hiệu quả sxkd cty dệt may hn
DESCRIPTION
Hiệu Quả Sxkd Cty Dệt May HNTRANSCRIPT
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi nền kinh tế thị trường phát triển, các doanh nghiệp nhà nước cũng dần
dần hoạt động một cách thụ động chỉ tiêu sản lượng sản xuất và đầu ra của sản
phẩm đều do nhà nước trực tiếp chỉ định mà cụ thể là do kế hoạch của các cấp bộ,
ngành chủ quản. Cung cách làm việc đó trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh có
sự tham gia điều tiết của nhà nước là không còn phù hợp nữa. Trong cơ chế mới
này các doanh nghiệp nhà nước cũng như các tư nhân nhất thiết phải hoạt động một
cách linh hoạt, trực tiếp, tiếp cận thị trường, cải tiến chất lượng mẫu mã và hạ giá
thành sản phẩm. Có như vậy mới tạo được uy tín trên thương trường và tự tìm đầu
ra cho sản phẩm của mình.
Đây là luận điểm hoàn toàn đúng đắn, vừa có cơ sở lý luận và thực tế cho thấy
hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nền kinh tế thị trường của
mọi doanh nghiệp là một đơn vị sản phẩm hàng hoá với mục đích để bán và kiếm
được nhiều lời.
Do vậy trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn
liền với việc xác định phương án của sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó chúng ta
cần phải có một quá trình thử nghiệm, tích luỹ kinh nghiệm thông qua việc sắp xếp
sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng cao tay nghề cán bộ CNV nhanh chóng tạo
nguồn vốn ngoại tệ cho đất nước nhằm tạo điều kiện du nhập kỹ thuật công nghệ
tiên tiến, giải quyết công ăn việc làm góp phần làm ổn định và từng bước nâng cao
đời sống cho nhân dân.
Công ty Dệt may Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty
Dệt may Hà nội, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất đã và đang làm ăn có hiệu quả.
Công ty chuyên sản xuất hàng may mặc đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Là một đơn vị hạch toán độc lập trong cơ chế thị trường do sự cạnh tranh nên
việc nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, bảo đảm thu bù chi và có lãi là một
vấn đề tối quan trọng có thể giúp công ty tiếp cận thị trường và khai thác những lợi
thế của mình. Qua đó nới rộng hợp tác quốc tế thu hót vốn đầu tư nước ngoài. Công
ty còn sản xuất các loại sản phẩm như: các loại sợi đơn, sợi xe có chất lượng cao,
1
các loại vải dệt kim, thành phẩm các loại khăn bạt lều xuất khẩu. Công ty ngày
càng được mở rộng cả trong nước và nước ngoài.
Với những kiến thức đã học ở trường và những hiểu biết thực tế thu thập được
trong quá trình thực tập tại công ty Dệt may Hà nội để thấy được những khó khăn,
điểm mạnh, điểm yếu để nâng cao hiệu quả và phát huy, sử dụng các nguồn nhân,
tài, nội lực để đưa ngành công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ tay nghề phục vụ
công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy em chọn chuyên đề: Nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt may Hà nội làm luận văn tốt
nghiệp.
Do trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên trong bản chuyên đề này không
thể không thiếu những sai sót. Vì vậy, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo về chuyên môn để em có thêm những hiểu biết, kinh nghiệm trong việc hoàn
thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Dương Chí Thảo cùng toàn
thể các cán bộ công nhân viên Công ty Dệt may Hà nội đã tận tình giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành đợt thực tập này.
2
Phần I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QỦA CỦA SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÔNG TY.
I.SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI NÂNG CAO HIỆU QỦA SẢN XUẤT
KINH DOANH:
1.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung sự
phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong
quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày
càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dùa cơ bản để đánh giá
việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
2.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn nhân tài vật lực sẵn có của công ty để tạo ra được kết quả cao nhất
với chi phí thấp nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được trong
quá trình sản xuất kinh doanh mà cụ thể là trong quá trình sản xuất, phân phối lưu
thông và mới chỉ đáp ứng phần nào yêu cầu tiêu dùng cá nhân và xã hội. Tuy nhiên
kết quả đóng góp được tạo ra ở mức độ nào với giá thành như thế nào là vấn đề cần
phải xem xét thì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra chất lượng. Mặt khác
nhu cầu của con người bao giê cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ, vì
vậy con người luôn quan tâm tới việc làm sao cho với khả năng hiện có lại làm ra
được nhiều sản phẩm.
Trong công tác quản lý kinh tế, phạm trù hiệu quả kinh tế luôn phải được đặt
ra đúng với tầm quan trọng của nó vì trong một chế độ xã hội, tốc độ phát triển của
nền kinh tế, nhịp độ nâng cao về mức sống về vật chất và tinh thần của nhân dân
không hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh tế. Tuy vậy, hiệu quả không phải là
vấn đề đã được giải quyết triệt để và được quan niệm một cách thống nhất trong lý
luận cũng như trong thực tiễn. Thật khó mà xác định đánh giá mức độ đạt hiệu quả
3
kinh tế khi bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện
cụ thể.
Vì vậy hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế là một vấn đề không những về
lý luận mà còn rất cần thiết đối với hoạt động thực tiễn sẽ tăng thêm nhận thức về
tầm quan trọng cách tính toán, cũng như xác định yêu cầu đối với việc đề cập ra
mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả của lao động xã hội, được xét bằng cách
so sánh giữa lực lượng kết quả hữu Ých cuối cùng thu được với lượng hao phí lao
động xã hội. Do đó thước đo của hiệu quả và sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội
và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dùa trên
các nguồn lực sẵn có. Như vậy, đứng trên góc độ của nền kinh tế quốc dân, việc
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của một doanh nghiệp luôn luôn gắn chặt với hiệu
quả kinh tế của xã hội. Mang lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị và phải đảm bảo mang
lại hiệu quả cho ngành, cho địa phương và cơ sở.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa đầu vào và đầu
ra, giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu lại. Hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp
phải được xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian với hiệu
quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh
tế.
Về mặt thời gian: Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn,
trong từng thời kỳ kinh doanh không được là giảm sút hiệu quả kinh tế của các giai
đoạn, các thời kỳ và các kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp
không chỉ vì những lợi Ých trước mắt mà quên đi những lợi Ých lâu dài. Trong
thực tế kinh doanh điều này rất dễ xẩy ra khi con người khai thác sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và các nguồn lao động. Không thể coi là việc giảm chỉ để tăng
thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các chi phí cải
tạo môi trường tự nhiên, cải tạo đất đai bảo đảm cân bằng hệ sinh thái, đổi mới kỹ
thuật, nâng cao trình độ người lao động... cũng không thể coi là hiệu quả được khi
xoá bỏ hợp đồng với khách hàng tín nhiệm để chạy theo hợp đồng khác có nhiều lợi
nhuận hơn nhưng không ổn định.
4
*Về mục không gian: HĐKD chỉ có thể coi là đạt được một cách toàn diện
khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận phân xưởng tổ lại, hiệu quả và không ảnh
hưởng tới hiệu quả chung. Mỗi hiệu quả từ một giải pháp kinh tế, tổ chức kỹ thuật
hay hoạt động nào đó trong từng đơn vị nội bộ hoặc toàn đơn vị nếu không làm
tổn hại đến hiệu qủa chung thì mới được coi là hiệu quả, mới trở thành mục tiêu
phấn đấu về tiêu chuẩn đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Điều đó
đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp phải đảm bảo nâng cao
hiệu qủa kinh tế cảu cả nước cả địa phương và đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các
tỉnh.
*Về mặt định lượng: hiệu quả kinh tế phải được thể hiện ở mức tương quan
giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến
mức tối đa các chi phí kinh doanh mà thực chất là hao phí thời gian để tạo ra 1 đơn
vị sản phẩm đồng thời khả năng sẽ có làm ra nhiều sản phẩm có Ýt hơn và tốc độ
tăng hao phí xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải tăng hơn mức tăng của
tổng sản phẩm xã hội. Tên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp
đạt được phải gắn chặt với hiệu quả đem lại cho xã hội, hiệu quả cao cho doanh
nghiệp, cho cá nhân doanh nghiệp chưa đủ mà còn đòi hỏi mang laị hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp với hiệu quả của xã hội (cả về mặt kinh tế lẫn về mặt xã
hội) gắn chặt hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả của toàn xã hội là
1 đặc trưng riêng, có thể nói là ưu việt của nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã
hội.
*Về định tính: hàng kinh tế phải gắn chặt giữa hiệu quả về chính trị xã hội.
Mục tiêu kinh tế phải bị chi phí bởi hiệu quả chính trị và xã hội. Bản thân 2 mặt
“chính trị” và “xã hội” có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Bởi vậy vừa tính hiệu
quả kinh tế ra khỏi hiệu quả chính trị và xã hội là không đúng đắn, là xa rời bản
chất chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong trường hợp kinh tế và chính trị là 2 mặt có tính
chất quyết định khi lùa chọn một giải pháp kinh tế, mặc dù xét về kinh tế nó chưa
hoàn toàn thỏa mãn.
Biểu hiện tập chung nhất của hiệu quả là lợi nhuận của doanh nghiệp. Có thể
nói mục tiêu số 1 của kinh doanh là lợi nhuận, lợi nhuận chi phối toàn bộ quá trình
5
kinh doanh và không có lợi nhuận thì không có kinh doanh. Để đạt được hiệu quả
cao nhất trên cùng một cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư, tiền vốn, lao động cần thiết
phải nắm được các nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ xu hướng ảnh hưởng của từng
nguyên nhân đến hiệu quả công việc của mình.
II.PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HÀNH ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH
1-Quan điểm cơ bản trong việc đánh giá trong việc sản xuất kinh doanh.
Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh thường được biểu hiện thành các
chỉ tiêu kinh tế dưới sự tác động của các nguyên tố. Do đó khi phân tích kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh ta mới phân tích tới quá trình định tính, cần phải
lượng hoá các chỉ tiêu là nhân tố ở những trị số xác định. Vì vậy để đánh giá kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách đúng đắn nhằm rót
ra những thiếu sót, những hướng đi mới, cần phải có một hệ thống phương pháp
đánh giá một cách khoa học để rót ra những kết luận về những hiện tượng và quá
trình kinh tế.
+Phương pháp chi tiết: Chi tiết các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Các chỉ tiêu
biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành
bộ phận biểu hiện chi tiết về một khía cạnh nhất định của kết quả kinh doanh. phân
tích chi tiết các chỉ tiêu cho phép đánh giá một cách chính xác cụ thể kết quả kinh
doanh đạt được.
Khi phân tích kết quả sản xuất ta chỉ có chỉ tiêu giá trị sản lượng được chi tiết
theo các bộ phận sau: giá trị thành phẩm làm bằng nguyên liệu của doanh nghiệp,
giá trị sản phẩm dở dang, giá trị sản phẩm tự chế.
Chi tiết thời gian kết quả kinh doanh bao giê cũng là kết quả của một quá
trình. Trong sản xuất kinh doanh kết quả đạt được trong từng thời kỳ khác nhau là
khác nhau. Thậm chí chi tiết theo thời gian giúp ta đánh giá được nhịp điệu, tốc độ
phát triển của kinh doanh qua từng thời kỳ.
+Phương pháp so sánh: là đối chiếu, các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã
được lưỡng hoá để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu. Nó cho
6
phép ta tổng hợp được những nét chung, tách ra được những nét riêng của các hiện
tượng so sánh. Trên cơ sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay kém phát triển,
hiệu quả hay không hiệu quả để tìm ra các giải pháp hợp lý cho từng trường hợp cụ
thể, thông qua phương pháp so sánh chóng ta thấy được sự tăng trưởng và phát
triển hay là những bước đi thụt lùi đối với một số hoạt động của doanh nghiệp. Vì
vậy trong phương pháp này ta phải so sánh mức hiệu quả giưã các năng lực như thế
nào.
Có nhiều phương pháp so sánh khác nhau nhưng bắt buộc phải xác định số gốc
để so sánh, xác định điều kiện so sánh và mục tiêu so sánh.
+So sánh các số liệu thực hiện với số liệu hơn trước để đánh giá mức độ biến
động so sánh mục tiêu đề ra
+So sánh số liệu kỳ này so với số liệu của kỳ trước giúp ta nghiên cứu nhịp độ
biến động, tốc độ tăng trưởng của hiện tượng
+So sánh số liệu cuả thời gian này so với số liệu cùng kỳ của thời gian trước
để thấy được nhịp điệu kinh doanh trong từng khoảng thời gian.
+So sánh số liệu của doanh nghiệp mình với số liệu của doanh nghiệp khác
tương đương hay doanh nghiệp điển hình hay doanh nghiệp thuộc đối thủ cạnh
tranh giúp ta đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay thì việc xem xét hiệu quả kinh tế trong sù so sánh là
một điều rất quan trọng ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là cho phép ta tách
ra được những nét chung, những nét riêng của các hiện tượng được so sánh trên cơ
sở đó đánh giá được các mặt phát triển hay yếu kém để từ đó tìm ra các giải pháp
tối ưu trong mỗi trường hợp cụ thể.
III.HỆ THỐNG CHỈ TIÊU DÙNG ĐỂ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH
Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được
thực hiện trên cơ sở phân tích từng phần, sau đó tổng hợp lại và hướng vào mục
tiêu chung của hiệu quả là lợi nhuận, trên cơ sở đó rót ra những nhận định đúng đắn
7
về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
một doanh nghiệp bao gồm những bước sau:
-Đánh giá chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp
-Đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh
-Phân tích hiệu quả tiêu dùng của sản xuất kinh doanh thông qua chỉ tiêu lợi
nhuận 1.Chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có thể được tính theo cách sau
*Hiệu quả sản xuất kinh doanh tính theo dạng hệ số
Theo cách tính này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tính
bằng cách lấy tổng gía trị đầu ra (kết quả sản xuất kinh doanh) trừ đi toàn bộ chi phí
đầu vào)
Hqsxkd = Kết quả đầu ra – chi phí đầu vào
*Hiệu quả sản xuất kinh doanh tính theo dạng tỷ lệ:
Hqsxkd =
Với chỉ tiêu này phản ảnh kết quả cuối cùng đạt được trên một đồng chi phí bỏ
ra. Như vậy cách tính thứ hai đã khắc phục được nhược điểm của cách tính thứ
nhất. Không thể nó còn tạo điều kiện nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh một
cách toàn diện hơn, cách tính này cho phép đánh giá hiệu quả toàn bộ chi phí đã chi
ra, bao gồm cả chi phí lao động sống, lao động vật hoá để đạt được kết quả cuối
cùng là lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh.
*Tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả
Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần phải dùa
vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu
phấn đấu. Cũng có thể nói rằng doanh nghiệp có đạt được những tiêu chuẩn này
mới có thể đạt được các tiêu chuẩn về kinh tế, chính trị xã hội. Hệ thống tiêu chuẩn
gồm
8
-Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường phải tuân theo sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước theo hệ thống pháp luật hiện hành
-Phải kết hợp hài hoà giữa 3 loại lợi Ých cá nhân, tập thể và Nhà nước. Tuyệt
đối không vì lợi Ých cá nhân mà làm tổn hại tới lợi Ých tập thể và lợi Ých xã hội
-Lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được phải dùa trên cơ sở vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá
-Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp (C+M) tính trên một lao động phải
thường xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này phản ánh chính xác hiệu quả kinh doanh và
hiệu quả lao động, một yếu tố quyết định nhất, loại trừ ảnh hưởng được yếu tố C
trong giá trị của hàng hoá. Sử dụng tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu chuẩn hiệu quả
của nền sản xuất xã hội là tính thu nhập quốc dân theo đầu người... Tiêu chuẩn thu
nhập thuần tuý tính trên một lao động được xác định như sau:
TNbq =
Trong đó TNbq: Thu nhập thuần tuý bình quân tính /1 lao động
(Ci+Vi+Mi) x Qi-CiQi: Giá trị của 1 sản phẩm loại i
Qi: Sản lượng sản phẩm hàng hoá loại i
Ci: Giá trị tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất 1 loại sản phẩm i
Tđ: Sản lượng lao động sử dụng trong kinh doanh
+Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động trong quá trình sản xuất kinh
doanh:
Năng suất lao động =
Chỉ tiêu trên phản ánh sự tác động của các biện pháp biến việc sử dụng số
lượng và chất lượng lao động để tăng nhanh hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trên đơn vị chi phí về lao động.
+Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tư liệu, máy móc thiết bị trong sản xuất kinh
doanh:
Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị =
9
(Tổng giá trị thiết bị)
Chỉ tiêu này cho thấy trình độ sử dụng tài sản cố định trong sản xuất kinh
doanh. Nó phản ánh sự tác động của các biện pháp đến việc sử dụng các yếu tố về
kỹ thuật nhất là máy móc thiết bị, trang bị công nghệ. Với chỉ tiêu này sẽ giúp
doanh nghiệp kiểm soát được sự tiêu hao vật tư, nguyên liệu của mình, vì nếu như
máy móc thiết bị quá cũ thì việc tiêu hao vật tư, nguyên liệu sẽ nhiều hơn đưa đến
giá thành sản phẩm sẽ tăng cao. Như vậy nhờ chỉ tiêu trên mà thấy được công suất,
hiệu quả hoạt động của máy móc để từ đó có hướng đầu tư tài sản cố định cho thích
hợp như các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị trong doanh
nghiệp.
+Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng đối tượng vật tư, nguyên vật liệu trong quá trình
sản xuất kinh doanh
Hiệu suất sử dụng vật tư-NVL =
Đây là chỉ tiêu khá quan trọng vì với chỉ tiêu này phản ánh giá trị tổng sản
lượng của doanh nghiệp đạt được là bao nhiêu/1 đồng giá trị vật tư, nguyên vật liệu
bỏ ra, điều này có ý quyết định đến giá thành sản phẩm. Hiện nay để cạnh tranh
được trên thương trường thì một trong những mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp
là hạ giá thành sản phẩm, muốn vậy phải kiểm soát được chi phí đầu vào nắm được
việc tiêu hao nguyên liệu. Vì vậy với chỉ tiêu này sẽ giúp các doanh nghiệp đánh
giá được mức tiêu hao nguyên vật liệu như thế nào trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
+Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn
-Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất:
Hiệu suất đồng vốn sản xuất =
Các chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn trên đây mang tính chất chung
cho tổng vốn sản xuất bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Nó cho biết một
đơn vị vốn bỏ ra sản xuất kinh doanh thì làm ra được mấy đơn vị sản lượng.
10
III.MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH
SẢN XUẤT KINH DOANH
Không ngừng nâng cao hiệu quả không chỉ là một mối quan tâm hàng đầu của
bất kể xã hội nào mà còn là mối quan tâm của bất kể ai, khi làm bất cứ việc gì. Đây
cũng là vấn đề bao trùm xuyên suốt và thể hiện chất lượng của toàn bộ quá trình
quản lý kinh tế. Bởi vì suy cho cùng quản lý kinh tế đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu
quả cao nhất của mọi quá trình, của mỗi giai đoạn trong kinh doanh. Tất cả những
cải tiến, những đổi mới về nội dung, phương pháp, biện pháp quản lý chỉ thực sự
mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi nó làm tăng được kết quả kinh doanh và qua đó làm
tăng hiệu quả kinh doanh
Đối với một doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất
lượng, phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn
của doanh nghiệp đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh hiện
nay, yếu tố cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Một doanh nghiệp muốn tồn tại
và phát triển trước hết hoạt động sản xuất kinh doanh của nó phải thực sự có hiệu
quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao thì lợi nhuận thu được càng nhiều, doanh
nghiệp càng có điều kiện mở mang và phát triển, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị,
phương tiện kinh doanh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình công
nghệ mới, cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động và thực hiện tốt nghĩa
vụ đối với ngân sách Nhà nước.
Phân tích đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là điều nghiên cứu
nội dung kết cấu và các mối quan hệ qua lại giữa các số liệu hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp bằng những phương pháp khoa học nhằm thấy được
hoạt động chất lượng của các nguồn năng lực sản xuất tiềm năng, trên cơ sở đó tìm
ra được những mặt mạnh, mặt yếu để đề ra những biện pháp khắc phục và khai thác
một cách có hiệu quả tổng thể các nguồn lực, tài lực, vật lực hiện có của một doanh
nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế đang ở giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập trung
quan liệu bao cấp sang cơ chế thị trường nước ta hiện nay, vấn đề hàng đầu đặt ra
đối với các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế. Đề đạt được hiệu quả kinh tế cao
11
đứng vững và phát triển trên thị trường doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra,
đánh giá mọi biến động và kết quả kinh doanh như: Tình hình sản xuất, tiêu thụ,
diễn biến thị trường, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm thúc đẩy
tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng hợp lý lao động, vật tư, tài sản cố định, nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm; hạ giá thành, tăng lợi nhuận kinh tế. Công tác
trên chỉ thực sự tốt khi dùa trên cơ sở phân tích hiệu quả kinh tế.
Như vậy nếu không tiến hành phân tích hoạt động kinh tế thì không thể quản
lý được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích và đánh giá hiệu
quả là công cụ không thể thiếu được, là một giai đoạn của quá trình quản lý là cơ sở
để đề ra quyết định đúng đắn của các cấp quản lý.
-Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội nói chung của từng doanh nghiệp nói riêng
là một yêu cầu cảu quy luật tiết kiệm.
-Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh thực sự là việc tổ chức
và quản lý sản xuất có hiệu quả và hợp lý giữa các yếu tố sản xuất.
Để không ngừng thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, với quy mô ngày
càng tăng, việc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Đặc biệt trong sản xuất kinh
doanh nâng cao hiệu quả kinh tế cho bộ phận sản xuất thực chất là làm tăng hiệu
quả sản xuất (tăng khối lượng sản phẩm hàng tiêu thụ, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập
cán bộ, công nhân viên) tạo ra trên một đơn vị chi phí sản suất (lao động, vật tư,
tiền vốn) hay tiết kiệm đủ cho một đơn vị kết quả sản xuất hữu Ých.
+ Về nhân lực
+ Về máy móc thiết bị
+ Về nguyên liệu
-Nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu cuối cùng của các đơn vị sản xuất kinh
doanh.
Việc nghiên cứu để tạo điều kiện đầu vào giảm xuống và việc quản lý các yếu
tố trong quá trình sản xuất làm sao cho hạ giá thành sản phẩm và cuối cùng làm
tăng kết quả đầu ra là công việc hết sức cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp
12
nào. Chỉ có nâng cao được hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh thì các
doanh nghiệp mới tồn tại và có khả năng mở rộng sản xuất.
Do đó khi xem xét, đánh giá hiệu quả cần phải đảm bảo đầy đủ những quan
điểm cơ bản sau:
+ Đảm bảo sự thống nhất giưã nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh phải xuất từ mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước, trước
hết thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của nhà nước
giao cho doanh nghiệp vì đó là nhu cầu và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển
cân đối của nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá.
+ Đảm bảo sự kết hợp hài hoá lợi Ých và xã hội; lợi Ých tập thể và lợi Ých
người lao động.
Quan điểm này đòi hỏi sự nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và thoả
mãn những mối quan hệ lợi Ých trên, trong đó lợi Ých của người lao động được
xem là động lực trực tiếp: Bởi lẽ người lao động là yếu tố quyết định nâng cao hiệu
quả kinh doanh, hiệu quả kinh doanh mang lại phải được thoả mãn cho nhu cầu
người lao động, cho tập thể, cho Nhà nước.
+ Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh:
Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất
phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá cảu ngành,
của địa phương, của cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét, đánh giá hiệu quả
kinh doanh phải coi trọng tất cả các hoạt động, lĩnh vực của quá trình kinh doanh và
xem xét đầy đủ mối quan hệ, tương quan qua lại của các tổ chức.
+Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu biện pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của ngành,
của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy mới có đủ
13
cơ sở khoa học và thực tiễn đảm bảo lòng tin cho người lao động, hạn chế được
những rủi ro, tổn thất.
+Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu
quả kinh doanh.
Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán đánh giá hiệu quả một mặt phải căn cứ
vào số lượng sản phẩm đã tiêu thụ và giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo
giá cả thị trường, mặt khác phải tính đủ chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá đó. Ngoài ra còn đòi hỏi các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn, hợp
lý sản lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm khi cần thiết trong quá trình kinh
doanh tiếp theo.
14
Phần II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
I.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY DỆT MAY
HÀ NỘI:
1.Khái quát về công ty Dệt May Hà Nội.
-Tên đầy đủ về doanh nghiệp: Công ty Dệt May Hà Nội
-Tên giao dịch: HANOSIMEX
-Tên giám đốc: Phạm Hoàng Ân
-Địa chỉ: Số 1 Mai Động-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội
-Điện thoại: 8624619- FAX: 844.8622334
-Email: hanosimex ha.ma.vn
-Giấy phép thành lập số: 105927, ngày cấp: 2-4-1993
-Vốn pháp định: 128.239.554.910đ
-Vốn điều lệ: 161.304.334.701đ
-Vốn kinh doanh: 161.304.334.701đ
-Số lượng nhân viên: 5200 người
-Ngành nghề kinh doanh:
+Mặt hàng kinh doanh: sợi, vải dệt kim, vải dệt trơn, vải sản phẩm may.
+Xuất khẩu: Sợi vải dệt trơn, sản phẩm may, khăn
+Nhập khẩu: Hoá chất-thuốc nhuộm, bông xơ, phụ tùng.
-Tài khoản tiền Việt: 710 A00022 Ngân hàng công 2 quận Hai Bà Trưng-Hà
Nội.
-Tài khoản ngoại tệ: 710 D00022 Ngân hàng ngoại tệ
15
-Doanh thu xuất khẩu 1999: 178.645 triệu đồng.
-Đã được cấp chứng chỉ IS0-90002
2.Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tiền thân của Công ty Dệt May là Xí nghiệp Dệt May Hà Nội.
Ngày 7-4-1978: Tổng công ty nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng
UNIONMATEX (CHLB Đức) chính thức ký hợp đồng xây dựng nhà máy Sợi Hà
Nội.
Tháng 12/1979 khởi công xây dựng nhà máy
Tháng 1/1982 công nhân, kỹ sư Việt Nam cùng với các chuyên gia CHLB
Đức, Bỉ, Hà Lan, ITalia bắt đầu lắp đặt thiết bị công nghệ và phụ trợ.
Tháng 10/1982 những chiếc máy kéo đầu tiên của phân xưởng sợi II (sợi
bông) đã bắt đầu hoạt động với một dây truyền công nghệ cao bao gồm 31 máy
chải, 11 máy ghép, 10 máy thô, 65 máy sợi con, 10 máy ống, 3500 cột sợi với công
suất thiết kế 4000 tấn/năm sản xuất ra các loại sợi bông có chỉ số Nm 54, Mn 40,
Nm 41. Phấn khởi trước những thành tích đạt được, cán bộ CNV nhà máy ra sức thi
đua hoàn thành một lúc hai nhiệm vụ: vừa tiến hành lắp ráp phân xưởng sợi I (sợi
pha), vừa chuẩn bị lao động để phân xưởng sợi pha bước vào hoạt động
Tháng 6/1983 phân xưởng sợi pha bắt đầu hoạt động với dây chuyền sản xuất
bao gồm 40 máy chải, 20 máy ghép, 118 sợi con, 13 máy ống, 450.000 cọc sợi với
công suất thiết kế 4000 tấn/năm, sản xuất ra các loại sợi Fa chỉ số Nm 76, Nm 102.
Cùng với hai phân xưởng chính, các phân xưởng động lực và phân xưởng cơ
khí cũng đi vào hoạt động phục vụ hỗ trợ cho ba phân xưởng chính.
Ngày 21/11/1984 hoàn thành các hạng mục cơ bản và chính thức bàn giao
công trình cho nhà máy quản lý và điều hành.
Tháng 10/1985 nhà máy thành lập thêm phân xưởng sản xuất phụ để tận dụng
bông phế bị loại ra trong quá trình sản xuất chính để sản xuất khăn bông với sản
lượng 4000 c/năm.
16
Tháng 12/1989 Nhà máy thành lập thêm phân xưởng dệt kim ra đời. Dây
chuyền sản xuất bao gồm nhiều loại máy với chất lượng cao, có công suất 190.000
sản phẩm quần áo các loại/năm và 300 tấn vải các loại.
Tháng 4/1990 Bé kinh tế đối ngoại cho phép nhà máy được kinh doanh xuất
nhập khẩu trực tiếp tên giao dịch đối ngoại là HANOXIMEX.
Ngày 30/4/1991 căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất theo quyết định số 138/QĐ, và
139/QĐ đổi tên Nhà máy Sợi Hà Nội thành Xí nghiệp liên hợp sợi-dệt kim Hà Nội.
Từ đó các phân xưởng trở thành các nhà máy trực thuộc Xí nghiệp liên hợp.
Tháng 6/1993 xây dựng dây chuyền dệt kim sè II và tháng 3/1994 đưa vào sử
dụng.
Ngày 19/5/1993 khánh thành nhà máy Dệt Kim
Tháng 10/1993 Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định sát nhập nhà máy sợi (Vinh-
Nghệ An)vào Xí nghiệp liên hiệp.
Tháng 1/1995 khởi công xây dựng nhà máy thuê Đông Mỹ.
Tháng 3/1995 Công ty Dệt Hà Đông cũng chính thức trở thành nhà máy thành
viên của Xí nghiệp liên hiệp.
Ngày 2/9/1995 khánh thành nhà máy thuê Đông Mỹ. Xí nghiệp liên hiệp đã
đưa thêm một nhà máy thành viên vào hoạt động. Để phù hợp với cơ chế quản lí và
thuận tiện trong việc giao dịch điều hành. Tháng 6/1995 Bộ Công nghiệp nhẹ quyết
định đổi tên Xí nghiệp liên hiệp sợi-Dệt kim Hà Nội thành Công ty Dệt Hà Nội (tên
giao dịch là HANOSIMEX) nay là Công ty Dệt May Hà Nội
Như vậy cho đến nay Công ty Dệt May Hà Nội có 8 nhà máy thành viên
(trong đó nhà máy Dệt Kim gồm 2 thành viên nhỏ là nhà máy Dệt Nhuộm và nhà
máy May Hà Nội) và một tổ dịch vụ và sản xuất xây dựng. Với thiết bị công nghệ
hiện đại, đội ngò công nhân lành nghề, vì vậy sản phẩm của công ty luôn đạt chất
lượng cao, được tặng thưởng nhiều huy chương vàng, bạc, và bằng khen tại hội
chợ triển lãm kinh tế kỹ thuật hàng năm và được khách hàng đánh giá cao. XSản
phẩm của công ty được xuất sang nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
17
Quốc, CHLB Đức, Thuỵ Sĩ ... tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt tới 10 tỷ
USD. Nhiều năm qua công ty luôn duy trì được sản xuất và tái sản xuất đạt hiệu
quả kinh tế cao, có uy tín với khách hàng trong nước và nhiều công ty trên thế giới.
Công ty luôn mở rộng hình thức kinh doanh mua bán gia công, trao đổi hàng hoá
sẵn sàng hợp tác với bạn hàng trong nước và ngoài nước để đầu tư máy móc hiện
ddại, tăng sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh nên mở rộng dây
chuyền kéo sợi và dệt kim.
3.Chức năng và nhiệm vụ, đặc điểm của công ty.
+Công ty Dệt May Hà Nội là một đơn vị lớn của ngành may Việt Nam, được
trang bị toàn bộ thiết bị cust ITalia, CHLB Đức, Bỉ, Hàn Quốc, Nhật Bản v.v..
Công ty Dệt May Hà Nội có chức năng chính sau đây:
-Công ty chuyên sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các sản phẩm có chất lượng
cao như các loại sợi, sản phẩm dệt kim ...
-Công ty chuyên nhập các loại bông sơ phụ tùng thiết bị chuyên ngành hoá
chất thuốc nhuộm
-Bên cạnh đó, công ty có thêm chức năng là thực hiện các hoạt động thương
mại, dịch vụ có liên quan đến hoạt động của công ty, trực tiếp tham gia mua bán với
các đối tác nước ngoài (nếu có) điều kiện thuận lợi cho phép.
+Nhiệm vô:
Trong thời kì bao cấp, công ty sản xuất các loại sợi bông, sợi pha cung cấp cho
các đơn vị trong ngành dệt. Do đó, nhiệm vụ chủ yếu cảu công ty là:
-Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh theo hướng dẫn của Bộ Công nghiệp nhẹ.
-Tiếp nhận nguyên vật liệu theo kế họach được phân phối bằng lệnh của Bộ.
-Sản xuất theo kế hoạch đã định trước về số lượng, chủng loại.
-Xuất bán cho các đơn vị trong ngành theo kế hoạch của Bộ
Từ năm 1989, sau hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ VI
chuyển sang cơ chế thị trường, công ty được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh
18
doanh, công ty không còn thụ động nhập kế hoạch từ cấp trên mà chủ động tìm
kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng sản xuất các sản phẩm mà thị trường yêu cầu
và khách hàng đặt mua. Nhờ vào đó có quyền phát huy làm chủ tập thể, sáng tạo
trong kinh doanh công ty đã tự vươn lên khẳng định cho mình nhiệm vụ sau:
-Tìm hiểu thị trường, xác định các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu.
-Tổ chức sản xuất theo nhu cầu đặt hàng của khách hàng.
-Phấn đấu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm giảm chi phí sản xuất
bằng mọi biện pháp có thể.
-Chú trọng mở rộng thị trường hiện có và tạo thị trường mới cung ứng trong
nước và nước ngoài.
-Chú trọng phát triển mặt hàng xuất khẩu, qua đó mở rộng sản xuất tạo công
ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty với mặt hàng chủ lực là sản
phẩm dệt kim trên cơ sở số lượng, chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường quốc
tế.
II.BỘ MÁY QUẢN LÝ TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY:
1.Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty:
Sơ đồ tổ chức công ty Đệt may Hà Nội.
19
20
Ban gi¸m ®èc
Phô tr¸ch s¶n xuÊt tiªu thô
Phô tr¸chTµi chÝnh
Phô tr¸chChÊt l îng SP
Phô tr¸ch QT ®êi sèng
PhßngSX-KD
PhßngKT-TC
Phßng XNK
Cöa hµngTM-DV
Phßng Tæ chøc L§
Phßng kü thuËt®Çu t
XÝ nghiÖpDÞch vô
Trung t©m KCS
Phßng y tÕ
Nhµ trÎ
Phßng b¶o vÖQu©n sù
Nhµ m¸ySîi I
Nhµ m¸ySîi II
Nhµ m¸ySîi Vinh
Nhµ m¸y thªu §«ng Mü
Nhµ m¸y§éng lùc
Nhµ m¸yDÖt nhuém
N/m¸y dÖtHµ §«ng
Nhµ m¸yC¬ khÝ
Nhµ m¸y may Hµ Néi
Tổng hợp lại công ty có 11 phòng ban chức năng và 8 nhà máy thành viên, các
nhà máy trực thuộc công ty cũng có cơ cấu sản xuất và quản lý riêng nhưng chịu sự
lãnh đạo chung của Tổng Giám đốc.
-Tổng Giám đốc: có quyền điều hành cao nhất trong công ty chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty; Trực tiếp chỉ đạo các
phòng ban, nhà máy.
-Phó Giám đốc: có nhiệm vụ giúp Tổng Giám đốc điều hành công ty theo sự
ủy quyền của Tổng Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về những
công việc của mình thực hiện, thay mặt và điều hành công ty khi Tổng Giám đốc đi
vắng.
Chức năng nhiệm vụ phòng ban:
-Phòng sản xuất kinh doanh: có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn( các chiến lược sản xuất) nhiệm kỳ các hợp đồng với khách
hàng trong nước. Tổ chức thực hiện các định mức lao động, chỉ đạo các hệ thống
tiêu thụ sản phẩm, nắm chắc giá cả đầu vào cũng nhu đầu ra và những biến động
trên thị trường, làm tham mưu cho giám đốc khi đàm phán với bạn hàng, đảm bảo
mua bán với giá cả hợp lý, quản lí hàng hoá xuất nhập.
-Phòng Xuất nhập khẩu: nghiên cứu thị trường nước ngoài giao dịch với khách
hàng nước ngoài. Nhập thiết bị để đáp ứng nhu cầu cuả công ty, xuất bán sản phẩm
ra nước ngoài, ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu.
-Phòng Kế toán tài chính: quản lý nguồn vốn, quỹ, công ty thực hiện công tác
tín dụng, kiểm tra phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phụ trách cân
đối thu chi, báo cáo quyết toán. Tính và trả lương cho cán bộ công nhân viên chức,
thực hiện thanh quyết toán với khách hàng và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
21
Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo luật kế toán thống kê và chế độ
lương theo quy định của nhà nước.
-Phòng Kỹ thuật-đầu tư: lập nên các dự án đầu tư, duyệt các thiết kế mẫu của
các khách hàng, duyệt phiếu công nghệ may, đồng thời có nhiệm vụ xây dựng các
định mức. Quản lý toàn bộ các định mức kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu kỹ thuật của
toàn công ty.
-Phòng Tổ chức lao động: tổ chức cán bộ, công tác tiền lương, tiền thưởng của
toàn công ty. Tổ chức tuyển dụng, bố trí đào tạo, nâng cao nâng bậc, bồi dưỡng kỷ
luật khen thưởng.
-Trung tâm KCS: phụ trách về công nghệ dệt kim, công nghệ sợi, chất lượng
sản phẩm dệt sợi, may mặc, kiểm tra nguyên liệu đầu vào, thử nghiệm và kiểm tra
chất lượng sản phẩm.
-Trung tâm Y tế: kiểm tra khám chữa bệnh cho công nhân viên, khám chữa
bệnh nghề nghiệp, điều trị cấp cứu tai nạn lao động xẩy ra.
-Trường Mầm non: chăm sóc nuôi dậy giáo dục các trẻ em là con em cán bộ
công nhân viên của công ty.
-Phòng Bảo vệ quản sự: có nhiệm vụ bảo vệ tài sản của công ty, bảo vệ an
ninh trật tự làm nghĩa vụ quan sự của phòng.
III.DÂY CHUYỀN KẾT CẤU CÔNG NGHỆ VÀ KẾT CẤU SẢN XUẤT.
Công ty Dệt May Hà Nội có nhiều loại dây chuyền dùng để sản xuất 3 loại mặt
hàng chính: sợi sản phẩm dệt kim, khăn bông. Các dây chuyền này chủ yếu là dây
chuyền sản xuất liên tục (bố trí mặt bằng định hướng theo sản phẩm). Hiện nay, tại
nhà máy sợi I, sợi Vinh đều có một dây chuyền vừa sản xuất sợi chải kỹ vừa sản
xuất sợi chải thô. Tại nhà máy sợi II cũng có dây chuyền sản xuất trên đồng thời có
cả dây chuyền sản xuất sợi phế OE và từ những loại sợi chải kĩ và chải thô có thể
kết hợp để sản xuất sợi đơn chải thô và sợi đơn chải kĩ (cotton hoặc PEco) và sợi
xe.
22
+Dây chuyền sản xuất sợi đơn chải thô (điển hình là sợi Ne 32 Cot CTDK)
(Đã được đánh ống)
+ Dây chuyền sản xuất sợi xe (điển hình là lợi Ne45/2 (65/35)DK
23
B«ng cotton
M¸y b«ng
M¸y ch¶i th«
M¸y ghÐp
B«ng ®·®îc xÐ chén
C¸c ch¶i
Th«
GhÐp
Cøu
M¸y èng
M¸y sîi con M¸y th«Sîi con Sîi
Th«
Thµnh
PhÈm
M¸y ®Ëu xeChËp 2,3
M¸y xeB«ng cotton
M¸y ®¸nh èng
Sîi ®¸nhèng
Sîi
§Ëu
M¸y èng
Sîi xe
Thµnh phÈm ®· Dïng ®¸nh èng
M¸y xö lýB«ng phÕ
M¸y B«ng M¸y ghÐp
M¸y sîi con Kh«ng läc
M¸y èng
B«ng phÕ
B«ng
cotton
B«ng ®îc
Sîi
con
Thµnh phÈmSîi phÕ OE
+ D©y chuyÒn s¶n xuÊt sîi fÕ OE
+Dây chuyền sản xất sợi Fecô chải thô (sợi NE 45 (83/17) CTDK)
+ Dây chuyền sản xuất sản phẩm Dệt kim
Kết cấu sản xuất là việc mô tả mối liên hệ giữa các bộ phận sản xuất về quá
trình làm việc theo dòng thời gian sản phẩm liên tục. Kết cấu này có liên quan một
phần tới dây chuyền sản xuất và cộng nghệ sản phẩm.
24
C¬ khÝ Kho nguyªn liÖu
§éng lùc
Sîi I Sîi II Sîi Vinh
DÖt kim DÖt Hµ §«ng
May thªu
Kho thµnh phÈm
M¸y b«ngcotton
M¸y ch¶iTh« cotton
M¸yB«ng P.E
M¸y ch¶iTh« Fe
M¸y ghÐp
Fec« ®ît
1 . 2 . 3
M¸y èng M¸y con M¸y th«
M¸yDÖt kim
Xö lý Hoµn tÊt
C¾t
May ¸odÖtkim
B«ng
cotton
B«ng ®· ® îcXÐ chén
Sîi FE S¬ ®· ® îcXÐ trén
Cøu ch¶i
C¸i GhÐp
Thµnh phÇnSîi Feco
Sîi con Sîi th«
V¶i méc
V¶i thµnh
PhÈm
Sîi
IV.QUY MÔ VÀ NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA CÔNG TY:
1.Cơ cấu lao động và việc sử dụng lao động của công ty:
1.1-Lao động:
Cũng như các công ty dệt may khác, công ty Dệt May Hà Nội, nơi có lực
lượng lao động đông đảo và lao động nữ chiếm đa số khoảng 70% là lao động
chính của những bộ phận sản xuất trực tiếp. Số lao động trực tiếp tham gia vào sản
xuất là khoảng 90%, lao động gián tiếp là khoảng 10%, bao gồm quản lý kinh tế,
quản lý kỹ thuật, nhân viên hành chính và nhân viên khác phục vụ sản xuất.
Lao động của công ty có thợ bậc bình quân là 4,05 điều naỳ phù hợp với
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Bởi vì công việc của ngành dệt may
nói chung và của công ty Dệt May Hà Nội nói riêng có độ phức tạp về kỹ thuật của
công việc không cao, phù hợp với những công nhân có tay nghề thấp vì vậy công
nhân bậc 3 và bậc 4 chiếm tỉ trọng cao. Bên cạnh đó với tỉ lệ lao động gián tiếp là
8,4%. Cho thấy công ty có bộ máy quản lý gọn nhẹ và phù hợp.
Bi
ểu
1:
C ơ
cấ u
la o độ
ng củ a cô ng ty
nă m
19 99
P hâ n
1.2.Tình hình máy móc thiết bị sản xuất tại công ty:
Tình hình chung về máy móc thiết bị ngành dệt nước ta là có giá trị lớn, dây
chuyền công nghệ dài và phức tạp nên mức độ đổi mới công nghệ chậm. Công ty
Dệt May Nội cũng ở tình trạng đó: Chủng loại máy móc thiết bị công ty rất lớn tại
mỗi nhà máy, vấn đề sử dụng khác nhau tuỳ thuộc vào kế hoạch sản xuất để huy
động. Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau thì vấn đề sử dụng thiết bị cũng khác
nhau. Trong dây chuyền sản xuất mỗi loại sản phẩm có mỗi loại sẽ có một số công
đoạn chính, khi tính năng lực sản xuất phải cân đối giữa các công đoạn. Các máy
móc mà công ty đang dùng có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau và được trang bị
tại các nhà máy như sau:
25
-Tại nhà máy sợi Vinh: các thiết bị hoàn toàn là do Đức sản xuất vào đầu
những năm 1970 và một số đã khấu hao hết.
-Tại nhà máy sợi I và 2: hầu hết các máy được sử dụng từ những năm 1980,
nhà máy sử dụng được 90% công suất máy.
Biểu 2: Máy móc thiết bị tại nhà máy sợi I và II.
Biểu 3: Máy móc thiết bị nhà máy dệt nhuôm và nhà máy may
Các máy phục vụ cho công đoạn cắt đều có thời gian sử dụng khá lâu, chủ
yếu khi mua đã là máy cũ, ngoài ra các máy cắt lúc không đồng bộ, được sản xuất
từ nhiều nước khác nhau, điều này có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. So với các
loại máy cắt thì máy may, máy thêu mới hơn rất nhiều và được trang bị khá đồng
bộ: chủ yếu là của hãng Juki, Yamato ... Đặc biệt có hai máy thêu tự động với nhiều
giá thuê mới được trang bị là một trong những thế hệ máy mới hiện đại nhất thế
giới.
Tại nhà máy may: các máy móc trang bị tương đối mới chủ yếu từ năm 1990
và 1992.
Hiện tình hình thiết bị sản xuất khăn bông là Ýt khả quan nhất. Sản xuất khăn
bông chỉ diễn ra tại nhà máy dệt Hà Đông với những máy móc thiết bị đã khá lạc
hậu và xuống cấp. Chúng chủ yếu là do Tiếp Khắc (cũ) sản xuất vào những năm
1970. Do đó năng lực sản xuất sản phẩm khăn bông thấp, đồng thời chất lượng sản
phẩm cũng không được đảm bảo.
So với toàn ngành, thiết bị của công ty được coi là trung bình tiên tiến và
mức độ tự động hoá là 30%, và cơ khí hoá là 70% cho nền hoạt động sản xuất của
công ty so với quy định chung là chưa cao.
1.3-Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty.
26
Vốn là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh
doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều cơ hội
nhưng cũng có những thách thức. Nếu doanh nghiệp có nhiều vốn sẽ chủ động hơn
việc thu hót vốn đầu tư từ ngân sách, từ vay ngân hàng, tự bổ xung vốn từ hoạt
động của công ty luôn là mối quan tâm của doanh nghiệp. Công ty Dệt May Hà Nội
là một doanh nghiệp nhà nước có số lượng vốn tương đối lớn do công ty có 8 nhà
máy thành viên và một tổ hợp dịch vụ sản xuất.
Bảng 4: Cơ cấu vốn của công ty Dệt May Hà Nội.
Đơn vị : đồng
Nguồn báo cáo tài chính các năm.
Như vậy: Vốn sản xuất kinh doanh của công ty là tương đối lớn; vốn cố định
cũng lớn do công ty là doanh nghiệp sản xuất chủ yếu cho nên thường xuyên có sự
đầu tư vào máy móc thiết bị nhà xưởng và các cơ sở vật chất kỹ thuật khác.
Vấn đề sử dụng vốn luôn được công ty xem xét, tính toán kỹ lưỡng để nhằm
bảo toàn và phát triển vốn. Do vậy công ty đã đặt ra những nguyên tắc cơ bản sau
để quản lý vốn có hiệu quả.
-Sử dụng vốn có mục đích: nghĩa là công ty sử dụng vốn chủ yếu do hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, ngoài mục đích này ra công ty hạn chế sử dụng
vốn cho các công việc khác.
-Sử dụng vốn có hiệu quả: vốn phải được phân bổ một cách hợp lý trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn, ưu tiên cho việc phát triển các mặt hàng chủ lực, bảo
đảm sử dụng vốn sẽ đem lại hiệu quả tối đa, có thể tái đầu tư cho mở rộng sản xuất,
tạo công ăn việc làm cho người lao động và cải tạo đời sống cho cán bộ CNV.
-Sử dụng vốn hợp pháp: Công ty thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách, luật
pháp về kinh tế và lao động của nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước, thanh toán kịp thời với người lao động
+ Tài sản của công ty: là toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. Máy
móc mà công ty sử dụng có nguồn gốc từ nhiều quốc gia khác nhau với nhãn hiệu
27
của Đức, Nga, Nhật, Italia, Trung Quốc, Bỉ. Thiết bị máy móc là một bộ phận quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, nó ảnh hưởng
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm về mặt giá trị máy móc thì máy
móc chiếm tỉ lệ cao 67% vốn cố định. Vì vậy vấn đề sử dụng máy móc thiết bị có
hiệu quả luôn được công ty quan tâm.
V.MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN QUA.
28
BIỂU 5: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH SẢN XUẤT KINH DOANH QUA
Cá c ch ỉ tiê u đơ n vị KH TH KH TH KH TH Ch.lệch % Ch.lệch %
Giá trị tổng sản lượng Tr.đ 400000 418344 400000 402674 422000 428000 25326 106,3 6000 101,4
Tổng doanh thu Tr.đ 36900 375799 370000 379898 400000 438407 58609 115,4 38407 109,6Nép ngân sách Tr. đ 10500 11783 8500 8696 3744 5548 -3148 63,8 1804 148,2Lợi nhuận Tr. đ 3850 3946 2762 4205 500 2500 -1705 59,5 2000 500Kim ngạch xuất khẩu USD 13000000 1401273
613800000 13667296 13500000 14000000 332704 102,4 500000 103,7
Sợi các loại USD 94596 759 313346Sản phẩm dệt kim USD 1112020
09694371 10896124
Sản phẩm khăn USD 2142530 2010403 2011686Sản phẩm lều bạt USD 46126 1961763 753122Các sản phẩm khác USD 609284 25719Sản lượng sản phẩm chênh:
TH97/KH97 (%)
TH98/KH98 (%)
TH99/KH99 (%)
TH99/TH98 (%)
1.Sợi Tấn-Sợi đơn Tấn 8173 8826,87 8762 9178 9672 10097 108 104,7 104,4 110-Sợi xe Tấn 1396 1553,62 1695 1808 1580 1693 111,3 106,7 107,1 93,62.Sản phẩm dệt kim Sp 5000000 4820678 5200000 5200000 4576430 4688901 96,4 100 102,5 90,2-Xuất khẩu Sp 3276336 2890009 2900000 4002867 4002867 100 100 138-Nội địa Sp 1544342 2309991 2300000 473563 586034 99,6 123,7 25,53.Vải thành phẩm Kg 336090 1474104 1475540 1558741 1595096 100 102,3 108,14.Sản phẩm khăn Chiếc 6700000 6789601 3882617 4299932 6494850 8022404 101,3 110,7 123,5 186,6-Xuất khẩu Chiếc 5399966 5733900 6169809-Nội địa Chiếc 1389635 760956 18525955.Lều bạt xuất khẩu Chiếc 5492 52144 51936 41564 41588 99,6 100 80,1
29
-Về chỉ tiêu “giá trị tổng sản lượng” so với kế hoạch 422000 tr. đồng thì thực
hiện là 428000 tr. đồng, vượt mức kế hoạch là 6000 tr.đồng (vượt mức 1,4%)
Chỉ tiêu “doanh thu” so với kế hoạch là 400000tr.đồng thì thực hiện là 438407
tr. đồng, vượt mức kế hoạch là 38047 tr.đồng (vượt 9,6%)
Chỉ tiêu “nộp ngân sách” công ty đã nép 5548 tr.đồng so với kế hoạch đặt ra là
3744 tr.đồng thì vượt là 1804 tr.đồng (vượt 48,2%
Tình hình sản xuất các sản phẩm chính trong năm 1999 đạt vượt mức so với kế
hoạch đề ra. do thị trường tiêu thụ của công ty ngày càng mở rộng thu hót được
nhiều khách hàng đến với sản phẩm cuả công ty. Như sợi đơn kế hoạch sản xuất
9672 tấn nhưng do nhu cầu khách hàng tăng nên thực hiện sản xuất là 10097 tấn
vượt 4,4%. Đối với sản phẩm sợi nói chung thì các năm 97, 98, 99 đều hoàn thành
kế hoạch vượt mức. Tuy vậy sản phẩm sợi đơn tăng đều qua các năm hoàn thành kế
hoạch nhưng công ty đặt kế hoạch sản xuất năm 99 thấp hơn năm 98. Sản phẩm dệt
kim kế hoạch sản xuất năm 1999 là 4576430 sản phẩm nhưng thực hiện 4688901
sản phẩm vượt 7,1% còn nếu so với năm 1998 thì cả thực hiện và kế hoạch sản xuất
năm 1999 đều giảm, năm 97 thì không hoàn thành kế hoạch. Tình hình sản xuất sản
phẩm dệt kim xuất khẩu chiếm khoảng từ 60% đến 80% trong tổng số các sản phẩm
dệt kim được sản xuất ở các năm 97, 98, 99.
