hiỆu quẢ giÁo dỤc vĂn hÓa hỌc ĐƯỜng cho sinh … an day du.pdf · lỜi cam Đoan...
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TRẦN THỊ TÙNG LÂM
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TRẦN THỊ TÙNG LÂM
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số : 62 31 02 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS NGUYỄN VŨ TIẾN
2. TS. NGUYỄN THỊ HỒNG
HÀ NỘI 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án
tiến sĩ “Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường
đại học ở Hà Nội hiện nay (qua khảo sát một số trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật)” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận án
Trần Thị Tùng Lâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ......................................................................................................................... 7
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học
đường ...................................................................................................................... 7
1.2. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục văn hoá học đường ............... 25
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu ...................................................... 30
Chƣơng 2. HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................... 35
2.1. Văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên đại học . 35
2.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học ..... 48
2.3. Những yếu tố chi phối đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên ....................................................................................................................... 67
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG
CHO SINH VIÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO
CÁC NGÀNH KỸ THUẬT Ở HÀ NỘI ................................................................ 78
3.1. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học đào tạo các
ngành kỹ thuật ở Hà Nội ...................................................................................... 78
3.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội ............................................................ 94
3.3. Đánh giá chung về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên và
những vấn đề đặt ra ............................................................................................ 116
Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở
HÀ NỘI HIỆN NAY ........................................................................................... 128
4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên 128
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện
nay ...................................................................................................................... 133
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 156
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 159
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ ................................ 169
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cán bộ nhân viên : CBNV
Chủ nghĩa xã hội : CNXH
Giảng viên : GV
Giáo dục văn hóa học đường : GDVHHĐ
Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường : HQGDVHHĐ
Sinh viên : SV
Văn hóa học đường : VHHĐ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa ......................................................... 9
Biểu đồ 3.2.1: Tỷ lệ % sắp xếp các tiêu chí mà sinh viên muốn phấn đấu đạt
được thể hiện HQGDVHHĐ từ tiêu chí tinh thần ................................................... 99
Biểu đồ 3.2.2a: Tỷ lệ % kết quả sinh viên rèn luyện (đức dục) ......................... 106
Biểu đồ 3.2.2b: Kết quả học tập của sinh viên tại trường qua hàng năm (tỷ lệ %
thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ............................................... 110
Biểu đồ 3.3.3: Kết quả học tập của, sinh viên của trường qua hàng năm (tỷ lệ %
thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ............................................... 121
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội Đảng XI (năm 2011) thông qua, đã định hướng phát triển văn hóa:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển…” [6; Tr.37].
Văn hóa được coi là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế,
làm hài hòa, lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ các nền văn minh sớm nhất, văn
hóa luôn luôn gắn liền với giáo dục và giáo dục cũng song hành với văn hóa.
Ngày nay, đào luyện lực lượng sinh viên phát triển toàn diện cả đức, trí, thể mỹ
là vun bồi một nguồn lực quý báu của đất nước, là kiến tạo tiền đồ, tương lai của
dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến nhiệm vụ này, đã phải ra 2 nghị
quyết chuyên đề chỉ đạo trong một nhiệm kỳ. Đó là Nghị quyết hội nghị Trung
ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập” và Nghị quyết hội
nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) “Về Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất
nước”. Hai nghị quyết này đã xác định những nội dung và giải pháp xây dựng
văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Đây
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trụ cột của công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về ngành giáo dục, nhất là giáo dục
bậc đại học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, một trong những biện pháp quan
trọng là xây dựng trường đại học thật sự trở thành môi trường văn hóa và làm
những giá trị, chuẩn mực hành vi văn hóa đó thấm sâu và chuyển hóa thành
những phẩm chất và năng lực tốt đẹp trong sinh viên, định hình nên nhân cách
sinh viên phù hợp với mục tiêu giáo dục và đào tạo và đáp ứng được yêu cầu của
xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
theo Nghị quyết của Đảng.
2
Trên thực tế ở các trường đại học hiện nay, phần lớn sinh viên vẫn giữ
được những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống như: tôn sư trọng đạo, tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập; nêu cao ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh, dám đấu tranh chống lại những tiêu cực; tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của đất nước. Bên cạnh đó, trước
sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự bùng nổ thông tin qua Internet,
các mạng xã hội; sự du nhập ào ạt các trào lưu văn hóa, quan niệm sống lai căng
cùng với sự chống phá, lôi kéo từ hệ tư tưởng thù địch với những sản phẩm
mang danh văn hóa, một bộ phận thanh niên, trong đó có sinh viên trong các
trường đại học chạy theo lối sống thực dụng, xa lạ với các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, vô tổ chức, vô kỷ luật… không có ý chí vươn lên. Tình trạng tội
phạm và tệ nạn xã hội trong sinh viên có chiều hướng gia tăng về quy mô, phức
tạp về tính chất, gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII chỉ rõ: “Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy
trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn
chơi, nghiện ma túy, tệ nạn xã hội…ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi
nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và coi nhẹ các bộ môn chính trị, khoa học xã hội
và nhân văn” [24, tr.47].
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá: “Chất lượng giáo dục và đào
tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng,
giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc
hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề
đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất
cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn
chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.”[28, tr. 167, 168]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm
3
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 có đề cập đến vấn đề giáo dục:
“Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm. Chất
lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn
chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên
thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp
còn hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng. Tình trạng mất cân
đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm, công tác
đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ chế, chính sách có mặt chưa
phù hợp; xã hội hóa còn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa thu hút được nhiều
nguồn lực ngoài nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn
còn thiếu và lạc hậu. Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số còn thấp. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu
cầu.”[32, tr.248- 249]
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhiều trường chỉ tập
trung vào việc dạy tri thức, kỹ năng… mà ít chú trọng giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống lành mạnh, tích cực cho sinh viên. Kết quả là môi trường học
đường nơi văn hoá đáng được coi trọng lại đang diễn ra thực trạng thiếu văn hoá.
Điều này chứng tỏ kết quả giáo dục văn học đường chưa cao, nhận thức về văn
hóa học đường chưa đúng, giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học
chưa thực sự đạt hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục văn hóa học đường là
một bộ phận của công tác tư tưởng. Định hướng và chuẩn mực của nó phải phù
hợp với lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tuân thủ pháp luật của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao hiệu quả giáo dục văn học đường trong trường đại học là điều
kiện để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo và nâng cao chất lượng, để
đào tạo ra những sinh viên có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế nhất là trong điều kiện cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, của thị trường lao động trong kỷ nguyên số nền sản xuất
của con người đạt đỉnh cao của sự thông minh, với các ứng dụng kỹ thuật sáng
tạo không ngừng, với nền tảng công nghệ số, với mạng lưới internet của vạn vật
và trí tuệ nhân tạo… Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả chọn: Hiệu
quả giáo dục văn học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay
4
(qua khảo sát một số trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật) làm đề tài luận
án tiến sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu thành công có thể ứng dụng ở nhiều
trường đại học đào tạo các khối ngành khác nhau, góp thêm một căn cứ lý luận
và thực tiễn vào hệ thống những giải pháp thực hiện đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả giáo
dục văn hóa học đường cho sinh viên, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả
giáo dục văn hóa học đường, luận án đánh giá thực trạng hiệu quả giáo dục văn
hóa học đường và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án cần hoàn thành những
nhiệm vụ:
- Tổng quan và có đánh giá, nhận định về tình hình nghiên cứu có liên quan
đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học.
- Làm rõ khái niệm, nội dung, biểu hiện đặc trưng của văn hóa học đường
và giáo dục văn hóa học đường trong trường đại học. Xây dựng tiêu chí đánh giá
hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên ở các trường đại học.
- Khảo sát thực tế, phân tích thực trạng văn hóa học đường, giáo dục văn
hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường của sinh viên các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phát hiện nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra trong giáo dục văn hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường
cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội.
- Xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa
học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh
viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay (Khảo sát một số trường đào tạo các
kỹ thuật)
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên các trường đại học ở Hà Nội qua khảo sát các trường: Đại học Công
nghiệp Hà Nội, Đại học Thành Đô, Đại học Giao thông vận tải, Đại học Xây
dựng, Đại học Kiến trúc Hà Nội. Chủ thể giáo dục VHHĐ cho sinh viên là các
trường đại học, các thiết chế văn hóa xã hội, gia đình, bạn bè… Luận án giới hạn
phạm vi chủ thể giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên là các trường đại học
đào tạo các ngành kỹ thuật. Chọn trường đại học Xây dựng Hà Nội, đại học Giao
thông vận tải là các trường tốp đầu trong đào tạo các ngành kỹ thuật (cả lý thuyết
và thực hành), trường đại học Kiến trúc Hà nội là trường đại học đào tạo kỹ thuật
liên quan đến nghệ thuật, trường đại Công nghiệp Hà nội là trường đào tạo đa
ngành, đa cấp và đào tạo các ngành kỹ thuật theo hướng ứng dụng và thực hành,
trường đại học Thành đô là trường dân lập.
Thời gian khảo sát thực trạng hiệu quả giáo dục văn hóa học đường từ 2012
đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển văn hóa, con người trong điều kiện hiện nay, Luật Giáo
dục đại học (2012), Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học nói chung; các phương pháp của những bộ môn liên quan như Văn hóa
học, Quản lý văn hóa - Tư tưởng, Tâm lý học, Giáo dục học và Xã hội học…
Các phương pháp chính cụ thể là:
- Phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu từ các tác phẩm kinh
điển, nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định và các công trình khoa học… cập
nhật thông tin chuyên ngành từ các tạp chí chuyên ngành và các phương tiện
truyền thông khác.
- Phương pháp điều tra bằng trưng cầu ý kiến các cán bộ quản lý, các cán
bộ Đoàn thanh niên trong nhà trường, đại diện sinh viên trong các kỳ giao ban.
Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi (anket).
6
- Phương pháp xử lý thông tin và trình bày kết quả nghiên cứu: phân loại
thông tin, hệ thống hóa thông tin, diễn giải, quy nạp, phương pháp phân tích và
tổng hợp, lôgic và lịch sử; phương pháp so sánh; chứng minh, khái quát hóa,
tổng kết kinh nghiệm và phương pháp chuyên gia…
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa các tri thức về văn hóa học đường, chỉ ra rõ hơn vai trò và
nội dung của văn hóa học đường.
- Nhận diện những giá trị cốt lõi của văn hóa học đường trong trường đại
học so sánh với thực tiễn từ đó có các kết luận làm sơ sở để xây dựng phương
hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên. Rút ra những bài học có tính lý luận về giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên đại học, qua đó làm sâu sắc hơn, sinh động hơn công tác tư tưởng trong
trường đại học.
- Xây dựng hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học
đường cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà
Nội hiện nay. Những giải pháp đó có thể mở rộng sử dụng cho các trường đại
học khác
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của văn học đường cũng như sự
cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, thực hiện mục tiêu giáo dục.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên của các trường đại học.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo và vận dụng trong nghiên cứu
và giảng dạy cho chuyên ngành Công tác tư tưởng nói riêng, ngành Chính trị học
nói chung và các ngành có liên quan như Triết học, CNXH khoa học, Văn hóa
học, Quản lý văn hóa, Quản lý giáo dục… ở hệ thống các học viện, các trường
đại học và cao đẳng của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xuất phát từ vai trò của văn hóa học đường và thực trạng xây dựng văn hóa
học đường ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài. Nâng cao hiệu quả giáo dục
VHHĐ đã thực sự trở thành vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn, nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý, các nhà khoa học.
Trong phạm vi bao quát của chúng tôi, có thể khái quát một số công trình tiếp
cận đề tài theo các hướng:
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục
văn hóa học đường
1.1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hóa học đường
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ loài người. Cùng
với sự phát triển của lịch sử nhân loại, nhận thức của con người về văn hóa, khái
niệm văn hóa cũng không ngừng thay đổi và luôn được bổ sung những nội dung
mới, những cách nhìn mới.
Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại giành được sự quan tâm như hiện nay cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này càng chứng tỏ vai trò quan trọng
của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm “văn hóa” (Cultura) có
nguồn gốc từ phương Tây, theo tiếng Latinh có nghĩa là: cày, cấy, vun trồng, làm
ruộng, chăm bón, cải thiện, gìn giữ trong sản xuất nông nghiệp. Xét theo nguồn
gốc thuật ngữ, văn hóa là khái niệm gắn với lao động sản xuất, một hoạt động
sáng tạo mang bản chất người nhất. Về sau thuật ngữ văn hóa được bổ sung thêm
những nghĩa mới trừu tượng hơn, nói về tính có học vấn, tính có giáo dục, sự mở
mang trí tuệ của con người.
Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng đã đi tìm nội dung tích cực và bổ sung
những nhận thức mới mẻ về văn hóa. Thời kỳ này được xem như thời kỳ phát
hiện lại con người. Bởi vậy, “văn hóa” được nhìn nhận như lĩnh vực tồn tại chân
chính của con người, lĩnh vực “tính người” thật sự đối lập với lĩnh vực “tính tự
8
nhiên”, “tính động vật”. Văn hóa được xem như sự phát triển của con người phù
hợp với bản chất của nó.
Từ nguyên nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn hóa là nét xăm
mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận ra mình Theo cách triết tự Hán
Việt (bộ Từ Hải năm 1989), văn có nghĩa là “vẻ đẹp” (= có giá trị), hóa là “trở
thành”, là “giáo dục”. Như vậy, văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, giáo dục đẹp,
thành có giá trị. Sau này, văn hóa thường được dùng với nghĩa: cái chứa cái đẹp,
chứa các giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Theo quan điểm của C. Mác, văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và năng lực
bản chất của con người. Sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Lao
động sáng tạo ra con người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng
trở thành thật sự người. Vì vậy, văn hóa là năng lực tạo nên sáng tạo, là sự phát
triển những năng lực bản chất của con người. V.I. Lênin khi bàn về văn hóa cho
rằng, nó là tổng thể các dạng hoạt động sáng tạo của con người và tất cả giá trị
vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của chính
mình. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” được “nhân hóa” qua
thực tiễn của con người [36, tr.27, 90].
Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần. Theo nghĩa này, tại “Mục đọc sách” viết xen tập “Nhật ký trong tù”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh
hoạt cùng sự biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [82, tr. 431]
F.Gonzles quan niệm văn hóa bao gồm các giá trị, quan niệm, thái độ, hành
vi và các mối quan hệ tạo nên ý nghĩa, niềm tin và sự thống nhất của một nhóm
người [138].
Tiếp cận văn hóa dưới góc độ tổ chức, Ehlers (2009) tổng hợp các tác giả
và cách tiếp cận văn hóa.
9
Tác giả Cách tiếp cận Các yếu tố văn hóa
Gerent
Hofstede
(1991)
Văn hóa là quy ước về tinh thần hỗ trợ
mọi người thực hiện thuận lợi các hoạt
động thông qua biểu hiện, nhân cách, lễ
nghi và giá trị.
Biểu hiện, hình mẫu, lễ
nghi, giá trị.
Edgar
Schein
(1992)
Văn hóa là một lại quy ước cơ bản do
một nhóm người đưa ra để giải quyết
các vấn đề thích ứng với bên ngoài và
hòa hợp với bên trong.
Giá trị, sự việc hữu hình,
quy ước.
Johannes
Rsegg
(2002)
Văn hóa có thể so sánh với các quy luật
ngữ pháp và ngữ nghĩa trong một hệ
thống quy ước của một nhóm người.
Quy tắc và giá trị, quan
điểm và thái độ, hiện
thực và huyền thoại, cách
nghĩ, thói quen, ngôn
ngữ, mong đợi của tập
thể.
Gareth
Mogan
(2002)
Văn hóa là một hiện tượng của tập thể
và xã hội liên quan đến các ý tưởng, giá
trị và ảnh hưởng đến hoạt động của
một nhóm người mà họ không nhận
thấy rõ.
Giá trị, kiến thức, niềm
tin, chuẩn mực, lễ nghi
Bảng 1. Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa [137, tr.343-363]
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm xuất phát từ lý thuyết hệ thống,
trình bày mô hình văn hóa gồm ba thành tố cơ bản:
Văn hóa nhận thức: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng
người nhất định - một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng
đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, tích lũy được một
lượng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và bản thân con người - đó
chính là văn hóa nhận thức.
Văn hóa tổ chức: Là những giá trị văn hóa tổ chức của cộng đồng như văn
hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức sản xuất trong
một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, đô thị, quốc gia) và văn hóa tổ
chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống của mỗi con người
như tín ngưỡng, phong tục, tập quán, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...)
10
Văn hóa ứng xử (đối với tự nhiên và đối với xã hội): Cộng đồng người -
chủ thể văn hóa - tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự
nhiên (thiên nhiên, khí hậu...v.v) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội,
dân tộc, quốc gia). Do đó có văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa
ứng xử với môi trường xã hội [107, tr.28-29].
Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor khái quát khái niệm văn hóa,
cho rằng: “Văn hóa là tổng số sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ
và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng
của mỗi dân tộc” (Tạp chí Người đưa tin UNESCO, Tháng 11-1989, tr. 5)
Tổng hợp các định nghĩa trên, cho thấy văn hóa bao gồm các nội dung sau:
- Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
- Văn hóa là hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và
phát triển của văn hóa.
- Văn hóa là sự thể hiện trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi cộng
đồng người, mỗi dân tộc.
Văn hóa là sản phẩm của hoạt động người, là kết quả sáng tạo ra của nhiều
thế hệ nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần không ngừng tăng lên
của con người. Văn hóa bao gồm các giá trị văn hóa và hoạt động sáng tạo ra
những giá trị đó. Khi tạo ra thế giới văn hóa, con người không chỉ làm biến đổi
những điều kiện khách quan, mà còn làm biến đổi chính bản thân con người,
phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Không chỉ có vậy, con
người còn có khả năng tự đánh giá trình độ phát triển của bản thân mình thông
qua các sản phẩm do chính mình tạo ra. Bởi vì trong quá trình hoạt động con
người đã đối tượng hóa bản thân mình vào các giá trị ấy. Mỗi giá trị văn hóa đều
hàm chứa trong bản thân nó năng lực trí tuệ, tinh thần, cảm xúc, những lực lượng
vật chất nhất định.
Văn hóa là khái niệm phức tạp, cách nhìn nhận về cấu trúc của văn hóa
cũng phong phú và đa dạng. Từ hướng tiếp cận của triết học, xem văn hóa như
cái được sinh ra từ sự tồn tại của con người trong hoạt động thực tiễn, con người
là chủ thể hoạt động và điểm khởi đầu của văn hóa, nhà triết học M.S. Kagan
[63, tr.188-208] đã mô tả cấu trúc của văn hóa như “vòng xoắn chập ba” (3 thành
11
tố) gồm có: hoạt động mang tính vật thể của con người là cơ sở của văn hóa; sự
giao tiếp của con người diễn ra ở bình diện không gian văn hóa và thời gian văn
hóa xã hội và sự sáng tạo nghệ thuật, một phương thức để nhân đôi đời sống
hiện thực của con người, tạo nên một đời sống ảo và qua “ảo” để hiểu hiện thực
sâu sắc hơn.
Cũng có thể xem xét văn hóa với cấu trúc gồm văn hóa sinh hoạt vật chất,
văn hóa sinh hoạt tinh thần. Hoặc xem xét dưới góc độ văn hóa sản xuất, văn hóa
tiêu dùng. Văn hóa nếu tiếp cận từ những lĩnh vực cụ thể, sẽ có văn hóa doanh
nghiệp, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công sở,
văn hóa trang phục, văn hóa học đường, văn hóa giao thông,… Dù được diễn đạt
theo cách nào nó cũng có nội dung chung: văn hóa là sự phát triển những năng
lực bản chất của con người hướng tới các giá trị nhân văn. Mỗi một hình thức
cộng đồng người, cộng đồng xã hội có một mô thức văn hóa riêng. Trường đại
học là một thiết chế xã hội, vì vậy việc hình thành văn hóa riêng để góp phần
thực hiện mục tiêu đào tạo, sứ mệnh của mình là một tất yếu khách quan.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến vấn đề văn hóa. Điều này
thể hiện trong mỗi kỳ đại hội đều có phần xác định đường hướng phát triển văn
hóa. Thậm chí Đảng còn ra cả một Nghị quyết Trung ương về xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bàn sắc dân tộc. Ở đó nhấn mạnh: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội” [24, tr 55]. Nghị quyết tập trung vào những lĩnh vực lớn:
tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục, khoa học, văn học
nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế và
thiết chế văn hóa… và khái quát: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc”.[24, tr 40].
Sau hơn 15 năm, từ năm 1998 đến năm 2014, nhận thức về văn hóa và vai
trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã phát
12
triển thêm một bước dài. Trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó có 2 quan điểm phát triển,
bổ sung rất sâu sắc. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa:
Một là, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo và quan
điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng.
Hai là, Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Khi nghiên cứu văn hóa, giới chuyên môn đã sử dụng phạm trù “môi
trường văn hóa” để thể hiện mối quan hệ giữa con người và văn hóa.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin” (1981, Nxb. Văn hóa,
tr.75) các tác giả quan niệm: “Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định
những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau.
Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu
cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa
không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con
người hiện diện văn hóa”.
Huỳnh Khái Vinh trong tác phẩm “Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương
đại” nhấn mạnh: “Với tính chất là tổng thể (các hoạt động và sinh hoạt của con
người và các giá trị vật chất tinh thần cũng như điều kiện và cơ chế vận hành các
hoạt động và giá trị vật chất ấy), môi trường văn hóa luôn luôn can thiệp và quy
định các hoạt động sống, cách thức sống và cả lẽ sống của con người. Cái cốt lõi
tạo nên khuôn mẫu và chiều hướng vận động của môi trường văn hóa là chuẩn
mực giá trị xã hội” [128, tr. 382]
Từ góc nhìn giá trị học, tác giả Đỗ Huy trong “Xây dựng môi trường văn
hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học” nhấn mạnh vai trò của con
người khi đưa ra định nghĩa: “Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các
quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình” [59, tr. 35]
13
Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 129 ngày 2/8/2007 về Quy chế
văn hóa công sở tại các cơ quan nhà nước. Quyết định này có thể được xem như
căn cứ xây dựng và thực hiện VHHĐ như một loại hình văn hoá cộng đồng cần
được đặc biệt quan tâm.
Thuật ngữ VHHĐ hay văn hóa trường học bắt đầu xuất hiện tại các nước
nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và đánh giá vấn đề này. Từ điển Tiếng Anh định
nghĩa văn hóa trường học : school culture can be defined as the guiding beliefs
and values evident in the way a school operates (Văn hóa trường học có thể
được định nghĩa là niềm tin hướng dẫn do những giá trị rõ ràng trong cách một
trường hoạt động) hay “school culture” can be used to encompass all the
attitudes, expected behavior and values that impact how the school operates (Văn
hóa trường học có thể được sử dụng bao gồm tất cả những thái độ, hành vi
mong đợi và những giá trị tác động đến cách hoạt động của trường). Dù có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất mỗi trường học ngoài là tấm
gương phản chiếu những giá trị văn hóa, sự phát triển chung của cộng đồng đều
có những nét văn hóa riêng độc đáo tác động đến hoạt động của nhà trường .
Nghiên cứu của GS. Peter Smith Đại học Sunderlans cho thấy VHHĐ ảnh
hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của một nhà
trường. Các lý do cần phải nuôi dưỡng vun trồng VHHĐ tích cực, lành mạnh có
thể tóm tắt như sau:
-Sự phát triển của học sinh chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hóa -
xã hội mà họ lớn lên
- Văn hóa học đường lành mạnh giảm bớt sự không hài lòng của giáo viên
và giúp giảm thiểu hành vi cử chỉ không lịch sự của học sinh
- Văn hóa học đường tạo ra môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học,
khuyến khích GV và học sinh nỗ lực trong rèn luyện, học tập đạt thành tích
mong đợi...
Tổng hợp các quan niệm về VHHĐ của các học giả nước ngoài đã làm nổi
bật vị trí, vai trò của VHHĐ đối với sự duy trì và phát triển của trường học. Họ
đều khẳng định văn hóa là tài sản của tổ chức trường học, nó luôn chi phối trực
14
tiếp đến sự phát triển và tiến bộ của nhà trường cũng như nét đặc sắc riêng của
từng trường.
Ở Việt nam thuật ngữ VHHĐ được sử dụng chưa lâu nhưng nội dung của
VHHĐ trong các nhà trường ở Việt Nam từ xa xưa đã có và trở thành các truyền
thống quý báu của dân tộc ta như: tôn sư trọng đạo, kính thầy yêu bạn, nhất tự vi
sư bán tự vi sư, kính trên nhường dưới,... Nhiều thập kỷ qua, các nhà trường ở tất
cả các cấp học đều liên tục cố gắng phấn đấu để “thầy ra thầy, trò ra trò, trường
ra trường” với mục tiêu giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, xây dựng
trường học lành mạnh. Văn hóa học đường trở thành mối quan tâm đặc biệt của
các nhà lý luận, và tùy góc độ tiếp cận, VHHĐ được thể hiện với những nội
dung khác nhau:
Phạm Thị Kim Anh trong bài viết Văn hóa học đường – một góc nhìn từ
thực tiễn đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay số 10-2007 có một cách nhìn
và cách tiếp cận độc đáo về VHHĐ. Theo tác giả, VHHĐ bao gồm 4 yếu tố
cụ thể là văn hóa ứng xử, văn hóa dạy, văn hóa học, văn hóa thi cử.
Trên tạp chí Tâm lý học số 10 (10 - 2008) tác giả Đào Thị Oanh cho rằng:
VHHĐ là giá trị cần có của một nhà trường. Văn hóa học đường là một cấu trúc
gồm 3 thành tố có sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau là:
- Hệ thống thái độ và niềm tin của những cá nhân trong nhà trường.
- Hệ thống các chuẩn mực văn hoá của nhà trường.
- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, thành viên bên trong
trường với nhau, giữa các cá nhân của trường với cộng đồng
Trên mục “Bàn tròn văn hóa”, báo Lao động số 117 ra ngày 26 tháng 5 năm
2008, các tác giả khẳng định “Xây dựng văn hóa học đường có ý nghĩa quyết
định chất lượng đào tạo của các trường đại học”, VHHĐ được nhìn nhận trên 2
khía cạnh là khung cảnh sư phạm bao gồm vị trí xây dựng trường học, cơ sở vật
chất… và môi trường sư phạm với nội hàm phong cách giao tiếp trong nhà
trường giữa thầy với trò, thầy với thầy, trò với trò.
Trên tạp chí Tuyên giáo tháng 11-2009, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc
cho rằng VHHĐ Việt Nam cần đảm bảo 3 yếu tố: cơ sở vật chất đảm bảo, môi
trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử, giao tiếp chuẩn mực (TC Tuyên giáo,
tháng 11 năm 2009, tr.41). Tác giả Phạm Ngọc Trung sau khi khảo cứu các quan
15
niệm đã được xã hội hóa và đúc rút qua thực tiễn giảng dạy, định nghĩa: “Văn
hoá học đường là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành và
tích luỹ trong lịch sử bao gồm những suy nghĩ, quan niệm thói quen, tập quán, tư
tưởng, luật pháp... nhằm thiết lập mối quan hệ giữa thầy, trò và các thành viên có
liên quan để việc dạy và học đạt kết quả cao” [116, tr 51].
Phạm Văn Khanh quan niệm trường học là một tổ chức, vì vậy xem văn
hóa học đường là văn hóa tổ chức - một tổ chức sau khi được hình thành, tồn tại
và phát triển thì tự khắc nó sẽ dần dần hình thành nên những nề nếp, chuẩn mực,
lễ nghi, niềm tin và giá trị. Đó là sợi dây vô hình gắn kết các thành viên trong tổ
chức lại với nhau cùng phấn đấu cho những giá trị chung của tổ chức. Đó là nghi
lễ, đồng phục, không khí học tập trật tự, sinh hoạt nề nếp, đi học đúng giờ, tôn
trọng luật giao thông…Có thể nói, văn hóa tổ chức là yếu tố cơ bản trong văn
hóa học đường, nó hiện diện trong khắp các hoạt động của nhà trường. [Bài phát
biểu tại hội thảo khoa học toàn quốc “Tâm lý học và vấn đề cải thiện môi trường
giáo dục hiện nay” tại Cần Thơ ngày 13-7-2013]
Cùng xuất phát từ góc độ tổ chức, Phạm Thị Hường đưa ra khái niệm văn
hóa nhà trường (VHHĐ): “Văn hoá nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị,
chuẩn mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của
nhà trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được
thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho
mỗi tổ chức sư phạm”.
Trịnh Ngọc Toàn quan niệm văn hóa nhà trường (VHHĐ) là một tập hợp
các giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong nhà
trường cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của nhà trường đó. Căn cứ theo hình thức
biểu hiện thì văn hóa nhà trường gồm phần nổi có thể nhìn thấy như: không gian
cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành vi giao tiếp... và phần chìm không
quan sát trực tiếp được như: niềm tin, cảm xúc, thái độ...
Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi như một mẫu thức cơ bản,
tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho nhà trường thích nghi với môi
trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền
văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. văn hóa nhà trường sẽ
giúp cho nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội
16
tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo nên
sản phẩm giáo dục toàn diện
Nhìn chung các tác giả, các nhà khoa học dù cách, góc độ tiếp cận khác
nhau nhưng đều thống nhất với nhau: thứ nhất, VHHĐ liên quan đến toàn bộ
hoạt động vật chất, tinh thần của một nhà trường; thứ hai, VHHĐ biểu hiện trước
hết trong tầm nhìn, sứ mạng, triết lý giáo dục, mục tiêu, các giá trị, phong cách
lãnh đạo, quản lý... bầu không khí tâm lý; thứ ba, nó thể hiện thành hệ thống các
chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử... được xem là tốt đẹp và được
mỗi người trong nhà trường chấp nhận; thứ tư, VHHĐ có vai trò quan trọng góp
phần nâng câo chất lượng đào tạo của nhà trường, góp phần tích cực trong quá
trình hoàn thiện, phát triển nhân cách con người theo hướng Chân, Thiện, Mỹ
Nghiên cứu khái niệm VHHĐ còn có các quan niệm môi trường văn hóa
học đường, môi trường sư phạm....
Hồ Sĩ Lộc trong “Xây dựng văn hóa học đường trong một số trường đại
học ở Hà Nội hiện nay” (Đề tài cấp bộ 2011, mã số B.11-20) quan niệm: Môi
trường văn hóa học đường đại học là tổng hòa các mối quan hệ (mang tính văn
hóa) giữa các cá nhân (giảng viên, sinh viên, cán bộ, công nhân viên) và các tổ
chức thành viên (khoa, phòng, ban, viện, trung tâm, lớp học) trong nhà trường
trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần trong một thời gian xác định thuộc
phạm vi không gian trường đại học đó nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo được
những cá nhân có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp,
khỏe mạnh về thể chất và phong phú về đời sống tinh thần đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động và tham gia đóng góp vào sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Liên quan đến việc xây dựng văn hóa học đường, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và đào tạo đã ra chỉ thị số 40/CT-BGD&ĐT về việc phát động phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” trong các trường phổ thông
giai đoạn 2008-2013. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Kế hoạch số 307/KH-
BGD&ĐT ngày 22/07/2008 nhằm triển khai chỉ thị nói trên. Đây là nội dung văn
hóa học đường trong các trường phổ thông, song nó là cơ sở quan trọng để tiếp
cận nội dung VHHĐ trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường đại học
17
nói riêng. Nội dung cụ thể của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện - học sinh tích cực” gồm:
- Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn.
- Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh giúp
các em tự tin trong học tập.
- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
- Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh.
- Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch
sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương: Nhận chăm sóc và phát huy giá trị các di
tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Thực hiện lồng ghép với các môn
học để giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, tinh thần cách mạng một cách có
hiệu quả nhất cho tất cả học sinh.
Như vậy, dù còn nhiều ý kiến khác nhau, dù bàn về các cấp độ và phạm vi
khác nhau nhưng các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục đều thống nhất:
mỗi trường học cần có VHHĐ của mình. Văn hóa học đường là các hệ thống
chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô giáo, phụ huynh, học
sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.
Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu về văn hóa học đường mà còn
nghiên cứu về vai trò, thực trạng của văn hóa học đường, nhận thức rõ vai trò
quan trọng của VHHĐ đối với sự phát triển của các trường đại học nói riêng,
giáo dục đào tạo nói chung. Có nhiều hội thảo khoa học, không ít các công trình
đề cập đến vai trò của VHHĐ dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung
đều khẳng định vai trò của VHHĐ là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng
giáo dục, thậm chí được coi là yếu tố quyết định chất lượng trong mục tiêu giáo
dục của nhà trường.
Viện Nghiên cứu sư phạm trong đề tài cơ sở “Văn hóa học đường- yếu tố
quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục” [125] xem VHHĐ là yếu tố quan
trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.
Tác giả Trương Lưu trong tác phẩm “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội”,
[79] cho rằng: thông qua VHHĐ, sinh viên và thầy giáo nhận ra điểm mạnh và
điểm yếu của chính mình từ đó định hướng và hoàn thiện nhân cách, kỹ năng
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý trong bài
18
viết “Nghiên cứu con người, đối tượng và những hướng chủ yếu”, Niên giám
nghiên cứu số 1 (Nxb. Khoa học xã hội, 2002) cũng cho rằng: xây dựng VHHĐ
tạo điều kiện để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào trong trường đại học.
Kinh nghiệm Singapore là một nước có nền giáo dục được xem là toàn
diện và phát triển nhất Đông Nam Á. VHHĐ (văn hóa trường học) ở
Singapore được chú trọng xây dựng. Mỗi trường đều có logo, biểu tượng và
khẩu hiệu hành động rõ ràng. Các vấn đề về nghi thức, trang phục cũng được
quan tâm. Vấn đề hợp tác, xây dựng nhà trường thành tổ chức học tập là một
trong những điểm cốt lõi trong định hình VHHĐ ở quốc gia này. Bên cạnh
trang bị cho học sinh các kiến thức và kỹ năng cần thiết trong chương trình
chính khoá, các trường học của Singapore cũng có rất nhiều hình thức tổ chức
hoạt động ngoại khoá lành mạnh và bổ ích, qua đó xây dựng tinh thần đoàn kết,
hợp tác, thân thiện giữa các học sinh.
Sự thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan được xây dựng trên ý tưởng
học ít hiểu nhiều. Các học sinh được học trong một không khí thoải mái và thân
mật. Các trường học ở đây cởi mở, không chịu sự gò ép về chính trị. Với sự kết
hợp này, người Phần Lan tin rằng không có trẻ em nào bị bỏ lại phía sau.
Từ những công trình khoa học đã phân tích dễ dàng nhận thấy có nhiều
cách tiếp cận VHHĐ nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Tùy theo mục đích, các
nhà nghiên cứu có thể nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác. Có ý kiến
khẳng định VHHĐ là tập hợp các chuẩn mực, giá trị và niềm tin, các lễ nghi và
nghi thức, các biểu tượng và truyền thống tạo ra “vẻ bề ngoài” của trường học. Ý
kiến khác cho rằng: VHHĐ là một cấu trúc, một quá trình, là các giá trị và chuẩn
mực dẫn dắt giảng viên và sinh viên đến việc giảng dạy và học tập có hiệu quả.
Khuynh hướng thứ 3 tiếp cận VHHĐ đưa ra quan điểm về sự vận động, khẳng
định văn hóa nhà trường không phải là một thực thể tĩnh. Nó luôn được hình
thành và định hình thông qua các tương tác với người khác và thông qua những
hành động đáp lại trong cuộc sống nói chung. Văn hoá học đường phát triển
ngay khi các thành viên tương tác với nhau, thầy với thầy, trò với trò, nhà trường
với xã hội, cá nhân với cộng đồng. Nó trở thành chỉ dẫn cho hành vi giữa các
thành viên của nhà trường. Theo đó, VHHĐ có các chức năng biểu tượng, chức
năng xây dựng, chức năng hướng dẫn và chức năng gây cảm xúc. Nếu các chức
19
năng ấy của VHHĐ được làm tốt, mỗi thành viên trong các trường học sẽ vừa
thấm nhuần, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống và những phẩm giá quý báu
của dân tộc: như tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường,
đoàn kết vì đại nghĩa; tính trung thực, cần cù sáng tạo trong mọi hoạt động; sự
hiếu học và tôn sư trọng đạo…vừa đầy đặn lòng nhân ái, tình cảm vị tha và
khoan dung; tính trung thực, cần cù sáng tạo trong mọi hoạt động; có hành động
và thái độ rõ ràng đối với những hiện tượng phản văn hóa.
Trong môi trường học đường, văn hóa được chia làm 2 nội dung là văn hóa
vật chất biểu hiện qua cơ sở vật chất nhà trường, khuôn viên trường và văn hóa
tinh thần như tinh thần dân chủ, giao tiếp, ứng xử... Như vậy, có thể hiểu VHHĐ
là toàn bộ yếu tố vật chất (giảng đường, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành,
không gian, cảnh quan) đảm bảo tính thẩm mỹ, giáo dục, góp phần tạo nên môi
trường và phương tiện giáo dục tốt nhất; nội quy, quy chế của nhà trường phù
hợp với chuẩn mực văn hóa chung của xã hội, phù hợp với nội quy, quy định của
môi trường học đường đảm bảo cho các hoạt động trong trường học diễn ra lành
mạnh, đạt mục tiêu giáo dục là đào tạo những con người toàn diện, có đủ đức,
trí, mỹ, thể, có tri thức và có hoài bão khát vọng vươn lên.
Xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên là một công việc
vô cùng quan trọng góp phần tạo nên những thành công lớn trong sự nghiệp giáo
dục cho các trường đại học. Một số nhà khoa học tuy có đề cập đến xây dựng
môi trường VHHĐ ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đó là những vấn
đề mang tính tổng hợp và lý luận, chưa có nhiều công trình thực sự đi sâu vào
nghiên cứu VHHĐ trong trường đại học. Theo đó tiêu chí xây dựng VHHĐ
trong trường đại học tuy có được gợi mở nhưng lại chưa được xem xét một cách
toàn diện với tư cách là một đối tượng nghiên cứu của công trình khoa học.
1.1.2. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục văn hóa học đường
Giáo dục với tư cách là một ngành khoa học không thể tách rời những
truyền thống giáo dục từng tồn tại trước đó. Trong xã hội, người đi trước, người
có kiến thức, kỹ năng giáo dục thế hệ tiếp theo, người chưa biết những kiến thức
và kỹ năng cần thiết. Mức độ sâu sắc và quảng bác của hiểu biết con người được
bảo tồn và trao truyền ngày càng gia tăng. Sự phát triển văn hóa và sự tiến hóa
của loài người, phụ thuộc vào lề lối trao truyền hiểu biết và kinh nghiệm… Khi
20
các nền văn hóa lan tỏa rộng ra, việc trao truyền kỹ năng giao tiếp, đổi chác,
kiếm ăn, thực hành tôn giáo,… theo phương thức kinh nghiệm giảm đi và việc
giáo dục có tổ chức, theo chương trình, có mục đích trở lên phổ biến. Giáo dục là
một quá trình dạy và học nhằm chuẩn bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết
hoặc làm thay đổi hành vi có hại bằng hành vi có lợi. Giáo dục cũng là quá trình
giao tiếp hai chiều qua đó người dạy và người học cùng chia sẻ hiểu biết, kinh
nghiệm và cùng học tập lẫn nhau.
Về môi trường giáo dục, theo “Từ điển giáo dục học” (Bùi Hiển, Nguyễn
Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Nxb Từ điển bách khoa,
HN, tr. 264) là “Tập hợp những không gian, những hoạt động xã hội và cá nhân,
những phương tiện về giao lưu, những quá trình, phối hợp lại với nhau và tạo
điều kiện thuận lợi để đạt những kết quả giáo dục có hiệu quả nhất”. Liên quan
đến khái niệm môi trường giáo dục còn có khái niệm môi trường nhà trường:
“Môi trường nhà trường, là tập hợp những con người, những cơ sở vật chất, kỹ
thuật và những phương tiện, thiết chế tổ chức quản lý, tương tác lẫn nhau một
cách thường xuyên, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công
của việc học ở nhà trường”. Môi trường nhà trường là nơi hoạt động giáo dục có
chủ đích, có kế hoạch của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến người học.
Trong giáo trình Giáo dục học, tập 1 [91], các tác giả đã đưa ra những vấn
đề chung về giáo dục như: làm rõ các quan niệm vai trò của giáo dục trong việc
hình thành nhân cách con người theo lứa tuổi cũng như vai trò của giáo dục đối
với sự phát triền xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục gắn với quá trình hình
thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của đối tượng theo mục đích của chủ
thể giáo dục và được xã hội chấp nhận.
Nhân cách là nội dung quan trọng của quá trình giáo dục đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm như: Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, của tập thể các nhà khoa
học Liên Xô (Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, 1983). Các tác giả đã nghiên
cứu những vấn đề có liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách trong
điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
Trong cuốn sách Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên, tác giả Hoàng Anh [2] đã làm rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên.
21
Các giá trị văn hóa tinh thần là một trong những nhân tố tác động đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay ở Việt Nam. Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu:
- Hoàng Đức Nhuận, “Kết quả điều tra về vai trò của nhà trường trong việc hình
thành và phát triển con người Việt Nam” (Đề tài KX-08, Hà Nội, 1995)
- Nguyễn Thế Kiệt, “Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định
hướng các giá trị đạo đức hiện nay" (Tạp chí Triết học, số 6/1996);
- Hoàng Chí Bảo: "Văn hóa và sự phát triển nhân cách của thanh niên" (Tạp
chí Nghiên cứu lý luận số 1/1997);
- Lê Thị Thủy, "Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của
con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay" (Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000) với thông điệp
giáo dục nghề nghiệp phải gắn liền với giáo dục văn hóa, đạo đức lối sống và
phải được thể hiện ngay trong cấu trúc, chương trình đào tạo, trong từng môn học.
- Trần Sĩ Phán, “Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999), v.v…
Các công trình kể trên đã đề cập nhiều đến việc giáo dục văn hóa nói
chung, văn hóa dân tộc với các khía cạnh: quá trình hình thành và phát triển; vai
trò, tác dụng của nó trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong công
cuộc xây dựng đất nước; những nội dung, khía cạnh cơ bản của văn hóa nói
chung và văn hóa dân tộc; những biểu hiện văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục VHHĐ là hướng đi của một
số công trình khoa học.
Ở nước ngoài, từ lâu các học giả cũng tỏ ra quan tâm đến việc xây dựng
chiến lược nhằm thúc đẩy công cuộc GDVHHĐ. Trong cuốn sách Văn hoá học
đường là gì? (Deal, T. & Peterson, K.(2009)) các tác giả đã bàn đến chiến lược
xây dựng văn hoá học đường (Mạng Google, 10-1-2009). Ở Mỹ, Úc, các trung
tâm nghiên cứu đã tổ chức khảo sát thực tiễn, đã tiến hành đánh giá vai trò của
VHHĐ (văn hóa trường học) đối với sự phát triển của giáo dục. Mặc dù tư liệu
không nhiều nhưng tất cả các tác giả đều nhất trí rằng mỗi trường cần có
văn hoá học đường của mình; thực tiễn đã chứng minh tác dụng tích cực của
22
văn hoá học đường, chống lại văn hoá độc hại, tiêu cực; mục tiêu chung nhất của
văn hoá học đường là xây dựng trường học lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi
cho đảm bảo chất lượng đào tạo cũng như danh tiếng của các trường.
Xác định tầm quan trọng của GDVHHĐ và sự cần thiết phải xây dựng
VHHĐ, các nhà khoa học đã nghiên cứu nội dung cơ bản của VHHĐ và thực
trạng giáo dục VHHĐ trong các trường đại học Việt Nam.
- Trong chuyên khảo Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất
nước, do Nguyễn Viết Chức chủ biên [16], các tác giả cho rằng ở các trường đại
học, nội dung cơ bản của xây dựng VHHĐ là: giáo dục nếp sống văn hóa lành
mạnh cho sinh viên và xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa thầy với thầy, thầy
với trò, trò với trò, giữa thầy, trò với cán bộ công nhân viên.
- Viện nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển khoa học công nghệ tài
năng trẻ trong tập chuyên luận Thế hệ trẻ Việt Nam - Nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, [124] đã nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất trong
trường đại học là để đáp ứng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo đạt chất lượng cao.
-Phạm Minh Hạc trong tác phẩm Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI [42] nhấn mạnh giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên trong học tập,
sinh hoạt, văn hóa, tiêu dùng và trong ứng xử giữ vai trò quan trọng.
“Văn hóa học đường đang bị xuống cấp” là nhận xét của đông đảo nhân
dân và các nhà khoa học. Điều này được thể hiện trong các bài viết:
- “Báo động văn hoá học đường xuống cấp”, Báo Lao động, ngày
13/12/2009;
- Hồng Đức, “Thực trạng văn hoá học đường”, Bản tin ĐHQG Hà Nội – số
174, tháng 8/2005;
- Trần Anh Quốc, “Văn hoá học đường ngày càng bị ô nhiễm”, Báo Lao
động, số 132 ngày 11/6/2007;
- Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc
nhìn giá trị học, Viện văn hóa, Nxb Thông tin;
- Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, Nxb Giáo dục;
- Viện Nghiên cứu sư phạm Trường Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức Hội
thảo khoa học (9-2007) chuyên đề: Xây dựng văn hoá học đường - Giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
23
Khía cạnh ứng xử trong VHHĐ là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà khoa học :
- Nguyễn Thanh Tuấn trong sách Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay (Nxb.
Từ điển bách khoa và Viện Văn hóa. HN, 2008) [113] cho rằng khái niệm lối
sống hay văn hóa lối sống tương đương với văn hóa ứng xử. Lối sống là cách
ứng xử của con người với môi trường sống, gồm môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội.
- Nguyễn Tiến Thông trong chuyên luận Một số vấn đề giao tiếp [110] cho
rằng văn hóa ứng xử là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con
người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với
các điều kiện một hình thái xã hội nhất định.
- Mạc Văn Trang trong đề tài Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện
nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên - đề tài
nghiên cứu cấp Bộ, B94-38-32, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, HN, 1995
đã nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên. Tác giả cho rằng, con đường để nắm
bắt nội dung và phạm vi của văn hóa ứng xử là tìm hiểu các hành động xã hội và
các khuôn mẫu ứng xử.
- Quốc Việt trong bài viết “Văn hóa giao tiếp học đường: Thầy và trò chưa
là bạn của nhau” (Báo Thanh Niên ngày 15/08/2009) đã phân tích kỹ vị trí, vai
trò của văn hóa giao tiếp trong trường học. Tác giả cho rằng trong quan hệ giao
tiếp giữa thầy và trò cần phải bảo đảm chuẩn mực thầy ra thầy, trò ra trò, không
nên xóa bỏ ranh giới giữa thầy và trò.
- Nguyễn Đức Minh trong Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác
sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng Hà Nội [85] cho rằng: Để nâng cao
chất lượng công tác sinh viên cần tập trung vào giáo dục thể chất, ý thức trong
học tập, rèn luyện, quan hệ ứng xử với giảng viên, sinh viên, cán bộ công nhân
viên phải đúng mực theo đúng giá trị đạo đức.
- Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang trong Giá trị định
hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị (Chương trình khoa học, công nghệ
cấp Nhà nước KX-07-04, HN 1995) [122] đã đưa ra hàng loạt giá trị chuẩn mực
đạo đức trong nhà trường, coi đó là khuôn mẫu để áp dụng cho các trường đại
học khi triển khai GDVHHĐ.
24
- Phùng Hữu Phú trong Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng môi
trường văn hóa ở các trường đại học- cao đẳng Hà Nội [96] đề cao vai trò của
các tổ chức Đảng, đoàn trong trường đại học đối với việc xây dựng VHHĐ.
- Nguyễn Phương Hồng trong chuyên khảo Thanh niên, sinh viên với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa , [65] đã đề cao trách nhiệm của sinh viên
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục đích của việc xây dựng
VHHĐ là để đào tạo ra những sinh viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
chuyên môn sâu rộng.
Trong những năm qua, nhiều nổi cộm về VHHĐ liên tục diễn ra: không có
ý thức góp phần xây dựng, bảo vệ cơ sở vật chất, khuôn viên trường, phá hoại tài
sản chung, lãng phí điện nước, thiếu tự tin, tự lập, ngại giao tiếp, thô lỗ, mất lịch
sự trong xưng hô, giao tiếp, ăn mặc phản cảm, sống đua đòi, ích kỉ, vô tâm, thiếu
trách nhiệm với bản thân và gia đình... Từ thực trạng đáng báo động này, các nhà
khoa học đã nhận thức sâu sắc được vấn đề cần phải GDVHHĐ cho sinh viên
bởi “Văn hóa học đường là văn hóa diễn ra trong trường học, thể hiện các chuẩn
mực đạo đức của xã hội, trong đó, quan hệ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò,
giữa trò với trò là quan hệ chủ đạo. Xây dựng VHHĐ có ý nghĩa quyết định tới
chất lượng giáo dục đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn tới cộng đồng xã hội’’. Đây
là khẳng định của các tác giả Nguyễn Minh Chung [15], Nguyễn Hồng Hà [40],
trong công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Sư phạm.[125].
Nói chung, văn hóa học đường chưa được nhìn nhận đúng mức đáng có
trong các trường đại học, chưa có tiêu chí khảo sát, đánh giá và chưa được
nghiên cứu xứng tầm với vai trò của nó, công tác giáo dục văn hóa học đường
chưa thực sự được chú trọng.
Hầu như chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu và xây
dựng, đánh giá kết quả giáo dục VHHĐ trong hệ thống các trường đại học ở
Hà Nội. Có chăng chỉ là những bài báo mang tính tổng kết, đánh giá chung về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống hoặc nêu ra những tệ nạn xã hội trong
các trường đại học với những giải pháp xử lý mang tính tổng quát chung
chung. Có thể bắt gặp nhiều bài viết đề tài này của các nhà quản lý giáo dục,
các nhà sư phạm, nhà nghiên cứu, những người làm công tác đoàn thanh niên,
25
Hội sinh viên trên các báo, tạp chí dành cho thế hệ trẻ như Thanh niên, Tuổi
trẻ, Tuổi trẻ Thủ đô, Tiền phong, Sinh viên Việt Nam, trong một số hội thảo
chuyên đề của một trường đại học, các đề tài về nâng cao chất lượng đào tạo,
đổi mới giáo dục đào tạo… và các báo tạp chí của ngành giáo dục như Giáo
dục và Thời đại, Khuyến học và Dân trí, Tạp chí Giáo dục… cùng một số tập
san, nội san của các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Có thể nói rằng, cho
đến nay ở nước ta chưa có nhà quản lý, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nào
đi sâu nghiên cứu, đánh thực trạng, kết quả GDVHHĐ cho sinh viên trong các
trường đại học nói chung và các trường đại học ở Hà Nội nói riêng.
1.2. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục văn hoá học đường
1.2.1. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục
Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm hiệu quả được hiểu là : kết quả như
yêu cầu của việc làm mang lại. Trong từ điển Le Petit Lasousse: “Hiệu quả là kết
quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định” [144, tr 57]. Trong
ngôn ngữ Anh, effective (hiệu quả) được giải ngữ là saccessful in peodueing a
desired ar intended xesult (thành công trong việc tạo ra một kết quả được mong
đợi hoặc đạt mục đích). Trong khi đó các nhà quản lý hành chính lại cho rằng:
Hiệu quả là mục tiêu chính của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi
phí đầu tư với các giá trị đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là
mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra đầu vào. Như vậy, hiệu
quả là một phạm trù so sánh giữa chi phí (các nguồn lực) và kết quả thu được.
Vấn đề hiệu quả được quan tâm cả trong lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần. Trong kinh tế học, hiệu quả là một khái niệm cơ bản và được phân
định khá rạch ròi với khái niệm kết quả và chất lượng. Kết quả là toàn bộ sản
phẩm mà quá trình sản xuất tạo ra, bao gồm cả số lượng và chất lượng, trong đó
chất lượng là những tính chất của sản phẩm mà có thể đem đến sự thoả mãn nhu
cầu của người sử dụng.
Các nhà khoa học Liên Xô dựa vào luận đề của V.I.Lênin về hiệu quả công
tác nói chung là “…có khả năng thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc nhất
mà lại ít tốn sức nhất”[80, tr.79] để xây dựng khái niệm hiệu quả giáo dục “… là
sự tương quan giữa kết quả tác động tư tưởng đã đạt được so với những mục tiêu
26
xây dựng giác ngộ cộng sản chủ nghĩa và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con
người” [132, tr. 299].
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm đến tiêu chí và phương
pháp đánh giá hiệu quả giáo dục. Trong đó, tiêu chí đánh giá chủ yếu dựa vào sự
hiểu biết, thái độ và hành vi của đối tượng. Trong một công trình nghiên cứu về
lý thuyết tuyên truyền “Propaganda”, tác giả đã chỉ ra 4 phương pháp (measure
the effects of the propaganda) để đo hiệu quả tuyên truyền, bao gồm: nghiên cứu
thực nghiệm có kiểm soát (controlled experiment), phân tích dữ liệu thống kê
(content analysis), quan sát thực tiễn (practicipant observers) và phỏng vấn nhóm
nhắc lại (panel interview – repeated interview) [139]
Trong cuốn giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh
nghiệp, tác giả Ngô Đình Giao cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù phản ánh
chất lượng hoạt động sản xuất, kinh doanh và được xác định bởi tỷ số giữa kết
quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Hiệu quả kinh tế được biểu hiện
qua phạm trù hiệu quả kinh doanh [37, tr 408]. Tác giả Nguyễn Văn Tạo, trong
bài viết “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh tế thị
trường” đăng trên Tạp chí Thương mại [104, tr 25-27] cho rằng hiệu quả kinh
doanh không chỉ là sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu
ra, mà là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu, không thể có
hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu cần phải sử dụng nguồn lực một cách hợp lý
nhất, không nhất thiết phải giảm nguồn lực nếu quy trình sản xuất đã hoàn thiện.
Nhiều nhà khoa học trong nước đã quan tâm nghiên cứu về tiêu chí đánh
giá hiệu quả công tác tư tưởng, công tác giáo dục theo các góc độ khác nhau
nhưng đều đề cập đến sự thay đổi nhận thức và hành động ở đối tượng sau khi có
tác động của giáo dục. Trong tuyển tập “Một số vấn đề về công tác tư tưởng”,
tác giả Đào Duy Tùng cho rằng: tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng
là ở nhận thức và hành động nhưng không phải mọi hành động tích cực của con
người đều là kết quả của giáo dục. Ở bình diện xã hội đó là kết quả hình thành
đường lối chính trị, kinh tế và văn hóa tinh thần của xã hội ; mức độ quán triệt,
truyền bá đường lối; mức độ chi phối của hệ tư tưởng, bầu không khí tâm lý xã
hội lành mạnh; kết quả xây dựng con người mới XHCN. Trong mỗi nhiệm vụ
chính trị cụ thể, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả là: nhận thức chính trị; nhiệt tình
27
cách mạng, ý thức trách nhiệm; tri thức chuyên môn; hành động cụ thể và mức
độ chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người. Ngoài ra, còn có thể đánh giá
tiêu chuẩn cho từng bộ phận trong công tác tư tưởng [120, tr. 133-153].
Trong cuốn Nghiệp vụ công tác tuyên giáo do Ban Tuyên giáo Trung ương
xuất bản năm 2008, các tác giả cho rằng: hiệu quả công tác tư tưởng được đánh
giá thông qua những chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, thái độ của các giai
cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện ở kết quả kinh tế, chính trị, xã hội, phong
trào theo các mức độ: lâu dài, trước mắt, trực tiếp [5, tr.15 ].
