trên, ở khu kinh tế công nghiệp, địa điểm khảo sát là xã Kỳ Phương,

một xã nằm cạnh khu công nghiệp, số lượng quán Internet lớn hơn gấp nhiều lần so

với hai khu kinh tế kia, điều này cho thấy nhu cầu đến quán Internet của thanh,

thiếu niên ở đây rất lớn, thực trạng này cũng phản ánh cường độ làm việc của các

bậc cha mẹ ở khu kinh tế công nghiệp cao, thời gian giám sát con cái không nhiều,

không kèm cặp được thường xuyên, nên các em ngoài giờ học tập trên lớp (thoát

khỏi sự quản lý của nhà trường) là có thể sa ngay vào các quán Internet đầy hấp

dẫn, trong khi đó bố mẹ đang tất bật với cường độ lao động ở khu kinh tế công

nghiệp. Và như đã nói, cái gì cũng có mặt trái của nó, Internet mặc dù mang lại

nhiều tiện ích cho người sử dụng, nhưng việc chơi game của các cháu nhỏ còn ở lứa

tuổi vị thành niên trong các quán Internet đang là vấn đề báo động đối với xã hội

hiện đại, vấn đề chơi gì, chơi như thế nào đang là những câu hỏi lớn đặt ra đối với

các nhà quản lý. Tuy nhiên, dù muốn hay không thì dịch vụ giải trí này cũng đang có

xu hướng phát triển mạnh ở vùng ven biển Hà Tĩnh, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu

chơi game của các cháu nhỏ, khi mà gia đình các cháu ngày càng có điều kiện kinh

tế, bố mẹ ngày càng bận rộn hơn với cường độ làm việc của xã hội CNH, HĐH.

* Sân thể thao: là thiết chế vốn quen thuộc với người dân, nơi diễn ra các

hoạt động thể dục thể thao cho mọi lứa tuổi, đồng thời cũng là nơi diễn ra các phong

trào, hoạt động thi đấu thể dục thể thao quần chúng mang tính tự phát giữa các

nhóm cư dân trong làng, xã, hoặc diễn ra có tổ chức giữa các làng xã với nhau. Đây

là thiết chế thể thao rất được chú ý hiện nay theo quy định của Chương trình mục

tiêu quốc gia về Xây dựng Nông thôn mới. Ở tất cả các làng, thôn, khối phố ở vùng

ven biển Hà Tĩnh hiện nay đều có thiết chế sân thể thao đạt chuẩn. Tuy nhiên, đối

với khu kinh tế đánh bắt do điều kiện đất đai chật hẹp, từ trước đến nay diện tích đất

chủ yếu sử dụng để làm nhà ở và các công trình công cộng thiết yếu, nên yêu cầu

đạt chuẩn về sân thể thao ở khu kinh tế đánh bắt hiện nay quả thực rất khó khăn.

Trong ba xã/thị trấn thuộc địa bàn khảo sát của luận án, thực trạng về thiết chế này

104

diễn ra như sau: ở xã Thạch Kim (thuộc khu kinh tế đánh bắt) có 02 sân thể thao/7

thôn, ở thị trấn Thiên Cầm (thuộc khu kinh tế du lịch) có 10 sân thể thao/8 tổ dân

phố, ở xã Kỳ Phương (thuộc khu kinh tế công nghiệp) có 19 sân thể thao/9 thôn.

Như vậy, với số liệu trên cho thấy yêu cầu, quy định là một việc, nhưng điều kiện

thực tế có ý nghĩa quyết định. Ở khu kinh tế đánh bắt như đã nói, do điều kiện đất

đai nên 7 thôn trong xã mà chỉ có 02 sân thể thao là ít so với quy định. Ngược lại, ở

khu kinh tế du lịch chỉ tính riêng khu vực thị trấn Thiên Cầm có 8 tổ dân phố nhưng

có tới 10 sân thể thao, chưa kể các sân thể thao của các khách sạn, nhà nghỉ nằm

trong khu du lịch. Ở khu kinh tế công nghiệp, số lượng sân thể thao lớn [PL4.14, tr.

211, 212] và đảm bảo đạt chuẩn nhất trong ba khu kinh tế. Bởi ở khu kinh tế công

nghiệp, từ trước đến nay diện tích đất tương đối rộng, hơn nữa sau khi khu công

nghiệp Vũng Áng được hình thành, một dự án quy hoạch mới được ra đời ở khu

kinh tế này. Do được quy hoạch ở thời kỳ hiện đại, cộng thêm kinh tế ở đây đang

phát triển mạnh, nên các thiết chế công cộng nói chung và thiết chế thể thao nói

riêng ở khu kinh tế công nghiệp hầu hết đều đạt chuẩn theo quy định của Chương

trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới.

* Sân tennis: là thiết chế thể thao hiện đại, dành cho lứa tuổi trung niên, lứa

tuổi đã thành đạt, có điều kiện kinh tế khá giả. Trong ba xã thuộc địa bàn khảo sát

của luận án chỉ có ở thị trấn Thiên Cầm (thuộc khu kinh tế du lịch) là có thiết chế

sân tennis, hai khu kinh tế còn lại chưa có thiết chế thể thao này. Như vậy, có thể

nhận định rằng, trong ba khu kinh tế thì ở khu kinh tế du lịch có nhiều điểm vui

chơi giải trí, thể thao hiện đại dành cho người lớn. Bởi như đã đã được đề cập ở

trên, vì là khu du lịch nên các dịch vụ vui chơi, giải trí, các thiết chế thể thao hiện

đại có điều kiện ra đời và phát triển mạnh. Thông thường ở các khu du lịch, điểm du

lịch nổi tiếng bao giờ cũng ra đời kèm theo nhiều loại hình dịch vụ vui chơi giải trí

hiện đại, đem đến nhiều cơ hội, hình thức thư giãn, giải trí, TDVH phù hợp cho nhu

cầu của cư dân thời kỳ CNH, HĐH mỗi khi đến tham quan du lịch hay nghỉ dưỡng.

* Sân patin: là một loại hình thiết chế thể thao hiện đại dành cho trẻ em, chỉ

mới xuất hiện ở vùng ven biển Hà Tĩnh một vài năm lại đây. Hình thức thể thao này

105

chủ yếu dành cho lớp trẻ gồm thanh, thiếu niên và một số ít các cháu nhỏ. Mặc dù là

loại hình thể thao mới xuất hiện, nhưng khá phổ biến ở vùng ven biển Hà Tĩnh.

Theo số liệu thống kê của các xã/thị trấn thuộc ba địa bàn khảo sát [PL4.14, tr. 211,

212] cho thấy tỷ lệ sân Patin phát triển khá nhanh ở cả ba khu kinh tế vùng ven biển

Hà Tĩnh trong một vài năm gần đây. Xã Thạch kim, huyện Lộc Hà (thuộc khu kinh

tế đánh bắt) có 02 sân Patin, ở thị trần Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên (nằm trong

khu kinh tế du lịch) có 01 sân Patin, ở xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh (thuộc khu

kinh tế công nghiệp) có 02 sân Patin. Số liệu này một lần nữa khẳng định hình thức

vui chơi giải trí dành cho thanh, thiếu niên có xu hướng phát triển mạnh ở khu kinh

tế công nghiệp, còn hình thức vui chơi giải trí hiện đại dành cho người lớn lại xuất

hiện ngày càng nhiều ở khu kinh tế du lịch. Còn ở khu kinh tế đánh bắt, sự xuất hiện

các hình thức vui chơi giải trí hiện đại có xu hướng chậm hơn, không ồ ạt, mạnh mẽ

như ở khu kinh tế du lịch và khu kinh tế công nghiệp.

* Nhà văn hoá: là thiết chế văn hoá vừa có chức năng chuyên biệt, vừa có

chức năng tổng hợp. Là nơi diễn ra các phong trào văn hoá, văn nghệ của địa

phương, đồng thời cũng là nơi diễn ra các sinh hoạt chính trị-xã hội ở cơ sở. Với

chức năng chuyên biệt, nhà văn hoá thường là nơi diễn ra các hội diễn văn hoá nghệ

thuật quần chúng nhân các ngày lễ kỷ niệm của quê hương, đất nước, các ngày lịch

sử truyền thống của các ngành, các tổ chức chính trị-xã hội, đồng thời cũng là nơi

diễn ra các sinh hoạt câu lạc bộ nghệ thuật quần chúng, các sinh hoạt văn hoá văn

nghệ của nhiều lứa tuổi khác nhau ở địa phương. Với chức năng tổng hợp, Nhà văn

hoá thường là nơi diễn ra các cuộc hội họp để trao đổi, bàn bạc những công việc của

tập thể có liên quan trực tiếp đến cư dân, là địa điểm tập trung cư dân để phổ biến

các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà Nước. Theo quy

định của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông thôn mới thì Nhà văn

hoá là một trong những thiết chế bắt buộc phải có đối với các thôn, làng, khối phố

và phải đạt đúng tiêu chuẩn theo quy định đề ra. Vì vậy, ở các xã, thị trấn thuộc diện

khảo sát sâu của luận án, tiêu chí về thiết chế Nhà văn hoá hầu hết được đảm bảo

đúng theo quy định của chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng Nông thôn

mới. Tại các xã, thị trấn này cứ có bao nhiêu thôn, xóm, tổ dân phố thì có bấy nhiêu

106

Nhà văn hoá. Xã Thạch Kim có 7/7 thôn có Nhà văn hoá, thị trấn Thiên Cầm có

10/10 tổ dân phố có Nhà văn hoá và một Nhà văn hoá của thị trấn nên tổng số là 11

Nhà văn hoá, xã Kỳ Phương có 9/9 thôn có Nhà văn hoá. Như vậy, Nhà văn hoá là

thiết chế được Nhà nước quan tâm đầu tư, nhằm hướng đến đáp ứng, phục vụ cho

sự TDVH của cư dân. Nhưng trên thực tế, các hoạt động và nội dung chương trình

ở các thiết chế này chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu TDVH của cư dân vùng

ven biển Hà Tĩnh.

* Điểm bưu điện và thư viện xã: Thông thường ở các xã/ phường/ khối phố,

thiết chế bưu điện và thư viện được bố trí chung một chỗ. Bưu điện là nơi giao dịch

thư tín, công văn và các giao dịch thông tin truyền thông khác, là nơi cung cấp các

loại báo, tạp chí,... Tủ sách thư viện xã/phường phục vụ bạn đọc hàng ngày cũng

được đặt trong bưu điện. Theo quy định của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng Nông thôn mới mỗi xã/phường/thị trấn phải có một điểm bưu điện văn hoá và

01 thư viện cấp xã. Thực hiện đúng quy định của Chương trình mục tiêu quốc gia

về xây dựng Nông thôn mới, ở các xã/thị trấn ven biển Hà Tĩnh thuộc địa bàn khảo

sát của luận án đều có đầy đủ thiết chế bưu điện văn hoá cấp xã và một tủ sách cấp

xã (một số xã là gọi là tủ sách Pháp luật). Tuy nhiên, việc nhập bưu điện và thư viện

cấp xã làm một chỉ là một trong số những mô hình ở các địa phương, còn có mô hình

thứ hai là tủ sách bạn đọc cấp xã được bố trí một phòng đọc riêng nằm trong trụ sở

làm việc của UBND xã. Cụ thể về hai thiết chế này ở ba địa bàn khảo sát như sau: xã

Thạch Kim có một điểm bưu điện văn hoá và một tủ sách bạn đọc cấp xã được bố trí

chung, còn ở thị trấn Thiên Cầm hiện tại tủ sách Pháp luật đang được bố trí tạm thời

trong phòng Tư pháp (vì thư viện của thị trấn đang trong thời gian xây dựng), như

vậy ở khu vực thị trấn Thư viện được xây dựng riêng, còn xã Kỳ Phương thư viện xã

được bố trí phòng đọc riêng nằm trong khuôn viên làm việc của trụ sở xã.

* Khu vui chơi trẻ em: Là địa điểm vui chơi dành cho các cháu nhi đồng.

Đến với khu vui chơi này các cháu nhỏ được trải nghiệm các trò: cưỡi ngựa, đi tàu

hoả, ngồi đu xít, lái máy bay,… những trò chơi rất phù hợp với sở thích của các

cháu. Tuy nhiên, khu vui chơi này chưa thực sự phổ biến ở vùng ven biển Hà Tĩnh,

chỉ mới có ở khu kinh tế du lịch vài năm gần đây. Thông thường ở các khu du lịch,

107

chỗ vui chơi cho trẻ em là một trong những yếu tố rất được quan tâm, bởi du khách

mỗi khi đi du lịch theo hình thức gia đình thường mang theo cả trẻ nhỏ, nên ở các

khu này chỗ vui chơi cho trẻ em trở thành một tiêu chuẩn, để vừa đáp ứng nhu cầu,

vừa đảm bảo quyền được vui chơi ở những chỗ an toàn cho các cháu nhỏ,…Do đó

trong ba địa bàn khảo sát của luận án, chỉ có thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên

(thuộc khu du lịch Thiên Cầm) là có khu vui chơi trẻ em, còn xã Thạch Kim và xã

Kỳ Phương chưa có khu vui chơi này. Như vậy, trong ba địa bàn khảo sát, khi tìm

hiểu về các loại hình vui chơi giải trí, thể thao hiện đại, thì ở khu kinh tế du lịch

phong phú và đa dạng hơn cả, có đầy đủ các hình thức giải trí cho mọi lứa tuổi

[PL4.14, tr. 211, 212]. Trong khi đó ở hai khu kinh tế còn lại, một số loại hình thể

thao vui chơi giải trí hiện đại chưa xuất hiện, có thể do nhu cầu thực tại của cư dân

ở hai khu kinh tế này chưa đủ mạnh, hoặc cũng có thể do thời gian rỗi của cư dân

không nhiều, do đó chưa thích hợp để một số loại hình thể thao, vui chơi giải trí

hiện đại ra đời.

Từ thực trạng này cho thấy, ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, các thiết chế

văn hoá, thể thao truyền thống mang tính bắt buộc có sự tương đối đồng nhất ở ba

khu kinh tế, nhưng về các thiết chế, địa điểm vui chơi giải trí, thể thao hiện đại được

ra đời dựa vào thực tế nhu cầu TDVH của cư dân thì chưa có sự phát triển đồng đều

ở ba khu kinh tế [PL4.14, tr. 211, 212]. Đặc điểm này khác so với thời kỳ trước

CNH, HĐH- thời kỳ mà các thiết chế văn hoá công cộng chỉ gồm các đình, đền,

chùa, miếu,… ở đó vừa là nơi thực hành tín ngưỡng, tôn giáo vừa là nơi diễn ra các

sinh hoạt văn hoá tinh thần của cộng đồng làng xã trong các dịp lễ hội. Chỉ vào dịp

lễ hội, lễ tết diễn ra, cư dân ven biển Hà Tĩnh xưa mới có cơ hội để thể hiện các

trò chơi, trò diễn, sinh hoạt văn hoá tinh thần của mình, cũng như mới có dịp được

thưởng thức và tham gia vào các sáng tạo văn hoá tinh thần cùng cộng đồng.

Ngoài dịp lễ hội, lễ tết cư dân ven biển Hà Tĩnh xưa có rất ít cơ hội để thể hiện các

sáng tạo văn hoá của bản thân và thưởng thức các sản phẩm văn hoá tinh thần của

cộng đồng. Điều đó cũng lý giải vì sao ngày xưa ở vùng ven biển Hà Tĩnh thường

có những đêm sinh hoạt văn hoá văn nghệ diễn ra một cách tự phát giữa những tốp

nam thanh nữ tú, hát đối đáp với nhau trong những đêm lao động đan lưới, vá lưới

108

dưới trăng.

Sự biểu hiện phong phú, đa dạng về các thiết chế văn hoá công cộng và các

điểm vui chơi giải trí hiện đại ở vùng ven biển Hà Tĩnh, đã khẳng định sự sinh động

về nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, vui chơi giải trí của cư dân nơi đây trong

thời kỳ CNH, HĐH. Các công trình vui chơi, giải trí này cho thấy khoảng cách

chênh lệch về TDVH giữa cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh với cư dân chốn thị thành

hiện nay không lớn, thậm chí không còn có sự khác biệt. Anh Phan Văn Nhàn, 52

tuổi, Trưởng ban xây dựng nông thôn mới ở huyện Lộc Hà cho biết:

Thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới, trên địa bàn huyện hiện

nay có 13 xã, có 1/19 tiêu chí là thiết chế văn hoá công cộng dành cho

cộng đồng cư dân địa phương, gồm: các công trình văn hoá truyền thống,

các công trình, địa điểm văn hoá có tính hiện đại và các dịch vụ văn hoá

như nhà khách, quán karaoke, café, Internet,… đã được hình thành và

phát triển mạnh để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tinh thần ngày càng cao

của cư dân. Theo số liệu quản lý của chúng tôi, các tiêu chí về đời sống

văn hoá cộng đồng nêu trên đều đã được triển khai thực hiện tại các xã

trong huyện.

3.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa

3.2.1. Qua các phương tiện tiêu dùng văn hóa tại gia đình

Kết quả phiếu điều tra xã hội học về nhu cầu tiêu dùng văn hoá qua sử dụng

các phương tiện truyền thông tại gia đình trong thời gian rỗi của cư dân ở ba khu

kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh [PL4.11, tr.209] thu được kết quả như sau:

Ở khu kinh tế đánh bắt, nhu cầu TDVH của cư dân qua các phương tiện

truyền thông trong thời gian rỗi, đứng đầu là xem ti vi 89,9% số phiếu, tiếp theo là

My TV 68,2% số phiếu, thứ ba là truyền hình cáp 61,9% số phiếu, thứ tư là truy cập

Internet chiếm 28,4% số phiếu, đọc sách báo tạp chí chiếm 13,9% số phiếu, đứng ở

vị trí sau cùng là nghe đài 3,3% số phiếu. Nghe đài có tỷ lệ phiếu thấp ở cả ba khu

kinh tế và có xu hướng không còn trong xã hội ngày nay, bởi sự thay thế của các

phương tiện truyền thông hiện đại.

Ở khu kinh tế du lịch, đứng đầu về TDVH của cư dân qua phương tiện

109

truyền thông trong thời gian rỗi cũng là xem truyền hình vô tuyến (ti vi) chiếm

93,6% số phiếu, trong khi đó nhu cầu sử dụng truyền hình cáp, dịch vụ My TV, truy

cập Internet, đọc sách báo tạp chí có tỷ lệ phiếu rất thấp, mỗi loại đều nằm dưới

mức 10% số phiếu, cụ thể truy cập Internet đạt 6,3%, đọc sách báo tạp chí 4,2%,

xem truyền hình cáp 3,36%, dịch vụ My T.V 7,2%. Đem so sánh kết quả nhu cầu

TDVH qua các phượng tiện truyền thông của cư dân với thực trạng việc lắp đặt các

trang thiết bị này ở khu kinh tế du lịch có kết quả hoàn toàn trái ngược nhau, lượng

cư dân trang bị các phương tiện, dịch vụ truyền thông không hề thấp ở khu kinh tế

du lịch. Như vậy, qua hai kết quả này đã phản ánh một thực tế ở khu kinh tế du lịch:

đó là việc trang bị các phương tiện truyền thông hiện đại ở đây không phải để phục

vụ chính cho nhu cầu TDVH của người dân, mà chủ yếu là để làm dịch vụ phục vụ

khách du lịch, với mục đích kinh doanh là chính. Nên mặc dù tỷ lệ lắp đặt phương

tiện truyền thông và các dịch vụ vui chơi giải trí của cư dân rất cao, nhưng thực tế

tiêu dùng trong cư dân không cao.

Ở khu kinh tế công nghiệp, thực trạng TDVH của cư dân qua sử dụng các

phương tiện truyền thông có nhiều điểm khác so với hai khu kinh tế trên. Đứng đầu

là My T.V với 68,3%, tiếp đến xem vô tuyến (ti vi) 59,6%; sử dụng mạng internet

52,4%; xem truyền hình cáp 45,2%; đọc sách báo 30%; thấp nhất là nghe đài 2,2%.

Kết quả này phản ánh thực tế thời gian rỗi của cư dân ở khu kinh tế công nghiệp

không nhiều, thời gian xem vô tuyến không cao như ở hai khu kinh tế trên. Với lý

do đó, để bù lại sự ít ỏi về thời gian rỗi nhưng vẫn đáp ứng tốt nhất nhu cầu tiêu

dùng văn hoá, cư dân đã lựa chọn sử dụng dịch vụ truyền hình My T.V với tỷ lệ cao

nhất ở khu kinh tế này. Với dịch vụ truyền hình trả tiền như My TV đem lại cho cư

dân nhiều cơ hội lựa chọn xem các chương trình khác nhau, và điều quan trong nhất

là cư dân chủ động về thời gian TDVH của mình. Thực trạng về nhu cầu sử dụng

các phương tiện truyền thông tại gia đình của cư dân ở ba khu kinh tế vùng ven biển

Hà Tĩnh, đã nói lên vai trò to lớn, quan trọng của các phương tiện truyền thông hiện

đại ngày nay đối với vấn đề TDVH của cư dân, nhu cầu TDVH của cư dân đang

ngày càng trở nên quan trọng và bức thiết trước những áp lực và sự bộn bề của cuộc

sống hiện đại.

110

3.2.2. Qua các địa điểm, thiết chế văn hóa công cộng

Tìm hiểu nhu cầu cư dân đến các thiết chế văn hoá và các điểm vui chơi giải

trí công cộng, số liệu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế [PL4.15, tr.212, 213], cho

thấy: thiết chế văn hoá, vui chơi giải trí có số lượng cư dân đến nhiều nhất ở ba khu

kinh tế hiện nay là quán karaoke và nhà văn hoá. Hai thiết chế này ở cả ba khu đều

chiếm tỷ lệ trên 50% số người được hỏi đã trả lời đây là hai thiết chế được đến

nhiều nhất. Đứng vị trí số một ở khu kinh tế đánh bắt và khu kinh tế du lịch là quán

karaoke, với 71,9% số phiếu ở khu kinh tế đánh bắt, 94,5% số phiếu ở khu kinh tế

du lịch. Đứng thứ hai ở cả hai khu kinh tế này là nhà văn hoá, chiếm 70,7% số

phiếu ở khu kinh tế đánh bắt; và 82,3% số phiếu ở khu kinh tế du lịch. Như vậy,

song song với chủ trương, chính sách thu hút đầu tư, phát triển du lịch của tỉnh, nhu

cầu và thực trạng tiêu dùng văn hoá của cư dân ở khu kinh tế du lịch cũng được

phát triển mạnh, lượng người dân đến với thiết chế vui chơi giải trí hiện đại đạt số

phiếu rất cao.

Khác với hai khu kinh tế trên, ở khu kinh tế công nghiệp biểu hiện nhu cầu

TDVH của cư dân qua thiết chế công cộng, đứng đầu là thiết chế nhà văn hoá với

88,3%, tiếp theo là quán Internet 76,6%, thứ ba mới là quán karaoke 66,8%. Theo anh

Nguyễn Tiến Trung, 36 tuổi, Trưởng công an xã Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh cho biết:

Chúng tôi sinh sống trên địa bàn có khu công nghiệp lớn, đời sống của

người dân ngày một phát triển.Thực hiện chương trình nông thôn mới

của Nhà nước, chính quyền địa phương đã vận dụng có sự sáng tạo và

đã xây dựng được ở mỗi thôn một nhà văn hoá có diện tích 300m2 theo

quy định, sắm sửa các trang thiết bị chiếu sáng, âm thanh, loa máy và

các vật dụng cần thiết cho người dân đến dự họp, sinh hoạt văn hóa và

vui chơi giải trí tại đây. Hiện nay trên địa bàn xã có 09 thôn, mỗi thôn

đều có 01 nhà văn hoá với tổng kinh phí đầu tư lên tới trên 1 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, các dịch vụ văn hoá, giải trí công nghệ hiện đại cũng được

người dân đầu tư để phục nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần như

karaoke, Internet. Hiện nay trên địa bàn xã có 03 quán karaoke; 14 quán

111

internet mở ra để phục vụ nhu cầu của các đối tượng thanh niên, trung

niên trong làng và phục vụ đối tượng công nhân vào dịp cuối tuần.

Những dịch vụ này chúng tôi quản lý rất chặt và ít để xảy ra các sự vụ

gây rối trật tự công cộng.

Mặc dù, có kết quả phiếu khá cao ở ba khu kinh tế trả lời thiết chế Nhà văn

hoá có lượng cư dân đến đông, nhưng kết quả này chưa hẳn nói lên nhu cầu tiêu

dùng văn hoá của cư dân ở thiết chế này lớn, mà do đây là thiết chế vừa có chức

năng chuyên biệt vừa có chức năng tổng hợp. Nên, ngoài các sinh hoạt văn hoá văn

nghệ của cư dân địa phương, nhà văn hoá còn là nơi diễn ra các cuộc hội họp, sinh

hoạt cộng đồng của cư dân trong làng (thôn, tổ dân phố), nơi họp bàn các công việc

chung của thôn, nơi phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước,… đây là những sinh hoạt mang tính bắt buộc đối với mỗi người

dân sinh sống trên địa bàn, do đó qua điều tra số lượng cư dân đến với thiết chế nhà

văn hoá cao ở cả ba khu kinh tế cũng bao hàm cả lý do này.

Tuy nhiên, cũng cho một kết quả khách quan, chính xác và hoàn toàn hợp lý,

khi ở khu kinh tế đánh bắt và khu kinh tế du lịch, đứng vị trí số một về nhu cầu tiêu

dùng văn hoá của cư dân là quán karaoke, bởi ở hai khu kinh tế này khi bước sang

thời kỳ CNH, HĐH, điều kiện kinh tế và thời gian rỗi của cư dân có phần dư giả

hơn so với thời gian rỗi của cư dân ở khu kinh tế công nghiệp. Do đó, cư dân ở khu

kinh tế đánh bắt và khu kinh tế du lịch đến với loại hình thiết chế vui chơi giải trí

này vì thế cũng cao hơn so với khu kinh tế công nghiệp. Theo chị Nguyễn Thị Trang,

38 tuổi, Trưởng ban Văn hoá thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên cho biết:

Khu vực tôi đang sinh sống là khu phát triển kinh tế du lịch, hàng năm

vào mùa hè có hàng nghìn lượt khách đến tắm biển, nghỉ lại vài ngày. Do

đó, các hộ gia đình ở đây đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang,

xây dựng nhiều quán karaoke, quán café,… với phòng ốc hiện đại để

phục vụ khách du lịch và phục vụ thanh niên sinh sống trên địa bàn.

Theo đăng ký dịch vụ mà chính quyền quản lý, trên địa bàn thị trấn có

khoảng gần 15 quán karaoke với các quy mô lớn nhỏ khác nhau và hàng

112

ngày có khoảng 20 đến 30 lượt khách đến hát tại mỗi quán…

Ngược lại với hai khu kinh tế trên, ở khu kinh tế công nghiệp tỷ lệ phiếu

điều tra xã hội học cho biết lượng cư dân đến với quán karaoke chỉ đứng ở vị trí số

ba (sau Nhà văn hoá và quán Internet), bởi thực trạng ở khu kinh tế này cường độ

lao động và thời gian làm việc của cư dân rất lớn, giờ làm việc được thực hiện hết

sức nghiêm ngặt. Với tính chất và yêu cầu công việc của khu kinh tế công nghiệp,

nên thời gian rỗi để cư dân tụ tập bạn bè đến hát ở quán karaoke không nhiều như ở

khu kinh tế đánh bắt và khu kinh tế du lịch. Do đó, đứng vị trí số một về sử dụng

các thiết chế văn hoá, địa điểm vui chơi giải trí công cộng ở khu kinh tế công

nghiệp là Nhà văn hoá, thực tế này cũng dễ hiểu bởi một lý do như đã nói ở trên,

đến sinh hoạt ở Nhà văn hoá là yêu cầu bắt buộc đối với mọi người dân, dẫu cư dân

có bận rộn với công việc cả ngày, nhưng vẫn phải thu xếp thời gian để đến nhà văn

hoá khi có thông báo của thôn. Anh Lê Văn Hoà, 46 tuổi, thôn Nhân Hoà, xã Kỳ

Phương cho biết:

Khi có các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phổ biến

xuống với dân, hay những buổi tiếp xúc cử tri, chúng tôi đều nhận được

thông báo qua loa phát thanh của thôn yêu cầu các hộ gia đình phải có

mặt đầy đủ ở nhà văn hoá của thôn để nghe phổ biến, trao đổi ý

kiến,…hoặc vào những ngày lễ, tết, các sự kiện như “Ngày đại đoàn kết

toàn dân”, ngày “Mồng 1 tháng 6”, “Tết Trung thu”,..thôn chúng tôi đều tổ

chức các sinh hoạt tại nhà văn hoá, và mọi gia đình trong thôn đều phải

tham gia đầy đủ”.

Tiếp theo có nhu cầu khá cao về TDVH của cư dân là quán Internet, đây

cũng là một trong những loại hình vui chơi giải trí công cộng có tỷ lệ phiếu khá cao

ở cả ba khu kinh tế, Internet là điểm giải trí có sức hút lớn đối với thanh, thiếu niên

hiện nay. Thanh, thiếu niên vùng ven biển Hà Tĩnh cũng bị hấp dẫn trước sự cuốn

hút của các quán Internet, tỷ lệ phiếu dành cho điểm vui chơi, giải trí này ở khu

kinh tế đánh bắt là 67,7% số phiếu; ở khu kinh tế du lịch là 45,3% số phiếu; khu

kinh tế công nghiệp 76,6% số phiếu (đứng vị trí số hai ở khu kinh tế công nghiệp,

113

sau Nhà Văn hóa). Như vậy, ở cả ba khu kinh tế đều cho tỷ lệ phiếu khá cao đối với

quán Internet, tuy nhiên đối tượng đến quán Internet như đã đề cập chủ yếu là

thanh, thiếu niên. Trong số ba khu kinh tế, thì ở khu kinh tế công nghiệp nhu cầu

đến quán Internet cao hơn cả, số lượng quán Internet ở khu kinh tế công nghiệp

cũng nhiều nhất trong ba khu kinh tế.

Đứng thứ tư ở cả ba khu kinh tế về nhu cầu TDVH của cư dân là thiết chế

điểm bưu điện văn hoá xã, đây là thiết chế công cộng có số lượng người dân ra vào

khá đông, chiếm 41,4% số phiếu ở khu kinh tế đánh bắt, 48,5% số phiếu ở khu kinh

tế du lịch, 45,2% số phiếu ở khu kinh tế công nghiệp. Mặc dù số liệu điều tra xã hội

học đã cho một kết quả chính xác và khách quan, tuy nhiên cũng cần nhận định

thêm rằng, người dân đến điểm bưu điện văn hoá xã với nhiều lý do khác nhau

(nhận, gửi bưu phẩm thư từ, giao dịch liên hệ lắp đặt thanh toán các khoản phí cho

các phương tiện thông tin truyền thông, thông tin liên lạc,…) chứ không phải chỉ

đến với mục đích mua báo, tạp chí (tiêu dùng văn hoá), mà mua báo tạp chí chỉ

chiếm tỷ lệ nhỏ trong số người dân đến giao dịch ở đây. Do đó, mặc dù số phiếu lựa

chọn đến với thiết chế bưu điện khá cao, nhưng không thể nhận định tất cả người

dân đến đây là để TDVH. Chị Hà Thị Liên, 36 tuổi, cán bộ trực bưu điện văn hoá xã

Thạch Kim, huyện Lộc Hà cho biết:

Trong 03 năm trở lại đây, hoạt động của bưu điện văn hoá xã khá phát

triển, do nhu cầu của người dân ngày càng nhiều, lại nằm ở vị trí giao

thông thuận lợi, nên đã trở thành điểm đến của mọi người. Nhưng chủ

yếu người dân đến đây để giao dịch lắp đặt các thiết bị truyền thông hiện

đại, còn đọc sách báo thì số lượng không nhiều, chỉ có đối tượng cao tuổi,

họ đến đây đọc báo, sách, tạp chí… Theo sổ thống kê của bưu điện do tôi

trực tiếp quản lý bình quân một tháng có khoảng dưới 100 lượt bạn đọc

Có sức thu hút khá lớn, được người dân lựa chọn nhiều hiện nay, là các thiết

chế thể thao hiện đại (sân tennis, sân patin…). Hai môn môn thể thao mới được du

nhập vào Việt Nam những năm gần đây. Ở vùng ven biển Hà Tĩnh, qua số liệu

thống kê ở ba khu kinh tế [PL4.14, tr. 211, 212], sân tennis mới chỉ có ở khu kinh tế

114

du lịch (của các khách sạn lớn), còn patin có ở cả ba khu kinh tế. Tuy nhiên, để

tham gia chơi hai môn thể thao này (tennis, patin), đòi hỏi người chơi ngoài yếu tố

thời gian, phải bỏ ra một ít kinh phí để thuê sân và mua dụng cụ chơi, vì vậy đối

tượng chơi thường thuộc những gia đình có điều kiện kinh tế, trong đó tennis là

môn thể thao dành cho người lớn, patin là môn thể thao dành cho trẻ em. Mặc dù

xuất hiện chưa lâu ở vùng ven biển Hà Tĩnh, nhưng qua số liệu điều tra sân tennis

và sân patin là những thiết chế thể thao có sức thu hút lớn đối với cư dân. Có 29,6%

số người dân được hỏi trả lời có đến sân tennis ở khu kinh tế du lịch (hai khu kinh

tế còn lại chưa có thiết chế thể thao này). Về sân patin: ở khu kinh tế đánh bắt có

30,9%; ở khu kinh tế du lịch có 37,6%, và ở khu kinh tế công nghiệp có 44,3%. Bên

cạnh sân tennis và sân patin, sân thể thao (bóng đá, bóng chuyền,…) cũng là thiết

chế được cư dân lựa chọn hiện nay, tuy nhiên về thực tế sự phục vụ của thiết chế

này chưa đáp ứng được nhu cầu của cư dân. Số phiếu dành cho thiết chế thể thao

(bóng đá, bóng chuyền,..) này ở khu kinh tế đánh bắt có 38,9%, ở khu kinh tế du

lịch có 39%, và ở khu kinh tế công nghiệp 43,9%.

Đứng ở vị trí thấp nhất về lượng nhu cầu cư dân đến trong số các thiết chế

công cộng, thể hiện qua phiếu điều tra xã hội học là thiết chế thư viện xã. Như trên

đã đề cập, mô hình ở các xã hiện nay, thiết chế thư viện hoặc là để ở bưu điện xã

hoặc là có phòng đọc riêng nằm trong khuôn viên trụ sở làm việc của xã. Tuy nhiên,

cho dù đặt ở đâu thì cũng không ngoài mục đích phục vụ bạn đọc tốt nhất. Kết quả

phiếu điều tra xã hội học ở ba khu kinh tế, thể hiện như sau: Có 17,6% tỷ lệ phiếu

trả lời có đến thư viện xã ở khu kinh tế đánh bắt; 19,3% tỷ lệ phiếu trả lời có đến

thư viện xã ở khu kinh tế du lịch; 17,4% tỷ lệ phiếu trả lời có đến thư viện xã ở khu

kinh tế công nghiệp. Kết quả điều tra này cho thấy, mặc dù văn hóa đọc góp phần

gìn giữ nét văn hoá truyền thống dân tộc, nhưng nhu cầu người dân đến với thiết

chế thư viện hiện nay không nhiều. Chị Hà Thị Liên, cán bộ trực thư viện xã Kỳ

Phương, thị xã Kỳ Anh cho biết: “Ngày nay bạn đọc ở thư viện xã chủ yếu là các cụ

hưu trí, các cụ cao tuổi, trung niên còn bận đi làm, lớp trẻ thì thường đến các quán

Internet, nên lượt bạn đọc rất ít”.

115

3.3. Mức độ tiêu dùng văn hóa

Để hiểu rõ thực trạng TDVH của cư dân, bên cạnh tìm hiểu nhu cầu, là việc

xem xét mức độ TDVH qua các phương tiện TDVH trong gia đình và tại các thiết

chế, địa điểm công cộng.

3.3.1. Qua các phương tiện tiêu dùng văn hóa tại gia đình

Phiếu điều tra xã hội học về mức độ TDVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua

phương tiện TDVH tại gia đình được đưa ra với ba mức độ: Thường xuyên (hàng

ngày), thỉnh thoảng và rất ít [PL4.11, tr.209], thu được kết quả như sau:

Ở khu kinh tế đánh bắt: Mức độ sử dụng hàng ngày cao nhất là ti vi và truyền

hình cáp, với tỷ lệ phiếu dành cho xem ti vi hàng ngày là 79,6%, thỉnh thoàng xem

là 17,5%, và trả lời rất ít xem ti vi chỉ chiếm 0,8%; đối với truyền hình cáp, trả lời

có xem hàng ngày là 79,3%, thỉnh thoảng xem là 28,2%, rất ít xem là 0,9%. Tiếp

theo là Internet, mức độ truy cập hàng ngày là 69%, thỉnh thoảng truy cập là 22%,

rất ít truy cập là 11,2%. Dịch vụ truyền hình My TV, mức độ xem hàng ngày là

17,3%, thỉnh thoảng xem là 55,8%, rất ít xem là 2,8%. Mức độ đọc sách, báo (giấy)

hàng ngày có kết quả thấp chỉ có 8,9% cư dân được hỏi trả lời có đọc hàng ngày,

còn thỉnh thoảng mới đọc có tỷ lệ phiếu trả lời là 34,8%, rất ít đọc có số phiếu trả

lời cao nhất trong số các phương tiện TDVH của cư dân hiện nay là 55,8%. Mức độ

nghe đài/radio hàng ngày có 2,9%, thỉnh thoảng mới nghe có 0,4%, rất ít có 0%.

