chƯƠng i vỊ trÍ cỦa cÂy chÈ trong nỀn kinh tẾ quỐc … · 3) chè là sản phẩm...

110
CHƯƠNG I VTRÍ CA CÂY CHÈ TRONG NN KINH TQUC DÂN TÌNH HÌNH SN XUT CHÈ TRONG NƯỚC VÀ THGII I. VTRÍ CA CÂY CHÈ TRONG NN KINH TQUC DÂN 1) Chè là mt thc ung lý tưởng và có nhiu giá trvdược liu: rung Quc là nước đầu tiên chế biến chè để ung sau đó nhnhng đặc tính tt ca nó, chè trthành thc ung phbiến trên thế gii. Ngày nay chè được phbiến rng rãi hơn ccà phê, rượu vang và ca-cao. Tác dng cha bnh và cht dinh dưỡng ca nước chè đã được các nhà khoa hc xác định như sau: - Caféin và mt shp cht ancaloit khác có trong chè là nhng cht có khnăng kích thích hthn kinh trung ương, kích thích vđại não làm cho tinh thn minh mn, tăng cường shot động ca các cơ trong cơ th, nâng cao năng lc làm vic, gim bt mt nhc sau nhng lúc làm vic căng thng. - Hn hp tanin chè có khnăng gii khát, cha mt sbnh đường rut như t, l, thương hàn. Nhiu thy thuc còn dùng nước chè, đặc bit là chè xanh để cha bnh si thn, si bàng quang và chy máu ddày. Theo xác nhn ca M.N. Zaprometop thì hin nay chưa tìm ra được cht nào li có tác dng làm vng chc các mao mch tt như catechin ca chè. Da vào sliu ca Vin nghiên cu y hc Leningrat, khi điu trcác bnh cao huyết áp và neprit mch thì hiu quthu được có trin vng rt tt, nếu như người bnh được dùng catechin chè theo liu lượng 150mg trong mt ngày. E.K. Mgaloblisvili và các cng tác viên đã xác định nh hưởng tích cc ca nước chè xanh ti tình trng chc năng ca hthng tim mch, scn các mao mch, trao đổi mui - nước, tình trng ca chc năng hô hp ngoi vi, strao đổi vitamin C, trng thái chc năng ca hthng điu tiết máu.v.v... - Chè còn cha nhiu loi vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, vitamin PP và nhiu nht là vitamin C. - Mt giá trđặc bit ca chè được phát hin gn đây là tác dng chng phóng x. Điu này đã được các nhà khoa hc Nht Bn thông báo qua vic chng minh chè có tác dng chng được cht Stronti (Sr) 90 là mt đồng vphóng xrt nguy him. Qua vic quan sát thng kê nhn thy nhân dân mt vùng ngoi thành Hirôsima có trng nhiu chè, thường xuyên ung nước chè, vì vy rt ít bnhim phóng xhơn các vùng chung quanh không có chè. Các tiến

Upload: others

Post on 09-Sep-2019

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

CHƯƠNG I

VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI

I. VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN

1) Chè là một thức uống lý tưởng và có nhiều giá trị về dược liệu:

rung Quốc là nước đầu tiên chế biến chè để uống sau đó nhờ những đặc tính tốt của nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới. Ngày nay chè được phổ biến rộng rãi hơn cả cà phê, rượu vang và ca-cao. Tác dụng chữa bệnh và chất dinh dưỡng của nước chè đã được các nhà khoa học xác định như sau:

- Caféin và một số hợp chất ancaloit khác có trong chè là những chất có khả năng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm cho tinh thần minh mẫn, tăng cường sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, giảm bớt mệt nhọc sau những lúc làm việc căng thẳng.

- Hỗn hợp tanin chè có khả năng giải khát, chữa một số bệnh đường ruột như tả, lỵ, thương hàn. Nhiều thầy thuốc còn dùng nước chè, đặc biệt là chè xanh để chữa bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang và chảy máu dạ dày. Theo xác nhận của M.N. Zaprometop thì hiện nay chưa tìm ra được chất nào lại có tác dụng làm vững chắc các mao mạch tốt như catechin của chè. Dựa vào số liệu của Viện nghiên cứu y học Leningrat, khi điều trị các bệnh cao huyết áp và neprit mạch thì hiệu quả thu được có triển vọng rất tốt, nếu như người bệnh được dùng catechin chè theo liều lượng 150mg trong một ngày. E.K. Mgaloblisvili và các cộng tác viên đã xác định ảnh hưởng tích cực của nước chè xanh tới tình trạng chức năng của hệ thống tim mạch, sự cản các mao mạch, trao đổi muối - nước, tình trạng của chức năng hô hấp ngoại vi, sự trao đổi vitamin C, trạng thái chức năng của hệ thống điều tiết máu.v.v...

- Chè còn chứa nhiều loại vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, vitamin PP và nhiều nhất là vitamin C.

- Một giá trị đặc biệt của chè được phát hiện gần đây là tác dụng chống phóng xạ. Điều này đã được các nhà khoa học Nhật Bản thông báo qua việc chứng minh chè có tác dụng chống được chất Stronti (Sr) 90 là một đồng vị phóng xạ rất nguy hiểm. Qua việc quan sát thống kê nhận thấy nhân dân ở một vùng ngoại thành Hirôsima có trồng nhiều chè, thường xuyên uống nước chè, vì vậy rất ít bị nhiễm phóng xạ hơn các vùng chung quanh không có chè. Các tiến

sĩ Teidzi Ugai và Eisi Gaiasi (Nhật Bản) đã tiến hành các thí nghiệm trên chuột bạch cho thấy với 2% dung dịch tanin chè cho uống sẽ tách ra được từ cơ thể 90% chất đồng vị phóng xạ Sr - 90.

2) Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu hoạch 30-40 năm hoặc lâu hơn nữa. Trong điều kiện thuận lợi của ta cây sinh trưởng tốt thì cuối năm thứ nhất đã thu bói trên dưới một tấn búp/ha. Các năm thứ hai thứ ba (trong thời kỳ kiến thiết cơ bản) cũng cho một sản lượng đáng kể khoảng 2-3 tấn búp/ha. Từ năm thứ tư chè đã đưa vào kinh doanh sản xuất.

3) Chè là sản phẩm có thị trường quốc tế ổn định, rộng lớn và ngày càng được mở rộng. Theo dự đoán của FAO (1967), nếu lấy năm 1961 - 1963 là 100% thì năm 1975 yêu cầu về chè hàng năm của thế giới sẽ tăng 2,2 - 2,7% và sản xuất chè tăng 3,2%.

4) Ở nước ta, chè là một trong những cây có giá trị xuất khẩu cao. Căn cứ vào năng suất bình quân đã đạt được năm 1969 của khu vực nông trường quốc doanh (42,39 tạ búp/ha), nếu chỉ đứng về mặt xuất khẩu mà xét thì một ha chè của khu vực nông trường quốc doanh so với một số cây công nghiệp dài ngày của cùng khu vực này bằng hơn 5 lần một ha cà phê, gần 10 lần một ha sả. Nếu năng suất chè đạt 100 tạ búp/ha thì xuất khẩu có thể thu được đủ để nhập 46 tạ phân hóa học, hoặc 3,1 tạ bông, hoặc 25 - 30 tạ bột mì. Như vậy một ha chè có năng suất 100 tạ búp có giá trị xuất khẩu ngang với 200 tấn than.

5) Để sử dụng nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp với điềi kiện không tranh chấp với diện tích trồng cây lương thực, chè là một trong những cây có ưu thế nhất. Hiện nay ta mới sử dụng khoảng 50% đất nông nghiệp. Nguồn lao động của ta dồi dào nhưng phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng, chè là một loại cây yêu cầu một lượng lao động sống rất lớn. Do đó việc phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du và miền núi là một biện pháp có hiệu lực, vừa để sử dụng hợp lý vừa để phân bố đồng đều nguồn lao động dồi dào trong phạm vi cả nước. Việc phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du và miền núi dẫn tới việc phân bổ các xí nghiệp công nghiệp chế biến chè hiện đại ngay ở những vùng đó, do đó làm cho việc phân bố công nghiệp được đồng đều và làm cho vùng trung du và miền núi mau chóng đuổi kịp miền xuôi về kinh tế và văn hóa.

II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CHÈ TRÊN THẾ GIỚI

Ngày nay trên thế giới có khoảng 40 nước trồng chè. Chè được trồng tập trung nhiều nhất ở châu Á, sau đó đến châu Phi.

Theo con số thống kê của cơ quan Nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO năm 1971 và 1975) thì diện tích trồng chè của thế giới năm 1948 - 1952 là 985.000 ha, năm 1971 là 1.357.000 ha và năm 1974 là 1.531.000 ha. Phân bố như sau:

Bảng 1: DIỆN TÍCH TRỒNG CHÈ TRÊN THẾ GIỚI

(Đơn vị: 1000 ha)

Khu vực 1948 - 1952 1971 1974

Thế giới

Nam Mỹ

Châu Á

Châu Phi

Liên Xô

985

5

885

32

63

1.357

40

1.121

118

75

1.531

38

1.267

148

76

Sản lượng chè trên thế giới tính đến năm 1977 (theo số liệu của FAO) là 1.636.000t. Trong đó Nam Mỹ: 42.000t; Châu Á: 1.316.000T; CHẤU Phi:180.000t; Liên Xô: 92.000t; Châu Đại Dương: 6.000t.

Các nước sản xuất chè nhiều nhất là: Ấn Độ: 500.000T, Trung Quốc: 331.000t, Xrilanca: 197.000t; Nhật Bản: 100.000t.

Theo số liệu của FAO (1997), những nước xuất nhập khẩu chè nhiều nhất trên thế giới năm 1976 như sau:

- Xuất khẩu: Ấn Độ 237.000T, Xrilanca: 199.700t, Kênia: 63.000t; Inđônêxia: 47.500t; Bănglađet: 30.700t.

- Nhập khẩu: Anh: 224.600t, Mỹ: 82.200t, Pakixtan: 49.100t, Ai Cập: 24.900t, Canađa: 24.700t.

Dưới đây giới thiệu tình hình trồng chè một số nước chủ yếu:

1) Trung Quốc:

Nghề trồng chè của Trung Quốc đã có một lịch sử lâu đời. Cây chè được phân bố trên một phạm vi địa lý rất rộng: từ 18 đến 35 độ vĩ bắc, từ 99 đến 122 độ kinh đông. Chè được trồng chủ yếu ở 15 tỉnh: Chiết Giang, An Huy, Hồ Nam, Đài Loan, Tứ Xuyên, Vân Nam, Phúc Kiến, Hồ Bắc, Giang Tây, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây,Giang Tô, Thiểm Tây, Hà Nam. Điều kiện tự nhiên và khí hậu Trung Quốc thích hợp cho việc trồng chè. Độ nhiệt trung bình hàng năm của đại bộ phận vùng chè Trung Quốc là 15 - 18oC. Lượng mưa hàng năm trên 1000 mm, mưa tập trung vào thời kỳ chè sinh trưởng. Chè được trồng chủ yếu trên các loại đất thục phát triển trên các loại đá mẹ phiến thạch, sa thạch, granit, phiến thạch mica, nai, với độ chua pH = 4,5 đến 6,5. Các vườn chè được trồng phần lớn trên đất dốc đến 30 độ. Diện tích trồng chè của Trung Quốc năm 1974 là 337.000 ha.

Trung Quốc có rất nhiều giống chè, trong đó chủ yếu là giống chè Trung Quốc lá to và lá trung bình.

2) Ấn Độ:

Ấn Độ bắt đầu trồng chè vào khoảng 1834 - 1840. Do điều kiện khí hậu thích hợp, những năm gần đây, Ấn Độ đã đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu chè. Chè của Ấn Độ gồm có hai vùng rõ rệt: vùng phía Bắc (vùng sản xuất chè chủ yếu của Ấn Độ) và vùng phía Nam. Vùng phía Bắc, chè tập trung ở các bang Atxam, Kachar, Duars, Darjiling; Atxam và Darjiling là hai khu vực sản xuất chè có tiếng trên thế giới. Vùng chè phía nam: tập trung ở hai bang Kerala và Madras. Đất vùng Atxam chủ yếu là đất đỏ pha sét và đất phù sa. Đất vùng Madras chủ yếu là đất sét và đất đỏ pha cát. Do lượng mưa lớn, đất đai phì nhiêu, năng suất chè của Ấn Độ đạt bình quân 5 - 8 t/ha, cá biệt đạt 12 - 13 t/ha. Đặc điểm sản xuất chè của Ấn Độ là trồng tập trung, giống chè lá to, trồng cây bóng râm cho chè và áp dụng phương pháp hái chừa nhiều lá. Diện tích trồng chè của Ấn Độ năm 1974 là 360.000 ha.

3) Xrilanca:

Xrilanca bắt đầu trồng chè vào khoảng 1837 - 1840, nhưng thực sự phát triển từ năm 1867 - 1873 (sau khi các vườn cà phê bị tiêu diệt bởi bệnh nấm Hemileia vastatrix).

Chè Xrilanca tập trung ở các tỉnh miền trung, miền tây và tây bắc, phân bố ở các độ cao so với mặt biển như sau:

> 1.200m: 36% diện tích

600 - 1.200m: 39% diện tích

< 600m: 25% diện tích.

Độ nhiệt trung bình cả năm khoảng 18 - 19oC, lượng mưa trên dưới 1.800mm. Đất trồng chè chủ yếu là đất feralit màu vàng đỏ và màu nâu. Năm 1974 diện tích trồng chè là 243.000 ha.

Đặc điểm trồng chè của Xrilanca là dùng các loại giống Atxam, Manipua. Ở các vùng thấp thường trồng cây họ đậu che râm và làm phân xanh, đốn chè 1 - 3 năm một lần giữ ở độ cao 1m, tạo tán bằng.

4) Nhật Bản:

Nhật Bản là nước đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc (năm 805 - 814). Chè trồng tập trung ở giữa 35 và 38 độ vĩ bắc, có một số diện tích trồng đến 40 độ vĩ bắc. Chè trồng chủ yếu ở những nơi đất bằng, một số diện tích nhỏ trồng trên đồi. Độ cao so với mặt biển không vượt quá 60 - 100m. Khí hậu Nhật Bản chiụ ảnh hưởng của gió mùa, lượng mưa tương đối lớn: 2150mm/năm, phần lớn mưa vào mùa hè. Đất trồng chè ở Nhật Bản là đất sét nặng và đất đỏ. Diện tích trồng chè năm 1974 là 56.000 ha. Nhật Bản là nước kinh doanh chè theo phương thức tiểu nông, diện tích không lớn song khu vực chè tương đối tập trung, giống chè chủ yếu là giống lá nhỏ, chế biến chè xanh là chính. Quản lý vườn chè chu đáo lượng phân bón dùng nhiều, hái bằng kéo.

5) Inđônêxia:

Nghề trồng chè ở Inđônêxia bắt đầu từ đầu thế kỷ 19. Chè được trồng tập trung ở miền tây đảo Java (trên các sườn dốc có độ cao so với mặt biển 2.300 m), miền đông bắc và nam Xumatra (độ cao so với mặt biển 900m). Đất trồng chè ở Java có nguồn gốc núi lửa, giàu mùn và đạm; lân và kali có hàm lượng trung bình. Độ chua pH 5,5 - 5,8. Cả hai đảo Java và Xumatra nằm trong vùng nhiệt đới, lượng mưa hàng năm 2.500 - 4.000 mm, phân bố tương đối đồng đều. Chè được thu hoạch quanh năm, chủ yếu là dùng chế biến chè đen. Năm 1974 diện tích trồng chè của Inđônêxia là 100.000 ha, tổng sản lượng chè khô 67.000t.

6) Liên Xô:

Vùng sản xuất chè chủ yếu của Liên Xô là miền tây nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Bruzia (nằm trên bờ Hắc Hải) chiếm trên 90% tổng sản lượng chè

toàn quốc. Ngoài ra chè còn được trồng ở vùng Kraxnôda (thuộc nước Cộng hòa XHCN Liên bang Nga) và vùng Lencôran (thuộc nước Cộng hòa XHCN Azecbaijan). Cây chè lần đầu tiên được trồng thử ở vườn thực vật Nhikit (thuộc Crưm) năm 1883, sau đó trồng ở vườn thực vật Xukhumi 1884. Năm 1884 chè được trồng ở vùng Trăccơvi cây chè sinh trưởng phát triển bình thường, búp có phẩm chất tốt. Song việc phát triển sản xuất chè không được chế độ Nga hoàng chú ý.

Từ năm 1848 đến 1925 (trong 77 năm), diện tích trồng chè của Liên Xô chỉ đạt 1086 ha.

Sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất đến năm 1958 diện tích trồng chè đạt 51,803 ha (tức là tăng gần 50 lần so với thời kỳ 1848 - 1925). Diện tích trồng chè của Liên Xô năm 1974 là 76.000 ha.

Đất trồng chè chủ yếu của Liên Xô là đất đỏ, đất vàng và đất potzon.

Khí hậu vùng trồng chè hình thành hai mùa rõ rệt. Cây chè bắt đầu sinh trưởng từ cuối tháng 3 đầu tháng 4 và kết thúc sinh trưởng vào tháng 10. Thời gian thu hoạch búp chủ yếu là từ tháng 5 đến hết tháng 9.

III - TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ CỦA VIỆT NAM

Lịch sử trồng chè của nước ta đã có từ lâu. Nhưng cây chè được khai thác và trồng với diện tích lớn mới bắt đầu khoảng hơn 50 năm nay.

Quá trình phát triển diện tích trồng chè ở Việt Nam có thể chia làm ba thời kỳ sau đây:

Thời kỳ thứ nhất 1890 - 1945:

Năm 1890 một số đồn điền chè được thành lập đầu tiên:

Tĩnh Cương (Phú Thọ) với diện tích 60 ha, Đức Phổ (Quảng Nam) 250 ha, chè được trồng ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi với diện tích 1900 ha. Năm 1925 - 1940 người Pháp mở các đồn điền trồng chè ở cao nguyên Trung bộ với diện tích khoảng 2.750 ha. Tính đến năm 1938, tổng diện tích trồng chè của Việt Nam là 13.405 ha với sản lượng 6.100t chè khô. Cây chè được trồng nhiều ở Bắc bộ và Trung bộ trong đó trên 75% diện tích là của người Việt, khoảng 25% diện tích là của người Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1939 sản lượng chè của Việt Nam là 10.900t, đứng hàng thứ 6 sau Ấn Độ, Xrilanca, Trung Quốc, Nhật Bản và Inđônêxia.

Một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là diện tích là diện tích trồng chè rất phân tán, lẻ tẻ, sản xuất mang tính chất tự túc, tự cấp. Kỹ thuật canh tác lâu sơ sài với phương thức quảng canh, năng suất rất thấp chỉ đạt trên dưới 1,5t búp tươi/ha.

Các cơ sở nghiên cứu về cây chè được thành lập ở hai nơi Phú Hộ (Vĩnh Phú) và Bảo Lộc (Lâm Đồng).

Thời kỳ thứ hai 1945 - 1955:

Do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống Pháp các vườn chè bị bỏ hoang nhiều, số còn lại không được đầu tư chăm sóc cho nên diện tích và sản lượng chè trong thời kỳ này giảm sút dần.

Thời kỳ thứ ba từ năm 1954 tới nay:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ với phương châm xây dựng nền nông nghiệp toàn diện và vững chắc, nghề trồng chè đã được chú ý đúng mức. Chè chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân ta. Trong các vùng trồng chè, chè là nguồn thu nhập chủ yếu, góp phần quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Hiện nay việc sản xuất và cung cấp chè chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng ở trong nước, cũng như nhu cầu xuất khẩu. Tính đến hết năm 1977 cả nước có 44.330 ha chè với tổng sản lượng là 17.896t chè khô.

Sản xuất chè gồm hai khu vực: tập thể và quốc doanh.

1) Khu vực tập thể (do các hợp tác xã nông nghiệp quản lý):

Chúng ta đã phục hồi cải tạo các vườn chè cũ, đồng thời không ngừng mở rộng diện tích trồng chè mới. Những năm gần đây đã có nhiều hợp tác xã chuyên trồng chè (25 hợp tác xã ở Định Hóa - Bắc Thái) hoặc trồng chè là chủ yếu (các hợp tác xã ở Sông Lô - Vĩnh Phú). Các hợp tác xã trồng chè đang áp dụng những biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong quá trình trồng trọt như thiết kế nương chè mới, kỹ thuật gieo trồng, đốn tạo hình, quản lý chăm sóc và hái chè san trật. Diện tích trồng chè trong khu vực tập thể năm 1977 là 22.205 ha.

2) Khu vực quốc doanh:

Từ năm 1960 ta đã xây dựng những nông trường quốc doanh trồng chè. Hiện nay đã có 43 nông trường quốc doanh với diện tích 17.932 ha. Ngoài hai khu vực hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh, ở các tỉnh phía nam diện tích trồng chè của tư nhân cũng còn khoảng 5.000 ha.

Nhìn chung, trong những năm qua, việc trồng chè của ta còn một số tồn tại như: khả năng mở rộng diện tích chè ở vùng trung du và miền núi còn nhiều, nhưng ta chưa có điều kiện để giải quyết tốt. Tốc độ phát triển trồng chè chậm, các vùng chè mới trồng không đồng đều, còn nhiều diện tích xấu và đến thời hạn chưa đưa vào sản xuất kinh doanh. Việc quy hoạch sử dụng đất trồng chè chưa hợp lý, còn lãng phí đất đai. Năng suất sản lượng chè hàng năm có tăng nhưng tăng rất chậm, chất lượng sản phẩm có khá hơn trước nhưng không đồng đều ở các cơ sở và không ổn định.

Khả năng phát triển nghề trồng chè của ta rất lớn và có nhiều điều kiện thuận lợi:

- Phát triển sản xuất cây công nghiệp nói chung và cây chè nói riêng đang được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ. Nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh việc phát triển sản xuất và xuất khẩu chè. Hội nghị bàn về sản xuất chè họp vào tháng 7 - 1970 đã nhất trí: Phải phát triển cây chè với tốc độ nhanh, cần tổ chức làm ăn theo lối công nghiệp, làm tập trung, quy mô lớn, có kỹ thuật tiên tiến để có năng suất cao, sản lượng nhiều.

- Điều kiện khí hậu đất đai của ta rất thuận lợi cho việc sinh trưởng phát triển của cây chè. Diện tích vùng trung du và miền núi thích hợp cho việc trồng chè. Khả năng đưa năng suất búp tươi lên 5 - 10 tấn/ha là có cơ sở hiện thực.

- Nhu cầu tiêu dùng chè trong nước và nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng, phẩm chất chè của ta được thị trường thế giới ưa chuộng.

3) Phân vùng chè:

Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè được trồng trọt rải rác ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi, nhưng tập trung ở một số vùng chính như sau:

- Vùng chè miền núi: Gồm các tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Sơn La, giống chè được trồng chủ yếu ở vùng này là chè Shan (còn gọi là chè tuyết) có năng suất cao, phẩm chất tốt. Sản lượng chè của vùng này chiếm 25 - 30% tổng sản lượng chè của miền Bắc. Trong tương lai sẽ nâng tỷ trọng sản lượng lên 50 - 60%. Sản phẩm chủ yếu của vùng chè miền núi là chè lục, chè mạn. Hiện nay sản xuất chè xanh đã chiếm ưu thế.

- Vùng chè trung du: gồm các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Bắc Thái và một phần của Hoàng Liên Sơn (Yên Bái cũ). Là vùng sản xuất chè chủ

yếu, chiếm 70% sản lượng chè của miền Bắc. Giống chè chính được trồng trọt là giống Trung du (Trung Quốc lá to) có năng suất cao và phẩm chất tốt. Sản phẩm chủ yếu là chè đen và chè xanh để tiêu dùng và xuất khẩu.

- Vùng chè tươi: gồm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và khu 4 cũ, vùng này nhân dân có tập quán sử dụng lá bánh tẻ để uống tươi (không qua quá trình chế biến). Năm 1972 diện tích vùng chè tươi là 8.098 ha, chè được trồng chủ yếu ở các tỉnh Nghệ Tĩnh (4.550 ha), Thanh Hóa (1.427 ha). Những năm gần đây một số vườn chè tươi đã được chăm sóc, đốn hái để chuyển sang chè hái búp. Hiện nay vùng chè này đang giữ vị trí quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu thức uống của nhân dân.

- Ở miền Nam chè được trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai - Công Tum. Vùng nam Tây Nguyên (Lâm Đồng) là vùng cao nguyên nhiệt đới, độ cao 800 - 1.500 m, thích hợp với giống chè Shan. Vùng bắc Tây Nguyên thấp hơn (500 - 700m), khí hậu thích hợp với các giống chè Atxam và Trung du. Diện tích trồng chè của các tỉnh phía nam hiện có khoảng 8.200 ha (diện tích trồng chè đạt được cao nhất năm 1965: 9.685 ha với tổng sản lượng là 5.905t chè khô).

CHƯƠNG II

ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC CỦA CÂY CHÈ

I - NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI

1) Nguồn gốc:

hiều công trình nghiên cứu và khảo sát trước đây cho rằng nguồn gốc của cây chè là vùng cao nguyên Vân Nam Trung Quốc, nơi có khí hậu ẩm ướt và ấm. Theo các tài liệu của Trung Quốc thì cách đây khoảng 4.000 năm, người Trung Quốc đã biết dùng chè để làm dược liệu và sau đó mới dùng để uống. Cũng theo các nguồn tài liệu này thì vùng biên giới Tây Bắc nước ta nằm trong vùng nguyên sản của giống chè tự nhiên trên thế giới.

Năm 1823 R.Bruce phát hiện được những cây chè dại, lá to ở vùng Atxam (Ấn Độ), từ đó các học giả người Anh cho rằng nguyên sản của cây chè là ở Ấn Độ chứ không phải là ở Trung Quốc. Trong tất cả các tài liệu gần đây hầu như không thấy có sự nhất quán nêu lên về nơi xuất xứ của cây chè. Chúng ta biết rằng muốn xác định vùng nguyên sản của một cây trồng cần căn cứ vào những điều kiện tổng hợp, trong đó cây dã sinh chỉ là một điều kiện mà chủ yếu là cần xét đến tập quán sử dụng, lịch sử trồng trọt và tình hình phân bố các loại hình có quan hệ tới cây trồng đó.

Những công trình nghiên cứu của Đjêmukhatze (1961 - 1976) về phức catechin của lá chè từ các nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất catechin giữa các loại chè được trồng trọt và chè mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm về sự tiến hóa sinh hóa của cây chè và trên cơ sở đó xác minh nguồn gốc cây chè. Đjêmukhatze kết luận rằng: những cây chè mọc hoang dại từ cổ xưa, tổng hợp chủ yếu là (-) - epicatechin và (-) - epicatechin galat, ở chúng phát triển chậm khả năng tổng hợp (-) epigalo catechin và các galat của nó để tạo thành (+) galocatechin. Nghiên cứu các cây chè dại ở Việt Nam cho thấy chúng cũng tổng hợp chủ yếu là (-) - epicatechin và (-) - epicatechin galat (chiếm 70% tổng số các loại catechin). Khi di thực những cây chè dại này lên phía Bắc, với các điều kiện khắc nghiệt hơn về khí hậu, chúng sẽ thích ứng dần với các điều kiện sinh thái bằng cách có thành phần catechin phức tạp hơn, cùng với sự tạo thành (-) epigalocatechin và các galat của nó. Điều này có nghĩa là sự trao đổi chất ở đây hướng về phía tăng cường quá trình hiđroxin hóa và galin hóa. Từ những biến đổi sinh hóa này của

lá các cây chè mọc hoang dại và cây chè được trồng trọt chăm sóc, cho phép đi tới một kết luận mới "Nguồn gốc của cây chè chính là ở Việt Nam".

Hiện nay chè được phân bố khá rộng trong những điều kiện tự nhiên rất khác nhau từ 30 độ vĩ nam (Natan - Nam Phi) đến 45 độ vĩ bắc (Gruzia - Liên Xô) là những nơi có điều kiện tự nhiên khác rất xa vùng nguyên sản. Chè được trồng ở Nhật Bản năm 805 - 814, Indonesia 1684, Liên Xô 1833, Xrilanca 1837 - 1840, Ấn Độ 1834 - 1840 và Tasmania (châu Đại Dương) năm 1940.