Bàn về hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tác giả Vũ Ngọc Am
trong cuốn “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên
cơ sở” khẳng định đánh giá hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng là một vấn đề
rất khó, phải cân nhắc, xem xét toàn diện. Cần phân biệt kết quả và hiệu quả,
mặc dù hiệu quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trước hết là kết quả,
phải lấy kết quả để tính hiệu quả, nhưng hiệu quả lại không đồng nhất với kết
quả. Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng biểu hiện ở trình độ nhận
thức, tính tự giác cách mạng, tinh thần hăng say, tận tụy trong hành động cách
mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Trong đó, hành động và hành vi của
mỗi người trong thực tế là thước đo, là tiêu chuẩn quyết định tính hiệu quả của
công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Khi đánh giá hiệu quả phải xem xét, căn cứ
việc áp dụng đổi mới hình thức và phương pháp thực hiện sao cho có hiệu quả
mà lại giảm chi phí, phải tính toán đến tất cả những chi phí vật chất một cách tiết
kiệm nhất. Hiệu quả tỷ lệ nghịch với các chi phí vật chất của hoạt động giáo dục
chính trị tư tưởng. Nếu kết quả đạt được mà chi phí quá lớn, không thể nói là
hiệu quả cao [ 1, tr.131-140]. Theo Trần Thị Anh Đào, cơ sở đánh giá hiệu quả
là sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng sau khi được tác động
tư tưởng [33, tr.39]. Tác giả Hà Học Hợi cho rằng, hiệu quả công tác tư tưởng
được đánh giá bằng cả sự cố gắng của chủ thể và những chuyển biến về nhận
thức, tư tưởng của đối tượng, thể hiện trong kết quả kinh tế, chính trị, xã hội và
các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Tác giả đưa ra
ba tiêu chí đánh giá hiệu quả: mức độ tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; mức
độ nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng; sự chuyển biến của
28
nhận thức thành phong trào quần chúng qua mức độ tích cực, tự giác, số lượng
người tham gia, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ [54, tr. 27].
Có thể nói, công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất về hiệu quả công tác tư
tưởng, công tác giáo dục hiện nay là cuốn “Nguyên lý công tác tư tưởng”, tập 2
do Lương Khắc Hiếu chủ biên. Đây là công trình nghiên cứu hệ thống và sâu sắc
về hiệu quả công tác tư tưởng và công tác giáo dục. Tác giả đã đưa ra khái niệm
hiệu quả công tác tư tưởng là: sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động
tư tưởng mang lại với mục đích của công tác tư tưởng được đặt ra và với chi phí
để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định. Về phân loại, công
tác tư tưởng có hiệu quả chung (toàn xã hội) và hiệu quả cụ thể; hiệu quả lâu dài
và hiệu quả trước mắt; hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn [47, tr. 280-281].
Ngoài đưa ra khái niệm hiệu quả tác giả Lương Khắc Hiếu còn đưa ra các
tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng bao gồm hai nhóm: tiêu chí tinh
thần và tiêu chí thực tiễn. Hai nhóm tiêu chí này được đánh giá ở bình diện toàn
xã hội và ở bình diện cụ thể (một nội dung, một nhiệm vụ, một hình thức, một
phương tiện, một nhóm đối tượng). Ở bình diện xã hội, tiêu chí tinh thần là tính
khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; khả năng vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách vào thực
tiễn cách mạng; mức độ truyền bá, thâm nhập, chiếm lĩnh của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật trong đời sống
tinh thần cá nhân và xã hội; trình độ, năng lực, phương pháp tư duy lý luận của
các nhóm đối tượng và của toàn xã hội. Tiêu chí thực tiễn bao gồm: tính tích cực
lao động - sản xuất, tính tích cực hoạt động chính trị - xã hội, tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; quy mô tính chất các phong trào hành động
cách mạng của quần chúng. Ở bình diện cá nhân, tiêu chí tinh thần là nhận thức
và niềm tin, tiêu chí thực tiễn là tính tích cực hành động của con người. Cũng
đồng tình với quan điểm nêu trên, trong cuốn “Công tác tư tưởng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, tác giả Trần Thị Anh Đào cho rằng: hiệu
quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa kết quả mà công tác tư tưởng đạt
được so với mục đích của công tác tư tưởng được xác định từ trước trong một
điều kiện xã hội nhất định và với một chi phí nhất định. [33, tr.38]. Hiệu quả tỷ
29
lệ nghịch với mục đích và chi phí nhưng nếu không chi phí gì hoặc xác định mục
đích quá thấp cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Lương Ngọc Vĩnh trong luận án Tiến sĩ chuyên ngành công tác tư tưởng
đưa ra định nghĩa về hiệu quả công tác giáo dục Chính trị tư tưởng : Là sự tương
quan giữa kết quả lĩnh hội tri thức chính trị, hình thành niềm tin chính trị và tính
tích cực chính trị - xã hội ở đối tượng sau tác động giáo dục của chủ thể với mục
đích đã xác định và sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những
điều kiện cụ thể. [129, tr. 52]
Qua một số khái niệm về hiệu quả, nhất là khái niệm được xây dựng dưới
góc độ chuyên ngành công tác tư tưởng, đều xem hiệu quả vừa là mục tiêu, vừa
là thước đo đánh giá trình độ, năng lực của chủ thể, mức độ chuyển biến về nhận
thức, thái độ, hành vi của đối tượng và những chi phí cần thiết để đạt mục đích
đề ra. Vì vậy, khi xem xét đánh giá một hoạt động (công tác, chương trình, lĩnh
vực...) trong một thời kỳ, một giai đoạn đã qua hay xây dựng kế hoach, mục tiêu,
nhiệm vụ cho một thời kỳ, một giai đoạn mới bao giờ người ta cũng phải căn cứ
vào hiệu quả của quá trình trước đó
Ngoài ra, các nhà khoa học còn chỉ ra 6 đặc điểm của việc đánh giá hiệu
quả công tác tư tưởng và khẳng định hiệu quả công tác tư tưởng luôn nằm ở đối
tượng và chỉ có thể đánh giá ở đối tượng. Khi đánh giá hiệu quả công tác tư
tưởng cần phải quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể. Để
đánh giá hiệu quả cần xác định kết quả của quá trình tác động tư tưởng. Muốn
đánh giá kết quả có thể sử dụng các phương pháp định lượng như: phỏng vấn
(câu hỏi đóng), bảng hỏi (câu hỏi đóng), điều tra, thống kê và các phương pháp
định tính như: phỏng vấn (câu hỏi mở), bảng hỏi (câu hỏi mở), thảo luận nhóm,
quan sát, phân tích nội dung.
1.2.2. Nghiên cứu về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
Hiệu quả GDVHHĐ là nội dung chưa được nghiên cứu nhiều, cần được
nghiên cứu một cách hệ thống, nghiêm túc. Trong quá trình triển khai nội dung
luận án, tác giả có thể không bao quát được toàn bộ tài liệu, nhưng có thể nói
những tài liệu nghiên cứu về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường rất ít. Có thể
kể đến một vài hội thảo bàn về VHHĐ và ít nhiều đề cập đến HQGDVHHĐ như
trong tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên nghiên cứu Khoa học lần thứ 8 Đại
30
học Đà Nẵng năm 2012. Trong số các tham luận khoa học, HQGDVHHĐ được
nhắc đến nhưng chưa được nghiên cứu kỹ, nghiên cứu một cách hệ thống. Ví dụ
tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa học đường cho sinh viên
trường đại học Ngoại ngữ - đại học Đà Nẵng của nhóm tác giả Tăng Thị Hà Vân,
Đinh Thúy Vy, Lớp 10CNA 04, Khoa tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ -
ĐHĐN. Trên tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông của Học viện Báo chí và
Tuyên truyền số tháng 3/2015 có bài viết: “Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo
dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện nay” của Trần Thị Tùng Lâm, trong
đó HQGDVHHĐ bước đầu được phân tích và nhận diện và đưa ra một số giải
pháp mang tính định hướng cũng như cụ thể nhằm nâng cao HQGDVHHĐ cho
sinh viên .
Trong trường đại học hiện nay, xây dựng và GDVHHĐ là mục tiêu phấn
đấu lâu dài, là nền tảng để xây dựng và phát triển thương hiệu của mỗi trường.
Mặt trái của kinh tế thị trường, tâm lý tiêu cực trong xã hội hiện nay… đang tác
động mạnh mẽ đến môi trường giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.
Thực tế đó cũng đang là lực cản đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta. Chính vì
thế, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ
là việc làm cấp bách; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp GDVHHĐ là
một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi nhiều tâm huyết, trí tuệ, thời gian và công sức.
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
1.3.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu
Xây dựng VHHĐ và GDVHHĐ và là một vấn đề phức tạp, khó vì liên quan
đến quan niệm, tâm lý, thói quen của con người. Vấn đề này được các nhà khoa
học, các nhà quản lý giáo dục, những người trực tiếp tiến hành giáo dục, xã hội
và gia đình trong và ngoài nước ít nhiều quan tâm. Nhìn chung, các công trình
chủ yếu trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu về hiệu quả giáo dục nói chung và
hiệu quả trong giáo dục các vấn đề cụ thể trong đó có GDVHHĐ đã thống nhất
được một số vấn đề cơ bản, một số khía cạnh của vấn đề được nghiên cứu kỹ,
một số nội dung khác mới chỉ được đề cập mà chưa được giải quyết triệt để như:
- Các công trình nghiên cứu về văn hóa nói chung và văn hóa ngoại hiện
trong các lĩnh vực cụ thể về cơ bản đã làm rõ vị trí, vai trò, chức năng và nội
31
dung của văn hóa đối với sự phát triển bền vững. Đồng thời các công trình trên
cũng đã chứng minh tầm quan trọng của việc kế thừa, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống quý báu của dân tộc trong quá trình phát triển và hội nhập hiện
nay, với mục đích nâng cao nhận thức, hình thành niềm tin và cổ vũ hành động
xã hội tích cực phù hợp với yêu cầu của cộng đồng, sự tự giác của đối tượng.
- Dù tiếp cận với tư cách là một hoạt động hay một mặt công tác của các tổ
chức, các nhà quản lý giáo dục, quản lý xã hội, VHHĐ cũng đã bước đầu được
nhận diện và nghiên cứu. Hoạt động GDVHHĐ có mục đích là hình thành phẩm
chất, năng lực, thái độ, hành vi đúng đắn, có văn hóa phù hợp với cộng đồng xã
hội, phù hợp với xu thế phát triển chung cho đối tượng.
- Tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng đa số các tác giả đều thừa nhận
hiệu quả hoạt động giáo dục nói chung hay giáo dục từng lĩnh vực cụ thể như
chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống...cổ vũ hướng dẫn hành động phù hợp của
đối tượng là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí. Đặc biệt
HQGDVHHĐ đã được đề cập và gợi mở hướng nghiên cứu cho tác giả trong
luận án.
- Trong các công trình nghiên cứu, các nhà khoa học bước đầu đã đề ra
cách phân loại, quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả công tác giáo dục
tư tưởng nói chung và giáo dục từng vấn đề, nhiệm vụ nói riêng nhằm hay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi ở đối tượng, đưa ra một số tiêu chí hoặc tiêu chuẩn
đánh giá hiệu quả công tác giáo dục ở nhận thức thái độ, hành vi cho đối tượng.
Đây không phải là nội dung nghiên cứu chính của luận án, nhưng kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học cũng giúp tác giả luận án có được hướng đi đúng,
khoa học khi triển khai nội dung đề tài nghiên cứu về HQGDVHHĐ cho sinh
viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Mặc dù chưa bàn trực tiếp đến hiệu quả GDVHHĐ nhưng kết quả nghiên
cứu của các công trình nêu trên là cơ sở lý luận vững chắc để tác giả luận án tiếp
tục đi sâu nghiên cứu bản chất, giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao
HQGDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà
Nội hiện nay. Nhưng do tiếp cận ở các góc độ khác nhau và nghiên cứu về các
nội dung khác nhau nên kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu nói trên
còn một số vấn đề chưa được làm rõ hoặc chưa thống nhất như sau:
32
Thứ nhất, do góc độ tiếp cận, mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
khác nhau nên khái niệm VHHĐ với nội dung, cấu trúc ở mỗi tác giả, mỗi công
trình lại có quan niệm khác nhau. Nội dung, hình thức truyền bá, giáo dục chủ
yếu về văn hóa nói chung và xây dựng VHHĐ ở nhiều cấp học nói chung đã
được nghiên cứu, nhưng chưa đầy đủ, các nhà nghiên cứu chưa đưa ra được bộ
tiêu chí cho từng cấp học dẫn đến chưa gắn kết GDVHHĐ với các hoạt động
khác của giáo dục, giáo dục tư tưởng - chính trị trong nhà trường. Chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về hiệu quả GDVHHĐ. Tuy
thống nhất quan niệm hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và
chi phí nhưng chưa đi sâu làm rõ các yếu tố cấu thành hiệu quả cũng như vị trí,
vai trò, mối liên hệ giữa chúng... Một số công trình đánh giá hiệu quả ở chủ thể
và đối tượng, có công trình chỉ đánh giá ở đối tượng, có công trình đánh giá cả ở
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục tư tưởng, thái độ, kỹ năng.
Thứ hai, hầu hết các công trình chưa khảo sát khía cạnh kinh tế của hoạt
động giáo dục VHHĐ một cách đầy đủ, có hệ thống. Đặc biệt, chưa bám sát khái
niệm hiệu quả là sự “so sánh”, “tương quan” giữa kết quả với mục đích và chi
phí nên không chỉ ra được sự khác biệt giữa thực trạng hiệu quả, thực trạng chất
lượng hay kết quả của hoạt động giáo dục.
Thứ ba, các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục nói chung và
giáo dục văn hóa học đường nói riêng chưa được xác định rõ, hoặc nếu có thì
chưa thực sự là giải pháp riêng cho từng đối tượng, phạm vi nghiên cứu .
Thứ tư, các công trình nghiên cứu về giáo dục trong các trường đại học
thường tách thành hai mảng riêng biệt là giáo dục chuyên môn, kỹ năng và giáo
dục tư tưởng - chính trị trong đó GDVHHĐ chỉ được xem là một chuyên đề. Đến
nay, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về GDVHHĐ cho sinh viên
các trường đại học nói chung và hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường
đào tạo khối kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay nói riêng.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các kết quả đã nghiên cứu, với mục đích đã xác định,
luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau:
- Hệ thống hoá, hoàn thiện khái niệm VHHĐ, GDVHHĐ, xác định rõ vai
trò của GDVHHĐ trong trường đại học, làm cơ sở để xây dựng khái niệm,
33
tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học ở
Việt Nam.
- Cụ thể hoá lý luận chung về HQGDVHHĐ vào một đối tượng cụ thể là
sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay. Bổ
sung, phát triển lý luận về hiệu quả hoạt động giáo dục tư tưởng, giáo dục các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, pháp luật, giao thông,
giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc …; phân loại, các yếu tố tác
động, tiêu chí và những vấn đề có tính nguyên tắc trong đánh giá hiệu quả giáo
dục ở từng lĩnh vực để làm rõ thêm nội hàm khái niệm HQGDVHHĐ.
- Khảo sát, tổng kết thực tiễn GDVHHĐ và HQGDVHHĐ để khẳng định,
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đã nghiên cứu. Đề xuất khuyến nghị và giải
pháp có tính cần thiết và tính khả thi để nâng cao HQGDVHHĐ cho sinh viên.
Trong các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải
pháp để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình thực
hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận án tập trung vào tổng lược và đánh giá nội dung các
công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Quá trình thu thập tổng hợp, nghiên
cứu, phân tích các tài liệu đã tham khảo cho thấy hầu như các công trình, tài liệu
đều tập trung vào nghiên cứu những vấn đề văn hóa, VHHĐ, nội dung, cấu trúc
vai trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà trường, sự cần thiết phải xây
dựng và thực hiện VHHĐ, quan niệm về hiệu quả và các tiêu chí đánh giá hiệu
quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung, cấu trúc và vai trò của
VHHĐ trong trường đại học được đề cập và phân tích dưới nhiều góc độ khác
nhau cho thấy mối quan tâm của các nhà khoa học về những nội dung này. Đây
là cơ sở quan trọng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về VHHĐ và giáo dục
VHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Quá trình thu thập tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài liệu đã tham
khảo cho thấy hầu như các công trình, tài liệu đều tập trung vào nghiên cứu
những vấn đề văn hóa, VHHĐ, vai trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà
trường. VHHĐ có vai trò quan trọng trong việc củng cố và xây dựng những
phẩm chất tốt đẹp cho sinh viên, qua đó góp phần xây dựng một môi trường giáo
dục lành mạnh và đạt hiệu quả cao. Có rất ít công trình nghiên cứu bàn về vấn đề
34
giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong trường đại học, thực trạng và
giải pháp. Song chưa có công trình nào tổng kết đánh giá về hiệu quả giáo dục
VHHĐ cho sinh viên. Vì vậy, đánh giá HQGDVHHĐ cho sinh viên các trường
đại học ở Hà Nội hiện nay là một đề tài mới, có ý nghĩa khoa học cả về lý luận
và thực tiễn.
Với việc chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, có thể khẳng định, đề
tài luận án đã xác định được một hướng đi riêng, không trùng lặp với các công
trình khoa học đã nghiên cứu trước đây. Luận án sẽ phải xây dựng khung lý
thuyết với các nội dung: khái niệm hiệu quả và hiệu quả GDVHHĐ, tiêu chí
đánh giá hiệu quả GDVHHĐ, thực trạng hiệu quả GDVHHĐ trong các trường
đại học đào các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Kết quả của thực trạng sẽ giúp luận án
xác định những vấn đề cần giải quyết và là cơ sở khoa học để luận giải, đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường trong các trường
đại học ở Hà Nội hiện nay.
35
Chương 2
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên
2.1.1. Văn hóa học đường và nội dung văn hoá học đường
Văn hoá học đường là một loại hình văn hoá được hiểu theo nghĩa hẹp,
cũng như khi ta nói đến văn hoá đạo đức, văn hoá chính trị, văn hoá nghệ thuật,
văn hoá ngoại giao, văn hoá kinh tế...Văn hóa học đường là một thuật ngữ khoa
học còn mới mẻ nhưng lại đang là một vấn đề thực tiễn có tính cấp thiết, nhận
được sự quan tâm của xã hội, của những nhà quản lý giáo dục.
Văn hoá học đường có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống văn
hóa xã hội, trong hoạt động giáo dục nhà trường bởi vì nó tham gia trực tiếp vào
quá trình hoàn thiện nhân cách sinh viên, là nhân tố quan trọng góp phần thực
hiện sứ mạng, mục tiêu đào tạo và thương hiệu của các trường đại học. Quá trình
CNH, HĐH đất nước trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào
thế giới như hiện nay đòi hỏi chất lượng nguồn lực lao động ngày càng cao hơn
trước, do đó GDVHHĐ trong các trường đại học trở thành một trong những vấn
đề thời sự được xã hội quan tâm. Văn hoá học đường là sản phẩm văn hóa tinh
thần của xã hội, của tập thể người trong mỗi trường học và được biểu hiện thông
qua nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử văn hóa của cá nhân, tổ chức bộ máy hoạt
động của nhà trường. Tổng hợp các quan niệm, các khái niệm của các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu trước đó ở mục 1.1.1. có thể đưa ra khái niệm: Văn hóa học
đường là hệ thống những giá trị, những chuẩn mực vật chất và tinh thần được tích
lũy qua quá trình phát triển của nhà trường. Những giá trị đó tác động trực tiếp đến
nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên nhằm tạo nên môi trường văn hóa
chuẩn mực, phù hợp với mục đích giáo dục và tạo nên bản sắc riêng cho mỗi tổ
chức sư phạm.
Văn hoá học đường liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần
của một nhà trường. Nó biểu hiện trước hết trong sứ mạng, triết lý, chiến
lược, mục tiêu, hệ thống các giá trị, chuẩn mực cốt lõi, phong cách lãnh đạo,
quản lý... bầu không khí dân chủ, tinh thần sáng tạo. Sau đó VHHĐ được
36
biểu lộ thành hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử...
được xem là tốt đẹp và được mỗi thành viên trong nhà trường chấp nhận. Văn
hóa học đường là một khái niệm động. Nếu những chuẩn mực, giá trị xã hội
thay đổi, văn hóa học đường cũng sẽ thay đổi theo không nhiều thì ít. Do
vậy, việc xây dựng văn hóa học đường phải được thực hiện trong thời gian
dài mới đạt được kết quả tốt đẹp, bền vững. Nội dung của VHHĐ trong
trường đại học bao gồm những yếu tố cơ bản:
Thứ nhất, là hệ giá trị (được chia làm 2 loại: một là, các giá trị đã được kết
tinh trong cả quá trình xây dựng và trưởng thành của nhà trường. Hai là, những
giá trị mới mà các thành viên mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng
bước nhằm đem đến sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội).
Thứ hai, là những thiết chế, thể chế trong trường học đảm bảo cho hệ giá trị
được hiện thực hóa (tổ chức, quản trị).
Thứ ba, là những chuẩn mực hành vi được thực hiện thông qua các mối
quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường.
* Hệ giá trị
Giá trị thường được hiểu là những cái cần và có ích cho con người, cho xã
hội. Nó được coi như là thước đo, xác định những gì nên làm và không nên làm
trong cách hành xử chung và riêng của con người trong một tổ chức, một cộng
đồng. Tùy vào triết lý giáo dục của mình, có trường đề cao các giá trị nhân văn,
tình yêu thương giữa những thành viên. Có nhà trường đề cao tính cộng đồng
trách nhiệm và sự sáng tạo trong công việc; có nhà trường đề cao các giá trị như
sự trung thực, tính sáng tạo... có trường lại đề cao tinh thần dân chủ, khả năng
đổi mới thường xuyên để nâng cao chất lượng các hoạt động dạy học...
Hệ giá trị trong trường học có thể chia thành 2 loại. Thứ nhất, là các giá trị
mà nhà trường đã hình thành và vun đắp trong cả quá trình xây dựng và phát
triển. Thứ hai, là những giá trị mới mà cán bộ quản lý hoặc tập thể giáo viên,
người học mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng bước nhằm đem đến
sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Năm 2011, Trương Yên Minh (Học viện Giáo dục NIE, Singapore) đã cho
thấy thứ tự của 8 giá trị được xếp thứ hạng cao trong hệ giá trị văn hoá trường
học là:
37
1. Sự đổi mới (nhà trường luôn luôn đặt ở vị trí đầu tiên).
2. Chấp nhận rủi ro.
3. Trao quyền lực.
4. Sự tham gia của mọi người.
5. Tập trung vào kết quả.
6. Tập trung vào con người.
7. Làm việc nhóm.
8. Sự ổn định.
Còn ở Việt Nam, hệ thống các giá trị cốt lõi của giáo dục trong lịch sử đều
nói đến sự tôn trọng người thầy với “tôn sư trọng đạo”, nhấn mạnh “tiên học lễ,
hậu học văn”... Trong quá trình phát triển và hội nhập, nhất là ở bậc giáo dục đại
học những giá trị cốt lõi còn được bổ sung như đề cao sự sáng tạo, trí tuệ, tinh
thần dân chủ, tinh thần phản biện ...
* Những thiết chế, thể chế trong trường học đảm bảo cho hệ giá trị được
hiện thực hóa
Trường học là một tổ chức nên VHHĐ là văn hóa tổ chức. Một tổ chức sau
khi được hình thành, tồn tại và phát triển thì tự nó sẽ hình thành nên những quy
chuẩn, nề nếp, chuẩn mực, lễ nghi và những giá trị cốt lõi. Đó là sợi dây vô hình
gắn kết các thành viên trong tổ chức lại với nhau cùng phấn đấu cho những giá
trị chung của tổ chức.
Những thiết chế, thể chế trong trường học có thể nhìn thấy, dễ cảm nhận
khi tiếp xúc như:
- Phong cách thiết kế kiến trúc xây dựng, nội - ngoại thất, trang thiết bị, các
vật dụng (cơ sở vật chất), lôgô, biểu trưng...
- Cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế điều hành, hoạt động.
- Những thực thể vô hình như: triết lý, nguyên tắc, phương pháp, phương
châm, quy trình giải quyết vấn đề; hệ thống thủ tục, quy định...
- Các nghi thức trong các hoạt động sinh hoạt tập thể, cách thức tổ chức các
hội nghị, ngày lễ, các hoạt động văn nghệ, thể thao, câu lạc bộ...
- Ngôn ngữ, cách ăn mặc, chức danh...
- Các hình thức sử dụng ngôn ngữ như: các băng rôn, khẩu hiệu, ngôn ngữ
xưng hô, giao tiếp... các bài hát, các truyền thuyết, câu chuyện vui...
38
- Các hình thức giao tiếp và ứng xử với bên ngoài.
Có thể nói, văn hóa tổ chức, quản lý là yếu tố cơ bản trong văn hóa học
đường, nó hiện diện trong tất cả các bộ phận, các hoạt động của nhà trường:
Lãnh đạo nhà trường phải biết tổ chức, điều hành hoạt động giảng dạy, học
tập, vui chơi của giảng viên, sinh viên và hoạt động của các phòng, ban, khoa, trung
tâm một cách khoa học, có hiệu quả. Quan hệ giữa lãnh đạo nhà trường với các
thành viên khác phải được thực hiện trong không khí dân chủ, đồng thuận. Đây là
điều kiện quan trọng, môi trường phát huy có hiệu quả nhất mọi năng lực của nhà
trường vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo của mình.
- Giảng viên phải biết tổ chức hoạt động giảng dạy, hoạt động giáo dục
một cách khoa học, hợp lý, đáp ứng tối đa mục tiêu đào tạo của nhà trường.
- Sinh viên phải có phương pháp học tập, rèn luyện phù hợp và phải biết tổ
chức cuộc sống một cách khoa học, hiệu quả
- Cán bộ viên chức các phòng, ban, trung tâm chức năng dưới sự lãnh đạo
của nhà trường phải phối hợp nhịp nhàng tạo ra sự thống nhất trong quản lý,
phục vụ tốt nhất hoạt động của nhà trường.
* Văn hóa học đường là văn hóa ứng xử trong các mối quan hệ giữa các
thành viên trong nhà trường
Văn hóa học đường được biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất ở hành vi ứng xử
của các thành viên trong không gian trường học, tham gia vào hoạt động giáo
dục đào tạo trong nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học thể hiện trên
mấy mặt sau:
Trong quan hệ với môi trường tự nhiên, các thành viên trong nhà trường
phải hình thành thói quen giữ gìn và bảo vệ, làm đẹp cảnh quan tự nhiên của nhà
trường. Có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, có ý thức trách nhiệm trong việc giữ
gìn, bảo vệ của công (trang thiết bị trường học), có ý thức tiết kiệm trong sử
dụng trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập.
Trong quan hệ xã hội ở nhà trường, quan hệ giữa các thành viên thực sự
phải là quan hệ có văn hóa, lịch sự. Phải có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các thành
viên (lãnh đạo quản lý, giảng viên, sinh viên và cán bộ, viên chức), tiếp đó là sự
39
đoàn kết, nhất trí trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo. Ngoài quan hệ mang tính
chất hành chính bắt buộc đó còn có quan hệ tình người
+ Ứng xử của thầy, cô giáo với sinh viên: Được thể hiện như sự quan tâm
đến học sinh, sinh viên, biết tôn trong người học, biết phát hiện ra ưu điểm,
nhược điểm người học để chỉ bảo… Thầy, cô luôn gương mẫu trước học sinh,
sinh viên.
+ Ứng xử của học sinh, sinh viên với thầy, cô giáo thể hiện bằng sự kính
trọng, yêu quí của người học với thầy, cô giáo. Trân trọng những tri thức, kỹ năng
và sự chỉ dẫn giáo dục của thầy, cô và thực hiện điều đó tự giác, có trách nhiệm.
+ Ứng xử giữa lãnh đạo, quản lý với giáo viên, nhân viên thể hiện người
lãnh đạo phải có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Người lãnh đạo có
lòng vị tha, độ lượng, tôn trọng giáo viên, nhân viên xây dựng được bầu không
khí dân chủ , tôn trọng trong tập thể nhà trường.
+ Ứng xử giữa các đồng nghiệp, học sinh, sinh viên với nhau phải thể hiện
qua cách đối xử mang tính tôn trọng, tin tưởng,thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau.
Tất cả các ứng xử trong nhà trường là nhằm xây dựng một môi trường sống
văn minh, lịch sự trong nhà trường.
Mục tiêu chung nhất của văn hóa học đường là xây dựng trường học lành
mạnh, các mối quan hệ thân thiện và nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển
thương hiệu của nhà trường.
Trên cơ sở mục tiêu đào tạo chung ở bậc đại học, mỗi trường học có mục
tiêu, nội dung văn hóa học đường của trường mình. Căn cứ hoàn cảnh cụ thể,
điều kiện của mình mà các trường xây dựng một hệ chuẩn mực, giá trị phù hợp
được các thành viên trong nhà trường cùng tham gia xây dựng với những biện
pháp tổ chức thực hiện. Hệ chuẩn mực, giá trị đó phải tương hợp với một mức độ
nhất định với các giá trị truyền thống và thời đại.
Hệ giá trị làm nên cốt lõi của VHHĐ sẽ là chuẩn mực để mọi thành viên
đồng thuận, là cơ sở xác định nội dung, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo
thành quả của bản thân, của lớp, của trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá
trị nhân cách… thường được gọi là dạy người bên cạnh dạy chữ, dạy nghề. Hệ
giá trị của mỗi trường là yếu tố cốt lõi của thương hiệu nhà trường, của cơ sở
giáo dục. Từ đây, từng người và tập thể phát huy sở trường, tiềm năng của mình,
40
đồng thời kế thừa và phát huy hệ giá trị của cả quốc gia - dân tộc, làm đất nước
ngày càng giàu mạnh.
2.1.2. Giáo dục văn hóa học đường và nội dung giáo dục văn hóa
học đường
2.1.2.1. Giáo dục văn hóa học đường
Đảng CSVN và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đào
tạo. Đảng xác định cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc
sách hàng đầu. Trong thế kỷ mới giáo dục có vị trí rất quan trọng, vấn đề con
người, vấn đề giáo dục được đặt lên hàng đầu. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ:
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giảng viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực
hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã
hội” [30, tr.130-131].
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục, xuất phát từ các
cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt: Giáo dục được sử dụng với
nghĩa là một động từ, đó “là một hoạt động tác động một cách có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đặt ra” [117, tr.349].
Khi sử dụng giáo dục như một danh từ thì nó được hiểu “là hệ thống các biện
pháp và cơ quan giảng dạy- giáo dục của một nước”.
Giáo dục văn hóa học đường là một trong những nội dung của giáo dục. Nó
đảm nhiệm việc giáo dục hệ thống tri thức các giá trị VHHĐ cần thiết cho người
được giáo dục để biến nó thành ý thức, thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với
chuẩn mực VHHĐ, chuẩn mực xã hội và thời đại. Từ quan niệm về giáo dục nói
chung và nội dung của VHHĐ có thể suy ra: Giáo dục văn hóa học đường là một
quá trình tác động từ phía chủ thể GDVHHĐ đến đối tượng, nhằm trang bị cho
41
họ những tri thức, kỹ năng thực hiện VHHĐ, góp phần phát triển nhân cách phù
hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Văn hóa học đường là một trong nhiều nội dung giáo dục của trường đại
học. GDVHHĐ cũng mang những đặc trưng cơ bản của quá trình giáo dục, nó
trực tiếp góp phần tạo điều kiện, môi trường đem lại hiệu quả giáo dục ở tất cả
các khâu trong quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo. Căn cứ vào quan niệm về
giáo dục, quan niệm về VHHĐ, có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của
GDVHHĐ như sau:
Một là, chủ thể GDVHHĐ cho sinh viên trước hết là cơ quan, người lãnh
đạo, quản lý, giảng viên, CBCNV, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, trong
đó phòng công tác sinh viên, sinh viên, tổ chức đoàn, hội sinh viên, khoa giáo
dục lý luận chính trị, cố vấn học tập giữ vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn có các cơ
quan, tổ chức sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà trường.
Hai là, GDVHHĐ là định hướng nhận thức, thái độ, hành vi, ứng xử trong
các mối quan hệ giữa cá nhân sinh viên với các thành viên khác trong không
gian trường học vì vậy nội dung giáo dục rất đa dạng, phong phú như giáo dục
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; lối sống lành mạnh, có
ích; học tập về nội quy, quy chế của nhà trường; học tập lý luận chính trị…và
các sinh hoạt tập thể giáo dục theo chuyên đề của khoa, trường, đoàn thanh niên,
các câu lạc bộ các đề án.
Ba là, GDVHHĐ được thực hiện qua các môn học. Mỗi môn học trong
chương trình giảng dạy của nhà trường đều có giá trị cung cấp làm giầu vốn tri
thức của người học đều có chức năng GDVHHĐ. Đặc biệt là qua từng bài giảng,
tấm gương trực tiếp của các thầy, cô giáo mà sinh viên tiếp nhận tri thức về
VHHĐ thêm sống động.
Bốn là, GDVHHĐ được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức, đoàn
thể, hoạt động thể thao, văn hóa văn nghệ trong nhà trường. Đây là một trong những
hình thức GDVHHĐ thiết thực cho các thành viên của nhà trường.
Giáo dục văn hóa học đường cho các thành viên trong nhà trường trước tiên
là nhằm hình thành những quan niệm thống nhất về VHHĐ. Sự khác nhau về
nhận thức sẽ dẫn đến những quan niệm, hành vi ứng xử khác nhau trong trường
học. Các tiêu chí của VHHĐ rất dễ mang tính chủ quan. Trình độ tư duy càng
42
thấp, sự suy lý của con người về chân lý, lẽ phải, cái thiện, cái ác... càng nhiều
hạn chế. Do đó, không thể áp đặt cho sinh viên các chuẩn mực đạo đức mà bản
thân họ không hiểu và không thừa nhận. Vì lẽ đó, việc cung cấp, làm rõ những
nội dung của VHHĐ cho các thành viên hiểu, thừa nhận và nghiêm túc thực hiện
là một trong những yêu cầu quan trọng của GDVHHĐ. Phải tạo ra dư luận thống
nhất trước các biểu hiện văn hóa của sinh viên. Chẳng hạn, khi thấy sinh viên
mặc những bộ đồ vá víu, kỳ dị không phù hợp vào lớp học, mọi người có thể tỏ
thái độ khó chịu hoặc góp ý. Thông qua giáo dục mà những giá trị của VHHĐ
được sinh viên thừa nhận, trở thành niềm tin, thành động cơ bên trong của mỗi
người, họ có thể tự điều chỉnh thái độ, hành vi phù hợp với yêu cầu của nhà
trường và xã hội, làm cho nó trở thành những nét tính cách cần thiết.
Quá trình GDVHHĐ diễn ra dưới nhiều hình thức tuỳ thuộc môi trường và
tình huống cụ thể trong đó có hai hình thức cơ bản nhất:
Hình thức giáo dục trực tiếp: là chủ thể giáo dục trực tiếp thực hiện chức
năng giáo dục như việc lên lớp của giảng viên truyền đạt tri thức, những chuẩn
mực của VHHĐ cho đối tượng giáo dục. Như vậy, chủ thể giáo dục phải có tri
thức, kinh nghiệm, thực sự là tấm gương thực hiện VHHĐ. Hiệu quả của tác
động này phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể giáo dục.
Hình thức giáo dục trực tiếp có tác dụng rất quan trọng nhằm nâng cao nhận
thức về VHHĐ một cách cơ bản và có hệ thống, xây dựng hoặc làm thay đổi ý thức
về VHHĐ của đối tượng giáo dục. Đây là con đường ngắn nhất nhưng chưa thể đảm
bảo được tính bền vững đối với kết quả giáo dục, vì hoạt động này mới giải quyết đ-
ược những vấn đề về nhận thức cho đối tượng giáo dục. Từ nhận thức đến hành vi
của đối tượng còn một khoảng cách dài. Từ nhận thức đối tượng có được các hiểu
biết về các chuẩn mực, biến nó thành nhu cầu bên trong thôi thúc họ thực hiện.
Những hành động đó chỉ bền vững khi nó được sinh viên lặp đi, lặp lại nhiều lần,
trở thành thói quen khó thay đổi.
Hình thức gián tiếp : là hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên thông qua các
hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn góp phần hình thành VHHĐ chính là
hoạt động của bản thân đối tượng giáo dục, thông qua việc tham gia vào các hoạt
động tập thể như: học tập, lao động, các phong trào thi đua, các hoạt động chính
43
trị - xã hội và các hoạt động từ thiện, các cuộc thi, chương trình hành động do
nhà trường tổ chức.
Thông qua các hoạt động này, các thành viên trong nhà trường có điều kiện
nhận thức rõ hơn về VHHĐ, về bản thân mình và mọi người xung quanh, thông
qua các thái độ, hành vi cụ thể mà chủ thể nhận thức có điều kiện so sánh, rút
kinh nghiêm và tự giác chấp hành, thực hiện vào những yêu cầu chung của tập
thể và xã hội. Giáo dục văn hoá học đường cho các thành viên trong nhà trường
là con đường có tác động rất quan trọng trong việc hình thành ý thức về hành vi
ứng xử của mỗi cá nhân. Nó giúp cho đối tượng giáo dục không thụ động tiếp
thu mà trực tiếp nhận thức, rèn luyện kỹ năng ứng xử, hình thành kinh nghiệm
thông qua trải nghiệm thực tiễn cuộc sống của chính mình và của tập thể. Thông
qua con đường này, đối tượng giáo dục còn có thể sáng tạo ra những kỹ năng
mới để ứng xử có văn hóa trong trường học.
Thực tiễn là con đường gắn chặt học với hành trong học tập và rèn luyện
những hành vi ứng xử có văn hóa. Tính bền vững trong kết quả GDVHHĐ là kết
quả của sự thống nhất biện chứng giữa 2 hình thức GDVHHĐ, đó là giáo dục
trực tiếp diễn ra trong một quá trình lâu dài và khó khăn cùng với hoạt động giáo
dục gián tiếp, nghĩa là kết hợp cả giáo dục và tự giáo dục, giáo dục trong nhà
trường và ngoài xã hội thì mới đạt HQGDVHHĐ.
2.1.2.2. Nội dung của giáo dục văn hóa học đường
Khi giáo dục VHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học, cần xác định rõ về
các yếu tố ảnh hưởng đến VHHĐ. Trong một tổ chức nói chung và một nhà
trường nói riêng các giá trị văn hoá có những biểu hiện rõ ràng, dễ quan sát được
và dễ thay đổi nhưng cũng có những giá trị văn hoá ẩn chìm trong mỗi cá nhân.
Đó là các giá trị, niềm tin và các ý nghĩ của con người... khó quan sát được hoặc
khó thay đổi, tạo nên những sự khác biệt về văn hoá của các thành viên trong
nhà trường. Những sự khác biệt này sẽ dẫn tới sự khác biệt về nhận thức, hành
động, tác động đến kết quả của GDVHHĐ, bởi VHHĐ có ảnh hưởng vô cùng to
lớn đối với chất lượng cuộc sống và hiệu quả hoạt động của nhà trường, quyết
định nội dung GDVHHĐ.
Trước hết, GDVHHĐ là giáo dục tự giác chấp hành kỷ luật. Sinh viên thực
hiện tốt nội quy, quy chế, những cam kết của nhà trường.Thực hiện những quy
44
định, coi trọng nề nếp của nhà trường, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy
định của trường đề ra. Chẳng hạn trang phục của cả thầy lẫn trò phải gọn gàng,
lịch sự, có thể mặc đồng phục theo quy định của nhà trường. Sinh viên (và có thể
cả thầy cô giáo) cần phải đeo thẻ khi đến trường, khi thực hiện nhiệm vụ, khi
giao tiếp với các phòng, các lớp trong nhà trường.
Thứ hai, GDVHHĐ là giáo dục tinh thần trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và sử
dụng an toàn, tiết kiệm, có hiệu quả tài sản của nhà trường. Chấp hành đúng các
quy định về trật tự vệ sinh môi trường học đường, vứt rác đúng nơi quy định,
không vẽ, dán... lên tường, lên bàn, ghế trong nhà trường, lớp học, không chặt
phá cây cảnh, buôn bán trái phép trong nhà trường.
Thứ ba, GDVHHĐ là giáo dục sinh viên tích cực tham gia các hoạt động
phong trào của nhà trường, các phong trào thi đua, các hoạt động đoàn thể, các
hoạt động chính trị - xã hội.
Thứ tư, GDVHHĐ là giáo dục hành vi. Mỗi người phải luôn chăm chỉ,
trung thực, giản dị, hòa đồng với mọi người, không nói tục chửi bậy, khi làm
sai không bảo thủ, sẵn sàng nhận lỗi và sửa lỗi, ham học hỏi, cầu tiến, say mê
học tập để trở thành công dân có ích. Chẳng hạn là sinh viên đối với bạn bè
phải bình đẳng, chân thành, tôn trọng bạn. Yêu mến, quan tâm đến bạn, quan
hệ bạn bè trong sáng, lành mạnh, luôn vui vẻ. Đối với thầy cô giáo, cán bộ,
nhân viên nhà trường phải biết kính trọng, yêu quý, biết ơn thầy cô giáo, cán
bộ, nhân viên. Khi gặp thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên, phải chào hỏi lễ phép,
xưng hô đúng mực, không nói xấu thầy, cô giáo, cán bộ, nhân viên nhà
trường, chăm chỉ học tập. Khi có vấn đề cần giải quyết, trình bày và đề nghị
cán bộ, giảng viên, nhân viên giải quyết công việc tại nhà trường. Nội dung
phản ánh, đề xuất, kiến nghị xuất phát từ lợi ích chung của tập thể và những
yêu cầu chính đáng của người học.
Thứ năm, GDVHHĐ là khích lệ chuyên cần trong học tập. Phải thúc đẩy ở
SV niềm say mê, thích thú học tập; đi học đầy đủ, đúng giờ; chuẩn bị đầy đủ
sách, vở, đồ dùng học tập; chăm chỉ học tập, tập trung lắng nghe giờ giảng của
thầy, cô giáo; học hỏi, hăng hái phát biểu ý kiến khi thảo luận; sáng tạo khi tham
gia làm bài tập. SV không được nói chuyện riêng, làm việc riêng trong lớp;
không quay cóp, gian lận khi kiểm tra, thi cử. SV phải giúp đỡ lẫn nhau trong
45
học tập; nhiệt tình trao đổi, thảo luận về nội dung học tập với bạn; giúp bạn khi
gặp khó khăn, vướng mắc về bài học.
2.1.3. Vai trò giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên các trường
đại học
Văn hóa học đường là những nét đẹp trong toàn bộ môi trường sư phạm: từ
môi trường cơ sở vật chất, môi trường quan hệ, môi trường công việc. Những nét
đẹp đó được thể hiện trong hành vi của thày, của trò, của cán bộ quản lý và nhân
viên trong nhà trường.Văn hoá học đường là một môi trường rất quan trọng để
rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ những con người sống có hoài bão, có
lý tưởng tốt đẹp, vấn đề xây dựng văn hoá học đường phải được coi là trọng tâm
và quan trọng nhất trong từng trường học. Nếu môi trường học đường thiếu văn
hoá thì không thể làm được chức năng truyền tải những giá trị kiến thức nhân
văn cho thế hệ trẻ. Trong bối cảnh cần phải đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, một trong những vấn đề quan trọng cần được thực hiện là phải chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục hình thành, phát
triển năng lực, phẩm chất của người học, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Các trường Đại học cần
tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn, giáo dục và đào tạo
sinh viên không chỉ có đầy đủ kiến thức, kĩ năng thực hành mà còn cần có lí
tưởng cách mạng, đạo đức tốt, lối sống trong sáng để trở thành công dân có
trách nhiệm, lao động cần cù, có sức khỏe, có tri thức và sáng tạo. Giáo dục
văn hoá học đường cho sinh viên các trường đại học có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý
thức công dân cho sinh viên.
Giáo dục văn hóa học đường có ý nghĩa quan trọng của quá trình phát
triển nhân cách. Đây là nội dung của giáo dục - đào tạo, và cũng là mục tiêu của
giáo dục - đào tạo, chuyển vốn học vấn thành vốn văn hóa: từ tri thức, kỹ năng
sang thái độ giá trị nhân cách, điều mà ngày nay thường nói là dạy chữ, dạy
nghề, dạy người. Các trường Đaị học phải tiến hành giáo dục trước hết và cuối
cùng là nhằm phát triển con người, hình thành ở mỗi người nhân cách văn hóa,
vì thế đòi hỏi một môi trường giáo dục tương ứng mà còn gọi là văn hóa học
46
đường.Mục tiêu chung nhất của giáo dục văn hóa học đường là xây dựng trường
học lành mạnh, cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng thật. Văn hóa học
đường là hệ các chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, các thầy cô
giáo, phụ huynh và sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.
Giáo dục văn hóa học đường là một yếu tố bảo đảm và nâng cao chất lượng
giáo dục – đào tạo. Văn hóa học đường góp phần quan trọng chấn hưng, cải cách
nền giáo dục nước nhà. Văn hóa luôn đi liền với giáo dục, giáo dục đi liền với
văn hóa. Mỗi trường có hệ giá trị làm chuẩn mực để mọi thành viên đồng thuận,
lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của bản thân, của lớp, của
trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị chân cách, điều mà chúng ta gọi là
“dạy người” bên cạch “dạy chữ, dạy nghề”.Hiện nay xây dựng văn hóa học
đường là mối quan tâm thường xuyên của các ngành, các cấp mà trực tiếp là các
nhà quản lý của ngàng giáo dục, tất cả các nhà trường nhằm làm cho giáo dục
thực sự đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.Một môi trường văn hóa học đường được tạo dựng từ sự kết hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội sẽ có sức đề kháng với những mầm bệnh, loại trừ
được những biểu hiện văn hóa không lành mạnh nảy sinh từ bên trong, góp phần
xây dựng môi trường văn hóa học đường ngày càng hoàn thiện, trong sáng. văn
hóa học đường phải nhận được sự quan tâm của mỗi gia đình, nhà trường và của
toàn xã hội.
Văn hóa bao giờ cũng gắn với giáo dục và giáo dục luôn đi liền với văn
hóa. Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải duy trì, bảo tồn và phát
triển giáo dục và văn hóa.Người ta hay nói đến 3 loại hành vi của mỗi con người
trong cách ứng xử với người khác, với cộng đồng xã hội và với môi trường xung
quanh. Đó là hành vi đạo đức, hành vi pháp luật và hành vi văn hóa. Hành vi đạo
đức là những hành vi tự nguyện, làm theo lương tâm của cá nhân. Hành vi pháp
luật là hành vi bắt buộc cá nhân phải tuân thủ theo quy định của xã hội. Hành vi
văn hóa không phải là một hành vi riêng mà nó có thể là hành vi đạo đức hay
hành vi pháp luật nhưng được chủ thể thực hiện với một mức độ thẩm mỹ nhất
định. Đây là cơ sở để chúng ta hiểu về hành vi văn hóa nói chung và văn hóa học
đường nói riêng.
47
Văn hóa học đường lành mạnh giúp các thành viên trong nhà trường chia
sẻ với nhau những kinh nghiệm và kiến thức, phát triển khả năng hợp tác giữa
các thành viên trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà trường. Từ đó, tạo ra môi
trường thuận lợi, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, giúp mọi thành viên trong nhà
trường quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy và học, tích cực hoạt động vì
sự phát triển chung của nhà trường.
Vấn đề xây dựng văn hóa học đường phải được coi là có tính sống còn đối
với từng nhà trường, vì nếu học đường mà thiếu văn hóa thì không thể thực hiện
được chức năng chuyển tải những giá trị kiến thức và nhân văn cho thế hệ trẻ.
Văn hóa học đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo
dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt
đẹp.Văn hóa học đường tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực hiện các chức
năng giáo dục của mình, đặc biệt trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Giáo dục văn hóa học đường là tạo ra những nét đẹp trong hành vi của
học sinh, sinh viên đối với các mối quan hệ thày trò, bạn bè và môi trường xung
quanh. Ví dụ: thày giáo thì phải mô phạm, đức độ, mẫu mực trong hành vi, đối
với đồng nghiệp phải khiêm tốn, đoàn kết, nhân ái…, đối với học trò phải hết
lòng thương yêu, chỉ bảo, đối với người khác phải giản dị, mẫu mực, đối với
công việc phải tận tụy, có kỷ luật, sáng tạo…, phải giữ gìn sự trong sạch của cả
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Học sinh thì không được kiêu căng, tự
cao, tự đại mà phải trung thực, cầu tiến, giản dị, khiêm tốn…, đối với thày cô
giáo phải kính trọng, biết ơn…, đối với bạn cùng trường, cùng lớp phải đoàn kết,
thân ái, phải biết kính trên, nhường dưới…Môi trường giáo dục là nơi đào tạo
những lớp người có tri thức để phục vụ xã hội. Thế hệ trẻ là tương lai của đất
nước, là rường cột của nước nhà. Môi trường giáo dục lành mạnh là điều kiện
tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có tài năng, đạo
đức. Trường học là nơi rèn đức, luyện tài, trang bị kiến thức cho sinh viên.
Trong môi trường này, sinh viên phải có trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân
đối với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác.
Văn hóa học đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và
giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có ước mơ, hoài bão, có lý
tưởng đẹp. Những năm gần đây, đời sống văn hóa có những biến đổi theo nhiều
48
chiều hướng khác nhau. Nền kinh tế, khoa học phát triển tạo điều kiện cho sinh
viên được tiếp cận với nhiều kênh thông tin, nhiều mô hình học tập tiên tiến, do
đó học sinh đạt nhiều thành tích cao trong học tập. Tuy nhiên, hiện nay biểu hiện
của văn hóa học đường đang còn nhiều vấn đề bức xúc, cần phải suy ngẫm...
Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang tấn công như vũ bão vào văn hóa
truyền thống tốt đẹp của chúng ta. Giáo dục văn hóa học đường là xây dựng
trường học lành mạnh, các mối quan hệ thân thiện và chất lượng giáo dục thật.
Văn hóa học đường ở mỗi nhà trường tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực
hiện chức năng giáo dục và sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài góp phần đào tạo, cung ứng cho xã hội những người công dân
tốt, một nguồn nhân lực có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Từ
đó mỗi nhà trường sẽ là tấm gương cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, cộng
đồng noi theo.
2.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường
đại học
2.2.1. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam và nhiều tác giả đã nhắc tới trong phần
1.2., hiệu quả được định nghĩa là đạt được kết quả mong muốn, cái sinh ra kết
quả mà con người chờ đợi hướng tới ; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh
vực khác nhau. Trong lao động nói chung hiệu quả lao động là năng suất lao
động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm, hoặc là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian. Trong xã hội học, một hiện tượng, một sự biến cố có hiệu quả xã hội,
tức là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội, đối với sự phát triển của
lĩnh vực đó. Hiệu quả của một cuộc điều tra xã hội học là kết quả tối ưu đạt được
so với mục đích của cuộc điều tra đó.
Giáo dục văn hóa học đường là một hoạt động giáo dục đặc thù. Theo lý
thuyết chuyên ngành công tác tư tưởng, hiệu quả có ba yếu tố hợp thành gồm:
mục đích, kết quả và chi phí (hữu hình và vô hình), trong đó kết quả và chi phí là
hai thông số chính. Mục đích có mặt trong cấu trúc của hiệu quả nhưng không
độc lập, vì bản thân nó đã là một thành tố của hoạt động giáo dục. Giáo dục
49
VHHĐ có nhiều mục đích khác nhau, nhưng mục đích cơ bản là phải đạt tới sự
thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng theo ý định của chủ thể. Kết
quả của GDVHHĐ là hiện thực hoá của mục đích, bao gồm cả mặt số lượng và
chất lượng, trong đó chất lượng đóng vai trò quyết định.
Hành vi văn hóa, tôn trọng các quy tắc ứng xử chung một cách tự giác, tích
cực là dấu hiệu đạt kết quả cuối cùng của GDVHHĐ. Nhưng không phải cứ tôn
trọng các quy tắc ứng xử là GDVHHĐ có kết quả hoàn hảo, vì hành động của
con người được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau. Một hành động tích cực,
tự giác nhưng chỉ xuất phát từ lợi ích cá nhân thì chưa phải là kết quả của
GDVHHĐ. Vì vậy, kết quả đầy đủ nhất của GDVHHĐ phải bao hàm cả nhận
thức, sự tin tưởng và tính tích cực hoạt động thực tiễn của đối tượng.
Thực tiễn cho thấy, bất cứ hoạt động nào, dù là hoạt động sản xuất vật chất
hay hoạt động sản xuất tinh thần cũng đều phải có chi phí. Mỗi hoạt động giáo
dục đều chiếm một thời gian nhất định và phải được trang bị các phương tiện
bảo đảm như: tài liệu, âm thanh, ánh sáng, hội trường, giáo cụ, đạo cụ, người
phục vụ. Hình thức giáo dục càng phong phú, sinh động, quy mô đối tượng càng
lớn thì những chi phí đó càng lớn. Chi phí cho phép mở rộng quy mô tác động,
sức hấp dẫn của các hình thức, chưa kể nó còn tác dụng khuyến khích vật chất
đối với chủ thể và đối tượng.
Giáo dục văn hóa học đường là hoạt động thường xuyên và ẩn vào trong
mọi hoạt động chuyên môn chính khóa cũng như ngoại khoá của trường học nên
hầu hết các chi phí đều do nhà trường cân đối và rất khó tách bạch. Vì vậy, cả
trong lý luận và thực tiễn, HQGDVHHĐ thường được đồng nhất với chất lượng
giáo dục. Tuy nhiên, là một hoạt động đặc thù GDVHHĐ tất yếu phải huy động
chi phí không nhỏ. Nếu không đề cập đến chi phí, về lý luận sẽ không làm rõ bản
chất của khái niệm hiệu quả, không phân biệt được hiệu quả với kết quả và chất
lượng. Về mặt thực tiễn, thói quen không quan tâm đến chi phí cho nên kết quả
có được nhưng chi phí quá cao nên hiệu quả thấp. Biểu hiện của nó là sự gia tăng
tình trạng phô trương, hình thức, lãng phí trong GDVHHĐ. Tuy khó hạch toán
rạch ròi đầu vào, đầu ra như sản xuất, kinh doanh nhưng cần thiết phải tính toán
chi phí để khắc phục “bệnh hình thức”, “tận dụng”, “phong trào” trong
GDVHHĐ cho đối tượng. Qua thực tế, kinh nghiệm tiến hành giáo dục các lĩnh
50
vực khác, giáo dục theo chuyên đề, GDVHHĐ ở từng quy mô, người ta có thể
ước lượng được chi phí cho từng hoạt động cụ thể.
Theo nghiên cứu của Lương Ngọc Vĩnh, thuật ngữ nguồn lực là tất cả
những gì người ta có thể sử dụng như là những yếu tố đầu vào để sản sinh những
thành quả mong muốn. Trong GDVHHĐ có thể sử dụng thuật ngữ nguồn lực để
phản ánh đầy đủ các chi phí cần thiết qua đó đánh giá hiệu quả GDVHHĐ sát
thực hơn. Nguồn lực ở đây bao gồm cả hữu hình và vô hình. Nguồn lực hữu hình
của GDVHHĐ bao gồm: nhân lực, kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, thời
gian, môi trường giáo dục. Nguồn lực vô hình bao gồm kinh nghiệm, kỹ năng sử
dụng nội dung, hình thức, phương pháp của chủ thể,… Sử dụng thuật ngữ nguồn
lực sẽ khắc phục tình trạng đánh giá không đầy đủ về những chi phí cả hữu hình
và vô hình vốn còn nhiều tranh luận trong đánh giá hiệu quả nói chung và hiệu
quả GDVHHĐ trong trường đại học hiện nay [xem 129].
