vĂn hỌc thiẾu nhi - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/81.vanhocthieunhi.docx · web view*...
TRANSCRIPT
VĂN HỌC THIẾU NHIVĂN HỌC THIẾU NHI
Đỗ Thị Thanh Hương
LỜI NÓI ĐẦU
Cuốn sách này được biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu học môn Văn
học trẻ em của các bạn sinh viên trường Cao đẳng sư phạm mẫu giáo TW3
Thành phố Hồ Chí Minh.
Hy vọng cuốn sách sẽ giúp các bạn sinh viên có được cách nhìn khái
quát và tương đối về môn Văn học trẻ em.
Tuy vậy, cuốn sách này chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Tác
giả rất mong các bạn sinh viên và bạn đọc xa, gần quan tâm góp ý, phê bình
để sửa chữa trong lần in sau.
ĐÁNH GIÁ
Chương I. ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌC
Bài 1. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN HỌCTác phẩm văn học là một tổ chức nghệ thuật rất tinh vi, phức tạp bao
gồm nhiều mối liên hệ gắn chặt các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm và các
yếu tố thuộc hình thức tác phẩm thành một thể thống nhất biện chứng, thành
một chỉnh thể nghệ thuật. Như vậy, một tác phẩm thành công hay không là ở
giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của nó. Cho nên phân tích và đánh
giá một tác phẩm văn học chúng ta phải căn cứ vào hai mặt đó, đồng thời
cũng xem tác phẩm có thực hiện được 3 chức năng của văn học hay không?
(nhận thức – giáo dục – thẩm mỹ).
I. NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
Nội dung của tác phẩm bao gồm các yếu tố về đề tài, chủ đề, tư tưởng
v.v…
1. Đề tài:
Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng gặp những người, những
cảnh vật, những sự kiện, hiện tượng cụ thể. Phạm vi khuôn khổ của các hiện
tượng, tâm trạng được nhà văn mô tả, biểu hiện trong tác phẩm được gọi là
đề tài tác phẩm. Giới hạn của phạm vi đề tài có thể được xác định rộng hẹp
khác nhau. Thí dụ: đề tài về loài vật thì có tác phẩm: Chú dê đen, Mèo con đi
tìm bạn, Bác gấu đen và hai chú thỏ, Đàn gà con v.v… Đề tài về đồ vật thì có:
Chiếc cầu mới, Hươu cao cổ, Máy tuốt lúa v.v… Đề tài về trẻ em có: Cô bé
quàng khăn đỏ, Tích Chu, Lên bốn, Bạn mới v.v…
2. Chủ đề:
Thông qua nhân vật, sự kiện cảnh ngộ toát lên vấn đề nội dung đó là
chủ đề. Thí dụ: khi phản ánh hiện thực cuộc sống qua truyện Chú dê đen, tác
giả hướng tới phản ánh một phạm vi xác định của đời sống, các quan hệ xã
hội cụ thể hơn là quan hệ giữa con người với kẻ thù và nêu lên một phương
diện chính: thái độ của con người trước kẻ thù và kết quả của thái độ ấy.
3. Tư tưởng:
Là một nhân tố quan trọng trong nội dung tác phẩm, khuynh hướng tư
tưởng toát ra từ cách hiểu, từ lòng mong muốn giải quyết những vấn đề đặt ra
trong tác phẩm. Thí dụ: trong truyện Chú dê đen, qua việc lý giải khác nhau
của các quan hệ Dê trắng – Sói; Dê đen Sói; qua thái độ khác nhau của hai
chú dê, tác giả nêu tư tưởng: phải có thái độ dũng cảm, thông minh trước kẻ
thù và nếu thông minh, dũng cảm sẽ thắng kẻ thù còn hèn nhát, run sợ thì sẽ
bị kẻ thù tiêu diệt.
II. HÌNH THỨC CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
Hình thức của một tác phẩm văn học bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ,
kết cấu, thể loại Hình thức là những phương tiện để biểu hiện nội dưng trong
quá trình sáng tác. Sáng tác là một quá trình tìm tòi nội dung, tìm tòi hình thức
sao cho hình thức phù hợp với nội dung đó.
1. Ngôn ngữ văn học:
Ngôn ngữ văn học chính là ngôn ngữ của đời sống nhân dân đã được
chọn lọc để đưa vào trong tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học sẽ không
tác huy được tác dụng xã hội của mình nếu nó được viết bằng một thứ ngôn
ngữ chỉ riêng của nhà văn, không có ai hiểu nổi. Ngôn ngữ văn học mang dấu
ấn của lịch sử và thời đại khá rõ. Vì vậy ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ trong
sáng, chính xác, hàm súc, cô đọng. Do đó trong việc phát triển tiếng mẹ đẻ
cho trẻ mẫu giáo, các tác phẩm văn học dành cho trẻ có một ý nghĩa quan
trọng. Với các cháu, đó là những bài học nghe nói thú vị, hấp dẫn, không chỉ
giúp trẻ hiểu biết các hiện tượng, sự vật trong cuộc sống mà còn là cơ sở để
trẻ tập luyện cách bộc lộ những nhận thức và tình cảm của mình.
2. Kết cấu:
Bất kỳ tác phẩm nào cũng có kết cấu. Người đọc tiếp xúc với tác phẩm
theo một chiều được qui định, từ trang đầu, dòng đầu cho đến trang cuối,
dòng cuối, không thể tuỳ tiện bắt đầu từ đâu cũng được. Do đó, việc bố trí,
sắp xếp chi tiết nào nổi trước, chi tiết nào nói sau, chuyện gì kể thật kỹ,
chuyện gì chỉ kể lướt qua có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự thành
công của tác phẩm.
Các biện pháp kết cấu trong văn học rất đa dạng. Kết cấu trong thơ trữ
tình khác với kết cấu kịch, truyện. Mỗi tác phẩm văn học lại có một kiểu kết
cấu riêng biệt, cụ thể của mình. Tuy nhiên biện pháp kết cấu thường gặp nhất
là sự bố trí, tổ chức tác phẩm theo kiểu đối lập, tương phản. Thí dụ: các tác
giả dân gian đã đối lập Thạch Sanh nhân nghĩa, ân tình với Lý Thông vô ơn,
bạc ác. Cô Tấm hiền hậu, chăm chỉ đối lập với Cám lười nhác, tàn ác. Trong
văn học dành cho trẻ mẫu giáo ta cũng thấy sự phổ biến của các biện pháp
kết cấu này qua sự so sánh dê trắng với dê đen (Chú dê đen); Cô em út với
hai cô chị (Ba cô gái), Tấm – Cám v.v…
3. Thể loại:
Là hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học. Bất kỳ một tác phẩm văn
học nào cũng tồn tại dưới một hình thức loại thể nhất định. Thí dụ: “Chú dê
đen”, “Ba cô gái”, “Cô bé quàng khăn đỏ” là truyện kể, còn “Hạt gạo làng ta”,
“Đàn gà con”, “Hồ sen” là những bài thơ.
Cũng cần nói thêm rằng thể loại văn học là một hiện tượng có tính lịch
sử. Nó ra đời, biến đổi và phát triển trên cơ sở cuộc sống. Xu hướng chung
của sự phát triển là các thể loại tác phẩm văn học ngày càng phong phú, đa
dạng nhưng cũng có những thể loại đi đến chỗ suy tàn, không tồn tại trong
đời sống văn học nữa. Đối với các tác phẩm văn học đành cho trẻ mẫu giáo
thì chủ yếu là các thể loại: truyện kể, thơ, kịch v.v…
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CẦN LƯU Ý KHI PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC
Một trong những căn cứ để đánh giá tác phẩm là dựa vào các chức
năng văn học. Mức độ giá trị cao, thấp của tác phẩm là tùy thuộc ở khả năng
thực hiện tốt hay không tốt các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ…
đối với bạn đọc. Vì vậy, việc đánh giá các tác phẩm văn học mẫu giáo cũng
trước hết xuất phát từ căn cứ ấy: ở trường mẫu giáo chúng ta mới chỉ bước
đầu giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua những câu chuyện, bài thơ
hoặc hướng dẫn trẻ tập đóng tiểu phẩm theo những kịch bản đơn giản. Vai
trò của cô giáo trong những giờ dạy này là vô cùng quan trọng, bởi vì không
có cô giáo, trẻ không thể tiếp xúc được với tác phẩm cũng như phát hiện các
giá trị của tác phẩm một cách độc lập. Do đó, trước hết cô mẫu giáo phải là
người biết phân tích và đánh giá tác phẩm văn học.
Việc khám phá chính xác những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật
của một tác phẩm văn học dù là những tác phẩm ngắn gọn, rõ ràng cũng
hoàn toàn không đơn giản, vẫn đòi hỏi người cảm thụ, phân tích, tìm hiểu
phải có những kiến thức và phương pháp nhất định.
Giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học, cô giáo cần thông qua việc
đọc, kể tác phẩm giúp các cháu hiểu rõ tác phẩm nói về cái gì? Trong tác
phẩm tác giả đặt rạ và giải quyết vấn đề gì? Tác giả đã thể hiện tất cả những
điều đó như thế nào? Cái hay của tác phẩm là gì? Nói cách khác, cô giáo cần
giúp các cháu hiểu và rung cảm với những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm trên cơ sở đó tác động đến nhận thức tư tưởng, tình cảm của
trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng cảm nhận và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Không thể phát huy được vai trò, ý nghĩa, tác dụng của văn học trong
sự nghiệp giáo dục mẫu giáo nếu không có những tác phẩm văn học hấp dẫn,
có khả năng cuốn hút các cháu. Nếu cô giáo không có khả năng cảm thụ và
truyền đạt tác phẩm, không có khả năng phát hiện, lựa chọn rút ra từ tác
phẩm những cái hay, cái đẹp phục vụ cho mục đích giáo dục của mình. Tất cả
những điều đó đòi hỏi cô mẫu giáo phải thường xuyên rèn luyện, nâng cao
trình độ về mọi mặt, đặc biệt là trình độ tiếng Việt và văn học để có thể phát
huy và đánh giá chính xác các tác phẩm truyện, thơ trong chương trình mẫu
giáo.
Chương II. VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
Bài 2. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAMI. VĂN HỌC DÂN GIAN LÀ GÌ?
Văn học dân gian là một ngành khoa học chuyên biệt nghiên cứu sáng
tác truyền miệng dân gian. Ngành khoa học này xuất hiện ở Việt Nam rất
muộn so với nhiều nước khác trên thế giới. Tuy vậy kể từ năm 1954 cho đến
nay, ngành khoa học này có những bước tiến rất lớn, đã đạt được những
thành tích cơ bản trong việc sưu tầm, giới thiệu sáng tác truyền miệng dân
gian Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của văn học dân gian là sáng tác truyền miệng
dân gian. Thật ra thì sáng tác truyền miệng dân gian là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học (sử học, dân tộc học, ngôn ngữ học v.v…) nhưng
có lẽ không một ngành khoa học nào lại đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu
trọn vẹn, triệt để có hệ thống như văn học dân gian.
Đây thật sự là một ngành khoa học mà đối tượng của nó vừa phong
phú, đa dạng, vừa phức tạp như một bài toán còn rất nhiều ẩn số.
II. SÁNG TÁC TRUYỀN MIỆNG DÂN GIAN LÀ GÌ?
Đó là sáng tác của quần chúng nhân dân lao động. Trong xã hội nô lệ,
phong kiến thì đó là những sáng tác của những người trực tiếp làm ra của cải
vật chất cho xã hội và bị bóc lột. Trong xã hội tư bản, công nhân là một giai
cấp mới tham gia vào lực lượng sáng tạo này.
Như vậy sáng tác truyền miệng dân gian do nhân dân lao động làm ra,
trực tiếp phản ánh cuộc sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt của nhân dân,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, mơ ước, kinh nghiệm, nhân sinh
quan và thế giới quan của quần chúng lao động.
Sáng tác truyền miệng dân gian thuộc nhóm nghệ thuật ngôn từ (dùng
từ ngữ làm phương tiện chính để xây dựng hình tượng). Đối với nhân dân
Việt Nam thì đây là một lĩnh vực vô cùng phong phú và độc đáo. Tiếp xúc với
sáng tác truyền miệng dân gian mỗi người sẽ được lớn lên về nhận thức lịch
sử– xã hội, sẽ giàu có hơn về mặt tư tưởng, tình cảm, sẽ bị lôi cuốn bởi
những hình tượng hoàn hảo, những triết lý thần tình, những kinh nghiệm
phong phú, những từ ngữ điêu luyện, những lối sống, nếp nghĩ lành mạnh
của nhân dân. Sáng tác truyền miệng dân gian có thể nói đó là một bộ đại từ
điển bách khoa của mỗi dân tộc. Ở nước ta, do những nguyên nhân lịch sử
và đặc điểm vốn có của một dân tộc yêu chuộng thơ ca mà bộ phận sáng tác
này đã có một khối lượng và một dung lượng hiếm thấy, khai thác, sử đụng
vốn quí của cha ông mãi mãi còn là công việc của nhiều thế hệ.
III. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA SÁNG TÁC TRUYỀN MIỆNG DÂN GIAN
Cần thiết phải xác định những đặc trưng cơ bản của sáng tác truyền
miệng dân gian để một mặt, phân biệt sáng tác truyền miệng dân gian với các
loại nghệ thuật dân gian khác và mặt khác đây là mặt chủ yếu để phân biệt
sáng tác truyền miệng dân gian với loại nghệ thuật ngôn từ chuyên nghiệp –
sáng tác văn chương bác học. Sáng tác truyền miệng dân gian có một số đặc
trưng cơ bản nổi bật:
1. Tính tập thể:
Đây là đặc trưng cơ bản biểu hiện trong quá trình sáng tác trong nội
dung cũng như trong hình thức sáng tác. Tập thể quyết định sự ra đời và sự
tồn tại của tác phẩm. Mỗi tác phẩm dù ở bất kỳ ở thể loại nào cũng đều là sản
phẩm của tập thể, của nhiều người. Tất nhiên, ban đầu tác phẩm ấy là của
một người, một nhóm người sáng tác. Nếu tác phẩm phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của tập thể thì nó sẽ được nhiều người ghi nhớ, lưu truyền,
thêm bớt, gọt dũa, kết quả là người ta không nhớ tên tác giả ban đầu của nó
nữa. Tác phẩm sẽ khuyết danh và có nhiều dị bản.
2. Tính truyền miệng:
Là phương thức sáng tác đồng thời cũng là phương thức tồn tại của tác
phẩm thuộc mọi thể loại của sáng tác truyền miệng dân gian. Trong môi
trường sinh hoạt dân gian, các tác phẩm được hình thành, lưu truyền và biến
đổi thông qua “cửa miệng” của tập thể.
Mọi người đều thừa nhận rằng: nghe kể một câu chuyện, nghe hát một
điệu lý, điệu hò người nghe cảm nhận được nhiều hơn chiều sâu và vẻ đẹp
của những tác phẩm ấy, hấp dẫn hơn nếu chỉ tiếp xúc với những tác phẩm ấy
trên trang giấy. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của sáng tác truyền miệng dân
gian và hai đặc trưng này là nguyên nhân chủ yếu làm tác phẩm có nhiều dị
bản và khuyết danh.
3. Tính truyền thống:
Nói đến truyền thống là nói đến cái gì mẫu mực, bền vững, tương đối
cố định, có khuôn khổ. Đặc trưng này biểu hiện thông qua sự bền vững tương
đối của lời ca, bản kể, điệp khúc, đặc điểm diễn xướng, phương thức lưu
truyền, nội dung, hình tượng, phong cách ngôn ngữ và chúng hầu như không
thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này sang người khác.
Sự bền vững tương đối của tác phẩm trong lưu truyền có cơ sở bởi sự
bền vững của xã hội, của những điều kiện lịch sử, của tâm lý nhân dân. Chính
những hình thức bền vững của cuộc sống là nguyên nhân xã hội sâu xa tạo
nên những nét tâm lý tập thể bền vững, những thói quen và thị hiếu thẩm mỹ
ổn định.
4. Tính thay đổi:
Mâu thuẫn với tính truyền thống (xê dịch, vận chuyển, thiếu khuôn khổ,
mặt ổn định). Sự thật đồ là một mâu thuẫn nhưng là mâu thuẫn của sự thống
nhất biện chứng, điều đó có nghĩa là truyền thống của sáng tác truyền miệng
dân gian không phải là một thứ truyền thống chết cứng, bất di bất dịch mà có
biến đổi. Tuy nhiên biến đổi trong sáng tác truyền miệng dân gian không phải
là một thứ biến đổi hỗn loạn, tùy tiện mà biến đổi trên cơ sở của truyền thống.
Vậy thì tính bền vững của sáng tác truyền miệng dân gian chỉ là tương đối.
Nói tóm lại, điều kiện xã hội càng biến đổi mạnh thì khả năng xảy ra sự
thay đổi của sáng tác truyền miệng dân gian càng lớn. Có những thể loại chỉ
nở rộ ở thời đại nào đó và suy tân ở thời đại khác. Sáng tác truyền miệng dân
gian theo đà biến đổi của xã hội mà có thể thay đổi từng phần, từng bộ phận
hoặc toàn cục.
5. Tính nguyên hợp:
Sự tồn tại của mỗi tác phẩm bao giờ cũng có sự kết hợp của nhiều yếu
tố: ngôn từ, nhạc, kịch, văn học, triết học, tôn giáo. Sáng tác truyền miệng dân
gian thường đa chức năng. Tính nguyên hợp của sáng tác truyền miệng dân
gian là một hiện tượng tự nhiên, vốn có của một kiểu nghệ thuật không
chuyên.
IV. THỂ LOẠI
Thần thoại
Truyện cười
Dân ca
Chèo
Truyền thuyết
Tục ngữ
Ca dao
Tuồng
Cổ tích
Câu đố
Vè
Múa rối
V. SÁNG TÁC TRUYỀN MIỆNG DÂN GIAN VỚI TRẺ MẪU GIÁO
Sáng tác truyền miệng dân gian đến với trẻ rất sớm và có nhiều sáng
tác phù hợp với trẻ mẫu giáo. Ngay từ khi còn nằm trên võng, trẻ đã nghe
được điệu ru trầm bỗng, những lời ru ấm áp tình người của người thân. Lớn
lên trẻ tiếp xúc với những bài đồng dao giản dị, sinh động, thích thú với
những hình tượng lộng lẫy, táo bạo trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ
tích v,v…Vì thế “sáng tác truyền miệng dân gian đã để lại những ấn tượng
sâu sắc trong trí tuệ và tâm hồn trẻ thơ, tác động đến sự phát triển toàn diện
của trẻ. Sáng tác truyền miệng dân gian giúp trẻ nhận biết cuộc sống, biết yêu
điều thiện, ghét điều ác biết ước mơ, tưởng tượng, sống vui tươi, khỏe mạnh
và học tập được những lời hay, ý đẹp trong cách diễn đạt của nhân dân”.