Những thành tựu gần đây của các nhà nông học Liên Xô cũng như một số nước khác đã tạo ra nhiều giống chè mới có khả năng thích ứng trong những điều kiện khí hậu khác nhau mở ra nhiều triển vọng cho sự nghiệp trồng chè trên thế giới.

2) Phân loại:

Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật như sau:

Ngành hạt kín Angiospermae

Lớp song tử diệp Dicotyledonae

Bộ chè Theales

Họ chè Theaceae

Chi chè Camellia (Thea)

Loài Camellia (Thea) sinensis.

Tên khoa học của cây chè được nhiều nhà khoa học công nhận là: Camellia sinensis (L) O. Kuntze và có tên đồng nghĩa là: Thea sinensis L.

Chú thích:

Năm 1753 Linê đặt tên khoa học cho cây chè là Thea sinensis, sau đó lại đặt là Camellia sinensis. Sau Linê có nhà thực vật học xếp cây chè thuộc chi Thea, có người lại xếp cây chè thuộc chi Camellia sinensis. Tên khoa học của cây chè được viết là Thea sinensis hoặc Camellia sinensis. Hơn một trăm năm, tên khoa học của cây chè vẫn là một vấn đề tranh luận. Trước sau có 20 cách đặt tên khoa học cho cây chè. Diễn biến chủ yếu như sau:

Năm 1807 f. Sims. Thea sinensis Sims.

1822 H.F. Link. Camellia sinensis Link.

1854 W. Griffim. Camellia theifera Griff.

1874 D. Brandis. Camellia thea Brandis.

1874 W. T. T. Dyer. Camellia theifera Dyer.

1908 G. Watt. Camellia thea (Link) Brandis.

1919 C. P. Cohen Stuart. Camellia thiefera (Griff) Dyer.

1933 C. R. Harler. Thea sinensis (L) Sims.

1956 C. R. Harler. Camellia sinensis (L) O. Kuntze.

Hiện nay các nhà thực vật học gộp hai chi Thea và Camellia làm một và gọi là chi Camellia. Vì vậy tên khoa học của cây chè được nhiều người thường gọi là Camellia sinensis (L) O. Kuntze.

Cơ sở của việc phân loại chè thường dựa vào:

- Cơ quan dinh dưỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, hình dạng và kích thước của các loại lá, số đôi gân lá...

- Cơ quan sinh thực: độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh của đầu nhị cái.

- Đặc tính sinh hóa: chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin. Mỗi giống chè đều có hàm lượng tanin biến động trong phạm vi nhất định.

Dưới đây giới thiệu phân loại của Cohen Stuart (1919). Cách phân loại này được nhiều người chấp nhận. Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ (varietas):

a) Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. Bohea):

Đặc điểm:

- Cây bụi thấp phân cành nhiều.

- Lá nhỏ, dày nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, lá dài 3,5 - 6,5 cm.

- Có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đều.

- Búp nhỏ, hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thường.

- Khả năng chịu rét ở độ nhiệt -12oC đến -15oC.

Phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản và một số vùng khác.

b) Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla):

Đặc điểm:

- Thân gỗ nhỡ cao tới 5m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên.

- Lá to trung bình chiều dài 12 - 15 cm, chiều rộng 5 - 7 cm, màu xanh nhạt, bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn.

- Có trung bình 8 - 9 đôi, gân lá rõ.

- Năng suất cao. Phẩm chất tốt.

Nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).

c) Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan):

- Thân gỗ, cao từ 6 đến 10 m.

- Lá to và dài 15 - 18 cm màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ và dày.

- Tôm chè có nhiều lông tơ, trắng và mịn trông như tuyết, nên còn gọi là chè tuyết.

- Có khoảng 10 đôi gân lá.

- Có khả năng thích ứng trong điều kiện ấm ẩm, ở địa hình cao, năng suất cao, phẩm chất thuộc loại tốt nhất.

Nguyên sản ở Vân Nam - Trung Quốc, miền bắc của Miến Điện và Việt Nam.

d) Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. atxamica):

- Thân gỗ cao tới 17 m phân cành thưa.

- Lá dài tới 20 - 30 cm, mỏng, mềm, thường có màu xanh đậm, dạng lá hình bầu dục, phiến lá gợn sóng, đầu lá dài.

- Có trung bình 12 - 15 đôi gân lá.

- Rất ít hoa quả.

- Không chịu được rét hạn.

- Năng suất, phẩm chất tốt.

Trồng nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Vân Nam (Trung Quốc) và một số vùng khác.

Bốn thứ (varietas) chè trình bày trên đây đều có trồng ở Việt Nam, nhưng phổ biến nhất là hai thứ C. sinensis var. macrophylla và C. sinensis var. Shan.

- Camellia sinensis var. macrophylla được trồng nhiều nhất ở các tỉnh trung du với các tên gọi của địa phương (tùy theo màu sắc của lá) như: Trung du lá xanh, Trung du lá vàng, v.v... Tỷ lệ trồng các giống chè trung du ở miền bắc đạt tới 70%. Năng suất búp trong sản xuất đại trà khi chè 5 - 19 tuổi thường đạt 4 - 5 tấn/ha.

Các giống chè Trung du chịu được đất xấu, nhưng nhiều sâu hại: rầy xanh, bọ cánh tơ..., ở vùng cao thường bị bệnh phồng lá. Chè Trung du thường để chế biến chè xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt.

- Camellisa sinensis var. Shan được trồng ở miền núi các tỉnh miền bắc và ở miền nam Tây Nguyên (Lâm Đồng). Ở mỗi địa phương có các giống khác nhau như: Shan Mộc Châu, Shan Tham Vè, Shan Trấn Ninh ... Năng suất búp thường đạt 6 - 7 tấn/ha. Búp chè có nhiều tuyết, dùng chế biến chè xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt nhưng thích hợp với chế biền chè xanh hơn.

II - ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC VÀ SINH VẬT HỌC CÂY CHÈ

1) Thân và cành:

Cây chè sinh trưởng trong điều kiện tự nhiên là đơn trục, nghĩa là chỉ có một thân chính, trên đó phân ra các cấp cành. Do đặc điểm sinh trưởng và do hình dạng phân cành khác nhau, người ta chia thân chè ra làm ba loại: thân gỗ, thân nhỡ (thân bán gỗ) và thân bụi.

Thân gỗ là loại hình cây cao, to, có thân chính rõ rệt, vị trí phân cành cao.

Thân nhỡ hay thân bán gỗ là loại hình trung gian, có thân chính tương đối rõ rệt, vị trí phân cành thường cao khoảng 20 - 30 cm ở phía trên cổ rễ.

Đặc điểm của thân bụi là cây không có thân chính rõ rệt, tán cây rộng thấp, phân cành nhiều, vị trí phân cành cấp 1 thấp ngay gần cổ rễ. Trong sản xuất thường gặp loại chè thân bụi. Vì sự phân cành của thân bụi khác nhau nên tạo cho cây chè có các dạng tán: tán đứng thẳng, tán trung gian và tán ngang.

(Hình 1)

1. Đứng thẳng 2. Trung gian 3. Nằm ngang

Hình 1: Các dạng tán chè

Cành chè do mầm dinh dưỡng phát triển thành, trên cành chia làm nhiều đốt. Chiều dài của đốt biến đổi rất nhiều (từ 1 - 10 cm) do giống và do điều kiện sinh trưởng. Đốt chè dài là một trong những biểu hiện giống chè có năng suất

cao. Từ thân chính, cành chè được phân ra nhiều cấp: cành cấp 1, cấp 2, cấp 3... Hoạt động sinh trưởng của các cấp cành trên tán chè rất khác nhau. Theo lý luận phát dục giai đoạn thì những mầm chè nằm càng sát phía gốc của cây càng có giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh. Còn những cành chè càng ở phía trên ngọn (mặt tán) thì càng có giai đoạn phát dục già, sức sinh trưởng yếu, khả năng ra hoa kết quả mạnh. Những cành chè ở giữa tán hoặc trên mặt tán, hoạt động sinh trưởng thường mạnh hơn các cành ở rìa tán và ở phía dưới tán.

Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Với số lượng càng thích hợp và cân đối ở trên tán, cây chè cho sản lượng cao. Vượt quá giới hạn đó, sản lượng không tăng và phẩm cấp giảm xuống do búp mù nhiều. Tương quan giữa mật độ cành và sản lượng búp là một tương quan không chặt. Theo Bakhơtatje, hệ số tương quan giữa mật độ cành với sản lượng là r = 0,071.

Trong sản xuất, cần nắm vững đặc điểm sinh trưởng của cành để áp dụng các biện pháp kỹ thuật đốn, hái hợp lý mới có thể tạo ra trên tán chè nhiều búp, đặt cơ sở cho việc tăng sản.

2) Mầm chè:

Trên cây chè có những loại mầm: mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm dinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và quả.

Mầm dinh dưỡng gồm có:

- Mầm đỉnh

- Mầm nách

- Mầm ngủ

- Mầm bất định (mầm ở cổ rễ)

Phía trái:

1. Lá vẩy ốc

2. Mầm lá cá

3. Mầm lá thật

4. Mầm nách

5. Điểm sinh trưởng

Phía phải:

1. Lá vẩy ốc

2. Mầm lá cá

3. Mầm lá thật

4. Mầm nách thứ 4

5. Mầm nách thứ 5

6. Điểm sinh trưởng

Hình 2: Mầm chè cắt dọc

Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển trên trục chính của các cành năm trước, hoạt động sinh trưởng mạnh và thường có tác dụng ức chế sinh trưởng của các mầm ở phía dưới nó (ưu thế sinh trưởng ngọn). Trong một năm, mầm đỉnh hình thành búp sớm nhất cùng với thời kỳ bắt đầu sinh trưởng mùa xuân của cây. Búp được hình thành từ các mầm đỉnh là các búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.

Mầm nách: Trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên, phần lớn chúng ở trạng thái nghỉ do sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái các búp đỉnh, mầm nách phát triển thành búp mới. Tùy theo vị trí của lá ở trên cành, khả năng phát triển thành búp và chất lượng búp ở các nách lá rất khác nhau. Những mầm ở nách lá phía trên thường hoạt động sinh trưởng mạnh hơn, do đó cho búp có chất lượng tốt hơn

các mầm ở nách lá phía dưới. Những búp được hình thành từ mầm nách của các lá năm trước gọi là búp đợt 1, có thể là búp bình thường hoặc búp mù.

Mầm ngủ: Là những mầm nằm ở các bộ phận đã hóa gỗ của các cành một năm hoặc già hơn. Những mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại mầm trên, cho nên sự hình thành búp sau khi đốn đòi hỏi một thời gian dài hơn. Kỹ thuật đốn lửng, đốn đau, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ, tạo nên những cành chè mới, có giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh. Búp được hình thành từ mầm ngủ có thể là búp bình thuờng hoặc búp mù.

Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này không cố định trên thân chè thường ở sát cổ rễ. Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè được đốn trẻ lại. Trong trường hợp ấy cành chè tựa như mọc ở dưới đất lên. Búp được hình thành từ các mầm bất định cũng có hai loại: búp bình thường và búp mù.

Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thường mỗi nách lá có hai mầm sinh thực nhưng cũng có trường hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và khi đó ở nách lá có một chùm hoa. Các mầm sinh thực cùng với mầm dinh dưỡng phát sinh trên cùng một trục, mầm dinh dưỡng ở giữa, mầm sinh thực ở hai bên, vì vậy, quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực thường có những mâu thuẫn nhất định. Khi mầm sinh thực phát triển nhiều ở trên cành chè, thì quá trình sinh trưởng của các mầm dinh dưỡng yếu đi, do sự tiêu hao các chất dinh dưỡng cho việc hình thành nụ hoa và quả. Trong sản xuất chè búp cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích đáng để hạn chế sự phát triển của các mầm sinh thực.

3) Búp chè:

Búp chè là đoạn non của một cành chè. Búp được hình thành từ các mầm dinh dưỡng, gồm có tôm (phần lá non ở trên đỉnh của cành chưa xòe ra) và hai hoặc ba lá non. Búp chè trong quá trình sinh trưởng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong của nó. Kích thước của búp thay đổi tùy theo giống, loại và liều lượng phân bón, các khâu kỹ thuật canh tác khác như đốn, hái và điều kiện địa lý nơi trồng trọt.

Búp chè là nguyên liệu để chế biến ra các loại chè, vì vậy nó quan hệ trực tiếp đến năng suất và phẩm chất của chè. Nghiên cứu của Bakhơtatje (1947) cho thấy tương quan giữa số lượng búp trên một đơn vị diện tích và năng suất là một tương quan rất chặt chẽ r = 0,956.

a) Búp bình thường b) Búp mù

Hình 3: Búp chè

Búp chè gồm có hai loại: búp bình thường và búp mù. Búp bình thường (gồm có tôm + 2, 3 lá non), có trọng lượng bình quân 1 búp từ 1g đến 1,2g đối với giống chè Shan, từ 0,5 đến 0,6g đối với giống chè Trung du, búp càng non phẩm chất càng tốt. Hệ số tương quan giữa tỷ lệ phần trăm búp bình thường với hàm lượng tanin và cafein trong lá chè là r = 0,67 và r = 0,48 . Búp mù là búp phát triển không bình thường, trọng lượng bình quân của một búp mù thường bằng khoảng 1/2 trọng lượng búp bình thường và phẩm chất thì thua kém rõ rệt. Nguyên nhân xuất hiện búp mù rất phức tạp. Một mặt do đặc điểm sinh vật học của cây trồng, mặt khác do ảnh hưởng xấu của các điều kiện bên ngoài hoặc do biện pháp kỹ thuật không thích hợp.

Búp chè hoạt động sinh trưởng theo một quy luật nhất định và hình thành nên các đợt sinh trưởng theo thứ tự thời gian. Thời gian của mỗi đợt sinh trưởng phụ thuộc vào giống, chế độ dinh dưỡng và điều kiện khí hậu. Có thể tóm tắt hoạt động sinh trưởng búp theo tuần tự như sau:

Sơ đồ đợt sinh trưởng

Trên một cành chè nếu để sinh trưởng tự nhiên, một năm có 4 - 5 đợt sinh trưởng, nếu hái búp liên tục thì có 6 - 7 đợt và trong điều kiện thâm canh có thể đạt 8 - 9 đợt sinh trưởng.

Thời gian hình thành một đợt sinh trưởng dài hay ngắn tùy thuộc vào giống, tuổi cây chè, điều kiện thời tiết khí hậu và các biện pháp kỹ thuật.

Bảng 2: Thời gian hình thành các đợt sinh trưởng trong một năm trên các tuổi chè khác nhau

(Nguyễn Phong Thái, 1976)

Số ngày hình thành một đợt sinh trưởng Đợt sinh trưởng

Chè 4 tuổi Chè 7 tuổi Chè 10 tuổi

1

2

3

4

5

6

7

42

31

29

30

32

36

42

40

32

32

28

33,5

34

36,5

41

36

35

31

36

34

41

4) Lá chè:

Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá. Lá thường có nhiều thay đổi về hình dạng tùy theo các loại giống khác nhau và trong các điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Lá chè có gân rất rõ. Những gân chính của lá chè thường không phát triển ra đến tận rìa lá. Rìa lá chè thường có răng cưa, hình dạng răng cưa trên lá chè khác nhau tùy theo giống. Số đôi gân lá là một trong những chỉ tiêu để phân biệt các giống chè.

Trên một cành chè thường có các loại lá như sau:

Hình 4: Các loại lá trên cành chè

Từ trái sang phải:

- Búp đang phát triển

- Lá cá - Lá thứ 3 - tôm chè

- Lá thứ nhất - Lá thứ 4

- Lá thứ 2 - Lá thứ 5

- Lá vẩy ốc: là những lá vẩy rất nhỏ, có màu nâu, cứng. Lá vẩy ốc là bộ phận bảo vệ điểm sinh trưởng của mầm khi nó ở trạng thái ngủ. Số lượng lá vẩy ốc thường là 2 - 4 lá ở mầm mùa đông, và 1 - 2 lá ở mầm mùa hè.

- Lá cá: Về hình dạng bên ngoài: là một lá thật thứ nhất nhưng phát triển không hoàn toàn thường dị hình hoặc có dạng hơi tròn, không có hoặc có rất ít răng cưa quanh rìa lá, diện tích lá nhỏ. Cấu tạo giải phẫu lá cá có số lớp mô dậu và mô khuyết ít hơn lá thật. Số lượng lục lạp ít hơn và cấu trúc của nó rất nhỏ. Lá cá tồn tại như một lá bình thường trên cành chè. Nó có khả năng tích lũy gluxit như lá bình thường còn hàm lượng tanin thì thấp hơn từ 1 - 2%.

Hình 5: Các dạng lá cá

- Lá thật: cấu tạo giải phẫu của lá thật gồm có:

+ Lớp biểu bì: gồm những tế bào nhỏ, dày và cứng xếp thành một lớp: có chức năng bảo vệ lá.

+ Lớp mô dậu: gồm từ 1 - 3 lớp tế bào sắp xếp đều nhau, chứa nhiều diệp lục.

+ Lớp tế bào mô khuyết: chiếm phần chính của lá các tế bào sắp xếp không đều nhau. Ở trong có nhiều thạch tế bào và tinh thể oxalat canxi.

Tỷ lệ mô dậu/ mô khuyết càng lớn, biểu hiện tính chống chịu điều kiện ngoại cảnh tốt.

Lá chè mọc trên cành theo các thế khác nhau, tức là góc độ giữa lá và cành chè to nhỏ khác nhau. Trong sản xuất thường gặp 4 loại thế lá như sau: thế lá úp, nghiêng, ngang và rủ. Thế lá ngang và rủ là đặc trưng của giống chè năng suất cao.

Tuổi thọ trung bình của lá chè là một năm.

Hình 6: Giải phẫu lá chè

1. Biểu bì trên; 2. Mô dậu; 3. Mô khuyết; 4. Gân lá; 5. Biểu bì dưới

5) Rễ chè:

Cây chè sống nhiều năm trên một mảnh đất cố định, do đó việc nghiên cứu đặc điểm của bộ rễ có ý nghĩa rất quan trọng để đặt cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật trồng trọt. Rễ chè phát triển tốt tạo điều kiện cho các bộ phận trên mặt đất phát triển.

Hệ rễ chè gồm có: rễ trụ (rễ cọc), rễ bên và rễ hấp thu. Quá trình sinh trưởng và phát triển của bộ rễ có những đặc điểm:

- Khi hạt mới nảy mầm rễ trụ phát triển rất nhanh. Vào khoảng 3 - 5 tháng sau khi trồng thì rễ trụ phát triển chậm lại và rễ bên phát triển mạnh.

- Thời kỳ cây chè còn nhỏ, rễ trụ luôn luôn phát triển dài hơn phần thân trên mặt đất. Đến năm thứ 2 và thứ 3 thì tốc độ sinh trưởng giữa phần thân trên đất và phần rễ mới cân bằng. Rễ bên và rễ phụ trong thời kỳ này rất phát triển, tốc độ lớn lên và phân cấp của chúng cũng rất nhanh. Đặc điểm này có quan hệ rất lớn đến chế độ làm đất ban đầu khi trồng chè mới.

- Sự phát triển của rễ chè và thân chè có hiện tượng xen kẽ nhau, khi thân lá phát triển mạnh thì rễ phát triển chậm lại và ngược lại. Theo kết quả nghiên cứu của Trung Quốc, trong điều kiện của Chiết Giang, một năm có 3, 4 lần phát triển xen kẽ nhau giữa thân, lá và rễ. Đặc điểm sinh trưởng đó thay đổi tùy theo điều kiện khí hậu, đất đai và chế độ canh tác cụ thể ở mỗi nơi.

Hình 7: Rễ chè

- Rễ trụ của chè thường ăn sâu xuống đất hơn 1 mét, ở những nơi đất xốp, thoát nước nó có thể ăn sâu tới 2 - 3 mét. Rễ hấp thu được phân bố tập trung ở lớp đất từ 10 - 40 cm thời kỳ cây chè lớn, rễ tập trung ở gữa hai hàng chè, tán rễ so với tán cây lớn hơn 2 - 2,5 lần.

Sự phân bố của rễ chè trong đất phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện đất đai và chế độ canh tác. Lượng dinh dưỡng trong đất có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của bộ rễ, nhất là lượng đạm.

Rễ chè kỵ vôi, do đó yêu cầu đất có phản ứng chua. Canxi cần cho cây chè, nó có mặt ở những nơi phân bào và sinh trưởng như mút rễ, ngọn cây, là thành phần của màng tế bào v.v... Hàm lượng canxi trong lá chè khoảng 0,55%. Nếu nhiều canxi quá rễ chè không phát triển được. Chè yêu cầu đất có phản ứng chua là do cây chè yêu cầu một số nguyên tố hiếm và nguyên tố vi lượng mà phần lớn những nguyên tố này bị kết tủa trong môi trường kiềm. Vì vậy, chè trồng ở những nơi đất có phản ứng kiềm dễ bị hại và không sinh trưởng được. Mặt khác căn cứ vào những nghiên cứu về sinh lý, thấy rằng năng lực hoãn xung trong dịch tế bào rễ chè tốt nhất ở môi trường pH = 5 và yếu dần khi độ pH tăng lên. Khi pH = 5,7 thì khả năng hoãn xung của dịch tế bào rễ chè đã giảm xuống rất nhỏ.

Bảng 3: Sự phát triển của rễ phụ thuộc vào liều lượng phân đạm (theo Biava 1973)

Trọng lượng rễ gam/m3

Nhóm rễ nhỏ Nhóm rễ lớn Tổng số Công thức

gam % gam % gam %

Không bón phân

P.K

P,K + 300 kg N/ha

P,K + 500 kg N/ha

P,K + 700 kg N/ha

980

1097

1654

2366

1981

89

100

151

216

181

2375

4600

4830

7216

7630

52

100

105

157

166

3355

5706

6484

9582

9611

59

100

114

168

168

III - ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG SINH THỰC CỦA CÂY CHÈ

Sau khi gieo hạt khoảng 2 năm, cây chè cho hoa quả lần thứ nhất. Từ 3 đến 5 năm cây chè được hoàn chỉnh về đặc tính phát dục.

Trên mỗi nách lá chè thường có một mầm dinh dưỡng ở giữa và 2 hoặc nhiều mầm sinh thực ở hai bên. Hoa chè được hình thành từ các mầm sinh thực. Hoa chè lưỡng tính, đài hoa có 5 - 7 cánh. Trong một hoa có rất nhiều nhị đực, từ 200 - 400. Noãn sào thường có 3 - 4 ô. Trong điều kiện tự nhiên ở Vĩnh Phú, mầm hoa chè được hình thành và phân hóa sau thánh 6. Hoa nở rộ vào thánh 11 - 12. Phương thức thụ phấn chủ yếu là khác hoa, tự thụ phấn chỉ 2 - 3%. Trong một ngày, hoa thường nở từ 5 - 9 giờ sáng. Nhị đực thường chín trước nhị cái 2 ngày. Hạt phấn hoa chè sống khá lâu: Sau 5 ngày kể từ khi hoa nở rộ, hạt phấn vẫn còn khả năng nảy mầm tới 70%. Khả năng thụ tinh tốt nhất của hạt phấn là sau khi hoa nở 2 ngày. Khả năng ra nụ, ra hoa của chè rất lớn nhưng tỷ lệ kết quả thường thấp hơn 12%.

Sau khi thụ tinh quả chè được hình thành, thời gian phát dục của quả khoảng 9 đến 10 tháng. Quả chè thuộc loại quả nang. Mỗi quả thường có 2 - 3

hạt. Hình dạng bên ngoài của quả phụ thuộc vào số lượng hạt trong quả. Quả có 3 hạt thì có hình 3 góc, quả có 4 hạt thì có hình 4 góc... Trọng lượng hạt, tỷ lệ hạt/quả thay đổi tùy theo giống.

Theo kết quả nghiên cứu của Bakhơtatze thì trọng lượng 1000 hạt chè thay đổi như sau:

Giống chè Nhật Bản: 1.100g

Giống chè Trung Quốc: 1.250g

Giống lai Trung An: 1.400g

Gíông chè Ấn Độ (Manipua): 1.700g

Trọng lượng 1.000 hạt chè Trung du Việt Nam thường vào khoảng 2.000g.

Hình 8: Hoa , quả chè.

Hạt chè không có nội nhũ. Lá mầm của hạt chè rất phát triển chiếm 3,4 trọng lượng của hạt. Phần lớn các chất dinh dưỡng dự trữ cần thiết cho hạt nảy mầm đều dự trữ trong lá mầm. Thành phần hóa học của hạt chè, theo phân tích của Khupera và Bakhơtatze (1948) như sau: dầu 22,9%, anbumin 8,5%, Xapônin 9,1%, tinh bột 32,5%, gluxit khác 19,9%, xenlulo 3,8%, muối khoáng 3,3%. Hàm lượng dầu thay đổi tùy theo giống, ví dụ giống Ấn Độ: 43 - 45%, Trung Quốc: 30 - 35%, Nhật Bản: 24 - 26%, Gruzia: 36%.

Sau khi hạt nảy mầm, lá mầm của hạt chè có khả năng hình thành diệp lục tố và tiến hành quang hợp. Theo V.V.Kutubitje (1974) thì hạt chè có hiện tượng đa phôi. Hiện tượng này xuất hiện với tỷ lệ thấp ở trong chè, chiếm 0,19% số lượng hạt. Trong tương lai, hiện tượng đó có thể ứng dụng vào công tác chọn giống và nghiên cứu tế bào học của chúng.

IV- KHÁI NIỆM VỀ PHÁT DỤC CÁC THỂ CỦA CÂY CHÈ

Phát dục cá thể của cây chè là quá trình từ lúc thụ tinh cho đến khi cây già cỗi tự chết, đó cũng là chu kỳ sinh sống cá thể của cây. Chè là cây lâu năm có chu kỳ sinh sống rất dài có thể đạt 100 năm hoặc lâu hơn. Tổng chu kỳ phát dục là từ khi hoa thụ tinh hình thành quả cho đến khi tự chết. Hàng năm từ lúc mầm đỉnh bắt đầu sinh trưởng, hình thành búp lá rồi ra hoa kết quả cho đến năm sau trước lúc mầm đỉnh lại bắt đầu sinh trưởng gọi là chu kỳ phát dục hàng năm. Nhiều chu kỳ phát dục hàng năm tạo thành tổng chu kỳ phát dục của cây. Nhưng sự bắt đầu chu kỳ phát dục cá thể của cây không chỉ dựa vào hạt mà còn dựa vào những mầm dinh dưỡng của cây ở bất kỳ tuổi nào để nhân giống đời sau, thực hiện tổng chu kỳ phát dục cá thể.

1) Tổng chu kỳ phát dục cá thể của cây:

Theo các tài liệu của Trung Quốc, tổng chu kỳ phát dục cá thể của cây chè chia làm 5 giai đoạn:

a) Giai đoạn phôi thai: là giai đoạn phôi hạt hoặc phôi của các mầm dinh dưỡng. Giai đoạn phôi hạt là quá trình hình thành hạt: từ lúc cây ra hoa thụ phấn cho đến lúc quả chín, quá trình này đòi hỏi một năm. Giai đoạn phôi của các mầm dinh dưỡng là từ lúc phôi mầm phát dục phân hóa cho đến khi hình thành một búp (cành) mới, nếu tách rời cây mẹ thì nó có khả năng mọc rễ để hình thành một cá thể mới. Quá trình này cần 60 - 80 ngày.

b) Giai đoạn cây con: từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi cây ra hoa kết quả lần đầu tiên, cần trên dưới 2 năm. Trong điều kiện của Việt Nam thường là cuối năm thứ nhất. Thời kỳ này sinh trưởng dinh dưỡng phát triển mạnh, tán cây vươn theo chiều cao mạnh hơn phân cành, đặc điểm sinh trưởng là ưu thế đỉnh ở hai đầu.

c) Giai đoạn cây non: từ lúc cây ra hoa kết quả lần đầu tiên cho đến lúc cây được định hình (cây có một bộ khung tán rõ), khoảng 2 - 3 năm. Trong điều kiện của Việt Nam: Từ năm thứ 2 đến năm thứ 4. Thời kỳ này sinh trưởng dinh

dưỡng vẫn chiếm ưu thế, thân chè đã có một số cành nách, bộ rễ cũng đã phát triển, có nhiều rễ bên.

d) Giai đoạn cây chè lớn: sự phát dục của các khí quan trong cá thể cây trồng đạt mức cao nhất Sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực mạnh nhất, biểu hiện những đặc trưng tốt xấu của một giống. Thời kỳ này khoảng 20 - 30 năm, dài ngắn tùy theo điều kiện giống, đất đai, trình độ quản lý, chăm sóc và khai thác.

e) Giai đoạn cây chè già: các khí quan của cá thể cây trồng đã bắt đầu già yếu, cơ năng sinh lý giảm, khả năng ra hoa kết quả ở thời kỳ đầu nhiều, sinh trưởng dinh dưỡng kém. Bộ phận tán cây có hiện tượng chết dần. Khả năng sinh thực ở thời kỳ cuối cũng giảm thấp. Cổ rễ bắt đầu mọc một số cành vượt, lóng dài, da đỏ, dấu hiệu của sự thay đổi bộ khung cũ: nếu đốn trẻ lại thì cây có khả năng phục hồi sinh trưởng.