Từ sự phân tích trên và từ mục đích cơ bản của GDVHHĐ trong trường đại
học, có thể đi đến khái niệm:
Hiệu quả GDVHHĐ là tương quan giữa kết quả tiếp nhận tri thức về
VHHĐ từ đó thay đổi nhận thức, thái độ và tính tích cực thực hiện hành vi chuẩn
mực được biểu hiện khi tham gia các hoạt động thực tiễn ở đối tượng sau tác
động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và cách sử dụng hợp lý, tiết
kiệm các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể.
Khi sử dụng thuật ngữ HQGDVHHĐ cho sinh viên, thì sinh viên ở đây
không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể tương tác của quá trình giáo dục. Mặt
khác, hiệu quả là một bộ phận của hoạt động GDVHHĐ nhưng được đo đạc,
đánh giá về phía sinh viên, là kết quả biểu hiện ở nhận thức, thái độ, hành vi
chuẩn mực, phù hợp có văn hóa và năng lực của sinh viên. Hiệu quả GDVHHĐ
chịu sự tác động, chi phối của môi trường xã hội nơi hoạt động giáo dục diễn ra.
Vì vậy, điều kiện kinh tế - xã hội có tác động sâu sắc đến hiệu quả GDVHHĐ.
Hoạt động cụ thể của GDVHHĐ diễn ra trong không gian, thời gian khác nhau
sẽ cho hiệu quả khác nhau. Hiệu quả được xác định ở sự thay đổi trong tư tưởng,
quan niệm, tình cảm, thói quen của đối tượng trong khi hoàn cảnh lại có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, thái độ, hành vi của con người. Vì thế độ bền
vững của hiệu quả GDVHHĐ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện sống của con
51
người với tư cách là đối tượng của GDVHHĐ; điều đó có nghĩa là hiệu quả
GDVHHĐ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ sự tác động của tình hình chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội của đất nước và quốc tế. Khi đánh giá hiệu quả GDVHHĐ phải
xem xét trong điều kiện cụ thể. Không thể áp đặt hiệu quả ở trường này với
trường khác, đối tượng này với đối tượng khác, giai đoạn này với giai đoạn khác.
2.2.2. Đặc điểm và phân loại hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
Hiện nay, đa số các nhà khoa học đều thừa nhận hoạt động giáo dục nói
chung và giáo dục từng vấn đề cụ thể nói riêng là lĩnh vực hoạt động tương
đối trừu tượng, rất khó đánh giá hiệu quả. Tuy nhiên, khi đã xác định được
các tiêu chí cụ thể, rõ ràng, kết hợp nhiều yếu tố vẫn có thể đánh giá được
hiệu quả giáo dục, cụ thể ở đây đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên
trong trường đại học.
* Đặc điểm hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
- Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, hiệu quả thể hiện một cách nhanh
chóng, lượng hóa được sau một chu trình, hiệu quả GDVHHĐ (tư tưởng tinh
thần) được thể hiện dần dần trong một thời gian nhất định có khi tương đối dài.
Do vậy để đánh giá sự thay đổi về nhận thức, thái độ, hành vi... cần có thời gian.
Hơn nữa, có những hành động biểu hiện hiệu quả GDVHHĐ chỉ bộc lộ ra trong
những điều kiện nhất định. Sự hiểu biết, thái độ, hành vi ứng xử có văn hóa
trong môi trường học đường chỉ bộc lộ một cách đầy đủ và mạnh mẽ nhất khi có
những tình huống, trong quá trình hoạt động thực tiễn, xử lý các mối quan hệ của
sinh viên.
- Mỗi hoạt động cụ thể của GDVHHĐ cho sinh viên không chỉ mang lại
một mà có nhiều kết quả khác nhau. Kết quả này biểu hiện ở cả trong nhận thức,
thái độ và hành vi của sinh viên, trong tất cả các hoạt động thực tiễn mà sinh
viên với tư cách là đối tượng của hoạt động GDVHHĐ. Mặt khác, sự chuyển
biến về nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng nhiều khi không chỉ là kết
quả của sự tác động từ hoạt động GDVHHĐ của chủ thể. Như sinh viên thi vào
trường với kết quả thi cao không có nghĩa là sinh viên đó có nhận thức cũng như
thái độ, hành xử, phát ngôn có văn hóa trong học đường, cũng tương tự điểm số
trong học tập cao. Bởi vì rất có thể thí sinh đó không tích cực, say sưa học tập
mà gian dối trong thi cử. Trở thành SV rồi thì không tham gia xây dựng phong
52
trào học tập, hoạt động của lớp, không dấn thân, không hội nhập tốt… SV như
vậy không thể coi là người có VHHĐ đạt chuẩn.
- Hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá ở hai yếu tố là kết quả đạt được và
việc sử dụng nguồn lực hợp lý. Kết quả GDVHHĐ cao không đồng nhất với hiệu
quả cao. Vì, hiệu quả cao hay thấp phải được so với chi phí các nguồn lực ít hay
nhiều. Nếu chi phí các nguồn lực ít (chi phí thấp) nhất mà vẫn có được kết quả
như mục đích là hiệu quả cao, ngược lại kết quả đạt như mục đích nhưng chi phí
các nguồn lực cao, lãng phí không thể xem là hiệu quả cao. Vì vậy để GDVHHĐ
đạt hiệu quả cao không phải bằng mọi giá, mà phải bằng cách sử dụng những
nguồn lực, phương pháp, cách thức tác động tốt nhất, hợp lý nhất dẫn đến thay
đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong việc thực hiện VHHĐ trong
không gian trường học tốt nhất và lâu dài. Nói cách khác, để nâng cao hiệu quả
ngoài cách giảm chi phí, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nhất thì vấn đề là sử dụng các
nguồn lực một cách tối ưu nhất, giảm những chi phí không cần thiết, đồng thời
tăng thêm những chi phí ở những phần việc góp phần hoàn thành mục tiêu tốt
hơn. Có thể nói có hiệu quả nghĩa là cùng một kết quả đạt được nhưng chi phí
hợp lý, tiết kiệm nhất so với dự toán trong kế hoạch.
Kết quả GDVHHĐ bao gồm cả số lượng và chất lượng, do đó những chỉ số
của hiệu quả về số lượng cũng được áp dụng. Chẳng hạn số lần sinh viên được
phổ biến, được tham gia thảo luận, tham gia phát biểu ý kiến, rút kinh nghiệm từ
những tình huống có thực, hay giả định, số lần được đánh giá, được khen
thưởng, kết quả học tập, tham gia các phong trào của nhà trường và địa
phương… Tuy nhiên, những chỉ số về chất lượng mới là yếu tố quyết định hiệu
quả GDVHHĐ cho sinh viên, nhưng nó lại được đánh giá chủ yếu bằng phương
pháp định tính như: tốt, xấu, tích cực, tiêu cực, cao, thấp... Kết quả sử dụng các
nguồn lực tiêu chí đánh giá rất đa dạng, không có sự đồng nhất, vì vậy việc xác
định phương pháp đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cần phải cụ thể, tỷ mỉ, đa dạng
và phù hợp với từng yếu tố, bao gồm cả định tính và định lượng.
*Phân loại hiệu quả giáo dục văn hóa đường
Mục đích của GDVHHĐ là góp phần xây dựng ý thức thực hiện văn hóa
trong trường học qua đó định hướng phát triển và hoàn thiện nhân cách cho sinh
viên, bởi nó trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo con người, hoàn thiện hệ
53
thống giá trị văn hóa xã hội, phục vụ đắc lực cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên,
hiệu quả trước hết là ở nhận thức, thái độ và tính tích cực hoạt động thực tiễn của
sinh viên. Vì vậy, GDVHHĐ có hiệu quả ở bình diện xã hội và hiệu quả ở bình
diện cá nhân. GDVHHĐ trong các trường đại học tác động vào mỗi sinh viên với
tư cách là cá nhân. Nhiều sinh viên cùng khoá, cùng ngành đào tạo tập hợp thành
tập thể sinh viên.
Xét về quy mô ta có hiệu quả GDVHHĐ ở bình diện cá nhân và hiệu quả ở
bình diện tập thể. Hiệu quả cá nhân là sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và
hành vi của từng sinh viên. Hiệu quả tập thể là sự chuyển biến về nhận thức, thái
độ, hành vi của sinh viên một khoa, một khóa, một lớp sau khi nhận sự tác động
của hoạt động GDVHHĐ trong những không gian và thời gian xác định.
Xét về quá trình có hiệu quả GDVHHĐ trước mắt và hiệu quả GDVHHĐ
lâu dài: Tri thức của con người đạt được theo con đường từ chưa biết đến biết, từ
thấp đến cao theo quy luật của quá trình nhận thức. Từ kiến thức biến thành niềm
tin cần phải có một quá trình chuyển hoá lâu dài bên trong đối tượng. Từ niềm
tin trở thành hành động tự giác, tích cực, phù hợp đòi hỏi của cộng đồng xã hội
phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước, đòi hỏi phải có những điều kiện thích hợp
và có thể mất một thời gian khá dài. Hiệu quả trước mắt của GDVHHĐ là hiệu
quả được đánh giá cho một khoảng thời gian ngắn, ngay sau khi kết thúc một
quá trình tác động của GDVHHĐ (thường là khoảng sau đợt học, tập huấn, học
kỳ, năm học…). Hiệu quả trước mắt tương ứng với mục đích trước mắt của
GDVHHĐ. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được đánh giá cho một khoảng thời gian
dài (thường là khoá học hoặc lâu hơn). Hiệu quả lâu dài tương ứng với mục đích
lâu dài của GDVHHĐ.
Xét về mục đích có hiệu quả GDVHHĐ về mặt tinh thần và hiệu quả
GDVHHĐ về mặt thực tiễn: Hoạt động giáo dục là tác động vào ý thức con
người. Nhận thức như thế nào, nông hay sâu, ít hay nhiều, tin tưởng hay nghi
ngờ, tích cực hay thụ động, tất cả đều nằm trong ý thức. Do mục đích của
GDVHHĐ không dừng lại ở ý thức con người mà phải được hiện thực hóa thành
hành vi, hành xử đúng đắn, phù hợp, có văn hóa trong mối quan hệ giữa các
thành viên và mang lại những kết quả nhất định. Kết quả đó cũng chính là hiệu
quả thực tiễn của GDVHHĐ.
54
Trong hiệu quả tinh thần của GDVHHĐ, kết quả tính bằng sự chuyển biến
trong lĩnh vực tinh thần (nhận thức, thái độ, niềm tin) của sinh viên được biểu
hiện một cách trực tiếp ở trình độ nhận thức, thái độ, niềm tin của đối tượng.
Trong hiệu quả thực tiễn, kết quả tính ở sự tích cực, chủ động, sáng tạo, có
văn hóa, trong thái độ, ngôn ngữ, hành xử của sinh viên được thể hiện thông qua
hành động thực tiễn trên các lĩnh vực mà đối tượng tham gia.
Xét về biểu hiện có hiệu quả GDVHHĐ trực tiếp và hiệu quả GDVHHĐ
gián tiếp: Trong hiệu quả trực tiếp của GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại
học, kết quả đo bằng trình độ nhận thức về VHHĐ và độ vững chắc của niềm tin
và tự giác thực hiện. Trong hiệu quả gián tiếp, kết quả tính bằng kết quả học tập,
rèn luyện, tham gia các hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của sinh viên trong
quá trình đào tạo và kết quả làm việc sau khi tốt nghiệp ra trường.
Tóm lại, xét về quy mô ta có hiệu quả cá nhân và hiệu quả tập thể; xét về
thời gian, GDVHHĐ có hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài; xét về cách thức
thể hiện có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp; xét về phương thức tồn tại có
hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn… Hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các
trường đại học ở Hà Nội là hiệu quả được xem xét chủ yếu ở bình diện cá nhân
nhưng ở cả trước mắt và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp, cả hiệu quả tinh thần và
hiệu quả thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng các tiêu chí đánh giá
hiệu quả của hoạt động GDVHHĐ.
2.2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
Đánh giá hiệu quả GDVHĐ cho sinh viên liên quan đến đánh giá về mặt
tâm lý tình cảm, đời sống tinh thần của mỗi con người nên là một vấn đề rất khó
và nhạy cảm. Do vậy, khi xây dựng tiêu chí đánh giá phải dựa trên quan niệm về
hiệu quả của công tác tư tưởng, đồng thời phải dựa trên nguyên tắc phản ánh
đầy đủ, trung thực, khách quan đời sống tinh thần, nhân cách của con người; các
yếu tố chi phối và cách phân loại hiệu quả. Các tiêu chí còn phải lượng hoá, đo
đếm được trong những thời điểm xác định...Trong phạm vi luận án tác giả chủ
yếu đưa ra những tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ mang tính định tính
Xét về mặt cấu trức, hiệu quả GDVHHĐ là một thể thống nhất của hiệu quả
tinh thần và hiệu quả thực tiễn được thể hiện trên các mức độ từ thấp đến cao, đó
là tri thức, niềm tin, và hành động-hành vi thực tiễn. Tri thức và niềm tin thuộc
55
nhóm tiêu chí hiệu quả tinh thần và hành động, hành vi là hiệu quả thực tiễn của
GDVHHĐ. Muốn đánh giá hiệu quả phải xác định kết quả, song kết quả phải
được đặt trong sự so sánh với mục đích và chi phí các nguồn lực. Trong thực tế,
chỉ có thể so sánh kết quả với mục đích, mà không so sánh giữa kết quả và chi
phí (sử dụng) nguồn lực vì trong nguồn lực có yếu tố vô hình khó lượng hóa. Vì
vậy, khi đánh giá hiệu quả phải xem xét tương quan giữa kết quả đạt được so với
mục đích và việc sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực.
Tính tiết kiệm trong chi phí nguồn lực thể hiện ở chỗ với một hoạt động
nhất định mọi chi phí cho nó phải ít nhất so với kết quả đạt được. Tính hợp lý
trong sử dụng các nguồn lực vào hoạt động GDVHHĐ là huy động, khai thác
một cách khoa học, tiết kiệm những điều kiện hiện có và tiềm năng để thu về kết
quả cao nhất, có ảnh hưởng tới đối tượng, tới cộng đồng, nhóm xã hội rộng lớn
nhất. Tính hợp lý trong sử dụng các nguồn lực còn thể hiện ở chỗ, các nguồn lực
được phân bổ một cách khoa học, tương xứng với khối lượng và tiến độ diễn ra
các hoạt động. GDVHHĐ đạt được mục đích đề ra khi sử dụng hợp lý, tiết kiệm
các nguồn lực thì hiệu quả cao và ngược lại.
Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường phải xem xét trong tương quan
giữa kết quả thu được với mục đích đã xác định và việc chi phí các nguồn lực để
đạt được kết quả ấy, có thể thấy:
- Hiệu quả tỷ lệ nghịch với mục đích và chi phí nguồn lực: nếu mục đích
đặt ra cao mà kết quả đạt được thấp với cùng 1 chi phí hoặc chi phí cao thì hiệu
quả thấp và ngược lại.
- Giảm chi phí nguồn lực là giải pháp hữu hiệu để tăng hiệu quả, và chi phí
nguồn lực cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả GDVHHĐ
- Để có hiệu quả cao thì kết quả đạt được ở phía đối tượng về nhận thức,
thái độ, hành vi phải cao hơn, sâu hơn, vững chắc hơn sau khi chịu tác động so
với trước khi chịu tác động của chủ thể giáo dục
Như thế có thể đánh giá hiệu quả GDVHHĐ từ kết quả với mục đích và chi
phí sử dụng. Nếu lấy yếu tố tinh thần, ý thức của sinh viên để đánh giá hiệu quả
thì tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả từ yếu tố tinh thần gồm tri thức (sự am hiểu, sự
nhận thức, khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, năng lực, trình độ, phương
pháp tư duy) và ý thức của sinh viên. Hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá trong
56
sự thay đổi của đối tượng, được đo lường ở phía đối tượng ngay trong tri thức và
ý thức của đối tượng. Chỉ số đo lường mang tính chất lượng, ví dụ là sự chuyển
hoá của tri thức thành niềm tin, thành động cơ hành động... Vì vậy, phương pháp
đánh giá hiệu quả từ tiêu chí tinh thần phải được lựa chọn một cách thích hợp.
Tiêu chí thực tiễn bao gồm tính tích cực hoạt động thực tiễn và tính tích cực
chính trị - xã hội. Hoạt động thực tiễn của sinh viên mang tính đặc thù, đó là hoạt
động học (lý thuyết và thực hành, kỹ năng) để tích luỹ tri thức, là nghiên cứu
khoa học một cách tự giác, đạt mục đích đặt ra. Tính tích cực chính trị - xã hội
biểu hiện ở các hoạt động văn hoá xã hội, tham gia tích cực tự giác vào các hoạt
động chính khóa và ngoại khóa nhằm xây dựng văn hoá học đường ở trường học.
Mức độ hành động thực tiễn là trình độ cao của hiệu quả GDVHHĐ nếu ta xem
hiệu quả GDVHHĐ là một thể thống nhất của hiệu quả tinh thần và hiệu quả
thực tiễn, thể hiện từ mức độ thấp đến cao, theo con đường tri thức – niềm tin –
hành động.
Dựa vào những phân tích trên, tác giả luận án đưa ra tiêu chí xác định hiệu
quả GDVHHĐ gồm 3 nhóm, phân chia thành 8 tiêu chí cụ thể:
2.2.3.1. Nhóm tiêu chí về tinh thần trong đánh giá hiệu quả giáo dục văn
hóa học đường cho sinh viên
Mục tiêu chung nhất của giáo dục văn hóa học đường góp phần xây dựng
trường học thực sự là môi trường sáng tạo, dân chủ với các mối quan hệ thân
thiện và chất lượng giáo dục thật. Văn hóa học đường ở mỗi nhà trường tạo niềm
tin cho xã hội trong việc thực hiện chức năng giáo dục và sứ mệnh nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần đào tạo, cung ứng cho xã hội
những người công dân tốt, một nguồn nhân lực có phẩm chất, năng lực, đáp ứng
yêu cầu của xã hội. Muốn đánh giá hiệu quả phải đánh giá kết quả đạt được so
với mục tiêu GDVHHĐ đặt ra. Kết quả cao nhất so với mục tiêu đặt ra được xem
là hiệu quả nếu kết quả ấy có được tỉ lệ nghịch với chi phí nguồn lực. Có thể cụ
thể hoá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên thành các tiêu chí cụ thể sau đây:
Tiêu chí 1: Về tri thức
Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những dữ kiện,
thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo
dục. Trong tiếng Việt cả “tri” lẫn “thức” đều có nghĩa là biết. Tri thức có thể chỉ
57
sự hiểu biết về đối tượng về lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng
hạn như những kỹ năng hay năng lực thực hành. Như vậy, tri thức là kết quả của
quá trình nhận thức, là sự hiểu biết về một đối tượng, lĩnh vực nào đó, do tìm
hiểu học tập mà có được. Tri thức về VHHĐ là tiêu chí đầu tiên để đánh giá về
VHHĐ của một cá nhân hay một tổ chức. Quá trình thu nhận tri thức, những
hiểu biết mới được thể hiện trong việc được cung cấp những quy định được
chuẩn hóa qua đó mà người ta hiểu và có thái độ tương ứng. Tri thức VHHĐ tạo
ra khả năng định hướng nhận thức, thái độ, hành vi. Những tiêu chí này cho phép
đánh giá VHHĐ của các thành viên trong nhà trường. Việc tiếp thu tri thức
VHHĐ chịu ảnh hưởng bởi mức độ hứng thú của sinh viên với nội dung giáo
dục. Nếu sinh viên thực sự quan tâm, tin tưởng với nội dung giáo dục thì việc
GDVHHĐ dễ dàng đạt kết quả cao và ngược lại.
Các chỉ số của tiêu chí tri thức gồm: sự am hiểu về văn hoá học đường, sự
thống nhất giữa lý luận và kinh nghiệm, hiểu rõ phương pháp luận và biết vận
dụng lý luận để phân tích các quá trình, các hiện tượng của đời sống văn hoá xã
hội là chỉ số cao nhất của tiêu chí tri thức.
Mỗi cá nhân, bộ phận trong trường đại học trước hết phải biết, hiểu sâu sắc
và đầy đủ về nội dung VHHĐ, thực hiện những nội dung VHHĐ một cách
nghiêm túc, tự giác - đó là những giá trị cốt lõi của nhà trường, những giá trị,
chuẩn mực của dân tộc, của thời đại được ngoại hiện trong những văn bản pháp
quy như luật giáo dục đại học, quy chế học sinh, sinh viên, nội quy, quy đinh,
quy chế, những cam kết ... những chuẩn mực ứng xử được quy đinh cùng những
chuẩn mực bất thành văn nhưng các thành viên trong trường vẫn tự giác thực
hiện được thực hiện, đây được xem là tri thức về VHHĐ. Căn cứ vào Quyết định
129 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và thực hiện văn hóa công sở, căn cứ
vào quy chế: học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp hệ chính quy (điều 4 quy định: quyền của học sinh, sinh viên;
điều 5 quy định: nghĩa vụ của học sinh, sinh viên; điều 6 quy định: các hành vi
học sinh, sinh viên không được làm) cùng phụ lục: Một số nội dung vi phạm và
khung xử lý kỷ luật đối với sinh viên, sinh viên ban hành kèm theo Quyết định
số 42/ 2007/ QĐ- BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
58
dục và Đào tạo (từ nội dung 1 đến 23). Hiện nay chưa có một văn bản cụ thể về
VHHĐ song xét về nội dung, tính chất các văn bản trên cũng như căn cứ vào sứ
mệnh của nhà trường mà các thành viên trong nhà trường không chỉ chấp hành
đúng, đủ các yêu cầu của các văn bản trên cùng với nội quy, quy định, truyền
thống của mỗi trường góp phần làm cho các mối quan hệ trong nhà trường đảm
bảo tính nhân văn, tính văn hóa cao, vì tất cả những lý do trên, có thể xem đó
chính là những nội dung góp phần hình thành VHHĐ trong trường đại học.
Tiêu chí 2: Về niềm tin
Trên cơ sở tri thức có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhận thức của sinh
viên về văn hoá học đường sẽ biến thành niềm tin – là tiêu chí cao nhất của hiệu
quả cụ thể về mặt tinh thần. Nội dung của niềm tin được thể hiện ở mức độ tin
tưởng vào tính khoa học của văn hoá học đường, tin tưởng vào đường lối chính
sách của Đảng về xây dựng văn hoá, vào quy định của các trường đại học về nội
dung văn hoá học đường cần xây dựng. Niềm tin thể hiện ở khả năng đánh giá
đúng, định hướng đúng quan điểm và lập trường trước những diễn biến phức tạp
của đời sống văn hoá xã hội. Niềm tin ấy giúp sinh viên có ý chí vững vàng
trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xuống cấp của văn hoá học đường,
sẵn sàng hành động phù hợp với tri thức được trang bị để xây dựng văn hoá học
đường. Niềm tin thể hiện sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, trở thành nội
lực để sinh viên vừa là đối tượng vừa là chủ thể của giáo dục văn hoá học đường
trong các trường đại học.
Tiêu chí 3: Về thái độ
Trong Từ điển tiếng Việt, thái độ được định nghĩa là: cách nhìn nhận, hành
động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần
phải giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm
của cá nhân đối với con người hay một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó. Như
vậy, thái độ bao gồm nhận thức, cảm xúc, hành vi có thể hiểu một cách đơn giản
thái độ là sự thích hay không thích, quan tâm hay không quan tâm, tích cực hay
thờ ơ, tiêu cực trong đó niềm tin vào sự hiểu biết, kinh nghiệm của cá nhân đóng
vai trò quan trong. Sự chuyển biến thái độ của đối tượng theo mục đích của chủ
thể đặt ra là một trong những mục tiêu của quá trình GDVHHĐ. Trên cơ sở nhận
thức nội dung VHHĐ và xem nó là những giá trị tích cực góp phần hoàn thiện
59
nhân cách đối tượng thì nó trở thành động lực bên trong, tự thân thúc đẩy các
thành viên hiện thực hóa VHHĐ, biến chúng thành hành động cụ thể. Khi
VHHĐ trở thành nét tính cách của sinh viên, họ sẽ kiên định hơn trước những
diễn biến phức tạp của đời sống xã hội, có ý chí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh
với những hiện tượng lệch chuẩn. Do vậy, niềm tin tự nó trở thành điều kiện cần
thiết để thống nhất giữa nhận thức và hành động. Vấn đề biến nhận thức, hiểu
biết kinh nghiệm của cá nhân đối tượng thành niềm tin hay định hướng thái độ
tình cảm của họ đối với việc thực hiện VHHĐ trong trường đại học chịu sự tác
động của nhiều yếu tố. Quá trình GDVHHĐ phải làm cho các thành viên hiểu và
tin tưởng rằng những nội dung của VHHĐ chính là những chuẩn mực mà mình
cần tự giác thực hiện. Chẳng hạn, như các chuẩn mực về trang phục, giao tiếp
ứng xử, về tổ chức hoạt động của nhà trường. Xây dựng được thái độ đúng đắn
đối với VHHĐ là công việc quan trọng và đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, thời
gian mới mong có hiệu quả.
2.2.3.2. Nhóm tiêu chí về thực tiễn đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa học
đường thông qua hành vi, hoạt động của các thành viên trong nhà trường
Tiêu chí 4: Về Hành vi giao tiếp trong tổ chức, quản lý
Hoạt động tổ chức quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động.
Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất
cao hơn trong việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra,
chỉnh lý... phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động để người thủ trưởng phối
hợp nỗ lực với các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt
được mục tiêu đề ra. Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ
thể quản lý trong tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức. Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng
cách vận dụng các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Để đánh giá HQGDVHHĐ từ tổ chức quản lý, phải chú ý các yếu tố:
- Phải có chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động đến đối tượng bị
quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý tạo ra và các khách
thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là
một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần. Chủ thể có thể là một người, một
nhóm người, hoặc một bộ phận chức năng.
60
- Phải có mục tiêu và quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu
này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
- Các nguồn lực, môi trường và điều kiện đảm bảo các tác động quản lý.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích...của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý bằng các quyết định, các cơ chế chính sách và phẩm chất uy tín
của cơ quan quản lý hay của người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các điều kiện (nhân lực, tài lực và vật lực.) và các cơ hội nhằm đạt
được các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn biến động. Như vậy,
có thể xem văn hoá tổ chức quản lý trong VHHĐ là một quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch dựa trên các chức năng đặc thù của chủ thể quản lý nhằm
gây ảnh hưởng đến khách thể quản lý thông qua cơ chế quản lý, nhằm đạt được
mục tiêu quản lý, từ đó nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu của tổ chức, đạt
hiệu quả tốt nhất.
Trường đại học là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất định
nhằm đạt được mục tiêu xã hội đặt ra. Trong nhà trường, Hiệu trưởng quản lý
mọi hoạt động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng. Hiệu trưởng là người phụ
trách cao nhất nhà trường và chịu trách nhiệm về các hoạt động trong nhà
trường. Đồng thời trong nhà trường còn có các tổ chuyên môn làm việc theo chế
độ tập thể và các hội đồng làm việc theo chế độ tư vấn để góp ý kiến, tư vấn, trợ
giúp thủ trưởng xem xét, quyết định và thực thi đối với những vấn đề quản lý
nhà trường. Việc quản trị nhà trường là tổ chức, giám sát mọi hoạt động của nhà
trường, trong đó hoạt động hoạt động dạy - học là quan trọng nhất, tức là làm sao
được hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu
giáo dục. Bản chất của tổ chức quản lý trong trường đại học là quá trình tác
động có ý thức của chủ thể tới khách thể và các thành tố tham gia vào quá trình
hoạt động giá dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục, thực hiện các
chức năng quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt các
mục tiêu với hiệu quả mong muốn.
Thông thường thì quản lý nhà trường được thực hiện bởi các hình thức như
tổ chức hành chính, biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, biện pháp tâm lý xã
hội. Đó là những biện pháp quản lý cơ bản để chủ thể quản lý đạt được mục tiêu
61
quản lý. Tùy từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà vận dụng các
biện pháp quản lý phù hợp, nhằm xây dựng môi trường văn hoá trong nhà
trường. Sự vận động các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái
tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình,
là tổng hòa các giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần tác động đến con
người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác định. Xây dựng môi
trường văn hoá thực chất là xây dựng VHHĐ và phát huy tác dụng của từng hệ
thống trong cấu trúc tổng thể của nó.
Môi trường văn hoá ở trường đại học có vai trò cực kỳ quan trọng đối với
đời sống cộng đồng và quá trình xây dựng con người, trở thành nhân tố thúc đẩy
con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc,
phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung VHHĐ cần được tổ chức quản lý gồm:
- Các mục tiêu và chính sách, các chuẩn mực và nội quy.
- Biểu tượng, các giá trị và truyền thống văn hoá của nhà trường.
- Niềm tin, thái độ, cảm xúc và ước muốn cá nhân.
- Các mối quan hệ giữa các nhóm và các thành viên.
- Nghi thức và hành vi, trang phục.
Căn cứ vào các nội dung này , các trường xây dựng thành các quy định, nội
quy cụ thể phù hợp với đặc điểm của trường.
Tiêu chí 5: Về Hành vi thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong
nhà trường
Hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên không chỉ được đo bằng tiêu chí nhận
thức hay thái độ tích cực đối với VHHĐ mà phải được biểu hiện thông qua tính
chủ động, tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của họ và các hoạt
động xã hội khác của sinh viên. Nó bao gồm tính tích cực trong hoạt động học
tập trang bị tri thức, chuyên môn nghề nghiệp và tính tích cực chính trị - xã hội
trong rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa trong hoạt động xã hội và sinh hoạt
đời thường, biểu hiện thông qua hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã hội đa
chiều trong nhà trường. Tiêu chí quan trọng nhất đánh giá VHHĐ của các thành
viên trong nhà trường là những hành vi văn hóa. Dù nhận thức đúng đắn về
VHHĐ, có thái độ khẳng định VHHĐ có tác động trực tiếp đến việc hình thành
62
nhân cách mà không có những hành vi tương xứng thì khó có thể nói cá nhân
hay tổ chức đó có VHHĐ. Chẳng hạn hành vi quay cóp, gian lận trong thi, kiểm
tra là hành vi là hành vi xấu vi phạm VHHĐ; bao che sai lầm của bạn là đồng
lõa; hỗn láo với thầy cô là không đúng v.v…, nhưng từ nhận thức đến hành vi là
một khoảng cách rất xa. Quy định sinh viên trang phục đến lớp phải sạch sẽ, gọn
gàng, nghiêm túc; trong giao tiếp ứng xử với thầy, cô giáo phải tôn trọng, lễ độ;
trong giao tiếp ứng xử với bạn học phải tôn trọng, thân thiện, hòa nhã. Trong học
tập SV phải tự giác tuân thủ kỷ luật, nội quy, quy chế đào tạo và rèn luyện của
nhà trường, biết sắp xếp tổ chức quá trình tự học, tổ chức cuộc sống cá nhân
khoa học và hiệu quả. SV phải tham gia tích cực, có ý thức trách nhiệm trong
đấu tranh với những hành vi, biểu hiện tiêu cực, vô văn hóa, các tệ nạn xã hội
trong lớp, trong trường và nơi sinh hoạt. Tính tích cực trong hoạt động chính trị -
xã hội của sinh viên biểu hiện ý thức, trách nhiệm cao về nghĩa vụ công dân,
mức độ thực hiện nghĩa vụ:
- Tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động xã hội do trường, Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Vận động các thành viên khác tham gia vào
các phong trào thi đua học tập, rèn luyện sinh viên.
- Tham gia phong trào thi đua học tập rèn đức luyện tài, sinh viên nghiên
cứu khoa học, tham gia các hội thi sinh viên sáng tạo, tham gia các câu lạc bộ
nghề nghiệp.
- Tự giác thực hiện và vận động các thành viên khác trong việc thực hiện
đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Tham gia tích cực vào các phong trào hoạt động cộng đồng như sinh viên
tình nguyện, hiến máu nhân đạo…
- Tích cực đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội trong sinh
viên, trong trường học góp phần làm lành mạnh trường học.
Chất lượng GDVHHĐ là một thể thống nhất của tiêu chí tinh thần và tiêu
chí thực tiễn được thể hiện trên ba mức độ từ thấp đến cao, theo con đường cung
cấp tri thức, hình thành niềm tin, thái độ và sự tự điều chỉnh hành động thực tiễn.
Trong đó mức độ tích cực hành động thực tiễn phù hợp với chuẩn mực của cộng
đồng là mức độ cao nhất của công tác GDVHHĐ. Mỗi người phải có thái độ lịch
sự, nhã nhặn, tôn trọng lẫn nhau; không nói tục; không hút thuốc lá trong phòng
63
học, phòng họp; không sử dụng điện thoại di động khi lên lớp, dự họp. Quan hệ
nam nữ phải trong sáng, phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc;
không ngồi trong các khu vực bóng tối, vắng vẻ hoặc có những hành vi không
lành mạnh trong khuôn viên trường, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thân
thể người khác. Trong giao tiếp với sinh viên và khách đến liên hệ công tác
CBNV phải nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể các
quy định liên quan đến giải quyết công việc; không có thái độ hách dịch, nhũng
nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ. Trong giao tiếp ứng xử
với đồng nghiệp CBNV phải có thái độ trung thực, thân thiện, hợp tác; khi giao
tiếp qua điện thoại phải xưng tên, đơn vị công tác; trao đổi ngắn gọn, tập trung
vào nội dung công việc; không ngắt điện thoại đột ngột. CBNV không truyền bá
tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trái pháp luật, không tuyên truyền
chống phá Nhà nước; không tham gia biểu tình, lập hội và các hình thức hoạt
động khác trái với quy định của pháp luật. Người có VHHĐ không tham gia tệ
nạn xã hội như ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan; không in sao, phát tán, sử dụng
các tài liệu có nội dung phản động, bạo lực, đồi trụy; không tàng trữ, vận
chuyển, trao đổi, mua bán, sử dụng, mang vũ khí, hung khí, chất cháy, nổ, các
loại hóa chất độc hại trái phép trong khuôn viên trường. Người có VHHĐ phải
để xe đúng nơi quy định; không để xe trong văn phòng, hành lang nơi làm việc,
học tập, giữ gìn vệ sinh, cảnh quan, môi trường.
2.2.3.3. Nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ từ chi phí nguồn lực
phù hợp với mục đích và kết quả gíao dục văn hoá học đường
Trong GDVHHĐ, hiệu quả được xác định bởi sự tương quan giữa kết quả
với mục đích và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả ấy. Bởi vậy đánh giá
HQGDVHHĐ không thể không tính đến chi phí các nguồn lực cơ bản đầu tư cho
hoạt động GDVHHĐ bao gồm chi phí về nguồn nhân lực, chi phí về cơ sở vật
chất và chi phí về thời gian. Tổng hợp các chi phí này càng thấp, càng hợp lý
nhưng kết quả đạt được của hoạt động GDVHHĐ càng cao, thì khi đó
HQGDVHHĐ càng lớn.
Tiêu chí 6: Chi phí về nhân lực
Nhân lực là sức người, về mặt dùng trong lao động sản xuất, kinh doanh và
hoạt động xã hội [101, tr.688]. Nhân lực được hiểu là tất cả các tiềm năng của
64
con người trong một tổ chức hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh
đạo) tức là tất cả các thành viên trong tổ chức sử dụng kiến thức, khả năng, hành
vi ứng xử và giá trị đạo đức để tổ chức hoạt động, duy trì và phát triển tổ chức,
đơn vị. Chi phí về nhân lực nghĩa là sử dụng tổng số nhân lực bao nhiêu, phân bổ
số lượng nhân lực đó một cách hợp lý cho các hoạt động cụ thể cũng như cho
tổng thể các hoạt động theo kế hoạch, sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức thành
viên nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu chủ thể đặt ra.
Trường học được xem là một “đại gia đình” trong đó các thành viên: nhà
quản lý, thầy, trò, cán bộ công nhân viên, các đối tác trong quá trình phát triển
của nhà trường. Về cơ bản, cơ cấu tổ chức của một trường đại học (cấp trường)
bao gồm Đảng ủy (bí thư, phó bí thư, các ủy viên thường vụ và các thành viên
ban chấp hành Đảng ủy), Ban Giám hiệu (thường có 1 hiệu trưởng và 2-4 hiệu
phó). Ban giám hiệu nhà trường là yếu tố quyết định nếu lãnh đạo nhà trường
quan tâm đến sự phát triển bền vững, đến thương hiệu nhà trường, thì vấn đề
giáo dục, xây dựng và thực hiện VHHĐ của nhà trường được thể hiện, được tính
đến trong chương trình đào tạo, được xem là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, là điều kiện để đổi mới căn bản toàn diện của nhà trường. Các khoa (mỗi
khoa có trưởng khoa, các phó trưởng khoa, các giảng viên công tác tại khoa), các
bộ môn (có tổ trưởng, tổ phó và các giảng viên), các phòng, ban chức năng (có
trưởng phòng/ban và phó trưởng phòng/ban cùng các chuyên viên), các viện,
trung tâm trực thuộc trường đại học, các đoàn thể bao gồm Công đoàn (có chủ
tịch, phó chủ tịch và công đoàn viên là cán bộ, giảng viên, nhân viên), Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (có Ban chấp hành Đoàn trường gồm bí thư,
phó bí thư và các ủy viên), Hội sinh viên (có chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy
viên)… Đây là những chủ thể GDVHHĐ cho sinh viên.
Trong trường đại học, sự bố trí một cách hợp lý, khoa học về cơ cấu tổ
chức các khoa, phòng, ban, tổ bộ môn... , cán bộ, giảng viên ở từng bộ phận với
sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể khoa học, hợp lý cũng là một yếu tố có
ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động GDVHHĐ, đến môi trường VHHĐ. Giảng
viên là những người trực tiếp đứng trên bục giảng với nhiệm vụ trao truyền
những tri thức chuyên môn và kiến thức xã hội, kỹ năng sống, thái độ sống tích
cực cho sinh viên. Với vai trò, vị thế là chủ thể quá trình dạy - học, giảng viên là
65
nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu, trực tiếp trong việc giáo dục, xây dựng
môi trường VHHĐ lành mạnh, ở các trường đại học.
Khi bàn về giáo dục nói chung và giáo dục trong từng nhà trường nói riêng
người ta thường chỉ quan tâm đến người dạy và người học mà quên rằng còn có
một bộ phận tuy không trực tiếp tham gia quá trình dạy - học nhưng có vai trò
nhất định trong các bộ phận cấu thành một đơn vị trường học, đó là cán bộ công
nhân viên trong mỗi trường học, họ là những người phục vụ, hỗ trợ đắc lực cho
quá trình đào tạo của nhà trường. Cán bộ, nhân viên có thể là những người tham
gia công tác quản lý mà không trực tiếp giảng dạy, có thể vừa giảng dạy vừa phụ
trách một mảng hoạt động, một bộ phận nhất định trong cơ cấu trường học. Nhân
viên có thể là những người làm những công việc chuyên biệt ở các khoa,
phòng, ban, trung tâm hoặc bộ phận nhân viên bảo vệ, nhân viên môi
trường... có trách nhiệm gắn với công việc được giao và họ cũng tham gia
vào quá trình giáo dục, xây dựng và thực hiện VHHĐ trong trường đại học
được thể hiện qua chất lượng, hiệu quả công việc và ý thức, thái độ trong
ứng xử với các thành viên trong trường đại học. Như vậy cán bộ, công nhân
viên cũng là một nhân tố rất quan trọng góp phần vào quá trình GDVHHĐ cho
sinh viên trong trường đại học.
Tiêu chí 7: Chi phí về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm: nơi làm việc của cán bộ quản lý
(nhà hiệu bộ), nơi làm việc, sinh hoạt chuyên môn của giảng viên (văn phòng
khoa, ban, trung tâm), nơi học tập của sinh viên (giảng đường, xưởng thực
hành), nơi sinh hoạt của sinh viên (ký túc xá), nơi tự học (thư viện, phòng truyền
thống), nơi rèn luyện thân thể (sân vận động, nhà giáo dục thể chất), vui chơi
giải trí, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, câu lạc bộ (nhà văn hóa)… và các thiết bị
phục vụ học tập và sinh hoạt. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất còn bao gồm quang
cảnh sinh hoạt trong trường và cách bố trí các cơ sở vật chất đó như thế nào để
có tác động giáo dục đến tính thẩm mỹ, tính khoa học, tính tổ chức kỷ luật cho
sinh viên. Tất cả không gian đó tạo nên sự thoải mái, tự tin cho sinh viên, là điều
kiện để sinh viên yêu trường, yêu lớp, yêu ngành nghề được đào tạo khi được
học tập, rèn luyện trong cơ sở đào tạo khang trang, hiện đại, có thương hiệu.
Điều này cũng tạo ra môi trường GDVHHĐ tốt cho nhà trường, nó là một trong
66
những điều kiện quan trọng để đào tạo sinh viên phát triển toàn diện. Không thể
phủ nhận, chất lượng đào tạo tương quan tỷ lệ thuận với tính hiện đại, đồng bộ
và sự hoàn thiện của cơ sở vật chất. Điều này chỉ có thể thực hiện tốt nếu đảm
bảo được cả hai mặt: xây dựng, đầu tư và quản lý, khai thác, sử dụng một cách
tối ưu hóa cơ sở vật chất. Nói cách khác, quá trình xây dựng, nâng cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo của các trường đại học phải đi đôi với việc
quản lý, khai thác hợp lý, hiệu quả cao nhất những điều kiện cơ sở vật chất có
sẵn. Trong đó, việc xây dựng được các nội quy, quy trình cụ thể về sử dụng và
bảo quản cơ sở, trang thiết bị, phương tiện dạy học là việc làm tiên quyết, bởi đó
chính là quy ước, để mọi người thực hiện, đồng thời cũng là “chế tài” để xử lý
những hành vi cố tình vi phạm làm hư hỏng, lãng phí, mất mát...
Sự tham gia thực hiện nghiêm túc của tất cả cán bộ, giảng viên, công nhân
viên, sinh viên trong quá trình sử dụng và quản lý cơ sở vật chất phương tiện,
thiết bị kỹ thuật chính là điều kiện để phát huy tinh thần làm chủ, là sự biểu hiện
văn hóa ứng xử tích cực của mọi thành viên đối với cơ sở vật chất của nhà
trường, đây cũng chính là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho
sinh viên.
Tiêu chí 8: Chi phí về thời gian
Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất (cùng với không gian), trong
đó vật chất vận động phát triển liên tục, không ngừng. Thời gian và không
gian đều là vô tận" [95, tr.923]. Thời gian là một khái niệm để diễn tả trình tự
xảy ra của các sự kiện, biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được
xác định bằng số lượng các chuyển động (hoạt động) của các đối tượng có
tính lặp lại (sự lượng hoá các chuyển động lặp lại) và thường có một thời
điểm mốc gắn với một sự kiện nào đó. Con người rất coi trọng thời gian, coi
nó là một thứ vô cùng quý giá, đã đánh mất và tiêu hao đi thì không bao giờ
có lại được nữa. Trong hoạt động tự nhiên, khoa học tự nhiên thời gian là
một đại lượng quan trọng trong những công thức toán học, vật lý hay hóa
học... Trong hoạt động xã hội, khoa học xã hội, yếu tố thời gian đã trở thành
một yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần làm lên sự thành bại hay mức độ
hiệu quả trong công việc. Do vậy, con người luôn có ý thức sử dụng thời gian
một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả nhất.
67
Xã hội ngày càng phát triển thì nhịp độ, tiết tấu cuộc sống ngày càng
nhanh, thậm chí tới mức áp lực, trong khi đó, thời gian cho mỗi con người là hữu
hạn, vì vậy để giảm áp lực về thời gian, công việc có hiệu suất cao nhất, mỗi
người, mỗi đơn vị, tập thể đều phải có kế hoạch làm việc thật khoa học, sử dụng
thời gian một cách hợp lý nhất. Việc sử dụng hợp lý thời gian chính là biểu hiện
của tính khoa học, tính văn hóa trong việc xắp xếp thời gian cho từng công việc,
từng hoạt động ở từng thời điểm, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, cho cả
đời người hay cho nhiều thế hệ. Việc hoạch định thời gian càng chi tiết, càng
hợp lý chứng tỏ hoạt động đó, nhiệm vụ đó có tính khả thi cao, có hiệu quả cao.
2.3. Những yếu tố chi phối hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên
2.3.1. Điều kiện kinh tê –xã hội
Xét ở bình diện xã hội, mục đích của GDVHHĐ là nhằm kiến tạo, củng cố
ý thức xã hội mới cho sinh viên, trực tiếp là hình thành ý thức kỷ luật, ứng xử có
văn hóa trong trường học. Ý thức xã hội, xét đến cùng là sự phản ánh tồn tại xã
hội. Mặc dù ý thức xã hội nói chung và nhận thức về VHHĐ nói riêng, đôi khi
có tính vượt trước, nhưng sự hình thành ý thức cộng đồng mới không chỉ là kết
quả của các biện pháp giáo dục tư tưởng mà còn là sản phẩm của các biện pháp
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Do đó, hiệu quả GDVHHĐ không chỉ chịu tác
động của các yếu tố nội tại của nó mà còn chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội trong nước và quá trình hội nhập quốc tế.
Giáo dục văn hóa học đường một hoạt động xây dựng, hoàn thiện nhân
cách sinh viên đồng thời là điều kiện cho quá trình đổi mới giáo dục theo hướng
hiện đại phù hợp với yêu cầu mới của sự phát triển, trong khi con người và môi
trường có mối quan hệ qua lại biện chứng với nhau. Con người tạo ra môi trường
của mình, đồng thời môi trường lại có ảnh hưởng quy định, chi phối đến sự tồn
tại và phát triển của con người. C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhận định: “Con
người sáng tạo ra hoàn cảnh đến mức độ nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy” [14, tr.306]. Môi trường xã hội khách quan còn tác động một
cách gián tiếp đến hiệu quả thông qua việc cung cấp các nguồn lực cho
GDVHHĐ. Kinh tế, khoa học công nghệ, truyền thông, giao lưu văn hóa phát
triển sẽ cung cấp nguồn kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất dồi dào cho
68
GDVHHĐ. Sự tác động của môi trường xã hội khách quan đến hiệu quả
GDVHHĐ cả ở chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nếu môi trường xã hội khách
quan có nhiều thuận lợi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ và ngược lại
khi môi trường xã hội khách quan biến động phức tạp, có nhiều biểu hiện tiêu
cực, lệch lạc thì hiệu quả GDVHHĐ sẽ không mang lại như mong muốn.
Môi trường bên ngoài các trường đại học bao gồm môi trường hẹp và môi
trường rộng. Môi trường hẹp là tình hình kinh tế, an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, đời sống văn hoá dân cư trên địa bàn nơi có trường đại học, tiếp đó là
mục tiêu đào tạo của bậc đại học nói chung mục tiêu của từng trường đại học nói
riêng. Môi trường rộng hơn là tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất
nước. Trong đó, tốc độ phát triển kinh tế, luật và các chính sách phát triển giáo
dục và đào tạo ; các quyết sách chính trị trong đối nội, đối ngoại của Đảng và
Nhà nước; các quan hệ, đời sống văn hoá tinh thần xã hội có tác động mạnh mẽ
đến hiệu quả GDVHHĐ. Tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội thế giới và
khu vực cũng tác động không nhỏ đến thái độ và niềm tin của sinh viên. Các môi
trường nêu trên tác động đến hiệu quả với cường độ khác nhau tuỳ thuộc vào
tính chất, quy mô các sự kiện và sự tiếp nhận thông tin của đối tượng.
Nghiên cứu mối liên hệ giữa môi trường xã hội khách quan với hiệu quả
GDVHHĐ cho phép rút ra vấn đề có tính nguyên tắc là, khi tiến hành đánh giá
cũng như lựa chọn các biện pháp nâng cao hiệu quả cần có quan điểm khách
quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, tránh các biểu hiện chủ quan, duy ý chí, tuyệt
đối hoá vai trò của GDVHHĐ, thoát ly điều kiện thực tế của từng trường.
2.3.2. Các chủ thể và mối quan hệ tương tác đa chiều giữa các chủ
thể tham gia giáo dục văn hóa học đường
Là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm cải tạo thực tế khách quan, vì
vậy chủ thể đóng vai trò quyết định trong tổ chức tiến hành GDVHHĐ. Với tư
cách lãnh đạo, quản lý, chủ thể là người vạch chủ trương, phương hướng, đề ra
mục đích, yêu cầu và phân phối các nguồn lực cho hoạt động GDVHHĐ. Chủ
thể lãnh đạo, quản lý đồng thời là người kiểm tra, đánh giá, thẩm định hiệu quả
GDVHHĐ, vì vậy nhận thức, kỹ năng đánh giá có ảnh hưởng đến độ chính xác
của hiệu quả. Với tư cách tổ chức thực hiện, chủ thể là người lựa chọn nội dung,
sử dụng hình thức, phương pháp, phương tiện, thời điểm tiến hành GDVHHĐ.
69
Xét đến cùng, chủ thể mới là yếu tố quyết định sự tác động của nội dung, hình
thức, phương pháp, phương tiện GDVHHĐ, bởi chúng có phong phú, hiện đại
đến đâu cũng không có giá trị, nếu chủ thể không biết khai thác sử dụng hợp lý
để tác động đến đối tượng. Chủ thể là tấm gương để đối tượng học tập và làm
theo. Sinh thời, Lênin luôn nhắc nhở những nhà cộng sản Nga: “Chúng ta hãy
nhớ lại rằng Ăng-ghen đã nói là chúng ta phải tác động bằng sự nêu gương” [71,
tr.269]. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Nói chung, các dân tộc phương Đông đều
giàu tình cảm, đối với họ một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền”[81, tr.263].
Hiệu quả GDVHHĐ không phụ thuộc vào chủ thể nói chung mà chịu sự tác
động của số lượng và chất lượng chủ thể, sự kết hợp giữa các chủ thể để tạo nên
quan hệ tương tác đa chiều nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể. Số
lượng chủ thể đầy đủ sẽ bảo đảm cho GDVHHĐ hoạt động được nhịp nhàng,
thông suốt theo đúng chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng cá nhân. Sự
thiếu hụt về số lượng dẫn đến phải kiêm nhiệm, làm thay, dẫn đến thực hiện
việc không có chiều sâu, thiếu đầy đủ, bài bản. Trong đó, yếu tố chi phối mạnh
nhất đến hiệu quả GDVHHĐ phải là phẩm chất và năng lực của chủ thể. Sự mẫu
mực về chuyên môn, đạo đức, lối sống, trình độ nhận thức, khả năng giáo dục,
thuyết phục của chủ thể có vai trò quan trọng trong GDVHHĐ. Bên cạnh đó,
chất lượng chủ thể còn biểu hiện ở nhận thức, trách nhiệm đối với hoạt động
GDVHHĐ. Khi có nhận thức đúng, chủ thể sẽ có tinh thần trách nhiệm cao, luôn
tự giác, tích cực, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn trong quá trình tiến hành
GDVHHĐ cho sinh viên.
Năng lực là mức độ thành thục, chuyên nghiệp hoá các kỹ năng giáo dục,
thuyết phục và thực hành các bước tiến hành GDVHHĐ của chủ thể. Năng lực
và trách nhiệm là hai phẩm chất không thể thiếu của chủ thể trong quá trình giáo
dục. Trách nhiệm cao, năng lực tốt thì hiệu quả đạt được càng cao, ngược lại, ở
đâu chủ thể thiếu mẫu mực, thiếu trách nhiệm, năng lực tiến hành GDVHHĐ
yếu kém, ở đó sự chuyển biến về nhận thức, thái độ, niềm tin và tính tích cực
hoạt động thực tiễn phù hợp của đối tượng đều hạn chế.
70
Trong các trường đại học, GDVHHĐ cho sinh viên là hệ thống phong phú,
đa dạng các chủ thể do cơ cấu tổ chức và chức năng của từng bộ phận, cá nhân
quy định. Sự tác động của từng thành phần chủ thể đến HQGDVHHĐ không
đồng đều do chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Số lượng chủ thể đủ theo biên chế,
chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu quả của
GDVHHĐ cho sinh viên. Vai trò quyết định của chủ thể trong tổ chức thực hiện
cho phép rút ra vấn đề có tính quy luật, đó là chăm lo xây dựng, kiện toàn chủ
thể đủ về số lượng, mạnh về chất lượng là biện pháp quan trọng hàng đầu để
nâng cao HQGDVHHĐ cho sinh viên.
2.3.3. Sinh viên với tư cách vừa là đối tượng tiếp nhận giáo dục văn
hóa học đường vừa là đối tượng chủ động thực hành xây dựng văn hóa
học đường
Giáo dục văn hóa học đường là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần,
tư tưởng của con người. Bản chất của ý thức là sự phản ánh một cách năng động,
sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người nên việc tiếp thu nội dung
GDVHHĐ phụ thuộc vào lăng kính chủ quan của đối tượng. Cùng một hoạt
động cụ thể của GDVHHĐ nhưng đối tượng khác nhau, hiệu quả thu được khác
nhau. Trình độ nhận thức, niềm tin và tính tích cực trong hoạt động thực tiễn của
đối tượng trước hết phụ thuộc đặc điểm tâm lý- xã hội như: giai tầng xã hội xuất
thân, dân tộc, tôn giáo, vùng miền, mức sống, phong tục tập quán của đối tượng.
Hiệu quả GDVHHĐ còn phụ thuộc vào hệ thống giá trị, thái độ chính kiến,
động cơ và tính tích cực xã hội của đối tượng; phụ thuộc vào nhu cầu, lợi ích và
các đặc điểm tâm lý xã hội khác của đối tượng. Trình độ nhận thức, niềm tin và
tính tích cực hoạt động thực tiễn phù hợp của đối tượng không phải là bất biến
mà phụ thuộc vào thể chất và tâm trạng của đối tượng ở thời điểm đánh giá.
Trong các đặc điểm của đối tượng nêu trên, nhu cầu và lợi ích đóng vai trò quyết
định đến hiệu quả GDVHHĐ. Bởi sự phản ánh của ý thức con người nói chung
và việc tiếp thu, chiếm lĩnh nội dung giáo dục nói riêng suy đến cùng đều xuất
phát từ nhu cầu, lợi ích của từng cá nhân. Đi liền với nhu cầu là lợi ích bởi đối
với chủ thể hành động, sự thoả mãn nhu cầu là lợi ích, là nhu cầu được hiện thực
hoá. Thông tin đối với chủ thể dù quan trọng đến mức nào nhưng đối tượng
71
không có nhu cầu, không thấy được ích lợi của chúng, họ vẫn hờ hững, vô cảm
với chúng. “Muốn tác động giáo dục mang lại hiệu quả phải thông qua các “điều
kiện bên trong” của người được giáo dục. Đó là nhu cầu, động cơ, trình độ, khả
năng tiếp thu của người được giáo dục” [115, tr.24].