Sáng tác truyền miệng dân gian có đầy đủ khả năng giáo dục con
người mới xã hội chủ nghĩa, vì những sáng tác này hoàn toàn có đủ khả năng
giáo dục cho trẻ những khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa dựa vào những
sáng tác mang đậm nét nhân đạo, giúp trẻ trở thành con người năng động,
sáng tạo trong đời sống hàng ngày.
Bài 3. THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT VÀ VIỆC GIÁO DỤC TRẺ MẪU GIÁOA. THẦN THOẠI:
I. HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN
Ra đời và phát triển gắn với một trình độ kinh tế xã hội còn thấp, là con
đẻ tất yếu của xã hội nguyên thủy, là sản phẩm của hình thái ý thức thuộc giai
đoạn công xã thị tộc (xã hội nguyên thủy là một giai đoạn kéo dài từ thời đại
đồ đá cũ cho đến thời đạt đồ đồng chuyển sang đồ sắt).
II. ĐỊNH NGHĨA
Chúng ta chưa có đầy đủ cơ sở khoa học để coi thần thoại là thể loại
cơ bản của sáng tác truyền miệng dân gian, nhưng mặt khác khi nghiên cứu
sáng tác truyền miệng dân gian chúng ta không thể bỏ qua thần thoại với tư
cách là “mảnh đất nuôi dưỡng nghệ thuật”. Vậy thần thoại là gì? Thật ra thần
thoại không phải là một hiện tượng bí ẩn không giải thích được, cũng không
phải là cái gì xuất hiện ngẫu nhiên, đột biến, ngoài qui luật
Thần thoại trước hết là những truyện kể về thần, về diện mạo, lai lịch,
hành tung và các mối quan hệ của thần. Thần là “nhân vật” trung tâm, đóng
vai trò chính trong các mối mối quan hệ. Thần có thể hình người, có thể hình
cầm thú hay nửa người, thần cũng có thể biến hoá từ hình thức này sang
hình thức khác (thần Dớt là bầu trời, ít đất, không khí, con người, biển cả, âm
phủ, con bò mộng, con chó, con lừa, con bọ hung v.v…); có thể đại điện cho
sức mạnh của vũ trụ, trời đất, sông biển, có thể tạo ra mọi vật v.v… Tóm lại
thế giới của thần cũng đa dạng, nhiều hình, nhiều vẻ, hoạt động của thần
phong phú, tiêu biểu cho nhiều hiện tượng. Cần chú ý rằng sức mạnh của
thần là sức mạnh tự thân, sức mạnh tổng hợp của một hay nhiều hiện tượng
tự nhiên, cũng như sức mạnh tổng hợp của cả tập thể bộ lạc thị tộc. Thần có
thể làm được mọi việc bằng lao động của đôi bàn tay, bằng sức mạnh thần
thánh và tài nghệ tuyệt mỹ. Thần là sản phẩm của một trình độ tư duy ngây
thơ, chất phác. Mọi sự biến hóa, mọi hành động đều chứa đựng lẫn lộn trong
đổ những yếu tố của tư tưởng duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.
III. NỘI DUNG
Thần thoại của bất kỳ dân tộc nào cũng là sản phẩm của một thời kỳ
phát triển nhất định trong lịch sử loài người, gắn liền với một hình thái kinh tế
và trình độ tư duy, hiểu biết nhất định của con người. Cũng như thần thoại
của các dân tộc khác, thần thoại Việt Nam:
1. Giải thích những hiện tượng chung của vũ trụ, trời đất, phán ánh
cuộc đấu tranh bền bỉ của người xưa để hiểu biết, khám phá tự nhiên và để
chinh phục tự nhiên (Thần trụ trời giải thích do đâu mà có bầu trời, mặt đất,
sông núi, biển cả; Thần mưa, Thần sớm, Thần biển, Thần gió giải thích các
hiện tượng mưa gió, sấm chớp, bão lụt, hạn hán), cắt nghĩa vì sao mà có con
người, vì sao con người ngày một đông đúc, vì sao con người đến già lại phải
chết v.v… Cần chú ý là thần thoại của các dân tộc trong khi phản ánh những
vấn đề chung giống nhau của tự nhiên và xã hội loài người, vẫn không che
lấp những đặc điểm riêng trong nội dung gắn liền với điều kiện, hoàn cảnh
sống, gắn liền với những tập tục cổ ít nhiều mang những nét đặc thù.
* Kama là thần Ái tình của người ấn Độ, Kama có chiếc xe thần là con
chim vẹt, cánh cung làm bằng cây mía, dây cung là đàn ong kết cánh và mũi
tên là hoa xoài mềm mại. Chim vẹt, cây mía, đàn ong, hoa xoài là những hình
ảnh cụ thể, biểu tượng của mùa xuân trên đất ấn Độ.
* Thần ái tình của Hy Lạp (Erros) và La Mã (Cupido) lại cỡi trên lưng
con thiên nga, tay cầm chiếc cung bằng gỗ cây sầu bi và mũi tên làm bằng lá
cây trắc bá nghĩa là những thứ tiêu biểu thường có ở vùng biển sáng chói và
ấm áp Địa Trung Hải.
2. Phản ánh những ước mơ hồn nhiên, giản dị nhưng hết sức táo bạo
và cao đẹp của con người cổ đại: “Chú Cuội cung trăng”, “Lúa thần”, “ Rắn già
rắn lột”.
IV. NGHỆ THUẬT
1. Có nhiều yếu tố kỳ diệu, trí tưởng tượng phong phú. (Thần Biển là
một con rùa khổng lồ, lớn không xiết kể. Thần nằm ngoài biển khơi tít tắp,
không đủ, không uống. Mỗi khi thần hít vào thì nước biển theo hơi thở của
Thần mà tuồn vào lồng ngực tạo nên nước thủy triều xuống và khi thở ra tạo
nên hiện tượng nước thủy triều lên; còn khi cựa quậy, vùng vẫy thì có gió to,
bão lớn mà người ta gọi đó là sóng thần).
2. Chi tiết ngắn gọn, đơn giản, sống động, cảm nghĩ hồn nhiên mà độc
đáo. Thí dụ: “Cóc kiện trời”, “Chú cuội”, “Sơn Tinh Thủy Tinh”. Thần núi của
người Việt Nam có tên là Sơn Tinh, là hình ảnh của một phúc thần có tài trí và
diện mạo đẹp đẽ khác thường. Từng cuộc chiến tranh giành một cô gái đẹp
với thủy thần (Thủy tinh), thần là kẻ chiến thắng và là ân nhân của con người
trong công cuộc chinh phục lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
B. TRUYỀN THUYẾT:
I. HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN
Khi thần thoại đã suy vong và buổi đầu con người chiến thắng tự nhiên,
sản xuất phát triển tiến đến việc trao đổi hàng hóa, tranh giành thị trường và
nảy sinh chiến tranh giữa các bộ lạc con người đã biết lôi kéo những hình
tượng thần gán cho những người trưởng tộc hoặc bộ lạc có công bảo vệ
mình trong chiến tranh.
Trong nền văn hóa dân gian Việt, truyền thuyết xuất hiện, tồn tại và
diễn biến trước hết như là sự thay thế, sự hóa thân của thể loại sử thi. Nó là
mắt xích nối liền thần thoại Việt với các truyện dân gian khác.
II. ĐỊNH NGHĨA
Truyền thuyết là những truyện kể dân gian có liên quan đến những sự
kiện và những nhân vật lịch sử có thật, liên quan đến những biến cố trọng đại
mà toàn dân đều chú ý.
Nếu thần thoại là “nghệ thuật không tự giác” của người nguyên thủy thì
truyền thuyết đã là những sáng tác có ý thức thực sự của con người về lịch
sử, về nòi giống tổ tiên, về chủ nghĩa yêu nước ngời sáng của dân tộc.
Trong ý thức nhân dân, truyền thuyết được kể như là một truyện có
thật, một biến cố lịch sử đã xảy ra. Truyện thường gắn liền với những địa
danh, chiến tích lịch sử, lại nêu rõ lai lịch người anh hùng, nguồn gốc xuất
thân, tên tuổi, quê quán…
Truyền thuyết không phải là lịch sử nhưng đúng như lời nhận định của
đồng chí Phạm Văn Đồng: “Những truyền thuyết dân gian thương có một cái
lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gởi gắm
vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của
sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hoá
đời đời con người ưa thích” (Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người
nghệ sĩ).
III. NỘI DUNG
1. Ca ngợi cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước:
* Nước Âu Lạc là một thực tế lịch sử cũng như An Dương Vương là
một nhân vật lịch sử có thật. Việc thành lập nhà nước đầu tiên này đánh dấu
một bước ngoặc trong quá trình phát triển lâu đài của cộng đồng các bộ lạc
sống ở lưu vực sông Hồng. Truyền thuyết An Dương Vương là sự đan quyện
chặt chẽ của cái bi, cái hùng. Nhân vật An Dương Vương trong lịch sử hiện ra
vừa là người có công vừa là kẻ có tội. Chiến công của an Dương Vương thể
hiện trong thời kỳ lập nước, nổi bật trong công cuộc xây thành Cổ Loa. Đây là
một ông vua sáng suốt, biết nhìn xa, trông rộng, quan tâm tới vận mệnh của
đất nước, tập hợp được sức mạnh của toàn dân. Còn thất bại của An Dương
Vương là ở chỗ: xa rời nhân dân, ham mê thú vui riêng, ỷ lại vào vũ khí,
không thấy hết dã tâm của kẻ thù. Thành Cổ Loa sụp đổ mãi mãi là một bài
học khắc cốt ghi xương mà truyền thuyết muốn nói với bao thế hệ.
* Truyền thuyết Thánh Gióng là bài ca chiến trận hào hùng muôn thuở.
Đây là hình tượng tổng hợp sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong đấu tranh
chống xâm lược (nét tươi tắn ngây thơ ca trẻ thơ kết hợp với những biểu hiện
hào hùng kỳ vĩ của một “thiên tướng”, những nét thực của “nong cơm đĩa cà”
với nét phi thường tập trung của ý chí, của thể chất).
2. Ca ngợi công đức của các vị anh hùng trong các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm vì sự độc lập tự chủ của dân tộc. (Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung).
IV. NGHỆ THUẬT
1. Có giá trị cao về mặt tư tưởng và thẩm mỹ.
2. Sức tưởng tượng phong phú, dồi dào; hình tượng lộng lẫy, táo bạo
và hấp dẫn; chi tiết sống động.
V. TÁC DỤNG CỦA THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT ĐỐI VỚI TRẺ MẪU
GIÁO
1. Giúp trẻ phần nào hiểu biết các hiện tượng tự nhiên; cảm nhận được
sức mạnh phi thường của con người trong cuộc đấu tranh chinh phục tự
nhiên và đấu tranh bảo vệ đất nước.
2. Giúp các em phát triển trí tưởng tượng, chắp cánh cho ước mơ của
trẻ.
3. Có tác dụng to lớn trong việc giáo dục niềm tự hào dân tộc cho trẻ.
(Chỉ chọn những tác phẩm phù hợp, vừa sức với các cháu. Thí dụ:
“Thánh Gióng”, “Sơn Tinh Thủy Tinh”).
Bài 4. TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ VIỆC GIÁO DỤC TRẺ MẪU GIÁOI. HOÀN CẢNH XUẤT HIỆN
Ra đời khi xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp vì:
+ Xét nội dung truyện ta thấy có mâu thuẫn giai cấp.
+ Các yếu tố thần linh bớt đi vì trình độ hiểu biết của con người phát
triển.
+ Nhân vật chính của truyện cổ tích là con người hoặc con vật còn
nhân vật thần, bụt, tiên… chỉ là nhân vật phụ để tượng trưng cho lẽ phải,
công lý.
II. ĐỊNH NGHĨA
Trong giới nghiên cứu văn học dân gian, có nhiều quan niệm và cách
định nghĩa khác nhau về truyện cổ tích. Có người cho rằng: truyện cổ tích bao
gồm toàn bộ những chuyện kể về ngày xưa (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
ngụ ngôn, truyện cười v.v…) Quan niệm này rất rộng khiến ta không tìm được
những đặc trưng của từng loại riêng biệt. Vì vậy, chúng ta nhất trí với quan
niệm tách cổ tích ra thành một loại riêng biệt, lấy tên là truyện cổ tích để dễ
nghiên cứu. Vậy: truyện cổ tích là những truyện kể truyền miệng. Bằng tưởng
tượng, truyện mô tả số phận trong các mối quan hệ gia đình, xã hội cụ thể
(truyện trình bày đủ các dạng quan hệ xã hội vốn có của con người trong xã
đi phong kiến như: vua tôi, thần – dân, giàu nghèo, thầy – trò, vợ chồng,
anh em, bè bạn v.v…). Thông qua các mối quan hệ đa dạng và phong phú
ấy, cổ tích theo cách riêng của mình phát hiện ra các xung đột xã hội, các
mâu thuẫn giai cấp trong xã hội có giai cấp. Và từ những phát hiện về một
vấn đề trọng đại như vậy, cổ tích hướng nhiệm vụ chủ yếu của mình vào việc
lý giải, tìm lối thoát cho một vấn đề mà chính lịch sử trong những giai đoạn ấy
cũng chưa tạo được tiền đề hiện thực để có thể giải quyết triệt để.
III. PHÂN LOẠI
Ở nước ta, cổ tích từ xưa đến nay được coi là một thể loại của sáng tác
truyền miệng dân gian. Tuy vậy khi tiếp tục phân chia thể loại này thành
những tiểu loại nhỏ hơn thì ý kiến rất khác nhau. Ngày nay, nhiều nhà khoa
học và nghiên cứu thừa nhận bách phân chia cổ tích thành 3 tiểu loại mặc dù
ngay cả cách phân chia này cũng có chỗ chưa thật rõ ràng:
– Cổ tích động vật.
Cổ tích thần kỳ.
Cổ tích sinh hoạt.
Chúng ta tạm chấp nhận cách phân chia này.
1. Cổ tích động vật:
Là những truyện cổ tích trong đó nhân vật chính là một con vật nào đó.
Con vật này có thể có mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với những động vật
khác hoặc với chính con người, song nó luôn luôn đóng vai trò trung tâm của
các tình tiết câu chuyện, thu hút tập trung sự chú ý theo dõi của người nghe.
Cổ tích động vật có nguồn gốc rất xa xưa. Nó ra đời trên cơ sở hấp thụ
những quan niệm nguyên thủy về vạn vật hữu linh vạn vật tương giao. Nó là
sản phẩm của những thời kỳ con người tiến hành săn bắn, chăn nuôi, thuần
dưỡng động vật. Chính trong quế trình tiếp xúc với các loài động vật ban đầu
ấy, con người đã dần dần phát hiện ra tính khôn ngoan, xảo nguyệt của con
cáo, tinh nhanh nhẹn tinh khôn của con thỏ, tính kiên trì bền bỉ của con kiến,
tính hung hăng tàn bạo của con hổ, tính thật thà hiền lành của con trâu…
Nhìn chung những con vật có mặt trong cổ tích của mỗi dân tộc là những con
vật dân tộc ấy thường xuyên tiếp xúc hơn cả, gây cho họ những ấn tượng
mạnh mẽ nhất về sự thân thương, căm ghét hoặc sợ hãi.
Thí dụ:
Truyện cổ của Nga ta thường gặp: mụ cáo Lixa quỷ quyệt khôn
ngoan, đa mưu, láu cá; lão sói xám phàm tục, tham lam, tàn bạo và ngu xuẩn;
chú gấu Misha hiền lành, tốt bụng nhưng vụng về, thô kệch.
Truyện cổ tích động vật của người Kinh: “Con gà, con thỏ và con hổ”,
“Rắn và Rùa”, “ Tại sao chó ghét mèo”, “Quạ và công”, “Trâu và ngựa”,
“Chuột và mèo”, “Chó ba cẳng”, “Con trâu, con hổ và người thợ cày”, “Mưu
con thỏ”. Đây là loại truyện thể hiện tinh vi óc nhận xét, quan sát của con
người về loài vật do vậy truyện giàu màu sắc hiện thực và phong phú trong
các chi tiết trình bày các hành vi, thủ đoạn của các con vật. Qua đó truyện
muốn truyền lại cho chúng ta những kinh nghiệm thực tế, những hiểu biết
thiết thực về thế giới loài vật.
2. Cổ tích thần kỳ (Cổ tích hoang đường)
Là loại cổ tích mà trong đó yếu tố kỳ diệu đậm đà và có ý nghĩa hơn cả.
Yếu tố này không chỉ tạo ra màu sắc ly kỳ, khác lạ và hấp dẫn của cổ tích mà
còn có ý nghĩa quyết định trong những thời điểm nhất định. Thiếu nó bản thân
nhân vật không thể vượt nổi những thử thách gay go để chiến thắng kẻ thù.
Thí dụ: Tấm Cám, Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Cây khế, Thạch Sanh, Hà rầm
hà rạc, Nàng tiên ốc, Cây tre trăm đốt v.v…
Trong cổ tích thần kỳ chúng ta cần lưu ý đến ba phần thuộc kết cấu của
cốt truyện:
+ Phần thứ nhất nói về nguồn gốc xuất thân và cuộc đời đau khổ của
nhân vật (mồ côi cha mẹ, mang lốt xấu xí, địa vị thấp kém, nghèo khổ…).
Nhân vật bị hành hạ, bạc đãi, khinh thường, lừa dối, bóc lột, tước đoạt vì vậy
ngay từ đầu nhân vật đã tạo sự thương yêu đồng cảm sâu sắc của nhân dân,
những người đồng cảnh ngộ.
+ Phần thứ hai nói về tài năng và chiến công của nhân vật. Vai trò của
các yếu tố kỳ diệu thể hiện rõ rệt nhất ở đây. Nhân vật bao giờ cũng phải trải
qua một hoặc nhiều lần thử thách, kẻ thù luôn gây cho họ vô vàn những khó
khăn, trắc trở tạo ra những tình huống cực kỳ vô lý để đẩy nhân vật vào chỗ
chết. Song với sức mạnh, đạo đức, tài năng lại được sự giúp đỡ của những
yếu tố kỳ diệu, nhân vật chính diện bao giờ cũng vượt được trở ngại, tạo ra
sự khoái cảm và thán phục về khả năng và sức mạnh vô địch mà nhân dân
mơ ước cho một con người.
+ Phần thứ ba là phần thưởng dành cho nhân vật chính diện. Và có thể
nói có bao nhiêu dạng phần thưởng là có bấy nhiêu mơ ước của nhân dân
xưa về một xã hội, một con người, một cuộc đời hạnh phúc. Phần thưởng
trước là tiền đề, là cơ sở để chuẩn bị cho nhân vật lập nên những chiến công
kế tiếp và nhận lấy phần thưởng sau (Ví dụ: cô Tấm nhận được quần áo ngày
hội và đôi giày xinh đẹp là để chuẩn bị gặp vua và chuyển sang một cuộc đời
khác. Thạch Sanh nhận được cung tên vàng khi diệt chằn tinh tiêu diệt đại
bàng, cứu hoàng tử con vua thủy tề nhận được cây đàn thần để giải oan
và làm lui quân mười tám nước chư hầu. Phần thưởng cao quý nhất đối với
Thạch Sanh là một đất nước yên vui, một hạnh phúc lý tưởng). Phần thưởng
có xu hướng tương xứng và thích hợp với chiến công mà nhân vật giành
được. Theo xu hướng này, phần thưởng sau cao quí hơn phần thường trước
bởi lẽ thử thách sau bao giờ cũng gay go, phức tạp hơn thử thách trước.