2) Chu kỳ phát dục hàng năm:

Chu kỳ này bao gồm hai giai đoạn: sinh trưởng và tạm ngừng sinh trưởng.

Trong giai đoạn sinh trưởng, các loại mầm dinh dưỡng sẽ phát triển hình thành búp, lá non và những đợt búp chè mới; hệ rễ tiếp tục phát triển hình thành các rễ bên và rễ hấp thụ. Các mầm sinh thực phát triển thành nụ, hoa và quả. Sinh trưởng dinh dưỡng cũng như sinh trưởng sinh thực phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện ngoại cảnh, trình độ quản lý chăm sóc. Giai đoạn sinh trưởng dài hay ngắn chủ yếu tùy thuộc vào điều kiện khí hậu, thời tiết của mỗi vùng.

V- ĐẶC TÍNH SINH HÓA CHÈ

Phẩm chất của chè thành phẩm được quyết định do những thành phần hóa học của nguyên liệu và kỹ thuật chế biến. Thành phần sinh hóa của chè biến động rất phức tạp nó phụ thuộc vào giống, tuổi chè, điều kiện đất đai, địa hình, kỹ thuật canh tác, mùa thu hoạch... Trên cơ sở nắm được những đặc điểm chủ yếu về mặt sinh hóa của nguyên liệu sẽ đặt cơ sở cho một số biện pháp kỹ thuật để nâng cao sản lượng đồng thời giữ vững và nâng cao chất lượng của chè.

Những thành phần sinh hóa chủ yếu trong búp chè gồm có:

1) Nước:

Nước là thành phần chủ yếu trong búp chè: nước có quan hệ đến quá trình biến đổi sinh hóa trong búp chè và đến sự hoạt động của các men, là chất quan

trọng không thể thiếu được để duy trì sự sống của cây. Hàm lượng nước trong búp chè thay đổi tùy theo giống, tuổi cây, đất đai, kỹ thuật canh tác, thời gian hái và tiêu chuẩn hái v.v... Trong búp chè (tôm + 3 lá) hàm lượng nước thường có từ 75 - 82%. Để tránh khỏi sự hao hụt những vật chất trong búp chè qua quá trình bảo quản và vận chuyển, phải cố gắng tránh sự giảm bớt nước trong búp chè sau khi hái.

2) Tanin:

Tanin là một trong những thành phần chủ yếu quyết định đến phẩm chất chè. Tanin còn gọi chung là hợp chất fenol, trong đó 90% là các dạng catechin. Tỷ lệ các chất trong thành phần hỗn hợp của tanin chè không giống nhau và tùy theo từng giống chè mà thay đổi. Những hợp chất này dựa vào tính chất của chúng có thể phân thành:

- Dạng tan được trong este: phân tử lượng 320 - 360.

- Dạng tan trong nước hoặc xeton: phân tử lượng 420 - 450.

- Dạng kết hợp với protein (chỉ sau khi dùng dung dịch NaOH 0,5% để xử lý, mới có thể hòa tan trong dung dịch).

Thành phần hóa học của tanin trong búp chè Gruzia, theo phân tích của Cuaxanop và Djaprometop (1952) như sau:

Dạng catechin Hàm lượng (tính theo % tổng lượng tanin chung)

D.L catechin D, L-C 0,4

L. epicatechin L, EC 1,3

D.L galocatechin D, LGC 2,0

L. epigalocatechin L, EGC 12,0

L. epicatechingalat L. ECG 18,1

L. epigalocatechingalat L. EGCG 58,1

L. galocatechingalat L. GCG 1,4

Quexitrin 0,27

Chất màu hỗn tạp và axít galic 5,0

Cộng:

98,57%

Phân tích các dạng catechin trong búp chè của Việt Nam, những kết quả ban đầu cho thấy:

Bảng 4: Hàm lượng và thành phần catechin trong búp chè PH1 và Trung du

(Trịnh Văn Loan 1975)

Giống PH1 Giống Trung du Thành phần

catechin Hàm lượng (mg/g chất khô)

Tỷ lệ (%) Hàm lượng (mg/g chất khô)

Tỷ lệ (%)

L. EGC

DL GC

L. EC + C

L. EGCG

L. ECG

Tổng số

27,70

19,80

5,21

73,00

21,20

150,91

18,40

13,15

3,48

51,70

14,05

100,0

33,90

20,40

8,39

81,0

27,4

171,09

19,8

11,92

4,9

47,4

16,0

100,0

Quá trình hình thành các hợp chất polifenol trong cây chè là quá trình phức tạp và có nhiều giả thuyết. Theo MM. Đjapromêtôp thì các đường có chứa 6 cacbon (glucô, fructô...) trong quá trình chuyển hóa thông qua dạng sản phẩm trung gian mà hình thành nên các chất polifenol Sơ đồ quá trình đó như sau:

Sơ đồ tổng hợp catechin (theo Đjaprômêtop)

Sự biến động của hàm lượng tanin nói chung và catechin nói riêng trong chè rất lớn. Nó phụ thuộc vào giống, tiêu chuẩn hái, mùa hái, điều kiện độ vĩ, địa hình, kỹ thuật canh tác,.. Trong hoàn cảnh tự nhiên của ta, các giống chè Shan thường cho hàm lượng tanin cao hơn các giống chè khác hiện đang trồng. Hàm lượng tanin biến động rất lớn tùy theo vị trí lá trên búp.

Bảng 5: Hàm lượng tanin ở các loại lá chè (% chất khô)

Gống chè

PH1 Trung du

Tôm

Lá 1

Lá 2

Lá 3

36,75

37,77

34,74

30,77

34,99

36,97

34,61

31,16

Cuộng

Trung bình

25,56

32,72

22,90

32,12

Tanin giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh lý của cây, nó tham gia vào quá trình ôxi hóa khử trong cây:

AH2 octhokinon H2O

A catechin 1/2 O2

Các dạng catechin như epicatechin galat, epigalocatechin galat tham gia vào quá trình sinh trưởng của cây.

Về mặt phẩm chất chè, tanin giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo thành màu sắc, hương vị của chè (nhất là đối với việc chế biến chè đen), vì vậy trong quá trình trồng trọt cần chú ý nâng cao hàm lượng tanin trong nguyên liệu.

Tanin được dùng trong y học để làm thuốc cầm máu, nó có khả năng tăng cường sức đề kháng của thành huyết quản trong cơ thể động vật, tăng cường sự tích lũy và đồng hóa sinh tố C.

3) Ancaloit:

Trong chè có nhiều loại ancaloit nhưng nhiều nhất là cafein. Hàm lượng cafein ở trong chè có từ 3 - 5% thường nhiều hơn cafein ở trong lá cà phê từ 2 - 3 lần. Nó không có khả năng phân ly ion H+ tức là không có tính axít mà chỉ là một kiềm yếu. Cafein chỉ hòa tan trong nước với tỷ lệ 1/46, rất dễ hòa tan trong dung môi clorofoc. Cafein có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích cơ năng hoạt động của tim, có tác dụng lợi tiểu. Cafein rất bền vững trong chế biến. Nó có khả năng kết hợp cới tanin để tạo thành hợp chất tanat cafein có hương vị dễ chịu. Theo tài liệu của Roberto, hợp chất tanat cafein được tạo thành chủ yếu từ cafein, teaflavin, tearubigin, teaflavingalat. Ngoài ra còn có sự tham gia của ECG và EGCG.

Sự thay đổi hàm lượng cafein trong chè nguyên liệu phụ thuộc vào giống, ví dụ:

- Giống chè Trung Quốc: 2,29 - 2,31%

- Chè ấn Độ: 4,05 - 4,30%

- Chè Gruzia : 2,47 - 2,66%

Hàm lượng cafein còn phụ thuộc vào tuổi của lá:

- lá thứ nhất: 3,39% - lá thứ tư: 2,10%

- lá thứ hai: 4,20% - lá già: 0,79%

- lá thứ ba: 3,40% - cọng chè: 0,36%

Thời vụ thu hoạch khác nhau, điều kiện canh tác khác nhau, đều ảnh hưởng đến hàm lượng cafein trong búp chè. Bón đạm, hàm lượng cafein tăng lên rõ rệt: theo số liệu của Vôrônxôp, hàm lượng cafein thay đổi như sau: đối chứng không bón N: 3,13%; bón 100 kg N/ha: 3,16% và bón 210 kg N/ha: 3,24%.

4) Protein và axít amin:

Protein là hợp chất hữu cơ phức tạp chứa N, phân bố không đều ở các phần của búp chè và thay đổi tùy theo giống, thời vụ, điều kiện canh tác và các yếu tố khác. Protein có thể trực tiếp kết hợp với tanin, polifenol tạo ra những hợp chất không tan làm ảnh hưởng xấu đến phẩm chất chè đen. Do đặc điểm của việc chế biến chè xanh là diệt men ngay từ đầu, nên hàm lượng tanin trong chè ít bị thay đổi và còn quá cao làm cho chè có vị đắng. Protein kết hợp với một phần tanin làm cho vị chát và đắng giảm đi. Vì thế trong một chừng mực nào đó, protein có lợi cho phẩm chất chè xanh.

Ngày nay người ta đã tìm thấy trong chè có 17 axít amin, các axít amin này kết hợp với đường và tanin tạo thành andehit có mùi thơm của chè đen và làm cho chè xanh có dư vị tốt.

5) Gluxít và pectin:

Trong lá chè chứa rất ít gluxít hòa tan, trong khi đó các gluxít không hòa tan lại chiếm tỷ lệ lớn.

Bảng 6: Hàm lượng gluxít trong lá chè (% chất khô) Bacutrava 1958

Loại lá Đường khử

Xacaro Tổng lượng

Lá thứ 1

Lá thứ 2

Lá thứ 3

0,99

1,15

1,40

0,64

0,85

1,66

1,63

2,00

3,06

Lá bánh tẻ

Lá già

1,63

1,81

2,06

2,52

3,69

4,33

Xenlulo và hemixenlulo cũng tăng lên theo tuổi của lá, vì vậy nguyên liệu càng già chất lượng càng kém. Hàm lượng đường hòa tan ở trong chè tuy ít nhưng rất quan trọng đối với hương vị chè. Đường tác dụng với protein hoặc axít amin tạo nên các chất thơm.

Pectin thuộc về nhóm gluxít và nó là hỗn hợp của các polixacarit khác nhau và những chất tương tự chúng. ở trong chè, pectin thường ở dạng hòa tan trong nước, tan trong axít oxalic, tan trong amon oxalat. Pectin tham gia vào việc tạo thành hương vị chè, làm cho chè có mùi táo chín trong quá trình làm héo. ở mức độ vừa phải, pectin làm cho chè dễ xoăn lại khi chế biến nhưng nó có ảnh hưởng xấu đến quá trình bảo quản chè thành phẩm vì pectin dễ hút ẩm.

Theo số liệu của Gôghia, hàm lượng pectin trong lá chè như sau: mầm và lá thứ nhất: 3,08%, lá thứ hai: 2,63%, lá thứ ba: 2,21%

6) Diệp lục và các sắc tố khác gần nó:

Trong lá chè có chứa diệp lục tố, carotin và xantofin. Các sắc tố này biến động theo giống, theo mùa và các biện pháp kỹ thuật canh tác.

Bảng 7: Hàm lượng các sắc tố trong chè (% chất khô)

Diệp lục tố Mẫu chè

a b

Carotin Xantofin

Lá tươi

Chè đen

0,57

0,30

0,25

0,041

0,064

0,033

0,092

0,013

Trong chè thành phẩm diệp lục tố có ảnh hưởng xấu tới phẩm chất của chè bởi vì làm cho sản phẩm có màu xanh, mùi hăng, vị ngái.

7) Dầu thơm:

Dầu thơm ở trong chè rất ít, hàm lượng của chúng trong lá chè tươi: 0,007% - 0,009% và trong chè bán thành phẩm: 0,024 - 0,025%. Hàm lượng dầu thơm

trong lá chè, được tăng dần ở những địa hình cao, tuổi lá quá non chứa ít hương thơm. Dầu thơm ảnh hưởng trực tiếp đến hương vị của chè do hương thơm tự nhiên và do quá trình chế biến tạo thành như sự lên men, ôxi hóa, tác dụng của độ nhiệt cao.

Dầu thơm có tác dụng điều tiết sinh lý của cây để thích hợp với điều kiện bên ngoài (khi độ nhiệt quá cao hay quá thấp) và ngăn cản những bức xạ có bước sóng ngắn, tác hại đến cây chè. Đối với cơ thể con người dầu thơm có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương làm cho tinh thần minh mẫn, thoải mái dễ chịu nâng cao hiệu suất làm việc của các cơ năng trong cơ thể.

8) Vitamin:

Các loại vitamin có trong chè rất nhiều. Chính vì vậy giá trị dược liệu cũng như giá trị dinh dưỡng của chè rất cao. Theo các tài liệu của Trung Quốc, hàm lượng một số vitamin trong chè tính theo mg/1.000g chất khô như sau:

Vitamin A: 54,6; B1: 0,70; B2: 12,20; PP: 47,0; C: 27,0 v.v...

Đáng chú ý nhất là hàm lượng vitamin C ở trong chè, nhiều hơn trong cam chanh từ 3 đến 4 lần. Quá trình chế biến chè đen làm cho vitamin C giảm đi nhiều vì nó bị ôxi hóa, còn trong chè xanh thì nó giảm đi không đáng kể.

9) Men:

Men là nhân tố quan trọng của sự sống. Men quyết định chiều hướng phát triển của mọi phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể sinh vật và chúng là chất kích động tất cả các biến đổi hóa học.

Trong búp chè non có hầu hết các loại men, nhưng chủ yếu gồm hai nhóm chính:

- Nhóm thủy phân: men amilaza, glucoxidaza, proteaza và một số men khác.

- Nhóm ôxi hóa khử: Chủ yếu là hai loại men: peroxidaza và polifenoloxidaza.

10) Chất tro:

Các nguyên tố tro giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của cơ thể sống, chúng là những nhân tố của sự thay đổi trạng thái các chất keo và ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất của tế bào. Hàm lượng tro trong chè tươi từ 4-5% và trong chè khô từ 5-6%. Trong chè, tro chia thành hai nhóm: hòa tan trong

nước và không hòa tan trong nước. Chè thành phẩm loại tốt, hàm lượng tro ít hơn so với loại chè xấu nhưng tỷ lệ chất tro hòa tan lại nhiều hơn.

CHƯƠNG III

ĐIỀU KIỆN SINH THÁI

ây chè chịu ảnh hưởng rất lớn do tác động của các điều kiện sinh thái trong quá trình sống của nó. Nguyên sản của cây chè ở vùng khí hậu rừng á nhiệt đới. Tuy vậy cây chè cho đến nay đã được phân bố khá rộng rãi, từ 30 vĩ tuyến nam đến 45 vĩ tuyến bắc, là những nơi có điều kiện tự nhiên khác xa với nơi nguyên sản. Trong những điều kiện như vậy, muốn cho cây chè sinh trưởng bình thường và có năng suất phẩm chất tốt phải có trình độ khoa học cao trong canh tác. Những công trình nghiên cứu nhiều năm của Liên Xô cho thấy: sự tạo thành và tích lũy các vật chất khác nhau trong cây, phần lớn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và phân bố theo từng vùng. Tổng hợp các điều kiện ngoại cảnh là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến phẩm chất chè.

Vì vậy, xét đến điều kiện sinh thái của cây chè là đề cập đến những điều kiện sống thích hợp nhất về các mặt. Nắm vững những yêu cầu cụ thể về sinh thái cũng như khả năng thích ứng của cây chè với điều kiện tự nhiên, là một trong những cơ sở khoa học để xác định những biện pháp kỹ thuật trồng trọt thích hợp.

Yêu cầu tổng hợp các điều kiện sinh thái thích hợp cho cây chè là: đất tốt, sâu, chua, thoát nước, khí hậu ẩm và ấm.

Dưới đây, chúng ta xét một số điều kiện sinh thái chủ yếu:

1) Điều kiện đất đai và địa hình:

So với một số cây trồng khác, chè yêu cầu về đất không nghiêm khắc lắm. Song để cây chè sinh trưởng tốt, năng suất cao và ổn định thì đất trồng chè phải đạt những yêu cầu sau: tốt, nhiều mùn, sâu, chua và thoát nước. Độ pH thích hợp cho chè phát triển là 4,5 - 6,0. Đất trồng phải có độ sâu ít nhất là 80 cm, mực nước ngầm phải dưới 1 mét thì hệ rễ mới phát triển bình thường.

- Đất trồng chè của ta ở các vùng Trung du phần lớn là feralit vàng đỏ được phát triển trên đá granit, nai, phiến thạch sét và mica. ở vùng núi phần lớn là đất feralit vàng đỏ được phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét. Về cơ bản những loại đất này phù hợp với yêu cầu sinh trưởng của chè như có độ pH từ 4 đến 5 có lớp đất sâu hơn 1 mét và thoát nước. Những đất này thường nghèo chất hữu cơ nhất là ở các vùng trồng chè cũ.. Vì thế vấn đề bón phân hữu cơ để bổ sung dinh dưỡng cho chè và cải tạo kết cấu vật lý của đất là rất cần thiết. Bên cạnh đó, phải

coi trọng việc bón đủ và hợp lý phân hóa học hàng năm cho chè. Chè là loại cây kỵ vôi, nhiều tài liệu cho biết trong đất trồng chè chỉ có một lượng vôi rất ít, khoảng 0,2% CaCO3 đã làm cây chè bị hại. Bởi thế không bao giờ người ta dùng vôi để bón vào đất trồng chè, trừ trường hợp đất có độ pH quá thấp, dưới 4.

- Quan hệ giữa đất và phẩm chất chè rất phức tạp. Phẩm chất do nhiều yếu tố quyết định và tác dụng một cách tổng hợp. Song trong những điều kiện nhất định thì điều kiện dinh dưỡng của đất có ảnh hưởng rất lớn đến phẩm chất. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy: chè sinh trưởng trên loại đất pha cát, nhiều mùn, thích hợp cho việc chế biến chè xanh: mùi vị hương của chè thành phẩm đều tốt. Chè trồng trên đất nặng màu vàng thì có vị đắng và nước có màu vàng. Chè trồng trên đất xấu hương không thơm, vị nhạt và chất hòa tan ít.

- Địa hình và địa thế có ảnh hưởng rất rõ đến sinh trưởng và chất lượng chè. Thực tiễn ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản cho thấy: chè không trồng trên núi cao có hương thơm và mùi vị tốt hơn chè trồng ở vùng thấp và đồng bằng. Kinh nghiệm nhận thấy chè được chế biến từ nguyên liệu ở núi cao Xrilanca có mùi thơm của hoa mà hương vị đó không thể có được trong chè trồng ở khu vực thấp. Nhiều tác giả ở Liên Xô Kharabava, Đjêmukhatze đã xác định chè trồng ở nơi có địa thế càng cao hơn mặt biển (trong một chừng mực nhất định) thì khuynh hướng tạo thành và tích lũy tanin càng lớn.

Phần lớn các vùng trồng chè có phẩm chất tốt của các nước trên thế giới thường có độ cao cách mặt biển từ 500 đến 800 mét. Vùng chè ngon có tiếng ở Ấn Độ trồng ở độ cao cách mặt biển 2.000 mét. Nghiên cứu của Viện nông học Hồ Nam (1957) cho thấy ảnh hưởng của độ cao so với mặt biển tới hàm lượng tanin trong búp chè như sau:

Bảng 8

Độ cao so với mặt biển

(m) 3 75 113 130 150 260

Hàm lượng tanin

% 23,28 23,28 24,96 25,20 25,66 26,06

Chất lượng chè ở vùng cao tốt nhưng về sinh trưởng thường kém hơn ở vùng thấp. Hướng dốc có ảnh hưởng đến khả năng tích lũy vật chất trong chè. Dogonatze (1969) nhận thấy rằng cường độ tích lũy tanin và vật chất hòa tan phụ thuộc nhiều vào chế độ nhiệt. Ở hướng dốc phía nam hàm lượng tanin và chất hòa tan trong búp chè cao hơn ở hướng dốc phía bắc.

Ở độ vĩ càng cao phẩm chất và sản lượng chè càng có xu hướng giảm thấp. Do độ nhiệt thấp, độ ẩm thấp và ngày dài đã ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng và tích lũy vật chất trong cây chè.

2) Điều kiện độ ẩm và lượng mưa:

Thực vật nói chung muốn hình thành nên một phần vật chất hữu cơ để cấu tạo thành cơ thể của chúng thì chúng phải cần tới 400 phần nước. Chè là loại cây ưa ẩm, là cây thu hoạch búp, lá non, nên càng cần nhiều nước và vấn đề cung cấp nước cho quá trình sinh trưởng của cây chè lại càng quan trọng hơn.

Yêu cầu tổng lượng nước mưa bình quân trong một năm đối với cây chè khoảng 1.500 mm và mưa phân bố đều trong các tháng. Bình quân lượng mưa của các tháng trong thời kỳ chè sinh trưởng phải lớn hơn hoặc bằng 100 mm, nếu nhỏ hơn 100 mm chè sinh trưởng không tốt. Chè yêu cầu độ ẩm không khí cao, trong suốt thời kỳ sinh trưởng độ ẩm không khí thích hợp là vào khoảng 85%.

Lượng mưa và phân bố lượng mưa của một nơi có quan hệ trực tiếp tới thời gian sinh trưởng và mùa thu hoạch chè dài hay ngắn, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng cao hay thấp. Vùng chè Doomđome ở Bắc Ấn Độ lượng mưa phân bố nhiều vào tháng 5 tới tháng 8 cho nên sản lượng chè thu hoạch được trong năm cũng tập trung vào thời kỳ đó. Vùng chè Mlanji (Nam Phi) lượng mưa tập trung vào tháng 11 đến tháng 4 nên sản lượng chè cao nhất trong năm cũng tập trung vào thời kỳ này. Ở ta phân bố sản lượng chè trong năm cũng có quan hệ rõ rệt với tình hình phân bố lượng mưa trong các tháng.

Bảng 9: Quan hệ giữa lượng mưa và sự phân bố sản lượng búp chè

(Tài liệu của trại thí nghiệm chè Phú Hộ)

Tháng 1-2 3-4 5 6 7 8 9 10 11-12

Sản 0,3 7,2 - 1 1 1 13, 1 10, 4,06

lượng chè trong năm (%)

9 5,34 0,35

4,74

6,66

22 6,50

60

Lượng mưa tháng (mm)

50 50 - 100

> 100

vụ thu hoạch chè chủ yếu 50

Tổng lượng mưa bình quân hàng năm ở các vùng trồng chè của nước ta tương đối thỏa mãn cho nhu cầu về nước của cây chè.

(Phú Thọ: 1.747 mm, Hà Giang: 2.156 mm, Plâyku: 2.072 mm, Buôn Mê Thuột: 1.954 mm, Bảo Lộc: 2.084 mm).

Nhưng ở các vùng chè lượng mưa trong năm lại thường tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, cây chè gặp hạn từ tháng 11 đến tháng 3. Thời gian này hạn kết hợp với độ nhiệt không khí thấp là những điều kiện bất thuận cho sự sinh trưởng của cây. Vì vậy, bên cạnh biện pháp chống xói mòn cho chè vào mùa mưa còn cần chú ý đến việc chống hạn giữ ẩm cho chè vào mùa khô. Nghiên cứu về yêu cầu của cây chè đối với độ ẩm, Urusatze, Khamzaep xác định rằng độ ẩm đất thích hợp cho cây chè phát triển là 80 - 85% sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng và độ ẩm không khí thích hợp là 75 - 80% hoặc trên 80%. Thiếu nước, độ ẩm không khí và độ ẩm của đất không đủ thì sức sinh trưởng của búp sẽ yếu, lá trở nên dày và cứng, hình thành nhiều búp mù, phẩm chất kém.

Nước có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và phẩm chất chè. Khi cung cấp đủ nước, cây chè sinh trưởng tốt, lá to mềm, búp non và phẩm chất có xu hướng tăng lên. Những thí nghiệm về tưới nước cho chè ở Liên Xô cho thấy, tùy điều kiện đất đai khí hậu khác nhau mà hiệu quả tăng sản của biện pháp tưới nước cũng khác nhau. Vùng chè Gruzia tưới nước làm tăng sản bình quân 25 - 30%, vùng chè Kraxnoda 60 - 65%, vùng chè Lencôran thuộc Azecbaizan trên 200%. Hiệu quả tăng sản của việc tưới nước cũng rất rõ rệt ở một số nước trồng chè khác như: Trung Quốc (vùng Chiết Giang và Vân Nam) tưới nước làm tăng sản 6,1%. Ấn Độ (vùng Atxam) 60% và ở Tây Phi 217 - 293%. Ở Việt Nam thí

nghiệm tưới nước tại Phú Hộ (1958 - 1960) cũng cho năng xuất búp tăng bình quân 41,5%. Phẩm chất búp chè được tưới nước đều tăng lên rõ rệt so với không tưới.

Bảng 10: So sánh một vài chỉ tiêu sinh hóa chủ yếu của búp chè có tưới

và không tưới nước trên các nền đốn khác nhau

(Nguyễn Ngọc Kính 1970 -1973)

Có tưới nước Không tưới nước Loại

hình đốn Tanin (%) Hòa tan (96) Tanin (%)

Hòa tan (%)

Đốn phớt nhẹ

Đốn phớt

Đốn đau

24,58

23,61

21,23

40.0

38,75

36,98

23,36

22,13

19,41

36,87

36,08

34,43

Tưới nước là một biện pháp tăng sản lượng và phẩm chất rất quan trọng đối với chè. Ngoài biện pháp tưới nước, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật trồng trọt tổng hợp khác như cày đất, làm đất, xới đào, làm cỏ, mật độ và phương thức trồng hợp lý, phủ đất, tủ gốc, chọn giống chịu hạn v.v... để giải quyết tốt nhu cầu nước trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây chè nhằm đạt sản lượng cao, phẩm chất tốt. Kết quả thí nghiệm của trường trung cấp Sông Lô tại Nông trường Tân Trào và Tháng Mười cho thấy tủ gốc làm cho độ ẩm của lớp đất mặt (0 - 20 cm) và ở các lớp đất dưới nhiều hơn 5 - 6% và 3 - 4% so với đối chứng (không tủ gốc), năng suất búp chè tăng từ 15,6 đến 19,6%.

3) Điều kiện độ nhiệt không khí:

Để sinh trưởng phát triển tốt, cây chè yêu cầu một phạm vi độ nhiệt nhất định. Theo nghiên cứu của Kvaraxkhêlia (1950) và Trang Vãn Phương (1956) thì cây chè bắt đầu sinh trưởng khi độ nhiệt trên 10oC. Độ nhiệt bình quân hàng năm để cây chè sinh trưởng phát triển bình thường là 12,5oC và sinh trưởng tốt trong phạm vi 15 - 23oC. Giới hạn độ nhiệt thấp đối với sinh trưởng của chè biểu hiện rõ rệt qua thời kỳ ngừng sinh trưởng trong mùa đông và sinh trưởng trở lại

khi có độ nhiệt ấm áp của mùa xuân trong những vùng khí hậu á nhiệt đới. Đối với sinh trưởng của cây trong thời kỳ này thì độ nhiệt không khí trở thành nhân tố sinh thái chủ yếu. Cây chè yêu cầu lượng tích nhiệt hàng năm 3.500 - 4.000oC. Độ nhiệt tối thấp tuyệt đối mà cây có thể chịu đựng được thay đổi tùy theo giống, có thể từ -5oC đến -25oC hoặc thấp hơn.