Mặt khác, quá trình biến kiến thức hiểu biết về VHHĐ thành niềm tin và
tính tích cực trong hoạt động học tập, nghiên cứu, hoạt động xã hội và ứng xử
phù hợp. có văn hóa của sinh viên là một quá trình vô cùng phức tạp, lệ thuộc
vào các quy luật lĩnh hội, ghi nhớ, tư duy của đối tượng. Trước hết, xuất phát từ
tính ích lợi của tri thức mà đối tượng nảy sinh hứng thú, có tình cảm ban đầu đối
với tri thức. Trên cơ sở đó, đối tượng xuất hiện niềm say mê lĩnh hội tri thức,
tích cực, tự giác tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu với các tri thức cũ để
hiểu rõ nội dung tri thức mới. Tiếp đó, đối tượng sử dụng kinh nghiệm thực tiễn,
tư duy, nghiền ngẫm để rút ra được tri thức, bài học, đối tượng tiến hành cấu tạo
lại tri thức theo cách hiểu mới của bản thân và vận dụng nó vào hoạt động thực
tiễn của mình… Khi tri thức có sự hoà quyện với tình cảm, nó trở thành niềm tin
của đối tượng. Từ đó, đối tượng bộc lộ ý chí hành động phù hợp với niềm tin của
mình và xuất hiện trạng thái sẵn sàng hành động. Khi có đủ điều kiện, từ trạng
thái tâm lý tích cực sẽ trở thành động lực bên trong điều chỉnh, thúc đẩy hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đối tượng một cách chuẩn mực, phù
hợp theo hướng tích cực. Đó cũng là hiệu quả cuối cùng và cao nhất của
GDVHHĐ.
Hoạt động GDVHHĐ trước hết nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực
trong nhận thức và thái độ, hành vi của sinh viên. Nếu sinh viên không mở
lòng, không có nhu cầu cải tạo bản thân, mọi nỗ lực của chủ thể cũng trở nên
vô ích. Chính vì vậy, sinh viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình
GDVHHĐ. Muốn nâng cao hiệu quả, chủ thể không chỉ phải nắm chắc đối
tượng, mà còn phải quan tâm đáp ứng nhu cầu chính đáng, khơi dậy tính tích
cực, tự giác của đối tượng, tăng cường giáo dục đi đôi với phát huy vai trò tự
giáo dục, tự rèn luyện thông qua hành động, ứng xử trong các mối quan hệ
thực tiễn của sinh viên.
72
Trong quá trình nghiên cứu về thực trạng GDHHĐ ở trường đại học, nhất là
với 124 ý kiến bao gồm các nhà quản lý giáo dục, giáo viên, chuyên gia làm việc
trong lĩnh vực giáo dục tương đôi thống nhất về những giá trị cốt lõi của một
trường đại học. Theo thứ tự, thứ nhất là tinh thần sáng tạo - Trường đại học là
nơi trao truyền tri thức, kỹ năng, những giá trị sống vì vậy tinh thần sáng tạo
phải được đề cao. Thứ hai là tinh thần dân chủ, để thực hiện được tinh thần sang
tạo thì trường đại học phải tạo ra được môi trường dân chủ trong mọi hoạt động
của nhà trường (nghiên cứu khoa học, dạy, hoc...), tiếp đến là khả năng hội nhập
đó là tri thức, kỹ năng, những phẩm chất được đào luyện từ trường phải đáp ứng
nhu cầu của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế...
Biểu đồ 2.2.3: Hệ giá trị của trường đại học (Phụ lục bảng 20 )
2.3.4. Sự phù hợp của mục đích, nội dung với hình thức, phương
pháp giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên
Mục đích là một trong những căn cứ để xác định kết quả, là yếu tố quyết
định đến tính chất, quy mô, loại hình của hiệu quả. Tuỳ theo mục đích cần đạt tới
của từng hoạt động cụ thể của GDVHHĐ mà hiệu quả là tri thức, thái độ hay
hành vi của đối tượng. Nếu mục đích lâu dài, hiệu quả có thể sẽ lâu dài, mục
đích trực tiếp, hiệu quả là trực tiếp. Mục đích có ảnh hưởng đến hiệu quả còn thể
hiện ở chỗ nếu mục đích phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao, mục đích đặt ra quá
cao, quá thấp hay không phù hợp với thực tiễn đều không mang lại hiệu quả như
73
mong muốn. Xác định mục đích đúng đắn có căn cứ khoa học, phù hợp với đối
tượng là điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả cao cho hoạt động GDVHHĐ
cho sinh viên trong các trường đại học. Trong các trường đại học, mục đích cao
nhất của GDVHHĐ là góp phần hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối
sống lành mạnh có văn hóa cho sinh viên- dự nguồn nhân lực trình độ cao - theo
mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng trường. Để đạt được mục đích ấy phải thông
qua mục tiêu của từng hoạt động cụ thể, việc xác định mục tiêu của từng hoạt
động cụ thể cần phải phù hợp với năng lực của chủ thể, đặc điểm của đối tượng,
khả năng huy động nguồn lực của từng trường mới mang lại hiệu quả cao, tạo
tiền đề để đạt tới mục đích cuối cùng của GDVHHĐ cho sinh viên.
Nội dung là toàn bộ các tri thức, kinh nghiệm và cách vận dụng nó vào giải
quyết các mối quan hệ của các thành viên trong trường học với nhau và với xã
hội một cách chuẩn mực (ngôn ngữ, thái độ, phong thái, hành vi) thuộc về lĩnh
vực mà hoạt động GDVHHĐ có nhiệm vụ phải truyền đạt đến sinh viên, tạo nên
hiệu quả ở đối tượng. Nội dung được truyền tải thông qua các hình thức, phương
pháp, phương tiện sẽ chuyển hoá thành nhận thức, ý thức, chuẩn mực, kỹ năng
được vận dựng vào hoạt động thực tiễn (giao tiếp, học tập, lao động và sinh hoạt)
của đối tượng. Sự tác động của nội dung biểu hiện ở tính lôgic, thực tiễn, đặc
biệt là tính ứng dụng nó trong hoạt động cụ thể, tính thuyết phục, phù hợp với
tâm lý, trình độ nhận thức của đối tượng cụ thể, phù hợp với trình độ của đối
tượng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Thực tế còn cho thấy, hiệu quả
GDVHHĐ cho sinh viên chưa cao không chỉ từ nội dung đơn điệu, khuôn cứng,
khó ứng dụng, tính thuyết phục thấp mà còn do thiếu tính thực tiễn, thiết thực,
đáp ứng nhu cầu của đối tượng.
Hình thức, phương pháp có thể coi là công cụ phi vật thể trong tiến hành
GDVHHĐ cho sinh viên. Không có công cụ đó, nội dung khó có thể xâm nhập
và chuyển hoá thành kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng. Sự tác động
của hình thức, phương pháp đến hiệu quả giáo dục ở chỗ nếu hình thức, phương
pháp đa dạng, phong phú sẽ tạo ra các phản ứng dây chuyền thông qua từng mối
quan hệ mà tác động nhiều tầng, nhiều lớp đến đối tượng tập trung vào mục đích
chính cần giáo dục, qua đó hiệu quả giáo dục sẽ cao. Sự phong phú, đa dạng của
74
hình thức, phương pháp, còn tác động đến lý trí, tâm lý và tình cảm của đối
tượng, sẽ kết hợp được tính tự nguyện và tính định hướng trong GDVHHĐ.
Ngoài ra, tính đa dạng, phong phú của hình thức, phương pháp còn phát huy
được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong GDVHHĐ cho đối tượng, cho
phép thực hiện linh hoạt ở các không gian, thời gian khác nhau, tận dụng được
những thành tựu, tiến bộ của khoa học công nghệ vào công tác GDVHHĐ. Có
thể khẳng định: phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục là những nhân tố
trực tiếp tạo nên chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục GDVHHĐ cho sinh
viên trong trường đại học.
2.3.5. Phương pháp, hình thức đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa
học đường
2.3.5.1. Phương pháp đánh giá
Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là vấn đề phức tạp vì nó thuộc đời sống tinh
thần, tình cảm, thói quen của con người, vì vậy cần sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp đánh giá. Hiện nay, cùng với việc phổ cập kỹ thuật cao, hiện đại và
ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng sâu rộng, việc đánh giá hiệu quả
GDVHHĐ cũng đã và đang được áp dụng nhiều phương pháp hiện đại. Đó là
việc sử dụng mạng internet, mạng xã hội để điều tra, sử dụng các phần mềm để
xử lý và phân tích các số liệu.
Sau đây là một số phương pháp cơ bản:
- Đánh giá điển hình: là phương pháp đánh giá dựa trên cơ sở lựa chọn một
số sinh viên có tính đại diện làm điển hình để tiến hành điều tra, nghiên cứu tỉ
mỉ, chu đáo, có hệ thống sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và hành vi sau tác
động của GDVHHĐ. Đây là phương pháp đánh giá mang tính chất định tính, khi
đánh giá có thể lựa chọn điển hình ở các mức độ tốt, khá, trung bình, yếu để
nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu, phân tích điển hình có thể phát hiện những
vấn đề đặt ra, xu thế chung trong nhận thức, thái độ, hành vi văn hóa của các tập
thể sinh viên.
+ Đánh giá xác suất: là phương pháp đánh giá trên cơ sở chọn ra một số đối
tượng ngẫu nhiên hoặc một số tập thể trong toàn bộ các đối tượng cần đánh giá
75
để lấy tư liệu, từ đó suy ra nhận định chung về tất cả các đối tượng cá nhân và
tập thể sinh viên cần đánh giá.
+ Đánh giá toàn bộ: là phương pháp lần lượt đánh giá tất cả các đối tượng
sinh viên. Phương pháp này thường để đánh giá hiệu quả của những hoạt động
GDVHHĐ quan trọng, kết thúc một giai đoạn, một nhiệm vụ, phù hợp cho
nghiên cứu định lượng. Có thể sử dụng phương pháp đánh giá toàn bộ một lần,
đánh giá thường xuyên hoặc đánh giá nhanh. Đánh giá toàn diện có ưu điểm là
diện tiếp xúc rộng, độ chuẩn xác cao, nhưng cần được tổ chức chu đáo, có quy
định thống nhất, rõ ràng về thời gian, phạm vi, đối tượng, tiêu chuẩn, nội dung vì
đây là một công việc lớn, phức tạp trong cả quá trình điều tra và xử lý kết quả.
2.3.5.2. Hình thức đánh giá
Hiện nay, trong trường đại học có nhiều hình thức có thể sử dụng để đánh
giá hiệu quả GDVHHĐ trong sinh viên, tiêu biểu và phổ biến là các hình thức
sau đây:
+ Chế độ giao ban, báo cáo, nắm bắt tư tưởng, đánh giá xếp loại việc thực
hiện VHHĐ của sinh viên trong tháng (hội nghị các lớp trưởng và bí thư các lớp
với giám hiệu, phòng quản lý sinh viên, cố vấn học tập): đây là các hình thức
phổ biến nhất trong các trường đại học. Việc duy trì nền nếp giao ban, báo cáo
định kỳ và đột xuất theo định kỳ và chế độ đánh giá xếp loại đức dục hàng tháng
giúp cho việc đánh giá hiệu quả GDVHHĐ diễn ra kịp thời, mang tính pháp lý
và có độ tin cậy cao.
+ Tọa đàm, diễn đàn, hội thảo: các hình thức này thường để trao đổi trực
tiếp về các vấn đề cần quan tâm, nắm bắt nhận thức và thái độ, tư tưởng, hành vi
của sinh viên. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện và tương đối tin cậy.
+ Phỏng vấn cá biệt: tiến hành trao đổi riêng với những người có liên quan
như: người quản lý, cố vấn học tập, thủ lĩnh các đội, hội, câu lạc bộ, người thân
hoặc với đối tượng chủ nhân sự việc, hiện tượng cần quan tâm để nắm bắt tình
hình tư tưởng, thái độ, ý kiến của tập thể và cá nhân sinh viên để có những
phương pháp giáo dục, định hướng phù hợp, đúng đắn.
76
+ Nghiên cứu tài liệu: đánh giá nghiên cứu các văn bản, tài liệu, báo cáo
liên quan đến hoạt động của tập thể và cá nhân sinh viên để chắt lọc, nắm bắt
thông tin.
+ Tư vấn: trên cơ sở nắm bắt những xu thế mới, những vấn đề phức tạp nảy
sinh trong đơn vị, có thể mời chuyên gia tâm lý, các học giả có chuyên môn để
luận giải, đánh giá tình hình, tư vấn, đề xuất, kiến nghị.
+ Thống kê: tận dụng chế độ báo cáo thống nhất để thu thập một cách có tổ
chức các số liệu quan trọng phản ánh đặc trưng và quy luật của sự việc để đánh
giá. Đây là phương pháp phổ biến và quan trọng thông qua phân tích kết quả học
tập, hoạt động phong trào để đưa ra các hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
+ Trắc nghiệm khách quan: dùng phương thức điều tra bằng phiếu hỏi,
bảng hỏi với các câu hỏi mở và câu hỏi đóng để đối tượng tự do phát biểu ý kiến
mà không bị bất kỳ một sức ép hoặc sự can thiệp nào nhằm tìm hiểu nhận thức
và thái độ, quan niệm của sinh viên một cách khách quan nhất.
+ Tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học bằng các phương pháp định tính và
định lượng để có kết quả khách quan, khoa học. Từ đó mà xác định hiệu quả của
GDVHHĐ.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, luận án tập trung vào nghiên cứu hiệu quả GDVHHĐ
cho sinh viên đại học. Để có cơ sở xây dựng tiêu chí hiệu quả GDVHHĐ , luận
án tiếp cận nội dung VHHĐ và GDVHHĐ cho sinh viên, phân tích những yếu tố
chi phối đến GDVHHĐ cho sinh viên.
Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên là một hoạt động quan trọng
nhằm trang bị tri thức, chuẩn mực, thái độ hành vi ứng xử có văn hóa trong
không gian trường học và cổ vũ tính tích cực hoạt động thực tiễn của sinh viên
trong học tập và sinh hoạt phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi cũng như mục
tiêu đào tạo của bậc đại học theo hướng tích cực và yêu cầu cao về hiệu quả.
Hiệu quả GDVHHĐ là kết quả cao nhất của GDVHHĐ phù hợp với mục đích
đặt ra và sử dụng hợp lý các nguồn lực được đầu tư để thực hiện mục đích ấy.
Hiệu quả GDVHHĐ được chúng tôi đánh giá dưới 3 tiêu chí: tiêu chí tinh
thần (gồm tri thức và niềm tin, thái độ) và tiêu chí thực tiễn thể hiện qua hành
77
vi, hành động của sinh viên, tiêu chí sử dụng chi phí nguồn lực hợp lý vào
hoạt động GDVHHĐ. Khi xem xét từng nhóm tiêu chí, các tiêu chí cụ thể sẽ
được đặt trong tương quan giữa 3 yếu tố cấu thành là mục đích – kết quả - chi
phí nguồn lực.
Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là đánh giá đời sống tinh thần, tư tưởng, tình
cảm, ý thức của cá nhân nên có tính nhạy cảm, khó lượng hóa trong một kết luận
và nó ảnh hưởng đến việc xem xét đánh giá phẩm chất, năng lực chính trị của
con người, của tổ chức. Vì vậy khi xem xét đánh giá hiệu quả phải chú ý tới
những yếu tố chi phối đến hiệu quả của GDVHHĐ cho sinh viên: Môi trường xã
hội, các chủ thể và mối quan hệ tương tác đa chiều giữa các chủ thể tham gia
giáo dục văn hóa học đường, sinh viên với tư cách vừa là đối tượng tiếp nhận
giáo dục văn hóa học đường vừa là đối tượng chủ động thực hành xây dựng văn
hóa học đường, sự phù hợp của mục đích, nội dung với hình thức, phương pháp
giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên, phương pháp, hình thức đánh giá
hiệu quả giáo dục văn hóa học đường,…. Những yếu tố chủ quan và khách quan
cần được xem xét trong mối quan hệ tương tác biện chứng vì chúng đều có tác
động đến hiệu quả VHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học.
78
Chương 3
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG
CHO SINH VIÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC
ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT
Ở HÀ NỘI
3.1. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội
3.1.1. Khái quát về các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật
trong phạm vi nghiên cứu của luận án
Thủ đô Hà Nội là nơi lực lượng sinh viên tập trung đông nhất, có nhiều
trường đại học nhất, số trường đại học có truyền thống, có “thương hiệu” nhiều
hơn cả. Hơn nữa thủ đô Hà Nội lại là trung tâm văn hóa, chính trị của cả nước
cho nên các trường đại học ở đây có sự liên hệ mật thiết với “tầng cao” của hệ
thống chính trị, với các trung tâm, các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ,
giáo dục, văn hóa tư tưởng… ít nơi nào sánh bằng. Điều đó làm cho các hoạt
động của sinh viên Hà Nội, lối sống của sinh viên Hà Nội có sức lan tỏa và có
tầm ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến thanh thiếu niên nhiều vùng miền trong cả
nước. Do vậy luận án chú trọng nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học
đường cho sinh viên ở Hà Nội.
Nhưng chỉ trên địa bàn Hà Nội đã có tới 55 trường đại học và 29 học viện
cả công lập và ngoài công lập. Trong 55 trường đại học có 33 trường đào tạo các
ngành kỹ thuật với số lượng sinh viên lớn, vì vậy việc khảo sát sinh viên tất cả
các trường hoặc hầu hết các trường là không thể trong điều kiện và phạm vi của
một luận án. Chính vì lẽ đó, trong các trường đại học ở Hà nội tác giả luận án
các trường đại học đào tạo khối kỹ thuật, căn cứ vào mục tiêu, chức năng và
nhiệm vụ của các trường này là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong cuộc cách mạng khoa công nghệ
trong kỷ nguyên số, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong 33 trường
đào tạo tác giả luận án chọn mẫu ở 5 trường đại học. Có trường là cơ sở đầu
79
ngành của ngành mình và có bề dày truyền thống (đại học Kiến trúc, đại học
Giao thông vận tải, đại học Xây dựng), có trường có lịch sử lâu năm, mới được
nâng cấp thành trường đại học nhưng đã “chiêu tập” và đào tạo được một lượng
sinh viên rất lớn (đại học Công nghiệp Hà Nội), có trường ngoài công lập được
thành lập vào đầu thời kỳ “bùng nổ” các trường đại học ngoài công lập (đại học
Thành Đô). Cách khảo sát như vậy có thể cho cái nhìn khá bao quát tình hình
sinh viên Hà Nội.
Luận án nghiên cứu đối tượng sinh viên các ngành kỹ thuật vì là nơi đào
đào cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đặc trưng các trường đào tạo kỹ thuật là tính
chính xác cao, khác so với khối sư phạm là tính chuẩn mực, các trường quân đội,
công an là tính kỷ luật nghiêm minh, khối kinh tế là linh hoạt và năng động, các
trường nghệ thuật tính nghệ sĩ phá cách và bay bổng… Các trường ngành kỹ
thuật thường có tỷ lệ nam sinh viên đông hơn nhiều so với nữ sinh viên. Tỷ lệ
này làm cho nam sinh viên ít chú ý đến ngoại hình của mình hơn, trong sinh hoạt
ít phải “lên gân” trước các bạn gái, do vậy dễ bộc lộ bản tính thật của mình hơn.
Sinh viên các ngành kỹ thuật cũng “được học” ít môn lý luận. Các bộ môn quản
lý, giáo dục con người, các môn xã hội nhân văn, văn hóa nghệ thuật,… cũng
hầu như không học do đó tính chất mộc mạc chất phác ở nhóm này cũng bộc lộ
rõ rệt hơn.
Trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật theo tiếng Anh: technical
institute hay institute of technology; nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học kỹ
thuật và công nghệ, quản lý khoa học và công nghệ, quản lý công nghiệp, kinh tế
kỹ thuật... sinh viên tốt nghiệp các trường này được gọi là kỹ sư. Theo định
nghĩa của Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực châu Á- Thái Bình Dương (ESCAP):
kỹ thuật là kiến thức có hệ thống về quy trình và cách thức ứng dụng để chế biến
vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và các hệ
thống dùng trong việc tạo ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Những trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay đào tạo nguồn nhân lực
nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học kỹ thuật và công nghệ, quản lý khoa học
80
và công nghệ, quản lý công nghiệp, kinh tế kỹ thuật, kỹ sư, kỹ thuật viên bậc cao
trong các lĩnh vực. đặc trưng của các trường này tỷ lệ nam chiếm đa số trung
bình trên 80%, thi đầu vào là các môn khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, sinh) và
say mê công nghệ, kỹ thuật mới.
Hiện nay không chỉ trong sản xuất kinh doanh áp dụng tổ chức quản lý theo
tiêu chuẩn ISO 9001 mà một số đơn vị hành chính sự nghiệp, dịch vụ trong đó
có một số trường đại học chủ yếu là các trường đào tạo các ngành kỹ thuật và
kinh tế đã áp dụng tổ chức, quản lý hoạt động của mình. Trong 5 trường luận án
khảo sát có 4 trường áp dụng, có những trường đạt đến cấp độ 4 của tổ chức
BVQI của Anh như trường đại học Công nghiệp Hà nội. Đây là hệ thống chuẩn
hóa, công khai hóa quy trình từng bước thực hiện các nhiệm vụ, từng vị trí, từng
bộ phận khi tham gia vào thực hiện mục tiêu chung của nhà trường. Hệ thống
tiêu chuẩn này đã góp phần tích cực giúp cho việc tổ chức, quản lý mọi hoạt
động của nhà trường hiệu quả, hiện đại và rất văn minh.Tính văn hóa trong quản
lý, tổ chức ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cũng ngoại hiện một
cách rõ nét, hướng vào mục tiêu chung là nâng cao chất lượng đào tạo, tạo cơ hội
cho sự sự sáng khởi phát, tinh thần đoàn kết tương trợ giữa các thành viên và
nâng cao uy tín của cơ sở đào tạo với xã hội.
* Trường đại học Công nghiệp Hà Nội
Ngày 28/5/1999 Quyết định số 126/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ
thành lập Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội trên cơ sở trường Trung học
Công nghiệp I. Ngày 2/12/2005 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 315/2005
QĐ/TTg thành lập Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trên cơ sở Trường Cao
đẳng Công nghiệp Hà Nội. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội là trường đại
học trực thuộc Bộ Công thương, đang phát triển để trở thành trường đại học đẳng
cấp quốc tế. Trường hiện có hơn 1800 cán bộ, giảng viên, nhân viên, trong đó có
1451 giảng viên cơ hữu và hợp đồng dài hạn, trong đó trên 80% trình độ trên đại
học (thạc sỹ, tiến sỹ). Trường có nhiều giảng viên dạy giỏi cấp toàn quốc; nhiều
giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ đang tham gia giảng dạy tại trường.
Trường có 03 cơ sở đào tạo với tổng diện tích gần 50 hecta. Tại các cơ sở,
Nhà trường đã xây dựng kiên cố hơn 300 phòng học lý thuyết, 200 phòng thực
hành, thí nghiệm với đầy đủ máy móc, thiết bị phục vụ cho đào tạo khoảng
81
40.000 học viên, học sinh, sinh viên. Trường đã xây dựng mạng lưới liên kết đào
tạo với hơn nhiều cơ sở đào tạo trên cả nước để đào tạo nhiều cấp trình độ đáp
ứng nhu cầu thị trường lao động.Trung tâm thư viện trên gần 400.000 đầu sách
và nhiều loại phòng đọc khác nhau. Gần 2.500 máy vi tính, hệ thống mạng nội
bộ toàn trường kết nối internet phục vụ công tác quản lý điều hành, giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học. Ký túc xá hiện đại với hơn 550 phòng ở cho
sinh viên, sinh viên nội trú được trang bị đầy đủ phương tiện sinh hoạt có thể
phục vụ cho gần 6.000 sinh viên, sinh viên. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của
học sinh, sinh viên như: sân chơi thể thao, dịch vụ thẻ ATM, siêu thị, nhà ăn…
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ bắt
đầu từ năm học 2008 – 2009.
Về qui mô đào tạo: Trường có trên 40.000 sinh viên, sinh viên. Các lĩnh
vực đào tạo: công nghệ, kỹ thuật, kinh tế, may, thời trang, sư phạm, du lịch. Các
loại hình đào tạo đa dạng: chính quy, vừa làm vừa học, liên thông, liên kết nước
ngoài, nâng bậc thợ, đào tạo lao động xuất khẩu, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn
theo nhu cầu xã hội quan tâm. Trong những năm qua nhà trường đã xây dựng
được chương trình và triển khai đào tạo 21 chuyên ngành đại học chính quy, 18
chuyên ngành đào tạo cao đẳng chính quy, 14 chuyên ngành Trung cấp chuyên
nghiệp và nhiều chương trình đào tạo trình độ khác nhau.
Trường đại học Công nghiệp Hà Nội có lịch sử phát triển trên 117 năm
(1898), tiền thân từ 2 trường: trường chuyên nghiệp Hà Nội và trường chuyên
nghiệp Hải Phòng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhà trường đã được
Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành trao tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đảng
bộ nhà trường liên tục đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch, vững mạnh tiêu biểu.
Các tổ chức Đoàn Thanh niên và Công đoàn luôn đạt danh hiệu tiên tiến xuất
sắc. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội có sứ mạng cung cấp dịch vụ giáo dục
đào tạo nhiều ngành, nhiều trình độ và dịch vụ khoa học chất lượng cao cho thị
trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
là trường công lập đẳng cấp quốc tế, hàng đầu của Việt Nam đào tạo công nghệ
nhiều cấp trình độ, nhiều ngành, là trung tâm nghiên cứu, phát triển, chuyển giao
82
công nghệ uy tín và tin cậy. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội là môi trường
học tập thuận lợi tạo cơ hội tiệp cận cho mọi đối tượng, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Trường chú trọng nâng cao chính sách chất lượng, xây dựng trường trở
thành cơ sở đào tạo mở, hướng tới người học và các bên quan tâm. Đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao với nhiều trình độ phù hợp yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Thường xuyên cải tiến phương pháp giảng dạy, lấy người học
làm trung tâm; triệt để áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy và
học tập; thí điểm, tiến tới tổ chức đào tạo hoàn toàn theo tín chỉ. Mở rộng liên
kết đào tạo với các trường, với các cơ sở kỹ thuật - kinh tế trong và ngoài nước.
Khuyến khích học tập, sáng tạo. Cam kết xây dựng, thực hiện, duy trì các hệ
thống quản lý tiên tiến (ISO 9000, TQM) để đạt được kiểm định chất lượng của
Việt Nam, của các tổ chức quốc tế.
* Trường đại học Thành Đô
Trường đại học Thành Đô là trường tư thục đầu tiên đào tạo ở bậc đại học
của Việt Nam, có trụ sở duy nhất tại Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội. Trường đào
tạo đa ngành trình độ kỹ sư, cử nhân đại học, cao đẳng chính quy và đào tạo
nghề các cấp. Được thành lập ngày 30/11/2004, tính đến nay trường đã đào tạo
và cấp bằng tốt nghiệp cho hàng ngàn sinh viên. Chương trình đào tạo linh hoạt
với hệ thống giáo trình được chọn lựa kỹ càng. Đại học Thành Đô cam kết cung
cấp một dịch vụ đào tạo chất lượng với mức chi phí trung bình, hợp lý. Đặc điểm
nổi bật của nhà trường là hệ thống dịch vụ chăm sóc người học chu đáo. Các tân
sinh viên đến trường đều được các cố vấn học tập hỗ trợ thông qua thư điện tử,
điện thoại. Nhà trường chú trọng chương trình định hướng nghề nghiệp nhằm
giúp sinh viên chọn lựa được ngành nghề phù hợp với năng lực chuyên môn, đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Đại học Thành Đô xác định mục tiêu đào tạo những sinh viên có phẩm
chất đạo đức chính trị, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu của người học và của thị trường lao động trong thời đại mới của nền
kinh tế tri thức. Nhà trường cam kết cung cấp một môi trường học tập sáng tạo,
linh hoạt, phát huy năng lực của người học và sự chuyên nghiệp, tâm huyết của
đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý. Đại học Thành Đô có đội ngũ giảng viên khá
83
vững vàng, có người đã từng tham gia giảng dạy tại rất nhiều các trường đại học
trong nước và quốc tế.
Đại học Thành Đô đang tìm kiếm cơ hội hợp tác quốc tế, nhất là với những
trường đại học uy tín, chất lượng nhằm đẩy mạnh và nâng cao vị thế nhà trường.
Để đạt mục tiêu này cần xây dựng một kế hoạch rõ ràng phù hợp với điều kiện
phát triển Việt Nam, cụ thể là: thu hút lực lượng sinh viên ưu tú, tận dụng nguồn
lực quốc tế, cung cấp dịch vụ đào tạo đáp ứng nhu cầu, chuyên môn hóa nhằm
khai thác triệt để đội ngũ giảng viên danh giá, khuyến khích hoạt động nghiên
cứu khoa học, tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, tạo môi trường nghiên
cứu trong thời đại thông tin kỹ thuật số, xây dựng cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc
tế, củng cố hoạt động tài chính hiệu quả, xây dựng hệ thống quản lý nhà trường
chất lượng, hiệu quả.
* Trường đại học Kiến trúc Hà Nội
Trường đại học Kiến trúc Hà Nội được thành lập theo Quyết định số
181/CP ngày 17 tháng 9 năm 1969 của Hội đồng Chính phủ. Trường thuộc Bộ
Xây dựng, chịu sự quản lý Nhà nước về chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo và sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội. Trường hiện có 28 đơn vị trực thuộc, trong đó có 12 đơn vị thuộc khối đào
tạo, 8 đơn vị thuộc khối quản lý, 5 đơn vị thuộc khối khoa học công nghệ và
thông tin, 03 đơn vị thuộc khối sản xuất dịch vụ và chuyển giao công nghệ xây
dựng. Nhà trường có trên 900 cán bộ viên chức, người lao động hợp đồng, trong
đó có 418 cán bộ giảng dạy, 2 Giáo sư, 22 Phó Giáo sư, 17 Nhà giáo ưu tú, 77
tiến sỹ, 284 thạc sỹ. Hội sinh viên Trường có trên 7000 hội viên, trực thuộc Hội
sinh viên thành phố Hà Nội. Tổng số sinh viên thường xuyên là 11.000, gồm cả
hệ chính quy và hệ vừa làm vừa học. Số sinh viên cao học gần 700, số nghiên
cứu sinh là 65.
Trường đại học Kiến trúc Hà Nội xác định mục tiêu đào tạo cán bộ khoa
học kỹ thuật thuộc ngành xây dựng ở trình độ đại học và trên đại học, đặc biệt là
các chuyên ngành kiến trúc, quy hoạch, xây dựng, kỹ thuật hạ tầng đô thị và môi
trường. Trường là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ quản lý đô thị đáp ứng yêu cầu
xây dựng và phát triển của đất nước theo hướng hội nhập và chuẩn quốc tế. Cơ
sở đào tạo chính của trường đại học Kiến trúc tại Hà Nội và các cơ sở liên kết
84
(Xuân Hòa, Nam Định, Hải Dương, Uông Bí, Điện Biên, Huế và Thành phố
HCM). Trong hơn 40 năm qua, trường đã đào tạo được gần 30.000 kiến trúc sư,
kỹ sư , gần 100 tiến sỹ thuộc các chuyên ngành đào tạo của trường. Hiện nay
trường đang đào tạo theo học chế tín chỉ và đã ứng dụng phần mềm tin học vào
công tác quản lý đào tạo.
Giảng viên, cán bộ khoa học của nhà trường đã viết hàng trăm giáo trình,
tài liệu giảng dạy, bài giảng phục vụ đào tạo ngành xây dựng. Đội ngũ giảng
viên, cán bộ khoa học, học viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của trường đã thực
hiện hàng ngàn đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có nhiều đề tài trọng điểm
của Nhà nước, của ngành Xây dựng. Phong trào nghiên cứu khoa học của sinh
viên được tổ chức triển khai từ nhiều năm nay, hàng năm có hàng trăm sinh viên
tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế và đã đạt được
nhiều kết quả, đặc biệt có 20 đề tài của sinh viên đạt giải thưởng quốc tế. Trường
đã có quan hệ với hơn 70 trường đại học và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực đào
tạo, nghiên cứu khoa học và các mặt hoạt động khác: Trường Đại học Kiến trúc
Toulouse - Pháp; Trường Đại học Melbourne - Úc; Trường Đại học Tổng hợp
Barcelona - Tây Ban Nha; Trường Đại học Mỹ thuật Milan – Italia; Trường Đại
học Hawaii - Mỹ; Trường Đại học Torino – Italia; Trường Đại học Nottingham –
Anh; Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Kiến trúc Matxcơva - Nga. Cán
bộ khoa học, giảng viên và sinh viên của trường đã tham gia thiết kế hàng ngàn
công trình kiến trúc, quy hoạch, xây dựng lớn nhỏ trên mọi miền đất nước.
Với những thành tích trong 50 năm đào tạo kiến trúc sư và hơn 40 năm xây
dựng và phát triển Trường, Nhà trường đã được Đảng, Nhà nước, các Bộ,
Ngành, Đoàn thể tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: 2 Huân chương Lao
động hạng Nhất và hạng Ba; 3 Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân
chương Hồ chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.
* Trường đại học Xây dựng
Trường đại học Xây dựng được thành lập theo Quyết định số 144/CP ngày
8 tháng 8 năm 1966 của Hội đồng Chính phủ, tiền thân là khoa Xây dựng trường
đại học Bách khoa Hà Nội.Trải qua 59 năm đào tạo, 49 năm xây dựng và phát
triển, trường đại học Xây dựng đã trở thành một trường đại học đa ngành, một
trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Bộ
85
máy của nhà trường hiện nay gồm 15 phòng, ban, trung tâm tương đương, 14
khoa, ban QL đào tạo, 54 bộ môn, 10 phòng thí nghiệm thuộc khoa, bộ môn và
12 viện KHCN. Tính đến hết tháng 6/2015, toàn trường có 946 viên chức, trong
đó CBGD là 700 người; cơ cấu đội ngũ giảng viên: 23 GS, 80 PGS, về học vị: 7
TSKH, 222 TS, 433 Thạc sĩ . Quy mô đào tạo hiện tại gần 30.000 sinh viên, học
viên. Trường có 9 nhà giáo được phong tặng danh hiệu NGND, 84 lượt nhà giáo
được phong tặng danh hiệu NGUT; 55 nhà giáo được phòng hàm GS, 194 lượt
nhà giáo được phong hàm PGS. Các cựu sinh viên của trường nhiều người đang
giữ trọng trách ở các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa
phương, ở các công ty, tổng công ty, các tập đoàn kinh tế..., nhiều người được
phong tặng danh hiệu Anh hùng.
Trong những năm qua, trường đại học Xây dựng đã có nhiều đổi mới, trong
đó tập trung nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo. Trường đã thay đổi cấu
trúc, nội dung chương trình đào tạo; nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ
giảng viên; đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng; tích cực trong hội
nhập quốc tế
Để nâng cao năng lực đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo lý thuyết
với thực hành, Trường đang triển khai xây dựng cơ sở đào tạo thực nghiệm với
diện tích trên 24 ha tại Khu đô thị Đại học Nam Cao, tỉnh Hà Nam, đồng thời
thực hiện nhiều đề tài khoa học, chuyển giao công nghệ và các dự án lớn.
* Trường đại học Giao thông vận tải
Trường đại học Giao thông vận tải xác định mục tiêu đào tạo cho ngành
Giao thông vận tải và đất nước những cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực và
lòng yêu nghề, có khả năng sáng tạo và tính nhân văn. Hoạt động đào tạo, nghiên
cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các hoạt động của khác của nhà trường
nhằm mang lại những lợi ích với chất lượng tốt nhất cho cộng đồng và xã hội.
Nhà trường đã đào tạo cho đất nước hàng vạn Kỹ sư, hàng ngàn thạc sỹ và tiến
sỹ. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp
thuộc ngành giao thông vận tải đều tốt nghiệp từ nhà trường.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý của nhà trường hiện có 1.068 người;
trong đó có 792 giảng viên với 50 giáo sư và phó giáo sư, 139 tiến sỹ và tiến sỹ
khoa học, 356 thạc sỹ. Nhà trường hiện đang đào tạo 15 ngành với 69 chuyên
86
ngành bậc đại học, 16 chuyên ngành bậc thạc sỹ và 17 chuyên ngành bậc tiến sỹ.
Quy mô đào tạo của trường có trên 32.000 sinh viên các hệ (trong đó có gần
20.000 sinh viên hệ chính quy), trên 2.300 học viên cao học và gần 120 nghiên
cứu sinh. Hàng năm, các nhà khoa học của trường tiến hành nghiên cứu khoảng
30 đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ, 60 đề tài cấp cơ sở và hàng chục đề tài liên
kết với với các địa phương, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhiều cán bộ của
trường là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Giao thông vận tải, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của ngành. Nhà trường cũng là một trong những đơn
vị đi đầu trong các hoạt động xã hội, tích cực hưởng ứng các cuộc vận động lớn
của Đảng, Nhà nước , đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trường đại học Giao thông vận tải hướng tới mô hình đại học đa ngành về
kỹ thuật, công nghệ và kinh tế; trở thành đại học trọng điểm, đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững ngành giao thông
vận tải đất nước.; là trung tâm nghiên cứu khoa học có uy tín về giao thông vận
tải và một số lĩnh vực khác; có năng lực hội nhập khu vực và quốc tế, là địa chỉ
tin cậy của người học, nhà đầu tư và toàn xã hội. Trong xu thế hội nhập, trường
đã thực hiện nhiều dự án liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với các trường
đại học và doanh nghiệp lớn trên thế giới. như trường đại học DAMSTARD,
DRESDEN (CHLB Đức), trường đại học Đường sắt Matxcơva (MIIT), đại học
Giao thông Tây Nam (Trung Quốc), đại học TOKYO (Nhật), đại học Cầu đường
Paris, công ty tư vấn xây dựng CTI (Nhật Bản), liên đoàn thép Nhật Bản, tập
đoàn xây dựng Shimizu (Nhật Bản)…
3.1.2. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường
3.1.2.1. Nhận thức của chủ thể và đối tượng về hoạt động giáo dục văn hóa
học đường
Luận án đánh giá nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên về vai
trò, ý nghĩa, tính quan trọng của công tác GDVHHĐ, đồng thời khảo sát ý kiến
về nội dung, phương pháp của GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các
ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phiếu trưng cầu ý kiến đối với trên 100 cán bộ quản lý,
giảng viên, và 521 sinh viên của các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở
Hà Nội hiện nay.
87
Nội dung nhận thức của giảng viên, sinh viên về vai trò của GDVHHĐ
được thể hiện ở bảng 2, phần phụ lục. Qua bảng tổng hợp kết quả khảo sát thực
trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên về mức độ cần thiết
và vai trò của giáo dục VHHĐ cho thấy mặc dù mức độ nhận thức không đồng
nhất nhưng đa số cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên đều cho rằng vai trò
của VHHĐ là rất cần và cần thiết. Tuy nhiên kết quả khảo sát cũng cho thấy các
quan niệm khác nhau về vai trò của VHHĐ trong phát triển nhân cách cho sinh
viên. Chỉ có 8 ý kiến trong số 521 ý kiến được hỏi cho rằng VHHĐ là yếu tố
quyết định nhất, chiếm 1,6%. Trong khi đó có tới 87,1% với 454 ý kiến cho rằng
nó chỉ là yếu tố góp phần phát triển nhân cách. Thậm chí có đến 27 ý kiến cho
rằng VHHĐ không có vai trò gì trong giáo dục nhân cách sinh viên. Kết quả này
cho thấy các nhà trường cần có định hướng rõ ràng trong việc lập kế hoạch
GDVHHĐ và tổ chức thực hiện kế hoạch đề ra một cách có hiệu quả, biến nhận
thức về vai trò của VHHĐ thành nội dung cụ thể trong chương trình giáo dục,
nhằm định hướng cho sinh viên có nhận thức đúng và hành động đúng trong
GDVHHĐ.
Giáo dục văn hóa học đường có ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến mối quan hệ
giữa các thành viên trong nhà trường. Kết quả khảo sát ý kiến của giảng viên cho
rằng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, khích lệ giảng viên, sinh viên dạy
tốt, học tốt đã thể hiện quan hệ này được quan tâm chiếm tỷ lệ 85%. Thực trạng
về mối quan hệ này rất có ý nghĩa vì nó góp phần quan trọng vào việc xây dựng
tập thể vững mạnh, tạo sự đồng bộ thống nhất cao để thực hiện nhiệm vụ cốt lõi
của nhà trường là dạy tốt, học tốt.
Người quản lý biết tôn trọng tập thể, vì tập thể mà phát huy tính dân chủ
trong các hoạt động của nhà trường. Đây cũng chính là một giá trị VHHĐ tốt đẹp
tạo nên hệ thống chuẩn mực trong VHHĐ nhà trường. Nếu người quản lý biết
tôn trọng tập thể, vì tập thể thì sẽ nhận được sự ủng hộ của các thành viên trong
nhà trường, các thành viên sẽ phát huy được tinh thần dân chủ, lòng nhiệt tình
trong các hoạt động của nhà trường. Về nội dung này, có đến gần 40% ý kiến
giảng viên cho rằng người quản lý cần phát huy hơn nữa tính dân chủ trong
VHHĐ. Kết quả khảo sát cho thấy các trường đã quan tâm đến sự đoàn kết, gắn
bó chặt chẽ, khích lệ giảng viên sinh viên dạy tốt, học tốt song người quản lý cần
88
tôn trọng tập thể, phát huy tính dân chủ trong các hoạt động của nhà trường hơn
nữa, hạn chế việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính khô cứng mà cần phải
tăng cường các biện pháp năng động, linh hoạt, mềm dẻo có hiệu quả, tạo bầu
không khí dân chủ cởi mở khích lệ động viên mọi người, quan tâm lắng nghe ý
kiến, nguyện vọng và tâm tư của đội ngũ giảng viên và sinh viên, tránh các việc
làm áp đặt của người quản lý với cấp dưới, với sinh viên, hạn chế tối đa sự đố kỵ
giữa các đồng nghiệp, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến VHHĐ.
Giáo dục văn hóa học đường lành mạnh hướng tới sự phát triển bền vững,
thực chất là xây dựng bầu không khí tâm lý, đạo đức, xây dựng nền nếp, kỷ
cương, dân chủ trong mọi hoạt động của nhà trường, xây dựng các mối quan hệ
tốt đẹp giữa thầy - trò, giữa thầy - thầy, giữa trò - trò (trong đó có các nhà
QLGD) theo các chuẩn mực chung của xã hội và những quy định riêng của
ngành giáo dục.
Nhận thức của sinh viên về nội dung, phương pháp GDVHHĐ là điều cần
được quan tâm. Tiến hành thăm dò ý kiến của cán bộ, giảng viên và sinh viên tại
5 trường đại học được khảo sát về nội dung GDVHHĐ bằng cách đưa ra 12 tiêu
chí đánh giá VHHĐ. Kết quả thu được thể hiện ở bảng 1 phần phụ lục. Số lượng
sinh viên được trưng cầu ý kiến là 521 người. Mức độ nhận thức về các nội dung
GDVHHĐ giữa CBQL và giảng viên, sinh viên có khác nhau, và rất khác với
mức độ nhận thức của sinh viên được phản ánh qua kết quả ở [Phụ lục, kết quả
khảo sát, bảng 1].
Trong các tiêu chí về nội dung GDVHHĐ, trang phục lịch sự, ngôn ngữ
đúng mực, nội quy, quy chế khoa học và được thực hiện đúng là 3 nội dung
giành được sự quan tâm đặc biệt của sinh viên với 99,2%, 96,8% và 97,5% ý
kiến đồng ý, cho rằng đây là nội dung rất quan trọng. Nội dung được đánh giá
thấp hơn, ít nhận được sự quan tâm của sinh viên liên quan đến ứng xử của sinh
viên trong kỷ luật học đường (ra vào lớp đúng giờ: 34,6%) và tình yêu đẹp
(32,2%). Điều này chứng tỏ sinh viên chưa thực sự có ý thức về sự cần thiết phải
xây dựng nội dung giao tiếp trong VHHĐ như một tiêu chí đánh giá chất lượng.
Trường đại học cũng là một môi trường sư phạm, việc ứng xử của từng con
người trong môi trường đó cũng phải hết sức mô phạm. Nếu cả thầy và trò đều
89
làm được như vậy thì chắc chắn nhà trường đó phát triển vững mạnh và xây
dựng được cho mình những nét đẹp VHHĐ trong nhà trường.
Thực trạng nhận thức của CBQL, giảng viên, sinh viên về các hình thức
GDVHHĐ được phân tích dựa trên cơ sở khảo sát, tổng hợp số liệu. Kết quả thu
được thể hiện ở bảng 3 cho thấy các sinh viên đánh giá cao nhất phương pháp
nêu gương, đó là giảng viên, cán bộ, viên chức nêu tấm gương tốt cho sinh viên
trong GDVHHĐ: 466/521 ý kiến, chiếm 89,5%. Hình thức GDVHHĐ nhận
được sự quan tâm ít nhất của sinh viên là hình thức thông qua nghiên cứu tài
liệu, xếp cuối cùng trong 5 hình thức sử dụng để khảo sát. Chỉ có 58 ý kiến đánh
giá cao hình thức này, chiếm 11%. Khảo sát sinh viên về các phong trào sinh
hoạt có tác động đến GDVHHĐ, kết quả thu được thể hiện ở bảng 7. Ý kiến của
sinh viên ở 5 trường đại học không giống nhau và cũng rất khác nhau trong cách
đánh giá các nội dung cụ thể trong phong trào thi đua. Điều này chứng tỏ nhận thức
không đồng nhất giữa sinh viên của các trường, đây là vấn đề các nhà quản lý cần
quan tâm khi xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả của GDVHHĐ. Tính đặc thù
của mỗi trường đại học là cơ sở để xây dựng nội dung VHHĐ và các phương pháp
phù hợp để GDVHHĐ cho sinh viên.
3.1.2.2. Hoạt động giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học
Thực trạng chung về VHHĐ hiện nay đang ngày càng trở thành vấn đề
trầm trọng, mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm và tham gia của toàn xã
hội. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do lâu nay giáo dục ở Việt
Nam hiện nay quá nặng về dạy chữ mà ít chú trọng dạy đạo đức, lối sống, cũng
như kỹ năng sống. Các trường đại học thường có lồng ghép kiến thức GDVHHĐ
vào các môn như giáo dục lý luận chính trị, sinh hoạt chính trị, hội thảo theo
chuyên đề, kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước, hay những ngày truyền
thống của nhà trường..., nhưng chưa có cách làm sáng tạo, chưa có phương pháp
thu hút sinh viên [Phụ lục, kết quả khảo sát, bảng 6].
Các hoạt động ngoại khóa, giao lưu, tọa đàm, sinh hoạt chưa được tổ chức
thường xuyên, nội dung chưa phong phú, chưa mang tính thực tế và có chất
lượng, hiệu quả cao [Phụ lục, kết quả khảo sát, bảng 8,9,10]. Công tác quản lý
còn sai sót, làm việc còn qua loa, chiếu lệ, chú trọng hình thức và số lượng mà
không tập trung về chất lượng. Khảo sát cho thấy VHHĐ ở các trường còn một
90
số vấn đề cần được nghiên cứu, xem xét, quan tâm, cần đánh giá chính xác thực
trạng, phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan, đề xuất được giải pháp phù
hợp, hữu hiệu. Các trường đã tổ chức các hoạt động nhằm phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày
càng mở rộng, cùng với những tiến bộ về khoa học công nghệ, nhiều giá trị văn
hóa, nội dung, hình thức, trang thiết bị, phương tiện giáo dục mới cũng được du
nhập vào nước ta. Điều này đã được các ngành, các cấp có trách nhiệm phải “gạn
đục, khơi trong”, định hướng cho phù hợp với điều kiện cụ thể nền giáo dục, với
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tuy nhiên, không thể không chấp nhận tính hai
mặt của quá trình hội nhập, tiếp biến.
Trường đại học ở góc độ là một thiết chế văn hóa thì VHHĐ cũng được mở
rộng về phạm vi tiếp xúc với các nền văn hóa, giáo dục khác tất yếu sẽ dẫn đến
ra sự đa dạng hóa các chuẩn mực, giá trị tạo ra sự phong phú, sinh động hơn.
Các giá trị, chuẩn mực VHHĐ sẽ hướng đến sự chủ động của các thành viên
trong việc tự tìm kiếm, tự phát hiện, tự khẳng định mình trong cộng đồng để có
thể đứng vững, hội nhập trong các mối quan hệ và giao tiếp với các nền văn hóa,
với tự nhiên, với các thành viên trong và ngoài cộng đồng. Theo đó, chủ thể
trong bối cảnh mới sẽ phải tự đánh giá lại bản thân, rút kinh nghiệm, trau dồi các
năng lực mới, tri thức mới để sẵn sàng cho việc giao lưu, học hỏi, tiếp biến các
giá trị, chuẩn mực mới nhằm tránh rơi vào tình trạng bị động, lúng túng, tự ti vì
thiếu hụt tri thức, kỹ năng.
Thực tế khảo sát ở 5 trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn
Hà Nội cho thấy, đại đa số sinh viên vẫn giữ và phát huy tốt những giá trị truyền
thống như: yêu nước, hiếu học, đoàn kết, tự tin, sáng tạo, lạc quan, dấn thân và
ủng hộ công cuộc đổi mới của đất nước. Các kết quả điều tra cũng cho thấy sinh
viên ngày càng quan tâm hơn đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến các giá trị
mới. Đa số sinh viên sống có ước mơ, hoài bão trong sáng, sống có mục đích,
năng động, sáng tạo, nhạy bén tiếp thu cái mới, tiến bộ, có ý thức tự chủ, tự lập,
trước hết là trong học tập, rèn luyện; nỗ lực tu dưỡng, chăm chỉ học tập chuẩn bị
hành trang cho tương lai, chủ động khắc phục những khó khăn trong cuộc sống
để vươn lên học tập tốt. Nhiều sinh viên học thêm trường, thêm nghề, học thêm
ngoại ngữ, tin học... tích cực chuẩn bị hành trang cho tương lai. Phần lớn sinh
91
viên sống giản dị, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh chung của đất nước và gia
đình. sinh viên cũng rất quan tâm đến chính trị - xã hội, đến những vấn đề chung
của đất nước và nhiệt tình tham gia công tác đoàn thể. Các chiến dịch “ánh sáng
văn hoá”, “Mùa hè xanh”, các phong trào “sinh viên tình nguyện”, “Hiến máu
nhân đạo”, “Mùa hè hồng”, “Tiếp sức mùa thi”, các câu lạc bộ... đã và đang góp
phần tạo ra diện mạo mới cho các phong trào của tuổi trẻ học đường, chẳng
những đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực mà còn nâng cao vị thế xã hội
của sinh viên trong thời kỳ mới.
Bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, trong sinh viên hiện nay cũng có
những biểu hiện tiêu cực khiến cho gia đình, nhà trường và xã hội lo lắng, phê
phán. Đó là tư tưởng thực dụng, tuỳ tiện, cơ hội, thiếu văn hoá, mắc vào các tệ
nạn xã hội, như nghiện ma tuý, trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, rượu chè, coi thường
pháp luật... Một bộ phận sinh viên thiếu ý chí vươn lên trong học tập và rèn
luyện, có hành vi gian lận trong thi cử, sống buông thả, tự do, vô kỉ luật, chạy theo
lối sống tầm thường, thờ ơ với tập thể, ít quan tâm đến hoạt động chung. Một số
khác thiếu ý thức chính trị, thiếu trách nhiệm, tôn trọng với bản thân, gia đình và tập
thể trường, lớp, với Đoàn, Hội thể hiện mờ nhạt trong sự phát triển chung của tập thể
dẫn đến các tệ nạn xã hội và hiện tượng vô văn hóa trong học đường không được
đẩy lùi. Điều này được biểu hiện trong số liệu điều tra xã hội học.
3.1.2.3. Sử dụng cơ sở vật chất trong giáo dục văn hóa học đường
Sử dụng cơ sở vật chất tại các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở
Hà Nội phản ánh thực trạng văn hoá tổ chức quản lý của các trường. Cơ sở vật
chất trong trường đại học (thiết chế) bao gồm giảng đường, nhà văn hóa, thư
viện, phòng thí nghiệm, thực hành, căng tin, ký túc xá, nhà giáo dục thể chất, hội
trường sinh hoạt chung, cảnh quan trong trường đại học. Nhìn chung, cơ sở vật
chất của các trường đại học vẫn đang phát huy vai trò quan trọng của mình phục
vụ hoạt động dạy - học góp phần đào tạo những sinh viên có trình độ chuyên
môn nghề nghiệp và nhân cách cung ứng cho thị trường lao động trong phục vụ
cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nếu xét từng thiết chế cụ thể, có thể nhận thấy
lớp học, thư viện và nhà văn hóa là ba thiết chế phát huy tốt nhất vai trò của
mình. Với vai trò là “bộ não” của một trường đại học, các trung tâm thông tin
thư viện ngày càng tác động to lớn đến việc duy trì, củng cố chất lượng đào tạo.
92
Việc sinh viên đến thư viện ngày càng đông vào nhiều khoảng thời gian trong
ngày khiến nhiều thư viện trở nên quá tải là một điều rất đáng mừng trong bối
cảnh một bộ phận sinh viên lười học, ăn chơi, đua đòi, sa vào các tệ nạn xã hội.
Hội trường lớn là nơi diễn ra các hoạt động lớn của các trường như khai
giảng, bế giảng năm học, phát bằng tốt nghiệp khóa học, các đại hội, hội nghị,
hội thảo, các hội diễn văn nghệ, các diễn đàn sinh viên, các cuộc thi với các quy
mô khác nhau, các buổi giao lưu…vẫn đang đóng góp không nhỏ cho chất lượng
đào tạo chung của nhà trường và phong trào sinh viên. Cũng chính ở đây, nhiều
sinh hoạt phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức của các câu lạc bộ sinh
viên được tổ chức thu hút đông đảo thầy và trò trong trường đến tham gia, động
viên cổ vũ. Lớp học là nơi dạy và học tập của giảng viên và sinh viên. Nhìn
chung, các lớp học trong các trường đại học khang trang, sạch sẽ, có đầy đủ tiện
nghi phục vụ dạy và học. Các thiết bị như máy vi tính, đèn chiếu, micro, cùng
các thiết chế văn hóa - giáo dục khác với chức năng, nhiệm vụ riêng cũng có
những đóng góp nhất định vào hiệu quả xây dựng VHHĐ.
Phòng thực hành, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành trong các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật là nơi sinh viên được thực hành ứng dụng những
kiến thức lý thuyết, kỹ năng được đào tạo vào hoạt động thực tiễn. Vì vậy các
trường đều có phòng thực hành, xưởng hay các trung tâm thực hành với máy
móc thiết bị cần thiết cho từng chuyên ngành được đào tạo. Nhiều trường rất
quan tâm đến thiết kế, đầu tư trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại, bố trí
không gian hợp lý khoa học phục vụ đắc lực cho quá trình đào tạo. Như Đại học
Công nghiệp Hà Nội với hơn 200 phòng, 3 trung tâm và xưởng thực hành máy móc
hiện đại, Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Thành đô hệ thống phòng thí nghiệm,
phòng thực hành đã phát huy tốt góp phần nầng cao chất lượng đào tạo của nhà
trường . Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số trường chưa quan tâm đúng mức, kinh
phí hạn hẹp, quỹ đất không đủ nên phòng thực hành, phòng thí nghiệm thiết bị cũ
lạc hậu, trang bị không đồng bộ, hỏng hóc không được thay thế sử dụng kém hiệu
quả dẫn đến tình trạng giờ thực hành bị cắt giảm, đôi khi giảng viên và sinh viên
phải liên hệ thuê phòng thí nghiệm bên ngoài.
Ký túc xá ngày càng trở thành nơi cư trú tin cậy của nhiều sinh viên với
chất lượng phòng, điều kiện điện, nước, cảnh quan xung quanh ngày càng được
nâng cấp, thoáng đãng. Căng tin cũng là nơi được nhiều sinh viên lựa chọn để
93
“nạp năng lượng” sau những giờ học tập, rèn luyện thể lực căng thẳng, mệt mỏi.