Ở khu kinh tế du lịch, mức độ TDVH của cư dân qua các phương tiện truyền

thông tại gia đình thể hiện như sau: Mức độ hàng ngày chiếm vị trí cao nhất là xem

ti vi với 92,9%, mức độ thỉnh thoảng mới xem có 4,8%, rất ít xem có 0%. Sau xem

ti vi ở khu kinh tế này là truy cập Internet với mức độ hàng ngày là 69,5%, mức độ

thỉnh thoảng có 29,3%, rất ít truy cập Internet có 0,8%. Về truyền hình cáp và My

TV mức độ xem của cư dân ở khu kinh tế du lịch thấp, xem truyền hình cáp hàng

ngày có 3,2%, thỉnh thoảng mới xem có 35,2%, rất ít xem có 62,5%; Với dịch vụ

MyTV mức độ xem hàng ngày có 6,8%, mức độ thỉnh thoảng xem có 0,4%, mức độ

xem rất ít có 13,5%. TDVH thấp nhất trong số các phương tiện thông tin ở khu kinh

tế này cũng giống ở khu kinh tế đánh bắt, đó là đọc sách, báo (giấy) với tỷ lệ 3,2% số

cư dân được hỏi trả lời có đọc sách báo hàng ngày, 27,5% số cư dân trả lời thỉnh

116

thoảng mới đọc và có tới 58,3% số cư dân đưa ra câu trả lời rất ít đọc sách, báo. Về

nghe đài ở khu kinh tế này không có phiếu nào lựa chọn ở cả ba mức độ.

Ở khu kinh tế công nghiệp, chiếm số phiếu cao nhất về mức độ sử dụng hàng

ngày vẫn là ti vi với số phiếu trả lời của cư dân cho rằng việc xem ti vi của họ diễn

ra hàng ngày đạt 98,7%, số phiếu trả lời thỉnh thoảng mới xem ti vi có 1,3% và

không có người nào trả lời rất ít khi xem ti vi. Đứng sau ti vi ở khu kinh tế này là

truy cập Internet, truy cập Internet của cư dân ở khu kinh tế công nghiệp diễn ra

hàng ngày có 87,8%, thỉnh thoảng mới truy cập có 8,9% và truy cập rất ít chỉ có

3,3%. Bên cạnh ti vi và Internet, là truyền hình cáp và dịch vụ truyền hình My TV

cũng có tỷ lệ cao thừa nhận rằng đã sử dụng các dịch vụ này hàng ngày, trong đó trả

lời cho xem truyền hình cáp hàng ngày có 66,3%, thỉnh thoảng mới xem có 22,2%

và rất ít xem có 11,5% . Về dịch vụ truyền hình My TV với mức độ xem hàng ngày

trong cư dân là 65,2%, thỉnh thoảng mới xem có 22,4%, rất ít xem có 12,4%. Về

đọc sách báo vẫn có số phiếu thấp nhất về mức độ tiêu dùng của cư dân, mức độ

đọc hàng ngày có 11,2%, thỉnh thoảng đọc có 32,1%, rất ít đọc có 55,8%. Không có

phiếu nào lựa chọn nghe đài ở khu kinh tế này.

Như vậy, tìm hiểu thực trạng mức độ TDVH qua các phương tiện truyền thông

tại gia đình của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, nhận thấy: ở cả ba khu kinh

tế mức độ xem ti vi chiếm số lượng lớn nhất, hầu hết cư dân ven biển Hà Tĩnh sử

dụng thời gian rỗi hàng ngày của mình để xem ti vi. Sau ti vi ở khu kinh tế đánh bắt

là truyền hình cáp và Internet, nhưng ở khu kinh tế du lịch và khu kinh tế công nghiệp

là Internet, mức độ sử dụng Internet hàng ngày trong cư dân ở ba khu kinh tế khá lớn.

Tiếp đến có mức độ sử dụng nhiều trong số các phương tiện truyền thông tại gia đình

ở khu kinh tế công nghiệp là dịch vụ truyền hình cáp và My TV, còn ở khu kinh tế du

lịch cả hai dịch vụ truyền hình cáp và My TV được cư dân sử dụng rất thấp. Nhưng,

thấp nhất trong cả ba khu kinh tế là đọc sách, báo và nghe đài.

3.3.2. Qua các thiết chế, địa điểm công cộng

Về tiêu dùng văn hoá của cư dân qua các thiết chế văn hoá, địa điểm vui chơi

giải trí công cộng trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay không còn thường xuyên,

quan trọng hay duy nhất như trước. Bởi, nếu trước đây trong thời kỳ bao cấp, các

117

thiết chế cộng cộng là nơi duy nhất để cư dân thể hiện tài năng và sự yêu thích văn

hoá văn nghệ của mình, cũng là nơi duy nhất diễn ra các sinh hoạt văn hoá văn nghệ

của cư dân, thì ngày nay đã khác: các phương tiện tiêu dùng văn hoá cá nhân và gia

đình rất phong phú, đa dạng giúp cư dân có thể thoả mãn nhu cầu TDVH ở mọi lúc

mọi nơi. Vì thế, ngày nay cư dân đến với các thiết chế công cộng ở mức độ thường

xuyên không nhiều, mà con số ở mức độ thỉnh thoảng chiếm số lượng lớn ở cả ba

khu kinh tế [PL4.15, tr.212, 213]. Thực tế TDVH ở các thiết chế công cộng khác

với TDVH qua các phương tiện truyền thông tại gia đình, đó là cư dân không có

nhiều thời gian rỗi để đến các thiết chế công cộng hàng ngày giống như việc xem ti

vi hay TDVH qua các phượng tiện truyền thông khác tại gia đình. Hơn nữa tại các

thiết chế công cộng (Nhà văn hóa, sân thể thao) không phải lúc nào cũng có các

chương trình tiết mục diễn ra để cư dân có thể xem hoặc chơi (còn chưa bàn đến

chất lượng của các chương trình, tiết mục), đồng thời một số thiết chế mang tính

chất dịch vụ văn hóa (như karaoke, …) thì cư dân muốn đến phải bỏ chi phí tương

đối lớn và thường phải đi theo nhóm (bạn bè, đồng nghiệp, …), mà việc tập hợp

nhóm trong điều kiện công việc rất đa dạng của cư dân ở thời kỳ CNH, HĐH hiện

nay lại không hề đơn giản,… Do đó, số đông cư dân trả lời ở mức độ thỉnh thoảng

mới đến các thiết chế công cộng là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, cũng có một số

thiết chế công cộng có số phiếu trả lời của cư dân khá cao (trên 60%) ở cả ba khu

kinh tế rằng rất ít đến các thiết chế này, đó là thư viện xã, vì như ở phần trên đã đề

cập, hiện tượng văn hoá đọc đang có xu hướng mai một trong cư dân ven biển Hà

Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH. Cùng với thiết chế thư viện, quán karaoke ở khu kinh tế

đánh bắt và khu kinh tế công nghiệp cũng có trên 60 % cư dân trả lời rất ít đến thiết

chế vui chơi giải trí này, bởi hầu hết cư dân ở hai khu kinh tế này có rất ít thời gian

rỗi để tụ tập bạn bè cùng đi hát karaoke, do tính chất công việc của nghề đánh bắt

trên biển lâu ngày và làm việc ở khu công nghiệp rất bận rộn. Việc đến sân thể thao

và đến bưu điện xã ở hai khu kinh tế này cũng có tỷ lệ phiếu cao trả lời cho mức độ

rất ít, chiếm trên 30% ở khu kinh tế đánh bắt và trên 40% ở khu kinh tế công

118

nghiệp. Ngoài ra, các môn thể thao hiện đại được xem là phát triển mạnh ở khu kinh

tế du lịch như tennis và patin, nhưng tỷ lệ phiếu cư dân trả lời ít đến các thiết chế thể

thao này cũng chiếm tới hơn 40% số phiếu cho mỗi loại thiết chế, như vậy thiết chế

thể thao hiện đại ở khu kinh tế du lịch không phải hướng vào phục vụ cư dân địa

phương mà chủ yếu là để phục vụ khách du lịch.

Biểu đồ 3.1: Mức độ tiêu dùng văn hóa của cƣ dân tại địa điểm công cộng

Khu kinh tế đánh bắt Khu kinh tế công nghiệp

0.8

28.3

36.9

31.6

18.7

11.3

0.6

30.8

58.1

41.2

36.2

62.5

55.9

38.5

68.7

13.6

20.9

32.2

18.8

32.8

60.9

0 20 40 60 80

Quán karaoke

Quán Internet

Sân Patin

Sân thể thao

Nhà Văn hóa

Điểm bưu điện

Thư viện xã

0.6

38.9

32.8

17.9

26.9

15.1

0.4

38.2

52.3

46.5

32.6

55.2

38.5

38.1

61.2

8.8

20.7

49.5

27.9

46.4

61.5

0 20 40 60 80

Quán karaoke

Quán Internet

Sân Patin

Sân thể thao

Nhà Văn hóa

Điểm bưu điện

Thư viện xã

Khu kinh tế du lịch

22.4

11.2

18.7

26.8

12.5

20.8

18.5

1

28.5

56.5

53.1

39

48.7

38.4

58.4

55.4

38.2

60.2

21.1

35.7

42.3

24.5

49.1

20.8

26.1

60.8

11.3

0 20 40 60 80

Quán karaoke

Quán Internet

Sân Patin

Sân thể thao

Sân tennis

Nhà Văn hóa

Điểm bưu điện

Thư viện xã

Khu vui chơi trẻ em

Rất ít

Thỉnh thoảng

Thường xuyên

119

3.4. Nội dung tiêu dùng văn hóa

3.4.1. Qua các phương tiện tiêu dùng văn hóa tại gia đình

3.4.1.1. Xem trên truyền hình vô tuyến (ti vi)

Kết quả điều tra xã hội học và những phân tích trên đây đều cho thấy ti vi là

phương tiện TDVH được sử dụng nhiều nhất trong số các phương tiện TDVH của

cư dân ở ba khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh. Với sự phong phú về chương trình

cũng như thời lượng phát sóng nên ti vi đã trở thành phương tiện TDVH rất được

yêu thích của người dân. Tuy nhiên, với mỗi phương tiện truyền thông hiện nay đều

có khá nhiều nội dung để người tiêu dùng lựa chọn. Với cư dân ven biển Hà Tĩnh,

nội dung TDVH qua ti vị (truyền hình vô tuyến) được thể hiện như sau:

Trong số 10 chương trình được đưa ra để tìm hiểu về những nội dung mà cư

dân ở ba khu kinh tế thường xem trên ti vi [PL4.16, tr.214], kết quả điều tra cho

thấy “thời sự, tin tức”, “thể thao”, “ca nhạc”, “trò chơi giải trí”, “phim truyện”, …là

những chương trình thu hút được nhiều người xem nhất với tỷ lệ phiếu đạt từ trên

50% đến gần 100% số phiếu. Cụ thể: Ở khu kinh tế đánh bắt, thời sự, tin tức 97%,

thể thao 81,1%, ca nhạc 70,2%, trò chơi giải trí 91,2%, phim truyện 67,7%. Ở khu

kinh tế du lịch, thời sự, tin tức 88,6%, thể thao 77,7%, ca nhạc 84,4%, trò chơi giải

trí 85,2%, phim truyện 62,1%. Ở khu kinh tế công nghiệp, thời sự, tin tức 97,7% thể

thao 85,2%, ca nhạc 55,6%, trò chơi giải trí 73,5%, phim truyện 63,6%.

Bên cạnh các chương trình trên, một số các chương trình khác trên ti vi cũng

được cư dân quan tâm với tỷ lệ phiếu đạt từ trên 30% đến trên 50%, đó là: ở khu

kinh tế đánh bắt, quảng cáo có 51%, thế giới động vật có 43,9%, phổ biến kiến thức

có 41% và thấp nhất ở khu kinh tế này là chương trình vòng quanh thế giới với

32,6%. Ở khu kinh tế du lịch, quảng cáo có 56,7%, phổ biến kiến thức có 48,3%,

vòng quanh thế giới có 42,4% và thấp nhất ở khu kinh tế này là thế giới động vật

với 39%. Ở khu kinh tế công nghiệp, quảng cáo có 46,1%, phổ biến kiến thức có

41,2%, thế giới động vật 34% và thấp nhất là vòng quanh thế giới có 27,8% (đây là

tỷ lệ thấp nhất trong các chương trình ở ba khu kinh tế).

120

Biểu đồ 3.2: Nội dung xem ti vi của cƣ dân

0

51

32.6

43.9

41

67.7

91.2

70.2

81.1

97

3.5

56.7

42.4

39

48.3

62.1

85.2

84.4

77.7

88.6

2

46.3

27.8

34

41.2

63.6

73.5

55.6

85.2

97.7

0 50 100 150

Khác

Quảng cáo

Vòng quanh thế giới

Thế giới động vật

Phổ biến kiến thức

Phim truyện

Trò chơi giải trí

Ca nhạc

Thể thao

Thời sự/ tin tực

Khu kinh tế công nghiệp

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế đánh bắt

Như vậy, trong số các chương trình trên truyền hình vô tuyến (ti vi), thì thời

sự là chương trình thu hút người xem lớn nhất, do nhu cầu nắm bắt thông tin kinh

tế-chính trị-xã hội ngày càng trở nên cấp thiết trong xã hội hiện đại. Sau thời sự là

trò chơi giải trí trên truyền hình cũng hấp dẫn và có sức thu hút nhiều người xem

hiện nay, đây là một trong những chương trình tạo ra nhiều sân chơi bổ ích, phong

phú và đa dạng cho nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau từ em bé cho đến cụ già. Có

thể nói xem truyền hình vô tuyến đang có sức thu hút mạnh mẽ sự tiêu dùng văn

hoá của cư dân ở vùng ven biển Hà Tĩnh, do tính phong phú, đa dạng và hấp dẫn

của các chương trình được phát trên đó. Các chỉ số về nhu cầu, mức độ, nội dung

đều cho thấy truyền hình vô tuyến chiếm số lượng cư dân tiêu dùng lớn nhất, gần

đạt 100% kết quả cho tất cả các số liệu điều tra. Ngoài ra, các chương trình như phổ

biến kiến thức, thế giới động vật, vòng quanh thế giới, hay quảng cáo cũng có tỷ lệ

cư dân quan tâm khá lớn, chiếm 1/3 cho đến gần một nửa. Có thể khẳng định tiêu

dùng văn hoá qua ti vi đang có sức thu hút người tiêu dùng khá lớn, mà rõ nét cho

vấn đề này là ở vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH.

3.4.1.2 Xem trên truyền hình cáp và các dịch vụ truyền hình khác

Bên cạnh tiêu dùng văn hoá qua ti vi, thì tiêu dùng văn hoá qua truyền hình

cáp và các dịch vụ truyền hình khác cũng đang được cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh

121

lựa chọn để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng văn hoá đa dạng và ngày càng cao của

bản thân.

Biểu đồ 3.3: Nội dung xem trên truyền hình cáp và dịch vụ truyền hình khác

71.9

28.8

6.27

47.2

30.1

61.9

33.8

1.8

47

83.1

32.7

42.834

39.9

60

0.3

32.2 30.433.6

44.3 46.1

65.4

77.1

1.2

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

Phim Ca

nhạc

Học

ngoại

ngữ

Hoạt

hình

Trò

chơi

giải trí

Thể

thao

Thông

tin thế

giới

Khác

Khu kinh tế đánh bắt

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế công nghiệp

Theo kết quả điều tra xã hội học về 8 chương trình được đưa ra để khảo sát nội

dung tiêu dùng văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh qua truyền hình cáp và dịch vụ

My TV [PL4.17, tr.212] cho thấy: nội dung xem phim cao nhất là ở khu kinh tế đánh

bắt, nội dung nghe ca nhạc cao nhất là ở khu kinh tế du lịch và xem các thông tin thế

giới cao nhất là ở khu kinh tế công nghiệp. Đây là kết quả hoàn toàn hợp lý, phù hợp

với đặc điểm tâm lý của cư dân ở từng khu kinh tế, cư dân làm nghề đánh bắt sau

những vật lộn với sự ồn ào, giữ dội của sóng biển, thời gian rỗi còn lại muốn được

thư giãn nhẹ nhàng qua các bộ phim truyện; với cư dân ở khu kinh tế du lịch thích

được thỏa mãn đời sống tinh thần bằng những tiết mục ca nhạc vui nhộn, sôi động,…

đó chính là đặc điểm nổi bật ở các khu, điểm du lịch; còn với khu kinh tế công nghiệp

cập nhật thông tin kinh tế trên thế giới là vấn đề cần thiết đối với cư dân đang sống và

làm việc với các công ty, doanh nghiệp nước ngoài,…. Về nội dung học ngoại ngữ

thấp nhất là ở khu kinh tế đánh bắt, hai khu kinh tế còn lại có tỷ lệ học ngoại ngữ

tương đương nhau, điều này nói lên cư dân ở hai khu kinh tế này do điều kiện môi

trường sống và làm việc thường xuyên tiếp xúc, giao lưu với người nước ngoài, do đó

việc học ngoại ngữ được cư dân chú trọng. Các nội dung còn lại như hoạt hình, giải

trí, thể thao không có sự chênh lệch nhiều giữa ba khu kinh tế.

122

3.4.1.3. Nội dung, mục đích khi sử dụng Internet

Khi được hỏi về mục đích và nội dung khi truy cập Internet của cư dân ở ba

khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh [PL4.18, tr.215], thu được kết quả như sau: ở

khu kinh tế đánh bắt, đứng đầu về mục đích truy cập Internet là vào mạng xã hội

với 77,8%, tiếp đến là xem tin tức với 61%, thứ ba là khám phá các chương trình du

lịch giải trí có 56,4%, nhận và gửi thư có 32,6%, chát có 30,1%. Riêng các mục sử

dụng Interent để học tập, tìm kiếm các phần mềm và mua hàng chỉ đạt xấp xỉ trên

dưới 20%, lần lượt là: học tập 19,2%, tìm kiếm phần mềm 18,8% và mua hàng

20,5%, 3% dành cho các mục đích khác.

Ở khu kinh tế du lịch, đứng đầu về mục đích sử dụng Internet là xem tin tức

với 76,4%, tiếp đến là vào mạng xã hội với 62,1%, thứ ba là du lịch giải trí với

59,6%. Các nội dung nhận và gửi thư, chát, học tập, tìm kiếm các phần mềm và mua

hàng, lần lượt là 47%, 36,1%, 13,4%, 31,9% và 33,1%; chỉ có 2,7% số phiếu của cư

dân ở khu kinh tế này sử dụng cho các mục đích khác.

Ở khu kinh tế công nghiệp, đứng đầu về mục đích sử dụng Internet là vào

mạng xã hội với 79,8%, tiếp đến là xem tin tức với 78,9%, thứ ba là du lịch giải trí

với 77,5%, thứ tư là chát với 59,1%. Các nội dung nhận và gửi thư, học tập, tìm

kiếm các phần mềm và mua hàng, lần lượt là 20,6%, 26,4%, 27,8% và 16,1%; chỉ

có 0,9% sử dụng cho các mục đích khác.

Như vậy, có thể thấy rằng, mục đích sử dụng Internet của cư dân ở ba khu

kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay tập trung nhiều nhất cho các nội dung: “vào

mạng xã hội”, “xem tin tức”, “du lịch giải trí", đạt tỷ lệ từ trên 50% đến gần 80% ở

cả ba khu kinh tế. Còn lại các mục đích khác chủ yếu ở mức dưới 50%, tuy nhiên ở

khu kinh tế công nghiệp, việc sử dụng Internet cho nội dung chát vẫn chiếm tỷ lệ

phiếu cao nhất trong ba khu kinh tế và vượt mức trên 50% (59,1%), với kết quả này

đưa đến nhận định ở khu kinh tế công nghiệp thời gian rỗi của cư dân để gặp mặt

thăm hỏi người thân, gặp gỡ bạn bè không nhiều, do đó cư dân sử dụng mạng

Internet để chát với bạn bè, người thân,… Bên cạnh đó, mục đích vào Internet để

tìm kiếm các phần mềm ở khu kinh tế công nghiệp cũng cao hơn khu kinh tế đánh

123

bắt và khu kinh tế du lịch. Trong khi đó mục đích sử dụng Internet để học tập và

mua hàng ở khu kinh tế du lịch lại có tỷ lệ phiếu cao hơn hai khu kinh tế còn lại,

đây cũng là một thực tế hợp lý bởi ở khu kinh tế du lịch lượng du khách đến du lịch

hàng năm khá đông, và để phục vụ tốt nhu cầu của du khách và đem lại thu nhập

cao, cư dân sở tại đã phải sử dụng cả hình thức mua bán hàng hoá qua mạng

Internet và học tập nhiều kiến thức qua mạng để đem đến sự phục vụ tốt nhất cho

khách hàng, đặc biệt là đối với khách du lịch là người nước ngoài.

3.4.1.4. Nội dung khi nghe đài/radio

Với số lượng rất ít cư dân hiện nay còn nghe đài ở ba khu kinh tế vùng ven

biển Hà Tĩnh, qua phiếu điều tra xã hội học về các nội dung cư dân thường nghe

[PL4.19, tr.215] thể hiện như sau: nghe “tin tức” có 6,2% ở khu kinh tế đánh bắt,

8,8% ở khu kinh tế du lịch và 3,5% ở khu kinh tế công nghiệp; nghe ca nhạc 7,1% ở

khu kinh tế đánh bắt, 5% ở khu kinh tế du lịch và 5,8% ở khu kinh tế công nghiệp;

nghe chuyên mục phổ biến kiến thức có 8,7% ở khu kinh tế đánh bắt, 6,7% ở khu

kinh tế du lịch và 4,4% ở khu kinh tế công nghiệp. Riêng chuyên mục thể thao có tỷ

lệ phiếu thấp hơn cả, chỉ có 3,3% ở khu kinh tế đánh bắt, 2,2% ở khu kinh tế du lịch

và 3,5% ở khu kinh tế công nghiệp. Như vậy, có thể nhận thấy việc TDVH của cư

dân qua đài radio hiện nay rất ít, do ngày nay có rất nhiều phương tiện truyền thông

hiện đại vừa chuyển tải được nội dung thông tin lại vừa chuyển tải được các hình

ảnh đẹp mắt, hấp dẫn có sức lôi cuốn cư dân mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ trẻ. Vì

vậy, với phương tiện radio ngày nay chủ yếu được một số cụ ông cao tuổi do mắt

kém nên các cụ phải nghe đài vì không xem được ti vi hay các phương tiện thông

tin có hình ảnh khác.

3.4.2. Qua các thiết chế, địa điểm công cộng

3.4.2.1. Nội dung đọc sách, báo ở thư viện

Trong số 10 nội dung được đưa ra để hỏi cư dân ở ba khu kinh tế khi đọc

sách, báo [PL4.20, tr.216], gồm có: chính trị -xã hội, thể thao, văn hóa-văn học-

nghệ thuật, kinh tế-lao động, quảng cáo-rao vặt, tập san chuyên đề (gia đình, phụ

nữ,…), sách phổ biến kiến thức, sách chuyên môn, sách lịch sử-địa lý, và một số

sách mang nội dung khác, nhận thấy: thực trạng của việc đọc sách, báo hiện nay

124

trong cư dân rất ít, các nội dung đều có tỷ lệ phiếu thấp. Có số phiếu cao nhất về nội

dung được cư dân quan tâm khi đọc báo ở cả ba khu kinh tế, đó là thông tin kinh tế,

lao động và quảng cáo rao vặt, cả ba khu kinh tế đều đạt từ trên 40 đến trên 50%,

điều này phản ánh đúng thực trạng những vấn đề mà cư dân thời kỳ CNH, HĐH rất

quan tâm. Còn lại các nội dung khác theo điều tra có tỷ lệ phiếu dưới 30% đến dưới

10%, riêng với loại sách phổ biến kiến thức được cư dân khu kinh tế du lịch khá

quan tâm, đạt trên 40% tỷ lệ phiếu (cao nhất về nội dung này ở ba khu kinh tế), có

lẽ ở khu kinh tế du lịch cư dân quan tâm nhiều hơn đến loại sách này với mong

muốn để phục vụ tốt cho các nghề kinh doanh mới mẻ của mình, đó là kinh doanh

nuôi trồng thuỷ hải sản và các nghề dịch vụ du lịch, ăn uống,…

Biểu đồ 3.4: Các nội dung sách báo đƣợc cƣ dân quan tâm

2.3

17.1

6.27

29.7

17.1

55.2

45.1

18.8

26.3

29.7

1.8

7.5

9.6

40.3

15.9

44.1

50.8

13.4

32.7

23.1

2

6.7

12.5

13.4

36.7

43.9

57.3

37.2

21.5

32.7

0 20 40 60 80

Khác

Sách lịch sử, đại lý

Sách chuyên môn

Sách phổ biến kiến thức

Tập san, chuyên đề về gia …

Quảng cáo, rao vặt

Kinh tế, lao động

Văn hóa, văn học, nghệ thuật

Thể thao

Chính trị, xã hội

Khu kinh tế công nghiệp

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế đánh bắt

3.4.2.2. Các loại bài hát được lựa chọn khi đến quán Karaoke

Điều tra về xu hướng lựa chọn các bài hát được cư dân yêu thích hiện nay ở

ba khu kinh tế [PL4.21, tr.214] thể hiện như sau:

Về thể loại nhạc và ca khúc được cư dân ở ba khu kinh tế lựa chọn nhiều

nhất hiện nay là dân ca: với 77,9% ở khu kinh tế đánh bắt, 93% ở khu kinh tế du

lịch và 86% ở khu kinh tế công nghiệp. Tiếp theo là sự lựa chọn cho ca khúc cách

mạng, với 56,9% ở khu kinh tế đánh bắt, 78,5% ở khu kinh tế du lịch và 70,4% ở

125

khu kinh tế công nghiệp. Về ca khúc Việt Nam hiện đại, ở khu kinh tế du lịch có sự

lựa chọn khá cao, lên đến 97,8%, trong khi đó lựa chọn cho loại ca khúc này ở khu

kinh tế công nghiệp là 43,9%, và ở khu kinh tế đánh bắt là 17,1%. Như vậy, lựa

chọn cho yêu thích ca khúc Việt Nam hiện đại có sự chênh lệch khá cao giữa ba khu

kinh tế, trong đó ở khu kinh tế du lịch với đặc điểm là khu nghỉ ngơi vui chơi giải

trí nên cư dân có điều kiện môi trường tốt trong tiếp cận các giá trị mới, giúp cho

việc nâng cao thị hiếu TDVH của mình, và vì thế tỷ lệ cư dân lựa chọn và đến với

ca khúc Việt Nam hiện đại ở khu kinh tế này cao. Có thể khẳng định, chính sự phát

triển du lịch với các dịch vụ vui chơi giải trí và sự giao lưu hợp tác với bên ngoài,

trong đó có yếu tố nước ngoài là những tác nhân chính góp phần nâng cao thị hiếu

TDVH của cư dân, đẩy nhanh quá trình tiếp cận và xu hướng vươn tới các yếu tố

mới và hiện đại. Kết quả trả lời về sự yêu thích và lựa chọn nhạc nước ngoài của cư

dân cũng cho kết quả tương tự với ca khúc Việt Nam hiện đại, đó là số phiếu lựa

chọn cao nhất cho thể loại nhạc này là khu kinh tế du lịch với 60.9%, tiếp đến là

khu kinh tế công nghiệp 40,1%, và ở khu kinh tế đánh bắt 21,4%. Đây là kết quả

cao cho sự lựa chọn tiêu dùng, thưởng thức nhạc nước ngoài ở vùng ven biển Hà

Tĩnh, điều này thể hiện xu hướng và thị hiếu tiêu dùng văn hoá của cư dân được

nâng cao nhờ vào quá trình CNH, HĐH, giao lưu tiếp xúc rộng rãi với bên ngoài,

tiếp xúc với yếu tố hiện đại, yếu tố nước ngoài. Thấp nhất trong số các loại nhạc mà

cư dân lựa chọn hiện nay là cải lương, chèo, nhạc cổ truyền: ở khu kinh tế đánh bắt

23%, ở khu kinh tế du lịch 1,26%, ở khu kinh tế công nghiệp 18,2%.

Biểu đồ 3.5: Các loại nhạc đƣợc cƣ dân lựa chọn

56.9

78.570.4

23

1.26

18.2

77.9

9386

21.4

60.9

40.1

17.1

97.8

43.9

0102030405060708090

100

Ca khúc

cách

mạng

cải lương,

chèo,

nhạc cổ

truyền

Dân ca Nhạc

quốc tế

Ca khúc

Việt Nam

hiện đại

Khu kinh tế đánh bắt

Khu kinh tế du lịch

Khu kinh tế công nghiệp

126

3.4.2.3. Các loại thể thao được yêu thích

Kết quả điều tra về các môn thể thao được yêu thích của cư dân ở ba khu

kinh tế khi đến sinh hoạt tại các thiết chế thể thao [PL4.22, tr.217] được thể hiện

như sau: môn thể thao được lựa chọn nhiều nhất ở ba khu kinh tế là trượt patin của

các cháu, ở khu kinh tế đánh bắt là 24,6%, ở khu kinh tế du lịch là 29,8%, ở khu

kinh tế công nghiệp là 43,9%. Còn môn thể thao được yêu thích và chơi nhiều nhất

đối với người lớn ở cả ba khu kinh tế là bóng chuyền, có thể nói ở vùng ven biển Hà

Tĩnh rất phổ biến với môn thể thao này, trong các lễ hội của vùng đây là môn thi

đấu không thể thiếu giữa các thôn/ xã, số phiếu lựa chọn môn thể thao này ở ba khu

kinh tế như sau: ở khu kinh tế đánh bắt 30,1%, ở khu kinh tế du lịch 41,1%, ở khu

kinh tế công nghiệp 18,3%. Còn các môn bóng đá, võ và dưỡng sinh, tỷ lệ phiếu ở

khu kinh tế công nghiệp cao hơn hai khu kinh tế còn lại, cụ thể: bóng đá ở khu kinh

tế đánh bắt có 21,3%, ở khu kinh tế du lịch có 27,3%, ở khu kinh tế công nghiệp lên

tới 32,2%. Võ, ở khu kinh tế đánh bắt là 11,2%, ở khu kinh tế du lịch là 14,7%, ở

khu kinh tế công nghiệp là 34%. Về thể dục dưỡng sinh ở khu kinh tế đánh bắt là

13,3%, ở khu kinh tế du lịch là 11,7%, ở khu kinh tế công nghiệp là 26%. Về môn

cầu lông có tỷ lệ phiếu tương đối đồng đều ở ba khu kinh tế, đây là môn thể thao có

tính phổ cập và phù hợp với nhiều lứa tuổi, ở khu kinh tế đánh bắt là 19,2%, ở khu

kinh tế du lịch là 12,6%, ở khu kinh tế công nghiệp là 17%. Riêng môn tennis có tỷ

lệ phiếu lựa chọn cao ở khu kinh tế du lịch, nhưng lại có tỷ lệ phiếu thấp ở hai khu

kinh tế còn lại, cụ thể khu kinh tế đánh bắt có 6,2%, ở khu kinh tế du lịch có 37,3%, ở

khu kinh tế công nghiệp có 8%. Về tennis như đã có dịp đề cập ở trên, ở khu kinh tế du

lịch có 02 sân tennis, trong khi đó ở hai khu kinh tế còn lại chưa có sân tennis, do đó số

phiếu lựa chọn cho chơi tennis ở khu kinh tế đánh bắt và khu kinh tế công nghiệp chủ

yếu dành cho đối tượng là cán bộ công chức nhà nước, vì họ có thể chơi môn này ở cơ

quan nơi họ công tác, còn tại địa phương chưa có thiết chế thể thao này.

3.4.2.4 Nội dung được lựa chọn khi đến Nhà văn hoá

Điều tra về những sinh hoạt được cư dân lựa chọn khi đến nhà văn hoá ở ba

khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh [PL4.23, tr.217], cho thấy nội dung tham gia các

sinh hoạt tập thể và hội họp có số phiếu cao nhất, ở khu kinh tế đánh bắt là 61,9%, ở

127

khu kinh tế du lịch là 65,1%, ở khu kinh tế công nghiệp là 77,1%. Tiếp theo, nội

dung có số phiếu đứng sau sinh hoạt và hội họp là xem các hội thi, hội diễn văn

nghệ quần chúng: ở khu kinh tế đánh bắt có 32%, ở khu kinh tế du lịch có 38,9%, ở

khu kinh tế công nghiệp có 26,5%. Việc tham gia các câu lạc bộ (CLB) nghệ thuật

cũng nhận được sự hưởng ứng của cư dân khá cao, với 26,3% ở khu kinh tế đánh bắt,

33,1% ở khu kinh tế du lịch và 29,1% ở khu kinh tế công nghiệp. Có tỷ lệ phiếu thấp

nhất trong số các nội dung được điều tra về sự lựa chọn khi đến Nhà văn hoá là tham

gia các hội thi, hội diễn văn nghệ quần chúng, nội dung này có số phiếu thấp cũng dễ

hiểu, bởi để đến xem các hội thi, hội diễn thì ai cũng đến được, nhưng để tham gia

các hội thi, hội diễn thì chỉ có những người có thể hát hoặc có thể lên sân khấu mới

có thể tham gia, với lý do đó nên số phiếu lựa chọn nội dung này có tỷ lệ thấp nhất ở

ba khu kinh tế, cụ thể như sau: ở khu kinh tế đánh bắt là 18,6%, ở khu kinh tế du lịch

là 22,5%, ở khu kinh tế công nghiệp là 11,4%.

Với các kết quả trên đây cho thấy sự lựa chọn của cư dân đến với các thiết

chế văn hoá, thể thao mang tính Nhà nước (Sân thể thao, Nhà văn hóa, Thư viện

xã,…) không cao, do tính thiếu hấp dẫn của các thiết chế Văn hóa, Thể thao này. Vì

vậy rất cần phải nâng cao chất lượng, số lượng, cũng như sự phong phú, đa dạng về

nội dung, hình thức của các chương trình ở các thiết chế Văn hóa thể mang tính Nhà

nước, tạo sức hấp dẫn của các thiết này để cư dân đến ngày càng đông hơn, nhất là cư

dân ở thời kỳ CNH, HĐH.

Tiểu kết

Tiêu dùng văn hoá là vấn đề đã được một số học giả nghiên cứu trong những

năm gần đây. Với quan niệm TDVH là việc chủ thể tiêu dùng/hưởng thụ các sản

phẩm, giá trị văn hoá tinh thần, là biểu hiện cơ bản của ĐSVH của một cộng đồng

cư dân nhất định. Từ những lý thuyết TDVH, NCS đã vận dụng vào nghiên cứu

trường hợp TDVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh trên hai phương diện cụ thể: Tiêu

dùng văn hoá tại gia đình và tiêu dùng văn hoá tại các địa điểm công cộng. Để đạt

128

được mục tiêu nghiên cứu của nội dung này, phương pháp xã hội học như thu thập

thông tin trong phiếu trưng cầu ý kiến, phỏng vấn cộng đồng đã được sử dụng một

cách tối đa để luận giải cho những vấn đề đặt ra cần giải quyết như: việc sử dụng ti vi,

truyền hình Cáp, My Tv, Internet, các thiết chế văn hoá truyền thống và hiện đại; nhu

cầu, mức độ và nội dung tiêu dùng văn hóa của cư dân thể hiện qua các phương tiện,

địa điểm tiêu dùng,... Những số liệu điều tra xã hội học và điền dã nhân học tại các

làng/xã ở vùng ven biển Hà Tĩnh đã minh chứng cho thực trạng đời sống văn hoá của

cư dân nơi đây về cách thức, nhu cầu, mức độ, nội dung tiêu dùng văn hoá hiện tại ra

sao,…là những câu trả lời thiết thực nhất cho các luận điểm mà tác giả đưa ra. Nhìn

chung, sau khi nghiên cứu về TDVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh cho thấy, mức độ,

chất lượng tiêu dùng các sản phẩm văn hoá của cư dân nơi đây đã ngày một được cải

thiện và tăng lên theo tiến trình thời gian, người dân ngày càng có điều kiện được tiếp

cận và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá hiện đại của thời đại công nghệ thông tin

trong bối cảnh hội nhập thế giới.

