chƯƠng trÌnh giẢng dẠy kinh tẾ fulbrightutb.edu.vn/elib/kinh te/co phan hoa trong qua trinh...

17
CHƯƠNG TRÌNH GING DY KINH TFULBRIGHT CPHN HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH CI CÁCH CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MI NHÀ NƯỚC VIT NAM Nghiên cu tình hung Hunh Thế Du Vũ Thành TAnh Tháng 6 năm 2005

Upload: dinhnga

Post on 06-Feb-2018

217 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

CỔ PHẦN HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu tình huống

Huỳnh Thế Du Vũ Thành Tự Anh

Tháng 6 năm 2005

Page 2: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 2

CỔ PHẦN HOÁ TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Là chuyên gia hàng đầu của một tập đoàn tài chính đa quốc gia đang có ý định đầu tư vào Việt Nam, ông Future cùng với các cộng sự được giao nhiệm vụ tìm hiểu quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam nhằm tư vấn cho quá trình cổ phần hoà này và tìm kiếm cơ hội đầu tư hiệu quả trong thời gian ngắn nhất.

Sau thời gian tìm hiểu, nhóm của ông Future đã đưa ra được một báo cáo vắn tắt về cổ phần hó trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam như sau.

1. Tóm tắt quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt nam

Về mặt lịch sử, có thể chi quá trình phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam ra là các giai đoạn và thời kỳ sau:

Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giao đoạn thời thuộc pháp (1858-1954): Thời kỳ này, hệ thống ngân hàng Việt Nam chủ yếu nằm trong tay của các tư bản Pháp và đồng minh của họ. Các ngân hàng chủ yếu phục vụ lợi ích của các đối này.

Hệ thống ngân hàng ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1951-1975: Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động theo mô hình ngân hàng một cấp. Ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa thực hiện chức năng phát hành tiền, chức năng phân bổ ngân sách và chức năng cấp tín dụng (Ngân hàng trung ương, Kho bạc,các ngân hàng thương mại).

Hệ thống ngân hàng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975: Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng ở miên Man Việt Nam hoạt động theo mô hình ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam làm chức năng của ngân hàng Trung ương. Việc cung ứng tín dụng cho nền kinh tế do các ngân hàng thương mại thực hiện.

Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1975-1990: Trong giai đoạn này, sau khi thống nhất đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Nam được nhập vào hệ thống ngân hàng miền Bắc tạo thành một hệ thống thống nhất. Hệ thống ngân hàng lúc này hoạt động theo mô hình ngân hàng một cấp. Đến năm 1986, chuyển chức năng phân bổ ngân sách cho kho bạc nhà nước. Đến năm 1990, chuyển sang mô hình ngân hàng hai cấp.

Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 1990-nay: Sau những cải cách bước đầu chưa đem lại thành công, nhất là sự thất bại của mô hình các hợp tác xã tín dụng. Năm 1990, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) ra đời đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm chức năng ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng làm vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Page 3: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 3

2. Cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước găn với cải cách hệ thống ngân hàng Việt nam

Hệ thống ngân hàng Việt Nam thực sự được quan tâm sau sự kiện đổ bể của các hợp tác xã tín dụng vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Theo Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, bốn ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thông được thành lập (Agribank). Bốn ngân hàng này cùng với các ngân hàng thương mại cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài làm chức năng ngân hàng thương mại (cấp tín dụng và thanh toán) cho nền kinh tế.

Trong hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước chiếm thị phần chủ yếu (hơn 70%). Hoạt động của các ngân hàng còn nhiều bất cập.1

2.1.Những tồn tại các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam

Hệ thống Ngân hàng thương mại nhà nước có qui mô nhỏ, năng lực tài chính yếu;

Mức độ rủi ro cao, chất lượng tín dụng thấp;

Khả năng sinh lời thấp;

Năng suất lao động thấp;

Hoạt động ngân hàng dựa chủ yếu vào "độc canh" tín dụng, còn quá ít các sản phẩm dịch vụ ngân hàng; mức độ áp dụng công nghệ vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng còn thấp xa so với khu vực.

2.2.Nguyên nhân yếu kém của các ngân hàng thương mại nhà nước

Sự yếu kém trong tổ chức, quản lý, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp....

Sự bất cập của chính sách, cơ chế cũ không phù hợp với thực tế hoạt động của ngân hàng vẫn chưa được bổ sung sửa đổi;

Sự chồng chéo và thường xuyên thay đổi các quy định, thể chế làm cho việc áp dụng vào hoạt động ngân hàng trở nên khó khăn;

Các quy định và cơ chế nhiều khi còn cứng nhắc, dẫn đến bó buộc hoạt động.

2.3.Mục tiêu của việc cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước

Trước những yếu kém bất cập của hệ thống ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại nhà nước,vào năm 2001, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng đề án cơ cấu lại hệ thống các

1 Có thể tham khảo chi tiết đề án cơ cấu này trên trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn

Page 4: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 4

ngân hàng thương mại, trong đó tập trung chủ yếu vào các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc cổ phần hoá nhằm vào ba mục tiêu sau:

Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước thực sự trở thành lực lượng chủ đạo trong lĩnh vực ngân hàng, đảm bảo hoạt động lành mạnh, an toàn và hiệu quả.

Tạo ra các ngân hàng thương mại nhà nước hoặc các tập đoàn tài chính có qui mô lớn, hoạt động đa năng, hiện đại, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nhà nước trên thị trường trong và ngoài nước.

2.4.Các nội dung chính cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước

2.4.1. Xử lý nợ tồn đọng2

Nợ tồn đọng được chia làm hai loại. Những khoản nợ thuộc chỉ đinh của Chính phủ thì Chính phủ sẽ có cơ chế và cân đối nguồn vốn xử lý. Các khoản nợ thuộc diện cho vay thương mại của các ngân hàng thì các ngân hàng dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý.

Nguồn vốn chủ yếu cho xử lý nợ tồn đọng là Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập hàng năm của các ngân hàng; Nguồn từ NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các mục tiêu như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho vay theo chỉ định của Chính phủ; Nguồn từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế cho vay cơ cấu lại nợ ngân hàng thương mại nhà nước; Chính phủ cho phép NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để xử lý nợ tồn đọng cho các ngân hàng.

2.5.2. Tăng vốn tự có của các NHTMNN

Song song với việc giải quyết nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính của ngân hàng thương mại nhà nước là việc tăng cường khả năng về vốn tự có để từng bước phù hợp với chuẩn mực quốc tế và khu vực. Tăng vốn tự có là vấn đề bức bách đối với ngân hàng thương mại nhà nước. Mục tiêu của việc tăng vốn tự có nhằm đảm bảo đủ tiêu chuẩn quốc tế (Basel).