Với kết thúc có hậu, truyện cổ tích thần kỳ biểu hiện rực rỡ chủ nghĩa
nhân đạo tiến bộ của nhân dân. Con người nhỏ bé, bị áp bức giờ đây đây
thực sự đổi đời. Họ kết hôn với công chúa, hoàng tử và lên ngôi, nếu là người
nghèo giàu sang, nếu xấu xí đẹp đẽ, nếu đơn độc quyền thế. Điều
đặc biệt là dù cho nhân vật đã thay bậc đổi ngôi, song trong hành vi cốt cách
chúng ta vẫn thấy nhân vật vẫn là người của nhân dân.
Trong xu thế tích cực, cổ tích đã đem lại cho người nghe một niềm lạc
quan vô bờ bến: Người nghe cảm nhận rằng, ở đâu đó trên thế gian này, đã
hoặc sẽ tồn tại những xã hội thanh bình, xã hội không có điều ác và con
người mãi yên vui. Đó là thực tế có sức thu hút kỳ diệu mà cổ tích từ bao đời
nay vẫn làm say đắm lòng người.
3. Cổ tích sinh hoạt:
Đề cập đến những tình huống rất bình thường trong cuộc sống hàng
ngày, cách xử sự trong các mối quan hệ bạn bè, gia đình, thầy trò, cách ứng
phó nhạy bén, mưu trí trong những tình huống khó khăn, cách phơi bày
những thói ba hoa, hống hách, lười nhác, tham lam. Ý nghĩa răn dạy thể hiện
rất đậm trong loại cổ tích này. Mỗi truyện thường chỉ có một tình tiết và cổ tích
sinh hoạt hầu như vắng bóng những yếu tố kỳ diệu. Các nhân vật chính với tư
cách là kẻ đại diện cho trí anh minh của nhân dân, là lực lượng duy nhất
quyết định xu thế phát triển của câu chuyện. Nhân vật chính vẫn là nhân vật
có ý nghĩa tích cực và thường là những người biểu hiện trí khôn của nhân
dân.
Thí dụ: Trương Chi, Vợ khôn lấy chồng dại, Gái ngoan dạy chồng, Mài
dao dạy vợ, Giết chó khuyên chồng, Người học trò và con chó đá, Chưa đỗ
ông Nghè đã đe hàng Tổng, Cái cân thủy ngân, Thạch Sùng khoe của v.v…
IV. NỘl DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
a) Nội dung:
Điểm nổi bật trong nội dung truyện cổ tích là những mơ ước của nhân
dân hướng về một xã hội công bằng, lý tưởng, nột thế giới không có nghèo
đói, bệnh tật, đau ốm, một cuộc sống chỉ có niềm vui và người hiền tài.
+ Truyện cổ tích phản ánh những trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh
thần của nhân dân trên mảnh đất thân yêu đã nuôi sống họ.
Thí dụ: Sự tích trầu cau, Sự tích bánh dày bánh chưng.
+ Truyện cổ tích biểu thị thái độ của nhân dân với cuộc sống trong xã
hội có giai cấp, vạch trần bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột dưới biếng,
kênh kiệu như Cám, tham lam như người anh trong “Cây khế”, lật lọng, tráo
trở như mụ dì ghẻ; lão phú nông trong “Cây tre trăm đốt”; tàn bạo, phản bội,
cướp công như Lý Thông); ca ngợi bản chất tốt đẹp của người lao động
(thông minh, xinh đẹp, chăm chỉ, hiền từ như nhân vật: Tấm, Sọ dừa; lạc
quan, dũng cảm, tài năng như Thạch Sanh…).
+ Phản ánh tâm tư nguyện vọng, những ước mơ của nhân dân: sống
ấm no, hạnh phúc.
b) Nghệ thuật:
Có tính chất phiếm chỉ không nêu cụ thể tên người, không xác định cụ
thể rõ ràng về không gian, thời gian.
* Thời gian: “Ngày xửa ngày xưa…”, “ở một làng nọ…”, “Trong một nhà
kia…”
* Không gian: không nêu cụ thể tên địa danh, tên làng, tên xóm.
Là thể loại văn xuôi, tự sự, cốt truyện cũng như nhân vật hình thành
chủ yếu là do hư cấu, tưởng tượng.
Sử dụng yếu tố kỳ diệu: có thể nói yếu tố kỳ diệu là một trong những
đặc điểm không thể bỏ qua của cổ tích. Yếu tố kỳ diệu cũng chia thành hai
loại: một loại đại diện cho lực lượng độc hại, bản thân chúng là những trở
ngại, những thử thách gay go mà nhân vật chính phải chiến đấu gian khổ để
khắc phục. Thí dụ: trăn tinh, đại bàng, con quỷ v.v…; một loại sẵn sàng phù
trợ, ủng hộ, giúp đỡ phe chính nghĩa. Thí dụ: Tiên, Bụt, Phật. Ngoài ra cũng
cần kể đến một loại có tính chất trung gian, hễ rơi vào tay người thiện thì vật
ấy sẽ trở nên có ích, ngược lại nó sẽ tác hại ghê gớm theo quyền uy và bản
thân sức mạnh vốn có của nó. Thí dụ: Cây gậy thần, Viên ngọc ước…
(“Người thợ săn và mụ chằng”, “Con chó, con mèo và anh chàng nghèo khổ”).
– Kết cấu:
* Cốt truyện xây dựng theo trình tự thời gian, không gian về mạch tình
tiết: nhân vật chính dẫn ta đi từ giai đoạn này giai đoạn khác, từ trước
sau, từ gần xa.
* Nhân vật của cổ tích chia thành hai phe rõ rệt: thiện và ác chính và
phụ. Hai tuyến nhân vật này đối nghịch nhau gay gắt về tài năng, đạo đức,
chiến công và kết cục số phận.
Kết cấu của truyện cổ tích là điển hình của sự trong sáng, rõ ràng,
mạch lạc, dễ thuộc, dễ nhớ mặc dầu ở cổ tích thần kỳ cốt truyện thường
mang tính chất đa tình tiết.
Kết thúc của cổ tích bao giờ cũng có hậu. Chính lối kết thúc độc đáo ấy
đã phản ánh rõ rệt lý tưởng chiến đấu, tinh thần lạc quan và những dự cảm
sáng suốt của nhân dân hướng về một xã hội tương lai.
V. TÁC DỤNG CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH ĐỐI VỚI TRẺ MẪU GIÁO
1. Tuổi thơ là tuổi giàu tưởng tượng và ước mơ. Truyện cổ tích rất hấp
dẫn đối với các em, vì đây là những sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú
của nhân dân.
2. Tuổi thơ khát khao một cuộc sống tốt đẹp. Truyện cổ tích rất phù hợp
với các em vì ở đây nói lên những quan niệm đạo đức công lý xã hội và ước
mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại. Từ đó trẻ biết yêu thương,
căm ghét, thích làm điều tốt tránh điều xấu.
3. Truyện cổ tích giúp trẻ làm giàu thêm vốn từ, học tập những lời hay ý
đẹp và cách diễn đạo của nhân dân. Đối với các em, những hình ảnh kỳ diệu,
những nét hiện thực sinh động là phương tiện tốt để giáo dục tình cảm và thái
độ sống cho trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên do trình độ hiểu biết của trẻ còn non nớt,
nhạy cảm với cái đẹp, nặng về cảm tính, tiếp thu chân thành và đầy tin tưởng
cho nên chúng ta phải chọn lọc chuyện kể, không nên cho trẻ thấy cái xấu, cái
khủng khiếp một cách vô ích.
Bài 5. CÂU ĐỐ – CA DAO – ĐỒNG DAO VÀ VIỆC GIÁO DỤC TRẺ MẪU GIÁOI. GIỚI THIỆU THỂ LOẠI
* Ca dao là thơ trữ tình dân gian. Ca dao truyền thống phát triển đặc
biệt ở thời phong kiến khi quần chúng nhân dân muốn diễn tả sâu sắc những
nỗi thống khổ cũng như những khát vọng của họ về cuộc sống tốt đẹp hơn,
đồng thời nêu cao những phẩm chất tốt đẹp bắt nguồn từ đời sống lao động
và chiến đấu. Đối với các em, bộ phận ca dao phản ánh lao động sản xuất ca
ngợi công sức của người lao động, đề cao niềm tin, lòng mong mỏi được
sống no đủ, yên vui và những bài ca diễn tả lòng yêu nước, yêu quê hương,
niềm tự hào về con người Việt Nam cũng như tình thương giữa con người với
con người là bộ phận giá trị nhất.
* Đồng dao là ca dao của trẻ em. Đó là những bài hát dân gian có nội
dung và hình thức phù hợp với trẻ em, thường do trẻ em hát. Các bài đồng
dao thường gắn với một trò chơi nhất định. Các em vừa chơi, vừa làm trò,
vừa hát. Người lớn ít khi sử dụng đồng dao trừ bộ phận những bài hát ru.
* Câu đố là một thể loại văn học dân gian miêu tả, tường thuật đặc
điểm của sự vật bằng hình thức ẩn dụ nhằm rèn luyện óc quan sát, thử tài
suy đoán của người ta. Với lời miêu tả giấu tên sự vật và bằng phương pháp
chuyển hóa (chuyển vật nọ thành vật kia), câu đố “đánh lừa” con người một
cách tài tình, thường đưa đến cho con người những tiếng cười thú vị.
II. CÂU ĐỐ
A. ĐỊNH NGHĨA:
Câu đố là các sáng tác ngắn gọn, người đố cố che giấu khái niệm về
một sự vật hay một hiện tượng đã rõ, người nghe phải tìm, phải đoán ra.
Cách miêu tả bóng gió các sự vật và tính nhịp nhàng cân đối của câu đố làm
trẻ em rất thích thú. Câu đố làm cho các em hiểu rõ đặc điểm của thế giới vật
thể gần gũi. Tất cả cái gì con người nhìn thấy, nghe thấy đều có thể trở thành
đối tượng của câu đố.
B. NỘI DUNG:
1. Thế giới động vật trong câu đố Việt Nam chiếm một tỉ lệ khá nhiều,
tuyệt đại đa số là những con vật gần gũi với cuộc sống của chúng ta.
TD: Mình đen mặc áo da sồi
Nghe trời chuyển động thì ngồi kêu oan.
(Con cóc)
Chân đen mình trăng, đứng nắng giữa đồng.
(Con cò)
Đặc biệt là các câu đố mẫu giáo đố về các con vật gần gũi, quen thuộc
thông qua những dấu hiệu dễ nhận thấy nhất.
TD: Con gì hay sủa gâu gâu?
Con gì nhảy nhót bắt sâu trên cành?
Con gì phi thật là nhanh?
Con gì gáy sáng gọi anh mặt trời?
Hoặc:
Con gì chân khéo như tay
Đánh đu đã giỏi lại hay leo trèo?
Con gì gọi bạn meo meo
Lúc rình bắt chuột, lúc leo xà nhà?
Hay:
Con gì bay lượn nhởn nhơ
Rong chơi khắp chốn chẳng ưa làm gì?
Con gì chân có màng da
Đến bên hồ nước nhảy ra bơi liền.
2. Miêu tả trực tiếp các sự vật gần gũi chung quanh trẻ:
TD: Cũng gọi là bánh
Nhưng chẳng dễ ăn
Để giặt quần áo
Cho thơm, cho sạch
(Bánh xà phòng)
Cái gì nho nhỏ
Bằng nhựa xinh xinh
Cọ răng trắng tinh
Trước khi bé ngủ.
(Bàn chải đánh răng)
Ai muốn chân sạch
Thì dùng đến tôi
Nhưng phải một đôi
Đôi gì thế nhỉ?
(Đôi dép, đôi giày, đôi guốc)
Không là người mà có mặt
Mặt khi tròn, khi vuông
Không mồm mà kêu luôn
Tích tắc lại tích tắc
(Đồng hồ)
3. Miêu tả thế giới thực vật, nhìn chung là các cây cỏ ở làng quê: cây
cam, cây quýt, cây mít, cây dừa, cây đu đủ v.v…
TD: Da cóc mà bọc trứng gà
Bổ ra thơm nức cả nhà muốn ăn
(Quả mít)
Trên trời có giếng nước trong
Con kiến chẳng lọt, con ong chẳng vào.
(Quả dừa)
Mẹ gai góc, con trọc đầu.
(Bưởi cam quýt)
Tên em không thiếu không thừa
Tấm lòng vàng ngọt ngon vừa lòng anh
(Đu đủ)
C. NGHỆ THUẬT:
Giàu âm thanh, vần điệu, giàu hình tượng.
Ngắn gọn, sinh động, thú vị, dễ nhớ, dễ thuộc.
D. TÁC DỤNG:
Với trẻ em mẫu giáo, các câu đố phù hợp với lứa tuổi không những
giúp trẻ phát triển óc quan sát và khả năng tư duy trừu tượng mà còn góp
phần tích cực trong việc giúp trẻ nhận biết sự vật ở xung quanh và làm giàu
thêm vốn từ cho trẻ. Câu đố cũng rèn luyện trí thông minh cho trẻ.
III. CA DAO
A. ĐỊNH NGHĨA:
Là những bài hát dân gian được sáng tác bằng thể văn vần của dân
tộc, phản ánh nhiều mặt của cuộc sống là những bài ca của người lao động,
chứa đựng tình cảm sâu xa của họ đối với gia đình, quê hương, đối với công
việc làm ăn và môi trường sống quen thuộc.
B. NỘI DUNG:
1. Phản ánh cuộc sống lao động cần cù, chất phác của nhân dân tuy
vất vả, khổ cực nhưng không bao giờ bi quan.
TD:
* Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muốn phần.
Hoặc:
Rủ nhau đi cấy đi cấy
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
* Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Công lên chẳng quản bao lâu
Ngày nay được bạc, ngày sau cơm vàng
Xin ai đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhau tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
2. Thể hiện tình cảm đối với xóm làng, quê hương, đất nước. Thiên
nhiên nước ta vốn rất giàu, đẹp, vào trong ca dao lại càng giàu đẹp hơn.
TD:
* Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần, chạy xa.
Thon thon hai mũi chèo hoa.
Lướt đi, lướt lại như là bướm bay.
* Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đường đi quanh quất ruột dê
Chim kêu vượn hú dựa kề bên non.
* Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
* Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
3. Thể hiện tình cảm yêu thương, quí mến đối với gia đình: tình cảm
của con cái đối với cha mẹ hoặc ngược lại, tình cảm anh em ruột thịt, tình bạn
bè gắn bó keo sơn. Đặc biệt cha mẹ là người sinh thành, dưỡng dục, có
nhiều kinh nghiệm sống mà con cái phải yêu thương, kính trọng, biết ơn. Từ
lâu nhân dân ta đã truyền tụng:
* Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
* Gió mùa thu mẹ ru con ngủ.
Năm canh chầy thức đủ năm canh
* Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Ơn mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.
* Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày.
* Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ
* Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
* Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau, trước một bề mới nên.
C. NGHỆ THUẬT:
Từ ngữ chọn lọc, chính xác, gợi cảm.
Sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc, giàu nhạc điệu, giàu hình tượng,
trữ tình.
D. TÁC DỤNG:
Ca dao đến với trẻ rất sớm qua lời ru, tiếng hát của người thân. Âm
thanh, nhịp điệu và không khí dân gian trữ tình để lại những dấu ấn sâu sắc
trong tâm hồn trẻ. Ca dao là dòng sữa nuôi trẻ lớn lên. Qua đó trẻ cảm nhận
hình thức ngôn ngữ đẹp đẽ, cảm nhận tâm tư, tình cảm của nhân dân, quan
điểm đạo đức và lối sống của dân tộc. Thế nhưng ngoại trừ đồng dao, ca dao
ít được chọn giống trong chương trình chuyện thơ mẫu giáo vì ca dao là tiếng
nói tình cảm đa dạng và tinh tế đối với cuộc sống quá khứ, trẻ chưa có thể
cảm nhận đầy đủ.
Tóm lại, ca dao là những hòn ngọc vô giá từ xưa để lại. Đó là tiếng nói
tình cảm của nhân dân đối với đất nước là mồ hôi nước mắt của nhân dân
trong đấu tranh và xây dựng, là trí uệ và tình thương của nhân dân đối với
thiên nhiên, xã hội và con người Việt Nam. Do đó những câu ca dao thấm
đượm vào tâm hồn trẻ thơ sẽ có tác dụng lớn lao trong việc bồi dưỡng tình
cảm, hình thành nhân cách cho trẻ và khơi dậy ở trẻ niềm tự hào về con
người, về quê hương đất nước.
IV. ĐỒNG DAO
Trong văn học dân gian của các dân tộc trên thế giới, ít nhiều đều có bộ
phận những sáng tác dành cho trẻ em hoặc chủ yếu hướng về trẻ. Đó là lý do
và cơ sở khiến cho khái niệm văn học dân gian thiếu nhi đã và đang hình
thành trong hoạt động nghiên cứu văn học dân gian của nhiều nước trên thế
giới.
Văn học dân gian thiếu nhi của người Viết phát triển khá sớm và chủ
yếu tập trung ở hai lĩnh vực truyện kể (đồng thoại) và thơ ca (đồng dao).
A. ĐỊNH NGHĨA:
Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao có thể bắt
nguồn từ các hình thức thơ ca dân gian của nhiều người lớn và được người
lớn tham gia sáng tác, sử dụng nhưng chủ yếu phải phù hợp với thế giới quan
và tâm sinh lý của trẻ và do trẻ em trực tiếp lưu truyền, diễn xướng.
B. NỘI DUNG:
1. Giúp các em hiểu biết, học hỏi mở mang trí tuệ, giáo dục kiến thức
thực tế. Với các em trước tuổi đi học, đồng dao như người thầy dạy cho các
em những khái niệm đầu tiên về thiên nhiên, đất nước, con người.
Thế giới đồng dao là một thế giới sinh động, phong phú chứa chan sức
sống và màu xanh. Trong đồng dao có đủ những con vật gần gũi với cuộc
sống chung quanh trẻ như: con trâu, con nghé, con voi, con công, con ve, con
kiến cho đến con cò, con tép, con ốc, con cua, con chuồn chuồn…
TD:
* Con công hay múa…
* Con vỏi, con voi…
* Con gà cục tác lá chanh…
* Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng
* Con mèo, con chó có lông
Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai
* Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
* Con cua tám cẳng hai càng
Một mai hai mắt rõ ràng con cua.
* Trời mưa
Quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn.
2. Giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Một số bài đồng dao gắn với
các trò chơi của trẻ em. Nhờ có lời mà trẻ ham thích chơi, nhờ có luật chơi
mà trẻ ham thích đọc lời. Các em vừa hát, vừa học, vừa chơi.
Tình cảm chủ yếu được các em thể hiện trong khi hát để chơi trò chơi.
Đó là niềm vui sướng, hân hoan, phấn khởi và yêu đời của tuổi thơ khi được
tụ họp lại với nhau, nô đùa, ca hát.
TD:
* Chi chi chành chành…
* Dung dăng dung dẻ…
* Kéo cưa lừa xẻ…
* Rồng rắn lên mây…
* Bịt mắt bắt dê…
* Nu na nu nống…
Nhìn chung, đồng dao thiên về thông tin, truyền đạt kiến thức hơn là
phản ánh tư tưởng, tình cảm. Trong nội dung kiến thức thì nặng về những
kiến thức tự nhiên hơn kiến thức lịch sử– xã hội và điều đó rất phù hợp với
nhu cầu và trình độ của trẻ em. Nội dung và ý nghĩa xã hội sâu sắc, tinh tế
thường ít có ở đồng dao, còn nếu có thì cũng rất nhẹ nhàng, thoáng qua như
mây bay, gió thoảng mà thôi.
Với đồng dao, trẻ em thực sự hoà nhập vào thiên nhiên, sống với thiên
nhiên, hiểu thiên nhiên theo cách hiểu của trẻ thơ. Có thể xem đồng dao là
những bài học vui nho nhỏ. Những bài học đó vừa vui vừa giúp các em làm
quen với cuộc sống của người lớn, giúp các em đỡ bỡ ngỡ khi tiếp xúc với
những điều mới lạ trong xã hội. Đồng dao cũng phản ánh hiện thực nhưng với
cách thức riêng của nó nhằm vào chức năng giáo dục (quan sát cuộc sống để
thu thập kiến thức) và chức năng thẩm mỹ (vui chơi, yêu đời) chứ không đòi
hỏi các em phải có những hiểu biết sớm hơn lứa tuổi của mình.
C. NGHỆ THUẬT:
1. Sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 6 chữ và lục bát, có vần có điệu, dễ
đọc, dễ nhớ, dễ thuộc.
2. Ngôn ngữ mộc mạc, hồn nhiên, bình dị, nhiều tiếng tượng hình,
tượng thanh…
D. TÁC DỤNG:
1. Đồng dao và những trò chơi kèm theo giúp trẻ yêu đời, yêu cuộc
sống, yêu thiên nhiên, yêu lao động, yêu nghệ thuật, thích hài hước.
2. Giúp các cháu phát triển vốn từ, yêu thích và sử dụng tiếng mẹ đẻ.
3. Rèn luyện bộ máy phát âm cho trẻ.
Chương III. VĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAM
Bài 6. VĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAMVăn học Việt Nam từ Cách mạng tháng 8/1945 mới thực sự trở thành
một nền văn học hoàn chỉnh. Thực tế ấy không phải là một nhận xét tùy tiện
mà đây là một phân tích xuất phát từ thực tế khách quan của xã hội và cách
mạng trong đó có hoạt động văn học.
Không thể nói đất nước có một nền văn học thực sự khi cả dân tộc còn
trong xiềng xích nô lệ, tư tưởng con người còn bị chìm đắm, trói buộc trong
mê hoặc, trong mọi đòn phép đầu độc thâm hiểm, trắng trợn của thực dân và
phong kiến. Tình cảm lớn, ý nghĩa lớn, yêu cầu lớn đối với văn học là tình
cảm, suy nghĩ, hành động của mỗi người đối với đất nước, với xã hội, với bản
thân mình. Những ước mơ ấy tuyệt đối bị cấm kỵ. Một khi cầm bút viết nên
tình cảm của lòng yêu nước thì quân cướp nước bắt bẻ bút, bắt tù tội. Như
vậy không thể có một nền văn học theo nghĩa chân chính của nó khi đất nước
còn bị lệ thuộc.
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Cách mạng tháng tám thành công đã mở ra một chân trời mới cho văn
học nghệ thuật nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Có thể nói hơn 40
năm qua, văn học thiếu nhi của chúng ta đã phát triển rực rỡ. Những điều
kiện nào đã tạo điều kiện cho sự phát triển của văn học thiếu nhi? Điều kiện
trước tiên và quan trọng nhất đó là sự quan tâm của Đảng, của Bác Hồ đối
với sự nghiệp giáo dục thiếu nhi. Thứ hai là ngay năm 1946 các em đã có tủ
sách “Gương chiến đấu” của Hội văn hoá cứa quốc sau này là tủ sách Kim
Đồng và đến năm 1957, Nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập tạo điều kiện
vô cùng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền văn học thiếu nhi. Bên
cạnh đó những cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi vào những năm 1966,
1968, 1976, 1978… đã đạt được những kết quả tích cực. Thứ tư là đội ngũ
những người cầm bút viết cho thiếu nhi ngày càng trở nên đông đảo. Ngoài
số nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp như: Tô Hoài, Phạm Hổ, Võ Quảng, Đoàn
Giỏi, Nguyễn Huy Tưởng v.v… còn có sự tham gia của các nhà báo, các nhà
nghiên cứa khoa học, các thầy cô giáo, các anh chị phụ trách thiếu nhi…
Đặc biệt chúng ta còn phải kể đến lực lượng của các em viết cho các
em mà những cây viết tiêu biểu có thể kể đến là: Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ,
Nguyễn Hồng Kiên, Chu Hồng Quý, Hoàng Hiếu Nhân, Khánh Chi, Ngô Bích
Hiền v.v…
II. THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
Có lẽ nền văn học thiếu nhi Việt Nam đã hình thành vào quãng giữa
những năm 1960. Ấy là lúc văn học thiếu nhi đã có đủ các đề tài vào thể loại:
dân gian và lịch sử, cách mạng và kháng chiến, khoa học và danh nhân,
truyện ngắn và truyện dài, ký và kịch, truyện tranh, nói về đề tài lao động, học
tập và một số mặt sinh hoạt khác của các em. Tính đa dạng của đề tài thể loại
cũng do trình độ nhận thức và tâm lý thị hiếu của các lứa tuổi bạn đọc đặt ra:
các em nhi đồng bé thường thích những truyện đồng thoại, truyện cổ tích
trong đó các con vật đều biết nói năng, suy nghĩ; còn các em thiến niên thì lại
say mê những loại truyện chiến đấu, phiêu lưu, viễn tưởng. Chúng ta có thể
kể ra ở đây một số tác phẩm viết cho các em tiêu biểu như: “Tìm mẹ” và “Lá
cờ thêu sáu chữ vàng” của Nguyễn Huy Tưởng, “Vừ A Dính” và “Đàn chim
gáy” của Tô Hoài, “Quê Nội” và “Cái thăng” của Võ Quảng, “Đất rừng phương
Nam” của Đoàn Giỏi v.v… Những tác phẩm kể trên hầu hết đã được in lại từ
một đến ba lần và nhiều cuốn được dịch ở nước ngoài.
III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA THƠ, TRUYỆN VIẾT CHO TRẺ TRƯỚC TUỔI ĐẾN TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Chuyện kể mẫu giáo:
+ Giản dị, cụ thể, rõ ràng, trực tiếp, sáng sủa… tập trung vào những bài
học đầu tiên về giáo dục đạo đức cho các cháu. Thí dụ: Truyện “Ba cô gái”,
“Tích Chu” giáo dục trẻ thơ phải có lòng hiếu thảo, biết vâng lời ông bà cha
mẹ; “Bảy con quạ”, “Sư tử và chó con” là những bài ca xúc động về tình anh
em ruột thịt tình bè bạn.
Đối với trẻ mẫu giáo thì những bài học đầu tiên của cuộc đời phải đến
với các cháu bằng con đường trực tiếp, sáng sủa, rõ ràng, tốt và xấu, thiện và
ác, cái đáng khen và cái đáng chê…đều nhìn thấy rất rõ ngay từ đầu và quán
xuyến toàn bộ câu chuyện. Thí dụ: “Bác gấu đen và hai chú thỏ”, “Ba cô tiên”,
“Cáo, thỏ và gà trống”, “Ai đáng khen nhiều hơn”.
+ Tính lạc quan: theo Trucôpxki thì đó là một phẩm chất tuyệt diệu của
tâm hồn trẻ thơ. Hết thảy trẻ em từ 3 5 tuổi đều tin và khao khát tin rằng
đời chỉ để vui vẻ, hạnh phúc vô biên và niềm tin đó là điều kiện tối quan trọng
của sự phát triển tâm lý bình thường ở trẻ em. Vì vậy truyện viết cho trẻ mẫu
giáo không thể là những câu chuyện đem lại những cảm xúc nặng nề hoặc
những đau đớn, mất mát thái quá. “Tấm cám”, “Em bé quàng khăn đỏ”, “Dê
con nhanh trí”, “Chú dê đen”.
+ Tính hài hước: bản chất của tâm hồn trẻ thơ là lạc quan, yêu đời,
thích vui nhộn. Trucôpxki cũng đã nói “Giáo dục cho các em có cảm xúc khôi
hài không phải là việc nhỏ. Cảm xúc khôi hài là một phẩm chất quí báu khi
đứa trẻ lớn cảm xúc này sẽ làm tăng khả năng chống đối lại mọi môi trường
khó chịu và nâng nó cao hơn mọi điều vụn vặt, bực dọc hàng ngày”.
Thí dụ: “Rau thì là”, “Chú thỏ tinh khôn”, “Tại sao đuôi thỏ lại ngắn”,
“Mèo lại hoàn mèo”, “Cái mũ biết chạy”, “Chú chim sẻ Pu đích”, “Thi nói
khoác”.
2. Thơ ca mẫu giáo:
+ Ngôn ngữ cụ thể, sinh động, hồn nhiên, chính xác, gợi cảm, giàu hình
ảnh, giàu nhạc điệu, giàu tưởng tượng. Tuổi các em là tuổi hiếu động, hiếu
kỳ, ham vui. Các em không chịu được những bài giáo huấn khô khan mà
chúng ta cũng không nên biến các em thành những “ông, bà cụ non” già
trước tuổi. Nhưng cái vui ở đây không là cái “tếu” do người viết tự bịa ra mà
phải là kết quả của một quá trình thâm nhập vào thế giới của các em để phản
ánh hiện thực theo cách nhìn, cách nghĩ, cách nói bình dị và hồn nhiên với
nhiều tưởng tượng lý thú, nhiều mối liên hệ bất ngờ, ngộ nghĩnh và ngây thơ
của tuổi thơ. Vào thời gian đầu của lứa tuổi mẫu giáo khi mà óc tưởng tượng
của bé còn kém phát triển thì bé còn lẫn lộn sự vật với điều tưởng tượng, bé
gắn cho mọi đồ chơi vô tri, vô giác như cái gậy, khúc gỗ, em búp bê v.v… một
linh hồn. Cỏ cây, hoa lá, chim muông, súc vật sinh động, chỉ có con mắt “thần
diệu” của trẻ thơ mới nhìn thấy.
TD:
1. Bài “Thương ông” của Tú Mỡ.
2. “Giữa vòng gió thơm” của Quang Huy.
3. “Ông mặt trời” của Ngô Thị Bích Hiền.
4. “Cây thược dược” của Ngô Quân Miện.
5. “Con gà nghịch” của Nhược Thủy.
6. “Ngỗng và vịt” của Phạm Hổ.
7. “'Mẹ và cô” của Trần Quốc Toàn.
8. “Đón bạn” của Nguyễn Quốc Khánh.
IV. KẾT LUẬN
50 năm qua kể từ Cách mạng tháng Tám đến nay, văn học thiếu nhi đã
trở thành một nền văn học thực sự với những thành tựu rực rỡ. Với nội dung
phong phú, cách nói độc đáo và hấp dẫn, văn học thiếu nhi đã trở thành
người bạn thân thiết của các em một món ăn tinh thần không thể thiếu được
của độc giả tuổi nhỏ. Nó đã góp phần xứng đáng với tiềm tin mong mỏi của
các bậc phụ huynh, của những người làm công tác giáo dục thiếu nhi.
Bài 7. THƠ VĂN BÁC HỒ VIẾT CHO TRẺ EMI. KHÁI QUÁT
Hình ảnh Bác Hồ trong thế hệ thiếu nhi Việt Nam đã in sâu trong trí nhớ
của các em. Bác Hồ là người thương yêu thiếu nhi nhất:
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh
(1952)
Câu thơ của Bác đã trở thành câu hát của các thế hệ thiếu nhi về tình
thương yêu của Bác với các em. Ngay từ những năm tháng đi tìm đường cứu
nước, hoạt động ở nước ngoài, Bác Hồ đã quan tâm đến các cháu, Bác mơ
ước xây dựng cho các cháu một thiên đường trên đất nước.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tình cảm của Bác càng thể
hiện cao hơn. Bác kêu gọi mọi tổ chức, đoàn thể chú ý đến sự nghiệp giáo
dục thiếu nhi. Mặc dù công việc rất bận rộn, Bác vẫn hằng quan tâm làm thơ,
gởi thư cho các cháu nhất là trong những ngày vui của các cháu như Tết
Trung Thu, Ngày khai trường, Quốc tế thiếu nhi 1/6 v.v…
Những bài văn, thơ của Bác viết cho các cháu có giá trị văn học quý giá
trong nền văn học viết cho thiếu nhi ở nước ta.
II. MẤY NÉT VỀ GIÁ TRỊ THƠ VĂN CHO CÁC CHÁU CỦA BÁC
1. Nội dung:
Nói lên tình cảm thân thương, đậm đà, sâu sắc của Bác dành cho các
cháu.
Ngay từ năm 1941 trong bài “Kêu gọi thiếu nhi” Bác đã viết:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan.
Hình ảnh so sánh làm bật lên được sự ngây thơ non nớt nhưng đầy
sức sống, nó đang hướng về tương lai, nó là của tương lai. Một hình ảnh thơ
đẹp giản dị, mộc mạc mà rất giàu ý nghĩa. Chính hình ảnh ấy đã là một lời
nhắc nhở, hãy nâng niu, chăm sóc, bảo vệ nó cho nó lớn lên giúp ích cho đời.
Thơ văn của Bác là tấm lòng của Bác. Tấm lòng của một người ông,
người cha rất mực nhân từ hiền hậu:
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.
(1951)
Tình thương của Bác dành cho các cháu thật chân thành, tha thiết, tràn
ngập không khí gia đình đầm ấm:
Thư này Bác gởi thư chung
Bác hôn các cháu khắp miền gần xa.
(1953)
Bác cùng vui với niềm vui của các cháu, cùng đau đớn khi các cháu bị
đày đọa. Bác luôn luôn mong các cháu có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và
muôn đời dân tộc Việt Nam, các thế hệ thiếu nhi Việt Nam không bao giờ
quên được lời dặn dò ân cần của Bác đối với toàn Đảng, toàn dân trước lúc
ra đi:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là rất quan trọng và rất cần
thiết!
Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho các cháu thiếu nhi Việt Nam
và các cháu thiếu nhi thế giới.”
(Di chúc năm 1969)
2. Nghệ thuật:
Trong thơ văn của Bác, mục đích Bác viết cho các cháu rất rõ ràng, nó
đem đến cho các cháu một bài học có ý nghĩa sâu sắc. Để đạt được mục
đích, Bác sử dụng tốt nghệ thuật tuyên truyền.
Bác đã nói với các cháu những điều cần thiết. Giải thích nguyên nhân
nỗi cực khổ của các cháu, Bác viết:
Vì ai nên nỗi thế này?
Vì giặc Nhật, giặc Tây bạo tàn
(Kêu gọi thiếu nhi 1941)
a. Các vấn đề Bác viết rất giản dị rõ ràng, có ý nghĩa sâu sắc làm cho
các cháu dễ hiểu, có sức thuyết phục cao. Từ chỗ làm cho các cháu hiểu
được (nhận thức) sau đó Bác mới kêu gọi, nhắc nhở (giáo dục).
TD: “Kêu gọi thiếu nhi”
“Lịch sử diễn ca”
“Trẻ chăn trâu”
Nói đến vấn đề của đất nước, Bác nói rất giản dị:
Thu này hơn những thu qua
Kháng chiến thắng lợi gấp ba, bốn lần.
(1953)
Vấn đề cải cách ruộng đất là vấn đề lớn của xã hội, của đất nước vậy
mà Bác vẫn làm cho các cháu hiểu được:
Phát động nông dân
Cải cách ruộng đất
Dân đỡ chật vật
Hăng hái tham gia
Xóm làng cho đến gần xa
Cơm no, áo ấm theo đà tiến lên
Còn chỉnh huấn, chỉnh quân có nghĩa là:
Bộ đội cố gắng
Quyết chiến quyết thắng
Giết giặc lập công
Khắp nơi Nam, Bắc, Tây, Đông.
Đưa tin thắng trận cờ hồng tung bay.
b. Thơ Bác viết rất trữ tình, làm xúc động lòng người. Tình cảm chân
thành ở một trái tim lớn bao giờ cũng có tác dụng mạnh.
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.
Hoặc:
Trên đồi cỏ mọc xanh xanh
Một đàn cò đậu ngoài ghềnh xa xa.
Bác dùng chữ rất chính xác có giá trị gợi cảm rất mạnh:
“Những cháu năm kia là những giao thông viên loắt choắt thì năm nay
đã thành những cán bộ đường hoàng…”
Trong những năm nước ta bị giặc Pháp chiếm đóng Bác viết:
“Thấy các cháu không được ăn Tết vui vẻ, lòng Bác rất áy náy thêm
căm giận thực dân Pháp”.
(Thư Trung thu 1948)
hoặc:
Đến ngày Nam, Bắc một nhà
Các cháu xúm xít thì ta vui mừng.
(1954)
III. KẾT LUẬN
Thơ văn Bác Hồ viết cho các cháu có một vị trí quan trọng trong nền
văn học dành cho thiếu nhi Việt Nam. Đó là những bài viết giản dị, trong sáng,
chan chứa tình thương yêu như tấm lòng của Bác. Mỗi bài văn, bài thơ của
Bác là một bài học dạy làm người. Những bài học ấy cùng với cuộc đời của
Bác như trăng rằm muôn đời sáng mãi, mãi mãi là kim chỉ nam cho sự vươn
lên của các thế hệ măng non Việt Nam.
Bài 8. TRUYỆN ĐỒNG THOẠIA. KHÁI NIỆM:
Ngoài các sáng tác truyền miệng dân gian, các sáng tác hiện đại dành
cho các em đa số đều sử dụng thể đồng thoại (hoặc là truyện đồng thoại hoặc
là thơ đồng thoại).
Vậy đồng thoại là gì? “Đồng thoại là một thể loại văn học đặc biệt, là
những câu chuyện đặc biệt viết cho trẻ em có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
hiện thực và mơ tưởng. Nhân vật của đồng thoại là loại vật, cỏ cây, đồ dùng
v.v… được nhân hóa một cách sinh động, đầy sức hấp dẫn. Thông qua hình
tượng nhân vật gần gũi và cốt truyện đơn giản, đồng thoại đề cập đến mọi
vấn đề của cuộc sống bằng sức tung hoành của chất tưởng tượng và giáo
dục con người mới có bản lĩnh một cách toàn diện”.