Nhà giáo dục thể chất được sinh viên, nhất là sinh viên nam coi là nơi lý tưởng
(trong điều kiện nhà trường) để rèn luyện và nâng cao sức khỏe phục vụ cho học
tập. Đặc biệt, các câu lạc bộ sinh viên được thành lập ở nhiều trường đại học như
câu lạc bộ sinh viên nghiên cứu khoa học, câu lạc bộ sinh viên yêu thơ, câu lạc
bộ tiếng Anh, câu lạc bộ tin học. Trong nhiều trường, có những câu lạc bộ có nội
san riêng ra định kỳ khá hấp dẫn. Không những thế, có câu lạc bộ còn thiết kế
website và thu hút được thêm không ít các thành viên tham gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà các thiết chế đã tạo lập và phát
huy, cũng cần nhận thấy những hạn chế không nhỏ của chúng. Lớp học của một
số trường đại học chưa đảm bảo môi trường sư phạm, thiếu ánh sáng, bàn ghế cũ
kỹ, không có phương tiện chuyển tải kiến thức. Một số trường đại học dân lập
thuê trường ở những nơi không phù hợp với môi trường học tập, nằm gần xưởng
sản xuất, gần chợ, ồn ào và ô nhiễm môi trường. Có trường thiếu thư viện không
đáp ứng được nhu cầu của sinh viên trong trường cả về cơ sở vật chất lẫn vốn tài
liệu. Có nhiều nhà văn hóa với những dãy ghế cũ kỹ, hệ thống âm thanh, ánh
sáng lạc hậu, diện tích hội trường quá chật hẹp. Nhiều ký túc xá được xây dựng
cách đây hàng chục năm với việc cung cấp nước, điện chưa đáp ứng được nhu
cầu của sinh viên (nhất là về mùa hè). Nhiều căng tin bị “tư nhân hóa” dẫn đến
giá cả các mặt hàng, kể cả giá khẩu phần ăn cũng tăng, nhiều khi cao hơn giá các
nhà hàng cơm bình dân. Ở nhiều trường nhà giáo dục thể chất, sân bóng, bể bơi
của sinh viên trở thành nơi để người phụ trách “kinh doanh mặt bằng” với việc
cho những người ngoài vào thuê sân bãi, dụng cụ mà nhà trường đầu tư phục vụ
cho việc rèn luyện thể lực của sinh viên...
Đánh giá chung về GDVHHĐ của 5 trường đại học được lựa chọn để khảo
sát trong luận án cho thấy điểm chung nhất là giáo dục văn hóa học đường chưa
đạt hiệu quả như mong muốn. Mỗi trường đại học có một lợi thế riêng, trên một
phương diện cụ thể nhưng khó có thể so sánh mô hình văn hóa học đường nào có
hiệu quả cao hơn. Vì thực tế các trường đại học đều chưa có đủ cơ sở vật chất
như yêu cầu để đáp ứng nội dung văn hóa học đường, nguồn lực cơ bản để giáo
dục văn hóa học đường cũng còn nhiều thiếu thốn, kết quả giáo dục văn hóa học
đường dựa trên tiêu chí tri thức, thái độ, hành vi đều chưa đạt hiệu quả.
Vấn đề đặt ra hiện nay là đồng thời với việc phát huy những mặt tích cực
của văn hóa học đường ở các trường đại học trên, cần phải khắc phục những yếu
94
kém cả về cơ sở vật chất lẫn hình thức tổ chức hoạt động và cách thức hoạt động
của chúng. Có như vậy thì các thiết chế này mới thực sự trở thành những thiết
chế văn hóa - giáo dục theo đúng nghĩa của cụm từ này. Những phác họa ở trên
cho thấy cần có những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi để xây dựng và củng
cố môi trường VHHĐ ở các trường đại học trong tình hình hiện nay.
3.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong các
trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội
3.2.1. Hiệu quả giáo dục văn hoá học đường đánh giá từ tiêu chí tri
thức, niềm tin, thái độ
Trong đời sống xã hội, con người chịu ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa
mà trong đó họ sống và hoạt động. Đối với trường học, môi trường văn hóa đó
được gọi là văn hóa học đường. Đó là những quan niệm, chuẩn mực quy định
cách xử sự giao tiếp giữa người học với nhau, giữa trò với thầy và ngược lại; là
cách học và tiếp thu kiến thức. Văn hoá còn được thể hiện qua triết lí giáo dục
của nhà trường, qua hành vi giao tiếp, cách ăn mặc, cách ứng xử với cảnh quan
môi trường...
Mục tiêu GDVHHĐ là giúp các thành viên trong nhà trường chia sẻ với
nhau những kinh nghiệm và kiến thức, phát triển khả năng hợp tác giữa các
thành viên trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà trường. Từ đó, tạo ra môi
trường thuận lợi, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, giúp mọi thành viên trong nhà
trường quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy và học, tích cực hoạt động vì
sự phát triển chung của nhà trường, tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực hiện
các chức năng giáo dục của mình, đặc biệt trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho
xã hội. Nếu học đường mà thiếu văn hóa thì không thể thực hiện được chức năng
chuyển tải những giá trị kiến thức và nhân văn cho thế hệ trẻ. Văn hóa học
đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ
trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp. Mục tiêu xây
dựng VHHĐ là tạo môi trường với những hoạt động mang tính giáo dục để rèn
luyện, giáo dục học sinh, sinh viên trở thành những con người sống có hoài bão,
có lý tưởng tốt đẹp, xây dựng trường học lành mạnh, các mối quan hệ thân thiện
và chất lượng giáo dục thật. Thể hiện văn minh, lịch sự, tôn trọng mọi người và
tôn trọng bản thân; góp phần giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống
95
lành mạnh; xây dựng phong cách ứng xử chuẩn mực của sinh viên, học viên
(người học) trong học tập, nghiên cứu tại trường Đại học.
Giáo dục VHHĐ là để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện,
hiệu quả. Môi trường giáo dục phải xây dựng thật trong lành, văn hóa. Văn hóa
thể hiện ở giảng viên, học sinh, sinh viên qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ giao
tiếp hàng ngày. Môi trường xung quanh học đường là ý thức của giảng viên và
học sinh, sinh viên khi bỏ rác đúng nơi quy định, không bẻ cây, khạc nhổ, vẽ bậy
lên tường, bàn học; không hút thuốc lá trong trường học, không nói tục, chửi
thề... Những việc làm tưởng chừng rất nhỏ đó chính là nền tảng hình thành chuẩn
mực đạo đức ban đầu của mỗi một con người. Giảng viên phải là tấm gương tốt
cho học sinh, sinh viên noi theo, phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò
một cách đúng mực, nghiêm túc, thân mật, giản dị và chân thành. Giảng viên
phải xác định đúng vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc dạy chữ và dạy
người, có ý thức trau dồi chuyên môn, làm cho học sinh, sinh viên thấy được cái
hay, cái đẹp trong kiến thức được lĩnh hội, truyền cho các em niềm say mê về
nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, tự giác làm cho các em trân trọng, yêu quý
nghề của mình lựa chọn. Nhà trường phải phát động những phong trào thi đua,
văn hóa văn nghệ, hoạt động ngoại khóa, biến mỗi mái trường trở thành ngôi
trường thân thiện, mỗi học sinh, sinh viên trở thành người học tích cực. Bảo đảm
tính nghiêm túc và hiệu quả trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học
hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện.
Những năm qua, hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học
đào tạo các ngành kỹ thuật đã vượt qua mọi tác động không thuận từ môi trường
xã hội khách quan cũng như điều kiện thực tế của từng trường vào tri thức, niềm
tin, thái độ, trong không gian trường học, góp phần trực tiếp vào quá trình thực
hiện mục tiêu đào tạo của từng trường cũng như góp phần hoàn thiện nhân cách
sinh viên- dự nguồn của nguồn nhân lực cao. Hiệu quả GDVHHĐ thể hiện ở
chuyển biến tích cực về nhận thức, niềm tin và thái độ của sinh viên so với mục
tiêu GDVHHĐ. Đa phần sinh viên đều được phổ biến về nội quy, quy chế của
nhà trường, của khoa cùng các chế tài khen thưởng, kỷ luật đi kèm, được học tập
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, được tham gia các
cuộc thi tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, các môn khoa học chuyên ngành, các cuộc
96
thi tay nghề, tham gia vào các phong trào thi đua, cuộc thi của trường, khoa,
đoàn thanh niên, hội hội sinh viên, các câu lạc bộ các hoạt động văn hóa, văn,
thể thao, hoạt động ngoại khóa do trường, khoa, đoàn thanh niện, hội sinh viên tổ
chức theo kế hoạch hay do các câu lạc bộ của sinh viên tổ chức. Đa số sinh viên
tham gia với thái độ tự giác, nghiêm túc trong học tập và thảo luận đóng góp qua
đó cũng đề xuất một số sáng kiến làm cho các hoạt động này đa dạng, hiệu quả
và phù hợp tâm đặc điểm lứa tuổi của sinh viên là chất xúc tác để sinh viên bộc
lộ tài năng, năng lực của mình. Một bộ phận sinh viên đã tích cực tham gia đấu
tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong học đường, trong sinh hoạt thường
ngày và ngoài xã hội... Khi có ý kiến bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc đường lối, quan
điểm của Đảng, các sự kiện chính trị, văn hóa nhạy cảm có tới 76,6% sinh viên
tích cực tranh luận làm rõ đúng, sai.
Thái độ và tính tích cực trong thực hiện VHHĐ của sinh viên so với mục
tiêu đào tạo của nhà trường được nâng cao rõ rệt. Đánh giá hiệu quả về nhận
thức, thái độ thực hiện VHHĐ của sinh viên trong trường đại học là một vấn đề
khá nhạy cảm và phức tạp. Bằng nhiều phương pháp tiếp cận khoa học qua điều
tra bằng phiếu hỏi, tọa đàm, phỏng vấn trực tiếp các đối tượng sinh viên, giảng
viên, cán bộ quản lý, viên chức, nhân viên phục vụ và tham khảo các tài liệu, báo
cáo, công trình nghiên cứu về VHHĐ trong thời gian gần đây, có thể đưa ra một
số nhận định sau đây:
- Kiến thức và chuẩn mực về thái độ, hành vi ứng xử trong trường học
(quy định thành văn và không thành văn) của sinh viên tương đối đầy đủ, sinh
viên có thái độ nghiêm túc, coi trọng các chuẩn mực giá trị VHHĐ, có khả năng
vận dụng thực tế. Từ trước đến nay, các trường đại học là nơi sinh viên được đào
tạo rất bài bản, được giáo dục thường xuyên với nội dung phong phú, hình thức
đa dạng, cường độ rất cao vì nó được thiết kế và thể hiện ngay trong các môn
học, chương trình học, trong suốt khoá học. Qua đó, nhận thức về VHHĐ, thái
độ và hành vi của sinh viên đã được nâng cao, nhất là sinh viên trong các trường
đào tạo các ngành kỹ thuật. Khung chương trình đào tạo các ngành kỹ thuật
không có những môn về văn hóa, khoa học xã hội & nhân văn cũng như giáo dục
kỹ năng sống, làm việc theo nhóm, lao động an toàn, tuy nhiên các hoạt động
GDVHHĐ được tiến hành đã đem lại hiệu quả rất đáng được ghi nhận.
97
Ở các nước khác, có thể những môn lý luận chính trị không thuộc phạm vi
của VHHĐ nhưng tại Việt Nam thì chúng lại là đòi hỏi “cứng” của công tác tư
tưởng trong trường đại học. Do vậy cần phải tính đến việc truyền bá và tiếp nhận
các môn học này khi xem xét về VHHĐ. Số sinh viên có kết quả thi, kiểm tra
các môn KHXH&NV (Nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Pháp luật đại
cương…) đạt điểm trung bình trở xuống ở các trường càng ngày càng giảm, kết
quả học tập các môn này càng ngày càng tăng dù đây là môn chính trị, học thuộc
không liên quan gì đến công việc sau này của sinh viên các trường đại học đào
tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay. Thực tế khi sinh viên ra trường, nơi
tiếp nhận chỉ kiểm tra kỹ năng nghề chứ không ở đâu kiểm tra kiến thức Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng vì nhận thức đúng về vai trò của kiến thức khoa học
xã hội nên sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội
hiện nay đã có ý thức học tốt các môn khoa học xã hội và nhân văn. Họ nhận
thức đúng về việc không thể có trình độ cử nhân, kỹ sư nhưng lại mù về kiến
thức xã hội, luật và thiếu khả năng hội nhập khi tham gia hoạt động trong môi
trường xã hội, không phân định được đúng sai trước những bình phẩm các sự
kiện văn hóa, chính trị, kinh tế, bởi vì thiếu hiểu biết dễ bị lôi kéo vào vi phậm
pháp luật, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng. Các môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là môn học trang bị thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện nhân
cách của mỗi sinh viên. Giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong trường đại học được xem là một trong hình thức quan trọng của công tác
GDVHHĐ cho sinh viên đại học nói chung và sinh viên các trường đại học đào
tạo các ngành kỹ thuật nói riêng. Trước hết cần phải xác định những tiêu chí
hướng đến của quá trình giáo dục này đó là, thế giới quan, tư tưởng chính trị, đạo
đức, năng lực thực hiện các hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là những
yếu tố quan trọng cấu thành nên nhân cách sinh viên.
Các bộ môn giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với mục
đích cuối cùng trang bị thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tích cực, tiến
bộ, góp phần định hướng sinh viên trở thành những người lao động có những
phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do
vậy, giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xem là cơ sở
98
quan trọng để hình thành VHHĐ cho sinh viên. Tuy không trực tiếp bàn đến nội
dung VHHĐ nhưng nó đặt cơ sở nền tảng cho việc hình thành nhân cách của
sinh viên. Có tới 93,6% số sinh viên được hỏi tin tưởng vào sự thành công của
công cuộc đổi mới của Đảng và xác định đúng mục đích, ý thức học tập và rèn
luyện để ngày mai lập nghiệp [128, tr. 55], đây chính là kết quả thiết thực mà các
môn học lý luận đem lại. Tuy nhiên bên cạnh đó một bộ phận sinh viên ngại học,
chán học, thụ động, thờ ơ, thiếu niềm tin vào các môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, học để cho qua. Kết quả điều tra vào tháng 5/ 2015 tại 5
trường đại học Hà Nội, có 11,2 % sinh viên được hỏi thừa nhận sẽ không chọn
các môn khoa học Mác-Lênin nếu là môn tự chọn.
- Niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo
của Đảng và sức mạnh của các giá trị văn hóa truyền thống đối với sự phát triển
của đất nước ở sinh viên ngày càng vững chắc. Qua điều tra, có 96,5% sinh viên
không đồng ý với luận điểm chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời và không phù hợp
với nước ta, điều đó cho thấy sinh viên đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác -
Lênin là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Nhiều sinh viên cho rằng cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mang lại hiệu
quả thiết thực. Kiến thức sâu, niềm tin vững chắc dẫn đến thái độ, tính tích cực
tham gia các hoạt động xã hội, lời nói và hành vi của sinh viên trước tập thể,
trong tổ chức , trong sinh hoạt đời thường ngày càng có văn hoá cao. Qua khảo
sát có 71,5% sinh viên chọn cách không im lặng bỏ qua khi chứng kiến các hiện
tượng tiêu cực, lệch lạc, vô văn hóa của bạn học mà không chủ động đấu tranh.
Sinh viên tham gia các hoạt động chính trị - xã hội một cách tích cực, tự giác.
Tính tích cực cao trong sinh hoạt của các tổ chức, biểu hiện ở sự chủ động tham
gia học tập, thi tìm hiểu hoặc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước xuất phát từ tâm huyết và sự nhiệt tình của người chủ tương
lai của đất nước. Nhiều sinh viên không né tránh đấu tranh với các hiện tượng
tiêu cực trong lớp, trong trường. Đa số sinh viên có đủ dũng khí và khả năng đấu
tranh phản bác, tranh luận với hiện tượng, tư tưởng, lối sống lệch lạc, không phù
hợp với sinh viên.
99
Sinh viên hiện nay là lớp người sinh ra trong đổi mới lớn lên trong hội
nhập, khảo sát về mẫu người mà sinh viên muốn trở thành trong điều kiện hiện
nay. hơn 521 sinh viên được hỏi đã lựa chọn và sắp xếp các tiêu chí như sau:
Biểu đồ 3.2.1 Tỷ lệ % sắp xếp các tiêu chí mà sinh viên muốn phấn đấu đạt
được thể hiện HQGDVHHĐ từ tiêu chí tinh thần
Sự sắp xếp trên cho thấy, sinh viên đang hướng tới 10 tiêu chí chủ yếu là:
bản lĩnh, tự tin; có uy tín, được mọi người tôn trọng; có trình độ học vấn cao;
mềm dẻo, năng động, tháo vát, nhạy bén; hiểu biết nhiều, giàu kinh nghiệm, từng
trải; biết làm giàu; vui vẻ, cởi mở; có quan hệ trong xã hội rộng…Sự lựa chọn và
sắp xếp trên cho thấy sinh viên đang dành sự ưu tiên hơn cho phát triển những
“kỹ năng mềm” của cá nhân trong cuộc sống. Và trong đó, đáng lưu ý là tiêu chí
trở thành đảng viên đã bị xếp cuối cùng (19%) trong sự lựa chọn này của sinh
viên được hỏi. Tiếp đó về những điểm yếu của thanh niên hiện nay, 24% sinh
viên thừa nhận thanh nhiên không có ý chí phấn đầu vào Đoàn, Đảng, ít quan
tâm đến những vấn đề chính trị -xã hội, thiếu kỹ năng chung sống hài hòa với
người khác. Như vậy, chứng tỏ việc “dạy người” trong trường đại học chưa được
quan tâm đúng mức, hoặc hiệu quả chưa cao, dẫn tới chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội là một
thực tế.
100
3.2.2. Hiệu quả giáo dục văn hoá học đường từ tiêu chí hoạt động
thực tiễn thông qua hành vi, hành động
Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường xét từ hoạt động tổ chức, quản lý
của chủ thể GDVHHĐ
Việc lãnh đạo, quản lý hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên đã đạt những
kết quả tích cực. Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng quản lý sinh viên các trường
đại học đã nhận thức được vai trò của VHHĐ và đã có quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo triển khai thực hiện hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên và đưa GDVHHĐ
vào kế hoạch hoạt động của nhà trường, cử cán bộ phụ trách, từng bước đầu tư
kinh phí, nâng cấp phương tiện, cơ sở vật chất, quan tâm đến các môn khoa học
xã hội và nhân văn (KHXH&NV) và đưa vào chương trình là môn tự chọn, khắc
phục tình trạng quan niệm môn phụ, học vét. Tổ chức nghiên cứu, tham gia các
hội thảo, lựa chọn giải pháp, mô hình phù hợp để vận dụng vào thực tế của từng
trường đưa hoạt động này vào nề nếp và xem hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên
là một yếu tố quan trọng trong quá trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục học
đại học .
Các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ, các khoa đã
hưởng ứng tích cực và đưa GDVHHĐ vào chương trình, kế hoạch hoạt động của
mình đồng thời xem đây là một trong những nhiệm vụ chính tri trọng tâm của
mình. Tổ chức các diễn đàn, phát động thi đua, tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt
chuyên đề như: “Tuổi trẻ sống đẹp”, “Ứng xử văn hóa học đường”, “Sinh viên
phòng chống tác hại thuốc lá, sáng kiến Clich không thuốc lá”, “Sinh viên với
văn hóa giao thông”, “Kỳ thi nghiêm túc, chất lượng, công bằng”, “Học nghiêm
túc, thi trung thực”, “Ngày hội 5 S” “Nhật ký làm theo lời Bác”, “xếp hàng là
văn hóa”, “Sinh viên với lịch sử”, “Sinh viên với biển đảo”…, các lực lượng đã
phát huy tính năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, từng bước nâng cao kết
quả GDVHHĐ cho sinh viên. Trên cơ sở sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của nhà
trường, các lực lượng trực tiếp chỉ đạo, tổ chức và tiến hành GDVHHĐ cho sinh
viên, phát huy tính năng động chủ quan, khắc phục những khó khăn khách quan,
luôn tích cực, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, biện pháp phù hợp với điều kiện
cụ thể. Trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm được phân công, mỗi thành phần
101
chủ thể (nhà quản lý, giảng viên, cán bộ công nhân viên) đã phát huy vai trò của
mình để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên hiện nay.
Cán bộ, giảng viên cũng ý thức được và gắn trách nhiệm GDVHHĐ vào
hoạt động giảng dạy chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động, tích cực, sáng tạo những
hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của từng môn học, của từng tình huống
sư phạm cụ thể. Đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn KHXH&NV cũng ý thức
được vai trò, thế mạnh hàm chứa những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại
của môn do mình đảm nhiệm làm tăng thêm lòng yêu nghề, sự say mê nghiên
cứu, tích cực chủ động tìm hình thức, phương pháp giáo dục có hiệu quả. Cán bộ
công nhân viên cũng ý thức trách nhiệm tạo ra môi trường văn hóa trong hoạt
động phục vụ sinh viên, sinh viên và giảng viên nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo
chung của nhà trường. Các trường đã đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp,
hình thức GDVHHĐ cho sinh viên. Một trong những biểu hiện của việc này là tổ
chức nghe ý kiến sinh viên nhiều hơn trên các “kênh thông tin”. Điều này tạo
điều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa chủ thể và đối tượng trong GDVHHĐ.
Hiệu quả GDVHHĐ xét từ góc độ thiết lập nội dung, hình thức của nó
trong hoạt động dạy và học
Sau khi có Quyết định 129/ 2007 của Thủ tướng Chính phủ, quy chế học
sinh sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính
quy; Một số quy định những hành vi vi phạm và khung xử lý kỷ luật ban hành
kèm theo quyết định 42/ 2007/ QĐ- BGDĐT ngày 13 tháng 8 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, căn cứ vào mục tiêu đào tạo cụ thể, vào hệ giá trị đã được
định hình trong lịch sử phát triển của của từng trường và những giá trị mới mà xã
hội đòi hỏi. Các trường đào tạo các ngành kỹ thuật đã xây dựng một số nội dung
VHHĐ trong nội quy, quy chế, quy định, quy trình, cam kết... Nó chính là những
nội dung góp phần trực tiếp vào việc hình thành VHHĐ vừa phù hợp với cái
chung vừa mang nét đặc sắc riêng của từng trường để giáo dục cho sinh viên,
góp phần vào thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường. Những nội dung đó
cũng tập trung vào một số vấn đề như quy định về trang phục mặc khi đến
trường (nội quy học lý thuyết và thực hành tại xưởng,...), giao tiếp ứng xử, tổ
chức hoạt động của các thành viên trong nhà trường. Nội dung GDVHHĐ cho
102
sinh viên được thẩm thấu trong nhiều nội dung hoạt động khác nhau trong nhà
trường, ở các trường đại học đào tạo khối kỹ thuật có thể thấy nó tập trung ở
những hoạt động sau: Sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa: trong nội dung
giảng dạy đặc biệt là các môn giáo dục lý luận Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, các môn học nghiệp vụ. Trong sinh hoạt đoàn thể, các hoạt động phong
trào của nhà trường, của đoàn thanh niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ của sinh
viên tổ chức.
Tuần sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa : Thực hiện chỉ đạo của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức tuần sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa
học cho sinh viên, nhà trường giới thiệu về quy mô đào tạo, ngành nghề đào tạo,
các phòng, ban, trung tâm chức năng và dự báo nhu cầu của xã hội về lao động;
phổ biến, quán triệt quy chế đào tạo (học tập, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập,
kết quả rèn luyện của sinh viên, sinh viên...); phổ biến một số quy định nội bộ
của nhà trường, quy chế khen thưởng kỷ luật đối với sinh viên, sinh viên,
phổ biến quy chế cho sinh viên nội ngoại trú; phổ biến các chính của Đảng
và Nhà nước tạo điều kiện cho sinh viên yên tâm học tập; phổ biến nội quy
về hội họp, sinh hoạt tập thể như sinh hoạt đoàn, tham gia các phong trào
của hội sinh viên, tổ chức văn nghệ, thể thao trong nhà trường, những bài hát
sinh viên truyền thống của sinh viên, sinh viên v.v.. Tuy vậy, do ban đầu còn
nhiều bỡ ngỡ, chưa thật tập trung tiếp thu những nội dung được phổ biến, có
tới 72,5% sinh viên được hỏi thừa nhận có vào lớp học song không chú ý
đến nội dung vì làm việc riêng hoặc làm quen với các bạn khác, thậm chí có
8,1% sinh viên mới còn không nhớ những nội dung của buổi học [Phụ lục, kết
quả khảo sát, bảng 4, 4b]. Hiện tượng này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng GDVHHĐ cho sinh viên.
Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên thông qua bộ môn giáo dục lý
luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ
đào tạo của nhà trường nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đại học toàn diện.
Tuân thủ nghiêm túc điều 3, Luật Giáo dục: "Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" [110, tr.65]. Các trường
103
xác định giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên với tư cách là môn học giáo
dục niềm tin, lý tưởng, thế giới quan khoa học phải được coi là bộ phận cấu
thành quan trọng trong mục tiêu giáo dục đại học toàn diện ở nước ta. Với
chương trình thống nhất trong toàn quốc là 5 môn học chiếm thời lượng từ 8,5%-
10% tổng quỹ thời gian đào tạo của một khóa học với những bộ giáo trình chuẩn
quốc gia được biên soạn, xuất bản theo Quyết định số 255-CT ngày 13/7/1992
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Văn hóa giao tiếp chỉ là một phương diện trong toàn bộ hoạt động giao tiếp
của con người, nhưng trong GDVHHĐ giao tiếp ứng xử có vai trò quan trọng.
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là hình thành con người - giao tiếp, tức con người
có năng lực giao tiếp bao gồm giao tiếp với người khác và giao tiếp với chính
mình. Hình thức của giảng dạy là truyền thụ kiến thức. Đây cũng là một hoạt
động giao tiếp, đòi hỏi có mối quan hệ giữa người dạy và người học. Tính chất
giao tiếp bộc lộ rõ nhất trong hoạt động giáo dục. Giáo dục muốn thành công
phải dựa trên căn bản của nguyên lí giao tiếp, phải xem thầy giáo và học sinh
như hai chủ thể, hai cá thể, hai ý thức. Thầy giáo muốn tác động vào học sinh -
tức là muốn thực hiện hành động giáo dục thì cách tốt nhất là phải giao tiếp với
học sinh. Mục tiêu giáo dục là hình thành quan niệm về giá trị, lòng yêu ghét, vì
vậy, sự tác động chủ yếu không thông chỉ qua con đường nhận thức lí trí mà còn
thông qua tình cảm - một hình thức giao tiếp tinh vi và phong phú, phức tạp nhất
trong những hoạt động giao tiếp của con người.
Giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện mà còn là nội dung quan
trọng của giáo dục. Xét về phương diện này, nhà trường có vai trò rất quan
trọng. Giáo dục văn hóa trên phương diện này cũng chính là giáo dục thẩm mĩ và
đạo đức. Biết ăn nói, cư xử có văn hóa cũng là một hành vi thẩm mĩ, góp phần
tạo nên vẻ đẹp của con người. Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường cần
giúp sinh viên làm chủ các phương tiện giao tiếp, có được những kỹ năng giao
tiếp. Giáo dục văn hóa giao tiếp nghĩa là giúp sinh viên làm chủ các công cụ và
hình thức giao tiếp cũng như biết ứng xử một cách có văn hóa trong những tình
huống khác nhau là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Trong hoạt động khảo
sát và kết quả nắm được có thể thấy rõ sự chân thành, cởi mở, không ích kỉ,
không khép kín, biết chấp nhận cái khác mình, chấp nhận đối thoại... của sinh
viên ở các trường đại học. Điều đó nói lên hiệu quả GDVHHĐ tại các trường đại
học trong phạm vi khảo sát của luận án.
104
Mối quan hệ giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, nhà trường với
gia đình... đã có những chuyển biến tích cực, ngày càng được xây dựng tốt đẹp
hơn dựa trên cơ sở hiểu biết tôn trọng lẫn nhau. Tại những trường đại học trên
địa bàn Hà Nội được tiến hành khảo sát về hiệu quả văn hoá giao tiếp ứng xử
đã cho thấy tác động tích cực của VHHĐ trong lĩnh vực này. Sinh viên giao
tiếp với nhau ngày càng lịch sự văn minh, những biểu hiện tuỳ tiện cẩu thả
trong giao lưu tiếp xúc ngày càng bị đẩy lùi, đẩy xa ra khỏi học đường. Thói
nghi kỵ, ganh ghét giữa các thành viên trong cộng đồng VHHĐ ngày càng ít đi,
thay vào đó là sự tin tưởng, quý mến lẫn nhau, là sự giúp đỡ nhau trong học tập
và trong mọi phương diện của cuộc sống. Hiện tượng quan hệ thầy trò không
lành mạnh đã bị lên án, điều này khiến cho mối quan hệ thầy trò ngày càng lành
mạnh hơn, trong sáng hơn.
Quy định về giao tiếp và ứng xử là một trong những nội dung của hoạt
động GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Và
hiệu quả của hoạt động này thể hiện rõ trên nhiều lĩnh vực, nhiều biểu hiện như
trong giao tiếp, trong ứng xử giữa các thành viên, giữa các tổ chức trong nhà
trường. Khi giảng viên bước vào lớp, sinh viên chủ động đứng dậy chào thầy, cô.
Hành vi này là chuẩn mực của VHHĐ và cũng là hiệu quả của GDVHHĐ. Sinh
viên đã có thái độ lễ phép, tôn trọng cán bộ, giảng viên, nhân viên của nhà
trường; thái độ lịch sự, nhã nhặn, tôn trọng lẫn nhau, không nói tục; không hút
thuốc lá trong lớp học hoặc huôn viên trường; không sử dụng điện thoại di động
khi lên lớp, dự họp. sinh viên không có những hành vi không lành mạnh, không
phù hợp với thuần phong mỹ tục trong lớp, trong khuôn viên trường và nơi công
cộng, biểu hiện ngay trong trang phục, giao tiếp bằng ngôn ngữ hoặc bằng hành
động cử chỉ. Sinh viên cũng ý thức về việc không xúc phạm danh dự, nhân
phẩm, thân thể người khác, sống thật thà, trung thực. Đây là những chuyển biến
có ý nghĩa rất tích cực trong VHHĐ của sinh viên.
So sánh kết quả với mục đích của giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên cho thấy :
Mục đích của GDVHHĐ là trang bị tri thức, chuẩn mực, giá trị văn hóa phù
hợp với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, hình thành
niềm tin vào những giá trị văn hóa biến nó trở thành động lực bên trong điều
chỉnh thái độ hành vi phù hợp và tính tích cực hoạt động thực tiễn của sinh viên.
105
Tuy nhiên, muốn đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên phải gắn với mục
tiêu GDVHHĐ của các trường. Do tính đặc thù của các trường đào tạo các ngành
kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại nên mục tiêu giáo dục về GDVHHĐ của các
trường này yêu cầu cao hơn, do đối tượng là người trực tiếp thực hiện, ứng dụng
các công nghệ mới, máy móc kỹ thuật hiện đại để tạo ra năng suất chất lượng
ngày càng cao trong nền sản xuất xã hội.
Trong những năm qua, kết quả chuyển biến về phẩm chất lối sống văn hóa
trong học đường của sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cơ
bản đạt được mục tiêu đặt ra. Theo đánh giá kết quả rèn luyện (đức dục) của các
trường được khảo sát, 87,6% sinh viên có phẩm chất đạo đức, chính trị tốt, 9,3%
khá 3,1% trung bình và kém. Xét về kết quả đào tạo, các trường được khảo sát
đã hoàn thành tốt mục tiêu, sứ mạng của mình, sản phẩm đào tạo của các trường
cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong nước và quốc tế trong điều kiện mới. Căn cứ
vào các số liệu khảo sát, có thể khẳng định, hiệu quả GDVHHD cho sinh viên
của các trường đào tạo các ngành kỹ thuật đã có bước chuyển biến theo hướng
tích cực.
Biểu đồ 3.2.2.a Tỷ lệ % kết quả sinh viên rèn luyện (đức dục)
(Nguồn: Phòng công tác học sinh, sinh viên 5 trường).
Chuyển biến tích cực từ sinh viên
106
Theo kết quả điều tra, có tới 65,3 % sinh viên thừa nhận đã từng nói bậy,
nói to trong trường; 63,7% có thái độ khó chịu với trang phục, đầu tóc không
phù hợp đến lớp; 73,3% sinh viên thừa nhận có nhận điện thoại trong giờ học;
7,3% hút thuốc lá trong lớp học; 11,3% vi phạm quy chế thi [phụ lục, kết quả
khảo sát, Bảng 14]. Các hoạt động do Đoàn trường chủ trì, tổ chức và chỉ đạo đã
tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tinh thần say mê nghiên cứu khoa học, nâng cao
ý thức trong học tập và rèn luyện của đoàn viên thanh niên. Các cuộc thi “Cùng
tiến tới đỉnh vinh quang”, “Học sinh, sinh viên giỏi tiếng Anh” “Ánh sáng soi
đường”của đoàn thanh niên trường, hay “Sáng tạo phần mềm”, thi Olimpic các
môn học của các khoa chuyên môn….; Thi sinh viên giỏi nghề của trường, toàn
quốc, khu vực, thi Robocon… đã thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Qua đó đã
xuất hiện nhiều tấm gương vươn lên trong học tập, say mê nghiên cứu khoa học,
nhiều sinh viên đã đoạt giải cao trong các cuộc thi, tạo nét đẹp trong VHHĐ.
Sinh viên luôn là lực lượng nòng cốt trong các phong trào thi đua, các cuộc
vận động mang tính chính trị - xã hội, các hoạt động tình nguyện, đền ơn đáp
nghĩa, giao lưu truyền thống, mít tinh, văn nghệ thể thao, tuần hành chính trị do
các trường tổ chức. Có đến 71,2 % trả lời thích và tham gia các hoạt động tình
nguyện. Các hoạt động “mùa hè xanh”, “tiếp sức mùa thi”, “hiến máu nhân đạo,
ngân hàng máu sống”, “triệu chữ ký, triệu hành động vì môi trường”… quyên
góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, người tàn tật… có hiệu quả cao. Khảo sát về
mức độ tham gia các hoạt động ngoại khóa của sinh viên cho thấy có 45% cán
bộ quản lý, giảng viên chủ nhiệm (cố vấn học tập) đánh giá sinh viên hăng hái,
39% cho là bình thường. Còn ý kiến của sinh viên: 58,9% đánh giá là mức độ
bình thường và 25,8% miễn cưỡng. Trong khi đó, theo một nghiên cứu thực tiễn
ở Đại học Quốc gia Hà Nội, có tới 25% sinh viên hiếm khi tham gia hoạt động
Đoàn, Hội sinh viên [119]. Kết quả học tập, rèn luyện cơ bản đáp ứng được mục
tiêu đào tạo của các trường. Theo báo cáo khảo sát việc làm của sinh viên sau
khi tốt nghiệp của một số trường đào tạo các ngành kỹ thuật, hầu hết sinh viên
tốt nghiệp đều đảm nhiệm được công việc được đào tạo cũng như tiếp thu nhanh
những kỹ năng, công nghệ mới 23,3% sinh viên các trường đào tạo khối kỹ thuật
có việc làm sau 6 tháng tốt nghiệp. Kết quả học tập hàng năm của sinh viên đào
107
tạo trung bình đạt trên 58% khá giỏi. Kết quả phân loại rèn luyện đức dục của
học viên đều đạt trên 78% khá, tốt. Ngoài nhiệm vụ học tập, sinh viên các trường
tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào
sản xuất.
Ngoài các hoạt động trên các trường, các khoa chuyên môn kết hợp với
đoàn thanh niên, hội sinh viên nhà trường tạo điều kiện cho sinh viên tham gia
thiết kế và quản trị Website sinh viên, diễn đàn trên mạng Internet để sinh viên
giao lưu trực tuyến tạo ra môi trường cởi mở để sinh viên bầy tỏ tâm tư, nguyện
vọng của mình về học tập, tình bạn, tình yêu…, thành lập các câu lạc bộ căn cứ
vào năng lực, sở thích của từng nhóm sinh viên để đưa sinh viên vào những hoạt
động tập thể mở ra sân chơi lành mạnh và bổ ích nhằm phát huy sở trường, sức
sáng tạo tính năng động phù hợp với thế mạnh của từng sinh viên: câu lạc bộ
sáng tạo ROBOCON; câu lạc bộ học tập, nghiên cứu khoa học; câu lạc bộ những
lập trình viên trẻ; câu lạc bộ nhà doanh nghiệp tương lai, câu lạc bộ yêu thích
thời trang, câu lạc bộ “Vui để học”. Hoạt động của những câu lạc bộ này giúp
sinh viên tiếp cận tốt nhất, nhanh nhất với tri thức, kỹ năng chuyên ngành và
được hoạt động thực tiễn qua đó tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm từ bản thân
cũng như từ các hội viên khác. Tuy nhiên, số lượng sinh viên tham gia vào các
câu lạc bộ sở thích, hoạt động văn nghệ, thể thao còn khiêm tốn so với số lượng
sinh viên đang theo học tại trường.
Song song với việc học tập, nhiều sinh viên đã tranh thủ quỹ thời gian rỗi
của mình để tích cực tham gia tập dượt nghiên cứu khoa học. Theo số liệu báo
cáo của 42 trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội, từ 2010 - 2014 đã có
hơn tới 11.000 đề tài nghiên cứu khoa học. Nhiều đề tài có chất lượng, được
ứng dụng và chuyển giao công nghệ được đề nghị tham gia giải thưởng cấp Bộ.
Riêng các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội đã có tới 209 đề tài nghiên cứu
khoa học của sinh viên đạt các giải ở cấp Bộ và gần 20.000 sinh viên tham gia
các cuộc thi Olympic, có 66 sinh viên đạt giảo thưởng “sao tháng giêng” [52].
Sự tăng lên đáng kể về mặt số lượng cũng như chất lượng trong các bài nghiên
cứu khoa học của sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cho
108
thấy khả năng sáng tạo của tuổi trẻ học đường, tính chủ động, độc lập trong học
tập nghiên cứu được đông đảo sinh viên phát huy mạnh mẽ.
* Nội dung và phương pháp được sử dụng trong giáo dục văn hóa
học đường
Thứ nhất, GDVHHĐ thông qua các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các môn KHXH&NV, tuần sinh hoạt công dân đầu khóa. Điều tra
tháng 5/2015 tại 5 trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật tại Hà Nội, với câu
hỏi thái độ của sinh viên khi nghe phổ biến những nội quy, quy chế, nghe giảng
các môn lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, KHXH&NV,
pháp luật đại cương, năm bài học lý luận chính trị của đoàn thanh niên tổ chức:
29,8% số sinh viên thấy hài lòng và hứng thú; có 14,5 % sinh viên không hứng
thú [phụ luc, kết quả khảo sát, Bảng 5]. Nguyên nhân được cho là nội dung trừu
tượng, khô khan, khó nhớ và phương pháp giảng dạy đơn điệu, học ghép số
lượng sinh viên đông, giảng đường lớn dẫn đến giảng viên khó kiểm soát, khó
thực hiện được các phương pháp giảng dạy tích cực, vì vậy chưa kích thích được
hứng thú học tập của sinh viên. Điều này đặt ra cho giảng viên giảng dạy các
môn lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn KHXH&NV, khoa đào
tạo chuyên ngành, phòng công tác học sinh sinh viên, đoàn thanh niên, hội sinh
viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy, tuyên truyền giáo dục.
Thứ hai, VHHĐ được giáo dục thông qua các môn chuyên ngành, nghề
nghiệp, thực hành. Ngoài việc cung cấp tri thức chuyên môn, chuyên ngành được
đào tạo cho sinh viên cũng phải rèn luyện (huấn luyện) về đạo đức nghề nghiệp,
kỹ năng làm việc theo nhóm, những yêu cầu ứng xử khi thực hiện công việc đặc
thù (nghề được đào tạo). Do vậy, thông qua việc dạy “tri thức” cho sinh viên thì
việc dạy “ làm người” cho họ cũng là một yêu cầu không kém phần quan trọng.
Thứ ba, GDVHHĐ bằng phương pháp nêu gương.GDVHHĐ cho sinh viên
bằng bằng gương người tốt, việc tốt là một quá trình xã hội hóa các giá trị đạo
đức và giá trị thẩm mỹ. Người tốt, việc tốt chính những biểu hiện sinh động của
những giá trị nhân văn trong đời sống lao động và học tập của giảng viên, sinh
viên. Nêu những tấm gương người tốt, việc tốt trong giảng viên và sinh viên, tạo
dư luận ủng hộ mạnh mẽ những gương tốt, lên án những tấm gương xấu có ảnh
109
hưởng trực tiếp đến GDVHHD cho sinh viên. Những gương người tốt, việc tốt
chỉ có tác dụng khi nó thực sự chiếm được tình cảm và niềm tin của sinh viên.
Những tấm gương đó không chỉ là của những tên tuổi lớn mà nó còn là chính từ
những tấm gương sống động của thầy, của trò trong nhà trường. Tuy nhiên
phương pháp giáo dục này tại các trường đại học còn nhiều hạn chế và thường
được lồng ghép vào khi giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các buổi sinh hoạt theo chuyên đề. Vì là một trường đào tạo các
ngành kỹ thuật cho nên các môn học xã hội nhân văn ít. Trong khi đó có một bộ
phận giảng viên quan niệm chỉ giảng dạy tốt nội dung môn học mà mình đảm
nhiệm, còn việc GDVHHĐ, định hướng thái độ, hành vi cho sinh viên để phù
hợp với môi trường sư phạm thì không liên quan, thậm chí có 6,3% giảng viên
được hỏi cho rằng những biểu hiện thái độ, hành vi, sinh hoạt của sinh viên là tự
do cá nhân.
Thứ tư, GDVHHĐ thông qua các hoạt động, sinh hoạt tập thể.
Các phong trào xã hội, các hoạt động tập thể, các cuộc thi đã giúp cho sinh
viên tiếp nhận một cách tự nhiên những nội dung của VHHĐ. Từ đó xây dựng
những tư tưởng đúng, những tình cảm đẹp làm cơ sở vững chắc cho việc hình
thành những thái độ, hành vi phù hợp, hướng tới một lý tưởng sống lành mạnh,
một lẽ sống tốt đẹp. Phong trào “Sinh viên tình nguyện”, phong trào “hiến máu
nhân đạo”, “Sinh viên chấp hành hành luật giao thông”, “cổng trường an toàn”
“Sinh viên xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, lành mạnh” được đoàn
thanh niên, hội sinh viên nhà trường kết hợp với các khoa, phòng, ban, trung tâm
tổ chức rất bài bản đã thu hút được nhiều sinh viên tham gia. Các hoạt động trên
góp phần trực tiếp giáo dục những nét đẹp trong nhận thức và hành vi của sinh
viên – những biểu hiện của VHHĐ.
Thứ năm, GDVHHĐ cho sinh viên bằng lao động và thông qua lao động và
hoạt động thực tiễn (học tập, rèn luyện, thực hành sản xuất) là một con đường
quan trọng để hình thành VHHĐ. Giáo dục VHHĐ thông qua lao động là đưa
đối tượng được giáo dục vào các môi trường học tập, lao động trực tiếp. Qua lao
động sinh viên có thể thấy rõ năng lực, sở trường của bản thân, nhận thức được
những khiếm khuyết trong tri thức, độ chênh giữa lý thuyết và thực hành với
thiết bị và kỹ năng nghề để từ đó rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh hoàn
110
thiện trong quá trình học tập. Qua lao động, sinh viên có cơ hội rèn luyện kỹ
năng làm việc độc lập cũng như làm việc theo nhóm. Là những trường đào tạo
về kỹ thuật (kỹ sư lý thuyết và thực hành) hàng đầu của đất nước cho nên các
trường đại học này những năm qua đã kiên trì vận dụng nguyên lý giáo dục “
Học đi đôi với hành”, gắn quá trình thực hành nghề nghiệp với sản xuất ở xưởng
thực hành, các cơ sở, đơn vị sản xuất của nhà trường và các doanh nghiệp để
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, khả năng làm việc theo nhóm thực tế trong sản
xuất cho sinh viên. Do vậy, chất lượng đào tạo của các trường ngày càng được
nâng cao và sát với thực tiễn cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đảm
nhiệm được những công nghệ mới ngày càng hiện đại phục vụ cho sự nghiệp
CNH,HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này được chứng minh bằng
số liệu trung bình 65,7% sinh viên ra trường có việc làm ngay, có mức lương
khởi điểm từ 4,1-5,4 triệu đồng / tháng, 93 % doanh nghiệp hài lòng khi sử dụng
lao động được đào tạo tại các cơ sở đào tạo này (Số liệu điều tra theo dấu vết
sinh viên- Dự án GDKT& DN). Lao động có ý nghĩa như vậy nên sử dụng lao
động như một phương tiện GDVHHD cho sinh viên là việc làm hết sức cần thiết.
Biểu đồ 3.2.2.b.Kết quả học tập của sinh viên tại trường qua hàng năm (tỷ
lệ % thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn, tổng hợp số liệu nguồn từ
phòng Đào tạo )
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả GDVHHĐ cho sinh viên của các trường
còn những hạn chế nhất định. Khi đặt những hạn chế về nhận thức, thái độ và
111
hành vi ứng xử văn hóa của sinh viên trong sự tương quan với mục đích
GDVHHĐ sẽ thấy giữa mục đích và kết quả đạt được còn có khoảng cách. Mặc
dù trong đào tạo, sự phân hoá chất lượng thành các mức độ khác nhau là tất yếu.
Với 14,2% sinh viên khó trả lời và không quan tâm đến các hoạt động khác vì
tập thể, vì cộng đồng ngoài lợi ích của mình, 23,1% không lập kế hoạch, đích
phấn đấu cho bản thân, số sinh viên tốt nghiệp loại trung bình chiếm từ 25% đến
hơn 39%, những số liệu đó chứng tỏ, kết quả GDVHHĐ cho sinh viên còn hạn
chế, chưa đạt được mục đích đề ra. Đáng lo ngại hơn, khi tự đánh giá mức độ
thực chất về kết quả học tập của bản thân, có tới 27,9% sinh viên thừa nhận là
không thực chất và khó trả lời, chứng tỏ hiệu quả ở các trường đào tạo các ngành
kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay chưa cao.
3.2.3. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường xét từ chi phí các nguồn lực
Các chi phí (nguồn lực) được huy động cho GDVHHĐ cho sinh viên các
trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội rất đa dạng, phong phú,
trong đó tập trung vào hai loại hình cơ bản là hoạt động chính khoá (thể hiện
trong mục tiêu đào tạo, trong thiết kế môn học, kế hoạch đào tạo) và giáo dục
thông qua các phong trào, hoạt động ngoại khóa của sinh viên. Kết quả huy động
nguồn nhân lực, thời gian, phương tiện, cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác
GDVHHĐ cho sinh viên là một trong những tiêu chí quan trọng, là thước đo
hiệu quả GDVHHĐ. Các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn
Hà Nội đã huy động một số lượng thời gian nhất định để tiến hành GDVHHĐ
cho sinh viên, nhưng lại đạt được kết quả cao hơn chi phí. Chi phí thời gian cho
hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên được tính ở 2 phương diện cơ bản đó là số
lượng thời gian giành cho hoạt động này và việc thực hiện, triển khai có đúng kế
hoạch thời gian đã định (kịp thời, thời sự).
Từ năm 2012 đến nay, các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật thực
hiện nội dung, chương trình khung giáo dục đại học các ngành kỹ thuật theo
thông tư số 38/2009/TT-BGDĐT của BGD&ĐT ban hành ngày 22/12/2009.
Khối lượng kiến thức KHXH&NV là 15 tín chỉ trong đó có 10 tín chỉ giáo dục
lý luận chính trị (Nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin 5, TTHCM 2, Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam 3), 5 tín chỉ cho các môn xã hội nhân
văn (Pháp luật Việt Nam 3 tín chỉ môn bắt buộc, Môi trường & con người
112
hoặc kỹ năng giáo tiếp, hoặc tâm lý học đại cương… 2 tín chỉ nhưng bố trí
vào môn tự chọn) tổ bộ môn KHXH&NV trong hệ thống các trường đào tạo
các ngành kỹ thuật thường được bố trí ghép vào khoa kiến thức cơ bản hoặc
khoa giáo dục lý luận chính trị tùy từng trường. Theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, tỷ lệ các môn lý luận chính trị và KHXH&NV của các trường
đại học đào tạo kỹ thuật chỉ chiếm 7% toàn bộ chương trình đào tạo [11].
Thời gian giành cho GDVHHĐ thông qua các môn giáo dục lý luận chính trị
và KHXH&NV ở các trường đào tạo ngành kỹ thuật là eo hẹp do vậy
GDVHHĐ cho cho sinh viên phải kéo léo kết hợp với các hoạt động khác của
nhà trường, hoạt động ngoại khóa của sinh viên.
Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên qua hoạt động sinh hoạt đoàn
thể: hàng tháng nhà trường có cuộc họp cán bộ lớp của toàn trường do phòng
công tác học sinh, sinh viên chủ trì cùng với sự tham gia của phòng đào tạo,
phòng quản lý ký túc xá, công an khu vực, trưởng ban an ninh phường, xã xung
quanh trường để nắm bắt tình hình an ninh trật tự tại địa phương từ đó có
phương án phối hợp để quản lý sinh viên nội trú và bán trú kịp thời hiệu quả. Nội
dung cuộc họp phản ánh, thông tin hai chiều về tình hình thực hiện nội quy chế
đào tạo của giảng viên và sinh viên: như tình hình dạy và học của thầy và trò:
bao gồm việc chấp hành giờ giấc ra vào lớp của sinh viên và của giảng viên,
trình độ sư phạm, chuyên môn của giảng viên, quan hệ của giảng viên và sinh
viên với nhân dân địa phương. Qua đó giúp phòng đào tạo cũng như các khoa
ban, trung tâm tìm biện pháp điều chỉnh, ngăn chặn, xử lý kịp thời. Hàng quý
nhà trường phát phiếu thăm dò để sinh viên đánh giá giảng viên. Phản ánh, đóng
góp những mặt được và chưa được trong việc quản lý phục vụ học sinh, sinh
viên của các khoa, phòng, ban, chức năng của nhà trường nhằm tạo điều kiện
thuận lợi giảng viên, sinh viên hoạt động có hiệu quả. Các buổi sinh hoạt đoàn
định kỳ của các chi đoàn, liên chi đoàn: thông qua các buổi sinh hoạt, ngoài
những chuyên đề cần phổ biến của đoàn, của hội sinh viên, các buổi sinh hoạt
thường lồng ghép những nội dung GDVHHĐ như cách ứng xử có văn hóa trong
học đường. Biểu dương những cá nhân, những sinh viên có tinh thần và trách
113
nhiệm cao trong học tập, rèn luyện. Tạo dư luận lên án những thái độ, hành vi,
biểu hiện thiếu văn hóa trong học đường.
Quan tâm đầu tư và quản lý, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất, kinh phí
hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Ý thức được chất lượng đào tạo
tỷ lệ thuận với việc đầu tư về cơ sở vật chất, do vậy ở các trường đại học,
phương tiện phục vụ giảng dạy, thực hành, giáo trình, tài liệu, thư viện (truyền
thống và số hóa) đa dạng hệ thống đầu sách nghiên cứu về lý luận chính trị và
KHXH&NV liên tục được bổ sung. Mạng internet toàn cầu, mạng xã hội và
mạng intrannet nội bộ phục vụ nghiên cứu và học tập của giảng viên và sinh viên
ngày càng được bảo đảm đầy đủ, hiện đại và cập nhật thường xuyên hơn. Trên
cơ sở các giáo trình theo quy định, các trường đã chỉ đạo, tổ chức biên soạn
thành các chuyên đề mang tính đặc thù của từng trường, làm tài liệu nghiên cứu
tham khảo cho sinh viên. Một số trường đã đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp
phòng học chuyên dùng dành cho giảng các môn lý luận chính trị, pháp luật, các
môn KHXH&NV, các nhà văn hóa để sinh viên tổ chức các hoạt động vui chơi,
giải trí lành mạnh. Phần lớn giảng đường ở các trường đều được trang bị phương
tiện máy tính, máy chiếu để có thể ứng dụng bài giảng điện tử, các phòng thực
hành được trang bị thiết bị máy móc, công nghệ mô hình học cụ theo hướng
ngày càng hiện đại.
Nguồn kinh phí khen thưởng, hoạt động phòng truyền thống của các
trường, văn nghệ quần chúng, mua sách báo, tài liệu, tổ chức tọa đàm, hội thảo,
hội thi, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống của nhà
trường đều được kiểm soát chặt chẽ, công khai, sử dụng và thanh quyết toán theo
đúng quy định tài chính. Các trường đều quan tâm xây dựng mối quan hệ đoàn
kết chặt chẽ với địa phương, các cơ quan, đối tác bằng các hoạt động phong phú
như: kết nghĩa, giao lưu văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, đền ơn đáp nghĩa,
làm thiện nguyện... góp phần xây dựng địa bàn an toàn, ngăn chặn từ xa các tệ
nạn xã hội thâm nhập vào trường. Nhìn lại 5 năm (2010-2014), các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội đã phát huy tinh thần trách nhiệm, nỗ
lực khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo trong huy động các nguồn lực phục
vụ hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên, nhất là các ưu thế về nhân lực đó là đội
ngũ giảng viên giầu kinh nghiệm, uy tín - những nhà khoa học đầu đàn về khoa
học kỹ thuật và công nghệ mới, cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại được đầu tư
114
lớn của nhà nước. Về cơ bản, việc sử dụng và phát huy các nguồn lực cho
GDVHHĐ của các trường nhìn chung là tiết kiệm, phù hợp với khả năng thực tế
của từng trường, góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực về kiến thức, niềm
tin, ý thức kỷ luật và tính tích cực chủ động trong hoạt động thực tiễn của sinh
viên đáp ứng yêu cầu xã hội về chất lượng của nguồn nhân lực cao phục vụ cho
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ mới. Điều này cho thấy các chủ thể
giáo dục đã có những bước chuyển trong nhận thức về vai trò của VHHĐ đối với
quá trình nâng cao chất lượng giáo dục đại học nói chung và sự phát triển bền
vững của từng trường đại học nói riêng. Sự tương quan giữa kết quả với mục
đích và chi phí nguồn lực cho hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên trong các
trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội từ 2012 đến nay cho thấy rõ
hiệu quả GDVHHHĐ.
So sánh kết quả với chi phí các nguồn lực vào hoạt động giáo dục văn hóa
học đường cho sinh viên các trường đại học cho thấy:
Như phần trên đã đề cập, kết quả thi, kiểm tra các môn KHXH&NV và
kiểm tra nhận thức chính trị hàng năm của sinh viên các trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật đều đạt trên 63% khá giỏi. Nếu những số liệu đó phản ánh
hoàn toàn trung thực trình độ nhận thức của học viên thì rất đáng phấn khởi. Tuy
nhiên, nếu so sánh với chi phí thì kết quả đó cũng chưa cao vì các trường đều có
ưu thế rõ rệt về nguồn lực, đó là: chủ thể có số lượng đông, chất lượng cao; đối
tượng được chọn lọc chặt chẽ, có trình độ nhận thức khá cao; môi trường giáo
dục chính quy, tập trung, có bề dày truyền thống; cơ sở vật chất, phương tiện dạy
học khá hiện đại.