Nguồn để tăng vốn tự có gồm (đề xuất của Ngân hàng nhà nước): Cho phép ngân hàng thương mại nhà nước giữ lại phần thu thuế sử dụng vốn; chuyển phần vốn vay từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế theo chương trình tái cơ cấu; Ổn định mức nộp ngân sách (lấy năm 2000 làm mốc) trong 3 năm để khuyến khích các ngân hàng thương mại nhà nước phấn đấu vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần vượt để bổ sung vốn tự có; Tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh để bổ sung vốn tự có; Cho phép tăng vốn bằng phương thức bán cổ phần ưu đãi (không tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên với cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.

2 Tham khảo số liệu trong bài viêt “Xử lý nợ xấu ở Việt Nam – Nhìn từ mô hình Trung Quốc và các nền kinh tế khác -Huỳnh Thế Du 2004).

Page 5: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 5

2.6.3.Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước

Tách bạch hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại: Để thực hiện nội dung này, các khoản cho vay chỉ định đã được chuyển sang Quỹ hỗ trợ phát triển và việc thành lập ngân hàng chính sách cũng nằm trong mục tiêu này

Cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng thương mại nhà nước: Cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng thương mại nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của khách hàng bằng cách tổ chức các phòng ban theo đối tượng khách hàng kết hợp với sản phẩm, dịch vụ nhằm phục vụ tốt hơn cácyêu cầu của khách hàng về nâng cao chất lượng dịch vụ.

Với các nội dung nêu trên, từ năm 2001-2004, các chương trình hành động cụ thể đã được triển khai và đem lại một số kết quả nhất định. Đáng kể nhất là chương trình xử lý nợ xấu (Quyết định 149/2001/TTg của Thủ tướng chính phủ); Chương trình tăng vốn tự có; Chương trình cơ cấu lại mô hình tổ chức của các ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng tập trung tại hội sở chính (Dự án hỗ trợ kỹ thuật của ngân hàng thế giới); Dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán của các ngân hàng thương mại.

3. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước3 và chủ trương cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

3.1.Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước

Ở Việt Nam, những chủ trương, chính sách thường xuất phát từ các hội nghị, đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó Chính phủ, Thủ tướng chính phủ cụ thể hoá bằng các quyết định, chỉ thị. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng đi theo trình tự như vậy. Trong thời kỳ đổi mới (bắt đầu từ 1986), ý tưởng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được hình thành khá sớm (Hội nghị trung ương 34 (Khóa VI).

Ngày 14/07/1987, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 21/HĐBT ngày 14 - 7 - 1987 của , về đổi mới kế hoạch và hạch toán kinh doanh XHCN, đảm bảo quyền tự chủ đối với xí nghiệp quốc doanh, đã đề cập tới việc thí điểm tiến hành CPH DNNN. Tuy nhiên, do điều kiện thị trường chưa phát triển, đồng thời do tồn tại quá lâu trong cơ chế cũ nên từ Trung ương tới cơ sở đều chưa hiểu vấn đề phức tạp này, từ đó chưa có sự thống nhất về quan điểm.

Đầu năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 143/HĐBT ngày 10 - 5 - 1990 về chủ trương nghiên cứu và làm thử về mô hình chuyển xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy, cho đến 3Phần này tham khảo bài viết Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của tác giả Lê Văn Trung đăng trên Website của Đảng Cộng sản Việt Nam. http://www.cpv.org.vn/details.asp?topic=70&subtopic=169&id=BT1090456411 4 Hội nghị trung ương của Đảng Cộng Sản Việt nam. Trong hệ thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội Ban chấp hành Trung ương Đảng là nơi quyết định các đường lối, chủ trương của Đảng. Đại hội được tổ chức 5 năm 1 lần. Giữa các kỳ đại hội, thường có hội nghị Ban chấp hàng Trung ương nhằm quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của Đảng và định hướng, chính sách phát triển kinh tế xã hội.

Page 6: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 6

năm 1992, cả nước vẫn chưa triển khai CPH được một đơn vị nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chủ trương CPH theo Quyết định số 143/HĐBT đặt ra quá nhiều mục tiêu không rõ ràng, dễ gây hiểu lầm đối với doanh nghiệp và người lao động.

Đại hội VII (1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm: ''Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên''.

Ngày 8 - 6 - 1992, Hội đồng bộ trưởng đã ra Quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp tục triển khai CPH DNNN bằng việc thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây được coi là mốc bước vào giai đoạn thí điểm CPH DNNN ở Việt Nam.

Ngày 4 - 3 -1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 84/TTg về thí điểm cổ phần hoá. Đến cuối năm 1993 đã có 30 doanh nghiệp đăng ký thực hiện thí điểm CPH, nhưng vì nhiều lý do, 7 DNNN được Chính phủ chọn để thí điểm CPH và nhiều doanh nghiệp khác cũng xin rút hoặc không được tiếp tục làm thử do không đủ điều kiện.

Trước những khó khăn của việc thí điểm CPH DNNN, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khóa VII), Đảng Cộng sản Việt nam chủ trương: ''Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh; trong đó, sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối''.

Tới tháng 4 - 1996, cả nước chỉ có 5 DNNN chuyển thành công ty cổ phần (2/61 tỉnh, thành và 3/7 bộ có DNNN CPH). Cả 5 doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp vừa mới được thành lập, có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong những lĩnh vực không quan trọng. Như vậy, quá trình thí điểm CPH DNNN ở Việt Nam diễn ra quá chậm và nhiều khó khăn.

Ngày 7 - 5 - 1996, Chính phủ chủ trương mở rộng CPH bằng việc ban hành Nghị định 28/CP thay thế Quyết định 202/CP với những quy định rõ ràng, cụ thể, đầy đủ hơn về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Sau hơn hai năm thực hiện Nghị định, cả nước đã CPH được 25 DNNN. Nhưng việc triển khai thực hiện Nghị định 28/CP vẫn còn nhiều vướng mắc, nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế đã trở thành rào cản làm giảm tốc độ CPH (như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động sau CPH v.v.) nhưng kết quả CPH bước đầu được mở rộng. Chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN được Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: "... nỗ lực to lớn sẽ phải dành cho việc sắp xếp lại cổ phần hóa và đổi mới tổ chức, quản lý để nâng cao hiệu quả những doanh nghiệp nhà nước hiện có".