129

Chƣơng 4

XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

CỦA CƢ DÂN VEN BIỂN HÀ TĨNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,

HIỆN ĐẠI HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

4.1. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục đƣợc đẩy mạnh ở

vùng ven biển Hà Tĩnh

Trong mục tiêu tổng quát của chương trình hành động thực hiện Chiến lược

biển đến năm 2020, tỉnh Hà Tĩnh xác định:

Phấn đấu đưa Hà Tĩnh trở thành tỉnh mạnh về biển, thành một trong những

trung tâm kinh tế trọng điểm của khu vực Bắc Trung Bộ; kinh tế biển là

động lực thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa

học - công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; gắn với bảo vệ và phát

triển môi trường biển. Khai thác lợi thế, tiềm năng về biển, đến năm 2020

các ngành kinh tế biển và ven biển của Hà Tĩnh, gồm: khai thác và chế

biến tài nguyên khoáng sản; kinh tế hàng hải và giao thông biển, du lịch,

đô thị ven biển; khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Kinh tế biển sẽ

đóng góp trên 55% GDP của tỉnh, thu nhập bình quân đầu người vùng ven

biển cao gấp hai lần mức bình quân chung của cả tỉnh. Giải quyết tốt các

vấn đề về cơ sở hạ tầng, xã hội, xoá đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai

cải thiện đời sống của nhân dân vùng ven biển. Sử dụng hiệu quả các

nguồn lực, tận dụng tối đa lợi thế về biển để khuyến khích, thu hút và kêu

gọi các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước

cho mục tiêu phát triển kinh tế biển nhanh và bền vững [98].

Để thực hiện và đạt được mục tiêu chương trình hành động trên đây, từ nay

đến năm 2020, sự nghiệp CNH, HĐH ở vùng ven biển Hà Tĩnh tiếp tục được đẩy

mạnh, đưa các khu kinh tế đã được quy hoạch đi vào hoạt động ổn định, góp phần

thúc đẩy Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đứng trước

thực trạng đó, vùng ven biển Hà Tĩnh sẽ tiếp tục có những chuyển biến trên các mặt:

130

4.1.1. Cơ cấu ngành nghề có sự chuyển đổi sâu sắc

Sự nghiệp CNH, HĐH ở Hà Tĩnh được bắt đầu từ những năm cuối của thế kỷ

XX cho đến nay, đã góp phần đưa vùng quê ven biển Hà Tĩnh vươn lên với nhiều

khởi sắc mới, từ vùng quê được mệnh danh là vùng sâu, vùng xa, trở thành vùng có

nền kinh tế tăng trưởng mạnh của tỉnh và của khu vực Bắc Trung Bộ. Theo mục tiêu

chương trình hành động thực hiện Chiến lược biển và quy hoạch của tỉnh đến năm

2020, sự nghiệp CNH, HĐH ở vùng ven biển Hà Tĩnh tiếp tục được đẩy lên tầm cao

mới, đưa các khu kinh tế đi vào hoàn thiện. Trước bối cảnh đó, dự báo nhu cầu lao

động tại các khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh sẽ rất lớn, kéo theo hệ thống dịch

vụ phát triển mạnh mới đủ đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của lực lượng

lao động mới đến đây, cũng là để cung cấp hàng hóa cho các khu kinh tế ven biển.

Do đó, nghề dịch vụ sẽ được cư dân đầu tư nhiều bên cạnh những ngành nghề khác.

Hai yếu tố nhân lực lao động và hoạt động dịch vụ ở các khu kinh tế sẽ là những

nhân tố chủ yếu thúc đẩy cơ cấu ngành nghề ở vùng ven biển Hà Tĩnh những năm

tiếp theo sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ. Số cư dân làm dịch vụ và làm việc tại các

khu kinh tế sẽ tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, do đặc điểm ở mỗi khu kinh tế mà

sự chuyển đổi này có sự khác nhau.

Ở khu kinh tế đánh bắt, khai thác thủy hải sản (đóng vai trò là ngành kinh tế

mũi nhọn) sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ. Các chính sách ưu đãi về nguồn vốn

của Nhà nước, cùng với thực lực phát triển của ngành, các tàu thuyền đánh bắt công

suất lớn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, trang thiết bị đánh bắt ngày càng tối tân hiện

đại, khả năng đánh bắt vùng biển khơi ngày càng gia tăng về số lượng,… kéo theo

hệ thống các dịch vụ hậu cần nghề cá (cung cấp nhiên liệu, đá lạnh, sửa chữa tàu

thuyền, chế biến hải sản xuất khẩu, kho đông lạnh, thu mua hải sản,…) và một số dịch

vụ khác sẽ phát triển ở khu kinh tế này. Lúc đó, ở khu kinh tế đánh bắt cơ cấu ngành

nghề sẽ là: dịch vụ nghề cá; khai thác, đánh bắt; và một số ngành nghề khác.

Ở khu kinh tế du lịch, số lượng cư dân làm nghề đánh bắt sẽ giảm và có xu

hướng chuyển sang nuôi trồng thuỷ hải sản, kinh doanh du lịch (ăn uống, lưu trú,

nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí,…) và làm việc trong khu du lịch. Do đó những năm

131

tiếp theo, tại các khu kinh tế du lịch ven biển Hà Tĩnh, các dịch vụ kinh doanh du

lịch sẽ đem lại nguồn thu chính cho ngân sách của địa phương và vươn lên trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn, đến lúc đó nghề đánh bắt có thêm nhiệm vụ mới là phục vụ

tham quan du lịch với hình thức du lịch làng nghề, nghề đánh bắt không còn nắm

giữ vai trò là ngành kinh tế chủ đạo ở khu kinh tế này. Sản phẩm khai thác đánh bắt

sẽ là nguồn cung cấp chủ yếu cho khu du lịch và khách du lịch, các khu nuôi trồng

thuỷ hải sản tươi sống phục vụ cho du khách sẽ xuất hiện nhiều ở đây... Xuất

phát từ thực tế đó, cơ cấu ngành nghề ở khu kinh tế du lịch những năm tiếp theo

sẽ chuyển dịch thành: du lịch; vui chơi giải trí; khai thác đánh bắt và nuôi trồng

thuỷ hải sản.

Ở khu kinh tế công nghiệp, nghề đánh bắt có xu hướng khó tồn tại, bởi

nguồn hải sản trở nên khan hiếm trước môi trường rộng lớn của khu công nghiệp,

diện tích đánh bắt bị thu hẹp, địa bàn cư trú của cư dân cách xa với bờ biển, xa với

môi trường đánh bắt, trong khi đó nhiều nghề mới mang lại thu nhập cao và có sức

thu hút cư dân hơn nghề đánh bắt ở khu kinh tế này. Do đó, ở khu kinh tế công

nghiệp, nghề đánh bắt chỉ còn tồn tại ở một số hộ gia đình cố níu giữ nghề cũ theo

thói quen lúc nhàn rỗi (để cho vui) và để cải thiện bữa ăn gia đình là chính. Vì vậy,

so với hai khu kinh tế trên đây, sự tồn tại của nghề đánh bắt ở khu kinh tế công

nghiệp trở nên mong manh hơn, sự chuyển đổi ngành nghề diễn ra mạnh mẽ và rõ

nét, nghề đánh bắt không còn là nghề mang lại nguồn thu nhập chính cho cư dân ở

khu công nghiệp. Cơ cấu ngành nghề ở khu công nghiệp sẽ là: công nghiệp, dịch

vụ, lao động phổ thông, nông nghiệp và đánh bắt.

Theo quan điểm chỉ đạo của tỉnh, quá trình chuyển đổi ngành nghề trong

khu kinh tế công nghiệp diễn ra theo quá trình hình thành và phát triển

các hoạt động phi nông nghiệp và phi ngư nghiệp [97]. Đến hết năm

2015, khoảng 30% số lao động nông nghiệp hiện hữu - tương đương với

khoảng 3.000 lao động được dự báo sẽ chuyển đổi ngành nghề sang làm

việc trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Đến giai đoạn 2025, đa số lao

động trong khu kinh tế làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp, chỉ còn

132

lại một bộ phận nhỏ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và ngư

nghiệp (khoảng 1.000 đến 2.000 lao động) [PL6.2, tr. 230].

4.1.2. Thành phần cư dân có sự biến đổi

Sự nghiệp CNH, HĐH tiếp tục được đẩy mạnh, các khu kinh tế ven biển Hà

Tĩnh từng bước đi vào hoạt động đến hoàn thiện, kéo theo thành phần cư dân ở vùng

ven biển Hà Tĩnh trong những năm tiếp theo có những biến đổi nhanh chóng. Ngoài

cư dân bản địa sống từ bao đời, có thêm thành phần cư dân từ các nơi khác đến đầu tư

kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ mới tại đây, đặc biệt như ở khu kinh tế công

nghiệp và khu kinh tế du lịch có cả thành phần cư dân từ các nước đến đầu tư kinh

doanh và làm ăn. Thành phần cư dân sinh sống ở vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH trở nên phức tạp và thường xuyên không ổn định, lượng người ra

vào, tạm trú, tạm vắng, khách vãng lai đến rồi đi trong ngày tăng nhanh. Số cư dân

ngư nghiệp và nông nghiệp giảm đi đáng kể trước chủ trương phát triển kinh tế mới

của tỉnh cũng như trước thực tế phát triển của các khu kinh tế này. Thành phần cư dân

ở ba khu kinh tế đến lúc đó sẽ như sau:

Ở khu kinh tế đánh bắt, xét dưới góc độ nghề nghiệp thành phần cư dân sẽ

được phân hoá thành nhiều nhóm khác nhau như: cư dân chuyên nghề đánh bắt, cư

dân chuyên về kinh doanh các dịch vụ phục vụ nghề đánh bắt (hậu cần nghề cá), cư

dân buôn bán hải sản lớn (lái buôn), cư dân kinh doanh các dịch vụ hàng tiêu dùng,

nhu yếu phẩm, dịch vụ vui chơi giải trí, quán ăn,... Xét về nguồn gốc, thành phần cư

dân bao gồm: cư dân bản địa (cư dân địa phương, cư dân tại chỗ, đã sống tại đây từ

lâu đời), cư dân từ các nơi đến làm ăn buôn bán rồi định cư ở lại, cư dân làm ăn

buôn bán đến rồi đi trong ngày, khách vãng lai,...

Ở khu kinh tế du lịch, thành phần cư dân sẽ có sự biến đổi mạnh mẽ hơn so

với khu kinh tế đánh bắt. Theo dự tính của các nhà đầu tư và của tỉnh Hà Tĩnh, đến

năm 2020 dân cư ở khu du lịch Thiên Cầm sẽ là 38,5 nghìn người, khách du lịch 10

nghìn người; năm 2025 dân cư 54,5 nghìn người, khách du lịch 20 nghìn người [92].

Như vậy, những năm tiếp theo cư dân cư trú ở các khu kinh tế du lịch sẽ có sự gia

tăng đột biến, kéo theo thành phần cư dân có sự biến đổi, ngoài số cư dân sinh sống

133

trước đây, sẽ có một bộ phận cư dân di cư đến cùng với sự ra đời và hình thành của

khu du lịch, nhóm cư dân mới đến sống và làm việc trong khu du lịch, kinh doanh các

dịch vụ du lịch,... Ngoài ra, ở khu kinh tế du lịch thành phần khách du lịch nghỉ dưỡng

cũng sẽ chiếm số lượng khá lớn hàng năm. Do đó, thành phần cư dân ở khu kinh tế du

lịch sẽ là: cư dân địa phương, cư dân các nơi di cư đến sinh sống làm việc trong khu

du lịch, khách du lịch, khách đến rồi đi trong ngày,…

Ở khu kinh tế công nghiệp, thành phần cư dân có sự thay đổi đa dạng hơn so

với hai khu kinh tế trên. Ngoài cư dân định cư lâu dài từ trước, có nhiều thành phần

cư dân mới đến làm ăn sinh sống những năm gần đây (có cả cư dân trong nước và

cư dân nước ngoài), có cư dân đến làm việc rồi đi hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày

với số lượng khá lớn,…Dự báo về khả năng phát triển công nghiệp ở khu kinh tế

Vũng Áng, số lượng lao động công nghiệp trong Khu kinh tế khoảng 23.000 người

đến năm 2015; 64.000 người đến năm 2025 và 116.000 người đến giai đoạn định

hình [91]. Trong đó, dự kiến khoảng 80% lao động làm việc trong khu kinh tế sẽ

định cư trong các đô thị thuộc khu kinh tế, khoảng 20% còn lại được dự báo là lao

động định cư tại thị xã Kỳ Anh và các khu dân cư lân cận [PL6.2, tr.230].

Về quy mô dân số trong phạm vi quy hoạch phát triển khu kinh tế Vũng

Áng được dự báo: Đến năm 2025 khoảng 157.000 người; Đến giai đoạn

định hình, hoàn thiện các khu chức năng chính khoảng 297.000 người.

Ngoài dân số chính thức sinh sống và làm việc tại khu kinh tế, còn có các

thành phần khác như: sinh viên nội trú, lực lượng vũ trang, khách vãng

lai, lao động đến trong ngày từ các khu vực lân cận (lao động con lắc)...

Các thành phần dân số này được dự báo tăng dần cùng với mức độ hoàn

thiện của hệ thống giao thông liên đô thị trong vùng và bằng khoảng 10 -

20% dân số chính thức của Khu kinh tế [PL6.3, tr.231].

4.2. Xu hƣớng biến đổi đời sống văn hóa của cƣ dân ven biển Hà Tĩnh

Qua nghiên cứu thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh ở

chương 2,3, phần nào đã đề cập đến chiều hướng, nguyên nhân của sự biến đổi đời

sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước những tác động của CNH, HĐH. Ở

134

phần này, luận án đi vào phân tích, nhận định một cách cụ thể các xu hướng biến

đổi ĐSVH đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra trong cả quá trình thực hiện CNH, HĐH ở

vùng ven biển Hà Tĩnh. Các xu hướng đó là:

4.2.1. Mất đi các phong tục gắn với môi trường sống cũ

Thực hiện chủ trương CNH, HĐH, cư dân bản địa sống ở vùng ven biển

huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh) đã di dời đến nơi ở mới để nhường chỗ cho các dự án

khu công nghiệp Vũng Áng. Việc di cư này đã làm cho cư dân phải sống xa biển, xa

môi trường đánh bắt, nghề đánh bắt cũng vì thế không có điều kiện tồn tại, hơn nữa

do nguồn tài nguyên đánh bắt ngày càng trở nên khan hiếm trước môi trường và sự

phát triển của các dự án khu công nghiệp, vì vậy phần lớn cư dân chuyển đổi ngành

nghề sang làm việc phục vụ cho khu công nghiệp và làm việc trong khu công

nghiệp, nghề đánh bắt chỉ còn lại rất ít cư dân. Một khi môi trường sống thay đổi,

những yếu tố văn hoá gắn với môi trường sống cũng mất theo, các phong tục, tập

quán, không gian thiêng cũng vì thế không còn. Chị Nguyễn Thị Nguyệt, 58 tuổi,

bán quán ăn ở thôn Liên Phú, xã Kỳ Liên, thị xã Kỳ Anh (phỏng vấn ngày

26/4/2014. Trước đây chị là cư dân của xã Kỳ Lợi-một xã ven biển của Kỳ Anh)

cho biết: “Vùng biển chúng tôi bây giờ không làm nghề đánh bắt như trước, ngư dân

phần lớn đã chuyển chỗ ở mới và làm rất nhiều việc khác nhau để sống, muốn làm

nghề biển như trước cũng không còn chỗ, ở đó bây giờ là khu công nghiệp … Vì

không còn nghề đánh bắt nên các phong tục, nghi lễ liên quan đến nghề biển trước

đây cũng không còn được thực hành nữa”.

Cùng với sự mất đi các phong tục gắn với nghề cũ, môi trường sống cũ, một

số kiêng kỵ trong xã hội truyền thống cũng mất theo do điều kiện kinh tế-xã hội thời

kỳ CNH, HĐH đã có những thay đổi, các kiêng kỵ như: kiêng gặp phụ nữ trên

đường đi đánh cá, kiêng đếm lưới, kiêng phụ nữ lạ lên tàu đánh cá,... vốn rất phổ

biến trước đây, thì nay, còn lại rất ít trong cư dân ở cả ba khu kinh tế [PL4.9,

tr.206]. Anh Lê Xuân Tiến, sinh năm 1964, ở thôn Lâm Hoãn, xã Cẩm Nhượng,

huyện Cẩm Xuyên, (phỏng vấn ngày 20/2/2014) cho biết: “Đối với nghề đánh bắt

của chúng tôi hiện nay ai nắm bắt được khoa học thì người đó làm ăn, đánh bắt đạt

được thành công, tránh được các thua lỗ, tôi không quan niệm chuyện ra đường gặp

phụ nữ là không tốt. Hơn nữa ngày nay người qua lại đông, làm sao tránh hết được”.

135

Tục treo cây chứa (dứa) trước cổng và để khúc củi cháy dở trước cửa nhà khi

có người sinh, là tục lệ khá phổ biến của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh trước đây.

Tục này vốn dĩ gắn với kiêng kỵ của cư dân làm nghề đánh bắt, lênh đênh trên biển

chịu nhiều rủi ro bất trắc. Cư dân ở vùng này quan niệm: người phụ nữ sinh đẻ đang

trong thời gian ở cử (một tháng) là xú uế, vì vậy những người đi đánh cá thường

tránh không gặp phụ nữ mới sinh trong thời gian này, cho rằng nếu gặp sẽ xúi quẩy,

mắc phải “phong long”, không may cho việc đánh bắt trên biển,… Xuất phát từ

quan niệm đó, những gia đình có người sinh chưa đầy tháng thường treo cây chứa

(dứa) trước cổng để mọi người trong làng biết mà tránh, tục này ngày nay còn lại rất

ít trong cư dân [PL4.6, tr.202]. Nghĩa thứ hai của tục treo cây chứa trước cổng với

mục đích để giữ cho đứa trẻ, để mọi người biết có trẻ mới sinh mà tránh không

mang “hơi hám” vào nhà ảnh hưởng đến đứa trẻ. “Hơi hám” theo cư dân là những

người có tang, có khó, những người nặng vía,… nếu những người này vào nhà sẽ làm

cho đứa trẻ quấy khóc, ăn ngủ không ngon. Tục treo cây chứa được tồn tại trong cư dân

hiện nay chủ yếu với nghĩa thứ hai này.

Tục dội gáo nước lên mái nhà khi sinh đứa trẻ, gắn với quan niệm: đứa trẻ

sinh ra vào lúc nước xuống là điềm tốt, sau này lớn lên sẽ gặp nhiều may mắn thuận

lợi trong nghề đánh bắt. Hay tục cúng Bà Mụ sau khi đứa trẻ được sinh ra, gắn với

quan niệm Bà Mụ là người chở che dạy bảo cho đứa trẻ các thao tác để gia nhập vào

đời sống xã hội,… ngày nay cũng không còn trong cư dân ở ba khu kinh tế vùng

ven biển Hà Tĩnh [PL4.6, tr.202]. Việc mất đi phong tục cúng Bà Mụ, phản ánh

nhận thức của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH đã thay đổi, cư dân biết

nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống, đối diện với thực tại, không đổ lỗi hay tìm kiếm

lý do để trốn tránh trách nhiệm, hoặc an ủi bản thân trước những khó khăn và những

gì con người không nhận thức được. Nói cách khác trong cư dân đã có những nhận

thức thực tế hơn, biết chấp nhận, đương đầu trước mọi khó khăn để vượt qua, cư

dân đã hiểu được cuộc sống của con người không tránh khỏi những vất vả, gian nan

mà con người phải đối mặt,… Điều đó cũng thể hiện sự tiến bộ về nhận thức của

cư dân trong cuộc sống xã hội hiện đại. Tất cả những nhận thức này giúp ngư dân

136

xa dần với việc phó mặc cho số phận, phó mặc cho sự may rủi, sẵn sàng đứng ra

gánh vác phần trách nhiệm thuộc về mình, mà không đẩy phần trách nhiệm đó cho

các đấng thần thánh, hay một vị tối linh nào đó.

Cùng với sự mất đi những kiêng kỵ dân gian, các tục lệ gắn với môi trường

sống cũ và những tục lệ truyền thống có ý nghĩa nhân văn trong nghề đánh bắt cũng

bị nhạt phai trước xu thế CNH, HĐH và sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề diễn ra

ngày càng mạnh mẽ ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Đó là tục phóng sinh cá ở mẻ lưới đầu

của thuyền mới, lưới mới, tục kiêng đánh cá vào ngày “cá vượt vũ môn” (với ý nghĩa

để cá đi dự thi, gắn với câu chuyện cá chép hóa rồng), tục cúng thuyền mới, lưới mới,

cúng thuyền ra khơi,... là những tục lệ có ý nghĩa khơi dậy tính nhân văn, khích lệ

lòng yêu nghề, sự hưng phấn nghề nghiệp bằng những dấu mốc quan trọng, vừa

nhằm mục đích nhắc nhở, vừa có ý nghĩa khơi dậy tinh thần hăng say nghề nghiệp

trước các sự kiện được diễn ra,...

4.2.2. Phục hồi văn hoá truyền thống có sự tái cấu trúc và giản lược

Tái cấu trúc văn hoá truyền thống là phục hồi, kế thừa các yếu tố văn hoá

truyền thống có sự sáng tạo, biến đổi, sắp xếp lại,… cho phù hợp với đời sống xã

hội đương đại. Với xu hướng đó, hầu hết các phong tục của cư dân ven biển Hà

Tĩnh ngày nay kế thừa các phong tục truyền thống, có sự sắp xếp, bổ sung những

yếu tố mới của cuộc sống đương đại, làm cho các phong tục này trở nên có giá trị, ý

nghĩa với cuộc sống đương đại và sống được trong xã hội đương đại. Các phong tục

đó là: lễ chẵn tháng, lễ chẵn năm,… đây là những phong tục được thực hành khá

phổ biến trong đời sống cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh xưa và càng phát triển hơn

trong xã hội hiện nay. Về thực chất ý nghĩa của các lễ này trước đây là để tạ ơn Bà

Mụ đã có công che chở, dạy bảo đứa trẻ, cầu mong Bà tiếp tục dạy bảo đứa trẻ cho

đến trưởng thành. Ngày nay, các lễ này đã mang ý nghĩa khác, gia đình làm mâm

cơm báo cáo tổ tiên, sau đó mời bạn bè, người thân đến liên hoan chia vui, lưu lại

dấu ấn kỷ niệm về quá trình trưởng thành của đứa trẻ. Ngoài lễ chẵn tháng, chẵn

năm, vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay còn phổ biến với phong tục tổ chức lễ sinh

nhật (kỷ niệm ngày sinh), nghi lễ này mới được du nhập vào vùng ven biển Hà Tĩnh

137

những năm gần đây và được giới trẻ đón nhận, thực hành rộng rãi. Cùng với lễ sinh

nhật, lễ mừng thọ cũng là tục lệ được xã hội thời nay quan tâm, và vùng ven biển Hà

Tĩnh cũng vậy. Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, xã và thôn lại tổ chức mừng

thọ cho các cụ tuổi từ 70, 75, 80, 85... trở lên.

Nghi lễ cưới xin ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay, mặc dù vẫn bảo lưu bốn

lễ tục truyền thống, nhưng về thời gian, lễ thức và bản chất từng lễ tục có những

biến đổi so với truyền thống, như: lễ dạm ngõ trước đây là buổi gặp mặt giữa hai gia

đình, nhà trai đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự do đi lại,

được tìm hiểu nhau và cũng nhân dịp này, gia đình nhà trai xem mặt cô gái và cũng

thông qua đó biết được gia cảnh (gia phong) nhà gái, để đi đến quyết định có tiếp

tục hay không quan hệ hôn nhân giữa hai gia đình. Nhưng ngày nay, đã tiến hành lễ

dạm ngõ, cũng có nghĩa là đôi bạn trẻ quyết định đi tới hôn nhân. Do đó, ở lễ dạm

ngõ ngày nay, ngoài việc bố mẹ (người lớn) hai gia đình gặp mặt, mục đích chính

của lễ, là nhà trai đến thông báo cho nhà gái biết việc đôi bạn trẻ đã quyết định đi

tới hôn nhân và hai gia đình gặp mặt để bàn tính chuyện hôn sự. Vì vậy, trong lễ

dạm ngõ ngày nay nhà trai đến nhà gái là để trao đổi, thống nhất ngày ăn hỏi và

ngày tổ chức lễ cưới. Còn tất cả những thông tin cần đưa tới hai gia đình trước và

sau lễ dạm ngõ đều thông qua đôi nam nữ để thưa lại với bố mẹ hai bên. Sau buổi

gặp mặt ở lễ dạm ngõ, nhà trai chọn ngày giờ tốt theo thời gian đã thống nhất giữa

hai gia đình để tổ chức lễ ăn hỏi và lễ cưới.

Lễ ăn hỏi ngày nay, mặc dù vẫn giữ nguyên tên gọi, nhưng trên thực tế trong

lễ ăn hỏi ngày nay bao gồm cả lễ dẫn cưới (lễ nạp tài). Đây là sự giản lược mang

tính quy gộp chứ không phải mất đi, sự quy giản này cho thấy tính thích nghi của

văn hoá truyền thống trong xã hội đương đại, nhằm mục đích giản lược, tiết kiệm về

mặt thời gian cho phù hợp với điều kiện bận rộn của thời kỳ CNH, HĐH, nhưng về

bản chất của các nghi lễ vẫn được đảm bảo, vì vậy trong lễ ăn hỏi ngày nay có cả lễ

vật của lễ dẫn cưới. Về khoảng thời gian diễn ra lễ ăn hỏi và lễ cưới ngày nay gần

hơn nhiều so với trước, thông thường chỉ hôm trước và hôm sau. Tức nếu ngày hôm

sau tổ chức lễ cưới (lễ rước dâu), thì buổi sáng hoặc trưa ngày trước đó nhà trai

138

mang lễ vật ăn hỏi đến nhà gái. Trừ trường hợp nhà trai quá xa nhà gái, thời gian lễ

ăn hỏi mới cách xa lễ cưới, nhưng thông thường cũng chỉ độ vài tháng. Bên cạnh

đó, lễ ăn hỏi ngày nay cũng không còn tục thách cưới như trước đây.

Về lễ cưới, xưa cũng như nay đều giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống các

nghi lễ, là đỉnh điểm của cả qúa trình tiến tới hôn nhân, là thời điểm đánh dấu sự

nên vợ thành chồng của cô dâu và chú rể, vì vậy có ý nghĩa thiêng liêng, ít cặp nào

nên vợ thành chồng mà bỏ qua nghi lễ quan trọng này. Theo kết quả điều tra xã hội

học ở ba khu kinh tế ven biển Hà Tĩnh hiện nay, 100% số phiếu cho biết lễ cưới vẫn

được duy trì thực hiện phổ biến ở vùng ven biển Hà Tĩnh [PL4.7, tr.203]. Tuy

nhiên, trong lễ cưới ngày nay đã lược bỏ và đơn giản hoá một số tục lệ rườm rà của

lễ cưới truyền thống, đó là: tục chăng dây trên đường đón dâu, tục mẹ chồng mang

bình vôi lánh ra vườn khi con dâu vào nhà, tục cô dâu về đến sân nhà chồng múc

nước (từ một nồi đồng được để sẵn trước cổng trong có xâu tiền) rửa chân trước lúc

bước vào nhà; tục cúng lễ tơ hồng,… Các lễ tục này, ngày nay đã lược bỏ trong các

đám cưới ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Lễ xin dâu ngày nay cũng đơn giản hoá hơn so

với trước. Ngày xưa, vào trước giờ đón dâu, mẹ chú rể cùng một người thân đem

cơi trầu, chai rượu đến nhà gái thông báo giờ cụ thể đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái

biết mà yên tâm chờ đợi. Nhưng ngày nay, lễ xin dâu được kết hợp thực hiện cùng

lúc với lễ rước dâu. Địa điểm tổ chức lễ cưới ngày nay thường được tổ chức tại nhà

hàng - khách sạn, hoặc trung tâm dịch vụ tiệc cưới (thay cho tổ chức tại gia đình

nhà trai như trước đây), theo hình thức “trọn gói” (từ địa điểm tổ chức, trang trí, tiệc

chiêu đãi, đến loa máy, người hát,….), nhà trai chỉ việc chi tiền và mời khách, mọi

thứ có dịch vụ lo hết. Với hình thức dịch vụ cưới này tỏ ra rất tiện lợi và phù hợp

với điều kiện xã hội hiện nay, nên được cư dân đón nhận, thực hành rộng rãi. Tuy

nhiên, bên cạnh đó không khí chuẩn bị cỗ cưới giữa người thân, họ hàng, làng xóm

sum vầy trước đây không còn, mọi người ngày nay chỉ việc đến ăn, mừng cưới rồi

ra về. Sự biến đổi này tuy đem đến sự nhàn hạ, thuận tiện và phù hợp với lối sống

của thời hiện đại, nhưng cũng làm mất đi không khí ấm cúng, thân tình giữa họ

hàng, làng xóm khi cùng đến nấu nướng chuẩn bị cho tiệc cưới như trước đây. Quà

139

mừng cưới ngày nay không phải là những vật phẩm mừng cho cô dâu, chú rể sử

dụng trong gia đình sau ngày cưới, mà chủ yếu là mừng tiền (phong bì). Với hình

thức quà cưới này, đôi lúc biến thành một hình thức “trả nợ” do phải mang ơn, hoặc

do “người ta đã đến mừng cưới nhà mình, giờ mình phải mừng lại người ta, phải có

đi, có lại mới được” (Lời của chị Lê Thị Nhàn, 48 tuổi, thôn Hồng Hải 1, xã Kỳ

Phương, huyện Kỳ Anh, phỏng vấn ngày 12/42014). Như vậy, với cách thức mừng

cưới, mời cưới ngày nay đôi lúc còn là sự trả nợ qua lại.

Phong tục ma chay của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH

cũng được biến đổi theo hướng tái cấu trúc các phong tục ma chay truyền thống,

đó là giản lược, rút ngắn, đơn giản hoá nghi thức, nghi lễ tế tự rườm rà trong từng

lễ tục ma chay truyền thống. Chẳng hạn: phần nhạc hiếu và các nghi lễ tế tụng

ngày xưa thường diễn ra liên tục trong ba ngày liền (hết lễ ba ngày mới thôi),

nhưng ngày nay nhạc hiếu chỉ diễn ra trong lúc điếu viếng, đưa tang, và trong lễ tế

ba ngày; nghi lễ cúng tế cũng được giản lược so với trước, mỗi nghi lễ cúng tế chỉ

giữ lại một tuần, không thực hiện ba tuần như trước, không còn tục lệ thăm viếng

mộ ngày hai lần (sáng sớm và chiều tối) cho đến hết ba ngày, và hàng tuần cho

đến hết năm mươi ngày như trước,… Tuy nhiên, việc thực hành các lễ tục ma

chay như thế nào, đến đâu hiện nay phụ thuộc vào thầy cúng, người được gia đình

tang chủ mời đến cúng tế, thầy cúng sẽ là người hướng dẫn gia đình tang chủ thực

hiện các nghi thức, nghi lễ ma chay và chính thầy cúng cũng là người xem giờ tốt

để phát tang, hạ huyệt,…

Cùng với dấu hiệu phục hồi có sự tái cấu trúc phong tục truyền thống, lễ hội

của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh cũng diễn ra theo xu hướng biến đổi này, đó là

thời gian tế lễ của lễ hội được rút ngắn hơn trước. Ở lễ hội truyền thống, các nghi

thức, nghi lễ cúng tế khá phức tạp, việc kế thừa và phát triển lễ hội truyền thống

hiện nay ở vùng ven biển Hà Tĩnh, cơ bản bảo lưu và thực hiện nghiêm các nghi

thức, nghi lễ cúng tế xưa, xem đây là việc tối thiêng nên được thực hiện đầy đủ, từ

lễ cáo yết xin được mở hội, cho đến lễ “mộc dục”, lễ “sái tảo”, lễ khai hội, lễ rước,

lễ tế thần,… đều được thực hiện đúng tinh thần của lễ hội truyền thống, diễn ra

140

trang nghiêm, linh thiêng,... Tuy nhiên, trong lễ tế thần ngày nay có giản lược, rút

ngắn thời gian so với truyền thống. Chẳng hạn, trong lễ tế thần Lê Khôi ở đền Lê

Khôi (xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà), trước đây có ba tuần dâng lễ (diễn ra

khoảng ba giờ đồng hồ), ngày nay, các cụ cao niên chỉ thực hiện một tuần lễ (diễn

ra trong khoảng một giờ đồng hồ). Mặc dù, hiện nay chỉ thực hiện một tuần lễ,

nhưng cũng rất vất vả cho các cụ được lựa chọn làm chủ tế và bồi tế, cụ nào cũng vã

mồ hôi vì căng thẳng khi đứng ở vị trí linh thiêng này,... Tế lễ được xem là phần

quan trọng và linh thiêng nhất của cả quá trình diễn ra lễ hội, là thời điểm thông

giao giữa thánh, thần và người (cư dân), thời điểm thiêng để cư dân thực hành

nghi lễ tạ ơn thánh, thần, và cầu nguyện được sự che chở, giúp đỡ của thánh, thần

trong cuộc sống và mùa làm ăn tới. Với vai trò là đại diện cho cộng đồng để bày tỏ

tấm lòng thành kính và sự biết ơn lên Đức Thánh, thần, các cụ được chọn vào ban

tế lễ rất lo lắng vì sợ phạm phải những sai sót trong quá trình hành lễ, nên cụ nào

cũng thận trọng khi đứng vào vị trí này, mặc dù tiêu chuẩn ở vị trí này vẫn khắt

khe như trước, đó là vợ chồng còn song toàn, con cháu đề huề, phải “vô nghị

thanh quyết”, không “vướng bụi bẩn”,…

4.2.3. Tiếp nhận yếu tố văn hoá mới có tính thời đại và quốc tế

Nói đến tiếp nhận các yếu tố văn hoá mới, trước hết thể hiện rõ nét trong lễ

cưới của cư dân ven biển Hà Tĩnh ngày nay. Hầu hết các lễ cưới của cư dân ven

biển Hà Tĩnh có những yếu tố mới của thời đại và du nhập một số yếu tố mang

phong cách phương Tây. Các đám cưới không chỉ có chụp ảnh, mà còn quay video

để lưu giữ kỷ niệm, không chỉ chụp ảnh cho cô dâu và chú rể mà còn chụp ảnh cả

quá trình diễn ra lễ cưới, cô dâu và chú rể không chỉ chụp trong lễ cưới mà còn chụp

ảnh trước lễ cưới, chụp ngoại cảnh,… Trong lễ cưới, nhiều cô dâu chú rể sử dụng cả

màn hình rộng để trình chiếu các slide ảnh ngoại cảnh của cô dâu, chú rể, để khách

dự cưới có thể xem trong lúc ăn cỗ cưới,… Lễ rước dâu đã sử dụng xe hơi (thay cho

đi bộ trước đây, kể cả trong trường hợp quãng đường rước dâu rất gần) và cô dâu

mặc váy cưới màu trắng, chú rể mặc comple, thắt cavat [PLA7.6.1 - 7.6.2, tr.245].

Sau lễ cưới, cô dâu chú rể đi hưởng tuần trăng mật ở các khu, điểm du lịch nổi tiếng

141

trong nước hoặc nước ngoài.

Bên cạnh du nhập những yếu tố mới vào đám cưới, một số tín ngưỡng thờ

cúng mới cũng được du nhập vào các gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh những năm

gần đây và được cư dân rất quan tâm, thực hành hàng ngày, như tín ngưỡng thờ

thần tài, vị thần tượng trưng cho sự may mắn trong kinh doanh, buôn bán. Vị thần

này đã trở nên thân quen với cư dân ven biển Hà Tĩnh những năm gần đây, đặc biệt

là đối với những gia đình cư dân làm nghề kinh doanh buôn bán. Hàng ngày, mở

cửa hàng là chủ kinh doanh (cửa hàng, công ty, shop quần áo, tiệm làm đầu, quán

ăn,…) thắp hương lên Thần Tài để cầu mong kinh doanh được may mắn trong ngày.