Trong xã hội hiện đại, khả năng ảnh hưởng của gia đình có xu hướng thu
hẹp và điều kiện xã hội sẽ tích cực tạo cơ hội tối đa để thoả mãn sự phát triển đời
sống tinh thần của sinh viên. Do vậy cuộc đấu tranh về ý thức hệ cũng sẽ diễn ra
gay go và quyết liệt hơn, khi các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước muốn
tranh thủ một bộ phận sinh viên chậm tiến, lệch lạc trong đạo đức, lối sống bằng
cách sử dụng lối sống thực dụng, ích kỷ, phi nhân tính…tăng cường đưa những
sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy, phản văn hóa…để từng bước làm biến chất
115
sinh viên theo hướng tiêu cực như sống thực dụng, thờ ơ thiếu trách nhiệm với
bản thân, gia đình và xã hội.
Qua kết quả thực hiện VHHĐ ở 5 trường được khảo sát cho thấy hiệu quả
GDVHHĐ cho sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được mục đích đề ra
trong tương quan với nguồn lực huy động. Điều này được xem là cơ sở khẳng
định hiệu quả còn ở mức độ khá khiêm tốn so với yêu cầu về phẩm chất, năng
lực, nhân cách của nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay. Mặt khác, trong sử dụng nguồn lực cũng còn nhiều vấn đề tồn tại. Tinh thần
trách nhiệm, sự mẫu mực nêu gương của các chủ thể còn hạn chế; số lượng và
chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và phục vụ sinh viên còn nhiều bất
cập; sinh viên chưa quan tâm, hứng thú, tự giác trong học tập chính trị, pháp
luật, rèn luyện đạo đức, lối sống; nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục còn
lạc hậu; cơ sở vật chất phục vụ cho GDVHHĐ chưa bảo đảm còn thiếu hoặc
chưa phát huy hết tác dụng. Kết quả hạn chế, sử dụng nguồn lực còn bất hợp lý,
chưa thực sự phát huy hết tiềm năng dẫn tới hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên
chưa cao. Báo cáo sơ kết công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
có văn hóa cho sinh viên 2 năm (2012-2014) của 5 trường được khảo sát có nhận
định: Các hình thức, phương pháp giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
có văn hóa cho sinh viên đã có đổi mới nhưng chất lượng, hiệu quả còn thấp,
chưa thật sự phong phú, sinh động hấp dẫn, thu hút được sinh viên; việc ứng
dụng mô hình, học cụ mới, vào công tác này chưa thường xuyên, áp dụng công
nghệ thông tin, chưa sử dụng Internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền
thông hiện đại vào phục vụ hoạt động giáo dục, định hướng chính trị, đạo đức,
lối sống có văn hoá cho sinh viên, hiệu quả chưa cao.
Từ sự so sánh kết quả với mục đích và nguồn lực có thể khẳng định, hiệu
quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà
Nội hiện nay là chưa cao, chưa tương xứng với sự kỳ vọng và những “lợi thế so
sánh” về nguồn lực mà Đảng, Nhà nước, Bộ, ban ngành và xã hội đầu tư cho các
trường. Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên liên quan đến kết quả giáo
116
dục phẩm chất “người” đến tình cảm, ý chí của con người, có liên quan đến sinh
mệnh chính trị, nhân cách của từng sinh viên, nhưng lại khó đưa ra tiêu chí cụ
thể, định lượng mà chỉ định tính nên việc đánh giá thường có xu hướng phản
ánh chưa sát, đúng thực tế. Tuy nhiên việc đánh giá vẫn phải được tiến hành
thông qua kết quả tham chiếu khác như kết quả học tập, ý thức kỷ luật, chất
lượng hoàn thành phần việc được giao, tinh thần trách nhiệm trong các hoạt
động ngoại khóa và biểu hiện thông qua hành vi, ứng xử trong sinh hoạt cá nhân
và tập thể của sinh viên.
3.3. Đánh giá chung về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên và những vấn đề đặt ra
3.3.1. Về mặt nhận thức
Những năm qua, phong trào xây dựng VHHĐ, môi trường sư phạm lành
mạnh trong các trường đại học đã thu được những thành tựu rất đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, môi trường giáo dục các trường đại
học ở Hà nội nói chung và các trường đào tạo các ngành kỹ thuật vẫn còn có
những hạn chế nhất định.
Các thành viên trong trường đại học chưa nhận thức nghiêm túc, đúng về
vai trò của văn hóa học đường đối chất lượng đào tạo cũng như thương hiệu của
nhà trường, dẫn đến hiệu quả GDVHHĐ chưa cao
Do chưa có một có văn bản mang tính pháp quy, bộ tiêu chí khung quy
định những nội dung cốt lõi về xây dựng và thực hiện VHHĐ cho các trường đại
học từ cơ quan quản lý, cho nên mỗi trường có cách thức thực hiện riêng và
không có tiêu chí chuẩn đánh giá chung
Trong mỗi nhà trường, văn hóa tồn tại một cách tự nhiên, khách quan. Do
vậy, nhà trường nào cũng có văn hóa của riêng mình, nhưng nội dung nó là gì?
các giá trị của nó ra sao? Văn hóa đó được hình thành tự phát hay là kết quả của
cả một quá trình xây dựng có chủ đích rõ ràng mức độ quan tâm của lãnh đạo,
quản lý nhà trường. Hiện nay các trường đại học tuy nhận thức được vị trí, vai
trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà trường. Nhưng lúng túng trong xác
định nội dung, cách thức, biện pháp thực hiện vì không có văn bản mang tính
pháp quy từ Bộ chủ quản, các ban ngành hữu quan. Do đó, mỗi trường một cách,
117
mỗi trường một nội dung tạo ra bức tranh về HQGDVHHĐ không quy củ, khó
nhận diện, khó đánh giá vì không có quy định nào, hướng dẫn nào làm căn cứ.
Điều này chứng tỏ cần phải thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, đường lối
của Đảng và luật pháp của Nhà nước Bộ giáo dục và đào tạo ban hành văn bản
pháp quy, kế hoạch, đề án.. để căn cứ vào đó các trường trên cơ sở điều kiện
thực tiễn của mình mà xây dựng nội dung, biện pháp thực hiện có hiệu quả.
Thường xuyên đánh giá HQGDVHHĐ và thiết lập các chuẩn mực mới, những
giá trị mới mang tính thời đại, đặc biệt là các giá trị sáng tạo không ngừng, dân
chủ và tiếp biến những giá trị mới. Việc truyền bá các giá trị mới cho mọi thành
viên trong nhà trường cần được coi trọng song song với việc duy trì những giá
trị, chuẩn mực tốt đã xây dựng được là lọc bỏ những chuẩn mực, giá trị cũ lỗi
thời hoặc gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho tiến trình phát triển củaVHHĐ.
3.3.2. Về biểu hiện thực tiễn
* Về phía chủ thể giáo dục văn hoá học đường
Hoạt động quan trọng nhất của nhà trường là hoạt động dạy và học của thầy
và trò, các hoạt động khác đều nhằm phục vụ cho việc nâng cao chất lượng đào
tạo của cơ sở đào tạo.Thực trạng dạy và học trong trường đại học ở những
trường đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn Hà Nội hiện nay có nhiều điểm
sáng, tích cực đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Song bên cạnh đó vẫn còn
những mảng mờ, những biểu hiện tiêu cực của GDVHHĐ trong hoạt động dạy,
học. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao và tác động xấu đến niềm tin, sự kỳ vọng của xã
hội đối với đào tạo bậc đại học.
Người xưa nói “Học vô tiên hậu duy hữu đức giả vi sư” nghĩa là trong việc
học không phân biệt trước sau, duy chỉ người có đức mới xứng đáng làm thầy.
Cha mẹ sinh thân nhưng đức, trí lại nhờ thầy giáo uốn nắn, bồi đắp, nên nghề
giáo mới gọi là nghề “trồng người”, thầy được gọi là “nhà sư phạm”. Hiện nay vì
danh lợi, nhiều thầy cô giáo cố phấn đấu, thậm chí tìm mọi cách để không phải
dạy, để được làm quan giáo dục, vì làm quan vừa có quyền, vừa có lợi. Các
phòng, ban, trung tâm chức năng, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chủ yếu
tập trung vào nhiệm vụ được phân công, chứ chưa thật sự quan tâm, coi việc
giáo dục nói chung và GDVHHĐ cho sinh viên là việc của giảng viên, của khoa
118
chuyên ngành, của phòng công tác học sinh, sinh viên. Chính vì vậy, mà chưa
tạo ra sự đồng thuận, đồng bộ trong quan điểm và hoạt động thực tiễn, thậm chí
trong hoạt động của các bộ phận này còn chưa tạo ra môi trường văn hóa trong
phục vụ quá trình đào tạo của nhà trường. Chẳng hạn thái độ, tính khoa học
trong việc hướng dẫn sinh viên, giảng viên thực hiện thủ tục hành chính, giải
thích chế độ chính sách, thắc mắc…, dẫn đến giảm hiệu quả giáo dục.
Trong giáo dục việc đánh giá kiểm tra là khâu cực kỳ quan trọng vì nó là
chỉ báo, thước đo của kết quả và chất lượng đào tạo của trường và kết quả học
tập, rèn luyện của sinh viên. Hiện nay trong các trường đại học việc kiểm tra,
đánh giá, thi cử bị xem là khâu yếu nhất. Các trường đều nhận ra thực trạng này
nên đã có nhiều biện pháp để cải tiến, nâng cao chất lượng việc đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện của sinh viên. Qua khảo sát tại cả 5 trường đào tạo các ngành
kỹ thuật ở Hà Nội đều thành lập các trung tâm, phòng khảo thí để đánh giá độc
lập, khách quan quá trình đào tạo, kiểm định chất lượng. Điều này thúc đẩy sinh
viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện và thầy, cô cũng nâng
cao được trách nhiệm và huy động tối đa năng lực trong giảng dạy. Thông qua
việc đánh giá khách quan chất lượng thi cử sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo, cũng như thực hiện được mục tiêu, sứ mạng của nhà trường, nâng cao được
hiêu quả GDVHHĐ.
Tinh thần trách nhiệm của các chủ thể, sự phối hợp và phát huy vai trò của
các tổ chức, các lực lượng vào hoạt động giáo dục văn hóa học đường còn nhiều
bất cập
Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng, Khoa, Ban, Đoàn thanh niên, Hội sinh
viên của một số trường có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, bám sát thực tiễn
để lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên, có hiện
tượng khoán trắng cho phòng công tác học sinh, sinh viên, khoa Giáo dục lý luận
chính trị, khoa chuyên môn, thiếu kiểm tra, kiểm soát, xây dựng, thực hiện kế
hoạch theo kiểu mùa vụ cho nên còn nhiều bất cập. Việc quản lý thời gian, nội
dung, chương trình, quân số và đánh giá kết quả giáo dục có lúc, có nơi còn
buông lỏng. Lực lượng trực tiếp được phân công đảm nhiệm GDVHHĐ cho sinh
viên ở một số trường đại học chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm, công tác tham
119
mưu, các tổ chức quần chúng chưa có nhiều sáng, cải tiến, đề xuất trong đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục.
Nhìn vào thực tế hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học
đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội những năm qua khó chỉ ra sự thiếu trách
nhiệm của các chủ thể giáo dục. Bởi hầu hết các chỉ thị, hướng dẫn của trên, các
quy định, quy chế của BGD&ĐT và bộ chủ quản đều được tiến hành đầy đủ, bài
bản. Tuy nhiên, so với mục tiêu xây dựng nhận thức, thái độ, hành vi văn hóa
trong trường học của sinh viên chưa tới ngưỡng cần thiết. Một số trường tuy thực
hiện đầy đủ các nền nếp, quy chế, các hoạt động GDVHHĐ nhưng chỉ là để
thanh toán đầu việc, để báo cáo, để “ghi điểm” với lãnh đạo. Không ít trường có
xu hướng thay thế giáo dục tư tưởng, tình cảm bằng các biện pháp hành chính,
bố trí học thêm, tăng các tiêu chí về ngoại ngữ, tin học và đặt ra những điều cấm
đoán, các hình phạt về kinh tế làm biện pháp quản lý thay vì quan tâm đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của sinh viên. bên cạnh đó các trường
chưa tạo được sự phối hợp khoa học, hợp lý cũng như phân định rõ góc độ tiếp
cận giữa các lực lượng trong chủ thể giáo dục dẫn đến sự trùng lặp về nội dung,
bất cập về hình thức, phương pháp giáo dục.
* Về phía sinh viên – đối tượng giáo dục văn hóa học đường
Thứ nhất, thông qua việc lựa chọn nghề đào tạo.
Qua điều tra hơn 521 sinh viên ở 5 trường đại học trên địa bàn Hà Nội: Đại
học Giao thông vận tải, Đại học Xây dựng, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại
học Kiến trúc, ĐH Thành Đô cho thấy: 67,5% cho rằng chọn học các ngành kỹ
thuật để có việc làm ngay sau khi ra trường; 13,3% cho rằng đi học để thỏa mãn
đam mê, phát triển tài năng; 49,7% học do định hướng của gia đình, bạn bè; 26%
cho rằng học các ngành kỹ thuật để có thu nhập cao; 58,7% sinh viên muốn có
điều kiện học tập tốt hơn; 51,5% muốn học để tiếp cận nghề nghiệp; 50% có nhu
cầu học thêm ngoại ngữ, tin học và các môn bổ trợ khác dễ kiếm việc làm [Phụ
lục, kết quả khảo sát, bảng 19].
Thứ hai, biểu hiện ở mục đích, động cơ học tập của SV còn phân tán, thiếu
định hướng, tự phát, mới chỉ xoay quanh việc kiếm công ăn việc làm, có thu
nhập cao, có vị trí trong xã hội mà không quan tâm đến trách nhiệm của cá nhân
đối với sự phát triển bền vững của xã hội, sự giàu mạnh của đất nước. Tuy nhiên
120
khi có sự kiện liên quan đến lợi ích quốc gia thì hầu hết mọi sinh viên đều bộc lộ
sự bất bình và tinh thần muốn tham gia vào công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ. Phần lớn sinh viên đều có cố gắng, nỗ lực học tập. Thực tiễn cuộc sống đã
giúp họ nhận thức được tầm quan trọng và giá trị của những tri thức trên giảng
đường. sinh viên hiểu rằng trong nền kinh tế thị trường, năng lực và khả năng
thích ứng cao mới là cái quyết định đến tương lai. Họ tận dụng mọi phương tiện
cho phép và thời gian có được để trang bị một hành trang vào đời với đủ các
bằng cấp, học vị đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Do đó chọn nghề theo đòi
hỏi của xã hội là phổ biến, vì vậy có những trường thí sinh đua chen vào, có
những trường thừa chỉ tiêu được tuyển. Nhiều sinh viên khi ra trường vì mong
muốn làm giàu nhanh, sẵn sàng từ bỏ ước mơ để nhận một việc làm hoàn toàn
trái với chuyên môn được đào tạo và nguyện vọng của mình. Một bộ phận không
nhỏ sinh viên chỉ quan tâm đến trau dồi tri thức, nâng cao năng lực chuyên môn
không chú trọng rèn luyện những phẩm chất đạo đức, lối sống. Họ dễ bị rơi vào
guồng quay tiêu cực của xã hội, suy thoái về đạo đức, nhân cách.
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Phát triển giáo dục 2012, có khoảng
50% sinh viên thực sự ham học, có khoảng 15% học tập cầm chừng, phần còn lại
học tập một cách thụ động, đối phó. Nếu so sánh tinh thần học tập chủ động của
nhóm sinh viên ở khối kinh tế kỹ thuật thì tính tính cực của họ cao hơn so với
khối sinh viên khối văn hoá xã hội nhân văn. Nhóm sinh viên ngoại trú lại có ý
thức chủ động học tập cao hơn so với sinh viên nội trú và họ cũng có điều kiện
học thêm, tiếp xúc với cuộc sống phong phú hơn.
Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ mục đích nhằm góp phần thực hiện tốt mục
tiêu, nâng cao chất lượng đào tạo cũng như chất lượng sinh viên ra trường được
các đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo của cơ sở đào tạo trong những năm qua. Do
điều kiện khách quan, luận án sử dụng số liệu thống kê 3 năm từ 2012-2015 của
một số trường đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội.
Thứ ba, biểu hiện qua kết quả học tập của sinh viên
HQGDVHHĐ ở các trường đại học được khảo sát thể hiện qua tiêu chí thực
tiễn, biểu đạt bằng tỷ lệ sinh viên đủ điều kiện theo học tại trường tăng hàng năm
121
(so với mặt bằng của các trường Đại học), số liệu thống kê 3 năm học 2012 -
2013, 2013 – 2014, 2014 - 2015 cho thấy:
Biểu đồ 3.3.3: Kết quả học tập của, sinh viên của trường qua hàng năm (tỷ
lệ % thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn, Nguồn tổng hợp số liệu từ
phòng đào tạo)
Số liệu cho thấy số lượng sinh viên bị dừng học (không đủ điểm tích lũy),
bị buộc thôi học do vi phạm kỷ luật năm sau cao hơn năm trước. Theo thống kê
của Phòng công tác học sinh sinh viên năm 2013, có 70 sinh viên bị kỷ luật (20
cảnh cáo, 50 đình chỉ), năm 2014 có 77 sinh viên bị kỷ luật (26 cảnh cáo, 51
đình chỉ), có 81 sinh viên bị kỷ luật (39 cảnh cáo, 42 đình chỉ), mặt khác xuất
hiện hiện tượng học hộ, thi hộ, vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường, hành
xử thiếu văn hóa trong học tập ngày càng gia tăng. Với thực trạng này, biểu hiện
hoạt động “dạy người” còn hạn chế. Nói cách khác giáo dục và thực hiện VHHĐ
trong nhà trường hiệu quả còn thấp. Bên cạnh đó, một số sinh viên tốt nghiệp ra
trường yếu cả về kiến thức, kỹ năng và khả năng hợp tác, khả năng làm việc theo
nhóm trong thực hiện công việc nên rất khóa hội nhập
Nhìn chung, bên cạnh một số sinh viên có trình độ tay nghề thì chất lượng
học tập của một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đất nước. Chính vì vậy,
bên cạnh việc phát huy tính kỷ luật tự giác của sinh viên, nhà trường và giảng
viên cần có biện pháp cụ thể để khắc phục hiện tượng trên, nếu không sẽ hình
thành trong sinh viên nếp sống lề mề, chậm chạp, không có kỷ cương và đặc biệt
122
sẽ không đào tạo được những con người có trình độ, kỹ năng, tay nghề... Đây là
những tác phong không phù hợp với yêu cầu của nhịp sống công nghiệp hiện nay
Hiện tượng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật diễn biến ngày càng phức
tạp, biểu hiện tăng cả về số lượng lẫn mức độ phạm càng nghiêm trọng. Mặc dù
là sinh viên nhưng một bộ phận không nhỏ nhận thức về pháp luật kém. Rất
nhiều sinh viên tham gia quan hệ pháp luật mà không biết những quy định của
pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Ví dụ như luật giao
thông đường bộ, luật giáo dục… Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại
Hội nghị Tập huấn công tác học sinh, sinh viên đầu năm học 2013 – 2014, trong
năm 2013 có khoảng trên 9.000 vụ tội phạm do học sinh, sinh viên và thanh
thiếu niên gây ra, giảm 9,6% so với năm 2012 nhưng tính chất phạm lại ngày
càng nghiêm trọng. Từ số liệu khảo sát kết quả đào tạo, rèn luyện và quan niệm
của sinh viên cho thấy quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo nói chung trong đó
có GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo kỹ thuật ở Hà nội,
tuy đã có kết quả đáng kích lệ nhưng nhìn chung hiệu quả còn chưa cao do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan.
3.3.3. Mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp giáo dục văn hoá
học đường
* Nội dung giáo dục văn hóa học đường chưa hấp dẫn, lôi cuốn, chưa
thuyết phục sinh viên
Văn hóa học đường với nội dung của nó vô cùng phong phú đa dạng và
biến hóa. Nhưng các trường đại học, nhất là những trường đại học đào tạo các
ngành kỹ thuật thường quan niệm GDVHHĐ đồng nhất với giáo dục lý luận
chính trị, giờ sinh hoạt lớp, dẫn đến xây dựng nội dung GDVHHĐ thường khuôn
lại ở các môn giáo dục lý luận chính trị, pháp luật, quy chế, các môn
KHXH&NV, các buổi hội nghị, sinh hoạt theo chuyên đề. Do vậy nội dung giáo
dục vẫn còn đơn điệu, nặng tính lý thuyết, định tính, tính ứng dụng không cao
và chưa đưa kết quả thực hiện VHHĐ của sinh viên là một trong những tiêu chí
đánh giá kết quả học tập và rèn luyện (đức dục) của sinh viên, chưa có hình thức
khen thưởng phù hợp, do vậy chưa tạo ra dư luận, thái độ kiên quyết trong đấu
tranh với những thái độ, hành vi vô văn hóa trong trường đại học, vì thế thái độ,
hành vi vô văn hóa trong trường đại học vẫn tồn tại và có xu hướng ngày càng
gia tăng. Tình trạng phổ biến hiện nay là giảng dạy lý luận chính trị, pháp luật,
123
KHXH&NV, các môn chuyên môn chỉ nhằm mục đích thuần túy chuyển tải nội
dung của môn học, phục vụ thi, kiểm tra, ít gắn với giải quyết, nhận thức các vấn
đề thực tiễn đang đặt ra. Tính ứng dụng của kiến thức hạn chế nên sinh viên ít
cảm nhận được lợi ích thực sự của việc học thực hiện VHHĐ cho nên hiệu quả
GDVHHĐ chưa cao.
Vấn đề nổi cộm hiện nay trong nội dung giáo dục là mâu thuẫn giữa lý
thuyết, quan niệm và thực tế. Sự thiếu công bằng trong thực thi đường lối, chính
sách của Nhà nước, những hiện tượng tiêu cực tham nhũng, nhũng nhiễu lại chủ
yếu xảy ra ở đảng viên có chức quyền. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
nhưng để xảy ra nhiều vụ việc như: Vinashin, Agribank, ACB Bank, số 8B Lê
trực... Các dự án, công trình lớn của nhà nước lại là nơi làm thất thoát nhiều tiền
bạc của Nhà nước, của nhân dân. Văn hoá là nền tảng, là động lực phát triển
kinh tế - xã hội nhưng các tệ nạn ma túy, mại dâm, bạo lực học đường, lừa đảo,
bảo kê không ngừng gia tăng cùng các chuẩn mực đạo đức xã hội, các giá trị
truyền thống ngày càng mai một. Những hiện tượng trái ngược giữa “nói” và
“làm” khiến nhiều nội dung giáo dục trở nên xa rời cuộc sống, thiếu hấp dẫn.
* Hình thức, phương pháp giáo dục vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của
sinh viên
Nhìn chung, ngoài việc áp dụng kỹ thuật trình chiếu thì hình thức, phương
pháp GDVHHĐ cho sinh viêncác trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở
Hà Nội hiện nay về cơ bản không có gì khác so với trước kia và so với các môn
lý luận chính trị, thậm chí được lồng ghép cơ học với một số chương trình, sự
kiện khác nên nhiều khi sử dụng phương pháp khong phù hợp thiên cưỡng về cơ
bản vẫn chung chung, giải thích theo quan điểm cá nhân. Sự lý giải hiện thực
chưa thuyết phục mà mang tính áp đặt. Nhiều tình huống đưa ra chưa sát đối
tượng, không phải là đại diện, dẫn đến không phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo khi sinh viên tham gia tranh luận, tự kết luận, tự rút kinh nghiệm
cho minh.
Theo thống kê của chúng tôi, tần suất sử dụng các hình thức phát động thi
đua, thi tìm hiểu ở các trường những năm gần đây nhiều. Các ngày lễ kỷ niệm
gần như đều tổ chức, phát động thi đua… nhưng cách thức tuyên truyền, cổ động
chưa tạo được sự cuốn hút, sự chú ý, tham gia tích cực của đối tượng. Tuy chủ
124
đề có khác nhau nhưng về cơ bản nội dung, quy trình, hình thức tổ chức, ký kết
giao ước thi đua vẫn nặng về hình thức mà hiệu quả tác động thấp. Hiện nay
đang có xu hướng lạm dụng hình thức thi tìm hiểu, nhất là vào những năm có
nhiều ngày lễ lớn. Chỉ tính riêng trong năm 2013, có tới 5 cuộc thi dành cho đối
tượng sinh viên do các cơ quan, ban ngành cấp trên phát động dẫn đến tình trạng
đối phó, sao chép, gây tốn kém thời gian, tiền bạc mà không mang lại hiệu quả
như mong muốn. Hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ còn nặng về phong trào,
hình thức, nội dung nhiều khi còn chưa phù hợp chủ đề với nhu cầu thị hiếu của
tuổi trẻ.
3.3.4. Phương pháp, hình thức đánh giá hiệu quả hình thức giáo dục
văn hoá học đường còn nhiều bất cập
Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là vấn đề phức tạp, cần sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp đánh giá. Trong các trường Đại học chúng tôi khảo sát, việc
đánh giá hiệu quả GDVHHĐ đang được áp dụng nhiều phương pháp hiện đại: sử
dụng mạng internet, mạng xã hội để điều tra, sử dụng các phần mềm để xử lý và
phân tích các số liệu…
- Đánh giá điển hình: lựa chọn một số sinh viên có tính đại diện để tiến
hành điều tra, nghiên cứu sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và hành vi sau tác
động của GDVHHĐ. Đây là phương pháp đánh giá mang tính chất định tính, khi
đánh giá có thể lựa chọn điển hình ở các mức độ tốt, khá, trung bình, yếu để
nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng ở trường đại học Kiến trúc, đại học
Giao thông vận tải, đại học Xây dựng. Vì chỉ được lựa chọn các trường hợp điển
hình nên tính chính xác của hiệu quả giáo dục văn hóa học đường không cao.
+ Đánh giá xác suất: chọn ra một số đối tượng ngẫu nhiên hoặc một số tập
thể trong toàn bộ các đối tượng cần đánh giá để lấy tư liệu, từ đó suy ra nhận
định chung về tất cả các đối tượng cá nhân và tập thể sinh viên cần đánh giá.
Đây là phương pháp đánh giá thường được áp dụng tại trường đại học Công
nghiệp Hà Nội. Số lượng sinh viên quá đông, vấn đề giáo dục văn hóa học
đường lại không được coi là nội dung giáo dục chính khóa, không nằm trong cấu
trúc chương trình môn học nên hiệu quả GDVHHĐ thường được đánh giá xác
suất một cách ngẫu nhiên, vì vậy không đảm bảo tính chính xác, khách quan.
+ Đánh giá toàn bộ: lần lượt đánh giá tất cả các đối tượng sinh viên.
Phương pháp này thường để đánh giá hiệu quả của những hoạt động GDVHHĐ
125
quan trọng, phù hợp cho nghiên cứu định lượng. Nó được áp dụng trong cả 5
trường đại học chúng tôi khảo sát. Nhưng nó chỉ được áp dụng có tính định kỳ
với những nghiên cứu mang tính định lượng, thiếu tính phổ quát, vì thế phương
pháp này cũng không thực sự cho kết quả chính xác về hiệu quả GDVHHĐ. Có
thể kết hợp sử dụng phương pháp đánh giá toàn bộ một lần, đánh giá thường
xuyên hoặc đánh giá nhanh. Đánh giá toàn diện có ưu điểm là diện tiếp xúc rộng,
độ chuẩn xác cao, nhưng cần được tổ chức chu đáo, có quy định thống nhất, rõ
ràng về thời gian, phạm vi, đối tượng, tiêu chuẩn, nội dung vì đây là một công
việc lớn, phức tạp trong cả quá trình điều tra và xử lý kết quả.
Hình thức đánh giá
Trong 5 trường đại học mà chúng tôi khảo sát, điểm thống nhất chung là
các hình thức đánh giá được sử dụng linh hoạt, mềm dẻo và hợp lý. Cụ thể là:
+ Thông qua chế độ giao ban, báo cáo, nắm bắt tư tưởng, đánh giá xếp loại
việc thực hiện VHHĐ của sinh viên trong tháng (hội nghị các lớp trưởng và bí
thư các lớp với giám hiệu, phòng quản lý sinh viên, cố vấn học tập): đây là các
hình thức phổ biến nhất trong các trường đại học, được cả 5 trường áp dụng.
Việc duy trì nền nếp giao ban, báo cáo định kỳ và đột xuất theo định kỳ và chế
độ đánh giá xếp loại đức dục hàng tháng giúp cho việc đánh giá hiệu quả
GDVHHĐ diễn ra kịp thời, mang tính pháp lý và có độ tin cậy cao.
+ Tọa đàm, diễn đàn, hội thảo: các hình thức này thường để trao đổi trực
tiếp về các vấn đề cần quan tâm, nắm bắt nhận thức và thái độ, tư tưởng, hành vi
của sinh viên. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện và tương đối tin cậy.
Tuy nhiên, trong số 5 trường đại học mà chúng tôi khảo sát, hình thức này được
sử dụng không nhiều vì kinh phí và thời gian tổ chức không phù hợp với thời
gian biểu của sinh viên. Một lý do nữa khiến hình thức này ít được tổ chức vì chi
phí nguồn lực không đủ điều kiện đáp ứng.
+ Phỏng vấn cá biệt: tiến hành trao đổi riêng với những người có liên quan
như: người quản lý, cố vấn học tập, thủ lĩnh các đội, hội, câu lạc bộ, người thân
hoặc với đối tượng chủ nhân sự việc, hiện tượng cần quan tâm để nắm bắt tình
hình tư tưởng, thái độ, ý kiến của tập thể và cá nhân sinh viên để có những
phương pháp giáo dục, định hướng phù hợp, đúng đắn. Phương pháp này được
sử dụng ở cả 5 trường, thường áp dụng đối với những sinh viên chậm tiến bộ. Vì
thế nếu xét chung trong các hình thức đánh giá hiệu quả GDVHHĐ thì hình thức
này thiếu tính đại diện, thiếu tính phổ quát.
126
+ Nghiên cứu tài liệu: đánh giá nghiên cứu các văn bản, tài liệu, báo cáo
liên quan đến hoạt động của tập thể và cá nhân sinh viên để chắt lọc, nắm bắt
thông tin. Đây là phương pháp được chủ thể GDVHHĐ của các trường đại học
sử dụng, thường là phòng công tác chính trị, phòng công tác sinh viên, phòng
đào tạo, văn phòng và cố vấn học tập của các khoa.
+ Tư vấn: trên cơ sở nắm bắt những xu thế mới, những vấn đề phức tạp nảy
sinh trong đơn vị, có thể mời chuyên gia tâm lý, các học giả có chuyên môn để
luận giải, đánh giá tình hình, tư vấn, đề xuất, kiến nghị.
+ Thống kê: tận dụng chế độ báo cáo thống nhất để thu thập một cách có tổ
chức các số liệu quan trọng phản ánh đặc trưng và quy luật của sự việc để đánh
giá. Đây là phương pháp phổ biến và quan trọng thông qua phân tích kết quả học
tập, hoạt động phong trào để đưa ra các hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
+ Trắc nghiệm khách quan: dùng phương thức điều tra bằng phiếu hỏi,
bảng hỏi với các câu hỏi mở và câu hỏi đóng để đối tượng tự do phát biểu ý kiến
mà không bị bất kỳ một sức ép hoặc sự can thiệp nào nhằm tìm hiểu nhận thức
và thái độ, quan niệm của sinh viên một cách khách quan nhất.
+ Tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học bằng các phương pháp định tính và
định lượng để có kết quả khách quan, khoa học. Từ đó mà xác định hiệu quả của
GDVHHĐ.
Nhìn chung các trường đại học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài đã sử
dụng các phương pháp và hình thức đánh giá hiệu quả GDVHHĐ phù hợp với
thực tiễn của trường mình. Để hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá một cách
khách quan và khoa học, các trường cần áp dụng các phương pháp và hình thức
trên một cách linh hoạt, biện chứng và khoa học thì hiệu quả GDVHHĐ mới
thực sự đạt được.
Về chí phí các nguồn lực (nhân lực, thời gian, cơ sở vật chất) cho hoạt động
GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường chưa được tính toán một cách cặn kẽ,
cụ thể hóa. Nguyên nhân chính là do xem nhẹ hoạt động này với quan niệm đây
là chương trình ngoại khóa, tận dụng, kết hợp với các hoạt động khác vì vậy rất
khó tính được chi phí. Đây cũng chính là một trong những yếu tố góp phần hạn
chế HQGDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học
Tiểu kết chương 3
Để có cơ sở khoa học đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho
sinh viên các trường đại học tại Hà Nội hiện nay, tác giả của luận án đã tiến hành
127
khảo sát thực trạng GDVHHĐ trong các trường đại học đào tạo kỹ thuật trên địa
bàn Hà Nội: đại học Kiến trúc, đại học Giao thông vận tải, đại học Xây dựng, đại
học Công nghiệp Hà Nội, đại học Thành Đô. Đây là những trường đại học có bề
dày lịch sử, có thương hiệu, có uy tín trong lĩnh vực đào tạo – giáo dục.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của GDVHHĐ trong việc hoàn thiện nhân cách,
là điều kiện cho quá trình thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục bậc đại
học, thời gian qua, các trường đại học đào tác các ngành kỹ thuật ở Hà Nội đã
tận dụng tối đa điều kiện thuận lợi của môi trường xã hội khách quan, phát huy
tốt những lợi thế sẵn có như: số lượng chủ thể đông, tổ chức chặt chẽ; đối tượng
được lựa tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia, có ưu thế về trí tuệ; có cơ sở vật
chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Sự chuyển
biến trong nhận thức, thái độ, niềm tin và tính tích cực của sinh viên do
GDVHHĐ mang lại trong những năm qua là rất tích cực, góp phần quan trọng
vào chiến lược phát triển con người Việt Nam phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội ngập quốc tế
ngày càng sâu rộng.
Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên là một đòi hỏi khách quan của
phát triển nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Các
trường đại học phải giải quyết những vấn đề cơ bản : mâu thuẫn giữa tính mô
phạm của môi trường giáo dục với sự phức tạp, đa dạng của đời sống xã hội;
mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng chủ thể với thực trạng phẩm
chất và năng lực của các lực lượng tham gia GDVHHĐ cho sinh viên; mâu thuẫn
giữa yêu cầu tăng cường tính khoa học, thuyết phục trong giáo dục nhận thức, cổ
vũ hành động thực tiễn đúng đắn với sự chậm đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp và huy động nguồn lực cho GDVHHĐ; mâu thuẫn giữa đòi hỏi
phát huy tính tích cực của đối tượng với sự thiếu hứng thú của sinh viên với hoạt
động GDVHHĐ. Các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện
nay phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp khả thi hướng vào giải quyết kịp thời
các mâu thuẫn đó trong điều kiện thực tế của mình, mới nâng cao được
HQGDVHHĐ.
128
Chương 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
cho sinh viên
4.1.1. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên
góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo bậc đại học ở Việt Nam
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc
gia về nhiều phương diện, trong đó có giáo dục, ngày càng trở nên gắn bó. Việc
hội nhập đòi hỏi mỗi nước phải có những chính sách riêng vừa phù hợp với lợi
ích của quốc gia mình, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại và quốc tế. Sự
nghiệp phát triển của giáo dục - đào tạo không nằm ngoài xu hướng đó và việc
phải thay đổi phương thức đào tạo từ mục tiêu, nội dung chương trình , phương
pháp dạy và học cũng như phương pháp quản lý giáo dục là điều tất yếu. Vấn đề
cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo chính là nâng cao hiệu quả giáo
dục văn hoá học đường cho học sinh sinh viên, bởi đây là chìa khoá của thành
công trong thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo.
Văn hoá học đường là tài sản vô hình của nhà trường, bởi tính văn hoá là
tính chất đặc thù của nhà trường hơn bất kỳ một tổ chức nào. Điều này được xác
định dựa trên những căn cứ sau:
- Nhà trường là nơi bảo tồn vào lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại.
- Nhà trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và
sáng tạo văn hoá cho tương lai.
- Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy với người học)
cùng hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn
hoá, dựa trên những phương tiện văn hoá.
Văn hoá học đường tạo động lực làm việc cho các thành viên. Văn hóa học
đường phù hợp, tích cực tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp giữa các các cán bộ, giáo
viên, nhân viên trong tập thể sư phạm, giữa giáo viên và học sinh; đồng thời tạo
ra một môi trường làm việc thoải mái, vui vẻ, lành mạnh. Đó là nền tảng tinh
thần cho sự sáng tạo, được thừa nhận và tôn trọng.
129
Văn hóa học đường giúp hạn chế tiêu cực và xung đột. Nó giúp các thành
viên trong nhà trường thống nhất về cách nhận thức vấn đề, cách đánh giá, lựa
chọn, định hướng và hành động. Như là chất keo gắn kết các thành viên lại thành
một khối, tạo ra những dư luận tích cực hạn chế những biểu hiện tiêu cực trái với
quy tắc, chuẩn mực thông thường. Nó hạn chế những nguy cơ mâu thuẫn và
xung đột và khi xung đột là không thẻ tránh khỏi thì văn hóa nhà trường tạo ra
hành lang pháp lý, đạo lý phù hợp để góp phần khắc phục, giải quyết xung đột
trên nguyên tắc không để phá vỡ tính chỉnh thể của tổ chức nhà trường.
Những thành quả trong giáo dục văn hoá học đường mà các trường đại học
Việt Nam nói chung và các trường đại học trên địa bàn Hà Nội nói riêng đạt
trong những năm qua đã tạo ra một nền tảng vững chắc và tạo đà vận động cho
việc nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường trong trường đại học trên địa
bàn Hà Nội trong thời gian tới. Vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo nói chung và
hiệu quả giáo dục văn hoá học đường nói riêng đang đặt ra những câu hỏi lớn
cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý giáo dục để cần có định
hướng phát triển trong tương lai, nhằm hướng tới mục đích nâng cao hiệu quả
giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên.
4.1.2. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên
là cơ sở để giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách
nhiệm công dân cho sinh viên
Bên cạnh việc tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường,
thì việc tăng cường GDVHHĐ được xác định là một trong những nhiệm vụ
chính trị của nhà trường trong điều kiện hiện nay. Quan điểm này được thể hiện
ở việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho sinh viên, tạo điều kiện cần thiết
cho quá trình rèn đức, luyện tài để ngày mai lập nghiệp của sinh viên. Cần phải
tạo điều kiện cho sinh viên tiếp nhận, thấm nhuần các giá trị văn hóa, thẩm thấu
nền văn hóa dân tộc một cách tự nhiên thông qua nhiều hình thức tác động, làm
cho VHHĐ là chất kết dính gắn kết với tất cả các hoạt động của sinh viên từ hoạt
động học tập đến các hoạt động xã hội khác.
Tăng cường hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên, cần thống nhất ở một số
điểm sau:
130
- Xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi bộ phận của nhà trường
trong việc GDVHHD cho sinh viên, nhất là giáo dục thông qua nội dung của
môn giáo dục đạo đức nghề nghiệp, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các môn KHXH&NV, các chuyên đề cụ thể. Nhiệm vụ của GDVHHĐ
góp phần giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi
của xã hội trong điều kiện mới, là phải kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc và những tinh hoa đạo đức nhân loại, coi đó làm cơ sở
để xây dựng nhân cách sinh viên thời đại mới. Đồng thời, GDVHHĐ là màng lọc
nhằm khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, vô
tránh nhiệm đang nảy sinh trong một bộ phận sinh viên. Việc giáo dục đạo đức,
lối sống lành mạnh cho sinh viên là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức xã
hội và của toàn xã hội. Không nên coi việc GDVHHĐ, đạo đức lối sống chỉ nằm
trong khuôn khổ giáo dục của nhà trường, của các thầy, cô giáo. Giáo dục văn
hóa, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm trong trường đại học nhằm xây dựng
một nhân cách tốt đẹp cho sinh viên.
- Kết hợp chặt chẽ GDVHHĐ với giáo dục luật pháp và thực hiện nghiêm
luật pháp trong nhà trường và xã hội.
Trong một xã hội cụ thể, đạo đức, lối sống và pháp luật về cơ bản thống
nhất nhưng lại có những điểm khác nhau về hình thức biểu hiện. Giáo dục pháp
luật có một vai trò quan trọng trong việc GDVHHĐ cho sinh viên. Về bản chất,
giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ
thể giáo dục, nhằm tác động lên đối tượng giáo dục, hình thành ở họ những tri
thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật
hiện hành. Đồng thời, giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập những
nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi sinh viên. Nó
trang bị cho sinh viên nắm vững những chuẩn mực pháp lý. Đây không chỉ là cơ
sở cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ pháp lý mà còn là cơ sở để họ thực hiện
những nghĩa vụ đạo đức tối thiểu của con người – nét văn hóa trong hoạt động
của sinh viên. Ngoài ra, trong GDVHHĐ cần phải giáo dục, định hướng thẩm
mỹ cho sinh viên đem đến cho mỗi sinh viên khả năng cảm nhận cái đẹp, thể
hiện và sáng tạo ra cái đẹp trong hoạt động thực tiễn của bản thân. Từ đó, hình
thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ và xu hướng vươn tới cái đẹp ở mỗi sinh viên.
131
4.1.3. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo của nhà trường
Trường đại học là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Cùng với việc không
ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, nhà
trường phải coi trọng GDVHHĐ cho sinh viên. Công tác GDVHHĐ phải được
thực hiện thường xuyên và lồng ghép vào nội dung giảng dạy của nhà trường.
Nội dung GDVHHĐ góp phần vào việc xây dựng thế hệ trẻ có ý thức, tình cảm
cao đẹp, có hành động tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập và rèn luyện để
triết lý học thực, nghiệp thực trong trường đại học không là khẩu hiệu mà qua đó
thể hiện bản lĩnh Việt Nam được lan tỏa, được khẳng định trong quá trình phát
triển, hội nhập. Tránh thực hiện GDVHHD theo kiểu hình thức, không gắn kết
chặt chẽ với việc dạy nghề cho sinh viên.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo vấn đề đảm bảo môi trường sống, học tập,
vui chơi, giải trí cho sinh viên văn minh, hiện đại góp phần trực tiếp vào việc
nâng cao HQGDVHHĐ của nhà trường. Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc
học lý thuyết, thực hành của sinh viên; xưởng sản xuất; nơi làm việc của các
khoa, phòng, ban, trung tâm chức năng, khu thể thao, vui chơi giải trí và ký túc
xá đều phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý đồng thời còn phải tính tới yếu tố văn
hóa, giáo dục cho sinh viên.
Cảnh quan của nhà trường phải khang trang, các khối kiến trúc phải hài
hòa, làm sao phải “trường ra trường, lớp ra lớp” đạt chuẩn quốc gia về diện tích.
Nhà trường phải là điển hình về mô hình về xanh-sạch-đẹp. Cổng trường là bộ
mặt vì vậy không thể lem nhem, mất chữ, lối ra vào phải thoáng đãng không để
hàng, quán lấn chiếm, có bóng mát, vườn hoa, cây cảnh, phòng học lý thuyết và
thực hành phải đạt chuẩn diện tích, ánh sáng phải đảm bảo. Mầu sắc trần và
tường của các phòng học cũng phải cân nhắc sao cho phù hợp với đặc trưng của
nhà trường, với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Kích thước bàn ghế, sự bố trí
công cụ hỗ trợ giảng dạy, giáo cụ trực quan phải hợp lý, đảm bảo hiệu quả cao
cho hoạt động dạy và học. Thư viện nhà trường cần đảm bảo khoa học, hiện đại
bởi thư viện là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ của các thành viên
trong nhà trường, trực tiếp tác động đến quá trình hình thành VHHĐ cho sinh
viên… Được làm việc, học tập và rèn luyện trong một môi trường có cơ sở vật
132
chất khang trang, hiện đại là một trong những yếu tố làm cho giảng viên, sinh
viên và CNCNV của nhà trường thấy tự hào, gắn bó. Đây cũng là yếu tố góp
phần hạn chế thói quen tùy tiện, thiếu văn hóa làm mất mỹ quan cơ sở đào tạo.
Giáo dục văn hoá học đường phải gắn với nội dung của hoạt động của các
đoàn thể trong nhà trường. Để VHHĐ trở thành hiện thực, phải đưa nội dung
VHHĐ vào các hoạt động đoàn thể trong nhà trường. Các phong trào chính trị -
xã hội thực tiễn là nơi cho sinh viên rèn đức, luyện tài, trau dồi những kiến thức,
niềm tin, nhân sinh quan cách mạng... Để đưa sinh viên tham gia nhiệt tình và có
chất lượng các phong trào chính trị - xã hội thực tiễn, các trường đại học cần
quán triệt một số quan điểm cơ bản sau:
Thông qua các phong trào thi đua sâu rộng, nhằm khơi dậy tinh thần
trách nhiệm, lao động sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo. Qua các phong
trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt – phục vụ tốt”, “Tài năng sư phạm trẻ”, “Phụ
nữ giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, “Phụ nữ tài năng sáng tạo”, phong trào
giảng viên dạy giỏi, tổ chức thi Olympic các chuyên ngành, thi học sinh, sinh
viên giỏi, thi nghề các cấp và quốc tế...là môi trường cho giảng viên, CBCNV
và sinh viên nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm chất, đạo
đức lối sống.
Đoàn thanh niên và Hội sinh viên nhà trường là tổ chức chính trị- xã hội,
trực tiếp giúp cho sinh viên hình thành ý thức chính trị-xã hội. Vì vậy, đoàn
thanh niên, hội sinh viên nhà trường trong mọi hoạt động của mình phải là lực
lượng tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ GDVHHĐ cho sinh viên qua các
hoạt động. Muốn vậy, trong chương trình hoạt động của đoàn, của hội phải đưa
nội dung GDVHHĐ là một trong những nội dung hoạt động thiết thực của sinh
viên. Nội dung GDVHHĐ phải là những nội dung càng cụ thể càng tốt, nó phải
là một trong nhiều tiêu chí để đánh giá chất lượng đoàn viên, hội viên. Mặt khác,
cán bộ lớp, cán bộ đoàn phải thực sự là những người gương mẫu trong thực hiện
VHHĐ của nhà trường.
4.1.4. Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, giảng viên,
viên chức trong giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên
Trước hết, phải tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ,
công nhân viên trong nhà trường. Giáo dục đại học không chỉ giáo dục sinh viên
về mặt tri thức mà phải giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho họ. Trong nhà
133
trường, tấm gương của thầy, cô giáo, của CBCNV nhà trường có ảnh hưởng rất
lớn đến sinh viên. Bắt đầu từ ăn mặc phải sạch sẽ, gọn gàng, lịch sự và phù hợp.
Trong ứng xử phải “thầy ra thầy”, “trò ra trò” với thái độ nghiêm túc, dân chủ,
tôn trọng lẫn nhau, tổ chức tốt hoạt động giảng dạy khoa học, hợp lý. Thầy,
cô giáo phải là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo trong thực hiện
VHHĐ. Cán bộ, nhân viên các phòng ban chức năng, các tổ chức quần chúng
trong nhà trường cũng như toàn bộ hệ thống quản lý, phục vụ phải thấm
nhuần và ý thức được trách nhiệm là những người trực tiếp tham gia vào quá
trình GDVHHĐ cho sinh viên thông qua hoạt động của mình. Quản lý, phục
vụ tốt là góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chung của nhà trường, mỗi
cán bộ, công nhân viên phải là tấm gương về thái độ, hành vi và phẩm chất
đạo đức lối sống cho sinh viên học tập. Để phát huy tác dụng của mình, giảng
viên, CBCNV cần thực hiện tốt khẩu hiệu “Trong nhà trường, mỗi cán bộ,
giảng viên hãy là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo”.
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên hiện nay
Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên là một vấn đề có liên quan đến
nhiều thành tố của một hệ thống gồm nhà trường, xã hội, gia đình và đối tượng
được giáo dục, nhưng với tư cách là chủ thể giáo dục trực tiếp, các trường đại
học ở Hà Nội hiện nay cần hướng vào phát huy tối đa những tiềm năng sẵn có
của môi trường giáo dục đặc thù. Qua đó đề ra các giải pháp mang tính chủ
động, sáng tạo, phát huy nội lực, không đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, tiền
của và sự trợ giúp từ cấp trên nhưng nhanh chóng mang lại hiệu quả cao nhất.
Giải pháp nâng cao HQGDVHHĐ trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ
thuật ở Hà Nội được đề xuất dựa trên các căn cứ sau:
* Căn cứ vào yêu cầu đổi mới của giáo dục đại học và định hướng của
Đảng, của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đưa các nội dung
GDVHHĐ vào hệ thống giáo dục giai đoạn 2011-2015.
* Căn cứ vào mục tiêu GDVHHĐ đáp ứng yêu cầu xã hội về hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ là sinh viên.
* Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả nghiên cứu thực trạng của đề tài, căn
cứ vào: tiêu chí HQGDVHHĐ và các yếu tố chi phối đến hiệu quả GDVHHĐ,
nguyên nhân hạn chế của HQGDVHHĐ
134
* Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của các trường đại học đào tạo các ngành
kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay được đề xuất dựa trên các nguyên tắc:
- Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu của quá trình giáo dục: nhận thức đúng
về nguyên tắc này đòi hỏi trong công tác GDVHHĐ, Ban Giám hiệu nhà trường
cần đảm bảo phục vụ cho thực hiện mục tiêu giá dục toàn diện những phẩm chất,
năng lực cho sinh viên, coi trọng năng lực giao tiếp, năng lực thích nghi và ứng
phó trước sự tác động và ảnh hưởng từ bên ngoài.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm. Nguyên tắc này
đảm bảo các giải pháp GDVHHĐ sử dụng kinh phí không nhiều, tiêu phí ít thời
gian, tiết kiệm nhân lực song vẫn đạt được kết quả theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Hiệu quả đạt được thực sự có ý nghĩa đối với sự phát triển của nhà trường, góp
phần làm cho nhà trường có sự thay đổi theo hướng tích cực, tốt hơn.
- Nguyên tắc đảm bảo hệ thống giá trị được giữ gìn và phát triển ở đối tượng
giáo dục. Nhiệm vụ GDVHHĐ phải đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất để các giá trị
truyền thống tốt đẹp được nảy nở, sinh sôi và lan toả. Mỗi cá nhân nếu được tạo
điều kiện để phát triển các giá trị tốt đẹp sẽ tạo ra sự cộng hưởng của một môi
trường sống lành mạnh, có tác dụng tích cực đến đời sống xã hội.
- Nguyên tắc đảm bảo xây dựng và phát triển phải đi đôi với xoá bỏ, ngăn
chặn các tiêu cực ảnh hưởng đến VHHĐ. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quan
điểm khi giải quyết vấn đề GDVHHĐ phải đảm bảo sự biện chứng giữa xây và
chống, giữa phát triển và ngăn chặn, tăng cường khả năng kháng thể của các chủ
thể trước tác động xấu của môi trường là yếu tố quan trọng và quyết định. Có sự
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nhà trường với phát triển môi trường kinh tế xã
hội địa phương trong việc xây dựng một xã hội học tập, một môi trường sống
văn minh.
- Nguyên tắc đảm bảo phát huy vai trò chủ thể của giảng viên và sinh viên.
Yếu tố trung tâm trong xây dựng VHHĐ là con người. Phát huy được tính tự
giác tích cực của các chủ thể sẽ tạo động lực to lớn đối với nhiệm vụ nâng cao
HQVHHĐ.
Dựa vào những cơ sở khoa học trên, luận án đưa ra các nhóm giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ
thuật ở Hà Nội hiện nay như sau:
135
4.2.1. Nhóm giải pháp nhận thức
Giải pháp 1: Tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của dư luận xã hội
trong việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa học
đường trong trường đại học
Hiện nay, nhận thức chung về văn hóa nói chung và VHHĐ nói riêng của
nhà quản lý giáo dục, giảng viên, viên chức phục vụ đào tạo, sinh viên trong các
trường đại học chưa cao. Hệ quả là nhiều biểu hiện tiêu cực trong nhà trường
chưa được ngăn chặn, một số hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên của các trường
đại học chỉ cầm chừng, nhằm hoàn thành nhiệm vụ.
Vấn đề tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc xây dựng VHHĐ trong các trường đại học có ý nghĩa to lớn. Điều này rất
cần thiết vì thực chất đây là hoạt động nhằm tạo ra sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện
về môi trường VHHĐ cho các thành viên trong nhà trường qua đó sinh viên,
thầy cô cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên... hình thành thái độ đúng đắn đối với
những giá trị, chuẩn mực, mục tiêu phát triển của nhà trường, bồi đắp các quan
hệ giữa các thành viên trong nhà trường theo hướng tích cực. Phát huy được vai
trò tích cực của chủ thể, đối tượng trong thực hiện VHHĐ trong trường đại học,
việc làm này sẽ làm cho hiệu quả GDVHHĐ ngày càng cao và phát triển theo
chiều sâu, góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu đào tạo của nhà
trường cũng như khẳng định được thương hiệu của trường với xã hội. Đây là
việc làm đòi hỏi sự linh hoạt, nhuần nhuyễn thông qua các phương pháp, hình
thức GDVHHĐ phù hợp với điều kiện từng trường. Trong đó, cần lưu ý những
điểm sau:
- Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển văn hóa, đổi mới giáo dục, xây dựng môi trường văn hóa, môi trường
giáo dục... tạo điều kiện xây dựng lối sống và con người mới theo những
chuẩn mực mà xã hội yêu cầu. Nâng cao nhận thức cho giảng viên, sinh viên,
cán bộ công nhân viên nhà trường về vị thế, vai trò của VHHĐ đối với sự
phát triển của nhà trường.
- Tổ chức, vận động hình thành các phong trào sinh viên hướng tới các
nhiệm vụ xây dựng VHHĐ, tiến hành xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí, nội
dung về VHHĐ. Trên cơ sở đó ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập của các tệ
136
nạn xã hội vào nhà trường, tạo lập môi trường VHHĐ lành mạnh, an toàn, bền
vững.
- Bằng dư luận xã hội: Tạo dư luận xã hội rộng rãi nhằm ủng hộ việc xây
dựng môi trường VHHĐ lành mạnh, phê phán, đấu tranh chống lại các biểu hiện
không lành mạnh trong nhà trường, từ đó định hướng các nội dung cần đạt tới
trong nhiệm vụ xây dựng môi trường VHHĐ đại học;
- Thông qua các cơ quan báo chí, phát thanh - truyền hình, tổ chức tuyên
truyền bằng cách tăng thêm bài viết, các chuyên mục, các phóng sự ảnh mang
tính chất tuyên truyền về nếp sống văn hóa, các điển hình đấu tranh phòng chống
tệ nạn xã hội.
- Thông qua mạng Intemet: Đặc biệt coi trọng vai trò, tác dụng của website
các trường đại học trong việc cung cấp thông tin, tuyên truyền, thông báo nội
dung các hoạt động, biểu dương các cá nhân điển hình, tập thể tiên tiến…
Giải pháp 2: Ban hành quy định, xác lập các tiêu chí về văn hóa học
đường, thực hiện văn hóa học đường lành mạnh trong trường đại học
Đây là giải pháp nhằm tác động vào những điều kiện trực tiếp, quy trình cụ
thể, nội dung chi tiết của VHHĐ trong trường đại học. Về phía bộ chủ quản - Bộ
Giáo dục - Đào tạo cần có một văn bản pháp quy, quy định những nội dung về
xây dựng môi trường VHHĐ, những quy tắc, chuẩn mực cơ bản trong trường đại
học vừa mang tính định hướng, chỉ đạo, vừa gợi mở những giải pháp tổng thể
cho hoạt động này. Ở cấp trường, trên cơ sở định hướng mỗi trường phải xây
dựng kế hoạch (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), ban hành nội quy, quy chế, xác
lập các tiêu chí cụ thể về VHHĐ ở trường mình một cách sát thực và phát huy
được hiệu quả cao nhất.
