vgd no. 2 - summer 2010

80
Tập san VGD * Văn hoá - Gii Trí - Đời sng S2 * 7-2010 Trang 1 Cùng Quý bạn đọc thân ái Đất nước ta có một dãy toạ độ rất đặc biệt trên biểu đồ khí hậu và địa hình của Trái đất, một địa thế tạo nên một xứ sở rừng vàng biển bạc. Triền đông dãy Trường Sơn đón nhận toàn bộ hơi khí ẩm nhuận mát mẻ của bốn mùa gió biển đã hàm dưỡng nên bạt ngàn rừng tài nguyên phong phú chủng loại động thực vật quý hiếm. Hơn 4000 cây số bờ biển đã như nhiên tôn tạo vô vàn thắng tích thanh kỳ cổ quái đẳng cấp quốc tế kèm vô số trữ lượng hải sản giá trị cao về dinh dưỡng và kinh tế. Chưa kể miền bình nguyên trung du một bên thừa hưởng ưu đãi của lớp đất ba-zan màu mỡ, một bên đón nhận phì nhiêu phù sa do sông hồ bờ bãi ban tặng, sản xuất ra toàn những lương thực thực phẩm rau quả nổi tiếng lâu đời. Chưa kể dưới lớp lớp đất tầng tầng nước chứa biết bao khoáng sản, dầu mỏ, đá quý chất lượng hàng đầu thế giới. Chưa kể ngoài khí hậu thuận lợi chung của vùng ôn đới, trên dãy đất này có đủ các vùng trạng thái khí hậu trên thế giới: lạnh, mát, ấm, nóng, khô, ẩm... đan xen nhau quanh năm thật lý thú. Cũng do đó, đất nước ta đã lâm vào một hoàn cảnh cũng vô cùng đặc biệt là suốt 4000 năm phải vừa dựng nước vừa liên tục chống giặc ngoại xâm giữ nước. Cũng từ đó, dần trưởng dưỡng nên một dân tộc tính khá toàn diện bao hàm tiêu chuẩn thành gia thành danh thành nhân: Cần cù - sáng tạo - kiên cường - hiếu học - kinh nghiệm - nhân nghĩa - phóng khoáng. Một đất nước đầy đủ điều kiện về phương tiện và con người để hoá rồng đa diện từ công nghiệp, nông nghiệp, mỹ nghệ đến hàng hải, du lịch... Thế mà, ngày nay chúng ta đang ở một thứ hạng nào? Thật ra chúng ta có tự biết, tự hào và quyết tâm tự lực, tự cường không? hay cứ trông chờ vào phép mầu và sự tương trợ để rồi mọi dữ kiện tốt đẹp lần lượt rơi vào sự khống chế từ tinh vi đến trắng trợn của ngoại nhân? Chãy biết, biết nhiều, biết rộng, biết tường tận... về Việt Nam - đất nước - con người. Chỉ có biết mới có một khởi đầu thuận lợi và một hiệu quả tốt đẹp: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Tập san nhỏ bé này chỉ hy vọng góp làm một thanh âm nhẹ nhàng trong dàn hợp xướng đồng ca thanh bình non nước. Ban chủ trương Tập san VGD Chủ nhiệm: Thái Thanh Tùng Chủ bút: Thái Thanh Nguyên Design: Cao Thái Thanh Thư ký toà soạn: Thiên Bình Nga Với sự cộng tác thường xuyên của các cây bút uy tín: Bảo Anh, Triều Âm, Lê Phương Châu, Quỳnh Dao, Phục Sinh Đường, Trần Ngọc Hưởng, Thái Lộc, Vũ Tiến Phúc, Bút Tâm, Bùi Bội Trân, Đoàn Thuận, Hà Trung Yên… Gửi thư và bài cộng tác: [email protected] [email protected] Liên lạc và đăng quảng cáo Chez Thi 5557 Chemin de la Côte des Neiges, Montreal, QC, H3T 1Y8 Canada Montréal, (Québec) Canada, H3T-2A9 - Tel: (514) 531-4527 Số đăng bạ : ISSN 1911-012X

Upload: tungthai

Post on 17-Jan-2015

2.154 views

Category:

Education


6 download

DESCRIPTION

Vietnamese magazine in Montreal, Quebec, Canada

TRANSCRIPT

Page 1: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 1

Cùng Quý bạn đọc thân ái

Đất nước ta có một dãy toạ độ rất đặc biệt trên biểu đồ khí hậu và địa hình của Trái đất, một địa thế tạo nên một xứ sở rừng vàng biển bạc. Triền đông dãy Trường Sơn đón nhận toàn bộ hơi khí ẩm nhuận mát mẻ của bốn mùa gió biển đã hàm dưỡng nên bạt ngàn rừng tài nguyên phong phú chủng loại động thực vật quý hiếm. Hơn 4000 cây số bờ biển đã như nhiên tôn tạo vô vàn thắng tích thanh kỳ cổ quái đẳng cấp quốc tế kèm vô số trữ lượng hải sản giá trị cao về dinh dưỡng và kinh tế.

Chưa kể miền bình nguyên trung du một bên thừa hưởng ưu đãi của lớp đất ba-zan màu mỡ, một bên đón nhận phì nhiêu phù sa do sông hồ bờ bãi ban tặng, sản xuất ra toàn những lương thực thực phẩm rau quả nổi tiếng lâu đời. Chưa kể dưới lớp lớp đất tầng tầng nước chứa biết bao khoáng sản, dầu mỏ, đá quý chất lượng hàng đầu thế giới. Chưa kể ngoài khí hậu thuận lợi chung của vùng ôn đới, trên dãy đất này có đủ các vùng trạng thái khí hậu trên thế giới: lạnh, mát, ấm, nóng, khô, ẩm... đan xen nhau quanh năm thật lý thú.

Cũng do đó, đất nước ta đã lâm vào một hoàn cảnh cũng vô cùng đặc biệt là suốt 4000 năm phải vừa dựng nước vừa liên tục chống giặc ngoại xâm giữ nước. Cũng từ đó, dần trưởng dưỡng nên một dân tộc tính khá toàn diện bao hàm tiêu chuẩn thành gia thành danh thành nhân: Cần cù - sáng tạo - kiên cường - hiếu học - kinh nghiệm - nhân nghĩa - phóng khoáng.

Một đất nước đầy đủ điều kiện về phương tiện và con người để hoá rồng đa diện từ công nghiệp, nông nghiệp, mỹ nghệ đến hàng hải, du lịch... Thế mà, ngày nay chúng ta đang ở một thứ hạng nào? Thật ra chúng ta có tự biết, tự hào và quyết tâm tự lực, tự cường không? hay cứ trông chờ vào phép mầu và sự tương trợ để rồi mọi dữ kiện tốt đẹp lần lượt rơi vào sự khống chế từ tinh vi đến trắng trợn của ngoại nhân?

Cứ hãy biết, biết nhiều, biết rộng, biết tường tận... về Việt Nam - đất nước - con người. Chỉ có biết mới có một khởi đầu thuận lợi và một hiệu quả tốt đẹp: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Tập san nhỏ bé này chỉ hy vọng góp làm một thanh âm nhẹ nhàng trong dàn hợp xướng đồng ca thanh bình non nước.

Ban chủ trương Tập san VGD

Chủ nhiệm: Thái Thanh Tùng Chủ bút: Thái Thanh Nguyên

Design: Cao Thái Thanh Thư ký toà soạn: Thiên Bình Nga

Với sự cộng tác thường xuyên của các cây bút uy tín: Bảo Anh, Triều Âm, Lê Phương Châu, Quỳnh Dao, Phục Sinh Đường,

Trần Ngọc Hưởng, Thái Lộc, Vũ Tiến Phúc, Bút Tâm, Bùi Bội Trân, Đoàn Thuận, Hà Trung Yên…

Gửi thư và bài cộng tác: [email protected][email protected]

Liên lạc và đăng quảng cáo Chez Thi 5557 Chemin de la Côte des Neiges, Montreal, QC, H3T 1Y8 Canada

Montréal, (Québec) Canada, H3T-2A9 - Tel: (514) 531-4527 Số đăng bạ : ISSN 1911-012X

Page 2: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 2

Thắng tích

Chùa Phổ Minh hay còn gọi là chùa Tháp, thuộc thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Theo biên niên sử, chùa được xây dựng vào năm 1262 niên hiệu Thiệu Long thứ 5 (1262), ở về phía tây cung điện Trùng Quang, nơi các Thái thượng hoàng nhà Trần sau khi nhường ngôi cho con về ở. Nhưng theo các minh văn trên bia, trên chuông thì ngôi chùa này đã có từ thời nhà Lý. Có thể chùa đã được xây dựng lại với quy mô rộng lớn từ năm 1262. Tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn còn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần.

Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian tiền đường, 3 gian thiêu hương, toà thượng điện cũng 3 gian nhưng rộng hơn, xếp theo hình chữ "công". Bộ cửa gian giữa nhà tiền đường gồm 4 cánh bằng gỗ lim, to dày, chạm rồng, sóng nước, hoa lá và văn hoa hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng lớn chầu Mặt Trời trong khuôn hình lá đề, được coi là một tác phẩm điêu khắc khá

hoàn mỹ. Cũng như đôi sấu đá trên thành bậc tam quan và đôi rồng trên thành bậc gian giữa tiền đường, bộ cánh cửa này còn giữ được những dấu ấn của nghệ thuật chạm khắc đời Trần.

Chùa có quy mô bề thế, là nơi tụng niệm của quan lại, quý tộc cao cấp nhà Trần. Trong chùa có bày tượng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (tượng nằm); tượng Trúc Lâm tam tổ dưới bóng trúc; một số tượng Phật đẹp lộng lẫy như: tượng Tam Thế, tượng Di Đà, tượng Di Lạc, tượng Quan Âm, Đức Thánh, Đức Chúa...

Chuông lớn của chùa có khắc bản văn "Phổ Minh đỉnh tự" đúc năm 1796 - chùa vốn có một vạc lớn, sử sách coi là một trong bốn vật báu của Việt Nam (An Nam tứ đại khí) nay không còn. Do vậy mà chùa được coi là đại danh lam của nước Đại Việt. Đây là nơi tu hành của Đức quân vương Trần Nhân Tông

Page 3: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 3

(vua thứ 3 triều Trần, 1279-1293) cùng với sư Pháp Loa và Huyền Quang.

Trần Nhân Tông đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Đầu Đà, một dòng Phật giáo Việt Nam (thế kỷ 13-14), và ông được xem là “Đệ nhất Tổ”. Sau khi Kim Phật Trần Nhân Tông viên tịch, vua nối ngôi là Trần Anh Tông đã sai làm cỗ kiệu bát cống bằng đá, đặt bảy trong hai mươi mốt viên Xá Lợi của vua cha và xây tòa tháp lên trên.

Toàn bộ phong cảnh chùa bao gồm: Tam quan, hai hồ sen, hai nhà bia cân đối, tháp Phổ Minh cùng các cây cổ thụ có trên 400 năm tuổi, càng tôn vẻ đẹp của ngôi chùa thêm phần cổ kính.

Sau thượng điện, cách một sân hẹp là ngôi nhà dài 11 gian. Ở giữa là 5 gian nhà Tổ, bên trái là 3 gian nhà tăng và bên phải là 3 gian điện thờ. Hai dãy hành lang nối tiền đường ở phía trước với ngôi nhà 11 gian ở phía sau làm thành một khung vuông bao quanh kiến trúc chùa.

Trong chùa có tòa Tiền đường (hay còn gọi là Bái đường), tòa Tam bảo, tòa Thượng

Điền, nhà Tổ, nhà Mẫu Tổ Trần, hai dãy hành lang hòa nhập với cảnh quan xung quanh bề thế. Đây là một trong những công trình kiến trúc quy mô vào loại xưa nhất mà ngày nay còn giữ được nguyên thuỷ.

Kiến trúc thời nhà Trần được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là tháp Phổ Minh, dựng năm 1305. Tháp cao khoảng 17 m, gồm 14 tầng. Nền tháp và tầng thứ nhất xây bằng đá, những tầng còn lại phía trên xây bằng gạch. Tầng nào cũng trổ 4 cửa vòm cuốn, giữa các tầng là gờ mái... Tầng tháp thứ nhất đặt trên bệ đá, có hai lớp cánh sen, lớp dưới chúc xuống, lớp trên ngửa lên đỡ lấy tháp hình vuông, mỗi cạnh rộng hơn 5 m. Bệ và tầng thứ nhất có những hình chạm nông trên mặt đá như hoa lá, sóng nước, mây cuốn, đặc trưng cho phong cách trang trí thời nhà Trần. Mặt ngoài những viên gạch các tầng trên được trang trí hình rồng.

Các tầng tháp đều có mái cong ở bốn phía. Trọng lượng tháp nặng khoảng 700 tấn trên một tiết diện nhỏ 30m2, lại ở vùng chiêm trũng nhưng vẫn đứng vững suốt 7 thế kỷ qua.

Page 4: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 4

Bên cạnh cây tháp cổ, ở chùa Phổ Minh còn có nhiều hiện vật có giá trị. Trước đây chùa có 120 pho tượng, nhưng do thời gian, khí hậu và chiến tranh hủy hoại, nay chỉ còn hơn 50 pho tượng, trong đó có nhiều pho tượng đẹp về hình thể, cân đối về tỷ lệ, mang tính nghệ thuật cao.

Trong sân chùa, ngoài ngôi tháp còn có hai nhà bia ở hai bên. Nhà bia bên phải, che tấm bia năm 1916, nói về tháp Phổ Minh, còn nhà bia bên trái, có tấm bia năm 1668, nói về ngôi chùa.

Dưới hậu cung còn có pho tượng đá trắng của công chúa Mạc Ngọc Lâm, người đã từng tu hành và trùng tu ngôi chùa vào thời Mạc

(1527-1592). Khi ngài viên tịch, có lăng mộ xây phía sau hậu cung, đều là những tác

phẩm cổ, đẹp, mang tính nghệ thuật lịch sử điển hình cao của thế kỷ 16.

Và tấm bia đá lớn khắc vào năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) đặt bên phải. Trước cửa chùa là một pho sử sống ghi lại lịch sử ngôi chùa, đồng thời cũng là một công trình nghệ thuật.

Chùa Phổ Minh từ ngày xây dựng đến nay đã trải qua hơn 700 năm, chùa đã được trùng tu nhiều lần, nhưng nét đẹp cổ xưa không hề phai mờ. Chùa vẫn giữ được phong cách kiến trúc cổ theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”.

Quá khứ đã lùi xa, lịch sử Việt Nam viết thêm nhiều trang sử huy hoàng, nhưng chiến công hiển hách của quân dân triều Trần chống quân xâm lược Nguyên - Mông vẫn là một trong những chiến công chói lọi âm vang đến muôn đời. Chính nền tảng đó tạo ra sức mạnh, khơi nguồn cho các công trình kiến trúc, một nền mỹ thuật khoáng đạt, tinh tế, đầy sức sống và có tính hiện thực cao.

Chùa tháp Phổ Minh, một di tích lịch sử được tọa lạc trên quê hương nhà Trần, đã góp phần khơi dậy hào khí Đông A, phái thiền Trúc Lâm Yên Tử và truyền thống yêu nước thương dân, tinh thần đoàn kết của dân tộc.

Từ Gia

Tháp Phổ Minh

Page 5: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 5

Ghềnh Ráng là một quần thể sơn thạch của dãy núi Xuân Vân chạy đến sát chân biển phía nam thành phố Quy Nhơn. Nơi đây đá chất ngổn ngang, tạo thành hang, thành rạn, thành ghềnh, quanh năm giỡn đùa cùng sóng biển...

Từ đỉnh Ghềnh Ráng có thể phóng tầm mắt nhìn rộng cả bốn bề. Phía nam như một bức tranh sơn thủy hữu tình với những dãy núi xanh dựng thành từng lớp, thấp cao chạy dọc ven biển đến tận Quy Hòa. Về phương bắc, lướt qua dải cát vàng mịn óng, thành phố Quy Nhơn hiện lên với những đường phố dọc ngang. Xa xa là khu kinh tế Nhơn Hội, niềm tự hào của người dân Bình Ðịnh thời kỳ đổi mới. Xoay lưng vào động cát phía tây, quay mặt ra hướng đông là biển cả bao la, xanh biếc một màu. Chếch về hướng đông bắc là bán đảo Phương Mai án ngữ cửa biển Thị Nại như tấm bình phong khổng lồ. Xa xa về phía đông nam, là một đảo lớn, tục gọi Cù Lao Xanh. Từ xa xưa những người dân biển coi hòn đảo này như một tiêu mốc để định hướng đi. Do đó, sau này ngọn hải đăng đã được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh. Ði dọc con đường đất uốn lượn theo triền núi, du khách có dịp chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc kỳ mỹ mà tạo hóa đã tạo ra cho Ghềnh Ráng. Trên một phiến đá lớn có một bức phù điêu hình mặt người. Lại có khối sơn thạch được mưa gió và thời gian mài gọt trông tựa đầu một con sư tử lớn đang chồm ra Biển Ðông, có trụ đá hình dáng như người vợ ngóng chồng được mệnh danh là đá Vọng Phu. Ðặc biệt, ở đây có hai khối đá lớn chồng xếp lên nhau trông rất chênh vênh được gọi là Hòn Chồng. Thoạt nhìn khối đá lớn như thể muốn rơi, vậy mà trải qua năm tháng dãi dầu nó vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt", đứng vững vàng nghìn đời nay bất chấp phong ba bão tố. Từ Hòn Chồng đi về hướng bắc dọc theo ven biển sẽ gặp những hang động hiểm hùng, kỳ bí do đá nằm chồng chất lên nhau tạo thành. Ði thêm chút nữa là một bãi đá xanh hình tròn, mặt nhẵn như những quả trứng, có tên gọi là Bãi Ðá Trứng. Phía trên bãi có một mạch nước ngầm từ khe núi chảy ra, tạo thành hai giếng nước ngọt hình lòng chảo nằm kề nhau, đường kính miệng rộng hơn một mét. Phía ngoài giếng có một tảng đá lớn đột ngột nhô cao trên mặt nước, án ngữ những con sóng lớn từ ngoài khơi đổ vào bờ...

Page 6: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 6

Cảnh đẹp nên thơ của Ghềnh Ráng từ lâu đã là nguồn cảm hứng của thi ca, như người dân địa phương truyền tụng: Gió Cầu Tấn trưa chiều thổi mát - Bãi Quy Nhơn mịn cát dễ đi - Phương Mai - Ghềnh Ráng tương tri - Ngâm câu thủy tú sơn kỳ thảnh thơi...

Ghềnh Ráng Ghềnh dốc lô nhô chuyển sắc trời Bốn mùa gió cuốn sợi dương rơi Giăng hồn Mặc Tử đêm trăng lộng Phơi nét Dzũ Kha bút lửa ngời Bạt cánh chim non về rũ đậu Mỏi vây cá lẻ chạnh ngừng bơi Câu thơ ai khắc trên bờ đá Cho cỏ ru hời giấc nghỉ ngơi. Thái Thanh Nguyên 2003

Trong tâm thức dân gian, cảnh đẹp huyền ảo bao giờ cũng là nơi có bóng dáng thần tiên. Cũng bởi lẽ đó mà Ghềnh Ráng là nơi có truyền thuyết nàng tiên xuất hiện. Bên cạnh tên gọi dân dã thân quen, vùng này còn được gắn với một sự tích. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một gia đình nông dân nghèo, sinh được một cô con gái nết na, xinh đẹp. Khi lớn lên, cô gái đã có một mối tình trong trắng với một chàng trai cùng làng. Nhưng tiếng đồn về nhan sắc của nàng đã lọt đến tai một viên quan hám sắc và độc ác. Y rắp tâm ép nàng làm vợ. Bằng thủ đoạn gian xảo và ỷ thế quyền lực, y bắt người con trai đi lính rồi đưa chàng tới tận nơi biên ải xa xôi đồng thời ra lệnh buộc nàng phải nộp đủ mười cân yến sào trong vòng một tháng, không đúng hạn sẽ phải lấy y. Giữ trọn mối tình chung thủy với người yêu, người con gái không quản

Nhìn từ đồi Ghềnh Ráng

Page 7: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 7

hiểm nguy quyết chí vượt biển ra đảo tìm tổ yến. Ðúng lúc đó người con trai trở về, tìm lại người yêu. Vì hạnh phúc lứa đôi và thương người con gái liễu yếu đào tơ, chàng không quản khó khăn nguy hiểm, quyết tâm thay nàng ra đảo. Nàng trao cho chàng chiếc nón Gò Găng, kỷ vật chung tình của người ở lại, rồi nàng trở về sống trong mong đợi và lo âu. Ðến thời hạn nộp yến mà bóng chàng vẫn biền biệt. Sợ quá nàng đành bỏ trốn. Hay chuyện, viên quan cho lính đuổi theo. Bị truy đuổi gắt gao, người con gái chạy đến Ghềnh Ráng, ẩn vào núi Vũng Chua. Quân lính đuổi tới đây bỗng trời nổi cơn giông tố, gió cuốn ào ào, mưa bay mù mịt, sấm chớp đùng đùng. Bỗng nhiên núi nứt ra một khe lớn, nàng chạy vào vụt đó rồi biến mất. Khi giông tan, trời quang, mây tạnh, khe núi biến thành một dòng suối mát, uốn lượn trên sườn núi như một dải lụa nối trời với đất. Người đời gọi đó là Suối Tiên. Chàng trai tìm đủ số yến cũng hối hả trở về. Nào ngờ, trên đường từ đảo vào đất liền cũng gặp giông bão, yến bị sóng biển cuốn trôi hết. Chàng đuối sức rồi ngất xỉu, sóng biển đã đưa chàng tấp vào Ghềnh Ráng. Khi tỉnh lại, chàng còn đang ngơ ngác, chưa hiểu mình bị dạt vào đâu thì thấy bóng người con gái lúc hiện, lúc ẩn, chàng vừa gọi vừa chạy theo cho đến khi hai người cùng biến mất. Ghềnh Ráng trở thành nơi đoàn tụ của đôi uyên ương, vì cường quyền mà không nên được nghĩa vợ chồng lúc còn ở dương gian. Họ đã phải thoát tục thành tiên mới đến được với nhau. Câu chuyện đượm màu huyền thoại, đậm chất nhân văn ấy đã làm cho Ghềnh Ráng được khoác thêm hai chữ Tiên Sa, dân gian thường gọi vùng này bằng cái tên ghép Ghềnh Ráng - Tiên Sa.

Ghềnh Ráng càng nổi danh hơn bởi thi sĩ Hàn Mặc Tử. Vì mắc bệnh hiểm nghèo, ông đã phải sống những năm tháng cuối đời trong trại phong Quy Hòa. Tâm trạng đau thương, giông bão lại được tiếp thêm cảm hứng từ cảnh thiên nhiên như siêu thực của Ghềnh Ráng, ông đã viết nên những áng thơ bất hủ để lại cho đời. Hàn Mặc Tử qua đời khi còn quá trẻ, lúc nhà thơ mới vừa 28 tuổi. Ðể thỏa nguyện mong ước của thi sĩ lúc sinh thời, năm 1969, gia đình và thân hữu đã đưa thi hài

Hàn Mặc Tử về an táng ở Ghềnh Ráng. Ngôi mộ được xây trên một gò cao, lưng

dựa vào núi, mặt quay ra biển là nơi mà ai ai dù chỉ một lần đặt chân đến Ghềnh Ráng cũng đều ghé thăm. Ðó không chỉ đơn thuần là một ngôi mộ mà hơn thế nữa là nơi tưởng niệm một danh nhân - thi sĩ tài danh. Cho đến nay, Ghềnh Ráng đã được quy hoạch chi tiết nhằm gìn giữ, phát huy giá trị của danh lam thắng cảnh. Khu vực mộ Hàn Mặc Tử đã được tôn tạo, có khu trưng bày cuộc đời và thi ca của nhà thơ, có thư quán bút lửa Dzũ Kha ghi lại những áng thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, có khu vực diễn ra hội đánh bài chòi và các trò chơi dân gian nhằm phục vụ du khách về với thành phố biển Quy Nhơn.

Nhóm NNYVN sưu tầm

Dốc Mộng Cầm, lên mộ Hàn

Page 8: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 8

Là con của Đức Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông (tức Lý Phật Mã) – vị vua thứ 2 của triều Lý ở ngôi 27 năm - được coi là vị minh quân tinh thông Phật học. Ngoài công lao mở mang bờ cõi và ban bố Bộ luật thành văn đầu tiên ở nước ta, Lý Thái Tông còn là tác giả của những bài thơ mang đậm tinh thần Phật giáo.

Lý Phật Mã là Hoàng tử trưởng của Vua Lý Công Uẩn, lên ngôi lúc 28 tuổi.

Lý Thái Tổ có để lại di chiếu truyền ngôi cho Thái tử Lý Phật Mã. Các hoàng tử của Lý Thái Tổ khá đông và người nào cũng có tài cầm

quân. Vì vậy khi Vua vừa mất, 3 trong số các hoàng tử đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi Thiên tử. Nhờ sự giúp sức của quan nội thị Lý Nhân Nghĩa, Lý Phật Mã vào cung an toàn (Lý Công Uẩn để Thái tử sống bên ngoài cung) và lên ngôi Hoàng đế. Đại Việt Sử ký toàn thư có chép, khi nghe tin các hoàng tử em làm phản, Thái tử Lý Phật Mã đã nói: “Ta lấy làm xấu hổ là Tiên đế mới mất chưa quàn mà anh em đã giết lẫn nhau, há chẳng để cho muôn đời chê cười sao?”

Phật Mã lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên Thành. Qua sự việc các hoàng tử mưu phản, vua Lý Thái Tông nghĩ ngay đến việc phải có một hình thức tâm linh để thu phục lòng người, cố kết nhân tâm. Vua cho dựng miếu thờ Thần Đồng Cổ ở bên hữu thành Đại La, sau chùa Thánh Thọ. Sau đó lập đàn trong miếu và đọc lời thề: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu, bất trung xin Thần trừng phạt”. Các quan lần lượt từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề. Từ đó, thành lệ, hằng năm vào dịp đầu xuân, vua quan nhà Lý đều phải dự Hội thề đền Đồng Cổ.

Lý Thái Tông cũng là người ban bố bộ luật Hình thư – bộ luật thành văn đầu tiên ở nước ta. Về việc này, sử sách còn ghi rõ: “Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước

Page 9: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 9

cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”.

Suốt 27 năm ở ngôi, khi mất chưa đến 60 tuổi, Lý Thái Tông thân chinh cầm quân nhiều lần. Năm 33 tuổi, ông đánh châu Định Nguyên, năm 35 tuổi đánh châu Ái, năm 39 tuổi đánh Nùng Tồn Phúc, năm 42 tuổi đánh Nùng Trí Cao, năm 44 tuổi vào tận phía Nam đánh Chiêm Thành...

Ngoài việc cầm quân, Lý Thái Tông còn là người yêu thơ văn, tinh thông Phật pháp. Ông làm thơ mà nổi tiếng nhất là bài thơ ngũ ngôn “Tăng-tì-đa -lưu-chi thiền sư”. Về ngôi chùa Một Cột - một biểu tượng của kiến trúc thời Lý, theo sử sách chép lại, đã được xây dựng bằng ý tưởng của vua Lý Thái Tông. Nhà vua nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên toà sen... Sau đó, vua cho dựng cột, làm toà sen đặt lên đúng như trong mộng. Ngôi chùa Một Cột lúc ấy được lấy tên là chùa Diên Hựu...

Sử sách còn chép rằng: năm vua 38 tuổi, mùa xuân, tháng hai ông ra cửa Bồ Hải cày ruộng khai lễ Tịch điền. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày xuống ruộng. Các quan có người can: Đó là việc của nông phu, Bệ hạ cần gì làm thế? Vua đã nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo”...

Có một chi tiết thật thú vị mà nói theo ngôn ngữ thời nay là gần 1000 năm trước, vua Lý Thái Tông đã chủ trương “Người Việt dùng hàng Việt”. Năm 1040, ngay sau khi vua dạy cho cung nữ tự dệt được gấm vóc, vua đã “xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc”. Phát hết như vậy, để trong kho không còn vải ngoại nữa nên từ đó chỉ dùng vải của nước mình. Thật là một vị vua đầy ý chí tự cường!