Để đẩy mạnh CPH, HNTƯ 4 (Khóa VIII) yêu cầu: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn, cần lập kế hoạch CPH để tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả. Thể chế hoá quan điểm của Đảng, ngày 29 - 6 -1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP thay thế cho các văn bản trước đó về CPH. Cùng với Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 21 - 4 - 1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, Nghị định này đã thay đổi một cách căn bản cơ chế, chính sách CPH

Page 7: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 7

theo hướng mở rộng ưu đãi, đơn giản hóa thủ tục, đảm bảo thỏa đáng hơn chính sách xã hội đối với người lao động v.v. nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH.

Kết quả, 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 DNNN được CPH, gấp hơn 3 lần so với kết quả của hơn 10 năm trước đó. Năm 1999 cả nước đã CPH được hơn 240 doanh nghiệp. Có được những kết quả đáng khích lệ này là nhờ trong vòng hai năm, các cơ quan nhà nước đã ban hành 15 văn bản (7 quyết định, 5 thông tư và 3 công văn) hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong CPH.

Tuy vậy, năm 2000 Việt Nam chỉ CPH được 155 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, đạt 26% kế hoạch. Sự chững lại của tiến trình CPH giai đoạn này có nhiều nguyên nhân, trong đó sự bất hợp lý của chính sách và cơ chế pháp lý là những yếu tố cản trở lớn. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động CPH nhìn chung vẫn thiếu rõ ràng về nhiều nội dung như mục tiêu CPH, hình thức CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, giải quyết lao động dôi dư…

Trước tình hình đó, HNTƯ 3 (Khóa IX) về sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Đảng ta xác định phải kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, theo đó một trong những giải pháp cơ bản là đẩy mạnh CPH. CPH DNNN được coi là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Thể chế hoá chủ trương này, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP; ra Quyết định số 50/2002/QĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số văn bản khác, từng bước tháo gỡ những vướng mắc về mặt chính sách của các văn bản pháp luật trước đó, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho thực tiễn triển khai CPH. Tuy vậy, trong ba năm (2000-2003), hoạt động CPH vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Cả nước chỉ CPH được 789 doanh nghiệp, đạt khoảng 50% kế hoạch. Các DNNN được CPH chỉ chiếm khoảng 6% tổng số vốn của DNNN.

Bước sang năm 2004, HNTƯ 9 (Khóa IX) đã nhấn mạnh: ''Kiên quyết đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, gắn với việc phát hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán Giá trị doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp”.

3.2.Chủ trương cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước

Tuy nhiên, dường như những giải pháp nêu trên chưa đủ lực để xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh có sức cạnh tranh cao và nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, trong hội nghị về đổi mới đoanh nghiệp nhà nước tháng 03/2004, chủ trương cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước.

Trong đề án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước đã bắt đầu hình thành ý tưởng cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Mục tiêu chính của việc bán cổ phiếu ưu đãi chỉ đơn giản là tăng vốn tự có mà chưa đề cập đến việc cổ phần hoá để nâng cao năng lực điều hành.

Page 8: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 8

Thực ra, việc cổ phần hoá một bộ phận ngân hàng thương mại Nhà nước ở nước ta được đề xuất ngay từ giai đoạn thực hiện hai Pháp lệnh ngân hàng, từ cách đây hơn 10 năm. Nhưng từ đầu năm 2004 khi có Nghị quyết BCH TW Đảng lần thứ 9, khoá IX, trong đó cho phép cổ phần hoá cả một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực nhậy cảm: bưu chính viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, hàng không,... thì chương trình cổ phần hoá ngân hàng thương mại Nhà nước mới trở thành hiện thực.

4. Quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước

Ngày 13/5/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 84/2004/QĐ-TTg, chính thức đưa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) vào danh sách các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hoá.

Theo kế hoạch ban đầu, tháng 06/2004, đề án cổ phần hoá Vietcombank phải được trình lên Chính phủ, tháng 06/2005, Vietcombank sẽ phát hành cổ phiếu lần đầu tiên. Tuy nhiên, mãi đến cuối năm 2004, Ngân hàng nhà nước mới trình lên Chính phủ bản đề án này, kèm theo những ý kiến không thống nhất của các bộ ngành liên quan. Dưới đây là ý kiến của các bên liên quan:

BẢN THÂN NGÂN HÀNG

Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vũ Viết Ngoạn

Trả lời phỏng vấn tháng 02/2004 (thời điểm trước khi công bố chính thức - TBKTVN)

Thưa ông, dường như VCB đã chuẩn bị trước cho vấn đề này rồi?

Vấn đề cổ phần hoá (CPH) các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) đã được xác lập. Một khả năng lớn là NH ngoại thương Việt Nam (VCB) sẽ được chọn áp dụng trong đợt đầu tiên này. Thực ra, Ban lãnh đạo VCB đã nghĩ tới việc CPH từ năm 2000, khi bắt tay vào chương trình tái cơ cấu nhưng vào thời điểm đó vấn đề này được chỉ đạo là sẽ xem xét vào thời điểm sau 2005. Do đó, chúng tôi cũng chưa chính thức bắt tay vào việc xây dựng một đề án cụ thể nào cho việc CPH cả. Tuy nhiên, VCB cho rằng việc CPH sẽ là một xu hướng tất yếu khi mà định hướng chung của kinh tế Việt Nam là hội nhập với kinh tế quốc tế.

Theo ông, mấu chốt của mục tiêu CPH các NHTMQD ở đây là gì?

Mấu chốt chính là xây dựng một nền tảng vững chắc, một hệ thống quản lý hữu hiệu, có như vậy thì việc CPH vẫn đảm bảo được vị trí, vai trò cũng như là tỷ lệ vốn sở hữu của Nhà nước (NN). Nếu không, cho dù tỷ lệ vốn sở hữu của NN có cao đi nữa thì vai trò của NN trong doanh nghiệp chưa chắc đã đảm bảo và hoạt động của ngân hàng chưa chắc đã tốt hơn.

Page 9: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 9

VCB có kế hoạch bán CP cho cán bộ của mình không?