Nghiên cứu của Trường Đại học Nông nghiệp Chiết Giang cho thấy độ nhiệt thích hợp đối với cây chè là 20 - 30oC, nếu độ nhiệt tăng dần, thì tác dụng xúc tiến việc hình thành và tích lũy tanin trong lá chè biểu hiện rất rõ rệt. Độ nhiệt quá thấp hoặc quá cao đều giảm thấp việc tích lũy tanin. Độ nhiệt cao quá 35oC thì quá trình tích lũy tanin bị ức chế và nếu độ nhiệt trên 35oC kéo dài liên tục, chè sẽ bị cháy lá. Ngược lại khi độ nhiệt giảm thấp sẽ dẫn đến một loạt biến đổi về cơ năng sinh lý thành phần hóa học của búp chè, ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng của cây và phẩm chất búp. Độ nhiệt thấp và khô hạn là nguyên nhân hình thành nhiều búp mù.

Độ nhiệt là một trong những nhân tố chủ yếu chi phối sự sinh trưởng của búp và quyết định thời gian thu hoạch búp trong chu kỳ một năm. Từ 16 độ vĩ nam đến 19 độ vĩ bắc, không có hai mùa nóng lạnh rõ rệt, cây chè sinh trưởng quanh năm do đó búp cũng được thu hoạch quanh năm. Từ 20 độ vĩ bắc đến 45 độ vĩ bắc, độ nhiệt mùa đông xuống thấp, sinh trưởng và thu hoạch chè đã có mùa rõ rệt. Trong những vùng này nơi nào độ nhiệt bình quân mùa đông càng thấp càng kéo dài thì thời gian sinh trưởng và thu hoạch búp chè ở đó càng ngắn.

Bảng 11: Ảnh hưởng của độ nhiệt đến thời gian thu hoạch búp

Nhiệt độ trung bình (oC)

Vùng

Độ cao so với

mặt biển (m)

Vĩ tuyến

bắc

Tháng 1

Tháng 6

Thời gian thu

hoạch búp (tháng)

Pô chi (Liên Xô)

Tocklai (Ấn

0

87

42

31

8

16

23

28

5 - 6

8 - 9

Độ)

Phú Hộ (Vĩnh Phú)

Karicho (Kênia)

30

1800

22

0

18

17

28

17

10

12

4) Điều kiện ánh sáng:

Cây chè ở vùng nguyên sản sinh sống dưới tán rừng rậm, do vậy có tính chịu bóng rất lớn, nó tiến hành quang hợp tốt nhất trong điều kiện ánh sáng tán xạ. ánh sáng trực xạ trong điều kiện độ nhiệt không khí cao, không có lợi cho quang hợp và sinh trưởng của chè. Trong thực tế sản xuất, ở một số nước như Ấn Độ, Xrilanca thường áp dụng biện pháp trồng cây bóng mát cho chè để hạn chế độ nhiệt cao và ánh sáng quá mạnh.

Yêu cầu của cây chè đối với ánh sáng cũng thay đổi tùy theo tuổi cây và giống. Chè ở thời kỳ cây con yêu cầu ánh sáng ít hơn, cho nên ở vườn ươm, người ta thường che râm để đạt tỷ lệ sống cao và cây sinh trưởng nhanh. Giống chè lá to yêu cầu ánh sáng ít hơn giống chè nhỏ.

Các điều kiện chiếu sáng khác nhau có ảnh hưởng đến cấu tạo của lá và thành phần hóa học của chúng.

Bảng 12: Sự biến đổi thành phần hóa học của búp chè trong điều kiện có che râm (% chất khô) (% chất khô)

Ngày 30 - 4 Ngày 26 - 5 Thời gian

Công thức thí nghiệm Công thức thí nghiệm

Thành phần sinh hóa Che râm

Không che râm

Che râm

Không che râm

Tanin

Cafein

N tổng số

10,03

4,62

7,05

12,75

3,76

6,03

8,11

3,43

5,84

8,28

2,78

4,22

Cây chè được che bóng râm, hàm lượng các vật chất có đạm (cafein, N tổng số, protein...) trong búp và lá tăng lên và tích lũy nhiều hơn; các chất không có N (tanin, gluxit...) lại có chiều hướng giảm xuống. Sự giảm thấp tanin, gluxit... và tăng hàm lượng các vật chất có đạm trong lá chè ở một mức độ nhất định thường có lợi cho phẩm chất chè xanh và không có lợi cho phẩm chất chè đen. Vì vậy, trồng cây bóng mát cho chè thường áp dụng cho những vùng trồng chè sản xuất nguyên liệu để chế biến chè xanh.

Do cường độ ánh sáng có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng, phẩm chất chè cho nên điều tiết cường độ ánh sáng có thể làm cho năng suất chè tăng lên rõ rệt. Những kết quả nghiên cứu tại Trại thí nghiệm chè Tocklai (Ấn Độ) cho thấy: giảm độ chiếu sáng xuống 30% thì sản lượng búp tươi trong năm đầu tăng 34% so với xử lý cường độ chiếu sáng hoàn toàn và giảm độ chiếu sáng xuống 50% thì năng suất đạt cao nhất. Song nếu tiếp tục giảm cường độ chiếu sáng xuống dưới 50% thì năng suất bắt đầu giảm thấp.

Ánh sáng còn có quan hệ đến giai đoạn phát dục của cây chè: theo các tài liệu nghiên cứu của Liên Xô thì giống chè Ấn Độ và giống lai Trung - Ấn nguyên sản ở vùng ngày ngắn, sinh trưởng trong điều kiện Gruzia (Liên Xô) ngày dài, không thể hoàn thành giai đoạn ánh sáng cho nên không ra hoa kết quả. Song giống Trung Quốc lá nhỏ đã thích ứng với điều kiện ngày dài, cho nên trồng ở Gruzia vẫn ra hoa kết quả.

5) Không khí:

Không khí rất cần cho sự sống của thực vật. Hàm lượng CO2 trong không khí khoảng 0,03%, song chỉ cần có một biến động nhỏ cũng ảnh hưởng rất lớn đến quang hợp. Chè là một cây ưa bóng râm, cường độ quang hợp cũng thay đổi theo hàn lượng CO2 có trong không khí. Nói chung hàm lượng CO2 trong không khí tăng lên đến 0,1 - 0,2% thì cường độ quang hợp tăng lên rất rõ rệt.

Không khí lưu thông tạo thành gió. Gió nhẹ và có mưa có lợi cho sự sinh trưởng của chè vì nó có tác dụng điều hòa cân bằng nước của cây. Những nơi độ ẩm không khí quá cao, phát tán khó; gió nhẹ sẽ làm cho nước dễ thoát hơi, nước và chất dinh dưỡng trong đất tiếp tục vận chuyển lên trên. Mặt khác gió nhẹ có tác dụng làm cho lượng CO2 phân bố đều, có lợi cho quang hợp.

Gió to không những làm cho cây bị tổn thương cơ giới, mà còn phá vỡ cân bằng nước của cây. Cường độ thoát hơi nước lớn, nước trong đất cung cấp không đủ, cây bị héo. Mặt khác gió to khí khổng sẽ đóng lại, không thể tiến

hành quá trình quang hợp. Mùa đông độ nhiệt thấp nếu có gió to thì chè bị hại nhiều vì rét. Gió to khi chè ra hoa còn ảnh hưởng đến hoạt động thụ phấn của côn trùng.

Để giảm tác hại của gió, người ta áp dụng các biện pháp như chọn đất nơi kín gió, trồng rừng hoặc vành đai phòng hộ. Chọn giống chè thấp cây và trồng dày hợp lý...

Ở Việt Nam tác hại của gió không lớn, song nói chung ở các vùng có gió Lào cần tùy điều kiện cụ thể mà xét đến việc áp dụng các biện pháp trồng rừng hoặc trồng vành đai phòng chắn gió.

CHƯƠNG IV

CHỌN GIỐNG CHÈ

ử dụng giống tốt trong nông nghiệp là phản ảnh trình độ sản xuất nông nghiệp của một nước và của mỗi thời kỳ khác nhau. Đối với ta, chọn giống chè còn có nhiều ý nghĩa: đào thải các giống chè bị lẫn tạp do cách trồng trước đây, phục tráng giống đã già cỗi và đồng thời nhanh chóng đưa ra sản xuất những loại hình tốt.

I- ĐẶC ĐIỂM CÔNG TÁC CHỌN GIỐNG CHÈ

Chè là cây trồng lâu năm thời gian sinh trưởng rất dài, những đặc trưng về sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực biểu hiện rất khác nhau, do đó việc nghiên cứu giống chè cần phải kiên trì và lâu dài.

Chu kỳ phát dục của chè dài, quá trình phát dục của cây chè bị điều kiện ngoại cảnh chi phối rất mạnh. Công tác chọn giống cần phải tạo những loại hình thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, kỹ thuật quản lý và chăm sóc.

Việc đánh giá phẩm chất chè phải trải qua nhiều khâu như giống, kỹ thuật nông nghiệp, chế biến... cho nên phải đánh giá thật khách quan mới phản ánh đúng tính chất của từng giống.

II- TIÊU CHUẨN GIỐNG CHÈ TỐT

1) Chỉ tiêu sinh trưởng:

Yêu cầu chọn những giống có khả năng phân cành mạnh, tán cây thấp. Cây sinh trưởng khỏe và có khả năng thích ứng mạnh với điều kiện ngoại cảnh. Về hình thái lá: lá to mềm, có nhiều gợn sóng, màu xanh sáng. Mật độ búp trên tán cao và trọng lượng búp cao. Thời gian sinh trưởng hàng năm của cây dài.

2) Chỉ tiêu sản lượng:

Các giống chè đều có sự sai khác rất rõ về sản lượng. Ví dụ trong điều kiện của ta, giống chè Kỳ Môn (thuộc loại camellia var. bohea) thường cho năng suất thấp hơn nhiều so với giống chè Trung Du (camellia var. macrophylla). Ở Trung Quốc cho thấy chọn giống tốt tăng sản 127% so với đối chứng. Ở Liên Xô kết quả nghiên cứu 17 năm cho thấy giống Gruzia 1 tăng hơn giống địa phương 27,3%, giống Gruzia 2 tăng hơn giống địa phương 47,7%.

Một giống chè tốt phải có sản lượng thật cao và ổn định. Năng suất của giống mới phải cao hơn giống địa phương 15%.

3) Tiêu chuẩn phẩm chất:

Phẩm chất được phản ánh rất rõ ở mỗi giống. Kết quả nghiên cứu ở nước ta cho thấy giống chè Shan thường có phẩm chất cao hơn các giống chè khác. Theo tài liệu của Trung Quốc: giống Vân Nam lá to hàm lượng tanin là 25,9%, vật chất hòa tan 44%, giống Đại bạch trà hàm lượng tanin và chất hòa tan tương ứng là 20,3 và 47,3%.

Một giống chè được lựa chọn tốt, phải có hàm lượng tanin cao hơn đối chứng từ 1 - 3%, hàm lượng chất hòa tan cao hơn đối chứng 2 - 3%.

4) Chỉ tiêu về tính chống chịu:

Giống là biện pháp cơ bản nhất và kinh tế nhất đối với chỉ tiêu về tính chống chịu. Do phương pháp lai tạo và lựa chọn giống tốt, ở Liên Xô đã có những nhóm giống thích hợp với từng vùng khí hậu. Ví dụ: các giống Gruzia số 1, 2, 3, 4, 5, 15 và 16 được trồng ở niền nam của vùng chè Liên Xô chịu nhiệt độ mùa đông không thấp dưới -8oC. Các giống Gruzia số 6, 10 và 11 có tính chịu rét tốt hơn, có thể trồng ở các vùng có nhiệt độ mùa đông -15oC. Giống Gruzia số 7, 8 và 12 chịu rét tốt nhất, có thể trồng ở những nơi độ nhiệt mùa đông -20 đến -25oC trong điều kiện tán chè có phủ một lớp tuyết dày.

Giống chè tốt phải có khả năng thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, phải có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và chống hạn chống rét tốt.

III- NỘI DUNG ĐIỀU TRA THU THẬP GIỐNG CHÈ

Cây chè ở nước ta đã được trồng trọt từ lâu đời. Điều kiện khí hậu đất đai ở các tỉnh Trung du, miền núi phía bắc cũng như các tỉnh Lâm Đồng, Gialai Kontum (phía nam) rất thích hợp với sự sinh trưởng phát dục của chúng. Mỗi địa phương đều có những tập đoàn giống thích ứng với điều kiện tự nhiên và địa hình ở nơi đó. Nguồn giống chè của ta rất phong phú, nhưng chưa được khai thác và sử dụng hết. Vì vậy điều tra, thu nhập giống hiện nay vẫn là một công việc rất quan trọng trong công tác chọn giống chè.

Nội dung điều tra và thu thập giống chè bao gồm những điểm chính như sau:

a. Nguồn gốc phân bố

- Tên địa phương.

- Nguồn gốc (cây đã sinh, giống của địa phương hay nhập nội từ đâu đến, năm nào?).

- Địa điểm điều tra thu nhập.

- Diện tích gieo trồng và tỷ lệ phần trăm diện tích gieo trồng giống.

b. Đặc điểm sinh vật học

1) Tuổi của cây chè, vườn chè:

2) Phương thức trồng (bằng hạt hay bằng cành...)

3) Thân và cành:

- Chiều cao cây: chọn 10 - 12 cây tiêu biểu (điển hình cho giống) đo từ mặt đất đến ngọn cây hay bề mặt tán cây.

- Chiều rộng tán cây: đo lấy số liệu trung bình của hai chiều rộng nhất và hẹp nhất (theo hình chữ thập) của tán cây (đo 10 - 20 cây).

- Độ cao phân cành: tính từ mặt đất đến nơi phân cành đầu tiên (đo 10 - 20 cây).

- Góc độ phân cành.

- Mật độ phân cành: chia thành 3 loại: dày, thưa, trung bình.

- Chiều dài của đốt cành: chọn 5 - 10 cây, mỗi cây 5 cành, đo chiều dài của khoảng cách giữa hai lá ở đoạn giữa cành.

4) Lá chè:

Chọn lá ở phần giữa của cành (lá đã trưởng thành) đo 100 đến 200 lá để xác định các chỉ tiêu sau:

- Chiều dài phiến lá: đo từ cuống đến đỉnh lá.

- Chiều rộng phiến lá: đo chỗ rộng nhất của lá.

- Số đôi gân chính.

- Răng cưa của lá (số đôi, phân bố dày hay thưa, hình dạng răng cưa).

- Hình dạng đuôi lá (nhọn, dài, tròn...).

- Màu sắc lá: xanh đậm, xanh nhạt, xanh vàng...

- Thịt lá: lá dày, mỏng, cứng, mềm.

- Mặt lá: nhẵn bóng hay thô.

- Thế lá mọc: đứng, xiên, nằm ngang, chúc.

5) Nụ hoa quả và hạt:

- Thời gian hình thành nụ.

- Thời gian hoa bắt đầu nở và nở rộ.

- Đặc điểm thực vật học của hoa: (số nhị đực, nhị cái, cánh hoa, đường kính của hoa khi nở).

- Tỷ lệ đậu quả.

- Thời gian quả chín. Năng suất thu hoạch quả (kg/ha).

- Tỷ lệ số quả có 1 hạt, 2 hạt và 3 hạt.

- Tỷ lệ hạt/quả.

- Trọng lượng trung bình 100 hạt.

- Tỷ lệ phần trăm hạt có đường kính ? 12mm.

6) Búp chè:

- Màu sắc của búp: xanh, vàng, tím...

- Lông nhung (tuyết): nhiều, ít, trung bình.

- Thời gian bắt đầu sinh trưởng (nảy búp) vụ xuân.

- Thời gian bắt đầu ngừng sinh trưởng (vụ đông).

- Chiều dài và trọng lượng trung bình búp 1 tôm 2 lá (đo 100 búp).

- Chiều dài và trọng lượng trung bình búp 1 tôm 3 lá (đo 100 búp).

- Tỷ lệ phần trăm búp mù qua các tháng.

- Mật độ búp trên một đơn vị diện tích (25 X 25 cm).

- Tỷ lệ phần trăm sản lượng búp qua các tháng trong một năm.

7) Thành phần sinh hóa:

- Lấy mẫu búp 1 tôm 2 lá, 1 tôm 3 lá, diệt men bằng nồi hấp "Kox" trong 2 - 3 phút sấy khô ở độ nhiệt 70 - 80oC. Phân tích các chỉ tiêu sinh hóa: tanin, cafein, đường, đạm, chất hòa tan v.v...

- Lấy mẫu chế biến, thử nếm bằng phương pháp cảm quan.

- Lấy mẫu quả và hạt phân tích thành phần sinh hóa của hạt.

8) Lực chống chịu của cây:

Bao gồm tính chịu hạn, chịu lạnh và chống chịu sâu bệnh. Chia làm 3 cấp: mạnh, yếu và trung bình.

c. Các điều kiện sinh thái

1) Đất đai địa hình:

- Loại đất, thành phần lý hóa tính.

- Độ sâu tầng canh tác.

- Độ cao so mặt biển.

- Hướng dốc.

- Độ vĩ.

2) Điều kiện thời tiết khí hậu:

- Độ nhiệt trung bình các tháng trong năm, độ nhiệt tối cao, tối thấp.

- Sương muối, số lần và thời gian xuất hiện nếu có.

- Lượng mưa trung bình hàng tháng.

- Hướng gió thịnh hành qua các mùa.

- Đặc điểm kỹ thuật làm đất, bón phân.

- Mật độ, khoảng cách.

- Số lượng hạt gieo/ha.

- Các đặc điểm kỹ thuật, quản lý chăm sóc: làm cỏ, bón phân, đốn, hái, phòng trừ sâu bệnh.

IV- PHƯƠNG PHÁP CHỌN GIỐNG CHÈ

Trong phạm vi giáo trình không trình bày các phương pháp lai tạo giống như lai hữu tính, lai vô tính mà chỉ giới thiệu các phương pháp lựa chọn giống.

1) Lựa chọn hỗn hợp:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn hỗn hợp (hình)

Nội dung của phương pháp này là chọn cây tốt trong quần thể nguyên thủy. Hạt được lựa chọn ở những cây tốt đem hỗn hợp lại, các năm sau đem giao chung và giám định so sánh giống.

Phương pháp này có ưu điểm là giữ được đặc tính tốt của giống, đơn giản, dễ làm và không cần những trang bị nghiên cứu phức tạp, thời gian tiến hành khảo nghiệm giống ngắn. Khuyết điểm của phương pháp này là: hiệu quả thấp vì chọn hỗn hợp rất khó phân biệt tách riêng được tính di truyền của cây đời sau. Đối với quần thể phức tạp dễ lựa chọn, nhưng đối với quần thể đã qua lựa chọn rồi thì rất khó phân biệt. Mặt khác, đối với những đặc tính kinh tế không có lợi hoặc có quan hệ không chặt chẽ thì hiệu quả lựa chọn sẽ không rõ.

2) Lựa chọn tập đoàn:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn tập đoàn

Thực chất của phương pháp này là lựa chọn hỗn hợp nhưng khác ở chỗ là từ quần thể nguyên thủy tìm ra những nhóm có đặc tính khác nhau, sau đó tiến hành lựa chọn hỗn hợp ở những nhóm đã được phân lập. Phương pháp này tạo được những loại hình tốt nhất trong một tập đoàn nguyên thủy. Đối với quần thể hữu tính phức tạp, phương pháp này lựa chọn nhanh và tốt.

3) Lựa chọn cá thể:

Sơ đồ hệ thống lựa chọn cá thể

Phương pháp này nhằm chọn những hạt hoặc cành riêng theo từng dòng, rồi quan sát so sánh đặc điểm từng cá thể. Phương pháp này có nhiều ưu điểm, dùng phổ biến trong công tác chọn giống, nó khắc phục được khuyết điểm của phương pháp lựa chọn hỗn hợp là giám định được cá thể mà tính di truyền tốt

xấu chưa biểu hiện rõ. Trong sản xuất thường lựa chọn cá thể bằng phương pháp cắm cành.

CHƯƠNG V

KỸ THUẬT TRỒNG CHÈ VÀ QUẢN LÝ, CHĂM SÓC NƯƠNG CHÈ

I- KỸ THUẬT TRỒNG CHÈ

Kỹ thuật trồng chè bao gồm nhiều khâu như: trồng mới, chăm sóc quản lý đốn chè, thu hoạch chè v.v... Mỗi khâu kỹ thuật đều có những đặc điểm riêng biệt. Dưới đây là những điển chung cần chú ý:

- Trồng chè để thu hoạch búp và lá non làm nguyên liệu chế biến chè thương phẩm (trừ những vùng trồng chè lấy lá xanh để uống). Ngoài yếu tố giống và địa hình, mọi biện pháp kỹ thuật trồntg trọt được áp dụng trong quá trình sản xuất chè đều có ảnh hưởng rất lớn đến phẩm chất chè nguyên liệu, do đó có liên quan đến phẩm chất chè thành phẩm. Đó là một đặc điểm trong sản xuất chè khác với các cây trồng khác.

- Đất trồng chè thường ở vùng trung du và miền núi có độ dốc cao, địa hình phức tạp cho nên vấn đề cơ giời hóa và sử dụng những công cụ cải tiến trong canh tác thường gặp nhiều khó khăn. Song nghiên cứu cơ giới hóa trong sản xuất chè nhằm giảm bớt lao động là một vấn đề rất cần thiết, nhất là trong điều kiện sản xuất lớn. Mặt khác, chè thường trồng ở đất đồi núi có độ dốc cao nên phải chống xói mòn và rửa trôi đất. Biện pháp canh tác không hợp lý không chú ý tới vấn đề bảo vệ đất chống xói mòn, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng của cây về sau. Biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất, phải là biện pháp canh tác tổng hợp có hệ thống, lâu dài và phải thấy trước.

- Chè là một cây trồng sống nhiều năm, đời sống kinh tế của nó vào khoảng 30 - 40 năm hoặc lâu hơn nữa. Do vậy, những biện pháp canh tác cơ bản ban đầu trong khâu trồng mới như: làm đất, xác định khoảng cách mật độ, xây dựng hệ thống đường đi lại vận chuyển, phương thức trồng... đều phải được chú ý toàn diện và đầy đủ ngay từ khi lập quy hoạch thiết kế, những biện pháp cơ bản này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng của cây trồng và các biện pháp quản lý chăm sóc về sau.

* Kỹ thuật trồng chè bằng hạt

Có nhiều phương pháp trồng chè, hiện nay trồng bằng hạt là phương pháp phổ biến nhất. Tùy hoàn cảnh tự nhiên, trình độ và điều kiện canh tác ở mỗi nơi mà có thể trồng chè bằng hạt theo những phương pháp khác nhau: gieo hạt qua

vườn ươm rồi bứng cây con ra trồng; gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất; hoặc gieo hạt vào giỏ, vào bầu đất làm sẵn để tiện chăm sóc quản lý cây con ở những nơi điều kiện tự nhiên khó khăn.

Trồng chè qua giai đoạn vườn ươm có những ưu điểm như: tiết kiệm được hạt giống, tiện lợi cho chăm sóc, quản lý cây con tạo điều kiện sản xuất được cây con tốt, khỏe và đồng đều, có thể đợi đất trồng chưa chuẩn bị xong hoặc dùng để trồng dặm vườn chè mới, bị mất khoảng hay vườn chè già cũ phục hồi. Song so với phương pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất, thì phương pháp gieo hạt qua vườn ươm đòi hỏi kỹ thuật canh tác chăm bón cao, giá thành cao, công vận chuyển cây con lớn, sau khi bứng trồng ra ruộng trong giai đoạn đầu cần phải quản lý chăm sóc rất chu đáo mới đạt tỷ lệ sống cao, ít mất khoảng.

Phương pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất có nhiều thuận lợi và ưu điểm: kỹ thuật gieo trồng dễ làm, ít tốn công, quản lý chăm sóc sau khi gieo cũng giản đơn, giá thành kinh tế thấp, ít tốn kém.

Hiện nay, trong kỹ thuật trồng chè mới phần lớn đều áp dụng phương pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất.

Nội dung kỹ thuật trồng chè bằng phương pháp gieo thẳng hạt ra ruộng sản xuất như sau:

1) Chọn đất và thiết kế khai hoang:

Cần lựa chọn những loại đất phù hợp với yêu cầu sinh lý của cây chè, chọn những đồi có độ dốc 8-10o là thích hợp; đồi dốc trên 30o nên dùng để trồng rừng.

Trước khi tiến hành thiết kế khai hoang phải xác định phạm vi ranh giới khu vực khai hoang, tránh không xâm phạm đến rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng gỗ quý hoặc tổn hại đến các nguồn tài nguyên khác của quốc gia (hầm mỏ, di tích lịch sử...) và phải có đầy đủ các tài liệu cơ bản như: quy hoạch sử dụng đất, phân loại rừng, độ dốc, tầng dày lớp đất canh tác, thảm thực vật, mức độ đá ngầm, hầm hố, u mối v.v...

Yêu cầu thiết kế khu khai hoang phải:

- Phù hợp với quy mô tổ chức sản xuất, cần chú ý đến những vấn đề quy hoạch thủy lợi, giao thông, đai rừng v.v... để tránh những bất hợp lý thường xảy ra. Cũng cần chú ý đến các mối liên hệ tương quan về dân sinh kinh tế.

- Đất không nằm trong diện tích quy hoạch dùng để sản xuất thì không được khai hoang.

2) Thiết kế khu vực sản xuất:

a) Bố trí mặt bằng khu ruộng đồi:

Bố trí mặt bằng khu ruộng đồi là thể hiện việc bố trí tổng thể vị trí các công trình và mối liên hệ tương quan giữa chúng, nhằm thỏa mãn các yêu cầu của thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và yêu cầu quản lý đến từng đơn vị sản xuất đề ra. Vì vậy, khi bố trí phải xét và thể hiện thật đầy đủ các mặt quy hoạch của toàn khu: phương thức canh tác hiện nay và tương lai, hệ thống đai rừng phòng hộ, hàng rào bảo vệ, hệ thống công trình giữ ẩm, giữ nước hoặc thoát nước, giữ màu, giữ đất, chuồng trại chăn nuôi, hầm ủ phân và chứa phân... trên bản vẽ mặt bằng. Bố trí mặt bằng tổng thể phải thể hiện việc giải quyết đầy đủ các mối liên hệ và tương quan đó với phương án tối ưu. Phải vận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên và công trình sẵn có để giảm vốn đầu tư và tăng hiệu quả sử dụng đất đai. Thiết kế từng đồi chè phải nằm trong thiết kế chung của toàn vùng.

b) Thiết kế hàng chè và lô chè:

Thiết kế hàng chè (theo hướng cơ giới hóa bằng máy kéo nhỏ và công cụ cải tiến) nơi dốc dưới 6o (dốc cục bộ có thể lên tới 8o), làm hàng thẳng dài nhất, song song với bình độ chính. Với tốc độ 6o theo bình độ, làm gờ tầng hoặc rãnh rộng sau chuyển thành bậc thang hẹp hoặc làm ngay bậc thang hẹp. Hàng cụt xếp xen kẽ và tập trung thành nhóm số chẵn.

Để phù hợp với yêu cầu quản lý chăm sóc và thâm canh, diện tích lô chè thích hợp là 2 ha với chiều dài lô là 200m.

c) Thiết kế mạng lưới giao thông trong nội bộ khu sản xuất:

Các loại đường trong nội bộ khu vực sản xuất gồm có:

+ Đường trục chính: nối liền giữa khu trung tâm với các cơ sở sản xuất cơ sở kinh tế xã hội khác. Nó chính là đường trục của nông trường hoặc là đường liên xã, liên thôn ở địa phương dùng để chuyên chở các loại sản phẩm xuất ra và vật tư hàng hóa nhập vào. Đường trục chính xuyên giữa khu chè, bề rộng mặt đường 5 - 6m, độ dốc mặt đường 5o, hai bên mép đường trồng cây, có hệ thống nước rãnh bên.

+ Đường liên đồi, liên lô: Nối đường trục chính với các đồi hoặc nối các đồi với nhau, nối liền các lô với nhau. Loại đường này dùng để chuyên chở các sản phẩm thu hoạch, phân, giống ra đồng. Bề rộng mặt đường 4 - 5m, độ dốc mặt đường 6o, độ nghiêng vào trong đồi 6o, mép ngoài trồng cây.