B. NỘI DUNG:
1. Phản ánh cuộc sống của thời đại, ca ngợi cuộc sống mới, con người
mới.
Những tác phẩm tiêu biểu là:
Con mèo lười, Chim chích lạc rừng của Tô Hoài.
Cái mai của Võ Quảng.
Hải đảo xa xôi của Hải Hồ.
2. Mô tả một cách sinh động sinh hoạt của các em như trong:
Cái Tết của mèo con của Nguyễn Đình Thi.
Chú đất nung của Nguyễn Kiên.
Cuộc phiêu lưu của mèo con và chó con của Chu Hồng Hải.
3. Trang bị một ít kiến thức khoa học cho các em, làm phong phú trí
tưởng tượng của các em và giúp các em bước đầu làm quen và dần dần đi
sâu vào các lĩnh vực của khoa học tự nhiên.
Tiêu biểu cho nội dung này có những tác phẩm sau:
Ông than đá củaViết Linh.
Lũ bướm đêm của Thế Vũ.
Cô kiến trinh sát của Vũ Kim Dũng.
C. NGHỆ THUẬT:
Hình tượng cụ thể và sinh động, kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng
và ước mơ của các em.
Cốt truyện rõ ràng, chất thơ dồi dào, ước mơ bay bỗng.
Làm “lạ hóa” cái bình thường, vì vậy phải phóng đại, tô đậm, chắt lọc.
D. ĐỒNG THOẠI VỚI TRẺ MẪU GIÁO:
Truyện đồng thoại rất phù hợp với trẻ mẫu giáo. Qua đồng thoại các bé
học tập được nhiều điều hay, bổ ích giúp cho việc hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Trong chương trình cải cách mẫu giáo chúng ta có những
tác phẩm tiêu biểu như sau:
Truyện:
1. Bác gấu đen và hai chú thỏ.
2. Chú vịt xám.
3. Đôi bạn tốt.
4. Ai đáng khen nhiều hơn.
5. Hoa mào gà.
(Tập trung giáo dục các cháu biết thương yêu, nhường nhịn và giúp đỡ
người khác).
6. Ba cô tiên.
7. Quả bầu tiên.
(Giáo dục các cháu phải biết vâng lời ông bà, cha mẹ và có lòng hiếu
thảo)
8. Bê con nhanh trí.
9. Chú dê đen.
(Giáo dục các cháu đức tính tự tin, dũng cảm, thông minh, nhanh nhẹn)
Thơ:
1. Ong và bướm Nhược Thủy
2. Gấu qua cầu Nhược Thủy
3. Cây dây leo Xuân Tửu
4. Thỏ Bông bị ốm
5. Mèo đi câu cá Thái Hoàng Linh
6. Chú bò tìm bạn Phạm Hổ
7. Ông trời hèn Ngô Thị Bích Hiền
Bài 9. TRUYỆN VIẾT CHO TRẺ EM CỦA TÔ HOÀII. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
– Sinh ngày 16/8/1920, tên thật là Nguyễn Sen.
Những bút danh khác: Mai Trang, Mắt biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích,
Hồng Hoa.
Sinh ra và lớn lên ở quê ngoại tronng một gia đình làm thợ thủ công ở
vùng đất sông Tô Lịch (Nghĩa Đô, Hoài Đức nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà
Nội).
1943: tham gia tổ chức văn hóa cứu quốc, viết báo bí mật, tuyên
truyền cách mạng hoạt động liên tục đến Tổng khởi nghĩa.
Tô Hoài bắt đầu con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất
lãng mạn nhưng ông đã nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và
được chú ý ngay từ những truyện ngắn đầu tay đặc biệt là mảng truyện về đề
tài loài vật.
Tác phẩm chính của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám:
+ Dế mèn phiêu lưu ký (truyện, 1941).
+ Võ sĩ bọ ngựa (truyện).
+ Quê người (tiểu thuyết, 1942).
+ O chuột (tập truyện ngắn, 1942).
+ Trăng thề (truyện, 1943).
+ Đám cưới chuột (truyện, 1943).
Trong những năm kháng chiến chống Pháp:
+ Núi cứu quốc (tập truyện ngắn, 1948).
+ Xuống làng (tập truyện ngắn, 1950).
+ Truyện Tây Bắc (giải nhất tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt
Nam 1954- 1955).
Từ sau 1954 sáng tác của Tô Hoài phong phú hơn về đề tài và thể
loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch đồng thoại, kịch bản phim.
+ Chim chích lạc rừng (truyện, 1960).
+ Vừ A Dính (truyện, 1963).
+ Kim Đồng (kịch phim, 1973).
+ Đảo hoang (tiểu thuyết, 1976, dựa theo tiểu thuyết Quả dưa đỏ
của Nguyễn Trọng Thuật).
+ Đàn chim gáy (kịch, 1987).
+ Con mèo lười (kịch phim).
Có thể nói đặc điểm bao trùm sáng tác cho các em của Tô Hoài là sự
trong sáng và luôn luôn mới mẻ. Văn của ông lúc thì sôi nổi, lúc thì thủ thỉ tâm
tình, những đoạn đối thoại, độc thoại đều rất gọn và hấp dẫn. Có thể đưa ra ở
đây một đoạn tác giả tả tâm trạng của một em bé đợi chim như đợi một người
bạn thân thiết: “Bé có ý đợi. Bé nóng ruột đợi chích bông. Hồi năm ngoái
trước khi đi, chích bông có hẹn sẽ về sớm. Vả lại, bé mong là phải như chúng
ta đã biết đấy, chích bông là bạn thân nhất của bé. Chích bông cũng bé mà
ngoan và chăm như bé” hoặc trong kịch bản “Con mèo lười”, chú mèo đã
chống chế bằng cách lý luận: “Chẳng may tớ phải sinh làm giống mèo mũi đỏ,
tớ không biết bắt chuột, tớ chỉ biết ăn vụng”. Tóm lại, Tô Hoài là một trong
những nhà văn có nhiều tác phẩm tốt cho thiếu nhi, một cây bút xuất sắc của
các em. Ông là người mở đầu và có những cống hiến đáng kể cho nền văn
học thiếu nhi hiện đại và là người có công đầu trong việc đề xuất, vận động
thành lập một nhà xuất bản dành riêng cho các em đặt dưới sự phụ trách trực
tiếp của Trung ương Đoàn (6/1957) – Nhà xuất bản Kim Đồng.
II. GIỚI THIỆU ĐỒNG THOẠI: “DẾ MÈN PHIÊU LƯU KÝ”
Sáng tác vào tháng 12/1941 trước Cách mạng tháng Tám, không
những trẻ em thích mà cả người lớn cũng say mê. Gồm 10 chương. Tác
phẩm thuộc dòng văn học tiến bộ trước Cách mạng tháng Tám. Nó đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nơi trên thế giới như: Đức, Tiệp,
Ba Lan, Mông Cổ, Rumani, Nam Tư, Miến Điện, Ấn Độ, Nhật Bản và mười ba
nước cộng hòa ở Liên Xô (cũ).
– Là tác phẩm đặc sắc nhất trong các truyện loài vật mô tả những cuộc
phiêu lưu của một chú dế mèn qua thế giới loài vật và con người, qua đó nhà
văn bộc lộ khả năng quan sát và miêu tả tinh tế, dí dỏm, tâm hồn nhạy cảm
với thiên nhiên và cuộc sống hoà bình, thân ái.
Thiên truyện kể về cuộc đời vô cùng sôi nổi nhưng đầy sóng gió của
một chú dế mèn trẻ tuổi vốn là hình ảnh sinh động của cả một lớp tuổi trẻ thời
bấy giờ. Trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội cũ tác giả cũng đã gởi gắm vào
đấy ước mơ của lớp trẻ muốn thoát ra khỏi cuộc sống ngột ngạt đương thời.
* Tô Hoài đã có công lớn trong việc xây dựng nên những truyện loài vật
có sức sống lâu dài trong văn học thiếu nhi. Nó mãi mãi mang ý nghĩa giáo
dục to lớn cho các em và cho cả người lớn. Ông quả là bậc thầy của truyện
đồng thoại Việt Nam, cho có nhà văn nào qua được ông từ đó đến nay ở
mảng đề tài độc đáo này. Phải có tấm lòng yêu thương, gắn bó với quê
hương xóm làng, yêu thiết tha thiên nhiên, loài vật và nhất là phải có tài quan
sát nhạy bén, tinh tế, sắc sảo, óc tưởng tượng phong phú, ông mới có những
trang viết chính xác, linh hoạt và sâu sắc đến như vậy.
Bài 10. THƠ CỦA PHẠM HỔ VIẾT CHO TRẺ EMI. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Sinh ngày 28/11/1926 tại xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình
Định.
Sống trong một gia đình có truyền thống văn học, say mê văn học từ
nhỏ, nhất là văn học thiếu nhi.
Thích sáng tác và từ nhỏ đã viết một số tác phẩm.
Sau Cách mạng tháng Tám hoạt động thông tin tuyên truyền ở Qui
Nhơn. Được sống và làm việc với Trần Mai Ninh một nhà thơ một nhà văn
cách mạng dìu dắt nên chịu ảnh hưởng tích cực của nhà văn này.
1954 tập kết ra Bắc làm công tác văn nghệ, lần lượt công tác ở các
Nhà xuất bản Kim Đồng, Văn học, báo Văn nghệ. Từ năm 1976 là ủy viên ban
biên tập tuần báo này.
Cùng với Tô Hoài, Võ Quảng thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng.
Sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và cả
phê bình nữa, nhưng tiếng vang của những tác phẩm này trong người đọc
không nhiều. Thành công hơn cả là trong lĩnh vực viết cho thiếu nhi, đặc biệt
là lứa tuổi nhi đồng. Sáng tác của Phạm Hổ có thể chia làm 3 loại:
+ Những tập thơ viết cho nhi đồng.
+ Những câu chuyện về các loài hoa và quả.
+ Những vở kịch viết về con người Việt Nam anh hùng kể cả trong
truyền thuyết.
* Thơ:
Chú bò tìm bạn (1957).
Em thích em yêu (1958).
Những người bạn nhỏ (1960).
Bạn trong vườn (1967).
Từ không đến mười (1973).
Mẹ, mẹ ơi cô bảo (1980).
Những người bạn im lặng (1984).
Những người bạn hay nhảy (1994).
* Truyện:
Viết thư cho cha (truyện sinh hoạt, 1959).
Khẩu súng người ông (1960).
Cất nhà giữa hồ (cổ tích Tây Nguyên, 1964).
Chuyện hoa, chuyện quả (cổ tích mới, 2 tập: 1974, 1982).
Ngựa thần từ đâu đến (truyện tuyển chọn, 1986).
Cô kể cháu nghe (chủ biên, 1987).
Những chú sẻ con (đồng thoại, 1988).
* Kịch:
Nàng tiên nhỏ thành ốc (1981).
Tìm gặp lại anh (1982).
Người gái hầu của Mỵ Châu (1984).
Mỵ Châu và chiếc áo lông ngỗng (1986).
Nội dung thơ của Phạm Hổ tập trung vào hai chủ đề chính:
+ Yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
+ Ca ngợi tình bạn, tình mẹ con, bà cháu…
Nói về thơ Phạm Hổ trước hết là nói về thơ thiên nhiên. Dù rằng ca
ngợi thiên nhiên là một đặc điểm chung của các nhà văn nhà thơ viết cho nhi
đồng.
Viết về con đom đóm, các nhà thơ Võ Quảng, Phạm Hổ, Quang Huy và
nhà thơ Liên Xô Irina đều có cách khai thác riêng, không giống nhau tuy có
điểm chung là hết sức nâng niu, yêu mến cái chấm sáng bé nhỏ, khiêm tốn
ấy. Võ Quảng thì nhìn đom đóm dưới góc cạnh chuyên cần:
Mặt trời gác núi
Bóng tỏa lan dần
Anh đóm chuyên cần
Lên đèn đi gác.
Còn Phạm Hổ, qua lời thơ nhẹ nhàng, anh như thủ thỉ với các em, như
một em bé thơ ngây, nũng nịu hỏi cái chấm sáng bé tí ấy:
Anh đom đóm ơi
Đèn anh xanh gắt
Gió thổi không tắt
Anh xách đi đâu?
Tôi ra đầu cầu
Lập lòe soi lối
Cho cóc tối tối
Đi học bình dân.
Chú đom đóm khiêm tốn biết chừng nào!
Còn nhà thơ I–ri–na thì viết:
Tại sao mà bạn
Nhấp nháy ngày đêm?
Mình ơi! Rõ ngốc
Nhỡ mình bị lạc
Tớ soi cho mình.
Đom đóm ở đây có vẻ “anh chị” lắm!
Thế giới rau củ, quả còn ít nhà thơ nhắc đến nhưng với Phạm Hổ mỗi
loại rau củ đều có những nét riêng, hấp dẫn, ngọt ngào.
“Củ cà rốt” trong cách miêu tả của Phạm Hổ như một cậu bé chân sáo:
Lá xanh
Củ đỏ
Lớn nhỏ
Bên nhau
Đất đội
Ngập đầu
Nhảy lên
Đẹp thật
Tên em
Cà rốt
Củ đỏ
Lá xanh
“Cây bắp cải” với ba chữ một dòng như cuốn bó với nhau:
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Bắp cải sắp
Sắp vòng tròn
Bắp cải non
Nằm ngủ giữa.
Thơ Phạm Hổ rất tươi mát và rất trẻ. Nếu không gần gũi các em, không
nắm được tâm lý các em thì không thể sáng tác được bài “Xe chữa cháy”.
Đây là bài thơ được các em nhiều thế hệ ưa thích. Dưới ngòi bút nhà thơ, xe
chữa cháy hiện ra như một chú bé hiếu động, ồn ào nhưng luôn luôn sẵn
sàng giúp đỡ mọi người.
Mình đỏ như lửa
Bụng chứa nước đầy
Tôi chạy như bay
Hét vang đường phố
Nhà nào bốc lửa
Tôi dập tắt ngay
Ai gọi “chữa cháy
Có ngay… có ngay…”
Thơ Phạm Hổ cũng rất ngộ nghĩnh. Ai từng qua tuổi thơ lại chẳng thấy
bóng mình trong bài “Ngủ rồi”:
Mẹ gà hỏi han
Ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn nhao nhao
Ngủ rồi đấy ạ!
Hoặc:
Bài “Chuột” với nụ cười sảng khoái, thiết tha:
Tranh “Đám cưới chuột”
Chuột khen hết lời.
Trò “Mèo đuổi chuột”
Chuột chẳng thích chơi.
Sử dụng yếu tố bất ngờ trong thơ cũng là điểm nổi bật ở Phạm Hổ.
Nhiều bài thơ của ông có kịch tính, có kết thúc rất đột ngột, người đọc như
sững lại rồi mới thấm thía sự thú vị:
Thỏ chạy, trăng chạy
Thỏ dừng, trăng dừng
Thỏ con ngẩng mặt
Nhìn trăng lạ lùng:
“Trăng ơi, có phải
Trăng cũng có chân?”
Thơ Phạm Hổ cũng rất sinh động vì lời thơ hỏi và đáp:
Sao hoa sen, hoa đào không nở cùng một lúc?
Hoa chia nhau trực mùa như các em trực lớp.
Hoặc
Sao hai kim đồng hồ, cái chạy nhanh chạy chậm?
Vì cái này chân dài, cái kia chân ngắn.
II. KẾT LUẬN:
Đọc hết thơ, truyện và kịch viết cho các em của Phạm Hổ sẽ thấy nổi rõ
lên hai điểm này ở con người của tác giả:
+ Lòng yêu trẻ, yêu con người và cuộc sống thật đôn hậu và trong
sáng.
+ Sức làm việc bền bỉ, trí tưởng tượng dồi dào và phong phú. Chính hai
điểm mạnh này đã giúp Phạm Hổ luôn luôn tìm tòi và sáng tạo cho đối tượng
tuổi thơ.
Có thể nói hơn 40 năm qua, Phạm Hổ đã góp một tiếng nói riêng vào
vườn thơ thiếu nhi. Có thể lấy lời phát biểu của Phạm Hổ để chúng ta hiểu
thêm về ông: “Đối với tôi, được sống và viết cho các em là cả một hạnh phúc.
Tôi thường lấy lòng yêu các em bé của tôi để làm cái thước đo lòng tôi yêu
nhân dân, yêu Đảng, yêu con người. Tôi yêu và mê say công việc của tôi:
Tôi làm những bài thơ nho nhỏ
Như những hòn bi xanh, đỏ các em chơi
Như những quả quýt, quả cam
Các tay em bóc vỏ, miệng cười.
Bài 11. THƠ VÀ TRUYỆN CỦA VÕ QUẢNG VIẾT CHO TRẺ EMI. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
– Sinh ngày 01/03/1920, quê ở xã Đại Hòa Đại Lộc Quảng Nam Đà
Nẵng, quê hương có dòng sông Thu Bồn và cũng là quê hương của văn học
nghệ thuật.
– Là người chịu ảnh hưởng mẫu mực của văn học cổ điển Pháp. Lớn
lên trong một gia đình nhà nho. Cụ thân sinh của Võ Quảng làm nhiều thơ và
bạn bè thường tụ tập ở nhà Võ Quảng để bình thơ.
Học giỏi văn và thích sáng tác.
Cách mạng tháng Tám thành công, Võ Quảng tham gia cách mạng.
1954 tập kết ra Bắc, làm công tác văn nghệ.
1957 cùng với Tô Hoài và Phạm Hổ thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng
(Tổng biên tập).
Vừa viết văn, vừa làm thơ. Có sự nghiệp sáng tác phong phú và đa
dạng được các em yêu mến.
* Về thơ có những tác phẩm:
– Gà mái hoa
Thấy cái hoa nở
Nắng sớm
NXB Kim Đồng –1957
NXB Kim Đồng –1962
NXB Kim Đồng –1965
Anh đom đóm
Én hát và Đu quay
Măng tre
Ông trăng thu
Chị chổi tre
NXB Kim Đồng – 1970
NXB Kim Đồng – 1972, in chung
NXB Kim Đồng – 1970
NXB Kim Đồng
NXB Kim Đồng
* Về truyện có những tác phẩm:
Cái thăng
Chỗ cây đa làng
– Cái mai
Những chiếc áo ấm
Quê nội
Bài học tốt
Tảng sáng
NXB Kim Đồng – 1961
NXB Kim Đồng 1964
NXB Kim Đồng – 1967
NXB Kim đồng – 1970
NXB Kim Đồng – 1973
NXB Kim Đồng – 1975
NXB Kim Đồng 1978
II. NỘI DUNG THƠ VÀ TRUYỆN CỦA VÕ QUẢNG
A. NỘI DUNG THƠ:
Nói về tuổi thơ và cuộc sống.