Bên cạnh tín ngưỡng thờ Thần Tài, các hình thức thờ cúng đa thần cũng đang xuất

hiện tại các gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh. Ngoài thờ cúng tổ tiên mang nét

truyền thống còn thờ thổ công, thần bếp, thần cửa, thần sân, thần cổng, thờ các thiên

thần, thờ Phật, thờ Bác Hồ, …

Các yếu tố mới còn được thể hiện trong lễ hội, trước hết là ở chủ thể tổ chức lễ

hội, chúng ta biết rằng, lễ hội là sản phẩm văn hóa của nhân dân, cộng đồng cư dân

chính là chủ thể trực tiếp sáng tạo và hưởng thụ các giá trị của lễ hội. Từ xa xưa, mỗi

lần lễ hội diễn ra, cộng đồng cư dân là chủ thể đứng ra tổ chức lo liệu mọi việc, xem

đây là công việc chung của cộng đồng làng/xã, các làng, phe, giáp luân phiên đứng ra

tổ chức, cư dân đóng góp tiền của, công lao, phương tiện. Do đó, xưa kia cứ vào dịp

lễ hội, một không khí chuẩn bị mang tính cộng cảm, cộng đồng diễn ra. Tất cả các đồ

dùng và lễ vật trong lễ hội, hầu hết đều được cư dân tự tay làm ra, cư dân cắt cử nhau

mua sắm, làm cẩn thận, cầu kỳ, để dâng lên thần, thánh của làng mình. Do cư dân là

chủ thể trực tiếp đứng ra tổ chức lễ hội, nên mỗi làng, mỗi địa phương khác nhau đều

có những nét đặc trưng riêng thể hiện phong tục, tập quán, quan niệm, cách nhìn cũng

như trình độ năng lực thẩm mỹ của làng, địa phương qua cách chuẩn bị lễ hội. Vì thế

nên hầu hết các lễ hội truyền thống đều mang những nét đặc trưng riêng của từng

làng, từng địa phương trong cái chung của tín ngưỡng, lễ hội vùng.

Với xu thế hiện nay, tuỳ theo quy mô, phạm vi của từng lễ hội mà có các cấp

bậc khác nhau do chính quyền đứng ra tổ chức, cư dân là người tham gia. Hầu hết

142

các lễ hội ngày nay được bổ sung thêm phần khai mạc và dâng hương của cấp chính

quyền trực tiếp tổ chức lễ hội (hoặc trực tiếp quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức lễ

hội), phần dâng hương của đại biểu (đại diện các cơ quan đoàn thể, chính quyền các

cấp, tuỳ vào quy mô từng lễ hội), đây là yếu tố mới đóng vai trò quan trọng, có tính

hiện đại đưa vào lễ hội truyền thống. Đồng thời trong lễ tế ngày nay, văn khấn được

sử dụng bằng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán trước đây và đọc văn khấn cũng như

điều hành tế lễ được sử dụng hệ thống âm thanh loa máy hiện đại, lễ vật và đồ dùng

trong lễ hội ngày nay chủ yếu được mua sẵn…Thành phần tham dự lễ hội ở vùng

ven biển Hà Tĩnh ngày nay cũng khác so với xưa, cư dân tham dự lễ hội vượt ra

khỏi phạm vi làng, đa dạng hơn về nghề nghiệp. Ngày xưa, mỗi dịp lễ hội diễn ra,

thường chỉ có cư dân trong làng/xã tham dự, với quan niệm “thánh làng nào, làng ấy

thờ” khác với quan niệm tín ngưỡng của cư dân trong thời kỳ CNH, HĐH. Trong

thời kỳ CNH, HĐH, cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh nói riêng, cũng như cư dân các

vùng, miền trong cả nước nói chung, do sống trong điều kiện kinh tế, xã hội, thông

tin truyền thông phát triển, các thông tin liên quan đến lễ hội được thông báo rộng

rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để cư dân khắp mọi miền được biết và

có thể tham dự. Trước những điều kiện thuận lợi đó, cùng với quan niệm tín ngưỡng

đa thần của cư dân đã làm cho lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay không chỉ

có cư dân trong xã và các vùng lân cận tham dự, mà có cả khách thập phương đến

tham dự và dâng lễ [PL4.5, tr.201]. Mỗi lần lễ hội diễn ra ở vùng ven biển Hà Tĩnh,

là dịp để cư dân địa phương đón bạn bè các nơi đến thăm quê hương mình. Đặc biệt

là lễ hội ở khu kinh tế du lịch, mỗi lần lễ hội diễn ra, du khách từ các nơi kéo về với

số lượng khá lớn, như lễ khai trương bãi tắm Thiên Cầm ở khu du lịch Thiên Cầm;

lễ “sĩ, nông, công, ngư, thương” và khai trương bãi tắm Xuân Thành ở khu du lịch

Xuân Thành,... Thành phần tham dự lễ hội phong phú còn được thể hiện ở góc độ

nghề nghiệp, đây cũng là yếu tố mới so với lễ hội truyền thống. Trước đây, thành

phần dự lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh chủ yếu là cư dân ngư nghiệp, nhưng ngày

nay do cơ cấu kinh tế trong vùng có nhiều thay đổi, và có cả cư dân từ các địa

phương khác đến, nên thành phần tham dự lễ hội cũng phong phú và đa dạng về

143

nghề nghiệp [PL4.5, tr.201], trong đó có cư dân ngư nghiệp, cư dân nông nghiệp,

công chức nhà nước, các doanh nghiệp lớn đóng trên địa bàn, các hộ kinh doanh ở

địa phương…Nhưng so với các nghề khác, nhóm công nhân làm việc tại khu công

nghiệp, nhân viên tại các công ty du lịch do điều kiện công việc bận rộn, nên tỷ lệ

tham dự lễ hội ít hơn so với các thành phần cư dân làm các nghề khác. Về lễ hội tôn

giáo, có cả cư dân theo tôn giáo và cư dân không theo tôn giáo cùng tham dự.

Yếu tố mới tiếp theo trong lễ hội ngày nay là sự du nhập các trò chơi, trò

diễn hiện đại. Các trò chơi, trò diễn dân gian trong lễ hội cũng có nhiều biến đổi bởi

tác động của văn hoá thời hiện đại. Lễ hội truyền thống của cư dân vùng ven biển

Hà Tĩnh có rất nhiều trò chơi, trò diễn được tổ chức với nhiều mục đích khác nhau:

mang tính thiêng, vui chơi, đua tài, thi khéo, đấu trí, rèn luyện sức khoẻ, diễn tích

truyện, hát ví, hát đối đáp, đánh cờ người, tôm điếm, đi cà kheo, thi nấu cơm, đua

thuyền, hò chèo cạn, đập cù, cướp cù [PL5.1 - 5.9, tr.221 - 228; PLA7.5.1 - 7.5.8,

tr.241 - 244],… Tuy nhiên cũng có một số trò chơi, trò diễn truyền thống không

được duy trì như: diễn tích truyện Tây du ký, diễn trò Kiều,… Cùng với các trò

chơi, trò diễn truyền thống, đã xuất hiện nhiều trò chơi mang hơi thở của cuộc sống

hiện đại, mang nét đặc trưng của cư dân vùng biển, như: bóng chuyền bãi biển, kéo

co trên cát, câu lạc bộ thơ, ca nhạc hiện đại, ném vòng trúng thưởng,… với sự tham

gia của đông đảo cư dân trong vùng và các vùng lân cận.

4.2.4. Gia tăng các hoạt động tín ngưỡng

Việc coi trọng hoạt động tín ngưỡng của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ

CNH, HĐH được thể hiện ở mức độ thực hành tín ngưỡng trong cộng đồng có xu

hướng tăng lên. Khác với trước đây, sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân tại gia đình

hay ở các cơ sở thờ cúng cộng đồng chỉ diễn ra vào các dịp lễ, tết. Điều đó có nghĩa,

với tín ngưỡng thờ cúng các vị thần cộng đồng, cư dân chỉ đến dâng lễ cầu khấn vào

dịp lễ hội hoặc tết Nguyên Đán. Còn đối với thờ cúng tại gia đình (tổ tiên và các vị

thần khác), cư dân cũng chỉ dâng lễ vào ngày giỗ người thân và vào dịp lễ, tết.

Nhưng hiện nay, như đã đề cập ở chương 2,3 cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thực

hành sinh hoạt tín ngưỡng tại cơ sở thờ cúng công cộng, cũng như tại gia đình có

144

tính thường xuyên vào các ngày Sóc vọng (rằm, mồng một) hàng tháng, và cả

những ngày gia đình có việc quan trọng (con cháu thi cử, mua xe, mở cửa hàng, lễ

chẵn tháng, lễ chẵn năm,...). Cụ Nguyễn Thị Lý, 75 tuổi, thôn Hoa Thành, xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà (phỏng vấn ngày 6/4/2014) cho biết:

Ngày trước, ở quê chúng tôi chỉ thắp hương lễ ở đình, đền, miếu,… của

làng vào dịp giỗ thần (lễ hội) và tết thôi, ở gia đình cũng chỉ thắp hương

bàn thờ tổ tiên vào ngày giỗ và tết, lúc nào đi đánh cá xa mới ra đền Ngư

thắp hương, chỉ có ở đền Ngư chúng tôi thắp hương nhiều hơn. Chứ ngày

nay cả làng tôi đều đi lễ ở đền, miếu vào ngày rằm, mồng một và thắp

hương tổ tiên cũng đều đặn vào các ngày này, có cả lễ vật hoa, quả. Còn

vào dịp giỗ, tết ngày nay lễ vật phong phú lắm.

Như vậy, mức độ thực hành tín ngưỡng của cư dân ngày nay diễn ra nhiều

lần trong năm ở các cơ sở thờ cúng công cộng, cũng như trong gia đình. Hầu hết các

gia đình cư dân ven biển Hà Tĩnh ngày nay đều giành một khoản tài chính và quỹ

thời gian nhất định cho việc thực hành tín ngưỡng.

Sự gia tăng thực hành tín ngưỡng của cư dân còn được thể hiện ở phạm vi

không gian thực hành có xu hướng vươn rộng ra ngoài làng. Trước đây, thực hành

tín ngưỡng của cư dân ven biển Hà Tĩnh chỉ diễn ra trong phạm vi làng “Trống làng

nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Thế nhưng ngày nay, không gian

thực hành tín ngưỡng của cư dân mở rộng ra ngoài phạm vi làng, tức cư dân không

chỉ đi lễ ở các cơ sở thờ cúng của làng/xã mình như trước, mà cư dân còn đi đến các

địa phương khác để thực hành tín ngưỡng hàng năm (chủ yếu vào dịp đầu năm)

[PL4.3, tr.197]. Những địa điểm mà cư dân đến là các cơ sở thờ cúng có tiếng linh

thiêng, có phong cảnh đẹp, hoặc là nhân vật được thờ có tầm ảnh hưởng lớn đối với

dân tộc,... Việc mở rộng phạm vi thực hành tín ngưỡng của cư dân, một mặt phản

ánh đời sống vật chất, điều kiện kinh tế của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay

đã được nâng cao; mặt khác cũng biểu hiện nhu cầu thực hành tín ngưỡng của cư

dân phát triển mạnh trong thời kỳ CNH, HĐH.

Cùng với sự gia tăng mức độ sinh hoạt và mở rộng phạm vi thực hành tín

145

ngưỡng. Ngày nay, các lễ vật thờ cúng cũng được người dân chú trọng, mua sắm

lựa chọn lễ vật rất cầu kỳ và cũng rất phong phú ở các cơ sở thờ cúng cộng đồng

cũng như thờ cúng tại gia đình. Sự chú trọng sắm sửa lễ vật chu đáo không chỉ biểu

hiện vào dịp lễ, tết, hoặc đầu năm mới, mà cả vào các ngày rằm, mồng một hàng

tháng, mỗi lần dâng lễ cư dân đều có sắm sửa lễ vật. Vào ngày rằm và mồng một, ở

các cơ sở thờ cúng cộng đồng, ngoài các thủ từ (người trông coi đền, miếu) mua

sắm lễ vật đầy đủ, gồm: hương, đăng, hoa, quả, bánh kẹo, còn có lễ vật do người

dân địa phương và người dân các vùng lân cận, khách vãng lai đến dâng lễ. Các lễ

vật rất phong phú, đa dạng, ngoài hoa tươi, quả ngọt, bánh kẹo, có cả tiền vàng bằng

giấy, tiền thật,… Tại gia đình cư dân vào ngày rằm, mồng một, lễ vật ngoài hoa

tươi, trầu cau, hương đèn, những gia đình cầu kỳ còn sắm đủ ngũ quả; gia đình kinh

doanh hay buôn bán còn sắm cả tiền vàng, thậm chí họ còn có lễ vật dâng cúng thần

tài vào mỗi sáng (đầu ngày)…

Ở cơ sở thờ cúng của cộng đồng, các lễ vật thường do tập thể các thôn/làng

chuẩn bị, có đầy đủ các lễ vật theo truyền thống (chỉ có lễ vật là đồ sống như tế lợn

sống, hoặc bò sống ở một số lễ hội ngày nay không còn) và lễ vật của thời hiện đại.

Còn cư dân sở tại và du khách dâng lễ theo sở nguyện cá nhân tuỳ ý, miễn sao lễ vật

đảm bảo “ngon, đẹp, tố, hảo”, thể hiện lòng thành tâm của người dâng lễ. Những lễ

vật do cá nhân, du khách cúng lễ vào dịp lễ hội, đầu năm mới phong phú, đa dạng

cả về số lượng và loại hình, bao gồm các sản vật là đặc sản của địa phương, đặc sản

của các vùng, miền trong cả nước, những sản vật của nước ngoài do du khách và

con em địa phương làm ăn xa mang về, có cả những lễ vật được sản xuất bằng dây

chuyền công nghệ, như: bia, nước ngọt, rượu,…

Còn tại các bàn thờ gia tiên, đến ngày giỗ hoặc cúng tất niên và đầu năm mới

lễ vật phong phú và nhiều không kể hết, ngoài các lễ vật theo truyền thống như

hương, đăng, hoa, trà, quả, thực còn có bao nhiêu đồ ngon vật lạ là đặc sản của các

vùng quê được con cháu đi làm ăn xa mang về dâng cúng, có cả những lễ vật mang

màu sắc của thời đại giao lưu, hội nhập, như: Rượu ngoại, bia, nước ngọt, thuốc lá

ngoại, kẹo ngoại,…; đồ giấy (vàng mã) cũng có đủ các loại: vải vóc, quần áo, nhà

cửa, ô tô, xe máy, điện thoại di động, máy tính, ti vi, tủ lạnh,… Việc hóa đồ mã là

146

thể hiện nhu cầu tình cảm của người đang sống dành cho người đã mất, nhưng hóa

quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến kinh tế và môi trường sống của những người đang sống

(khi mà việc hóa đồ mã cho người quá cố mỗi lần lên đến tiền triệu, đồ mã hóa quá

nhiều còn gây ra khói, bụi, làm ô nhiễm môi trường sống,…). Vấn đề này thiết nghĩ

cần phải được xem xét từ phía nhận thức của cư dân và vấn đề trách nhiệm nâng cao

nhận thức cho cư dân từ phía các nhà quản lý.

Nhìn vào bảng thống kê kết quả phiếu điều tra xã hội học các lễ vật xưa và

nay [PL4.4a, tr.198], cho kết quả giống nhau ở ba khu kinh tế, các lễ vật có xu

hướng ngày càng phong phú, đa dạng, cư dân ngày càng quan tâm chu đáo đến lễ

vật dâng cúng. Điều này cũng có nghĩa, ngày nay mặc dù khoa học phát triển tối tân

hiện đại, đời sống kinh tế được nâng cao, lối sống thực tế, thực dụng được đề cao,

những tưởng đời sống tâm linh ít được chú trọng. Nhưng trong thực tế, ở cả ba khu

kinh tế ven biển Hà Tĩnh đều rất coi trọng đời sống tâm linh, các ngày lễ, tết, giỗ

chạp, cư dân quan tâm mua sắm lễ vật đầy đủ chu đáo và vô cùng phong phú. Điều

này cũng nói lên những bất an, lo lắng, trăn trở của cư dân trước những rủi ro, trắc

ẩn của cuộc sống hiện đại.

4.2.5. Tiêu dùng văn hoá hướng tới tiện ích, cá nhân, hiện đại và quốc tế

Như đã đề cập ở các chương trước, trong thời kỳ CNH, HĐH, cộng đồng cư

dân vùng ven biển Hà Tĩnh không chỉ làm ngư nghiệp, mà làm nhiếu ngành nghề rất

phong phú, đa dạng. Ở cả ba khu kinh tế, ngư nghiệp không còn là nghề duy nhất,

mà du lịch, dịch vụ, công nghiệp cũng đem lại nguồn thu nhập lớn cho họ. Do đó,

cư dân bản địa vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay cũng không còn nhiều thời gian rỗi,

ngư nhàn như trước, mà trở nên bận rộn trước xu thế công nghiệp hoá, hiện đạị hoá.

Cùng với sự bận rộn đó, nhu cầu về đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân được

phát triển mạnh mẽ. Để đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần trong điều kiện cộng

việc bận rộn (thời gian rỗi ít), đồng thời công nghệ truyền thông phát triển, các

trang thiết bị truyền dẫn thông tin nghe, nhìn phong phú và hiện đại, cư dân có xu

hướng lựa chọn tiêu dùng các sản phẩm văn hoá có tính tiện ích, để vừa đảm bảo

được thời gian cho công việc, vừa có thể đáp ứng, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng văn

147

hoá của bản thân. Các loại thiết bị nghe nhìn cầm tay, gọn nhẹ tiện ích như

smartphone (điện thoại thông minh) là xu hướng tiêu dùng rất được cư dân yêu

thích hiện nay. Với loại thiết bị này, cư dân dễ dàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng văn

hoá ở mọi lúc, mọi nơi, có thể tranh thủ thời gian giải lao tại nơi làm việc, tại công

ty, công trường, xí nghiệp, cơ quan, công sở, hay trên tàu, trên xe buýt,….

Với những điều kiện cho phép của thời kỳ CNH, HĐH, xu hướng tôn trọng

đề cao nhu cầu TDVH của cá nhân đang được quan tâm ở vùng ven biển Hà Tĩnh.

Trong thời kỳ hiện nay, đời sống vật chất của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh ngày

càng được nâng cao, trang thiết bị thông tin nghe, nhìn được cư dân mua sắm trang

bị đầy đủ, phong phú và đa dạng trong các gia đình, mạng Internet, wifi được phủ

sóng rộng khắp. Khi điều kiện vật chất được nâng cao, khả năng kinh tế cho phép,

khoa học công nghệ phát triển đến đỉnh cao, nhu cầu TDVH của cư dân đặt ra ngày

càng phong phú, cư dân hướng tới sự thoả mãn tối đa nhu TDVH của mỗi thành

viên trong gia đình. Ngoài các thiết bị tiện ích được trang bị cho mỗi thành viên như

điện thoại di động với những tính năng thông minh hiện đại, các gia đình cư dân

vùng ven biển Hà Tĩnh còn sắm sửa từ 2-3 ti vi trong mỗi gia đình [PL4.10, tr.208],

các gia đình còn lắp đặt mạng Internet, Wifi để thuận tiện cho việc tiêu dùng các

sản phẩm văn hoá theo sở thích cá nhân,... Thực trạng của việc mua sắm, lắp đặt

này, vừa biểu hiện khả năng kinh tế, vừa biểu hiện nhu cầu tinh thần của cư dân

ngày càng phát triển, nhưng đồng thời cũng thể hiện một xu hướng hướng tới quan

tâm đáp ứng và ưu tiên tối đa cho sở thích, thị hiếu TDVH của từng cá nhân, cá thể

trong mỗi gia đình, cũng như trong xã hội.

Xu hướng tiêu dùng các sảm phẩm văn hoá có tính quốc tế cũng đang phát

triển trong cư dân. Như ở chương 3 đã cho ta thấy một xu hướng tiêu dùng văn hoá

hiện nay là không chỉ tiêu dùng các sản phẩm văn hoá của địa phương, vùng, miền,

dân tộc, mà còn tiêu dùng các sản phẩm văn hoá của các nước trên thế giới [PL4.12

- 4.13, tr.210]. Nói cách khác, ở thời kỳ CNH,HĐH, cư dân có xu hướng mở rộng

nhu cầu tiêu dùng văn hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vươn ra phạm vi toàn thế

148

giới, cư dân đã lựa chọn tiêu dùng các sản phẩm là tinh hoa văn hoá của nhân loại,

không bó hẹp hay giới hạn tiêu dùng các sản phẩm văn hoá trong phạm vị quê

hương hay đất nước. Điều đó phản ánh xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ,

cư dân có nhiều cơ hội chọn lựa các sản phẩm văn hoá của các nước trên thế giới để

phục vụ và thoả mãn cho nhu cầu TDVH, cũng như nhu cầu hiểu biết của bản thân.

Cùng với các xu hướng TDVH trên đây, xu hướng gia tăng nhu cầu vui chơi

giải trí tại các thiết chế văn hoá, thể thao hiện đại cũng đang gia tăng ở vùng ven

biển Hà Tĩnh. Qua nghiên cứu thực trạng TDVH tại các địa điểm, thiết chế văn hoá

công cộng của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH (chương 3) cho thấy,

hầu hết cư dân có xu hướng thích đến các thiết chế, địa điểm vui chơi giải trí hiện

đại cùng với đông đảo bạn bè hơn là đến các thiết chế văn hoá truyền thống. Bởi,

thực tế hiện nay cộng đồng cư dân ven biển Hà Tĩnh không phải gia đình nào cũng

làm ngư nghiệp như trước, mà cơ cấu ngành nghề của cư dân rất phong phú, đa

dạng: buôn bán đường dài, buôn bán các chợ trong tỉnh, kinh doanh các dịch vụ du

lịch, kinh doanh các dịch vụ ăn uống, dịch vụ tiêu dùng tại địa phương, công chức

nhà nước, công nhân,… do đó có nhiều mối quan hệ, nhiều đối tác làm ăn, khách

khứa, bạn bè tụ họp,… Đồng thời, sau những ngày lao động mệt nhọc, vất vả, căng

thẳng trong các khu công nghiệp, nhà máy, khu du lịch, công chức nhà nước,… cư

dân cũng rất cần có chỗ để thư giãn, xả tress,… do đó, cư dân thường rủ nhau ra

quán cafê, quán karaoke,… để thư giãn, giải trí, nghe nhạc, sinh hoạt văn nghệ,…

thay cho đến nhà văn hoá hay rạp hát trước đây; con em họ thường rủ nhau ra sân

Patin thay cho đến sân bóng đá,… Đây là một thực trạng đang diễn ra hiện nay ở

vùng ven biển Hà Tĩnh. Trước sức hấp dẫn của các thiết chế hiện đại, cư dân ngày

càng xa lánh các thiết chế văn hoá truyền thống. Hơn nữa, các thiết chế văn hoá, thể

thao truyền thống chủ yếu chỉ hoạt động vào dịp lễ, tết, hoặc những khi diễn ra các

phong trào thi đấu của địa phương,… nên nội dung hoạt động tỏ ra đơn điệu, thiếu

sức hấp dẫn, không bắt nhịp kịp thời với sự phát triển mạnh mẽ của nhu cầu, thị hiếu

TDVH ngày càng phong phú, hiện đại của cư dân.

149

4.3. Những vấn đề đặt ra

Sự vận động biến đổi văn hóa là một qui luật tất yếu khách quan. Con người

với tư cách là chủ thể xã hội đứng trước sự vận động biến đổi của văn hóa cần có

những nhận định chính xác về xu hướng của sự vận động biến đổi, qua đó dự báo

tình hình, đặc biệt là dự báo các nguy cơ, để có những tác động kịp thời, đúng đắn

nhằm điều chỉnh quá trình vận động biến đổi, phát triển của văn hóa được đi đúng

theo định hướng mong muốn của chủ thể, làm cho văn hóa trở thành động lực thúc

đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần đưa dân tộc, quốc gia bước vào xu thế hội

nhập thế giới. Với tinh thần đó sau khi nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa của

cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện nay, luận án dự báo một số vấn đề sẽ diễn ra trước sự

biến đổi về đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh ở thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa.

4.3.1. Mai một các giá trị văn hóa truyền thống

Trước sự phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH bên cạnh những mặt đạt được

là sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, đời sống vật chất của cư dân ngày càng

được nâng lên, đời sống tinh thần của cư dân ngày càng được quan tâm, thì nguy cơ

mai một những giá trị văn hóa truyền thống gắn với nghề đánh bắt thủ công của cư

dân ven biển Hà Tĩnh cũng đồng thời sẽ diễn ra, cụ thể là:

- Mai một các tri thức dân gian được đúc rút bằng kinh nghiệm của cư dân

nhiều thế hệ, như: những tri thức dân gian qua các bài vè về địa đồ từng vùng đánh

bắt (giúp nhận biết hướng vào bờ và địa phận các tỉnh, huyện khi đang lênh đênh

trên biển), về nhận biết sự thay đổi của thời tiết qua nước biển, những hiểu biết về

các loài cá theo mùa, theo lịch con nước,…Do sự phát triển của kĩ thuật, khoa học

công nghệ hiện đại, cư dân ven biển Hà Tĩnh ở thời kỳ CNH, HĐH quen dần với

việc sử dụng các thiết bị hiện đại như máy định vị, máy dò cá,…nghe dự báo thời

tiết qua chương trình dự báo khí tượng, thủy văn của quốc gia, của địa phương trên

ti vi và các thiết bị hiện đại khác,… nên những kinh nghiệm, hiểu biết dân gian mà

cha, ông các thế hệ đi trước truyền lại ít có cơ hội được sử dụng trong xã hội hiện

đại, vì thế mà những kinh nghiệm tri thức dân gian này đang có nguy cơ bị lãng

quên, mai một. Những tri thức này hiện đang rất cần được sưu tầm, ghi chép lại

150

bằng văn bản lưu lại cho đời sau. Biết đâu, rồi đây sẽ có lúc cần đến nó và nó sẽ lại

tiếp tục phát huy tác dụng.

- Mai một những tín ngưỡng truyền thống gắn với đạo lý tốt đẹp của dân tộc,

như: tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề, mà chủ yếu là các nghề mưu sinh truyền thống,

bao gồm: Tổ sư dạy ngư dân làm nghề đánh cá và chế tạo ra chiếc bánh lái cho tàu

đánh cá, và tổ sư nghề muối dạy diêm dân làm muối ở xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm

Xuyên), hiện nay hai vị tổ sư này được hợp tự về thờ chung ở đền Cả, các thực hành

tín ngưỡng liên quan đến hai vị thần này ngày nay không còn tồn tại; tổ sư nghề thợ

bạc, tổ sư nghề gốm ở Nhân Canh (nay là thị xã kỳ Anh, huyện Kỳ Anh) hiện nay

không còn được cư dân thờ tự.… Như vậy, về tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề trong

cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay chủ yếu chỉ còn lại dấu tích nơi thờ, còn

thực hành tín ngưỡng, nghi lễ và lễ hội không còn tồn tại, một số vị tổ nghề do đã từ

lâu cư dân không làm nghề đó nữa nên hiện thờ tự cũng không còn. Kết quả phiếu

điều tra XHH ở ba khu kinh tế đã chứng minh rõ điều này, tỷ lệ cư dân được hỏi cho

biết trong xã/ địa phương mình có tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề rất thấp, ở khu kinh tế

đánh bắt có 17.9 %, ở khu kinh tế du lịch có 9.7%, ở khu kinh tế công nghiệp có 4%.

Bên cạnh tín ngưỡng thờ tổ nghề, hiện nay tín ngưỡng thờ người có công lập

làng cũng biểu hiện mờ nhạt trong cư dân. Thiết nghĩ, cả hai tín ngưỡng này đều

chứa đựng ý nghĩa giáo dục đối với thế hệ trẻ về đạo lý làm người, đạo lý “uống

nước nhớ nguồn” - truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mang ý nghĩa giáo dục con

người luôn phải nhớ đến nguồn gốc, tôn thờ và biết ơn người đã có công với quê

hương đất nước. Các tín ngưỡng này hiện nay đang rất cần những giải pháp để được

bảo tồn và lưu giữ.

- Cùng với các tín ngưỡng trên, một số lễ hội, trò chơi, trò diễn truyền thống

cũng không còn môi trường, không gian và các điều kiện khác để tồn tại như: lễ hội

cầu ngư (ở khu kinh tế công nghiệp), lễ hội tổ nghề, các trò chơi, trò diễn truyền

thống mang đặc trưng vùng biển, mà các trò chơi trò diễn này vừa thể hiện nét sinh

hoạt văn hóa tinh thần truyền thống, vừa thể hiện các kỹ năng, kỹ xảo sinh tồn của

cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh, như: Hội đua thuyền, trò chơi đập cù, cướp cù, hội

151

thi nấu cơm (vừa đi vừa nấu thể hiện sự tròng trành giống như con thuyền trên

biển),... Thiết nghĩ các cấp, các nghành chức năng cần có kế hoạch và quy hoạch để

bảo tồn lưu giữ các lễ hội và trò chơi, trò diễn truyền thống, tránh đi sự mai một

không đáng có, để rồi khó có cơ hội khôi phục lại.

- Các phong tục gắn với môi trường sống trên thuyền cũng không còn được

lưu giữ đó là những phong tục như: tục phóng sinh cá, tục kiêng đánh cá vào ngày

8/4 âm lịch (giành một ngày trong năm không sát sinh),…. đây là những phong tục

thắm đượm chất nhân văn trong nghề đánh bắt. Vì việc đánh bắt của cư dân là để

mưu sinh, duy trì sự sống là hành động đảm bảo cho sự sinh tồn của những con

người sống gần biển, nhưng chính những con người này trong quá trình mưu sinh

cũng rất day dứt khi hàng ngày lấy đi biết bao sự sống của các loài sinh vật dưới

biển, chính những lúc như vậy cũng rất cần có những hành động mang tính nhân

văn, nhân bản như: không đánh cá vào những ngày nhất định nào đó, hay phóng

sinh cá,… để tự giải thoát bản thân khỏi những day dứt trước hành động mưu sinh

của mình. Vì vậy, đây cũng là những phong tục nói lên những trăn trở của cư dân

khi phải kiếm sống bằng nghề đánh bắt, các phong tục này chứa đựng ý nghĩa nhân

văn, cần được bảo tồn lưu giữ.

4.3.2. Hành chính hóa lễ hội

Cùng với sự quan tâm ngày càng sâu sát của các cấp chính quyền địa

phương trong tổ chức quản lý lễ hội, là nguy cơ các lễ hội có xu hướng bị hành

chính hóa bởi sự chỉ đạo và sự can thiệp quá sâu của các cấp quản lý - những người

không trực tiếp hưởng thụ các giá trị của lễ hội, không trực tiếp tham gia thổi hồn

vào lễ hội. Với cách quản lý lễ hội theo hình thức này của các cấp quản lý thường

dẫn đến hai thái cực: Một là, cấp quản lý nhà nước áp đặt bằng mệnh lệnh hành

chính xuống các lễ hội, yêu cầu cư dân tổ chức lễ hội theo đúng kịch bản có sẵn,

khiến các lễ hội thường na ná giống nhau, cư dân trở nên bị động chạy theo các kịch

bản lễ hội đã có sẵn. Hai là, cấp quản lý vẫn để cư dân tổ chức lễ hội theo đặc thù

địa phương, nhưng tất cả các phần trong lễ hội đều chịu sự sắp xếp và chỉ đạo trực

tiếp của cấp quản lý, cư dân chỉ đóng vai trò là người thực thi, thực hiện từng khâu,

từng công đoạn trong lễ hội dưới sự sắp đặt của bộ phận quản lý. Sự quản lý kiểu

152

này đã vô tình đẩy cư dân ra khỏi vai trò chủ thể của lễ hội, cư dân trở nên bị động,

thờ ơ và ỷ lại, từ đó các lễ hội thường thiếu cảm xúc, trở thành những hoạt động

hành chính hóa, do các cấp quản lý không chỉ làm nhiệm vụ quản lý mà còn điều

hành các lễ hội giống với kiểu điều hành công việc hành chính. Với cách hiểu về

chức năng quản lý theo kiểu điều hành này thường phổ biến ở trong các cơ quan,

doanh nghiệp không thể áp dụng vào trong tổ chức các lễ hội của cư dân (lễ hội dân

gian). Đã là lễ hội mang màu sắc dân gian nên cứ để cư dân tự làm, trả lễ hội về với

đúng tính chất của nó, có như vậy lễ hội mới khơi dậy được cội nguồn và tính cộng

đồng mãnh liệt.

Tóm lại, trong thời kỳ nghiệp CNH, HĐH nhiều hoạt động, nhiều vấn đề

kinh tế-xã hội đi vào chuyên môn hóa, dây chuyền hóa, kịch bản hóa, ... Nhưng, với

lễ hội chúng ta không thể sử dụng một kịch bản chung cho các lễ hội, đồng thời

cũng cần tránh sự can thiệp, áp đặt một cách thô bạo và quá sâu bằng mệnh lệnh

hành chính của cấp quản lý nhà nước lên lễ hội. Cả hai cách làm trên đều dễ dẫn

đến mô hình hóa, hành chính hóa lễ hội, làm cho lễ hội thiếu linh hồn, cảm xúc.

Thực tiễn công tác phục hồi, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống

của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thể hiện qua tín ngưỡng, lễ hội, phong tục tập

quán hiện nay, cho thấy nơi nào mà cư dân được đứng ra làm chủ dưới sự quản lý,

giúp đỡ của các cấp chính quyền thì nơi đó các giá trị văn hoá truyền thống được

sống dậy mạnh mẽ, có linh hồn và thực sự trở thành những sinh hoạt văn hoá tinh

thần có ý nghĩa với cuộc sống của cư dân, được cư dân chăm chút tô vẽ, đắp thêm

những lớp da thịt văn hoá mới của thời đại, làm cho các giá trị văn hoá truyền thống

trở nên tràn trề sức sống và mới hơn trong xã hội đương đại. Ngược lại, những nơi

nào thực hiện việc phục hồi các giá trị văn hoá truyền thống với vai trò thụ động của

các tầng lớp cư dân, thiếu đi sự sáng tạo và đánh mất vai trò chủ thể trong cư dân,

xem cư dân chỉ là những người tham gia, thực hiện thông qua sự chỉ đạo, điều hành

trực tiếp và sự can thiệp sâu của các cấp quản lý (chính quyền), thì nơi đó các giá trị

văn hoá truyền thống được phục hồi trở nên cằn cỗi, khô cứng, thiếu sức sống, do

thiếu bàn tay nuôi dưỡng, chăm chút và những yếu tố linh hồn được tạo ra từ trái

tim và khối óc của cư dân, thiếu đi những gửi gắm tinh thần, tình cảm, khát khao

153

của cư dân được kết tủa trong các giá trị văn hoá lễ hội, cách điều hành lễ hội kiểu

này dễ trở thành những thông điệp hành chính hóa văn hoá từ phía các nhà quản lý

đến với cư dân. Đánh mất vai trò chủ thể của cư dân, đồng nghĩa với việc đánh mất

tính sáng tạo trong các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của cư dân. Cư

dân phải luôn được đảm bảo vai trò chủ thể trong kế thừa, tiếp thu, tiếp nhận, và sáng

tạo văn hoá, là chủ thể hưởng thụ trực tiếp các hoạt động văn hoá ở cơ ở. Công tác

quản lý cần làm tròn trách nhiệm định hướng, khích lệ, cổ vũ và tạo điều kiện để cư

dân được tiếp cận với các giá trị văn hoá lành mạnh, tiến bộ và để cho các hoạt động

văn hoá trong cư dân có điều kiện được thể hiện, phô bày, trình diễn, đừng đánh mất

bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập phát triển, toàn cầu hoá. Việc nâng

cao chất lượng và hiệu quả xây dựng đời sống văn hoá là cả quá trình liên tục, lâu dài,

đòi hỏi một quy trình lãnh đạo, quản lý đồng bộ, toàn diện, đề cao tính tự quản và vai

trò chủ thể của cư dân ở mỗi cộng đồng.