+ Đường liên đồi và đường quanh đồi, nối liền đường liên đồi lên đỉnh đồi. Cứ 30 - 50m theo đường dốc có một đường quanh đồi. Đường lên đồi thường là hình xoắn ốc, bế rộng mặt đường 3 - 4m, độ dốc mặt đường 8o, độ nghiêng vào trong đồi 5o, có mương thoát nước, có vòng xe quay ở ngã ba. Bình độ quanh đồi nghiêng vào trong đồi 6 - 7 độ.

+ Đường lô: ở liền lô sản xuất, cách nhau 200m, đảm bảo vận chuyển chăm sóc trong lô. Bề rộng mặt đường 2,5 - 3,0m.

+ Đường chăm sóc phụ, cách nhau 50 - 70m cắt ngang hoặc cắt chéo hàng chè (nơi có độ dốc trên 6o), mặt đường rộng 1,2 - 1,3m.

d) Thiết kế đai rừng phòng hộ:

Đai rừng phòng hộ trên đồi nhằm làm giảm sức gió, hạn chế tác hại của gió bão đối với cây trồng, ngăn chặn sâu bệnh lan tràn, hạn chế lai giống hỗn tạp, giữ ẩm, chống xói mòn, chống sương muối, điều hòa khí hậu, bảo vệ các công trình mương, bờ đường, cung cấp gỗ củi, hoa quả và làm cây bóng mát. Cứ 200 - 500m bố trí một đai rừng chặn hướng gió chính, rộng 5 - 10m, kết cấu thoáng.

Ngoài các nội dung thiết kế trình bày trên đây, cứ 5 - 10 ha chè cần làm một lán trú mưa nắng, cạnh lán có bể chìm chứa nước, bảo đảm mỗi hecta chè có 1m3 nước để pha thuốc trừ sâu bệnh và trừ cỏ dại. Cứ 2 - 3 ha chè có một hố ủ phân hữu cơ.

3) Làm đất và bón phân lót:

Việc làm đất trồng chè phải đạt yêu cầu sâu, sạch, ải, vùi lớp đất mặt có nhiều hạt cỏ xuống dưới, san ủi những dốc cục bộ.

Cày sâu lật đất 40 - 45cm, bừa san, rạch hàng sâu 15 - 20cm, rộng 20 - 25cm. Trường hợp không thể cày sâu được thì phải rạch hàng sâu 40 - 45cm.

Rạch hàng xong bón phân lót 20 - 30 tấn phân hữu cơ và 100 kg P2O5 cho 1 ha, trộn phân vào đất trồng.

Đất được cày bừa bón phân lót trước khi gieo hạt chè khoảng nửa năm là tốt nhất. Đất chuẩn bị xong thường trồng các cây bộ đậu, cây phân xanh để tăng

thêm thu nhập (đậu, đỗ, lạc...) tăng thêm lượng phân xanh, đồng thời chống xói mòn do mưa lũ và cỏ dại phát triển. Trường hợp khai hoang làm đất không kịp, có thể làm chậm, song ít nhất cũng cần hoàn thành làm đất và bón phân lót trước khi gieo hạt chè một tháng.

4) Kỹ thuật gieo hạt chè:

Trồng chè phải chú ý đến khu chuẩn bị hạt giống vì đặc điểm của hạt chè là dễ mất sức nảy mầm và khó bảo quản được lâu. Chỉ thu hoạch quả giống ở những cây chè trên 5 tuổi, sinh trưởng khỏe, có năng suất cao, phẩm chất tốt và ít sâu bệnh. Chất lượng hạt chè có ảnh hưởng lớn đến sức nảy mầm và tỷ lệ nảy mầm. Tiêu chuẩn hạt chè tốt là phải có khả năng nảy mầm trên 75%, hàm lượng nước trong hạt 25 - 38% đường kính hạt chè ? 12mm. Kết quả nghiên cứu của Makhaloblize (1969) cho thấy tiêu chuẩn hạt đã ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm như sau:

Bảng 13

Loại hạt Đường kính hạt (mm)

Trọng lượng 1000 hạt (g)

Số hạt trong 1kg

Tỷ lệ nảy mầm %

85

73

63

Hạt theo tiêu chuẩn

Hạt không đúng tiêu chuẩn

Hạt lép (thải loại)

13,4

11,6

Rất nhỏ

1.384

843

745

722

1.186

1.342

Trước khi gieo cần xử lý hạt để xúc tiến quá trình nảy mầm. Xử lý hạt trước khi gieo có khả năng rút ngắn thời gian nảy mầm, hạt nảy mầm đồng đều, cây khỏe mạnh. Cách xử lý hạt thường là ngâm hạt vào nước khoảng 12 - 24 giờ, sau đó sắp từng lớp hạt dày 7 - 10 cm, trên mỗi lớp hạt rải lên một lớp cát dày 5cm mỗi ngày tưới nước một lần để giữ độ ẩm thương xuyên, độ nhiệt thích hợp là 20 - 25oC, khi có khoảng 50% số hạt nứt nanh thì đem gieo.

Thời vụ gieo hạt chè chủ yếu phụ thuộc vào thời vụ quả chín. Thường gieo hạt vào đầu tháng 10 đến hết tháng 11. Gieo trong thời kỳ này phù hợp với đặc

điểm sinh lý của hạt, tăng được tỷ lệ nảy mầm. Mặt khác thời kỳ này không có những trận mưa lớn làm lấp rãnh chè, do đó tạo điều kiện tốt cho hạt nảy mầm ra khỏi đất. Nhưng cũng trong thời này thường gặp điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi như hạn và rét kéo dài cho nên cần chú ý chống hạn và giữ ẩm cho hạt chè. Vùng gió Lào, chấm dứt gieo đầu tháng 11.

Số lượng hạt gieo cho một hecta từ 200 - 250kg (tương đương với 400 - 500kg quả).

Khoảng cách và mật độ trồng chè tùy thuộc vào địa hình và độ dốc. Để thích hợp cho việc áp dụng các khâu cơ giới hóa trong quá trình chăm sóc quản lý cũng như thu hoạch, ở những đồi dốc dưới 20o thường trồng theo khoảng cách 1,75 x 0,50m, ở độ dốc trên 20o trồng với khoảng cách 1,50 x 0,40m.

Hạt chè được gieo thành từng cụm, mỗi cụm 5 - 6 hạt, gieo sâu 3 - 5cm. Gieo hạt xong lấp đất nhỏ lên hạt, giậm chặt cho hạt tiếp xúc hoàn toàn với đất, tủ rơm rạ hoặc các nguyên liệu phủ đất khác lên rãnh để chống mưa to xói hạt, giữ ấm và ẩm cho đất.

* Kỹ thuật trồng chè bằng cành

Trong sản xuất chè, ngoài phương pháp trồng chè bằng hạt ra còn có khả năng trồng chè bằng phương pháp vô tính, tức là dùng các cơ quan dinh dưỡng để gây thành cây con rồi đem trồng. Phương pháp vô tính có thể ứng dụng được đối với sản xuất chè là cắm cành (thân, lá, rễ...) áp cành, chia cây và ghép tiếp... trong thực tế phương pháp cắm cành được ứng dụng rộng rãi nhất.

Phương pháp trồng chè bằng cành có những ưu điểm nổi bật như sau:

- Diện tích trồng chè mới của nước ta đang được chú ý mở rộng. Một trong những khó khăn trước hết là vấn đề thiếu hạt giống, khả năng cung cấp hạt giống từ những nương chè trong nhân dân và các nông trường quốc doanh quá ít so với yêu cầu sản xuất. Trồng chè bằng cành có khả năng giải quyết nhu cầu về giống vì hệ số nhân giống bằng cành rất cao.

- Phương thức thụ phấn của chè chủ yếu là thụ phấn khác hoa, do đó hạt chè thường bị tạp giao, những đặc tính tốt của cây mẹ không giữ được. Trồng chè bằng cành khắc phục được nhược điểm đó.

Bảng 14: Hệ số nhân giống chè bằng phương pháp vô tính

(Nguyễn Văn Niệm, 1978)

Loại chè Số hom/bụi Số hom/ha (vạn) Trồng được

(ha)

1 tuổi (không kể năm ở vườn giâm)

2 tuổi -

3 tuổi -

4 tuổi -

20

100

200

300

20

100

200

300

5

20 - 25

40 - 50

60 - 75

Ghi chú: Mật độ trồng 1 vạn bụi/ha (giống chè PH1) 1 ha vườn lấy quả giống thu được 2.000kg quả trồng được 4 - 5 ha chè mới.

- Mặt khác do trồng chè bằng cành, qua quá trình chọn lọc sẽ tạo được một quần thể rất đồng đều ngoài sản xuất, tạo điều kiện thâm canh đạt năng suất cao và cho việc đưa cơ giới hóa vào các khâu kỹ thuật canh tác, quản lý chăm sóc cũng như thu hoạch.

Kết quả điều tra của bộ môn cây công nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội (1972) cho thấy năng suất trồng bằng cành và trồng bằng hạt sai khác nhau rất rõ. Tùy theo các loại giống khác nhau mà năng suất chè trồng bằng cành cao hơn trồng bằng hạt từ 33 - 45%.

Bảng 15: Năng suất của một số giống chè trồng bằng cành và bằng hạt (kg/ha, %) chè trồng năm 1961 trại Phú Hộ

Giống

Phương thức trồng

1967 1968 1969 1970

Tổng số 4 năm

%

Trung du

Shan Tham vè

Shan Gia vài

Cành Hạt

Cành Hạt

- -

3.644 2.744

7.355

12.800 8.000

11.200 8000

12.800

12.016 10.768

15.056 10.704

13.136

15.953 12.135

19.688 13.662

16.650

41.169 30.903

49.588 35.110

49.941

133 100

141 100

145

Hóc môn

Shan Nậm ngặt

Cành Hạt

Cành Hạt

Cành Hạt

4.400

3.401 3.374

2.662 1.213

8.000

9.600 9.000

11.200 8.000

10.276

13.436 10.544

12.400 5.920

11.650

19.671 12.516

14.824 10.807

34.326

46.108 35.434

41.086 28.740

100

130 100

145 100

Tuy nhiên phương pháp trồng chè bằng cành cũng có những nhược điểm nhất định như kỹ thuật giâm cành và quản lý chăm sóc tỷ mỷ tốn nhiều công, giá thành sản xuất cây giống cao, khối lượng vận chuyển khi trồng lớn.

Điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng đến quá trình ra rễ và tỷ lệ sống của cành giâm đó là độ nhiệt, độ ẩm đất, không khí, ánh sáng, đất đai và độ thoáng khí trong đất. Quyết định cho tỷ lệ sống của chè trong vườn giâm là ban đầu hệ rễ của cành có được hình thành hay không, rễ có phát triển tốt hay không. Để cho mầm phát triển nhanh hơn hệ rễ trong thời kỳ ban đầu là không có lợi cho tỷ lệ sống của cành giâm. Theo kết quả nghiên cứu của Trung Quốc thì độ nhiệt không khí 25 - 30oC, độ nhiệt đất (ở độ sâu 5cm) 20 - 25oC là thích hợp nhất cho sự ra rễ và sự sinh trưởng của cành giâm.

Đất thích hợp cho sự ra rễ của cành giâm là đất đỏ, có cấu tượng tốt, độ pH 4,5 - 5,5, có khả năng giữ ẩm nhưng lại thoát nước tốt và thoáng khí.

Độ ẩm đất cần thiết là 70 - 80%, độ ẩm đất cao quá thường gây thối hom chè, độ ẩm đất thấp quá làm cho cành chè bị chết khô. Theo kết quả nghiên cứu của Trung Quốc thì tốt nhất là độ ẩm không khí bão hòa vì như vậy sự bốc hơi nước sẽ giảm đến mức thấp nhất, giữ được độ ẩm tối đa của đất, làm tăng sức trương của tế bào, tế bào phânc hia nhanh và sự ra rễ cũng nhanh.

Ánh sáng rất cần thiết đối với sự sinh trưởng và phát triển của chè giâm cành. Song nếu cường độ ánh sáng quá mạnh, ban đầu sẽ làm cho cường độ thoát hơi nước trong hom chè tăng lên, trong khi bản thân cành giâm chưa có khả năng cung cấp được nhiều nước cho cây, như vậy sẽ ảnh hưởng đến quá trình quang hợp, đến sự ra rễ và tỷ lệ sống của hom chè. Cho nên, việc làm giàn

che thích hợp, khống chế được ánh sáng trong quá trình ở vườn ươm là một trong những biện pháp quan trọng đối với việc nhân giống chè bằng phương pháp giâm cành.

1) Kỹ thuật sản xuất cây con bằng phương pháp giâm cành:

a)Vườn sản xuất hom giống:

Vườn sản xuất hom giống phải trồng bằng cành của giống chọn lọc đã được xác nhận là giống có năng suất cao, phẩm chất tốt. Vườn giống trồng theo khoảng cách 1,75 x 0,60 x 2 cây. Sau khi không sản xuất hom giống tiến hành đốn theo quy trình của vườn chè sản xuất và chuyển sang nhiệm vụ kinh doanh búp.

Phân hữu cơ bón lót, lần đầu 30 tấn vào tháng 12 - 01; các năm sau: 2 năm bón một lần 20 tấn.

Phân thúc: 200 kg đạm sunfat + 200 kg supe lân + 200 kg Kali clorua/ha. Chè dưới 3 tuổi bón một năm 2 lần vào tháng 2 - 8.

Chè trên 3 tuổi bón một năm 4 lần vào các tháng 2 - 5 - 8 và 10.

Vườn sản xuất hom giống phải luôn luôn sạch cỏ và sạch sâu bệnh.

b) Vườn ươm:

+ Chọn giống và làm đất: chọn đất nơi gần nguồn nước tưới, gần diện tích sắp trồng, độ dốc không quá 5o, gần đường vận chuyển, đất đỏ hoặc vàng có cấu tượng tốt, độ pH từ 4,5 - 6, mực nước ngầm dưới 1m. Đất mới khai hoang cần cày ải trước 3 tháng, cày sâu 25 - 30cm, bừa nhỏ rồi lên luống theo hướng đông tây; mặt luống rộng 1,2m, cao 15 - 20cm, dài không quá 20m, rãnh luống rộng 60cm. Sau khi lên luống, đất trên mặt luống phải nhỏ, mịn, tơi xốp. Nếu đất đã bón phân hữu cơ phải phủ một lớp đất đỏ hoặc vàng dày 8cm.

Trong trường hợp dùng túi polietilen để giâm cành thì chỉ cần giẫy sạch cỏ, lên luống, xếp bầu và làm giàn.

+ Làm giàn che: tùy theo khả năng nguyên liệu của địa phương có thể làm giàn cao 1,20m hoặc 1,80m. Mặt giàn lợp bằng cỏ tế, tranh, lá lau, phên, nứa. Phải lợp kín cả mặt luống, rãnh luống và che kín xung quanh lô. Phên che chung quanh và rãnh luống làm thành từng tấm để tiện việc cất dỡ khi đi lại tưới nước, chăm sóc và điều chỉnh ánh sáng.

+ Chọn cành cắt hom: chọn cành có đường kính 4 - 6mm không bị sâu bệnh. Mỗi hom cắt một đoạn cành 3 - 4cm có 1 lá và 1 mầm nách dài không quá 5 cm, nếu mầm dài quá 5 cm thì bấm ngọn mầm. Vết cắt phía trên lá vát theo mặt lá và cành nách lá 0,5 cm, nếu lá to thì cắt bớt đi 1/3 hoặc 1/2 để giảm sự thoát hơi nước.

Hình 9: Hom chè

+ Cắm hom: hom cắt xong đem cắm ngay là tốt nhất.

Khoảng cách cắm hom: 10 x 6 cm (160 hom/m2), hom cắm sao cho lá xuôi theo chiều gió, mặt lá cách mặt đất 1cm, cắm xong nén chặt đất vào gốc hom và tưới nước ngay.

+ Cắm hom trực tiếp vào túi polietilen: túi polietilen có kích thước 12 x 18cm, phía đáy đục 4 lỗ. Đáy túi đựng một lớp đất mặt trộn với phân hữu cơ hoai mục, tỷ lệ phân 50%, phần trên là 8 cm đất đỏ hoặc vàng. Trước khi cắm hom tưới cho đất trong bầu có độ ẩm 80 - 85%, mỗi túi cắm 1 hoặc 2 hom. Xếp bầu vào luống, có điểm tựa để bầu đứng vững, các bầu xếp sát vào nhau.

+ Quản lý chăm sóc vườn ươm:

- Tưới nước: sau khi cắm hom từ 1 đến 15 ngày, mỗi ngày tưới 2 lần, tưới bằng bơm con gà, bảo đảm độ ẩm đất 70 - 80%.

Từ 15 - 30 ngày, tưới 2 ngày một lần (bơm con gà hoặc ô doa)

Từ 30 - 60 ngày, tưới 3 ngày một lần bằng ô doa

Từ 60 - 90 ngày, tưới 5 ngày một lần bằng ô doa

Từ 90 - 120 ngày, tưới 6 ngày một lần bằng ô doa

Từ 120 - 180 ngày, tưới 10 - 15 ngày 1 lần, tưới ngấm.

- Điều chỉnh ánh sáng:

Vụ đông xuân: thời gian 60 ngày kể từ sau khi cắm hom che cả rãnh luống, mở giàn khi ngày râm.

Từ 60 - 90 ngày, không che rãnh luống

Từ 90 - 150 ngày, tách giàn che 1/3

Từ 150 - 180 ngày, tách giàn che 1/2

Sau 180 ngày mở hẳn giàn che.

Vụ hè thu: Từ 1 - 30 ngày, che rãnh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều.

Từ 30 - 60 ngày, che rãnh từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiếu

Từ 60 - 90 ngày, che rãnh từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều

Từ 90 - 120 ngày, không che rãnh, rút 1/3 giàn che

Từ 120 - 150 ngày, rút 1/2 giàn che

Sau 150 ngày, mở hẳn giàn che.

- Bón phân thúc: lượng phân bón thúc cho 1m2 vườn ươm quy định như sau:

Bảng 16

Đạm sunfat (gam)

Supe lân (gam)

Clorua kali (gam)

Sau cắm hom 2 tháng

Sau cắm hom 4 tháng

Sau cắm hom 6 tháng

9

14

18

4

6

8

7

10

14

- Trừ sâu bệnh: sau khi giâm cành 3 tháng phun hỗn hợp vofatôc 0,2% + urê 2%, phun 1 lít/ 5m2, sau đó cách một tháng phun một lần. Nếu vườn ươm phát sinh bệnh thì phun bocđô 1: 100 phun 1 lít/ 5m2.

2) Kỹ thuật trồng chè cành ra ruộng sản xuất:

+ Tiêu chuẩn cây con:

Cây cao hơn 20cm có 6 - 8 lá, đường kính thân cây đo cách gốc 5cm là 3 - 4mm, cây có 6 tháng tuổi trở lên. Nếu cây cao hơn 30cm phải bấm ngọn trước khi bứng trồng.

+ Thời vụ trồng:

Vụ đông xuân: từ tháng 12 đến hết tháng 2.

Vụ thu: từ hạ tuần tháng 8 đến hết tháng 9.

+ Bứng bầu và vận chuyển bầu:

Cây con đưa đi trồng phải có bầu đất, bó bầu bằng lá hoặc cho vào túi nhựa, bầu không được vỡ. Bầu phải xếp chặt vào hòm gỗ, sọt; dùng xe hoặc gánh đến nơi trồng. Gặp trời nắng phải che, không được để cây con héo.

+ Trồng cây con:

Chuẩn bị đất trồng như đối với chè trồng bằng hạt.

Trước khi trồng rạch hàng sâu 20 - 25cm, hoặc đào hố rộng 20cm, sâu 25cm bón lót 2,5 kg phân hữu cơ 1 hốc.

Chọn những ngày sau khi mưa, trời râm mát, đất có độ ẩm 80 - 85%, trồng 2 cây đủ tiêu chuẩn một hốc; lấp đất ngang vết cắt hom, nén đất chặt gốc. Nếu trồng bằng bầu polietilen, trước khi lấp đất phải xé bầu, để trên mặt hố tủ gốc. Trồng xong phải dùng rơm rạ hoặc cắt cây phân xanh tủ vào gốc và tưới nước cho cây con, mỗi hố 2 lít nước. Sau khi trồng, trong 1 - 3 tháng đầu cần tiến hành kiểm tra cây chết và trồng giặm kịp thời.

II. QUẢN LÝ, CHĂM SÓC NƯƠNG CHÈ

Sau khi gieo trồng xong, cần phải tiến hành quản lý và chăm sóc nương chè một cách toàn diện. Dựa vào đặc điểm sinh trưởng và đặc điểm canh tác khác nhau, chia công tác quản lý chăm sóc ra hai thời kỳ khác nhau: quản lý chăm sóc nương chè con và quản lý chăm sóc nương chè sản xuất (chè trong thời kỳ kinh doanh).

* Quản lý, chăm sóc nương chè con

Thời kỳ chè con (còn gọi là thời kỳ kiến thiết cơ bản) là thời kỳ sau khi chè được gieo trồng, qua chăm sóc, đốn tạo hình, bắt đầu bước vào thời kỳ thu hoạch. Trong điều kiện của ta, thời kỳ kiến thiết cơ bản vào khoảng 4 năm. Công tác quản lý chăm sóc nương chè con có tác dụng rất cơ bản nhằm làm cho cây mọc khỏe, mọc đồng đều, tạo cho cây có một bộ khung tán to, đặt cơ sở tốt cho sự sinh trưởng và phát triển của cây con trong cả thời kỳ sản xuất lâu dài về sau.

Quản lý chăm sóc nương chè còn bao gồm những công việc chính như sau:

1) Giặm chè mất khoảng:

Đất trồng chè phần lớn là đất đồi dốc, khả năng tái sinh của cây rừng và cỏ dại rất lớn, mưa lấp hố, hạt nảy mầm kém v.v... đều có khả năng làm cho hạt không mọc được, hoặc làm cho một số cây con mọc lên bị lấn át, chết đi, gây ra hiện tượng mất khoảng. Chè là cây lâu năm, khoảng cách lớn, nếu bị mất khoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và công tác quản lý chăm sóc. Cho nên công việc trước hết trong quản lý chăm sóc nương chè con là phải tích cực phát hiện và kịp thời giặm chè mất khoảng ngay từ năm đầu sau khi gieo trồng. Giặm chè con có 2 cách: gieo giặm bằng hạt hoặc trồng giặm bằng cây con đã chuẩn bị trong vườn ươm từ trước. Quy định gieo vườn ươm dự trữ cho 1 hecta là 30 - 50m2.

2) Xới xáo giữ ẩm và diệt trừ cỏ dại:

Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta những vùng đất đồi mới khai phá, cỏ dại, cây rừng tái sinh phát triển rất nhanh chóng, do đó uy hiếp sinh trưởng của chè con rất lớn, công việc xới xáo diệt trừ cỏ dại cần được coi trọng. Tùy theo tình hình sinh trưởng và phát triển cỏ dại ở mỗi nơi, hàng năm cần tiến hành xới đất làm sạch cỏ 3 - 4 lần trên hàng. Riêng đối với chè 1 tuổi cần nhổ cỏ bằng tay trên cụm chè để bảo vệ được cây chè con, có thể dùng thuốc hóa học để trừ cỏ, phun 2 lần vào tháng 4 - 5 và tháng 7 - 8. Mỗi lần 6-8 kg đalapon + 2 kg 2,4D hoặc 6 kg simazin để diệt hạt cỏ mới nảy mầm. Mỗi hecta phun 800 - 1000 lít nước.

3) Trồng xen:

Trong những năm đầu khi cây chè chưa giao tán, khoảng cách giữa 2 hàng chè khá rộng nên trồng xen một số cây công nghiệp ngắn ngày hoặc cây phân xanh. Trồng xen có những lợi ích chủ yếu như sau:

- Lợi dụng triệt để được đất đai trồng trọt, thực hiện phương châm "lấy ngắn nuôi dài".

- Chống được cỏ dại, bớt công làm cỏ.

- Phủ đất, chống được xói mòn nhất là đối với đất dốc. Trong một chừng mực nhất định tăng được độ ẩm và nước dự trữ cho cây trồng chính.

- Cải thiện được một phần kết cấu của đất, tăng nguồn chất xanh cho đất. Những cây trồng xen thuộc bộ đậu còn giúp tăng nguồn đạm cho đất. Những loại cây thường trồng xen trong nương chè hiện nay là cốt khí, đậu dự, cỏ stilô, lạc... Riêng đối với lạc có thể trồng giống lạc 3 tháng (2 vụ/năm), cần bón thêm phân chuồng hoai 2t + 400 kg phốt phát nội/ha. Lạc trồng hai hàng cách nhau 40cm, trên hàng gieo lạc với khoảng cách 45cm.

4) Bón phân cho chè con:

Bón phân cho chè con nhằm đạt yêu cầu: Tăng nhanh lượng sinh trưởng của cây làm cơ sở cho việc hình thành tán cây, tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt ngay từ đầu, tăng khả năng chống chịu với ngoại cảnh và sâu bệnh đối với cây.

Theo quy trình kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp, bón phân cho chè con (chè kiến thiết cơ bản) như sau:

Bảng 17

Loại chè

Loại phân

Lượng phân cho 1ha

Số lần bón

Thời gian bón (tháng)

Phương pháp bón

Chè 1 tuổi

Chè đốn

N

K2O Hữu

30 kg

30 kg 15 -

1

1

6 -7

11 -12

Trộn đều hai loại phân bón, sâu 6-8cm, cách gốc 20-30, lấp kín đất

Trộn đều bón vào rạch,

tạo hình lần 1 (2 tuổi)

Chè 2 - 3 tuổi

cơ P2O5

N

K2O

20t 100 kg

60 kg 50 kg

1

1

2

1

3 - 4

và 8 - 9

cày sâu 15 cm, cách gốc 20 - 30cm

Trộn đều hai loại phân, bón lẫn kali, lần đầu (tháng 3 - 4)

5) Đốn tạo hình chè con:

Đốn tạo hình chè con là một biện pháp kỹ thuật quan trọng trong thời kỳ quản lý chăm sóc nương chè con. Mục đích chủ yếu là tạo cho cây chè có bộ khung tán rộng, nhiều cành, có một hình thù cân đối làm cơ sở cho cây chè phát triển vững chắc về sau:

Tùy từng điều kiện cụ thể, việc xác định tiêu chuẩn đốn chè con ở mỗi nước có khác nhau. Người ta có thể căn cứ vào tuổi cây, khả năng sinh trưởng của cây về chiều cao cũng như về độ lớn của thân để làm tiêu chuẩn đốn.

Hình 10: Đốn tạo hình chè con

Ở Liên Xô thường bắt đầu đốn tạo hình lần thứ nhất khi cây chè 2 - 3 tuổi, chiều cao cây 50 - 60 cm, đường kính thân 1cm và trên cây đã có 2 - 3 cành cấp 1. Quy trình của Bộ Nông nghiệp quy định mức đốn tạo hình cho chè con như sau:

Lần 1: khi cây chè 2 tuổi, đốn cách mặt đất 12 - 15 cm

Lần 2: khi cây chè 3 tuổi, đốn cách mặt đất 30 - 35 cm

Lần 3: khi cây chè 4 tuổi, đốn cách mặt đất 40 - 45cm

Song song với quá trình đốn, cần tiến hành hái tạo hình. Đốn hợp lý, hái tạo hình tốt và quản lý chăm sóc tốt, qua 3 lần đốn, cây chè chính thức bước vào thời kỳ kinh doanh.

* Quản lý, chăm sóc chè sản xuất

Nương chè sản xuất tức là chỉ thời kỳ cây chè sau khi kết thúc đốn tạo hình và bắt đầu bước vào thời kỳ thu hoạch búp. Thời kỳ sản xuất của chè rất dài: 30 - 40 năm hoặc lâu hơn nữa. Tất cả các biện pháp kỹ thuật chăm sóc và quản lý đều có ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây, do đó có quan hệ trực tiếp đến năng suất và phẩm chất chè.

Nội dung chủ yếu của công tác quản lý và chăm sóc nương chè sản xuất gồm có:

1) Trừ cỏ xới xáo và tủ gốc cho chè:

Cũng như thời kỳ cây con, công việc diệt trừ cỏ dại trong thời kỳ này phải được coi trọng và phải được tiến hành triệt để, nhất là khi hàng chè chưa giao tán.