Nguồn didulich.net

Theo QH

Truyện 100 chữ của Cao Thái Thanh Sau một thời gian dài phát bệnh tâm thần phân liệt, bà dần dà trở lại bình thường. Cả nhà lại có dịp sum họp bên mâm cơm. Bà hỏi: “Bỏ xà lách vô mì gói ăn không?”. Cháu lúng búng trong miệng, thờ ơ: “Bà thích thì cứ ăn”. Bà run rẩy nhúng xà lách vào nước mì, rồi lặng lẽ gắp sang cho cháu. Mẹ cháu ngạc nhiên “Sao má không ăn đi?”. Bà móm mém “Cho con Út nó ăn… Tao ăn một chút hà… Nó thích rau này lắm.” Cháu bàng hoàng “hoá ra bà làm cho cháu ăn?” “Ờ… Mày giống ba mày, thích rau xà lách…” - bà chậm rãi. Như có một mảnh xương đâm vào tim cháu…

Page 10: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 10

Chân dung tác giả

Người Phan Thiết hầu như ai cũng biết ngôi nhà tọa lạc tại số 1 đường Phan Bội Châu là ngôi nhà cổ khoảng 300 năm bởi dáng nét kiến trúc và phong hóa qua thời gian của nó. Song, ngôi nhà dựng vào niên đại nào, nguyên gốc chủ nhân là ai, thì… chưa rõ, chỉ biết rằng trước đây chốn này được gọi là thôn Thành Đức, phủ Hàm Thuận, một người tên Trần Loan thuộc bang Triều Châu được cha mẹ để lại ngôi nhà đó và ông đã bán nó cho ông Lý Thụy Xuân vào ngày 12 tháng 12 năm thứ 2 Duy Tân. Sau đó, ông Xuân lại

bán ngôi nhà này cho ông Huỳnh Ngọc Điển (theo giấy bán đoạn nhà đất lập ngày 28 tháng Giêng năm thứ 3 Duy Tân).

Hiện, cháu nội của ông Điển là bà Huỳnh Thị Bảo Hòa (74 tuổi) cùng chồng là ông Lê Hoàng Chung và con cháu đang thừa kế. Như những ngôi nhà cổ khác ở miền Trung, ngôi nhà này kiến trúc theo dạng nhà “rường”, ba gian hai mái, lợp ngói âm dương, ngăn cách giữa lớp ngói với hàng ruôi là một lớp “sịa” (tức vỉ tre). Trên ba gian nhà trước có gác bằng ván là nơi để bày đồ thờ cúng. Có dịp ghé vào thăm ngôi nhà cổ này, mọi người ắt sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy những kỷ vật tự ngày xửa ngày xưa mà bà Hòa và ông Chung hằng trân trọng gìn giữ mãi tận hôm nay: Này là chiếc xa thời trai trẻ ông Huỳnh Ngọc Điền vẫn kéo sợi, này là chiếc ghế “xích đu” bằng mây mà ba của bà Hòa thường ngồi thư giãn lúc rảnh rang, và kia là chiếc nôi mây từng đung đưa giấc ngủ bà Hòa từ khi mới lọt lòng mà sau này nó vẫn nguyên vẹn là vành nôi ấm áp ấp ủ hai thế hệ con cháu bà. Thời gian cùng thiên tai đã làm cho ngôi nhà ngày một hư hỏng, tường xiêu, ngói tốc. Có lẽ đã đến lúc ngôi nhà sẽ chỉ còn là ký ức trong lòng con cháu họ Huỳnh, song như Lê Bảo Châu - chắt ngoại của ông Điển tâm sự: Dù có xây lại ngôi nhà đi nữa, chúng tôi vẫn dành một phòng trang trọng để lưu giữ tất cả kỷ vật của cha ông để lại.

Trong ngôi nhà ấy, hiện diện một nhân vật cũng hết sức cổ kính đã và đang viết nên những tác phẩm hẳn sẽ tồn tại trong lòng

Page 11: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 11

người Phan Thiết như những ngôi nhà cổ được bảo tồn. Nhạc sĩ Lê Hoàng Chung, năm xưa sáng tác nhạc phẩm “Phan Bội Châu hành khúc” đã được chọn làm bản nhạc truyền thống của trường và luôn in sâu vào ký ức của hàng vạn học sinh bao thế hệ. Đây là lời trần tình của một cựu học sinh nhân ngày truyền thống:

“Quốc ca vừa dứt ,tiếng hô từ người điều khiển chương trình cất lên: Phan Bội Châu hành khúc !

Hàng ngàn tiếng hát lại vang lên cuồn cuộn như nước suối trong nguồn tuôn trào xoáy vào tâm hồn những những người học sinh PBC lớp trước

như tôi :

Học sinh Phan Bội Châu tiến lên đi ! Dù đường trường xa vai sánh vai không

ngại gì ! … Học sinh Phan Bội Châu chí cương kiên !..

Thêm một ngạc nhiên nữa đến với tôi. Đây là bài hát rất quen thuộc do thầy Lê Hoàng Chung sáng tác. Nó thường được hát nối tiếp sau bài quốc ca trong buổi chào cờ. Tưởng đâu sau ngày Tổ quốc thống nhất bài hát không còn được hát nữa vì bây giờ các trường con tôi học mỗi lần được mời dự lễ khai giảng không thấy trường nào cho học sinh hát bài nào nhắc nhở các em về nhân vật anh hùng hay danh nhân văn hóa mà trường vinh dự mang tên cả. Hôm nay lời bài ca “Phan Bội Châu hành khúc” đã bao lâu chẳng được nghe lại bỗng vang lên hào hùng, đầy khí thế, có tác dụng như một dòng suối trong lành tưới mát tâm hồn những người nhiều năm xa cách trường. Tôi nghe mà như uống ngọt giọng từng lời ca bởi bài hát khơi gợi ở tôi bao kỷ niệm da diết, khó quên của tuổi học trò .”

Hay tâm trạng của một cựu học sinh khác:

Nội thất góc làm việc của nhạc sĩ Lê Hoàng Chung

Page 12: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 12

“Các năm học lần lượt trôi qua. Xa trường rồi, tôi không thể nào quên được hình ảnh những thầy cô và bạn bè đã cùng sống chung dưới mái trường Phan Bội Châu thân yêu. Mỗi thầy cô đều là thần tượng kính quý của học sinh thế hệ chúng tôi thế nhưng không hiểu sao ấn tuợng với tôi nhất lại là những người dạy mình các năm đầu cấp 2, tiêu biểu như thầy Mão, thầy Tiến, thầy Chương, thầy Mậu, thầy Hoàng Chung... Ra trường rồi, mỗi lần hồi tưởng lại, tôi vô cùng tự hào và biết ơn các thầy cô, những mong có cơ hội được gặp lại.

May mắn đã đến với tôi khi thầy Lê Hoàng Chung ra mắt tuyển tập nhạc “Dòng thời gian” tại thành phố Hồ Chí Minh. Dù xa cách đã mấy chục năm nhưng tôi nhận ra thầy ngay: vẫn khổ người cao gầy với khuôn mặt xương xương và cái dáng ung dung, nhẹ nhàng không thể lẫn với ai được. Tôi lại bên chào và tự giới thiệu. Thầy lộ vẻ rất mừng khi gặp lại học trò cũ, vồn vã đưa tay bắt. Nhìn ánh mắt rạng rỡ và nụ cười tươi tắn nở trên khuôn mặt đã nhiều nét nhăn của thầy, nỗi xúc động xen lẫn thương cảm dấy lên

trong lòng tôi. Trên đường về, cầm tập nhạc “Dòng thời gian” có chữ ký lưu niệm của thầy trên tay, tôi thầm nghĩ thầy đã tuổi cao, sức yếu như ngọn đèn trước gió, biết có còn dịp gặp lại?”

Lại tâm sự của 1 blogger với nick là “ka”: “Một lần đi karaoke, thấy mấy câu "Anh hát cho em nghe bài tình ca phố biển...", nhớ thầy! - Hôm đó, hiếm hoi được bữa đi học sớm, thay vì kiểm tra đàn thì thầy lại lấy ra 1 bài hát. Nếu nhớ không lầm thì lúc đó Tình ca Phan Thiết được đăng trên báo Bình Thuận, và nghe nói là sắp có mặt trên báo Phụ Nữ Tp.HCM. Thiệt tình là hơi khó hát, vì không giống kiểu của mấy bài Nhớ ơn thầy cô... hay nghêu ngao giờ văn thể mỹ, hihi...”

Như những nhạc sĩ thành danh của Phan Thiết, tác giả Lê Hoàng chung đã sáng tác rất nhiều bài về quê hương mình và đều để lại dấu ấn mỗi khi thành phố hân hoan đón nhận sự thay da đổi thịt, đặc biệt như ca khúc: "Phan Thiết - thành phố trẻ" chào mừng 5 năm Phan thiết lên thành phố. Hơn nữa bài hát “Tình ca Phan Thiết” thường xuyên được phát sóng trên Đài truyền hình truyền thanh và đã được đưa vào Tuyển karaoke Việt Nam năm 2008

Thành công của nhạc sĩ cũng thường gắn liền với thành công của bạn bè. Như trong cuộc thi sáng tác thơ: “Thăng Long - Hà Nội trái tim tôi” do Nhà Văn hóa Thanh niên Tp. Hồ Chí Minh tổ chức, thi sĩ Huỳnh Hữu Võ đã xuất sắc giành giải Ba với tác phẩm “Hà Nội rơi rơi tiếng Nguyệt Cầm”. Bài thơ có đoạn: “Nguyệt Cầm, Nguyệt Cầm/ Từng giọt rơi rơi mùa xuân/ Gió như đưa hương theo từng ngày/ Cho nhớ thương thêm vời vợi/ Nguyệt Cầm ngây ngất trong hồn tôi/ Mùa xuân về trên đôi môi/ Nguyệt Cầm/ Mùa xuân về trong tim tôi/ Nguyệt Cầm/ Có còn không niềm tin và nỗi nhớ…”. Bài thơ đã tạo cảm hứng cho 3 nhạc sĩ ở Bình Thuận là Lưu Quang Trung, Phan Anh Dũng và Lê Hoàng Chung phổ lên những giai điệu êm đềm hoài niệm. Các nhạc phẩm đều được chọn đăng

Page 13: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 13

vào tuyển nhạc trong chủ đề cuộc thi nói trên.

Đối với thi sĩ Thái Thanh Nguyên, nhạc sĩ tình cờ tâm đắc chọn phổ nhạc 2 thi phẩm đã từng thành danh, một là bài thơ “Bóng gương” đã gắn liền với sự nghiệp của nhà thơ nhạc sĩ A Khuê Hoàng Phúc, một là bài thơ “Biêng biếc phù du” đã nhiều lần tiêu biểu cho triển lãm thơ Nguyên tiêu tại Sài Gòn. Tuy nhiên, là người “đến sau” nhưng giai điệu của nhạc sĩ Lê Hoàng Chung cũng rất đặc biệt so với các bản phổ nhạc nói trên. Đồng thời “Bóng gương” và “Biêng biếc phù du” đã được hai ca sĩ Công Phước và Công Lâm thể hiện xuất sắc trong clip phỏng vấn nhạc sĩ Lê Hoàng Chung năm 2009 do Đài phát thanh bình Thuận thực hiện.

Ngoài ra, nhạc sĩ còn là một cây bút thơ Đường luật quen thuộc trong các thi đàn

trên cả nước, thơ của ông được chọn đăng trong các thi tuyển uy tín như “Bút xưa”, “Tứ phương”, “Sương bờ liễu hạnh”, “Thắp sáng Đường thi”...

Viết về Phan Thiết, thi sĩ Thái Thanh Nguyên có bài thơ sau:

Cố hương

Nàng Tấm xưa tuy khoác chiếc áo cát vàng óng ánh em vẫn lọ lem bởi vương nồng mùi cái món thân quen mỗi bữa cơm nghèo không thể nào thiếu được cùng vết nứt nẻ khô cằn xứ hoang mạc cô liêu Yêu em chắc chỉ có chàng say trăng Lầu Ông Hoàng lãng bạt vài kẻ ôm đàn viết khúc nhạc quê hương hay người lính xa nhà tương tư biển mặn và những con người một đời uống nước Mường Giang Rồi cô tấm đã gặp hoàng tử trong một ngày nhật thực Thị bỗng lên thành áo lụa kiêu sa như trong mơ muôn lâu đài hiện lên trên triền cát Mùi nồng xưa chìm lắng giữa hương hoa Dẫu em thành hoàng hậu ta vẫn tin em là cô Tấm thông thái thảo hiền vương giả bao dung Chỉ cần em còn giữ lại một vuông nhà cổ ta mãi thầm thương gọi… cố hương!

Thu 2009

Trong đó, câu áp cuối đã hàm ý tặng nhạc sĩ Lê Hoàng Chung vậy.

Bảo Anh (Lượt trích kỷ yếu Trường Trung học Phan

Bội Châu, binhthuantoday và báo Bình Thuận)

Cầu Giữa – chiếc cầu gần nhà bắt qua sông Cà Ty, hàng ngày nhạc sĩ Lê Hoàng Chung đi qua

Page 14: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 14

Tư liệu văn học

LỜI GIỚI THIỆU

Con người là một tiểu vũ trụ hay thiên nhân hợp nhất là một ý tưởng đã có từ xa xưa trong nguồn mạch tư tưởng phương Đông. Tuy nhiên cảm thụ, lý giải điều ấy vẫn được bổ sung và biến thiên theo từng thời đại. Trên phương diện khác, sự cảm thụ thuần túy chủ đề là những cảm xúc tinh tế của thi ca. Sự suy nghĩ dài lâu và căng thẳng về nó là các kiến giải triết học. Đôi khi, trên bình diện hình thức và cả bản chất người ta vẫn mơ ước thực hiện sự kết hợp giữa thi ca và triết học.

Rồi, giữa lòng của tư tưởng hiện đại với các khái niệm trường sinh học, trường lượng tử…sự hợp nhất của cá nhân với vũ trụ như thế nào? Có một thị kiến chứa đựng tất cả? Sau thị kiến ấy, chúng ta có những gì?

Tùy bút LINH ẢNH nhắm vào những ý tưởng khái quát thăm thẳm đó…Nó vươn đến một thị kiến có tính cách chứa đựng. Nó có cảm xúc của thi ca và những truy tìm của triết học. Xa đến đâu với những độ rộng như thế nào? Những câu hỏi này lại thuộc về độc giả trong khi tiếp cận văn bản.

Điều chắc chắn chúng ta nhận ra một khuôn mặt trầm tư giữa đất trời mông lung vô định…

Thành phố Hồ Chí Minh, 2009 Nguyễn Vũ Tiềm

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU ………………….. 3 MỤC LỤC………………………….. 4

CHỜ TIẾT TRÙNG DƯƠNG …….. 5 NGUYÊN BẠCH…………………… 39 LINH ẢNH ………………………… 96 Sáng tạo …………………………… 97 Thư pháp……………………………101

Hệ thống ba điểm …………………….110 Những cuốn sách………………………118 Những lần gặp……………………….. 140 Krishnamurti………………………….. 159 Kinh Dịch ……………………………. .171 Quê hương………………………… 177 Bản sắc………………………………… 195 Văn chương……………………… .208 Điện ảnh…………………………… 221

Ánh sáng………………………………. 231 Anpha và… … … … … … … … ….245

Page 15: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 15

Chương I: CHỜ TIẾT TRÙNG DƯƠNG

Trích đoạn:

...

Chế bình trà và đi lại trong phòng suy nghĩ. Quan sát chiếc bóng. Con người suy nghĩ hay chiếc bóng suy nghĩ thì không có gì khác nhau. Cũng như vậy khi nói rằng tôi, ngọn đèn, một bức tranh hay những vì sao xa. Chỉ là một sụ chú tâm quan sát. Không có ai là người quan sát cả. Quan sát đang dừng trên các đối tượng của nó: bức tường, trang giấy, một con người. Có khi là ý nghĩ xuất hiện. Mọi vật chỉ là những hình ảnh loáng thoáng trong sự tập trung suy nghĩ. Ý nghĩ đã làm khuất lấp quan sát như là những vật cản trong dòng chảy.

Để nhận thấy ý thức phải có sự biểu lộ, họat động của nó. Để thấy nó đang là cần sự thoải mái hòan toàn. Cũng như khi xem một dòng nước trong sự vận hành nội tại của nó thì không được đắp bờ hai bên. Lập ra đập chắn phía trước, thả vào dòng chảy những vật thể nào đó, mẩu ván hay tảng đá. Vì là, có một quán tính nào đó sẵn sàng lập ra những mục đích cho ý thức.

...

Chương II: NGUYÊN BẠCH

Trích đoạn:

...

Ngày 3, tháng 3

Hình như đêm qua có trận mưa nhỏ. Buổi sáng mây xám bàng bạc. Khí trời dịu dàng. Thỉnh thoảng những cơn gió xao xác. Trong vườn thường có những cặp bướm bay lượn quấn quýt bên nhau. Trông đường bay có cảm tưởng như chuỗi xoắn kép. Không hiểu có sự cảm ứng nào giữa hai con bướm để

chúng có đường bay như thế. Và thường là bay nhanh.

Sự cảm ứng này là một câu hỏi. Chiều hôm qua có một đôi bướm như thế bay là là sát mặt đất. Rất chậm ở gần hồ nước. Đột ngột chúng lao vút theo phương thẳng đứng lên cao.

Lúc 9 giờ có một cặp bướm khác nhỏ màu vàng. Vài chấm đà to như đầu kim trên cánh của chúng. Viền quanh cánh là một dải đen. Chúng cũng bay lượn nhẹ nhàng, thành cặp bên những khóm trúc, lùm mai cẩm tú.

Sự phản ứng của đầu óc trước một đối tượng, sự kiện, hoàn cảnh không mấy khi niềm nở. Nó quan sát, so sánh, quy chiếu và bình giá. Căn nguyên này là gì? Tính mờ đục tầm thường của đối tượng không đủ sức thu hút và hòa tan nó? Hay chính năng lực hạn chế của đầu óc không cho nó dẫn nhập, thăng hoa về đối tượng?

Page 16: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 16

Có thể là cả hai. Một con bồ câu xanh biếc nhớn nhác đi từ cuối mái lên nóc của ngôi nhà trước mặt. Đôi chân son đẹp mắt và gợi cảm. Đến đỉnh nhà nó dừng lại quan sát cái gì đó. Chẳng có cái gì để nhìn, nó quay lại rỉa lông cánh!

...

Chương III: LINH ẢNH

1. SÁNG TẠO

Trích đoạn:

...

Người ta có sáng tạo mới bảo vệ được mình. Có một câu nói như thế. Trong đời sống cá nhân, sự sáng tạo vốn không lấp đầy toàn bộ hiện hữu. Từ những khoảng trống như vậy, nảy sinh sự u ám, chán nản, bế tắc… Giải trí là một chuyện khác. Như vậy, tăng cường các hoạt động sáng tạo là điều cần thiết cho một hiện thể.

Tính chất bảo vệ mình dễ gây sự hiểu lầm là tăng cường bản ngã. Duy trì hoặc tăng cường bản ngã gắn với một hạt nhân nào đó. Nó thừa nhận hạt nhân này và tiến hành sự phân biệt, cô lập. Sau đó là các biểu hiện quyền lực khi cần thiết. Sáng tạo thì khác hẳn. Trong họat động này là một tương tác giữa cá nhân và những yếu tố bên ngoài nó… Họa sĩ không thể vẽ nếu như không có vải, mực, cảm xúc và ý tưởng… Các nhân tố này, sau nung nấu của quá trình sáng tạo sẽ là một cộng thông, cộng hưởng. Nó tác động lên họa sĩ từ ý thức đến vô thức. Trang giấy trắng là một mời gọi lên đường cho văn sĩ. Bảng màu trước mặt là một chỉ dẫn về sự hòa sắc… Cây đàn, một khi cái nhìn chạm đến là một trường âm thanh đang chờ đợi. Nó chực việc xổ ra những nốt nhạc và tiết tấu kỳ diệu. Vấn đề là cái nhìn phải hướng đến và chạm đến!

Như vậy, sáng tạo là sự tương tác của hiện thể và những gì quanh nó. Quá trình tương tác sẽ là sự dịch chỗ, chuyển vị. Cái hạt nhân mà hiện thể chứa đựng sẽ đối thọai, tiếp chạm và có thể là hòa tan trong khách thể bao quanh nó. Hiện thể sẽ là sự nhân lên, bội sinh trong một hạt nhân mới.

Nếu như cái hạt nhân ban đầu còn lại, sẽ là ấn chứng của một cái gì đó vốn là sâu xa và bền vững. Những gì như vậy không thuộc về cá nhân. Nó đã thuộc về những gì khuôn vàng thước ngọc của nhân loai mà cá nhân mang giữ. Hoặc nữa, nó là một khải thị…

2. THƯ PHÁP

Trích đoạn:

...

Từ những nguyên nhân sâu xa nào mà tôi lại hứng thú với bộ môn này? Tính chất thiền hay nhu cầu thẩm mỹ ở dạng tiết chế có ở trong tôi? Và sâu xa hơn nữa?... Một phát hiện khác đó là cuốn sách Nghệ thuật Thiền mà tôi vừa đọc được trong những năm 2006. Trong ý tưởng thơ ca, hội họa và thư

Page 17: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 17

pháp là ba kho tàng của một hành giả. Đến đây, yếu tố thẩm mỹ đã nâng đến mức tâm linh và mặc nhiên nhu cầu tinh thần của tôi được đáp ứng.

Những buổi sáng sớm ở quê tôi thức dậy và lao ngay xuống nhà bếp. Đun một ấm nước. Bên ngòai sương tháng chạp và sau đó là những ngày đầu xuân còn bàng bạc.Trong ánh lửa, anh ta, một thanh niên gầy gò và mảnh khảnh cặm cuội mài mực. Rồi thì, khi bình trà đã chế. Mực mài đã tạm đủ anh ta loay hoay với những con chữ…Viết ra một chữ ưng ý là một điều hứng thú. Một niềm vui tức khắc. Nó không cần quá nhiều điều kiện… Mặt khác, sự tập trung và tĩnh tâm khi viết là một hành động giải trừ những phiền não và lo toan của đời sống. Trong quan điểm tổng thể, chắc rằng đó không phải là cách trốn chạy!

Viết những dòng như vậy, là soi chiếu bản ngã, là giải trừ nó trên phương diện ngôn ngữ. Nếu như không thực hiện việc giải trừ này thì nó lẩn quất ở đâu đó. Không phải củng cố bản ngã mà là sự giải trừ trong thực tướng và sâu xa sự việc… Phương diện khác, cần phải làm một cái gì đó trên phương diện chia xẻ với cuộc đời, cộng đồng…Một cái gì đó tạm gọi là ích lợi trong toàn thể biểu thị của sự sống… Như vậy là thư pháp!

...

3. HỆ THỐNG BA ĐIỂM

Trích đoạn:

...

Một cái gì đó nếu không phải tuyệt đối thì ít nhất là cái tương đối cao nhất mà con người có thể đạt đến? Tức là tính chất tục đế của hiện thực, sự khế ước của cá nhân và toàn thể?... Trong khi quán chiếu và sàng lọc có thể câu trả lời xuất hiện?

Cá nhân như ngọn đèn nằm trong một cái chao. Xem ra, những cái chao đèn này là không thể tránh khỏi. Cái chao đèn có tác dụng bảo vệ, thẩm mỹ vừa là sự che chắn. với cái chao đèn ấy ta không thể phát sáng ra toàn bộ các hướng. Và ngược lại, ta cũng không thể nhận toàn bộ ánh sáng từ các hướng khác. Vấn đề là, ta có thể mở rộng không gian cái chao này đến đâu?

Trở lại vô phân như một trạng thái bản nguyên. Thị và Phi. Thiện và Ác… Xóa nhòa các ranh giới này là việc làm có thể như Trang Tử hay Lão Tử đã thực hiện… Một giải pháp khác nằm trong tiến trình chấp nhận. Sự phân biệt là cái đã rồi. Cái không thể tránh né vấn đề là phải đối diện. Sự kế tục mặc nhiên là việc thanh lọc đến mức độ cao nhất có thể… Quá trình thanh lọc sẽ dẫn đến một cái gì đó. Cái gọi “tạp chất” sẽ lắng lại và tiêu hủy theo quá trình mà các tiên nho gọi là Mặc hóa. Những hiệu ứng, mặt trái, phản ứng phụ và dư vị không phải là những đeo bám làm ánh ảnh tâm trí. Không gian Tịnh độ sẽ mở ra những gì mà ý thức cần tìm kiếm

Page 18: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 18

Trạng thái bản nguyên thì nằm ngoài những quan sát và dòng chữ này, như là khi khối đá hãy còn ở rừng sâu và chưa có bất kỳ một chứng nhân nào đó. Tuy nhiên, trong khi người thợ kim hoàn phân biệt, đẽo tạc, lọai bỏ lại là một trạng thái bản nguyên khác…

4. NHỮNG CUỐN SÁCH

Trích đoạn:

...

Bây giờ là hơn 12 giờ. Tôi vừa từ phố về dưới cơn mưa. Đường phố vắng nhạt nhòa ánh đèn. Trong khi trên đường một làn hơi ấm nóng phát ra từ cơ thể và làm tôi dường như không bị chịu tác động mấy về trận mưa… Tôi vừa nói chuyện về thư pháp … Một cấu trúc nào đó trong tâm trí chàng ta thúc đẩy việc thành tựu đến mức cao nhất có thể trong những gì chạm đến… Tiến sĩ Nhật Từ nói những đỉnh cao chỉ có một. Tôi gợi ý trong trường hợp người ta chuyển hướng quan tâm thì sao? Câu trả lời khi đó là những giá trị tương đương…

Tôi hỏi nhà thơ Thái Thanh Nguyên qua điện thọai trong khi ngồi ở quán cà phê. Chị hỏi tôi có gì mới. Tôi trả lời mọi việc vẫn bình thường. Chị nói như vậy là tốt rồi. Chỉ ngại khi phải mất những gì mình đang có… Tôi ngộ ra vài điều sâu sắc trong lời nói ấy và cảm ơn chị. Tôi hỏi tiếp ý nghĩa tam hoa tụ đỉnh là gì. Câu này thỉnh thoảng tôi vẫn nghe ai đó nói trong giấc mơ. Chị trả lời khả tính của một trạng thái như vậy có thể khế ước với ngoại vật. Một trạng thái liên thông…

Các pháp là không xen tạp lẫn nhau. Hoa nghiêm nói ra điều ấy. Một đường dẫn nhanh cần nói là: các pháp, trong thực tướng của nó ở bất kỳ kích thước, hình thể là một hành trình bất tuyệt, miên viễn và nằm ngoài mọi cấu trúc nhận thức. Chỉ khi ý thức xuất hiện, các mô hình của nó mới thiết lập các trạng thái, thực ra là cái nhìn của ý thức: đối xứng hoặc phi đối xứng, sóng hay hạt, dây hay điểm… Điều này tương tự khi ta mang kính vàng, vũ trụ sẽ là màu vàng. Một cái kính vuông, vũ trụ sẽ có hình vuông. Lại nữa, ý thức là một nhân tố thực không tách rời toàn thể. Việc nhận diện các mô hình như vậy ta cũng nói rằng không sai hoặc không đúng. Có hay không… Tức là: Không tức thị Sắc. Sắc tức thị Không. Cái sắc ở đây trong một phương diện là Ý thức.

Vũ trụ tự thân là gì ? Điều ấy chỉ thể đạt đến khi ý thức từ bỏ các mô hình và ý niệm của nó. Lúc bây giờ, cái ta nhận được là cảnh giới Bất khả tư nghì… Đức Phật nói: Bất khả thuyết! Bất khả thuyết!

...

5. NHỮNG LẦN GẶP

Trích đoạn:

...