Để đạt hiệu quả cao khi thực hiện giải pháp này, cần lưu ý:
- Bảo đảm tính kế hoạch của quá trình xây dựng nội dung và hoạt động
GDVHHĐ. Tổ chức thực hiện bằng nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quá trình
GDVHHĐ được tiến hành một cách khoa học, đồng bộ. Việc đảm bảo tính kế
hoạch phải được cân nhắc ở tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện,
kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm.
- Bảo đảm tính hiệu lực của các quy định về xây dựng VHHĐ. Đây là yêu
cầu nhằm làm cho quá trình xây dựng môi trường VHHĐ trong trường đại học từ
“khả thi” trở thành “thực thi” cao. Điều này được thể hiện ở sự hợp lý trong việc
137
sắp xếp các quy định, yêu cầu các đối tượng phải thực hiện. Sự bao quát trong
các nội dung, sự đa dạng trong các chế tài (bao gồm khen thưởng - kỷ luật, biểu
dương - phê phán, giáo dục - hành chính...) và sự cân đối trong các phần của quy
định để tạo ra sự đồng thuận, sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình tiến giáo
dục và đánh giá hiệu quả của VHHĐ mang lại.
- Bảo đảm tính chuẩn mực của các tiêu chí về VHHĐ trong trường đại học.
Việc đưa ra các tiêu chí trong giáo dục và thực hiện VHHĐ đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu kỹ lưỡng điều kiện thực tế của nhà trường ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Tính chuẩn mực sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc áp dụng thành công các
tiêu chí vào công tác đánh giá, bình xét các danh hiệu đảm bảo sự công minh,
dân chủ cho các chủ thể, đối tượng có thành tích trong quá trình xây dựng, thực
hiện VHHĐ.
- Xây dựng các nội quy, hoàn thiện nội dung VHHĐ để điều chỉnh nhận
thức của sinh viên, hình thành nên những chuẩn mực về văn hoá đạo đức phù
hợp với lứa tuổi sinh viên. Kết hợp với các nội quy, quy chế của sinh viên do Bộ
giáo dục ban hành để soạn thảo ra nội quy, quy chế cho phù hợp với điều kiện
học tập sinh hoạt và đặc thù của từng trường. Việc xây dựng và hình thành các
quy chế, quy định, chuẩn mực về văn hoá, đạo đức trong các trường đại học cần
đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Các quy chế đó phải có tác dụng nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ
hành vi của sinh viên trong mọi hoạt động. Tạo ra sự ràng buộc bởi những chế
độ khen thưởng kỷ luật để sinh viên phải tham gia.
+ Nội dung quy chế, quy định cần hướng vào đạo đức, lối sống, thái độ
hành vi ứng xử của sinh viên trong các mối quan hệ nhà trường, phải thiết thực,
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường và phù hợp với điều kiện phát
triển xã hội.
+ Phải phù hợp với pháp luật hiện hành, các chuẩn mực về đạo đức và văn
hoá chung của dân tộc.
+ Các quy định, quy tắc phải cụ thể rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện.
Giải pháp 3: Phối hợp giữa nhà trường với chính quyền, gia đình và xã hội
trong giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên
Trong nền kinh tế thị trường, sinh viên đang trở thành một trong những đối
tượng được các tổ chức kinh tế, đơn vị kinh doanh hướng tới với tư cách là
138
những khách hàng của họ. Theo đó, những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu
cầu của sinh viên ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại và cách thức phục
vụ. Với những chương trình khuyến mại hấp dẫn, nhiều cơ sở kinh doanh, tụ
điểm vui chơi giải trí, hàng quán đang thu hút một lượng không nhỏ những sinh
viên. Ngoài những tiện ích, mặt tích cực do các dịch vụ này mang lại, cũng có
những mặt trái rất đáng lưu tâm như tổ chức cá độ, thách đố tiền bạc, cho ghi nợ
để rồi “bắt nợ”, cầm đồ dưới hình thức cho vay nặng lãi... Đó là chưa kể những
cơ sở kinh doanh, tụ điểm vui chơi giải trí trá hình, bên trong là những hoạt động
không lành mạnh luôn sẵn sàng đón những sinh viên thiếu ý chí, đua đòi với
những trò tiêu khiển bệnh hoạn, những cuộc chơi bạc triệu thâu đêm, bỏ bê học
hành, phấn đấu trở thành người có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Chính bởi
vậy, cùng với sự chú trọng xây dựng môi trường VHHĐ bên trong nhà trường,
cần có sự phối hợp giữa nhà trường với chính quyền sở tại, đặc biệt là công an,
đoàn thanh niên, đội trật tự của Tổ dân phố để quản lý, giám sát các cơ sở, tụ
điểm vui chơi, giải trí cũng như những hàng quán đang hoạt động xung quanh
các trường đại học.
- Trong quá trình định hướng và phát triển nhân cách sinh viên, mối quan
hệ giữa nhà trường - gia đình - xã hội là môi trường sống, môi trường giáo dục
suốt đời đối với sinh viên, nếu phối hợp tốt thì giáo dục đạo đức cho sinh viên sẽ
đạt hiệu quả tốt. Gia đình là môi trường đầu tiên vào đời của mỗi con người.
Trong gia đình, mỗi cá nhân được học những kinh nghiệm sống, những tri thức,
những cách thức ứng xử đầu tiên của mình, mỗi con người lớn lên trong tình
cảm, sự thương yêu quan tâm, chăm sóc của người thân. Họ không chỉ được học
cách ứng xử trong gia đình, mà còn được giáo dục cách ứng xử với các quan hệ
xã hội thông qua kinh nghiệm của người thân.
- Đối với tuổi trẻ đặc biệt là sinh viên thì giáo dục nhà trường là sự tiếp tục
của giáo dục gia đình. Ở đó giáo dục đạo đức được kết hợp với nhiều loại hình
giáo dục khác nhau nhằm phát triển hoàn thiện nhân cách. Giáo dục nhà trường
là giáo dục có bài bản, hệ thống nhất được chọn lọc và đạt chuẩn mực vì thế đây
được xem là con đường ngắn nhất, trực tiếp nhất để giáo dục những giá trị nhân
văn, giáo dục nhân cách, lối sống cho sinh viên phù hợp với yêu cầu của xã hội.
- Giáo dục xã hội là sự tiếp tục của giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường,
nó sẽ củng cố và làm phong phú thêm những điều con người học được ở nhà
trường và gia đình. Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội là
139
những lĩnh vực không đứng biệt lập mà là những vòng quay đồng tâm kế tiếp và
giao thoa nhau của sự nghiệp giáo dục con người phát triển toàn diện cả Đức,
Trí, Thể, Mỹ đặc biệt là cho thế hệ trẻ thanh niên, sinh viên.
- Sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường thể hiện ở việc cùng hợp tác, cùng
trao đổi thông tin để nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình, môi
trường sống của sinh viên từ đó tìm ra phương pháp tác động vào họ phù hợp
đem lại hiệu quả cao nhất. Gia đình phải thường xuyên quan tâm đến tâm tư, tình
cảm hay việc học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ứng xử trong các mối quan
hệ của con em mình, có liên hệ thường xuyên với nhà trường để kết hợp với nhà
trường uốn nắn những biểu hiện lệch chuẩn của con, em mình cũng như của
giảng viên, cán bộ công nhân viên. Đồng thời tôn trọng nội quy quy chế của các
ban ngành, của nhà trường, có thái độ đúng mực trong quan hệ với nhà trường
với giảng viên, giữ chữ tín cho thày cô, theo truyền thống tôn sư trọng đạo để
làm gương cho con em mình.
- Tăng cường phối hợp với các tổ chức xã hội, nhằm phát huy tiềm năng xã
hội hoá trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Vì phần lớn, thời gian của sinh
viên là học tập tại nhà và cộng đồng cư trú, nếu chỉ chú ý đến giáo dục đạo đức
tại trường thì chưa đủ ảnh hưởng tới việc hoàn thiện nhân cách cho sinh viên.
- Cần giáo dục thuần phong mỹ tục của cộng đồng cho sinh viên; tổ chức
việc đi tham quan thực tế, tìm hiểu lịch sử, phong tục tập quán tốt để tăng thêm
tình yêu quê hương đất nước.
4.2.2. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của chủ thể giáo dục văn hoá
học đường
Giải pháp 4: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu
nhà trường, phát huy vai trò của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các tổ chức
trong nhà trường vào hoạt động giáo dục văn hóa học đường.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong nhà trường đối với
công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trong đó có GDVHHĐ. Giải
pháp này đòi hỏi phải đưa nội dung GDVHHĐ vào nội dung hoạt động của nhà
trường. Những nội dung đó phải được cụ thể hóa thành những tiêu chuẩn, tiêu
chí để nhận xét, đánh giá khi phân tích chất lượng đảng viên, đoàn viên,
CBCNV, giảng viên, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của Đoàn, của chi bộ, Đảng
bộ nhà trường.
140
Xây dựng một cơ chế phù hợp để tăng cường sự quan tâm của Ban Giám
hiệu, các khoa chủ quản và các phòng, ban chức năng đến việc GDVHHD, xem
đây là nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Ban Giám
hiệu cần có cơ chế theo dõi thường xuyên các buổi họp cán bộ lớp trong toàn
trường để nghe phản hồi từ phía sinh viên về các mặt hoạt động của nhà trường
nhằm có những điều chỉnh, giải đáp kịp những thắc mắc của sinh viên.
Phối hợp chặt chẽ giữa khoa phụ trách giáo dục lý luận chính trị, pháp luật,
các môn KHXH&NV, phòng công tác sinh viên, Đoàn thanh niên; Hội sinh viên;
các khoa chủ quản trong việc GDVHHĐ cho sinh viên như: thành lập đội thanh
niên xung kích giám sát, nhắc nhở các đoàn viên, thanh niên của nhà trường thực
hiện nội quy, quy chế của nhà trường. Tạo cơ chế cho sinh viên được tham gia
vào việc xây dựng các tiêu chuẩn VHHĐ của nhà trường. Sinh viên có thể đánh
giá, góp ý xây dựng các mặt hoạt động của nhà trường. Các trường đại học vốn
có ưu thế về số lượng và chất lượng chủ thể, nếu biết phối hợp đồng bộ, kết hợp
với việc khơi dậy và phát huy tốt vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, giảng
viên, công nhân viên, các bộ phận, tổ chức, thì hoạt động GDVHHĐ sẽ thu được
hiệu quả cao. Hiện nay, một số trường chỉ đề cao sự phối hợp mà quên rằng để
phát huy được sức mạnh tổng hợp ấy trước hết mỗi tổ chức, cá nhân phải làm tốt
vai trò trách nhiệm của mình. Do có nhiều bộ phận, tổ chức, cá nhân cùng tham
gia GDVHHD cho sinh viên, trong khi hiệu quả lại mang tính định tính, trừu
tượng, khó đánh giá, nếu không xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chủ
thể dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, tranh công, đổ lỗi, rất khó quy
trách nhiệm cụ thể. Phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể không chỉ để mỗi
bộ phận, tổ chức, cá nhân thực thi trách nhiệm của mình một cách tự giác, chủ
động, tích cực mà còn là một giải pháp có ý nghĩa về mặt kinh tế vì nó không đòi
hỏi nhiều thời gian, công sức mà nhanh chóng mang lại cho hoạt động
GDVHHĐ một động lực mới. Bởi khi đã phân định rõ “người nào, việc ấy”,
từng chủ thể sẽ biết mình phải làm gì, phối hợp với ai để tiến hành GDVHHĐ
cho sinh viên mang lại hiệu quả cao nhất. Đây thực sự là một giải pháp thích hợp
để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học hiện nay.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức Đoàn rất phù hợp trong việc tổ
chức các hình thức giáo dục phong phú, linh hoạt, mềm dẻo như: tọa đàm, mạn
đàm, thi tìm hiểu, tổ chức các phong trào hành động cách mạng để giáo dục
chính trị - tư tưởng trong học viên. Do vậy, trách nhiệm của tổ chức Đoàn là làm
141
cho đoàn viên lĩnh hội nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng chủ yếu thông qua
con đường tình cảm và hành động thực tiễn, qua đó hình thành niềm tin vững
chắc ở sinh viên.
- Đoàn, Hội nên tổ chức những buổi nói chuyện, những trung tâm tư vấn,
giới thiệu việc làm cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên có thông tin nghề
nghiệp, việc làm và chọn nơi dự tuyển nhằm khắc phục khó khăn cho sinh viên
khi ra trường kiếm việc làm. Việc thực hiện cầu nối giữa đào tạo và sử dụng mà
Đoàn trường đã làm được sự ủng hộ của đông đảo sinh viên và xã hội. Nó đã góp
phần giúp sinh viên hoàn thiện nhân cách của mình trước những yêu cầu, đòi hỏi
của thị trường sức lao động và quan trọng hơn giúp họ có việc làm, tránh bị xô
đẩy, bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Đoàn trường cần phải:
- Tiếp tục phát động việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua
trong đoàn viên thanh niên. Gắn việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi
đua với nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên như làm
cho trường lớp xanh sạch đẹp, đổi mới phương pháp học tập, chăm sóc các di tích
lịch sử, văn hoá, đưa tiếng hát dân ca và trò chơi dân gian vào trường học...
- Đưa nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
vào giờ sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoại khóa...
- Có nhiều hình thức trong tố chức các hoạt động tập thể gắn với nội
dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên. Không nhất
thiết phải quá nặng nề, tham lam lồng ghép quá nhiều nội dung trong một tiết
sinh hoạt, ngoại khóa...mà chỉ nên làm sao cho nội dung xây dựng VHHĐ và
giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên được lồng ghép trở nên nhẹ nhàng, vừa
phải, thường xuyên.
- Tạo những sân chơi bổ ích, có sức thu hút mạnh đối với đoàn viên thanh
niên như: Tổ chức các câu lạc bộ (CLB bạn khéo tay; CLB sáng tạo khoa học;
CLB Ghi-ta...) để thông qua đó học sinh được bồi dưỡng, rèn luyện cũng như thế
hiện kỳ năng bản thân. Tạo dư luận tốt đế giúp đoàn viên thanh niên nhận thức,
tránh xa, biết tự vệ trước những việc làm xấu, thói xấu...
- Có sự động viên và khuyến khích kịp thời cá nhân và tập thể để khuyến
khích phong trào. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như diễn
đàn, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể thao, thi tìm hiểu những vấn đề chính trị,
văn hóa phù hợp đặc điểm, tâm lý của sinh viên.
142
- Tiếp tục đổi mới và phát triển phong trào "Thanh niên tình nguyện", "Mùa
hè xanh". Đưa phong trào "Thanh niên tình nguyện" thành một yêu cầu thực tế
ngoại khóa trong chương trình đào tạo đại học.
- Tăng thời gian đi tình nguyện không chỉ một tháng trong mùa hè mà có
thể rải rác các tháng trong năm học, với tất cả các sinh viên từ năm thứ hai đến
năm thứ tư. Trong những tháng đi tình nguyện như vậy để sinh viên tiếp cận với
thực tiễn chính trị - xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn, sinh viên
có cơ hội kiểm nghiệm những tri thức đã được tiếp thu trong trường đại học. Môi
trường thực tiễn chính là yếu điều kiện quan trọng để mỗi sinh viên thể hiện
nhân cách của mình.
- Thành lập các đội công tác có tính tổng hợp. Trong một đội có nhiều
thành viên ở các trường đại học hợp lại cùng giải quyết các vấn đề khó khăn tại
cơ sở đến làm tình nguyện. Như vậy sẽ tăng cường sự giao lưu giữa các trường
và đạt hiệu quả cao trong công tác này.
Trong quá trình triển khai các hoạt động chính trị - xã hội thực tiễn, Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên các trường dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám
hiệu cần có liên hệ chặt chẽ với Phòng Công tác chính trị, với Khoa Giáo dục lý
luận chính trị, Khoa chủ quản để có những hoạt động phối hợp trong toàn
trường, tăng HQGDVHHĐ cho sinh viên. Đoàn thanh niên phải là nhân tố đi đầu
trong xây dựng môi trường đại học trong sạch, kiểu mẫu của những người thanh
niên có học vấn cao.
Giải pháp 5: Nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên, tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng và đạo đức, lối sống cho sinh viên, khơi dậy ý thức tự giác
của sinh viên trong quá trình tự giáo dục và thực hiện văn hóa học đường
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là hoạt động có ý thức của chủ thể
giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm củng cố, phát triển, truyền bá học
thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó hình thành nên thế
giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận tiên tiến và khoa học, góp phần xây
dựng con người mới, quan hệ xã hội mới và nền văn hoá mới. Kết quả điều tra
về thực trạng đạo đức của sinh viên một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội
cho thấy tình trạng sa sút về đạo đức trong thế hệ sinh viên là rất đáng lo ngại.
Việc rèn luyện tư tưởng đạo đức bị tách khỏi hệ thống giáo dục toàn diện
trong nhà trường, sinh viên coi trọng việc học tập chuyên môn hơn việc tu dưỡng
143
đạo đức làm cho quan hệ giữa “đức” và “tài”, “hồng” và “chuyên” có nhiều dấu
hiệu lệch lạc, thậm chí thái quá, không đúng theo tư tưởng, đường lối mà Đảng,
xã hội định hướng. Trong khi cơ chế thị trường làm cho các quan hệ của con
người có nguy cơ bị đồng tiền làm tha hoá, thì việc xây dựng lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, yêu các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là việc cấp
bách và thiết thực. Soi sáng và định hướng các giá trị nhân cách, phẩm chất đạo
đức cũng như ngăn ngừa mọi sai lệch chuẩn mực đạo đức xã hội yeu cầu do tác
động mặt trái của cơ chế thị trường gây ra là việc làm cần thiết. Để từng bước
khắc phục hiện tượng này, cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, văn hóa. Trong đó coi trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống
văn hóa cho mọi thành viên trong nhà trường. Coi đó là yếu tố quan trọng hàng
đầu trong việc định hướng giá trị văn hoá đạo đức cho sinh viên.
Chủ thể GDVHHĐ cần phải:
+ Xác định rõ trách nhiệm, vai trò và sự đồng thuận trong nhận thức của
mọi thành viên trong trường (cán bộ QL, giảng viên, công nhân viên…) và các tổ
chức, đoàn thể đối với việc định hướng giáo dục đạo đức cho sinh viên. Có biện
pháp lôi cuốn, tạo ra sự phối hợp ăn ý giữa các thành viên, các tổ chức cùng
tham gia công tác này.
+ Nội dung giáo dục về văn hóa học đường được quán triệt trong nhà
trường được thể hiện trong kết cấu chương trình đào tạo, trong từng môn học. Ở
mỗi môn học, đặc biệt là những môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Pháp luật đại cương và các môn
KHXH&NV trong quá trình giảng dạy, học tập giảng viên phải làm rõ bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, làm rõ bản chất đạo đức cách mạng, lý tưởng cao
đẹp và nhân văn trong đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Giúp cho sinh viên tìm thấy trong mỗi môn học nội dung làm phát triển nhân
cách cá nhân, là phương tiện để tiếp cận chân lý, là công cụ để chủ động tạo ra
những giá trị đạo đức, thái độ, hành vi ứng xử văn hóa, có ích cho bản thân và
cho xã hội. Phối hợp các hình thức hoạt động, các môn học trong nhà trường để
tạo ra một môi trường giáo dục toàn diện về “dạy người”,“dạy nghề”. Văn hoá
học đường cũng được thể hiện trong nội dung của những môn học chuyên môn
khác như thiết kế, công nghệ mới, lập trình, kỹ năng nghề. Nó cũng có thể thiết
kế thành những chuyên đề riêng được thể hiện dưới nhiều hình thức như chuyên
đề về giá trị văn hoá truyền thống, đạo đức, lối sống, phẩm chất nhân cách…
144
cũng có thể là những chuyên đề gắn liền với ngành nghề chuyên môn như đạo
đức, văn hóa kinh doanh, văn hóa trong doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa trong
kinh doanh du lịch, đạo đức, văn hóa báo chí.. , đề cập tới những phẩm chất
chuyên biệt của từng ngành nghề. Bên cạnh đó các trường phải đẩy mạnh công
tác giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc cho
sinh viên.
- Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy những môn khoa học về
chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và KHXH&NV… Quán triệt,
tuyên truyền và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước,
đồng thời tự giác thực hiện nội quy, quy chế của nhà trường, của Bộ Giáo dục -
Đào tạo.
- Tiếp tục tuyên truyền quán triệt sâu rộng trong cán bộ quản lý, công nhân
viên, giảng viên và sinh viên của nhà trường nội dung các nghị quyết của Đảng
về đường lối phát triển đất nước nói chung, chiến lược phát triển giáo dục, Luật
Giáo dục. Đẩy mạnh các phong trào thi đua học tốt, dạy tốt, phục vụ tốt, thi cử
nghiêm túc, nghiên cứu khoa học vì ngày mai lập nghiệp, vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Lãnh đạo nhà trường phải thực sự là những người tâm huyết với sự nghiệp
giáo dục, đào tạo nói chung, với mục tiêu đào tạo nghề của nhà trường nói riêng.
Đó phải là những người gần gũi, chia sẻ với CB, giảng viên và sinh viên trong
cuộc sống cũng như trong các họat động khác của nhà trường.
- Phải có đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, có lương tâm,
trách nhiệm, lao động hết mình để thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Muốn làm được điều này thì thầy, cô giáo phải là những người có bề dày kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm giảng dạy, gương mẫu trong thực hiện nội quy, quy
chế của nhà trường và được sinh viên kính phục.
Sinh viên cần chủ động trong quá trình tự giáo dục:
+ Không ngừng nâng cao nhận thức về chính trị xã hội, xác định rõ trách
nhiệm, nghĩa vụ của sinh viên với nhà trường, Tổ quốc, gia đình và với chính
bản thân.
+ Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, kỹ năng nghề
nghiệp mà họ đang được đào tạo ở trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết
thực cho sự phát triển của cá nhân và xã hội.
145
+ Nhận thức được các phẩm chất nhân cách: tự chủ, sáng tạo, kỷ luật,
giàu lòng nhân ái, dấn thân, yêu nước, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng
đất nước ngày càng phát triển, ổn định và hội nhập tốt, có nếp sống lành
mạnh, chuẩn mực, phù hợp…là những giá trị cao quý của con người mà xã
hội đang đòi hỏi.
+ Nhận thức được rằng nếu lĩnh hội được, rèn luyện được, những giá trị
phẩm chất nêu trên là đã tự rèn luyện năng lực phẩm chất cho mình, đóng góp tài
năng sức lực vào xây dựng xã hội văn minh, giàu đẹp.
Nhân cách của sinh viên được hình thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
những tác động bên ngoài và sự hoạt động mỗi sinh viên. Nói cách khác, những
nội dung giáo dục của nhà trường chỉ trở thành hiện thực khi sinh viên tự giác
tham gia thực hiện. Để nâng cao tính tự giác rèn luyện, thực hiện VHHĐ của
sinh viên, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu như:
- Làm cho mỗi sinh viên nhận thức và nắm chắc nội dung của VHHĐ và
xem đó là điều kiện không thể thiếu khi đã là sinh viên của nhà trường. Có thể tổ
chức các buổi hội thảo cho sinh viên về VHHĐ để nâng cao nhận thức của mỗi
sinh viên.
- Cần có biện pháp mạnh, có quy định thưởng, phạt rõ ràng, nghiêm minh
cho những hành vi tích cực cũng như tiêu cực của sinh viên trong thực hiện
VHHĐ. Chẳng hạn tại chương V, từ điều 18 đến điều 22 của quy chế học sinh
sinh viên quy định về thi đua khen thưởng đối với cá nhân và tập thể lớp học
sinh sinh viên quy định rõ những nội dung khen thưởng và các danh hiệu khen
thưởng đối với học sinh sinh viên, hoặc quy định về một số nội dung vi phạm và
khung xử lý kỷ luật, ví dụ nội dung 3 quy định sinh viên có hành vi vô lễ với
thầy, cô giáo và CBCNV nhà trường, tùy theo mức độ, xử lý từ khiển trách đến
buộc thôi học; nội dung 13 quy định sinh viên tàng trữ, lưu hành, truy cập, sử
dụng sản phẩm văn hóa đồi trụy hoặc tham gia các hoạt động mê tín dị đoan,
hoạt động tôn giáo trái phép lần thứ 3 (tính trong cả khóa học) thì đình chỉ học
tập một năm, nếu nghiêm trọng giao cơ quan chức năng xử lý theo quy định của
pháp luật .
- Cần phát động phong trào thi đua giữa các lớp, các chi đoàn trong việc
thực hiện VHHĐ. Tổ chức các họat động có nội dung GDVHHĐ cho sinh viên
như thi thời trang sinh viên, thi kể chuyện, thi ứng xử, thi phòng ở kiểu mẫu.
Giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên phải được xem là một trong những
146
tiêu chí để đánh giá sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện. Hoạt động này
cần được phân tích công khai, dân chủ trong sinh hoạt lớp.
4.2.3. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện và huy động các nguồn lực cho hoạt động giáo dục văn hóa
học đường
Giải pháp 6: Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục văn hóa học đường
phù hợp với mục đích giáo dục
Nội dung GDVHHĐ là những nội quy, quy định, những chuẩn mực phù
hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường và những giá trị tốt đẹp trong truyền
thống dân tộc, vì thế cải tiến nội dung (trong đó có tăng cường giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống) cần chú ý:
- Nâng cao tính thiết thực của nội dung. Hiệu quả tinh thần của GDVHHĐ
là đối tượng phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc “4 chữ H” (Học - Hỏi -
Hiểu - Hành) với ý nghĩa: Học: để biết cách học như thế nào, học để biết cách
hỏi; Hỏi: hỏi để hiểu; Hiểu: để biết cách làm (biết tập hợp, xử lý, khai thác thông
tin), hiểu đúng để thực hành đúng; Hành: hành đúng mới mang lại hiệu quả. Nói
cách khác, “Học - Hỏi - Hiểu - Hành” là nền tảng để con người thể hiện và thực
hiện trách nhiệm công dân của mình. Hình thành những phẩm chất tốt đẹp mang
tính nhân văn mà con người có được đều được bắt nguồn từ nội dung tri thức, kỹ
năng được truyền tải. Đây không chỉ là nét đẹp văn hóa, mà còn là mục tiêu, là
nội dung hoạt động của giáo dục văn hóa học đường và giáo dục của nhà trường.
Để sinh viên hiểu, tin tưởng đòi hỏi trong quá trình GDVHHĐ là phải chuyển tải
những kiến thức, những bài học kinh nghiệm thực tiễn đúng đắn đã có hiệu quả
trong thực tế, phù hợp, thuyết phục theo nguyên tắc vừa sức, gây ấn tượng và tác
động trực tiếp vào tình cảm của đối tượng.
- Nâng cao tính ứng dụng của nội dung. Nội dung giáo dục về VHHĐ cho
sinh viên có nhiều nhưng lại chung chung, hình thức, hô hào không sát thực với
đối tượng, vì vậy khó ứng dụng trong thực tế học tập, rèn luyện của sinh viên,
không mang lại thêm sự hiểu biết, thực hành để củng cố sự tin tưởng vào nội
dung được cung cấp, để thay đổi thái độ, hành vi của đối tượng cho đúng chuẩn
147
mực và phù hợp với mục tiêu giáo dục, đây là một sự lãng phí. Hiện nay, so sánh
giữa mục tiêu đề ra với hiện thực VHHĐ trong trường đại học đang có khoảng
cách. Sự khác biệt ấy chứng tỏ tính ứng dụng của nội dung được giáo dục hiệu
quả còn thấp, nội dung giáo dục chưa sát thực, chưa phù hợp.
Tính ứng dụng của nội dung (tri thức) còn biểu hiện ở chỗ nó phải là cơ sở
giúp sinh viên lý giải, đánh giá và có thái độ đúng trước các hiện tượng, hành vi
văn hóa hay vô văn hóa trong nhà trường hay trong xã hội qua đó rút kinh
nghiệm cho cá nhân, tập thể. Do đó, nội dung giáo dục cần cụ thể hoá phù hợp
với từng đối tượng, hoàn cảnh, môi trường cụ thể, tránh chung chung, không phù
hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đối tượng, liên hệ thực tiễn và đưa ra những
tình huống và hệ quả để cùng trao đổi, bàn luận qua đó rút ra kết luận.
- Xây dựng mối quan hệ ứng xử, lối sống phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức
mới. Qua điều tra các trường đại học ở Hà Nội cho thấy: các mối quan hệ của
sinh viên với sinh viên, sinh viên với giảng viên đã có chiều hướng xấu đi. Như
sinh viên không thường xuyên quan tâm giúp đỡ nhau, thờ ơ với thái độ, hành vi
vô văn hóa, tiêu cực diễn ra trong trường học hay đối với bạn mình. Đã có những
biểu hiện của lối sống vị kỷ, ăn chơi, cờ bạc, nghiện hút… trong đời sống sinh
viên. Đối với giảng viên họ thiếu sự tôn trọng nghề nghiệp và nhân cách người
thày, nhiều sinh viên cho là giảng viên chưa phải là tấm gương sáng về nhân
cách đạo đức. Bởi vậy cần xây dựng mối quan hệ ứng xử, lối sống cho sinh viên.
Chủ động uốn nắn các ảnh hưởng tự phát trong điều kiện kinh tế thị trường, hội
nhập văn hóa hiện nay, nghĩa là uốn nắn giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên
theo định hướng, chủ trương của Đảng, của xã hội vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam phát triển bền vững, hội nhập tốt. Phải giáo dục cho sinh viên luôn ý
thức tự lực, tự cường, chủ động trong học tập, nghiên cứu khoa học và các hoạt
động thực tiễn.
- Chống những hành vi sùng bái đồng tiền, làm giàu bất chính, chống chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết mình mà không biết người, không quan
tâm đến cộng động, đến lợi ích xã hội.
Phương pháp tác động tích cực nhất đến quá trình biến đổi thái độ, hành vi
VHHĐ ở sinh viên đó là phương pháp "nêu gương" của thầy của bạn. Phương
pháp "nêu gương" có thể được hiểu:
148
Một là, nêu những tấm gương về đạo đức lối sống trong sáng, cao thượng, tấm
gương những nhà khoa học tài ba... để sinh viên học tập và noi theo.
Hai là, tấm gương phản chiếu có tác dụng giáo dục sống động nhất đó
chính là người thầy. Thầy, cô giáo trước hết phải là một chủ thể giáo dục mẫu
mực về đạo đức và trí tuệ, mẫu mực về phong cách làm việc... Trong giảng dạy,
sinh viên học được thái độ nghiêm túc và cầu thị khoa học, học được tính dân
chủ trong đối thoại, biết lắng nghe người khác và biết bảo vệ chính kiến của
mình... Sinh viên cảm thấy không bị gò ép, tự tin khi đối thoại với thầy.
Đa dạng hoá và sáng tạo hình thức GDVHHĐ gây hứng thú đối với sinh
viên. GDVHHĐ cho sinh viên có rất nhiều hình thức, mỗi nhóm hình thức có ưu
thế hạn chế khác nhau, sử dụng kết hợp các nhóm hình thức là tăng cường hiệu
quả, phát huy ưu thế và khắc phục các hạn chế của chúng. Do vị trí, vai trò, tác
dụng của các hình thức khác nhau, vì vậy trong kết hợp phải xác định rõ hình
thức chính, phụ để đầu tư thích đáng về nội dung, phương tiện, thời gian và công
sức. Yêu cầu của sự kết hợp là phải hài hoà, nhuần nhuyễn, phát huy được điểm
mạnh của từng hình thức mà không triệt tiêu, hạn chế hiệu quả lẫn nhau, đặc biệt
phải bảo đảm sự thống nhất về mặt nội dung giáo dục.
Sử dụng kết hợp các hình thức giáo dục mang lại hiệu quả rõ rệt nhưng sự
kết hợp đó phải tuân thủ các quy luật nhận thức, kích thích sự hứng thú từ đối
tượng tiếp nhận nội dung tích cực, hiệu quả, củng cố sự tin tưởng vững chắc vào
nội dung được cung cấp. Cần tránh xu hướng sử dụng nhiều hình thức cốt để lấy
thành tích mà không lấy hiệu quả giáo dục làm tiêu chuẩn.
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động giảng dạy, học tập, rèn
luyện và vui chơi của giảng viên, sinh viên trong trường các trường đại học đồng
thời ứng dụng các phương pháp giáo dục hiện đại vào GDVHHD cho sinh viên.
Để sinh viên ghi nhớ được nội dung, nội dung đó phải được thường xuyên xuất
hiện, lặp đi, lặp lại nhiều lần và được vận dụng vào thực tiễn đời sống của sinh
viên. Vì vậy khi giáo dục các nội dung về VHHĐ cần tích cực áp dụng các
phương pháp như: nêu vấn đề, tham dự, tranh luận, đối thoại, đóng vai, giải
quyết tình huống VHHĐ giả định để sinh viên tự rút kinh nghiệm và thực hiện
nó theo một cách tự giác. Đánh giá hiệu quả của nội dung giáo dục thông qua
thái độ và hành vi của sinh viên khi tham gia các hoạt động thực tế của họ.
Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp GDVHHĐ cho sinh viên là một
vấn đề không đơn giản, đòi hỏi nhiều tâm huyết, trí tuệ, thời gian và công sức.
149
Tuy nhiên, nếu chủ thể luôn bám sát mục tiêu giáo dục ở bậc đại học, đến phát
triển nhân cách, kỹ năng của nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, sẽ luôn trăn trở tìm tòi, phát kiến
nhiều cách thức mới, cách làm hay giúp cho sinh viên lĩnh hội kiến thức không
chỉ bằng yêu cầu của lý trí mà bằng cả trái tim nhiệt huyết của họ.
Giải pháp 7: Đổi mới phương tiện giáo dục và huy động hợp lý các nguồn
lực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường.
Tăng cường quản lý, sử dụng hợp lý các phương tiện, cơ sở vật chất, thời
gian, kinh phí cho hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên. Ở nhiều trường đại học,
nguồn nhân lực, kinh phí dành cho các hoạt động VHHĐ còn thiếu và ít ỏi, điều
đó dẫn đến việc nhiều hoạt động VHHĐ diễn ra trong tình trạng cắt xén nội
dung, rút ngắn thời gian và hạn chế về số lượng cá nhân, tập thể tham gia. Từ đó
dẫn đến chất lượng chung của chương trình không cao, nhiều hoạt động không
thu hút được đông sinh viên tham gia (trong đó có các hoạt động thiết thực như
hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, sinh hoạt câu lạc bộ...). Tăng cường
nguồn nhân lực cho những hoạt động VHHĐ không thể tách rời việc tăng mức
kinh phí cho các hoạt động đó. Đội ngũ cán bộ, chuyên viên có trình độ, năng
lực tổ chức các hoạt động VHHĐ với những chính sách đãi ngộ hợp lý sẽ là yếu
tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng môi trường VHHĐ đạt hiệu quả cao.
Tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động giáo dục văn hóa học đường
Trên cơ sở một đội ngũ cán bộ, nhân viên được bố trí hợp lý, kinh phí hoạt
động được đầu tư đúng mức cũng như từ việc thu hút các nhà tài trợ, trường đại
học sẽ có đủ điều kiện để phát huy vai trò của mình thông qua các hoạt động đa
dạng, phong phú, có chất lượng. Việc tăng cường nhân sự và kinh phí hoạt động
cho nhà văn hóa, thư viện vừa là động lực thúc đẩy quá trình xây dựng VHHĐ
vừa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường một cách toàn diện.
Đổi mới hình thức phương pháp giáo dục hiện nay luôn gắn với quá trình
đổi mới thiết bị và phương tiện dạy học. Để khắc phục tính một chiều, đơn điệu,
trừu tượng của phương pháp thuyết trình, diễn giảng truyền thống cần phải
chuyển căn bản phương tiện phục vụ giảng dạy từ phấn bảng là chủ yếu bằng các
phương tiện nghe nhìn hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, đổi
mới thiết bị trường học. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại đã cho phép
phương pháp dạy học có sự đổi mới theo hướng chuyển trọng tâm từ truyền đạt
150
sang trọng tâm là tổ chức, điều khiển, nhờ đó kích thích mạnh mẽ tính tích cực
nhận thức của sinh viên, nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, hiện đại hoá
phương tiện dạy học không có nghĩa là chỉ quan tâm đầu tư, mua sắm nhiều
phương tiện hiện đại, mà quan trọng nhất là quản lý, sử dụng và phát huy hiệu
quả của chúng.
- Khai thác có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hoá nhằm đa dạng hoá hình
thức GDVHHĐ. Thiết chế văn hoá ở các trường đại học bao gồm: nhà văn hoá
sinh viên, trung tâm thể thao đa năng, hệ thống thư viện thuyền thống và thư
viện điện tử, phòng truyền thống, hệ thống panô, áp phích, truyền thanh, truyền
hình, chiếu phim, báo chí, các câu lạc bộ ... Các trường đại học cần tận dụng tối
đa các thiết chế đó để tổ chức những hình thức vui chơi, giải trí trong những giờ
nghỉ, sinh hoạt cá nhân để GDVHHĐ với những mức độ phù hợp, nhẹ nhàng
nhưng có hiệu quả.
Ở các trường đại học, hệ thống truyền thanh nội bộ là một hình thức tuyên
truyền giáo dục có hiệu quả cao trong những giờ thể thao, sinh hoạt cá nhân,
v.v... cần phải bảo đảm chất lượng phát cả về nội dung và âm thanh. Nên nghiên
cứu bố trí thời gian phát phù hợp với không gian và tính chất thời gian biểu học
tập của sinh viên. Đồng thời cần thiết kế nội dung thông tin sao cho vừa có tác
dụng giải trí, vừa mang đặc trưng riêng của từng trường, vừa đạt hiệu quả
GDVHHĐ cao. Nên có quy chế về viết tin bài, thiết kế chương trình nội dung cụ
thể theo hướng vừa phát động phong trào, vừa giao chỉ tiêu cho các bộ phận
chức năng nhằm khai thác triệt để tiềm năng các thành phần chủ thể giáo dục.
Duy trì nghiêm túc nền nếp xem chương trình thời sự trên truyền hình. Các
chương trình truyền hình trực tiếp lễ kỷ niệm, các sự kiện chính trị lớn, quan
trọng trong đời sống chính trị của đất nước, quốc tế hoặc những chương trình có
tính giáo dục truyền thống, tri thức nghề nghiệp liên quan mật thiết với sinh viên
nếu không tổ chức cho sinh viên xem trực tiếp được, có thể ghi để phát lại.
- Sử dụng tiết kiệm, hợp lý thời gian, kinh phí cho các hình thức giáo dục
ngoại khoá và công tác giáo dục chính trị tại đơn vị.
Thời gian tập trung hoạt động chính của nhà trường và sinh viên là thực
hiện chương trình, mục tiêu đào tạo nghề nghiệp và tự nghiên cứu, của giảng
viên và sinh viên đã được tính toán và bố trí căng chiếm gần như toàn bộ thời
gian. Các hoạt động giáo dục chính trị - tư tưởng, văn hóa xã hội như: nghe thời
151
sự, xem phim, biểu diễn nghệ thuật... dễ bị bỏ qua vì lý do sinh viên tập trung
thời gian cho ôn tập, thi cử. Để khắc phục tình trạng thiếu thời gian phải bắt đầu
từ quan niệm phải xem GDVHHĐ là một hoạt động chính góp phần hiệu quả
vào quá trình thực hiện mục tiêu, sứ mệnh giáo dục, đào tạo của nhà trường.
Trong đó, nhận thức của ban giám hiệu các trường, phòng đào tạo có ý nghĩa
quan trọng trong việc bố trí kế hoạch giảng dạy theo chương trình khung một
cách linh hoạt.
Các trường đại học cần sử dụng quỹ thời gian dự trữ trong kế hoạch đào
tạo hàng năm cho GDVHHĐ một cách nghiêm túc, đúng mục đích và có kế
hoạch cụ thể. Không nên cắt xén thời gian học tập chuyên môn, nghị quyết,
chuyên đề đã được quy định. Ngoài ra cần quan tâm bố trí quỹ thời gian thời
gian thoả đáng cho sinh viên viên tham gia các hoạt động ngoại khoá như: tham
quan, dã ngoại, giao lưu, văn hoá văn nghệ, hội thi, hội thao... nhằm mang lại
hiệu quả cao nhất. Các trường đại học cần quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí phục
vụ cho hoạt động GDVHHĐ. Đặc biệt cần giám sát sử dụng nguồn kinh phí trên
đúng mục đích, tiết kiệm hiệu quả.
- Giáo dục, xây dựng môi trường văn hoá trong trường đại học, bao hàm
trong đó có các hoạt động văn hoá nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị,
văn hóa, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Trên thực tế, sinh viên các trường đều
phản ánh về tình trạng chất lượng các hoạt động văn hoá ở các trường chưa cao,
ngoài ra còn chưa được sự quan tâm của các tổ chức, đoàn thể, lãnh đạo quản lý
nhà trường. Dẫn đến tình trạng sinh viên ít tham gia thường xuyên và không
đánh giá cao về nội dung các hoạt động đó. Bởi vậy cần coi đây là nhiệm vụ giáo
dục thường xuyên của các trường, đi đôi với việc học tập chuyên môn các trường
cần tạo điều kiện để sinh viên tham gia các hoạt động văn hoá nhằm thực hiện
mục đích giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lầm phong phú đời sống tinh
thần của sinh viên.
Cần đa dạng hoá các hình thức hoạt động văn hoá, thể thao và các phong
trào của nhà trường, thu hút mạnh mẽ sinh viên tham gia vào các hoạt động đó
bằng nội dung phong phú, phù hợp với lứa tuổi và có ích cho phát triển toàn diện
của sinh viên. Tuyên truyền phổ biến rộng rãi về các kế hoạch tổ chức cũng như
152
dùng các khẩu hiệu panô, áp phích, thông báo trên loa, trên bản tin của trường,
và có thể gửi lịch tổ chức, mục đích cũng như nội dung lên các lớp thông qua
phòng quản lý sinh viên,sinh viên, khoa đào tạo, cố vấn học tập, giảng viên chủ
nhiệm, cán bộ lớp...
- Đối với các hoạt động tổ chức của trường về khai thác sử dụng các điều
kiện cơ sở vật chất, môi trường, các phong trào, về đấu tranh ngăn chặn, bài trừ
văn hoá đồi truỵ, phản động hoặc những văn hoá có ảnh hưởng đến thuần phong
mỹ tục của người Việt Nam, thông qua các việc cụ thể: củng cố xây dựng, khai
thác và sử dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật, các công trình văn hoá trong nhà
trường phục vụ đời sống văn hoá tinh thần. Với quy mô đào tạo ở các trường
tăng rất nhanh trong vòng mấy năm qua, nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của
sinh viên cũng ngày một cao thì số lượng sách, báo so với tổng sinh viên và diện
tích bình quân trên đầu người của các khu giảng đường, thư viện, khuôn viên,
vườn hoa... đều ở mức thấp. Nhiệm vụ trước mắt là phải khai thác tốt các nguồn
cơ sở vật chất mà hiện trường đang có, củng cố các cơ sở kỹ thuật phục vụ cho
nhu cầu cấp bách, tối thiểu của sinh viên. Không để xảy ra tình trạng đói văn hoá
trong sinh viên vì không có nơi tổ chức, sinh hoạt. Huy động tổng hợp nguồn lực
xã hội hóa, của nhà trường, của địa phương và nhà nước để xây dựng nâng cấp
các cơ sở văn hoá. Lập kế hoạch khai thác và sử dụng các công trình này một
cách hiệu quả nhất.
Các trường đại học cần phải:
- Tăng cường xây dựng, tu sửa, đầu tư cơ sở vật chất nhà trường như: nhà
đa năng, phòng học, khuôn viên, trang thiết bị phục vụ dạy học để tạo môi
trường văn hóa, từ đó tăng cường giáo dục học sinh biết tự hào, trân trọng, có ý
thức bảo vệ cơ sở vật chất của trường đang phục vụ cho việc học tập của mình.
- Cụ thể hóa nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh vào trong các nội qui, qui định của trường như: vấn đề bảo vệ tài sản, xây
dựng bồn hoa cây cảnh, chăm sóc cây xanh, xây dựng môi trường: Xanh- Sạch-
Đẹp; lối sống, tác phong, trang phục, ngôn ngữ giao tiếp, ứng xử...
- Tăng cường chỉ đạo các tổ chức đoàn thể trong trường tiến hành lồng
ghép vào trong tất cả các hoạt động của trường về nội dung xây dựng VHHĐ và
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
- Tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động và phong trào thi đua đó cũng chính
là góp phần tăng cường xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
153
- Mỗi một cán bộ, giảng viên nhân viên của trường phải thực sự gương mẫu
trong xây dựng VHHĐ thể hiện trong hành động như: Góp phần tu sửa, bảo vệ
cảnh quan, khuôn viên môi trường nhà trường, tiết kiệm điện nước, tác phong,
lối sống, trang phục, ngôn ngữ, giao tiếp đúng chuẩn mực nhà giáo, thực sự là
tấm gương cho học sinh noi theo. Sê không thế giáo dục tốt và hiệu quả cao khi
một giảng viên là người rời khỏi phòng cuối cùng nhưng không tắt điện hay một
giảng viên đứng lớp mặc áo pull - quần Jean lại đi nhắc nhở, khiển trách học sinh
vi phạm trang phục học đường... Đồng thời mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên
phải là người biết giữ vệ sinh chung trong môi trường sư phạm, phải nâng cao ý
thức tự giác về việc này: Không xả rác bừa bãi trong phòng đợi, giữ gìn vệ sinh
chung... Những việc làm tuy đơn giản nhưng đòi hỏi phải có một ý thức thực sự.
- Giảng viên chủ nhiệm cần phải tăng cường giáo dục học sinh nâng cao ý
thức xây dựng VHHĐ, giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động của công tác chủ
nhiệm như ý thức bảo vệ môi trường, tài sản, chăm sóc cây xanh, tu sửa bồn hoa
cây cảnh; xây dựng môi trường, lối sống lành mạnh, tác phong nghiêm túc, giao
tiếp lịch sự, lễ phép...giáo dục các kỹ năng như: Tự khám phá bản thân, tính
năng động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng phản hồi tích cực, kỹ năng trình
bày trước đám đông, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỳ năng ứng xử. Tạo điều
kiện cho học sinh tự rèn luyện, coi trọng việc rèn luyện của học sinh, khuyến
khích và đặc biệt quan tâm đến học sinh thuộc diện đặc biệt như khó khăn về
kinh tế, khó khăn trong rèn luyện, khó khăn trong học tập. Phối hợp chặt chẽ với
gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng
VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để cùng giảng viên, cùng nhà
trường nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh.
- Giảng viên bộ môn cần phải tích hợp giáo dục kỹ năng sống cũng như xây
dựng VHHĐ cho học sinh trong quá trình giảng dạy bộ môn tùy theo đặc trưng
của từng môn học như: Tiết kiệm điện, nước; bảo vệ môi trường.. .kỹ năng tự
giải quyết vấn đề, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác ứng xử, kỹ năng
phản hồi và đánh giá tích cực...
Một số giải pháp phối hợp, huy động nhiều chủ thể hỗ trợ hoạt động
GDVHHĐ và định hướng giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống mới cho sinh viên
các trường đại học nhằm tạo nên những chuyển biến tích cực về nhận thức, thái
độ, hành vi của cả chủ thể và đối tượng, xuất phát từ thực trạng và những yêu
cầu bức xúc cần giải quyết trong định hướng giá trị văn hoá, đạo đức, nhân cách
cho sinh viên các trường đại học hiện nay.
154
Giải pháp 8: Đổi mới hình thức đánh giá, biểu dương, khen thưởng kịp
thời đối với những gương tốt về thực hiện văn hóa học đường, xử lý nghiêm
khắc những thành viên có hành vi sai phạm về văn hóa, đạo đức, lối sống
- Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với công việc định hướng giá
trị văn hoá trong trường học cho sinh viên. Hơn lúc nào hết cần nắm được và
ngăn chặn ngay tình trạng xuống cấp về văn hóa, đạo đức lối sống của các thành
viên trong nhà trường. Nhà trường bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như:
lập hòm thư góp ý, số điện thoại nóng để sinh viên cũng như giảng viên cùng
tham gia tố giác những sai phạm mà mình biết được.
- Giáo dục mọi thành viên trong nhà trường, luôn ý thức tôn vinh không chỉ
với tài năng mà còn cả những tấm gương về ý thức, thái độ, hành vi văn hóa,
những ứng xử đẹp, như những tấm gương nhân ái, những tấm lòng từ thiện,
những tấm gương thực hiện tốt các nội quy nhà trường. Giữ nghiêm kỷ cương,
kỷ luật là cơ sở để đấu tranh chống các tệ nạn xã hội.
- Việc khen thưởng, kỷ luật phải được kịp thời, công khai, công minh, và
phải thường xuyên. Những việc tưởng chừng như đơn giản này lại có tác dụng to
lớn cho sinh viên. Nó làm cho sinh viên tin tưởng hơn vào nhà trường, tin vào
những việc làm đúng pháp luật, nội quy nhà trường. Sinh viên cần thấy được
những người làm sai sẽ bị trừng trị. Ngoài ra để làm tốt công tác này cần có phối
hợp với các ban ngành địa phương, nhân dân và chính quyền để kịp thời phát
hiện xử lý.
- Đây thực chất là giải pháp xã hội hoá công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên để mọi lúc, mọi nơi sinh viên đều có nghĩa vụ, và quyền lợi làm tốt trách
nhiệm của mình.
Tiểu kết chương 4
Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên qua khảo
sát một số trường đại học đào tạo về ngành kỹ thuật của Hà Nội, luận án xác
định phương hướng và đề xuất các giải pháp có tính khả thi để nâng cao HQ
GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay. Nâng cao HQ
GDVHHĐ góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo bậc đại học, là cơ sở
để giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm công dân
cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Nhóm giải pháp luận án đề xuất căn cứ vào yêu cầu đổi mới của giáo dục
đại học và định hướng của Đảng, của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
155
đưa các nội dung GDVHHĐ vào hệ thống giáo dục giai đoạn 2011-2015, căn
cứ vào mục tiêu GDVHHĐ, căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả nghiên cứu
thực trạng của đề tài, căn cứ vào: tiêu chí HQGDVHHĐ và các yếu tố chi
phối đến hiệu quả GDVHHĐ, nguyên nhân hạn chế của HQGDVHHĐ, căn cứ
vào điều kiện thực tiễn của các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở
Hà Nội hiện nay. Các giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ được đề xuất
dựa trên các nguyên tắc: đảm bảo tính mục tiêu của quá trình giáo dục, tính
hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm; đảm bảo hệ thống giá trị được giữ gìn và phát
triển ở đối tượng giáo dục, xây dựng và phát triển phải đi đôi với xoá bỏ, ngăn
chặn các tiêu cực ảnh hưởng đến VHHĐ, đảm bảo phát huy vai trò chủ thể của
giảng viên và sinh viên.
Luận án đề xuất 3 nhóm giải pháp cơ bản: nhóm giải pháp xây dựng môi
trường xã hội phù hợp, nhóm giải pháp phát huy vai trò của chủ thể và đối tượng
giáo dục văn hoá học đường, nhóm giải pháp về sự kết hợp giữa mục đích, nội
dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và huy động các nguồn lực cho hoạt
động giáo dục văn hóa học đường. Nội dung 3 nhóm giải pháp được cụ thể hóa
trong 10 giải pháp nâng cao nhận thức của chủ thể và đối tượng giáo dục, đổi
mới nội dung và phương pháp GDVHHĐ, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực,…
nhằm hướng tới nâng cao hiệu quả GDVHHĐ trong các trường đại học ở Hà Nội
hiện nay. Các giải pháp này phải được kết hợp đồng bộ thì mới phát huy tính
hiệu quả.
156
KẾT LUẬN
1. GDVHHĐ là một vấn đề cấp thiết trong các trường đại học nhằm tạo ra
môi trường thân thiện, an toàn để thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển, hội nhập bền vững của đất nước. Hiện
nay, tuy đã có một số công trình nghiên cứu, hội thảo về vấn đề VHHĐ, xây
dựng VHHĐ trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng sự đồng thuận về mặt
lý luận còn chưa cao và cũng chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về hiệu quả
GDVHHĐ trong trường đại học. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đề án đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đặc biệt là đào tạo bậc đại học
trong giai đoạn hiện nay, vấn đề GDVHHĐ đòi hỏi phải được đi sâu nghiên
cứu, luận giải sâu sắc, toàn diện, tạo cơ sở khoa học để thống nhất nhận thức
và hành động nhằm nâng cao hiệu quả GDVHHĐ, góp phần thực hiện thành
công NQTW8, NQTW9 khóa XI của Đảng và mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực cao phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế
trong điều kiện hiện nay.
2. Hiệu quả GDVHHĐ là kết quả cao nhất trong tiếp nhận tri thức về
VHHĐ từ đó thay đổi nhận thức, thái độ và tính tích cực thực hiện hành vi chuẩn
mực được biểu hiện khi tham gia các hoạt động thực tiễn ở đối tượng sau tác
động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và cách sử dụng hợp lý, tiết
kiệm các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể. Hiệu quả
GDVHHĐ được thể hiện ở nhiều mặt, chịu sự chi phối của các yếu tố, từ môi
trường giáo dục bên trong và bên ngoài nhà trường. Hiệu quả GDVHHĐ là một
thể thống nhất của hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn được thể hiện trên các
mức độ từ thấp đến cao, đó là tri thức, niềm tin, và hành động - hành vi thực tiễn.
Tri thức và niềm tin thuộc nhóm tiêu chí hiệu quả tinh thần và hành động, hành
vi là hiệu quả thực tiễn của GDVHHĐ. Muốn đánh giá hiệu quả phải có quan
điểm, phương pháp, hình thức phù hợp và khoa học.
3. Thực trạng GDVHHĐ tại các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật
tại Hà Nội hiện nay đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, nếu so
sánh với các tiêu chí xác định hiệu quả GDVHHĐ thì chưa đạt hiệu quả. Bởi
mục tiêu của GDVHHĐ là cung cấp tri thức, niềm tin ở mức tối đa và hiệu quả
thực tiễn phải đạt ở mức cao nhất, chi phí các nguồn lực ở mức tối thiểu. Trong
thực tế, các trường đại học mà luận án tiến hành khảo sát mới chỉ đạt kết quả ở
157
mức khá chứ chưa thật sự đạt mức hài lòng tuyệt đối, nghĩa là chưa đạt hiệu quả
mong muốn. Hoặc là hiệu quả tinh thần chưa cao, hoặc là hiệu quả thực tiễn
chưa đạt, hoặc là chi phí nguồn lực chưa hợp lý. Thực trạng này đặt ra những
vấn đề cần giải quyết nếu muốn nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên
trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
Từ năm 2012 đến nay, GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật tại Hà Nội diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, song
cũng có không ít khó khăn do những tác động từ các yếu tố khách quan và chủ
quan. Trong điều kiện ấy, GDVHHĐ cho sinh viên thu được nhiều kết quả đáng
ghi nhận, tạo nền tảng vững chắc góp phần quan trọng vào mục tiêu đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho xây dựng và bảo vệ đất nước trong
điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, đem so những kết quả đạt được với mục tiêu đào
tạo và sự đầu tư, huy động nguồn lực, cùng những ưu thế của các trường đào tạo
các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay cho thấy, hiệu quả GDVHHĐ cho sinh
viên vẫn còn thấp. Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên đang gặp phải 4
vấn đề cần giải quyết. Đó là, mâu thuẫn giữa mục đích, yêu cầu của GDVHHĐ
trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện gióa dục, đào tạo và phát
triển văn hóa, con người mới Việt Nam với những hạn chế về nguồn nhân lực;
với những bất cập của nội dung, hình thức, phương pháp; với sự biến đổi phức
tạp, khó lường và những lệch lạc trong xu hướng nhân cách của sinh viên; với
những khó khăn về phương tiện, cơ sở vật chất; với những tác động tiêu cực từ
môi trường giáo dục bên trong và bên ngoài các trường đại học.
4. Để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ phải tiến hành đồng bộ các giải pháp,
trong đó giải pháp đột phá, khả thi và mang lại hiệu quả cao nhất đó là nguồn lực
con người với khả năng sáng tạo, chủ động của chủ thể. Đó là sự mẫu mực, tâm
huyết, trách nhiệm của người đi giáo dục; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức,
phương pháp không phải chỉ nhằm trang bị thật nhiều kiến thức mà theo hướng
khi trao truyền một kiến thức thì kiến thức đó phải được trao truyền cả tình cảm,
tâm huyết để kiến thức biến thành niềm tin, trở thành động lực bên trong điều
chỉnh thái độ, hành vi của đối tượng được giáo dục; phải khơi dậy nhu cầu, lợi
ích hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn - xã hội, làm cho việc học, hiểu
và hành xuất phát từ bên trong của mỗi sinh viên; xây dựng các trường đại học
trở thành mô hình, thiết chế mẫu mực về văn hóa, cũng với cơ quan, ban ngành,
địa phương tham gia xây dựng địa bàn an toàn, góp phần đấu tranh ngăn chặn,
158
đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa, phản tiến bộ thâm nhập vào nhà
trường vào thế hệ trẻ.
5. Đổi mới đất nước, hội nhập, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải có đủ năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu mới. Sự thay đổi của điều kiện lịch sử là một
trong những yếu tố cơ bản quyết định đến vấn đề GDVHHĐ. GDVHHĐ là một
yếu tố bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Nó góp phần quan
trọng trong việc cải cách nền giáo dục nước nhà. Văn hóa luôn đi liền với giáo
dục, giáo dục đi liền với văn hóa. Cả hai đều là sản phẩm đặc thù của loài người.
Để xây dựng văn hóa học đường phải làm nhiều việc, bằng nhiều cách. Vạn sự
khởi đầu nan, phải bắt đầu từ các cấp quản lý ngành, lãnh đạo các trường có chủ
trương, có kế hoạch triển khai, có kiểm tra, nhắc nhỡ, đánh giá, đó là điều kiện
tiên quyết. Tiếp đến, đội ngũ nhà giáo phải chú ý giáo dục văn hóa, đây là nhân
tố rất quan trọng. Và tất nhiên, phải toàn trường, đến từng người học, ai cũng
phải chú trọng đến hình thành và phát triển nhân cách văn hóa, đây là yếu tố giữ
vai trò quyết định. Mỗi cấp học, bậc học có yêu cầu riêng, nội dung riêng, biện
pháp đặc thù. Trong các biện pháp, một biện pháp mà các trường đều cần thực
hiện là mỗi trường có hệ giá trị làm chuẩn mực để mọi thành viên đồng thuận,
lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của bản thân, của lớp, của
trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị chân cách, điều mà chúng ta gọi là
“dạy người” bên cạch “dạy chữ, dạy nghề”.
Vì vậy, GDVHHĐ cho các thế hệ sinh viên là trực tiếp góp phần đáp ứng đòi
hỏi trên ở các trường đại học. Để GDVHHĐ có hiệu quả đòi hỏi sự quan tầm đồng
bộ của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, nhưng trước hết thuộc về công tác giáo
dục trong các trường đại học.
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ đảng viên cơ sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Anh (2012), Giáo dục với hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội..
3. Vũ Thị Phương Anh, Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Viêt Nam với
nhu cầu hội nhập, http://ud.edu.vn/bcns/view/274/151.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn
hóa - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Nghiệp vụ tuyên giáo, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
7. Báo Nhân dân, số 19353 (15/8 / 2008), Nghị quyết Trung ương VII,
Khóa X, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.
8. Hoàng Chí Bảo (2011), Vấn đề văn hóa và con người trong cương lĩnh
(bổ sung, phát triển 2011) của Đảng.Tạp chí tuyên giáo, số 7, tr 36-41.
9. Nguyễn Trần Bạt (2006), Văn hóa và con người, Nxb. Thông tin, Hà Nội.
10. Đào Văn Bình (2010), Văn hóa trong quản lý điều hành doanh nghiệp
thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội..
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới, số
6547/CTCT ngày 29/7.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Quy chế công tác học sinh , sinh viên
trong các trường đào tạo, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
160
14. C. Mác và Ăng-ghen (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb.Chính trị Quốc gia,
Hà Nội..
15. Nguyễn Minh Chung (2006), Văn hóa lớp học và mô hình lớp học văn
hóa trong nhà trường đại học hiện nay, (Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản
Đại học Sư phạm Hà Nội).
16. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Dần (2009), Kinh tế học vi mô, Nxb. Tài chính, Hà Nội.
18. John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
19. Trương Minh Dục (2011). Quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hóa,
lối sống thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí lý luận chính trị &
Truyền thông, số 12, tr 3-6
20. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
21. Nguyễn Bá Dương (2002), Mấy suy nghĩ về nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác tư tưởng hiện nay, Tạp chí Cộng sản, (số 32)
22. Hồ Ngọc Đại (2012), Giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội,
Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
161
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám, Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Ban Thanh niên các trường
đại học và chuyên nghiệp (1996), Xây dựng môi trường giáo dục xã hội chủ
nghĩa trong các trường dạy nghề. , Nxb Thanh niên, Hà Nội.
36. Phạm Duy Đức (2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về văn
hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Ngô Đình Giao (1984). Những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh tế và
hiệu quả kinh doanh. Nxb ĐH kinh tế quốc dân, Hà Nội.
38. Trần Văn Giầu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội..
39. Jacqnes Hallak (1990), Đầu tư vào tương lai (bản dịch) IIEF, Paris,
UNESCO.
40. Nguyễn Hồng Hà (2005), Môi trường văn hóa với việc xây dựng lối
sống và con người Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Viện Văn hóa, Hà
Nội.
41. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (2003), Phát triển văn hóa và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
42. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
43. Phạm Minh Hạc (2001), Phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
44. Lưu Đức Hạnh (2011) Khổ học thành tài, Nxb. Dân trí, Hà Nội.
45. Lương Khắc Hiếu (1996), Về tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tuyên truyền
chính trị, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, (số 8).
46. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, tập
1, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, tập
2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Bùi Hiện, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001).
Từ điển giáo dục học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Hộ - Hà Thị Đức (2002), Giáo dục học đại cương, Nxb
Giáo dục.
50. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo
dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Báo cáo tổng hợp kết
quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, lưu thư viện Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
51. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Tổng quan tình hình thanh niên và
phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2005-2010.
52. Hội sinh viên Việt Nam (2013), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX nhiệm kỳ 2013-2018.
53. Hội sinh viên Việt Nam thành phố Hà Nội (2013), Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ 2013-2018.
54. Hà Học Hợi (chủ biên), (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác tư tưởng, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội
55. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (Bùi Đức Thiệp dịch), (2008), Triết
học giáo dục hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Thế Hùng (2011), Văn hóa ứng xử – kỹ năng giao tiếp thành công,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
163
58. Đỗ Huy, Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa
Việt Nam. H., Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
59. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay - Từ
góc nhìn giá trị học, Nxb. Văn hóa thông tin
60. Vũ Việt Hưng (2010), “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới”, www.cpv.org.vn, ngày 7/5/2010
61. Ác - môn - đốp A. I (chủ biên) (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác –
Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
62. Phạm Kiêm Ích (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX, Viện thông
tin khoa học và Xã hội, Hà Nội.
63. M.S. Kagan, Văn hóa học, (1974), Nxb. Maxcơva
64. Nguyễn Công Khanh và các cộng sự (2009), Văn hóa trong nhà trường,
Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.
65. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Thu Hà (2003), Từ
điển Văn hóa - giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
66. Trịnh Đình Khôi (2012). Văn hóa sức mạnh nội sinh để phát triển, Tạp
chí tuyên giáo, số 1 tr 52-55
67. Gustave Lebon (2009), Tâm lý học đám đông cùng tâm lý đám đông và
phân tích cái tôi của S.Freud, Nxb.Tri thức, Hà Nội.
68. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (1995), Con người và nguồn lực con
người trong phát triển. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội..
69. Phan Huy Lê (chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con người
Việt Nam hiện nay. (Chương trình KX - 07)
70. Thanh Lê (2000), Văn hóa và lối sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
71. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va
72. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va
73. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 12, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va
74. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va
75. Vũ Khắc Liên (Chủ biên) (1993), Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
164
76. Phạm Bá Linh, Phạm Thị Minh Nguyệt (2012). Gắn phát triển văn hóa
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với phát triển con người Việt Nam toàn
diện vì mục tiêu phát triển bền vững, Tạp chí Triết học, số 7 (254), tr 9-16
77. Trịnh Thị Minh Loan (2005), Một số khái niệm về văn hóa, Viện nghiên
cứu sư phạm, ĐH sư phạm, Hà Nội.
78. Nguyễn Đăng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình
thành nhân cách, Nxb. Tư pháp.
79. Trương Lưu (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
80. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Xtalin (1976), Bàn về giáo dục, Nxb.
Sự thật, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
82. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
83. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Đức Minh (2003): Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác
sinh viên trong các trường Đại học, cao đẳng Hà Nội, Nxb. Thanh niên, Hà
Nội.
86. Lưu Xuân Mới (2000). Lý luận dạy học đại học, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
87. Phạm Văn Năng (chủ biên), (2002), Công tác tư tưởng và giảng dạy lý
luận trong trường đại học và cao đẳng hiện nay, Nxb.Thành phố Hồ Chí
Minh.
88. Phạm Thanh Nghị (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn
nhân lực giáo dục đào tạo, Tạp chí Phát triển giáo dục.
89. Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục tư tưởng cách mạng cho giới trẻ
Việt Nam trong tình hình mới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội..
90. Vũ Hữu Ngoạn (2008), Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư
tưởng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 12)
91. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (đồng chủ biên), (1997), Giáo dục học, tập
1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
165
92. Đoàn Thị Minh Oanh, (chủ nhiệm) (2008), Xây dựng ý thức tự giáo dục
cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay, đề tài cấp Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
93. Diane E. Oliver, Nguyễn Kim Dung (2009): Giáo dục đại học Việt nam
giao điểm giữa chất lượng và thương mại. Thông tin những vấn đề chính trị-
xã hội, số 48, Tr 13-26
94. Hà Văn Phan (2000), Tìm hiểu thực trạng, phương pháp và những giải
pháp giáo dục nhân cách sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, Đề tài
Nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-36-42, Trường Đại học Mỏ - Địa
chất.
95. Hoàng Phê (chủ biên), (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, trung
tâm Từ Điển Học.
96. Phùng Hữu Phú (2001), Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng môi trường
văn hóa ở các trường Đại học, cao đẳng Hà Nội, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
97. Phạm Hồng Quang (2012), Xây dựng và hoàn thiện môi trường giáo
dục đại học, Tạp chí giáo dục 2012, số 278, tr2-4
98. Quốc hội, Luật giáo dục đại học, 2005
99. Đào Duy Quát (chủ biên) (2010), Công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội..
100. Đặng Đức Siêu, Hành trình văn hóa Việt Nam (2002), Nxb. Lao động,
Hà Nội.
101. Băng Sơn (1999), Giao tiếp đời thường. Nxb Thanh niên, Hà Nội.
102. Nguyễn Hồng Sơn, (2010); Biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển xã
hội trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
103. Phan Thanh Tá (2002), Về khái niệm đời sống văn hóa ở nông thôn,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4/2002.
104. Nguyễn Văn Tạo (2004), Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Thương mại, số 10.
105. Nguyễn Văn Tham, Nguyễn Năng Nam (2012). Bản lĩnh văn hóa Việt
Nam trước đòi hỏi của dân tộc và thời đại, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
334, tr 3-6
166
106. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở. Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP
Hồ Chí Minh.
108. Phùng Văn Thiết (2006), Biến động cơ cấu xã hội - giai cấp và vấn đề
giáo dục chính trị cho thanh niên ở nước ta, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội.
109. Hữu Thọ - Đào Duy Quát (1999), Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác tư tưởng - văn hoá trong tình hình mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Nguyễn Tiến Thông (2000), Một số vấn đề giao tiếp. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
111. Võ Văn Thưởng (2008), Phát huy vai trò của tuổi trẻ trong sự nghiệp
đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử số 6
112. Lê Văn Toan (2011), Phát triển văn hóa với việc tăng cường sức mạnh
tổng hợp của đất nước, Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, sô 5, tr7-11
113. Nguyễn Thanh Tuấn (2008), Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay, Nxb.
Từ điển bách khoa và Viện văn hóa, Hà Nội.
114. Trần Ngọc Tuệ (1996), Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong
QĐND Việt Nam hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ, Thư viện Học viện Chính trị
115. Cao Xuân Trung (2002), Những điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao hiệu
quả giáo dục chính trị tư tưởng cho quân nhân ở các đơn vị cơ sở hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Chính trị Quân sự.
116. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa và phát triển từ lý luận đến thực
tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
117. Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển
bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
118. Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2011), Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 80 năm xây dựng cống hiến và trưởng
thành, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
119. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2010), Tổng quan tình hình sinh
viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ V (2005- 2010), Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
167
120. Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb.Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
121. Hoàng Thanh Tỳ, Xây dựng môi trường học tập tích cực cho sinh viên
sư phạm, Tạp chí Giáo dục, kỳ 1-4/2008, tr22-25.
122. Nguyễn Quang Uẩn (1995). Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và
giáo dục giá trị, (Chương trình KX - 07-04).
123. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên), (1994) Từ điển xã hội học, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
124. Viện nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển khoa học công nghệ
và tài năng trẻ (2001), Thế hệ trẻ Việt Nam - Nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
125. Viện nghiên cứu sư phạm (2008): Văn hóa học đường - yếu tố quan
trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Đề tài cấp cơ sở.
126. Phạm Thái Việt và Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt
Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
127. Hoàng Vinh (1999), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Huỳnh Khái Vinh (2000), Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
129. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả công tác giáo dục Chính trị-Tư
tưởng trong học viên các học viện Quân sự ở nước ta hiện nay, Luận án tiến
sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Báo chí & Tuyên truyền.
130. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
131. Văn bản pháp luật về quản lý học sinh, sinh viên (2001). Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
132. X.I. Xrơnitrencô (chủ biên),(1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng
sản Liên Xô, Nxb.Thông tin Lý luận.
133. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.
134. Dương Trung Ý (2007), Ý thức chính trị của sinh viên các trường đại
học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội, đề tài Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh
168
II.Tiếng Anh
135. Erenest C.T. Chew& Edwin Lee (1991), A history of Singapore, Oxford
Univesity Press,.
136. EUA (European University Association)(2006), Quality Culture in
European Universities: A Bottom- up Approach, Report on the three rounds of
the quality culture project 2002-2006.
137. U.D. Ehlers (2006), Understanding quality culture. Quality in Higher
Education, (17), PP.343-363.
138. F. Gonzles (1978), Lce barg Graphic Organizer. University of Texas at
Austin.
139. http//www.uv.es/EBRIT/macro/macro_5005_29.html, Propaganda
140. Dewey, John (1916/1944). Democracy and Education. The Free Press
141. Sergiovanni, Thomas J. (2006), Ch. 7. Nurturing School Culture and
Collaborative Curriculum as Campus Leader.
142. Rick Allen. Building School Culture in an Age of Accountability .
Building School Culture, November 2003 | Volume 45 | Number 7.
143. Kent D. Peterson and Terrence E. Deal, (2006), How Leaders Influence
the Culture of Schools.
144. Từ điển Lepetit Lasousse, 1999, Paris, Tr57
145. 11. Yenming Zhang NIE Nanyang, (2008). Shaping School Culture.
Technological University Objectives.
169
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. "Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện nhân cách của sinh viên
đại học- Nguồn nhân lực cao của xã hội", Khoa học và công nghệ, (12), tr.86-
89.
2. "Lý luận và thực tiễn về xây dựng và giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên trong trường đại học", Giáo dục lý luận, (219), tr.111-114.
3. "Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện
nay”, Lý luận chính trị và truyền thông, (3/ 2015), tr.64-67.
4. "Thực trạng văn hóa học đường trong trường đại học đào tạo các ngành kỹ
thuật ở Hà Nội hiên nay”, Giáo dục & xã hội, (4/2015), tr.41-43.
5. "Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các ngành kỹ
thuật ở Hà Nội hiện nay ”, Giáo dục & xã hội, (11/2015), tr.55-59.
6. “Sự chuyển đổi tất yếu một số quan niệm đạo đức trong giai đoạn hiện nay”,
Kinh tế Châu Á- Thái bình dương (7/2017), tr 75- 77
PHIẾU ĐIỀU TRA Ý KIẾN
Để giúp chúng tôi làm tốt hơn nữa công tác GDVHHĐ cho sinh viên trong trường
đại học. Xin bạn vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau. (Phương án nào phù
hợp với ý kiến của bạn xin đánh dấu v vào ô trống bên cạnh).
Câu 1: Xin bạn vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân ?
Tuổi :..............
Giới tính : Nam Nữ
Dân tộc :
Là Giảng viên CBCNV - sinh viên năm thứ
Là cán bộ lớp - Là cán bộ đoàn
Hiện nay bạn đạng ở KTX: Có - Không
Câu 2: Theo bạn những tiêu chí nào dưới đây là tiêu chí của VHHĐ ?
- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, của giảng viên:
Có Không
- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên,
Có Không
- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên, CBCNV
Có Không
- Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên
Có Không
- Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV
Có Không
- Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên
Có Không
- Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV
Có Không
- Ra, vào lớp đúng giờ của giảng viên, sinh viên
Có Không
- Không khí dân chủ trong trường học
Có Không
- Giữ vệ sinh chung, bảo vệ của công
Có Không
- Thực hiện đúng nội quy, quy chế của nhà trường
Có Không
- Có tình yêu đẹp
Có Không
Câu 3: Theo bạn văn hóa học đường có vai trò như thế nào trong quá trình hoàn thiện
nhân cách ở sinh viên?
- Là yếu tố quyết định nhất
- Là yếu tố quyết định
- Là yếu tố góp phần
- Là yếu tố không có ảnh hưởng gì
Câu 4: Xin bạn vui lòng cho biết việc GDVHHĐ cho sinh viên ở Trường bạn đang theo học
thường được tiến hành chủ yếu thông qua hình thức nào dưới đây?
- Đưa vào nội dung học chính trị đầu khóa
- Thông qua giảng dạy, bồi dưỡng tập trung theo lớp.
- giảng viên, CBCNV nêu gương tốt cho sinh viên
- Thông qua nghiên cứu tài liệu.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Câu 5: Bạn đánh giá gì về hiệu quả của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa?
- Rất tốt - Tốt - Bình thường
Bạn có nhớ nội dung được học trong tuần sinh hoạt chính trị đầu khóa?
- Rất nhớ
- Nhớ 50%
- Không nhớ
- Ý kiến khác:..............................................................................
Câu 6: Bạn có hứng thú học tập, nghiên cứu các môn lý luận chính trị, KHXHNV, nội
quy, quy chế của trường ĐH
Có hứng thú Bình thường Không hứng thú
Câu 7: Bạn có thích tham gia các buổi sinh hoạt chi đoàn ?
- Rất thích
- Thích
- Bình thường
- Không thích
Ý kiến khác: .......... ............... ................ .......................... .............
Câu 8: Theo bạn, các phong trào sau đây có mức độ quan trọng như thế nào?
A. Rất quan trọng B. Quan trọng C. Không quan trọn
- Phong trào thi đua học tập rèn luyện
- Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa học đường
- Phong trào xây dựng các nội quy, quy định
- Phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn
- Phong trào thanh niên, sinh viên tự quản
- Phong trào văn nghệ, TDTT
- Tham gia các câu lạc bộ
Câu 9: Bạn cho biết sự quan tâm của các tổ chức nhà trường đối với hoạt động
ngoại khóa.
A. Thường xuyên B. Thỉnh thoảng Không bao giờ
- Đảng bộ, chi bộ
- Lãnh đạo nhà trường
- Đoàn thanh niên
- Hội sinh viên
- Bộ phận quản lý sinh viên
- Khoa (bộ môn)
Câu 10: Bạn có tham gia hoạt động phong trào, sinh hoạt ngoại khóa do trường, đoàn
thanh niên, hội sinh viên tổ chức?
- Rất tích cực
- Bình thường
- Không thích
- Ý kiến khác..............................................................................................
Câu 11: Trong thời gian học tập tại trường đại học, bạn đã tham gia vào hoạt động
ngoại khóa nào? Đánh giá mức độ tham gia
A. Thường xuyên B. Thỉnh thoảng C: Không bao giờ
- Hội diễn văn nghệ
- Đọc sách báo tại thư viện
- Tham quan du lịch
- Sinh hoạt hội viên các câu lạc bộ
- Xem ti vi, nghe nhạc (nếu ở KTX)
Câu 12: Theo bạn quản lý sinh viên ở trường bạn đang học xếp vào mức độ nào?
A. Gò bó B. Đúng mực C. Lỏng lẻo
- Sinh viên nội trú
- Sinh viên ngoại trú
Câu 13: Theo bạn quan hệ giữa sinh viên với sinh viên ở trường bạn đang học như thế
nào?
A. Đúng B. Không đúng
- Đoàn kết thương yêu nhau
- Giúp đỡ nhau trong học tập
- Trung thực thẳng thắn
- Vui vẻ, cởi mở
- Không quan tâm đến nhau
Câu 14: Những nội dung nêu ra dưới đây theo bạn đúng hay là không đúng?
A. Đúng B. Không đúng
- Thầy cô luôn là tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức
Thầy cô luôn là tấm gương sáng về kiến thức chuyên môn
Giữa thầy cô và sinh viên luôn là mối quan hệ trong sáng
Bạn luôn kính trọng lễ phép với giảng viên
Thầy cô chưa phải là tấm gương về nhân cách đạo đức
- Ý kiến khác: ........... ............... ................. ............ .............. ..........
Câu 15: Trong quá trình học tập tại trường, bạn có:
- Nhận điện thoại trong giờ học
- Hút thuốc lá trong lớp học
- Khó chịu khi nhìn thấy bạn khác mặc quần, áo hở hang lên lớp
- Nói bậy, chửi thề
- Bỏ tiết học
- Vi phạm quy chế thi
Câu 16: Dưới sự tác động của VHHĐ, theo bạn những hiện tượng nào dưới đây được
khắc phục nhiều trong thời gian qua?
- Tự do, vô kỷ luật trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên.
- Thái độ vô lễ với thầy, cô giáo
- Nói tục, chửi thề trong giao tiếp với bạn
- Lên giảng đường, đi thực hành xưởng với trang phục không phù hợp
- Chây lười trong sinh hoạt và học tập.
- Gây rối, mất trật tự trong trường học.
- Thờ ơ với các hoạt động phong trào của khoa, trường.
- Những hành vi lệch chuẩn khác
- Ý kiến khác:.............................................................................................
Câu 17: Theo bạn, nhà trường đã thực hiện những biện pháp nào để phối hợp với gia
đình sinh viên?
Đánh dấu chéo vào ô vuông để phù hợp với ý kiến của bạn
- Thông báo kết quả học tập hàng năm của sinh viên cho gia đình
- Thông báo kết quả rèn luyện tu dưỡng hàng năm của sinh viên cho gia đình
- Thông báo nội quy, quy định cho gia đình
- Thông báo về các khoản chi phí bắt buộc của sinh viên cho gia đình
- Thông báo cho gia đình biết những sinh viên được khen thưởng và bị kỷ luật
- Thông báo cho gia đình biết lịch học, lịch đi thực tế, thực tập, qui định, nghỉ tết, nghỉ
hè của sinh viên
Câu 18: Bạn đánh giá thế nào về tình hình suy thoái VHHĐ của một bộ phận sinh viên
hiện nay ?
- Rất nghiêm trọng
- Nghiêm trọng
- Bình thường
- Không nghiêm trọng
- Ý kiến khác: ........ ........ ........... ............ ............. ............. .............
Câu 19: Bạn cảm thấy thế nào khi tiếp xúc với thanh niên địa phương?
- Rất tốt
- Tốt
- Bình thường
- Ngại tiếp xúc
- Khó chịu
Câu 20: Theo bạn, ý thức tự giáo dục VHHĐ của sinh viên hiện nay ở mức độ nào?
- Rất cao
- Cao
- Chưa cao
- Ý kiến khác:...............................................................................
Xin chân hành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của các bạn
Chúc các bạn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN
Bảng 1 : Tiêu chí đánh giá VHHĐ (Kết quả trả lời của 521 phiếu điều tra tại 5 trường đại học được khảo sát)
TT Ý kiến của sinh viên
Tiêu chí đánh giá VHHĐ Số ý kiến Tỷ lệ% Xếp thứ
1 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên 421
84,6 6
2 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên 481
92,3 5
3 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên, CBCNV 517
99,2 1
4 Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên 353
67,8 9
5 Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV 504
96,8 3
6 Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên 359
69 8
7 Giao tiếp có VH, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV 485
93,2 4
8 Ra, vào lớp đúng giờ của giảng viên, sinh viên 180
34,6 11
9 Không khí dân chủ trong trường học 302
58 10
10 Giữ vệ sinh chung, bảo vệ của công 374
71,8 7
11 Thực hiện đúng nội quy, quy chế của trường 508
97,5 2
12 Có tình yêu đẹp 168 32,2 12
Bảng 2 : Ý kiến về vai trò của VHHĐ trong việc phát triển nhân cách cho sinh viên
TT Kết quả
Các quan niệm khác nhau
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Là yếu tố quyết định nhất 8 1,6
2 Là yếu tố quyết định 17 3,3
3 Là yếu tố góp phần 454 87,1
4 Không có vai trò gì 27 5
5 Không trả lời 15 3
Bảng 3 : Phương pháp sử dụng chủ yếu trong giáo dục VHHĐ tại trường các trường ĐH đào tạo kỹ thuật ở Hà Nội
TT Kết quả
Các phương pháp
Nhiều nhất
(%) Không trả lời (%) Ít sử dụng (%)
Xếp
thứ
1 Đưa vào nội dung học chính trị đầu khóa 341
65,5%
157
30,1%
23
4,4% 2
2 Thông qua giảng dạy, bồi dưỡng tập trung theo lớp 227
43,6%
105
20,2%
189
36,2%
5
3 giảng viên, CBCNV nêu gương tốt cho sinh viên 466
89,5%
13
2,4%
42
8,06% 1
4 Thông qua nghiên cứu tài liệu 58
11,1%
123
23,6%
340
65,3% 6
5 Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng 277
53,2%
112
21,5%
132
25,3% 4
Bảng 4a: Hiệu quả giáo dục VHHĐ của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa
TT Kết quả
Đánh giá của sinh viên
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất tốt 14 2,7
2 Tốt 282 54
3 Bình thường 59 11,3
4 Không trả lời 166 32
Bảng 4b: Hiệu quả giáo dục VHHĐ của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa
TT Kết quả
Mức độ tập trung học tập
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất nhớ nội dung 8 1,6
2 Nhớ 50% nội dung 430 82,5
3 Không nhớ 42 8,1
4 Không trả lời 41 7,8
Bảng 5: Mức độ hứng thú của sinh viên khi học các môn lý luận chính trị, KHXHNV, nội quy, quy chế của trường ĐH
TT Kết quả
Mức độ hứng thú
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Có hứng thú 155 29,8
2 Bình thường 286 54,9
3 Không hứng thú 76 14,5
4 Không trả lời 4 0,8
Bảng 6: Sự hấp dẫn của các buổi sinh hoạt chi đoàn
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất thích 25 4,8
2 Thích 51 9,8
3 Bình thường 331 63,6
4 Không thích 91 17,6
5 Không trả lời 21 4,1
Bảng 7: Theo bạn các phong trào sau đây ở mức quan trọng như thế nào? (Mức độ: A : Rất quan trọng; B: Quan trọng; C: Không quan trọng)
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô80 ĐHCNHN150 ĐH GTVT120 ĐH Kiến trúc80 ĐHXD91 Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Phong trào thi đua
học tập rèn luyện
A 66 82.7 107 71.4 91 75.8 62 77,5 60 65.8 386 74.1
B 11 13.7 43 28.6 28 23.3 18 22,5 29 31.7 129 24,7
C 3 3.6 0 0 1 0.8 0 0 2 2.5 6 1.2
Phong trào xây dựng
nếp sống văn hóa
học đường
A 57 71.4 83 55.4 67 55.6 34 42,5 38 42 279 53.5
B 23 28.6 66 43.9 52 43.5 43 54.1 48 52,7 232 44.5
C 0 0 1 0.7 1 0.9 3 3.4 5 5,3 10 2
Phong trào xây dựng
các nội quy, quy định
A 26 32.8 51 34 40 33.3 22 27,5 23 24.8 162 31,1
B 50 62.8 94 62.6 76 63.4 54 67.5 59 65.2 333 63,9
C 4 4.4 5 3.4 4 3.3 4 5 9 10 26 5
Phong trào đền ơn
đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn
A 14 17,5 44 29.3 31 25,9 18 22.5 23 25.2 130 25
B 66 82,5 98 65.4 85 70,8 56 70 59 64.8 364 69.8
C 0 0 8 5,3 4 3,3 6 7.5 9 10 27 5.2
Phong trào thanh
niên, sinh viên tự
quản
A 24 30 44 29,4 26 21.3 30 37.5 26 28.3 150 28.8
B 53 66,2 95 63.3 86 72 47 58,7 57 63.2 338 64.9
C 3 3.8 11 7.3 8 6.7 3 3.8 8 8.5 33 6.3
Phong trào văn nghệ,
TDTT
A 17 21.3 34 22.7 27 22.2 17 21.3 21 23 116 22,3
B 61 76.2 106 70.6 82 68.4 62 77,5 58 63.8 369 70.8
C 2 2.5 10 6.7 11 9.4 1 1,2 12 13.2 36 6.9
Phong trào các
câu lạc bộ
A 16 20 39 26 23 19.1 12 15 16 17.6 106 20,3
B 61 76.2 90 60 77 64,2 38 47.5 51 56 317 60.8
C 3 3.8 21 14 20 16.7 30 37.5 24 26.4 98 18,8
Bảng 8: Bạn cho biết sự quan tâm của các tổ chức nhà trường đối với hoạt động ngoại khóa? (Mức độ: A :Thường xuyên; B: thỉnh thoảng; C: Không bao giờ
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Đảng bộ,
chi bộ
A 27 33,7 51 34 35 29,2 26 32,5 36 39,6 175 33,6
B 43 53.8 79 52,7 66 55 40 50 49 53,8 277 53,2
C 10 12,5 20 13,3 19 15,8 14 17,5 6 6,6 69 13,2
Lãnh đạo
nhà trường
A 31 38,7 56 37,3 50 41,6 35 43,7 40 44 212 40,7
B 48 60 78 52 62 51,7 42 52,5 48 52,7 278 53,3
C 1 1,3 16 10,7 8 6,7 3 3,8 3 3,3 31 6
Đoàn
thanh niên
A 51 63,7 83 55,3 61 50,8 53 66,3 60 65,3 308 59,1
B 27 33,8 66 44 55 45,8 22 27,5 28 30,5 198 38
C 2 2,5 1 0,7 4 3,4 5 6,2 3 3,2 15 2,9
Hội sinh
viên
A 39 48,8 75 50 48 40 38 47,5 52 57,1 252 48,4
B 31 38,8 65 43,3 59 49,2 30 37.5 35 38,5 220 42,2
C 10 12,6 10 6,7 13 10,8 12 15 4 4,4 49 9,4
Bộ phận
quản lý
sinh viên
A 16 20 44 29,3 52 43,4 42 52,5 39 42,9 193 37
B 45 56,2 66 44 55 45,8 29 36,2 45 49,4 240 46,1
C 19 23,8 40 26,7 13 10,8 9 11,3 7 7,7 88 16,9
Khoa (bộ
môn)
A 17 21,3 56 37,3 44 36,7 46 57,6 49 53,9 212 46,7
B 51 63,7 81 54 66 55 29 36,2 39 42,8 266 51,1
C 12 15 13 8,7 10 8,3 5 6,2 3 3,3 43 8,2
Bảng 9: Sự tích cực tham gia các hoạt động phong trào, ngoại khóa do trường, đoàn thanh niên, hội sinh viên nhà trường
tổ chức cho sinh viên
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất tích cực 59 11,3
2 Bình thường 307 58,9
3 Không thích 134 25,8
4 Không trả lời 21 4
Bảng 10: Trong quá trình học tập tại trường đại học, bạn đã tham gia vào hoạt động ngoại khóa nào? (Mức độ: A :Thường xuyên; B: thỉnh thoảng; C: Không bao giờ
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Hội diễn văn
nghệ
A 17 21.25 17 11.3 10 8.3 11 13.75 17 18.7 72 13.8
B 42 52.5 81 54 63 52.5 50 62.5 51 56 287 55
C 21 26.25 52 34.7 47 40 19 23.75 23 25.3 162 31.1
Đọc sách báo
tại thư viện
A 35 43.75 86 57.3 45 37.5 25 31.25 39 42.9 230 44.1
B 45 56.25 52 34.7 66 55 42 52.5 44 48.3 249 47.8
C 0 0 12 8 9 7.5 13 16.25 8 8.8 42 8.1
Tham quan du
lịch
A 4 5 6 4 8 6.7 16 20 7 7.7 41 7,9
B 35 43.75 66 44 57 47.5 58 72.5 61 67 277 53.1
C 41 51.25 78 52 55 45.8 6 7.5 23 25.3 203 39
Sinh hoạt hội
viên các câu lạc
bộ
A 9 11.25 20 13.4 5 4.2 9 11.25 8 8,8 51 9.8
B 34 42.5 50 33.3 77 64.1 18 22.5 38 41.75 217 41.6
C 37 46.25 80 53.3 38 31.7 53 66.25 45 49.5 253 48.6
Xem ti vi, nghe
nhạc (Nếu ở
KTX)
A 16 20 68 45.3 22 18.4 6 7.5 4 4.4 116 22.3
B 54 67.5 63 42 82 68.3 48 60 61 67 308 59.1
C 10 12.5 19 12.7 16 13.3 26 32.5 26 28.6 97 18.6
Bảng 11a: Theo bạn, quản lý sinh viên ở trường bạn đang học xếp vào mức độ nào?
(Mức độ: A : Gò bó; B: Đúng mực; C: Lỏng lẻo)
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Sinh viên nội
trú
A 7 8,8 90 60 23 19.2 10 12.5 21 23,1 151 26
B 49 61,2 54 36 84 70 57 71.2 59 64.9 303 62
C 24 30 6 4 13 10.8 13 16.3 11 12 67 12
Sinh viên
ngoại trú
A 0 0 14 9.3 4 3.4 1 1.3 3 3.3 22 4,2
B 27 33.7 46 30.7 62 51.6 30 37.5 56 61.5 221 42.4
C 53 66.3 90 60 54 45 49 61.2 32 35.2 278 53,4
Bảng 12: Theo bạn quan hệ giữa sinh viên với sinh viên ở trường bạn đang học như thế nào?
(Mức độ: A : Đúng; B: Không đúng)
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Đoàn kết thương
yêu nhau
A 69 86.25 119 79,3 103 85.8 71 88,75 71 78.2 433 83,1
B 11 13.75 31 20,6 17 14.2 9 11 20 21.9 88 16,9
Giúp đỡ nhau trong
học tập
A 74 92.5 123 82 104 86,6 58 72.5 76 83.5 435 83.5
B 6 7.5 27 18 16 13,4 22 27.5 15 16.5 86 16.5
Trung thực thẳng
thắn
A 70 87.5 130 86.6 109 90.8 61 76.2 76 83.5 446 85.6
B 10 12.5 20 13.3 25 9 19 23.8 15 16.5 75 14.4
Vui vẻ, cởi mở A 79 98.75 131 87.3 114 95 66 82.5 80 88 470 90.2
B 1 1.25 19 12.7 6 5 14 17.5 11 12 51 9.8
ít quan tâm đến
nhau
A 21 26.2 35 23.3 60 50 12 15 40 44 168 32.25
B 59 73.8 115 76.7 60 50 68 85 51 56 353 67.75
Bảng 13: Những nội dung nếu ra dưới đây theo bạn đúng hay không đúng?
(Mức độ: A :Đúng; B: Không đúng) R
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Thầy cô luôn là tấm
gương sáng về nhân
cách, đạo đức
A 64 80 101 66.3 94 78,3 74 92,5 69 76 402 77.1
B 16 20 49 32.7 26 21.7 6 7.5 22 24 119 22,8
Thầy cô luôn là tấm
gương sáng về kiến
thức chuyên môn
A 74 92.5 129 86 108 90 71 88.75 82 90,1 464 89
B 6 7.5 21 14 12 10 9 11.25 9 9,9 57 10.9
Giữa thầy cô và sinh
viên luôn là mối quan
hệ trong sáng
A 73 91.25 104 69.3 106 88.3 74 92.5 79 86.8 436 83.7
B 7 9.75 46 30.7 14 11.7 6 7,5 12 13.2 85 16.3
Bạn luôn kính trọng lễ
phép với giảng viên
A 75 93.75 137 91.3 119 99.2 76 95 87 95.6 494 94.8
B 5 6.25 13 8.7 1 0.8 4 5 4 4.4 27 5.2
Bảng 14 : Trong quá trình học tập tại trường ban có :
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau Có (%)
Không
trả lời (%)
Không
(%) Xếp thứ
1 Nhận điện thoại trong giờ học 382
73,3%
38
7,2%
101
19,4%
1
2 Hút thuốc lá trong lớp học 38
7,3%
105
20,2%
378
72,5%
6
3 Có khó chịu khi nhìn thấy bạn khác ăn mặc hở hang, quái dị
lên lớp học
332
63,7%
92
17,7%
97
18,6%
4
4 Nói bậy, chửi thề 340
65,3%
118
22,6%
63
12,1%
3
5 Bỏ tiết học 244
46,8%
143
27,4%
134
25,8%
5
6 Vi phạm quy chế thi 365
70%
96
18,4%
60
11,6%
2
Bảng 15: Tác động của VHHĐ trong việc khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong trường học
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau không đồng tình (%) Đồng tình (%) Xếp thứ
1 Tự do, vô kỷ luật trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên 4
0,8%
517
99,2% 1
2 Thái độ vô lễ với thầy, cô giáo 42
8
479
92% 5
3 Nói tục, chửi thề trong giao tiếp với bạn 78
15%
443
85% 6
4 Lên giảng đường, đi thực hành xưởng với trang phục không phù hợp 13
2,5%
508
97,5% 2
5 Chây lười trong sinh hoạt và học tập 21
4%
500
96% 3
6 Gây rối, mất trật tự trong trường học 168
32,3%
353
67,7% 8
7 Thờ ơ với các hoạt động phong trào của khoa, trường 38
7,3%
483
92,7% 4
8 Những hành vi lệch chuẩn khác 147
28,3%
374
71,7% 7
Bảng 16: Theo bạn, nhà trường đã thực hiện những biện pháp nào để phối hợp với gia đình của sinh viên? Đánh dấu X vào ô phù hợp với ý kiến của bạn.
Tên trường
Nội dung
ĐH Thành Đô 80 ĐHCNHN150 ĐH GTVT120 ĐH Kiến trúc80 ĐHXD91 Tổng
SP % SP % SP % SP % SP % SP %
Thông báo kết quả học
tập hàng năm của sinh
viên cho gia đình
Có 76 95.3 104 69.3 48 40.2 62 77.8 31 34.3 321 61,6
Không 4 4.7 46 30.7 72 59.8 18 22.2 60 65.7
200 38,4
Thông báo kết quả rèn
luyện tu dưỡng hàng
năm cho gia đình
Có 55 68.5 101 67.3 36 30 66 82 37 41 295 49
Không 25 31.5 49 32.7 84 70 14 18 54 59 226 51
Thông báo nội quy của
nhà trường và những
quy định về quản lý sinh
viên cho gia đình
Có 18 22.8 32 21.3 43 35,6 55 68.4 23 25.4 171 32.8
Không 62 77.2 118 78.7 77 64.4 25 31.6 68 74.6 350 67.2
Thông báo về các khoản
chi phí đóng góp bắt
buộc của sinh viên cho
gia đình
Có 32 40 84 56 110 92 68 85.5 60 65.6 354 67,9
Không 48 60 66 44 10 8 12 14.5 31 34.4 167 32,1
Thông báo cho gia đình
những sinh viên được
khen thưởng và bị kỷ
luật
Có 31 38.5 63 42 58 48.3 63 78.3 46 50.8 261 50
Không 49 61.5 87 58 62 51.7 17 21.7 45 49.2 260 50
Thông báo cho gia đình
biết lịch học, lịch đi thực
tập, thực tế, quy định,
nghỉ tết, nghỉ hè
Có 11 14.3 50 33.3 44 36.6 40 50 21 23.4 166 31,9
Không 69 85.7 100 66.7 76 63.4 40 50 70 76.6 355 68,1
Bảng 17: Đánh giá về hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên ở trường bạn hiện nay
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất cao 34 6,5
2 Cao 64 12,3
3 Bình thường 382 73,3
4 Không trả lời 41 7,9
Bảng 18: Ý thức tự giáo dục VHHĐ của sinh viên hiện nay
TT Kết quả
Ý kiến khác nhau
Kết quả trả lời (521)
Số ý kiến Tỷ lệ %
1 Rất cao 4 0,8
2 Cao 51 9,8
3 Chưa cao 441 84,6
4 Không trả lời 25 4,8
Bảng 19 : Mục đích, động cơ bạn chọn học ngành kỹ thuật?
TT
Ý kiến của sinh viên
Mục đích, động cơ học các ngành kỹ thuật (521)
Số ý kiến Tỷ lệ% Xếp
thứ
1 Để thỏa mãn đam mê 69 13,2 7
2 Để có việc làm ngay sau khi ra trường 352 67,5 1
3 Do định hướng của gia đình 259 49,7 5
4 Học ngành kỹ thuật để có thu nhập cao 135 26 6
5 Có điều kiện học tập tốt hơn 306 58,7 2
6 Để tiếp cận công nghệ, kỹ thuật mới 368 51,5 4
7 Có nhu cầu học thêm ngoại ngữ, tin học 292 56 3
Bảng 20: Hệ giá trị của trường đại học (124)
TT Kết quả
Nội dung Có (%) Không trả lời (%) Không (%)
Xếp
thứ
1 Sáng tạo 91
73,3%
9
7,2%
24
19,4% 1
2 Khuôn mẫu 9
7,3%
25
20,2%
90
2,5% 5
3 Hội nhập 79
63,7%
22
17,7%
23
18,5% 3
4 Tinh thần dân chủ 81
65,3%
28
22,6%
15
12% 2
5 Kỷ cương, trách nhiệm 58
46,7%
34
27,4%
32
25,8% 4
6 Tình thương 14
11,3%
23
18,5%
87
70,2% 6
DANH SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ HỌC VIỆN
TẠI HÀ NỘI
Các trường đại học tại Hà Nội
STT Tên
chính thức Chuyên ngành
Năm thành
lập
Số
sinh
viên
Địa bàn Loại
hình
1
Trường Đại học
Bách khoa Hà
Nội
Kỹ thuật 1956
Quận Hai
Bà Trưng
Công
lập
2 Trường Đại học
Công đoàn
Đa ngành, quản
trị - kinh tế -
dịch vụ
15/5/1946
Quận
Đống Đa
Công
lập
3
Trường Đại học
Công nghệ, Đại
học Quốc gia Hà
Nội
Công nghệ, kỹ
thuật 1995
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
4
Trường Đại học
Công nghệ Giao
thông Vận tải
Đa ngành,Giao
thông vận tải 29/11/1945
Quận
Thanh
Xuân
Công
lập
5
Trường Đại học
Công nghệ Dệt
may Hà Nội
Dệt may 04/06/2015
Huyện
Gia Lâm
Công
lập
6
Trường Đại học
Công nghệ và
Quản lý Hữu
nghị
Đa ngành
Quận
Đống Đa
Tư
thục
7
Trường Đại học
Công nghiệp Hà
Nội
Đa ngành, Kỹ
thuật 10/8/1898
[7]
Quận Bắc
Từ
Liêm[8]
Công
lập[7]
8
Trường Đại học
Công nghiệp
Việt Hung
Kỹ thuật và
dạy nghề 25/11/1977
Thị xã
Sơn Tây
Công
lập
9 Trường Đại học
Dược Hà Nội
Dược 1902
Quận
Hoàn
Kiếm
Công
lập
10 Trường Đại học
Đại Nam
Đa ngành 2007
Quận Hà
Đông
Tư
thục
11 Trường Đại học
Điện lực
Kỹ thuật điện 10/8/1898
Quận Bắc
Từ Liêm
Công
lập
STT Tên
chính thức Chuyên ngành
Năm thành
lập
Số
sinh
viên
Địa bàn Loại
hình
12 Trường Đại học
Đông Đô
Đa ngành 1994
Quận Cầu
Giấy
Tư
thục
13 Trường Đại học
FPT
Đa
ngành, QTKD
và tài
chínhngân hàng
2006
Quận Cầu
Giấy
Tư
thục
14
Trường Đại học
Giao thông Vận
tải
Giao thông
15/11/1945[1
5]
Quận
Đống
Đa[14]
Công
lập[14]
15
Trường Đại học
Giáo dục, Đại
học Quốc gia Hà
Nội
Giáo dục 2009
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
16 Trường Đại học
Hà Nội
Đa ngành[16]
1959[17]
Quận
Thanh
Xuân[18]
Công
lập[19]
17 Trường Đại học
Hòa Bình
Đa ngành[20]
2008[21]
Quận
Nam Từ
Liêm[22]
Tư
thục[23]
18
Trường Đại học
Khoa học Tự
nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội
Khoa học tự
nhiên[24]
1993
Quận
Thanh
Xuân[25]
Công
lập[26]
19
Trường Đại học
Khoa học và
Công nghệ Hà
Nội
Khoa học, công
nghệ 2009
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
20
Trường Đại học
Khoa học Xã hội
và Nhân văn,
Đại học Quốc
gia Hà Nội
Khoa học xã
hội[27]
1995[27]
Quận
Thanh
Xuân[28]
Công
lập[27]
STT Tên
chính thức Chuyên ngành
Năm thành
lập
Số
sinh
viên
Địa bàn Loại
hình
21
Trường Đại học
Kiến trúc Hà
Nội
Kiến trúc[29]
17/9/1969[29]
Quận
Thanh
Xuân[29]
Công
lập[29]
22
Trường Đại học
Kinh doanh và
Công nghệ Hà
Nội
Kinh
doanh, công
nghệ[29]
1996[30]
Quận Hai
Bà
Trưng[31]
Tư
thục[32]
23
Trường Đại học
Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội
Kinh tế, kinh
doanh, quản
trị[33]
1974[33]
Quận Cầu
Giấy[33]
Công
lập[33]
24
Trường Đại học
Kinh tế - Kỹ
thuật Công
nghiệp
Kinh tế - Kỹ
thuật[34]
1956
[35]
Quận Hai
Bà Trưng
Công
lập[35]
25
Trường Đại học
Kinh tế Quốc
dân
Kinh tế 25/1/1956[36]
Quận Hai
Bà
Trưng[36]
Công
lập[36]
26
Trường Đại học
Kỹ thuật Lê Quý
Đôn
Kỹ thuật 1966
Quận Cầu
Giấy
Quân
sự
27
Trường Đại học
Lao động - Xã
hội
Kinh tế, lao
động, xã hội 2005
Quận Cầu
Giấy[37]
Công
lập
28
Trường Đại học
Lâm nghiệp Việt
Nam
Đa ngành[38]
1964[39]
Huyện
Chương
Mỹ[39]
Công
lập[39]
29 Trường Đại học
Luật Hà Nội
Pháp luật 1979
Quận
Đống Đa
Công
lập
30 Trường Đại học
Mỏ - Địa chất
Đa ngành 1966[42]
Quận Bắc
Từ
Liêm[43]
Công
lập[42]
31
Trường Đại học
Mỹ thuật Công
nghiệp Hà Nội
Mỹ thuật
Quận
Đống Đa
Công
lập
STT Tên
chính thức Chuyên ngành
Năm thành
lập
Số
sinh
viên
Địa bàn Loại
hình
32
Trường Đại học
Mỹ thuật Việt
Nam
Mỹ thuật 27/10/1924
Quận Hai
Bà Trưng
Công
lập
33
Trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại
học Quốc gia Hà
Nội
Ngoại ngữ 1955
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
34 Trường Đại học
Ngoại thương
Kinh tế, thương
mại 15/10/1960
Quận
Đống Đa
Công
lập
35 Trường Đại học
Nguyễn Trãi
Đa ngành 05/02/2008
Quận Ba
Đình
Tư
thục
36 Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội
Nội vụ 2011
Quận Tây
Hồ
Công
lập
37 Trường Đại học
Phương Đông
Đa ngành 1994
Quận Cầu
Giấy
Tư
thục
38 Trường Đại học
Quốc tế Bắc Hà
Kinh tế, xây
dựng, kĩ thuật 2007
Quận
Thanh
Xuân
Tư
thục
39 Trường Đại học
Răng Hàm Mặt
Y khoa răng
hàm mặt 15/10/2002
Quận
Hoàn
Kiếm
Công
lập
40
Trường Đại học
Sân khấu - Điện
ảnh Hà Nội
Nghệ thuật 17/12/1980
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
41 Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội
Sư phạm 11/10/1951
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
42
Trường Đại học
Sư phạm Nghệ
thuật Trung
ương
Nghệ thuật 1970
Quận
Thanh
Xuân
Công
lập
43
Trường Đại học
Sư phạm Thể dục
Thể thao Hà Nội
Thể dục thể
thao 8/1961
Huyện
Chương
Mỹ
Công
lập
STT Tên
chính thức Chuyên ngành
Năm thành
lập
Số
sinh
viên
Địa bàn Loại
hình
44
Trường Đại học
Tài chính Ngân
hàng Hà Nội
Tài chính, ngân
hàng 21/12/2010
Quận Bắc
Từ Liêm
Tư
thục
45
Trường Đại học
Tài nguyên và
Môi trường Hà
Nội
Tài
nguyên, môi
trường
23/3/2010
Quận Bắc
Từ Liêm
Công
lập
46 Trường Đại học
Thành Đô
Đa ngành 27/5/2009
Huyện
Hoài Đức
Tư
thục
47 Trường Đại học
Thành Tây
Đa ngành 10/10/2007
Quận Hà
Đông
Tư
thục
48 Trường Đại học
Thăng Long
Đa ngành[44]
1988[45]
Quận
Hoàng
Mai[45]
Tư
thục[45]
49 Trường Đại học
Thủ đô Hà Nội
Đa ngành 6/1/1959
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
50 Trường Đại học
Thủy lợi
Kỹ thuật,Thủy
lợi 1959
Quận
Đống Đa
Công
lập
51 Trường Đại học
Thương mại
Thương mại 1960
Quận Cầu
Giấy
Công
lập
52 Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội
Văn hóa 26/3/1959
Quận
Đống Đa
Công
lập
53 Trường Đại học
Xây dựng
Đa ngành ,Xây
dựng 1966
Quận Hai
Bà Trưng
Công
lập
54 Trường Đại học
Y Hà Nội
Y khoa 1902
Quận
Đống Đa
Công
lập
55 Trường Đại học
Y tế Công cộng
Y khoa 26/4/2001
Quận Ba
Đình
Cơ sở mới
hoạt động
từ 2016:
Quận Bắc
Từ Liêm
Công
lập
Các học viện tại Hà Nội
STT Tên chính
thức Chuyên ngành
Năm
thành lập Địa bàn Loại hình
1
Học viện
Âm nhạc
Quốc gia
Việt Nam
Âm nhạc 1956 Quận Đống Đa Công lập
2
Học viện
Thiết kế và
Thời trang
London
Mỹ thuật ứng dụng 2004 Quận Tây Hồ Tư thục
3
Học viện
Báo chí và
Tuyên
truyền
Văn hoá, báo
chí và truyền thông 16/1/1962
Quận Cầu
Giấy Công lập
4 Học viện
Biên phòng
Biên phòng 20/5/1963 Thị xã Sơn
Tây
Đại học
Quân sự
5
Học viện
Công nghệ
Thông tin
Bách Khoa
CNTT 2004 Quận Hai Bà
Trưng
Học
việnCNTT
6
Học viện
Công nghệ
Bưu chính
Viễn thông
Kĩ thuật, công nghệ 1997 Quận Hà Đông Công lập
7 Học viện
Chính trị
Chính trị 25/10/1951 Quận Hà Đông Công lập
STT Tên chính
thức Chuyên ngành
Năm
thành lập Địa bàn Loại hình
8
Học viện
Chính trị -
Hành chính
Quốc gia
Hồ Chí
Minh
Chính trị - Hành
chính 1945
Quận Cầu
Giấy Công lập
9 Học viện
Hành chính
Khoa học hành
chính 29/5/1959 Quận Đống Đa Công lập
10
Học viện
Kỹ thuật
Mật mã
Mật mã 17/02/1995 Huyện Thanh
Trì Công lập
11 Học viện
Ngân hàng
Kinh tế ngân hàng 1961 Quận Đống Đa Công lập
12 Học viện
Ngoại giao
Quan hệ quốc
tế, luật QT, kinh
tế QT, ngoại
ngữ QHQT
17/6/1959 Quận Đống Đa Công lập
13
Học viện
Nông
nghiệp Việt
Nam
Đa ngành 1956 Huyện Gia
Lâm Công lập
14
Học viện
Phụ nữ
Việt Nam
Đa ngành 1960 Quận Đống Đa Công lập
15
Học viện
Quản lý
Giáo dục
Quản lý giáo dục 2006 Quận Thanh
Xuân Công lập
16
Học viện
Tư pháp
Việt Nam
Tư pháp 2004 Quận Cầu
Giấy Công lập
17 Học viện
Tài chính
Tài chính 1963 Quận Hoàn
Kiếm (trụ sở)
và quận Bắc
Công lập
STT Tên chính
thức Chuyên ngành
Năm
thành lập Địa bàn Loại hình
Từ Liêm (Cơ
sở đào tạo
chính quy)
18 Học viện
Quân y
Y khoa 1949 Quận Hà Đông Đại học
quân sự
19
Học viện Y
dược học
cổ truyền
Việt Nam
Y khoa 02/02/2005 Quận Hà Đông Công lập
20
Học viện
Chính sách
và Phát
triển
Chính sách, kế
hoạch, đầu tư 04/01/2008
Quận Cầu
Giấy Công lập
21
Học viện
Thanh thiếu
niên Việt
Nam
Thanh thiếu
niên, đoàn 1995 Quận Đống Đa Công lập
22
Viện Đại
học Mở Hà
Nội
Đa ngành 1993 Quận Hai Bà
trưng Công lập
23
Học viện
An ninh
Nhân dân
An ninh 25/6/1946 Quận Hà Đông Đại học
Công an
24 Học viện
Cảnh sát Cảnh sát 15/5/1968
Quận Bắc Từ
Liêm
Đại học
Công an
STT Tên chính
thức Chuyên ngành
Năm
thành lập Địa bàn Loại hình
Nhân dân
25
Học viện
Phòng
không -
Không
quân
Không quân 16/07/1964 Thị xã Sơn
Tây
Đại học
Quân sự
26
Trường Sĩ
quan Đặc
công
Đặc công 20/7/1967 Huyện Chương
Mỹ
Đại học
Quân sự
27
Trường Sĩ
quan Pháo
binh
Pháo binh 18/2/1957 Thị xã Sơn
Tây
Đại học
Quân sự
28
Trường Sĩ
quan Phòng
hóa
Phòng hóa 21/9/1976 Thị xã Sơn
Tây
Đại học
Quân sự
29
Trường Sĩ
quan Lục
quân 1
Lục quân 15/4/1945 Thị xã Sơn
Tây
Đại học
Quân sự