Thành phần cỏ dại trên nương chè rất phức tạp và nhiều loại, các loại cỏ thường gặp như Cyperus tenuiculmis, Digitaria ascendens, Paspalum conjugatum ipomoeaspp scopariadulcis.

Mỗi loại cỏ lại có những đặc tính sinh học khác nhau do đó việc phòng trừ khá phức tạp.

Việc diệt trừ cỏ dại cho chè có thể tiến hành bằng biện pháp cơ giới hoặc hóa học. Biện pháp cơ giới (xới cỏ, phay đất) có tác dụng vừa diệt được cỏ dại vừa làm tơi đất cho chè.

Trong vụ đông xuân cần xới sạch cỏ, cày giữa hàng chè hoặc phay sâu 10cm, lấp phân hữu cơ và cành lá già sau khi đốn. Vụ hè thu: đào gốc cây dại luổng hoặc xới cỏ gốc giữa hàng bừa 3 - 4 lần hoặc phay sâu 5cm. Biện pháp trừ cỏ bằng thuốc hóa học hiện nay đang được ứng dụng bước đầu trong một số nước trồng chè trên thế giới, ở Liên Xô, dùng 10 kg simazin và 15 kg dalapon hòa trong 1000 lít nước để phun trừ cỏ cho 1 ha chè sản xuất. Ngoài dalapon một số nước còn dùng paraquat để trừ cỏ cho chè, đó là một loại thuốc trừ cỏ bằng tiếp xúc, có tác động rất nhanh. Trong những năm gần đây, chúng ta đang tiến hành khảo nghiệm các loại thuốc hóa học trừ cỏ cho chè, hoặc là phòng trừ

cỏ bằng hóa học kết hợp với cơ giới. Loại thuốc và liều lượng dùng để trừ cỏ cho chè đã nêu ở phần trên (quản lý chăm sóc chè con).

2) Bón phân cho chè:

Bón phân cho chè trong thời kỳ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, sản lượng và phẩm chất của chè.

Xây dựng một quy trình bón phân hợp lý cho chè cần phải căn cứ vào điều kiện đất đai cũng như điều kiện ngoại cảnh và đặc điểm sinh lý của cây.

Cơ sở khoa học của việc bón phân cho chè gồm những điểm chính như sau:

- Cây chè có khả năng liên tục hút dinh dưỡng trong chu kỳ phát dục hàng năm cũng như trong chu kỳ phát dục cả đời sống của nó. Mặc dù trong điều kiện của ta, về mùa đông cây chè tạm ngừng sinh trưởng, nhưng vẫn yêu cầu lượng dinh dưỡng tối thiểu, do đó việc cung cấp dinh dưỡng cho cây cần đầy đủ và thường xuyên trong năm.

- Quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực của cây chè không có giới hạn rõ ràng và là một quá trình mâu thuẫn thống nhất. Vì vậy, cần phải bón phân hợp lý để khống chế quá trình sinh thực cho chè hái búp và khống chế quá trình sinh trưởng dinh dưỡng cho chè thu hoạch giống.

- Khả năng thích ứng với điều kiện dinh dưỡng của cây chè rất rộng rãi. Nó có thể sống ở nơi đất rừng màu mỡ mới khai phá song cũng có thể sống ở những nơi đất nghèo dinh dưỡng và vẫn cho năng suất nhất định. Do đặc điểm đó, muốn nâng cao năng suất chè cần phải bón phân đầu đủ.

- Đối tượng thu hoạch chè là búp và lá non. Mỗi năm thu hoạch từ 5 - 10t/ha, vì thế, lượng dinh dưỡng trong đất mất đi khá nhiều, nếu không bổ sung kịp cho đất thì cây trồng sẽ sinh trưởng kém và cho năng suất thấp.

- Theo Eden (1958) trong búp chè non có 4,5% N; 1,5% P2O5 và 1,2 - 2,5% K2O. Những kết quả nghiên cứu của Jolemuanu cho thấy nhu cầu dinh dưỡng khoáng của cây chè rất lớn (xem bảng 18 và 19).

Bảng 18: Hàm lượng một số nguyên tố khoáng trong chè ở một số nơi (% chất tro)

Loại CaO MgO K2O P2O5

Chè chế biến ở Xrilanca

Chè chế biến ở Trung Quốc

Chè chế biến ở Trakvi (Liên Xô)

Lá chè tươi Gruzia (Liên Xô)

Lá chanh

Lá cam quýt

7,8

8,9

8,1

9,7

63,0

66,1

7,2

6,0

7,7

8,7

5,7

4,3

31,7

30,3

30,6

38,9

15,0

11,6

13,5

13,7

14,5

19,0

Bảng 19: Hàm lượng N trong chè nguyên liệu (% chất khô)

Dạng đạm

Nhóm chè Tổng số Hòa

tan

Protein N x 6,25

Ấn Độ

Trung Quốc

Gruzia

4,42

4,52

5,08

1,82

1,55

2,66

27,6

28,25

35,50

Theo tài liệu của Trung Quốc nếu thu hoạch 7,5 tấn búp/ha, cần phải cung cấp N: 37,5 kg, P2O5: 75kg và K2O: 112 - 150 kg.

Ngoài ra cần chú ý rằng: hàng năm trọng lượng cành lá đốn cũng xấp xỉ bằng trọng lượng búp và lá non đã thu hoạch và theo Daraxêli thì lượng đạm bị rửa trôi thường bằng 1/3 tổng lượng đạm bón vào đất.

Từ những dẫn liệu trên đây, cho thấy rằng cây chè có những đặc điểm dinh dưỡng khác với một số cây trồng khác, nhu cầu về dinh dưỡng khoáng của cây chè rất lớn. Vì vậy, cần xét từng điều kiện cụ thể để xây dựng chế độ bón phân hợp lý cho chè.

a) Sử dụng phân đạm cho chè:

Trong cây, hàm lượng đạm tập trung nhiều nhất ở các bộ phận non như búp và lá non, đạm có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của cây và có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất. Thiếu đạm cây sinh trưởng kém, lá nhỏ, búp nhỏ và búp bị mù nhiều, do đó năng suất thấp. Yêu cầu về đạm thay đổi tùy theo loại đất

tuổi của cây và năng suất của vườn chè. Tài liệu của trại thí nghiệm chè Phú Hộ - Vĩnh Phú cho thấy bón đạm đầy đủ, sản lượng búp chè tăng 2 - 2,5 lần so với đối chứng không bón. Theo M.L Bziava (1973) liều lượng đạm tăng, sản lượng búp sẽ tăng, song để đạt được năng suất 10t/ha bón 200 kg N/ha cho hiệu quả kinh tế cao nhất.

Về phẩm chất, nhiều tài liệu ở nước ngoài như Nhật Bản, Ấn Độ, Xrilanca... đều cho rằng bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều hoặc bón đơn độc đều làm giảm chất lượng chè (đặc biệt là đối với nguyên liệu dùng để chế biến chè đen). Những công trình nghiên cứu của Liên Xô cho thấy liều lượng đạm 300kg/ha thì hàm lượng tanin, cafein và vật chất hòa tan trong búp chè đều cao, có lợi cho phẩm chất, song nếu vượt quá giới hạn trên thì phẩm chất chè giảm thấp. Khi bón nhiều đạm hàm lượng protein ở trong lá tăng lên. Protein kết họp với tanin thành các hợp chất không tan vì thế lượng tanin trong chè bị giảm đi. Mặt khác khi bón nhiều đạm, hàm lượng ancaloit trong chè tăng lên làm cho chè có vị đắng.

Những kết quả chuẩn đoán dinh dưỡng trong lá chè của Liên Xô cho thấy: ở cây chè thiếu đạm, hàm lượng đạm trong lá là 2,2 - 2,4%, trong búp là 3 - 3,5%. Cây chè đủ dinh dưỡng hàm lượng đạm tương ứng là: 2,9 - 3,4% và 4,7 - 5,0%.

Trong điều kiện của ta, liều lượng và thời kỳ bón đạm được quy định như sau (theo quy trình của Bộ Nông nghiệp 1975).

Bảng 20

Loại chè Liều lượng N/ha (kg)

Số lần bón

Thời gian bón

Năng suất búp dưới 6 tấn/ha

Năng suất búp 6t - 10t/ha

Năng suất búp 10t/ha

80 - 120

120 - 160

160 - 200

3 - 5

3 - 5

4 - 6

Từ tháng 1 đến tháng 9

Từ tháng 1 đến tháng 9

Từ tháng 1 đến tháng 10

Ghi chú: Bón sâu 6 - 8 cm theo tán chè vào lúc đất có độ ẩm 70 - 80%, lấp đất kín.

b) Sử dụng phân lân cho chè:

Theo các tài liệu nghiên cứu của Liên Xô, bón lân có ảnh hưởng tăng năng suất và phẩm chất búp chè rõ rệt. J. Đimitrôva (1965) cho rằng hiệu quả của phân lân được nâng lên một cách rõ rệt trên đất đã được bón N, K. Ngược lại hiệu quả của phân lân thấp không những do lân bị cố định trong đất mà còn do đất thiếu N, K. Một đặc điểm cần chú ý là hiệu quả về sau của lân kéo tới 20 - 25 năm. Trên đất đỏ (Liên Xô) hiệu quả về sau của lân thường cao hơn những năm bón trực tiếp. Theo nghiên cứu của F. H. Urusatze thì hiệu quả trực tiếp của 3 năm bón lân với liều lượng 120 - 960kg/ha trên nền N, K là tăng sản lượng búp 5 -30% so với đối chứng bón N, K. Song hiệu quả tăng sản bình quân trong 21 năm về sau là 60 - 78%.

Những nghiên cứu của Cuaxanop (1954) T.C. Mgaloblisvili (1966) đều khẳng định bón phân lân trên nền N,K làm tăng hàm lượng catechin trong búp chè, có lợi cho phẩm chất.

Ở nước ta, việc nghiên cứu hiệu quả của phân lân đối với năng suất và phẩm chất búp mới tiến hành chưa được bao lâu. Song kết quả sơ bộ rút ra từ thí nghiệm 10 năm bón phân N,P,K cho chè tại trại thí nghiệm chè Phú Hộ cho thấy: trên cơ sở bón 100 kgN/ha, bón thêm 50kg P2O5 qua từng năm không có sự chênh lệch gì đáng kể về năng suất, nhưng từ năm thứ 7 trở đi bội thu tăng dần một cách rõ rệt và để chúng qua 10 năm thì supe lân tỏ ra có hiệu lực chắc chắn và đáng tin cậy. Bình quân 10 năm 1kg P2O5 đã làm tăng được 3,5kg búp chè.

Kết quả phân tích lá chè và đất trồng chè ở Liên Xô cho thấy: ở cây chè thiếu lân, hàm lượng lân (P2O5) trong lá là 0,27 - 0,28%, trong búp là 0,5 - 0,75%. Cây chè đủ dinh dưỡng hàm lượng lân tương ứng là 0,33 - 0,39% và 0,82 - 0,86%. nếu trong đất hàm lượng P2O5 là 30 - 32mg/100g đất, là thiếu nhiều lân.

Theo quy trình của Bộ Nông nghiệp: đối với chè đang kinh doanh thì 3 năm bón phân lân một lần vào tháng 11 - 12 với liều lượng 100kg P2O5/ha.

c) Sử dụng phân kali cho chè:

Trên những nương chè mới trồng, phân kali không có hiệu quả vì trên những loại đất mới khai phá hàm lượng K2O trong đất đủ cho yêu cầu sinh trưởng phát triển của cây (20 - 25mg K2O/100G đất) ở những nơi thường xuyên bón N, K với liều lượng cao trong nhiều năm, đất trở nên thiếu kali thì hiệu quả việc bón K2O rất rõ rệt, theo số liệu của G.S. Goziaxivili (1949) bón K2O trên đất đỏ với liều lượng 80 - 320kg/ha có thể tăng sản 28 - 55% so với đối chứng bón N,P. Những nghiên cứu của A.D. Makharobitze (1948) cho thấy phẩm chất nguyên liệu trong các công thức bón phân khác nhau được xếp theo thứ tự sau: P, K, N và không bón. Những kết quả nghiên cứu của Liên Xô cho thấy: hàm lượng kali trong lá dưới 0,5%, dấu hiệu thiếu kali biểu hiện rõ, trên 1% thì cây sinh trưởng bình thường. Hàm lượng K2O 15mg/100g đất là thiếu kali, trên 15mg/100g đất, cây sinh trưởng bình thường.

Kết quả sử dụng phân kali cho những nương chè sản xuất ở ta rất rõ rệt. Kali có ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng và sản lượng búp.

Tùy theo năng suất, lượng kali bón cho chè kinh doanh được quy định cụ thể như sau:

Loại đạt năng suất búp tươi dưới 6t/ha, bón 40 - 60 kg K2O/ha

Loại đạt năng suất búp tươi từ 6 - 10t/ha, bón 60 - 80 kg K2O/ha

Loại đạt năng suất búp tươi trên 10t/ha, bón 80 - 100 kg K2O/ha

Phân kali bón làm hai lần vào tháng 1 và tháng 7.

Vấn đề bón phối hợp N, P, K cho cây chè tùy thuộc vào điều kiện canh tác ở mỗi nước và năng suất cụ thể của nương chè. Ví dụ quy trình kỹ thuật bón N, P, K cho chè kinh doanh ở Liên Xô được quy định như sau:

Bảng 21

Năng suất búp tươi (kg/ha) Loại phân và mức bón (kg/ha) 1.500 -

2.500 2.500 - 3.000

3.500 - 7.000

7.000

N 250 300 350 400

P2O5

K2O 150 kg/ha (đất đỏ) 100 kg/ha (đất pojon)

200 kg/ha cách 1 năm bón 1 lần

Tỷ lệ bón hỗn hợp phân khoáng cho chè ở Xrilanca là: 64%N, 21% P2O5, 15% K2O (J.Lamb, C.B. Portsmouth và J.L. Tolhorat 1955).

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về phân bón cho chè mới bắt đầu trong những năm gần đây, vì vậy xác định tỷ lệ phối hợp N, P, K để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất còn đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.

d) Sử dụng phân hữu cơ cho chè:

Bón phân hữu cơ cho chè ngoài việc cung cấp thức ăn cho cây, còn có tác dụng cải thiện tính chất vật lý, hóa học, sinh vật học và chế độ nước trong đất. Nguồn phân hữu cơ gồm có phân chuồng, phân trấp, phân xanh và các nguyên liệu ép xanh (dùng cành lá sau khi đốn vùi vào giữa hai hàng chè).

Người ta rất coi trọng hiệu quả về sau của việc bón phân hữu cơ cho chè. Kết quả nghiên cứu của N.L.Bziava (1973) cho thấy trung bình 16 năm, phân chuồng làm tăng sản lượng búp 18%, phân xanh 16% và phân trấp 9%.

Theo quy trình hiện nay đối với chè kinh doanh 3 năm, bón phân hữu cơ một lần với liều lượng 25t/ha.

e) Một số nguyên tố vi lượng:

Sử dụng các nguyên tố vi lượng (bo, đồng, mangan, molipđen, kẽm, coban và iôt) vào việc trồng trọt (xử lý các hạt trước khi gieo) và bón vào đất, phun lên lá, có thể tác động mạnh vào các quá trình sinh lý của cây trồng khác nhau, do đó có thể làm tăng năng suất và phẩm chất chè.

Những công trình nghiên cứu của Acnôn (1954), Evan (1956), Grin (1954), Nalia (1951), Nason (1953), Nicôla (1957), Staccây (1955), MacEuroi và Nason (1954) và những người khác, đều xác nhận là những nguyên tố tham gia vào thành phần nhiếu loại men và là chất hoạt hóa của nhiều loại men ấy. Nhiều nguyên tố vi lượng có ảnh hưởng tốt tới quang hợp: Mn, Cu, B, Co và Mo đẩy mạnh sự tổng hợp diệp lục trong lá và phân giải diệp lục trong tối. B và các nguyên tố khác tăng cường sự tổng hợp Gluxit, làm cho sự tổng hợp và vận chuyển xacaro và các gluxit khác thuận lợi hơn (Scônich 1955). Mn, Zn, Cu, Mo

và trong nhiều trường hợp cả B làm tăng độ hô hấp và tốc độ của quá trình ôxi hóa khử.

Phân vi lượng hiện nay đang bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong thực tế nông nghiệp và được coi là một khả năng tiềm tàng góp phần đẩy mạnh sự phát triển của ngành trồng trọt và chăn nuôi. Song việc nghiên cứu và sử dụng phân vi lượng cho chè còn rấtỚit. Ở Xrilanca đã nghiên cứu và sử dụng kẽm sunfat hoặc axit kẽm để phun lên lá, hoặc bón borat phối hợp với N, P, K cho chè ở những nơi xác định có hiện tượng thiếu kẽm và bo. Kết quả nghiên cứu của Tranturia (1973) cho thấy bón N, P, K phối hợp với 5 kg Zn và 5 kg B, cho 1 ha, làm tăng phẩm chất của chè nguyên liệu... Ở Việt Nam bước đầu đang nghiên cứu ảnh hưởng của một số nguyên tố vi lượng như Zn, B, Mo, Mn, Cu, đối với sự sinh trưởng và phát dục của chè, hoặc dùng H3BO4 (0,02%) phun phối hợp với urê (2%) và vôfatôc (0,2%) để trừ sâu và thúc sinh trưởng cho chè càng cho kết quả tốt.

3) Kỹ thuật đốn chè:

Đốn chè trong thời kỳ sản xuất (chè kinh doanh) là một khâu kỹ thuật đặc biệt so với một số cây trồng khác. Đốn chè có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và phẩm chất.

a) Tác dụng:

Loại trừ các cấp cành già, yếu không có khả năng phát sinh và nuôi dưỡng những cành búp mới.

- Tạo tán to, tăng mật độ cành và mật độ búp trên tán tạo cơ sở tốt cho sản lượng.

- Ở những nương chè sản lượng búp bắt đầu giảm thấp do số cành cơ bản đã già cỗi, đốn chè nhằm thay thế một phần hoặc toàn bộ khung tán cũ để tăng cường sức sống cho cây.

- Làm cho cây chè có độ cao thích hợp dễ hái thủ công cũng như thu hoạch bằng phương pháp cơ giới.

b) Cơ sở lý luận của kỹ thuật đốn chè:

- Theo lý luận về giai đoạn phát dục các vị trí cành trên cây chè có trình độ phát dục rất khác nhau. Cành phía trên hoặc phía trên ngọn của một cành thường có trình độ phát dục già, chóng ra hoa kết quả và khả năng sinh trưởng dinh dưỡng yếu, năng lực sản xuất búp kém. Sau một thời gian sinh trưởng nhất định,

những phần cành có tuổi phát dục già ấy cần được đốn đi để các mầm ở phía dưới phát triển. Vì những mầm này được phát sinh trên các cành có trình độ phát dục non nên có sức sống khỏe, sinh trưởng mạnh.

- Trong quá trình sinh trưởng các cành ở phía trên mặt tán thường có ưu thế sinh trưởng ngọn, kìm hãm sự phát triển của các cành phía dưới. Do đó đốn chè để phá vỡ hiện tượng ưu thế ngọn, tạo điều kiện cho các mầm và các cành phía dưới phát sinh phát triển.

- Theo nghiên cứu của nhiều tác giả giữa bộ phận trên mặt đất và dưới mặt đất của cây chè có sự phát triển cân bằng giữa hai bộ phận đó, tạo điều kiện cho bộ phận trên mặt đất phát triển. Vì vậy đốn càng đau thì búp non mới phát sinh, sinh trưởng càng mạnh. Mặt khác cây chè ở miền bắc nước ta trải qua mùa đông gặp điều kiện khô rét, nếu để số lượng lá trên cây quá nhiều làm cho quá trình thoát hơi nước mạnh, cây chè mất cân bằng về chế độ nước. Cho nên, đốn chè nhằm giữ lại một số lượng lá trên cây thích hợp, tạo điều kiện cân bằng sinh trưởng cho cây.

c. Các loại hình đốn

+ Đốn phớt: là cách đốn được tiến hành mỗi năm một lần và đốn cao hơn mức đốn hàng năm 3 - 5cm. Mục đích của đốn phớt là loại trừ các cành nhỏ, cành tăm hương trên tán để xúc tiến sự nảy sinh và phát triển của các búp mới. Có thể đốn thủ công bằng dao, kéo hoặc đốn bằng máy... Đốn phớt có thể tạo mặt tán theo mặt bằng, theo chiều nghiêng của sườn dốc hoặc hình mâm xôi. Trong sản xuất, thường tạo tán theo mặt hàng để tiện thao tác trong việc quản lý, chăm sóc và thu hoạch.

+ Đốn lửng: sau một số năm đốn phớt liên tục, cây chè có chiều cao quá tầm hái, mật độ cành trên mặt tán quá dày cành và búp nhỏ, năng suất giảm thì đốn lửng, vết đốn cách mặt đất 60 - 65cm. Trong trường hợp cây chè vẫn cho năng suất khá nhưng do cây cao quá khó hái cũng đốn lửng cách mặt đất 70 - 75cm. Dùng dao hoặc kéo để đốn, tạo mặt tán chè bằng.

+ Đốn đau: những cây chè được đốn lửng nhiều lần, cành nhiều mấu, cây phát triển kém, năng suất giảm rõ rệt thì đốn đau cách mặt đất 40 - 45cm nhằm thay thế một phần lớn bộ khung tán của cây.

Dùng dao sắc để đốn, vết đốn phải thẳng và sát vào phía trong.

+ Đốn trẻ lại: Những cây chè già, cằn cỗi đã qua đốn đau nhiều lần, thân cây bị sâu bệnh phá hại, năng suất giảm nghiêm trọng, thì đốn trẻ lại cách mặt đất 10 - 15cm, nhằm thay thế hoàn toàn bộ khung tán cũ của cây, kéo dài thêm nhiệm kỳ kinh tế. Yêu cầu kỹ thuật của đốn trẻ lại là vết đốn phải nhẵn, tránh gây giập nát và làm tổn thương đến phần gốc của cây.

d) Thời vụ đốn:

Tất cả các loại hình đốn đều tiến hành vào giữa tháng 12 đến hết tháng giêng là thời kỳ cây chè tạm ngừng sinh trưởng. Nơi thường bị sương muối cần đốn muộn sau những đợt sương muối nặng. Nói chung đốn dau cần đốn trước, đốn phớt tiến hành sau. Trước khi đốn và sau khi đốn cần phải cung cấp dinh dưỡng cho cây, đặc biệt là cần bón đầy đủ phân chuồng trước khi đốn đau.

CHƯƠNG VI

THU HOẠCH, BẢO QUẢN VÀ CHẾ BIẾN CHÈ

I - KỸ THUẬT HÁI CHÈ

rong quá trình sản xuất chè, hái có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hái là khâu cuối cùng của các biện pháp kỹ thuật trồng trọt nhưng lại là khâu đầu tiên của quá trình chế biến. Hái không những có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, phẩm chất chè trong năm đó, mà còn có ảnh hưởng đến sản lượng phẩm chất, sự sinh trưởng và phát dục của cây về sau. Thực tiễn cho thấy hái chè một cách hợp lý là biện pháp để tăng sản lượng phẩm chất chè đồng thời cũng là một nhân tố đảm bảo cho chè hàng năm có sản lượng cao, phẩm chất tốt.

* Cơ sở khoa học xác định biện pháp kỹ thuật hái

1) Ảnh hưởng của hái búp đến sinh trưởng phát dục và sản lượng của cây:

a) Trong điều kiện tự nhiên sự sinh trưởng của búp hàng năm thường có 3 - 4 đợt. Chỉ có búp đỉnh (mầm ngọn) và 2 mầm nách lá kế tiếp với nó chiếm ưu thế sinh trưởng, những mầm nách ở phía dưới và mầm bất định nằm trong trạng thái ngủ.

Hái búp đỉnh tức là phá vỡ ưu thế sinh trưởng ngọn, đồng thời cũng phá vỡ sự cân bằng giữa hai bộ phận trên và dưới đất, có tác dụng thúc đẩy sự hình thành búp mới, tăng số đợt búp trong một năm.

b) Để sinh trưởng búp, cần có một số lớn vật chất dinh dưỡng mà lá non giữ một vai trò quan trọng trong việc quang hợp, tạo thành chất hữu cơ. Khi hái, nếu để lưu số lá non lại càng nhiều thì càng có lợi cho quang hợp tạo thành vật chất dinh dưỡng cho cây. Song đối tượng của trồng trọt là lá non và búp, cho nên giữa hái và sinh trưởng của cây tồn tại một mâu thuẫn nhất định. Nếu hái không hợp lý, không chừa lại một số lá thích hợp thì quá trình quang hợp không thể tiến hành thuận lợi, cây sinh trưởng kém, giảm sản lượng. Thực tế chứng minh rằng các phương pháp hái khác nhau (chủ yếu là để chừa lại số lá nhiều hay ít khác nhau) có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chiều cao của cây, chiều rộng của tán và sức sinh trưởng của cây.

c) Hái búp có quan hệ rất lớn đến sự ra hoa kết quả. Cây chè không có riêng cành dinh dưỡng và cành sinh thực mà mùa hạ và mùa thu cả hai loại mầm này đều có trên nách lá của cành. Các phương pháp hái khác nhau, tỷ lệ ra hoa kết quả cũng khác nhau. Hái chừa càng nhiều lá thì tỷ lệ ra hoa kết quả càng cao.

Đối với chè kinh doanh, ra hoa kết quả nhiều không phải là tốt bởi vì quá trình từ khi phân hóa, phát dục của nụ hoa cho đến khi hình thành quả và quả chính bị tiêu hao một lượng lớn vật chất dinh dưỡng, làm cho các mầm sinh trưởng ở vào trạng thái bị ức chế, ảnh hưởng đến sản lượng búp trong năm.

d) Sản lượng của búp chè phụ thuộc vào số lượng búp và trọng lượng búp. Số lượng búp phụ thuộc vào mật độ búp trên tán và số lần hái. Ở những bùng chè nhiệt đới như Ấn Độ, Xrilanca thường thu hoạch quanh năm, do đó mỗi năm có khoảng 30-35 lần thu hoạch. Ở ta, với những vùng chè sinh trưởng tốt có thể thu hoạch được 25 - 30 lần trong năm. Trọng lượng búp chè phụ thuộc vào số lá trên búp. Tiêu chuẩn hái khác nhau, sản lượng thu được sẽ khác nhau. Ví dụ: nếu hái 1 tôm 2,3 lá sản lượng búp là 100%, hái 1 tôm 2 lá sản lượng là 76% và hái một tôm 3 lá sản lượng là 105%.

Bảng 22: Hái chừa hợp lý cho năng suất cao

Công thức hái Sản lượng búp tính theo % so với 1954

1954 1955 1956 1957 1958

1. Hái không chừa lá

2. Hái chừa lá cá

3. Hái chừa 2 lá vụ xuân, 1 lá vụ hạ, lá cá vụ thu

100

100

100

77,84

114,90

141,2

54.59

79,84

104,0

56,80

131,2

154,86

85.29

134,33

187,26

2) Quan hệ giữa hái chè và phẩm chất:

Phẩm chất của chè phụ thuộc vào thành phần hóa học trong búp chè như: chất hòa tan, catechin, cafein, đường... Những vật chất có lợi cho phẩm chất chè thường tập trung chủ yếu vào bộ phận non của búp chè. Vì vậy, hái búp càng non, phẩm chất càng tốt. Kết quả phân tích hàm lượng nước, tanin, chất hòa tan trong lá chè theo thứ tự non già như sau (số liệu phân tích giống chè Trung du Phú Hộ).

Bảng 23:

Vị trí lá trên búp Hàm lượng %

Vật chất Tôm chè

Lá 1 Lá 2 Lá 3 Lá 4 Lá 5

Nước

Tanin

Chất hòa tan

77,40

28,50

42,11

76,60

29,00

42,51

77,70

29,12

42,93

79,00

28,20

40,53

72,30

25,00

37,00

65,00

16,00

29,00

Độ non già của búp chè còn phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng, vì vậy cần hái đúng thời gian đã quy định.

