bÀi thuyẾt trÌnh mÔn tÀi chÍnh quỐc tẾ

39
BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài 12 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ - NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC I. Giới thiệu đề tài. Hơn một năm trước, ngày 15/9/2008, Lehman Brothers International châu Âu (LBIE), chi nhánh đặt tại London của Lehman Brothers Holdings (Mỹ) tuyên bố đóng cửa, để lại 839.000 giao dịch không thành công, trị giá hàng tỷ đô la treo trong không khí. Đây là phát súng đầu tiên, châm ngòi cho sự lan rộng và leo thang của khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, dẫn tới cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất của kinh tế thế giới trong vòng hơn 6 thập kỷ qua. Hàng nghìn tỷ USD “bốc hơi” kéo theo là nợ quốc gia, GDP thu hẹp, thất nghiệp tăng... Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một năm qua đã làm thay đổi mọi mặt đời sống thế giới và trật tự kinh tế quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm thay đổi nhiều mặt đời sống xã hội, cán cân quyền lực đang dịch chuyển từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam với sự “hụt hơi” của các các nước phát triển và sự nổi lên củanhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc). Theo ước tính mà hãng tin BBC (Anh) đưa ra nhân dịp một năm khởi phát cuộc khủng hoảng, các các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã chi tổng số 10,8 nghìn tỷ USD cho việc chống khủng hoảng. Trong đó, các nước giàu chi 9,2 nghìn tỷ USD, Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác chi 1,6 nghìn tỷ USD. Anh và Mỹ là hai quốc gia chi nhiều nhất. Tại Anh, số tiền chi ra để chống khủng hoảng là 2,4 nghìn tỷ USD, chiếm 94% GDP của nước này, bình quân 30.000 USD/người dân. Tại Mỹ, số tiền chống khủng hoảng là 3,6 nghìn tỷ USD chiếm 25% GDP, bình quân 10.000 USD/đầu người. Những con số trên đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đang trải qua.

Upload: nguyen-van

Post on 26-Jun-2015

732 views

Category:

Documents


10 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Đề tài 12

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ - NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC

I. Giới thiệu đề tài.

Hơn một năm trước, ngày 15/9/2008, Lehman Brothers International châu Âu (LBIE), chi nhánh đặt tại London của Lehman Brothers Holdings (Mỹ) tuyên bố đóng cửa, để lại 839.000 giao dịch không thành công, trị giá hàng tỷ đô la treo trong không khí. Đây là phát súng đầu tiên, châm ngòi cho sự lan rộng và leo thang của khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, dẫn tới cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất của kinh tế thế giới trong vòng hơn 6 thập kỷ qua. Hàng nghìn tỷ USD “bốc hơi” kéo theo là nợ quốc gia, GDP thu hẹp, thất nghiệp tăng... Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một năm qua đã làm thay đổi mọi mặt đời sống thế giới và trật tự kinh tế quốc tế.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm thay đổi nhiều mặt đời sống xã hội, cán cân quyền lực đang dịch chuyển từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam với sự “hụt hơi” của các các nước phát triển và sự nổi lên củanhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc).

Theo ước tính mà hãng tin BBC (Anh) đưa ra nhân dịp một năm khởi phát cuộc khủng hoảng, các các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã chi tổng số 10,8 nghìn tỷ USD cho việc chống khủng hoảng. Trong đó, các nước giàu chi 9,2 nghìn tỷ USD, Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác chi 1,6 nghìn tỷ USD. Anh và Mỹ là hai quốc gia chi nhiều nhất. Tại Anh, số tiền chi ra để chống khủng hoảng là 2,4 nghìn tỷ USD, chiếm 94% GDP của nước này, bình quân 30.000 USD/người dân. Tại Mỹ, số tiền chống khủng hoảng là 3,6 nghìn tỷ USD chiếm 25% GDP, bình quân 10.000 USD/đầu người.

Những con số trên đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đang trải qua.

II. Nội dung nghiên cứu chính.

Để có thể hiểu hơn về bản chất cũng như những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ, nhóm chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân và bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính này.

1. Sơ lược về diễn biến và hậu quả cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ:

1.1. Diễn biến khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ:

- 06/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.

Page 2: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

- 09/08/2007, FED buộc phải bơm hàng tỷ USD ra thị trường trước nguy cơ hệ thống ngân hàng bị suy sụp. Người ta biết thêm một từ mới thông dụng trong nền kinh tế: Cho vay thế chấp thứ cấp - một phương thức cho vay tồi tệ ở Mỹ đã tạo nên những khoản nợ độc hại.

- 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.

- 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.

- 11/01/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỷ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.

- 17/02/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.

- 28/02/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ EUR.

- 16-17/03/2008: ngân hàng Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 USD một cổ phiếu.

- 29/04/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.

- 11/07/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.

- 31/07/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.

- 07/09/2008: Cục Dự trữ Liên bang (FED) và Bộ Tài chính Mỹ chi 200 tỷ USD đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.

- 14/09/2008: Bank of America cho biết sẽ mua lại ngân hàng Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của ngân hàng Lehman Brothers. FED bơm thêm 70 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng của Mỹ.

Page 3: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

- 15/09/2008: Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group (AIG)- tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.

- 16/09/2008: Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman Brothers với trị giá 1,75 tỷ USD.

- 19/09/2008: Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.

- 20-21/09/2008: FED công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.

- 22/09/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman Brothers tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman Brothers tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần của ngân hàng Morgan Stanley.

- 23/09/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie Mae, Freddie Mac, AIG và Lehman Brothers vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.

- 25/09/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.

Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.

- 29/09/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.

9 tháng đầu năm 2008, General Motors (GM) tập đoàn sản xuất ô tô lớn nhất nước Mỹ có lịch sử gần một trăm năm tuổi công bố lỗ 18.5 tỷ USD.

- Quý III/2008: GDP Mỹ giảm 0.5% (so với cùng quý của năm trước).

- 01/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh

Page 4: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.

- 03/10/2008: Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu. Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ G. Bush đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.

- 04/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ.

- 07/10/2008: Anh chi 88 tỷ USD cứu hệ thống ngân hàng.

- 12/10/2008: Chính phủ Iceland có nguy cơ sụp đổ vì khủng hoảng tài chính, do ngân hàng trung ương của Iceland sụp đổ, có thể nói đây là vụ sụp đổ lớn cấp quốc gia do khủng hoảng.

Tháng 10/2008 cũng là thời điểm cuộc khủng hoảng tín dụng chuyển hóa thành cuộc suy thoái kinh tế, Ngày 11/10 lãnh đạo các nước công nghiệp phát triển G7 đề xuất 5 giải pháp đối phó, trong đó có việc tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng, giảm lãi suất cơ bản. Ngày 19/10 Hàn Quốc công bố gói cứu nguy 130 tỷ USD, tiếp theo là Hà Lan 13,4 tỷ USD cứu Ngân hàng ING, Thụy Điển 205 tỷ USD và Anh Quốc tiếp tục bơm thêm 250 tỷ USD vào hệ thống tài chính. Các nước Nhật Bản, Úc cũng công bố những gói cứu nguy lớn.

Đáng chú ý là lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và công bố gói kích cầu 586 tỷ USD, đặt trọng tâm vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ doanh nghiệp. Tình hình kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục xấu đi nhanh chóng.

- 27/10/2008: IMF bơm tiền hỗ trợ hàng loạt nền kinh tế.

- 05/11/2008: Ông Barack Obama đắc cử Tổng thống Mỹ, với đường lối kinh tế được thế giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Mỹ và toàn cầu.

- 08/11/2008: các báo đồng loạt giật tít khi 2 tập đoàn ô tô lớn nhất Mỹ: GM lỗ 2,5 tỷ USD, Ford lỗ hơn 3 tỷ USD trong quý 3.

- 14/11/2008: 15 nước châu Âu thừa nhận lâm vào suy thoái.

- 17/11/2008: Nhật thông báo đã suy thoái.

Khoảng giữa tháng 12/2008, Bernard Madoff, một tên tuổi lẫy lừng của thị trường tài chính New York, cựu chủ tịch thị trường chứng khoán Nasdaq, một cố vấn đầu tư  có ảnh hưởng lớn đã xây dựng được một cơ sở mua bán chứng khoán thịnh vượng suốt hơn 40 năm qua. Ông đã bị nhà chức trách liên bang cáo buộc lừa đảo lên tới cả chục tỷ USD

Page 5: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

tiền đầu tư của khách hàng, có lẽ đây là một trong những vụ lừa đảo lớn nhất trong lịch sử thị trường chứng khoán Hoa Kỳ.

- 22/12/2008: chính quyền Mỹ vừa thông qua kế hoạch cho ba "đại gia" ôtô đang bên bờ vực phá sản là GM, Chrysler và Ford vay 17,4 tỷ USD.

- Quý IV/2008: GDP Mỹ giảm 5.4% (so với cùng quý của năm trước).

- 09/01/2009: Obama chính thức được bầu làm tổng thống Mỹ.

- 19/01/2009: Obama lên làm tổng thống nước Mỹ.

- 10/02/2009: Thượng viện Mỹ thông qua gói kích thích kinh tế trị giá 838 tỷ USD của Tổng thống Mỹ Obama.

- 02-03/03/2009: Bộ tài chính và FED đã tung ra gói kích thích 230 tỷ USD, cụ thể ngày 2 rót thêm 30 tỷ USD để “giải cứu” Tập đoàn Bảo hiểm hàng đầu thế giới của Mỹ - AIG thoát khỏi cơn sóng gió tài chính. Ngày 3 “tung” ra gói kích thích tín dụng tiêu dùng trị giá 200 tỷ USD. Người dân Mỹ kỳ vọng gói kích cầu này sẽ giúp nền kinh tế đang suy sụp của họ nhanh chóng lấy lại trạng thái cân bằng.

- 04/03/2009: Chính phủ Mỹ công bố những nội dung chi tiết trong bản đề án viện trợ nhà ở. Đề án này sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn cho 9 triệu hộ gia đình Mỹ đang gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản vay “khổng lồ” cho kế hoạch mua sắm nhà cửa của mình.

- 05/03/2009: Ngân hàng Trung ương Anh tuyên bố tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản từ 1% xuống còn 0,5% - mức thấp kỷ lục từ trước đến nay. Để ứng phó với tình trạng suy thoái kinh tế trong khu vực các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) chủ trương cắt giảm lãi suất từ 2% xuống còn 1,5%. Cùng ngày, ông Jean-Claude Trichet – Chủ tịch ECB cho biết, có khả năng ECB sẽ phải tiếp tục tiến hành cắt giảm lãi suất.

- 06/03/2009: Số liệu công bố của Bộ Lao động Mỹ cho thấy, trong tháng 02/2009, con số cắt giảm lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Mỹ đã lên đến 651.000 người và chỉ số thất nghiệp của nước này là 8,1% - mức cao nhất kể từ năm 1983.

Trong quý 1/2009 Goldman Sachs cho biết lợi nhuận đạt 1,81 tỷ USD, Ngân hàng Morgan Stanley vừa công bố thua lỗ hơn dự tính và sẽ thực hiện cắt giảm cổ tức. Trong khi ngân hàng lớn thứ 4 Mỹ về mặt tài sản, Wells Fargo công bố lợi nhuận đạt 3,05 tỷ USD.

- Quý I/2009: GDP Mỹ giảm 5.7% (so với cùng quý của năm trước).

- 30/04/2009: Chrysler đã chính thức tuyên bố phá sản

- 01/06/2009: GM đã chính thức đệ đơn xin bảo hộ phá sản.

Page 6: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Theo các báo cáo của quý 2 vừa công bố, Goldman Sachs đạt mức lợi nhuận tăng gần 90% so với quý trước, JPMorgan Chase cũng có lợi nhuận 2,7 tỷ USD. Thậm chí cả Bank of America èo uột như thế cũng làm các nhà phân tích ngạc nhiên khi đạt mức lợi nhuận đã trừ thuế là 3.2 tỷ USD. Citigroup công bố lợi nhuận đạt 4,28 tỷ USD.

Quý II/2009: GDP Mỹ giảm 0.7% (so với cùng quý của năm trước).

Trong quý 3/2009 Goldman Sachs Lợi nhuận ròng trong khoảng thời gian đạt 3,19 tỷ USD. Bank of America thua lỗ 1 tỷ USD. JPMorgan Chase lợi nhuận đạt con số 3,59 tỷ USD. Wells Fargo công bố lợi nhuận đạt 3,24 tỷ USD. Citigroup công bố lợi nhuận đạt 101 triệu USD.

Quý III/2009: GDP Mỹ tăng 3.5% (so với cùng quý của năm trước).

- 23/10/2009:Nhà chức trách Mỹ đóng cửa thêm 7 ngân hàng, nâng tổng số ngân hàng đổ vỡ ở nước này từ đầu năm lên 106.

- 03/11/2009: Ford gây ngạc nhiên bằng khoản lãi 1 tỷ USD trong quý III.

1.2. Hậu quả của khủng hoảng:

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới.

- Tính ra thiệt hại tương đương 1/5 sản lượng kinh tế toàn cầu đã biến mất. Chi phí để khắc phục cuộc khủng hoảng này có thể lên tới 11900 tỷ USD, theo ước tính của IMF. Riêng thị trong thị trường Mỹ có đến hơn một trăm ngân hàng với nhiều tập đoàn xe hơi bị phá sản và bị thâu tóm. Thâm hụt ngân sách của Mỹ lên tới 1417 tỷ USD (16/10/2009).

- Tỉ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã lên tới 10.2% (tính đến 06/11/2009).

- Tỉ giá USD với các đồng ngoại tệ mạnh: USD mất giá khoảng 38% so với GBP (từ ngày 15/07/2008 đến 20/11/2009). USD mất giá khoảng 21% so với EUR (từ ngày 14/07/2008 đến 20/11/2009).

- Gía vàng biến động mạnh, tăng gần gấp đôi (từ ngày 15/07/2009 đến 20/11/2009). Có thể giải thích cho biến động giá vàng này là do 3 nguyên nhân: vàng là kênh trú ẩn an toàn trong khủng hoảng, do đồng usd mất giá, do lạm phát.

- Chứng khoán hiện tại DJ mất khoảng 28% giá trị từ lúc tạo đỉnh. Nếu xét từ đỉnh đến đáy thì DJ mất gần 43% giá trị. Thị trường chứng khoán mất hơn 7000 tỷ USD so với đỉnh lúc trước.

- Giá dầu đến hiện tại giảm gần một nữa so với lúc tạo đỉnh (giảm gần 4.5 lần từ lúc tạo đỉnh 147 USD/thùng đến lúc tạo đáy 34 USD/thùng). Giá dầu giảm có thể giải thích là do khủng hoảng dẫn đến nhu cầu sử dụng năng lượng giảm.

Page 7: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Tuy vậy, khủng hoảng không chỉ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế mà đồng thời cũng có những tác động tích cực khác:

- Nâng cao khả năng quản lý và điều hành trong hệ thống tài chính.

- Đối với doanh nghiệp có thể mở rộng thị phần mà ít tốn chi phí hơn thông qua các cuộc thâu tóm hay các doanh nghiệp khác từ bỏ thị phần…Củng cố vị trí vai trò của doanh nghiệp mình trên trường quốc tế.

- Góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

2. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính Mỹ.

Tuy có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau của những chuyên gia về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nhóm xin đưa ra những nguyên nhân mà nhóm cho rằng đó là lý do chính gây nên cuộc khủng hoảng.

2.1. Khủng hoảng nợ dưới chuẩn: qua 3 bước

Bước 1: Theo Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) sau 10 năm phát triển, quãng thời gian mở rộng dài nhất của kinh tế Mỹ, việc nước Mỹ bước vào suy thoái vào đầu những năm 2000 đã được dự báo trước. Không những thế chịu ảnh hưởng mạnh từ vụ tấn công khủng bố 11/9, và scandal kiểm toán. Mọi chuyện được châm ngòi bởi sự đổ vỡ hàng loạt của các công ty trong cuộc "khủng hoảng chấm com", tạo ra một làn sóng phá sản của các công ty công nghệ và tin học.

Bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.

+ Lãi suất thấp, những người trước kia có ý muốn mua nhà nhưng vì lãi suất cao, khó kiếm thu nhập để trả lãi; bây giờ lãi suất thấp, vay mua nhà thì sẽ dễ trả hơn. Trên phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo, không có thu nhập ổn định và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Từ đó số lượng người vay mua nhà tăng lên. Bên cạnh đó, lãi suất thấp còn kích thích giới đầu cơ vay mua nhà để đầu cơ, sau này bán lại kiếm lợi. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.

Page 8: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Do đó, cầu về nhà tăng lên làm giá nhà tăng - đây là điều dễ hiểu, vì đó là cung cầu trên thị trường, tác động đến giá cả.

Lãi suất mà Fed duy trì trong những năm 2002-2009

Nguồn: “Việt Nam và cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall” – Thang Long SECURITY

Tuy nhiên, nêu chỉ tuân thủ theo nguyên tắc nhằm đáp ứng những nhu cầu này thì không có vấn đề gì nghiêm trọng xảy ra. Ở Mỹ có hình thức cho vay dưới chuẩn (trong 3 hình thức cho vay: Nợ đạt chuẩn, nợ gần chuẩn, nợ dưới chuẩn) là hình thức ngân hàng cấp cho khách hàng món vay mua bất động sản trong khi khách hàng đó không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, sau khi cấp khoản vay này, ngân hàng còn cho chính khách hàng này vay để trả khoản nợ mua nhà đó.

Cụ thể hơn, để khuyến dụ nhiều người mua nhà thì các công ty tài trợ địa ốc ở Mỹ đã dùng nhiều “thủ thuật tài chính” và tung ra những sản phẩm vay trả góp mới mà thông dụng nhất là cái gọi là “Option ARM”. ARM là chữ viết tắt của Adjustable Rate Mortgage (lãi suất thả nổi).

Theo thí dụ trên, khi vay 205.000 USD theo “Option ARM” thì mỗi tháng người đi vay sẽ nhận được một phiếu đòi nợ, cho phép họ chọn một trong bốn phương cách trả nợ như sau:

a. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 30 năm là 1.398 USD

b. Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu 15 năm là 1.871 USD

c. Trả tiền lời là 1.239 USD (205.000 x 7,25% / 12)

d. Trả mức tối thiểu là... 758 USD

Page 9: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Con số 758 USD tối thiểu này được tính dựa trên một phân lãi “chào mời” (introductory rate) ở mức rất thấp, chẳng hạn như 2% (vay 205.000 USD chiết khấu trong 30 năm với phân lãi 2% thì phải trả mỗi tháng 758 USD). Đây chỉ là phân lãi “quảng cáo” để lôi kéo khách hàng, thường có hiệu lực rất ngắn - trong một hay hai tháng đầu - và thực sự chỉ dùng để tính số tiền trả góp tối thiểu hàng tháng trong năm đầu tiên.

Số tiền này sau đó sẽ tăng lên, nhưng không quá 7,5% mỗi năm. Năm đầu tiên trả mỗi tháng 758 USD thì sang năm thứ nhì sẽ trả 815 USD, và năm thứ ba 876 USD... Người vay được cho biết là họ có thể trả góp tối thiểu theo cách này trong năm năm và bước sang năm thứ sáu thì món nợ sẽ được “tính lại” (recast)!

Tuy nhiên cái mấu chốt của vấn đề mà rất ít người đi vay để ý đến là như sau: vì lãi suất chính vẫn là 7,25% nên chỉ riêng phần tiền lời mỗi tháng đã là 1.239 USD. Tuy nhiên người vay chỉ trả có 758 USD (tính trên lãi suất “chào mời” 2% và trong thời gian đầu thì hầu hết là để trả tiền lời) nên mỗi tháng sẽ hụt đi khoảng 481 USD.

Số tiền thiếu hụt này sẽ được đưa vào số nợ gốc và số nợ cứ thế mà tăng dần (thay vì sẽ giảm đi nếu trả nợ theo hai hình thức chiết khấu đầu tiên nói trên). Tuy bảo là sau năm năm sẽ “tính lại”, nhưng thực sự thì khi số tiền vay vượt quá một mức hạn định - như 110% - của số nợ gốc ban đầu thì ngân hàng sẽ... “tính lại” ngay lập tức.

Nếu điểm “tính lại” xảy ra vào cuối năm thứ ba thì lúc ấy số nợ sẽ là 225.500 USD và thời gian còn lại để trả nợ sẽ là 27 năm. Nếu lãi suất lúc ấy vẫn là 7,25% thì người vay sẽ phải trả 1.588 USD mỗi tháng. Nên nhớ rằng ngay vào cuối năm thứ ba, người đi vay chỉ trả mỗi tháng 876 USD. Bước sang đầu năm thứ tư, người ấy phải chịu một cú sóc lớn khi số tiền trả nợ hằng tháng, sau khi bị “tính lại” đã nhảy vọt lên đến 1.588 USD nghĩa là tăng 80%!

Trở lại thí dụ trên, nếu chọn Option ARM thì chỉ cần trả 758 USD (thay vì 1.400 USD) mỗi tháng là có thể vay được 205.000 USD một cách nhẹ nhàng. Như vậy, người có khả năng trả 1.400 USD, thay vì an phận với ngôi nhà nhỏ thì nay lại có thể dùng Option ARM để vay được 380.000 USD mà mua một ngôi nhà lớn hơn.

Với giá nhà liên tục gia tăng và lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn sàng cho vay không cần tiền đặt cọc, cũng chẳng đòi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại không hề quan tâm đến “điểm tín dụng”!

Với cách cho vay quá dễ dàng này thì những người trước đây bị ngân hàng... chê là “không đạt tiêu chuẩn”, nay có thể vay trả góp thoải mái. Thế là vô số những khách hàng chưa hề có lý lịch vay mượn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc không đủ khả năng trả góp hàng tháng cho đến những người đã bị phá sản... cũng nghiễm nhiên trở thành chủ nhân những ngôi nhà to lớn, khang trang. Tất cả những món nợ cho các khách hàng này đều được xếp vào cái gọi là “nợ dưới chuẩn”.

Sở dĩ có điều này là do, cả ngân hàng và khách hàng đều hiểu rằng, giá nhà tăng là nguồn trả nợ của khách hàng khi thị trường đi lên.

Page 10: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Bên cạnh đó, việc chứng khoán hóa các khoản cho vay này, tạo thành các chứng khoán phái sinh như MBS, ABS, CDO, CDs, bán chứng khoán ra giới đầu tư đã kéo nhiều tổ chức tài chính tham gia vào lĩnh vực này. Việc mua các chứng khoán này sẽ được đảm bảo bằng nguồn thu chủ yếu từ các khoản cho vay bất động sản này, cộng với các khoản cho vay khác. Tuy nhiên, việc chứng khoán hóa thực hiện qua nhiều giai đoạn và nhiều tổ chức khác nhau, khi các nhà đầu tư nắm giữ các chứng khoán này cũng không biết rõ nó có nguồn gốc từ đâu, chỉ biết tổ chức phát hành là ai.

Xin nói sơ qua về sự hình thành và mua bán MBS - chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS). Tuy công cụ đầu tư phát sinh này rất phức tạp và đa dạng nhưng có thể đề cập đến một thể loại đơn giản nhất như sau.

Fannie Mae, hoặc là một công ty tài chính khác như Lehman Brothers, bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các ngân hàng thương mại, tập trung chúng thành từng loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư.

Ví dụ:, Fannie Mae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie Mae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư A mua 10

Page 11: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

MBS thì sẽ trả 20.000 USD.

Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó.

Tóm lại, nếu không có gì trục trặc thì sau khi hết khoảng thời gian nhận lại tiền, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là trên 20.000 USD (tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng năm). Các MBS dựa trên các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ đem lại lời nhiều hơn cho các nhà đầu tư.

` Ngoài ra, xin chú thích thêm về các loại chứng khoán phái sinh khác:

- ABS (Asset-Backed Securities): Chứng khoán bảo đảm bằng tài sản được hình thành từ những năm 1990 nhưng thực sự phát triển mạnh vào năm 2003. Chúng được thực hiện như sau: Các tài sản thế chấp và cho vay nhiều rủi ro khác được gộp chung lại, sau đó chia thành từng phần nhỏ dựa theo khả năng thanh toán. Phần ít rủi ro nhẩt được gọi là“chuẩn” và các phần rủi ro hơn được gọi là “dưới chuẩn” với nhiều mức độ khác nhau, tất nhiên độ rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn.

- CDO (Collateralized Debt Obligations): Hợp đồng vay nợ có đảm bảo, được dùng với cả ABS, vay subprime (những khoản vay dưới chuẩn, lãi suất cao) và trong một số trường hợp là cả tín dụng phái sinh.

- CDS (Credit Default Swaps) - Hợp đồng bảo hiểm tín dụng: Hợp đồng bảo đảm cho các khoản đầu tư MBS trong trường hợp những người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường.

Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này chính là credit default swap (CDS), với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường.

Sự việc này đã tạo nên một loạt chân rết mới, kéo thêm các thành phần khác nhảy vào cuộc chơi, bởi vì bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất động sản đang phất lên và ít người vỡ nợ thì rất có lời.

Qua phân tích trên, rõ ràng các ngân hàng chủ yếu gia tăng về tài sản dài hạn của mình.

+ Về nguồn vốn để cho vay: Các ngân hàng Mỹ chủ yếu lấy từ các khoản vay ngắn hạn để có vay dài hạn, và càng mở rộng tài sản càng tăng nợ ngắn hạn của ngân hàng. Do việc vay vốn ngắn hạn rẻ hơn chi phí vốn dài hạn, nên các ngân hàng chủ yếu huy động vốn từ nguồn này.

Page 12: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Kết quả: Tỉ lệ Vốn /Tài sản giảm xuống từ khi Fed áp dụng chính sách giảm FFR cho đến năm 2004, trong khi tỉ lệ Nợ / Tài sản tăng lên, có khi lên đến 97. Các khoản Repo Overnight chiếm đến 40%. Vì đây là nguồn vốn cực ngắn nên tạo ra một tiềm tàng rủi ro trong quản trị thanh khoản của mỗi ngân hàng.

Nói sơ qua về FFR, các NHTM của Mỹ, giống như các nước sử dụng hệ thống ngân hàng với dự trữ một phần (fractional reserve system), bị buộc phải giữ một lượng tiền mặt nhất định tại Cục Dự trữ Liên bang. Lượng tiền này, gọi là Fed funds, trên tổng số tiền gửi không kỳ hạn, ít nhất phải bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà FED đặt ra (hiện tại là 10%). Vì số tiền dự trữ bắt buộc này (Fed funds) không được trả lãi suất nên các NHTM Mỹ luôn giữ ở mức sát với tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Khi một NHTM có nguy cơ không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng đó phải vay trên thị trường liên ngân hàng lượng Fed funds còn thừa của các ngân hàng khác. Lãi suất cho vay Fed funds được FED ấn định và gọi là Fed funds rate.

Bước 2: Sau giai đoạn giảm lãi suất này, Fed nhận thấy việc áp dụng lãi suất thấp gây ra áp lực lạm phát và hình thành bong bóng bất động sản, do đó đã tiến hành tăng lãi suất từ giữa năm 2004 đến giữa năm 2006 đạt mức 5.25% bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao. Lãi suất tăng cao tác động đến khả năng trả nợ của những người đi vay trước kia:

Lãi suất cao, khoản lãi trả tăng lên, những người đi vay không có khả năng trả nợ, họ tiến hành bán nhà để trả khoản nợ đó. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại. Đồng thời những người có nhu cầu mua nhà để sinh hoạt cũng giảm nhu cầu mua nhà của mình xuống do lãi suất cao. Chính vì lý do này kéo nhu cầu mua nhà giảm xuống làm giá nhà giảm.

Bước 3: Khi giá nhà giảm, các nhà đầu tư trên thị trường bắt đầu phản ứng của mình:

Nhu cầu giảm tác động đến giới đầu tư: Sự giảm giá nhà dẫn đến việc bán nhà để cắt lỗ trước khi quá muộn. Thị trường bất động sản đóng băng do sự giảm giá, kéo theo tài sản của ngân hàng giảm, ngân hàng phải phát mãi tài sản đang nắm giữ: MBS, ABS nhằm đảm bảo các chỉ tiêu về họat động của mình. Thế nên giá các tài sản này giảm xuống.

Về phần nguồn vốn của mỗi ngân hàng, việc vay trên thị trường liên ngân hàng có dấu hiệu sụt giảm: một phần do lãi suất tăng, một phần việc cho vay không an toàn do sự đi xuống của thị trường bất động sản. Do đó, làm cho ngân hàng thiếu vốn huy động được từ liên ngân hàng.

Page 13: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Việc sụt giảm của thị trường, tác động đến tâm lý của người gửi tiền do nhận thấy bảng cân đối kế toán của các ngân hàng đang trở nên xấu đi, do đó số lượng người rút tiền tăng lên. Đòi hỏi các ngân hàng phải thanh lý tài sản (MBS, ABS) của mình để có tiền mặt.

Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ khó đòi, các trái phiếu MBS mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này không những bị lỗ nặng và mất cả khả năng thanh toán.

Theo ước tính của nhiều chuyên gia trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng 4.000 tỷ USD là nợ xấu. Các nước khác cũng bắt chước Hoa Kỳ và bán ra loại trái phiếu phái sinh MBS này trong thị trường tài chính của họ.

Vì vậy trên toàn thế giới tổng số nợ bất động sản khó đòi và tổng số MBS bị “nhiễm độc” chưa thể tính hết được. Bear Stern, Indy Mac, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Meryll Lynch, Washington Mutual, Vachovia, Morgan Stanley, Goldman Sachs v.v. (Mỹ), New Century Financial, Northern Rock, HBOS, Bradford & Bringley (Anh quốc), Dexia (Pháp-Bỉ-Luxembourg), Fortis, Hypo (Đức-Bỉ), Glitner (Iceland) hoặc bị lung lay hoặc bị ngã gục.

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài chính phát triển vì những lí do đã nói trên. Hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ sẽ bị sụp đổ, sẽ bị sáp nhập hoặc quốc hữu hóa. Tín dụng toàn cầu sẽ bị co rút lại. Các tập đoàn sản xuất kinh doanh sẽ gặp khó khăn tiếp cận nguồn vốn vay ngắn hạn và dài hạn.

Đối với từng khu vực, từng lĩnh vực, tác động sẽ khác nhau vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế thực tế trong lĩnh vực vay trả nợ, xuất nhập khẩu, đầu tư kỹ thuật, công nghệ, những nước nào hoặc những khu vực nào phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng lớn và bị tác động trực tiếp.

2.2. Sự chạy theo lợi nhuận một cách mù quáng.

Lỗi chính là ở các tập đoàn tài chính quá tham lam và vô trách nhiệm. Đây là kết luận của hầu hết các nhà phân tích khi nhìn lại nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay.

Bắt đầu với chuyện “chứng khoán hóa” các khoản vay dưới chuẩn để mua đi bán lại kiếm lời. Từ năm 2004-2007, bảng cân đối kế toán của Lehman Brothers tăng thêm 300 tỉ đô la nhờ mua chứng khoán có nguồn gốc là các khoản vay địa ốc trong khi nguồn vốn chủ sở hữu chỉ tăng 6 tỉ đô la.

Cái gọi là đòn bẩy tài chính được tận dụng khi chứng khoán mua vào được sử dụng làm vật thế chấp để vay mua chứng khoán khác, cứ thế một đồng đô la tài sản thật sẽ được biến hóa thành hàng trăm đồng đô la tài sản ảo chỉ hiện diện trên sổ sách. Chừng

Page 14: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

nào lãi suất còn ở mức thấp thì Lehman Brothers vẫn còn báo lãi nhưng một khi lãi tiền vay cao hơn chênh lệch mua bán thì họ bắt đầu chuỗi ngày dài lỗ nặng. Trong trường hợp của Lehman, giá trị tài sản gấp 31 lần vốn chủ sở hữu cho nên nếu giá trị tài sản chỉ cần giảm 3% thì toàn bộ vốn chủ sở hữu sẽ mất tiêu!

Đương nhiên các tập đoàn tài chính biết những rủi ro này nhưng chính vì những khoản tiền thưởng hậu hĩ cho những ai mua bán, giao dịch nhiều càng làm các giới quản lý bất chấp trách nhiệm, liều lĩnh lao vào vòng xoáy mua bán chứng khoán. Dù sao, họ vững tin, nếu có chuyện gì, chính phủ sẽ phải cứu để toàn bộ thị trường khỏi sụp đổ và quan trọng hơn hết, nếu phá sản, chỉ có giới đầu tư chịu còn họ đã yên tâm với khoản lương thưởng hàng trăm triệu đô la hàng năm.

Nhà kinh tế đoạt Giải Nobel năm 2001 Joseph Stiglitz cho rằng nếu lột bỏ hết mọi từ ngữ rất kêu về các công cụ tài chính mới, cuộc khủng hoảng hiện nay cũng chỉ là một dạng lạm dụng quá đáng “đòn bẩy tài chính” và âm mưu lừa đảo theo kiểu dùng tiền của người sau trả cho người trước.

2.3. Giới bán khống:

Khủng hoảng tài chính ở Mỹ, xuất phát từ chuyện cho vay dưới chuẩn trên thị trường địa ốc diễn ra ngấm ngầm. Thế nhưng thủ phạm chính cho hàng loạt cuộc sụp đổ các đại công ty tài chính và ngân hàng đầu tư là giới đầu cơ với công cụ mua bán khống.

Một khi giới này tin chắc cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.

Thời gian qua, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là thậm chí không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”. Ngay cả ứng cử viên tổng thống John McCain cũng cho rằng Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) đã duy trì các quy định cho phép những kẻ đầu cơ biến thị trường chứng khoán thành canh bạc lớn và tuyên bố: “Nếu tôi là tổng thống, tôi đã sa thải ngay [Christopher Cox, Chủ tịch SEC]”.

Trước nay quan niệm của giới quản lý thị trường chứng khoán cho rằng bán khống là một phần tất yếu của hoạt động giao dịch, nhờ nó mà giá chứng khoán không bị đẩy lên cao một cách giả tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhiều tập đoàn rõ ràng phải chờ đến bàn tay cứu vớt của Chính phủ Mỹ, xu hướng giảm giá cổ phiếu của họ là quá rõ, giới đầu cơ không thể nào bỏ qua cơ hội “đánh hôi” kiếm lời.

Ví dụ, cổ phiếu của Morgan Stanley trong ngày thứ Tư (17-9) giảm đến 24% và tổng giám đốc John Mack cáo buộc giới bán khống chịu trách nhiệm phần lớn cho sự sụt

Page 15: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

giá nhanh chóng này bởi mới ngày hôm trước Morgan Stanley công bố tình hình tài chính với kết quả kinh doanh tốt hơn dự báo.

Đến gần cuối tuần trước, SEC phải theo chân Anh, Đức và một số nước khác, tạm thời cấm bán khống đối với 799 loại chứng khoán. Các quỹ hưu trí, nơi thường giữ cổ phiếu lâu dài và là nơi cho vay để giới đầu cơ bán khống tuyên bố sẽ hạn chế cho vay theo kiểu cũ.

2.4. Buông lỏng quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà nước Mỹ.

Trong bối cảnh thực hiện các chính sách tự do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2001Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%, theo đó, lãi suất cho vay của tín dụng thứ cấp cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng đô la rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm. Còn các NHTM có thể cho người dân vay mua nhà “dưới chuẩn” đầy rủi ro với một quy mô lớn là do được các công ty tài chính và ngân hàng đầu tư, trong đó đặc biệt là hai công ty Fanie Mae và Freddie Mac được Chính phủ Mỹ bảo trợ, “cấp vốn” bằng cách mua lại các khoản cho vay của các NHTM, biến chúng thành loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp để bán lại cho các công ty, các ngân hàng đầu tư lớn khác như: Bear Stearms, Merrill Lynch…Từ đó “bong bóng” hình thành dần tạo nên khủng hoảng sau này.

Bên cạnh đó những cơ quan đánh giá tài chính của Mỹ đã không làm tròn bổn phận. Vốn phái sinh của các nhà đầu tư đã phụ thuộc nhiều vào các cơ quan đánh giá, vì họ đặt niềm tin vào cơ quan đánh giá này. Nhưng bản thân các cơ quan đánh giá tài chính của Mỹ cũng tồn tại không ít vấn đề, đặc biệt là họ thiếu hụt đi những luận chứng của các cơ quan kiểm soát.

Trong việc quản lý thị trường vốn, Chính phủ Mỹ thiếu hụt cơ chế quản lý, đây cũng là một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến khủng hoảng. Chính phủ Mỹ luôn thực hiện chính sách thả lỏng cơ chế quản lý đối với ngành tiền tệ, bất luận là Đảng Dân Chủ hay Đảng Cộng Hòa thì đều làm như vậy.

Các chính sách kích thích cũng như đưa nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng của Chính phủ Mỹ chưa đủ mạnh. Từ nửa đầu năm 2007 khi khủng hoảng tài chính bắt đầu có dấu hiệu bước đầu, nhưng Chính phủ Mỹ đã phản ứng rất chậm chạp, chỉ đến khi khủng hoảng tín dụng thực sự bùng nổ, FED mới tìm các phương án ứng phó.

Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường trong hơn hai mươi năm qua.

Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát

Page 16: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

triển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ và đầu tư. Chứng khoán phái sinh và chứng khoán hóa, mặc dù giúp tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro, đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm.

Không một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng.

Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980, chẳng hạn như việc hủy bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách biệt ngân hàng thương mại chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư chuyên thực hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Chính môi trường thiếu minh bạch và thiếu giám sát đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất động sản.

2.5. Và khủng hoảng niềm tin.

Năm 1932, trong bài diễn văn nhậm chức đọc trước một nước Mỹ đang hoảng loạn vì cuộc Đại Suy Thoái, tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nhận định: “Sự sợ hãi chính là điều duy nhất chúng ta phải sợ.” Và trong suốt mười ba năm tiếp theo trên cương vị tổng thống, những cải cách toàn diện và triệt để về pháp luật và bộ máy quản lý kinh tế của ông đã thành công xuất sắc trong việc đưa nước Mỹ vượt qua được sự sợ hãi, lấy lại được niềm tin.

Hệ thống an sinh xã hội được thành lập nhằm đem lại những phúc lợi hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và mất khả năng lao động. Hàng loạt các cơ quan giám sát và hỗ trợ kinh tế được thành lập như Ủy ban Chứng khoán Mỹ, Quỹ Liên bang Bảo lãnh Tiền gửi Tiết Kiệm và Cơ quan Hỗ trợ Nhà đất Liên bang.

Những thể chế pháp luật và quản lý hình thành trong những năm 1930 vẫn đang được chính phủ Mỹ sử dụng như bộ khung của hệ thống pháp lí, giám sát và hỗ trợ hệ thống tài chính.

Gần tám mươi năm sau những cải cách của chính phủ Franklin D. Roosevelt, nước Mỹ lại đang đứng trước nguy cơ của một cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng. Các nhà đầu tư không chỉ lo ngại về môi trường đầu tư mà còn mất niềm tin vào khả năng giám sát thị trường của chính phủ.

Thực tế, chính những nhà quản lý và chính khách gia hàng đầu của nước Mỹ cũng bị bất ngờ bởi quy mô và sự nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính. Đến tháng 2 năm 2008, sau sự sụp đổ của Bear Stearns và những cảnh báo liên tục về sự đổ vỡ của thị trường bất động sản, Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, vẫn tỏ ra tin tưởng vào sự phát triển ổn định của thị trường.

Page 17: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Chỉ vài ngày trước khi chính phủ Mỹ buộc phải cứu Fannie Mae và Freddie Mac, Hank Paulson, Bộ trưởng Bộ Ngân khố Mỹ còn tuyên bố là hai công ty này có đủ vốn để chống chọi với khủng hoảng.

Vào đúng ngày Lehman Brothers tuyên bố phá sản, thượng nghị sỹ John McCain, ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa vẫn nhận định: “Các yếu tố cơ bản của nền kinh tế Mỹ là hoàn toàn vững vàng.”

Chính niềm tin đó đã đẩy cuộc khủng hoảng lên cao khi nhận ra thì đã quá trễ để ngăn chặn mà chỉ có thể khắc phục tổn thất, tránh đổ vỡ dây chuyền. Và trước khủng hoảng kinh tế người dân hoàn toàn mất niềm tin vào thị trường, vào sự quản lý, giám sát của của Chính phủ.

Chưa hết, nước Mỹ đang đối mặt một cuộc khủng hoảng niềm tin, thay vì khủng hoảng thanh khoản trong việc vực dậy nền kinh tế. Với lượng tiền dự trữ dư thừa khổng lồ, rõ ràng lý do khiến các ngân hàng ngại cho vay không phải vì họ không có tiền cho vay. Điều mà các ngân hàng lo ngại ở đây là đối tượng vay tiền của họ, trong đó bao gồm cả các ngân hàng khác, sẽ không trả nợ. Rõ ràng, các ngân hàng ở Mỹ đã mất niềm tin vào nhau. Các doanh nghiệp cũng ngại vay tiền vì sợ rủi ro. Người tiêu dùng cũng không dám chi tiêu vì lo có ngày mất việc.

3. Các biện pháp đối phó với khủng hoảng và kết quả đạt được.

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính lan rộng, kinh tế sụt giảm mạnh, các nước phát triển thì suy thoái, những nước đang phát triển thì tốc độ tăng trưởng suy giảm mạnh. Do đó, Chính phủ các nước đã phải vào cuộc, tìm mọi cách để tác động vào nền kinh tế nhằm ngăn chặn đà sụt giảm bằng cách hạ lãi suất liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, tung ra các gói kích thích kinh tế và hỗ trợ tài chính nhằm đảm bảo lòng tin của dân chúng và thị trường.

3.1. Dưới đây là một số chương trình giải cứu kinh tế mà chính phủ và cục dự trữ liên bang Mỹ FED đã sử dụng:

♦Cứu ngành tài chính:

- Đấu giá các khoản vay bằng lãi suất ưu đãi TAF. Cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn đã làm cho nhiều tổ chức tài chính, đầu tư lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả và có nguy cơ phá sản. Mặt khác, các tổ chức đầu tư tài chính ấy không được phép tiếp cận với FED thông qua thị trường mở và cũng đã cạn kiệt trái phiếu chính phủ nên FED đã đưa ra công cụ này. Đây là công cụ hoàn toàn mới, nó cho phép các tổ chức đó dùng trái phiếu thương mại để vay tiền hoặc đổi lấy trái phiếu chính phủ từ FED. FED hi vọng rằng, công cụ này sẽ cải thiện tính thanh khoản, đồng thời, nghiệp vụ truyền thống của FED vẫn được đảm bảo và không có gì thay đổi. Và, FED đã cho các ngân hàng Mỹ vay 1.600 tỷ USD, đổi lấy tài sản thế chấp là những tài sản xấu.Do đó, cấu trúc tài sản của FED đã có sự thay đổi lớn, khi mà tỷ lệ tài sản xấu đã tăng lên đáng kể.

Page 18: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

- Hoán đổi tiền tệ: đầu tháng 4/2009, FED đã công bố thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với ngân hàng trung ương các nước Anh, Nhật, Thụy Sĩ và ngân hàng trung ương châu Âu. Theo đó, 4 ngân hàng nói trên sẽ đồng ý cung cấp đồng nội tệ của nước mình cho FED để tăng tính thanh khoản của các ngân hàng Mỹ cũng như hê thống tài chính thế giới, đồng thời, đảm bảo nhu cầu thanh toán trong trường hợp nhu cầu sử dụng các đồng này tăng lên. Việc hoán đổi đó sẽ giúp cho FED có thể cung cấp một lượng ngoại tệ lớn cho các công ty Mỹ, cụ thể: 30 tỷ bảng Anh, 80 tỷ Euro, 10 tỷ Yên Nhật và 40 tỷ Franc Thụy Sĩ. Trước đó, vào tháng 9/2008, một thỏa thuận tương tự như vậy cũng đã diễn ra, khi mà FED cùng với Ngân hàng Trung ương các nước Úc, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Anh, Ngân hàng Trung ương Châu Âu hợp tác cùng nhau. Động thái này là một phần trong nỗ lực của FED hợp tác với các nước nhằm mở rộng các hoạt động tín dụng cũng như thúc đẩy các hoạt động cho vay để phục hồi kinh tế, khôi phục niềm tin của thị trường và tăng cường tính bền vững cho thị trường tài chính thế giới.

- Dàn xếp bán lại Bear Stearns cho JP Morgan Chase: Để JP Morgan Chase mua lại ngân hàng đầu tư phố Wall Bear Stearns bên bờ vực phá sản hồi tháng 3/2008, FED đã phải cấp cho JP Morgan một khoản vay đặc biệt 29 tỷ USD để bảo lãnh cho những khoản thua lỗ có thể xảy ra.

- Cho các ngân hàng vay đồng thời bơm tiền vào ngân hàng: thời kì đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng, trung bình,một ngày, các ngân hàng vay tới 112 tỷ USD với lãi suất rất thấp 0.25%. Hiện nay, tình trạng vay nóng đã giảm mạnh. Tháng 10/2009, trung bình, một ngày có 23 tỷ USD được FED cho các ngân hàng vay. Điều đó cho thấy được, sự mất ổn định đã phần nào được giảm bớt. Thậm chí, FED đã thu lại một khoản lãi 14 tỷ USD từ chính các ngân hàng vào 8/2009.

- Cứu Citigroup: Citigroup đã từng là ngân hàng lớn nhất thế giới, với tổng tài sản khoản 2000 tỷ USD, và hoạt động hơn 100 quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, thời gian vừa qua (giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng), giá cổ phiếu sụt giảm hơn 87%, giá trị vốn hóa thị trường chỉ còn 20 tỷ USD, tập đoàn này chao đảo vì liên tục thua lỗ, cắt giảm nhân công số lượng lớn, ôm khối lượng tài sản xấu khổng lồ. Theo như nhiều chuyên gia, nếu Citigroup sụp đổ thì đây không chỉ là thảm họa đối với nước Mỹ mà còn cả đối với thế giới. Do vậy, thiết nghĩ, giải cứu tập đoàn này là việc phải làm của chính phủ Mỹ cũng như FED. Và Chính phủ Mỹ đứng ra bảo lãnh cho 306 tỷ USD tài sản xấu của Citigroup và đầu tư thêm 20 tỷ USD cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng này, ngoài 25 tỷ USD đã đầu tư trước đó, hồi giữa tháng 10/2008. Quyết định này của Chính phủ Mỹ đã làm an lòng giới đầu tư và mở ra triển vọng chính quyền có thể bơm thêm tiền vào hệ thống tài chính nhằm xoa dịu tác động tiêu cực của kinh tế suy thoái. Ngay tức khắc, Phố Wall đã có những phản ứng tích cực trước tin vui của Citygroup. Tại sàn giao dịch chứng khoán New York, Mỹ, cuối ngày 24/11, ba chỉ số chủ lực của thị trường chứng khoán Mỹ là Dow Jones, Nasdaq và Standard & Poor's 500 đồng loạt tăng trong khoảng 4,93% tới 6,47%. Theo đà đó,thị trường chứng khoán châu Âu và châu Á đã sôi động trở lại với những mức tăng rất ấn tượng.

Page 19: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

- FED hạ lãi suất:

Hình-Biểu đồ lãi suất Mỹ qua các thời kì điều chỉnh

Nguồn: http://www.vneconomy.vn/20081217070745309P0C6/lai-suat-usd-thap-nhat-trong-lich-su.htm

Lãi suất cơ bản đồng USD đã được hạ từ mức 5,25% vào tháng 9/2007 xuống còn 1% vào tháng 10/2008. Tuy nhiên, lãi suất tiếp tục hạ, chỉ còn 0-0.25% vào 16/12/2008. Mức dự trữ bắt buộc cũng giảm từ 1% xuống còn 0,5%. Tuy nhiên, động thái này đã không có tác dụng bao nhiêu trong việc kích thích phát triển tín dụng.

♦Cứu lĩnh vực tiêu dùng:

-Kế hoạch kích thích kinh tế: Giữa tháng 2/2009, Chính phủ Mỹ đã có một kế hoạch kích thích kinh tế. Gói giải pháp được đưa ra trị giá khoảng 789 tỷ USD nhằm kích thích tiêu dùng, và cắt giảm khoảng 100 tỷ USD tiền thuế cho 140 triệu người đóng thuế ở Mỹ, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, đến 9/2008, có thêm khoảng gần 1 triệu người có việc làm. Tuy nhiên, số lượng người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp cũng liên tục biến động ở những con số khá lớn tính từ đầu năm tới nay.

Page 20: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Biểu đồ thất nghiệp Mỹ trong một năm qua.

Nguồn : http://cafef.vn/20090702102715229CA32/ty-le-that-nghiep-my-len-95-so-luong-don-dat-hang-cac-nha-may-tang.chn

- Tăng trợ cấp thất nghiệp: Chính phủ Mỹ đã chi 8 tỷ USD để tăng thời hạn trợ cấp thất nghiệp từ mức 26 tuần lên mức 39 tuần. Hiện một số bang ở Mỹ phải áp dụng thời hạn trợ cấp thất nghiệp là 39 tuần sau khi một đạo luật mở rộng thời hạn này được thông qua hồi tháng 11/2008.

- Bảo lãnh cho các quỹ thị trường tiền tệ: 50 tỷ USD là số tiền mà Chính phủ Mỹ chi ra để bảo lãnh cho các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ (money-market fund). FED đã bắt đầu cho vay không giới hạn để giúp các ngân hàng mua lại nợ của các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ.  Sau đó, FED nhất trí trực tiếp mua lượng nợ lên tới 69 tỷ USD từ các quỹ này. Trong tháng 10, FED cho biết sẽ cho vay trực tiếp tới 600 tỷ USD đối với các quỹ này trong vòng 6 tháng từ tháng 11/2008

- Giải cứu thị trường nhà đất: Chính phủ Mỹ đã công bố một chương trình 300 tỷ USD để bảo lãnh cho các khoản nợ cầm cố nhà kỳ hạn 30 năm, lãi suất cố định của những con nợ khó có khả năng trả nợ. Đạo luật này bao gồm một khoản 16 tỷ USD tín dụng thuế cho những người mua nhà lần đầu. Tuy nhiên, cho tới lúc này, các tổ chức cho vay vẫn tỏ ra lưỡng lự trong việc tham gia vào chương trình.

- Bảo hiểm tiền gửi: Trần bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm ở Mỹ đã tăng từ mức 100.000 USD/tài khoản lên mức 250.000 USD/tài khoản. FDIC (cơ quan bảo hiểm tiền

Page 21: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

gửi Mỹ) còn bảo hiểm không giới hạn đối với các tài khoản phi lãi suất và các loại nợ không được bảo đảm mới phát hành của ngân hàng.

- Hỗ trợ cho vay tiêu dùng: FED cam kết chi 800 tỷ USD để mua lại các loại chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay tiêu dùng, trong đó có 200 tỷ USD để mua lại các loại tài sản bảo lãnh bằng các khoản vay thẻ tín dụng và cho vay mua xe, cộng với 500 tỷ USD để mua lại các loại chứng khoán địa ốc. FED còn mua 100 tỷ USD giấy ghi nợ của Fannie Mae và Freddie Mac.

♦Cứu doanh nghiệp, tổ chức tài chính:

-Cứu Fannie Mae và Freddie Mac: 200 tỷ USD là số tiền mà Chính phủ Mỹ chi để giải cứu hai tập đoàn tài chính địa ốc khổng lồ này. Hiện Fannie và Freddie cùng với lượng tiền 5.000 tỷ USD cho vay địa ốc mà hai tập đoàn này nắm giữ đã nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ liên bang. Động thái này được coi như một canh bạc đắt tiền nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhà đất và tín dụng kéo dài. Tuy nhiên, đó chỉ là giải pháp tình thế. Chính phủ Mỹ đã không còn cách nào khác ngoài việc phải hành động. Bởi vì, cả hai tập đoàn này đều đóng vai trò trung tâm và là trọng yếu đối với thị trường địa ốc Mỹ và nếu để hai tập đoàn này phá sản, nó sẽ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền kiểu domino với hậu quả rất tai hại và khó lường. Và, cơn nguy kịch của 2 tập đoàn này đã được vơi đi phần nào. Hiện nay, thị trường địa ốc Mỹ đã phần nào ấm trở lại, mặc dù còn khá chậm chạp.

- Cứu AIG: Để ngăn chặn sự đổ vỡ của “đại gia” bảo hiểm này, Chính phủ Mỹ đã chi 152,5 tỷ USD, trong đó có một khoản đầu tư trực tiếp vào cổ phiếu ưu đãi, một khoản vay 60 tỷ USD với nhiều điều kiện khá dễ chịu, và một số chương trình mới để tiếp quản hoạt động bảo hiểm hoán đổi khả năng vỡ nợ (credit-default swap - CDS) của hãng này. Sở dĩ, Chính phủ Mỹ phải nhiều lần cứu AIG, bởi vì, phạm vi hoạt động của đại gia này quá rộng ( khoảng hơn 7,4 triệu công ty con tại hơn 100 quốc gia và khu vực, tổng mức số tiền bồi thường bảo hiểm vốn lên tới 300 tỷ USD ) đồng thời, nó có liên quan đến hệ thống ngân hàng toàn cầu. Qua việc trợ giúp AIG, Chính phủ Mỹ hi vọng ổn định thị trường tài chính, tăng thêm niềm tin cho thị trường. Kết quả, hiện nay, AIG đã dần đi vào ổn định. Và theo thông báo của tập đoàn này, AIG đã đạt được lợi nhuận trong 3 quý năm 2009, tập đoàn lãi khoảng 92 triệu USD.

- Hỗ trợ các hãng sản xuất ô tô: Chính phủ Mỹ đã cho các hãng xe hơi của nước này vay 25 tỷ USD để giúp ngành này chuyển sang sản xuất những loại xe tiết kiệm nhiên liệu hơn.

- Hỗ trợ các công ty: Hiện FED đã mua vào lượng thương phiếu (commercial paper) trị giá 271 tỷ USD do các công ty phát hành để giúp doanh nghiệp có tiền mặt cho hoạt động hàng ngày. Số tiền được phân bổ cho cả chương trình này là 1.400 tỷ USD.

Bộ Thương mại Mỹ vừa có bảng báo cáo tình hình nước này hôm 30/10/2009. Nội dung chính của bản báo cáo như sau : GDP của Mỹ trong quý III tăng khoảng 3,5% so với cùng kì, vượt xa so với những dự báo của các chuyên gia. Đây là mức tăng đầu tiên sau 4 quý

Page 22: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

giảm liên tiếp. Tỷ lệ mua sắm đồ dùng gia đình cũng tăng 22,3% so với cùng kì, mức tăng mạnh nhất kể từ quý I-2007. Đây là yếu tố rất quan trọng để đưa nền kinh tế Mỹ phục hồi.

Sự cải thiện của nền kinh tế toàn cầu cũng giúp cho kết quả kinh doanh của các công ty Mỹ khả quan hơn. Theo bảng báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết trên S&P 500 thì có tới 85% các công ty có kết quả kinh doanh tốt hơn dự kiến.

Tuy nhiên, khoản thâm hụt ngân sách kỉ lục 1,7 nghìn tỷ USD đã bó buộc khả năng tung gói kích thích kinh tế tiếp theo của Tổng thống Obama. Mặt khác, thất nghiệp cũng đã ở mức 9,6%, cao nhất trong vòng 26 năm qua. Đây là điều đáng báo động, tuy nhiên, theo như nhiều chuyên gia, con số trên sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Những thông tin trên cho thấy, tình hình của nền kinh tế lớn nhất thế giới đang có những dấu hiệu tích cực, tuy nhiên, để nhận biết chính xác, đây đã là thời điểm đáy của cuộc khùng hoảng hay chưa thì vẫn chưa thể xác định được. Giai đoạn hồi phục đã bắt đầu hay chưa? Điều đó vẫn còn rất mơ hồ và chính phủ Mỹ vẫn còn khá nhiều việc phải giải quyết.

3.2 Một số chính sách kích thích kinh tế của Trung Quốc

Trong quý IV 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 6,8%, con số thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Thêm nữa, tình hình xuất nhập khẩu bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi nhiều. Tháng 11, xuất khẩu giảm 2,2% và tình hình đã xấu đi kể từ đó. Sản xuất công nghiệp ảm đạm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, và ngày càng có nhiều cuộc đình công xảy ra. Tháng 1/2009, nhập khẩu giảm 43,1% so với cùng kì, xuất khẩu giảm khoảng 17% đồng loạt ở tất cả các khu vực. Thực tiễn cho thấy, mỗi quốc gia đều có những chiến lược riêng, nhưng đều dùng đến chính sách kích cầu như là một vũ khí chủ lực. Và Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Tháng 2/2009, chính phủ Trung Quốc thông qua gói kích cầu trị giá 4000 tỷ NDT ( 586 tỷ USD ). Trong khi các gói kích thích của Mỹ hay Anh đều hướng về lĩnh vực tài chính để cứu hệ thống không sụp đổ thì Trung Quốc lại chủ yếu hướng tới xây dựng cơ sở hạ tầng ( khoảng 1800 tỷ NDT), một khoảng không nhỏ dành cho phần tái thiết sau thiên tai (chủ yếu là vụ động đất ở Tứ Xuyên , khoảng 1000 tỷ NDT ), cải thiện cơ sở vật chất ở khu phía Tây vốn đã quá lạc hậu sơ với phía đông (700 tỷ NDT )… Như vậy, ta có thể thấy một điều đặc biệt, chỉ một khoảng khá nhỏ trong gói kích thích trên được tăng cường hỗ trợ tài chính cho tăng trưởng kinh tế, giảm lãi suất, kích thích tín dụng. Kết quả, nền kinh tế Trung Quốc đã hồi phục nhanh chóng. Tính đến 7/2009, chỉ số chứng khoán chính của Thượng Hải đã tăng 75%, sản lượng công nghiệp, tín dụng ngân hàng và hàng hóa nhập khẩu trong thời gian gần đây đều tăng. GDP theo ước tính tăng khoang 7,9% trong quý II năm 2009.

3.3. Các biện pháp của chính phủ Việt Nam nhằm đối phó với tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ.

Để ngăn chặn suy giảm kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã dành 2 tỷ USD để kích cầu. Ngày 15/1/2009, chính phủ quyết định sử dụng gói kích cầu để hỗ trợ gói lãi suất 4 % cho một số đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngày 4/4/2009, chính phủ thông qua gói kích cầu với tổng số lãi hỗ trợ cho doanh nghiệp là 20000 tỷ đồng, theo đó, các cá

Page 23: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

nhân hay tổ chức vay vốn trung và dài hạn để đầu tư mới, phát triển sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng được nhà nước hỗ trợ lãi suất 4% trong khoảng thời gian tối đa là 24 tháng, việc thực hiện hỗ trợ này kết thúc vào tháng 12/2011. Đồng thời, thuế phải nộp của các doanh nghiệp cũng được miễn, giảm (hoặc kéo dài thời gian nộp thuế xuất nhập khẩu). Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước liên tục điều chỉnh giảm lãi suất để kích thích đầu tư, phát triển kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp (tất nhiên, mức điều chỉnh này sẽ tùy vào tình hình vĩ mô trong nước ).

Kết quả, theo thông báo của Bộ kế hoạch-đầu tư: Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10/2009 tăng 3,2% so với tháng trước; tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước,tổng mức doanh thu buôn bán và cung cấp dịch vụ tháng 10/2009 tăng 2,5% và 10 tháng đầu năm tăng 18% so với cùng kì.Về nông nghiệp và thủy sản, thu hoạch lúa mùa ở miền Bắc đạt 885,1 nghìn ha, tăng 25,6% so với cùng kỳ năm 2008. Tổng sản lượng khai thác thủy sản ước 10 tháng là 1.843 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng nuôi trồng là 2.177,6 nghìn tấn tăng 1,9% so với năm 2008.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có những con số đáng lo ngại. Chính sách hỗ trợ vay vốn của Chính phủ có nguy cơ bị lợi dụng để sử dụng không đúng mục đích(Tình hình đảo nợ của các doanh nghiệp,đầu tư chứng khoán…), thâm hụt ngân sách tăng cao đột biến..

Gần đây nhất, chính phủ tiếp tục thông qua gói kích cầu thứ 2 vào 30/10/2009, chính phủ vẫn quyết định thực hiện gói kích cầu thứ 2 trong năm 2010 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng những tác động tiếp theo của gói kích cầu tới nền kinh tế. Tuy nhiên, đã có một vài sự điều chỉnh. Trong đó, sẽ giảm về thời gian và phạm vi kích cầu. Cụ thể, đối với gói hỗ trợ các dự án mới thực hiện vốn vay trung và dài hạn, hỗ trợ mua máy móc, thiết bị nông nghiệp của nông dân theo quyết định 443 (Quyết định 443 về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh ) và 497 (Quyết định 497 về hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn ) sẽ được tiếp tục triển khai đến hết năm 2010, nhưng mức hỗ trợ sẽ được giảm xuống 2%, thay vì 4% như hiện nay. Riêng đối với gói hỗ trợ trợ lãi suất lưu động 4% theo quyết định 131 sẽ được thực hiện đến hết quý 1/2010, và mức hỗ trợ cũng được giảm xuống 2%. Hết thời gian trên, tùy vào điều kiện, tình hình cụ thể, Chính phủ sẽ cân nhắc quyết định.

4. Bài học từ khủng hoảng tài chính Mỹ:

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã gây tác hại vô cùng to lớn cho nền kinh tế - tài chính thế giới. Điều quan trọng là những bài học có thể rút ra từ cuộc khủng hoảng này để tránh việc lặp lại những sai lầm đáng tiếc trong tương lai.

4.1. Bài học cho nền kinh tế thế giới.

a. Nhận định quá tốt đẹp có thể sai lầm: Kinh tế thế giới tăng trưởng mức bình quân 4,7% giai đoạn 2003 - 2007. Tháng 4-2007, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán tăng trưởng kinh tế toàn cầu tiếp tục tăng mức 4,9% trong các năm 2007 và 2008.  Tháng 4-

Page 24: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

2008, tiếp tục dự báo mức tương tự năm 2008 và 3,8% năm 2009. Ðến tháng 4-2009, IMF dự báo, kinh tế toàn cầu tăng trưởng âm 1,3% năm 2009 và phục hồi nhẹ năm 2010. Trên thực tế, các con số trên đều sai lệch. Dự báo của IMF cùng chung nhận định với các thể chế kinh tế, tài chính và tổ chức dự báo quốc tế khác. Ðiều này cho thấy, hầu hết các nhà kinh tế không dự đoán được sự đảo chiều của chu kỳ kinh tế. Bài học rút ra: Khi kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh và liên tục trong nhiều năm, thì sự đảo chiều là tất yếu và gây ra hậu quả nặng nề.

b. Cần xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - tiền tệ lành mạnh: Qua phần phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ ở trên, chúng ta có thể thấy được việc buông lỏng quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng đối với hoạt động tài chính, không tuân thủ kỷ luật thị trường là nguyên nhân sâu xa gây nên cuộc khủng hoảng. Do đó, để phòng ngừa một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai, việc cần làm là chính phủ Mỹ và các nước đang phát triển cần phải xây dựng một chính sách tài chính – tiền tệ lành mạnh, quản lý và điều tiết lĩnh vực tài chính một cách chặt chẽ và hiệu quả.

Hệ thống tài chính ngân hàng làm công việc quan trọng nhất là lưu chuyển từ người có vốn sang người sản xuất không đủ vốn, phục vụ các hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Bản thân nó không tạo ra thêm của cải cho xã hội. Nếu không tập trung vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ, mà chỉ nhằm buôn "rủi ro", hô hào đẩy giá, thì đó chỉ là hành động móc túi người có tiền khác một cách hợp pháp. Cần xóa bỏ việc cho phép công ty phi tài chính làm ngân hàng và ngược lại.

c. Vai trò của IMF: Những bài học có thể rút ra từ khủng hoảng đối với vai trò của IMF có thể bao gồm: IMF vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho các chính phủ thành viên. Nhóm G20 đã thông qua quỹ cho vay 250 tỷ USD (thêm vô ngày tháng) để bảo đảm IMF có đủ nguồn lực hỗ trợ các nước trong trường hợp khẩn cấp; hệ thống tài chính mang tính toàn cầu, do đó các nước đang phát triển cần phối hợp IMF để điều tiết và kiểm soát tài chính, giám sát việc các nước áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã được thông qua, nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính quốc gia, cũng như lưu chuyển dòng tiền tệ quốc tế.

Không chỉ bơm hàng trăm tỷ USD vào các nền kinh tế đang lâm vào cảnh khó khăn, IMF còn giúp các nước này đặt ra các nền móng vững chắc cho cải cách kinh tế và tài chính, vốn đang trở nên cấp thiết hơn lúc nào khác.

Mặc dù IMF không có công cụ ràng buộc pháp lý nào với các quốc gia thành viên trong việc tuân theo các khuyến nghị về cải cách hệ thống ngân hàng, đưa ra các gói kích cầu..., vai trò cố vấn chính sách đúng đắn cho các quốc gia chấp hành và giúp họ nhận thức được tầm quan trọng của chính sách đó là vô cùng quan trọng. Giữa sự hoảng loạn và hoang mang tột độ, IMF nổi lên với vai trò là thực thể duy nhất đủ bình tĩnh để phân tích tình hình, đánh giá các tác động và đưa ra được những lời khuyên đúng đắn.

d. Tương lai toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa thương mại và tài chính đã liên kết các quốc gia ở mức độ cao hơn

nhiều so với mười năm trước. Mọi cuộc khủng hoảng tác động đến một nước, hoặc một nhóm nước này cũng tác động đến một nước, hoặc một nhóm nước này khác. Có thể thấy,

Page 25: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

toàn cầu hóa là yếu tố tác động không nhỏ đến khủng hoảng tài chính, kinh tế, tuy nhiên các nước không nên quay lưng với toàn cầu hóa.

Việc cần làm là tìm các biện pháp tăng cường vai trò của các thể chế quốc tế, như IMF hay WB và các ngân hàng phát triển khu vực; chống sức ép bảo hộ mậu dịch và tài chính. Vì trên thực tế, tình hình chắc chắn xấu đi, nếu hệ thống thương mại quốc tế và lưu chuyển tài chính sụp đổ. Và, hậu quả của khủng hoảng đối với kinh tế các quốc gia và hệ thống tài chính toàn cầu sẽ càng trầm trọng.

e. Khéo léo ứng phó một cách mạnh mẽ và quyết liệt khi có khủng hoảng xảy ra.Chính phủ cần cứng rắn hơn trong việc đóng cửa ngân hàng dù có quy mô lớn

nhưng hoạt động không hiệu quả. Chiến dịch này nên được bắt đầu với việc xem xét thật chặt chẽ sổ sách kế toán của từng tổ chức tài chính.

  Không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường. Nói cách khác, một doanh nghiệp dù lớn đến đâu, thâm niên dài bao nhiêu và trước đó có thành công như thế nào, cũng có thể sụp đổ nếu vi phạm luật chơi, mà cụ thể ở cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay là vi phạm chuẩn cho vay bất động sản có sự dung túng của chính phủ…

4.2. Bài học nào cho Việt Nam.Ngoài những bài học chung cho nền kinh tế thế giới như trên, một số bài học cần lưu ý cho nước ta là:

Trước hết, tự do hóa, mở cửa thị trường tài chính để tạo ra một thị trường tài chính năng động, qua đó thu hút vốn đầu tư là cần thiết. Nhưng tự do hóa phải trên cơ sở luật pháp và giám sát chặt chẽ của nhà nước.

Khẩu hiệu "Hãy để mọi thứ cho thị trường tự do điều tiết, chính phủ càng can thiệp ít vào hoạt động của thị trường càng là một chính phủ tốt" qua cuộc khủng hoảng này cho thấy nó đã lỗi thời.

Thứ hai, nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bột phát, nhất là khủng hoảng tài chính - ngân hàng, dù nó xảy ra không trực tiếp từ sai lầm của chính phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước… Tuy nhiên, sự can thiệp này phải tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích, nhất là không đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Sử dụng các công cụ nợ, biến nợ xấu thành chứng khoán có thể mua - bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần thiết và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó.

Thứ ba, hãy thận trọng khi đưa vào giao dịch các công cụ phái sinh khi chưa được luật pháp hóa, vì đó là những công cụ mang nặng tính đầu cơ. Hoạt động đầu cơ có hai mặt tích cực và tiêu cực. Khi luật chưa có, hoặc luật chưa chuẩn và giám sát thị trường không tốt, thì giao dịch các công cụ phái sinh sẽ phát sinh tiêu cực.

Bốn là, thông tin và sự minh bạch về tài chính, nhân sự của các tổ chức niêm yết, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác phải được quan tâm đặc biệt, để qua đó Nhà nước

Page 26: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

và công chúng đầu tư thực hiện được sự giám sát thường xuyên, ngăn chặn kịp thời những bất hợp lý hoặc các vi phạm. Việc quản trị rủi ro tại các ngân hàng nên được thắt chặt và các ngân hàng không nên hoạt động dựa trên áp lực quá lớn của các khoản lợi nhuận trước mắt mà phải tính nhiều tới yếu tố thận trọng, phát triển bền vững. (svnh.com)

Việc cải tổ hệ thống tài chính, thuế không cản trở việc chống lạm phát, mà nó giúp duy trì ổn định, tăng giám sát và minh bạch cho các tổ chức tài chính.

Ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Bởi vì đối với một nước còn nghèo và các thiết chế thị trường còn chưa phát triển, hoàn thiện như Việt Nam, thì khi khủng hoảng đã lam rộng thì chi phí phải trả là vô cùng khó lường.

Bài học bao quát nhất đối với Việt Nam được rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là việc kết hợp hài hòa giữa sức mạnh tự điều chỉnh của thị trường với năng lực của Chính phủ điều tiết thị trường. Không thể nhấn mạnh một cách thái quá tầm quan trọng của mặt này hay mặt khác. Việt Nam bằng mọi cách cần giữ hệ thống tài chính lành mạnh, cần sử dụng các biện pháp, chính sách kinh tế hợp lý nhằm ngăn ngừa một thị trường nhà đất mang tính đầu cơ, và làm sao giữ được niềm tin trong quần chúng.

Đây cũng là vấn đề khó nhất trong việc hoạch định chính sách kinh tế của Nhà nước, đòi hỏi phải từ những kinh nghiệm quốc tế và từ thực tế phát triển Việt Nam tiếp cận tốt hơn các lý thuyết kinh tế, độc lập trong tư duy và hành động để có được chính sách đúng đắn vừa tận dụng được lợi thế của đất nước, vừa chủ động đối phó và vượt qua thách thức trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

III. Kết luận.

Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lần này so với Đại khủng hoảng của những năm 1930 cũng không kém phần nghiêm trọng và là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trầm trọng nhất sau Đại chiến thế giới II. Nó đã thay đổi toàn thế giới. Cơn bão tài chính này không chỉ cuốn đi hàng nghìn tỷ USD mà còn làm lung lay lý thuyết thị trường tự do, được xem như là chuẩn mực cho rất nhiều quốc gia phát triển trong nhiều năm qua, làm thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của một số nước, xây đắp lại trật tự kinh tế quốc tế.

Giới chuyên gia cho rằng, cuộc khủng hoảng tài chính lần này có lẽ là cuộc khủng hoảng tín nhiệm nghiêm trọng nhất mà nền kinh tế thị trường tự do chưa từng trải qua.

Cuộc khủng hoảng cũng cho thấy mô hình kinh tế tăng trưởng dựa vào tiêu dùng dễ bị tổn thương đến mức nào. Người Mỹ vốn quen tiêu dùng mà không biết đến tiết kiệm. Chính quyền Obama ngày càng muốn thể hiện rằng Mỹ sẽ không tiếp tục là một nước tiêu dùng và nhập khẩu cuối cùng của thế giới.

Cuộc khủng hoảng tài chính lần này cũng cho thấy vai trò mờ nhạt của G8, mà nổi lên là vai trò của G20. Ngày 15/11/2008, lãnh đạo nhóm G20 họp mặt tại Washington, mở màn cho cuộc chống khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu. Hệ

Page 27: BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

thống các nền kinh tế chủ yếu thế giới đã tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, nhiều lần dấy lên làn sóng hạ lãi suất và bơm vốn, liên tiếp đưa ra các gói kích cầu khổng lồ. G20 trỗi dậy, khẳng định sự đa dạng quan hệ quốc tế là xu hướng tất yếu của sự phát triển dân chủ.

Tài liệu tham khảo