Khi tính tới việc CPH, Ban lãnh đạo VCB chắc chắn cũng sẽ tính cả tới việc này. Theo tôi, sẽ bán CP cho CB-CNV ở một mức độ nhất định. Vì sao lại chỉ là nhất định? Bởi lẽ tôi cho rằng nếu chỉ bán CP cho CB-CNV không thôi thì chưa thay đổi một cách căn bản mô hình cũng như phương thức quản lý. Do vậy, đó không hẳn là một DN tốt được. Và rồi CP này cũng phải sớm được niêm yết. Và trong tương lai, chúng tôi cho rằng phải tính tới việc niêm yết ở thị trường chứng khoán nước ngoài nữa chứ không chỉ đơn thuần là TTCK trong nước. Bên cạnh đó, tôi cho rằng nên cho phép các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm các thể nhân, pháp nhân và các định chế tài chính mua CP của VCB ở một tỷ lệ nhất định.

Mô hình quản lý sau CPH có gì khác trước khi CPH?

Mô hình quản lý ở đây, theo tôi, bao hàm cả mô hình tổ chức và phương thức quản lý. Phải thay đổi một cách khẩn trương. Trên thực tế việc này cũng đã có trong chương trình tái cơ cấu mà VCB đang thực hiện rồi. Cho dù có hay không CPH thì vẫn phải thay đổi mô hình tổ chức để quản trị tốt hơn. Nhưng thời gian tới đây, khi tiến hành chương trình CPH, thì việc này có những "màu sắc" mới, đó là phải tính tới vai trò, mô hình của Hội đồng quản trị (HĐQT) bởi khi đó HĐQT bao gồm các cổ đông khác nữa chứ không chỉ đơn thuần là đại diện cổ đông NN thôi. Từ đó, đặt ra quy chế quản lý cũng cần phải xây dựng theo phương thức mới dưới hình thức là một doanh nghiệp (DN) cổ phần. Có một điểm quan trọng mà tôi cho rằng nếu làm tốt được thì tiến trình CPH sẽ thuận lợi hơn: đó là khâu quản lý từ nay cho tới khi tiến hành CPH, phải chuẩn bị cho tốt. Làm sao đó để vai trò chủ đạo của NHTMQD sau khi CPH, vẫn tiếp tục đóng góp được cho lợi ích chung của nền kinh tế.

Phần đông các DNNN khi CPH thường gặp khó khăn trong vấn đề định giá tài sản. Việc này đối với VCB thì sao?

Về mặt kỹ thuật, việc định giá tài sản nhìn chung là một công đoạn khá phức tạp. Ví dụ, chúng tôi cần phải đánh giá là giá cổ phiếu sắp tới sẽ bán là bao nhiêu? Việc này chắc chắn là phải tính toán hết sức kỹ lưỡng, căn cứ trên việc định giá tài sản và phải cần rất nhiều ý kiến chuyên gia của các bộ, ban ngành nữa. Việc này tuy khó, nhưng vẫn làm được. Có điều là phải chuẩn bị cho kỹ. Về lý thuyết việc định giá cổ phiếu phát hành phải dựa vào chỉ số lợi nhuận trên vốn (ROE) để từ đó nhà đầu tư mới có thể định hình được mức lợi tức một khi họ đầu tư vào VCB trên cơ sở so sánh với các loại cổ phiếu, các loại hình đầu tư khác đồng thời phải xác định giá trị thương hiệu của VCB. Giá trị đó rất là lớn và mang tính chất định tính.

Trả lời phỏng vấn tháng 08/2004

Trước khi cổ phần hoá chính thức tức là trước khi phát hành cổ phiếu phổ thông thì cũng cần một bước đệm là phát hành cổ phiếu ưu đãi là loại hình cổ phiếu cho phép nhà đầu tư mua cổ phiếu và được hưởng cổ tức cố định chưa tham gia vào quản trị điều hành của doanh nghiệp. Tôi cho rằng đây là bước đệm chuẩn bị để khi phát hành cổ phiếu được tốt hơn. Khi phát hành cổ phiếu phổ thông thì chúng ta mới quan tâm tới ai

Page 10: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 10

quản lý được nhiều, ai quản lý được ít và liệu có bị thôn tính hay không và chúng ta có làm chủ được hay không(VTV - 21/08/2004).

Trả lời phỏng vấn tháng 01/2005 (Lao Động)

Chủ trương CPH Vietcombank đã có từ cách đây vài năm. Những bước chuẩn bị cho CPH đã được tiến hành thế nào, thưa ông?

Trước khi phát hành cổ phiếu, mọi doanh nghiệp đều phải thực hiện xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp và áp dụng các phương thức quản lý theo chuẩn mực quốc tế. Những bước chuẩn bị này đã được Vietcombank tiến hành trong khuôn khổ đề án tái cơ cấu kể từ năm 2000. Mô hình tổ chức của Vietcombank cũng đang được xây dựng theo định hướng lấy khách hàng làm trung tâm, mạng lưới chi nhánh được mở rộng cả trong và ngoài nước. Nhiều sản phẩm mới được phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại: Dịch vụ thẻ, dịch vụ ngân hàng tại nhà... Năng lực quản trị, điều hành của Vietcombank cũng đang được kiện toàn... Trong những "cải cách" ấy, cải cách về tổ chức là vấn đề rất khó...

Về đề án CPH của Vietcombank, ông có cho rằng có điều gì vướng mắc khiến nó chậm được trình duyệt?

Tôi được biết Ngân hàng Nhà nước đã trình xin ý kiến các bộ, ngành có liên quan. Nhưng vì các bộ vẫn chưa thống nhất về phương pháp luận nên chưa có kết quả cuối cùng. Về mặt chủ trương CPH, từ Chính phủ đến các bộ đều rất đồng tình, Vietcombank cũng sẵn sàng thực hiện, đó là "thiên thời, địa lợi, nhân hoà".

Dự kiến khi nào cổ phiếu Vietcombank sẽ được phát hành? Số lượng phát hành đợt đầu là bao nhiêu? Tỉ lệ nắm giữ của Nhà nước trong Vietcombank?

Năm 2006 sẽ phát hành cổ phiếu có tính khả thi cao. Số lượng đợt đầu dự kiến khoảng 2.500 tỉ đồng.Tỉ lệ nắm giữ của Nhà nước trước mắt sẽ không dưới 51%. Theo các nhà phân tích tài chính, nếu lợi nhuận/vốn của Vietcombank năm 2005 vẫn tiếp tục ở mức 17% như năm 2004, giá bán cổ phiếu có thể sẽ bằng 2,5-3 lần mệnh giá.

Với tư cách là nhà lãnh đạo Vietcombank, theo ông, khi CPH, người lao động ở đây sẽ được gì?