Mặt khác, do đặc điểm của quá trình chế biến và phẩm chất của từng loại chè, tiêu chuẩn hái cũng khác nhau. Ví dụ: đối với nguyên liệu để chế biến chè đen cần hái non hơn so với nguyên liệu dùng để chế biến chè xanh.

3) Tương quan giữa chỉ số diện tích lá với sản lượng chè:

Mỗi loại cây trồng đều có một chỉ số diện tích lá thích hợp mới có thể đạt năng suất cao. Đối với cây chè, lá là cơ quan kinh tế đồng thời là cơ quan dinh dưỡng, do đó chỉ số diện tích lá diễn biến rất phức tạp (khác với các loại cây lấy hạt), sự biến động của diện tích lá chè chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như: giống, điều kiện ngoại cảnh và các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu của Trung Quốc thì chỉ số diện tích lá ở vườn chè hái búp biến động từ 1 đến 6. Tương quan giữa chỉ số diện tích lá và sản lượng là r = 0,8087. Chỉ số diện tích lá từ 3 đến 4 thì sản lượng tăng dần cho đến khi chỉ số này đạt 5 thì năng suất cao nhất, vượt quá giới hạn này, năng suất sẽ giảm. Nghiên cứu về tương quan giữa chỉ số diện tích lá với năng suất giống chè Trung du với Bộ môn cây công nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp 1 (1968 - 1971) cho thấy hệ số tương quan r = 0,72 và chỉ số diện tích lá thích hợp cho năng suất của giống chè Trung du là 6 - 8.

* Quy cách hái chè

1) Đối với chè trong thời kỳ kiến thiết cơ bản:

a) Trước khi đốn tạo hình:

- Chè 1 tuổi: từ tháng 10 bấm ngọn những cây cao 60cm trở lên.

- Chè 2 tuổi: hái búp trên những cây to khỏe và cách mặt đất 50cm trở lên.

b) Hái tạo hình sau khi đốn:

- Chè đốn lần thứ nhất: đợt đầu hái tạo hình cách mặt đất 40 - 45cm, đợt sau hài sát lá cá.

- Chè đốn lần thứ hai: đợt dầu hái cao hơn chè đốn lần một khoảng 5cm, các đợt sau hái như chè đốn lần thứ nhất.

2) Đối với chè kinh doanh:

Hái búp (tôm) và 2, 3 lá non, khi trên tán cây có 30% số búp đủ tiêu chuẩn thì hái, không bỏ sót, không để quá lứa, tận thu búp mù xòe, 7 - 10 ngày hái một lứa.

Vụ xuân (tháng 3 - 4): hái chừa 2 lá và lá cá, tạo tán bằng.

Vụ hè thu (tháng 5 - 10): hái chừa 1 lá và lá cá tạo tán bằng. Những búp vượt cao hơn mặt tán thì hái sát lá cá.

Vụ cuối (tháng 11 - 12): tháng 11 hái chừa lá cá, tháng 12 hái cả lá cá,

3) Đối với chè đốn đau và đốn trẻ lại:

- Chè đốn đau: đợt đầu hái 1 tôm 2, 3 lá, chừa 3, 4 lá và lá cá; các đợt sau hái chừa lá cá.

- Đối với chè đốn trẻ lại, hái như đối với chè kiến thiết cơ bản.

4) Yêu cầu kỹ thuật hái:

- Hái chừa đủ lá để đảm bảo sinh trưởng của cây.

- Hái đủ số lá quy định để đảm bảo sản lượng.

- Hái đúng lứa, đúng số lá quy định để đảm bảo phẩm chất.

- Phương pháp hái: hái bằng tay, khi lô chè đạt 5 tuổi trở lên được thâm canh tốt, cây có tán bằng thì có thể thu hoạch bằng kéo hoặc bằng máy.

Hình 11: Tiêu chuẩn hái

1. Hái chè vụ xuân 2. Hái chè vụ thu 3. Hái chè vụ cuối

* Đánh giá phẩm chất nguyên liệu

Phẩm chất chè nguyên liệu được đánh giá bằng phương pháp phân tích các thành phần hóa học cũng như xác định thành phần cơ giới của búp.

Những thành phần hóa học chủ yếu trong búp chè đã trình bày ở chương "Đặc tính sinh vật học".

Những thành phần cơ giới của búp bao gồm các chỉ tiêu:

Độ dài của búp

Trọng lượng búp

Tỷ lệ búp mù xòe

Tỷ lệ lá rời và lá bánh tẻ

Độ non già của búp.

Búp dài, trọng lượng lớn và búp non thì cho phẩm chất tốt. Tỷ lệ búp mù xòe cao, lá rời, lá bánh tẻ nhiều, phẩm chất xấu.

II - BẢO QUẢN NGUYÊN LIỆU

Sau khi thu hoạch, búp chè thường có hiện tượng ôi ngốt. Hiện tượng ôi ngốt là quá trình chuyển biến những vật chất hóa học ở trong lá và lá bị chuyển màu nâu từng phần hoặc toàn phần dẫn đến búp chè bị thối nhũn hoàn toàn.

Quá trình ôi ngốt làm giảm phẩm chất chè nguyên liệu và chè thương phẩm vì vật chất khô bị tiêu hao do quá trình hô hấp, phân giải, tanin bị ôxi hóa và vật chất thơm bị phân giải v.v...

Quá trình hô hấp xảy ra trong thời gian bảo quản và vận chuyển nguyên liệu:

C6H12O6 + 6 O2 → 6 CO2 + 6H2O + 674 calo

Khi thiếu ôxi sẽ xảy ra:

C6H12O6 → 2CO2 + 2C2H5OH + 26 calo

Theo Kuaxanop, quá trình hô hấp và lên men trong chè xảy ra như sau:

Catechin + O2 → Octhokinon + H2O (1)

Octhokinon + gluco → catechin + CO2 (2)

n (Octhokinon) → sản phẩm có màu (3)

Ở trong chè, hàm lượng đường có ít, do đó sau khi cạn nguồn đường để hô hấp thì tanin bị ôxi hóa làm giảm chất lượng chè. Khi gluco hết thì phản ứng (2) ngừng lại và phản ứng (3) chiếm ưu thế. Lúc này nguyên liệu chuyển từ hô hấp sang quá trình lên men. Khi bảo quản tự nhiên và vận chuyển không thuận lợi các vết dập nát do cơ giới bị lên men sớm. Octhokinon ngưng kết tạo thành màu nâu tối, catechin giảm đi và do đó ảnh hưởng đến chất lượng chè nguyên liệu.

Trong hòan cảnh cụ thể của ta ôi ngốt xảy ra ở trong chè nguyên liệu do:

- Ôi ngốt là hiện tượng tự nhiên xảy ra trong quá trình đưa nguyên liệu từ cơ sở sản xuất về nhà máy chế biến.

- Thu hoạch búp trong điều kiện nóng ẩm nhiều.

- Phương tiện thu hoạch thủ công vận chuyển khó khăn, lá chè bị nén chặt, giập nát nhiều, thời gian vận chuyển lâu...

Kết quả nghiên cứu của Viện cây công nghiệp về sự diễn biến vật chất trong búp chè do quá trình ôi ngốt như sau:

BẢNG 24: Ảnh hưởng của quá trình ôi ngốt đến thành phần sinh hóa và chất khô trong búp chè (%) (%)

Thời kỳ phân tích

Chất khô

Chất hòa tan

Tanin Đường tổng số

Cafein Pectin

Phân tích ngay sau khi hái

Phân tích khi ôi ngốt 2%

Phân tích khi ôi ngốt 5%

Phân tích khi ôi ngốt 10%

Phân tích khi ôi ngốt 20%

21,5

20,3

17,8

16,6

14,5

48,2

47,5

45,2

43,4

35,2

31,15

29,75

28,40

26,10

22,00

2,8

2,5

2,1

1,4

0,7

4,3

4,2

4,0

3,7

3,5

2,7

2,4

2,0

1,5

1,1

Số liệu trên cho thấy, ôi ngốt càng nhiều phẩm chất chè càng giảm thấp rõ rệt, do đó có ảnh hưởng đến phẩm chất chè thành phẩm.

Khi hái chè xong cần đặc biệt chú ý đến vấn đề bảo quản nguyên liệu. Bảo quản nguyên liệu phải đạt yêu cầu: thời gian vận chuyển nguyên liệu về nhà máy càng nhanh càng tốt. Trong quá trình chờ vận chuyển nguyên liệu và chờ chế biến phải rải chè trong nhà mát, thoáng. Nên rải chè thành một lớp mỏng 20

- 30 cm và cách 2 - 3 giờ phải đảo một lần. Dùng sọt cứng hoặc thùng gỗ để vận chuyển búp chè, tránh làm giập nát lá và cần chú ý che nắng.

III. CHẾ BIẾN CHÈ

Chế biến chè là một ngành công nghiệp thực phẩm phức tạp, đòi hỏi có trình độ lý luận và thực tiễn cao. Trong phạm vi giáo trình này chỉ giới thiệu một số nguyên lý chính về chế biến để tham khảo.

Như đã biết, từ cùng một nguyên liệu búp (gồm tôm và 2 - 3 lá non) có thể chế biến ra nhiều loại chè thành phẩm khác nhau.

Dựa vào tình hình sản xuất chè trên thế giới, tính chất các loại chè và đặc tính sinh hóa trong quá trình sản xuất chè, có thể phân loại như sau:

+ Phân loại theo tính chất các loại chè: gồm hai loại chính: chè đen và chè xanh.

+ Phân loại theo hình thái bên ngoài gồm có:

- Chè rời: chè đen rời (chè cánh, chè mảnh, chè vụn), chè xanh rời (chè cánh, chè mảnh, chè vụn, chè sợi, chè dẹp, chè tròn).

- Chè bánh: được chế biến từ chè đen, chè xanh hoặc chè vụn ép lại thành miếng. Các loại chè bánh đều được gia công chế biến từ các nguyên liệu già.

- Chè bột hoặc cao chè: được chế biến từ nước chè cô đặc lại và sấy khô.

+ Phân loại chè theo phương pháp gia công:

- Chè xô (không ướp hương).

- Chè hương (dùng hoa tươi hoặc hương liệu khô để ướp hương cho chè như các loại chè Ba Đình, Hồng Đào, Thanh Tâm...).

1) Chế biến chè đen:

Đặc tính của chè thành phẩm: màu nước đỏ tươi, vị dịu, có hương thơm dễ chịu.

Quá trình chế biến có thể tóm tắt như sau:

a) Giai đoạn héo chè:

Quá trình héo là làm thay đổi về sinh lý và sinh hóa của lá chè, quá trình này có liên quan đến độ ẩm trong lá và độ nhiệt môi trường. Yêu cầu của quá trình làm héo là giảm hàm lượng nước trong lá còn lại 60 - 62%, lá chè trở nên mềm, dai, thể tích lá giảm đi. Vật chất tan tăng lên do sự thủy phân các chất.

Tuy nhiên cũng có một số chất mới, không hòa tan được tạo thành. Ở giai đoạn này tanin bị giảm đi 1 - 2%, các chất có màu được tạo thành, hương thơm được hình thành (do catechin bị ôxi hóa rồi kết hợp với poliphênon hoặc alanin, hoặc asparagic). Protein biến đổi sâu sắc để tạo thành các axít amin hòa tan. Một số chất khác như vitamin C, diệp lục, tinh bột giảm đi. Cafein có tăng lên một ít do lượng axít amin tăng lên tạo điều kiện cho thành hình cafein.

Điều kiện cần thiết; độ ẩm không khí: 60 - 70%

độ nhiệt: 44 - 45oC

thời gian héo: 3 - 4 giờ

b) Giai đoạn vò chè:

Sau khi héo chè xong, tiến hành vò chè. Mục đích của giai đoạn này là dùng biện pháp cơ giới để phá hoại tổ chức của lá, tạo điều kiện cho dịch tế bào tiếp xúc với ôxi để quá trình ôxi hóa được tốt. Yêu cầu cần đạt được là làm dập tế bào khoảng 70 - 75%. Mặt khác vò chè còn nhằm tạo nên hình thức của sản phẩm (làm cho búp và lá xoăn), theo yêu cầu của thị trường để thuận lợi cho việc đóng gói và bảo quản. ở giai đoạn này sự ôxi hóa tăng lên nhiều so với giai đoạn héo.

Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 22 - 24oC; độ ẩm không khí: 90 - 92%; vò 3 lần, mỗi lần 45 phút.

c) Giai đoạn lên men:

Là giai đoạn quan trọng nhất trong chế biến chè đen. Sự lên men được tiến hành từ khi vò chè và hoàn chỉnh ở giai đoạn cuối của lên men. Các quá trình xảy ra ở giai đoạn này là quá trình lên men, quá trình tự ôxi hóa, quá trình có tác dụng của vi sinh vật (quá trình này rất thứ yếu) và quá trình tác dụng của nhiệt (có tác dụng rút ngắn thời gian lên men).

Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 24 - 26oC; độ ẩm không khí: 98%; thời gian: từ 3 đến 3 giờ rưỡi.

d) Giai đoạn sấy chè:

Bảng 25

Loại Các chỉ tiêu

ngoại hình nước hương vị bã

OP Mặt chè xoăn đều, màu đen tự nhiên có lẫn tuyết trắng

Đỏ nâu sáng

Thơm đượm

Đậm dịu và có hậu

Đỏ mềm

BOP Mặt chè xoăn, ngắn cánh đen tự nhiên.

Đỏ nâu trong sáng

Thơm dịu đậm hơn OP

Đậm dịu có hậu

Đỏ sáng đều, mềm

FBOP

Mặt chè nhỏ, tương đối đều, màu đen lẫn ít tuyết

Đỏ mận chín

Thơm dịu

Đậm có hậu

Màu đỏ mềm

P

Mặt chè nhỏ, tương đối đều, ngắn cánh hơn OP, màu đen

Đỏ nâu

Đậm thơm vừa

Đậm hơi chát

Màu đỏ nâu

PS Mặt chè hơi thô, màu đen hơi nâu

Màu đỏ nâu

Thơm nhẹ

Hơi nhạt

Đỏ hơi tối

BPS Mặt chè tương đối đều, màu đen

Đỏ nhạt

Thơm vừa

Nhạt Đỏ tối

F Mặt chè nhỏ, đều Đỏ tối Thơm nhẹ

Nhạt Nâu xám

Dust Mặt chè nhỏ Đỏ tối Thơm Chát Nâu

hơi đục

nhạt gắt tối

Mục đích của giai đoạn này là dùng độ nhiệt cao để đình chỉ các hoạt động của men, nhằm cố định phẩm chất chè và làm cho hàm lượng nước còn lại 4 - 5% theo yêu cầu của chè thương phẩm trên thị trường.

Điều kiện cần thiết: độ nhiệt 95 - 105oC

thời gian 30 - 40 phút

Sau giai đoạn sấy là quá trình chế biến chè bán thành phẩm. Qua hệ thống phân loại, phân cấp, đóng gói là giai đoạn của chè thành phẩm trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ.

Tùy thuộc vào chất lượng chè đen sản xuất ra mà phân thành các loại OP, BOP, FBOP, P, PS, BPS, F và Dust.

Các chỉ tiêu cảm quan của chè đen máy được quy định trong bảng 25 và có hương vị chè địa phương.

2) Chế biến chè xanh:

Đặc điểm của chè thành phẩm: nước xanh tươi, vị chát đậm có hương thơm tự nhiên, các vật chất ít biến đổi nên có giá trị dinh dưỡng cao.

Quá trình chế biến chè xanh, tiến hành qua các giai đoạn:

a) Giai đoạn diệt men: diệt men là dùng độ nhiệt cao để hủy diệt quá trình lên men ngay từ đầu, do đó giữ được màu xanh của diệp lục. Có thể diệt men bằng phương pháp sao, hấp hơi nước hoặc dùng dòng không khí nóng và ẩm. Diệt men còn có tác dụng làm cho búp chè héo, mềm và dai để tiện cho giai đoạn vò chè. Để đạt mục đích trên ngay từ đầu độ nhiệt phải đạt 95 - 100oC. Thời gian diệt men từ 5 - 7 phút.

b) Giai đoạn vò chè: mục đích của giai đoạn này là phá vỡ một số tế bào để tanin bị ôxi hóa có tác dụng làm giảm chát cho chè xanh và làm cho búp chè xoăn lại theo yêu cầu của thị trường. Yêu cầu độ dập tế bào đạt khoảng 45%.

Điều kiện cần thiết: độ ẩm không khí: 90%; độ nhiệt: 22 - 24oC vò 2 lần mỗi lần 30 - 45 phút.

c) Giai đoạn sấy chè: mục đích của giai đoạn này cũng như sấy chè trong chế biến chè đen.

Điều kiện cần thiết: độ nhiệt: 95 - 105oC. Thời gian khoảng 30 - 40 phút.

Sau giai đoạn sấy, tiến hành phân loại, phân cấp và đóng gói.

Tùy thuộc vào chất lượng chè xanh máy sản xuất ra mà phân thành các loại: OP, P, BP, BPS và F.

Các chỉ tiêu cảm quan của chè xanh máy được quy định trong bảng 26 và có hương vị chè địa phương.

Bảng 26: Các chỉ tiêu cảm quan của chè xanh

Các chỉ tiêu Loại

ngoại hình nước hương vị bã

OP Mặt chè xoăn, màu xanh tự nhiên có tuyết trắng

Xanh vàng sáng

Thơm mạnh

Đậm, dịu có hậu ngọt

Xanh vàng mềm

P Mặt chè tương đối đều, ngắn cánh hơn OP, xanh tự nhiên.

Xanh vàng

Thơm kém hơn OP

Chát dịu có hậu

Xanh vàng mềm

BP Mặt chè nhỏ, xoăn đều

Xanh vàng

Thơm Đậm có hậu

Xanh vàng mềm

BPS Mặt chè tương đối đều, màu xanh vàng

Xanh hơi nhạt

Thơm vừa

Chát Xanh vàng nhạt

F Mặt chè nhỏ, đều xanh vàng

Xanh nhạt không

ít thơm

Chát Xanh vàng nhạt

sáng

3) Chè hương và chè ướp hoa tươi:

Chè hương và chè ướp hoa tươi đều là những loại chè lợi dụng cách ướp hương để hấp thụ lấy những hương thơm tự nhiên của hương liệu loại hoa tươi. Người ta thường dùng chè xanh để ướp chè hương, còn dùng chè xanh chè đen để ướp hoa tươi.

- Chè hương:

Dùng hương liệu sấy khô, nghiền nhỏ rồi hỗn hợp lại đem ướp. Có nhiều loại hương liệu để ướp như hoa ngâu, hoa cúc, hạt mùi, cam thảo, quế, tiểu hồi, đại hồi.

Căn cứ vào hương và phẩm chất của từng loại mà hỗn hợp hương liệu cho thích hợp.

Quá trình ướp hương:

- Chè ướp hoa tươi:

Loại chè này ở trong nước nhiều người ưa thích. Các loại hoa tươi thường được dùng để ướp là: hoa sen, hoa nhài, hoa sói, hoa ngọc lan, hoa bưởi, hoa hồng, v.v...

Quá trình ướp hoa tươi:

CHƯƠNG VII

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ SẢN XUẤT

hè là một cây công nghiệp lâu năm có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu lớn.

Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của chè rất rộng và ngày càng tăng lên. Thiên nhiên nước ta rất phong phú và đa dạng, lực lượng lao động nông nghiệp lại rất dồi dào, chúng ta có những điều kiện cần thiết để nhanh chóng phát triển ngành chè trên quy mô lớn hàng chục vạn hecta.

I - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ QUY MÔ SẢN XUẤT CHÈ TRONG NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH VÀ HỢP TÁC XÃ

1) Phân vùng sản xuất chè:

Tính thích nghi của cây chè tương đối rộng. Hầu hết đất đai các vùng trung du và miền núi nước ta thích hợp cho cây chè phát triển; khả năng mở rộng diện tích trồng chè còn khá lớn.

Nghị quyết II của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1977), phần nói về phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp có nêu rõ: "Phát triển chè, chủ yếu ở Trung du, Miền núi Bắc Bộ, Khu 4 cũ và Tây Nguyên".

Song để tạo được một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời để kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với công gnhiệp, trước hết là công nghiệp chế biến, cần phải quy hoạch các vùng trồng chè theo hướng tập trung lớn và chuyên canh.

Kết quả bước đầu của việc điều tra quy hoạch cho thấy khả năng phát triển một số vùng chè tập trung như sau:

- Hà Tuyên: 10.000 - 12.000 ha đất trồng chè, chủ yếu ở các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Yên Sơn, Sơn Dương.

- Bắc Thái: 5.000 - 7.000 ha, tập trung ở các huyện Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa, Đồng Hỷ.

- Vĩnh Phú: khoảng 10.000 ha, chủ yếu ở các huyện Sông Lô, Sông Thao, Thanh Sơn.

- Hoàng Liên Sơn: 12.000 - 15.000 ha, tập trung ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên.

- Nghệ Tĩnh: 8.000 ha, chủ yếu ở các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Hương Sơn, Hương Khê.

- Thanh Hóa: 2.800 - 3.000 ha tập trung nhiều ở Như Xuân.

- Bình Trị Thiên: khoảng 2.200 - 2.500 ha.

- Lâm Đồng: khả năng phát triển trên 20.000 ha, chủ yếu ở Bảo Lộc, Di Linh.

- Gia Lai - Công Tum cũng có trên 10.000 ha.

Sản xuất tập trung và chuyên canh mang lại nhiều lợi ích rõ rệt: hàng hóa nông sản tăng lên nhanh chóng, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ thâm canh và hiệu quả ngành trồng chè.

Tuy nhiên, mức độ tập trung trồng chè trong các vùng không giống nhau điều đó phụ thuộc vào:

- Phương hướng sản xuất của từng vùng và địa vị ngành trồng chè trong cơ cấu kinh tế của vùng.

- Điều kiện đất đai, khí hậu và khả năng trang bị kỹ thuật sản xuất trồng trọt, chế biến và khả năng tập trung lao động.

Trong chừng mực nhất định, ta cần xét đến mối quan hệ chi phối giữa công suất nhà máy chế biến với quy mô diện tích đất trồng chè. Hiện nay ta nhập trang thiết bị của 3 loại nhà máy có công suất 13,5 tấn/ngày, 27 tấn/ ngày và 42 tấn/ ngày. Nếu tính năng suất bình quân 1ha chè kinh doanh 5 tấn búp tươi thì diện tích tương ứng là 500 - 700 ha, 1.000 - 1.400 ha và 1.500 - 2.000 ha.

Cây chè chủ yếu được trồng trong 2 khu vực nông trường quốc doanh và hợp tác xã.

Trong một vùng sản xuất thường có nhiều đơn vị sản xuất ví dụ như: vùng chè huyện Sông Lô (Vĩnh Phú) được hình thành trên cơ sở phát triển của 2 nông trường Vân Lĩnh, Vân Hùng và một số hợp tác xã trồng chè trong vùng.

2) Phương hướng sản xuất và quy mô:

Các nông trường quốc doanh và hợp tác xã trước khi tổ chức sản xuất chè cần xác định đúng đắn phương hướng sản xuất và quy mô.

Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè làm chính thì phương hướng sản xuất thường là: Chè - chăn nuôi, ngoài ra còn kết hợp một số ngành bổ sung khác như trồng hoa màu, nuôi ong.

Trong điều kiện đó, cây chè vẫn còn diện tích lớn nhất, được ưu tiên về đất đai, trang bị kỹ thuật, tiền vốn, lao động... Cây chè được tập trung thâm canh cao hơn.

Ngành chăn nuôi phát triển, chủ yếu là chăn nuôi bò, nhằm để tận dụng triệt để hơn các bãi chăn, đồng cỏ, cỏ đường lô; cung cấp thực phẩm cho xã hội và nhiều phân bón thâm canh chè.

Phát triển hoa màu tăng nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc; mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng công cụ sản xuất, cơ khí hóa và lao động.

Một số cơ sở đã chú ý đến việc nuôi ong. Đàn ong lợi dụng được nguồn hoa của chè và của một số cây hoa màu, cây rừng chắn gió hay cỏ cây thiên nhiên trong vùng.

Tổng kết 20 năm thành lập nông trường Mộc Châu cho thấy sự kết hợp giữa chè - chăn nuôi bò và cây thức ăn đã tạo thế cho nông trường phát triển thuận lợi:

- Cây chè được thâm canh cao, năng suất chè Shan đạt bình quân 120 - 140 tạ/ha, hàng năm sản xuất từ 4.000 - 4.500 tấn chè búp tươi, cung cấp cho xuất khẩu trên 700 tấn chè khô, là ngành cung cấp lãi chủ yếu hàng triệu đồng.

- Hạn chế được tính thời vụ trong sử dụng lao động, lợi dụng được hệ thống công nghiệp phục vụ.

- Hàng tháng đều có sản phẩm tiêu thụ, đã giảm được số vốn lưu thông, tăng số vòng quay của vốn từ 2 lần (1970) lên 3 lần (1975) và 5,38 lần (1977).

Đối với các xí nghiệp lấy sản xuất chè là thứ yếu, thì phương hướng sản xuất thường được xác định:

Chăn nuôi bò - chè - cây thức ăn.

Cà phê - chè - chăn nuôi.

Trong trường hợp này quy mô ngành chè không lớn, nhưng các cơ sở cũng cần phải chọn đất thích hợp, cần có quy hoạch tập trung liền vùng, vẫn phải bố trí những đội sản xuất chuyên ngành để sản xuất và quản lý.

Do sự phân chia công đoạn sản xuất và quản lý mà sản phẩm ngành chè cũng phân ra các dạng khác nhau: chè búp tươi, chè sơ chế, chè tinh chế.

Hiện nay cũng đã hình thành 2 hình thức quản lý sản xuất chè:

a) Hình thức sản xuất thứ nhất:

Chè búp tươi là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp, bản thân nông trường quốc doanh và hợp tác xã không có xưởng chế biến riêng. Chè búp tươi thu được đem giao bán cho nhà máy chế biến chè trong vùng.

Hình thức này có sự phân công chuyên môn hóa cao và hạch toán kinh tế độc lập, có điều kiện mở rộng quy mô diện tích trồng chè, nâng công suất trang bị của nhà máy chế biến. Nhìn trên phạm vi toàn cục mà xét, như vậy là có lợi. Tuy nhiên, hiện nay trong mối quan hệ lợi ích giữa các xí nghiệp còn một số tồn tại cần lưu ý giải quyết:

- Cơ sở và phương thức phân loại, đánh giá phẩm cấp các loại chè búp tươi khi đem giao bán giữa xí nghiệp nông nghiệp với nhà máy chè.

- Vấn đề giá cả về sự phân chia mức lãi và tiền được trích lập quỹ giữa hai loại xí nghiệp nhằm khuyến khích sản xuất và cải thiện đời sống người lao động nông nghiệp và công nghiệp.

- Tăng cường đầu tư cơ khí và trang bị cơ sở phúc lợi để cải tiến điều kiện làm việc và đời sống trong xí nghiệp nông nghiệp.

b) Hình thức quản lý thứ hai:

Sản xuất trồng chè và chế biến ở trong cùng một xí nghiệp, chè sơ chế (có nơi gồm cả tinh chế đóng gói) là sản phẩm cuối cùng của xí nghiệp nông nghiệp, xí nghiệp thực hiện hạch toán độc lập thống nhất, còn các đơn vị, đội chè và xưởng thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ.

Sự khép kín này được hình thành từ lâu trong nhiều nông trường quốc doanh và một số hợp tác xã. Cách quản lý này hiện nay có nhiều người ưa thích:

- Sản xuất khép kín, quản lý thống nhất, kế hoạch và sản xuất chủ động, có điều kiện xây dựng được hệ thống nông - công nghiệp, tạo thế phát triển đồng bộ, phát huy được sức mạnh tổng hợp.

- Kết hợp chế độ hạch toán kinh tế nội bộ với hạch toán độc lập của xí nghiệp, nên có thể chuyển những mâu thuẫn trên kia trở thành sự điều hòa nội bộ; trực tiếp khuyến khích sản xuất.

II. TỔ CHỨC SẢN XUẤT NGÀNH CHÈ

1) Quy hoạch đất trồng chè:

Quy hoạch đất trồng chè là một bộ phận gắn liền với nội dung quy hoạch xí nghiệp cụ thể:

- Xác định các loại đất, diện tích đất các vùng trồng chè thích hợp nhất trong xí nghiệp.

- Chọn địa điểm xây dựng xưởng chế biến, khu trung tâm, các đội chè và các lán nhập và bán chè hàng ngày.