4.3.3. Thiếu tính hấp dẫn của các thiết chế văn hóa thể thao mang tính

Nhà nước (tập thể, công cộng)

Bên cạnh sức hấp dẫn và sự thu hút mạnh mẽ của các thiết chế văn hóa thể

thao hiện đại đối với cư dân như: quán karaoke, quán internet, sân tennies, sân

patin...là sự xa lánh dần của cư dân đối với các thiết chế văn hóa, thể thao như: sân

bóng (bóng đá, bóng chuyền…), nhà văn hóa, thư viện xã… Theo kết quả phỏng vấn

cư dân ở 3 khu kinh tế vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay, các ý kiến đều cho thấy sự

thiếu hấp dẫn của các thiết chế văn hóa thể thao mang tính tập thể, Nhà nước. Anh

nguyễn Tiến Danh, 24 tuổi ở thôn Hoa Thành, xã Thịnh Kim, huyện Lộc Hà cho biết:

Cứ sau mỗi chuyến đánh bắt xa về chúng tôi thường nghỉ ngơi một vài

ngày, thời gian nghỉ đi biển chúng tôi thường tụ tập bạn bè cùng nhau lên

thành phố chơi, hoặc tụ tập ở quán ăn, quán cafê, quán karaoke…Chúng

tôi không đến đọc sách báo ở Thư viện xã, bởi chúng tôi thường xem tin

tức hoặc đọc các chuyên mục yêu thích qua mạng Internet, chúng tôi

cũng không chơi bóng đá, bóng chuyền vì người chơi cũng không nhiều,

còn Nhà văn hóa đến đó cũng chẳng có gì để chơi cả, chỉ khi có họp

154

hành thì bố mẹ hoặc vợ đi. Nói chung chúng tôi rất ít đến các chỗ này

(chỉ các thiết chế Văn hóa, Thể thao mang tính Nhà nước)…

Chị Nguyễn Thị Vân, 43 tuổi ở tổ dân phố Song Yên, thị trấn Thiên Cầm

cũng cho biết:

Các thành viên trong gia đình tôi (tôi, chồng tôi, cùng 2 đứa con) không

ai đến các thiết chế này (sân thể thao, nhà văn hóa, thư viện xã…) vì ở đó

chẳng có gì cả. Mặc dù tổ dân phố chúng tôi đều có đầy đủ cả 3 loại thiết

chế trên, thư viện thì nằm ở thị trấn cách nhà tôi chưa đến 1km, nhưng

chúng tôi ngoài thời gian làm việc còn lại thường xem ti vi, con tôi ngoài

thời gian học bài, thỉnh thoảng chúng lên mạng Internet, gia đình chúng

tôi đã nối mạng Internet được 2 năm, còn nhà văn hóa của tổ dân phố thì

khi nào có thông báo họp chúng tôi mới đến

Được hỏi về vấn đề này, ông Lê Viết Hòa, 63 tuổi, ở thôn Thắng Lợi, xã Kỳ

Phương, huyện kỳ Anh cũng cho chúng tôi câu trả lời tương tự:

Gia đình tôi cũng như các gia đình khác trong thôn, vì ở cạnh khu công

nghiệp nên việc làm nhiều, mọi người đều bận rộn, các con tôi đều làm việc

trong khu công nghiệp, nên thời gian rỗi thường nghỉ ngơi ở nhà và xem ti

vi, lên mạng Internet, thi thoảng đi chơi cùng bạn bè, hy hữu lắm vào các

ngày lễ lớn xã mới tổ chức các phong trào thi đấu bóng chuyền, bóng đá

giữa các thôn ở sân bóng, những lúc đó nếu có thời gian (rỗi) con tôi cũng

tham gia, còn ở nhà văn hóa chủ yếu chỉ đến dự họp thôn, thư viện hầu như

chúng tôi không đến đọc, mặc dù tủ sách đặt ngay trong trụ sở xã…

Phiếu điều tra xã hội học ở 3 khu kinh tế cũng cho kết quả thấp về mức độ

thường xuyên đến các thiết chế văn hóa thể thao (mang tính tập thể, Nhà nước) của

cư dân, đó là: ở khu kinh tế đánh bắt có 31,6% số cư dân được hỏi trả lời thường

xuyên đến sân thể thao, 18,7% số cư dân được hỏi trả lời thường xuyên đến Nhà

văn hóa, 11,3% số cư dân được hỏi trả lời thường xuyên đến điểm bưu điện và 0,6%

số cư dân được hỏi trả lời thường xuyên đến thư viện xã. Ở khu kinh tế du lịch có

26,8% số cư dân được hỏi trả lời thường xuyên đến sân thể thao, 20,8% cư dân

155

thường xuyên đến nhà văn hóa, 18,5% thường xuyên đến điểm bưu điện và 1% số

thường xuyên đến thư viện xã. Ở khu kinh tế công nghiệp có 17,9% số cư dân trả

lời thường xuyên đến sân thể thao, 26,9% thường xuyên đến Nhà văn hóa, 15,1%

thường xuyên đến điểm bưu điện và 0,4% trả lời thường xuyên đến thư viện xã.

Thực trạng này phản ánh cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH đang

xa dần với các thiết chế Văn hóa Thể thao mang tính Nhà nước, bởi sự thiếu hấp

dẫn và sự nghèo nàn của các hoạt động được tổ chức ở các thiết chế này.

4.3.4. Lai căng, pha tạp văn hóa

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ ở thời kỳ CNH, HĐH và yếu

tố giao lưu hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư phát triển trong lĩnh vực kinh

tế ở vùng ven biển Hà Tĩnh, là sự du nhập của các yếu tố văn hóa và các sản phẩm

văn hóa từ bên ngoài vào. Trước sự xâm nhập, du nhập các yếu tố văn hóa nước

ngoài vào vùng ven biển Hà Tĩnh, rất cần vai trò định hướng của các cơ quan chức

năng trong việc hướng cư dân tiếp thu, tiép nhận cái gì?, như thế nào?,…Bởi sự tiếp

thu, tiếp nhận các yếu tố văn hóa này sẽ có ảnh hưởng lớn đến nhân cách, đạo đức

trí tuệ, hành động tư duy của chủ thể văn hóa (cư dân), đặc biệt khi chủ thể văn hóa

chỉ thuần túy là các ngư dân cách đây chưa lâu (các ngư dân này trước khi sự

nghiệp CNH, HĐH được diễn ra, họ rất ít, thậm chí chưa bao giờ đứng trước bối

cảnh có sự giao lưu tác động trực tiếp bởi các yếu tố nước ngoài, chủ yếu họ chỉ tiếp

nhận và chịu tác động thứ yếu từ các vùng trung tâm đã qua chọn lọc, lắng đọng sau

đó lan tỏa về đây). Do đó, trước thực trạng du nhập trực tiếp các yếu tố nước ngoài

vào vùng ven biển Hà Tĩnh như hiện nay và sẽ được phát triển hơn nữa trong những

năm tiếp theo bằng nhiều con đường, trong đó có con đường trực tiếp qua nguồn di

cư của cư dân nước ngoài vào làm ăn sinh sống (mà chủ yếu là người từ các nước:

Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…) và gián tiếp thông qua các kênh truyền thông

hiện đại như mạng internet, các dịch vụ truyền hình…, sẽ đem đến khả năng lai tạp

văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh với luồng văn hóa nước ngoài mà chưa qua sự

gạn lọc, khơi trong. Với sự du nhập, xâm nhập trực tiếp của văn hóa nước ngoài vào

đời sống của cư dân (với tư cách là người tiêu dùng văn hóa) sẽ dễ dẫn đến sự bắt

chước rập khuôn, máy móc thiếu sáng tạo, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cách tiếp nhận trực

156

tiếp này sẽ dễ dẫn đến học theo rồi áp dụng một cách máy móc, sơ sài làm cho văn

hóa nước nhà, văn hóa quê hương có thể bị lai căng, pha tạp thiếu sáng tạo. Thực

trạng này rất cần đến vai trò quản lý của các cơ quan chức năng nhằm định hướng

các giá trị văn hóa phù hợp để người dân tiếp thu, tiếp nhận có chọn loc, có tính

sáng tạo phù hợp với thực tiễn, phù hợp với thời đại, với đạo lý truyền thống và nền

văn hóa dân tộc.

* Những khuyến nghị đề xuất với cơ quan quản lý

1. Cần xây dựng kế hoạch lưu giữ, phục hồi và bảo tồn có chọn lọc các tín

ngưỡng, lễ hội, phong tục truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh. Sự bảo tồn

lưu giữ này cần được quy hoạch tập trung cao ở khu kinh tế du lịch, đặc biệt là ở

loại hình du lịch làng nghề (nghề biển), để giới thiệu đến khách thăm quan trong

nước và quốc tế về các giá trị văn hóa truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh.

2. Trong quản lý cần linh hoạt, tránh rập khuôn, mô hình hóa, kịch bản hóa

làm mất đi tính sáng tạo và nét đặc thù của các lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh. Phải

trả lại đúng vị trí chủ thể của cư dân trong các lễ hội, cơ quan quản lý làm nhiệm vụ

theo dõi quản lý để các lễ hội không chệch hướng, không vi phạm các quy định của

Nhà nước.

3. Trong lĩnh vực tín ngưỡng, phong tục cần có giải pháp nâng cao nhận thức

cho cư dân, để cư dân thay đổi quan niệm trong việc đốt (hóa) đồ mã cho người đã

khuất. Việc hóa đồ mã chỉ mang tính tượng trưng thể hiện tình cảm, sự quan tâm

của người đang sống với người đã mất, nhưng không cần thiết phải hóa nhiều, đặc

biệt tránh hiện tượng hóa quá nhiều các vật dụng trong sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt

gia đình,….làm ảnh hưởng đến kinh tế và môi trường sống.

4. Nâng cao chất lượng và số lượng các chương trình diễn ra tại các thiết

chế văn hóa thể thao (mang tính nhà nước), tạo sự sức hấp dẫn và độ kết dính giữa

người dân với các thiết chế văn hóa thể thao này. Càng có nhiều chương trình,

hoạt động có chất lượng được tổ chức tại các thiết chế văn hóa thể thao truyền

thống sẽ tạo được sự hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn được cư dân đến với các thiết chế

văn hóa thể thao này ngày càng nhiều. Muốn làm tốt điều này, ngoài các chương

trình, hoạt động mang màu sắc nghệ thuật diễn ra tại các thiết chế văn hóa thể thao

truyền thống, cần được bổ sung thêm các sinh hoạt chuyên đề thực sự bổ ích cho

cư dân nơi đây.

157

5. Giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới là một tất yếu, thể hiện xu thế

mới - hội nhập và phát triển. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp do hội nhập thế giới

mang lại, cũng không ít những phản văn hóa, phản giá trị được len lõi, lan tràn trực

tiếp vào đời sống của cư dân, chưa qua sự khơi trong, gạn lọc. Vì vậy rất cần có

những định hướng kịp thời của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề tiếp thu,

tiếp nhận và kế thừa các giá trị văn hóa, để các giá trị văn hóa đương đại thực sự có

tính bổ ích cho các sinh hoạt văn hóa tinh thần trong cuộc sống hàng ngày của cư dân.

Tiểu kết

Qua nghiên cứu thực trạng ĐSVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh (ở chương

2,3) và tìm hiểu bối cảnh kinh tế - xã hội vùng ven biển Hà Tĩnh ở những năm tiếp

theo (qua bản Quy hoạch kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2050) [79]. Luận án đưa ra một số nhận định về xu hướng biến đổi ĐSVH

của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, đó là: mất đi các phong tục, kiêng

kỵ gắn với môi trường sống cũ; phục hồi văn hoá truyền thống trên cơ sở tái cấu trúc

và giản lược; tiếp nhận các yếu tố văn hoá mới mang tính thời đại và quốc tế; gia tăng

sinh hoạt và hoạt động tín ngưỡng; TDVH hướng tới tính tiện ích, hiện đại và quốc

tế. Với những xu hướng biến đổi về ĐSVH của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ

CNH, HĐH như vừa nêu, một số vấn đề sẽ diễn ra trong ĐSVH của cư dân nơi đây

trước những tác động của thời kỳ CNH, HĐH, đó là: mai một các giá trị văn hóa

truyền thống; hành chính hóa lễ hội; thiếu tính hấp dẫn của các thiết chế văn hóa

mang tính Nhà nước; lai căng, pha tạp văn hóa trong đời sống của cư dân. Để có thể

khắc phục những vấn đề trên đây. Luận án đưa ra một số khuyến nghị với cơ quan

quản lý là: 1/Cần xây dựng kế hoạch lưu giữ, phục hồi và bảo tồn có chọn lọc các

tín ngưỡng, lễ hội, phong tục truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh; 2/ Trong

quản lý cần linh hoạt, tránh rập khuôn, mô hình hóa, kịch bản hóa làm mất đi tính

sáng tạo và nét đặc thù của các lễ hội ở vùng ven biển Hà Tĩnh; 3/ Nâng cao chất

lượng và số lượng các chương trình diễn ra tại các thiết chế văn hóa thể thao (mang

tính Nhà nước), tạo nên sự hấp dẫn và độ kết dính giữa người dân với các thiết chế

văn hóa thể thao này; 4/ Cần có những định hướng kịp thời trong vấn đề tiếp thu,

tiếp nhận và kế thừa các giá trị văn hóa của cư dân.

158

KẾT LUẬN

1. Từ việc nghiên cứu lý thuyết khái niệm đời sống văn hoá, biến đổi văn

hoá, tiêu dùng văn hoá,… Luận án vận dụng cơ sở lý thuyết này vào nghiên cứu đời

sống văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH, tìm hiểu

nét đặc trưng văn hoá, cũng như thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển

Hà Tĩnh đang diễn ra hiện nay (có so sánh, đối chiếu với đời sống văn hoá của cư

dân ven biển Hà Tĩnh trước thời kỳ CNH, HĐH) và xu hướng biến đổi khi sự

nghiệp CNH, HĐH tiếp tục được đẩy mạnh.

2. Khái quát về vùng ven biển Hà Tĩnh qua những đặc điểm về địa lý, tự

nhiên, cư dân, kinh tế và văn hoá. Đặc điểm tự nhiên, là vùng có không gian địa lý

dài, nhưng hẹp, địa hình đa dạng, phong phú, gồm các bãi cát, cồn cát được bao phủ

bởi những thảm thực vật, thỉnh thoảng có những ngọn núi mọc sát ra tận biển. Cư

dân tiền trú ở vùng ven biển Hà Tĩnh được các học giả nhận định là cư dân văn hoá

Quỳnh Văn và cư dân văn hoá Bàu Tró, giai đoạn về sau cho đến hiện nay có cư dân

từ nhiều vùng, miền đến làm ăn, định cư, sinh sống, trong số đó có cả cư dân từ nước

ngoài vào. Về đặc điểm kinh tế, biển và ven biển Hà Tĩnh phong phú về tài nguyên

sinh vật và tài nguyên khoáng sản, có mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng sắt lớn, có

quặng Titan, Ilminite ở ven biển Cẩm Xuyên, Vũng Áng (Kỳ Anh); có các bãi tắm

đẹp tạo thành những khu du lịch nổi tiếng như Thiên Cầm, Xuân Thành, Thạch Hải,

Kỳ Ninh,… có cảng biển nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương. Với những tiềm năng

lợi thế về tự nhiên, nền kinh tế truyền thống của cư dân ven biển Hà Tĩnh chủ yếu là

đánh bắt. Sang thời kỳ CNH, HĐH vùng ven biển Hà Tĩnh hình thành ba khu kinh tế

tiêu biểu, chuyên biệt trên cơ sở tiềm năng, lợi thế vùng và đặc điểm kinh tế thời kỳ

CNH, HĐH, đó là: khu kinh tế đánh bắt, khu kinh tế du lịch và khu kinh tế tổng hợp

(công nghiệp- dịch vụ -hải cảng,…). Sự nghiệp CNH, HĐH ở vùng ven biển Hà Tĩnh

trở thành nhân tố tác động, thúc đẩy và nâng cao đời sống vật chất, mức thu nhập của

cư dân. Những thay đổi về phương thức mưu sinh, điều kiện kinh tế - xã hội, dẫn đến

đời sống văn hoá cũng có những biến đổi sâu sắc.

3. Nghiên cứu thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh hiện

159

nay qua các thành tố tín ngưỡng, lễ hội, phong tục và tiêu dùng văn hoá, cho thấy

nhiều nét đặc trưng văn hoá của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh được thể hiện qua

các thành tố này. Về đời sống tín ngưỡng của cư dân ven biển Hà Tĩnh, phong phú

các nhân vật phụng thờ, được phân thành tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng và tín

ngưỡng thờ cúng tại gia. Tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ cúng cộng đồng có thờ Cá

Ông, thờ Tứ vị Thánh Nương, thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng, và thờ các tổ sư nghề

biển, các nhân vật lịch sử; về tín ngưỡng thờ cúng tại gia có thờ cúng tổ tiên và

nhiều vị thần khác, có cả Nhiên thần, Nhân thần và Thiên thần. Về thực hành tín

ngưỡng, ngoài dịp lễ hội, lễ tết, mỗi lần ra khơi cư dân lại đến đền thờ Cá Ông và

đền thờ các vị thần khác để thắp hương cầu khấn. Về sinh hoạt lễ hội cho thấy nhiều

dấu ấn đặc trưng vùng biển, thể hiện trong thực hành nghi lễ, lễ vật và các trò chơi,

trò diễn diễn ra trong lễ hội. Về phong tục, cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh có nhiều

quan niệm, kiêng kỵ gắn với môi trường biển và nghề biển. Tuy nhiên, dưới tác động

của CNH, HĐH, các thành tố văn hoá tinh thần của cư dân ven biển Hà Tĩnh có những

biến đổi, song sự biến đổi này đều có sự đan xen giữa yếu tố văn hoá truyền thống với

yếu tố văn hoá hiện đại, giữa những quan niệm cũ với những nhận thức hiện đại, có cả sự

mất đi của cái cũ và sự ra đời xuất hiện của cái mới,…

4. Thời kỳ CNH, HĐH kéo theo đời sống văn hóa tinh thần và nhu cầu tiêu

dùng văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh có bước phát triển mạnh mẽ, các phương

tiện tiêu dùng văn hoá phong phú, đa dạng không chỉ ở các địa điểm, thiết chế văn

hoá công cộng, mà còn đa dạng, phong phú ở các phương tiện trang bị trong các gia

đình và ở các phương tiện cầm tay mang theo của mỗi cá nhân, đó là vô tuyến

truyền hình thường (ti vi), truyền hình cáp, My T.V, mạng Intenet, wifi, điện thoại

thông minh (smartphone), Ipad,… rất tiện ích cho tiêu dùng văn hoá thời hiện đại.

Cùng với các thiết bị của gia đình, cá nhân, các thiết chế văn hoá, các địa điểm vui

chơi giải trí được đầu tư, trang bị các thiết bị hiện đại, phù hợp cho những sinh hoạt

văn hoá, vui chơi giải trí tập thể, nhóm. Với những phương tiện hiện đại trong

truyền dẫn, thu phát âm thanh, hình ảnh như hiện nay, có thể đáp ứng mọi nhu cầu

tiêu dùng văn hoá của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH. Qua các

160

số liệu điều tra, phỏng vấn cho thấy việc mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho

TDVH rất phong phú trong cư dân và có xu hướng phát triển ngày cáng mạnh. Bên

cạnh sự tiện ích, hiện đại của các thiết bị, phương tiện TDVH, các nội dung tiêu

dùng văn hoá của cư dân ngày nay cũng đa dạng, cư dân không chỉ có nhu cầu nghe,

mà còn có nhu cầu được xem hình ảnh, không chỉ nghe nhạc và xem phim trong nước

mà còn nghe nhạc và xem phim của các nước, nếu những lúc công việc bận rộn chưa

xem được một chương trình nào đó, cư dân có nhu cầu được xem lại bằng cộng nghệ

My T.V và các dịch vụ truyền hình hiện đại khác,…

5. Từ việc khảo sát, nghiên cứu thực trạng đời sống văn hoá của cư dân ven

biển Hà Tĩnh qua bốn thành tố cơ bản là tín ngưỡng, lễ hội, phong tục và tiêu dùng

văn hoá, cùng với mục tiêu chương trình hành động thực hiện chiến lược biển của

tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, luận án chỉ ra 5 xu hướng biến

đổi đời sống văn hoá của cư dân VBHT thời kỳ CNH, HĐH là: mất đi các phong tục

gắn với môi trường sống cũ, phục hồi văn hoá truyền thống có sự tái cấu trúc và

giản lược, tiếp nhận yếu tố văn hoá mới có tính thời đại và quốc tế, gia tăng các

hoạt động tín ngưỡng trong cư dân, tiêu dùng văn hoá của cư dân ngày càng tiện ích

hiện đại và quốc tế. Với 5 xu hướng biến đổi dẫn đến bốn vấn đề đặt ra cần phải

xem xét đối với đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ CNH, HĐH

là: mai một các giá trị văn hóa truyền thống; hành chính hóa lễ hội; thiếu tính hấp

dẫn của các thiết chế văn hóa, thể thao (mang tính Nhà nước) và nguy cơ lại căng,

pha tạp văn hóa.

Nhận rõ các xu hướng biến đổi, giải quyết tốt những vấn đề đặt ra, sẽ có ý

nghĩa quyết định đến việc xây dựng đời sống văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh

thời kỳ CNH, HĐH đảm bảo lành mạnh, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần

thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng ven biển Hà Tĩnh phát triển bền vững trên con đường

hội nhập thế giới./.

161

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Đặng Thị Thúy Hằng (2009), Danh tướng Lê Khôi với quê hương Hà Tĩnh, Nxb

Văn hoá thông tin, Hà Nội (đồng tác giả với Phan Thư Hiền).

2. Đặng Thị Thúy Hằng (2010), “Lễ hội đền Lê Khôi trong đời sống văn hoá của cư

dân ven biển Thạch Hà, Lộc Hà - Hà Tĩnh”, Tạp chí nghiên cứu Đông

Nam Á, 125 (8), tr.68-72.

3. Đặng Thị Thúy Hằng (2013), “Văn hoá truyền thống của cư dân vùng Cửa

Nhượng-Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh từ góc độ tín ngưỡng”, Tạp

chí di sản văn hoá, 45 (4), tr.76-79.

4. Đặng Thị Thúy Hằng (2014), “Vài nét về biến đổi văn hoá vùng ven biển Hà Tĩnh”,

Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, (356), tr.26-31.

5. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), “Tiêu dùng văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh

trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Văn hoá Nghệ

thuật, (372), tr.27-30.

162

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa Thông tin,

(tái bản), Hà Nội.

2. Phan Quốc Anh (2006), Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận,

Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

3. Ác nôn đốp - A.I.Ác-nôn-đốp (Chủ biên), (Hoàng Vinh - Nguyễn Văn Hy dịch)

(1981), Cơ sở lý luận văn hoá Mác - Lênin, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

4. BCH Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh (1993), Lịch sử Đảng bộ

Hà Tĩnh, tập 1 (1930-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. BCH Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam huyện Thạch Hà (1997), Lịch sử Đảng

bộ huyện Thạch Hà, tập 1(1930-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. BCH Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam huyện Kỳ Anh (2003), Lịch sử Đảng

bộ huyện Kỳ Anh (1930-2000), Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh xuất bản,

Hà Tĩnh.

7. BCH Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam xã Kỳ Ninh (2012), Lịch sử Đảng bộ xã

Kỳ Ninh, tập 1(1945-2012), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

8. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hoá Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb

Văn hoá Thông Tin, Hà Nội.

9. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Phan Kế Bính (1995), Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, TP HCM.

11. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hoá ở các làng quê hiện nay,

Nxb Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.

12. Nguyễn Đổng Chi (Chủ biên) (1995), Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh,

Nxb Nghệ An - Vinh.

13. Nguyễn Đình Chú (2003), “Nghĩ về vấn đề gia phong trên đất Nghệ quê ta”,

Tạp chí Văn hoá dân gian, 86 (2), tr.13-20.

163

14. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, (Đặng Tuyết

Anh dịch) (Nguyễn Thị Hiền-Đoàn Thị Tuyến hiệu đính), Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

15. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (2004), Hà Tĩnh trên đường phát

triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Đông hồ Lê Văn Diễn, Nghi Xuân địa chí (quyển 1&2), Võ Hồng Huy và Trịnh Sĩ

Tịnh (phiên dịch, chú thích và hiệu đính) (2001), UBND huyện Nghi Xuân

xuất bản, Hà Tĩnh.

18. Phạm Diệp (1985), “Một góc nhìn dân tộc học về biển”, Tạp chí Dân tộc học,

(2), tr.3-8.

19. Phạm Đức Dương (Chủ nhiệm), giáo sư Trần Quốc Vượng và giáo sư Cao

Xuân Phổ (chủ biên) (1996), Biển với người Việt cổ, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

20. Đảng bộ Xuân Hội (2005), Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Hội (1930-

2005), Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V

(năm 1981), Nxb Sự Thật, K101, Hà Nội.

22. Đảng Cộng Sản Việt Nam, BCH Đảng bộ xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà-tỉnh

Hà Tĩnh (2003), Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Kim (1930-2000), Sở Văn

hóa Thông tin Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 07-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về “Phát triển công nghiệp, công

nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16/8/2004 của Bộ

Chính trị khoá IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng,

an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010”và

Kết luận số 25-KL/TW ngày 02/8/2012 của Bộ Chính Trị tiếp tục thực

164

hiện nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16/8/2004 của bộ chính trị khoá IX

nhằm “đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an

ninh vùng bắc trung bộ và duyên hải trung bộ đến năm 2020”.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 về

“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.

26. Đảng ủy-Hội đồng nhân dân-Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận tổ quốc xã

Xuân Yên (2000), Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Yên (1945-

2000), Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.

27. Đảng ủy-Hội đồng nhân dân-Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận tổ quốc xã

Xuân Thành (2011), Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Xuân Thành

(1930-2010), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

28. Đảng ủy-Hội đồng nhân dân-Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận tổ quốc xã

Cổ Đạm (2012), Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Cổ Đạm (1930-2010),

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

29. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên) (2000), Làng cổ Hà Tĩnh, Tập 1,Sở Văn hoá Thông

tin Hà Tĩnh và Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.

30. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên) (2005), Lễ hội dân gian ở Hà Tĩnh, Sở Văn hoá

thông tin Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.

31. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên) (2007), Làng cổ Hà Tĩnh, tập 2, Sở Văn hoá Thông

tin Hà Tĩnh và Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.

32. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên) (2011), Địa chí huyện Kỳ Anh, Nxb Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

33. Trần Độ (2006), “Những suy nghĩ bước đầu xoay quanh vùng văn hoá”, 36 năm

Viện Văn hoá, nhìn lại một chặng đường phát triển (1970-2006), tr.65, Viện

Văn hoá trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

34. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2010), Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn

2011-2020 xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Ninh Viết Giao (2001), “Văn hoá làng biển ở xứ Nghệ”, Tạp chí Nguồn sáng

dân gian, (1), tr.12-21.

165

36. Ninh Viết Giao (2003), “Gia phong xứ Nghệ trong bối cảnh đất nước đổi mới”,

Tạp chí Văn hoá dân gian, 86 (2), tr.3-12.

37. Hippolyte le Breton (2005), An - Tĩnh cổ lục, Nxb Nghệ An-Trung tâm Văn

hoá ngôn ngữ Đông Tây, Vinh.

38. Lê Như Hoa (2001), Tiêu dùng văn hoá trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện

đại đất nước, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Văn hóa trường

Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

39. Phạm Xuân Hoàng (2013), “Văn hoá biển Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá Nghệ

thuật, số 345 (tháng 3), tr.3-5.

40. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ

điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

41. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2008), Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển

Tây Nam bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

42. Võ Hồng Huy (Chủ biên), (1999), Địa chí huyện Can Lộc, Huyện ủy -Ủy ban Nhân

dân huyện Can Lộc và Sở Văn hoá Thông tin Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.

43. Huyện ủy-Hội đồng nhân dân-Ủy ban nhân dân huyện Kỳ Anh (2006), Kỳ Anh

170 năm (1936-2006), Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.

44. Nguyễn Xuân Hương (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng,

Nxb Từ điển Bách Khoa và Viện Văn hoá, Hà Nội.

45. Lê Văn Kỳ (1997), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các

anh hùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Lê Văn Kỳ (2002), Lễ hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Phương Lan (2004), “Về khái niệm đời sống văn hoá”, Tạp chí Văn

hoá Nghệ thuật (12), tr.15-19.

48. Phạm Lê (Chủ biên) (2008), Địa chí Cẩm Nhượng, Đảng uỷ và UBND xã

Cẩm Nhượng xuất bản, Hà Nội.

49. Bùi Dương Lịch (1993), Nghệ An ký, dịch và chú Nguyễn Thị Thảo, hiệu đính

Bạch Hào, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Nguyễn Thanh Lợi (2013), “Giao lưu văn hoá Việt - Chăm, nhìn từ tục thờ Cá Ông”,

166

Tạp chí Văn hoá dân gian, 86 (2), tr.24-27.

51. Chu Viết Luân (Chủ biên), (2004), Hà Tĩnh trên đường phát triển, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

52. Lê Hồng Lý (2002), “Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển trong nền kinh tế

thị trường”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (3), tr.38-49.

53. Nguyễn Tiến Mạnh (2013), tham luận tại Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế

trong văn hoá, văn hoá trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung

ương 5 khoá VIII”.

54. Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên) (2014), Đời sống văn hóa của cư dân Hà Nội,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Phạm Thị Ninh (2000), Văn hoá Bàu Tró, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Nhiều tác giả (2001), Phong thổ ký các huyện tỉnh Hà Tĩnh, do Thanh Minh

dịch từ nguyên văn chữ Hán, Thái Kim Đỉnh giới thiệu và chú thích, Sở

Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh xuất bản, Hà Tĩnh.

57. Dương Bá Phượng (Chủ biên), (2012), Phát triển bền vững vùng Trung Bộ,

thực trạng, vấn đề và giải pháp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Đình Quang (Chủ biên) (2005), Đời sống văn hoá đô thị và khu công nghiệp

Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

59. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hoá.

60. Nguyễn Văn Quyết (2013), Nghiên cứu biến đổi văn hoá của các cộng đồng

nông nghiệp - nông thôn trong quá trình phát triển các khu công nghiệp,

Luận án tiến sĩ Văn hoá học, Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

61. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hoá

dân tộc, Hà Nội.

62. Bùi Hoài Sơn (2006), Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà Nội,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Bùi Hoài Sơn (2008), Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hoá

xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Đặng Quang Thành, Lưu Hoàng Chung, Phan Công Khanh (2003), Một số vấn

167

đề về văn hoá và lý luận văn hoá hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

65. Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, tái

bản, Hà Nội.

66. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, TP. HCM.

67. Đoàn Đình Thi (1985), “Một vài đặc điểm về kinh tế của cư dân ven biển các

tỉnh phía bắc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học,(2), tr.11-13.

68. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở Văn hoá Thông Tin Hà Tĩnh xuất bản,

Hà Tĩnh.

69. Nguyễn Duy Thiệu (1984), “Người Bồ Lô và Vạn Kỳ Xuyên”, Tạp chí Dân

tộc học, (3), tr.44 - 49.

70. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

71. Nguyễn Duy Thiệu (2003), “Nhật trình đi biển của người Bồ Lô tại vùng biển

Bắc Trung Bộ”, Tạp chí Văn hoá dân gian, 90 (6), tr. 23-24.

72. Nguyễn Duy Thiệu (2003), “Những vết tích Malayu trong văn hoá của tộc

người Kinh (Việt) - qua tư liệu nghiên cứu điền dã về các cộng đồng

thuỷ cư ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản văn hoá, (4), tr.42-44.

73. Nguyễn Duy Thiệu (2004), “Cư dân vạn đò - nhà thuyền và những vấn đề môi

trường”, Tạp chí Kiến trúc, (5), tr.29- 33.

74. Nguyễn Duy Thiệu (2004), “Cần lưu ý tới các vấn đề văn hoá, xã hội trong việc

xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển thuỷ sản”, trong Kỷ yếu diễn

đàn Ðổi mới phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển

thuỷ sản, Viện Kinh tế và quy hoạch thuỷ sản, Book Thuỷ sản, 28-4,

tr.109-120;

75. Nguyễn Duy Thiệu (2005), “Các cộng đồng ngư dân thuỷ cư tại vùng biển

Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (1), tr. 31-36.

76. Nguyễn Duy Thiệu (2007), “Người Việt (Kinh) vùng biển miền Trung hội nhập

cùng biển cả”, Trường hợp nghiên cứu ở Bình Thuận và Ninh Thuận,

168

Tạp chí Nguồn sáng dân gian,(3); tr. 63-83.

77. Nguyễn Duy Thiệu (2007), “Suy ngẫm về văn hoá biển ở Việt Nam”, Tạp chí

Di sản văn hoá, (3), tr.16-17.

78. Nguyễn Duy Thiệu (2008), “Khẩu dậu cá, nét đặc trưng riêng của làng Việt cổ

truyền ở vùng biển đảo” - Trường hợp hợp làng Quan Lạn, Tạp chí Di

sản văn hoá, tr. 53 – 57.

79. Nguyễn Duy Thiệu (2009), “Vài suy nghĩ về di sản văn hoá biển ở Việt Nam”,

Tạp chí Di sản văn hoá, (3), tr. 46-50.

80. Nguyễn Duy Thiệu (2009), “Thương hiệu biển nhìn từ đặc trưng văn hoá biển

Việt Nam”, trong Kỷ yếu Diễn đàn thương hiệu biển Việt Nam kết nối

địa phương và quốc tế, Quảng Ninh, 20-6.

81. Nguyễn Duy Thiệu (2011), “Tín ngưỡng Cá Ông - Từ tập tục đến biểu trưng”,

Tạp chí Di sản văn hoá, 34 (1), tr. 61-66.

82. Nguyễn Duy Thiệu (2014), “Vai trò của môi trường biển đảo trong việc hình

thành tính cách người miền biển”, Tạp chí Phát triển kinh tế-xã hội, 60

(2), tr. 42-47.

83. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2000), Văn hoá dân gian làng ven biển, Nxb Văn

hoá dân tộc, Hà Nội.

85. Ngô Đức Thịnh (2013), “Từ hiện tượng đổi mới ở nông thôn, suy nghĩ về văn hoá

gia đình, gia phong”, Tạp chí Văn hoá dân gian, 86 (2), tr.21-23.

86. Ngô Đức Thịnh (2014), “Văn hóa biển cận duyên” (Từ tiếp cận Nhân học văn hóa),

Tạp chí Phát triển kinh tế-xã hội, 60 (2), tr.34-41.

87. Phạm Thanh Tịnh (2010), Văn hoá dân gian người Bồ Lô ven biển Hà Tĩnh,

Luận án Tiến sĩ Văn hoá học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

88. Lê Xuân Toản (Chủ biên) (2007), Lịch sử Đảng bộ xã Thạch Kim,tập 1 (1930-

2005), Nxb Thế giới, Hà Nội,

89. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 904/1997/QĐ-TTg, ngày 23/10/1997 của

Thủ tướng chính phủ phê duyệt “Định hướng quy hoạch chung khu công

169

nghiệp - cảng biển Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh”

90. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 1960/QĐ-TTg ngày 16/9/2010 của Thủ

tướng chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam

đến năm 2020”.

91. Thủ tướng chính phủ, Quyết định phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du

lịch tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.

92. Thủ tướng chính phủ, Quyết định số 1786/QĐ-TTg ngày 27/11/2012 của Thủ

tướng chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà

Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050”.

93. Võ Quang Trọng, Lưu Danh Doanh, Trương Minh Hằng,… (2000), “Làng biển

Nhượng Bạn”, trong Văn hoá dân gian làng ven biển, Ngô Đức Thịnh

chủ biên, Nxb Văn hoá dân tộc, tr.466-540, Hà Nội.

94. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Đời sống văn hóa

và môi trường Văn hóa – Lý luận và thực tiễn, Hà Nội tháng 6 năm 2015.

95. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, trường Đại học Quảng Bình, trường Đại học

Văn hóa Thành phố HCM (2015), Văn hóa biển đảo nguồn lực phát triển

bền vững (Hội thảo quốc gia), Nxb Lao động, Hà Nội.

96. Tylo - E.B.Tylor (Huyền Trang dịch) (2000), “Văn hoá nguyên thuỷ”, Tạp chí

Văn hoá Nghệ thuật, (5), tr.42-43.

97. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Quyết định số 406 QĐ/1999/UB-CN của UBND tỉnh Hà

Tĩnh, ngày 10/03/1999, ban hành phê duyệt “Quy hoạch chung Khu

công nghiệp - cảng biển Vũng Áng”.

98. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Quyết định số 2966/QĐ-UBND ngày 14 tháng 11 năm 2007

của UBND tỉnh Hà Tĩnh ban hành “Chương trình hành động thực hiện

Chiến lược biển tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020”.

99. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 25 tháng 12 năm

2009 của UBND tỉnh Hà Tĩnh về phê duyệt “Đồ án quy hoạch tổng thể

khu du lịch quốc gia Thiên Cầm” .

100. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên), (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng hiện nay,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Viện Văn hóa - Bộ Văn hóa (1984) (Trần Độ chủ biên), Xây dựng đời sống văn

170

hóa ở cơ sở, Nxb Văn hóa, Hà nội.

102. Viện Văn hóa (2015) (PGS.TS Đinh Thị Vân Chi chủ biên), Những vấn đề lý

luận và thực tiễn về đời sống văn hóa, môi trường văn hóa, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

103. Viện Văn hoá Thông tin và Sở Văn hoá Thông tin Phú Yên (2006), Văn hoá

cư dân ven biển Phú Yên, Phú Yên.

104. Hoàng Vinh (1995), Tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, trong

Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

105. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hoá ở

nước ta, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

106. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (1995), Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn

hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

107. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - Văn hoá, Nxb Văn hoá

dân tộc và Tạp chí Văn hoá N ghệ thuật.

108. Trần Quốc Vượng (2000), “Việt Nam và biển đông”, Tạp chí Văn hoá dân

gian, 71 (3), tr.20-27.

Tiếng Anh

109. Toylor Edward B (1891), Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy), London:

J.Murray.

110. Winthrop, Robert H (1991), Dictionary of concepts in Cultural Anthropology

(Từ điển các khái niệm nhân học văn hóa), New York: Greenwood Press.