Nhìn chung khi CPH, nhiều công ty con và chi nhánh của công ty phải đóng cửa để sắp xếp lại. Với Vietcombank, không có chi nhánh nào bị đóng cửa. Cơ chế mới sẽ tạo động lực tốt hơn cho người lao động, giúp họ làm việc nhiệt tình hơn. Lương chắc chắn sẽ ở mức cạnh tranh so với các doanh nghiệp cổ phần, kể cả doanh nghiệp nước ngoài.

Theo ông, cái khó nhất của Vietcombank khi tiến hành CPH là gì?

Tôi cho rằng không có gì khó. Vấn đề là mọi người cùng hiểu nhau để đi đến "chân lý". Cái khó nhất là quá trình chuẩn bị để tạo tiền đề cho CPH, Vietcombank đã thực hiện khá thành công...

Page 11: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 11

Đối với Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long (MHB), cho đến thời điểm tháng 05/2005, chưa có nhiều thông tin về tiến độ thực hiện cổ phần hoá của ngân hàng này. Trên trang Web của MHB đưa tin trong tháng 4/2005, MHB vừa tổ chức đoàn tham quan mô hình cổ phần hoá ở Trung Quốc5

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thuý

Trả lời phỏng vấn trong tháng 08/2004 (Báo Pháp luật, ngày 26/8/2004)

PV: Xin Thống đốc cho biết việc CPH Ngân hàng Ngoại thương tiến triển ra sao?

Thống đốc Lê Đức Thuý: Hơi chậm hơn so với dự kiến. Trước đây tôi nói tháng 6 trình Chính phủ Đề án phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ cho VCB như là một bước chuẩn bị cho CPH, Rất tiếc, anh em làm quy mô quá, hiểu ý của Thống đốc như là một sự CPH cho nên đi hội thảo trong nước, quốc tế, gặp hết các ban bệ... trong khi vấn đề thực ra là đơn giản hơn nhiều, chỉ cần đưa ra một phương án tăng bao nhiêu, lãi suất như thế nào... để huy động thêm vốn, mà tăng vốn điều lệ. Thế nhưng có một số vướng mắc pháp lý có lẽ NHNN cũng không quyết định được mà phải xin phép các cấp có thẩm quyền. Đối với một đất nước chuyển đổi, chưa có tiền lệ, những quy định của luật pháp chưa bao quát hết thì phải có những quy định có tính thí điểm, đột phá, nếu không thì sẽ tắc.

PV: Vướng mắc hiện nay là cơ sở pháp lý, việc sửa đổi, hoàn thiện các văn bản về vấn đề này trong một thời gian ngắn là điều khó có thể thực hiện được. Vậy tới đây NHNN xử lý vấn đề này như thế nào?

Thống đốc Lê Đức Thuý: Để có những văn bản pháp luật hoàn toàn đầy đủ, hợp lý, minh bạch, tôi cho rằng cần phải có thời gian. Theo tôi, muốn đi nhanh, cơ quan có thẩm quyền cần cho phép có những ngoại lệ trước khi biến nó thành thông lệ thì mới làm được. Luật pháp do chúng ta đề ra, chúng ta phải tôn trọng; nhưng chúng ta phải lấy lợi ích thực tiễn cuộc sống làm chuẩn cao nhất để xử lý các vấn đề của đất nước…

PV: Liệu các nhà đầu tư nước ngoài có được tham gia mua cổ phiếu hay không, mức khống chế là bao nhiêu phần trăm, thưa Thống đốc?

Thống đốc Lê Đức Thuý: Tôi biết, các nhà đầu tư nước ngoài đang rất quan tâm, nhưng mua được tỷ lệ bao nhiêu, còn phải xem. Tôi cho rằng trong giai đoạn đầu của phát hành cổ phiếu ưu đãi khi chưa định giá, chưa giải quyết xong tất cả vấn đề tài chính thì chưa cần thiết phải huy động các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là lời khuyên của chính chuyên gia nước ngoài, bởi khi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia từ đầu

5 'Trung Quốc cổ phần hoá 2 ngân hàng dự kiến mất 2 năm. Cho đến nay họ mới làm được mỗi việc là giải quyết thêm vốn cho mỗi ngân hàng hơn 22 tỷ USD để xử lý nợ tồn đọng và giao một công ty quản lý. Hiện nay hai ngân hàng này đã chuyển thành dạng công ty 100% vốn nhà nước. Bước thứ hai là cổ phần hóa công ty 100% vốn nhà nước này' (Vietnamnet –11/2004).

Page 12: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 12

vào việc mua những cổ phiếu ưu đãi này, họ sẽ được hưởng lợi khi chúng ta đưa ra những nguồn tài chính để xử lý VCB trước khi đem ra CPH một cách thực sự...

Trả lời phỏng vấn tháng 11/2004 bên lề kỳ họp Quốc Hội (VietNamNet - 08/11/2004)

Ông Thúy: Đề án xong cả rồi nhưng bộ, ngành có ý kiến khác nhau. Có bộ bảo phải làm tích cực, làm ngay cổ phần hoá! Có ngành đồng ý với đề án nhưng phải xem lại có phù hợp với luật pháp hay không? Vì nếu phát hành trái phiếu (vay nợ), thì không được tính vào vốn điều lệ! Nếu phát hành cổ phiếu thì chỉ tổ chức cổ phần mới được phát hành. Ngân hàng Ngoại thương chưa phải là tổ chức tín dụng cổ phần sao lại phát hành cổ phiếu? Bộ Tài chính hay Ban đổi mới DN không tán thành đề án ấy vì cho rằng không tích cực, không khả thi, mâu thuẫn với pháp luật hiện hành... Bộ khác thì ủng hộ! Cuối cùng phải có trọng tài là Thủ tướng.

Thủ tướng chấp nhận phương án phát hành cổ phiếu để tăng vốn chứ, thưa ông?

Ông Thúy: Thủ tướng chỉ đạo trực tiếp nên làm phương án kiểu ấy, chứ không nói chấp nhận. Ý của Thủ tướng trước mắt nên phát hành cổ phiếu để tăng vốn.

Vậy có giải pháp gì để tháo gỡ vướng mắc này?

Ông Thúy: Chúng ta phải làm thí điểm. Chuyển từ cơ chế này sang cơ chế khác mà lại phụ thuộc hoàn toàn vào những quy định hiện hành thì làm không nổi. Cho nên chúng tôi đề nghị Thủ tướng giải quyết vần đề này bằng việc cho làm thí điểm.

Sự chậm trễ không phải từ phía ngân hàng mà từ phía các các cơ quan khác. Liệu bao giờ Ngân hàng Ngoại thương có thể tăng vốn điều lệ?