- Bố trí hệ thống đường vận chuyển, đường lô; quy hoạch thiết kế diện tích, kích thước và hình thể của các lô trồng chè.

- Tổ chức hệ thống thủy lợi tưới, tiêu nước, rừng cây chắn gió, các công trình chống xói mòn, cây phủ đất và cây phân xanh, rác tủ. Trong thời gian đầu còn xác định khu trồng chè giống lấy hạt, vườn ươm cây con, giâm cành chè.

Cơ sở để quy hoạch đất trồng chè là:

- Dựa vào địa vị, quy mô và hình thức quản lý ngành sản xuất chè trong xí nghiệp.

- Dựa vào tính chất và địa hình đất đai, khả năng trang bị và mức độ sử dụng các loại máy móc, công cụ và kỹ thuật sản xuất chè trong xí nghiệp.

Dự kiến kế hoạch phát triển diện tích trồng chè cả nước đến năm 1985 là 109.381 ha. Trong đó Miền bắc: 80.131 ha và Miền nam: 29.250 ha.

Năng suất và sản lượng trên diện tích kinh doanh đến năm 1985 như sau:

Bảng 27

Khu vực Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

- Cả nước

Quốc doanh

Hợp tác xã

- Miền bắc

Quốc doanh

Hợp tác xã

- Miền nam

Quốc doanh

79.161

35.771

43.390

64.761

25.371

39.390

14.400

10.400

44,19

51,75

37,99

42,54

51,49

36,99

51,61

52,48

349.859

185.019

164.840

275.529

130.439

145.090

74.330

54.580

Hợp tác xã 4.000 49,37 19.750

Kinh nghiệm một số cơ sở trồng chè cho thấy:

Để tiện cho sản xuất và quản lý, trồng chè phải đảm bảo tính tập trung về không gian và thời gian. Các nông trường, hợp tác xã cần cố gắng dành đất trồng tập trung, liền đồi, liền khoảnh, cần dồn sức trồng dứt điểm từng khu vực lớn để tiện cho việc thiết kế xây dựng đồng ruộng và đầu tư các công trình giao thông thủy lợi. Quá nhiều tuổi chè sẽ hình thành rất nhiều hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, càng phức tạp thêm về công tác kế hoạch, hạch toán, tổ chức quản lý lao động và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Nói chung những khu vực trồng mới nên định hình sớm, không nên kéo dài quá 5 năm. Tùy điều kiện đất đai, địa hình từng nơi, trong một nông trường quốc doanh hoặc hợp tác xã có thể gồm 1, 2 hoặc 3 khu chuyên canh chè. Cần ưu tiên và có kế hoạch cải tạo đất để diện tích trồng chè chiếm tỷ lệ lớn nhất, ngoài ra có thể có một số cây kết hợp như cây rừng hoặc cây lâu năm khác để sử dụng hết đất đai và điều hòa lao động mùa vụ trong năm.

2) Tổ chức quá trình sản xuất chè:

Quá trình sản xuất ngành chè có thể chia ra 2 quá trình chính:

- Quá trình sản xuất trồng trọt (chè kiến thiết cơ bản và chè kinh doanh).

- Quá trình sản xuất chế biến.

Tổ chức quá trình sản xuất trồng trọt bao gồm các khâu công việc: cày bừa làm đất, trồng mới, cày xới, chăm sóc, đốn tạo hình (kiến thiết cơ bản), bón phân, phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, hái chè, đốn chè, tủ rác... (chè kinh doanh).

Tổ chức quá trình chế biến gồm có: phân loại, làm ráo nước, sạch rác, sao, vò, sấy chè, đóng bao, bảo quản chè sơ chế (phương pháp sản xuất chè xanh).

Dưới đây là một số vấn đề về quá trình sản xuất trồng trọt:

a) Sử dụng cơ giới hóa:

Mấy năm lại đây ta đã chú trọng đẩy mạnh cơ giới hóa làm đất trồng mới, đồng thời thí nghiệm cơ giới hóa các công việc cày xới chăm sóc giữa hai hàng chè. Máy kéo ĐT-54A và ĐT-75 được sử dụng có kết quả tốt trên 5 loại công việc: san ủi đất, cày, bừa, rạch hàng, làm đường. Làm 1ha đất trồng chè mới hết

23 giờ máy (23 giờ máy giảm được 635 công) và 95 công thủ công, chi phí nhiên liệu 283 đồng.

Máy kéo bánh xích ĐT-54A và ĐT-57 có thể cày trên đồi dốc 15 - 20o.

Theo tài liệu của viện công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp) ta thấy công làm và trồng 1 ha đất trồng như sau:

Cày bừa chăm sóc, xới xáo, làm cỏ giữa hai hàng chè cũng là những công việc nặng nhọc và tốn nhiều công sức, nhất là với chè kiến thiết cơ bản.

Dùng máy kéo công nông (8 - 12 mã lực) với điều kiện phải có bao chắn bảo vệ cành chè và máy kéo 2 bánh Satoh (K-170 M, 8 mã lực) có thể phay đất, xới xáo, diệt cỏ giữa hai hàng chè (khoảng cách 1,5m) hoặc cày rạch để bón phân, phun thuốc. Tuy nhiên 2 loại này nói chung công suất nhỏ, chưa đảm bảo độ sâu mong muốn, nhất là nơi đất cứng. Với những nương chè có khoảng cách hàng 1,70m - 1,80m có thể dùng máy kéo TL - 30A, TL - 45 làm việc tốt hơn, đảm bảo độ sâu và kết hợp được nhiều công việc trong và ngoài hàng chè như cày bừa, phay đất, rạch hàng sâu, phun thuốc, bơm nước, san ủi, hay đào hố để trồng cây. Nói chung khi mặt tán chè lớn, dù có bao chắn bảo vệ cành vẫn có hạn chế mức độ sử dụng các loại máy kéo này.

Có thể tham khảo quy trình mẫu về sử dụng máy kéo cỡ trung TL-30A cho chè có khoảng cách hàng 1,75m.

Định mức (công/ha)

Công việc Bậc việc Công

người Công máy

Công gia súc

11

5

4

2

80

10

20

14

1,5

10

16

1,5

3,5

1,5

2,0

0,3

0,3

0,5

5

5

I - Chuẩn bị đất

1) Cày bừa 2 lần bằng máy

2) Thiết kế lô trồng và dọn gốc cây

3) Vận chuyển phân hữu cơ (ôtô 30t/ha)

4) Chuyển rải phân vô cơ và hữu cơ

II - Trồng

5) Lấy cọc, cắm cọc, rải vôi để rạch hàng

6) Rạch hàng bằng máy

7) Chuyển rải phân vào hàng

8) Đảo phân sửa hàng để trồng

9) Bóc và chọn hạt giống

10) Bảo quản và xử lý hạt giống

11) Dăng dây, đặt và lấp hạt

12) Cắt rác (350kg/công)

13) Lấp đất, tủ rác 2 bên

Cộng

3

3

3

3

3

2

3

2

3

2

3,8 5,5

b) Tổ chức chăm sóc chè kinh doanh:

Chăm sóc chè là những biện pháp kỹ thuật rất quan trọng, bao gồm các công việc: làm cỏ, bón phân, phun thuốc trừ sâu... Đây cũng là những công việc nặng nhọc và cần kỹ thuật tốn nhiều công lao động (30 - 40% tổng số công).

Tổ chức chăm sóc chè cần chú ý:

- Xây dựng lịch công tác và xác định tiêu chuẩn kỹ thuật từng công việc.

- Điều chỉnh hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật phù hợp với điều kiện cụ thể theo mùa vụ.

- Chỉ đạo thực hiện cần quán triệt phương châm "kịp thời, tập trung dứt điểm"

Bảng 29

Công việc

Yêu cầu kỹ thuật và thời gian

Năng suất thực tế (ha/giờ)

Chi phí nhiên liệu (kg/ha)

Công điều khiển máy (giờ)

Lao động thủ công (công)

Vụ đông xuân

- Làm thoáng đất giữ ẩm

Tháng 11 phay 10cm

0,70 4,00 1,4

- Cày rạch 25 cm 0,66 4,25 1,5

- Phay lấp cành Tháng 1 0,50 5,70 2,0

- Xới cỏ gốc Tháng 2, 3

20

- Phay trừ cỏ xuân vụ hè thu

Tháng 4, 5

0,50 5,70 2,0

- Đánh cây dại 10

- Phun thuốc trừ sâu kết hợp trừ cỏ

10 lần 0,20 14,30 5,0 5

5,70 2,0 2 - Bón phân vô cơ 2 lần

phay 1 lần

0,50

39,65 13,9 37

- Có kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ công cụ vật tư lao động.

- Cải tiến quy trình, hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất.

Điều thể hiện rõ nhất hiện nay trong các cơ sở trồng chè là kết hợp hoạt động đồng thời nhiều khâu kỹ thuật, làm một việc có tác dụng đến nhiều việc và cải tiến các thao tác kỹ thuật. Ví dụ: cày chăm sóc, giữa hai àhng chè kết hợp với bón phân: xới xáo, diệt cỏ kết hợp với vùi cây làm phân.

Thay lối phun thuốc trừ sâu phân tán, theo thời gian và diện tích hái chè của từng tổ, bằng cách phun tập trung theo lối cuốn chiếu, phun gọn từng vùng. Hoặc là kết hợp với màng lưới dự tính dự báo phát hiện nơi có sâu bệnh xuất hiện để tập trung phun diệt kịp thời.

c) Tổ chức hái chè và giao nộp sản phẩm:

Trong 1 năm cây chè cho thu nhiều lứa và kéo dài khoảng 9 - 10 tháng. Hái chè chủ yếu vẫn bằng sự thành thạo của 2 bàn tay, công cụ chưa phải là yếu tố tác động trực tiếp. Công hái chè thường chiếm 60 - 70% tổng số công. Tổ chức tốt việc hái chè có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Có thể nói, mấu chốt của công tác tổ chức hái chè là làm sao tăng được ngày công giờ công và năng suất lao động. Có nhiều cách giải quyết vấn đề này:

- Trước hết năng suất hái chè phụ thuộc chủ yếu vào 2 nhân tố: trình độ thành thạo của người hái và mật độ búp chè cần hái bình quân trên 1m2 mặt tán. Hai nhân tố này quan hệ với nhau không theo tỷ lệ tương ứng.

Nói chung, trên 1m2 số búp càng tăng thì năng suất hái tăng lên và người hái khá, hái nhiều hơn người trung bình. Song dưới mức 50 búp/m2 thì chênh lệch năng suất hái giữa người khá và trung bình không lớn bằng khi hái chè có mức độ từ 50 - 120 búp/m2 mặt tán. Như vậy, có thể bố trí người khá hái trên lô có búp thấp hơn, thì có lợi cho cả 2 loại lao động.

- Tổ chức cho 2 người cùng hái một hàng và riêng mỗi người mỗi hàng cũng có năng suất hái khác nhau: xác định số hàng cho mỗi người hái để giảm bớt chiều dài đường đi và thời gian đi lại, tăng giờ đứng hái, cũng nâng cao mức hái.

- Có thể tổ chức chuyên khâu hẹp hơn, 6 - 10 người chuyên hái, có 1 người chuyên đi thu vận chuyển về lán và cùng đội giao bán, cũng tạo ra điều kiện tăng giờ, hái được nhiều chè lại đỡ nặng nhọc.

III. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH CHÈ

1) Tổ chức lao động:

Muốn tổ chức và quản lý tốt việc sản xuất chè phải tổ chức và quản lý tốt lao động.Trong xí nghiệp cần tổ chức ra các đội chuyên canh chè. Mỗi đội được phân công phụ trách một số diện tích, có trang bị một số công cụ và lao động cần thiết, tiến hành sản xuất theo kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất của xí nghiệp.

Quy mô đội chuyên canh chè lớn hay bé tùy thuộc:

- Mức độ tập trung của khu vực trồng chè

- Hình thức xí nghiệp nông trường quốc doanh hay hợp tác xã.

- Trình độ quản lý và kỹ thuật của cán bộ công nhân xã viên, cũng như mức độ sử dụng cơ khí.

Thực tiễn sản xuất ở nông trường quốc doanh cho thấy quy mô đội nên có từ 100 - 150 ha chè với 200 - 300 lao động, ở hợp tác xã thường nhỏ hơn, khoảng 45 - 50 ha với 80 - 120 lao động. Trong các nông trường quốc doanh cần tổ chức các khu dân cư theo hướng tập trung, nhằm tạo điều kiện tăng cường cơ sở phúc lợi tập thể tổ chức cải thiện đời sống cả vật chất và tinh thần.

Đội chuyên canh chè thường được chia ra các tổ sản xuất hay tổ lao động chuyên việc. Nhiệm vụ của tổ là lao động sản xuất theo yêu cầu kỹ thuật và khối lượng công việc được phân công từ đầu, hoặc có kết hợp thêm quản lý một số diện tích chè. Mỗi tổ có từ 12 - 15 người, có một tổ trưởng chăm lo sản xuất và quản lý tổ theo sự chỉ đạo trực tiếp sản xuất, được phụ cấp trách nhiệm 3 - 7% lương.

Nói chung, tổ chức lao động phải phù hợp với yêu cầu sản xuất cụ thể, song phải quản lý chặt chẽ có lãnh đạo và chỉ đạo sâu sát của đội. Cán bộ công nhân và xã viên cần có kế hoạch bồi dưỡng các mặt chính trị, văn hóa, kỹ thuật và quản lý để có năng lực sản xuất và quản lý cây chè có hiệu quả. Những công nhân mới tuyển vào sản xuất ngành chè cần nhanh chóng bồi dưỡng các phương pháp sản xuất và rèn luyện tay nghề.

2) Định mức lao động:

Sản xuất chè có nhiều công việc, gồm nhiều quá trình lao động trong những điều kiện sản xuất, tuổi chè, đất đai... khác nhau nên có nhiều mức và việc định mức khá phức tạp.

Ví dụ: dưới đây là một số định mức lao động chung do Vụ lao động và tiền lương ban hành năm 1973 dùng cho các loại chè.

Mỗi công việc thường có mức lao động bình quân chung cả năm và từng tháng, mức của xí nghiệp và của đội chuyên canh chè. Đó là căn cứ để lập kế hoạch về chi phí lao động tiền lương và khoán. Trong quá trình tiến hành lao động sản xuất, cần được cụ thể hóa ra các mức cho phù hợp đếu kiện cụ thể nơi đó, lúc đó, nhưng bình quân trở lại phải ngang với mức bình quân chung.

Định mức công

Loại chè Công người

Công máy

Công gia súc

+ Chè trồng mới

+ Chè kiến thiết cơ bản

- Loại 1 tuổi, năng suất 4 tạ/ha

- Loại 2 - 3 tuổi, năng suất 20 - 30 tạ/ha

+ Chè sản xuất kinh doanh (4 - 6 tuổi, năng suất 40 tạ/ha)

- Hái tay và không dùng dalapon trừ cỏ

- Hái tay và dùng dalapon trừ cỏ

91

148

211

337

309

3,8

1,5

1,5

2,5

2,5

5,5

11

23

15

15

Ví dụ: mức cày chăm sóc là 2 công/ha, những lô có tuổi chè thấp khoảng cách giữa hai tán chè lớn thì tăng lên 2,5 - 3 công/ha, còn chè nhiều tuổi gần giao tán chỉ cần cày 2 đường thì mức rút xuống 1,5 - 1,7 công/ha. Mức công

bừa, làm cỏ cũng được giảm xuống theo sự khép kín của tán chè. Ngược lại, năng suất chè tăng lên thì công hái chè trên 1 ha cũng tăng lên.

Cần có mức lao động đúng, song quan trọng hơn là tổ chức đưa mức đó vào sản xuất, làm cơ sở để tổ chức quản lý sản xuất, quản lý và trả công lao động. Quá trình cải tiến công tác quản lý sẽ hoàn chỉnh đúng hệ thống mức.

3) Trả công trong ngành chè:

Trả công là phân phối sản phẩm tiêu dùng cho người lao động. Hình thức trả công theo thời gian ít tác dụng. Phổ biến hiện nay là áp dụng hình thức trả công theo sản phẩm.

Ở hợp tác xã có thể thực hiện chế độ khoán việc cho nhóm và người lao động khi làm từng công việc. Đồng thời cần thực hiện tốt chế độ khoán sản phẩm cuối cùng cho đội trồng chè. Có như vậy gắn liền được trách nhiệm hàng ngày với cả quá trình trách nhiệm riêng với kết quả sản xuất chung của đội, của hợp tác xã.

Ở nông trường quốc doanh từ lâu đã thực hiện chế độ lương sản phẩm. Lương sản phẩm có hai mức độ là: trả trực tiếp theo khối lượng công việc và theo sản phẩm cuối cùng.

Nông trường quốc doanh Mộc Châu và một số nông trường quốc doanh khác trong 3 - 4 năm lại đây đã áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm cuối cùng cho các đội trồng chè. Cơ sở chủ yếu là dựa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất hàng năm nông trường giao và mức độ thực hiện kế hoạch của đội để thanh toán lương và tiền thưởng phạt. Những chỉ tiêu chủ yếu để khoán sản phẩm cuối cùng là:

- Số lượng sản phẩm và giá trị sản phẩm chè sản xuất ra trong năm.

- Tổng số tiền lương sản xuất chè trong năm.

- Giá thành đơn vị sản phẩm chè.

Chè búp tươi có nhiều loại A, B, C, D... giá trị sử dụng và giá bán mỗi loại không giống nhau. Do đó đồng thời phải giao cả hai chỉ tiêu: sản lượng và giá trị sản phẩm. Có như vậy đội mới quan tâm đến sản xuất, thâm canh chè để có nhiều chè và thu hái đúng quy cách, tăng phẩm cấp A, B, tăng giá bán, chế biến ra được nhiều sản phẩm tốt.

Quỹ tiền lương cho đội dựa trên cơ sở định mức lao động và tiền lương bậc công việc, nông trường giao cho đội theo kế hoạch các tháng trong năm. Đội được sử dụng số tiền lương theo kế hoạch và kết quả sản xuất hàng tháng (nông trường đảm bảo kiểm tra nghiệm thu về số lượng và chất lượng kỹ thuật).

Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp, tùy mức độ phấn đấu mà xác định mức tiền thưởng phạt đối với đội. Tổ chức thực hiện tốt chỉ tiêu số lượng và giá trị sản phẩm là quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu để thanh toán tiền lương "tháng 13" và các loại tiền thưởng khác.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG PHẤN ĐẤU HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT CHÈ

Hướng phấn đấu chung của ngành chè là:

- Sản xuất ra được nhiều chè có chất lượng cao cung cấp cho chế biến để có nhiều sản phẩm với chất lượng tốt phục vụ nhu cầu tiêu cùng và xuất khẩu.

- Đảm bảo chi phí hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, tăng mức lãi và thu nhập cho xí nghiệp, không ngừng cải thiện đời sống cho người lao động.

- Giá thành là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng chi phối đến lợi nhuận của xí nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm là một yêu cầu thường xuyên cần hướng mọi cố gắng của xí nghiệp nhằm phấn đấu thực hiện. Muốn hạ giá thành sản phẩm cần phải chú ý một số điểm sau đây:

1) Tăng năng suất và phẩm cấp chè, tăng sản lượng và tận thu sử dụng tốt chè cuối vụ:

Giữa năng suất với phẩm cấp chè có mối quan hệ không hoàn toàn đồng nhất. Năng suất sản lượng tăng lên do hái nhiều chè C, D, E có thể làm giảm phẩm cấp chè và ngược lại tăng phẩm cấp do hái nhiều chè A, B có thể làm giảm năng suất. Tuy nhiên khi hái nhiều chè A, B thì trước hết là tăng được nhiều lứa hái trong năm, kết hợp với việc thu hết búp mù xòe, không bỏ sót, không hái ép..., có thể vừa tăng được phẩm cấp vừa tăng được năng suất chè. Điều đó có quan hệ đến việc huy động sử dụng lao động và biện pháp chỉ đạo và kỹ thuật hái.

Có nhiều biện pháp làm tăng năng suất phẩm cấp:

- Xác định được đất và vùng trồng thích hợp.

- Chọn được những giống chè tốt có năng suất cao.

- Thâm canh ngay từ đầu, thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các biện pháp kỹ thuật.

- Tăng lứa hái, hái đúng quy cách.

- Vận dụng tốt các loại chè có thể thu hái.

2) Đề ra và chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp và quy trình kỹ thuật trồng trọt phù hợp với điều kiện cụ thể:

- Xây dựng và kịp thời bổ sung những biện pháp kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật.

- Xây dựng quy trình sản xuất tiến bộ và có thể thực hiện được.

- Mức kỹ thuật cần được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết, khí hậu, đúng lúc, đúng đối tượng và khả năng của xí nghiệp.

Có quy trình kỹ thuật và biện pháp đúng là cơ sở và tiền lệ. Điều quyết định trong thực tế là tổ chức thực hiện để vừa đảm bảo kỹ thuật, vừa nâng cao năng suất lao động, có chỉ đạo tập trung dứt điểm từng công việc lại đồng thời đảm bảo sự hoạt động đồng bộ trong toàn xí nghiệp.

3) Quản lý tốt vật tư kỹ thuật:

Thuốc trừ sâu, phân bón, quang sọt, cày bừa v.v... cần đảm bảo chất lượng tốt không để hư hỏng, mất mát. Cần xác định đủ số lượng và thể loại cần thiết không nên mua sắm quá nhiều ứ đọng vốn tốn kho tàng và công chăm sóc bảo quản, nhưng cũng không nên quá thiếu mất cân đối, không đảm bảo tính kịp thời.

Tùy loại mà có sự phân công sử dụng và bảo quản thích hợp. Những công cụ lớn quan trọng, dao kéo đốn chè sử dụng có thời vụ... nên để tập trung, khi dùng có biên nhận và trả rõ ràng, có quy định niên hạn sử dụng, mất phải bồi thường; quang sọt, cuốc, cày bừa... sử dụng hàng ngày thường phân cho đội quản lý. Một số nơi quy định công suất sử dụng và giao cho cá nhân mua sắm (hoặc xí nghiệp trang bị), bảo quản sử dụng, ví dụ:

- Quang sọt hái chè 10 đ dùng để hái 5 tấn chè: tương ứng là 10đ/5.000kg = 0,002đ/kg chè. Người hái chè tự sắm và dùng, thu dần tiền quang sọt theo lượng chè hái được. Quản lý tốt lâu hỏng thì hái được nhiều chè, thu nhiều tiền mà không phải sắm lại.

- Cuốc bàn làm cỏ 3đ/50ha = 0,06đ/ha.

- Cày bừa chăm sóc thì không tính theo diện tích (vì mức cày khác nhau trên các loại tuổi chè) mà tính theo số định múc lao động cụ thể là theo tiền lương đi cày bừa v.v...

Cách quản lý này thiết thực hơn, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động.

4) Thực hiện tốt các biện pháp để nâng cao năng suất lao động trong ngành chè:

Ngoài những biện pháp chung để nâng cao năng suất lao động cần chú ý:

- Cải tiến công cụ sản xuất, mở rộng việc sử dụng cơ giới hóa.

- Hợp lý hóa các quy trình sản xuất trong phạm vi cho phép.

- Hợp lý hóa các quá trình lao động sản xuất, kết hợp làm một việc có tác động đến nhiều khâu, chia nhỏ các công đoạn sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa cao và hợp tác.

- Cải tiến thao tác và phương pháp làm việc.

- Bồi dưỡng trình độ kỹ thuật, kỹ năng và ý thức trách nhiệm cho người lao động.

- Cải thiện đời sống và áp dụng các hình thức tiền lương tiền thưởng đúng mức để gây được tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất.

Tính bình quân 3 năm, 1 hecta chè sản xuất kinh doanh (9 - 15 tuổi) đạt sản lượng bình quân 7198 kg búp tươi với phẩm cấp A+B là 92%, giá thành bình quân 1kg búp tươi là 0,466đ cần 520 công người, 81 công bò, 697 kg đạm sunfat, 201 kg kali clorua, 10 tấn phân hữu cơ (rác, phân bò), 17 lít thuốc vofatoc và 8 kg thuốc trừ cỏ. Công lao động về hái chè là 60,2%, trừ cỏ dại 16,2%, bón phân 9,8%, đốn chè 8,4%, trừ sâu bệnh 5,4%. Một công lao động làm ra 13,8 kg búp tươi. Muốn có 100kg búp tươi cần 7,27 công.

Tóm lại, hạ giá thành sản phẩm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất chè là phải thực hiện tổng hợp nhiều biện pháp kinh tế kỹ thuật là cả quá trình phấn đấu liên tục của toàn bộ xí nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

+ Ali Zatde M.A. Sinh lý cây chè. Viện hàm lâm khoa học Azecbaijan. Bacu, 1964.

+ Bakhơtatze K.E. Sinh học, chọn tạo và nhân giống cây chè, Maxcơva, 1948.

+ Bakhơtatze K.E. Cơ sở sinh học của cây chè. Tbilixi, 1971.

+ Giginhêisvili P.L. Cây chè ở Việt Nam. Tạp chí cây trồng ở nhiệt đới, 2-1967.

+ Giginhêisvili P.L. Nghề trồng cây lâu năm ở Việt Nam. Tbilixi, 1970.

+ Gôtrôlasvili M.M. Zandastanhisvili L.G. Cơ sở sinh học của cây chè ở Gruzi. Tbilixi, 1963.

+ Đjêmukhatze K.M. Trồng trọt và sản xuất chè ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Maxcơva, 1961.

+ Đjêmukhatze K.M. Cây chè ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Maxcơva, 1976.

+ Kantaria G.I. Nghề trồng chè Tbilixi, 1960.

+ Kvaraxkhêlia T.K: Aculôva T.A. Kantaria G.I, Menagarisvili A.Đ. Nghề trồng chè Maxcơva, 1950.

+ Palarava D.T. Nghề trồng chè ở một số tỉnh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tạp chí của Viện nghiên cứu chè và cây á nhiệt đới toàn Liên Xô. Số 2-1957.

+ Piaxkhalaisvili C.X. Cơ sở khoa học của việc khai thảo nương chè. Luận án tiến sĩ nông học Maxcơva, 1969.

+ Bziava M.L. Phân bón cho cây trồng á nhiệt đới. Tbilixi, 1973.

+ Boculrava M.A. Sinh hóa chè và sản xuất chè. Maxcơva, 1958.

+ Nguyễn Ngọc Kinh. Nghiên cứu ảnh hưởng của các biện pháp đốn và tưới nước đến sinh trưởng, phát dục và sản lượng của cây chè trong điều kiện của nước Cộng hòa Apkhazia.

Luận án phó tiến sĩ nông học, Xukhumi, 1973.

+ Trang Vãn Phương. Cây chè. Maxcơva,1959.

+ Trường Đại học Lômônôxốp - Sinh lý cây trồng nông nghiệp. Tập 9 - Sinh lý cây ăn quả và chè. Nhà xuất bản Đại học - Maxcơva, 1970.

+ Eaen T. Cây chè - Luân Đôn, 1958.

+ Elliott E.C. Whiteheahd F.T. Trồng chè ở Xrilanca, 1960.

+ Othieno C.O. Tưới nước cho chè. Tạp chí Viện nghiên cứu chè Đông Phi, 1968,9 (2).

+ Sen. AR. Asim K. BisWac. Một số kỹ thuật thí nghiệm về cây chè ở Đông Bắc Ấn Độ. Tạp chí nông nghiệp thực nghiệm 1966. 2 (2).

+ Trà thụ sinh vật học. Nhà xuất bản khoa học Bắc Kinh, 1957.

+ Trà thụ sinh vật hóa học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1962.

+ Trà diệp kiểm nghiệm học. Nhà xuất bản Nông nghiệp Bắc Kinh, 1961.

+ Trà tác học.

+ Chế trà học. Nhà xuất bản Nhân dân Chiết Giang, 1961.

+ Chọn và nhân giống chè. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1961.

+ Báo cáo tình hình sản xuất chè hàng năm. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.

+ Quy trình kỹ thuật trồng chè. Vụ trồng trọt. Bộ Nông nghiệp.

+ Một số tạp chí:

- Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp.

- Tập san nghiên cứu kinh tế.

- Thông tin khoa học và kỹ thuật cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc.

- Khoa học về cây chè (tiếng Trung Quốc).

- Cây trồng á nhiệt đới (tiếng Nga).