171

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

--------------------

Đặng Thị Thúy Hằng

§êI Sèng V¡N HãA CñA C¦ D¢N VEN BIÓN Hµ TÜNH

THêI Kú C¤NG NGHIÖP HãA

PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội-2015

172

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Trang

Phụ lục 1 : Bản đồ 170

Phụ lục 2 : Mẫu phiếu trưng cầu ý kiến (điều tra xã hội học) 172

Phụ lục 3a : Danh sách những người cung cấp thông tin phỏng vấn 191

Phụ lục 3b : Giải trình và tổng hợp thông tin từ phiếu trưng cầu ý kiến 193

Phụ lục 4 : Kết quả xử lý phiếu trưng cầu ý kiến 201

Phụ lục 4a : Các đền thờ Thành Hoàng Làng ở vùng ven biển Hà Tĩnh

hiện nay 217

Phụ lục 4b : Những vị Thành Hoàng Làng được thờ nhiều nơi ở vùng ven

biển Hà Tĩnh 218

Phụ lục 4c : Quan niệm, ý nghĩa một số phong tục sinh đẻ truyền thống

của cư dân ven biển Hà Tĩnh (không còn được thực hành

hiện nay)

219

Phụ lục 5 : Trò diễn, trò chơi, hò, vè 220

Phụ lục 6 : Bảng biểu 228

Phụ lục 7 : Ảnh 231

173

PHỤ LỤC 1 - BẢN ĐỒ

Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh - Nguồn Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tĩnh (Tháng 2/2014)

Bản đồ công bố vùng nước các cảng biển tỉnh Hà Tĩnh- Đài PTTH Hà Tĩnh (Tháng 2 /2014)

http://hatinh.radiovietnam.vn/2013/12/cong-bo-vung-nuoc-cac-cang-bien-tinh-ha-tinh

174

Bản đồ tổng quan tỉnh Hà Tĩnh - nguồn http://vietnamnay.com/xem-tin-tuc/tong-

quan-tinh-ha-tinh-default.html (Tháng 2/2014)

Bản quy hoạch khu kinh tế Vũng Áng - Nguồn kkthatinh.gov.vn (Tháng 2/2014)

175

PHỤ LỤC 2 - MẪU PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

2.1. KHU KINH TẾ ĐÁNH BẮT BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

Ngày … tháng … năm 2014

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho cộng đồng cư dân tại khu kinh tế đánh bắt-Thạch Kim)

Kính thưa ông (bà)! Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng “Đời sống văn hóa của cư dân

ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong đó tập trung chủ yếu vào

việc nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân sống tại khu kinh tế đánh

bắt (trong đó có xã Thạch Kim). Rất mong ông (bà) cho biết ý kiến của mình thông qua

việc trả lời các câu hỏi dưới đây:

Ông (bà) nhất trí với ý kiến nào xin đánh dấu (v) vào các ô vuông cùng dòng, nếu

không nhất trí xin để trống. Những câu hỏi có dấu chấm (….), đề nghị ông (bà) vui lòng

cho biết ý kiến ngắn ngọn.

I. Những thông tin chung - Tuổi:…………..…….

- Dân tộc:……………… Tôn giáo: …………...……..…………

- Trình độ học vấn: ………………..; Nghề nghiệp: ……………

- Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………

II. Thông tin điều tra Câu 1: Ông/bà là người địa phương hay ở nơi khác đến ?

- Người địa phương

- Người từ nơi khác đến

Từ đâu đến: …...……………………………… Năm đến:……………………

Câu 2: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đìnhhiện nay?

- Đánh cá

- Chế biến hải sản

- Buôn bán hải sản

- Dịch vụ hậu cần nghề cá

- Xuất khẩu lao động

- Nghề khác:…………………..

Câu 3: Gia đình ông/bà có kinh doanh các dịch vụ phục vụ đánh bắt không?

*. Nếu có xin cho biết kinh doanh gì:………………………………………………

Câu 4: Ông/bà cho biết các dịch vụ kinh doanh phục vụ đánh bắt ở địa phương hiện

nay?

- Kho đông lạnh

- Chế biến xuất nhập khẩu thủy hải sản

- Chế biến nước mắm

- Nướng cá

- Phơi cá

- Đóng, sửa chữa tàu thuyền

- Vận tải

- Phục vụ đá lạnh

-Dịch vụ khác:………………………………………………………………………

177

Câu 5: Ông/bà cho biết mức độ đầu tư và áp dụng công nghệ hiện đại vào nghề đánh

bắt ở địa phương mình hiện nay?

Phƣơng tiện và ngƣ cụ Đƣợc trang bị hiện đại Chƣa đƣợc trang bị hiện đại

1. Tàu, thuyền đánh cá

2. Các ngư cụ đánh bắt

3. Các thiết bị khác

Câu 6:Ông/bà cho biết các ngư cụ và phương thức đánh bắt chủ yếu ở địa phương

hiện nay?

Ngƣ cụ và phƣơng thức Có Không Ngƣ cụ và phƣơng thức Có Không

1. Lưới rút 9. Thả bóng

2. Lưới mười 10. Vó màu sáng

3. Lưới xăm 11.Đăng

4. Lưới rê 12. Đáy

5. Lưới trồng 13. Quệu

6. Lưới rùng 14. Trủ chào

7. Nghề te 15. Trủ kheo

8. Nghề câu 16. Khác……………..

Câu 7: Ông/bà cho biết CNH, HĐH đánh bắt có tác động đến các yếu tố văn hóa

truyền thống nào dưới đây?

- Tín ngưỡng

- Phong tục

- Lễ hội truyền thống

- Di tích lịch sử văn hóa

Câu 8: Ông/bà cho biết thành phần chủ yếu tham gia đánh bắt ở địa phương hiện nay?

-

-

- Nam giới (nói chung) có sức khỏe

Câu 9: Ông/bà cho biết các phong tục sau sinh xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1.Treo cây dứa dại trước cổng nhà 4. Bán phồng long

2. Để khúc củi cháy dở trước cửa 5. Lễ chẵn tháng

3. Nhúng đứa trẻ xuống nước 6. Lễ chẵn năm

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):........................................................................................

………………………………………………………………………………………………

Câu 10: Ông/bà cho biết phong tục cưới xin xưa và nay ở địa phương mình?

Các nghi lễ Xƣa Nay Các nghi lễ Xƣa Nay

1. Lễ bỏ trầu (dạm ngõ) 5. Lễ cưới Tại gia đình

2. Lễ vấn danh Tại nơi khác (Nhà

hàng,khách sạn…

3. Lễ ăn hỏi

4. Lễ nộp cheo cho làng 6. Lễ lại mặt

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

……………………………………………………………………………………………...

178

Câu 11: Ông/bà cho biết phong tục ma chay xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1. Che mặt người chết 9. Cúng tuần

2. Khâm liệm 10. Cúng 49 ngày

3. Nhạc hiếu 11. Lên chùa

4. Thầy cúng làm lễ 12. Cúng 100 ngày

5. Xem giờ phát tang 13. Giỗ đầu

6. Xem giờ hạ huyệt 14. Giỗ hết

7. Tang phục 15. Sang cát/thay áo (Bốc mộ)

8.Cúng 03 ngày

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

……………………………………………………………......................................................

Câu 12: Ông/bà cho biết những nghi lễ, phong tục trong nghề đánh bắt xưa và nay ở

địa phương mình ?

Các nghi lễ và phong tục Xưa Nay Các nghi lễ và phong tục Xưa Nay

1. Cúng lưới mới 6. Kiêng đếm lưới

2. Cúng thuyền ra khơi 7. Chọn ngày đi biển

3.Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 8. Kiêng bước qua mũi thuyền

4. Tục phóng sinh cá (ở mẻ cá

đầu của thuyền mới, lưới mới)

9.Kiêng gặp phụ nữ trên đường

đi đánh cá

5. Kiêng đánh cá vào ngày cá

vượt Vũ môn (ngày 8/4)

Kiêng để phụ nữ lạ lên thuyền

đánh cá

Câu 13: Ông/bà cho biết các tín ngưỡng xưa và nay ở địa phương ?

Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay

1.Thờ cúng tổ tiên 5. Thờ tổ nghề

2.Thờ Cá Ông 6. Thờ thần tài

3. Thờ Thành Hoàng Làng 7. Thờ Bác Hồ

4. Thờ người có công 8. Thờ các thần linh khác

Câu 14: Ông/bà cho biết các lễ hội xưa và nay ở địa phương?

Các lễ hội Xƣa Nay Các lễ hội Xƣa Nay

1. Lễ cầu Ngư 4. Lễ hội thờ tổ nghề

2. Hội đua thuyền 5. Nghi lễ Phật giáo

3. Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

6. Nghi lễ Công giáo

Lễ hội khác (ghi rõ tên lễ hội và nơi diễn ra lễ hội):................................................................

……………………………………………………………………………………………….

179

Câu 15: Gia đình ông/bà thường chuẩn bị đồ lễ nào sau đây khi thực hành nghi lễ cúng tế xưa và nay?

Đồ lễ Xƣa Nay Đồ lễ Xƣa Nay

1. Hoa tươi 4. Trầu cau

2. Ngũ quả 5. Mâm cỗ

3. Đồ

Tiền vàng, đồ giấy 6. Rượu, nước

Trang phục 7. Bia, rượu ngoại

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 8. Xôi gà (lợn)

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ lạnh,

điện thoại di động,…)

9. Bánh kẹo

10. Đồ hải sản

Các đồ lễ khác: ……………………………………………………………………… Câu 16: Ông/bà cho biết mức độ đi lễ của gia đình ở các đền, đình chùa, miếu,… tại địa phương ?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

Câu 17: Ông/bà cho biết thành phần tham dự lễ hội ở địa phương hiện nay ?

- Người kinh doanh

- Người làm nghề biển

- Người làm nông nghiệp

- Người làm công nhân khu công nghiệp

- Người trí thức

- Cán bộ, nhân viên nhà nước

- Các thành phần nơi khác đến:………………………………………………….........

Câu 18: Ông/bà cho biết gia đình mình có các phương tiện thông tin truyền thông nào

dưới đây?

Ti vi ..….. Truyền hình cáp

My TV Internet

Câu 19: Ông/bà thường làm gì trong thời gian rỗi ?

- Xem tivi

- Xem truyền hình cáp

- Nghe đài

- Xem My TV

- Truy cập internet

- Đọc sách, báo, tạp chí

- Đi chơi cùng bạn bè

Câu 20: Nếu có xem ti vi, ông/bà thường xem các chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Thời sự/ tin tức

2 Thể thao

3 Ca nhạc

4 Trò chơi giải trí

5 Phim truyện

6 Phổ biến kiến thức

7 Thế giới động vật

8 Vòng quanh thế giới

9 Quảng cáo

180

10 Khác

Câu 21: Nếu có xem truyền hình cáp hay My TV, ông/bà thường xem chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Phim

2 Ca nhạc

3 Học ngoại ngữ

4 Hoạt hình

5 Trò chơi giải trí

6 Thể thao

7 Thông tin trên thế giới

8 Khác

Câu 22: Ông/bà thích nghe thể loại nhạc nào dưới đây?

- Các ca khúc Cách Mạng

- Cải lương, vọng cổ

- Dân ca nói chung

- Dân ca Nghệ Tĩnh

- Nhạc cổ truyền

- Chèo

- Nhạc quốc tế

- Ca khúc VN hiện đại

Câu 23: Ông/bà thích xem thể loại phim nào dưới đây?

- Phim tâm lý-XH Việt Nam

- Phim tâm lý-XH nước ngoài

- Phim hình sự Việt Nam

- Phim hình sự nước ngoài

- Phim truyện đề tài CMVN

- Phim chưởng

- Phim kinh dị

- Phim tài liệu nước ngoài

- Phim giả sử Việt Nam

- Phim giả sử nước ngoài

Câu 24: Ông/bà thường sử dụng Internet cho mục đích gì?

TT Mục đích Có Không

1 Nhận và gửi thư

2 Chat

3 Xem tin tức

4 Học tập

5 Tìm các phần mềm

6 Mua hàng

7 Du lịch/ giải trí

8 Mạng xã hội

9 Khác

Câu 25: Nếu có đọc sách, báo. Ông/bà thường quan tâm đọc các nội dung nào?

TT Nội dung Có Không

1 Chính trị, xã hội

2 Thể thao

3 Văn hóa, văn học, nghệ thuật

4 Kinh tế, lao động

181

5 Quảng cáo, rao vặt

6 Tập san, chuyên đề về gia đình, phụ nữ, nam giới

7 Sách phổ biến kiến thức

8 Sách chuyên môn

9 Sách lịch sử, địa lý

10 Khác

Câu 26: Nếu có nghe đài ông/bà thường nghe chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Tin tức

2 Ca nhạc

3 Phổ biến kiến thức

4 Thể thao

5 Khác

Câu 27: Ông/bà cho biết làng (khối phố) mình có các điểm sinh hoạt văn hóa, vui

chơi, giải trí nào dưới đây?

- Sân Patin

- Quán Karaoke

- Quán Internet

- Sàn nhảy

- Rạp hát

- Sân thể thao

- Nhà văn hóa

- Điểm bưu điện/Thư viện xã

Câu 28: Ông/bà và các thành viên trong gia đình thường tham gia sinh hoạt nào ở các

thiết chế công cộng?

TT Nội dung Có Không

1 Hát karaoke

2 Đọc sách ở thư viện

3 Mua và đọc báo ở bưu điện

4 Cho trẻ đến khu vui chơi

5 Đánh cầu lông

6 Chơi bóng chuyền

7 Đá bóng

8 Đánh tennis

9 Tập võ

10 Tập dưỡng sinh

11 Trượt patin

12 Sinh hoạt CLB nghệ thuật ở nhà văn hóa

13 Tham gia các cuộc họp tại nhà văn hóa

Câu 29: Ông/bà cho biết về các dịch vụ kinh doanh ở địa phương hiện nay ?

1. Hàng tạp hóa 5. Hàng may mặc

182

2. Hàng điện tử, điện máy 6. Dịch vụ ăn uống

3. Hàng văn hóa phẩm 7. Kinh doanh vật liệu xây dựng

4. Hàng lương thực, thực phẩm 8. Dịch vụ chăm sóc thẩm mỹ

Các dịch vụ khác: …………………………………………….…………………………

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà !

183

2.2. KHU KINH TẾ DU LỊCH

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

Ngày … tháng … năm 2014

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho cộng đồng cư dân tại khu kinh tế du lịch - Thiên Cầm)

Kính thưa ông (bà)!

Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng “Đời sống văn hóa của cư dân

ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong đó tập trung chủ yếu vào

việc nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân sống tại các khu du lịch

(trong đó có khu du lịch Thiên Cầm). Rất mong ông (bà) cho biết ý kiến của mình thông

qua việc trả lời các câu hỏi dưới đây:

Ông (bà) nhất trí với ý kiến nào xin đánh dấu (v) vào các ô vuông cùng dòng, nếu

không nhất trí xin để trống. Những câu hỏi được để dấu chấm (…), đề nghị ông (bà) vui

lòng cho biết ý kiến ngắn ngọn.

I. Những thông tin chung

- Tuổi:…………..…….

- Dân tộc:……………… Tôn giáo: …………...……..…………

- Trình độ học vấn: ………………..; Nghề nghiệp: ……………

- Chỗ ở hiện nay: …………………………………………………………………….

II. Thông tin điều tra

Câu 1: Ông/bà là người địa phương hay ở nơi khác đến ?

- Người địa phương

- Người từ nơi khác đến

Từ đâu đến: …...……………………………… Năm đến:…………………

Câu 2: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình trước đây?

- Nông nghiệp

- Buôn bán

- Tự do

- Nghề biển

- Cán bộ viên chức nhà nước

Câu 3: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình hiện nay?

- Nghề biển

- Nuôi trồng hải sản

- Kinh doanh hàng ăn

- Kinh doanh khách sạn

- Dịch vụ tắm biển

- Chuyên chở khách du lịch

- Nghề tự do

- Xuất khẩu lao động

- Cán bộ viên chức nhà nước

- Nghề khác:..................................

Câu 4: Gia đình ông/bà có kinh doanh các dịch vụ du lịch không ?

* Nếu có xin cho biết kinh doanh gì:…………………………………………………

1

Câu 5: Việc phát triển du lịch ở địa phương mang lại lợi ích gì cho gia đình ông/bà?

- Dễ kiếm việc làm hơn

- Thu nhập tốt hơn

- Kinh doanh buôn bán dễ hơn

- Góp phần xóa đói giảm nghèo

cho người dân

- Không mang lại lợi ích gì

Câu 6: Ông/bà cho biết phát triển du lịch có ảnh hưởng gì đến nghề biển truyền thống

như thế nào?

- Nguồn hải sản gần bờ trở nên khan

hiếm

- Nghề biển khó làm ăn hơn

- Người làm nghề biển ít hơn

- Số người làm nghề biển vẫn như

trước

- Nghề biển chuyển sang nuôi trồng

là chủ yếu

Câu 7: Ông/bà cho biết phát triển du lịch tác động đến các yếu tố văn hóa truyền

thống nào dưới đây?

- Tín ngưỡng

- Phong tục

- Lễ hội truyền thống

- Di tích lịch sử văn hóa

Câu 8: Ông/bà cho biết phong tục sau sinh xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1.Treo cây dứa dại trước cổng nhà 4. Bán phồng long

2. Để khúc củi cháy dở trước cửa 5. Lễ chẵn tháng

3. Nhúng đứa trẻ xuống nước 6. Lễ chẵn năm

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

………………………………………………………………………………………………..

Câu 9: Ông/bà cho biết phong tục cưới xin xưa và nay ở địa phương mình?

Các nghi lễ Xƣa Nay Các nghi lễ Xƣa Nay

1. Lễ bỏ trầu (dạm ngõ) 5. Lễ

cưới

Tại gia đình

2. Lễ vấn danh Tại nơi khác (Nhà

hàng, khách sạn…

3. Lễ ăn hỏi

4. Lễ nộp cheo cho làng 6. Lễ lại mặt

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có:…………………………………………………………...

………………………………………………………………………………………………..

Câu 10: Ông/bà cho biết phong tục ma chay xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1. Che mặt người chết 9. Cúng tuần

2. Khâm liệm 10. Cúng 49 ngày

3. Nhạc hiếu 11. Lên chùa

4. Thầy cúng làm lễ 12. Cúng 100 ngày

5. Xem giờ phát tang 13. Giỗ đầu

6. Xem giờ hạ huyệt 14. Giỗ hết

2

7. Tang phục 15. Sang cát/thay áo (Bốc mộ)

8.Cúng 03 ngày

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

……………………………………………………………......................................................

Câu 11: Ông/bà cho biết những nghi lễ, phong tục trong nghề đánh bắt xưa và nay ở

địa phương mình ?

Các nghi lễ và phong tục Xưa Nay Các nghi lễ và phong tục Xưa Nay

1. Cúng lưới mới 6. Kiêng đếm lưới

2. Cúng thuyền ra khơi 7. Chọn ngày đi biển

3.Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 8. Kiêng bước qua mũi thuyền

4. Tục phóng sinh cá (ở mẻ cá

đầu của thuyền mới, lưới mới)

9. Kiêng gặp phụ nữ trên đường

đi đánh cá

5. Kiêng đánh cá vào ngày cá

vượt Vũ môn (ngày 8/4)

10. Kiêng để phụ nữ lạ lên

thuyền đánh cá

Câu 12: Ông/bà cho biết các tín ngưỡng xưa và nay ở địa phương ?

Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay

1.Thờ cúng tổ tiên 5. Thờ tổ nghề

2.Thờ Cá Ông 6. Thờ thần tài

3. Thờ Thành Hoàng Làng 7. Thờ Bác Hồ

4. Thờ người có công 8. Thờ các thần linh khác

Câu 13: Ông/bà cho biết các lễ hội xưa và nay ở địa phương mình ?

Các lễ hội Xƣa Nay Các lễ hội Xƣa Nay

1. Lễ cầu Ngư 4. Lễ hội gắn với thờ tổ nghề

2. Hội đua thuyền 5. Nghi lễ Phật giáo

3. Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

6. Nghi lễ Công giáo

Lễ hội khác (ghi rõ tên lễ hội và nơi diễn ra lễ hội):................................................................

………………………………………………………………………………………………..

Câu 14: Gia đình ông/bà thường chuẩn bị đồ lễ nào sau đây khi thực hành nghi lễ thờ

cúng xưa và nay?

Đồ lễ Xƣa Nay Đồ lễ Xƣa Nay

1. Hoa tươi 4. Trầu cau

2. Ngũ quả 5. Mâm cỗ

3. Đồ mã

Tiền vàng, đồ giấy 6. Rượu, nước

Trang phục 7. Bia, rượu ngoại

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 8. Xôi gà (lợn)

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ

lạnh, điện thoại di động,…)

9. Bánh kẹo

10. Đồ hải sản

Các đồ lễ khác: …………………………………………………………………………

3

Câu 15: Ông/bà cho biết việc thực hành nghi lễ của gia đình mình ở các cơ sở tín

ngưỡng tại địa phương ?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

Câu 16: Xin ông/bà cho biết thành phần tham dự lễ hội ở địa phương hiện nay ?

- Người kinh doanh

- Người làm nghề biển

- Người làm nông nghiệp

- Người làm công nhân khu công nghiệp

- Người trí thức

- Cán bộ, nhân viên nhà nước

- Các thành phần nơi khác đến:…………………………………………………................

Câu 17: Ông/bà cho biết gia đình mình có các phương tiện thông tin truyền thông nào

dưới đây?

Ti vi Số lượng: ..….. Truyền hình cáp

Đài/Radio ; My TV Internet

Câu 18: Ông/bà thường làm gì vào thời gian rỗi ?

- Xem tivi

- Xem truyền hình cáp

- Nghe đài

- Xem My TV

- Truy cập internet

- Đọc sách, báo, tạp chí

- Đi chơi cùng bạn bè

Câu 19: Nếu có xem ti vi, ông/bà thường xem các chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Thời sự/ tin tức

2 Thể thao

3 Ca nhạc

4 Trò chơi giải trí

5 Phim truyện

6 Phổ biến kiến thức

7 Thế giới động vật

8 Vòng quanh thế giới

9 Quảng cáo

10 Khác

Câu 20: Nếu có xem truyền hình cáp hay My TV, ông/bà thường xem chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Phim

2 Ca nhạc

3 Học ngoại ngữ

4 Hoạt hình

5 Trò chơi giải trí

6 Thể thao

7 Thông tin trên thế giới

8 Khác

4

Câu 21: Ông/bà thích nghe thể loại nhạc nào dưới đây?

- Các ca khúc Cách Mạng

- Cải lương, vọng cổ

- Dân ca nói chung

- Dân ca Nghệ Tĩnh

- Nhạc cổ truyền

- Chèo

- Nhạc quốc tế

- Ca khúc VN hiện đại

Câu 22: Ông/bà thích xem thể loại phim nào dưới đây?

- Phim tâm lý-XH Việt Nam

- Phim tâm lý-XH nước ngoài

- Phim hình sự Việt Nam

- Phim hình sự nước ngoài

- Phim truyện đề tài CMVN

- Phim chưởng

- Phim kinh dị

- Phim tài liệu nước ngoài

- Phim giả sử Việt Nam

- Phim giả sử nước ngoài

Câu 23: Ông/bà thường sử dụng Internet cho mục đích gì?

TT Mục đích Có Không

1 Nhận và gửi thư

2 Chat

3 Xem tin tức

4 Học tập

5 Tìm các phần mềm

6 Mua hàng

7 Du lịch/ giải trí

8 Mạng xã hội

9 Khác

Câu 24: Nếu có đọc sách, báo. Ông/bà thường đọc các nội dung nào?

TT Nội dung Có Không

1 Chính trị, xã hội

2 Thể thao

3 Văn hóa, văn học, nghệ thuật

4 Kinh tế, lao động

5 Quảng cáo, rao vặt

6 Tập san, chuyên đề về gia đình, phụ nữ, nam giới

7 Sách phổ biến kiến thức

8 Sách chuyên môn

9 Sách lịch sử, địa lý

10 Khác

Câu 25: Nếu có nghe đài ông/bà thường nghe chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Tin tức

2 Ca nhạc

5

3 Phổ biến kiến thức

4 Thể thao

5 Khác

Câu 26: Ông/bà cho biết làng (khối phố) mình có các điểm sinh hoạt văn hóa, vui chơi,

giải trí nào dưới đây?

- Sân Patin

- Quán Karaoke

- Quán Internet

- Sàn nhảy

- Rạp hát

- Sân thể thao

- Nhà văn hóa

- Điểm bưu điện/Thư viện xã

Câu 27: Ông/bà và các thành viên trong gia đình thường tham gia sinh hoạt nào ở các

thiết chế công cộng?

TT Nội dung Có Không

1 Hát karaoke

2 Đọc sách ở thư viện

3 Mua và đọc báo ở bưu điện

4 Cho trẻ đến khu vui chơi

5 Đánh cầu lông

6 Chơi bóng chuyền

7 Đá bóng

8 Đánh tennis

9 Tập võ

10 Tập dưỡng sinh

11 Trượt patin

12 Sinh hoạt CLB nghệ thuật ở nhà văn hóa

13 Tham gia các cuộc họp tại nhà văn hóa

Câu 28: Ông/bà cho biết về các dịch vụ kinh doanh ở địa phương hiện nay ?

1. Hàng tạp hóa 5. Hàng may mặc

2. Hàng điện tử, điện máy 6. Dịch vụ ăn uống

3. Hàng văn hóa phẩm 7. Kinh doanh vật liệu xây dựng

4. Hàng lương thực, thực phẩm 8. Dịch vụ chăm sóc thẩm mỹ

Các dịch vụ khác: …………………………………………….…………………………

Câu 29: Ông/bà cho biết về việc học ngoại ngữ hiện nay ở địa phương mình?

* Nếu có xin cho biết:

- Ngôn ngữ nước nào:……………………………………............................................

- Đối tượng dự học: ……………………………………………………………………

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà !

6

2.3. KHU KINH TẾ CÔNG NGHIỆP ơ

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU

LỊCH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

Ngày … tháng … năm 2014

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho cộng đồng cư dân khu kinh tế công nghiệp Vũng Áng -xã Kỳ Phương)

Kính thưa ông (bà)!

Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng “Đời sống văn hóa của cư dân

ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong đó tập trung chủ yếu vào

việc nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân sống tại khu kinh tế công

nghiệp (trong đó có xã Kỳ Phương). Rất mong ông (bà) cho biết ý kiến của mình thông qua

việc trả lời các câu hỏi dưới đây:

Ông (bà) nhất trí với ý kiến nào xin đánh dấu (v) vào các ô vuông cùng dòng, nếu

không nhất trí xin để trống. Những câu hỏi được để dấu chấm (…), đề nghị ông (bà) vui

lòng cho biết ý kiến ngắn ngọn.

I. Những thông tin chung

-

- Dân tộc:……………… Tôn giáo: …………...……..…………

- Trình độ học vấn: ………………..; Nghề nghiệp: …………………………….

- Chỗ ở hiện nay: …………………………………………………………………

II. Thông tin điều tra

Câu 1: Ông/bà là người địa phương hay ở nơi khác đến ?

- Người địa phương

- Người nơi khác đến

Từ đâu đến: …...……………………………… Năm đến:……………………

Câu 2: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình trước đây?

- Nông nghiệp

- Buôn bán

- Tự do

- Nghề biển

- Cán bộ viên chức nhà nước

Câu 3: Ông/ bà cho biết nghề mang lại thu nhập chính cho gia đình hiện nay?

- Nghề biển

- Nuôi trồng hải sản

- Kinh doanh hàng ăn

- Cho thuê nhà trọ

- Vận tải phục vụ khu công nghiệp

- Chuyên chở công nhân

- Nghề tự do

- Làm việc trong khu công nghiệp

- Cán bộ viên chức nhà nước

- Nghề khác:....................................

7

Câu 4: Gia đình ông/bà có phòng (nhà) cho thuê trọ không ?

Nếu có, xin cho biết người thuê trọ từ đâu đến ?

Người tron

Câu 5: Việc xây dựng khu công nghiệp trên xã mang lại lợi ích gì cho gia đình ông/bà ?

- Dễ kiếm việc làm hơn

- Dễ kiếm tiền hơn

- Kinh doanh buôn bán dễ hơn

- Người dân trở nên khá giả hơn

Câu 6: Ông/bà cho biết phát triển khu công nghiệp có ảnh hưởng gì đến nghề biển

truyền thống của địa phương?

- Nguồn hải sản gần bờ trở nên khan hiếm

- Nghề biển khó làm ăn hơn

- Người làm nghề biển ít hơn

- Số người làm nghề biển vẫn như trước

- Nghề biển chuyển sang nuôi trồng là

chủ yếu

Câu 7: Ông/bà cho biết phát triển khu công nghiệp tác động đến các yếu tố văn hóa

truyền thống nào?

- Tín ngưỡng

- Phong tục

- Lễ hội truyền thống

- Di tích lịch sử văn hóa

Câu 8: Ông/bà cho biết các phong tục sau sinh xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1.Treo cây dứa dại trước cổng nhà 4. Bán phồng long

2. Để khúc củi cháy dở trước cửa 5. Lễ chẵn tháng

3. Nhúng đứa trẻ xuống nước 6. Lễ chẵn năm

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

………………………………………………………………………………………………..

Câu 9: Ông/bà cho biết phong tục cưới xin xưa và nay ở địa phương mình?

Các nghi lễ Xƣa Nay Các nghi lễ Xƣa Nay

1. Lễ bỏ trầu (dạm ngõ) 5. Lễ cưới Tại gia đình

2. Lễ vấn danh Tại nơi khác (Nhà

hàng, khách sạn…

3. Lễ đi hỏi (nạp tài)

4. Lễ nộp cheo cho làng 6. Lễ lại mặt

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

……………………………………………………………………………………………......

Câu 10: Ông/bà cho biết phong tục ma chay xưa và nay ở địa phương mình?

Các phong tục Xƣa Nay Các phong tục Xƣa Nay

1. Che mặt người chết 9. Cúng tuần

2. Khâm liệm 10. Cúng 49 ngày

3. Nhạc hiếu 11. Lên chùa

4. Thầy cúng làm lễ 12. Cúng 100 ngày

8

5. Xem giờ phát tang 13. Giỗ đầu

6. Xem giờ hạ huyệt 14. Giỗ hết

7. Tang phục 15. Sang cát/thay áo (Bốc mộ)

8.Cúng 03 ngày

Phong tục và nghi lễ khác (nếu có):.........................................................................................

……………………………………………………………......................................................

Câu 11: Ông/bà cho biết những nghi lễ, phong tục trong nghề đánh bắt xưa và nay ở địa

phương mình ?

Các nghi lễ và phong tục Xƣa Nay Các nghi lễ và phong tục

1. Cúng lưới mới 6. Kiêng đếm lưới

2. Cúng thuyền ra khơi 7. Chọn ngày đi biển

3.Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 8. Kiêng bước qua mũi thuyền

4. Tục phóng sinh cá (ở mẻ cá đầu của

thuyền mới, lưới mới)

9. Kiêng gặp phụ nữ trên đường đi

đánh cá

5. Kiêng đánh cá vào ngày cá vượt

Vũ môn (ngày 8/4)

10. Kiêng để phụ nữ lạ lên thuyền

đánh cá

Câu 12: Ông/bà cho biết các tín ngưỡng xưa và nay ở địa phương ?

Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay

1.Thờ cúng tổ tiên 5. Thờ tổ nghề

2.Thờ Cá Ông 6. Thờ thần tài

3. Thờ Thành Hoàng Làng 7. Thờ Bác Hồ

4. Thờ người có công 8. Thờ các thần linh khác

Câu 13: Ông/bà cho biết các lễ hội xưa và nay ở địa phương mình?

Các lễ hội Xƣa Nay Các lễ hội Xƣa Nay

1. Lễ cầu Ngư 4. Lễ hội thờ tổ nghề

2. Hội đua thuyền 5. Nghi lễ Phật giáo

3. Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

6. Nghi lễ Công giáo

Lễ hội khác (ghi rõ tên lễ hội và nơi diễn ra lễ hội):................................................................

Câu 14: Gia đình ông/bà thường chuẩn bị đồ lễ nào sau đây khi thực hành nghi lễ thờ

cúng xưa và nay?

Đồ lễ Xƣa Nay Đồ lễ Xƣa Nay

1. Hoa tươi 4. Trầu cau

2. Ngũ quả 5. Mâm cỗ

3. Đồ mã

Tiền vàng, đồ giấy 6. Rượu, nước

Trang phục 7. Bia, rượu ngoại

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 8. Xôi gà (lợn)

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ

lạnh, điện thoại di động,…)

9. Bánh kẹo

10. Đồ hải sản

Các đồ lễ khác: ………………………………………………………………………….

Câu 15: Ông/bà cho biết việc thực hành nghi lễ của gia đình mình ở các cơ sở tín

ngưỡng tại địa phương ?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ

9

Câu 16: Xin ông/bà cho biết thành phần tham dự lễ hội ở địa phương hiện nay ?

- Người kinh doanh

- Người làm nghề biển

- Người làm nông nghiệp

- Người làm công nhân khu công nghiệp

- Người trí thức

- Cán bộ, nhân viên nhà nước

- Các thành phần nơi khác đến:…………………………………………………..........

Câu 17: Ông/bà cho biết gia đình mình có các phương tiện thông tin truyền thông nào

dưới đây?

Ti vi ; Số lượng: ..….. Truyền hình cáp

Đài/Radio My TV

Câu 18: Ông/bà thường làm gì vào thời gian rỗi ?

- Xem tivi

- Xem truyền hình cáp

- Nghe đài

- Xem My TV

- Truy cập internet

- Đọc sách, báo, tạp chí

- Đi chơi cùng bạn bè

Câu 19: Nếu có xem ti vi, ông/bà thường xem các chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Thời sự/ tin tức

2 Thể thao

3 Ca nhạc

4 Trò chơi giải trí

5 Phim truyện

6 Phổ biến kiến thức

7 Thế giới động vật

8 Vòng quanh thế giới

9 Quảng cáo

10 Khác

Câu 20: Nếu có xem truyền hình cáp hay My TV, ông/bà thường xem chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Phim

2 Ca nhạc

3 Học ngoại ngữ

4 Hoạt hình

5 Trò chơi giải trí

6 Thể thao

7 Thông tin trên thế giới

8 Khác

10

Câu 21: Ông/bà thích nghe thể loại nhạc nào dưới đây?

- Các ca khúc Cách Mạng

- Cải lương, vọng cổ

- Dân ca nói chung

- Dân ca Nghệ Tĩnh

- Nhạc cổ truyền

- Chèo

- Nhạc quốc tế

- Ca khúc VN hiện đại

Câu 22: Ông/bà thích xem thể loại phim nào dưới đây?

- Phim tâm lý-XH Việt Nam

- Phim tâm lý-XH nước ngoài

- Phim hình sự Việt Nam

- Phim hình sự nước ngoài

- Phim truyện đề tài CMVN

- Phim chưởng

- Phim kinh dị

- Phim tài liệu nước ngoài

- Phim giả sử Việt Nam

- Phim giả sử nước ngoài

Câu 23: Ông/bà thường sử dụng Internet cho mục đích gì?

TT Mục đích Có Không

1 Nhận và gửi thư

2 Chat

3 Xem tin tức

4 Học tập

5 Tìm các phần mềm

6 Mua hàng

7 Du lịch/ giải trí

8 Mạng xã hội

9 Khác

Câu 24: Nếu có đọc sách, báo. Ông/bà thường đọc các nội dung nào?

TT Nội dung Có Không

1 Chính trị, xã hội

2 Thể thao

3 Văn hóa, văn học, nghệ thuật

4 Kinh tế, lao động

5 Quảng cáo, rao vặt

6 Tập san, chuyên đề về gia đình, phụ nữ, nam giới

7 Sách phổ biến kiến thức

8 Sách chuyên môn

9 Sách lịch sử, địa lý

10 Khác

Câu 25: Nếu có nghe đài ông/bà thường nghe chương trình nào?

TT Chƣơng trình Có Không

1 Tin tức

2 Ca nhạc

3 Phổ biến kiến thức

11

4 Thể thao

5 Khác

Câu 26: Ông/bà cho biết làng (khối phố) mình có các điểm sinh hoạt văn hóa, vui

chơi, giải trí nào dưới đây?

- Sân Patin

- Quán Karaoke

- Quán Internet

- Sàn nhảy

- Rạp hát

- Sân thể thao

- Nhà văn hóa

- Điểm bưu điện/Thư viện xã

Câu 27: Ông/bà và các thành viên trong gia đình thường tham gia sinh hoạt nào ở các

thiết chế công cộng?

TT Nội dung Có Không

1 Hát karaoke

2 Đọc sách ở thư viện

3 Mua và đọc báo ở bưu điện

4 Cho trẻ đến khu vui chơi

5 Đánh cầu lông

6 Chơi bóng chuyền

7 Đá bóng

8 Đánh tennis

9 Tập võ

10 Tập dưỡng sinh

11 Trượt patin

12 Sinh hoạt CLB nghệ thuật ở nhà văn hóa

13 Tham gia các cuộc họp tại nhà văn hóa

Câu 28: Ông/bà cho biết về các dịch vụ kinh doanh ở địa phương hiện nay ?

1. Hàng tạp hóa 5. Hàng may mặc

2. Hàng điện tử, điện máy 6. Dịch vụ ăn uống

3. Hàng văn hóa phẩm 7. Kinh doanh vật liệu xây dựng

4. Hàng lương thực, thực phẩm 8. Dịch vụ chăm sóc thẩm mỹ

Các dịch vụ khác: …………………………………………….…………………………

Câu 29: Ông/bà cho biết về việc học ngoại ngữ hiện nay ở địa phương mình?

* Nếu có xin cho biết:

- Ngôn ngữ nước nào:……………………………………...........................

- Đối tượng dự học: ………………………………………………………..

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà !

12

PHỤ LỤC 3a

DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN PHỎNG VẤN

TT Họ và tên Tuổi Giới

tính Địa chỉ

Ngày

phỏng vấn

1 Lưu Thị Biên 55 Nữ Thôn Hoa Thành, xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 12/01/2014

2 Nguyễn Thị Bé 72 Nữ Thôn Hoa Thành, xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 18/04/2014

3 Lê Hửu Phước 52 Nam

Tổ dân phố Song Yên, thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

16/04/2014

4 Hoàng Minh 79 Nam Thôn Thắng Lợi, xã Kỳ Phương,

huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

5 Lê Thị Chắt 78 Nữ Thôn Giang Hà, xã Thạch Kim,

huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 12/01/2014

6 Lưu Đạt 45 Nam Thôn Long Hải, Xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 12/01/2014

7 Lê Quyết Diễn 40 Nam Trưởng ban Văn hóa xã kỳ Lợi,

huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 18/08/2014

8 Nguyễn Thị Trang 38 Nữ

Trưởng ban Văn hóa thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

10/08/2014

9 Nguyễn Đình Hà 62 Nam Thôn Thắng Lợi, xã Kỳ Phương,

huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

10 Lưu Văn Nam 55 Nam Thôn Hoa Thành, Xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 18/04/2014

13

11 Lê Thị Hà 46 Nữ

Tổ dân phố Trần Phú, thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

16/04/2014

12 Phạm Danh Cường 48 Nam Trưởng Đài phát thanh truyền

hình huyện Cẩm xuyên, Hà Tĩnh 16/04/2014

13 Hồ Xuân Hải 36 Nam Trưởn phòng Văn hóa và Thông

tin huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 18/04/2014

14 Hoàng Tiến Đạt 45 Nam Giám đốc Viettel, chi nhánh

huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

15 Lê Văn Hưu 68 Nam

Tổ dân phố Song Yên, thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

16/04/2014

16 Lê Văn Yên 68 Nam

Tổ dân phố Song Yên, thị trấn

Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

16/04/2014

17 Phan Văn Nhàn 52 Nữ Trưởng ban xây dựng nông thôn

mới huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 18/04/2014

18 Nguyễn Tiến Trung 36 Nam Trưởng công an xã Kỳ Phương,

huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

19 Hà Thị Liên 36 Nữ Cán bộ Bưu điện xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 18/04/2014

20 Nguyễn Thị Nguyệt 58 Nữ Thôn Liên Phú, xã Kỳ Liên,

huyện Kỳ Anh, Hà Tình 26/04/2014

21 Lê Tiến 51 Nam

Thôn Lâm Hoãn, xã Cẩm

Nhượng, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

22/02/2014

14

22 Lê Thi Nhàn 48 Nữ Thôn Hồng Hải 1, xã Kỳ

Phương, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

23 Nguyễn Tiến Lâm 56 Nam Trưởng ban văn hóa xã Kỳ

Phương, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 12/06/2014

24 Nguyễn Thị Lý 75 Nữ Thôn Hoa Thành, Xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 06/04/2014

25 Nguyễn Thị Vân 46 Nữ Thôn Xuân Phượng, xã Thạch

Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh 06/04/2014

26 Hoàng Trọng Mậu 65 Nam Thôn Thắng lợi, xã Kỳ Phương,

huyện Kỳ Anh 12/06/2014

27 Nguyễn Tiến Anh 41 Nam

Trưởng ban văn hóa xã Cẩm

Nhượng, huyện Cẩm Xuyên,

Hà Tĩnh

26/10/2014

28 Lê Bá Diễn 84 Nam Thôn Trường Hải, xã Xuân Hải,

huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh 21/4/2014

15

PHỤ LỤC 3b

GIẢI TRÌNH VÀ TỔNG HỢP THÔNG TIN TỪ PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

1. Trƣờng hợp lựa chọn phát phiếu

Để tìm hiểu và đánh giá khách quan về thực trạng “Đời sống văn hóa của cư

dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong đó tập trung

chủ yếu vào việc nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân sống

tại 03 khu phát triển kinh tế khác nhau: 1/ Khu kinh tế đánh bắt (tiêu biểu là địa bàn

xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà); 2/Khu kinh tế du lịch (tiêu biểu là khu du lịch Thiên

Cầm, huyện Cẩm Xuyên); 3/. Khu kinh tế công nghiệp (tiêu biểu là khu công

nghiệp Vũng Áng, huyện Kỳ Anh). Sở dĩ tác giả luận án lựa chọn 03 trường hợp

nêu ra trên đây để thực hiện chương trình phát phiếu trưng cầu ý kiến cộng đồng là

vì: trên thực tế, như đã nêu trong phần 1.3. của chương 1, tình hình đặc điểm công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng ven biển Hà Tĩnh đã được phân định chi tiết trong

Quy hoạch tổng thể Phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2050 (do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày ngày 27/11/2012). Do đó

các xã và thị trấn mà tác giả lựa chọn để trưng cầu ý kiến và khảo sát sâu là những

xã điển hình ở mỗi khu kinh tế theo như quy hoạch của tỉnh: xã Thạch Kim, huyện

Lộc Hà là xã điển hình về tập trung CNH, HĐH nghề đánh bắt; khu du lịch Thiên

Cầm (thị trấn Thiêm Cầm), huyện Cẩm Xuyên, là điểm điển hình cho phát triển du

lịch ở khu kinh tế du lịch; xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh là 1 trong 5 xã ven biển

của huyện Kỳ Anh nằm trong khu công nghiệp Vũng Áng và có những thay đổi

mạnh mẽ trước những tác động của khu công nghiệp, đồng thời trước khi CNH,

HĐH diễn ra Kỳ Phương là xã có số lượng cư dân làm nghề đánh bắt khá lớn.

2. Thông tin chung về phiếu

2.1. Mẫu phiếu: Mẫu phiếu được tác giả luận án tự xây dựng trên cơ sở các

nội dung mà luận án tập trung nghiên cứu.

2.2. Đối tượng phát phiếu: Nhóm cư dân địa phương đã định cư ở vùng ven

biển Hà Tĩnh trước khi có CNH, HĐH (cư dân tại chỗ)

16

2.3. Cách thức phát phiếu: Phiếu trưng cầu ý kiến được phát ra một cách

ngẫu nhiên, trong đó độ tuổi tập trung phát phiếu với số lượng nhiều trong khoảng

từ 25 đến 45 tuổi. Về cơ bản là trong độ tuổi lao động chiếm số lượng lớn. Để triển

khai thực hiện phát phiếu, tác giả luận án đã phối hợp với các cán bộ quản lý ở địa

phương, thành phần gồm lãnh đạo cấp xã và trưởng các thôn, xóm. Do vậy, số

lượng phiếu được phát ra tại các gia đình là chính.

2.4. Thời gian thực hiện phát phiếu: Tháng 2 năm 2014.

2.5. Số lượng phiếu và địa điểm phát phiếu

* Số lượng phiếu:

- Tổng số phiếu phát ra: 750 phiếu chia đều cho ba khu kinh tế, mỗi khu

được phát ra 250 phiếu

- Tổng số phiếu thu về: 700 phiếu/3 khu kinh tế. Trong đó:

+ Khu kinh tế đánh bắt: 239 phiếu

+ Khu kinh tế du lịch: 238 phiếu

+ Khu kinh tế công nghiệp: 223 phiếu

* Địa điểm thực hiện phát phiếu:

- Khu kinh tế đánh bắt: Xã Thạch Kim, huyện Lộc Hà.

- Khu kinh tế du lịch: Khu du lịch Thiên Cầm, thị trấn Thiên Cầm, huyện

Cẩm Xuyên.

- Khu kinh tế công nghiệp: Xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh.

2.6. Tỷ lệ phần trăm phiếu được tính để đưa vào nội dung luận án: Là tỷ lệ

phần trăm được tính trên cơ sở số phiếu thu về ở mỗi khu kinh tế.

17

PHỤ LỤC 4 - KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Phụ lục 4.1 – Sinh hoạt các tín ngƣỡng

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Thờ Cá Ông 182/239 76.1 162/239 67.7

2 Thờ Thành Hoàng Làng 92/239 38.4 79/239 33

3 Thờ người có công 218/239 91.2 220/239 92

4 Thờ tổ nghề 55/239 23 43/239 17.9

5 Thờ cúng tổ tiên 212/239 88.7 215/239 89.9

6 Thờ thần tài 20/239 8.3 108/239 45.1

7 Thờ Bác Hồ 85/239 35.5 222/239 92.8

8 Thờ các thần linh khác 87/239 36.4 127/239 53.1

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các tín ngƣỡng, tôn giáo Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Thờ Cá Ông 89/238 37.3 19/238 8

2 Thờ Thành Hoàng Làng 49/238 20.5 58/238 24.3

3 Thờ người có công 78/238 32.7 76/238 31.1

4 Thờ tổ nghề 28/238 11.7 23/238 9.6

5 Thờ cúng tổ tiên 215/238 90.3 226/238 95

6 Thờ thần tài 11/238 4.6 83/238 34.8

7 Thờ Bác Hồ 98/238 41.1 231/238 97

8 Thờ các thần linh khác 67/238 28.1 78/238 32.7

Ở khu kinh tế công nghiêp

TT Các tín ngƣỡng, tôn giáo

Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ

%

Số phiếu Tỷ lệ %

1 Thờ Cá Ông 55/223 24.6 0/223 0

2 Thờ Thành Hoàng Làng 98/223 43.9 82/223 36.7

3 Thờ người có công 126/223 56.5 149/223 68.8

4 Thờ tổ nghề 12/223 5.3 9/223 4

5 Thờ cúng tổ tiên 223/223 100 223/223 100

6 Thờ thần tài 20/223 8.9 158/223 70.8

7 Thờ Bác Hồ 79/223 35.4 219/223 98.2

8 Thờ các thần linh khác 109/223 48.8 207/223 92.8

18

Phụ lục 4.2 - Mức độ thực hành tín ngƣỡng của các gia đình ở các cơ sở tín

ngƣỡng của vùng

TT Mức độ tham gia

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Rất thường xuyên (rằm,

mồng một, lễ tết)

82,4 79,8 69,5

2 Thỉnh thoảng 11,2 11,9 25,2

3 Chưa bao giờ 6,4 8,3 5,3

Phụ lục 4.3 - Số gia đình đi lễ ở các đình (đền) ngoại tỉnh

TT Phần trả lời

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Có 68,3 58,6 65,1

2 Không 31,7 41,4 34,9

19

Phụ lục 4.4a - Lễ vật dâng cúng tổ tiên của các gia đình vào dịp giỗ, tết

Khu kinh tế đánh bắt

TT Đồ lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

1 Hoa tươi 91/239 38 215/239 89.9

2 Ngũ quả 115/239 48.1 201/239 84.1

3 Đồ

Tiền vàng, đồ giấy 96/239 40.1 153/239 64

Trang phục 78/239 32.6 137/239 57.3

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 0/239 0 142/239 59.4

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ lạnh,

điện thoại di động,…)

0/239 0 149/239 62.3

4 Trầu cau 142/239 59.4 196/239 82

5 Rượu, nước 176/239 73.6 185//239 77.4

6 Bia, rượu ngoại 48/239 20 122/239 51

7 Xôi gà (lợn) 125/239 52.3 204/239 85.3

8 Bánh kẹo 99/239 41.4 170/239 71.1

9 Mâm cỗ 75/23 31.3 201/239 84.1

10 Đồ hải sản 117/239 48.9 193/239 80.7

Khu kinh tế du lịch

TT Đồ lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

1 Hoa tươi 79/238 33.1 230/238 96.6

2 Ngũ quả 175/238 73.5 235/238 98.7

3 Đồ

Tiền vàng, đồ giấy 17/238 7.1 40/238 16.8

Trang phục 10/238 4.2 138/238 57.9

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 0/238 0 169/238 71.0

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ

lạnh, điện thoại di động,…)

0/238 0 175/238 73.5

4 Trầu cau 35/238 14.7 40/238 16.8

20

5 Rượu, nước 217/238 91.1 230/238 96.6

6 Bia 72/238 30.2 223/238 93.6

7 Xôi gà (lợn) 22/238 9.2 121/238 50.8

8 Bánh kẹo 211/238 88.6 221/238 92.8

9 Mâm cỗ 69/238 28.9 226/238 95

10 Đồ hải sản 158/238 66.3 161/238 67.6

11 Trống 3/238 1.26 3/238 1.26

Khu kinh tế công nghiệp

TT Đồ lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

Số

phiếu

Tỷ

lệ

%

1 Hoa tươi 72/223 32.2 219/223 98.2

2 Ngũ quả 69/223 28.9 221/223 99.1

3

Đồ

Tiền vàng, đồ giấy 75/223 33.6 183/223 82,0

Trang phục 16/223 7.1 162/223 72.6

Phương tiện đi lại (ô tô, xe máy…) 0/223 0 178/223 79.8

Các đồ dùng khác (ti vi, tủ lạnh,

điện thoại di động,…)

0/223 0 165/223 73.9

4 Trầu cau 78/223 34.9 188/223 84.3

5 Rượu, nước 107/223 47.9 220/223 98.6

6 Bia 42/223 18.8 98/223 43.9

7 Xôi gà (lợn) 78/223 34.9 118/223 52.9

8 Bánh kẹo 67/223 30 174/223 78

9 Mâm cỗ 96/223 43 168/223 75.3

10 Đồ hải sản 112/223 50.2 176/223 78.9

21

Phụ lục 4.4b - Thực hành các lễ hội xƣa và nay

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các lễ hội

Xƣa Nay

Số

phiếu Tỷ lệ %

Số

phiếu Tỷ lệ %

1 Lễ cầu Ngư 198/239 82.8 196/239 82

2 Hội đua thuyền 207/239 86.6 175/239 73.2

3 Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

203/239 84.9 211/239 88.2

4 Lễ hội thờ tổ nghề 67/239 28 39/239 16.3

5 Nghi lễ Phật giáo 201/239 84.1 222/239 92.8

6 Nghi lễ Công giáo 189/239 79 211/239 88.2

7 Lễ kỳ phúc lục ngoạt 193/239 80.7 218/239 91.2

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các lễ hội

Xƣa Nay

Số

phiếu Tỷ lệ %

Số

phiếu Tỷ lệ%

1 Lễ cầu Ngư 186/238 78.1 130/238 54.6

2 Hội đua thuyền 218/238 91.5 198/238 83.1

3 Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

68/238 28.5 78/238 32.7

4 Lễ hội thờ tổ nghề 10/238 4.2 5/238 2.1

5 Nghi lễ Phật giáo 121/238 50.8 124/238 52.1

6 Nghi lễ Công giáo 178/238 74.7 208/238 87.3

7 Lễ kỳ phúc lục ngoạt 143/238 60.0 178/238 74.7

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT Các lễ hội

Xƣa Nay

Số

phiếu Tỷ lệ %

Số

phiếu Tỷ lệ %

1 Lễ cầu Ngư 45/223 20.1 28/223 12.5

2 Hội đua thuyền 46/223 20.6 16/223 7.17

3 Lễ hội tưởng niệm anh hùng

dân tộc (nhân vật lịch sử)

136/223 60.9 148/223 66.3

4 Lễ hội thờ tổ nghề 19/223 8.5 5/223 2.24

5 Nghi lễ Phật giáo 24/223 10.7 24/223 10.7

6 Nghi lễ Công giáo 19/223 8.5 18/223 8

7 Lễ kỳ phúc lục ngoạt 43/223 19.2 38/238 17.0

22

Phụ lục 4.5 - Thành phần cƣ dân tham dự lễ hội ở ba khu kinh tế

Thành phần cƣ dân

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Kinh doanh 79 97.8 40,8

2 Nghề biển 86,1 97 1,7

3 Nông nghiệp 37,2 6,3 50,6

4 Công nhân 6,27 14,7 11,2

5 Trí thức 35,5 71 30,4

6 Công chức viên chức 48,1 67,2 33,6

7 Khách thập phương 83,2 71 56,5

23

Phụ lục 4.6 – Thực hành phong tục sinh đẻ xƣa và nay

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Treo cây dứa dại trước cổng 72/239 30.1 63/239 26.3

2 Để khúc củi cháy dở trước cửa 67/239 28 24/239 10

3 Nhúng đứa trẻ xuống nước 34/239 14.2 0/239 0

4 Tục dội gáo nước lên mái nhà

(khi sinh đứa trẻ) 92/239 38.4 0/239 0

5 Cúng Bà Mụ 0/239 0 0/239 0

6 Bán phồng long 143/239 59.8 172/239 71.9

7 Lễ chẵn tháng 43/239 17.9 173/239 72.3

8 Lễ chẵn năm 12/239 5 132/239 55.2

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Treo cây dứa dại trước cổng nhà 178/238 74.7 66/238 27.7

2 Để khúc củi cháy dở trước cửa 112/238 47.2 26/238 11

3 Nhúng đứa trẻ xuống nước 47/238 19.7 0/238 0

4 Tục dội gáo nước lên mái nhà

(khi sinh đứa trẻ) 89/238 0/238 0

5 Cúng Bà Mụ 0/238 0 0/238 0

6 Bán phồng long 87/238 36.5 97/238 40.7

7 Lễ chẵn tháng 35/238 14.7 205/238 86.1

8 Lễ chẵn năm 32/238 13.4 99/238 41.5

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Treo cây dứa dại trước cổng nhà 89/223 39.9 15/223 6.7

2 Để khúc củi cháy dở trước cửa 65/223 29.1 9/223 4,0

3 Nhúng đứa trẻ xuống nước 19/223 8.5 0/223 0

4 Tục dội gáo nước lên mái nhà

(khi sinh đứa trẻ) 75/223 33.6 0/223 0

5 Cúng Bà Mụ 0/223 0 0/223 0

6 Bán phồng long 32/223 14.3 114/223 51.1

7 Lễ chẵn tháng 27/223 12.1 164/223 73.5

8 Lễ chẵn năm 5/223 2.2 150/223 67.2

24

Phụ lục 4.7 - Thực hành phong tục cƣới xin xƣa và nay

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các nghi lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

1 Lễ bỏ trầu (chạm ngõ, dạm ngõ) 157/239 65.6 222/239 92.8

2 Lễ vấn danh 193/239 80.7 89/239 37.2

3 Lễ hỏi 212/239 88.7 222/239 92.8

4 Lễ nộp cheo cho làng 201/239 84.1 0/239 0

5 Lễ cưới Tại gia đình, hội quán 172/239 71.9 24/239 10

Tại nơi khác (Nhà hàng,

khách sạn…

2/239 0.8 209/239 87.4

6 Lễ lại mặt 203/239 84.9 217/239 90.7

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các nghi lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

1 Lễ bỏ trầu (dạm ngõ) 228/238 95.7 230/238 96.6

2 Lễ vấn danh 149/238 62.2 15/238 6.3

3 Lễ hỏi 191/238 80.2 218/238 91.5

4 Lễ nộp cheo cho làng 91/238 38.0 0/238 0

5 Lễ cưới Tại gia đình, hội quán 232/238 97.4 170/238 71.4

Tại nơi khác (Nhà hàng,

khách sạn…

11/238 4.6 68/238 28.5

6 Lễ lại mặt 117/238 49.1 226/238 95

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT Các nghi lễ

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

1 Lễ bỏ trầu (dạm ngõ) 222/223 99.5 211/223 94.6

2 Lễ vấn danh 207/223 92.8 40/223 17.9

3 Lễ hỏi 205/223 91.9 191/223 85.6

4 Lễ nộp cheo cho làng 119/223 53.3 0 /223 0

5 Lễ cưới Tại gia đình, hội quán 223/223 100 138/223 61.8

Tại nơi khác (Nhà hàng,

khách sạn…

0/223 0 85/223 38.1

6 Lễ lại mặt 194/223 86.9 192/223 86

25

Phụ lục 4.8 - Thực hành phong tục ma chay xƣa và nay

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Che mặt người chết 217/239 90.7 217/239 90.7

2 Khâm niệm 232/239 97 232/239 97

3 Nhạc hiếu 118/239 49.3 122/239 51

4 Thầy cúng làm lễ 208/239 87 202/239 84.5

5 Xem giờ phát tang 163/239 68.2 153/239 64

6 Xem giờ hạ huyệt 120/239 50.2 119/239 49.7

7 Tang phục 183/239 76.5 180/239 75.3

8 Cúng 03 ngày 175/239 73.2 180/239 75.3

9 Cúng tuần 10/239 4.2 10/239 4.2

10 Cúng 49 ngày 112/239 46.8 167/239 69.7

11 Lên chùa 0/239 0 0/239 0

12 Cúng 100 ngày 203/239 84,9 205/239 85.7

13 Giỗ đầu 175/239 73.2 184/239 76.9

14 Giỗ hết 192/239 80.3 210/239 87.8

15 Sang cát/thay áo (Bốc mộ) 207/239 86.8 207/239 86.8

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Che mặt người chết 220/238 92.4 235/238 98.7

2 Khâm niệm 232/238 97.4 238/238 100

3 Nhạc hiếu 194/238 56.3 235/238 98.7

4 Thầy cúng làm lễ 235/238 98.7 235/238 98.7

5 Xem giờ phát tang 124/238 52.1 235/238 98.7

6 Xem giờ hạ huyệt 123/238 51.6 235/238 98.7

7 Tang phục 205/238 86.1 233/238 97.8

8 Cúng 03 ngày 187/238 78.5 191/238 80.1

9 Cúng tuần 43/238 18 40/238 16.8

26

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

10 Cúng 49 ngày 196/238 82.2 209/238 87.7

11 Lên chùa 10/238 4.2 25/238 10.5

12 Cúng 100 ngày 203/238 85.2 233/238 97.7

13 Giỗ đầu 178/238 74.8 196/238 82.2

14 Giỗ hết 218/238 91.5 230/238 96.6

15 Sang cát/thay áo (Bốc mộ) 198/238 83.1 232/238 97.4

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT Các phong tục Xƣa Nay

Số phiếu Tỷ lệ % Số phiếu Tỷ lệ %

1 Che mặt người chết 161/223 72.1 191/223 85.6

2 Khâm lượm 113/223 50.6 113/223 50.6

3 Nhạc hiếu 183/223 82 193/223 86.5

4 Thầy cúng làm lễ 221/223 99.1 221/223 99.1

5 Xem giờ phát tang 189/223 84.7 219/223 98.2

6 Xem giờ hạ huyệt 213/223 95.5 223/223 100

7 Tang phục 170/223 76.2 200/223 89.6

8 Cúng 03 ngày 217/223 97.3 217/223 97.3

9 Cúng tuần 10/223 4.48 10/223 4.48

10 Cúng 49 ngày 223/223 100 223/223 100

11 Lên chùa 0/223 0 8/223 3.58

12 Cúng 100 ngày 223/223 100 223/223 100

13 Giỗ đầu 219/223 98.2 219/223 98.2

14 Giỗ hết 218/223 97.7 218/223 97.7

15 Sang cát/thay áo (Bốc mộ) 208/223 93.2 208/223 93.2

27

Phụ lục 4.9 - Thực hành phong tục đánh bắt xƣa và nay

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Các nghi lễ và phong tục

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

1 Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 203/239 84.9 189/239 79

2 Cúng lưới mới 75/239 31.3 11/239 4.6

3 Cúng thuyền ra khơi 112/239 46.8 113/239 47.3

4 Tục phóng sinh cá (mẻ cá đầu của

thuyền mới hoặc lưới mới)

72/239 30.1 27/239 11.2

5 Kiêng không đếm lưới 92/239 38.4 17/239 7.1

6 Kiêng đi đánh cá gặp phụ nữ 117/239 48.9 44/239 18.4

7 Kiêng không bước qua mũi thuyền 119/239 49.7 139/239 58.1

8 Kiêng phụ nữ lạ leo lên tàu đánh cá 104/239 47.6 34/239 14.3

9 Kiêng đánh cá vào ngày cá vượt vũ

môn (ngày 8/4)

86/239 35.9 62/239 25.9

10 Chọn ngày đi biển 0/239 0 0/239 0

Ở khu kinh tế du lịch

TT Các nghi lễ và phong tục

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu Tỷ lệ

%

1 Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 95/238 39.9 50/238 21

2 Cúng lưới mới 68/238 28.5 18/238 7.5

3 Cúng thuyền ra khơi 135/238 56.7 18/238 7.5

4 Tục phóng sinh cá (mẻ cá đầu của

thuyền mới hoặc lưới mới)

167/238 70.1 159/238 66.8

5 Kiêng không đếm lưới 68/238 28.5 53/238 22.2

6 Kiêng đi đánh cá gặp phụ nữ 101/238 42.4 21/238 8.8

7 Kiêng không bước qua mũi thuyền 102/238 42.8 98/238 41.1

8 Kiêng phụ nữ lạ lên tàu đánh cá 93/238 39 22/238 9.2

9 Kiêng đánh cá vào ngày cá vượt vũ môn 82/238 34.4 73/238 30.6

10 Chọn ngày đi biển 0/238 0 0/238 0

28

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT Các nghi lễ và phong tục

Xƣa Nay

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

Số

phiếu

Tỷ lệ

%

1 Cúng thuyền mới (lễ hạ thuyền) 165/223 73.9 56/223 25.1

2 Cúng lưới mới 86/223 38.5 15/223 6.7

3 Cúng thuyền ra khơi 37/223 16.5 29/223 13

4 Tục phóng sinh cá (mẻ cá đầu của

thuyền mới hoặc lưới mới)

35/223 15.6 16/223 7.17

5 Kiêng không đếm lưới 101/223 45.2 17/223 7.6

6 Kiêng đi đánh cá gặp phụ nữ 105/223 47.0 11/223 4.9

7 Kiêng không bước qua mũi thuyền 66/223 29.5 43/223 19.2

8 Kiêng phụ nữ lạ leo lên tàu đánh cá 45/223 20.1 17/223 7.4

9 Kiêng đánh cá vào ngày cá vượt vũ

môn (ngày 8/4)

96/223 43 15/223 6.7

10 Chọn ngày đi biển 0/223 0 0/223 0

29

Phụ lục 4.10 - Tỷ lệ lắp đặt các phƣơng tiện truyền thông

của cƣ dân ở ba khu kinh tế

Khu kinh tế đánh bắt

TT Các phƣơng tiện truyền thông Số phiếu Tỷ lệ %

1

Ti vi

1 ti vi 196/239 82

2 ti vi 6/239 2,5

3 ti vi 1/239 0,4

2 Truyền hình cáp 146/239 61,0

3 My T.V 129/239 53,9

4 Internet 58/239 24,2

5 Đài 3/239 1,2

6 Trống (không trả lời) 9/239 3,7

Khu kinh tế du lịch

TT Phƣơng tiện truyền thông Số phiếu Tỷ lệ %

1

Ti vi

1 ti vi 39/238 16,3

2 2 ti vi 168/238 70,5

3 3 ti vi 28/238 11,7

4 Truyền hình cáp 166/238 69,7

5 My T.V 198/238 83,1

6 Internet 60/238 25,2

7 Đài 0/238 0

Khu kinh tế công nghiệp

TT Phƣơng tiện truyền thông Số phiếu Tỷ lệ %

1

Ti vi

1 ti vi 171/223 76,6

2 2 ti vi 36/223 16,1

3 3 ti vi 5/223 2,24

4 Truyền hình cáp 160/223 71,7

5 My T.V 186/223 83,4

6 Internet 103/223 46,1

7 Đài 1/223 0,4

8 Trống (không ý kiến) 3/223 1,3

30

Phụ lục 4.11 - Nhu cầu, mức độ sử dụng và các phƣơng tiện tiêu dùng văn hóa

của các gia đình

Ở khu kinh tế đánh bắt

TT Tên phƣơng tiện

Nhu cầu

sử dụng

(Tỷ lệ %)

Mức độ sử dụng

Hàng ngày

(Tỷ lệ %)

Thỉnh

thoảng

(Tỷ lệ %)

Rất ít

(Tỷ lệ %)

1 Ti vi 89,9 79,6 17,5 0,8

2 Truyền hình cáp 61,9 79,3 28,2 0,9

3 My T.V 68,2 17,3 55,8 21,8

4 Internet 28,4 69 22 11,2

5 Đọc sách báo (giấy) 43,9 8,9 34,8 55,8

6 Đài 3,3 2,9 0,4 0

Ở khu kinh tế du lịch

TT Tên phƣơng tiện

Nhu cầu

sử dụng

(Tỷ lệ %)

Mức độ sử dụng

Hàng ngày

(Tỷ lệ %)

Thỉnh

thoảng

(Tỷ lệ %)

Rất ít

(Tỷ lệ %)

1 Ti vi 93,6 92,9 4,8 0

2 Truyền hình cáp 3,36 3,2 35,2 62,5

3 My T.V 7,2 6,8 0,4 13,5

4 Internet 6,5 69,5 29,3 0, 8

5 Đọc sách báo (giấy) 4,2 3,2 27,5 58,3

6 Đài 0 0 0 0

Ở khu kinh tế công nghiệp

TT

Tên phƣơng tiện

Nhu cầu

sử dụng

(Tỷ lệ %)

Mức độ sử dụng

Hàng ngày

(Tỷ lệ %)

Thỉnh

thoảng

(Tỷ lệ %)

Rất ít

(Tỷ lệ %)

1 Ti vi 59,6 98,7 1,3 0

2 Truyền hình cáp 45,2 66,3 22,2 11,5

3 My T.V 68,3 65,2 22,4 12,4

4 Internet 52,4 87,8 8,9 3,3

5 Đọc sách báo (giấy) 30,0 11,2 32,1 55,8

6 Đài 2,2 0 0 0

31

Phụ lục 4.12 - Các loại nhạc đƣợc cƣ dân lựa chọn tiêu dùng hiện nay

TT Các loại nhạc

Khu kinh tế

đanh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh

tế du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Ca khúc cách mạng 56,9 78,5 70,4

2 Cải lương, vọng cổ 23 1,26 58,2

3 Dân ca nói chung 57,7 13 86

4 Dân ca Nghệ Tĩnh 56 97 66,3

5 Nhạc cổ truyền 16,3 8,2 59,1

6 Chèo 6,2 4,1 19,2

7 Nhạc quốc tế 21,4 60,9 40,5

8 Ca khúc Việt Nam hiện đại 17,1 97,8 43,9

Phụ lục 4.13 - Các loại hình phim đƣợc cƣ dân lựa chọn hiện nay

TT

Các loại phim

Khu kinh tế

đanh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh

tế du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Tâm lý Việt Nam 71,9 69,5 89,6

2 Tâm lý nước ngoài 28 48,3 58,2

3 Hình sự Việt Nam 66,9 52,4 98,7

4 Hình sự nước ngoài 32,2 67,5 61,4

5 Cách mạng Việt Nam 41 39,7 60,9

6 Phim chưởng 19,2 35 13,9

7 Phim kinh dị 5 7,3 6,27

8 Phim tài liệu nước ngoài 7,1 26,6 31,89

9 Phim giả sử Việt Nam 7,9 8,2 10,7

10 Phim giả sử nước ngoài 12 32,4 4,48

11 Chèo, tuồng 6,2 4,1 19,2

32

Phụ lục 4.14 - Các thiết chế văn hóa hiện có ở ba khu kinh tế

Các điểm sinh hoạt văn hóa vui chơi giải trí ở khu kinh tế đánh bắt

(Xã Thạch Kim)

TT Tên thiết chế Số lƣợng

1 Quán Karaoke 4

2 Quán Internet 3

3 Sàn nhảy 0

4 Rạp hát 0

5 Sân thể thao (bóng chuyền, bóng đá, cầu lông,..) 2

6 Sân tennist 0

7 Sân Patin 2

8 Nhà văn hóa 7

9 Điểm bưu điện 1

10 Thư viện xã 1

(Nguồn: Văn hóa xã Thạch Kim - tháng 2/2014)

Các điểm sinh hoạt văn hóa vui chơi giải trí ở khu kinh tế du lịch

(Thị trấn Thiên Cầm)

TT Tên thiết chế Số lƣợng

1 Quán Karaoke 13

2 Quán Internet 1

3 Sàn nhảy 0

4 Rạp hát 0

5 Sân thể thao (bóng chuyền, bóng đá, cầu lông,..) 10

6 Sân tennist 2

7 Sân Patin 1

8 Nhà văn hóa 11

9 Điểm bưu điện 1

10 Thư viện xã 1

11 Khu vui chơi trẻ em 2

(Nguồn: Văn hóa thị trấn Thiên Cầm - tháng 2/2014)

33

Các điểm sinh hoạt văn hóa vui chơi giải trí ở khu kinh tế công nghiệp

(Xã Kỳ Phương)

TT Tên thiết chế Số lƣợng

1 Quán Karaoke 3

2 Quán Internet 14

3 Sàn nhảy 0

4 Rạp hát 0

5 Sân thể thao (bóng chuyền, bóng đá, cầu lông,..) 19

6 Sân tennist 0

7 Sân Patin 2

8 Nhà văn hóa 9

9 Điểm bưu điện 1

10 Thư viện xã 1

(Nguồn: Văn hóa xã Kỳ Phương - tháng 2/2014)

Phụ lục 4.15 – Nhu cầu, mức độ ngƣời dân đến với các thiết chế văn hóa

Khu kinh tế đánh bắt

TT Tên thiết chế Nhu cầu

(tỷ lệ%)

Mức độ

Thƣờng

xuyên

(tỷ lệ%)

Thỉnh

thoảnh

(tỷ lệ%)

Rất ít

(tỷ lệ%)

1 Quán Karaoke 71,9 0,8 30,8 68,7

2 Quán Internet 67,7 28,3 58,1 13,6

3 Sân patin 30,9 36,9 41,2 20,9

4 Sân thể thao 38,9 31,6 36,2 32,2

5 Nhà văn hóa 70,7 18,7 62,5 18,8

6 Điểm bưu điện 41,4 11,3 55,9 32,8

7 Thư viện xã 17,6 0,6 38,5 60,9

34

Khu kinh tế du lịch

TT Tên thiết chế Nhu cầu

(tỷ lệ%)

Mức độ

Thƣờng

xuyên (tỷ

lệ%)

Thỉnh

thoảnh (tỷ

lệ%)

Rất ít (tỷ

lệ%)

1 Quán Karaoke 94,5 22,4 56,5 21,1

2 Quán Internet 45,3 11,2 53,1 35,7

3 Sân Patin 37,6 18,7 39,0 42,3

4 Sân thể thao 39 26,8 48,7 24,5

5 Sân tennist 29,6 12,5 38,4 49,1

6 Nhà văn hóa 82,3 20,8 58,4 20,8

7 Điểm bưu điện 48,7 18,5 55,4 26,1

8 Thư viện xã 19,3 1,0 38,2 60,8

9 Khu vui chơi trẻ em 55,4 28,5 60,2 11,3

Khu kinh tế công nghiệp

TT Tên thiết chế Nhu cầu

(tỷ lệ%)

Mức độ

Thƣờng

xuyên (tỷ

lệ%)

Thỉnh

thoảnh (tỷ

lệ%)

Rất ít (tỷ

lệ%)

1 Quán Karaoke 66,8 0,6 38,2 61,2

2 Quán Internet 76,6 38,9 52,3 8,8

3 Sân Patin 44,3 32,8 46,5 20,7

4 Sân thể thao 43,9 17,9 32,6 49,5

5 Nhà văn hóa 88,3 26,9 55,2 17,9

6 Điểm bưu điện 45,2 15,1 38,5 46,4

7 Thư viện xã 17,4 0,4 38,1 61,5

35

Phụ lục 4.16 - Nội dung xem ti vi thể hiện ở ba khu kinh tế

TT Chƣơng trình

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Thời sự/ tin tức 97 88,6 97,7

2 Thể thao 81,1 77,7 85,2

3 Ca nhạc 70,2 84,4 55,6

4 Trò chơi giải trí 91,2 85,2 73,5

5 Phim truyện 67,7 62,1 63,6

6 Phổ biến kiến thức 41 48,3 41,2

7 Thế giới động vật 43,9 39 34

8 Vòng quanh thế giới 32,6 42,4 27,8

9 Quảng cáo 51 56,7 46,3

10 Khác 0 3,5 2

Phụ lục 4.17 - Nội dung xem dịch vụ truyền hình cáp (My TV) ở ba khu kinh tế

TT Chƣơng trình

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Phim 71,9 47 32,2

2 Ca nhạc 28,8 83,1 30,4

3 Học ngoại ngữ 6,27 32,7 33,6

4 Hoạt hình 47,2 42,8 44,3

5 Trò chơi giải trí 30,1 34 46,1

6 Thể thao 61,9 39,9 65,4

7 Thông tin thế giới 33,8 60 77,1

8 Khác 1,8 0,3 1,2

Phụ lục 4.18 - Nội dung khi sử dụng Internet của cƣ dân ở ba khu kinh tế

TT Mục đích

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Nhận và gửi thư 32,6 47 20,6

2 Chat 30,1 36,1 59,1

3 Xem tin tức 61 76,4 78,9

4 Học tập 19,2 31,9 26,4

5 Tìm các phần mềm 18,8 13,4 27,8

6 Mua hàng 20,5 33,1 16,1

7 Du lịch/ giải trí 56,4 59,6 77,5

8 Mạng xã hội 77,8 62,1 79,8

9 Khác 3 2,7 0,9

36

Phụ lục 4.19 - Nội dung nghe đài của cƣ dân ở ba khu kinh tế

TT Chƣơng trình

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Tin tức 6,2 8,8 3,5

2 Ca nhạc 7,1 5,0 5,8

3 Phổ biến kiến thức 8,7 6,7 4,4

4 Thể thao 3,3 4,2 3,5

5 Ca nhạc 2,9 6,3 2,2

6 Khác 1,1 0,2 0

Phụ lục 4.20 - Nội dung các loại sách, báo thƣờng đọc khi đến thƣ viện

TT Nội dung Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Chính trị, xã hội 29,7 23,1 32,7

2 Thể thao 26,3 32,7 21,5

3 Văn hóa, văn học, nghệ thuật 18,8 13,4 37,2

4 Kinh tế, lao động 45,1 50,8 57,3

5 Quảng cáo, rao vặt 55,2 44,1 43,9

6 Tập san, chuyên đề về gia

đình, phụ nữ, nam giới

17,1 15,9 36,7

7 Sách phổ biến kiến thức 29,7 40,3 13,4

8 Sách chuyên môn 6,27 9,6 12,5

9 Sách lịch sử, địa lý 17,1 7,5 6,7

10 Khác 2,3 1,8 2

Phụ lục 4.21 - Các loại bài hát đƣợc yêu thích khi đến quán karaoke

TT Các loại nhạc

Khu kinh tế

đanh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Ca khúc cách mạng 56,9 78,5 70,4

2 Cải lương, chèo, nhạc cổ

truyền

23 1,26 18,2

3 Dân ca 77,9 93 86

4 Nhạc quốc tế 21,4 60,9 40,1

5 Ca khúc Việt Nam hiện đại 17,1 97,8 43,9

37

Phụ lục 4.22 - Các môn thể thao đƣợc yêu thích khi đến các thiết chế thể thao

TT Môn thể thao

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Cầu lông 19,2 12,6 17

2 Bóng chuyền 30,1 41,1 18,3

3 Bóng đá 21,3 27,3 32,2

4 Tennis 6,2 37,3 8,0

5 Võ 11,2 14,7 34

6 Dưỡng sinh 13,3 11,7 26

7 Patin 24,6 29,8 43,9

Phụ lục 4.23 - Các nội dung đƣợc yêu thích khi sinh hoạt tại nhà văn hóa

TT Nội dung sinh hoạt

Khu kinh tế

đánh bắt

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

du lịch

(Tỷ lệ %)

Khu kinh tế

công nghiệp

(Tỷ lệ %)

1 Tham gia các cuộc thi và hội

diễn văn nghệ quần chúng

18,6 22,5 11,4

2 Xem các cuộc thi và hội diễn

văn nghệ quần chúng

32 38,9 26,5

3 Tham gia các CLB nghệ thuật 26,3 33,1 29,1

4 Tham gia các cuộc sinh hoạt,

hội họp

61,9 65,1 77,1

38

Phụ lục 4a - Các đền thờ Thành Hoàng Làng ở vùng ven biển Hà Tĩnh hiện nay

1/. Đền thờ người có công lập làng, gồm có: đền thờ Phạm Tiêm, có công

lập nên xứ Đồng Nại (xã Kỳ Hà) và hướng dẫn nhân dân đắp đê ngăn mặn, đào

mương đưa nước thông ra biển, tránh lụt lội; miếu thờ cụ Lê Hữu Truyền (em ruột

Lê Hữu Trác) quê gốc Hải Dương, vị tổ lập lên làng Hải Khẩu (xã Kỳ Ninh); đền

thờ Ba ông họ Chu, đào sông ở rú Voong (làng Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh); đền thờ tổ

các họ Trần, Bùi, Dương, Nguyễn, Lê ở xã Kỳ Phú (huyện Kỳ Anh); đền thờ “Ông

Nội Ông Ngoại” ở xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân, thờ Tám vị tổ khai cơ lập làng

“Nhớ xưa bảy họ tám người. Lập thành công xã ở nơi hải tần” [18, tr.459]; đền thờ

bà Hoàng Càn ở xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên),…

2/. Đền thờ người có công dạy nghề cho dân, gồm có: tổ sư dạy ngư dân

làm nghề đánh cá, chế tạo ra chiếc bánh lái của tàu đánh cá (ông Đông Đạo), tổ sư

dạy diêm dân làm muối (ông Trúc Lĩnh) ở xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên) cả

hai vị này nay được phối thờ cùng với bà Hoàng Càn (người sáng lập ra làng) ở đền

Cả (xã Cẩm Nhượng);….

3/. Đền thờ anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá: hình thức thờ cúng này

rất phổ biến ở Hà Tĩnh nói chung và vùng ven biển Hà Tĩnh nói riêng, chiếm số

lượng nhiều nhất trong hệ thống đền thờ Thành Hoàng làng. Tiêu biểu hiện nay có

các đền, miếu như: đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý (còn gọi “Đền Thần Đầu”,

“Đền hai quan Trạng”) ở xã Kỳ Phương; đền Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích

Châu (còn gọi là đền Mẫu, đền Bà Hải) ở xã Kỳ Ninh và xã Kỳ Lợi (huyện Kỳ

Anh), Bà còn được phối thờ ở đền Cả (xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên); đền

Hải quận công Phạm Đình Trọng ở xã Kỳ Phú (làm trấn thủ Nghệ An thời nhà Lê);

miếu thờ Văn Hiền ở xã Cẩm Nhượng (người chịu chết chém thay cho dân làng, khi

dân làng bị bọn phong kiến thực dân áp bức); đình Hội Thống ở xã Xuân Hội thờ

Tô Hiến Thành (một hiền tướng thời Lý Anh Tông), ngoài ra ở xã Xuân Hội còn thờ

Thành Hoàng là Lê Phụng Hiểu (thời nhà Lý), người có công đánh giặc Chiêm Thành,

được phong làm Đô Thống Vương; ở xã Xuân Phổ thờ hai vị Thành Hoàng Làng là

“Trung Hưng linh phủ đương cảnh thành hoàng Trần phủ quân tôn thần” và “Phạm

tướng công, gia phong huân liệt anh linh trung tín đốc trấn vĩ mĩ tự đại vương”;

Thành Hoàng của xã Xuân Trường (Nghi Xuân) có hiệu “Bảo yên chính trực hữu

thiện đôn ngưng dực bảo trung hưng đại toát nam”; xã Xuân Yên có đình thờ

Nguyễn Ngọc Huấn,…

Ngoài ra, ở vùng ven biển Hà Tĩnh ngày nay còn có nhiều xã có đình, đền thờ

Thành Hoàng, nhưng không có thần tích của vị thần được thờ, hiện tượng này khá phổ

biến ở các xã ven biển Kỳ Anh và Nghi Xuân, nhiều nhất là ở Kỳ Anh.

39

Phụ lục 4b - Các vị Thành Hoàng Làng đƣợc thờ nhiều nơi ở vùng ven biển Hà Tĩnh

1/. Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi, một danh tướng thời Hậu Lê (gọi Lê

Lợi bằng chú ruột, có tên trong hội thề Lũng Nhai). Ngoài ngôi đền chính trên núi

Long Ngâm (Thach Bàn, Thạch Hà), Lê Khôi còn được cư dân ven biển Hà Tĩnh

lập đền thờ vọng ở nhiều xã, có xã có tới hai đền thờ ông, chỉ tính riêng hai huyện

Thạch Hà, Lộc Hà (nơi ông mất), có tới 7 ngôi đền thờ vọng, đó là các xã: Thạch

Hải (2 đền thờ), Thạch Bàn, Thạch Trị thuộc huyện Thạch Hà; Mai Phụ, Thạch

Bằng, Thạch Kim thuộc huyện Lộc Hà,…Lê Khôi còn được phối thờ ở đền Cả (xã

Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên), ở Cửa Lò (tỉnh Nghệ An), ở Đông Ngạc (Từ

Liêm, Hà nội)…

2/. Ba vị tướng thời nhà Lý (Lý Nhật Quang, Lý Đạo Thành và Lý Thế

Giai), các đền thờ ba vị tướng này được gọi là đền Tam Toà. Theo thần tích đền

Tam toà xã Xuân Thành: Lý Nhật Quang là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được

phong là Uy Minh vương, có ân đức với dân nên lập đền thờ. Năm 1040 Lý Nhật

Quang làm tri châu Nghệ An, ông có công dẹp loạn, khai khẩn đất hoang, mở mang

giáo dục, báo quốc an dân, củng cố nền độc lập, thống nhất đất nước… Hiện nay,

đền thờ Tam toà có ở các xã: Kỳ Phú (huyện Kỳ Anh); Cẩm Nhượng (huyện cẩm

Xuyên); Thạch Bàn, Thạch Trị (huyện Thạch Hà); Xuân Hội, Xuân Hải, Xuân Yên,

Xuân Thành (huyện Nghi Xuân). Hiệu của ba thần là “Minh uy dũng liệt đại vương,

hiển linh hộ quốc hồng quân đại vương, Tam toà quốc chủ Lý Nhật Quang” [20,

tr.291]. Ở Xuân Yên đền Tam toà còn gọi là đền Lý Đại Vương,…

3/. Cương Khấu, tức Cương Quốc công Nguyễn Xí, thần hiệu được các triều

vua phong tặng là “Cương Khấu thượng đẳng tôn thần”. Nguyễn Xí quê ở làng Bừ

xã Cương Đoán (nay là xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh), là người Nghệ

Tĩnh đầu tiên đi theo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi khởi nghĩa Lam Sơn giành

thắng lợi, ông là một trong mười người được xếp hàng đệ nhất khai quốc công thần,

đứng đầu bá quan văn võ. Khi ông mất, Lê Thánh Tông phong tặng ông chức Thái

Sư. Hiện đền ông có ở các xã ven biển Hà Tĩnh, như: Thịnh Lộc (huyện Lộc Hà),

Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên), Xuân Hải, Cương Gián, Cổ Đạm (huyện Nghi

Xuân). Ở xã Cương Gián đền thờ Cương Khấu còn được gọi là đền Bản Thuộc.

40

Phụ lục 4c- Quan niệm và ý nghĩa một số phong tục sinh đẻ truyền thống của

cƣ dân ven biển Hà Tĩnh (không còn đƣợc thực hành hiện nay)

1/. Tục treo cây dứa dại trước cổng: khi trong nhà có người mới sinh, gia

đình treo cấy dứa dại trước cổng ngầm báo hiệu để mọi người biết mà tránh không

mang hơi hám vào nhà làm ảnh hưởng đến đứa trẻ, đồng thời cũng báo hiệu để

những người đi biển biết mà tránh vào nhà. Bởi theo quan niệm cũ nếu gặp phụ nữ

mới sinh là mắc phải phong long, điều này sẽ không tốt, dễ mang lại những điều rủi

ro cho người đi biển.

2/. Để khúc củi cháy dở trước cửa: Khi có người sinh, gia đình để khúc củi

cháy dở trước cửa, nếu đầu cháy dở quay ra ngoài ngầm báo đứa bé mới sinh là con

gái sẽ đi lấy chồng, nên đầu cháy dở quay ra ngoài. Còn nếu ngược lại, đầu cháy dở

được quay vào trong nhà ngầm báo sinh con trai sẽ ở lại cùng bố mẹ (đầu cháy dở

quay vào trong).

3/. Nhúng đứa trẻ xuống biển ngay sau khi sinh, gắn với quan niệm để đứa

trẻ sớm được tiếp xúc, làm quen với môi trường biển, để biển cả ôm ấp, bao bọc,

chở che cho đứa trẻ khi vừa lọt lòng.

4/. Dội gáo nước lên mái nhà khi sinh em bé, gắn với quan niệm những đứa

trẻ con nhà chài lưới sinh ra nếu gặp lúc “con nước sinh” (nước lên) sẽ không thuận

buồm xuôi gió. Để tránh điều không may đó, mỗi khi sinh em bé, cư dân ven biển

Hà Tĩnh thường dội gáo nước lên mái nhà tượng trưng cho con nước xuống để

mong đứa trẻ sẽ gặp được may mắn trong cuộc sống, cũng như trong nghề đánh bắt.

5/. Tục cúng Bà Mụ sau khi sinh em bé, gắn với quan niệm Bà Mụ có công

nặn ra hình hài thai nhi và che chở, dạy dỗ cho đứa trẻ sau khi lọt lòng mẹ, ứng với

câu ca dao: “Dẫu cho bác mẹ có sinh, Mụ Bà không vắt biết mình là ai".

41

PHỤ LỤC 5 - TRÕ DIỄN, TRÕ CHƠI, HÕ, VÈ

Phụ lục 5.1

CHẦU VĂN CA NGỢI ĐỨC NGƢ ÔNG

Bể Nam Hải tâm tình lặng lẽ

Cõi Nam sơn rạng vẻ trời xuân

Ân trên mưa thuận gió nhuần

Bốn phương phẳng lặng muôn dân vui vầy

Lòng bác ái so tày trời đất

Tài vẫy vùng có Đức nhân Ngư

Đầu rồng mắt phượng nhởn nhơ

Da sơn lấp lánh đuôi cờ vẫy bay

Đã thao lược gồm hay lặn lội

Vẫn anh hùng theo dõi kinh luân

Ra khơi vào lộng như thần

Bể khơi dẹp tạnh mấy lần phong ba

Nhớ buổi nọ Hoàng gia Nam độ

Giữa đất bằng mà có tố giông

Chướng cuồng làn tịnh cù phong

Ngự chu yên ổn bình nhung vững bền

Bảng vàng chói lói công bền

Ngọc lân Nam hải trước đền sắc phong

Mấy cơn hoạn nạn giữa dòng

Ra tay tế độ cõi lòng từ nhân

Một lòng vì nước vì dân

Công danh rạng khắp xa gần đồn ran

Quân ủng hộ nghiêm trang mấy lớp

Hiện ầm ầm bốc nước phun lên

Vẫy vùng động địa kinh thiên

Tiếng tăm lừng lẫy càng nhìn càng ghê

Xá chi kẻ Kình Nghê vô loại

Dẹp tan tành giữa Thái Bình Dương

Đã nên một đấng đường đường

Uy danh lòng cứ mây phương Hải Tần

Sắc xa tặng lần lần ban xuống

Cửa linh từ năm dọi dọi thêm

Đã cho biển lặng sóng êm

Dân giàu nước mạnh vững bền ngàn thu./.

42

Phụ lục 5.2 – HÕ CHÈO CẠN CẨM NHƢỢNG ( LỜI CỔ)

HÁT MỞ ĐẦU CHÈO CẠN

Tổng mũi hát: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu thiên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Tài tình đương hội thiếu niên

Miền bể bắc vẫy vùng cho thỏa chí

Giờ mở hội công danh nhất trí

Dân ta đều ca xướng làm vui

Trên rừng vàng báu ngọc nhật lai

Dưới bể bắc ngư hà mẫu tải

Nghề duyên hải nhờ trong nốc lái

Cá ruốc hơn năm ngoái năm xưa

Nhờ đức ông bảo hộ phù trì

Dân ta được an khang vật thịnh

Phường buôn bán đầy gồng đầy gánh

Ngày hai chiều chợ búa thong dong

Các chú nghề đầy mui đầy thùng

Ngày sáu khác tớ thầy sập sạ

Của tạo hóa xoay vần thiên hạ

Nhờ Đức ông mặc tướng âm phù

Nay kỵ Ngài Vạn mới đảo cầu

Xin Ngài ngự cho dân gian sở cậy

Tổng mũi xướng: Bớ tổng lái ơi!

Tổng lái: Dạ dạ có tôi.

Tổng mũi hát: Thuyền rồng đã đậu bến Ngư ông

Cất giọng theo dòng để rước Đức ông nghe

Tổng lái hát: Non biếc biếc nước xanh xanh

Xao xác bên tai sóng vỗ ghềnh

Nốc lái buồm cheo dòng nghề nghiệp

Ra khơi vào lộng giữa biển xanh.

Tổng mũi hát: Anh em ơi dang rộng mái chèo

Hò khoan theo nhịp tay đều mái đưa

Anh bạn hò: Khoan hai chư họ là hò khoan

Là hai hò khoan là hai hò khoan.

43

Hò tiếp:

Thuyền rồng đậu bến giang lâu

Phất phơ buồn liễu tay lần liễu ba

Miệu Ông trước giấy sau bàn

Trên sơn dưới thủy hai hạc chầu hai bên

Hôm nay tháng 8 mười hai

Là ngày húy kỵ đạo ngài Đức Ông

Bà con ba Vạn nức lòng

Về đây hộ giá thuyền rồng rước Ông

Ngày mai biển lặng trời trong

Cá tôm ruốc mực thong dong chở đầy

Gặp thời thu nguyệt xuân hoa

Việt Nam cường thịnh dân ta vui vầy

Trên dưới bể mây tầng tầng lớp lớp

Ngoài biển khơi gió mát trăng trong

Thuyền chèo theo giọng Ngư Ông

Lưới dăng mặt nước cá mong đợi bầy

Ngư Ông người đã thương thay

Bà con nơi ấy tháng ngày thong dong

Đức Ông đức độ cao siêu

Cứu dân ra khỏi biển nghèo gian nguy

Cứu xong người lại ra đi

Mọi người ca ngợi ơn thì Đức Ông

Vua đi một chiếc thuyền rồng

Phong ba bão táp gặp Đức Ông cứu về

Nhà vua ngự trị bệ rồng

Sắc phong ba đạo Đức Ông cứu người

Kể từ Vạn lộng Vạn khơi

Chèo ra khỏi cựa vậy thời nhờ Ông

Nhờ Ông cho được trăm vòng

Nhờ bà cho được thong dong tháng ngày

Nhờ cô nhờ cậu lắm thay

Ngư bà mản tải cho dày hơn xưa

Có khi sóng gió bất ngờ

Nhờ Ông Ông giúp vô bờ bình an

Bớt mây dẹp sóng vững vàng

Cứu dân ra khỏi lúc gian nan giữa vời

Khi nào con cá sưa mồi

Ép vào Vạn lộng Vạn khơi cho dày.

44

Ông bà cô cậu tái bồi

Nhắm lạch cửa Nhượng xin mời Ông vô

Cúi đầu lạy đức Ngư Ông

Du ngà mắt phượng đuôi rồng nhởn nhơ

Thương dân trăm họ khôn hàn

Kẻ khơi người lộng dân gian được nhờ

Người đi lên kiệu như cờ

Có khi ép cá khi thời đưa vô

Đưa vô đến đất cạn khô

Người đà lên kiệu như cờ chiếu quân

Vua ban khai tặng sắc phong

Hiệu người Thượng đẳng Tướng quân đại thần

Khi đi giá võ đẳng vân

Biến nhiều thành ít biến gần thành xa

Thuyền nào mắc phải phong ba

Khi đà lên hiện Ngài đà cứu cho

Cứu cho dương thế nhãn truyền

Dẹp mời bội sóng cho yên mọi bề

Có khi mặt nước không tăm

Bỗng đâu ép cá nhiều vòng lô xô

Xin mời về Nhượng dạo chơi

Cảnh tình cảnh biển thảnh thơi hữu tình

Ngắm cảnh biển buổi bình mình

Chan hòa màu sắc lung linh biển trời

Rộn ràng dưới lái trên xăm

Thơm hương mực nướng hương trầm biển trao

Én khơi cảnh đẹp vẫy chào

Bơớc xoài ngăn sóng dạt dào nên thơ

Hàng Dương vẫy gọi bên bờ

Sóng đưa thuyền lướt gió lùa nồm trao.

45

Phụ lục 5.3 - Tuồng “ sĩ, nông, công, ngƣ, thƣơng”

Người trưởng giả có o con gái chưa chồng, những thanh niên con nhà sĩ,

nông, công, thương (sau này thêm cả binh) đến gả hỏi. Mỗi nhân vật có những dấu

hiệu tượng trưng: sĩ có tiểu đồng gánh hòm sách, nông vác cày dẫn trâu, công đem

theo cưa, rìu, búa, ngư dùng chèo quảy giỏ cá, thương kèm theo gánh hàng. Xin

trích vài câu hát của từng nhân vật:

Trưởng giả: … Song thời nay dân làng cần trí lớn. Nghiên cứu nghĩ suy

phát triển nghành nghề… Cho nên việc hôn nhân thời nay do con quyết định…

Nông: Vui thú canh nông. Cày bừa làm vốn… Được bốn mùa no đủ thong dong…

Công: Nẻ mực cầm dây đều nổi tiếng. Công trình kì khí nghiệp gia phong…

Ngư: … Người đất Tân Trù, vốn làng Đông Hội. Đất văn vật ngàn năm sóng nổi.

Vốn là nghề vào lộng ra khơi…

Thương: … Buôn bán khắp bốn phương. Xuống thuyền lên bộ…

Sĩ: … Dòng thi thư chuyên nghiệp văn bài. Đường gia thất chưa hề nơi

đính ước…

Cô gái: Tôi sinh ra vốn đất nông gia… Vì sự nghiệp đang chờ phía trước…

Thêm vào là những vai hề hài hước (phò tá) của các nhân vật. Thí dụ hề

nông có câu hát: … O cứ nghĩ kĩ đi. Không rồi có lúc nông suy. Mà hết gạo

chạy rông…

(Thường kết thúc sĩ thắng. Với ý muốn quê ta nghèo hãy cố học, nhưng cũng tùy

từng năm nghề nào thịnh thì nghề ấy thắng).

46

Phụ lục 5.4 - Trò chơi cƣớp cù (Vạt cù)

Phổ biến vùng ven biển Hà Tĩnh trước đây có trò chơi cướp cù (vạt cù), nay

chỉ còn ở một số xã: xã Xuân Thành (huyện Nghi Xuân), xã Thạch Bằng (huyện

Lộc Hà). Hội chơi cù chia làm hai phe, chọn những thanh niên khỏe mạnh, để tránh

rách quần áo người chơi xưa đóng khố (nay không còn), một số cù để ở giữa vòng,

cạnh đó là hai cây tre cao, đầu ngọn mỗi cây tre treo một sọt. Khi có lệnh tất cả

người chơi hai phe xông vào cướp cù (vật nhau để cướp) người phe nào cướp được

ném lên sọt phe đó, nếu không trúng rơi xuống, tiếng hò hét và vật nhau càng sôi

nổi. Kết quả sọt nhóm nào nhiều cù hơn sẽ thắng.

Phụ lục 5.5 - Trò chơi đập cù

Đập cù (phết cù), dụng cụ chơi là trái cầu bằng gỗ gọt tròn như quả bóng nhỏ

(Trái cù làm rất công phu, phải người khéo tay mới làm được trái cù tròn trĩnh,

đúng cỡ) và cây gậy một đầu hơi cong. Sân chơi là bãi đất bằng phẳng (xưa thường

là đám đất ở trước đình), hai đầu sân người ta đào hai cái hố nhỏ vừa đủ để trái cù

lọt xuống. Cách chơi là dùng cây gậy gạt trái cù cho lọt xuống hố của đối phương

(gần với kiểu đánh gôn hiện nay).

47

Phụ lục 5.6 - Vè nhật trình đi biển (Vè kể ra - trích)

(Đường biển từ Bố Chính)

....Bụi lum lum, Cửa Khau là đó

Chạy qua khỏi Dọ, mới tỏ hòn Lài

Hòn én nằm giữa không sai

Trông vào lạch Nhượng, Đầu Voi thay là

Ngoài khơi có đám rạn rà

Trông vào Hòn Chụp, trông ra hòn Cùm

Hòn Trộn thì mọc giữa đồng

Hai mái một dòng ghé cạnh chạy ra

Nam Giới về huyện Thạch Hà

Đây là Can Lộc, đó là Nghi Xuân

Bên kia sông hòn Bờng chầu lại

Tượng tượng hình quan đái đầu cân

Đò Cương đã tới đây gần

Trông về bên huyện Nghi Xuân đất người

Chẳng lộng chẳng khơi hòn Nồm ở giữa

Tựa tựa hình như đứa đi kheo

Ngổn ngang sóng vỗ leo teo

Đây là lạch Hội, Cửa Eo ra vào

Chốn thấp cao là ngàn sông Vịnh

Chốn thanh tịnh là chốn Bụt Tiên

Trửa (giữa) vời hai núi mọc lên

Trong Ngư ngoài Mắt thuộc tên kẻo lầm

Bãi lâm dâm hình như mặt nguyệt

Làm trai cho biết lạch Vạn có Lèn Hai Vai

Hai ông nằm dài giữa mép lạch Thơi

Hòn Rin, Hòn Kiến sóng nhồi (dồi)

Chó nằm, Sanh Bắc là nơi lạch Quèn

Trong lạch Quèn : Ngựa Trâu giữ cửa

Cáo bắt gà rệt (đuổi) ở đầu non

Ông bà đứng giữa chân sơn

Trăng thu vằng vặc dạ còn như in…

48

Phụ lục 5.7 - Vè địa đồ Nhƣợng Bạn

Địa đồ Nhượng Bạn hẳn hoi

Chim loan, én phượng có đàn Voi nằm chầu

Chầu giữa mũi đá Câu

Dạng hình con voi đất

Con rồng vàng nằm ấp

Ấp dưới núi Thiên Cầm...

Phụ lục 5.8 -Vè điểm đồ nghề, tên cá và kỹ thuật chuyên môn

(trích đoạn)

Tháng năm te chạy hết ngàn

Lưới chồng anh đánh cá thèn, cá ve

Tháng sáu gõ đánh cá hoa

Cá chim, cá tráng cùng là thu, lanh

Tháng bảy là tháng chẳng lành

Lưới khoai đánh những lanh canh, cá thèn

Tháng tám cùng nục, tôm he

Lưới giở lên xuống đi về cũng đông

Tháng chín là tháng giã tùng

Chăng chăng láo mắt nằm cùng láo tai

Hồng, hoang, cá muối thiếu gì?

Kể giống cá quý, kể chi cá chuồn

Tháng mười anh mới kể luôn

Câu bè người đánh những luồng cá dưa...

( Đánh cá trong năm)

Phụ lục 5.9 - Vè ghi lại cảnh đua thuyền ở Nhƣợng Bạn

Làng Trung thì cạn

Làng Vạn thì chèo

Làng Cả thì reo

Làng Xuân giật giải

(Trung, Vạn, Cả, Xuân là tên các làng trong xã)

PHỤ LỤC 6 - BẢNG BIỂU

49

Phụ lục 6.1 - Hiện trạng dân số và lao động trong Khu kinh tế Vũng Áng

TT Hạng mục Kỳ

Lợi

Kỳ

Phƣơng

Kỳ

Nam

Kỳ

Kỳ

Ninh

1 Dân số

(ngƣời) 7.334 4.408 2.166 4.817 5.542

2 Số người trong độ tuổi lao động 3.712 2.095 1.091 2.380 2.657

3 Hộ nông nghiệp 838 942 440 36 886

4 Hộ lâm nghiệp 1 0 2 1 0

5 Hộ thuỷ sản 535 3 215 358

6 Hộ công nghiệp - xây dựng 29 2 3 686 23

7 Hộ dịch vụ 136 23 57 66 79

8 Hộ khác 185 194 36 81 201

(Nguồn: Bản thuyết minh quy hoạch chung khu kinh tế Vũng Áng)

50

Phụ lục 6.2 - Dự báo lao động trong Khu kinh tế Vũng Áng

t

TT Hạng mục

Dự báo

2015 2025 Định hình

I Dân số trong tuổi LĐ (ngƣời) 59.000 110.000 211.000

- Tỷ lệ % số dân số 65 70 71

II Tổng lao động làm việc trong các

ngành kinh tế (1000 ngƣời) 49.000 89.000 167.000

- Tỷ lệ % số LĐ trong độ tuổi 83 81 79

3 Phân theo ngành:

1 LĐ nông nghiệp, thuỷ sản (1000

người) 11.000 2.000 1.000

- Tỷ lệ % số LĐ làm việc 22,4 2,2 0,6

3 LĐ CN, TTCN, XD (1000 người) 19.000 52.000 93.000

- Tỷ lệ % số LĐ làm việc 38,8 58,4 55,7

4 LĐ dịch vụ, thương mại, hành chính

sự nghiệp (1000 người)

19.000 35.000 73.000

- Tỷ lệ % số LĐ làm việc 38,8 39,3 43,7

5 Nội trợ, mất sức, học sinh trong

tuổi LĐ (1000 người)

7.000 18.000 38.000

- Tỷ lệ % số LĐ trong độ tuổi 12 16 18

6 Thất nghiệp (1000 người) 3.000 3.000 6.000

- Tỷ lệ % số LĐ trong độ tuổi 5 3 3

Tổng dân số (ngƣời) 90.000 157.000 297.000

(Nguồn: Bản thuyết minh quy hoạch chung khu kinh tế Vũng Áng)

51

Phụ lục 6.3 - Dự báo gia tăng dân số ở khu kinh tế Vũng Áng

TT Hạng mục

Quy hoạch

2015 2025 Định hình

1

1

Tổng dân số kể cả các thành phần

dân số khác (ngƣời)

99.000 180.000 330.000

1

1.1

Tổng dân số chính thức (người) 90.000 157.000 287.000

- Tỷ lệ tăng trung bình, %/năm 7,7 5,7

+ tỷ lệ tăng tự nhiên, %/năm 1,3 1,3

+ tỷ lệ tăng cơ học do nhập cư, %/năm 6,4 4,4

1

1.2

Dân số khác (Sinh viên nội trú, lực

lượng vũ trang, khách vãng lai, lao

động con lắc v.v. - 10% - 20% dân số

chính thức)

9.000 23.000 43.000

(Nguồn: Bản thuyết minh quy hoạch chung khu kinh tế Vũng Áng)

52

PHỤ LỤC 7: ẢNH

7.1: CÁC KHU KINH TẾ VÙNG VEN BIỂN HÀ TĨNH HIỆN NAY

7.1.1. Khu kinh tế đánh bắt

7.1.1a. Cảng cá Thạch Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh

[Nguồn tác giả-Tháng 4/2014]

7.1.1b. Cảng cá Thạch Kim, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh

[Nguồn tác giả - Tháng 4/2014]

53

7.1.2. Khu kinh tế du lịch

7.1.2a. Khu du lịch Thiên Cầm

[Nguồn http://dulichthaibinh.com.vn/du-lich-bien-dao/du-lich-bien-thien-cam

7.1.2b. Khu du lịch Thiên Cầm

[Nguồn http://dulichthaibinh.com.vn/du-lich-bien-dao/du-lich-bien-thien-cam]

54

7.1.3. Khu kinh tế công nghiệp

7.1.3a. Cổng vào Khu kinh tế Vũng Áng

[Nguồn kkthatinh.gov.vn/]

7.1.3b. Một góc nhà máy Nhiệt điện Formosa Khu kinh tế Vũng Áng

[Nguồn Lê Quyết Diễn-Tháng 4/2015]

55

7.2. ẢNH CÁC CƠ SỞ TÍN NGƢỠNG

7.2.1. Đền thờ Cá Ông ở xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên

(Nguồn tác giả-Tháng 4/2014)

7.2.2-Đền thờ Thành Hoàng Làng xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 8/2014]

7.2.3. Đền thờ Lê Khôi, núi Long Ngâm, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà

[Nguồn tác giả -Tháng 6/2014]

56

7.2.4. Đền Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (đền Eo Bạch),

xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn-Tháng 8/2014]

7.3. ẢNH LỄ HỘI

7.3.1. Khai mạc lễ hội của chính quyền địa

phương trong lễ hội đền Lê Khôi, núi Long

Ngâm, xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

7.3.2. Lễ tế thần trên bờ biền trong lễ

hội đền Eo Bạch, xã Kỳ Lợi, thị

xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2014]

57

7.3.3. Lễ rước trong lễ hội cầu ngư xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2013]

7.3.4. Lễ rước bộ trong lễ hội đền Eo

Bạch, xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2014]

7.3.5. Lễ rước bộ trong lễ hội đền Eo

Bạch, xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2014]

58

7.3.6. Lễ rước bộ trong lễ hội đền Lê

Khôi, xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

7.3.7. Lễ rước bộ trong lễ hội đền Lê Khôi,

xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

7.3.8. Hình ảnh thuyền rước cập bến trong lễ hội đền Lê Khôi, núi Long Ngâm,

xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

59

7.4. ẢNH LỄ VẬT

7.4.1. Lễ vật trong lễ hội đền Eo Bạch, xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn tác giả-Tháng 3/2014]

7.4.2. Hình ảnh đội lễ vật trong lễ hội đền Lê

Khôi, núi Long Ngâm, xã Thạch Bàn,

huyện Thạch Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2014]

7.4.3. Lễ vật trong lễ hội cầu ngư,

xã Cẩm Nhượng,

huyện Cẩm Xuyên

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2013]

60

7.4.4. Lễ vật trong lễ hội cầu ngư, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2013]

7.4.5. Lễ vật thuyền giấy trong lễ hội cầu ngư, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2013]

61

7.5. ẢNH TRÕ CHƠI TRÕ DIỄN

7.5. 1. Diễn Chèo cạn trong lễ hội cầu ngư, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên

[Nguồn tác giả - Tháng 5/2013]

7.5. 2. Múa lân trong lễ hội đền Lê Khôi, núi Long Ngâm, xã Thạch Bàn,

huyện Thạch Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

62

7.5.3. Đua thuyền trong lễ hội đền Lê Khôi, xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

7.5.4. Đi cà kheo trong lễ hội đền Lễ Khôi núi Long Ngâm, xã Thạch Hải, h.Thạch Hà

[Nguồn tác giả - Tháng 6/2014]

63

7.5.5. Trò chơi vạt cù trong lễ khai trương mùa du lịch bãi biển Thạch Bằng - xã Thạch Bằng,

huyện Lộc Hà [Nguồn Nguyễn Văn Quang – tháng 4/2015]

7.5.6. Trò chơi cờ thẻ trong lễ khai trương mùa du lịch bãi biển Thạch Bằng - xã Thạch Bằng,

huyện Lộc Hà [Nguồn Nguyễn Văn Quang - tháng 4/2015]

64

7.5.7. Trò chơi Kéo co trong lễ hội chùa Kim Dung - xã Thạch Bằng, h. Lộc Hà

[Nguồn Nguyễn Văn Quang - tháng 4/2015]

7.5.8.Trò đi cầu Kiều trong lễ kỳ niệm ngày Quốc khánh 2-9, xã Thạch Bằng, h. Lộc Hà

[Nguồn Nguyễn Văn Quang - tháng 9/2005]

65

7.6. ẢNH PHONG TỤC TẬP QUÁN

7.6.1. Lễ rước dâu hiện nay của cư dân xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2015]

7.6.2. Lễ cưới hiện nay của cư dân xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2015]

66

7.7. ẢNH VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA

7.7.1. Làng chài xóm Đông Yên - xã Kỳ Lợi - Thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn- Tháng 3/2015]

7.7.2. Nhà ở của cư dân làng chài xóm Đông Yên - xã Kỳ Lợi - Thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn- Tháng 3/2015]

67

7.7.3. Tiện nghi phòng khách gia đình cư dân xóm Đông Yên - xã Kỳ Lợi -

Thị xã Kỳ Anh [Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2015]

7.7.4. Tiện nghi phòng khách gia đình cư dân xóm Đông Thanh - xã Kỳ Lợi - Thị

xã Kỳ Anh [Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2015]

68

7.7.5. Tiện nghi phòng ngủ gia đình cư dân xóm Đông Thanh - xã Kỳ Lợi -

Thị xã Kỳ Anh [Nguồn Lê Quyết Diễn - Tháng 3/2015]

7.7.6. Quán cà phê, karaoke ở xã Kỳ Lợi - Thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn- Tháng 3/2015]

69

7.7.7. Quán cà phê ở xã Kỳ Lợi - Thị xã Kỳ Anh

(Nguồn Lê Quyết Diễn- Tháng 3/2015)

7.7.8. Quán cà phê bóng đá ở xã Kỳ Lợi - Thị xã Kỳ Anh

[Nguồn Lê Quyết Diễn- Tháng 3/2015]