Ông Thúy: Tôi không nói sự chậm trễ không do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, VCB đã chậm khoảng 3 tháng khi trình đề án. Thời gian lại tiếp tục chậm hơn khi chuyển đề án từ ngân hàng sang các bộ, ngành lại để xem xét. Tuy nhiên, nếu Thủ tướng chấp thuận đề án thì việc triển khai sẽ làm được ngay, không khó khăn gì. Gọi là phát hành cổ phiếu tăng vốn cũng được, không phải trái phiếu chuyển đổi hay cổ phiếu ưu đãi gì cả! Đấy là gọi tên một thứ giấy tờ có giá mà người sở hữu có quyền hưởng lợi tức cố định, được quyền sau này mua cổ phiếu phổ thông khi ngân hàng thực sự phát hành cổ phần. Còn hiện tại anh không có quyền biểu quyết mà chỉ được hưởng lợi tức cố định.

Sau đó cổ phần hoá sẽ như thế nào?

Ông Thúy: Việc định giá Ngân hàng Ngoại thương là một vấn đề lớn! Định giá theo kiểu cơ chế hành chính là không ổn. Các bộ, ngành ngồi vào thành một hội đồng thì không biết giá bao nhiêu! Chúng tôi muốn thuê một tổ chức chuyên nghiệp định giá quốc tế. Theo tôi tính toán phải mất 6 tháng cho riêng việc định giá. Thứ hai, chi phí cho họ không thể nằm ở mức 500 triệu đồng, là mức chi phí định giá để cổ phần hoá

6Nợ xấu đang cản trở cổ phần hoá ngân hàng - http://www.vnn.vn/kinhte/2004/09/261340/ 7 http://www.sbv.gov.vn/TinDiembao.asp?tin=129

Page 13: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 13

một DN như quy định hiện hành. Định giá xong lúc đó mới tính toán các yếu tố kỹ thuật như phát hành bao nhiêu cổ phiếu, mệnh giá bao nhiêu, bán đấu giá thế nào, và cho ai...

Vụ trưởng Vụ Chiến lược Phát triển Ngân hàng Lê Xuân Nghĩa

Sẽ không có nhiều rủi ro khi để tư nhân, doanh nghiệp tham gia nhiều vào việc điều hành ngân hàng này. Tôi tin rằng chẳng có vấn đề gì xảy ra nếu để tư nhân nắm giữ phần lớn vốn tại Vietcombank. Vốn Nhà nước tại Sacombank (ngân hàng Sài Gòn Thương tín) và ACB (ngân hàng Á Châu) có là bao nhiêu, nhưng các ngân hàng này hoạt động lại rất hiệu quả? Vẫn biết rằng Vietcombank là "anh hai" trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, nhưng ở Nhật, mấy ngân hàng lớn có phải là của Nhà nước đâu? (Saigon Tiep thi 04/2004).

Chỉ cần 30% là Chính phủ đã có thể khống chế một ngân hàng rồi. Ví dụ như ngân hàng phát triển lớn nhất của Singapore mà do Chính phủ kiểm soát thì cổ phần của Chính phủ chỉ 27% thôi. Vấn đề quan trọng chúng ta không cho phép một cổ đông nào đầu tư quá 10% cổ phần, nếu mà quá 10% cần phải thay đổi thì phải có ý kiến của Ngân hàng Trung ương và như vậy thì với hai điều đó không thôi chúng ta khống chế hoàn toàn một ngân hàng chỉ với một vài chục phần trăm" (VTV 13/08/2004).

Đích đến CPH của các ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) còn xa và còn rất nhiều khó khăn, trong đó xử lý nợ xấu là việc phải đối mặt trong thời gian tới6 (Vietnamnet 21/09/2004)

CHÍNH PHỦ

Phó Thủ tưởng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (www.SBV.gov.vn)7

Làm việc với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) sáng 31/1/2005, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo, việc cổ phần hoá (CPH) DN nhà nước lớn nhất này sẽ được triển khai thí điểm ngay trong năm 2005. "Chúng ta không cần lập Ban chỉ đạo cổ phần hoá VCB, tôi sẽ trực tiếp chỉ đạo việc này" - ông Nguyễn Tấn Dũng - nói. Phó Thủ tướng yêu cầu VCB trình ngay phương án cổ phần hoá trong quý I với các yêu cầu: Sở hữu nhà nước phải chi phối (tuy nhiên chi phối là bao nhiêu thì phải xem xét kỹ); CPH phải đảm bảo nguyên tắc để VCB ổn định và mạnh hơn lên; Có thể tính đến cả việc mở chi nhánh ở Mỹ, phát triển ngân hàng theo hướng trở thành một tập đoàn tài chính lớn, kinh doanh theo nhiều hình thức khác nhau.

CÁC BỘ NGÀNH LIÊN QUAN

Phó trưởng Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương Phạm Viết Muôn: Việc thí điểm cổ phần hoá ngân hàng thương mại quốc doanh nằm trong giai đoạn giữa của tiến trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước” (www.vov.gov.vn -13/09/2004).

CÁC CHUYÊN GIA

Page 14: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 14

PGS. TS Trần Ngọc Thơ, Đại học Kinh tế Tp.HCM (TTCN -27/3/2005)

Chủ trương cổ phần hoá bốn ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ khó có thể thành công vì có quá nhiều rào cản phi lý. Và chừng nào bốn ngân hàng này vẫn còn thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của Chính phủ thì tính minh bạch và tình trạng tham nhũng lãng phí trong các mối quan hệ phức tạp này vẫn khó có thể cải thiện được.

Do khách hàng lớn nhất của các NHTMQD là các doanh nghiệp nhà nước, nên chừng nào bốn NHTMQD này vẫn còn thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của Chính phủ thì tính minh bạch và tình trạng tham nhũng lãng phí trong các mối quan hệ phức tạp này vẫn khó có thể cải thiện được.

Vấn đề quyền tham gia điều hành ngân hàng: Theo những thông lệ quốc tế chung mà trong bất kỳ các sách giáo khoa tài chính nào cũng đề cập đến, cổ phiếu ưu đãi chỉ được sử dụng đến như là một giải pháp tình thế khi mà các doanh nghiệp đã hết cách và không thể huy động thêm được nguồn vốn nào nữa. Tại sao cổ phần hoá nhưng các cổ đông không được quyền tham gia quản lý, trong khi Chính phủ hiện đang có dự định là biến các đại gia này trở thành những tập đoàn tài chính hùng mạnh sau khi cổ phần hoá?