Đối với sản phẩm khăn thì năm 98 thị trường giảm do vậy việc sản xuất càng
giảm theo. Sở dĩ như vậy vì công ty dệt Hà Đông mới sát nhập vào nên khách hàng
chưa quen và tình hình sản xuất mới bắt đầu đi vào ổn định cho đến năm 99 thì sản
xuất vượt kế hoạch 23,5% tăng lượng sản xuất so với năm 98 là 86,6% trong đó
xuất khẩu chiếm 76,9% trong tổng số sản phẩm này được sản xuất. Điều này cho
thấy tình hình sản xuất tăng, xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn như vậy sản phẩm này
đang được tiêu thụ mạnh ở thị trường nước ngoài tuy thế công ty cũng cần chú
trọng việc phát triển thị trường trong nước.
Đối với lều bạt xuất khẩu thì thị trường trong nước vẫn còn chưa biết đến sản
phẩm và chủ yếu công ty chỉ gia công cho các hãng nước ngoài tuy thế trong năm
1999 vẫn hoàn thành kế hoạch nhưng so với những năm trước thì lại giảm
30
Nhìn chung, tình hình sản xuất các mặt hàng ở công ty dệt may Hà Nội là khả
quan. Sản phẩm sợi có thị trường ổn định nên số lượng sản xuất ra luôn vượt kế
hoạch và tăng đều qua các năm. Sản phẩm dệt kim do thị trường không ổn định có
nhiều biến động phần lớn là xuất khẩu (khoảng 80% sản lượng) thị trường trong
nước chưa chiếm lĩnh được nên số lượng sản xuất lúc tăng lúc giảm không đều.
Để xem xét rõ hơn ta so sánh các chỉ tiêu tổng hợp của công ty trong một sô
năm
Chỉ tiêu (giá trị tổng sản lượng) thực hiện năm 1999 so với năm 1998 tăng
2532 tr.đồng (6,3%). Trong khi đó tổng doanh thu thực hiện năm 1999 tăng 58509
tr.đồng (15,4%) tình hình cho thấy hoạt động của công ty là ổn định và có xu hướng
ngày càng phát triển (do mức tăng tổng doanh thu lớn hơn so với mức tăng giá trị
tổng sản lượng)
Sau khi xem xét một số chỉ tiêu ta thấy công ty có sự phát triển cả về mặt chất,
mặt lượng. Cụ thể là:
Doanh thu/ tổng sản lượng năm 1997 là 89,9%
1998 là 94,3%
1999 là 102,4%
Chứng tỏ là khả năng tiêu thụ và khả năng sản xuất đều tăng nhưng tình hình
tiêu thụ tăng nhanh hơn khả năng sản xuất chứng tỏ doanh nghiệp có bộ máy xây
dựng kế hoạch sản xuất là tìm hiểu thị trường hoạt động thực sự có hiệu quả.
Nép ngân sách /tổng doanh thu năm 97 là 315
98 là 2,3%
99 là 1,3%
Tỷ lệ này giảm qua các năm, trong khi đó doanh thu tăng còn nép ngân sách
lại giảm công ty nên xem xét lại vấn đề này.
Ngoài ra ta cũng cần đi vào tìm hiểu tình hình xuất khẩu để thấy được quy mô
của công ty không chỉ giới hạn trong phạm vi nội địa mà còn có quan hệ với các
bạn hàng nước ngoài.
31
Tình hình xuất khẩu năm 1999 vượt mức kế hoạch 3,7%
Năm 1998 thì thi đua hoàn thành kế hoạch nguyên nhân là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước bạn hàng khiến cho sức mua về hàng may
mặc giảm nhưng đến năm 1999 tình hình xuất khẩu của c ông ty đã đi vào ổn định
không những hoàn thành kế hoạch mà còn tăng 2,4% so với năm 1998. Tuy nhiên
trong cơ cấu các mặt hàng cũng có sự tăng giảm khác nhau. Cụ thể sợi năm 1997 là
94596 USD, nhưng năm 1998 là 759 USD giảm rất mạnh thậm chí rất xấu song
năm 1999 lại tăng lên 313346 USD. Sở dĩ vậy là do sợi là nguyên liệu đầu vào chủ
yếu cho ngành dệt may nên công ty bán ở trong nước là chính đến năm 1999 có sự
tăng cao như vậy vì khả năng tiêu thụ thị trường nước ngoài đã tăng và khả năng
sản xuất của công ty đã được tăng lên.
Về chỉ tiêu “lợi nhuận”: Trong năm 1999 công ty đặt kế hoạch thu lợi nhuận
chỉ có 500 tr.đồng nhưng thực tế là 2500 tr.đồng. Đây là 1 nỗ lực rất lớn của công
ty. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng giảm thất thường, năm 1997, 1998 tăng, năm 1999
giảm và giảm mạnh chỉ bằng 59,5% so với năm trước. Chỉ tiêu tổng doanh thu tăng
năm 1999, nép ngân sách giảm trong khi đó lợi nhuận lại thấp điều này chứng tỏ chi
phí giá vốn là cao, giá bán tăng thấp hơn so với mức tăng lợi nhuận giảm mạnh.
Tuy nhiên đây mới chỉ là tạm thời bằng khả năng sáng tạo đổi mới hoạt động công
ty sẽ đạt được mức lợi nhuận ngày càng cao trong những năm tới.
Xét toàn diện thì tình hình sản xuất kinh doanh của công ty thông qua một số
chỉ tiêu là lành mạnh, hiệu quả và ổn định. Điểm mạnh của công ty là có sự phối
hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa các bộ phận, giưã các lãnh đạo và công nhân sản xuất
VI. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH
1.Đặc thù của ngành may
Ngành may mặc là một trong những ngành công nghiệp có vai trò rất quan
trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện
nay công nghiệp may xuất khẩu là một ngành công nghiệp đã và đang được Nhà
nước khuyến khích phát triển nhiều hình thức ưu đãi, nhiều chính sách cho phép tất
cả các thành phần kinh tế tham gia nhằm phục vụ tốt cho 3 chương trình kinh tế
32
lớn. Sự khuyến khích phát triển bằng nhiều chính sách đáp ứng nhu cầu vô hạn và
luôn luôn thay đổi.
May mặc là một trong 3 nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, nó không
những có chức năng bảo vệ con người mà còn đáp ứng nhu cầu cái đẹp. Cùng với
sự phát triển của xã hội loài người và nhu cầu nâng cao cuộc sống về mặt kinh tế
lẫn xã hội, nhu cầu của con người ngày càng cao đòi hỏi những sản phẩm mẫu mã
đẹp, chất lượng tốt.
Sản phẩm của ngành may Việt Nam nói chung và của công ty dệt may Hà Nội
nói riêng được nhiều nhà sản xuất trong và ngoài nước chú ý không những vì hội đủ
những điều kiện cần thiết mà còn phù hợp với khả năng hiện tại của đất nước ta
hiện nay. Lực lượng lao động lớn, thiếu vốn đầu tư, không đòi hỏi máy móc hiện
đại nhưng vẫn có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao được thị
trường trong và ngoài nước chấp nhận. Bên cạnh đó sản phẩm may mặc còn có sự
khác biệt rất lớn về nhu cầu các nước, các khu vực có điều kiện địa lý, khí hậu ,
phong tục tập quán khác nhau: về kiểu dáng, thị hiếu, màu sắc, thời tiết và thãi quen
sử dụng, thời gian đặt hàng và điều kiện giao hàng
Do vậy cùng với những khó khăn của đất nước về vốn và kỹ thuật, phát triển
ngành may mặc xuất khẩu là một hợp lý. Vốn đầu tư ban đầu cho một dây chuyền
may không cao bởi đây là những thiết bị chuyên dùng phổ biến. Mức tiêu hao cho
một sản phẩm may mặc Ýt, mức vòng quay vốn nhanh và lợi nhuận cao sử dụng lao
động sống trong chi phí giá thành từ 20-30% để tận dụng nguồn lao động dồi dào
và giá thành công nhân rẻ. Chính vì lẽ đó ngành may hiện nay đang thu hót nhiều
nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài với quy mô vừa và nhá.
2.Thị trường
Đây là yếu tố đầu tiên tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp thị trường ổn định sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng kinh doanh và
tính toán, làm ăn sao có hiệu quả cao, có khả năng tiêu thụ nhiều hơn. Nhân tố này
bao trùm nhiều yếu tố khác nhau như cung cầu, giá cả, cạnh tranh
3.Chính trị và pháp luật
33
Mét trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế khả năng phát triển tại
công ty hiện nay là những cơ chế, chính sách bất hợp lý của Nhà nước đối với công
ty, công ty thực sự kìm hãm và không phát huy được tính năng động, sáng tạo bởi
một cơ chế quản lý lệ thuộc, cồng kềnh đã làm hạn chế những quyết định có thể
hoặc chắc chắn sinh lợi, cụ thể là trong cơ chế phân bổ qua, thực sự công ty được
cấp quá Ýt so với năng lực và phải ký uỷ thác qua đơn vị bạn, nên công tác phục vụ
sản xuất ảnh hưởng nghiêm trọng tới tốc độ sản xuất của công ty
Một số chính sách của Nhà nước hiện nay ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động
kinh doanh của công ty: chính sách thuế đối với các doanh nghiệp may mặc gia
công hàng xuất khẩu, quản lý định mức may gia công, nhập khẩu nguyên liệu và
xuất khẩu các sản phẩm gia công, tính giá nguyên liệu nhập về để làm hàng kinh
doanh theo phương thức “mua nguyên liệu bán thành phẩm”
4.Chính sách sản phẩm
Trong chiến lược marketinh thì chiến lược sản phẩm luôn luôn giữ một vai trò
quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của doanh nghiệp, bởi nó là nền
tảng chiến lược kinh doanh chỉ khi nào hình thành được chiến lược sản phẩm,
doanh nghiệp mới có phương hướng đầu tư nghiên cứu thiết kế, sản xuất hàng loạt
và thực hiện tốt chiến lược sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho các chiến lược giá cả ,
phân phối và khuyếch trương được triển khai một cách có hiệu quả. Đồng thời khi
đã xây dựng được một chiến lược sản phẩm đúng đắn nó sẽ giúp doanh nghiệp thực
hiện được các mục tiêu của chiến lược maketing như mục tiêu lợi nhuận, an toàn và
thế lực trong kinh doanh.
Từ những nghiên cứu và tìm hiểu về thị trường, công ty thiết kế và tạo mẫu về
kiểu dáng quần áo, mẫu thêu, nhu cầu về các loại sợi sau đó công ty ẽ cho sảnh xuất
thử mỗi lô tối đa 5000 sản phẩm. Trên cơ sở đó, công ty sẽ tung ra thị trường những
loại sản phẩm này để tìm thông phản hồi thì khách hàng thông qua các nhân viên
tiếp thị lành nghề. Từ đó sẽ có quyyết định sản xuất tiếp hay không và nếu sản xuất
tiếp thì số lượng là bao nhiêu.
Để phát triển sản phẩm của mình công ty đã áp dụng các biện pháp sau:
34
+ Thiết kế mẫu mới: ngày nay trong cơ chế thị trường nếu chỉ sản xuất kinh
doanh những mặt hàng cũ không đổi thì chắc chắn sẽ đi đến thất bại. Lý do là mong
muốn và nhu cầu của người mua không ổn định cho nên chu kỳ sống của sản phẩm
cũng bị rút ngắn. Tuy vậy, việc thiết kế mẫu mới là công việc khó thực hiện và đem
lại những rủi ro cao, nhưng từ năm 1997 công ty còng quyết định đi đến sản xuất
sản phẩm mới đó là sợi coton chải kĩ và sợi Feco chải kĩ có chuốt parjin với tỷ lệ
trơn khác nhau để tung vào thị trường các tỉnh phía nam, đặc biệt là thị trường
thành phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung nhiều xí nghiệp may có nhu cầu sử dụng
chung loại sản phẩm này.
+ Sao chép sản phẩm xuất khẩu và bán ở thị trường nội địa: Đây là phương
pháp có thể khắc phục nhược điểm của phương pháp trên vì công ty không phải mất
thêm chi phí, thời gian vào việc thiết kế mẫu mới cho nên khả năng rủi ro là thấp.
Hơn nữa đây là những sản phẩm xuất khẩu đang được chấp nhận trên thị trường
quốc tế, cho nên kiểu dáng và mẫu mã phù hợp với trào lưu hiện đại. Từ đó làm cho
khả năng thành công trên thị trường nội địa là rất lớn.
+ Nghiên cứu mốt (mô đen) trên thế giới: Dùa trên kiểu dáng của các nhà tạo
mốt nước ngoài, công ty đã lùa ra những mẫu phù hợp với chất liệu và mầu sắc phù
hợp với khả năng của mình để taọ ra chính sách về sản phẩm mơí. Trong năm 1998
công ty đã đưa vào thị trường các kiểu áo mang nhãn hiệu Poloshint Na Uy, Big-
Star ... Đây là biện pháp khá đơn giản và tiết kiệm cho khâu thiết kế, nhưng cũng
chỉ là biện pháp tạm thời chứ không mang tính chiến lược lâu dài.
Đưa vào các biện pháp mới trên công ty đang phấn đầu đến năm 2000 có thể
đưa ra mỗi tuần một loại sản phẩm mới. Với sự cố gắng này, công ty có thể nâng
cao được doanh số bán ra.
5-Chính sách giá cả:
Ngày nay trên thị trường cạnh tranh chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thời gian
cung cấp hàng hoá và điều kiện giao hàng được đặt lên vị trí hàng đầu, nhưng giá
cả vẫn có vai trò nhất định, thậm chí cạnh tranh giá vẫn còn diễn ra gay gắt. Nếu
chiến lược sản phẩm định hướng cho sản xuất thì chiến lược giá định hướng cho
tiêu thụ, nó ảnh hưởng đến khối lượng bán ra của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc
định giá là rất khó vì nếu áp dụng giá thấp sẽ tăng được số bán, mở rộng thị phần
35
nhưng nếu không sử lý linh hoạt thì sẽ để công ty vào tình trạng suy giảm về tài
chính và ảnh hưởng đến uy tín của công ty trong tương lai.
Hiện nay tại công ty sử dụng phương pháp xây dựng giá bán gồm các bước
sau:
+ Xác định mục tiêu đặt giá.
+ Xác định nhu cầu đối với sản phẩm.
+ Xác định chi phí.
+ Dù đoán giá bán sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
+Lùa chọn phương pháp đặt giá thường là:
Giá bán = giá thành + thuế + lợi nhuận mong lợi.
Tuy nhiên công ty có thể áp dụng các phương pháp định giá linh hoạt theo hệ
số cho từng thời kỳ nhất định. Đồng thời công ty có sử dụng một số chiến lược giá
như sau:
+Chiến lược ổn định giá: Sử dụng hình thức này, công ty muốn duy trì mức
giá hiện nay đang bán để đáp ứng được mục tiêu về tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá
doanh thu, giữ vững uy tín cho sản phẩm cuả công ty.
+Chiến lược giảm giá: Vào các ngày lễ tết, có ý nghĩa trong sinh hoạt chính
trị, văn hoá, kinh tế của đất nước như ngày 2/9, 30/4... công ty chủ trương hình thức
giảm giá từ 3-5% tức là hạ thấp mức giá bán nhằm lôi kéo sự chú ý của khách hàng
tới sản phẩm của mình.
+Chiến lược phân biệt giá: Công ty sử dụng chiến lược này theo khối lượng
mua hàng và phương thức thanh toán: khách hàng nào mua số lượng nhiều trên
50.000 sản phẩm dệt kim, khăn sẽ được chiết khấu 0,05% trên 100 tấn sơn sẽ được
chiết khấu 0,01% theo giá bán ra, hay thanh toán nhanh trả ngay bằng tiền mặt sẽ
nhận được ưu đãi về giá so với khách hàng khác như thanh toán trong vòng 10 ngày
sẽ được trừ 1,5% số tiền phải thanh toán. Ngoài ra đối với những nhóm khách hàng
khác nhau như: khách quen, các đơn vị, kinh tế thuộc tổ chức từ thiện trường học...
công ty sẽ bán với mức giá thấp hơn mức giá thông thường hoặc có thể trả chậm
nhưng phải đặt cọc trước. Việc làm giá phân biệt thể hiện sự phản ứng linh hoạt
36
trong những điều kiện thị trường khác nhau. Mục tiêu hình thức này là nhằm kích
thích vào nhu cầu của tất cả các nhóm khách hàng có đặc điểm khác nhau để phát
triển và mở rộng thị trường.
Trên đây là các loại hình chiến lược giá của công ty, tuy nhiên dùa vào các
mục tiêu, các thời kỳ khác nhau mà công ty có thể áp dụng hoặc ký kết chúng sao
cho phù hợp và đem lại hiêụ quả cao nhất.
6.Mạng lưới tiêu thụ hàng hoá:
Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm công ty đã cố gắng phát triển mạnh
mạng lưới phân phối hàng hoá. Hiện nay, công ty đã có 10 quầy hàng giới thiệu sản
phẩm và 29 đại lý tại các tỉnh, thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Hải Hưng... và các đại lý đã thành lập được tổ bán hàng lưu động là các cửa hàng
thương mại dịch vụ.
Công ty sử dụng các kênh phân phối:
Kênh phân phối trực tiếp: Công ty đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng
không qua hệ thống trung gian. Những sản phẩm ở kênh này tập trung chủ yếu là
sản phẩm sợi, hàng may mặc dệt kim nội địa, khăn bông. Khách hàng mua sản
phẩm sợi là các công ty dệt: Công ty dệt Đông á, công ty may Gia Định, công ty dệt
Vĩnh Phú... Còn đối với sản phẩm dệt kim và khăn thì công ty nhận đơn đặt hàng
của các nước như Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan công ty trực tiếp không phải
qua trung gian. Ngoài ra công ty còn tổ chức một số cửa hàng bán và giới thiệu sản
phẩm tại các địa điểm khác nhau, tại đây công ty tiến hành bán trực tiếp cho người
tiêu dùng và cả bán buôn cho khách hàng đưa về tỉnh xa. Công ty còn tổ chức tổ
tiêu thụ sản phẩm dệt kim trả lương theo doanh thu, tổ này đã tổ chức đưa hàng đi
bán lưu động đến cơ các cơ quan, xí nghiệp, khu dân cư ở nội và ngoại thành. Với
hình thức này công ty đã tạo điều kiện đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng một
cách thuận tiện nhất.
Kênh phân phối gián tiếp: Dòng sản phẩm trong kênh này bao gồm sợi dệt
kim, khăn bông và lều du lịch.
Với sản phẩm sợi qua phân tích thị trường cho thấy thị trường chủ yếu là ở
khu vực Miền nam và đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh- đây là trung tâm công
37
nghiệp lớn của ngành dệt. Để tiêu thụ được sản phẩm phân phối của công ty ký
hợp đồng với nhiều đại lý, mục tiêu chính là nhằm tiếp cận các khách hàng không
có đủ điều kiện mua trực tiếp từ công ty do khoảng cách địa lý hoặc mua với số
lượng nhỏ. Công ty quan hệ với các đại lý như: Cơ sở Vĩnh Thành, công ty TNHH
Tiên Tiến, công ty TNHH Hiệp Hoà.
Với sản phẩm dệt kim, khăn, lều du lịch: công ty xuất khẩu chủ yếu, các nhà
buôn lớn như Golden Wheat, Itochu, Kichiestsu, Part. Đối với thị trường trong
nước đang ký hợp đồng với các đại lý, các cá nhân trung gian với các hình thức trả
hoa hồng. Ngoài ra công ty còn sử dụng hình thức bán ký gửi.
Trong thời gian tới công ty đặt mục tiêu là mỗi tỉnh, thành phố phải có Ýt nhất
một điểm bán hàng. Công ty chọn các công ty đang đứng vững trong cơ chế thị
trường làm đối tác của mình điển hình là trung tâm thương mại Minh Khai ở Hải
Phòng. Công ty cũng đang có kế hoạch thuê một cửa hàng lớn ở trung tâm Hà Nội
để tăng cường giới thiệu sản phẩm tới người tiêu dùng cũng như thu hót sự chú ý
của khách hàng.
7.Công tác hỗ trợ tiêu thụ:
Để hỗ trợ công tác tiêu thụ sản phẩm, công ty đã sử dụng một số biện pháp
sau:
Quảng cáo là công cụ đắc lực cho sản phẩm tiêu thụ nhanh hơn nhiều hơn.
Ngày nay, quảng cáo được coi là vũ khí cạnh tranh sắc bén, quảng cáo hấp dẫn dễ
nghe, dễ hiểu sẽ tác động đến tâm lý của người tiêu dùng, sẽ thu hót sự chú ý của
họ và dần đến quyết định mua.
Hiện nay các biện pháp quảng cáo chưa được công ty áp dụng nhiều. Công ty
mới chỉ quảng cáo trên báo mà chưa có biện pháp quảng cáo mạnh như quảng cáo
trên truyền hình, pano, áp phích tại các nơi công cộng... Hình thức quảng cáo trên
báo có ưu điểm là dễ sử dụng, phổ biến rộng, kịp thời, được chấp nhận rộng rãi, độ
tin cậy cao, chi phí thấp. Nhưng nhược điểm là số lượng độc giả hạn chế khả năng
gây sự hấp dẫn chú ý đối với người nhận tin chưa cao. Tình hình này chắc sẽ thay
đổi trong tương lai vì nếu không thực hiện tốt công tác tiếp thị, công ty khó có thể
38
mở rộng thị trường và sản phẩm của công ty sẽ bị các đối thủ cạnh tranh bỏ laị phía
sau trong lĩnh vực này.
Do vậy, trong những năm tới công ty cần có sự đầu tư thích đáng cho vấn đề
quảng cáo và các biện pháp xúc tiến bán.
Đối với sản phẩm sợi đây không phải là sản phẩm tiêu dùng trực tiếp mà phục
vụ cho công nghiệp dệt. Do đó, quảng cáo nên hướng vào các doanh nghiệp dệt
may đồng thời nêu được điểm ưu việt của sản phẩm sơị của công ty với đối thủ
cạnh tranh. Quảng cáo có thể theo chu kỳ trên các phương tiện thông tin như: đài
phát thanh, truyền hình, báo chí, hội chợ triển lãm công nghiệp...
Ngoài ra, công ty cũng nên cần tiến hành in cartalog giới thiệu và thông tin
một cách đầy đủ hơn về mặt hàng sợi mà công ty sản xuất, gửi tới các đối tượng và
đối tác trong ngành dệt.
Đối với sản phẩm dệt kim, khăn bông, đây là những sản phẩm tiêu dùng trực
tiếp vì vậy nhiệm vụ của quảng cáo là phải làm sao để nhãn hiệu sản phẩm của
công ty trở nên quen thuộc với khách hàng. Muốn vậy, quảng cáo cần phải:
+ Xoáy vào ưu thế chất lượng sản phẩm dệt kim, khăn bông. Trong đó nhấn
mạnh rằng sản phẩm được đảm bảo qua tất các khâu từ chế biến sợi đến dệt may.
+ Làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của công ty: Hình tượng một con chim hạc
vàng-một hình tượng khá quen thuộc đối với người dân Việt Nam.
+ Công ty nên tiếp tục tiến hành quảng cáo trên truyền hình dưới hình thức
quảng cáo có độ phủ sóng rộng. Bên cạnh đó công ty cần quảng cáo cả trên báo tạp
chí, nhưng phải nêu được sự khác biệt về mẫu mã chủng loại và chất lượng sản
phẩm.
Ngoài quảng cáo công ty cũng đã quan tâm đến các hình thức yểm trợ bán
hàng như tham gia các hội chợ triển lãm, tổ chức các hội nghị khách hàng hàng
năm, giới thiệu sản phẩm của mình tại các trường học (chủ yếu là các loại sản phẩm
may mặc quần áo thể thao), hiện nay công ty đã có hệ thống xe tải nhỏ để chuyên
chở hàng hoá cho khách hàng ở gần, còn đối với khách hàng ở xa công ty đã thiết
lập mối quan hệ với ngành, đường sắt... Tuy vậy, công ty cũng nên mở nhiều đại lý
39
bán hàng ở các tỉnh, vào nhiều dịp đặc biệt công ty có thể bán hàng khuyến mại,
tặng quà hoặc tham gia tài trợ cho các hoạt động như: thể thao, trình diễn thời trang.
Vừa qua trong đợt triển lãm hàng hoá chất lượng cao tại Việt Nam, sản phẩm
của công ty đã được Bộ Công nghiệp trao bằng khen là một trong 10 sản phẩm của
ngành dệt may đạt chất lượng cao.
Để tăng cường công tác tiếp thị, công ty đã nhanh chóng thành lập phòng
Marketing với chức năng và nhiệm vụ đúng tên gọi của nó.
8.Chủng loại nguyên liệu:
Thực trạng ngành dệt may Việt Nam là nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài,
công ty Dệt may Hà nội cũng không ngoài số đó, do đó tình hình sản xuất kinh
doanh của công ty phụ thuộc rất nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu. Các
nguyên vật liệu sử dụng chính của công ty bao gồm:
Bông (cotton) với khối lượng nhập hàng năm là 4.000 tấn
Sản phẩm PE (Polyeste) với khối lượng nhập hàng năm là : 7.000 tấn
Ngoài ra còn có các nguyên vật liệu như hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc tẩy, các
loại nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình in, thêu như chỉ thêu cao cấp, mực in.
Tình hình nhập khẩu qua một số năm:
+ Năm 1996 kim ngạch nhập khẩu đạt: 8.751.824USD
+ Năm 1997 kim ngạch nhập khẩu đạt: 1.000.000 USD
+ Năm 1998 kim ngạch nhập khẩu đạt: 11.531.751 USD
+ Năm 1999 kim ngạch nhập khẩu đạt: 12.610.247 USD
Như vậy từ năm 1996 đến năm 1999, kim ngạch xuất khẩu tăng lên có nghĩa là
công ty hiện vẫn đang quan tâm đến nguyên vật liệu nước ngoài nhiều hơn. Lý do
là các loại bông Việt Nam có chất lượng kém, chưa được tinh chế dẫn đến công ty
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên là giá bông nội địa rẻ hơn bông ngoại nhập, nhưng
nếu xem xét kỹ hơn sẽ thấy thuận lợi trọng việc sản xuất và bán thành phẩm sợi khi
sử dụng bông ngoại nhập lại lớn hơn rất nhiều so với bông nội địa. Song công ty
vẫn quan tâm đến sử dụng nguyên vật liệu trong nước vì điều này giúp công ty
40
giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên vật liệu bên ngoài, chi phí nguyên vật liệu sẽ
giảm, công ty sẽ chủ động hơn trong việc sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
*Quản lý nguyên vật liệu:
Hiện nay, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu là các loại bông cotton và xơ Pe
chúng chiếm tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm (65-70%) cho nên vấn đề tiết
kiệm và định mức tiêu hao bông xơ là rất cần thiết.
Công ty đã sử dụng phương pháp kinh nghiệm và phương pháp khảo sát thực
tế để xây dựng định mức tiêu hao vật tư theo các bước sau:
-Khảo sát từng công đoạn: Bông, chải, ghép, thô, sợi con v.v...
-Từ số liệu khảo sát kết hợp với các kết quả sản xuất kỳ trước và người làm
công tác sẽ tạm giao định mức 1 tháng 1 lần, phân tích nguyên nhân tăng giảm so
với định mức tạm được giao.
-Xem xét lại định mức để rút kinh nghiệm và tìm biện pháp sửa chữa khắc
phục kịp thời.
Trong khi xây dựng định mức, cán bộ xây dựng thường chú ý tới công đoạn
chải kỹ là công đoạn có lượng bông tiêu hao cao do sơị, chải nhiều nhất, để làm
giảm đến mức tối thiểu lượng bông phế
Biểu 6: tình hình thực hiện định mức bông xơ năm 1999
Nguồn: phòng sản xuất kinh doanh
Qua biểu 6 ta thấy, nhà máy sợi 1 sử dụng bông xơ thấp hơn so với định mức. Để đạt được điều này là sự cố gắng nỗ lực của cán bộ phòng kỹ thuật đầu tư và anh chị em công nhân nhà máy đã tiết kiệm bông sợi vải dùng làm bông phế để sản xuất sợi đồng thời đủ sử dụng lại tơí mức có thể lượng bông hồi, bông xơ mua về đã được kiểm tra chất lượng và bảo quản tốt, xơ PE chạy trên máy chải bị vón két, tỷ lệ bông tiêu hao trên máy bông chải được giảm đến mức cho phép.
Tại nhà máy sợi II do tỷ lệ bông rối trên máy cao nên tỷ lệ dùng bông tăng so với định mức. Bông sản xuất sợi OE tăng do F1 xấu, xử lý qua máy phân ly và Rolando tiêu hao cao. Quý I kiểm kê bán chế phẩm không chính xác, giữa bông và xơ lẫn sang nhau, vì vậy đủ chích trả lại 7 tấn xơ PE sang bông.
41
Tại nhà máy Vinh: điện tăng nhiều do một máy lạnh háng sản xuất mặt hàng PE và sợi từ bông phế mới, dây chuyền biến động, năng xuất thấp.
42
BIỂU 7: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN ĐỊNH MỨC TIÊU HAO SỢI VẢI NĂM 1999 NHÀ MÁY DỆT NHUỘM
C ôn g đo
Sả n
ph ẩ m N gu yê n Li
Số lư ợn g sả T ăn g gi ả G hi
ch óĐịnh mức Thực hiện Định mức Thực hiện
VảiVải méc Sợi buộc 1297314,5 1,010 1,010 1310287,65 1310226,60 -16,05Vải kẻ mầu Sợi mầu 170139,5 1,015 0,982 172690,58 167016,0 -5674,58 Sợi mầu tồn
kho
TẩyNhuộm
Vải thành phẩm
Sợi méc cotton
278009 1,060 1,059 294689,54 294482,8 -206,74
Vải tpcotton(có xé biên)
Vải méc Cotton
339860,3 1,030 1,029 733010,11 732416,5 -593,61
Vải TPT/C65/35
Vải méc CT65/35
711660,3 1,030 1,029 733010,11 732416,5 -593,61
Vải TPT/C65/35(có xébiên)
Vải méc CT65/35
174370,1 1,060 1,056 184832,31 184202,4 -692,91
Nhà máy dệt Hà Đông
Khăn bông Sợi cotton20/1, 20/2
490892 1,10051 1,0978 540231,11 538877,8 -1353,31
Nguồn phòng sản xuất kinh doanh
43
Sau khi đã có sợi thành phẩm, một phần sẽ trở lại thành sợi thành phẩm để
bán cho khách hàng, còn phần khác sẽ trở thành bán thành phẩm để đưa sang nhà
máy dệt nhuộm tiếp tục sản xuất tạo ra vải sản phẩm.
Quá trình này việc thực hiện định mức tiêu hao sợi-vải cũng được quan tâm
chú trọng. Công việc này giúp cho công ty sử dụng lượng sợi (để dệt) lượng vải để
nhuộm lớn nhất cho phép sản xuất ra một đơn vị sản phẩm (1kg vải méc hoặc 1kg
vải thành phẩm) trong điều kiện tổ chức và kỹ thuật định mức.
Qua biểu 7 ta thấy công ty thực hiện tốt định mức cả về nguyên liệu sợi lẫn
nguyên liệu vải (.) quá trình dệt tẩy, nhuộm. ở khâu dệt tình trạng số lượng sợi FE
ngang, sợi FE dọc vượt định mức của những năm trước đã được khắc phục sự
thiếu hụt khổ vải và thừa sợi ra ở 2 mép biên vải giảm đến mức cho phép. Trong
công đoạn dệt vải kẻ mầu số lượng nguyên liệu sử dụng thấp hơn rất nhiều so với
định mức lý do là dệt sợi mầu tồn kho nên số lượng sợi không chính xác so với vải
dệt ra cho nên chênh lệch nhiều (-5674,58kg) trong khâu tẩy nhuộm tỷ lệ vải vụn
giảm, chất lượng vải đã được nâng lên, lượng vải phế phẩm ở mức thấp.
Tóm lại việc xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu đã được nâng lên
giúp công ty tính toán chính xác được nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất từ đó
có thể đưa ra được khối lượng nguyên vật liệu cần nhập để phục vụ cho quá trình
sản xuất kinh doanh. Định mức nguyên vật liệu cũng đồng nghĩa với tiết kiệm
nguyên vật liệu điều này sẽ giảm chi phí kinh doanh làm tăng lợi nhuận cũng có
nghĩa công ty thực hiện tốt công tác quản lý nguyên vật liệu.
+Tình hình máy móc thiết bị của công ty
Máy móc mà công ty sử dụng có nguồn gốc từ nhiều quốc gia khác nhau. Với
nhãn hiệu của Đức, Nga, Nhật, Italia, Trung Quốc, Bỉ. Thiết bị máy móc là 1 bộ
phận hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp có ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Về mặt giá
trị máy móc chiếm tỷ lệ cao 67% vốn cố định, vì vậy vấn đề sử dụng máy móc
thiết bị (có hiệu quả) luôn được công ty quan tâm
45
Biểu 7: Bảng chi tiêu thiết bị năm 1999
Nguồn: phòng kỹ thuật đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta thấy công ty không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sử
dụng máy móc thiết bị về cả 3 mặt chỉ tiêu. Nếu chỉ riêng phần kế họach trong khi
máy móc thiết bị hiện có 1728 chiếc thì máy móc thiết bị chỉ là 1652 chiếc có
nghĩa là 151 chiếc không được đưa vào sử dụng (1728-1577) . Trong đó có 75
chiếc được lắp (168-1577). Nguyên nhân làm cho lượng máy móc tồn đọng là vì
lạc hậu và hết thời gian khấu hao nên công ty có dự tính thanh lý và chuyển thành
công cụ nhỏ; một số máy móc mới công ty mua về nhưng chưa có dự tính lắp đặt
còn về phần thực hiện lượng máy móc hoạt động chỉ đạt 94,67% so với kế hoạch
nghĩa là giảm lượng khá lớn. Tuy nhiên khi xét về số tương đối (liên hệ với quá
trình sản xuất) thì thấy rằng công ty hoàn thành vượt mức chỉ tiêu giá trị tổng sản
lượng có được kết quả như vậy phải nói đến sự cố gắng trong công tác quản lý và
chất lượng lao động của toàn công ty.
Để đánh giá được tình hình, sử dụng thời gian làm việc của thiết bị công ty
đã sử dụng các phương pháp tính sau:
Hệ số sử dụng thiết bị theo chế độ =
= ==0,921
=
= = 0,974
Qua sự phân tích ở bảng trên ta thấy số ngày làm việc thực tế của thiết bị
giảm so với chế độ là 9 ngày nguyên nhân là do quá trình sản xuất phát sinh ra
trường hợp ngừng sản xuất do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan: mất điện,
thiên tai, sửa chữa lớn định kỳ... như vậy thực tế 296 ngày làm việc cũng là sự cố
gắng lớn của công ty.
Tuy nhiên, hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế cho 0,2(giờ/ngày) máy
chạy không tải, đây là tổn thất lớn của công ty.
46
Ví dụ: Nếu 968 máy tạo ra 400246 tr.đồng thì 1 máy tạo ra 413,47 tr.đồng
hay 1,39 tr.đồng/ngày (413,47 tr.đồng/296 ngày) vậy 0,2giờ/ngày lãng phí là công
ty tổn thất 1 lượng giá trị (1,39/76) x 0,2=36.579 đồng/ngày/maý
Như vậy công ty cần phải tìm nguyên nhân gây tổn thất trên nguyên nhân chủ
yếu do sự lãng phí thơì gian của công nhân, máy móc thiết bị háng đột ngột...
+Tình hình tiền lương và lao động của công ty
Để cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường
thì doanh nghiệp phải đầy đủ 3 yếu tố: lao động, công cụ và đối tượng lao động.
Lao động là 1(.) 3 yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Nếu thiếu 1 (.) 3 yếu tố
này thì quá trình sản xuất sẽ không được tiếp tục.
Để cho người lao động sống và làm việc thì doanh nghiệp phải có một phần
bù đắp nào đó cho công sức mà họ bỏ ra. Phần bù đắp đó chính là tiền lương và
tiền thưởng
Tiền lương bao gồm lương chính và các khoản tiền thưởng trực tiếp theo
năng suất lao động, chất lượng, vật tư tiết kiệm. Tổng hợp tất các khoản mà công
ty phải trả cho cán bộ công nhân viên trong công ty là tổng quỹ lương phụ cấp có
tính chất thường xuyên theo quy định.
Tổng quỹ lương = tổng số công nhân x mức lương bình quân/1 công.
Lực lượng lao động của công ty rất đông đảo, bao gồm nhiều loại lao động
khác nhau, trình độ tay nghề khác nhau. Vì vậy để tính được quỹ lương ta phải
phân biệt số lao động hiện có, chất lượng lao động định mức lao động.
Qua đó ta thấy số lượng lao động năm 1999 tăng hơn 22 người so với năm
1998. Việc tăng lao động là do công ty có chính sách tuyển thêm người có trình độ
1 phần là do ngành dệt Việt nam đang trên đà phát triển khá mạnh số lượng việc
làm tăng lên, quy mô lao động mở rộng tất nhiên số những người được tuyển tăng
nhưng cũng có người xin thuyên chuyển, xin thôi việc, nghỉ việc vì hết tuổi lao
động. Do đặc thù riêng của ngành may nên đòi hỏi lao động nữ và lao động trực
tiếp lớn hơn so với lao động nam và lao động gián tiếp.
Từ đó ta cũng thấy được đội ngò cán bộ quản lý có trình độ Đại học chiếm số
lượng lớn hơn còn việc đội ngò công nhân thì có bậc thợ cao. Đây là điều kiện để
47
công ty đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên công ty cần tạo điều kiện cho công nhân viên của mình có thêm cơ hội
học tập và nghiên cứu để nâng cao hơn nữa kiến thức của bản thân.
+Các hình thức trả lương
Công ty trả lương cho người lao động theo 2 hình thức
-Lương thời gian: Được áp dụng đối với công việc không thể xây dựng định
mức lao động như cán bộ công nhân viên gián tiếp sản xuất. Mức lương tính được
theo bảng chấm công của từng cá nhân
-Lương sản phẩm: áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm
và có thể định mức lao động: mức lương được tính theo phiếu sản phẩm lương cá
nhân. Mỗi cá nhân đều có 1 phiếu sản lượng riêng để theo dõi số lương và chất
lượng sản phẩm của mình làm ra. Sau đó các phiếu này được tập chung theo phân
xưởng. Hoặc mức lương được tính bằng cách tiến hành phân loại cho điểm sau đó
hàng tháng công nhân trong tổ bình công chấm điểm (hình thức trả lương sản
phẩm tập thể). Đối với công nhân đứng máy, sửa chữa theo ca phục vụ khác việc
bình công cho điểm hàng ngày căn cứ vào tinh thần trách nhiệm, mức độ hoàn
thành khối lượng và chất lượng công việc được giao trong ngày.
Lương thời gian:
Lương tháng bằng N x lương ngày +các khoản phụ cấp
(N: số ngày công (.) tháng)
+Lương sản phẩm:
Lương tháng =+ tiền phụ cấp một công nhân
Q: Tổng quỹ tiền lương của tổ (.) tháng
F: Tổng số công nhân trong tổ
*Phân phối tiền lương: Căn cứ vào nguồn lương của công ty theo kết quả và
hiệu quả sản xuất kinh doanh trong năm. Sau khi trừ đi 3 chi phí hàng tháng, công
ty sẽ cân đối và xác định mức thưởng năm cho từng đơn vị theo khu vực sản xuất
và phân phối tiền thưởng năm theo mức lương cấp bậc và những thành tích (.)
48
VII.ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CÔNG TY
TRONG THỜI GIAN TỚI.
1.Nhận xét chung
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành công ty Dệt may Hà Nội đã được
Nhà nước tặng thưởng nhiêù phần thưởng cao quý: 4 huân chương lao động hạng
3, 1 huân chương lao động hạng nhì, 1 huân chương lao động hạng nhất...
Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả với mức
giá trị tổng sản lượng hàng năm là 5% giá trị kim ngạch xuất khẩu luôn ở mức trên
10 tr USD/năm. Để đạt được những thành công như vậy, công ty đã không ngừng
phấn đấu về mọi mặt
-Về lao động: Lực lượng lao động đã sử dụng 1 cách tối đa giảm bớt những
lao động dư thừa. Lao động của công ty được kiểm tra trong nghề thường xuyên
nên chất lượng được nâng dần lên. Việc phân phối tiền lương, tiền thưởng làm tốt
trên nguyên tắc làm nhiều hơn tốt hơn được phân phối nhiều hơn. Qua đó khuyến
khích quá trình thi đua sản xuất và thực hiện sự công bằng trong sản xuất.
-Về thiết bị máy móc: Công ty đã đầu tư để phát triển nâng cao trình độ khoa
học kỹ thuật, trang bị máy móc hiện đại dây chuyền sản xuất tiên tiến giữ vững
chất lượng các mặt hàng truyền thống như dệt nhuộm và tìm những mặt hàng mới
mà thị trường có nhu cầu lớn.
-Về tổ chức sản xuất: Công tác tổ chức chưa sản xuất được triển khai từng
bước đến các nhà máy, sản xuất được tiến hành theo dây chuyền có sự chuyên
môn hoá. Việc quản lý cơ sở vật chất máy móc thiết bị, tài sản cố định, vật tư rất
chặt chẽ. Việc đầu tư cải tiến bổ sung và hiện đại hoá các thiết bị hiện có rất phù
hợp đã nâng cao chất lượng, năng suất, khả năng sản xuất của thiết bị. Quản lý vật
tư chặt chẽ khoa học đã đáp ứng tốt nhu cầu cung ứng vật tư cho sản xuất và tiết
kiệm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh đó, chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân
viên trong công ty ngày càng được nâng cao góp phần không nhỏ vào việc cải
thiện đời sống xã hội.
49
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động công ty còn có một số hạn chế nhất định
như:
-Trong việc cải tiến đổi mới máy móc thiết bị và thanh lý máy móc đã khấu
hao hết công ty đã tiến hành nhưng còn chậm.
-Công tác nghiên cứu thị trường trong những năm gần đây đã được thực hiện
nhưng còn rất rời rạc, đặc biệt còn thiếu đội ngò những người làm công tác thị
trường có kinh nghiệm và chuyên môn cao. Phòng thị trường đã được lập ra
nhưng vẫn chỉ là mang tính chất hình thức. Sự phối hợp giữa phòng này với phòng
ban chức năng khác trong công ty chưa được chặt chẽ và nhiêù khi có sự chồng
chéo
-Chưa phát huy hết tiềm năng phát triển của công ty: những tiềm năng về
chất xám của các chuyên gia, vốn, cơ sở, vật chất kỹ thuật chưa tận dụng một cách
tối đa.
-Về chính sáchsản phẩm: Đây là chính sách cơ bản của Marketing Nix nhưng
thực hiện còn mang tính chung chung, chưa cụ thể đối với từng loại sản phẩm,
việc đa dạng hoá sản phẩm còn chậm, việc thiết kế mẫu mã mới tuy đã được triển
khai nhưng gặp khó khăn do nhu cầu thị trường luôn có sự thay đổi mà chi phí cho
vấn đề này là tương đối lớn.
(Trên đây là một số những hạn chế mà công ty cần khắc phục kịp thời để tạo
điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả)
2.Đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là 1 phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp-hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự so
sánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra-vì kết quả đạt được và chi phí bỏ ra đều có
thể tính toán bằng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau do đó đánh giá chính xác hiệu quả
của doanh nghiệp thì phải dùng một hệ thống chỉ tiêu vừa tổng hợp vưà chi tiết vì
với mỗi chỉ tiêu thì ý nghĩa và nội dung đều khác nhau.
50
Công thức chung để đánh giá hiệu quả kinh doanh là:
Hiệu quả kinh doanh =
Phản ánh sức sản xuất, sinh lợi của 1 đơn vị chi phí đầu vào để thu được bao
nhiêu kết quả đầu ra, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp càng lớn.
Hoặc hiệu quả kinh doanh =
Phản ánh sản suất hao phí cho một đơn vị kết quả
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu sau: Giá trị tổng sản lượng, doanh
thu, lợi nhuận, giá trị tăng thêm, số nép ngân sách
Chi phí đầu vào: Tổng vốn, vốn cố định, vốn lưu động, lao động, tài sản cố
định giá thành và các loại chi phí.
1.1.Hiệu quả sử dụng vốn:
Công ty Dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh
vực Dệt may. Nguồn vốn của công ty được huy động từ 3 nguồn khác nhau: vốn
ngân sách cấp, vốn tự bổ xung và vốn vay trong đó vốn ngân sách cấp là chủ yếu.
Qua biểu 1, ta thấy tổng vốn kinh doanh của công ty tăng dầu lên qua các
năm 1998 tổng số vốn tăng1100 tr.đồng so với năm 1997 là so số vốn cố định tăng
90,89 tr.đồng (9%) và vốn lưu động giảm 7989 tr. đồng (13,4%). Năm 1999 tổng
số vốn tăng 601 tr.đồng (0,37%) so với năm 1998 trong đó vốn cố định giảm
9108,4 tr.đồng (82l,29%) vốn lưu động tăng 9704,9 tr.đồng (18,84%)
Tình hình trên cho thấy mặc dù vốn của công ty tăng nhưng cơ cấu vốn có sự
biến động không đều năm 1997 tỷ trọng vốn cố định là 62,87% trong tổng số vốn
năm 1998 là 68,1% năm 1999 là 62,2%. Do vậy công ty nên xem xét lại tình hình
phân bổ để có điều chỉnh phù hợp trong thời gian tới
Qua biểu 5 ta thấy:
Năm 1997: Tổng doanh thu 375.799.000.000 VNĐ
Năm 1998: Tổng doanh thu 379.898.000.000VNĐ
Năm 1999: Tổng doanh thu 438.407.000.000 VNĐ
51
a/ Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
Chỉ tiêu này được tính theo công thức =
Năm 1997
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh == 2,34
Năm 1998
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh = = 2,35
Năm 1999
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh = = 2,71
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn đưa vào sản xuất kinh doanh mang lai bao
nhiêu đồng doanh thu và tốc độ quay vòng vốn.
Như vậy, nếu năm 1998 mét VNĐ được đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo
2,35 VNĐ doanh thu. Nghĩa là trong 2 năm 1998-1997 chỉ tiêu này chỉ tăng có
0,01 đồng, hiệu quả sản xuất kinh doanh có tăng nhưng không đáng kể. Sang năm
1999 chỉ tiêu này tăng 0,36 đồng so với năm 1998. Đây là dấu hiệu tốt tốc độ quay
vòng vốn tăng, thể hiện công ty sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả.
b/chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định
chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định của doanh
nghiệp đem lại bao nhiêu đồng doanh thu và được tính theo công thức:
Hiệu quả sử dụng vốn cố định =
Năm 1997
Hiệu quả sử dụng vốn cố định = =3,73
Năm 1998
Hiệu quả sử dụng vốn cố định ==3,46
Năm 1999
Hiệu quả sử dụng vốn cố định = =4,35
Năm 1999 cứ 1 VNĐ vốn cố định công ty tạo ra 4,35 VNĐ doanh thu cao
hơn 0,89 đồng so vơí năm 1998; những chỉ tiêu này của năm 1998 lại thấp hơn
52
năm 1997, hiệu quả sử dụng vốn cố định chưa cao. Năm 1999, công ty đã đầu tư
đổi nền thiết bị máy móc, nâng cấp nhà xưởng, đồng thời sản phẩm làm ra ngày
một nhiều, lượng tiêu thụ càng tăng lên dần tới doanh số bán ra cao hơn sơ với
năm trước. Vì vậy mà hiệu quả sử dụng vốn cố định trong năm 1999 mới cao như
vậy.
C/hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động và được tính theo
công thức:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
Năm 1997
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ==6,31
Năm 1998
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = =7,37
Năm 1999
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ==7,15
Như vậy, vòng quay vốn lưu động (.)một khi sản xuất kinh doanh là tương
đối và ổn định. Tốc độ vòng quay của vốn lưu động năm1997 là 6,31 vòng, năm
1998 là 7,37 vòng, năm 1999 là 7,15 vòng. Mặc dù năm 1999 có giảm so với năm
1998 nhưng không nhiều, tuy nhiên công ty vẫn phải xem xét lại tình hình sử dụng
vốn lưu động để sao cho có hiệu quả hơn nữa.
Qua xem xét một số chỉ tiêu trên ta thấy vốn sản xuất kinh doanh của công ty
là tương đối lớn, vốn cố định cũng lớn do công ty là doanh nghiệp sản xuất là chủ
yếu cho nên thường xuyên có sự đầu tư vào máy móc thiết ị nhà xưởng và các cơ
sở vật chất kỹ thuật khác. Đồng thời còng từ những chỉ tiêu trên ta nhận thấy hiệu
quả sản xuất kinh doanh là ổn định trong các năm 1997, 1998, 1999 và có khả
năng sẽ ngày càng có hiệu quả trong vài năm tới.
Vấn đề sử dụng vốn luôn được công ty xem xét, tính toán kĩ lưỡng nhằm bảo
toàn và phát triển vốn. Do vậy công ty đã đặt ra những nguyên tắc cơ bản sau để
quản lý vốn có hiệu quả:
53
+ Sử dụng vốn đúng mục đích: Nghĩa là công ty sử dụng vốn chủ yếu hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, ngoài mục đích này ra công ty hạn chế sử
dụng vốn cho các công việc khác.
+ Sử dụng vốn có hiệu quả: Vốn phải được phân bổ một cách hợp lý trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn, ưu tiên cho việc phát triển các mặt hàng chủ lực.
Bảo đảm việc sử dụng vốn sẽ đem lại hiệu quả tối đa, có thể tái đầu tư cho mở
rộng sản xuất tạo công ăn việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống cho
cán bộ công nhân viên...
+ Sử dụng vốn hợp pháp: Công ty thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách,
luật pháp về kinh tế về lao động của nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân
sách nhà nước, thanh toán kịp thời với người lao động.
1.2-Chỉ tiêu về năng suất lao động.
Lao động là 1 trong 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất có vai trò quyết
định và chủ động trong quá trình sản xuất. Nếu biết sử dụng tiết kiệm nguồn lao
động sẵn có và đồng thời biết nâng cao năng suất lao động của mỗi người thì sẽ
tăng được kết quả sản xuất và không phải mất thêm chi phí cho lao động sống.
Năng suất lao động là chỉ tiêu chất lượng phảm ánh số lượng sản phẩm sản
xuất ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc lương thời gian hao phí để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động là nhân tố cơ bản ảnh hưởng lâu dài và không có giới hạn
đến hiệu quả sản xuất. Mức năng suất lao động bình quân của công nhân nêu lên
hiệu quả của người lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm trong mỗi thời kỳ nhất
định (tháng, quý, năm) và tính theo công thức:
Năng suất lao động năm/1 lao động =
Hoặc
Năng suất lao động năm/1 lao động=
Năm 1997:
Năng suất lao động năm/1lao động=
=76873208đ/người/năm
54
Hoặc = = 69055310,5đ/người/năm
Năm 1998:
Năng suất lao động năm/1 lao động=
=76919579,7đ/người/năm
Hoặc: = 72568863 đ/người/năm
Năm 1999:
Năng suất L/động năm/1 lao động = = 81415255,8 đ/người/năm
Hoặc = = 83394902 đ/người/năm
Nếu tính năng suất lao động theo giá trị sản lượng hay theo doanh thu ta thấy
chỉ tiêu này đều tăng quá mỗi năm. Năm 1999, mét lao động tham gia hoạt động
sản xuất kinh doanh tạo ra 81.415.255,8 đồng giá trị tổng sản lượng hay
83.394.902 đồng doanh thu. Như vậy trong năm 1999 một người lao động tạo ra
giá trị tổng sản lượng (doanh thu) nhiều hơn so với năm 1998 điều đó có nghĩa
công ty ngày càng đổi mới cơ cấu sản xuất, cơ cấu quản lý tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động yên tâm phấn đấu, nâng cao thành tích sản xuất, đem lại hiệu
quả cho công ty.
1.3.Chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng sau một kỳ kinh doanh. Đối với bản
thân các doanh nghiệp lợi nhuận là nguồn bổ xung vốn sản xuất để phát triển kinh
doanh, mở rộng sản xuất là nguồn hình thành quỹ của doanh nghiệp, là điều kiện
để thực hiện nghĩa vụ lợi nhuận và tổng vốn doanh thu tổng vốn sản xuất kinh
doanh, vốn tự có của doanh nghiệp
*Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu = x 100%
Năm 1997: Lợi nhuận là: 3.946.000.000 VNĐ
Tỷ suất này là : 1,05%
Năm 1998: Lợi nhuận là: 4.205.000.000VND
Tỷ suất này là: 1,1% tức là trong tổng số doanh thu được có 0,57 là lãi giảm
0,53% so với năm 1998.
55
*Tỷ suất lãi/vốn =
Năm 1997 tỷ suất này = 0,0246 phản ánh bình quân kỳ kinh doanh cứ 1 đ
vốn mà doanh nghiệp sử dụng đã tạo ra 0,0246 đ lợi nhuận.
Năm 1998 tỷ suất trên = 0,026 phản ánh bình quân trong kỳ cứ 1 đ vốn làm
ra 0,026 đ lợi nhuận.
Năm 1999 tỷ suất này = 0,0154 1đ vốn tạo ra 0,0154 đồng lợi nhuận. Như
vậy khả năng sinh lợi của vốn là không cố định năm 1998 có tỷ lệ cao. Nhưng
năm 1999 giảm mạnh 0,0106 đ lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
1.4.Mét số chỉ tiêu tài chính của công ty:
Khi xem xét tình hình tài chính của công ty ta không thể không xem xét khả
năng thanh toán của doanh nghiệp vì khả năng thanh toán cao thì tình hình tài
chính sẽ khả quan và ngược lại do vậy ta xem xét một số chỉ tiêu sau:
Tỷ sô thanh toán ngắn hạn = = (lần)
Tỷ số này cho thấy khả năng đáp ứng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong
một kỳ kinh doanh là cao hay thấp chỉ số này không phản ánh chính xác khả năng
thanh toán, nếu hàng tồn kho là những hàng hoá khó bán thì doanh nghiệp khó
chuyển chúng thành tiền mặt để trả nợ. Bởi vậy, cần quan tâm đến tỷ số thanh
toán nhanh:
Tỷ sè thanh toán nhanh =
Biểu 8: Một số chỉ tiêu tài chính của công ty
Nguồn: Báo cáo tài chính các năm
Qua biểu 8 ta thấy, tài sản lưu động của công ty tăng lên cả về số lượng lẫn
số tuyệt đối trong ba năm 1997,1998, 1999. lÉn sè tuyÖt ®èi trong ba n¨m
1997,1998, 1999.
Mặc dù 1VNĐ nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng 1,335 VND giá trị tài sản
(1997), 1,315 VND (1998), 1,389 VND (1999) nhưng tỷ số thanh toán nhanh chỉ
ra rằng có quá nhiều tài sản lưu động nằm dưới dạng hàng hoá tồn kho mà chủ yếu
là thành phẩm. Do đó, công ty cần xem xét lại công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm
và công tác lập kế hoạch sản xuất của mình. Khả năng đảm bảo 1 VNĐ nợ ngắn
56
hạn chỉ có 0,343 VNĐ (1997) 0,438VNĐ (1998) 0,546 (1999).Giá trị tài liệu lưu
động (sau khi trừ tồn kho) Tuy nhiên khi xem xét tổng quát trong ba năm thì ta
thấy tỷ số này đang tăng dần lên chứng tỏ doanh nghiệp rất cố gắng trong việc
giảm bớt lượng hàng tồn kho. Với tình hình này trong những năm tiếp theo khả
năng thanh toán của công ty là tương đối khả quan.
57
Phần III: một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty trong thời gian qua.
I.Mục tiêu trong thời gian tới.
Công ty Dệt may Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước đó là mục tiêu trước
hết là đảm bảo việc thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước giao. Đó là để bảo toàn
và tăng vốn tạo đủ công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân
viên, phát triển chiếm lĩnh thị trường dệt may trong nước (ở cả khu vực phía Bắc
và phía Nam), đẩy nhanh xuất khẩu.
Phấn đấu tăng mức doanh thu hàng năm là 8%, tối đa hoá lợi nhuận (đến năm
2000 dự tính tăng lợi nhuận lên con sè 5 000 tr đồng) tăng sản lượng tiêu thụ
trong nước về mặt hàng dệt kim lên 40%, sản phẩm khăn lều du lịch lên 10-15%
tổng số sản phẩm tiêu thụ. Đối với sản phẩm sợi tiêu thụ trong nước lý do là chất
lượng sợi chưa cao vì vậy trong những năm tới, công ty sẽ phấn đấu tăng chất
lượng sợi lên cao hơn nữa để có thể nhanh chóng tiến tới xuất khẩu ra nước ngoài.
Hiện nay, người tiêu dùng trong nước đã bắt đầu ưa thích các sản phẩm may mặc
nội địa, đây là một thuận lợi cho công ty trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm dệt kim, sản phẩm khăn, lều du lịch và tạo uy tín đối với bạn hàng trong
nước.
1.Về phía công ty:
+ Nâng cao chất lượng đội ngò lao động.
Đội ngò lao động (.) công ty là khá lớn, có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Việc quản lý 1 số lượng lớn lao động
như vậy thì công ty cần phải:
-Xác định hợp lý chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận, các nhân
viên có liên quan đến quản lý và thực hiện chức năng sản phẩm.
-Xây dựng các tiêu chuẩn cán bộ quản lý, căn cứ vào đây để đánh giá từng
cán bộ có chế độ thưởng phạt công khai để phát huy hết tinh thần trách nhiệm của
họ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp thì có qui định về bậc thợ, quy định về tổ
chức bậc thi nâng bậc cho công nhân, khuyến khích họ không ngừng phấn đấu rèn
luyện trong sản xuất để nâng cao tay nghề.
58
-Đảm bảo các điều kiện làm việc một cách tốt nhất, trang thiết bị trong các
phòng ban phải đầy đủ phục vụ cho công tác được thuận lợi, trang thiết bị phục vụ
cho sản xuất phải đầy đủ, an toàn trong sử dụng.
Mặt khác quang cảnh môi trường phải luôn luôn được quan tâm cho sạch
đẹp, trung tâm y tế phải định kì kiểm tra sức khoẻ cho công nhân để phát hiện và
sử lý kịp thời bệnh trạng nếu có, có chế độ nghỉ giữa ca để lao động phục hồi lại
phần sức khoẻ đã tiêu hao trong sản xuất, tránh tình trạng lao động mệt mỏi làm
giảm năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
-Tăng cường công tác định mức lao động để sử dụng lao động một cách có
hiệu quả.
-Nâng cao trình độ nhận thức cho người lao động. Trình độ nhận thức của
người lao động được đánh giá bằng trình độ học vấn, trình độ văn hoá, chuyên
môn nghề nghiệp và kinh nghiệm mà họ tích luỹ được sau một thời gian làm việc.
Công ty nên đặt ra các yêu cầu tuyển chọn lao động và cần thường xuyên tổ chức
việc bồi dưỡng nâng cao dần về tay nghề, về kỹ thuật đối với người lao động.
Đối với những người làm công tác quản lý, kỹ thuật công ty cần chú ý tạo
điều kiện để họ học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến thông qua các buổi hội
thảo, hội nghị khoa học có mời chuyên gia nước ngoài tham dự hoặc thông qua
các tạp chí nước ngoài. Công ty cần chú trọng đến việc tạo điều kiện cho cán bộ
quản lý, kỹ thuật đi học để nâng cao trình độ hơn nữa.
-Nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động sự quan tâm tới công việc
tới công cụ lao động, ý thức trách nhiệm càng cao thì họ càng quan tâm gắn bã
với công việc nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Để đảm bảo tăng
cường ý thức trách nhiệm của người lao động, công ty nên có chế độ thưởng phạt
công bằng trong quản lý thiết bị và sử dụng nguyên vật liệu.
Bên cạnh đó công ty cũng nên quan tâm đến mặt tâm tư tình cảm của người
lao động, tạo điều kiện thuận tiện cho họ trong công tác cũng như trong công việc
gia đình với phần lớn lao động ở công ty là nữ.
59
+ Hoàn thiện cải tiến dây truyền sản xuất và đổi mới thiết bị công ty cần phải
thanh lý những máy móc cũ đã khấu hao hết để mua mới bổ sung vào đó, tuy
nhiên việc mua thiết bị mới phải đảm bảo các yêu cầu sau:
-Phải phù hợp với dây truyền công nghệ sản xuất hiện có để đảm bảo tính
liên tục cho sản xuất.
-Hiện đại hơn một bước so với thiết bị hiện có.
-Đảm bảo năng suất, chất lượng cao hơn thiết bị mà nó thay thế.
-Đảm bảo được nguồn cung cấp vật tư và phụ tùng thay thế.
-Công tác đầu tư phải xuất phát từ nhu cầu thị trường.
Từ điều kiện sản xuất hiện có của công ty, bộ phận kỹ thuật công nghệ của
công ty cần phải có sự thống kê phân tích các dây truyền sản xuất trong, 1 vài năm
nhằm đưa ra một số dây truyền sản xuất phù hợp với nhiều loại sản phẩm khác
nhau. Từ đó cộng với bộ phận nghiên cứu sử dụng gá lắp nhằm đưa ra một số dây
chuyền thiết bị vừa phù hợp với nhiều loại sản phẩm, vừa đảm bảo được năng suất
chất lượng sản phẩm, vừa nâng cao hệ số sử dụng thiết bị hiện có. Trong điều kiện
sản xuất cảu nước ta hiện nay biện pháp này rất thích hợp, nó vừa rẻ, vừa linh hoạt
thích nghi với nhiều loại sản phẩm khác nhau mà vẫn nâng cao được năng suất và
chất lượng sản phẩm, phương pháp này làm tăng tỷ trọng thiết bị hiện có và hiệu
quả sử dụng chúng mà chưa nhất thiết phải đầu tư thiết bị bổ xung.
-Hoàn thiện, cải tiến đổi mới thiết bị máy móc là điều cần thiết nhưng vấn đề
đặt ra là nguồn vốn cho công tác này không dễ giải quyết. Để thực hiện được thì
phải tạo được nguồn vốn có thể huy động bằng nhiều nguồn khác nhau. Vốn vay
ngân hàng, vốn liên doanh liên kết, vốn do ngân sách bổ sung hoặc thực hiện cổ
phần hoá. Trong điều kiện hiện nay thì liên doanh liên kết với nước ngoài là phù
hợp nhất. Bên nước ngoài góp vốn liên doanh bằng hình thức đầu tư thiết bị, công
nghệ mới và chịu trách nhiệm phần bao tiêu phần lớn sản phẩm làm ra. Trong thời
hạn liên doanh ta còn tranh thủ học hỏi phương thức quản lý với quy trình công
nghệ tiên tiến, điều đó sẽ mang lại cho ta những kiến thức mới về nhiều mặt.
*Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường:
60
Qua xem xét, nghiên cứu cho ta thấy cồng tác nghiên cứu dự báo thị trường
của công ty đã được tiến hành song còn rất rời rạc hiệu quả chưa cao. Vì vậy để
hạot động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao thì công ty cần đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu thị trường để từ đó có những đối sách thích hợp, xác lập chiến
lược sản xuất kinh doanh đúng hướng và có hiệu quả. Để thực hiện tốt công tác
nghiên cứu thị trường thì cần phải:
+ Công ty nên hình thành một phòng Maketing độc lập, đồng thời phối hợp
với các phòng ban khác trong công ty xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
+ Tổ chức tuyển chọn cho phòng thị trường, phải chọn những người được
đào tạo về chuyên ngành Maketing hoặc là những người năng động kinh nghiệm
trong công tác maketing.
+ Tiến hành thu thập thông tin, thường xuyên, duy trì và đào tạo các mối
quan hệ công tác với các cơ quan thương mại trong nhà nước như Bộ Thương
mại, phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, đồng thời tạo quan hệ với các
cơ quan cá nhân của ta ở nước ngoài (đối với thị trường nước ngoaì) để có được
thông tin về khách hàng nước ngoài vê nhu cầu thị trường trong tương lai. Đối với
thị trường trong nước để thu thập thông tin công ty có thể tiến hành qua các đại lý
bán hàng, giới thiệu sản phẩm có hình thức theo dõi thống kê chủng loại mẫu mã
kích cỡ sản phẩm tiêu thụ theo từng muà, từng tháng ở các khu vực khác nhau.
Thu thập thông tin về chủng loại hàng đang bán buôn bán lẻ của các doanh nghiệp
khác trên thị trường, nắm bắt giá cả, chất lượng các sản phẩm cùng loại. Tình hình
tiêu thô sản phẩm đó, thu thập thông tin về phương thức bán hàng, hình thức phục
vô khách, tổ chức hội nghị khách hàng lấy ý kiến họ.
+ Ra quyết định phù hợp từ việc thu thập thông tin:
-Xem phát triển hay giảm bớt mặt hàng nào.
-Quyết định biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm đi kèm với việc phát
triển mặt hàng nào là chủ yếu
-Định ra các chính sách giá cả linh hoạt trên từng thị trường, từng loại khách
hàng.
61
-Quyết định các hình thức phân phối, mở rộng mạng lưới tiêu thụ trực tiếp,
mạng lưới đại lý hay lưu thông theo lượng nhu cầu để tránh tồn đọng.
-Quyết định mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng mới
+ Thị trường miền Nam là khu vực thị trường tiềm năng. Do vậy công ty cần
phải mở nhiều đại lý ở khu vực này. Ngoài ra công ty nên tiến hành mở thêm các
đại lý ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung
+Tổ chức triển khai tốt các hội chợ thời trang, các hội nghị chuyên đề về thị
trường nội địa.
+ Tăng cường quảng cáo về công ty, về sản phẩm của công ty trên các
phương tiện báo chí trung ương và địa phương, trên truyền hình và các tạp chí
chuyên ngành dệt may, tổ chức các chiến dịch khuyến mại chào hàng để thu hót
khách hàng hơn.
*Hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất:
Tổ chức sản xuất một cách hợp lý thì trước tiên vấn đề chuẩn bị cho sản xuất
là khâu hết sức quan trọng, bao gồm các vấn đề về cung ứng nguyên vật liệu năng
lượng, nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Vấn đề đầu tư vào cho quá trình
sản xuất là một vấn đề khá bức thiết đối với ngành dệt may Việt Nam nói chung
và đối với Công ty Dệt May Hà nội nói riêng. Nguyên liệu do nhà máy may phụ
thuộc vào nhà máy dệt cung cấp và nhà máy dệt lại phụ thuộc vào nhà máy sợi.
Đầu vào chủ yếu là bông (cotton) và sợi (polyste), hai nguồn nguyên liệu chính
này lại chủ yếu nhập ngoại. Ngoài ra các nguyên liệu phụ khác như hoá chất,
thuốc tẩy ... còng phụ thuộc vào nước ngoài, không chủ động trong vấn đề đầu tư
sẽ gây khó khăn trong sản xuất lúc thì thiếu việc, lúc thì giảm ca làm thêm giê.
Giải quyết hợp lý các yếu tố đầu vào là nâng cao hiệu quả sử dụng dùng các
nguồn lực sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cho công ty.
-Để hoàn thiện hơn công tác tổ chức sản xuất thì trước tiên vấn đề nguyên vật
liệu phải đảm bảo cung cấp đồng bộ. Để hoàn thành công tác này công ty phải
nắm thông tin đầy đủ chính xác về nhu cầu thị trường sản phẩm (số lượng, chất
lương, mẫu mã) để sơ bộ có kế hoạch cung cấp cho sản xuất, từ đó xác định được
kế hoạch tiêu chuẩn kỹ thuật để mua nguyên vật liệu, phụ liệu cung cấp cho quá
62
trình sản xuất. Mua nguyên vật liệu cần đảm bảo sự đồng bộ cho từng loại sản
phẩm, đảm bảo cung cấp đúng tiến độ sản xuất trong các hợp đồng gia công, việc
đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu phụ cần được đưa vào hợp đồng khi ký kết với
khách hàng và cần có kế hoạch triển khai sản xuất phù hợp với năng lực sản xuất
để đảm bảo cho giao hàng đúng hạn, tránh làm thêm ca, thêm giê tăng cường độ
lao động của công nhân cũng như máy móc thiết bị.
Sau khi đã có thông tin về nguyên vật liệu, phụ liệu thì bộ phận kế hoạch sản
xuất cân đối, điều động nguyên liệu cho từng nhà máy để sản xuất.
Sử dụng nguyên liệu phải hợp lý tiết kiệm, sử dụng đúng định mức tiêu hao
cố gắng hạ thấp tiêu hao nguyên vật liệu chính cho một đơn vị sản phẩm ; điều
này sẽ làm tăng được sè lượng sản phẩm sản xuất ra trên cùng một lượng nguyên
liệu đầu vào.
Bố trí lao động hợp lý góp phần hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất tổ chức
lao động khoa học, bố trí lại lực lượng lao động gián tiếp cho phù hợp trong các
khâu như vệ sinh công nghiệp, phục vụ đổ sợi ... Bã trí công nhân đúng tiêu chuẩn
nghề nghiệp và coi trọng công tác an toàn lao động. Lao động chính trong dây
truyền sản xuất được bố trí giảm tốc độ thời gian di chuyển nhằm tiết kiệm tới đủ
thời gian hao phí.
Cân đối dây truyền hợp lý trong các nhà máy đảm bảo đồng bé trong sản
xuất; tránh tình trạng thừa thiếu trong sản xuất đảm bảo hoạt động sản xuất được
liên tục hoàn thành kế hoạch được giao.
*Hoàn thành chính sách sản phẩm và sản phẩm cạnh tranh.
Ngày nay khi người tiêu dùng hiện đại mua một sản phẩm hiện đại, họ chú ý
đến nhiều khía cạnh khác nhau của sản phẩm như: Giá trị sử dụng, thị hiếu, thẩm
mỹ ... chỉ khi hình thành được chính sách sản phẩm mới có hướng đầu tư thiết
kế ... từ đó có chính sách giá, phân phối, khuyếch trương mới phát huy một cách
có hiệu quả.
+Đối với sản phẩm sợi: theo xu thế hiện nay sợi sản xuất ra phục vụ chủ yếu
ở thị trường miền Nam và nhu cầu sợi Feco tăng mét cách ổn định. Trong một vài
63
năm tới, quan điểm về một số chủng loại sản phẩm mà công ty sẽ sản xuất như
sau:
-Tổng năng suất sợi Peco để phục vụ thị trường miền Nam
-Đảm bảo chất lượng sợi ổn định.
-Nhu cầu sợi Cetton để dệt vải chất lượng cao tuy không nhiều nhưng ngày
càng tăng nên công ty có định hướng chuyển sang sản xuất sợi Cetton có chỉ số
cao.
-Chỉ đa dạng hoá sản phẩm trong điều kiện kỹ thuật cho phép và phải đảm
bảo sự hợp lý giữa quy mô sản xuất và lợi nhuận.
-Những sản phẩm sợi phục vụ cho sản xuất các sản phẩm dệt kim, khăn bông
tiêu dùng trong nước với mục đích tăng khả năng cạnh tranh về giá, chất lượng sợi
không cần yêu cầu cao lắm.
-Đối với việc xuất khẩu sợi công ty nên triển khai theo hướng liên doanh với
nước ngoài vì hiện nay việc đầu tư cho một dây chuyền công nghệ sản xuất sợi lên
tới hàng chục triệu USD mà vốn cuả công ty thì có hạn. Về vấn đề bao bì cho loại
sản phẩm này công ty nên chia ra 2 loại:
-Với khách hàng cần bao bì đẹp, bền công ty bao gói bằng bìa cetton 3 hoặc 5
líp, thậm chí bằng thùng gỗ thông, khi thiết kế nên chú ý kích thước dài, rộng, cao
với không gian của các phương tiện vận tải. Trọng lượng thùng cộng trọng lượng
sợi nên dưới 50 kg/thùng. Với khách hàng chỉ cần bao gói đơn giản để giảm chi
phí, công ty có thể sử dụng các vải đay dầy hoặc thưa, vải dệt ở dạng méc để làm
bao bì.
Công ty in nhãn hiệu của mình lên bao bì và có dịch vụ đi kèm với những
mặt hàng vừa có đặc tính kỹ thuật mà phía khách hàng chưa nắm vững đầy đủ, cần
phải có cán bộ hướng dẫn.
+Đối với sản phẩm dệt kim và khăn bông.
-Với mục tiêu để xuất khẩu: Trong vài năm tổng sản xuất theo hợp đồng của
các nhà buôn nước ngoài là chính và chủ yếu mẫu mã là do bên họ đưa ra công
việc cung ứng nguyên liệu là mình phải tự làm. Yêu cầu đối với khâu sản xuất:
64
.Đảm bảo đúng tiến độ thực hiện
.Chất lượng sản phẩm sản xuất ra phù hợp với tiêu chuẩn ghi trong hợp đồng.
Đối với sản phẩm dệt kim, chất lượng sản phẩm phụ thuộc nhiều vào khâu hoàn
thiện. Để nâng cao chất lượng không những nâng cao kỹ thuật may cho công nhân
mà máy móc cũng nên được hiện đại hoá: thay thế thiết bị ở công đoạn nhuộm,
nồi cao áp dùng để nhuộm đã cũ ký lạc hậu ...
Việc mở rộng mặt hàng cao cấp là cần thiết, máy móc cho dệt may để đảm
bảo được yêu cầu nhưng về phía nhà máy sợi thì khả năng cung ứng loại sợi có
chất lượng tốt còn thấp. Công ty nên tiến hành nhập loại sợi có chất lượng cao từ
nước ngoài.
-Với mục tiêu phục vụ nội địa: thị trường trong nước có sức mua khá lớn sản
phẩm đòi hỏi phải đa dạng, yêu cầu chất lượng không cao lắm, công ty nên căn cứ
vào thông tin sau để sản xuất.
+Sở thích theo từng mùa; xuân, hạ, thu, đông.
+Số lượng người tiêu dùng ở nhiều độ tuổi khác nhau và chỉ số đo trung bình
+Số lượng người ở độ tuổi nào có nhu cầu nhiều nhất đối với sản phẩm dệt
kim
+Sự khác nhau về thị hiếu, nhu cầu chủng loại hàng hoá giữa các khu vực thị
trường.
Công ty nên quan tâm tầng líp thanh niên học sinh, sinh viên vì họ quan tâm
nhiều hơn đến mẫu mã, tính thời trang, giá cả không cao. Công ty có thể tiến hành
mở rộng chủng loại mặt hàng để phục vụ đối tượng thanh niên: các loại quần áo
thể thao chất lượng không đòi hỏi cao nhưng mẫu mã phải luôn thay đổi cho kịp
thị hiếu của thanh niên, mầu sắc đa dạng. Tăng số lượng áo phông với chất lượng,
và giá bán trung bình, với các thiết bị in may, in lưới tạo ra sự đa dạng về mầu sắc
và hình vẽ trên quần áo.
Đối với quần áo trẻ em hiện nay công ty đã sản xuất nhưng số lượng không
nhiều. Hiện nay nhu cầu về mặt hàng này khá lớn công ty nên sản xuất thêm, chú
ý đến mẫu mã phong phú, mầu sắc đẹp tạo được sự khoẻ khoắn cho trẻ khi mặc.
65
Riêng khăn bông công ty nên tiến hành mở rộng sản xuất các mặt hàng chất lượng
cao dệt từ sản phảam cetton phục vụ cho khách hàng, khách sạn, người tiêu dùng.
Đối với bao bì: nếu để phục vụ cho mục đích tiện lợi của khách hàng thì chỉ
cần dùng bao nylon như hiện nay, còn nếu khách hàng có nhu cầu mua làm tặng
phẩm thì bao bì bằng da được in Ên cẩn thận.
Công ty nên dán nhãn hiệu có biểu tượng của công ty lên sản phẩm để tránh
hàng giả mang mác của công ty, làm mất uy tín của công ty.
2.Về phía nhà nước:
Hiện nay các doanh nghiệp đang hoạt động trong cơ chế thị trường đều dưới
sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Quản lý vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhằm tạo điều kiện
cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành dệt may nói
chung và Công ty Dệt May Hà Nội nói riêng. Nhà nước nên có những chính sách
hợp lý, cụ thể là:
-Các cơ quan ngoại giao thương mại của Việt Nam ở nước ngoài cần hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước những thông tin cụ thể về sản xuất, xuất nhập khẩu,
thương nhân và chính sách xuất, nhập khẩu có liên quan đến ngành dệt may của
nước sở tại để các doanh nghiệp trong nước tìm được thị trường tiêu thụ, lùa chọn
những đối tác kinh doanh. Đồng thời cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp nước
ngoài thâm nhập và tìm hiểu khả năng của các doanh nghiệp dệt may nước ta.
-Chính phủ cần dành vốn ưu tiên cho ngành dệt để tập trung đầu tư đột phá
vào công đoạn dệt, hoàn tất sản phẩm nguyên phụ liệu, bởi lĩnh vực này là khâu
yếu cần có vốn đầu tư lớn và rủi ro nhiều hơn, hiệu quả trực tiếp chưa cao nhưng
có tác dụng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả ở sản phẩm may. Đồng thời, nhà
nước hỗ trợ vốn đầu tư để xây dựng phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế trong
việc kiểm định chất lượng nguyên vật liệu và sản phẩm dệt may, nhằm tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp trong giao thương quốc tế.
-Thi hành một chính sách thuế hợp lý như giảm tối đa thuế nhập khẩu đối với
vật tư thiết bị của ngành và trong nước chưa sản xuất được, áp dụng mã thuế nhập
khẩu nhất quán đối với tố chất và vật liệu phụ ngành dệt, miễn thuế phần lợi nhuận
66
dùng để tái đầu tư vào ngành dệt; cho ngành dệt vay vốn đầu tư ưu đãi với lãi suất
không quá 6%/năm và thời hạn trả từ 10-15 năm, vì đầu tư cho ngành dệt cần vốn
lớn và khó hoàn trả dưới 10 năm; cải cách thủ tục hải quan nhằm giảm phiền hà
cho doanh nghiệp.
-Tăng cường quản lý thị trường và chống buôn lậu, bảo vệ sở hữu công
nghiệp. Hiện nay tuy chính phủ đã nhiều biện pháp nhưng tác dụng còn rất hạn
chế nên thị trường nội địa hàng ngoại vẫn tràn ngập từ vải đến quần áo cũ mới. Do
vậy, nhà nước cần tăng cường bộ máy quản lý thị trường về cả 2 phương diện
chống buôn lậu hàng nước ngoài và kiểm soát việc sản xuất hàng giả, nhà nhái
nhãn hiệu cảu các doanh nghiệp có uy tín trên thị trường.
-Nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư phát triển các vùng trồng bông, có cơ số
chế biến bông công nghiệp nghiên cứu sản xuất phô liệu trong nước với công
nghệ hiện đại. Có chính sách bảo hộ, khuyến khích trồng đay, dệt bao đay điều
này sẽ góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành và nâng cao hiệu quả của
ngành dệt may,
67
Kết luận:
Ngành may mặc là một trong những ngành sử dụng nhiều lực lượng lao
động, được nhà nước khuyến khích phát triển. Thời gian qua, ngành may mặc đã
có một số đóng góp nhất định trong việc giữ vững mức độ tăng trưởng cao của
nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành chỉ đứng sau dầu thô, tạo nguồn thu
ngoại tệ cho đất nước. Hàng năm ngành cũng giải quyết hàng vạn việc làm cho
người lao động, góp phần ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới ngành may mặc đãd từng bước
phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng ngày càng tạo được uy tín đối với thị
trường may mặc trên thế giới. Trong khi vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ với các
bạn hàng (SNG và Đông Âu). Chúng ta mở rộng dần sang một thị trường mới như
EU, Canađa, Nhật Bản, ASEAN, Mỹ ... trong đó các thị trường không cần hạn
ngạch rất được quan tâm hiện nay, nhất là Nhật Bản và Mỹ là hai thị trường đầy
tiềm năng và triển vọng.
Tuy nhiên hiệu quả kinh tế của ngành may mặc không được bao nhiêu bởi
toàn ngành chỉ mới chú trọng gia công cho các bạn hàng nước ngoài, chênh lệch
giữa giá trị xuất và nhập khẩu không đáng kể. Một số năm trở lại đây công ty chó
ý tới việc sản xuất hàng xuất khẩu (mua nguyên liệu bán thành phẩm) đã mang lại
lợi nhuận nhiều hơn.
Công ty dệt may Hà Nội là một công ty lớn của ngành may Việt Nam. Trong
những năm vừa qua công ty đã khảng định được mình thông qua việc gia tăng
không ngừng. Giá trị tổng sản lượng năm 1999 là: 422 tỷ đồng với kim ngạch xuất
khẩu hàng năm lên tới 135 triệu USD. Do gần đây được đầu tư với những dây
truyền công nghệ hiện đại cùng với đội ngò công nhân lành nghề nên sản phẩm
của công ty luôn đạt chất lượng cao.
Mục tiêu nâng cao hiệu quả luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với doanh
nghiệp. Với tất cả những cố gắng của nhà nước và bản thân các doanh nghiệp
ngành may, chóng ta có thể tin chắc rằng nhà may công nghiệp nói chung và công
ty dệt may Hà Nội nói riêng sẽ không ngừng phát triển ngày càng vững mạnh để
góp phần vào công cuộc phát triển đất nước.
68
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Phần I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QỦA CỦA SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA CÔNG TY.
I.SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI NÂNG CAO HIỆU QỦA SẢN
XUẤT KINH DOANH:
1.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh:
2.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
II.PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HÀNH ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH
1-Quan điểm cơ bản trong việc đánh giá trong việc sản xuất kinh doanh.
III.HỆ THỐNG CHỈ TIÊU DÙNG ĐỂ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH
III.MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA QUÁ
TRÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH
Phần II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
I.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY DỆT
MAY HÀ NỘI:
1.Khái quát về công ty Dệt May Hà Nội.
2.Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty
3.Chức năng và nhiệm vụ, đặc điểm của công ty.
II.BỘ MÁY QUẢN LÝ TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY:
69
1.Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty:
III.DÂY CHUYỀN KẾT CẤU CÔNG NGHỆ VÀ KẾT CẤU SẢN XUẤT.
IV.QUY MÔ VÀ NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA CÔNG TY:
1.Cơ cấu lao động và việc sử dụng lao động của công ty:
1.1-Lao động:
1.2.Tình hình máy móc thiết bị sản xuất tại công ty:
1.3-Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty.
V.MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN QUA.
VI. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH
1.Đặc thù của ngành may
2.Thị trường
3.Chính trị và pháp luật
4.Chính sách sản phẩm
5-Chính sách giá cả:
6.Mạng lưới tiêu thụ hàng hoá:
7.Công tác hỗ trợ tiêu thụ:
8.Chủng loại nguyên liệu:
VII.ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CÔNG TY
TRONG THỜI GIAN TỚI.
1.Nhận xét chung
1.1.Hiệu quả sử dụng vốn:
1.2-Chỉ tiêu về năng suất lao động.
1.3.Chỉ tiêu lợi nhuận.
70