Tôi gặp học giả Bửu Ý vào năm 2003, khi ra Huế học thuốc. Tôi biết đến tên tuổi Bửu Ý khi còn là những năm sau trung học. Cùng với Tuệ Sĩ, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn, những tên tuổi trí thức, nghệ sĩ tài hoa và lấp lánh. Kỷ niệm trong thời gian giao tiếp với Học giả tôi không kể ra hết được. Ấn tượng nhất, khi tôi nói việc trở về quê sau khi học. Thầy giáo hỏi chính xác là ngày nào với dự định làm một buổi tiễn biệt nào đó. Tôi không nói chính xác và buổi tiễn biệt cũng chưa có. Tuy nhiên trong cái ý được học giả tính đến một buổi tiễn đã làm tôi xao xuyến cho đến hiện giờ…

Page 19: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 19

Điều tiên tri mà tôi ngạc nhiên từ đâu có? Học giả nói việc khi tôi vào Sài gòn sẽ giới thiệu cho một người bạn: Trương Thìn…Tại đó có thể tôi nhận được những giúp đỡ nào đó…

Sài Gòn như một ngã tư đường. Đến đó thì đi đâu có thể tùy chọn…

Tôi mang cuốn Quẻ Khảm, Nguyên bạch xuống Viện Y học Dân tộc, nơi làm việc của Viện trưởng Trương Thìn. Lúc này, Viện trưởng đã nghỉ hưu và có một căn phòng riêng trong khu vực của Viện… Tôi nói sơ lược về giới thiệu của Học giả Bửu Ý. Viện trưởng hỏi ngay: “ Tôi có thể giúp đỡ anh được gì?” Tôi nhận ra việc Viện trưởng đã từng tiếp xúc không ít những trườg hợp như vậy… Tôi nói việc cần những giấy giới thiệu. Viện trưởng đồng ý… Một lúc sau câu chuyện hướng đến Kinh Dịch. Chủ yếu là Viện trưởng nói mà tôi là người nghe. Viện trưởng kể về thời gian giảng dạy của mình ở Ấn độ. Triết học phương Tây thực hiện cuộc hành trình từ tâm đến vật, chẳng hạn Macxit, hoặc từ vật sang tâm như Hê - Ghen…Kinh Dịch thực hiện một hành trình khép kín… Lại nữa, sự minh triết khôn ngoan trong Kinh Dịch chỉ dạy ta như một cái lồng sắt. Cá nhân là con chim học sự khôn ngoan qua việc bay trong cái lồng đó… Bay như thế nào khỏi đụng chạm… Cần có sự bổ túc trong các họat động nghệ thuật, giải thoát… Ý tưởng này hoàn toàn mới mẻ. Nhân tiện, nói thêm rằng ý tưởng của tôi trong thời gian gặp Viện trưởng là chia cách dần với các họat động nghệ thuật. Chỉ giáo của Viện trưởng, là cái ít nhất mà tôi hãy còn lưu giữ đến giờ… Cũng như khi tiếp xúc Thầy Bửu Ý tôi nhận ra con người có thể sống và làm việc với sự phong phú văn hóa và tầm kích như thế…

Hải Thượng Lãn Ông trầm mặc trong khuôn viên Viện y học dân tộc. Những nén hương đang tỏa khói. Một vài bức phù điêu ẩn trên những bức tường với nhủ đồng vàng… Hai năm qua tôi chưa gặp lại Viện trưởng vì Viện trưởng đã thay chỗ mà tôi lại không có số điện thọai liên lạc… Bút tích của Viện trưởng trong lời giới thiệu tôi vẫn còn lưu giữ. Những khi nhớ về sự kiện tôi lấy ra xem lại…

Một cái nhìn đối diện làm phát lộ bản chất sự vật. Tôi muốn nói đến Tiến sĩ Thích Nhật Từ… Buổi chiều tôi dạo phố một lát. Một cơn mưa đẩy tôi vào cái quán cà phê bên đường. Đột nhiên tôi nhận ra, những gì trước mắt là một hiện tiền không tên gọi.

Ý đồ đầu tiên của tôi là nhờ đến thầy Lê Mạnh Thát viết cho lời giới thiệu. Tôi mang bản thảo tiểu luận xuống Viện Phật học. Một tỳ kheo ra ân cần dẫn tôi vào phòng làm việc của các hòa thượng. Một hòa thượng trung niên khác, là chánh Văn phòng thì phải, ấn tôi xuống một cái ghế đối diện và hỏi qua sự việc. Cho đến giờ trong tôi vẫn là cảm giác được quan tâm và nằm trong trách nhiệm của một cộng đồng… Hòa thượng nói việc Thầy Lê Mạnh Thát đã thuyết giảng ở nơi xa chưa về. Phương án là, nếu thầy không thực hiện điều đó thì Đại đức sẽ thực hiện việc giới thiệu…

Thời gian sau tôi trở lại. Thầy Lê Mạnh Thát vẫn chưa về. Một phương án khác đặt ra là, một tỳ kheo hướng dẫn tôi xuống chùa Giác Ngộ để gặp tiến sĩ Thích Nhật Từ. Tôi xuống chùa Giác ngộ và chờ đợi một lát. Tiến sĩ về và dẫn tôi lên phòng riêng. Một cái gì đó thông tuệ và sắc bén hiển hiện trên khuôn mặt tiến sĩ… Một ấn tượng khác là những giá sách chất ngất trong căn phòng rộng của Tiến sĩ… Tiến sĩ lật qua các tác phẩm của tôi và nêu nhanh những nhận xét. Cho đến hiện giờ tôi vẫn khâm phục sự cảm nhận thông tuệ như vậy. Bản thảo mà tôi đưa cho những người khác đọc, các trí thức, thường là được tiếp cận chậm chạp và những nhận xét chẳng mấy xác đáng. Khó hiểu! Chưa nói lên một cái gì… Trong khoảng thời gian ngắn như vậy tiến sĩ đã chỉ ra những lỗi nhỏ trong tác phẩm của tôi. Về một vài chương viết: Giải thoát… Về cách đặt đầu đề… Những điều này tôi đã một lần nhắc đến… Tiến sĩ hẹn sẽ viết sau một khoảng thời gian nào đó. Sau buổi tiếp xúc, tôi nhận ra người mà tôi đang tiếp cận. Đó là những gì có từ trong sách vở. Việc nói chuyện trực tiếp là một diễm hạnh…

Nghĩ đến việc viết về nhà thơ Thái Thanh Nguyên tâm trạng tôi vừa hồi hộp vừa vui thích. Tôi như đứa em bước vào nhà người chị với vài vết bẩn bên ngoài làm dây trên sàn nhà. Tôi định sẽ nhận vài sự quở trách nhẹ nhàng rồi ít nhiều tham gia vào một cuộc chiêu đãi!

Page 20: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 20

Qua giới thiệu của Tiến sĩ Thích Nhật Từ, tôi xuống nhà chị. Ý đồ của tiến sĩ là nhà thơ sẽ giúp tôi trên phương diện truyền thông tác phẩm… Cảnh báo nhỏ của tiến sĩ trang bị cho tôi trước khi diện kiến. Cảnh báo gì? Hãy lướt qua những thoáng ngông của chị! Qua điện thoại, chị hẹn tôi lúc 11 giờ. Tôi đến lúc 10 giờ và ngồi ngoài sân chờ đợi. Mảnh sân nhỏ với vài cây cảnh. Bộ bình trà cũ đặt trên cái bàn thấp kiểu Nhật. Những tấm bồ đòan… Tôi dường như đang ở trên Đà lạt… Trời se lạnh…

Đang là mùa đông, nhà thơ mặc chỉ một cái áo khoác nhẹ ra tiếp. Chị nói tôi đã sai hẹn và không vừa ý… Chã lẽ để khách chờ quá lâu, chị nói vậy… Lần gặp thứ hai thì tôi còn nhớ mãi. Tôi xuống nhà thơ buổi chiều. Chị dẫn tôi đi bộ một quãng đường. Chị cần phải chăm sóc một bệnh nhân… Biết tôi cũng là một thầy thuốc chị nói tôi làm bệnh. Một bà cụ hình như bị huyết áp. Tôi từ chối. Nhà thơ nói tôi lười biếng!

Sau khi làm bệnh chị bảo tôi vào một cái quán cà phê nhỏ bên đường. Trên đường tôi đã có chủ ý tìm một vài quán cà phê sang trọng để mời chị. Trong khi ta hình dung một vì sao ở xa thì hóa ra nó rất gần… Xuất xứ và thiên hướng Phật giáo của chị… Những viên Xá lợi chị có được… Trên phương diện trí thức, tôi tiếp cận Mật tông một cách gần gũi nhất. Không phải việc đọc qua sách vỡ mà bắt đầu từ một con người. Và, những gì huyền bí lại là đang xảy ra, trong hiện tại… Tôi vốn có một kiến thức sơ sài về Mật tông. Nhà thơ nhận ra được. Một tình trạng cưỡi ngựa xem hoa. Và đứng ở ngoài sân nhìn vào nhà… Sau khi hỏi thêm vài câu chú mà tôi không biết, vị trí của tôi bị đầy lùi tiếp. Ở ngoài đường mà nhìn vào nhà…

Tôi thoải mái tiếp nhận những phê phán của chị vì biết rõ khoảng trống từ kiến thức của mình. Trong khi nhận xét, chính nhà thơ đã dần dần bổ sung vào những gì tôi còn thiếu… Những viên xá lợi tôi chỉ nghe qua sách vỡ và giữ một thái độ kính nhi viễn chi. Với chị lại là hiện thực và là một đề tài sẽ viết… Nhà thơ hỏi tôi đã từng tiếp xúc kỳ nhân nào chưa? Tôi trả lời vài người quen, là trí thức. Chị chỉ xem đó như những khuôn mặt tài hoa. Kỳ nhân là khác. Nghe chị kể:… Vậy là Tuệ nghếch mặt mà nghe chuyện những kỳ nhân…

Trong khi tiếp xúc tôi nghĩ về những khác biệt trong xã hội. Tôi đang ngồi cạnh một ngọn đèn neon sáng lóa trong khi ở nơi khác những ngọn đèn dầu còn tù mù vàng vọt… Sự bất công trong xã hội từ Niutơn đến một người hiện đại không biết qua một phép tính hay con chữ là thăm thẳm. Và khi ta nhìn vào khoảng cách không gì lấp nỗi ấy nảy sinh một tình trạng tiêu cực buồn bã. Từ tâm là tên gọi của nó. Nhưng, với tôi chỉ dừng ở mức độ chiêm nghiệm và chết lịm trong đó…

Tôi kể việc chàng văn sĩ trong tiểu thuyết Giờ thứ 25. Chàng ngồi viết trong thư phòng. Một cơn mưa lớn và có nhiều người đứng trước hiên nhà văn sĩ trú ẩn. Không có cách chia xẻ nào khác, chàng ta rời công việc và thư phòng để ra ngoài sân cùng chấp nhận cơn mưa với đồng loại… Đôi lúc tôi nghĩ việc sát thân thành nhân là kết quả chung cục. Tôi nói lên ý tưởng của mình. Không có sự thành công đáng kể nào!... Nhà thơ nhận ra tức khắc khía cạnh trắc ẩn trong tôi và biện biệt… Quan điểm của chị. Văn sĩ hãy mở rộng hết cỡ căn phòng. Đến khi nào không còn chứa thêm thì hẳn ra ngoài!

Một day dứt khác trong tôi là chỗ đứng của Adi! Sau khi nghe cuộc hòa nhạc trong thính phòng, biểu trưng một sự hòa hợp và thánh thiện cao độ, Adi nhận ra vị trí của mình là ở chỗ những người hái thuốc phiện! Cần phải cải hóa. Nói một cách tương tự là chỗ của Chư Phật lại là Địa ngục. Để giải cứu. Giờ này đây, khi viết ra, tôi nhận ra một vết tích trong nhận thức bản thân. Nó hãy còn quan tâm đến kết quả gắn liền với phúclợi. Nói rõ thêm rằng, việc quan tâm như vậy cũng nằm trong tính cách phổ biến. Không phải tôi quan tâm cho bản thân mà một quan tâm chung…

Quả vị khi thực hiện một động tác nào đó là tương thích. Khi thực hiện Bồ tát hạnh sẽ là quả vị Bồ tát hạnh. Bằng như, yên vi trong Như lai sẽ là quả vị Như lai…Đó là kiến giải của chị! Tôi lại thắc mắc về một ý nghĩa mà nhà văn PTH cũng từng thắc mắc. Van gốc có ý nghĩa gì? Kiến giải của nhà thơ: Ai biết được hậu thân Van gốc là một nhà buôn tranh hiện đại nào đó! Nhân Van gốc và quả là Van gốc trong một hình thái khác. Không có gì bất cập trong cái nhìn mở rộng và tổng thể…

Page 21: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 21

Tôi nói sự e ngại của mình trong việc tiếp cận những gì quá trắng. Một nỗi lo làm dây bẩn trong khi màu trắng lại là màu hấp dẫn nhất! Chị nói việc hãy sống và thể nghiệm trong mọi trạng thái, tình huống và vượt qua những trạng thái, tình huống ấy... Một thời gian sau, tôi nhận ra và chắc chắn vậy, những gì chị nói là tiếng vọng trong câu chú: Thể nghiệm, thể nghiệm, và hãy thể nghiệm…

6. KRISHNAMURTI

Trích đoạn:

...

Con người trần gian vốn hữu lượng nên chỉ thể nhìn thấy, cảm thấy những gì cực đại theo tâm trí của nó. Nên giã từ việc cố gắng mô phỏng hay khái quát một cái gì là toàn thể… Có bao nhiêu nước trong một biển cả? Bằng một cái gàu sòng tôi múc lên một ít. Tôi biết là như vậy. Tôi không thể thực hiện việc xác định đại dương bằng bao nhiêu cái gàu sòng. Trong khi, mở rộng nữa thì đại dương ấy lại liên tục nằm trong những cơn mưa… Nói vậy, việc giã từ sự đo lường, tính toán không phải là cô lập bản thân với toàn thể. Cái tương thích là nhập vào đại dương ấy!...

Viết thế này là thiếu sót nếu như có ý đồ giới thiệu cho người đọc. Tức là, tôi phải làm công việc của một học giả. Tức rằng cần thể nghiệm và khảo sát cẩn thận những gì mà Bút hoa nói. Tuy nhiên, đó là một ý đồ đã qua hoặc sắp đến… Nói như vậy là tránh cho độc giả một cái nhìn, bị dẫn dắt do cái nhìn của tác giả, người viết, vốn không phải toàn thể và tương thích với những gì đang xảy ra, hoặc nói về Krishna… Tôi cũng đang làm cái công việc dùng một cái gàu sòng để múc nước biển. Độc giả nhìn ra điều ấy và hãy đến trực tiếp trước biển!...

7. KINH DỊCH

Trích đoạn:

...

Gọi là Ta vì cái tôi là một sự nhiễu, một tình trạng đóng kín do nhiều nhân tố. Tương tự khi khai mở toàn bộ các luân xa, khí lực của một người sẽ là khí lực của vũ trụ. Trong quan điểm toàn thể, bao hàm cả phương diện tình cảm, cảm xúc, tức là từ khí lực tự nhiên chuyển sang các ngoại hiện khác. Một trạng thái chứng nghiệm nếu như cần thiết sự định danh sẽ là: Ta là Thái cực!

Một kích thước khiêm tốn hơn để so sánh. Ta hình dung một người bạn với những gì quen thuộc và bình thường, gắn với các tiểu sử, điều kiện xã hội. Đột nhiên, đến lúc này ta nhận ra đó là một Vương gia.

Những nhìn nhận cần thay đổi nhiều hơn từ gốc rễ. Có rất nhiều ngành khoa học liên quan đến Kinh Dịch. Thay vì vậy, cái nhìn là sự biểu hiện của Kinh Dịch trở thành nhiều ngành khoa học… Ta cần nhận ra rằng, nguyên bản Kinh Dịch trong các phiên bản không trọn vẹn của nó là Y học, Tử vi, Vật lý, Địa lý… Dịch là tác động toàn thể. Trong hơi thở, cảm xúc và hành động của ta chính là Dịch. Đối với ý thức, Kinh dịch là một tri thức. Nói đến phương diện tri thức, cái mà con người nhận được là một thiên khải. Thiên khải này Phục Hy là người thực hiện. Rồi thì, trong cái nhìn không thời gian, Phục Hy vẫn còn ở đó, tại đó đang dạy dỗ loài người!

...

Page 22: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 22

8. QUÊ HƯƠNG

Trích đoạn:

...

Cơn mưa phùn đầu xuân phong ta vào những cái bàn trà. Mưa bay lất phất ngoài song cửa. Chìm đắm trong một ý nghĩ hay viết ra ngoài đều đẹp dẽ như nhau. Nhưng mà mùa thu đến… Một nhịp điệu khác chậm rãi và ngưng đọng. Ấn tượng là có những ngày bầu trời xanh và dường như cao thêm mãi. Thường trực là mây dâng lên từ các hướng. Cuộc viễn du của bầu trời làm ta khắc khoải. Có một cái gì phải là kết tụ lại? Tất cả chỉ là lữ thứ? Xê dịch và lang thang?… Rồi thì giọt mưa trên mái đã liên tục nhỏ xuống. Bụi nước nhỏ. Có bao âm thanh buồn khi gần khi xa và xao xác. Những tiếng lật sách sột soạt rất khẽ qua đêm… Bóng người trên tường trầm lặng… Tôi nghĩ hay chiếc bóng kia suy nghĩ. Có khác gì đâu?

Sáng mai, tôi phải tìm một màu sắc, một loại hoa trong vườn để xoa dịu một điều chi âu sầu và khắc khoải. Chỉ còn lại cây hoa hồng phấn nở quanh năm. Những cánh hoa nhạt và dịu dàng ngõ lời rằng bao giờ cũng là cái đẹp, bao giờ cũng là sự an ủi. Giai thọai rằng, một người mẹ trong khi chăm sóc hay hy sinh cho con đã dùng đến những giọt máu. Cái chết hóa kiếp thành hoa hồng phấn. Những màu sắc đỏ rực rỡ đã lùi lại và tiết giảm…

9. BẢN SẮC

Trích đoạn:

...

Trong nghìn trùng duyên khởi để nói về bản sắc, một bản sắc thi ca, nhận thức hay con người không thể cô nén lại trong vài đôi dòng viết. Nhưng có, một cách vô thức và chạm đến những gì sâu xa của

Page 23: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 23

sự việc, ta hãy để tự nhiên là ý thức với các sự hồi phục của nó. Điều này tương tự Pautôpxki đã không ghi chép gì trong 10 năm thực tế của mình để thu nhập kinh nghiệm sống. Những gì còn lại của 10 năm sau đó là một sàng lọc tự nhiên và quý giá. Nó đứng vững trước lãng quên và nhập vào cốt cách…

Nhị bát giai nhân thích tú trì

Tử kinh hoa hạ chuyển hòang ly

Khả liên vô hạn thương xuân ý

Tận tại đình châm ngữ bất thì.

Sau những huyền thoại là …

10. VĂN CHƯƠNG

Trích đoạn:

...

Sự viết, nếu thiếu đi những khai dẫn làm ta đâm e ngại. Những mở rộng kiến văn là khai quang tâm trí… Một khi niềm tin đã định hình thì mọi việc trở thành tự phát… Một vài tác giả mà tôi chịu ảnh hưởng là Trang tử, Basô, Tagor… Những đại thụ này cho hoa trái mà hậu nhân có thể chia xẻ bất tận…

Tôi xin tri ân đến Trang tử với giai thọai đẹp là người hóa bướm hay bướm hóa người. Trong tinh thần Tề vật thì bướm đâu khác người. Ta cũng đã bắt đầu bước vào cái Như lai, Như thị… Trang tử như đám mây trong sự phiêu bồng và biến hóa phi thường. Dường như nó rải khắp bầu trời… Và cái gọi bầu trời với đám mây ấy dường như cũng là sự nghi hoặc. Cái ta gọi phía xanh xanh ấy là bầu trời mà thực ra có phải là bầu trời không? Trang tử nói ra những con chim côn lớn mà bay một cái cánh che khuất cả mặt trời. Ta tưởng đó là sự ca ngợi tiếp theo. Hoá ra có những con chim nhỏ cười nhạo: chúng ta bay lên những cây du cao không quá mấy sải mà bị rớt lên rớt xuống. Bay xa làm chi vậy ?

11. ĐIỆN ẢNH

Trích đoạn:

Ta hình dung, đạo diễn, các nhạc sĩ, diễn viên… là những cái kính hội tụ đang cộng hưởng và tập trung. Kết quả là ta nhận ra thực tướng trong những gì uyên áo và bản thể. Âm nhạc, ánh sáng trong sự dàn trải và tiết chế… đang nằm trong tự thể…

Mỗi hình ảnh tương ứng một âm thanh. Nó chứa đựng, hoặc biểu thị một âm thanh nhất định. Trong sự xem, một cách tĩnh tâm và sâu sắc ta có một sự nghe. Tức là âm thanh xuất hiện. Chẳng hạn màu đỏ như một tiếng nói, tuyên ngôn. Màu xanh như một âm trầm và dài. Màu tím như một lời thầm thì…

Trong sự nghe, nhẹ nhàng hơn ta thấy một hình ảnh… Tất cả là một biểu thị và là một thực tướng. Nói rõ hơn qua một ví dụ. Trong đời sống, ta nhận ra lữ khách trên đường qua một thoáng nhìn hay

Page 24: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 24

trong sự tán tâm nào đó. Quanh anh ta là im lặng hay tiếng ồn. Một trường cảnh trong phim cho hình tượng này sẽ có âm nhạc đi kèm. Là một khúc viôlông khắc khoải hay tiếng dương cầm đều đều gõ nhịp. Không phải sự bố trí của đạo diễn mà là ngược lại. Đạo diễn, hay nhạc sĩ là người nghe ra những giai điệu như vậy từ đời sống. Qua quan sát sắc sảo và cảm thụ tinh tế đạo diễn trình ra sự nghe qua sự thấy của mình…

Một điểm nhấn là sự kiện. Sự kiện trong một bộ phim là điều thiết yếu...

12. ÁNH SÁNG

Trích đoạn:

Việc xuất hiện khối màu trắng đỏ trong việc đọc kinh Lăng gìa như lúc đầu tôi đã kể. Về sau, trong những năm gần đây tôi thường thấy những hình ảnh đó nhiều hơn. Thường xuất hiện hơn cả là những những luồng khí trắng xanh, trắng đỏ. Và hình dáng một cái cầu vồng. Nó xuất hiện với khoảng cách chừng vài trăm mét cho đến lúc nhập vào thân thể… Cũng đôi khi là một cái hoa sen vàng có kích thước chừng một mét xuất hiện quanh không gian tôi đang sinh họat hay làm việc… Sự xuất hiện những hình ảnh này thường là vào lúc tôi tập trung làm một công việc tinh thần hay trong thiền định…

Hình ảnh sau cùng tôi muốn giới thiệu là hình ảnh Đức Phật ngự trên một đóa sen vàng. Có sự xen kẽ các ánh vàng và ánh trắng trong hình khối đó. Cách chừng vài mét trên đầu… Ta có thể nhận ra những nếp vàng từ vai chảy xuống… Hình ảnh này tôi trông thấy vào một buổi chiều trên đường PVB… Tôi chỉ lược qua vài hình ảnh như vậy. Những câu hỏi là: bản chất hiện tượng là gì? Ánh sáng này từ đâu xuất hiện? Tôi chỉ lùi lại trong một vài kiến giải cục bộ. Cái tôi, một hiện tượng chứa đựng trong nó cái toàn thể. Tôi là ngài và là thế giới. Nói như Kirshnamuti. Một khi cái tôi này giải trừ dần, toàn thể sẽ xuất hiện… Tương tự như khi ta thực hiện việc quét dọn một mảnh sân. Sau khi những cái lá đựơc thu dọn là mảnh sân trong tự thể của nó. Lớp đất ẩm. Những hương vị của đất…

Ánh sáng tự thể luôn tồn tại. Những hiện tượng ánh sáng cục bộ, như các mô tả, xuất hiện sau khi đã thực hiện một sự quét dọn bản thân nào đó. Sự ngạc nhiên của tôi, vốn gắn với một giả kiến về bản thân. Khi giả kiến này hoàn toàn loại trừ sẽ chẳng còn sự ngạc nhiên trong cái tình thế vạch ra cách biệt giữa “cái tôi” và đối tượng.

...

Page 25: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 25

13. ANPHA VÀ …

Trích đoạn:

...

Giờ lại một đêm thu. Vài ngày trước đây, có một giấc mơ mà tôi hãy còn ngẫm nghĩ. Tôi đang ở trong một căn phòng hẹp. Bên ngoài là những bóng đen đang định tiến vào. Tôi cảm giác về tình trạng nguy hiểm sắp ập đến. Tôi cố gắng lùi về một bức tường của căn phòng. Ở đó có một khung cửa sổ. Bên ngoài khung cửa là vùng sáng xanh. Tôi nghĩ rằng việc vượt thoát qua khung cửa sẽ là giải thoát. Đột nhiên một khúc nhạc nổi lên. Đó là tiếng đàn tam thập lục.Tôi cảm giác người chơi là một cô gái… Khúc nhạc kéo dài chừng vài phút và theo một tiết tấu hơi nhanh. Trong mơ tôi nhận ra khúc nhạc chơi ở cung trưởng và cả những bồi âm của nó. Tâm trí tôi đột nhiên thay đổi sau khi nghe đoạn nhạc. Tôi nghĩ đến những quan hệ, trách nhiệm…

Tôi thức giấc. Nếu như có khả năng ký âm tôi sẽ ghi lại đoạn nhạc đó. Lúc ấy là ba giờ sáng. Khúc nhạc này từ đâu mà có? Một hình ảnh trong mơ ta có thể cho là ảo giác, tuy nhiên đây là khúc nhạc trọn vẹn. Căn nguyên khúc nhạc là một bí ẩn. Trong khi nó quá là hiện thực. Những quan tâm của tôi hướng về người khác, những người khác…

Một phương diện của giấc mơ. Sự hòa hợp của âm nhạc là tuyệt hảo trong những gì giác quan có thể tri nhận. Sự hòa hợp mà tôi, hay người đọc giả định đang tìm kiếm là quà tặng của cuộc đời sau những nỗ lực, mệt nhoài. Là một sự ngẫu nhiên tựa như ta được nghe tiếng gió réo qua những tàn dương, tiếng lòng Schubert đang thể lộ trong khúc nhạc chiều?

Sự trỗi dậy của khúc nhạc ngay tức khắc trong giấc mơ làm tôi nghĩ về những gì là hô ứng, nhiệm mầu…

Ngày 29/10/2009

Page 26: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 26

Cảo thơm

Thi sĩ Bùi Giáng xuất khẩu thành thơ, ông sống

trong cõi giới riêng ông, trong hư tưởng mông mênh lạ kỳ, nên khi lời thơ ông thốt ra, với chúng ta có khi rất xa lạ, khó hiểu. Đã có nhiều người cố hiểu, ráng hiểu về ông, tuy vậy cũng chưa chắc đúng ý ông. Thôi thì cứ mỗi người một cách mà cảm nhận, mà hiểu.

Thơ hai câu của ông rất nhiều, tôi chỉ nhớ được vài câu thôi :

Em ơi em đẹp vô cùng vì em có cái lạ lùng bên trong. Đi tu thứ nhất ở chùa Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang. Dược Sư thơ mộng vô vàn Sầu lên vút tận mây ngàn tầng thân.

“Còn hai con mắt khóc người một con”. Chính câu thơ này mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có cảm hứng sáng tác bài nhạc “Con mắt còn lại”. Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Văn Cao, Nguyễn Tuân là những thiên tài Văn nghệ Việt Nam, rất hạp nhau và chơi thân với nhau, bất chấp tuổi tác chênh lệch. Có những ý tưởng gặp nhau, thầm hiểu nhau, vô ngôn thinh lặng vẫn hiểu. Có những điều Trịnh Công Sơn định nói bằng ca từ thì Bùi Giáng đã nói trước bằng thi ca. Ta có thể nói bài nhạc “Con mắt còn lại”, Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng cùng sáng tác vẫn được. Ý vô cùng quan trọng, không có tác ý thì thân và khẩu đâu có hành động, Phật dạy như vậy mà !

Bài con mắt còn lại, gồm 24 câu, chia làm ba khổ.

Khổ một

Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai Tình trong hai tay một hôm biến mất Con mắt còn lại là con mắt ai Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài

Nếu chúng ta có ba con mắt như Dương Tiễn trong Tây Du Ký thì dễ cho ta suy đoán ý của tác giả biết mấy, đằng này ta chỉ có hai con khiến phải động não đây. Trong nhà Phật có năm thứ mắt: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn… Phàm phu chúng sinh đều có nhục nhãn và tuệ nhãn, tuệ nhãn hiển thị, thấu thị nhiều hay ít, thấp hay cao là tùy ở sự tu tập, chuyển hóa nghiệp lực của mỗi chúng sanh. Ai mà có Định có Tuệ có tu tập nghiêm chỉnh đàng hoàng thì có mắt tuệ (tuệ nhãn) thấy biết sâu xa, dự cảm chuyện tương lai, đoán việc như thần. Tuệ nhãn ở nơi chúng sinh có và sáng từng lúc,

Page 27: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 27

lúc nào có tu, có thao thức nghĩ đến vận mệnh của quê hương và đạo pháp, thì lúc đó đôi mắt rực sáng, có nhiều vị lãnh tụ cũng có đôi mắt này. Còn lúc nào vong thân quên lãng, sống say chết mộng thì mắt chỉ còn thấy mờ mờ; thà một con mà thấy sáng vẫn quý hơn hai con mà mờ.

Con người vốn dĩ mau quên, mà mau quên thì bị người đời chê trách và nhắc: Thôi thì khóc người một con thôi, khóc cả hai con bị dư nước mắt, mà còn phải dự phòng nữa chứ. Câu một câu hai là nhục nhãn. Câu ba bốn năm sáu là nhìn bằng mắt tuệ (tuệ nhãn), có tuệ nhãn nên mới biết nhìn lại mình, xếp bằng ngồi quán chiếu “nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp”. “Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai, tình trong hai tay một hôm biến mất”. Ngộ lý vô thường chưa ? Có khi nào lên cao mãi mà không xuống thấp, có cuộc tình nào mãi ấm nồng mà không phai lạt, cứ ngỡ cứ tưởng chồng mình con mình vợ mình tài sản mình, là mãi mãi thuộc về mình, luôn khư khư nắm chặt trong tay, nhưng đùng một cái một hôm biến mất.

Trong đau thương mất mát hụt hẫng vô vọng, bỗng lóe lên một vầng sáng, trong vầng sáng đó có một con mắt từ bi nhìn mình, mời gọi mình. Mắt ai vậy ? Vẫn chưa rõ chưa nhận là mắt ai à ? Mắt Phật chớ còn mắt ai (từ nhãn thị chúng sinh)

lấy mắt từ bi mà nhìn mọi loài chúng sinh. Ngài thương quá nên nhìn tôi, nhìn chị, nhìn em… thở dài. “Con mắt còn lại là con mắt ai, con mắt còn lại nhìn tôi thở dài”.

Khổ hai

Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người Con mắt còn lại nhìn một thành hai Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay Con mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi

Nguyên nhân của khổ đau là từ một mà nhìn thành hai. Tâm ban đầu (Sơ Tâm) con người dễ thương lắm, trong veo không phân biệt người thân kẻ sơ, chưa phân biệt như các bé thơ nên nhìn ai cũng cười, cũng quơ tay đòi ẵm, nhưng đến khi ý thức lớn mạnh, biết phân biệt người lạ kẻ quen thì không còn một nữa, mà đã hóa thành hai. Chân tâm, Phật tánh, bản thể chân như, tự tánh thanh tịnh… hay nói như thi sĩ Bùi Giáng “vì em có cái lạ lùng bên trong”. Sống với tự tánh thanh tịnh, cái lạ lùng bên trong đó, nên em mới đẹp, chớ không phải phấn son lòe loẹt mà em đẹp. Từ cái đẹp bên trong, mới biểu hiện cái đẹp bên ngoài. Bởi không sống với vô phân biệt trí nên mới thấy một thành hai, khi thì nhìn em yêu thương, khi thì nhìn em như thú dữ. Bởi sống trong ngã chấp, ngã ái nên sợ mất. Bởi chưng sợ mất nên cuồng điên yêu thương, cuồng điên nỗi nhớ. Yêu mà chân thật đàng hoàng, thì luôn tỉnh táo, tỉnh táo để nhận diện, chấp nhận ưu khuyết điểm của nhau để sống chung. Chứ cuồng điên khi yêu, khi tỉnh lại ta không còn yêu nữa. Cũng vậy, nhớ mà cuồng điên thì khi tỉnh lại ta không còn nhớ nữa.

Biết tu tâm một chút, bớt phù phiếm xa hoa đua đòi một chút. Biết nỗi khổ của vợ của con ở nhà với canh rau dưa muối mà nén lòng trong những bữa dạ tiệc cao sang một chút. Được như vậy chỉ yêu bình thường thôi, bởi bình thường tâm thị Đạo, không cần phải cuồng điên gì hết. Bốn câu này là nhìn bằng mắt thịt (nhục nhãn).

Và khi nhận diện chuyển hóa niềm đau nỗi khổ rồi, một không thành hai nữa, mà một là tất cả, tất cả trong một. Lúc bấy giờ ngồi trước hiên nhà, nghe thoang thoảng hoa cau, mà nhìn mây

Page 28: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 28

trắng bay. Và vẫn còn một chút hối hận ngày qua, bỗng thốt lên: May mà, may mà ! len vào trong tâm một chút bùi ngùi. Hai câu bảy, tám này là quán chiếu bằng tuệ nhãn.

Khổ ba

Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người Con mắt còn lại nhìn đời là không Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm Nhìn em ra đi lòng em xa vắng Con mắt còn lại là đêm tối tăm Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.

Mắt Phật

Thực tính của cuộc đời, của vạn hữu là không. Không đây không phải là không ngơ, là trống không, mà nhìn sắc thấy có không, nhìn không thấy có sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, tất cả chỉ là nhân duyên hòa hợp giả có giả không. Không đây là Không của trung quán luận, vượt thoát tất cả mọi ý niệm đối đãi. Nhìn đời là Không, nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng. Tuyệt quá ! Nhìn được như vậy tức là nhìn bằng mắt tuệ. Nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng. Từ hư vô của tây phương khác với từ Không của Phật giáo, dịch chữ Không là hư vô là không chính xác. Hư vô mà Trịnh Công Sơn viết trong ca từ là ám chỉ, còn đó mất đó, nắm trong tay rồi một hôm biến mất, như vậy hư vô đây là vô thường. Đi giữa sa mạc hay đi vào vùng nhiều đồi cát nóng, những ngày nắng gắt, mắt ta thấy có hiện tượng như sóng dợn,lóm đóm lao xao, nhà Phật gọi là hoa đóm, để chỉ cho những hiện tượng mong manh sanh diệt đổi dời của vũ trụ nhân sinh, cứ tưởng thật mà chẳng thật chút nào, Trịnh Công Sơn gọi hoa đóm là bóng nắng. Thấy em là hư vô, là bóng nắng thì em có bỏ ta mà đi, thì cũng nhẹ nhàng từ tâm thôi, vì ta đã hiểu sự đời tình đời, duyên nghiệp vốn như vậy mà, dẫu em ra đi lòng em xa vắng không còn nhớ gì ân tình kỷ niệm ngọt ngào một thuở. Có tuệ nhãn trong bốn câu này.

Trịnh Công Sơn có quy y Phật với pháp danh Nguyên Thọ, lúc nhỏ thường theo mẹ lên chùa Phổ Quang lễ Phật, thiên phú có chất giọng trầm ấm và mê nhạc lễ chùa, nên được các thầy ở chùa Phổ Quang dạy nghi lễ, chính vì vậy mà một số nhạc phẩm của anh, trong đó có bài Ca

Dao Mẹ, chỉ cần có cái chuông cái mõ là đệm tốt cho bài hát.

Đến với đạo Phật từ nhỏ, học đạo, học Phật rất sớm, trưởng thành tiếp tục học trường Triết, nên Trịnh Công Sơn luôn nghĩ đến vô thường, đến hư vô, đến cái chết, chết là một ám ảnh đối với anh. Thỉnh thoảnh anh nằm mơ thấy mình qua đời. Có duyên với đạo, biết đạo là một chuyện, còn có tu tập để chuyển hóa khổ đau, vượt thoát ý niệm sanh tử, còn mất có không để thong dong tự tại nhìn mây trắng bay như các Thiền Sư là một chuyện khác. Ta không nên đòi hỏi ở anh quá nhiều, nhưng nếu Trịnh Công Sơn gặp một đạo sư tâm linh hợp gu với anh, như anh kỳ vọng , hướng dẫn anh tu tập thì chúng ta đã có được thánh sư - nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, như trường hợp ở Ấn Độ có thi hào Tagore, được xưng tụng là bậc thánh trong thi đàn thế giới. Mâu thuẫn vô cùng cho hai câu kết: “Con mắt còn lại là đêm tối tăm, con mắt còn lại là đêm nồng nàn”.

Thích Giác Tâm

(Nguồn Barbie 2002 sưu tầm)

Page 29: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 29

Người của công chúng

Ngoài đời và trên video

Phần 2 - Ngọc Ngạn Nguyễn trên video

Nguyễn Ngọc Ngạn đến với trung tâm Thúy Nga trong một trường hợp rất bất ngờ, đến chính anh cũng không biết lý do “Tôi không hiểu tại sao một hôm 10 tháng 5 năm 92 khi đi làm về thì thấy ở trong máy nhắn có một người nói là trung tâm Thúy Nga mời tôi sang Paris giới thiệu chương trình. Về sau tôi mới biết đó là ông Tô Văn Lai.”

Thật ra, Nguyễn Ngọc Ngạn được ban giám đốc của trung tâm Thúy Nga để ý và

muốn mời cộng tác vì lúc đó anh đã là một người viết văn nổi tiếng, có được một số độc giả đông đảo. Cùng một lúc, họ muốn tìm một đường hướng mới cho vai trò MC mà trước đó qua những chương trình video chưa được đặt lên hàng quan trọng.

Thời gian này Nguyễn Ngọc Ngạn đang đi làm cho một công ty bảo hiểm. Ngoài ra anh còn làm thêm về thông dịch và cùng với người vợ sau tại một thư viện ở Toronto . Trước lời mời bất ngờ trong một lãnh vực quá mới lạ đối với anh, Nguyễn Ngọc Ngạn trả lời cần có thời gian suy nghĩ. Trước đó từ năm 87 ngoài việc sáng tác, Nguyễn Ngọc Ngạn còn hợp tác với một người Đài Loan tên Chiêu, làm tại thư viện trung ương Toronto, để viết truyện song ngữ thiếu nhi Anh Việt như Hoa Mộc Lan, Tôn Ngộ Không, vv...

Ông Chiêu nhận thấy sách của Nguyễn Ngọc Ngạn được hỏi mượn rất nhiều ở thư viện nên nẩy ra ý định mời anh cộng tác. Tổng cộng anh đã viết được khoảng 50 quyển sách loại này, hiện vẫn được lưu giữ trong các thư viện... Trước khi đến với Thuý Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn đã chính thức bước vào nghề viết văn khi còn ở đảo Prince Rupert , tại Vancouver , Canada. Anh cũng là người tỵ nạn đầu tiên có sách viết bằng tiếng Anh được xuất bản. Ngoài

Page 30: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 30

ra anh còn giữ chức chủ tịch đầu tiên của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

Trong lãnh vực văn chương, chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Ngọc Ngạn đã trở thành “nổi đình nổi đám” với những Nước Đục, Cõi Đêm, vv.... và được rất nhiều báo chí và nhà xuất bản mời viết. Chủ nhiệm tờ Phụ Nữ Diễn Đàn thời đó là nhà báo Chử Bá Anh từng ngỏ ý muốn lo giấy tờ cho anh qua Mỹ để giữ vai trò chủ bút cho tờ báo này. Ngoài ra chủ nhiệm tờ Ngày Nay là Lê Hồng Long cũng đưa ra cùng đề nghị, nhưng anh đã từ chối tất cả những lời mời đó vì còn “rụt rè lắm” như lời anh nói.

Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết thêm có lẽ anh ảnh hưởng tính không thích bon chen của thân phụ nên đã có quyết định như vậy. Nhưng số mệnh đã đưa đẩy Nguyễn Ngọc Ngạn đến một lãnh vực hoàn toàn xa lạ, chắc chắn anh không bao giờ nghĩ tới, ngoài sự đưa đẩy của số mệnh để “tôi nằm ở đây mà có người bưng tôi lên sân khấu chứ tôi không có tìm, thành thử về sau, tôi mới tin người ta phải có số”.

Nguyễn Ngọc Ngạn tâm sự thêm: “Thật sự ra trước khi tôi làm Paris By Night và nhất là trước khi xẩy ra vụ cuốn video Mẹ thì tôi không tin lắm... Nhưng sau, tôi nhờ những ông thầy giỏi coi tử vi cho thì tôi thấy y chang”.

Cũng về số mệnh, Nguyễn Ngọc Ngạn có lần tình cờ hỏi nhạc phụ anh là một người giỏi về khoa tử vi về tương lai của mình và được cho biết là “tên tuổi như vậy có ăn thua gì đâu, vài năm nữa sẽ lừng lẫy”, trong khi anh cho là nổi tiếng như anh vào thời đó đã là quá đủ. Nhưng sau khi cộng tác với trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn mới nghiệm thấy rất đúng vì dù sao viết văn cũng chỉ có một số độc giả cũng hạn chế, không sao so được với khán thính

giả đông đảo của những chương trình Paris By Night.

Cũng theo sự giải đoán của nhạc phụ anh, thời kỳ cung mệnh của Nguyễn Ngọc Ngạn gặp hạn Thái Tuế, là giai đoạn anh rất nổi tiếng, nhưng sẽ rất vất vả bởi những điều thị phi nên sẽ gặp phải những tranh luận, cãi vã đưa đến vấn đề pháp luật. Nghiệm lại, anh thấy rất phù hợp với giai đoạn xẩy ra vụ video “Mẹ” (Paris By Night 40), từng gây nhiều sôi nổi...

Đúng 10 năm trước khi cộng tác với trung tâm Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Ngạn lập gia đình lần thứ hai vào ngày 19 tháng 6 năm 1982 với một thiếu nữ tên Diệp, khi đó 28 tuổi. Diệp vượt biển và được đoàn tụ tại Paris với gia đình gồm bố mẹ và các em vào năm 80. Người anh cả của chị cùng đi với gia đình sang trại tỵ nạn ở Hoa Kỳ từ năm 75, nhờ làm việc cho cơ quan D.A.O của Mỹ nên được mang theo 10 người trong gia đình. Diệp phải ở lại với người chị đã có chồng. Từ trại tỵ nạn,

Song thân chị sang Pháp định cư, trong khi các em chọn Mỹ và người anh chọn Calgary, Canada làm nơi cư ngụ. Người

Page 31: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 31

anh cả sau đó đã qua đời do ung thư khi được đúng 40 tuổi.

Sau khi tới Paris , Diệp được thân mẫu đưa sang Calgary để thăm mộ anh.. Và chính tại đây, Nguyễn Ngọc Ngạn gặp người vợ tương lai của mình lần đầu tiên, qua sự giới thiệu của một người bạn đi cùng tầu vượt biển với Diệp, nhờ anh đi đón giùm hai mẹ con vì cả hai còn quá xa lạ với nơi đặt chân tới.

Nguyễn Ngọc Ngạn đã đi đến một quyết định rất nhanh: khi mới quen Diệp vào ngày thứ Sáu, qua đến ngày Chúa Nhật đã ngỏ lời xin cưới “tại vì tôi nghĩ là bây giờ hai người ở hai phương trời cách biệt. Bà ấy ở Paris , tôi ở Canada dễ gì gặp lại nhau. Mà lúc đó thì nghèo rớt mồng tơi, mới sang đâu có đồng bạc nào. Làm bao nhiêu thì lại phải tuôn về Việt Nam hết thành thử đâu có tiền mà đi tới đi lui. Nhân dịp có bà ở đây thì hỏi béng cho rồi”.

Thân mẫu Diệp cho biết sẽ về hỏi ý kiến chồng, trong khi Diệp đã nhận lời cầu hôn của Nguyễn Ngọc Ngạn. Nên dù ở Paris có nhiều người theo đuổi chị vẫn không đổi ý, dù mẹ chị không tán thành. Ý bà không muốn con gái lấy một người ở tận Canada vì sẽ khó lòng khi muốn gặp sau này. Nhưng Diệp vẫn giữ lời hứa để cùng Nguyễn Ngọc Ngạn chung sống cho đến

nay và có với nhau một con trai, năm nay 21 tuổi.

Sau khi thành hôn, Nguyễn Ngọc Ngạn bảo lãnh vợ sang Canada , về Prince Rupert ( Vancouver ) sinh sống. Trong 10 năm kế, năm nào chị Diệp cũng đưa con về Paris thăm Mẹ, nhưng Nguyễn Ngọc Ngạn không đi theo bao giờ vì bận công việc, nhất là trong thời gian đầu cần giúp đỡ gia đình còn lại Việt Nam . Cho đến năm 92, nhân dịp Thúy Nga mời sang Paris , lúc đó anh mới đi cùng với vợ về thăm gia đình bên ngoại.

Dịp này, Nguyễn Ngọc Ngạn mới tìm đến trung tâm Thúy Nga – là một cửa tiệm bán băng nhạc ở quận 13 Paris, trong khi trung tâm chính được đặt tại nam California từ lâu mà anh không biết - với mục đích cám ơn ông Tô Văn Lai đã gửi tặng một số video, trong khi anh vẫn chưa quyết định có nhận lời cộng tác hay không.

Khi vào đến tiệm, anh cũng không hề biết mặt vợ chồng người điều hành trung tâm. Anh hỏi muốn gặp ông Lai qua bà Thúy, vợ ông. Anh tự giới thiệu là người đã được mời làm MC cho một chương trình video sắp tới. Nguyễn Ngọc Ngạn nhận thấy sự mừng rỡ trong ánh mắt của ông Tô Văn Lai trong lần gặp gỡ đầu tiên, ít ra là qua cách ăn mặc tươm tất, tóc tai gọn ghẽ, có thể khác với sự hình dung về một nhà văn trước đó của ông giám đốc trung tâm Thuý Nga, “Rồi tôi thấy ống ấy chạy vô nói nhỏ với bà Thúy là “Thúy ơi, ông này coi còn được”.Sau khi thảo luận trong bữa ăn tối, Nguyễn Ngọc Ngạn vẫn còn lưỡng lự trước lời mời làm người điều khiển chương trình, “vì trong văn giới đã có tiếng, bây giờ làm MC mà không được thì kỳ.”

Với lý do đó, Nguyễn Ngọc Ngạn khất ông Lai thêm một thời gian. Trong khi đó, anh dò hỏi ý kiến những người cháu trong gia đình cùng một số học trò cũ gặp tại

Page 32: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 32

Paris thì tất cả đều phản đối. Ngay cả mấy người em vợ và chính vợ anh cũng không ủng hộ cho việc nhận lời làm MC của anh...

Nhưng chỉ có một người duy nhất ủng hộ anh là nhạc sĩ Ngọc Trọng, người em út trong gia đình, với lý do muốn bố còn ở Việt Nam thấy mặt anh, dù là qua hình ảnh và chỉ cần xuất hiện trên một chương trình video, rồi sau đó ngưng luôn cũng được. Vợ anh, trước lý do xác đáng đó cũng đã khuyên anh nên nhận lời.

Từ những khuyến khích với lý do nặng về tình cảm đó, Nguyễn Ngọc Ngạn gọi điện thoại cho ông Tô Văn Lai, đồng ý xuất hiện trong chương trình Paris By Night 17, thu hình tại Paris. “Nhưng không biết có làm lâu dài hay không, nên tôi dứt khoát không may quần áo mới, tôi mặc bộ đồ tôi vẫn đi làm ở thư viện thường ngày. Tôi vẫn mang cái kính cũ, tôi đi đôi giầy cũ, tôi không có thay một cái gì cả. Và tóc tai là tôi cũng tự

chải chứ không để ai chải đầu, làm tóc hết. Vì không biết người ta có mướn mình làm nữa hay không và mình cũng không có ý định làm lâu, thành ra tôi không có gì thay đổi”.

Chỉ sau khi nói vài lời mở đầu và sau đó giới thiệu nhạc “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương do Ái Vân và Hương Lan trình bầy trên Paris By Night 17, ban giám đốc trung tâm Thúy Nga đã đề nghị Nguyễn Ngọc Ngạn cộng tác độc quyền.

Với một giọng nói “ăn micro” cùng một đường hướng khác biệt với những người đi trước, Nguyễn Ngọc Ngạn đã ít nhiều gây được một ấn tượng tốt. Anh kể: “Tôi chỉ biết là khi lên sân khấu, tôi chỉ mới nói mấy câu mở đầu thôi, nhờ cái giọng tôi ăn micro lắm nên gây được ấn tượng cho người ta. Thứ hai là lối nói của tôi có vẻ thầy giáo. Tôi nghĩ trong đầu là những người MC trước họ cười nhiều quá. Bây giờ mình phải làm ngược là không cười. Họ nói những chuyện bình thường trong đời sống, bây giờ tôi phải đưa một chút văn chương và một chút triết học vào”.

Ngay trong chương trình video đầu tiên, Nguyễn Ngọc Ngạn đã đưa vào phần giới thiệu chương trình một số câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vì muốn làm một điều gì khác biệt với trước đó như anh đã nói, nhất là muốn khai thác kiến thức về văn chương của mình.. Theo anh, đó là một cách thử, nhưng không ngờ lại gây được chú ý. Trước đó, chính vợ anh cũng không tỏ ra tin tưởng mấy khi anh đảm nhiệm một vai trò quá mới lạ. Khi tiễn chân Nguyễn Ngọc Ngạn ra cửa trong lần đi thu hình đầu tiên, theo lời anh kể, chị Diệp cho rằng chuyến này anh đi sẽ “ôm đầu máu” trở về!

Theo anhoang365 (còn tiếp kỳ sau)

Page 33: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 33

Giới thiệu

Trong đêm một bàn chân bước Bé xíu lang thang trên đường

Ánh mắt buồn, mệt nhoài của em Em rất buồn vì em không biết đi... đi về đâu...

Cuộc sống mưu sinh chỉ làm em qua cơn đói từng ngày

Vì em không cha, vì em đã mất mẹ Thương đau vẫn là đau thương...

Em mơ một vì sao sáng

Dẫn lối em trên đường đời Dẫu biết rằng chỉ là giấc mơ

Đã lâu rồi em đã không, không có tình thương...

Nhìn thấy ai ai cũng đều vui bên mẹ cha Giọt lệ em tuôn rơi, hòa tan với nỗi buồn

Bước đi trong chiều mưa...

Hãy lau khô cuộc đời em Bằng tình thương, lòng nhân ái của con người! Và hãy lau khô giọt nước mắt trong lòng em

Bằng tất cả trái tim con người Việt Nam!

Page 34: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 34

Little Child He walks in the night, looking for the light, For someone to show the star, That will take him to a place That seems so far He walks alone, he is left out in the unknown, Hes nobody, aint got nobody In this world who cares for him No ones could ever survive To this way of life And yet he fights for his rights To be safe, to be loved, to exist The tears he cries In the dark street where he lies Roll in the dust like diamonds and pearls, No one will ever find dry the tears give them love give them life for the joy of a smile And dry those tears stop the hunger and the pain for they are the heart of Vietnam.

Page 35: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 35

L'ENFANT

L'enfant qui sen va tout seul dans les rues

Le vent le pousse et la pluie se mêle dans ses yeux, Aux larmes qui roulent quand il voit passer

Ceux qui ont une famille

Il rêve souvent de ce jour (Dun matin si lointain) il rêve dun matin

Òu il y aura des parents Des sourires, de lespoir, pour chaque enfant.

Son coeur, si gros, ne demande qu à donner

Tellement damour quune vie entiére Ne pourrait pas lépuiser.

Et l'enfant, lorphelin,

Séchera pour toujours Toutes ses larmes,

Et enfin il y aura

À jamais de l’amour Pour chaque enfant du Vietnam.

Page 36: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 36

Đứa Bé Nhạc Sĩ: Phương Uyên, Minh Khang

* Ca sĩ:

Nhóm Tam ca Áo Trắng, nhóm MTV, nhóm Mắt Ngọc, Như Ý, Quang Vinh, Lam Trường, Quang Dũng, Thanh Thảo, Hồng Ngọc, Đàm Vĩnh Hưng, Cẩm Vân, Khắc Triệu, Lý Hải, Hồ

Quỳnh Hương, Vũ Hà, Nguyễn Phi Hùng, Khánh Ngọc, Nhật Tinh Anh, Vân Quang Long, Mỹ Lệ, Cẩm Ly, Trần Tâm, Đoan Trang, Minh Thuận, Đan Trường, Thiên Trường, Địa Hải, Hoàng Châu, Phan Đinh Tùng, Quang Linh, Nghi Văn, Châu Gia Kiệt, Hàn Thái Tú, Hồng Nhung, Ngọc

Sơn, Siu Black, Duy Mạnh, Việt Quang, Ngô Thanh Vân, Minh Thư, Phương Thanh, Phương Thùy, Thu Minh, Kasim Hoàng Vũ, Nam Khánh

* MC:

Thanh Bạch, Quỳnh Hương * Nghệ sĩ, diễn viên: Thành Lộc, Mỹ Uyên, Minh Nhí, Minh Thư, Kim Tiểu Long, Kim Khánh

* Cầu thủ:

Lê Huỳnh Đức

Đứa Bé (English version ) Laura Mayne; Alain Chenviere

Composer: Nhạc: Minh Khang

NS Minh Khang

NS Phương Uyên

Page 37: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 37

Những niềm trăn trở

Hồ Ba Bể thuộc Vườn Quốc gia Ba Bể, nằm ở độ cao 145m so với mặt nước biển và được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi cao tới 1.754m. Người ta cho rằng nó được hình thành cách đây 200 triệu năm. Hồ dài hơn 8km, rộng 3km, sâu khoảng 20 đến 30m, có nhiều hang động và những suối ngầm khi ẩn khi hiện. Trong hồ có khoảng 50 loại cá, trong đó có những loại quý hiếm mới phát hiện như cá cóc Ba Bể, cá chiên ở thác Đầu Đẳng và một số loài quý hiếm như: cá chép kình, cá Dầm xanh…

Năm 1992, Ba Bể trở thành Vườn Quốc gia lớn nhất Việt Nam, được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1996. Năm 1995, hồ Ba Bể được hội nghị Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ, công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2004, Vườn Quốc gia Ba Bể (cùng Vườn Quốc gia Hoàng Liên, Chư Mom Ray, Kon Ka Kinh) được công nhận là Vườn Di sản ASEAN.

“Sông kia rày đã nên đồng”

Người dân Bắc Cạn thường

tự hào vì họ có một cái hồ to như biển, mà là ba cái biển thông nhau, rộng mênh mông, mang tên hồ Ba Bể. Thế mà cái hồ tự nhiên từng có hàng triệu năm tuổi ấy giờ đang đối mặt với nguy cơ hẹp dần bởi bồi lấp, và có thể không còn tồn tại đến 90 năm nữa, nếu không được cứu…

Thăm những bãi bồi Có ba con sông, suối chính

nối với hồ Ba Bể là sông Chợ Lèng, suối Bó Lù và suối Tà Han. Ba con sông, suối này đổ nước vào hồ, sau khi được điều tiết, một phần nước hợp

lưu với sông Năng ở phía bắc hồ, tiếp tục chảy về sông Gâm. Anh Phạm Văn Nam, Phó phòng Khoa học, Vườn Quốc gia Ba Bể đã dẫn chúng tôi đến ba nơi này, cũng là ba bãi bồi của hồ.

Tại đầu suối Tà Han, bùn

đất đã phủ lấp mất cửa suối. Cánh đồng ngô và lúa trải ra ngút ngàn, xanh mởn. Ở bãi bồi cũ, người dân đã làm kênh dẫn nước để trồng lúa. Ở bãi bồi mới, ngô cũng đang

lên xanh non. Anh Nam chỉ cho chúng tôi thấy ngôi nhà gần nhất phía cuối cánh đồng ấy, đó là cửa suối trước đây, nó cách điểm chúng tôi đỗ thuyền phải gần cây số.

“Cách đây 5 năm, xuồng

máy vẫn đi được đến tận cánh đồng ngô, còn bây giờ vị trí đi xuồng máy đến được cứ lùi dần, mỗi năm cỡ 10m”, anh nói.

Tại các cửa sông khác, tình

hình bồi lắng còn tệ hơn. Ở

Xuồng máy đã không thể vào cửa suối Tà Han này nữa.

Page 38: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 38

cửa Bó Lù, ngoài bùn đất, hồ Ba Bể còn phải chịu rác rưởi từ cánh đồng Nam Cường do bà con làm ruộng thải sang. Bên cạnh bãi bồi cũ, nơi diễn ra lễ hội Ba Bể mỗi dịp Tết đến xuân về, dòng suối Bó Lù bị bồi lấp cũng đã cạn kiệt, cỏ mọc xanh um, trơ lại mấy ống cống thông từ suối sang hồ giờ chẳng còn biết dùng để làm gì. Không có đồng ruộng xanh tươi như bãi soi Tả Han, bãi Bó Lù chỉ toàn cỏ dại, trông hoang tàn và ô nhiễm.

Nhưng khi đi qua đảo là Pò

Giả Mải (đảo bà góa) gắn với huyền tích về Ba Bể để đến cửa sông Chợ Lèng chúng tôi mới thấy hết mức bồi lấp

chóng mặt của hồ. Khi bước chân xuống thuyền, chúng tôi đã nhìn thấy ngay dưới chân mình những cái cọc được người dân cắm xuống để “xí phần” trồng ngô trên bãi bồi màu mỡ. Xa xa, ruộng ngô rộng ngút ngàn mọc lên xanh rờn.

Thấp thểnh bước trên

những bãi bồi rộng mênh mông bên hồ Ba Bể, tôi chợt nhớ buốt lòng bài thơ “Sông Lấp” của Tú Xương: “Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai…” Hồ Ba Bể huyền thoại biến thành “sông Lấp” không chỉ là nguy cơ, mà đã là hiện hữu…

Chuyện về cái “án” 90 năm

Qua tìm hiểu, chúng tôi

được biết, bồi lắng ở hồ Ba Bể đã được nhắc đến từ lâu, nhưng thực sự từ trước tới nay mới chỉ có một công trình nghiên cứu về vấn đề

này. Trong một lần thị sát hồ Ba Bể vào tháng 7-1999, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ hồi đó đã tận mắt nhìn thấy những bãi bồi. Khi trở về, ông đã chỉ thị cho Viện Khoa học Thủy lợi nghiên cứu các giải pháp chống bồi lấp hồ Ba

Bể. “Dự án điều tra cơ bản xác định thực trạng, nguyên nhân và định hướng giải pháp chống bồi lắng tại các cửa sông đổ vào hồ Ba Bể” của Viện đã hình thành từ đó, được thực hiện độc lập, dựa trên kết quả khảo sát thu thập được từ năm 1960 trở lại đây. Năm 2002, Viện Khoa học Thủy lợi đã hoàn thành dự án, và đưa ra những con số cũng như kết luận giật mình:

Từ năm 1969 đến 1989 các

vùng cửa sông suối vào hồ đã bị bồi lấp khoảng 15 ha. Đã từ nhiều năm nay, ở ba cửa sông phía nam và cửa hồ phía bắc giáp sông Năng, phù sa bồi lắng thành nhiều bãi lớn, liên tiếp nối dài rồi tiến dần lấn lấp hồ theo bốn hướng. Bồi lấp mạnh nhất và chủ yếu là ở ba cửa sông đổ trực tiếp vào hồ.

Theo kết quả đo đạc, tổng

lượng bồi năm 2002 là 42,17 vạn m3 hay 71,689 vạn tấn. Lượng bồi ba sông, suối phía nam chiếm 93% tổng lượng bồi. Bãi lấn vào hồ chỗ ít nhất là 10m, nhiều nhất 60m. Một nửa lượng bồi đã tấp cao vào các bãi cũ lên trung bình 20cm, nửa còn lại đã nâng dần đáy hồ trung bình 30cm.

Các nhà khoa học đã đưa

ra kết luận: Từ 1989 đến 2002 lượng bồi hàng năm tăng nhanh hơn giai đoạn trước nhiều. Trung bình tăng 3,4 vạn tấn/năm, tức là tốc độ bồi lắng giai đoạn này gấp 2,7 lần so với giai đoạn

Ruộng ngô mới trồng trên bãi bồi cửa sông Chợ Lèng.

Page 39: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 39

trước. Với tốc độ bồi lấp đó, Viện Khoa học Thủy lợi dự đoán, chỉ khoảng 90 năm nữa, phù sa sẽ lấp kín toàn bộ hồ Ba Bể.

Trên cơ sở đó, Viện đã

thành lập Dự án tiền khả thi hệ thống công trình thủy lợi chống bồi lấp hồ Ba Bể với hai nội dung chính: Xây dựng cụm công trình thủy lợi trên sông Bó Lù và Tả Han để chặn giữ bùn cát vào hồ và xả bùn cát ra sông Gâm, giảm hai phần lượng bùn cát lấp hồ; xây dựng cụm công trình thủy lợi trên sông Chợ Lèng với mục đích ổn định luồng lạch cửa sông, hút phù sa ở cửa sông, trả lại diện tích mặt nước cho hồ.

Tổng kinh phí để thực hiện

hai cụm công trình này là 263,5 tỷ đồng. Dự án này được viết xong vào tháng 2-2003. Vườn Quốc gia Ba Bể đã trình lên UBND tỉnh Bắc Cạn, Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, nhưng chờ mãi không thấy hồi âm.

Đã bảy, tám năm trôi đi sau

khi những nghiên cứu kỳ công và đề xuất táo bạo ấy bị rơi vào im lặng, hòn ngọc thiên nhiên nằm ở lưng chừng núi vẫn đang ngày càng cạn dần...

Bồi lắng tăng - giảm chỉ… áng chừng

Lên đến Ba Bể, tôi đã đem

câu hỏi về thực trạng bồi lắng hiện tại của hồ ra hỏi những người có trách nhiệm. Anh Nam nói với tôi rằng bồi lắng đã giảm nhiều so với giai đoạn 1989-2002. Đó cũng là khẳng định của ông Nông Thế Diễn, Giám đốc Vườn Quốc gia Ba Bể. Nhưng từ sau nghiên cứu ròng rã hàng năm trời ấy của Viện Khoa học Thủy lợi, cũng chả có thêm một nghiên cứu bổ sung nào về bồi lắng ở hồ. Vì thế, phải chăng lời khẳng

định mức bồi lắng giảm ấy cũng chỉ có thể dựa vào cảm quan mà thôi?

Theo kết quả đo năm 2002

tại cửa sông Chợ Lèng, so với năm 1960 bãi bồi đã tiến ra hồ khoảng 700m. Riêng năm 2002, bãi bồi này đã dài ra thêm 60m. Khi đứng ở bãi bồi sông Chợ Lèng, anh Nam chỉ cho chúng tôi mốc đo của năm 1960, đó là ngôi nhà màu trắng xa tít mù tắp, trông như một bao diêm giữa nền đồng ngô xanh thẳm rộng cỡ chục ha. “Chắc phải dài độ cây số là ít”, anh Nam ước đoán. Mà nếu anh đoán đúng, nghĩa là tám năm qua, bãi bồi đã trải dài thêm hơn 300m nữa, tức mỗi năm cũng ngót nghét 40m, nghĩa là cũng không giảm nhiều so với năm bồi lắng cao điểm ở đây là 60m. Thử nhẩm tính trong 42 năm từ 1960 đến 2002 bãi bồi lấn hồ 700m, mà trong tám năm qua đã bãi bồi đã dài thêm gần một nửa quãng đường đó, thì mới thấy tốc độ không giảm mà tăng kinh hoàng!

Đáng lẽ Vườn Quốc gia Ba

Bể cũng có một dự án đo độ bồi lắng hàng năm cho hồ, nhưng dự án đó mãi không được duyệt kinh phí, nên nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Thủy lợi vẫn là công trình duy nhất về bồi lắng của Ba Bể, nên những nhà khoa học của Vườn Ba Bể từ đó đến giờ cũng chỉ biết dựa đó để… áng chừng!

Ô nhiễm nơi cửa sông Bó Lù.

Page 40: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 40

Tôi chợt nghĩ, nếu chỉ để đo độ dài của bãi bồi hàng năm (chứ chưa phải tìm hiểu độ sâu đang ngày một ngắn lại của hồ), thì chả cần đến cả dự án to tát kia, cán bộ Vườn vẫn hoàn toàn đo được

theo cái cách đóng cọc của người dân “xí” đất. Mỗi năm họ chỉ cần đóng vào bãi bồi mấy cái cọc, năm sau đến đo từ đó ra mép hồ, rồi đóng tiếp để đo cho năm sau nữa.

Đơn giản vậy thôi nhưng họ vẫn chỉ … chờ!

Nguồn: vnthidan.net

Trích phóng sự của Hoàng Thảo Lê

Vườn quốc gia Nam Cát Tiên có diện tích trên 70.000 ha, trải dài trên 4 tỉnh: Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước, Đắc Nông. Thực vật có trên 1.600 loài, trong đó có 38 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam 2007 như gõ đỏ, giáng hương, cẩm lai, căm xe, cẩm thị... và 22 loài đặc hữu bản địa. Động vật, thú có 105 loài, 43 loài có tên trong sách đỏ IUCN 2008 và sách đỏ Việt Nam 2007. Chim có 351 loài, 31 loài có tên trong sách đỏ IUCN 2008 và sách đỏ Việt Nam 2007. Bò sát 79 loài, 23 loài có tên trong sách đỏ IUCN 2008 và sách đỏ Việt Nam 2007. Cá có 179 loài, 9 loài có tên trong sách đỏ IUCN 2008 và sách đỏ Việt Nam 2007. Vườn quốc gia Nam Cát Tiên cách ngã ba km 125 quốc lộ 20 đi Đà Lạt đúng 24 km, cách TP HCM khoảng 160 km.

Sau những trận mưa sớm đầu mùa, bướm từng đàn bay lẫn với nắng trong Vườn. Ngay bước chân đầu tiên đặt xuống bến đò vào Vườn, khách du ngoạn sẽ được thưởng thức một cảnh tượng khó quên. Đó là cảm giác của vị Hương phi nổi tiếng trong bộ phim Hoàn Châu cách cách khi mỗi bước chân đều đều đi giữa một đàn bướm rập rờn. Những cánh bướm xanh thẫm óng ánh những cái vảy tí xíu màu cổ vịt hoặc màu lá non, thỉnh thoảng điểm một cánh bướm màu lửa hớn hở, hàng trăm hàng ngàn con lúc đậu san sát nhau trên một khoảnh đất nhỏ bằng chiếc gối sát mép nước, lúc tung cánh trên những khóm cây bụi. Cát Tiên, tên chính thức là Vườn bảo tồn quốc gia, dân quanh vùng gọi là Rừng cấm, là một mảnh rừng hiếm hoi còn sót lại gần TP HCM.

Page 41: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 41

Con sông Đồng Nai chảy qua Vườn khoảng 90 km, bao quanh khoảng 1/3 ranh giới Vườn, tạo thành ranh giới tự nhiên chia cắt Vườn với khu dân cư sống sát đó. Vườn trải rộng trên ba tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước. Nhờ lượng nước của con con sông này mà Bàu Sấu trong Vườn được Ban thư ký công ước Ramsar công nhận là Vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế vào năm 2005. Năm 2001, Ủy ban Unesco quốc tế đã công nhận Vườn quốc gia Nam Cát Tiên là khu dự trữ sinh quyển thứ 411 của thế giới.

Song, nhiều nhà khoa học và chính những người đang trực tiếp quản lý, bảo tồn Rừng cấm đang hết sức lo lắng trước thực tế rừng dần dần mất đi trước sự tàn phá của con người.

Trên bản đồ, Vườn quốc gia Nam Cát Tiên đang bị bao vây bởi hàng loạt dự án thủy điện. Chưa kể các nhà máy thủy điện đã hoạt động lâu nay, còn có dự án thủy điện Đồng Nai 5, công suất 173 MW, sẽ khởi công trong năm nay. Đồng Nai 6 công suất 180 MW đã được chính phủ đồng ý bổ sung và chia thành Đồng Nai 6 (135 MW), Đồng Nai 6A (106 MW) đang làm thủ tục triển khai. Đồng Nai 8, công suất 195 MW (đang đề nghị chia thành 5 công trình với công suất 164 MW). Đồng Nai 7 (Đạ Kho) và Đức Thành (Đabôngcua)

đang đề nghị bổ sung quy hoạch.

Tất cả các công trình thủy điện này nằm trên 100 km dọc sông Đồng Nai từ thượng nguồn đến hạ nguồn VQG. Trong đó, Dự án thủy điện Đồng Nai 6, 6A nằm ngay trong vùng đệm và lấn sang vùng lõi Vườn quốc gia Nam Cát Tiên, còn dự án thủy điện Đức Thành chỉ cách ranh giới Vườn 600 m.

Ông Nguyễn Văn Thành, giám đốc Vườn quốc gia Nam Cát Tiên cảnh báo: "Các dự án thủy điện trên đe dọa công tác bảo vệ rừng, bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan, các vùng đất ngập nước và các loài động thực vật đặc hữu, quý hiếm ở Vườn quốc gia Nam Cát

Tiên"

Theo quy định, các dự án thủy điện có ảnh hưởng đến Vườn quốc gia Nam Cát Tiên, đơn vị đầu tư phải gửi báo cáo đánh giá tác động môi trường đến để nơi này có ý kiến.

Nhưng theo ông Nguyễn Văn Thanh, trưởng phòng kỹ thuật Vườn quốc gia Nam Cát Tiên: "họ chỉ đánh giá những tác động mang phụ, tạm thời như bụi, Thác Dray Sap, còn được gọi là Thác ngựa trắng với hình ảnh những ngọn sóng tạo

thành đàn ngựa trắng tung vó. Ảnh Tư liệu

Page 42: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 42

tiếng ồn khi nổ mìn, sự di cư của thủy sinh lên xuống... mà phớt lờ những tác động về xâm hại vùng lõi rừng bảo tồn, thay đổi toàn bộ hệ sinh thái trong rừng bảo tồn", "Tóm tắt dự án thủy điện Đồng Nai 5 (do tập đoàn Than-khoáng sản Việt Nam đầu tư) còn y nguyên dấu sao chép, cắt dán từ tài liệu khác mà không chỉnh sửa. Như trong chương 2, mục 2.1 (trang 5 - 11), tóm tắt nêu ra một loạt những địa danh... sông Mã, Quốc lộ 15A, Khu BTTN Xuân Nha, Pù Hu.. Đây là sao chép nguyên bản của đánh giá tác động môi trường trên sông Mã, tít ngoài Bắc", "Dự án Đức Thành thì nói khi họ xây dựng, các tuyến đường trong vùng thủy điện sẽ giúp Vườn quản lý tốt hơn. Trời, tuyến giao thông nằm sát lõi rừng bảo tồn thì chỉ giúp lâm tặc vô phá rừng tốt hơn chứ quản lý cái gì",

"Vậy nhưng khi chúng tôi gửi ý kiến đi thì chẳng thấy họ phản hồi, kể cả chủ đầu tư lẫn cơ quan chủ quản cấp trên. Họ cứ tiếp tục trình lên các cấp trên. Thậm chí dự án được duyệt rồi mà Vườn cũng không biết. Chỉ đến khi họ đến khoan thăm dò trên vùng rừng của mình, chúng tôi mới biết. Hoặc là biết qua nguồn khác"...

Từ nhiều năm nay, Vườn quốc gia Nam Cát Tiên được chú ý hơn vì phát hiện có tê giác một sừng sinh sống và đang có nguy cơ tuyệt chủng (khu vực Cát Lộc, huyện Cát Tiên, Lâm

Đồng). Tuy vậy, hơn chục năm đã qua, các nhà khoa học quốc tế vẫn chưa khảo sát được còn bao nhiêu cá thể tê giác, thuộc loài nào và giới tính ra sao để vạch kế hoạch bảo tồn chi tiết. Song dự án thủy điện Đồng Nai 5, nằm sát nách khu vực bảo tồn tê giác vẫn được duyệt.

Tuyến đập của Đồng Nai 5 thuộc địa phận xã Đắc Sin, huyện Đắc Rlấp, tỉnh Đắc Nông (bờ phải) và xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (bờ trái).

Ngay trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án này cũng ghi rõ: “sẽ có khoảng 445 ha rừng kín thường xanh bị ngập và bị trưng dụng cho việc xây dựng (số liệu của Trung tâm tư liệu thuộc bộ Tài nguyên và môi trường). Tất cả diện tích rừng này đều nằm trong phân khu rừng phòng hộ Vườn Cát Tiên, là, trong đó có khoảng 95% là rừng kín thường xanh có trữ lượng cao. Một số loài thực vật quý hiếm sẽ bị chặt phá. Về động vật, một số loài họ mèo sẽ phải thu hẹp địa bàn hoạt động, một số loài động vật ở khu vực ven sông, suối sẽ mất nơi kiếm ăn. Các loài động vật cư trú trong hang hốc có thể bị chết ngạt khi dâng nước hồ, chúng phải di chuyển lên cao hơn hoặc đi nơi khác kiếm ăn khiến tập tính và cuộc sống bị xáo trộn. Các tuyến giao thông, các khu phụ trợ mới xây dựng có thể làm chia cắt các tuyến di chuyển của các loài động vật hoang dã. Các quần thể động vật hoang dã khó liên hệ được với nhau. Việc khai thác vật liệu xây dựng (đất đá, gỗ..) chắc chắn sẽ làm thu hẹp sinh cảnh sống của một số loài động vật hoang dã.”

Báo cáo nêu rõ như vậy, nhưng kết luận hoàn toàn ngược lại: "Thuận lợi là Vườn Cát Tiên chỉ cách khu vực công trường 1 km. Các loài động vật hầu hết sẽ di chuyển đến đó".

Trong văn bản trả lời tập đoàn Than - khoáng sản Việt Nam, lãnh đạo Vườn quốc gia Nam Cát Tiên cho biết, hiện nay việc khai thác cát trên sông Đồng Nai khu vực Vườn Quốc gia Cát Tiên đang diễn ra phức tạp, đã gây sạt lở nhiều đoạn bờ sông, làm tăng độ

Sơ đồ vị trí các dự án thủy điện trên sông Đồng Nai, bao vây Vườn quốc gia Cát Tiên. Ảnh Tư liệu

Page 43: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 43

đục của dòng sông và phá hủy nơi đẻ trứng của các loài cá, ngoài ra xuồng hút cát còn tiếp tay cho các vụ xâm phạm rừng.

"So với những năm trước, khi thủy điện Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 chưa khởi công, mực nước thấp hẳn đi. Thường vào mùa mưa nước sông lên tới tận đường đi hay lên tới thềm khu nhà xây (khu trụ sở Vườn Cát Tiên), nhưng năm nay nước chỉ mấp mé bậc bê tông của bến đò. Chuyện này trước kia chưa bao giờ có" - một cán bộ kiểm lâm Vườn quốc gia Nam Cát Tiên đã nhận xét.

Vẫn trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của thủy điện Đồng Nai 5: "chế độ hoạt động ngày đêm của hồ chứa sẽ gây tác động tiêu cực đến thủy sinh ở hạ du dòng chính" nhưng vớt vát "nếu không có Đồng Nai 5 thì Đồng Nai 4 với chế độ điều tiết ngày đêm cũng gây nên sự bất ổn định ở dòng chính hạ du". Cụ thể, trong một ngày ít nhất có 4giờ 35 phút dòng chảy tại đoạn sông 20 km sau đập Đồng Nai 5 không đáp ứng đủ nhu cầu dòng chảy môi trường (4,3 m/s).

Theo tiến sĩ Nguyễn Danh Oanh, Viện Năng lượng, hiện trên sông Đồng Nai có đến 17 công trình thủy điện. Bao gồm 5 công trình đã xây dựng: Đa Nhim, Hàm Thuận-Đa Mi, Trị An, Cần Đơn và Thác Mơ (đã xây dựng, đang mở rộng thêm 75MW) và 12 công trình đang xây dựng hoặc đang trình dự án: SrokPhumieng, Đại Ninh, Daktih, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Đồng Nai 5, Đồng Nai 6 và 6A, Đồng Nai 8, La Ngâu, Đạ Dâng và Bù Gia Mập.

Như vậy, ảnh hưởng của thủy điện tới rừng đầu nguồn là ảnh hưởng của cả một hệ thống "thập diện mai phục". Nhưng báo cáo đánh giá tác động môi trường thì chỉ lập theo từng dự án, tác hại đã bị cắt nhỏ đến nghe như chẳng ảnh hưởng gì!!!

Trích: Bài viết nhiều kỳ về hiện trạng đập thuỷ

điện tại một số khu vực rừng đầu nguồn của Hoàng Xuân

Theo tuanvietnam.net

Page 44: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 44

Sức khoẻ và đời sống

I. ĐI BỘ HÍT THỞ

a. Tư thế

Đứng thẳng thở điều hoà trước khi đi. Đi khoan thai từng bước như nhàn du dạo cảnh, tâm trí thư thái, 2 tay đung đưa 2 bên thật thong thả. Trước hết tìm một con đường bằng phẳng có gió nhẹ nhẹ sạch sẽ ít xe cộ qua lại, sau đó điều khí quen rồi hãy đi trên đường lên dốc.

Nếu đường thiết kế có lát sỏi thì đi chân không, nếu là lộ công cộng thì phải mang dép thật thấp mềm nhẹ. Ban đêm tránh đi dưới những tàng cây to rậm ngưng gió vì sẽ phải hít nhiều thán khí do cây thải ra.

b. Thực hiện

Bước đều và hít thở theo tuần tự như sau:

- Vừa bước 1 bước vừa hít sâu vào một hơi. - Vừa bước 1 bước tiếp theo nín hơi. - Vừa bước tiếp vừa hít thêm chút nữa. - Vừa bước tiếp vừa nín hơi. - Nếu được vừa bước tiếp vừa hít thêm chút nữa. - Nếu được vừa bước tiếp vừa nín hơi lần nữa. - Vừa bước tiếp vừa thở ra. - Vừa bước tiếp vừa há nhẹ miệng khà hết trọc khí còn lại.

Quá trình 6 bước hoặc 8 bước được liên tiếp lặp lại ít nhất 3 chu kỳ. Sau đó thì thở tự do 1 lúc rồi lại tiếp tục làm lại quá trình như trên không giới hạn thời gian miễn sao càng tập càng thấy khỏe là được.

c. Tác dụng

Động tác này có thể thực hiện riêng lẻ vào bật kỳ lúc nào thuận tiện. Nó có tác dụng trên toàn cơ thể. Điều hòa tuần hoàn máu, cải lão hoàn đồng, đăc biệt có thể làm một oai nghi cho các nhà tu tập hành thiền rất dễ đạt đến đích an lạc và giải thoát.

Page 45: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 45

II. BÁCH LÝ HÀNH

a. Tư thế

Đứng thẳng thở điều hoà trước khi đi, tâm trí thư thái, 2 tay đung đưa 2 bên thật thong thả. Trước hết tìm một con đường bằng phẳng có gió nhẹ nhẹ sạch sẽ không có xe qua lại giống như đường chạy đua hoặc đường ven sân vận động. Đi theo con đường đó để ít gặp chướng ngại vật, sau đó khi quen tránh được chướng ngại vật rồi hãy đi trên đường lộ vắng.

b. Thực hiện

Khi đi, trọng lực đặt lên bàn chân chủ yếu trên hai phần ba phía trước, lực đặt trên hai gót chân rất ít, về sau đi quen thì hầu như chỉ đi bằng nửa bàn chân trước. Khi đi, hai tay đánh đong đưa thật đều theo từng bước chân, càng về sau càng đi nhanh hơn nhưng không phải là cố tình đi như chạy.

Khởi đầu đi thong thả như bài đi bộ hít thở rồi bắt nhịp đi bước đều cùng đánh đong đưa đều hai tay nhanh dần. Khi phối hợp với hơi thở thì ta chỉ theo dõi điều khiển hơi thở và địa thế đường đi mà lách chướng ngại vật thôi, trong khi đó chân tay vẫn cử động đều trông như một cái máy đi vậy.

Hơi thở hít sâu dần, nghỉ hơi lâu dần, thở ra chậm dần. Nếu thấy đuối thì giảm thời hằng lại hoặc bước chậm lại dần và ngưng tập cho trang thái cơ thể trở lại như thường.

Tốt nhất đi buổi sáng tinh mơ hoặc hoàng hôn gió nhẹ. Bài tập này là giản thể của bộ môn “thiên lý hành vân” của các bang phái võ công trung hoa, họ tập khi đạt tốc độ 20km/giờ trở lên, mỗi ngày đi được vài trăm dặm thì được xem là đắc “khinh công hành”. Chúng ta chỉ tập để rèn luyện sức khỏe nên chỉ đi 10 hoặc vài chục phút thôi, không nên lạm dụng sở thích tập quá nhiều.

c. Tác dụng

- Tải khí huyết đến nội tạng và đến tận tế bào. - Điều hòa và tăng cường hoạt động hệ tuần hoàn. - Chống lão suy, cải lão hoàn đồng. - Chống tress và rèn luyện kỹ năng nhạy bén của hệ thần kinh. - Cải thiện hệ vận động, góp phần chữa một số bệnh về cơ xương khớp.

Chú ý:

Những người suy tim mạch, sức khỏe yếu kém, bệnh nặng mới khỏi, suy nhược thần kinh không được tập động tác này.

Đạo sư Huyền Thạch Công

Page 46: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 46

ừ lâu cây me đã gắn bó mật thiết với đời sống của người dân Việt Nam. Ngay từ những năm thành lập Sài Gòn – Gia định, người ta trồng từng hàng me ngút ngàn để làm bóng mát cho xe song mã, ngày ấy

những rặng cây xanh, cây me, cây sao… đã được xem là những cây tiêu biểu cho “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Cây me có tên khoa học là Tamarindus Indica, thuộc Họ Vang (Caesalpiniceae). Nhiều người cho rằng cây me vốn xuất xứ từ phía Phi Châu và Ấn Độ. Sau đó, được gây trồng phổ biến khắp các vùng nhiệt đới. Tại Việt Nam, me có nhiều loại, có nơi mọc thành rừng.

Thành phần hóa của me gồm acid citrique, acid tactrique, acid malic, kali bitactrat, đường, gôm, pectin. Trong hạt có guluza, xylan, protid, glucid, lipid, chất sáp, muối vô cơ… nạo cùi quả sấy khô để dành khi bị ho sốt, đầy bụng, ăn khó tiêu lại kèm táo bón… đem hãm nước sôi cho tan uống vào rất

hiệu quả. Trẻ em mỗi lần dùng 5gr, người lớn 10gr. Ngày uống 2-3 lần. Ngoài ra, người ta thường chế xirô me bằng cách dùng 50gr nạc cùi, 50gr nước và 120 gr đường cát, đun sôi còn lại 180 gr. Xirô me dùng khan mỗi lần uống 1 lần

T

Page 47: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 47

uống 1 muỗng cà phê đến 1 muỗng canh chua chữa viêm họng cấp và mãn, pha nước đá uống giải khát, nhuận tràng.

Gỗ cây me bào mỏng sắc uống thông tiểu, tiêu thấp. Vỏ cây có chứa tanin, sắc đặc uống cầm tiêu chảy, sắc ngậm chữa viêm họng, viêm lợi răng. Lá nấu nước tắm ghẻ. Me dùng để chế biến những món ăn đậm đà khẩu vị dân tộc, khiến cho ai một lần dùng qua khó mà quên được.

Chè hạt me thật đơn giản nhưng lại có một hương vị riêng rất lôi cuốn. Mứt me là một món quà được đón nhận trân trọng trong ngày Tết. Không những vì nó có hình thức rất đẹp mắt, lại giữ nguyên dáng vẻ hấp dẫn mà còn giữ được tương đối vị chua ngọt của quả me.

Ô mai me không những gắn bó với các bạn tuổi mực tím mà còn làm hài lòng các bậc cao niên nhờ chất giải khát thấm thía của me, cái tính làm thư thái của gừng và vị thanh tao của một chút cam thảo. Gần đây, thạc sĩ hóa dinh dưỡng Phan Thị Ngọc Tuyết đã dùng me hòa phối hợp với các loại trái cây khác như

mãng cầu, xoài, tắc... chế biến nên những thành phẩm mứt và nước giải khát có hương vị thật tự nhiên và đặc sắc.

Me được chế biến làm những chất chấm độc đáo không thể thay thế của một số món ăn: nước cốt me với bún riêu, nước mắm me với chả tôm chiên lăn bột, mạch nha me mè tráng trên bánh gạo nướng…

Do me có sớ vớ vỏ đẹp, thân oằn, lá nhuyễn nên các nghệ nhân thường chiết cành để

làm bon sai trông rất thanh nhã. Để kích thích cho me bon sai ra trái cũng là một nghệ thuật.

Cây me! “Nhân vật” tiên phong trong những bước dầu mở mang Sài Gòn-Gia Định, đến nay vẫn sát cánh không hề mệt mỏi với người Sài Gòn. Mặc dù có lúc chúng ta đã quên nó đi, nhưng nó vẫn âm thầm thủy chung len lỏi theo cùng nhịp sống của chúng ta.

Lương y Thái Kim Thanh Nguyên

Linh chi thảo

Page 48: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 48

Tương truyền rằng ngày xưa tiên gia Trần Đoàn thường dùng một loài cỏ để luyện phép tàng hình và chế thuốc trường sinh bất tử…

Ngày nay loài cỏ tiên ấy vẫn không ngừng sinh sôi nảy nở trên mảnh đát khô cằn sỏi cát trải dài từ Hàm Tân đến Phú Yên. Người địa phương vẫn gọi là cỏ linh chi. Sách thuốc vẫn gọi là Quyển bá. Ngoài ra, dựa vào tính chất khô rồi tươi lại một cách kì lạ của nó, người ta còn gọi là cỏ bất tử hay trường sinh thảo.

Quyển bá có tên khoa học Selaginlia Tamariscina(Beauv), Spring, thuộc Họ Quyển bá (Selaginnellaceae). Cây mọc thành bụi. Lá mọc từ giá rễ bện dần thành thân có khi cao đến 15cm. Cành bên của thân có khi mọc thành búi dài 5-12cm. Lá xếp kiểu lợp hoa cúc, có nhiều hình dạng trên cùng một cây, từ hình tam giác thuôn, đến hình ngọn giáo, hình chân vịt… có dạng gần như bốn cạnh, kết cấu gồm những lá bào tử trong mờ hình tam giác đầu rắn.

Cây thường thường mọc ở vùng ven biển trên các đồi cát sỏi, đồi đá đỏ. Do có sức sống tiềm ẩn sống mãnh liệt nên lúc thời tiết khô hanh, lá cuộn khúc vào trong, khi gặp ẩm ướt liền vươn ra ngoài. Có thể nhổ cây về, để khô cất kỹ vào lọ. Có dịp cắm hoa trang trí, lấy ra ngâm vào nước ấm, cây sẽ tươi xanh trở lại, tác dụng điểm huyết cho lẵng hoa thêm phần mạnh mẽ duyên dáng.

Trong y học dùng toàn thân cây, cắt bớt rễ, phơi khô hoặc dùng tươi. Có vị cay tính bình, tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu viêm, dùng sống thì hoạt huyết, sao vàng thì cầm huyết. Thành phần hóa học thì gồm có hợp chất Flavon như Apigenin, soretsuflavon, Amentoflavon. Thường dùng diều trị phối hợp trong các bệnh chứng: đại tiện phân đen, tử cung xuất huyết, trĩ xuất huyết, phù thũng, tiểu dắt, viêm gan mãn cấp, mồ hôi trộn, viêm đường hô hấp…

Các phương thuốc thường dùng:

- Trĩ xuất huyết: Quyển bá 25gr, Ý dĩ 25gr, Anh túc xác 10gr, sắc uống

- Tiểu ra máu, tiêu ra máu, rong kinh: Quyển bá 30gr, Tiên hạc thảo 20gr, sắc uống.

- Viêm xoang, viêm họng cấp: Quyển bá 30gr, Hòe hoa 10gr, Kim ngân hoa 10gr, Hạt hẹ 10gr, sắc uống.

- Vết dao chém, bỏng lửa, bỏng nước sôi: Sau khi đã rửa sạch vết thương, dùng lá Quyển bá tươi giã nát vắt nước bôi, đồng thời sao vàng 50gr sắc uống có tác dụng cầm máu và chống nhiễm trùng.

- Viêm gan cấp: Quyển bá 30gr, Bồ công anh 30gr, Nhân trần 30gr, Sài hồ 10gr, sắc uống.Ngoài ra, lúc bội thu lấy Quyển bá dốt tồn tính tán nhỏ mịn cất kỹ, khi bị rắn cắn, viêm da có mủ nhọt dùng bột thuốc hòa đầ mè hoặc dầu dừa bôi kín vết thương.

Phục Sinh Đường

Page 49: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 49

Di sản văn hoá

Phần 1: Thành Bắc Ninh và Thành Nam Định

Năm 1884, Ông Charles-Edouard Hocquard với tính cách là bác sĩ quân y, theo đoàn lính viễn chinh Pháp tới xâm chiếm Việt Nam, nhưng ông cũng là một nhà nhiếp ảnh viên tài hoa. Những tấm hình nầy có một giá trị lịch sử rất lớn. Ðây là lúc mà Pháp sắp sửa chiếm hết Việt Nam và đây cũng là những hình ảnh duy nhất còn sót lại mà chúng ta thấy được những thành trì xưa.

Sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ hai vào năm 1882 (Tổng Ðốc Hoàng Diệu tự tử với thành), quân Pháp tiến về biên gìới phía Bắc vì lúc bấy giờ triều đình Huế đã âm thầm yêu cầu Giặc Cờ Ðen (sau đó là quân đội Trung Quốc) giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc bấy gìờ Trung Quốc vẫn coi Việt Nam như là “thuộc quốc” của mình nên được dịp họ tràn qua chiếm nhiều tỉnh phía Bắc vùng biên giới.

Ðể phản công, Pháp tung hải quân đánh chiếm được những đảo Pescadores và Formose (Taiwan) của Trung Quốc nhưng Pháp không đủ quân để đánh với một nước 400 triệu dân nên tìm cách giảng hoà trong hiệp ước ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885 trong đó Trung Quốc chấp nhận là không còn coi Việt Nam là “thuộc quốc” của mình nữa và hứa là sẽ tôn trọng lãnh thổ Việt Nam mà các đường biên giới sẽ được 2 nước (Pháp & Trung quốc) xác định sau. Lúc đó coi như Pháp đã hoàn toàn thôn tính nước ta.

Ngày 5 tháng 7 năm 1885, Vua Hàm Nghi kêu gọi toàn dân nổi dậy chống Pháp, phong trào Cần Vương ra đời. Lúc nầy thì Ông Bác Sĩ Hocquard trở về Pháp để nhường chổ cho… ông Bác Sĩ Neis, đại diện cho bộ ngoại giao Pháp tới Việt Nam để tham dự trong phái đoàn vẽ đường biên giới với Trung Quốc. Ông Bác Sĩ Neis cũng có viết hồi ký kể lại chuyến công tác nầy mà các bạn có thể đọc ở một cái site bằng tiếng Pháp. Ðây cũng là một biến cố quan trọng cho lịch sử Việt Nam vì đây là lần đầu tiên mà Việt Nam (do Pháp đại diện) đã ký kết với Trung Quốc trên giấy trắng mực đen về những đường ranh giới (trước đó chỉ là sự thỏa thuận ngầm).

Những tấm hình của Ông Bác Sĩ Hocquard được xuất bản bởi Trung Tâm Tồn Trữ Dữ Liệu Thuộc Ðịa ở Aix-en-Provence.

Nguồn: Trần Quang Đông – Na uy

Nguyễn Văn Hàm sưu tầm

Page 50: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 50

Thành Bắc Ninh 1884

Bắc-Ninh ngày hôm sau, sau khi thất thủ (13-03-1884)

Thành Bắc-Ninh bị pháo binh Pháp oanh tạc

Kho gạo và chòi canh của thành Bắc-Ninh

Thành Bắc-Ninh

Ðiện thờ chánh (?) của thành Bắc-Ninh

Cửa thành Bắc-Ninh mà quân đội Pháp đã tràn vào

Page 51: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 51

Voi của Tổng Ðốc Bắc-Ninh

Vũ khí của Giặc Cờ Ðen (GCÐ) bị Pháp tịch thu

Ðồn nhỏ do Giặc Cờ Ðen (GCÐ) dựng lên ở Bắc-Ninh

Súng ống của Giặc Cờ Ðen mà Pháp tịch thu được

Ðồn nhỏ do GCÐ dựng lên ở gần Bắc-Ninh

Chiến hào do GCÐ dựng lên ở gần Bắc-Ninh

Page 52: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 52

Thành Sơn Tây 1884

Thành Sơn-Tây

Cửa Nam của thành Sơn-Tây

Thành Sơn-Tây nhìn từ trên đỉnh vọng canh

Cửa Ðông của thành Sơn-Tây

Cửa Ðông (hoặc Tây!) mà quân Pháp tràn vào thành

Page 53: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 53

Vòng rào phía Bắc của thành

Ngoại thành, buổi chiều ngày thất thủ

Chùa được biến thành thành trì ở Hôi-Dông (hướng Tây thành Sơn-Tây)

Bên trong của thành

Vọng canh và hồ chứa nước của thành

Hầm chứa súng cà-nông

Page 54: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 54

Chùa Phu-Ni gần Sơn-Tây

Một đền làng gần Sơn-Tây

Chùa được biến thành thành trì ở Hôi-Dông (hướng Tây thành Sơn-Tây)

Một chùa nhỏ gần Sơn-Tây

Làng gốm gần Sơn-Tây

Page 55: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 55

Đời sống tâm linh

Chuyên đề cho và nhận

Bài mở của Cao Thái Thanh

Cho và nhận - yếu tố quyết định thành bại cuộc đời

Thế giới chúng ta đang sống thật muôn màu muôn vẻ và luôn chuyển biến xoay vần - trong đó, chúng ta ví như một hạt bụi, luôn trăn trở, băn khoăn về số phận của mình. Chúng ta có thể cho đi nhiều, làm việc nhiều, mơ ước nhiều, gom góp nhiều để có được cuộc sống ấm êm. Nhưng rồi, khi tất cả lắng xuống, có bao giờ bạn tự hỏi “ta cần gì từ cuộc sống?”…

Sẽ có nhiều ý kiến đưa ra. Chúng ta có thể cần cha, cần mẹ, cần bạn bè, cần vật chất, cần tình yêu thương… tuy nhiên, chúng ta thực sự cần gì từ cuộc sống này? Câu trả lời rất đơn giản, đơn giản đến mức bạn sẽ bàng hoàng khi nhận ra nó. Đó là: cuộc sống của bất cứ ai đều chỉ cần “cho” và “nhận”.

Chúng ta thường nhìn nhận vấn đề bằng hai cách.

Đối với cách nhìn bằng trực cảm, ta sẽ thấy cuộc sống có hai giai đoạn: thu nhận và cống hiến. Hai giai đoạn này chuyển biến giao thoa lẫn nhau. Như là, khi tiếp nhận đến một lúc nào đó sẽ thể hiện sự cống hiến; khi cống hiến đến lúc nào đó sẽ thể hiện sự tiếp nhận trở lại.

Đối với cách nhìn bằng biện chứng, chúng ta lại thấy hai cung cách “cho” và “nhận” này diễn ra song song với nhau. Nhưng cái này có thể nổi trội hơn cái kia, điều đó tuỳ thuộc vào bản thân mỗi người có dám đối diện và nhìn nhận hay không.

Quả thật, từ những giây phút chào đời đầu tiên, chúng ta đã cần sự quan tâm, chăm sóc từ gia đình, người thân, cần một nền giáo dục sơ sinh để rồi những gì chúng ta cho đi là niềm tin yêu, hy vọng lớn lao từ mọi người xung quanh.

Lớn thêm nữa, bạn bắt đầu cần thêm trang phục, cần giáo dục học đường, giáo dục giới tính, nói cách khác, bạn cần tri thức. Bạn vẫn cần tình yêu, nó bao gồm tình cảm gia đình, tình cảm cộng đồng, tình bạn, tình yêu đôi lứa.

Bạn sẽ cho đi những gì? Bạn biết lo toan nhà cửa, biết tham gia hoạt động xã hội, biết thể hiện tình cảm của mình với mọi người. Tính chất đó nếu được giáo dục tốt sẽ có thể được phát huy theo chiều hướng tích cực. Con người đó có đủ khả năng tư lực, tự cường, tự chủ. Họ luôn mong muốn được cống hiến cho đến tận giây phút cuối đời và coi đó là lý tưởng, lẽ sống của mình. Và quan trọng hơn, họ cảm thấy nhận được nhiều hơn những gì họ mong đợi. Dân gian tường bảo:

Page 56: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 56

“con tằm đến thác vẫn còn nhả tơ”

Thử nghĩ xem, “cho” và “nhận” có phải là điều cần thiết nhất trong cuộc sống hay không, khi một người suốt đời chỉ muốn thu nhận thật nhiều, thật nhiều để vun đắp cho riêng mình. Có thể người ấy sẽ được như ý muốn đấy, nhưng dần dần, sự ích kỷ không chịu cống hiến sẽ đẩy họ đến chỗ cô đơn và nhàm chán. Vì sao? Quá đơn giản, không gieo nhân không thể gặt quả, không “cho đi” sẽ không thể “thu nhận”. Đến một lúc nào đó, nhận ra, họ sẽ xiết bao sợ hãi và chới với trong khoảng trống mà mình đã tự chọn.

“Cho” và “nhận” trong cuộc sống này bao hàm rất nhiều. Chúng ta nhận về chúng ta những phần vật chất, tinh thần mà chúng ta cần, hoặc chính chúng ta sẽ cho người khác điều ấy không biết chừng! Ví dụ như, những đoàn cứu trợ, tình nguyện đến vùng sâu vùng xa. Họ cho đi gạo, tiền, quần áo, sách vở, đồng nghĩa với cho đi tình thương, nụ cười, lòng nhân ái. Họ nhận lại những đoá hoa, những cái bắt tay, ôm hôn nồng nàn cũng là nhận sự cảm kích, lòng tin yêu, sự ủng hộ, và chúc phúc cho tương lai họ từ bà con đồng bào.

Hoặc, kinh Phật có dẫn: Đức Ca Diếp trong một lần đi hành khất đã dừng chân tại một túp lền rách của bà lão ăn xin. Bà bệnh nặng sắp chết. Không có gì để bố thí trong khi đức Ca Diếp nhất định không đi chỗ khác, bà đành đổ phần nước cháo đã thiu cho ngài. Lập tức bà được siêu sinh về cõi cực lạc, cụ thể bà đã trở thành giai thoai. Đức Ca Diếp, ông nhận bát nước cháo, và cho đi sự từ tâm và sự hồi hướng phước đức đối với bà lão nghèo. Ý nghĩa thay!

Như vậy, sự “cho” và “nhận” trong cuộc sống này luôn là sự tồn tại tất yếu của con người. Do đó, khi chúng ta tháo gỡ được vấn đề này có nghĩa là chúng ta đã có ý thức tự nhìn lại mình và đã có thể tự trang bị cho mình tư thế sẵn sàng cho một cuộc sống đầy màu sắc “thu nhận” và “cống hiến”.

Suy cho cùng, “cho” và “nhận” là những yếu tố quan trọng và đặc biệt cần thiết để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, đặt nền tảng cho tất cả mọi nhu cầu và quyết định sự thành bại cho tài năng, danh tiếng, gia tộc và nhân bản.

Bài luận của Bùi Trương Châu Vy

Cho và nhận - những niềm vi diệu.

Trong chúng ta ai cũng từng được nghe từ Cho và Nhận. Nếu nhận là hạnh phúc thì khi cho còn hạnh phúc hơn nhiều. Nếu sống mà chỉ biết nhận thì thật là ích kỷ, lúc nào cũng chỉ muốn nhận được nơi người khác thì thật là một kẻ đáng thương vì hậu quả là chỉ biết nhận mà chẳng cho thì lấy ai cho hoài để mình nhận?

Còn đối với người chỉ có cho mà chưa từng nhận thì có lẽ người ấy đã thấy được hạnh phúc khi cho đi đồng thời họ chẳng có nhu cầu nhận. Họ cho một cách vô vị lợi, cho mà không mong người khác đáp đền, chính lúc cho đi là khi nhận lại, họ cho không so đo tính toán và sẵn sàng cho những gì mình có thể...

Page 57: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 57

Mặc khác, khi cho ta phải cho như thế nào để người nhận luôn thấy thoải mái, để họ không mặc cảm vì sợ mang ơn mà không biết làm sao trả. Nói đến từ cho thì ta có thể cho những gì? Và cho những ai? Có thể chăng cho một nụ cười khi ai đó đang buồn và cho một vòng tay ấm áp khi ai đó đang cô đơn? Bởi vì không ai cho cái mình không có! Và cũng không có ai không có cái gì để cho. Ta cho tất cả mọi người không phân biết người đó là ai, người giàu hay người nghèo, vì người giàu không phải họ không cần được nhận và người nghèo không hẳn là họ muốn nhận.

Cho là một phương thuốc để xoa dịu nỗi đau cho người và có khi cho cả chính mình. Đáng tiếc, trong xã hội hôm nay, tồn tại khá nhiều người chỉ thích nhận, lúc nào cũng muốn được nhận thật nhiều đến khi cho thì lại không dám cho vì sợ mất mát và so đo thiệt hơn nên cuối cùng họ chẳng cho gì cả. Khi nhận thì rất vui vẻ còn khi cho thì tiếc xót thế là họ giữ luôn cho riêng mình. Những người này họ luôn có cảm giác cuộc đời hẹp đến nỗi không có người thân mến, nhà họ chật chội đến ngạt thở.

Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta ai cũng đã từng được nhận, có người nhận nhiều có người nhận ít! Nhận nhiều hay ít thì cũng đã được nhận nhưng có mấy ai hiểu được chân lý của từ Cho và Nhận? Bạn hãy cho đi rồi bạn sẽ biết cách cho.

Khi cho rồi thì bạn sẽ cảm nhận ra những niềm vi diệu.

Bài diễn của Trần Linh Khoa

Cho và nhận – vòng xoay nhân quả

Ngày còn bé tôi thường được nghe Ngoại dạy dì tôi rằng: Cách cho hơn của đem cho và nhận cũng phải có cách nhận. Tôi cứ suy nghĩ theo cách nghĩ của trẻ thơ rằng chắc là cách cho cũng là nghệ thuật nên mới hơn được cái của đem cho. Năm tháng trôi qua, cô bé tôi giờ đây đã trưởng thành hơn nên cách nhìn nhận vấn đề cũng rõ ràng hơn.

Cho và Nhận tuy nói dễ nhưng làm thì thật khó!

Khi cho một món quà đắt tiền kèm theo một cái nhìn dò xét hay tiếc nuối thì sẽ khiến người nhận không còn cái cảm giác hạnh phúc và biết ơn ta nữa, thay vào đó là một tiếng cảm ơn khách sáo. Sau đó, món quà của ta sẽ mãi mãi quay về nằm gọn gàng trong một góc phòng buồn bã như chưa hề có người nhận.

Cho không phải là việc bắt buộc mà là sự tự nguyện thật lòng muốn người nhận được cái cảm giác hạnh phúc, vui vẻ, vì thế phải cho và nhận làm sao cho đúng cách và đúng lúc! Theo cách nhìn nhận của tôi thì không hẳn phải cho và nhận bằng một thứ vật chất mà còn là một khối tinh thần, một ánh mắt đồng cảm với một người đang gặp khó khăn, nghịch cảnh, an ủi, sẻ chia, giúp họ vững mạnh niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc đời. Ta sẽ nhận lại được một tình cảm tri âm!

Thí dụ trường hợp có một cụ già đang cô đơn, ta thử hoá thân thành cô Tấm ngoan hiền, xuất hiện giúp cụ nấu một bữa ăn đạm bạc, xoa bóp tay chân, hay trò chuyện vui đùa tạo

Page 58: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 58

không khí vui tươi ấm áp. Đó hoàn toàn là cho hoà hợp với nhận, cho và nhận những niềm hạnh phúc tự nhiên bình dị. Hạnh phúc từ người được cho sẽ lan tỏa sang người cho, thế là cả hai bên đều được cho và được nhận.

Cho đi một nụ cười Ta nhận tình thân thiện Cho đi lời yêu thương Ta nhận sự chân tình Cho đi sự an bình Ta nhận đời hạnh phúc.

Hãy biết cách cho thì sẽ tận hưởng được hạnh phúc từ người được nhận.

Cho là nhận, nhận là cho, vòng xoay nhân quả quả nhân xoay vòng.

Câu chuyện minh hoạ của Triều Âm sưu tầm

Ba hành khách cùng đi trên một chuyến tàu tới ga Tình yêu: Sòng phẳng, Ích kỷ và Vị tha. Cả ba đều mang theo mình hai gói đồ: Nhận và Cho, nhưng độ nặng nhẹ khác nhau: Sòng phẳng: Cho bằng Nhận, Ích kỷ: Cho nhẹ hơn Nhận, Vị tha: Cho nặng hơn Nhận

Trong lúc rỗi rãi ba người tán gẫu về hành lý của mình. Sòng phẳng lên tiếng:

- Tôi thấy hành lý của các anh lệch lạc, thật khó mang theo. Còn tôi luôn cân đối Cho và Nhận nên mang đi dễ dàng.

- Anh làm thế nào cho cân được? Ích kỷ hỏi.

- Thì tôi phải tính chớ. Tôi chỉ cho đi khi tôi chắc có thể nhận về một lượng tương đương. Cho không hay nhận không của ai cái gì, tôi đều không thích. Tính tôi là vậy, không muốn mắc nợ hay gia ơn.

Ích kỷ liền nói:

- Anh nói nghe như thể đi mua hàng vậy: Tiền nhiều mua được nhiều, tiền ít mua được ít, không tiền không mua. Nhưng tình cảm đâu thể đong đếm theo cách đó.

Sòng phẳng cười phá lên, rung cả hai vai. Ích kỷ ngạc nhiên:

- Tôi nói vậy không đúng à?

- Quá đúng là khác. Tôi chỉ buồn cười là trông 2 gói hành lý của anh bên Cho thì nhẹ bên Nhận thì nặng, vậy mà anh cũng lý luận ra được câu đó.

Ích kỷ nhìn lại 2 gói đồ của mình, gật đầu. Sòng phẳng thoáng bâng khuâng:

Page 59: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 59

- Không phải lúc nào tôi cũng sòng phẳng cả đâu. Có những người cho tôi nhiều mà tôi không cho lại được là mấy. Ví như tình yêu cha mẹ cho tôi gần như vô hạn, chẳng kể tôi có đáp lại hay không. Vậy là tôi Nhận nhiều hơn Cho. Với con cái thì tôi Cho chúng nhiều hơn Nhận về. Cũng nhờ có sự bù trừ như vậy mà 2 gánh hành lý của tôi thường cân nhau.

Ích kỷ tán thành:

- Tôi thấy kiểu hành lý của anh giờ đang thịnh hành. Nhiều người thích sòng phẳng cả trong tình yêu theo kiểu: “Ông rút chân giò, bà thò chai rượu”.

Sòng phẳng trầm ngâm:

- Đôi khi tôi cũng không thích sống thế này đâu. Luôn phải tính toán nhiều - ít, luôn phải dừng gánh để sẻ từ bên này sang bên kia. Tôi thấy mệt mỏi và nhiều lúc trống rỗng, vô cảm.

Ích kỷ phụ hoạ:

- Tôi cũng giống anh, luôn phải so đo tính toán. Nhưng tôi phải tính sao cho Nhận về mình nhiều hơn. Tôi chỉ thích nghĩ cho mình thôi mà.

- Nhận nhiều như thế anh có hài lòng không? Sòng phẳng hỏi.

- Chả mấy khi tôi vừa lòng. Tôi luôn canh cánh trong lòng: Mình có bị mất mát gì không? Cho như thế có nhiều quá không?

- Anh có người yêu không?

- Có chứ. Tôi rất yêu người yêu tôi là đằng khác. Nhưng tôi luôn lo sợ. Tôi sợ mình cho nhiều quá lỡ tình yêu bỏ tôi đi thì tôi chẳng được gì. Tôi không muốn nhận về tay trắng. Đó là nỗi ám ảnh của tôi.

Tàu qua cầu vượt sông Âu Lo. Tiếng xình xịch của đầu máy át lời tâm sự của Ích kỷ. Qua khỏi cầu, tiếng ồn dịu lại, Ích kỷ và Sòng phẳng lúc này mới nhớ tới người bạn đồng hành thứ ba. Vị tha nãy giờ vẫn yên lặng lắng nghe. Khi thấy hai bạn hướng mắt về mình, Vị tha mới khẽ khàng cất lời:

- Hai anh đều có lý lẽ của mình. Lập luận của anh Sòng phẳng thuần túy là của bộ óc, không có mấy liên hệ đến trái tim. Chính vì vậy anh luôn thấy căng thẳng, mỏi mệt và đôi khi trống rỗng. Còn anh Ích kỷ yêu ghét rõ ràng, nhưng tình yêu của anh là “vì mình, cho mình”. Bởi yêu mình quá mà anh thường trực lo sợ. Tôi nói vậy có phải không hai anh?

Ích kỷ và Sòng phẳng đang mải nghĩ ngợi nên không trả lời. Vị tha nói thêm:

- Anh Sòng phẳng nói đúng: Hành lý của tôi không cân - Cho nhiều hơn Nhận. Ấy là vì tình cảm xuất phát tự đáy lòng thì rất chân thành và giản dị. Nó thấy rằng Cho là lẽ tự nhiên, không gì vui bằng làm cho người mình thương yêu được hạnh phúc. Niềm vui khi dâng tặng làm vơi gánh nặng của tôi, cho tôi sự thanh thản, đủ đầy.

- Đủ đầy? Sòng phẳng và Ích kỷ cũng thốt lên. Cho là mất chứ, cho nhiều thì phải còn ít đi mới phải.

Page 60: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 60

Vị tha mỉm cười:

- Đấy là về mặt vật chất, là quy luật trong Toán học thôi. Quy luật của tình yêu thì khác. Lát nữa đến nơi, tôi sẽ chỉ cho các anh.

Ích kỷ và Sòng phẳng nhìn gánh hành lý của Vị tha, lại nhìn hành lý của mình, lòng chưa hết băn khoăn. Cũng vừa lúc tàu đến ga Tình yêu. Tàu chạy chậm dần, chậm dần rồi dừng hẳn.

Ngước nhìn vào sân ga, Sòng phẳng và Ích kỷ đều trông thấy dòng chữ có nội dung Vị tha vừa nhắc đến. Hai người rất đỗi ngạc nhiên vì họ đi trên chuyến tàu nhiều lần, đến ga Tình yêu đã nhiều mà chưa bao giờ thấy hàng chữ đó. Thực ra quy luật của Tình yêu luôn có ở đó, nhưng chỉ những ai có trái tim nhạy cảm mới thấy và thấu hiểu.

Bạn thân mến, tôi sẽ không nói hàng chữ trên sân ga Tình yêu nói gì vì tôi chắc bạn cũng đoán ra được. Để kết thúc câu chuyện, tôi chỉ xin tiết lộ về những người sẽ đón 3 hành khách của chúng ta cùng hành lý Cho và Nhận của mỗi người: Đón Sòng phẳng là Khô khan, Ích kỷ sánh đôi cùng Bất an và người đón đợi Vị tha chính là Hạnh phúc.

Văn bút

Tạ người tri âm Như hiện hữu như trầm loang mộ khúc Đời theo ta như bản án vô hình Ta cột ta vào vạn nỗi phiêu linh Để thảng thốt : " Này, góc đời đi lạc !" Giữa vụ trũ ai gieo buồn man mác Sầu thiên thu giăng thác đổ mưa nguồn Khiến mây chiều một đôi chút luyến thương Quàng núi tím dáng thanh cao trầm mặc Như thế thôi, chỉ một vài khoảnh khắc Bắt hụt nhau và nhận lấy nụ cười Ta thấy ta, một chút của loài người Trong ảnh ảo của đôi vần cảm tác Người còn đi, bước đường dài phiêu bạt Những vần mơ sẽ ướp mật cho đời Như thế đấy, đôi khoảnh khắc thảnh thơi Nhỏ nhoi lắm, ai mong cầu có được? Triều Âm 2010

Page 61: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 61

Mượn Mượn em một chút tinh khôi Giãi bày tâm sự dưới đồi thông xanh Mượn đời một chút công danh Tháng năm lưu lạc gian truân xứ người Mượn trẻ thơ chút nụ cười Nhả đi cay đắng ngút trời điêu linh Mượn hư không chút lặng thinh Phì phà khói thuốc vô tình nhởn nhơ Mượn đêm ngày chút bơ phờ Lưu đày căn gác hững hờ thời gian Mượn trời một chút đa đoan Câu thơ mình trả một ngàn nỗi đau Mượn đi năm thắng úa nhàu Dòng thơ tình sự vấy màu cố hương Mượn người một chút yêu thương Những khi hiu quạnh trên đường tử sinh Mượn trăng mượn gió mượn bình Mượn trà mượn thuốc mượn mình với ta Mượn luôn thế giới ta bà Nghìn trùng dâu bể đa đoan cơ trời Cho tôi mượn nốt cuộc đời Bình nguyên hiện thể trả lời mai sau. Thích Minh Chánh

Bến sông Tương Về thôi em ơi! Hãy về thôi Ngoài sân lá thu rơi ngập rồi Ghế đá lạnh lùng phơi nhan sắc Lơ lững chuyền cành chim lả lơi Khua gót hiên nhà vọng tiếng ai Sân khuya vời vợi ngóng trời tây Thả hồn ngọc bích về phương ấy Người đến người đi ơi có hay! Có lẽ nào em bỏ ta luôn Sương thu đò lạnh bến sông Tương Mặc khách lẽ loi tìm dấu cũ Nửa bóng ngàn thu trăng tơ vương Lẽo đẽo mình ta ôm bóng lẻ Tựa lưng gối mỏi viết kỳ duyên Hồi ức theo em cao ngất ngưởng Say mộng an bình giấc tịnh yên! Lê Phương Châu Người mẹ của tôi Người mẹ của tôi tóc trắng ngần Lệ mờ đôi mắt đã bao năm Rưng rưng giọt nhớ thời tan vỡ Thương đứa con đi bởi cuộc trần Nhà mẹ hàng cau vương mái tranh Chiều mây khói bếp quyện xây thành Dây trầu vàng lá rơi từng bữa Gậy trúc lần theo dáng ngập ngừng

Page 62: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 62

Các chị ! Có chồng xa xứ hết May nhờ chị lớn cũng ven sông ! Cảnh tình mẹ khổ con thương quá Ai hiểu cơ trời quê bão giông Bao năm cơm áo trong… ngờ vực Anh sáng huyền vi đã tối dần Bước mẹ xiêu tàn sương tóc bạc Ngậm ngùi đêm trắng thuở ly tan Mẹ ơi ! Con bước đời phiêu lãng Mà ý thơ rưng lệ mấy hàng Mơ gió xuân về thăm xứ sở Lạy nấm mồ thiêng cỏ ố vàng ! Vũ Đức Tô Châu

Ru em ngàn năm Ngàn năm em mộng anh ru Bài thơ tình muộn phiêu du cuối đời Giọt buồn như tiếng mưa rơi Rưng rưng trên một phím đời CHOPIN Đường khua dạo bước đơn hành Bản tình SONNAT riêng dành tặng em Trăng khua nghiêng rọi cuối thềm BEETHOVENT – nhạc êm đềm cơn mơ Ru em bằng những bài thơ Mà nghe sương ướt cuối bờ tuổi xanh Em vào mộng mị bên anh Tim vàng hai quả lều tranh một rường Lời ru ơ cõi Trần Đường Dặt dìu tựa khúc Nghê Thường người Tiên Tìm em trong giấc cô miên Ru cơn tình muộn giữa tình nhân gian. Hoàng Vũ Nghi

Tình biển Vui buồn lòng biển đầy vơi Bạc đầu một thuở lại vời vợi xanh Biển qua trăm thác ngàn ghềnh Sóng đời- nước mắt trườn mình ngoi lên Biển sâu bao cõi nhân gian…? Bao trong đục , lắm giận hờn - buồn vui Sóng nào con sóng đời tôi? Từ sâu đáy sóng mồ côi một mình! Đỗ Chí Hiếu 1999 Dáng mẹ chiều xuân Mẹ ngồi đếm lá mấy mùa xuân Ao trước trong veo nhuận mái nghèo Dáng gầy hao đứng bên hàng giậu Dõi mắt chờ con lã cánh bèo Mẹ ơi! Con đã về bên mẹ Vui mừng nước mắt mẹ rơi rơi Chiều nay hoa nở chân trời tím Thương quá mẹ cười ấm biển khơi. Đỗ Hồng Sa Ghi chú Đường thi Dáng hình ai đã vào xưa Mà hồn thơ vẫn đong đưa cõi người Dưới trăng nát nửa môi cười Hoa nguồn đào nở một thời thiên thai Nụ đời chín nẫu lòng ai Những mùa hoa khói chưa phai màu buồn Đâu hoàng hạc, đâu Tầm Dương Một dòng sông chảy bên phương trời người. Đoàn Thuận

Page 63: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 63

Nhớ mẹ Nắng thu chan, điểm thắm cành hồng Gợi dáng hình xưa cách biển đông Hồn gởi xa xăm bao giọt ấm Gió ru man mác trái tim nồng Vu lan báo hiếu ngời năm tháng Bóng mẹ ưu sầu vượt bão giông Tay ngắt đoá thơm cài áo trắng Mắt nhìn thăm thẳm mỏi mòn mong. Nguyễn Hoàng Phi Đành hẹn mẹ Mẹ tôi mất khi đầu tôi điểm bạc Ở quá xa, ngăn cách một trùng dương Không thể về đưa người ra huyệt mộ Lộ trình cuối cùng rỏ lệ yêu thương Ừ, giá được nghe những lời trăn trối Được vuốt mắt người sau phút lâm chung Được thay sống áo khiêng hòm chống gậy Tiếng kèn nghe day dứt điệu não nùng Áo trắng băng đen chỉ là hình thức Rất nhỏ nhoi so công sức tràn đầy Tình mẫu tử chan hòa từ thai nghén Ơi nguồn trong, biển mẹ vẫn còn đây ! Mẹ mớm con từng bụm cơm thìa cháo Dòng sữa ngọt ngào thành máu xương con Bên ướt mẹ nằm, phía con khô sạch Trở dậy canh khuya, giấc ngủ không tròn Khi con lớn mẹ giăng màn thiêu muỗi Vá manh áo, ngồi tuốt chấy đêm dài Tắm cho con hương thơm nồi nước lá Chập tối ba mươi pháo nổ một vài... Cả đời gian truân nuôi con ăn học Theo trường ở xa hay học trường gần

Trong đồi núi hoặc đô thành Hà Nội Mẹ chắt chiu cho con nhận mùa xuân Con giã biệt vào Nam rồi viễn xứ Mẹ âm thầm nhẫn nại đợi tin con Niềm mong nhớ dịu dàng song chói sáng Đã tỏa vàng lên đồng ruộng, núi non Con bất hiếu thôi đành xin hẹn mẹ Một ngày nào gặp mẹ chốn tiên cung Con hầu mẹ hồn bên nhau mãi mãi Nồng ấm tình thương, tan biến lạnh lùng… Hà Trung Yên Mơ phai Đã thật hồn tôi mất nửa rồi Biến vào huyền diệu rất xa xôi Hương nồng còn đấy trong trăng vỡ Vàng giọt cô đơn nhỏ xuống đời Gió hiu hắt vẫy chân ngàn mây Mộng mị đêm thâu đã chất đầy Ngây ngất tuổi tên bằng dấu ấn Một làn môi đỏ đoá thơ ngây Nhớ thương mòn mỏi giấc mơ phai Dẫy chết băng trinh năm tháng dài Lay động ngày hồng say thổn thức U hoài bởi những vết thiên thai Lưu luyến xanh in một nửa trời Biết chăng tình đợi dấu mưa rơi Đáy lòng thôi thúc trôi về biển Một mảnh tim riêng lịm rã rời Theo dáng ơ hờ khúc nhạc trôi Em chừ im lặng dĩ nhiên thôi Từ nay lá úa mùa thu xám Êm ái trơ cành đứng thảnh thơi. Nguyễn Càn Tử 2007

Page 64: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 64

Lúc này xã Gia An đang đúng vào giữa mùa mưa. Khác với sự hình dung của tôi, nước ở hồ Biển Lạc không còn dâng trắng bờ như những năm tôi còn công tác ở xã Gia An. Theo địa chí Bình Thuận, hồ Biển Lạc có diện tích là 280 hecta. Đến mùa mưa toàn bộ diện tích đó sẽ ngập trong nước. Nếu như nhiều năm về trước đứng ở đồng đất nằm ven bờ Biển Lạc thuộc thôn Một của xã, thì sẽ thấy một trời nước. Vùng ven hồ, trước đây phải đi ghe thì nay có thể đi bộ ra được. Tôi hỏi một người dân sống từ nhỏ tới lớn ở Gia An, anh buồn bả trả lời: “Từ hồi nhà nước xây cái đập ở cầu Lăng Quăng thì nước sông La ngà bị ngăn lại, nên không chảy vào “Biển” được”. Tôi chẳng biết chi về nghề thủy lợi, nên tôi cũng không biết được nhận định đó đúng hay sai!

Vào mùa mưa, người dân chuyên sống bằng nghề đánh cá ở Gia An đều gọi là mùa “cá chạy”. Trước năm 2005, lúc nhà nước chưa xây dựng đập Lăng Quăng thì nước sông La ngà thông với hồ Biển Lạc. Nước sông dâng cao, cá từng đoàn từ sông theo dòng nước chạy vào Biển Lạc. Cá Biển Lạc, sau một mùa sinh đẻ, từng đoàn dẫn nhau ra sông La ngà để ngược dòng về thượng nguồn. Những cuộc di cư của đàn cá chính là cơ hội cho những người dân sống bằng nghề đánh cá đồng ở xã Gia An và cả huyện Tánh Linh đều sống được với nghề.

Đến mùa khô từ tháng 11 năm trước tới tháng 4 năm sau, nước hồ Biển Lạc rút cạn, người ta lại tiếp tục đi bắt cá. Như vậy cá đồng ở Biển Lạc cung cấp đủ thực phẩm quanh năm từ cá tươi cho tới cá khô. Vào

những năm bao cấp, lúa gạo thiếu nhiều nhưng cá đồng thì huyện Tánh Linh không thiếu. Người dân cứ ăn khoai mì, khoai lang với cá đồng mà vẫn tồn tại cho tới ngày đất nước đổi mới. Khi cuộc sống đã no đủ, đường sá đã thông thương, cá đồng ở hồ Biển lạc và sông La Ngà được vận chuyển đi bán tứ tán ở các huyện, tỉnh bạn. Những chuyện vừa kể bây giờ đã trở thành xưa cũ rồi.

Anh Hoàng Liên Hệ, có nhà ở thôn Một, xã Gia An trước đây anh chuyên làm nghề đánh cá. Anh đánh cá bằng một loại lưới mà người địa phương gọi là lưới rùng. Lưới rùng có chiều dài khoảng 200 mét, rộng 3 mét. Lưới được giăng ra giữa hồ, sau đó có 4 người kéo vào bờ. Anh cho tôi biết, lưới rùng chỉ đánh cá trong mùa khô. Trước năm 2000, mỗi ngày thu được khoảng 200 kg cá các loại (cá nhỏ không bắt), trong đó có chừng 30 kg cá lóc – loại cá có giá bán cao hơn các loại cá khác. Sau khi trừ tiền công thuê người và chi phí khác, cứ 4 ngày nhà anh sắm được 1 chỉ vàng. Anh Hệ cùng tôi đi bộ ven hồ Biển Lạc, mắt anh nhìn xa xăm về giữa lòng hồ, anh tâm sự: “Tôi rất mê nghề đánh cá đồng, nhưng bây giờ đành phải nghỉ bởi vì có cá đâu mà đánh”. Hiện nay gia đình anh Hệ sống bằng nghề chăn nuôi heo, gà trong nhà.

Tôi hỏi nhiều thanh niên choai choai ở Gia An là có nhớ về loại rớ bà không? tất cả đều lắc đầu. Nhiều bức tranh tả về làng quê Việt Nam luôn có hình ảnh cái rớ bắt cá bên bờ cao. Riêng loại rớ bà thì lớn hơn cái rớ trong tranh rất nhiều. Rớ bà hình vuông mỗi cạnh

Page 65: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 65

từ 7 đến 10 mét – tuỳ nơi mà chọn loại rớ thích hợp. Bốn góc rớ được căng đều bằng 4 cây tre gai. Chủ rớ làm một cái chòi bên bờ sông La Ngà, khoảng chừng 10 đến 15 phút thì cất rớ một lần. Do ở dưới đáy rớ có treo một cái đạy, mỗi lần cất rớ, những con cá nằm trong rớ sẽ tự lọt xuống đạy, nên chủ rớ không phải mất công mỗi lần kéo rớ phải chèo ghe ra bắt cá. Rớ bà trông rất to nhưng do kỹ thuật lắp đặt tốt, nên mỗi lần kéo rớ không đòi hỏi cần người mạnh khoẻ cho lắm. Chính vì vậy mà rớ bà luôn được một người đàn bà, con gái cất rớ vào ban ngày, người đàn ông chủ nhà chỉ ở lại chòi rớ để kéo vào ban đêm. Tôi đã từng thấy có người cất được một con cá leo nặng tới 18 kg. Những loại cá to như vậy luôn được bán cho người chuyên buôn cá chở vô Sài Gòn bán lại. Vào thập niên 90, trên sông La Ngà được đặt rất nhiều rớ bà. Bây giờ ở những khúc sông đó chẳng còn thấy một cái rớ bà. Tất cả đã trở thành hoài niệm, lòng tôi chạnh buồn!

Đến chợ Gia An, đi một vòng đến khu vực bán cá. Tôi thấy ở đây bán nhiều loại cá biển hơn cá đồng. Hỏi một chị đang ngồi bán một mớ cá thác lác. Mỗi con cá to chừng hai ngón tay khép lại, tôi ước mỗi con nặng chừng 20 đến 30 gam. Chị bán cá mời tôi mua và ra giá là 30 ngàn đồng cho mỗi kg. Tôi chê đắt! Chị bán cá nói là cá đồng do chồng chị mới đánh ngoài sông La Ngà, chứ không phải cá nuôi đâu mà chê đắt. Tôi hỏi tại sao lại bắt cá nhỏ như vậy. Chị ta trả lời

là sông La Ngà hết cá to, nên đành phải bắt cá nhỏ, nếu chê không bắt thì đói.

Ngồi kế bên chị bán cá thác lác là một chị bán nhiều loại cá hơn, gồm cá lóc, cá trê, cá diêu hồng. Nhìn con cá nào trông cũng to, đẹp. Chị nói gía bán 40 ngàn cho một kg cá lóc. Chị ta nói thêm là cá nuôi ở sông La Ngà thuộc huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai được chị mua về để bán, nên giá có nới hơn người mua đi, bán lại. Thì ra vậy, ở một nơi nỗi tiếng nhiều cá đồng, bây giờ phải đi nhập cá từ nơi khác về bán.

Đến thăm anh Đoàn Văn Sỏi, nhà anh treo nhiều bằng khen của UBND tỉnh Bình Thuận do đạt thành tích nông dân sản xuất giỏi. Nhà anh Hai Sỏi ở sát mép hồ Biển Lạc, nên việc đánh cá ở hồ Biển Lạc đối với gia đình anh là quá thuận lợi. Chị vợ anh cho biết, do “Biển” ít cá nên gia đình chị không theo nghề đánh cá nữa. Hiện gia đình chị có 4 mẫu cao su đã thu hoạch. Trong vụ, mỗi ngày thu từ cao su được 600 đến 700 ngàn đồng. Vào những tháng mùa nắng, cao su nghỉ thu hoạch nên anh, chị phải tìm thêm thu nhập bằng cách nuôi cá đồng. Với diện tích ao nuôi khoảng 5 sào ngay trong vườn nhà, mỗi năm thu hoạch được từ 5 đến 6 tấn cá gồm cá chép, cá điêu hồng, rô phi. Nhờ chủ động, nên cá của chị thường được thu hoạch để bán trong dịp tết Nguyên đán, trừ chi phí mỗi vụ cá lãi khoảng 40 triệu đồng. Chị Hai Sỏi tâm sự: “ Chị không hiểu nỗi, tại vì sao mà một nơi quá thuận lợi để nuôi cá mà phải mua cá nơi khác về bán”.

Hiện nay trên hồ Biển Lạc có hơn 20 hộ nuôi cá bè,chủ yếu là cá bống tượng – một loại cá để xuất khẩu, nhưng không hiểu sao cá lại bệnh chết quá nhiều. Nhiều chủ nuôi cá trắng tay. Có người nói là cá chết do nước bị ô nhiễm, có người nói không phải! Có người nói là sắp tới cơ quan khuyến ngư của tỉnh sẽ về hướng dẫn bà con Gia An nuôi cá thác lác, cá lăng để thay cho cá bống tượng. Hãy chờ xem.

Phiên chợ Gia An đầu năm Canh dần

Page 66: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 66

Tiếp xúc với những người sống lâu năm ở xã Gia An, họ khẳng định: “ Gia An hết cá đồng là do con người chứ không do cái gì hết!” Chắc là nhận định đó cũng không sai. Điều chắc chắn là kỹ thuật đánh bắt cá bây giờ có phần “cao” hơn thế hệ trước đây. Lưới bắt cá được giăng như ma trận, con cá chỉ biết đường chui vào lưới, chứ không tìm được lối ra, chính vì vậy từ cá lớn đến cá bé đều bị tận diệt không thương tiếc. Bên cạnh đó các loại thuốc trừ sâu cũng góp phần không nhỏ trong việc tiêu diệt nguồn cá

đồng không chỉ ở hồ Biển Lạc mà cả nhiều nơi trong huyện Tánh Linh.

Tôi ra về mà trong đầu cứ văng vẳng lời của cô em gái “Em biết anh thích ăn cá trê nướng kho lá gừng, em đi chợ tìm mãi mà mua không có!”. Đã đến một nơi nổi tiếng có nhiều cá đồng mà lại thèm ăn một bữa cá đồng!

Trần Duệ Báo Bình Thuận thứ bảy xuân 2010

Tiểu phẩm

Họ tự nhận là ‘hai con khỉ

già’, bởi vì nụ cười của họ bây giờ cũng xệch xạc, méo mó lắm, nhất là mỗi lần cãi nhau, nhìn lại càng chẳng giống ai, cứ vênh vênh váo váo mà lại lườm lườm nguýt nguýt trông đáng ghét tệ. Nhưng mà đó là chuyện của họ, chẳng là của ai trên cõi đời này, nếu ai có trùng hợp mà nhận là vợ của mình thì cũng mặc thiên hạ.

Ðúng ra họ đã hay chí chóe từ hồi còn trẻ, y như hai con khỉ non. Lúc mới yêu nhau họ cũng hay giận hờn, nhưng những thứ giận hờn thuở đó chỉ bừng lên như lửa rơm, làm họ càng nhớ tới nhau nhiều hơn khi xa cách.

Trước khi quyết định đi tới hôn nhân, họ đã về vấn đề và xin phép cha mẹ đôi bên so tuổi như bao nhiêu cặp vợ chồng khác. Lão thầy bói đeo đôi kính đen, gật gù bấm bấm đốt tay, sau một lúc lẩm nhẩm tính toán, nghe loáng thoáng câu gì “thìn, tuất, sửu, mùi tứ hành xung, tý ngọ mẹo dậu ở với nhau không nát một chiếu”. Nhưng may quá hai người không nằm trong nhóm tuổi ấy, cuối cùng thì thầy cùng nói một câu ba phải: “Nữ mạng hỏa, nam mạng thổ, thổ sanh hỏa, tương sanh, tuy không giàu có, nhưng sống với nhau trăm năm đầu bạc”.

Thôi thế cũng được, bà già đứng dậy xuýt xoa cám ơn

thầy, dẫu có khắc khẩu chút đỉnh mà cứ bạc đầu răng long, dẫu cãi nhau hoài hoài thì cũng xem là hạp tuổi, không lo một đứa rửa chân về chầu Giời sớm. Mạng tích lịch hỏa chỉ là lửa sấm sét, nó gầm thét lên như chớp nhoáng là nguội ngay, còn thổ ngự sơn thì tuy không điền sản, dinh cơ, nhưng thanh cao chót vót đỉnh núi, sấm chớp không hề hấn gì. Sợ nhất là cái mạng mộc gặp hỏa, hay hỏa gặp thủy thì coi chừng hai đứa, đứa chết đứa bị thương. Xem thế cũng chưa chắc đúng, và thời ấy là thời chiến tranh, có nhiều người xem rất hạp tuổi mà vẫn gãy gánh giữa đường. Những lúc ấy, hai người đang yêu nhau lắm, dẫu có phải

Page 67: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 67

nhảy vào lửa để chết cho tình yêu họ vẫn chết, cho nên việc đưa nhau đi xem tuổi chỉ là để các cụ ở nhà yên chí mà thôi.

Thời gian cứ như thế vùn vụt trôi đi, mới ngày nào mà nay đã hơn ba mươi năm đầu gối tay ấp. Hôm lũ con đề nghị những ngày “hấp hôn” cho cha mẹ, ông đã nửa đùa nửa thật nói với lũ nhỏ:

“Thôi, đừng phú quí sinh lễ nghĩa, tao với mẹ mày ngày nào cũng như ngày tân hôn, cần gì tổ chức cho rậm đám. Ðứa nào thương cha mẹ, cứ

cho tí tiền đi du lịch trăng mật tuổi già, chứ ăn thì đã không dám ăn, mặc đẹp cũng chả ai nhìn”.

Ðúng thế, với tuổi này ông nghỉ như vậy là thực tế, tiết kiệm được tiền cho con cái, mà lại không ngại thiên hạ xì xèo. Vợ chồng ông sống theo lối Việt Nam, hôm ngày Valentine, ông đi làm về,

nghe thiên hạ ra rả chuyện tặng nhau đóa hoa Tình Yêu, lại thấy chú Mỹ đen đứng bán hoa ở ngã tư đường, ông bèn hào sảng mua tặng bà một đóa hồng nhung đỏ. Hí hửng lái xe, ông đậu xe rồi đem đóa hoa vào bếp. Thấy bà đầu bù tóc rối đang nấu cơm, ông vui vẻ đưa cho vợ, chưa kịp nói câu gì hay ho để lấy điểm với bà, thì bà đã nhăn nhó lên như khỉ:

“Làm trò khỉ gì thế, hoa với chả hoét. Sao không mua cho tôi bó rau muống xào thịt bò ăn cơm có phải ngon không?”

Ông cụt hứng, ngẫm nghĩ, rõ chán phèo cho cái con khỉ già, làm như cuộc đời chưa hề biết tới chữ “romantic” bao giờ cả. Nhưng nhìn mặt mũi vợ đỏ gay khi đứng bên bếp lửa, đang làm bữa cơm chiều cho cả nhà, ông lại nghĩ thương vợ: “Ừ phải đấy, cứ rửa cho bà ấy đống bát đĩa bẩn mà bằng trăm đóa

hoa hồng phỉ gió kia”. Thế là ông xắn tay áo lên để rửa bát, nhưng bình thường đã mấy khi ông đụng đến công việc bếp núc của vợ. Ông lúng túng rồi tuộc tay làm vỡ cái ly, thế là bà tru tréo lên:

“Thôi ông cụ ơi, hễ ông mó vào đâu là đổ vỡ đến đó. Cứ để tôi, chẳng cần ông phải làm.”

Ông lắc đầu bỏ ra ngoài vườn, thôi đi tưới cây vậy. Nhác nhìn thấy mấy cây mướp đắng bà trồng hôm nay đã leo lên hết chiếc cột gỗ bên vệ rào, ông nghĩ ngay đến chuyện làm cho bà cái giàn.

Nghĩ là làm, ông hí hoáy lấy thang, rồi dùng những thanh gỗ mỏng để bắc giàn, nhưng chưa gì ông đã thấy bà đứng lù lù sau lưng. Tưởng bà khen, ai ngờ bạ lại la hoảng lên:

“Tôi lạy ông, ông chẳng làm gì cho nên thân cả. Lỡ gãy chân, nằm một chỗ là chết cái thân già này.”

Ông tự ái: “Bà cứ hay ồn ào, không ngã mà cứ nghe bà la hoảng cũng đủ giật mình ngã gãy cổ. Ðàn bà có thứ đâu ăn nói cứ toang toác lên.”

Bà đâu có toang toác, bà lo cho ông đấy chứ, nhưng hai chữ “toang tóac” làm bà ấm ách, mặt sưng lên lên trông hệt như con khỉ già. Tuy thế, ông cũng vác cái thang cất vào nhà kho, rồi vào nhà

Page 68: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 68

cơm, trên chiếc kệ gỗ, đã thấy hoa hồng đỏ ông mua tặng bà được cắm vào chiếc bình thuỷ tinh. Ông tủm tỉm cười, đàn bà họ nói vậy mà không phải vậy, đóa hoa hồng bây giờ đã tươi lên vì có nước.

Cũng không phải lúc nào họ cũng cãi nhau, và cũng không phải lúc nào ông với bà lại không có những giây phút êm đềm bên nhau khi lũ con đi vắng cả. Những câu chuyện họ trao đổi, nghe không ngọt ngào như hồi đôi mươi, nhưng đầy những lo lắng và băn khoăn cho nhau về sức khỏe cũng như chuyện trong nhà, ngoài phố. Ông hay nhắc bà cần phải uống thêm thuốc bổ mỗi ngày, còn bà thì lo lắng cái chân của ông dạo này đi đứng có phần thiếu ngay ngắn. Nhưng phiền nhất là mỗi lúc lái xe có bà bên cạnh lái phụ, nhắc nhở từng chi tiết khi cái kim đồng hồ nhích lên nhích xuống, bởi vì bà không lái xe mà lái tài xế. Cái này thực khổ cho ông, khi mắt phải chăm chú nhìn kính trước kính sau, miệng bà thì ong óng nhắc nhở chạy nhanh chạy chậm, khiến đầu ông cử hoảng lên suýt tông vào xe người khác. Ông quát vợ: “Có câm cái mồm đi không? Ði với bà có ngày chết mất ngáp. ‘Pô Lít” tôi không sợ mà sợ cái miệng bà’.

Bà im một tí rồi lại lên mày: “Ðã lái dở mà lại cứ chạy len giữa, lỡ muốn ‘ếch xít’ thì sao?

Ông hầm hừ: “Ðường nó nằm trong đầu tôi, lái len trong lỡ trượt bánh xe là đi vào thành xi măng, cũng giập đầu mà chết.”

Họ cứ cãi nhau lọan xạ như thế, nhất là khi ông mắt mũi kèm nhèm, không nhìn rõ bảng tên đường, định quẹo phải mà một thằng Mỹ đen đã lù lù chặn ngay bên cạnh. Thế là ‘sảy một ly đi một dặm’. Họ đã có nhiều kinh nghiệm những lần đi lộn đường như vậy, rồi loanh quanh mãi tìm không ra lối về, đi lạc vào những khu lạ hoắc, chỉ mới hoàng hôn mà nghe như đã tối om vì nỗi sự dâng ngập lòng.

Bà còn sơ nhất là tính nóng nảy của ông, khi bị một cái xe đằng sau cứ bóp còi ‘tin tin’ thúc hối, bởi ông bận nghĩ đâu đâu mà đèn xanh nhấp nháy vẫn chưa chịu chạy. Rồi khi nó vượt qua mặt ông, bèn giơ ngón tay giữa ra để chọc tức. Mỗi ngón tay là một biểu tượng của ngôn ngữ, có xấu có tốt, nhưng ở trường hợp này thì

bà phải can ông đừng bắt chước kiểu trả lời thiếu văn hóa như thế, nhất là lỡ gặp phải thằng có súng, thôi thì ‘một câu nhịn chín câu lành’ vậy. Hồi ông mới qua Mỹ, chả hiểu ‘mô tê’ gì về ngôn ngữ ngón tay như vậy, lông ngông tìm đường đi thì đã thấy một cái đầu ở xe bên kia thò ra, giơ một ngón tay lên, ông còn lại mĩm cười nói ‘thank you’ người bạn Mỹ tốt bụng, về nhà cứ thắt thỏm sao nó biết mình đang đi tìm đường để chỉ.

Mỗi lần có dịp đi đâu với ông, phải lái trên ‘freeway’, xe cộ lạng lách như điên khiến ông xoay trở đến nhức đầu, mồm luôn luôn rủa ‘đồ khốn nạn’ bà lại bật cười. Hôm ấy trong lòng ông đời đầy những thằng khốn nạn, chúng nó đi đâu mà như ăn cướp, xã hội này khó mà có hòa bình khi con người cứ sùng sục lên như vậy. Nghĩ cho cùng thì chả bao giờ hết chiến tranh, từ triệu năm trước tới ngàn năm sau, con người cứ sống rồi chết, chiến tranh rồi lại hòa bình, kẻ đi

Page 69: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 69

vào lòng đất người lại tiếp tục sinh ra. Gọi là nhân loại còn khổ, vì lòng người cứ sùng sục lên như nồi nước sôi.

Hôm nay ông bà lại cãi nhau. Mặt bà sưng lên còn ông thì lừ lừ không nói năng. Họ đang cằn nhằn nhau, hay là chỉ có bà hay cằn nhằn mà thôi. Bà nói dai như đĩa, mà lạ thật, bà chỉ hay dai dẳng với ông chứ với người ngoài bà ngọt sớt, chiến tranh chỉ xảy ra giữa hai vợ chồng già còn khi ra ngoài bà hay đem hai chữ ‘bình an’ để tặng riêng cho thiên hạ. Thế có tức không chứ. Chuyện thì đâu có gì ghê gớm, vợ chồng thằng con trai dẫn đứa cháu nội đi đâu từ sáng sớm, chúng nó quên cả ngày kỵ của ông cố, mãi tới giờ này vẫn chưa dẫn cháu về ăn giỗ.

Ông bảo bà: “Muốn gì phải nói. Thời buổi này bận bù đầu bù cổ, chúng nó làm sao nhớ được ngày gì ngoài ngày thứ bảy với ngày chúa nhật”.

Bà chua chát: “Nhưng ít ra

thấy tôi sửa soạn bàn thờ, nói xa nói gần thì cũng phải biết để cháu ở nhà đốt nhang cho ông bà chứ. Có thứ đâu lại cắp đít đi hết như vậy.

Ông chép miệng: “Ôi giào! Không có chúng nó thì tôi với bà cứ bày ra cúng rồi cùng xơi với nhau, càng ít người càng được ăn nhiều.”

Nhìn căn nhà vắng vẻ, nấu nướng bày biện xong đã mệt ngất như mà con cháu chưa đứa nào về, đâm tủi thân: “Mai mốt tôi với ông chết đi chắc chẳng có ai đốt cho nén nhang, cứ thời buổi này thì chẳng giỗ chạp làm gì cho mất công.

Ông gật gù: “Ừ, mà cũng chẳng cần phải chôn cất nữa cho chật đất. Tôi có chết cứ thiêu xong rồi đem tro đổ xuống biển, nhà thờ cho chúng nó một năm đôi lần thăm viếng. Nằm dưới ấy lại mát. Còn không thì đem lên núi, trãi ra làm phân bón cho cây cỏ, không ích lợi hơn à?

Nghe ông bình thản nói vui

vẻ mà vẫn cứ ngậm ngùi. Mâm cúng đã dọn lên, mùi trầm nhang nghi ngút. Bà đốt ba nén nhang cắm vào bát nhang trên bàn thờ, miệng lâm râm khấn vái:

“Lạy các cụ, hôm nay ngày giỗ ông, mời các cụ về xơi bữa cơm với con cháu. Các cháu bất hiếu cụ bỏ lỗi cho, thời buổi này chẳng giống hồi xưa, các cụ ‘sống khỏe chết thiêng’ về phù hộ cho cả nhà an vui, khỏe mạnh, gia đạo trong ấm ngòai êm...’

Nghe bà khấn, ông vốn hay pha trò buột miệng: “Các cụ có phù hộ thì cứ phù hộ, còn việc hiện về xin miễn cho kẻo con cháu nó sợ.’

Ðang buồn trong bụng, thế là bà quay sang vặc lên với ông: “Ăn nói rõ là lăng nhăng, ông đừng đùa với người khuất bóng mà mang tội, các cụ nghe được cả, đâu phải chỗ để ông đùa, bố thế hèn gì con cũng vậy. Tôi nói cho ông biết, lát nữa dẫn nhau về đây tôi cho một trận...”

Ông nhăn mặt: “Thôi xin can bà, bà chửi chúng nó các cụ cũng nghe, lần sau hoảng không dám về ăn giỗ nữa. Ai lại mời các cụ về ăn giỗ, cầu vui cầu khỏe, mà gia chủ mặt mũi nhăn nhó như con khỉ già, tôi mà là cụ tôi cũng ‘đấm’ vào. Bà cứ để tôi dạy chúng cho, ‘ngọt mật mới chết ruồi’ chứ nhấm nhẳng chỉ làm nó ghét mình hơn”.

Page 70: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 70

Bà ngang nghạnh trả miếng, bởi vì có mấy khi bà chịu thua ông: “Không phải ngọt với ai cả, nó là con chứ không phải bố mình, nói nặng còn chẳng nghe ra, chứ nhẹ đã ăn thua gì.”

Thế là bữa cơm nấu nướng công phu đầy những món ngon bỗng lạnh ngắt vì chẳng ai muốn ăn. Ông bực mình nghĩ tới thằng con trai vô tâm không biết đến ngày giỗ ông bà mà bảo vợ ở nhà giúp mẹ chồng. Chúng nó đi đâu mà quên cả đường về, bọn trẻ bây giờ đều vô tâm thế cả, nếu cha mẹ mà không có lòng tha thứ và thông cảm, thì chắc chắn sẽ buồn giận suốt đời. Hóa cho nên hồi vợ chồng chúng nó mới lấy nhau, ông đã nghĩ đến chuyện ở riêng để ai có tự do của người đó. Nhưng riêng thì riêng, nề nếp gia đình vẫn phải giữ. Ông mặc quần áo rồi bảo vợ: “Tôi đi đằng này một chút”.

Bà đang ngồi buồn rầu nhìn mâm cơm: “Ði đâu? Cơm canh dọn sẵn rồi cũng bỏ đi, đúng là ‘bố nào con nấy’.

Ông bực mình quát: “Bà

biết tôi đi đâu mà đã toang toác lên. Tôi đi tìm chúng nó về để bà chửi, chứ ăn uống thế này ngon lành gì mà ăn.

Tự nhiên giọng bà dịu xuống, ứa nước mắt: “Thôi ông ạ. Hai đứa kia đi học xa, chỉ còn chúng nó ở với mình, khó lắm chỉ sinh tội ra.

Thấy bà nói, ông bật cười, cái tính bà thì ông không lạ, chỉ chớp lên như lửa trời nhưng rồi lại tắt đi ngay, lão thầy bói chả nói thế là gì. Ông nhìn vợ pha trò: “Trông mặt bà cứ y như ‘con khỉ già’ trong sở thú.

Bà cũng nguýt yêu ông: “Ngó ông cười thì khỉ cũng đẹp hơn. Răng cỏ chưa gì đã ‘sút càng gẫy gọng’ cả ra.

Hai vợ chồng già giống như ‘hai con khỉ’ ngồi bắt chấy cho nhau. Họ cãi nhau luôn luôn để rồi vẫn thương nhau như thế đấy, ai có cười thì hở mười cái răng. Mỗi lần ông đi làm về thấy vắng bóng bà, ông bổ đi tìm, thấy bà nằm đắp chăn kín mít, vội sờ vào chân vợ thấy lạnh ngắt, ông hối hả đi lấy dầu bóp chân cho bà. Còn hễ ông đi về muộn, bà đi ra đi vào mắt không ngừng ngó cái kim đồng hồ, bụng nghĩ đến trăm thứ bất trắc trên đời. Nhưng hễ nghe tiếng xe ông đậu ở ngoài garage, bà thở phào nhẹ nhỏm, nhưng rất bực mình vì cái ‘con khỉ già’ về muộn mà không nói qua cho bà biết, lúc ấy mặt bà nặng chịch y hệt một con khỉ. Không biết ai là khỉ, nhưng

họ cứ nghĩ tới nhau bằng cái tình đầy âu yếm mà chẳng cần ai phải hiểu.

Bỗng ông đứng bật dậy khi nghe tiếng máy xe nổ ngoài sân, vợ chồng thằng con đã dẫn cháu về, thằng bé lên năm mặt mũi xinh xắn, chạy ào ào vào ôm lấy ông nội nói bi bô: “Thưa ông nội cháu mới về”

Thằng cháu nói còn đã đớt, mặt mũi nó hồng lên như hai quả đào. Ông ôm cháu và lòng âu yếm hỏi: “Cháu ông đi đâu mà lâu thế? Hôm nay giỗ cụ không về sớm mà ăn giỗ.”

Bây giờ anh con trai mới lên tiếng: “Chúng con cho cháu đi sở thú, nhớ ngày giỗ cụ muốn về sớm, nhưng cháu ông không chịu về, cứ đòi xem mãi.”

Ông vuốt tóc cháu, hôn lên đôi má phính: “Thế cháu thấy con gì trong sở thú kể cho ông nghe với.”

“Cháu xem con khỉ con bú mẹ, xem hai con khỉ già cãi nhau.”

Ông bảo cháu: “Tưởng gì, ở nhà mình cũng có hai con khỉ già cãi nhau suốt ngày.”

Bà đang đứng trong nhà nhìn ra, nghe ông nói, lườm ông một cái dài hơn cây số....

Khuyết Danh

Nguồn Everyone

Page 71: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 71

Bàn Tay & niềm tin ở trọ Riêng cho bố Ngày mẹ bay đi theo cánh gió chim sâu nhỏ nhoi khóc âm thanh xé vụn chòm mây cha bảo: nín đi con vẫn còn bờ vai cha để trở về Mặt trời mặt trời những phiên bản mồ hôi tiếng kêu cánh đồng thất bát ruộng hạn hốc mắt cha ai điếu rạ vàng trưa nhẫn tâm nắng quái như tã rách đôi tay cứng thõng thượt ngày Và bài học đầu tiên những bài học chưa phải cuối cùng những ngón thô ráp cha điểm hóa con ngu mê những nhánh xương rồng nhu nhú gai mọc thành hoa trái tim cha ngồi đằng sau tay lái bánh xe con những que diêm cháy ký thác một đời Giữa cõi hỗn mang của thực dụng thế giới con có thể thiếu những người tình để rong chơi thiếu những đêm mật ngọt công viên phố góc cà phê khúc luân vũ dịu dàng không thể vắng hơi ấm bàn tay cha cửa sẽ đóng lại với thanh âm của thương yêu và con nhặt nhọc nhằn năm tháng cha cài lên ngực niềm tin để ở trọ… Quỳnh Dao

Quạnh quẽ Những vì sao ngập ngừng... e thẹn lúc tỏ lúc mờ lúc đột nhiên... biến mất! Sài Gòn những dòng sông đêm vàng võ ánh đèn đường những dòng sông giao nhau những cuộc đời giao nhau Công viên những cặp tình nhân mềm nhũn chảy xuống... im lìm những chuyến bay đêm lay động màn đêm ta và em những vì sao cô độc những con đường bắt đầu từ đâu đó lệch góc... vô biên... nhữnng dòng sông vẫn trôi ngàn đời... cách biệt thôi thì... hẹn nhau ngày về biển cả. Ngô Hữu Đoàn

Page 72: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 72

Hoa xương rồng Xoè tay trải nắng dầm sương Lá xanh cuộn nỗi vô thường vào gai Qua bao tháng rộng năm dài Hoa xương rồng nở trang đài Vậy thôi. Trần Linh Khoa 21.07.09 Thơ tình trên đỉnh Bà Nà Bà Nà sương trắng mịt mờ Mây lừng lững chạm Khói lờ đờ tan Chuông vang Nhuộm nắng thu vàng Áo dài em tím nhuộm hoàng hôn xa … Lơ ngơ Lên đỉnh Bà Nà Viếng Bà … Không phải Vẫn là tìm em! 2009 Thanh Trắc Nguyễn Văn

Em đến Em đến để hồn khô biết khát Như người lỡ bước giữa miền sa Ô kìa! ốc đảo trong lành quá Ai có cho ta giọt thật thà. Thái Thanh Nguyên 1978 Lối về em đi Bảo Lộc mưa chiều giăng kín nẻo Lối về hoa ngập tiễn em đi… Lần theo ngõ dốc vân vi Qua làn hương nhặt chút gì vấn vương Rừng hoang buông khúc nghê thường Tàn trong dư ảnh khói sương đọa đày. Cô Phong Quảng Trị 2008 Đoản khúc mùa Đoạn 14, thi phẩm Bốn chiều mây bay Khi ngọn gió siêu hình Lật cánh hoa vàng nở trong bóng tối Chúng ta tung lên trời nắm thóc vừa sau mùa gặt Cho những đàn chim còn trú ở xa khơi. Một chút từ bi một chút tình thương Như màu nắng sáng mai vườn nhà tôi nhà bạn Như ở cuối những đồi cao sỏi đá Mưa đã đem về sắc tím những chồi mua. Phổ Tuệ

Page 73: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 73

Thiền để tri kiến dòng chảy thế sự, nói

cách khác: mượn thiền hầu phản chiếu phong ba (thơ Thái Thanh Nguyên).

Phản chiếu bằng tấm gương ngôn ngữ, song không phải tấm gương soi nào cũng phản chiếu được phong ba? Vậy lời chữ nào thuộc tính của thiền? Tìm thuộc tính thiền trong ngôn ngữ, cần biết cấu trúc sâu xa ngôn ngữ.

Tinh thần lẫn vật chất cũng là bản chất của ngôn ngữ?!

Ấy là kết luận của nhiều nhà ngôn ngữ học tầm cỡ thế giới; triết luận biện chứng vào

giữa thế kỷ trước. Nếu chỉ nói đên vậy, chưa đủ để khám phá về chữ, nhất là lời chữ của thơ, lời chữ đi qua chiếc cầu tâm linh, chứ không phải lời chữ giao tiếp hằng ngày. Không thể biết đầy đủ về thơ nếu không suy đến cùng về lời chữ.

Giới hạn trong phạm vi cộng đồng cùng một ngôn ngữ, thì phần vỏ vật chất của chữ quyết định được lời chữ. Người Việt khi đọc từ “ Nhà” đều hiểu được ý niệm của nó, cũng như người Anh điều cùng một ý niệm về chữ “ House”. Khác biệt giữa vỏ của ngôn ngữ và ý niệm của nó tuỳ theo môi trường tồn tại của lời chữ mà chúng minh mối liên hệ khác nhau. Lời chữ trong thông tin, trong giao tiếp thì ý niệm và vỏ ngôn ngữ là một. Thơ là lời chữ đã đi qua vực thẳm, vược qua được chiếc cầu tâm linh, nên nó không chỉ là ý niệm (notion) mà còn là khái niệm ( con-ception).

Ở đây không nên hoàn toàn phân biệt theo ý nghĩa của triết gia Kant, tạm hiểu ý niệm là sự nhận thức trước, thừa nhận tiên thiên và phổ quát, còn khái niệm có thể được đưa ra cho một người hoặc nhóm người có cùng ký ức và kinh nghiệm.

Lời chữ của thơ được cấu tạo bằng khái niệm nhiều hơn là ý niệm, thậm chí không còn chút ý niệm nào như lời chữ: Lá Diêu Bông (thơ Hoàng Cầm); Nghĩa Trang Biển (Paul Valery), v.v… Yves Bonnefoy nói rất hay về lời chữ thơ: “Những từ tỏ rõ hư vô của ta, mở ra một vực thẳm dưới chân ta, nhưng cũng đề xuất cho ta một chốn ở”. Chốn ấy chính là tài sản của thi sĩ, là một thực thể của tâm linh đượcsáng tạo từ chủ thể (thi sĩ) đến đối vật. những người làm thơ thường bế tắc và chỉ gặp dược vực thẳm không chạm được bên kia, không tìm thấy chốn ở.

Thi sĩ phải hướng dẫn lời chữ đi qua chiếc cầu tâm linh như phù thuỷ điều khiển âm binh. Muốn điều khiễn thành công phải nắm rõ yêu tính của chiếc cầu tâm linh ấy. Chiếc cầu chỉ xuất hiện rồi tan biến, lại có thể xuất

Page 74: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 74

hiện nhanh như những tia chớp, chính xác hơn tan và hợp như nhưng hạt hạ nguyên tử trong vũ trụ… chiếc cầu tâm linh là một thực thể hoà nhập, giữa vật chất và phản vật chất, giữa thô mộc và tinh anh, giữa tự nó (l’en soi) và cho ta (pour moi)…

Thi sĩ là một con người, mỗi thân xác điều có một phản thân xác (phản vật chất), chúng tương tác lẫn nhau để tạo ra vương quốc tâm linh. Thi sĩ cách biệt với người có nghề nghiệp khác ở chổ phản thân xác thi sĩ có cường độ tương tác lớn hơn gấp bội.

Ý thức của thi sĩ lúc tập trung hoạt động sẽ được phản ý thức hổ trợ tối đa, do đó sự sáng tạo của thi si không chỉ thuộc lĩnh vực ý thức (ý thức, tiềm thức, vô thức) mà còn lĩnh vực đối tác của thức, sinh ra từ thế giới phản vật chất. Vì thế có những câu thơ làm rung động lòng người, dù không hiểu được bằng lý trí (Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ).

Lời chữ trong thơ luôn là bước nhảy vọt trong tiến trình ngôn ngữ, là những đột biến độc đáo của một loài hoa, của sinh vật làm phong phú hành tinh, cao hơn nữa là một vụ va chạm hạt giữa hư không để khơi nguồn vũ trụ...

Có ngộ nhận đáng trách, cho rằng thơ cũng phản ánh như mọi lĩnh vực của hình thái ý thức, có thể tạm chấp nhận phản ánh, nhưng không thể nói chữ phản ánh mặt dễ thấy, mặt thô sơ của tri kiến. ngay trong khoa học thực nghiệm, không thể chỉ phản ánh ánh sáng đi theo đường thẳng vì nó còn là hạt, là sóng... hoặc vật chất nhỏ nhất không phải là một hạt, cô đặc, bất biến... như quan niệm của thế kỷ 19 trở về trước. thơ còn nhìn thấy phía trong của dòng năng lượng nhảy múa không ngừng, dòng tâm linh trôi qua lại bất tận như dòng máu của sinh linh.

Thi sĩ là người tiêm thẳng vào tuỷ sống của mình những chữ để được sản sinh ra hồng cầu thơ.

Những người làm thơ không có tố chất thi sĩ, không có tố chất sáng tạo sẽ đưa ra lời chữ sao chép, lắp ghép bất thành, chỉ là những dòng mô tả, trình báo, minh hoạ... không hơn một chiếc thùng rỗng không. Mỗi từ thơ dù đơn âm, nó vẫn vác nặng trọn bài thơ và mỗi bài thơ đều có thuộc tính của từng chữ. Bất kỳ một từ, chữ nào trong một bài thơ cực hay đêu cưu mang vĩnh hằng, ngược lại chính bài thơ cực hay ấy lại rất hư không như thuở lập địa khai thiên.

Như vậy, lời chữ thơ có thuộc tính thiền vì mỗi từ thơ vừa vĩnh hằng, vừa hư không, mỗi từ là một lượng tử. thiền ở đây, được hiểu như một phương pháp tiếp cận, cách chiêm nghiệm đối vật bằng tâm linh vừa thấy, vừa biết bằng trực cảm, không phải hiểu biết bằng khoa học thực nghiệm. Càng dứt khoát không phải dự tính và suy luận theo chủ nghĩa duy lý. Vì thế sự ở cường độ phong ba không ai có thể dự đoán phân chia và tạo ra lập lại như sản xuất một món hàng.

Thi sĩ không sợ phong ba vì đời là một dòng chảy mà thi sĩ tan trong đó.

Triệu Từ Truyền

Page 75: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 75

Dấu xưa sau Thơ thẩn vườn hoa bóng nguyệt tàn Đông gầy sương lạnh gió mùa sang Ra đi nhặt lá đường nhân quả Trở lại kết vòng hương ngọc lan Dấu cũ trôi xa dòng mộng tưởng Ngàn xưa lưu chút nợ nhân gian Ngày mai mây chẳng về ngang núi Em hiểu rằng ta bạt gió ngàn. Lê Phương Châu Mẹo ngôn (lời của mèo) Cung phi chẳng biết mỏng dày eo? Mà bị gán đeo cái vận nghèo! Đuôi cụt ngo ngoe chơi móc nghéo Da thừa liếm láp chống lên meo Lắng nghe chuột món vênh tai méo Vọng tưởng chim mồi cụp mắt nheo Nào ất kỷ đinh tân quý mẽo Ai lười hơn tớ gọi… cha mèo. Hải Lý Anh (Trương Minh Tâm) Làn sóng hoa đào Nhớ Cao Bá Quát Đa cùng tài tử mảnh lòng treo Uống rượu tiêu sầu sầu chẳng tiêu Thất thểu giữa đường thương kẻ đói Tả tơi trong dạ xót dân nghèo Rọi đèn ngắm lại câu thơ viết Tựa gối trông vời lưỡi kiếm treo Làn sóng hoa đào dâng buổi ấy Nghìn sau còn vẳng tiếng quân reo. Trần Ngọc Hưởng

Về hưu Nhận tấm giấy hưu, một tháng giêng Bỗng dưng lòng thấy lạnh quanh viền Bấy qua vui việc cùng bè bạn Nay lại trao thân với xóm giềng Chuyển đổi dòng trần xoay nếp sống Nương qua đò thế mở đường tiên Bướm tình chấp chới vào mây nước Chẳng biết có còn chịu ngửa nghiêng. 16.01.05 Quý Hữu Nàng thơ Tặng Thái Thanh Nguyên Một đóa hồng nhung giữa thế gian Đẹp sao nhất phẩm Thiếu Gia Lang Gươm thanh Kim Đính chưa xung trận Tướng trẻ Cao Quân đã bại đàng Lấp lánh ánh sao trời phố thị Lung linh áng sách chốn khuê trang Ấy ai Xích Bích tài cao vọi Xin hẹn Hồng Môn cạn chén vàng. Lý Thuận Khanh

Page 76: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 76

Vọng Kiều Nước chảy hoa trôi số mệnh Kiều Lỗi tình duyên với đất trời Liêu Chim cành Ngưng Bích thân phiêu dạt Lá gió Tiền Đường phận hẩm hiu Những nấp bóng Từ không vẹn thoát Toan về bến Giác có toàn siêu? Dẫu sao thì cũng trang tài sắc Vọng cố nhân danh Kiều - hỡi Kiều! Bình Nguyên (Trần Tấn Sính) Tàn thu viếng chùa Xua mãi chưa tan nỗi vợi buồn Gió đàn Thu vọng sóng âm chuông Lưng trời thơ thẩn làn mây trắng Nóc tự lượn lờ mạng khói lam Phật tượng tọa thiền tâm bảng lảng Tín đồ mọp gối dạ bâng khuâng Lòng trần vạn mối cầu, xin, sám Bứt lá heo may chẳng ngại ngần. 7.2004 Hoài Nhân (Nguyễn Tiến Nhẫn)

Thơ nhớ Ngất ngây lạc chốn rừng thơ bạn Tầm tã chiều mưa ngắm nước mây Điện thoại nâng hoài bao nhớ dội Vòng tay níu mãi khoảnh thương bay Biết mong khắc khoải ngày tương diện? Hay tưởng xa xôi buổi biệt hài? Khôn ấm phòng đơn phương lẻ mộng Nên đành sầu gối với thơ say. 24.10.05 Triệu Nguyên Phong Hương chiều Nhẹ gót chiều đi gượm bóng tà Lửa tim hồng đượm bước sương pha Qua bao thác loạn thơ cầm lệ Đến mấy thanh bình nhạc ánh hoa Ngước dốc đài vinh hương gió tán Lui vườn cỏ nội lộc mai hòa Hiên tây tiễn nắng nhòa sương tím Cánh hạc mây ngàn lãng đãng xa. Đặng Ái Thi Tầm sư Lên tới trời cao hỏi đó đây Làm thơ phải học mấy nhiêu ngày Đôi câu nghịch vận mây trôi cuốn Mấy chữ xuôi vần nắng hắt bay Chẳng trọn giấc hòe nghe đắng chát Vừa tàn cuộc rượu thấy chua cay Ỡm ờ thiên sự văn chương đảo Nương gió chờ trăng chỉ cái hay ! Nguyễn Thanh Tùng Em đến Duyên dáng hoa phô dưới nguyệt tà Diễm kiều dao động sóng tim ta Long lanh sắc điểm làn băng tuyết Ngào ngạt hương phong vóc ngọc ngà Khơi dậy ước mơ tràn ảo mộng Giục hừng khao khát ngập hoang sa Xiêm y thoắt biến vào mây khói Thầm tiếc mình sao quá thật thà. Trần Thế Vĩnh

Page 77: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 77

Giải khát mùa hè

Mocktail là loại thức uống pha chế đặc biệt hài hòa về hương vị, có tính bổ

dưỡng cao và không gây say gây kích ứng vì mocktail chính là cocktail không rượu hoạc chỉ có ít vang lên màu. Nguyên liện chủ yếu là nước ép trái cây, sữa, kem, sỉ rô, mật ong, trứng… đôi khi kết hợp với nước có ga và rau gia vị.

Phương pháp pha chế mocktail tương tự như như cocktail. Chúng ta cũng

có thể tạo được những ly mocktail tách lớp màu rất đẹp dựa vào các tỉ trọng của các thành phần khi rót trược tiếp chúng vào ly mà không cần sử dụng loại dụng cụ chuyên biệt.

Cinderella (cô bé lọ lem) Nguyên liệu cho 1 ly: - 60ml nước cam - 60ml thơm (dứa) - 15ml nước chanh - 30ml sirô đường - Đá viên Thực hiện: Dùng ly Goblet. Cho tất cả vào bình lắc với đá viên, lắc cho điều hỗn hợp, rót ra ly. Trang trí: Trang trí miệng ly với ¼ lát cam, trái sơri đỏ.

Page 78: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 78

Rose tendre (cánh hồng mong manh) Nguyên liệu cho 1 ly: - 40ml nước lemonade - 40ml sôđa - 3 muỗng cà phê đường (hay 20ml mật ong) - 2 muỗng cà phê nước cốt chanh - 1/2 nước đá viên - 10ml rượu Rhum đỏ (nếu cần)

Thực hiện: Cho nước lemonade, đường, nước cốt chanh vào chung, quậy tan. Cho nước vào ly nước đá, rót sôđa vào (có thể thêm rượu Rhum đỏ lên). Trang trí: Cài lát chanh lên vành ly, đặc ống hút, thìa khuất và đặc đế lót ly. Dùng lạnh. Thiên đường sắc đẹp Nguyên liệu: - 1 trái táo - 1/2 trái chanh - 1 trái dưa leo - 1 củ cà rốt - 1 muỗng canh mật ong - 2 muỗng đường cát - 20ml kem sửa tươi - 10g gừng non - 1/2 ly nước đá viên

Page 79: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 79

Chuẩn bị: - Rửa sạch trái cây và rau củ, để ráo nước. - Dưa leo bỏ đầu, cà rót bỏ vỏ, cắt khối to. - Táo cắt làm bốn miếng, gọt vỏ, bỏ cuống và hạt. - Chanh gọt vỏ the, cắt miếng, bỏ hạt. - Gừng cạo vỏ. Pha chế: Chuyển trái cây và rau củ đã chuẩn bị ở trên vào máy ép lấy nước. Cho đường và mật ong vào nước ép, khuấy tan đường, sau đó làm lạnh bằng bình lắc và nước đá viên. Trình bày: Rót nước ép trái cây vào ly cao chân, thả vài viên đá tinh khiết, đặc ống hút, thìa khuấy. Dùng lạnh. Thức uống này có tác dụng giảm cân, làm đẹp da. Mến chúc Quý bạn có những ngày hè tươi đẹp Thạc sĩ Phan Thị ngọc Tuyết

Page 80: vgd No. 2 - Summer 2010

Tập san VGD * Văn hoá - Giải Trí - Đời sống Số 2 * 7-2010

Trang 80