Giáo dục những bài học đầu tiên về đạo đức của con người: yêu con
người, yêu lao động.
– Yêu mến thế giới thiên nhiên, thế giới đầy hấp dẫn của tuổi thơ và
yêu mến quê hương đất nước.
B. NỘI DUNG TRUYỆN:
Tập trung hai nội dung chính:
– Chủ đề cách mạng (Quê nội).
Nói về tuổi thơ (Cái thăng).
Có thể nói mục đích quán xuyến trong tất cả các tác phẩm của Võ
Quảng là nhằm giáo dục cho các em tình thương, tình thương giữa nhân dân
lao động với nhau, tình thương của những người công chiến đấu cho sự
thắng lợi, phồn vinh của đất nước, ca ngợi sự hy sinh quên mình, xả thân vì
tổ quốc, vì đồng bào đang phải sống trong cảnh nô lệ. Võ Quảng còn chú
trọng vẽ lên cái đẹp của thiên nhiên, đất nước vì đối với thiếu nhi việc ấy rất
cần thiết và đó cũng là một trong các hình thức giáo dục cho các em lòng yêu
nước. Có thể nói Võ Quảng là nhà văn viết cho thiếu nhi biết vận dụng các
quan điểm giáo dục tình thương đó cho các lứa tuổi thiếu nhi một cách đúng
đắn và linh hoạt trong sáng tác.
III. KẾT LUẬN
Hơn ba mươi năm bước vào nghề văn, Võ Quảng trọn vẹn là một nhà
văn nhà thơ viết cho trẻ. Là một người viết có tâm huyết, có khả năng thể
hiện phù hợp với bạn đọc nhỏ tuổi. Ông có nhiều tác phẩm hay đóng góp cho
nền văn học thiếu nhi hiện đại.
Giới thiệu:
Quê nội.
Cái thăng.
Bài 12. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC PHẨM VIẾT CHO TRẺ MẪU GIÁO CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC
Ngoài số nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp viết cho thiếu nhi như:
Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Võ Quảng, Đoàn Giỏi v.v… còn có
sự góp mặt của Phong Thu, Tú Mỡ, Xuân Quỳnh, Nhược Thủy, Phan Thị
Thanh Nhàn, Định Hải, Quang Huy, Thu Hà, Thy Ngọc v.v… Các tác giả này
đã có nhiều tác phẩm hấp dẫn lứa tuổi trẻ thơ.
* Phan Thị Thanh Nhàn là một nhà thơ. Chị được nhiều bạn đọc yêu
mến vì những bài thơ trữ tình, tinh tế.
BÁC HỒ CỦA EM
Khi em ra đời
Đã không còn Bác
Cho còn tiếng hát
Chỉ còn lời ca
Chỉ còn câu chuyện
Chỉ còn bài thơ…
Và em vẫn thấy
Bác sao rất gần
Năm điều Bác dạy
Mãi còn vang ngân.
LÀM ANH
Làm anh khó đấy
Phải đâu chuyện đùa
Với em bé gái
Phải “người lớn” cơ
Khi em bé khóc
Anh phải dỗ dành
Nếu em bị ngã
Anh nâng dịu dàng
Mẹ cho quà bánh
Chia em phần hơn
Có đồ chơi đẹp
Cũng nhường em luôn
Làm anh thật khó
Nhưng mà thật vui
Ai yêu em bé
Thì làm được thôi
NÀNG TIÊN ỐC
Xưa có bà già nghèo
Chuyên mò cua bể ốc
Một hôm bà bắt được
Một con ốc xinh xinh
Vỏ nó biêng biếc xanh
Không giống như ốc khác
Bà thương không muốn bán
Bèn thả vào trong chum
Rồi bà lại đi làm
Đến khi về thấy lạ
Sân nhà sao sạch quá?
Đàn lợn đã được ăn
Cơm nước nấu tinh tươm
Vườn rau tươi sạch cỏ
Bà già thấy chuyện lạ
Bèn có ý rình xem
Thì thấy một nàng tiên
Bước ra từ chum nước
Bà già liền bí mật
Đập vỡ vỏ ốc xanh
Rồi ôm lấy nàng tiên
Không cho chui vào nữa
Hai mẹ con từ đó
Rất là thương yêu nhau
* Định Hải có nhiều ngộ nghĩnh xông xáo trong:
HƯƠU CAO CỔ
Hươu cao cổ
Có móc câu
Gật gật đầu
Trông ngộ nhỉ
Cho nắm lá
Hươu không ăn
Hươu vẫn chăm
Làm việc nặng
Yêu bến cảng
Có bầy hươu
Sớm lại chiều
Câu hàng hóa.
ĐÀN KIẾN NÓ ĐI
Một đàn kiến nhỏ
Đang chạy bên này
Chạy ngược chạy xuôi
Lại sang bên nọ
Chẳng ra hàng một
Chẳng thành hàng đôi
Đang chạy bên này
Lại sang bên nọ
Cắm cổ, cắm cổ
Kìa trông xấu quá
Chúng em vào lớp
Sóng bước hai hàng
Chẳng như kiến nó
Rối tinh cả đàn.
* Nhược Thủy là tác giả của nhiều bài thơ hay được tuyển chọn trong
trong quyển “Thơ ca mẫu giáo” Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1976.
Tập thơ tuyển chọn 59 bài, thì 30 bài là của Nhược Thủy. Không những thế ở
lĩnh vực truyện kể, Nhược Thủy cũng có nhiều đóng góp cho nền văn học
thiếu nhi đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo.
TRĂNG SÁNG
Sân nhà em sáng quá
Nhờ ánh trăng sáng ngời
Trăng tròn như cái đĩa
Lơ lửng mà không rơi
Những hôm nào trăng khuyết
Trông giống con thuyền trôi
Em đi trăng theo bước
Như muốn cùng đi chơi
Phương Hoa và Nhược Thủy
MÁ BẢO
Má bảo em rằng
Khi nào có lỗi
Đừng tìm cách chối
Nhận mới đáng khen
Giấu lỗi là hèn
Thẹn lây cả má.
ANH KIM ĐỒNG
Anh Kim Đồng
Làm liên lạc
Mang thư mật
Rất tài tình
Đi một mình
Trong rừng tối
Khi lội suối
Lúc trèo đèo
Khó bao nhiêu
Cũng làm nổi
Dù no đói
Vẫn gắng công
Anh Kim Đồng
Thật dũng cảm
CẦU VỒNG
Mưa rào vừa tạnh
Có các cầu vồng
Ai vẽ cong cong
Tô màu rực rỡ
Tím, xanh, vàng, đỏ
Ồ hai cái cơ
Cái rõ, cài mờ
Ai làm thế nhỉ?
GẤU QUA CẦU
Hai con gấu xinh xắn
Bước xuống hai đầu cầu
Chú nào cũng muốn mau
Vượt cầu sang kia trước
Không ai chịu nhường bước
Cãi nhau mãi không thôi
Chú nhái bén đang bơi
Ngẩng đầu lên và bảo:
“Cái cầu thì bé tẹo
Ai cũng muốn sang mau
Nếu cứ cố chen nhau
Thì có anh ngã chết
Bây giờ phải đoàn kết
Cõng nhau quay một vòng
Đổi chỗ, thế là xong
Cả hai cùng qua được”.
ONG VÀ BƯỚM
Con bướm trắng
Lượn vườn hồng
Gặp con ong
Đang bay vội
Bướm liền gọi
Rủ đi chơi
Ong trả lời:
Tôi còn bận
Mẹ tôi dặn
Việc chưa xong
Đi chơi rong
Mẹ không thích
* Thu Hà với những bài thơ dịu dàng, đầy màu sắc dễ thương.
HOA KẾT TRÁI
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đóm lửa
Hoa vừng nho nhỏ
Hoa đỏ xinh xinh
Hoa mận trắng tinh
Rung rinh trong gió
Này các bạn nhỏ
Đừng hái hoa tươi
Hoa yêu mọi người
Nên hoa kết trái.
THỎ TRẮNG
Em yêu chú thỏ
Lông trắng như bông
Hai mắt hồng hồng
Tai dài thẳng thẳng
Cái đuôi chỉm choẳn
Thỏ nhảy rất nhanh
Em hái lá xanh
Về cho chú thỏ
Bài 13. THƠ TRẦN ĐĂNG KHOAI. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
– Sinh ngày 26/04/1958 ở xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Hưng.
Có khiếu làm thơ rất sớm, 8 tuổi đã có những bài thơ hay.
Sinh trưởng trong một gia đình mà mọi người đều say mê văn học
nhất là anh ruột của Trần Đăng Khoa là giáo viên cấp II rất say mê đọc và làm
thơ. (Bà ngoại cũng hay ru Khoa bằng những điệu chèo Lưu Bình – Dương
Lễ, Quan âm Thị Kính; mẹ hay ru truyện Kiều, đọc ca dao và kể chuyện cổ
tích v.v…).
Khoa rất thích tham gia những hoạt động văn học. Ở trường Khoa học
xuất sắc môn văn học (thi học sinh giỏi Văn lớp 7 miền Bắc năm 1972 Khoa
đạt giải nhất).
Thơ được đăng báo từ năm 8 tuổi và từ đó Khoa viết liên tục, được
xuất bản thành tập và được dịch sang một số tiếng nước ngoài như: Pháp,
Cu ba, Liên Xô (cũ), Đức, Nauy, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bungari, Tiệp
Khắc v.v…
Là cây bút xuất sắc nhất trong số các em bé làm thơ ở nước ta, đỉnh
cao của văn học thiếu nhi thời chống Mỹ.
Ngày 1/5/1975 đang học năm cuối phổ thông, Trần Đăng Khoa xung
phong đi bộ đội.
Hiện nay đã tốt nghiệp đại học lý luận của Viện văn học Gorki (Nga),
đang công tác tại tạp chí Văn nghệ quân đội.
* Một số tác phẩm tiêu biểu:
+ Từ góc sân nhà em
+ Khúc hát người anh hùng
+ Góc sân và khoảng trời
+ Thơ Trần Đăng Khoa
+ Bên cửa sổ máy bay
NXB Kim Đồng – 1968
NXB Phụ nữ 1975
NXB Kim Đồng 1975
NXB Kim Đồng – 1983
NXB Tác phẩm mới – 1986
II. NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
A. NỘI DUNG:
1. Miêu tả và ca ngợi thiên nhiên, đất nước, con người. Thiên nhiên
trong thơ Khoa là thiên nhiên không thể lẫn với bất cứ cảnh thiên nhiên nào
khác (Trăng ơi từ đâu đến; Hạt gạo làng ta; Trăng sáng sân nhà em; Buổi
sáng nhà em; Ò, ó, o; Mưa; Vườn em; Đánh thức trầu…).
2. Thể hiện tình cảm ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên của tuổi thơ đối
với bà, với mẹ, với em, với cô giáo (Dặn em, Khi mẹ vắng nhà, Mẹ ốm, Em
dâng cô một vòng hoa, Kể cho bé nghe, Bàn chân thầy giáo…).
3. Thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha với Bác Hồ, người Bác vô
cùng gần gũi với các em (Ảnh Bác, Hà Nội có Bác Hồ, Em gặp Bác Hồ, Cháu
thề phấn đấu suốt đời…)
B. NGHỆ THUẬT:
1. Thơ Trần Đăng Khoa đầy chất trữ tình, hay sử dụng các biện pháp
so sánh, tu từ, nhân hóa.
2. Màu sắc kỳ diệu, tươi mát, hình ảnh sống động, tinh tế, sáng tạo,
sức tưởng tượng phong phú.
3. Ngôn ngữ đa dạng, tinh tế, giàu âm thanh, giàu hình ảnh.
Chương IV. VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI
Bài 14. VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀII. VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI DÀNH CHO MẪU GIÁO
Nền văn học của nhân loại rất phong phú. Nhiều tác phẩm gần gũi và
phù hợp sự cảm nhận của tuổi thơ. Những câu chuyện dân gian kỳ điệu,
những câu thơ dân gian lý thú là thức ăn tinh thần không thể thiếu được trong
đời sống của trẻ.
Nhu cầu thưởng thức văn học của thiếu nhi nói chung và trẻ mẫu giáo
nói riêng ngày càng cao. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề sáng tác tác
phẩm văn học cho tuổi thơ được đặt ra một cách nghiêm túc và tầm quan
trọng của vấn đề này được xác định rất rõ.
Văn học từ lâu đã được khẳng định là một phương tiện giáo dục. Vì vậy
các nhà giáo dục, các nhà văn chọn lọc các tác phẩm văn học, các trích đoạn
phù hợp với trẻ đồng thời sáng tác những truyện kể, những bài thơ hồn nhiên
vui tươi, dí dỏm hợp thành bộ phận văn học dành cho mẫu giáo. Bên cạnh
việc sưu tầm, chọn lọc, chỉnh lý, cải biên các sáng tác dân gian phù hợp với
trẻ, nhiều chuyện đồng thoại, thơ đồng thoại, thơ mới có nội dung tích cực đã
được sáng tác. Số lượng và chất lượng các sáng tác dành cho thiếu nhi ngày
càng phong phú. Nhiều tác phẩm, nhiều tác giả xuất sắc mà chúng ta sẽ học
như: truyện cổ Anderxen (Đan Mạch), truyện cổ Grim (Đức) v.v…
Trong chương trình mẫu giáo của chúng ta hiện nay, trẻ được tiếp xúc
với một số chuyện kể nước ngoài để bước đầu tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, làm vốn liếng cho suy nghĩ và hành động như là một yếu tố trong việc
hình thành nhân cách con người mới Việt Nam có tinh thần quốc tế vô sản
trong sáng.
Cụ thể trẻ được tiếp xúc với 8 chuyện kể của Liên Xô, Đức và Pháp.
1. Cô bé quàng khăn đỏ – truyện cổ – Pháp.
2. Nhổ củ cải – truyện dân gian – Liên Xô.
3. Nồi cháo – truyện cổ Grim (Đức).
4. Tích Chu – truyện cổ – Liên Xô.
5. Dê con nhanh trí – truyện cổ – Grim (Đức).
6. Cáo, thỏ và gà trống – truyện dân gian – Liên Xô.
7. Ba cô gái – truyện cổ Liên Xô.
8. Chú dê đen – đồng thoại – Liên Xô.
II. NỘI DUNG CHÍNH VÀ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI
Thơ văn nước ngoài phản ánh những sắc thái riêng cuộc sống của
nhiều dân tộc trên thế giới đồng thời các sáng tác đó cũng đề cập đến vấn đề
chung mà mọi dân tộc cả nhân loại cùng quan tâm.
1. Nội dung:
Các tác phẩm văn học dành cho mẫu giáo đề cập đến mọi vấn đề trong
cuộc sống. Tuy nhiên vì năng lực nhận thức của trẻ còn hạn chế nên những
vấn đề mà nhà văn nói với trẻ cần được trình bày một cách đơn giản nhất,
phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của trẻ thơ. Chủ yếu là đề cập đến những
vấn đề gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ.
a. Giáo dục mối quan hệ giữa người với người cụ thể là giáo dục trẻ
tình cảm yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em (Tích Chu, Ba cô gái v.v…).
b. Giáo dục mối quan hệ giữa người với môi trường sống, cụ thể là giáo
dục trẻ yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước mà trẻ đang sống.
c. Giáo dục mối quan hệ giữa người với công việc: tập trung nhất là thể
hiện những phẩm chất của người lao động mới: chăm lao động, có ý thức tập
thể, biết đoàn kết giúp đỡ nhau, tính kiên trì, lòng dũng cảm (Dê con nhanh
trí, Chú dê đen, Nhổ củ cải).
2. Nghệ thuật:
Nhìn chung các tác phẩm văn học dành cho mẫu giáo đều ngắn gọn và
trong sáng.
a. Từ ngữ chính xác, cụ thể, dễ hiểu. Sử dụng nhiều từ loại quen thuộc
gần gũi với trẻ mẫu giáo nhất là danh từ và động từ.
b. Câu văn, câu thơ ngắn gọn, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, vui tươi,
dí dỏm (Chiếc mũ biết chạy – Quên Voi ngủ thế nào).
c. Kết cấu đơn giản và đôi khi có cả cốt truyện trong thơ (Mèo con đi
học – Quên – Gấu con).
Đặc biệt là thường hay sử dụng thủ pháp nghệ thuật của truyện cổ tích,
lối cấu trúc trùng điệp: một số đoạn hoặc một số chi tiết được lặp đi lặp lại làm
cho trẻ dễ nhớ, dễ thuộc câu chuyện.
TD:
Dê con nhanh trí, Những nhạc sĩ thành Brêm; Ba cô gái; Cáo, Thỏ và
gà trống v.v…
* Một số bài thơ hay dành cho trẻ mẫu giáo:
GẤU CON
Gấu con ốm mệt
Chú nằm lỳ trên giường
Chú đã chén mười cây xà lách
Sáu quả chuối và cả một trăm củ cải
Gấu bố sắc cho chú một chén thuốc cảm
Gấu mẹ cũng sắc cho chú một chén thuốc cảm
Chú phải uống thuốc cảm liền ba ngày
Ba ngày liền trên giường chú nằm mãi
Đó là lỗi của cả trăm củ cải
(R Lisê Pháp)
BÒ VÀ NHÍM
Bò thấy nhím
Đưa lưỡi liếm
Liếm xong, bò lắc đầu
Thè lưỡi kêu đau
Nhím thấy thế khoái chí cười lên tiếng
Chớ bạ cái gì cũng cho vào miệng nghe chưa.
(Vôrônkô– Liên Xô)
MÈO CON ĐI HỌC
Mèo ta bực tức
Mai phải đến trường
Liền kiếm cớ luôn
Cái đuôi tôi ốm
Cừu mới be toáng:
“Tôi sẽ chữa lành
Nhưng muốn cho nhanh
Cắt đuôi khỏi hết”
Cắt đuôi? Ấy chết!
(Vôrônkô Liên Xô)
QUÊN
Chú gà trống mới lớn
Leo lên đỉnh mái nhà
Định đọc một bài thơ
Nhưng quá đổi hồi hộp
Gà cất giọng lại ngắc
Nhớ được mỗi một từ
Đành gáy: Cúc cù cu!
(Viêru – Liên Xô)
VOI NGỦ THẾ NÀO
Người đã sắm giường
Cho voi ngủ ngon giấc
Nhưng voi vừa đặt mình
Giường đã kêu răng rắc
Giường nào mà chịu nổi
Voi to kềnh thế kia!
Nên từ đấy trở đi
Đêm đêm
Voi ngủ đứng
(Lăngdetti– Liên Xô)
CÁI VÒNG LUÂN CHUYỂN
Từ những hạt quýt
Nẩy ra mầm non
Mầm thành cây xanh
Ra hoa đầy cành
Hoa lá thành quả
Quýt vàng ngọt lành
Người ta ăn quả
Nhả hạt xinh xinh
Từ những hạt ấy
Lại ra mầm non
Mầm thành cây xanh
Ra hoa đầy cành
Hoa lại ra quả
Quýt vàng ngọt lành
Vòng quay luân chuyển
Tiếp mãi chẳng ngừng
(Miếcta Anghirê Cuba)
III. KẾT LUẬN
Văn học nước ngoài dành cho mẫu giáo mang những sắc thái riêng
phản ánh đời sống, tâm tư tình cảm của từng dân tộc, văn học dành cho mẫu
giáo được chọn lọc từ những tác phẩm ưu tú nhất là tinh hoa của văn học thế
giới.
Văn học nước ngoài dành cho mẫu giáo là phương tiện giáo dục hiệu
quả đối với lứa tuổi mẫu giáo, làm phong phú nhận thức và tình cảm của trẻ
bằng những hình thức diễn đạt mới lạ. Vì thế chúng ta nên thường xuyên tìm
hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn học nước ngoài viết cho các cháu để chọn lọc
các tác phẩm phù hợp, từ đó giúp cho các cháu rút ra được những bài học
quí báu cho mình.
Khi truyền đạt các tác phẩm văn học nước ngoài cho trẻ mẫu giáo
chúng ta cần lưu ý đến những sắc thái dân tộc bên cạnh việc khai thác triệt để
giá trị của tác phẩm.
Bài 15. LA FONTAINE (16211695)I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Là nhà thơ lỗi lạc của Pháp vào thế kỷ VII.
Sinh ngày 08/07/1621 tại Chateau Thierry. Thân phụ là Charles de la
Fontaine, làm quan trong ngạch kiểm lâm và kiểm soát việc săn bắn (người ta
cho rằng có lẽ vì sống trong khung cảnh ấy nên sau này thơ của tác giả
đượm mùi rừng núi và đầy rẫy muông chim thú vật).
– Lúc thiếu thời ông loay hoay mãi với việc chọn nghề. Thoạt đầu ông
vào học trường đạo nhưng lãng mạn như La Fontaine thì sống sao được
trong cảnh khô khan tu hành nên ông bỏ trường về và lại theo học luật (năm
ấy ông 19 tuổi – 1640).
27 tuổi (1648) cưới vợ con gái một vị thẩm phán ở Ferté Milon đồng
thời thừa kế chức vụ của thân phụ cho đến năm 1672.
– Ông làm thơ từ năm 22 tuổi. Tác phẩm của ông gồm nhiều loại: du
ký, tiểu thuyết, văn xuôi, thơ bốn đoạn, thơ tình, thơ trường thiên, hài kịch,
truyện ngắn và thơ ngụ ngôn. Thơ ngụ ngôn được coi là phần tác phẩm bất
hủ nhất của ông và được truyền tụng khắp nơi.
Thơ ngụ ngôn của ông là “một tấn trò cười rộng lớn, với trăm màn đổi
khác và sân khấu là cả thế gian”. Ông dùng thơ ngụ ngôn để vạch mặt trái
của chế độ quân thủ, quất vào vương quyền, thần quyền và những tật xấu.
Bên cạnh những bài châm biếm và răn đời mang tính thực dụng rút ra từ
những kinh nghiệm “xử thế” là những bài khích lệ đạo đức trong sáng, ca
ngợi lao động, tình thương yêu và tự do như nền tảng của nhân phẩm.
Thơ ông được đánh giá là một loại thơ rất độc đáo, không hùng hồn mà
sáng láng trí tuệ. Nó đến với mọi người, mọi nhà ở nhiều nước khác nhau làm
say mê người đọc thuộc mọi thế hệ và lứa tuổi, góp phần vào kho tàng văn
chương quý báu của loài người.
Ông có biệt tài khó có thể bắt chước được khi tả cảnh và tả nhân vật
trong khuôn khổ rất giới hạn của một bài thơ ngụ ngôn để biến nó thành một
vở kịch cười với đầy đủ những tính cách và những xung đột kịch tính.
Các bài thơ dài, ngắn không đều nhau, có bài chỉ trên dưới 10 câu (Chú
gà trống và hạt ngọc, Chim bị thương, Các thầy lang, Con cáo và chùm nho,
Ngựa và lừa), có bài dài trên 100 câu (Quạ linh dương, Rùa và chuột, Các
bạn bè của Uylixơ). Rất nhiều bài nổi tiếng được người đời truyền tụng không
chỉ ở Pháp mà cả ở nước ngoài như: Ve và Kiến; Hội đồng chuột; Cô bán
sữa; Rùa, thỏ chạy thi; Đàn bà với bí mật v.v…
Đề tài các truyện ngụ ngôn của ông phần nhiều lấy của Edốp và Phèdre
là các nhà ngụ ngôn nổi tiếng thời cổ đại, nhưng tác phẩm của ông vượt xa
các văn phẩm lấy làm mẫu vì không những gọn gàng mà lại còn mặn mà, ý
nhị, đầy đủ lý lẽ dạy đời hơn.
* Người là nhân vật chính trong các truyện nổi danh và hay nhất của La
Foutaine như truyện: Thần chết và bác tiều phu, Người nhà quê vùng sông
Danube, Cụ già và các con, Lão nông và các con, Cô bán sữa, Người thợ
giày và nhà tài chính, Bác nhà quê và con rắn, Đàn bà với bí mật, Đứa trẻ và
thầy đồ, Anh nghiện rượu và chị vợ, Thiếu phụ góa chồng v.v… Nhưng phong
phú nhất là các truyện với các vai chính là loài vật.
Theo ý kiến của Taine, một văn hào thế kỷ XIX thì La Fontaine có ý mô
tả những nhân vật đương thời ông. Thí dụ bài: “Loài vật mắc bệnh dịch hạch”
và bài “Tang lễ sư tử cái” là bức họa triều đình Pháp (sư tử đôi khi dùng để
chi vua Louis XIV, cáo để tượng trưng cho kẻ nịnh).
KẾT LUẬN
La Fontaine là một trong các thi sĩ đại tài của nước Pháp thế kỷ XVII. Vì
kỹ thuật tế nhị, vì nhịp điệu du dương của lời thơ các bài ngụ ngôn của La
Fontaine đứng vào hàng các tác phẩm tao nhã nhất và phức tạp nhất trong
nghệ thuật cổ điển.
Ông mất ngày 13/4/1695 ở nhà ông Hervart.
* Giới thiệu:
Truyện ngụ ngôn chọn lọc của La Fontaine và các bài thơ tiêu biểu
như:
Hội đồng chuột.
Ve và kiến.
Chó sói và cừu con.
– Rùa, thỏ chạy thi.
Bài 16. TRUYỆN CỔ GRIMM. JACOB GRIMM (1785 – 1863). WILHELM GRIMM (1786 – 1859)I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Truyện cổ Grimm là một trong những tập cổ tích nổi tiếng của thế giới
do hai anh em Grimm sưu tầm.
Vậy hai anh em là ai? Là nhà bác học Đức và nhà văn Đức.
Jacob Grimm (4/1/1785 – 20/9/1863) và Vinhelm Grimm (24/2/1786
16/12/1859) là hai anh em ruột sinh ở Hanau trong một gia trình công chức
quyền quý.
Cả hai anh em đều tốt nghiệp đại học luật ở Menbuốc và đều dành
nhiều tâm sức cho việc nghiên cứu ngữ văn học. Chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn Đức.
Hai anh em đã cống hiến trọn đời mình cho việc sưu tầm và nghiên cứu
văn học dân gian, biên soạn Bộ tự điển Đức và đặt nền móng cho nền ngữ
văn Đức và góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa của dân tộc Đức.
TD:
Dân ca cổ Đức – 1811
Anh hùng ca cổ Đức – 1829
Thần thoại Đức – 1835
Ngữ pháp tiếng Đức 1837
Lịch sử ngôn ngữ Đức 1848
Hai ông đã trông coi thư viện của vua Giôrôm Bonaparte, các thư viện
ở Catxin (1808– 1814), Cottingen.
Năm 1841 hai ông đến Berlin làm giáo sư trường Đại học Tổng hợp và
được bầu vào Viện hàn lâm Khoa học Đức.
Truyện cổ Grimm theo bản in của nhà xuất bản Xây dựng (Đức) thì
gồm hơn 200 truyện, có tiếng vang rất lớn trong nước Đức cũng như trên thế
giới bởi sự hấp dẫn cả về nội dung, cách kể chuyện cũng như ý nghĩa giáo
dục của nó. Truyện có tên là: “Truyện cổ trẻ em và truyện kể trong nhà”.
Kể từ khi ra đời (1815) cho đến nay tập truyện đã được tái bản nhiều
lần ở Đức và được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới.
Ở Việt Nam ta từ lâu những truyện như: Công chúa ngủ trong rừng,
Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Cô bé lọ lem, Cô bé quàng khăn đỏ, Bà chúa
Tuyết, Ông lão đánh cá và con cá vàng v.v… đã in sâu trong trí nhớ của mọi
người nhất là với tuổi thơ.
II. GIÁ TRỊ VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN CỔ GRIMM
A. NỘI DUNG:
1. Tố cáo và lên án xã hội bất công và giai cấp thống trị trong chế độ
phong kiến: bọn vua quan bất công, giả dối, gian ác, có khi là bọn địa chủ bóc
lột sức lao động và thành quả của người dân lao động thấp cổ bé miệng (bà
hoàng hậu kiêu sa ác độc đã tìm mọi cách để hãm hại nàng Bạch Tuyết xinh
đẹp; mụ dì ghẻ và hai có chị mặt mày sáng sủa mà tâm địa nhỏ nhen dùng
nhiều thủ đoạn để tranh cướp hạnh phúc của cô lọ lem hiền lành, đến khi lọ
lem vươn đến đỉnh cao hạnh phúc thì họ lại xum xoe cầu cạnh; con chuột dại
dột kết nghĩa với chú mèo gian ác tham lam, lười biếng chưa kịp rút ra một
bài học kinh nghiệm nào đã bị mèo nuốt chửng v.v…).
2. Là những bài ca đẹp đẽ phản ánh và cổ vũ tinh thần đấu tranh liên
tục của nhân dân để giành lại cuộc sống hạnh phúc.
Cuộc sống hạnh phúc không tự nhiên đến với người lao động họ phải
liên tục đấu tranh, có lúc tưởng đã thất bại hoàn toàn ước những thủ đoạn
gian manh, thâm độc của giai cấp thống trị (Bạch Tuyết tưởng như mãi mãi
nằm trong chiếc quan tài thủy tinh giữa tình thương của 7 chú lùn) nhưng nhờ
sự hỗ trợ tích cực của các lực lượng chính nghĩa mà họ buộc kẻ thù của họ
phải lùi bước. Những kẻ gây tội ác nhất định sẽ bị trừng trị.
Tuy nhiên thái độ phản kháng đó còn nằm trong khuôn khổ trật tự
phong kiến. Do hạn chế của điều kiện lịch sử, vấn đề xoá bỏ giai cấp thống trị
chưa được đặt ra, chỉ mới một số kẻ gian ác bị vạch mặt và trừng trị.
Truyện cổ Grimm như vậy chỉ mới đặt vấn đề giai cấp thống trị phải đối
xử nhân đạo với người dân lao động mà thôi.
3. Có ý nghĩa giáo dục khá đậm nét thông qua những câu chuyện phê
phán những thói hư tật xấu của các tầng lớp trong xã hội.
Sự giả dối, xảo quyệt là một trong những tính xấu bị phê phán trong
nhiều chuyện cổ. Từ ông vua cho đến những hạng người tốt mặt mà xấu dạ
đều trở thành những tên lố bịch trước chàng ngốc hiền lành nhưng được có
tài năng hỗ trợ (Con ngỗng vàng).
Thói tham lam (Hai vợ chồng người đánh cá), sự lười biếng, (Bà chúa
Tuyết), ngu dốt, kiêu căng… của con người cũng bị các tác giả dân gian châm
biếm chua cay.
4. Mặt khác, truyện cổ Grimm đặc biệt là những truyện được chọn lọc
đưa vào chương trình mẫu giáo của chúng ta đề cao bản chất tốt đẹp của
người lao động.
Người dân lao động kể cả trẻ thơ là những người thông minh, giàu tình
yêu thương và dũng cảm đấu tranh (Dê con nhờ biết vâng lời mẹ và xử trí hết
sức thông minh nên tránh được tai họa “Dê con nhanh trí”; Cô em gái giàu
lòng yêu thương dũng cảm chấp nhận đau khổ để cứu các anh thoát khỏi
cuộc sống tăm tối – “Bảy con quạ”; những chú lùn giàu lòng nhân ái đã tích
cực giúp cho Bạch Tuyết chống lại các thế lực bạo tàn “Bạch Tuyết và bảy
chú lùn”).
B. NGHỆ THUẬT:
1. Nhân vật trong truyện cổ nắm được chọn lọc hư cấu từ các tầng lớp
con người, từ các loài vật, các vật vô tri và cả loài quỷ. Mỗi nhân vật có một
nét riêng đặc biệt sắc sảo. Những hình tượng như: Bạch Tuyết, Chú lùn, Cô
lọ lem là những hình tượng độc đáo có sức hấp dẫn mãnh hệt.
2. Cách dựng truyện có cá tính: thường giàu kịch tính, mâu thuẫn nhiều
khi được đẩy đến cao như trong: “Bạch Tuyết và bảy chú lùn”, “Cô lọ lem”,
“Hai vợ chồng người đánh cá”, lối kể chuyện nhanh, vui tươi, lôi cuốn. Truyện
cũng giàu chất lãng mạn nhiều khi tưởng tượng bay bổng vì thế rất phù hợp
với trí óc hồn nhiên, ngây thơ của trẻ em.
KẾT LUẬN
Cuộc đời của hai anh em Grimm là tấm gương cống hiến trọn vẹn cho
nền văn hóa dân tộc Đức.
Tập truyện cổ Grimm gồm những câu chuyện đẹp đẽ và lý thú góp
phần hình thành trí tuệ của nhiều thế hệ ở nước Đức và ngoài nước Đức.
Cùng với Anđecxen, anh em Grimm là những nhà văn kỳ tài kể chuyện
cổ làm say mê lòng người và góp phần giáo đục bao đức tính tốt đẹp như
lòng trung thực, tính dũng cảm… cho hàng trăm thế hệ măng non từ hơn một
trăm năm nay. Đóng góp của họ cho nền văn học của nhân loại là rất to lớn.
Bài 17. HANS CHRISTAIN ANDERXEN (18051875)I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
– Nói đến các nhà văn nổi tiếng trên thế giới viết truyện cho trẻ em
không thể nào không nhắc đến nhà văn Đan Mạch thiên tài Hans Christain
Anderxen.
– Ông sinh ngày 2/4/1805, trong một gia đình nghèo ở thành phố
Ơđenzê cổ kính nổi tiếng với nghề chạm gỗ, cha là thợ giày, mẹ là thợ giặt.
Năm 1816, cha mất, mẹ tái giá, Anderxen bắt đầu phải lo tự lập kiếm sống.
Từ bé, Anderxen đã ham thích những câu chuyện cổ dân gian. Năm
1816 đến Côpênhagơ thử sức mình trong lĩnh vực sân khấu và thi ca nhưng
thất bại. Giám đốc một nhà hát ở thủ đô là Côlin mến tài cấp học bổng cho
Anđerxen vào học trường La tinh.
Năm 1835, Anderxen bước vào một thời kỳ sáng tác thành đạt, tác
phẩm khiến cho Anderxen nổi tiếng khắp thế giới là tập “Truyện kể cho trẻ
em” bao gồm trên 150 truyện (gồm 3 tập viết từ năm 1835 1837).
Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm khác như:
Agơnet và thủy thần (1834).
Người ngẫu hứng (1835).
Người kéo chuông tầm thường (1837).
– Cái bóng (1847).
– Bà mẹ (1848)
Chuyện đời tôi (tiểu thuyết tự sự 1846 1850).
Hai bà bá tước (1849).
Ông mất năm 1875.
II. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN ANDERXEN
A. NỘI DUNG:
1. Đề cao đạo đức của con người, phê phán sự bất công trong xã hội.
Xuất thân từ tầng lớp lao động nghèo, Anderxen hiểu rõ cuộc sống vất vả cay
đắng của người dân lao động, cảm nhận sâu sắc sự mâu thuẫn, sự phân chia
đẳng cấp giữa dân nghèo và tầng lớp quí tộc. Nhà văn đứng về phía người
nghèo, thông cảm với nỗi khổ cực, những cảnh bất công mà họ phải chịu
đựng trong chế độ phong kiến mà hố sâu giai cấp đã ngăn cách tình người…
TD: “ Cô bé bán diêm”, “Mụ ấy hư hỏng”.
2. Ca ngợi người lao động trong cuộc sống đã đấu tranh kiên trì và
dũng cảm để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt.
TD: “Nữ thần băng giá”.
3. Với cách nhìn nhân đạo của Anderxen, người lao động không chỉ là
những người khổ đau, không phải là những số phận dành sẵn cho sự khinh
miệt mà trái lại người lao động có phẩm chất tốt đẹp và tài năng tuyệt vời. Họ
là những người yêu đời và yêu người đến mức sẵn sàng hy sinh vì tình yêu
thương cao cả.
TD: “Nàng tiên cá”, “Bầy thiên nga”, “Chim họa mi”.
4. Phê phán mọi thói hư tật xấu của mọi tầng lớp xã hội đặc biệt là tiếng
nói đả kích bọn vua quan bất tài, ngu dốt, hợm hĩnh.
TD: “Bộ quần áo mới của hoàng đế”.
B. NGHỆ THUẬT:
Mượn cốt truyện ở huyền thoại, truyện cổ tích, truyện dân gian, truyện
lịch sử. Có khi hư cấu trên cơ sở cuộc sống hàng ngày nhưng dù là truyện
tưởng tượng hay hiện thực, sáng tác của ông luôn luôn bắt rễ từ cuộc sống
hiện thực. Chính Anderxen đã phát biểu: “Không có truyện kể nào hay hơn
được những điều do chính cuộc sống tạo nên”.
Các nhân vật trong tác phẩm của ông: từ thần tiên cho đến người đời
đều có một đời sống riêng biệt, một tâm hồn phong phú bộc lộ bản chất tốt
đẹp của người lao động.
Bút pháp của Anderxen vừa trào lộng vừa trữ tình, vừa lãng mạn vừa
hiện thực. Ông biết khám phá những khía cạnh thần kỳ, bất ngờ ngay trong
những sự vật đơn giản hàng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất
thơ nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan điểm nhân sinh và
xã hội tiến bộ của mình. Những câu truyện kỳ diệu đó lại có ý nghĩa hết sức
sâu sắc mà chỉ người lớn mới hiểu hết ý nghĩa.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp sáng tác của Anderxen không những có ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của nền văn học dân chủ Đan Mạch mà còn có tác dụng
quan trọng đến nền văn hóa dân chủ thế giới.
Ông là một nhà văn luôn luôn đứng về phía nhân dân lao động, thành
công xuất sắc về truyện viết cho trẻ em. Thành công của ông khẳng định con
đường sáng tác cho trẻ em. Đó là sử dụng bút pháp vừa lãng mạn, vừa hiện
thực để phản ánh cuộc sống với tinh thần nhân đạo cao cả. Chính vì thế mà
truyện của ông tuy viết ở thế kỷ trước mà đến nay ai đã nghe kể hoặc đọc
qua một lần cũng thấy rằng những nhân vật ấy sống mãi trong tâm trí mình,
không thể nào quên được.
Đúng như Pauxtôpxki, nhà văn Liên Xô nổi tiếng đã viết: “Ông là nhà
thơ của người nghèo khổ mặc dầu những đức vua coi sự được bắt bàn tay
gầy guộc của ông là một điều vinh dự… Ông là một ca sĩ bình dân, cả cuộc
đời ông chứng tỏ rằng kho báu của nghệ thuật chân chính chỉ có ở trong tri
thức của nhân dân và không ở một nơi nào khác…”.
Bài 18. ALEXANDR SERGEEVICH PUSHKIN – Là một tài năng văn học nhiều mặt của nước Nga thế kỷ XIX. Lịch sử
văn học Nga từng gọi ông là “Mặt trời của nền thi ca Nga”.
– Sinh năm 1799 ở Matxcơva trong một gia đình quý tộc Nga.
1811 học ở trường Lyceé ở Hoàng thôn – Petecbua.
1817 tốt nghiệp ở trường Lyceé. Làm việc ở Bộ ngoại giao. Sống cùng
gia đình ở Pêtecbua.
1820: Viết trường ca “Ruxlan và Lútmila”. Là người đã dẫn đầu chủ
nghĩa lãng mạn Nga.
1820 1824: bị lưu đày ở phương Nam do sự thù ghét của Nga hoàng
Nicôlai đệ nhất nhưng vẫn tiếp tục sáng tác.
1824 – 1826: bị giam lỏng tại trại ấp của gia đình ở làng
Mikhailôpxcôie (phương Bắc) và lần này bị đặt dưới sự quản chế chặt chẽ
hơn.
25 tuổi: là người dẫn đầu chủ nghĩa hiện thực Nga.
– Cuối năm 1828 Puskin về Matxcơva và quen một thiếu nữ đẹp trong
một cuộc vũ hội.
Năm 1831: cưới Natalia Gônsarova tại Matxcơva.
– 1837: để bảo toàn danh dự, Puskin quyết đấu với Đăngtec, kẻ đã phá
hoại hạnh phúc gia đình của nhà thơ. Puskin bị thương nặng và hai ngày sau
nhà thơ qua đời. Trái tim của nhà thơ Nga vĩ đại ngừng đập.
Đường đời Puskin dài 38 năm thì đường thơ đã dài tới 23 năm. Sự
nghiệp đồ sộ mà ông để lại gồm có: thơ, kịch, trường ca, truyện ngắn, truyện
cổ tích, tiểu thuyết lịch sử, phê bình, chính luận.
* Có thể nói, thời thơ ấu của Puskin đã trôi đi êm đềm tròng tổ ấm quí
tộc, dưới khoảng trời văn học gia đình. Puskin có đủ mọi điều kiện thuận lợi
mà dòng dõi gia đình và địa vị lai hội để dành cho văn học và thành đạt trên
đường công danh. Lẽ thường là vậy nhưng Puskin đã không trở thành một
quan đại thần hay một võ tướng của triều đình phong kiến và cũng không trở
thành một nhà thơ cung đình. Trải qua hai đời vua, Puskin vẫn giữ mình trọn
vẹn là một nhà thơ nhân dân.
Hoàn cảnh sống, môi trường sinh hoạt nhất là việc sớm tiếp xúc với
sách vở trong các thư viện của cha và bác chính là chìa khóa đã mở cho
Puskin nhiều cánh cửa để đi vào thế giới tri thức của dân tộc và nhân loại. Và
văn học dân gian từ bao đời nay vẫn là dòng sữa ngọt nuôi dưỡng những tâm
hồn nghệ sĩ. Bà nhủ mẫu, ông lão bộc là những gia nhân – nông nô đã đem
vào những tòa nhà quý tộc những giai điệu dân ca, những truyện cổ tích,
những lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Họ là những nhịp cầu nối liền
nhà thơ với nhân dân, mở cửa cho nhà thơ đến với tâm hồn Nga và ngôn ngữ
Nga kỳ diệu. Bà nhủ mẫu sống trong thơ Puskin, chia sẽ tâm tình với nhà thơ
trong những năm lưu đày và cũng có một cuộc sống trong thơ Puskin.
Người bạn gái trong những ngày nghiệt ngã
Con bồ câu già yếu của tôi.
Quan hệ giữa nhủ mẫu và nhà thơ không phải là quan hệ đầy tớ và chủ
nhà mà là quan hệ mẹ con ruột thịt. Thiên nhiên Nga, những bài dân ca,
những câu truyện cổ dân gian cùng bà nhủ mẫu đã quấn quýt với nhà thơ
trên đường đời và đường thơ. Ông lão bộc Nikita Timôphaêvich Kôdơlôp
cũng là người có ảnh hưởng lớn đến việc sáng tác của Puskin. Từ lúc chập
chững biết đi rồi khi lên 4, 5 tuổi cậu bé Puskin thường được lão bộc dắt đi
dạo chơi ở nhiều vườn hoa dọc theo các đường phố rộng của thành phố, nhìn
ngắm những phong cảnh đẹp, những di tích lịch sử, đền đài cung điện ở
Krem-li. Từ những bước đầu tiên cho đến ngày đưa thi hài Puskin về quê
ngoại, từ những năm bị đày ở phương Nam cho đến lúc trở về
Maikhailôpxcôie… lúc nào Nikita cũng vẫn là người bạn đường tận tụy của
nhà thơ. Bằng trí thông minh, tấm lòng nhân hậu, năng khiếu kể chuyện bẩm
sinh và sự hiểu biết kho tàng văn hóa dân gian, chính ông đã rót vào tâm hồn
trong trắng của Puskin những hiểu biết ban đầu về lịch sử xa xưa của cha
ông, về vẻ đẹp của phong cảnh, của những công trình kiến trúc và di tích lịch
sử ở kinh đô mới của Nga hoàng.
Những truyện cổ lịch còn lại của Puskin là: Ngư ông và con cá, Con gà
sống vàng, Ông cố đạo và bác làm công Banđa v.v…
Bài 19. LIEP NICÔLAIÊVICH TÔNXTÔI (18281910)– Sinh ngày 28/08/1828 trong một gia đình quý tộc ở nông thôn tại Tula,
cách Matxcơva 200km về phía Nam.
Tuổi thiếu niên của Liep trôi qua khá êm đềm ở trại ấp Iaxnaia
Pôliana, gần gũi với nông dân và thiên nhiên Nga.
7 tuổi (1835) Liep đã tự làm tờ báo chép tay nhan đề “Chuyện vui trẻ
con” trong đó có 7 truyện ngắn về đời sống loài chim do cậu viết rồi chuyển
cho những người quen của gia đình cùng đọc.
– 16 tuổi được gia đình gởi tới Cadan học đại học nhưng không hiểu
sao hai năm sau anh ba trường đại học về quê rồi nhanh chóng trở thành một
quý tộc trẻ tuổi quản lý tới 300 nông nô trong trang trại của gia đình. Công
việc mới mà không lạ này chả mấy chốc cũng làm cho Liep buồn chán.
1851 Liep nhập ngũ được phong hàm chuẩn úy pháo binh và tòng sự
tại Capca. Cuộc sống của người lính đã có tác động tích cực đến đời sống nội
tâm chàng quí tộc sĩ quan giàu ước vọng. Những trang viết mở đầu cho sự
nghiệp văn học của Liep đã ra đời.
1852 tập ký thời thơ ấu được in trên tạp chí Người cùng thời
– 1854 xuất hiện tiếp tập ký Thời niên thiếu.
1857 đánh dấu một bước chuyển biến trong đời sống và tư tưởng
nghệ thuật của Liep Tônxtôi. Nhà văn trẻ xuất ngũ và đi du lịch qua các nước
Pháp, Đức, Italia, Thụy sĩ.
– 1862 (34 tuổi) Liep cưới vợ là Xôphia Anđrâyepna con một bác sĩ ở
Matxcơva.
Là tác giả của bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ “Chiến tranh và hòa bình”
(18631869), Anna Karênina (1873–1877), Phục sinh (1889–1899). Những tác
phẩm này (Anna Karênina, Phục sinh) đã làm cho giai cấp thống trị điên đầu.
Nga hoàng và giáo hội rất căm tức ông nhưng không làm gì được ông.
Tônxtôi biết hơn 10 ngoại ngữ, đọc thông viết thạo tiếng La tinh, Pháp,
Anh, Đức, Ý, Hy Lạp. Vốn hiểu biết cổ kim đông tây đã giúp nhà văn làm chủ
được văn hóa nhân loại.
Ông rất yêu trẻ nhỏ và đã viết cho trẻ con nông dân nhiều truyện ngắn
và truyện đồng thoại. Ông đã cho in những truyện này trong cuốn sách nhan
đề là: “Sách học vần” và “Những cuốn sách Nga để đọc” lần đầu vào năm
1875. Tônxtôi đã đưa vào những cuốn sách dành cho trẻ nhỏ nhiều câu
chuyện và truyền thuyết lấy từ văn học cổ, từ cuộc sống của dân tộc của các
dân tộc khác nhau trên thế giới. Ông đặc biệt thích thú các truyện ngụ ngôn
giản dị và ngắn mà nhà thông thái cổ Hy lạp Êdốp đã sáng tác ra (Êdốp sống
vào thế kỷ thứ IX trước CN). Thường thì truyện ngụ ngôn cổ kết thúc bằng
một kết luận hoặc một lời giáo huấn. Tônxtôi vứt bó những đoạn ấy chỉ giữ lại
hành động và tính cách của các nhân vật và ông nghĩ rằng: trẻ em cũng sẽ
hiểu bài học nhân hậu nói về điều gì và dạy điều gì.
Ông đã dịch những truyện ngụ ngôn ấy ra bằng văn xuôi và chúng trở
thành các truyện ngụ ngôn Nga, những tác phẩm tự tạo của Liep Tônxtôi.
Ông xứng đáng là một nhà văn Nga thiên tài, một “con sư tử của nền
văn học Nga”.
Ông mất vào ngày 7/11/1910. Mặc dù bị Nga hoàng tìm cách ngăn
cản, vẫn có tới năm, bảy ngàn sinh viên và dân chúng từ Mátxcơva và nhiều
nơi khác tìm về tận trại ấp Iaxnaia Pôliana tiễn đưa ông đến nơi an nghĩ cuối
cùng. Đó là một nắm đất nhỏ nằm cạnh con suối mà hồi bé ông từng ra chơi
đùa cùng các bạn trẻ của mình.
Giới thiệu tác phẩm:
“Kiến và chim bồ câu” của Liep Tônxtôi.
Bài 20. TRUCÔPXKI (1882–1969)I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:
Sinh năm 1882.
Là nhà văn chuyên viết sách thiếu nhi và phê bình văn học Nga.
Mẹ là nông dân, bố là sinh viên. Từ nhỏ đã phải lao động tự học và
thích học tiếng Anh.
Năm 1901, 19 tuổi đi Luân Đôn làm phóng viên. Ở đấy đến năm 1904,
nghiên cứa về văn học Anh. Sau đó trở về Nga viết phê bình văn học và viết
về các nhà văn hiện đại.
Năm 1916 theo gợi ý của Macxim Gorki (đại văn hào Nga), ông bắt
đầu sáng tác cho thiếu nhi. Từ đấy ông để tâm nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em
và văn học thiếu nhi. Ông nổi tiếng về các truyện cổ tích bằng thơ.
* Những tác phẩm chính:
+ Cá sấu: 1916
+ Môi-đa-đui: 1923
+ Con gián khổng lồ: 1923
+ Đám cười ruồi: 1924
+ Barmalây: 1925
+ Aibôlit: 1929
+ Từ hai đến năm tuổi: là cuốn sách nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em,
được tái bản đến 21 lần.
* Nội dung chính của các tác phẩm trên đều giáo dục các em lòng nhân
ái, tình thương yêu, thông cảm giữa con người với con người, con người với
con vật và phê phán tính ích kỷ, độc ác, tàn nhẫn…
Sau Cách mạng tháng Mười, Trucôpxki được phân công phụ trách bộ
phận văn học Anh – Mỹ của Nhà xuất bản Văn học thế giới.
1962 được trường Đại học Oxford của Anh phong là tiến sĩ văn học
danh dự.
Ông mất năm 1969.
* Giới thiệu tập truyện: Bác sĩ Aibôlít.
Bài 21. MAIACÔPXKI (18931930)I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM.
Sinh ngày 19/07/1893, những năm thiếu thời sống ở Grudia (một
nước cộng hòa ở miền nam nước Nga).
Là con của một nhân viên kiểm lâm thuộc một gia đình quý tộc sa sút
“Người thừa kế những gia sản trống rỗng” nhưng Maia đã kế thừa của cha
một giọng nói rất tốt, một giọng nam trầm sang sảng và “êm như nhung”.
Chính giọng nói này phần nào đã chi phối một số nét đặc sắc trong tác phong
Maia và phong cách thơ Maia.
Ông rất thích đi đọc thơ trước công chúng, trước đám đông và thơ Maia
viết chủ yếu là để đọc to trước công chúng.
– 1906 lúc mới 13 tuổi, cha chết, gia đình dọn về Matxcơva. Maia và hai
người chị phải đi làm thêm để đỡ đần cho mẹ, Maia làm đồ chơi thủ công bán
kiếm tiền. Thời gian này Maia say sưa đọc chủ nghĩa Mác Lê nin, không thiết
gì đến việc học ở trường. Ông bắt đầu làm thơ đăng báo ở lớp.
1908 Maia được kết nạp vào Đảng của những người Bônsêvich do Lê
nin tổ chức và lãnh đạo. Thôi học, thực sự làm công tác cách mạng, ba lần bị
tù. Thời gian hoạt động, Maia lấy bí danh là “đồng chí Cônxtantin”. Học thêm
họa nhưng bỏ dở nửa chừng, không thành công.
25/10/1917 (lịch mới là 7/1/1917) Cách mạng tháng Mười Nga bùng
nổ. Ngay từ giờ phút đầu, Maia đã dứt khoát đi với cách mạng, với chính
quyền Xô Viết. Maia đã đem hết sức mình làm việc cho cách mạng. Bằng
hoạt động của mình, Maia khẳng định: “Nghệ sĩ không sáng tác theo tùy hứng
mà sáng tác theo đơn đặt hàng của xã hội”.
* Sự nghiệp thơ văn:
+ Thơ trữ tình, thơ trào phúng.
+ Trường ca Vlađimia Illich Lê nin 1924– một tác phẩm bình luận tổng
hợp xuất sắc có tính chất trữ tình, lịch sử và hùng ca về sự phát triển của
phong trào công nhân cho đến khi Lênin từ trần.
+ Tiểu luận: “Làm thơ như thế nào?”.
+ Kịch: “Nhà tắm” (1929), “Con rệp”.
+ Thơ thiếu nhi:
Lớn lên em sẽ làm gì?
Thế nào là tốt và thế nào là xấu?
+ Điện ảnh
– Thơ Maia nổi tiếng thế giới và ngày càng có ảnh hưởng đến văn học
thế giới xã hội chủ nghĩa.
Tác phẩm của Maia được dịch ra 58 thứ tiếng của các dân tộc ở Liên
Xô và 39 thứ tiếng nước ngoài.
Những ngày tháng cuối đời, Maia gặp nhiều sự không may. Đau ốm,
bệnh tật, “cô đơn”… và Maia đã tự sát chết ngày 14/4/1930. Đến nay cái chết
bi thảm của nhà thơ vẫn tiếp tục làm cho những độc giả hậu sinh sửng sốt,
bàng hoàng.
* Giới thiệu 2 tác phẩm:
1. Lớn lên em sẽ làm gì?
2. Thế nào là tốt và thế nào là xấu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH1. VĂN HỌC DÂN GIAN - Nguyễn Tấn Phát - Trần Vĩnh. TRƯỜNG
ĐHSP TP. HỒ CHÍ MINH - 1986.
2. BÌNH GIẢNG CA DAO - Hoàng Tíến Tựu. NXB GIÁO DỤC – 1992.
3. VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM – Vũ Tiến Quỳnh. NXB VĂN NGHỆ
TP. HCM – 1995.
4. TUYỂN TÂP TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM – Chu Xuân Diên – Lê
Chí Quế. NXB ĐH & THCN – 1987.
5. HOA TRÁI ĐẦU MÙA – Văn Hồng. NXB KIM ĐỒNG – HÀ NỘI –
1986.
6. TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI DƯỚI CHẾ ĐỘ MỚI – Vân Thanh. NXB KHOA HỌC XÃ HỘI – HÀ NỘI – 1982.
7. TIẾNG VIỆT – VĂN HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC (Tập I) –
Phan Thiều, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Xuân Khoa, Trần Gia Linh. NXB
GIÁO DỤC – 1988.
8. VĂN HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÚP TRẺ EM LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC – Cao Đức Tiến, Nguyễn Đức Diệu Lam, Lê Ánh
Tuyết - TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN –
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – 1994.
9. CHUYỆN KỂ MẪU GIÁO – NXB GIÁO DỤC – 1976.
10. GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI. NXB KIM ĐỒNG – HÀ NỘI – 1975.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương I
Bài 1: Phương pháp phân tích đánh giá tác phẩm văn học.
Chương IIVĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
Bài 2: Khái quát về văn học dân gian Việt Nam.
Bài 3: Thần thoại, truyền thuyết và việc giáo dục trẻ mẫu giáo.
Bài 4: Truyện cổ tích và việc giáo dục trẻ mẫu giáo.
Bài 5: Câu đố - Ca dao – Đồng dao.
Chương IIIVĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAM
Bài 6: Khái niệm về văn học trẻ em Việt Nam.
Bài 7: Thơ văn Bác Hồ viết cho trẻ em.
Bài 8: Truyện đồng thoại
Bài 9: Tô Hoài
Bài 10: Phạm Hổ
Bài 11: Võ Quảng
Bài 12: Giới thiệu một số tác phẩm viết cho trẻ mẫu giáo của các tác giả
khác.
Bài 13: Thơ Trần Đăng Khoa
Chương IVVĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI
Bài 14: Văn học trẻ em nước ngoài.
Bài 15: La Fontaine
Bài 16: Truyện cổ Grimm
Bài 17: Truyện cổ Anderxen
Bài 18: Puskin
Bài 19: Tônxtôi
Bài 20: Trucôpxki
Bài 21: Maiacôpxki
Tài liệu tham khảo chính
---//---
Tài liệu LƯU HÀNH NỘI BỘ
của Trường Cao đẳng sư phạm Mẫu giáo TW3.
Ban Ấn bản PHNB.ĐHSP chế bản và sao chụp 1000 cuốn khổ 14x20.
In xong ngày 30/04/1996.