Nếu như không có những cổ đông nắm giữ cổ phần thường từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài sẵn sàng chia sẻ rủi ro và kinh nghiệm quản lý, liệu mục tiêu trên có đạt được hay không? Có lẽ không có một doanh nghiệp nào trên thế giới, với tỉ lệ cổ phần mà chính phủ nắm giữ lên đến trên 51%, lại chỉ phát hành cổ phiếu ưu đãi và có quyền chi phối trong những trường hợp đặc biệt lại gọi là ngân hàng cổ phần. Trong những trường hợp này chúng phải đích thị là doanh nghiệp nhà nước độc quyền 100%.

Phải chăng qua cách ứng biến này người ta không thật tâm muốn cổ phần hoá, việc phát hành cổ phiếu ưu đãi chỉ nhằm mục đích đối phó với chủ trương cổ phần hoá?

Còn nhiều rào cản

Chủ trương cổ phần hoá bốn NHTMQD nói riêng và các doanh nghiệp nhà nước độc quyền nói chung sẽ khó có thể thành công vì chúng có quá nhiều rào cản phi lý. Đặc biệt hơn, những rào cản phi lý như thế lại do mỗi bộ ngành tự đặt ra với những lý lẽ riêng về mặt kỹ thuật của từng ngành. Công chúng đã quá ngán ngẩm với những kiểu lập luận “phường hội” này.

Trong lĩnh vực ngân hàng, các rào cản càng phức tạp hơn nữa do người dân hoàn toàn ít có thông tin để có thể đánh giá các yếu tố nhạy cảm liên quan đến chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Vào năm 2003, Chính phủ đã thông báo rằng khoảng tháng 7/2004 sẽ “quyết liệt” để cổ phần hoá Vietcombank, nhưng sau đó các quan chức Ngân hàng nhà nước đã đưa ra nhiều rào cản về mặt kỹ thuật để làm chậm tiến trình này lại. Một trong những rào cản đó là phải cơ cấu lại hệ thống NHTMQD. Và thời điểm lại dời đến năm 2006.

Dư luận đặt ra câu hỏi về khả năng điều hành kinh tế vĩ mô khi nhận định rằng phải

Page 15: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 15

chăng cấp trên cứ chỉ đạo mà không có bất kỳ một cuộc thảo luận nào với các bộ phận chức năng của NHNN về chủ trương và thời điểm cổ phần hoá NHNT, khiến sau đó các quan chức ngành ngân hàng liên tục đưa ra những lý lẽ khá hợp lý mà người ngoài ngành không thể đánh giá hết được do không đủ dữ kiện cần thiết.

Hay là theo như một số nhà kinh tế trong và ngoài nước nhận định rằng nếu áp dụng những chuẩn mực kiểm toán quốc tế thì có khả năng bốn NHTMQD hiện nay sẽ có vốn âm? Phải chăng đây mới là lý do đằng sau và thật sự của việc trì hoãn cổ phần hoá NHNT?

Nhưng cho dù như thế nào đi chăng nữa, những kiểu lập luận như thế đã làm sụt giảm niềm tin ít nhiều từ phía các nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài, do họ chờ đợi quá lâu về những gì mà Chính phủ đã hứa hẹn nhiều lần bằng những cụm từ là lần này sẽ làm quyết liệt.

Nếu như Chính phủ không có một quan điểm chính thức và có những bước đột phá trong thay đổi tư duy lẫn cách làm, tiến trình cổ phần hoá các NHTMQD nói riêng và các doanh nghiệp nhà nước độc quyền nói chung sẽ có nguy cơ đi vào ngõ cụt.

CÁC NHÀ ĐẦU TƯ

ÔNG NGUYỄN VĂN KỊCH - giám đốc CAFATEX: Đây là cơ hội kinh doanh tốt... Ngân hàng là doanh nghiệp, điều kiện kinh doanh thuận lơị hơn khi ngân hàng cổ phần hóa; vì vậy khi Vietcombank bán cổ phần, nếu có tiền tôi sẽ mua. Kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm như Bảo Minh, khi loại hình bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh, việc bán cổ phiếu sẽ có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, cổ phiếu của những đơn vị trên có bán công khai hay không? Ai được mua? Tôi nghĩ, cũng khó... (Sài Gòn Tiếp Thị).

ÔNG NGUYỄN THÁI HÙNG, giám đốc công ty may Tây Đô: Cổ phần hóa thì Vietcombank sẽ đi tới một cách quản lý chặt chẽ hơn, tốt hơn của cổ đông và BGĐ sẽ do đại hội cổ đông quyết định. Về cá nhân, nếu có thể mua được cổ phiếu cá nhân khi ngân hàng này cổ phần hóa, tôi sẽ mua. (Sài Gòn Tiếp Thị)..

Nhìn chung, những vấn đề gây nhiều tranh cãi và những khó khăn, trở ngại trong tiến trình cổ phần hoá Vietcombank gồm: Các quy định pháp lý liên quan đến việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước; Vấn đề lựa chọn phương thức cổ phần hoá; Vấn đề định giá8; Vấn đề tham gia của các nhà đầu tư chiến lược.

5. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nền kinh tế chuyển đổi

Nhằm có cái nhìn khách quan hơn, nhóm của ông Future đồng thời cũng đã xem xét kinh nghiệm cổ phần hoá ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước của các nền kinh tế khác và vai trò cũng như chiến lược và bước đi của các ngân hàng ở các nền kinh tế đang nổi. Dưới đây là kết quả mà nhóm của ông Future đưa ra.

8 Chính phủ đã đồng ý cho Vietcombank thuê tư vấn nước ngoài thực hiện việc định giá

Page 16: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 16

Kinh nghiệm từ các nước Đông Âu: Sau khi sự kiện vào những năm cuối thập niên 1980, đầu những năm 1990, các nước đông âu bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Trong đó một trong những cải cách quan trọng nhất mà các nước này đã thực hiện là cải cách hệ thống tài chính của mình. Mỗi nước đông âu đã thực hiện những cách làm khác nhau. Tuy nhiên, cách phổ biến và thành công nhất mà các ngân hàng thường làm là tìm các nhà đầu tư chiến lược. Điển hình thành công là mô hình của Hungary, Ba Lan. Vấn đề mà các nước đông âu gặp phải là quá trình tư nhân hoá hệ thống tài chính quá nhanh dẫn đến sự thống lĩnh của các ngân hàng nước ngoài đối với hệ thống tài chính (chiếm gần 60% thị phần). Sau quá trình tư nhân hoá, hiện nay hệ thống tài chính của các nước đông Âu được đánh giá tương đối hiệu quả và có sự hội nhập cao.

Quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước Trung Quốc: Trong tiến trình cải cách hệ thống tài chính của mình, Trung Quốc đang tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Hai ngân hàng được chọn đầu tiên là Trung Quốc Ngân hàng (Bank of China - BOC) và Trung Quốc Xây dựng Ngân hàng (Construction Bank of Chian- CBC). Cho đến thời điểm tháng 06/2005, tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước vẫn chưa thực sự diến ra (chưa phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu - IPO). Tháng 08/2004, hai ngân hàng này mới có quyết định chuyển sang dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước của Trung Quốc làm chủ sở hữu. Hai Ngân hàng này đang tìm các nhà đầu tư chiến lược.

Tháng 05 vừa qua, CBC đã chọn Bank of America làm nhà đầu tư chiến lược với tỷ lệ sở hữu khoảng 9% (trị giá 5 tỷ USD). Ngoài ra CCB dự kiến chọn thêm một số nhà đầu tư chiến lược nữa để bán tổng số cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài khoảng 19,9%. Con số tối đa được phép theo quy định của Trung Quốc tại thời điểm hiện tại.

6. Chiến lược của các ngân hàng nước ngoài ở các nền kinh tế mới nổi

Tài chính ngân hàng luôn được xem là ngành kinh doanh thượng lưu (Cổ cồn trắng) ở tất cả các quốc gia. Rất nhiều nhà đầu tư luôn muốn tham gia vào lĩnh vực này. Việc xâm nhập và chiếm lĩnh hệ thị phần ở các nền kinh tế, thị trường mới nổi luôn là điều quan tâm của các tập đoàn tài chính ngân hàng toàn cầu.

Mặt khác, hệ thống tài chính ngân hàng được xem là phong vũ biểu của nền kinh tế nên, chính phủ các nước luôn quan tâm đến khu vực này, nhất là quá trình cải cách hệ thống tài chính ngân hàng ở các nền kinh tế mới nổi.

Để đạt được mục tiêu cuối cùng là chiếm lĩnh một thị trường nào đó, các tập đoàn tài chính ngân hàng đa quốc thường chọn cách hiệu quả và phổ biến nhất là mua lại một ngân hàng ở nước sở tại thay vì phải xây dượng một hệ thống mới hoàn toàn. Chiến lược của họ thường theo tuần tự sau:

Thu thập các thông tin và đánh giá về hệ thống ngân hàng ở nước sở tại: Để có được dữ liệu và hiểu thực trạng, bản chất của hệ thống tài chính ngân hàng nước sở tại, các ngân hàng nước ngoài thường sử dụng hình thức tư vấn hỗ trợ, tổ chức hội thảo nghiệp vụ, hợp tác trong một số lĩnh vực để có cơ hội tìm hiểu về các ngân hàng trong nước cũng như nhắm đến những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tốt đang làm việc tại các ngân hàng này.

Page 17: CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHTutb.edu.vn/elib/Kinh te/Co phan hoa trong qua trinh cai cach cac... · Chương trình giảng dạy kinh tế ... hoặc các tập

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cổ phần hoá trong quá trình cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam

Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tư Anh 17

Thu hút những người có kỹ năng chuyên môn tốt từ các ngân hàng sở tại: Điểm yếu của các ngân hàng nước sở tại trong tiến trình mở cửa, cải cách là không sử dụng tốt năng lực của những người có khả năng cộng với mức lương rất thấp. Mặt khác, khi cử cán bộ tham gia các hội thảo nghiệp vụ do các ngân hàng nước ngoài tổ chức, để giữ thể diện, các ngân hàng nước sở tại thường cử những người có chuyên môn tốt. Đây chính là điều kiện và cơ hội tốt để các ngân hàng nước ngoài lôi kéo những người có chuyên môn của các ngân hàng nước sở tại.

Thu hút khách hàng của các ngân hàng nước sở tại: Một điều rất dễ hiểu là khi cán bộ có chuyên môn, năng lực, quan hệ tốt ra đi đồng nghĩa với khách hàng hàng sẽ ra đi. Hay nói cách khác, điều các ngân hàng nước ngoài sẽ có được là khách hàng sau khi thu hút được cán bộ giỏi.

Tham gia sở hữu các ngân hàng nước sở tại với tư cách là nhà đầu tư chiến lược: Vấn đề các ngân hàng nước sở tại luôn gặp phải là thiếu vốn, yếu về trình độ quản lý, trình độ công nghệ và họ muốn có các nhà đầu tư nước ngoài tham gia để tận dụng ba vấn đề trên. Các ngân hàng nước ngoài cũng rất tích cực tham gia các khâu chuẩn bị cho quá trình cổ phần hoá, tăng vốn để có thể trở thành nhà đầu tư chiến lược của ngân hàng. Việc cần có các nhà đầu tư chiến lược là điều không bàn cãi đối với các ngân hàng nước sở tại.

Thâu tóm các ngân hàng của nước sở tại: Khi tham gia với tư cách là nhà đầu tư chiến lược, với lợi thế về trình độ quản lý, tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, các ngân hàng nước ngoài sẽ tăng tầm ảnh hưởng của mình dần từng bước thâu tóm ngân hàng đó thành của họ. Sau khi thâu tóm ngân hàng, thường có hai tình huống xảy ra. Hoặc là giữ nguyên thương hiệu của ngân hàng hiện tại hoặc là từng bước chuyển đổi thương hiệu sang thương hiệu của ngân hàng mẹ. Trong quá trình thâu tóm các ngân hàng nước sở tại, các ngân hàng nước ngoài sẽ gặp phải sự chống đối của những người ở ngân hàng nước sở tại. Cách mà các ngân hàng nước ngoài thường sử dụng là thuyên chuyển, bổ nhiệm những người này vào vị trí cao hơn (ví dụ như tổng giám đốc khu vực, hoặc cho về làm việc tại hội sở chính của ngân hàng mẹ hoặc cho đi du học). Sau khi thâu tóm được ngân hàng, mọi chuyện có thể đâu lại vào đó.

Các bước nêu trên của các ngân hàng nước ngoài là hết sức rõ ràng, và họ hầu như không hề giấu diếm. Việc hợp tác với các ngân hàng nước ngoài là điều đương nhiên. Tuy nhiên, để tránh bị thâu tóm, các ngân hàng trong nước cần phải lựa chọn một chiến lược hợp lý

Đó là những gì mà nhóm ông Future tìm hiểu được về quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam và những vấn đề liên quan đến quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước.