vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · có báo cáo cho...

23
Vai trò của selen trong quá trình trao đổi chất của con người Sự hiểu biết của chúng ta về tầm quan trọng của selen trong dinh dưỡng của con người phát triển nhanh chóng trong suốt 20 năm qua (1, 2). Chứng minh sự cần thiết của Selen ở chuột và các loài động vật trang trại qua việc theo dõi đánh giá sự phát triển của các bệnh đáp ứng selen thường phản ánh sự phân bố của các biến địa hóa hạn chế sự xâm nhập của các phần tử từ đất vào chuỗi thức ăn. Những phát hiện này kích thích các nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực liên quan đến selen trong dinh dưỡng ở người (3). Những nghiên cứu này đã mang lại một sự hiểu biết gia tăng vai trò trao đổi chất phức tạp của các chất dinh dưỡng vi lượng này. Selen có liên quan trong việc bảo vệ các mô của cơ thể chống lại stress oxy hóa, duy trì hàng rào bảo vệ chống lại nhiễm trùng, và điều chế của sự tăng trưởng và phát triển. Hàm lượng selen của người trưởng thành bình thường có thể rất khác nhau. Có thể thay đổi từ 3 mg ở dân New Zealand tới 14 mg trong một số người Mỹ phản ánh ảnh hưởng sâu sắc của môi trường tự nhiên về lượng selen trong đất, cây trồng, và các mô của con người. Khoảng 30% lượng selen trong mô nằm ở gan, 15% trong thận, 30% trong cơ, và 10% trong huyết tương. Selen trong mô được tìm thấy nhiều trong protein như các đồng đẳng selen của các axit amin lưu huỳnh, các dạng hoạt động trao đổi chất bao gồm selenotrisulphides dạng lelenium acid không ổn định khác. Có ít nhất 15 selenoproteins đã được mô tả. Ví dụ được đưa ra trong Bảng 47. Về mặt chức năng, ít nhất có 2 nhóm enzym có chứa selen nổi bật. Nhóm đầu tiên bao gồm glutathione peroxidases (4) và thioredoxin reductase (5), tham gia việc kiểm soát nồng độ của chất chuyển hóa có chứa oxy phản ứng cao trong các mô. Các chất chuyển hóa này là thiết yếu ở nồng độ thấp để duy trì khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào chống lại các bệnh nhiễm trùng nhưng rất độc hại nếu sản xuất thừa. Vai trò của selen trong cytosolic glutathione peroxidase enzyme (GSHPx) lần đầu tiên được minh họa trong năm 1973. Trong

Upload: lyngoc

Post on 04-Apr-2018

225 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

Vai trò của selen trong quá trình trao đổi chất của con người Sự hiểu biết của chúng ta về tầm quan trọng của selen trong dinh dưỡng của con người phát triển nhanh chóng trong suốt 20 năm qua (1, 2). Chứng minh sự cần thiết của Selen ở chuột và các loài động vật trang trại qua việc theo dõi đánh giá sự phát triển của các bệnh đáp ứng selen thường phản ánh sự phân bố của các biến địa hóa hạn chế sự xâm nhập của các phần tử từ đất vào chuỗi thức ăn. Những phát hiện này kích thích các nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực liên quan đến selen trong dinh dưỡng ở người (3). Những nghiên cứu này đã mang lại một sự hiểu biết gia tăng vai trò trao đổi chất phức tạp của các chất dinh dưỡng vi lượng này. Selen có liên quan trong việc bảo vệ các mô của cơ thể chống lại stress oxy hóa, duy trì hàng rào bảo vệ chống lại nhiễm trùng, và điều chế của sự tăng trưởng và phát triển. Hàm lượng selen của người trưởng thành bình thường có thể rất khác nhau. Có thể thay đổi từ 3 mg ở dân New Zealand tới 14 mg trong một số người Mỹ phản ánh ảnh hưởng sâu sắc của môi trường tự nhiên về lượng selen trong đất, cây trồng, và các mô của con người. Khoảng 30% lượng selen trong mô nằm ở gan, 15% trong thận, 30% trong cơ, và 10% trong huyết tương. Selen trong mô được tìm thấy nhiều trong protein như các đồng đẳng selen của các axit amin lưu huỳnh, các dạng hoạt động trao đổi chất bao gồm selenotrisulphides và dạng lelenium acid không ổn định khác. Có ít nhất 15 selenoproteins đã được mô tả. Ví dụ được đưa ra trong Bảng 47.

Về mặt chức năng, ít nhất có 2 nhóm enzym có chứa selen nổi bật. Nhóm đầu tiên bao gồm glutathione peroxidases (4) và thioredoxin reductase (5), tham gia việc kiểm soát nồng độ của chất chuyển hóa có chứa oxy phản ứng cao trong các mô. Các chất chuyển hóa này là thiết yếu ở nồng độ thấp để duy trì khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào chống lại các bệnh nhiễm trùng nhưng rất độc hại nếu sản xuất thừa. Vai trò của selen trong cytosolic glutathione peroxidase enzyme (GSHPx) lần đầu tiên được minh họa trong năm 1973. Trong

Page 2: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

thời gian căng thẳng, nhiễm trùng, tổn thương mô, selenoenzymes có thể bảo vệ chống lại các tác hại của hydrogen peroxide hoặc các gốc tự do giàu oxy. Nhóm enzym xúc tác sự phân hủy của hydrogen peroxide hoặc hydroperoxides lipid theo các phản ứng tổng quát sau đây: H2O2 + 2GSH = 2H2O + GSSG ROOH + 2GSH = ROH H2O GSSG nơi GSH là dạng glutathione và GSSG là hình thức của nó bị oxy hóa. Ít nhất bốn hình thức của GSHPx tồn tại, chúng khác nhau trong cả hàm lượng trong mô và nhạy cảm với sự thiếu hụt selen (4). Các enzyme GSHPx của gan và huyết tương giảm hoạt tính nhanh chóng ở các giai đoạn đầu của sự thiếu hụt selen. Ngược lại, dạng GSHPx liên kết đặc biệt với màng tế bào giàu phospholipid được bảo vệ chống lại sự thiếu hụt selen và được cho là có vai trò chuyển hóa rộng lớn hơn (ví dụ, trong tổng hợp prostaglandin) (6). Khi kết hợp với vitamin E, selen tham gia vào việc bảo vệ màng tế bào chống lại tổn thương do oxy hóa (xem Chương 6, Chương 9, Chương 17). Selenoenzyme thioredoxin reductase tham gia vào quá trình loại thải các sản phẩm của quá

trình trao đổi chất oxy hóa (5). Mỗi phân tử chứa hai nhóm selenocysteine trong mỗi phân tử

và là một thành phần chính của một hệ thống khử oxy hóa với các chức năng đa dạng, trong đó có khả năng làm giảm nồng độ peroxide và hydroperoxides dư thừa cục bộ và có khả năng gây độc, có thể gây chết tế bào và teo mô (6). Một nhóm selenoproteins khác cũng nắm vai trò thiết yếu trong việc chuyển đổi thyroxin, hoặc tetraiodothyronine (T4) thành dạng có hoạt tình sinh lý của nó, triiodothyronine (T3) (7). Có ba loại deiodinases iodothyronine, khác nhau về tỷ lệ phân bố trong mô và độ nhạy trước sự thiếu selen, đã được xác định. Hậu quả của tình trạng thiếu selen trên các phản ứng sinh lý đối với sự thiếu hụt i-ốt rất phức tạp. Mức độ ảnh hưởng của việc mất deiodinase iodothyronine phụ thuộc selen thay đổi tuỳ theo việc liệu một mô đích có cần nguồn tiền chất T3 (ví dụ, thông qua huyết tương) hay không hoặc liệu nó có thể dựa vào sự tổng hợp T3 từ T4 tại chỗ giống như liệu não, tuyến yên, và nhau thai hay không. Mặc dù vậy, những thay đổi đáng kể trong tỷ lệ T3-T4, hệ quả của tình trạng giảm selen (khi nguồn cung cấp i-ốt cũng thiếu hụt), cho thấy tác động điều chỉnh của selen lên sự cân bằng hoóc mône tuyến giáp ở cả động vật và người. Có thể dự đoán tầm quan trọng tiềm năng của chúng từ việc trọng lượng tuyến giáp của chuột tăng 154% khi chế độ ăn đồng thời thiếu selen và iodine trong khi thông thường trọng lượng tuyến giáp chỉ tăng 50% với chế độ ăn chỉ thiếu iốt. Từ 60% và 80% selen trong huyết tương người được tạo thành bởi một sự phân chia có đặc tính rõ ràng, được gọi là selenoprotein P có chức năng vẫn chưa được xác định. Nó được cho là protein lưu trữ selen do ít có bằng chứng cho thấy nó cũng có một vai trò chống oxy hóa. Ít nhất có 10 selenoprotein; một trong số đó là một thành phần của vỏ ti thể của tế bào tinh trùng, sự tổn hại selenoprotein này có thể dẫn đến sự phát triển bất thường của tinh trùng khi thiếu hụt selen. Tham khảo các khía cạnh khác về chức năng và chuyển hóa selen ở các phần khác (8, 9).

Sự thiếu hụt selen

Page 3: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

Sự thiếu hụt không mang tính địa phương của selen

Bằng chứng sinh hóa của sự thiếu hụt selen (ví dụ, sự suy giảm hoạt động GSHPx trong máu) tương đối phổ biến ở các đối tượng được nuôi bằng đường truyền hoặc đường ruột trong thời gian dài. Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần mười của giá trị bình thường khi các dịch truyền trên không được tăng cường selen (10, 11). Hàm lượng selen thấp trong một số công thức sữa cho trẻ sơ sinh dẫn đến sự thiếu hụt lượng selen ăn vào hàng ngày xuống mức khoảng 0,5 mcg/ngày; điều này làm trầm trọng thêm sự sụt giảm selen huyết thanh và hoạt động GSHPx thường gặp ở những trẻ từ 2-8 tháng tuổi, thậm chí bao gồm trẻ được bú sữa mẹ vốn nhận được lượng selen cao gấp 3 lần (12, 13). Xem thêm về tầm quan trọng của việc duy trì mức độ vi chất trong các chế phẩm trên ở những mục khác (14).

Biểu hiện lâm sàng của thiếu hụt phát sinh từ tình huống như vậy là không phổ biến và không rõ. Bao gồm yếu cơ và đau cơ, trong một số trường hợp dẫn tới suy tim sung huyết. Trong ít nhất một trường hợp, các dấu hiệu bệnh lý xuất hiện như một hệ quả của một chế độ ăn cung cấp selen dưới 10 mcg / ngày. Trẻ 2 tuổi phục hồi nhanh chóng sau khi được bổ sung selen (15). Ở trường hợp ngoại lệ này, hầu như tất cả các báo cáo trên mô tả những quan sát các đối tượng được giám sát y tế chặt chẽ. Điều này có thể tương ứng với việc ít gặp những kết quả bệnh lý nhất quán(16). Bệnh Keshan Bệnh Keshan lần đầu tiên được mô tả trong y văn Trung Quốc cách đây hơn 100 năm, nhưng mãi đến 40 năm sau trong một đợt bệnh bùng phát năm 1935, người ta mới khám phá ra rằng sự thiếu hụt selen là yếu tố gây bệnh chủ yếu (3). Bệnh địa phương này thường gặp ở trẻ từ 2 đến 10 tuổi và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và tại các địa phương từ phía đông bắc về phía tây nam Trung Quốc. Biểu hiện điển hình là mệt mỏi thậm chí sau khi vận động nhẹ, rối loạn nhịp tim và hồi hộp, chán ăn, suy tim, tim phì đại, và suy tim sung huyết. Tình trạng bệnh lý rất đa dạng bao gồm cả hoại tử cơ tim và xơ hóa cơ tim. Các động mạch vành không bị ảnh hưởng nhiều. Các nghiên cứu nội mô cho thấy màng cơ quan tế bào như ty lạp thể hoặc màng sợi cơ vân bị ảnh hưởng sớm nhất. Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi theo mùa (3) và xuất hiện 3 tháng sau khi tiếp xúc với một số điều kiện tại địa phương, vốn được cho là có liên quan đến nguy cơ viêm cơ tim cao (3,8). Một khi đã mắc bệnh, việc dùng selen ít hoặc thông có hiệu quả gì. Việc phòng bệnh bằng cách sử dụng selen 3 tháng trước những giai đoạn được dự đoán có nguy cơ mắc bệnh cao nhất có hiệu quả cao. Mặc dù những sự tương đồng địa lý trong sự phân bố bệnh Keshan và các bệnh cơ trắng liên quan đến selen và vitamin E ở động vật giúp điều tra được mức selen thấp có liên quan với bệnh, ngày càng có thêm nhiều bằng chứng rằng bệnh có nhiều yếu tố nguồn gốc. Nghi vấn lớn nhất là sự phát triển của viêm cơ tim do vi rút có thể do sự tăng cường độc lực của một vi rút coxsackie khi nó đi qua các mô thiếu selen ở vật chủ (17). Mặc dù các yếu tố dinh dưỡng khác như tình trạng thiếu vitamin E có thể liên quan, việc phát hiện lượng selen cực

Page 4: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

thấp trong các loại cây trồng chủ yếu của khu vực bị ảnh hưởng và những bằng chứng thuyết phục từ hiệu quả dự phòng của việc dùng selen giúp ta khẳng định rằng sự thiếu hụt selen là yếu tố chính (3, 18). Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng các yếu tố địa hóa có một ảnh hưởng quan trọng lên sự phân bố của bệnh Keshan. Các loại đất axit có lượng chất hữu cơ và oxit sắt cao dường như là nguyên nhân tạo nên các dạng selen mà các loại cây trồng chủ lực trên khó hấp thu được, theo đó, chúng, ví dụ như các loại hạt ngũ cốc, thường có hàm lượng selen dưới 0,01 mg/g (19). Những báo cáo về các tình trạng bệnh liên quan đến selen, tương tự như bệnh Keshan, tại khu vực Transbaikalia phía nam Siberia cũng có một bối cảnh địa hóa tương tự. Lượng selen nạp vào từ chế độ ăn uống không đủ để duy trì hoạt động GSHPx trong máu; các chỉ số sinh hóa của tổn thương peroxidative ở mô tăng lên cho đến khi bắt đầu điều trị với selen(8). Bệnh Kaschin-beck Một chứng bệnh xương khớp (osteoarthropathy) có liên quan đến selen đã được phát hiện ở nhiều trẻ em từ 5-13 tuổi ở Trung Quốc và ít hơn tại ở phía đông Siberia. Bệnh có đặc trưng là hoại tử khớp – sự thoái hóa đầu xương của khớp cánh tay và chân dẫn đến rút cấu trúc ngón tay và các xương dài kéo theo sự tăng trưởng chậm và còi cọc (3, 20). Mặc dù không giống Keshan bệnh, bệnh Kaschin-Beck cũng xảy ra ở những khu vực nơi lượng selen trong đất phục vụ cho sự tăng trưởng của cây trồng thấp. Hàm lượng selen trong tóc và máu thấp bất thường và hàm lượng GSHPx trong máu suy giảm. Mặc dù điều này được cải thiện tốt khi điều trị bằng selen, có thể có các yếu tố liên quan khác như sự hiện diện thường xuyên của các độc tố mycotoxin trong hạt ngũ cốc được trồng trong khu vực. Số trường hợp mắc bệnh giảm tự phát từ năm 1970 (44%) đến năm 1980 (14%) đến 1986 (1%) được cho là nhờ vào các cải thiện tình trạng dinh dưỡng dinh dưỡng nói chung của những cộng đồng dân cư nông thôn Trung Quốc (20). Mức Selen và khả năng nhiễm bệnh Như đã nêu trước đó, những biểu hiện tổn thương tim của bệnh Keshan có thể không chỉ liên quan đến sự phát triển của việc thiếu hụt selen mà còn liên quan đến sự viêm nhiễm do vi rút Coxsackie (BA). Các nghiên cứu trên động vật đã xác nhận rằng những con chuột thiếu selen nhiễm vi rút Coxsackie (CVB / 0) đặc biệt nhạy cảm với vi rút này. Những nghiên cứu này cũng minh chứng rằng việc nhiễm vi rút ở các đối tượng thiếu selen có độc lực cao hơn (17). Độc lực gây viêm cơ tim phát triển ngay cả với các dòng khuẩn như CVB / 0 vốn không gây hại lên cơ tim. Việc tăng cường độc lực của loại vi rút RNA này liên quan đến việc biến đổi trình tự nucleotide của kiểu hình. Những biến đổi này được duy trì và biểu hiện ngay cả ở những lần hấp thụ tiếp theo ở các động vật có mức selen bình thường (21). Việc tăng cường độc lực của vi rút đi kèm với sự thiếu hụt selen (do gặp vấn đề về dinh dưỡng hoặc nhu cầu chuyển hóa tăng lên của những selen dự trữ trong mô) không chỉ gặp ở dòng vi rút Coxsackie. Các giai đoạn tiền lâm sàng ban đầu của sự phát triển nhiễm trùng do vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) được đi kèm với một sự suy giảm rất đáng kể của selen trong huyết tương. Tầm quan trọng của tình trạng suy dinh dưỡng chưa có biểu

Page 5: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

hiện lâm sàng tăng lên trong giai đoạn phát triển của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Tuy nhiên, đối với các chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng, có những dấu hiệu chỉ rõ rằng rằng chỉ có mức độ của sự suy giảm trong mức selen có giá trị tiên đoán đối với tỷ lệ phát triển của AIDS và sự tử vong sau đó (22-25). Độc lực của các loại vi rút RNA khác như viêm gan B và những loại liên quan với sự phát triển của chứng thiếu máu do tan huyết tương tự cũng được tăng cường khi giảm mức selen. Những cơ chế đằng sau các tác động này chưa được xác định rõ. Có những dấu hiệu cho thấy việc mất chức năng chống oxy hóa bảo vệ phụ thuộc vào selen và vitamin E đều có liên quan và do đó, những thay đổi cấu trúc trình tự nucleotide của vi rút có thể tái tạo và dường như kích thích tổng hợp thêm selenoprotein (26). Có nghi ngờ rằng điều này càng gây thiếu hụt selen sinh lý sẵn có vốn đã suy giảm trước đó và đẩy nhanh các phản ứng bệnh lý (27-29). Dù cơ chế liên quan là gì, cũng cần có thêm nhiều hiểu biết về tác động của mức selen lên khả năng nhiễm các bệnh do vi rút gây ra, từ bệnh viêm cơ tim đến chứng thiếu máu do tan huyết. Mối quan hệ này cho thấy sự khó khăn trong việc xác định tính thiết yếu dinh dưỡng của các chất dinh dưỡng chính có thể duy trì phòng vệ chống viêm nhiễm. Các nghiên cứu về những tác động của thiếu hụt selen lên một số loài động vật trong thí nghiệm đã chỉ ra rằng hoạt tính kháng vi sinh vật của bạch cầu trung tính trong máu bị suy yếu mặc dù hoạt động thực bào vẫn không bị tổn thương (30, 31). Sự phức tạp của khác biệt ở từng loại khi xét đến tác động của mức selen lên hiệu quả của quá trình miễn dịch qua trung gian tế bào được tóm tắt ở phần khác (8). Khả năng việc tăng lượng selen nạp vào có thể bảo vệ cơ thể trước sự phát triển của bệnh ung thư ở người đã thu hút nhiều sự quan tâm (32). Tuy nhiên, một số nghiên cứu dịch tễ học đã báo cáo rằng không có liên hệ giữa selen và nguy cơ ung thư (33). Bên cạnh đó, một phân tích về liên hệ giữa selen và ung thư cho thấy rằng "câu hỏi liệu selen có bảo cơ thể trước bệnh ung thư vẫn còn rộng mở" (34). Việc tăng lượng selen nạp vào dường như kích thích việc sinh u ở một số mẫu động vật ung thư tuyến tụy và ung thư da. Ngược lại, tác dụng bảo vệ của việc dùng selen nhiều hơn quan sát được trong một số nghiên cứu trên động vật, cùng với sự khác biệt tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa thống kê của các mức selen trong huyết tương được tìm thấy trong những nghiên cứu hồi cứu-tiến cứu của các nhóm nhỏ những người phát triển ung thư, giải thích cho mối quan tâm đến tiềm năng chống ung thư của selen. Tuy nhiên, các kết quả của những nghiên cứu hồi cứu-tiến cứu, không có giá trị tiên đoán cho các cá nhân và có thể đã phản ánh các tác động không cụ thể lên các nhóm. Mối liên hệ giữa lượng selen thấp và nguy cơ ung thư cao, mặc dù rõ ràng là đáng quan tâm, cần được khảo sát thêm trước khi đưa ra kết luận. Mặc dù cơ chế sinh hóa có thể được mặc nhiên công nhận, theo đó selen có thể bảo vệ cơ thể trước bệnh tim bằng cách tác động lên kết tập tiểu cầu (qua tác động lên tỷ lệ prostacyclin-thromboxane), các bằng chứng dịch tễ học liên kết mức selen và nguy cơ bệnh tim mạch vẫn chưa rõ (33). Selen và các hoóc môn tuyến giáp Tầm quan trọng của selen đối với sự chuyển hóa hoóc môn tuyến giáp (35, 36) thể hiện rõ qua những thay đổi trong tỷ lệ T3-T4, điều này xuất hiện khi thiếu selen ở mức độ tương đối

Page 6: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

nhẹ, thường gặp ở trẻ sơ sinh và người cao tuổi (65 tuổi trở lên). Việc giảm tỷ lệ T3-T4, dấu hiệu của sự giảm cân bằng hoóc môn tuyến giáp, được phát hiện khi selen huyết thanh giảm xuống dưới 0,9 mmol/l (37). Trong một nghiên cứu tại Scotland gần đây, việc suy giảm nói trên tương ứng với sự suy giảm lượng selen nạp vào qua ăn uống và selen trong huyết tương sau khi thay thế giống lúa mì giàu selen từ Canada và Hoa Kỳ với giống lúa mì thiếu selen từ nguồn các nước Châu Âu (38). Các cộng đồng có tỷ lệ mắc chứng đần độn kết hợp với bệnh phù niêm được xác định là có mức selen huyết tương và hoạt động GSHPx thấp bên cạnh việc có mức i-ốt thấp (39) và có lượng thiocyanate nạp vào cao từ sắn. Việc khôi phục nguồn i-ốt, đặc biệt nếu có quá nhiều, có xu hướng tạo ra stress từ quá trình peroxit hoá thông qua việc peroxit hoá i-ốt, bước đầu trong quá trình sử dụng i-ốt của tuyến giáp. Việc tình trạng hoại tử và xơ hóa tuyến giáp sẽ dẫn đến bệnh suy giáp không thể đảo ngược nếu sự thiếu hụt selen đồng thời hạn chế tác hại của sự peroxit hoá nhờ sự phòng vệ của các enzym phụ thuộc vào selen, GSHPx và có nhiều khả năng là cả thioredoxin reductase được mặc nhiên công nhận (40). Trong các khu vực có bệnh địa phương là chứng đần độn kết hợp với bệnh phù niêm với đặc trưng là bệnh giảm năng tuyến giáp dai dẳng, lùn, và còi cọc, có khuyến nghị rằng cần đánh giá mức selen và điều chỉnh ngay bất kỳ sự thiếu hụt nào quan sát được trước khi bắt đầu điều trị i-ốt cho các cá nhân mắc bệnh nhẹ (39). Mặc dù đề nghị này phù hợp với các quan sát bệnh ở chuột bị giảm năng tuyến giám có các mức selen khác nhau, tính xác thực của nó vẫn chưa được đánh giá đủ ở người (41, 42).

Ảnh hưởng của chế độ ăn uống lên mức selen

Các điều kiện môi trường và thực hành nông nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc lên lượng selen của nhiều loại thực phẩm. Bảng 48, 49 và 50 cho thấy hàm lượng selen khác nhau trong các nhóm thực phẩm chính và mức biến động của lượng selen trong từng loại thực phẩm. Chỉ riêng lượng i-ốt trong các loại thực phẩm có mức biến động cao hơn mức biến động này. Sự khác biệt địa lý thể hiện qua lượng selen có trong đất trồng để đi từ đất đến cây lương thực và các sản phẩm từ động vật có ảnh hưởng đáng kể về mức selen của toàn bộ cộng đồng. Ví dụ, việc phân bố bệnh Keshan và bệnh Kaschin-Beck ở Trung Quốc phản ánh sự phân bố của các loại đất mà trong đó ít có sẵn selen cho các loại gạo, ngô, lúa mì được trồng cũng như các loại cỏ đồng cỏ (Bảng 48). Các hàm lượng selen trong ngũ cốc từ 3-7 ng/g không phải là hiếm (3) và có đề nghị chọn các chỉ số <10 ng/g cho lượng selen trong hạt và <3 ng/g cho selen trong đất có thể hoà tan trong nước hòa tan là định mức để xác định các khu vực bị thiếu hụt (19). Sự biến động của mức selen trong nhiều cộng đồng ở Bắc Âu phản ánh lượng selen thấp sẵn có trong các loại đất băng giá tại đây và mức độ thành công của việc bổ sung selen trong phân bón để giúp tăng hàm lượng selen trong các hạt ngũ cốc, sữa và các sản phẩm động vật khác. Cũng có các hành động và khuyến nghị nhập khẩu ngũ cốc từ những khu vực có lượng selen sẵn có trong đất tương đối cao ở một số vùng của Phần Lan, New Zealand, và Vương quốc Anh, sau khi mức selen trong cộng đồng ở những nơi này giảm đều. Ngược lại, một số loại ngũ cốc có lượng selen thấp cũng được chọn từ Trung Quốc, Ấn Độ, và Venezuela để giảm rủi ro của chứng ngộ độc selen.

Xem các dữ liệu tổng quát tóm tắt các hàm lượng selen trong những loại lương thực chủ yếu ở phần khác (ví dụ, 45). Các báo cáo từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hiệp

Page 7: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

Quốc (FAO) và Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cung cấp các dữ liệu đại diện cho lượng selen nạp vào hàng ngày ở hơn 40 quốc gia (xem tài liệu tham khảo 8, trang 215-217). Có thể thấy rõ ảnh hưởng lớn của các yếu tố từ chế độ ăn uống và điều kiện địa lý lên mức selen trong các bản tóm tắt dữ liệu gần đây mô tả sự khác biệt của lượng selen trong sữa mẹ và sữa công thức, chế độ ăn và huyết thanh ở người của các quốc gia và khu vực (Bảng 48, 49, 50 và 51).

Hấp thụ và khả năng tích luỹ sinh học

Các hợp chất selen thường được cơ thể người hấp thụ rất hiệu quả, và việc hấp thu selen dường như không chịu kiểm soát bởi cân bằng nội môi (80). Ví dụ, sự hấp thụ selen ở dạng selenite cao hơn 80% trong khi selen ở dạng selenate selenomethionine hoặc là có thể cao hơn 90% (80, 81). Vì vậy, có nhiều khả năng quá trình hạn chế tỷ lệ đóng vai trò quyết định tổng tích luỹ của selen nạp vào qua ăn uống không phải là sự hấp thụ mà là sự chuyển đổi bên trong mô thành các dạng có hoạt tính chuyển hoá (ví dụ, kết hợp với GSHPx hoặc 5'-deiodinase) (40). Một số thí nghiệm thiếu hụt-bổ sung đã được tiến hành trên động vật để ước tính khả năng tích luỹ sinh học của selen trong thực phẩm cho người (82). Căn cứ vào sự phục hồi của hoạt động GSHPx chuột thiếu selen, khả năng tích luỹ sinh học của selen trong lúa mì khá tốt, thường là 80% hoặc hơn. Selen trong các loại hạt Brazil và thận bò cũng tích luỹ sinh học tốt (90% hoặc hơn theo hầu hết các tiêu chí). Selen trong cá ngừ có khả năng tích luỹ sinh học thấp hơn (có lẽ chỉ 20-60% từ selenite) trong khi đó khả năng tích luỹ sinh học của selen từ một số hải sản khác (tôm, cua, và cá trích Baltic) lại cao. Selen trong một loạt các loại nấm đều có khả năng tích luỹ sinh học thấp ở chuột.

Có ít dữ liệu về khả năng tích luỹ sinh học dinh dưỡng của selen ở người. Một nghiên cứu bổ sung tiến hành trên đàn ông Phần Lan có mức selen tương đối thấp cho thấy rằng selen selenate hiệu quả tương đương như selen trong lúa mì seleniferous khi tăng hoạt động GSHPx tiểu cầu (83). Tuy nhiên, selen lúa mì khiến tăng selen huyết tương nhiều hơn so với selen selenate và một khi ngừng bổ sung, hoạt động GSHPx tiểu cầu giảm ít hơn trong nhóm dùng lúa mì. Nghiên cứu này cho thấy tầm quan trọng của việc không chỉ ước đoán khả năng tích luỹ sinh học ngắn hạn mà còn ước đoán mức selen được giữ lại lâu dài và sự chuyển đổi của selen trong mô thành các dạng có hoạt tính sinh học.

Page 8: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy
Page 9: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy
Page 10: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy
Page 11: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

Tiêu chuẩn đánh giá lượng selen cần thiết

Levander (84) đã trình bày cách thuyết phục vể sự không thực tế của việc đánh giá lượng selen cần thiết từ những dữ liệu cân đối đầu vào-đầu ra, do lịch sử về dinh dưỡng selen tác động lên tỉ lệ selen nạp vào do ăn uống được hấp thu, giữ lại, hoặc bài tiết. Sự cân bằng thay đổi khi lượng selen nạp vào được thay đổi trong thực nghiệm cho các dữ liệu có ít giá trị đối với việc ước tính lượng cần thiết tối thiểu. Các ví dụ được trích dẫn từ các ước tính lượng selen cần thiết cho người lớn là 7,4 và 80 mg/ngày theo như những nghiên cứu từ Trung Quốc và Mỹ, theo thứ tự trên. Sự khác biệt này phản ánh sự khác biệt trong các lượng selen nạp vào hàng ngày của các đối tượng tham gia thử nghiệm và mức độ thay đổi trong thực nghiệm. Tình trạng này, không chỉ gặp ở selen, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc căn cứ các ước tính về yêu cầu dựa trên tiêu chuẩn chức năng xuất phát từ bằng chứng mô tả các lượng nạp vào tối thiểu, trực tiếp hoặc gián tiếp, phản ánh trạng thái bình thường của các quá trình phụ thuộc vào selen.

Nhiều cơ hội mới nhằm xác định các chỉ số sinh hóa cho việc cung cấp đủ selen, ví dụ như phần được liệt kê trong Bảng 47, vẫn chưa được khám phá hết. Cho đến khi hoàn tất việc này, lựa chọn thay thế thích hợp nhất chính là theo dõi những thay đổi trong mối quan hệ của selen trong huyết thanh với nguồn selen từ chế độ ăn uống, tận dụng tỉ lệ tương đối ổn

Page 12: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

định của nó so với phần selen trong huyết thanh trong GSHPx có chức năng quan trọng (85).

Một đánh giá chi tiết của 36 báo cáo mô tả các giá trị selen huyết thanh ở các đối tượng khỏe mạnh chỉ ra rằng chúng dao động từ một mức thấp là 0,52 mmol/l ở Serbia đến mức cao là 2,5 mmol/l tại Wyoming và Nam Dakota, Hoa Kỳ (76). Có đề xuất rằng các giá trị trung bình trong phạm vi này từ 7.502 cá nhân khỏe mạnh nên chúng có thể được mức chuẩn để tham khảo. Khảo sát này cho thấy rõ tác động của việc quản lý cây trồng lên mức selen trong huyết thanh ở Phần Lan và New Zealand, việc tăng cường selen trong phân bón cho các loại ngũ cốc giúp tăng selen trong huyết thanh từ 0,6 đến 1,5 mmol/l. Bản tóm tắt của những dữ liệu trong Bảng 51 cũng bao gồm các giá trị selen huyết thanh đại diện trong khoảng 0,15-0,55 mmol/l gắn với các bệnh cụ thể vốn được biết là có liên quan đến những rối loạn dinh dưỡng hoặc chuyển hoá selen. Chúng bao gồm các báo cáo từ các nghiên cứu về bệnh Keshan, bệnh Kaschin-Beck, và các nghiên cứu riêng về bệnh đần độn, suy giáp, HIV và AIDS mà kết quả lâm sàng hoặc tiên lượng có liên quan đến mức selen.

Báo cáo này và báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), FAO và IAEA (86) sử dụng các phương pháp tiếp cận hầu như giống hệt nhau để thu được ước tính lượng selen cần thiết

căn bản ( ). Cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào cho rằng các ước tính cơ bản dùng Se hoặc hoạt động GSHPx làm tiêu chuẩn vừa đủ là không xác thực. Tuy nhiên có thể cần sửa đổi một số chỗ để ước tính lượng nạp vào tối thiểu trong dân số mà vẫn cho phép độ dao động (CV) vừa đủ liên quan đến lượng selen nạp vào trung bình được ước tính từ chế độ ăn điển hình của nhiều cộng đồng. Trong báo cáo của WHO, FAO, IAEA (86) CV 16% được áp dụng cho chế độ ăn có selen thông thường và 12,5% cho chế độ dinh dưỡng chủ yếu từ sữa của trẻ sơ sinh để hạn chế các nguy cơ thiếu hụt phát sinh từ lượng selen thấp bất thường. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy độ dao động của lượng selen nạp vào do ăn uống, trong đó lượng selen được dự đoán hơn là đo lường, có thể là lớn hơn đáng kể so với ước tính trước đó (Bảng 49 [47] và Bảng 50).

Lượng selen nạp vào được khuyến nghị

Do các kỹ thuật cân bằng không phù hợp để xác định lượng selen cần thiết, các báo cáo từ WHO, FAO, IAEA (86) đưa ra ước tính lượng selen cần thiết dựa trên các bằng chứng dịch tễ học có nguồn gốc từ các khu vực của Trung Quốc những nơi mà bệnh Keshan được xem là bệnh địa phương hoặc không (18). Những nghiên cứu tổng quát sinh hóa và lâm sàng này cho thấy không có bệnh Keshan ở những vùng có lượng selen nạp vào trung bình ở người nam hoặc nữ trưởng thành cao hơn 19,1 hoặc cao hơn 13,3 mg / ngày, theo thứ tự trên. Mặc dù các mức nạp vào này đủ để loại bỏ bằng chứng lâm sàng của bệnh viêm cơ tim và các dấu hiệu khác của bệnh Keshan, các nghiên cứu khác cho thấy chúng không đủ để phục hồi các nồng độ selen hồng cầu hay huyết tương hoặc các hoạt động GSHPx về các mức dự trữ.

Các nghiên cứu trên các đối tượng nam giới trưởng thành ban đầu có mức selen thấp, được cung cấp một chế độ ăn được theo dõi cẩn thận với 11mg selen/ngày đồng thời bổ sung thêm selenomethionine qua đường uống cung cấp 0, 10, 30, 60, hoặc 90 mg/ngày. Từ các

Page 13: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

mức thiếu hụt bạn đầu, tổng lượng selen nạp vào hằng ngày từ 41 mg/ngày trở lên đã đủ để giúp GSHPx huyết tương tăng đáng kể và bão hòa hoạt động huyết tương ở các đối tượng nam cân nặng 60 kg trong 5-8 tháng. Theo ước tính, có thể đạt được các mức selen huyết tương (>80 mmol/l) và GSHPx (>0,3 mmol NADPH oxy hóa/min/l, khoảng hai phần ba các hoạt động bão hoà huyết tương) vừa đủ, tức dấu hiệu cho thấy lượng selen dự trữ vừa đủ, sau khi các đối tượng nam 65 kg nạp vào khoảng 27 mg/ngày (86). Các tiêu chuẩn như trên

đáp ứng định nghĩa về lượng selen trung bình chuẩn cần có ( ) và đã được dùng làm cơ sở tính toán các giá trị dinh dưỡng đề nghị (RNI) trong báo cáo này sau khi nội suy được các ước tính về lượng cần thiết trung bình bằng cách cho phép chênh lệch trọng lượng và tỷ lệ trao đổi chất cơ bản của các nhóm tuổi lên đến 65 tuổi và tăng thêm 25% (2x SD giả định) để cho phép mức dao động cá nhân trong ước tính RNI (Bảng 52)

Các ước tính RNI cho trẻ sơ sinh (Bảng 52) phù hợp với các ước tính phạm vi tham chiếu quốc tế về hàm lượng selen trong sữa mẹ (18,5 mg/l; Bảng 49), với dữ liệu từ một cuộc khảo sát quốc tế rộng lớn về selen trong sữa mẹ (WHO- IAEA [50]) và với các dữ liệu của WHO (47) về việc tiêu thụ sữa ở các trẻ sơ sinh chỉ bú sữa mẹ ở các nước phát triển và đang phát triển. Dữ liệu từ cuộc khảo sát của WHO-IAEA (50) từ sáu quốc gia cho thấy rằng sữa mẹ từ tất cả các nước đáp ứng RNI cho trẻ sơ sinh từ 0-6 tháng. Tại hai trong số sáu

Page 14: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

quốc gia, Hungary và Thụy Điển, selen trong sữa mẹ ở mức thiếu hụt so với RNI cho trẻ sơ sinh từ 7-12 tháng.

Dữ liệu từ Đức (13, 88), Áo (12), Hoa Kỳ (89), và các nơi khác cho thấy công thức sữa cho trẻ sơ sinh có thể chứa lượng selen không đủ để đáp ứng RNI hoặc mức khuyến nghị trong ăn uống cho trẻ sơ sinh. Một nghiên cứu chi tiết của Lombeck và đồng sự (13) cho thấy sữa công thức có nguồn gốc sữa bò có thể cung cấp selen ít hơn một phần ba lượng selen trong sữa mẹ. Ước tính lượng selen nạp vào của trẻ sơ sinh 2 tháng tuổi là 7,8 mg/ngày từ sữa công thức so với 22,4 mg/ngày từ sữa mẹ. Levander (89) cho rằng các loại sữa công thức cho trẻ sơ sinh cần cung cấp tối thiểu là 10 mg/ngày và không quá 45 mg/ngày. Khuyến nghị này có lẽ đã được áp dụng khi ta xét đến sự gia tăng hàm lượng selen gần đây trong các loại sữa công thức cho trẻ sơ sinh (61).

Lượng selen cần thiết trong thời kỳ mang thai và cho con bú

Dữ liệu từ các thí nghiệm cân bằng không nhât quán đủ để xác định việc gia tăng selen cần thiết để hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi trong thai kỳ. Vì lý do này mà Ủy ban Khoa học Thực phẩm của Liên minh Châu Âu (90), Ủy ban Khía cạnh Y tế trong Chính sách Lương thực Vương quốc Anh (91), và Hội đồng Thực phẩm và Dinh dưỡng Hà Lan (92) đã cho rằng các thành phần selen cần thiết cho quá trình mang thai ở người có thể có được bằng cách tăng hiệu quả hấp thụ selen nạp vào qua ăn uống thay vì tăng nhu cầu dinh dưỡng .

Các quan điểm khác, đối lập với quan điểm này, cố dự đoán lượng selen nạp vào qua ăn uống cần tăng khi mang thai bằng cách ước tính giai thừa lượng selen có thể đi vào mô của thai nhi (47, 86). Những ước lượng như vậy giả định rằng tổng sản phẩm từ thụ thai vào khoảng 4,6-6 kg mô nạc với hàm lượng protein khoảng 18,5-20%. Nếu, xem như đây là một giả định hợp lý, hàm lượng selen của lượng protein này tương tự như một cơ xương, sự tăng trưởng của những mô này có thể chiếm từ 1,0 và 4,5 mg selen/ngày tùy theo liệu các phân tích phản ánh việc dùng chế độ ăn từ một môi trường ít selen (nhưng không gây bệnh) (ví dụ, New Zealand [49, 52]) hoặc từ một khu vực với selen đợt tuyển sinh tương đối cao (ví dụ, Hoa Kỳ, Bảng 50 [73]). Thông thường những ước tính như vậy giả định rằng mức hấp thụ 80% và việc sử dụng selen từ chế độ ăn mà từ đó có thể ước tính hợp lý rằng việc cho phép độ chênh lệch của các ước tính (CV 12,5%) tăng 2 mg/ngày phù hợp cho ba tháng thứ hai trong thai kỳ và 4mg/ngày phù hợp cho ba tháng cuối của thai kỳ (Bảng 52).

Như trong Bảng 49 hàm lượng selen trong sữa mẹ nhạy cảm với những thay đổi về lượng selen trong chế độ ăn uống của bà mẹ. Sự gia tăng của lượng selen trong chế độ ăn uống của người mẹ cần thiết để đáp ứng yêu cầu của quá trình cho con bú được ước tính từ ước tính RNI cho trẻ từ 0-6 tháng và 7-12 tháng. Giả định như hiệu quả sử dụng selen trong sữa mẹ là 80%, và SD là 12,5%. Trong giai đoạn 0-6 tháng, người ta ước tính rằng trẻ sơ sinh phải nhận được 6 mg/ngày từ sữa mẹ. Sự gia tăng selen trong chế độ ăn uống của mẹ cần

thiết để tạo được lượng này sẽ là 6 x + (2 x SD) = 9 mg/ngày. Sự gia tăng tương ứng cần thiết để đáp ứng RNI cho trẻ sơ sinh là 10 mg/ngày cho trẻ 7-12 tháng là 16 mg / ngày.

Page 15: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

Thêm 26 mg/ngày vào RNI của bà mẹ khi không mang thai, tổng lượng RNI khi cho con bú trong 6 tháng đầu sau sinh là 35 mg/ngày và đến tháng 7-12 sẽ là 42 mg/ngày (Bảng 52).

Theo các dữ liệu trong Bảng 48, 49 và 50, các thực hành nông nghiệp ngày càng tăng, các yếu tố địa chất, và sự thiếu hụt trong xã hội dẫn đến việc sử dụng quá nhiều thành phần thực phẩm có thể thay đổi đáng kể mức dao động của lượng selen từ chế độ ăn uống. Nếu kinh nghiệm tích lũy gợi ý rằng CV của lượng selen nạp vào có thể là 40% hoặc nhiều hơn, và dữ liệu được lập bảng thay vì phân tích được sử dụng để dự đoán lượng selen từ chế độ ăn uống, lượng selen cho phép có thể theo đó tăng lên hoặc đánh giá với kỹ thuật WHO, FAO IAEA (86).

Mức dinh dưỡng ngưỡng trên chấp nhận được của selen

Một đánh giá tổng quát các bằng chứng sinh hóa có ý nghĩa lâm sàng của tình trạng nhiễm độc selen mãn tính và cấp tính phát sinh từ nồng độ selen cao trong thực phẩm, nước uống, và môi trường đã được WHO và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế đồng xuất bản (80). Báo cáo này (44) nhấn mạnh rằng các dấu hiệu và triệu chứng của việc con người tiếp xúc quá nhiều với selen không được xác định rõ. Các đặc tính lâm sàng phổ biến là rụng tóc và thay đổi cấu trúc keratin trong tóc và móng tay, sự xuất hiện của chứng vàng da, và các rối loạn tiêu hóa (93, 94). Số trường hợp mắc chứng loạn dưỡng móng tăng lên được cho là có liên quan đến việc tiêu thụ các loại thực phẩm giàu selen cung cấp hơn 900 mg/ngày. Những thực phẩm này được trồng trong loại đất giàu selen (seleniferous) tại các khu vực cụ thể ở Trung Quốc (95). Có báo cáo về mối liên hệ tích cực giữa bệnh sâu răng và lượng selen trong nước tiểu trong một số hoàn cảnh tương tự (96, 97).

Các dấu hiệu sinh hóa nhạy cảm của tình trạng sắp ngộ độc selen chưa được xác định. Trong khi vẫn chưa xác định được, có khuyến nghị rằng có thể tạm thời thiết lập mức dinh dưỡng ngưỡng trên chấp nhận được của selen (UL) là 400 mg/ngày cho người lớn. Cũng cần lưu ý rằng nồng độ tối đa có thể chấp nhận được từ chế độ ăn uống là 2mg/kg thức ăn khô được đề xuất cho tất cả các loài vật nuôi thuần và mức này đã được chứng minh là thỏa đáng khi sử dụng (98). Điều này cho thấy UL đề xuất là 400 mg/ngày cho người cho phép số dư đủ an toàn. UL cho trẻ em và phụ nữ mang thai hoặc cho con bú vẫn chưa được xác định.

So sánh với ước tính trước đây

So với các khuyến nghị của WHO, FAO, IAEA (86), Mỹ (87), Vương quốc Anh (91), và Liên minh châu Âu (90), đề nghị hiện tại đưa ra lượng selen cần thiết giảm đáng kể. Lý do cho điều này là:

sự cần thiết phải rút ra các mức khuyến nghị áp dụng được cho phạm vi trọng lượng thấp hơn so với hầu hết các cộng đồng phương Tây và các nước phát triển;

quyết định, được sự chấp thuận của WHO, FAO, và IAEA (86), rằng việc duy mức selen ở một mức độ hoàn toàn bão hoà hoạt động GSHPx máu khi mà, dựa trên những

Page 16: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

bằng chứng hiện tại, điều này không có lợi cho sức khỏe là không cần thiết hay đáng mong đợi; và

quyết định trình bày các ước tính, ví dụ như RNIs, mặc dù có cho phép độ dao động cá nhân, không tính đến khả năng thực phẩm thường có thể có hàm lượng selen rất khác nhau tuỳ theo các đặc điểm địa lý của nguồn thực phẩm.

it will be unreasonable to

expect that the often marked influence of geographic variability on the supply of selenium from cereals and meats can be taken into account.

Changes in trade patterns with respect to the sources of cereals and meats are already having significant influences on the selenium nutrition of consumer communities (38, 66). Such evidence fully justifies the warning to allow for a high intrinsic variability of dietary selenium content when estimating selenium requirements of populations for which the principal sources of this microelement are unknown.

Các ước tính có giảm xuống được đề ra trong báo cáo này chính đáng xét trên khía cạnh sinh lý và chỉ có thể xem là đáng lo ngại nếu có căn cứ vững chắc cho việc khó có thể ước đoán chắc chắn lượng selen từ chế độ ăn uống.

Nguồn hàng hóa thực phẩm thay đổi nhanh chóng và trong nhiều trường hợp, khá thất thường. Trong hầu hết các trường hợp, việc xem tác động được xem là đáng kể của sự biến đổi địa lý lên nguồn selen trong ngũ cốc và các loại thịt như nguyên nhân cho điều này là không hợp lý. Các thay đổi trong mô hình thương mại cùng với các nguồn ngũ cốc và thịt vốn đã có những tác động đáng kể lên dinh dưỡng selen của cộng đồng người tiêu dùng (38, 66). Những bằng chứng này chứng minh cho cảnh báo cần cho phép một mức dao động nội tại cao của hàm lượng selen trong chế độ ăn uống khi ước tính lượng selen cần thiết trong dân số vì các nguồn chính cung cấp yếu tố vi lượng này vẫn chưa được biết.

Nghiên cứu trong tương lai

Các mối quan hệ giữa mức selen và các chỉ số sinh hoá đánh giá mức thiếu hụt có liên quan đến bệnh lý đáng được nghiên cứu sâu hơn với mục tiêu cung cấp những phương tiện đáng tin cậy hơn và sớm hơn để phát hiện mức dưới tối ưu.

Có nhiều dấu hiệu cho thấy việc mức selen dưới tối ưu có thể có ý nghĩa lớn hơn nhiều trong việc tác động lên khả năng mắc bệnh rất đáng nghiên cứu thêm. Những nghiên cứu như vậy phải bao gồm cả tác động của sự thiếu hụt selen lên việc phòng vệ trước tác hại oxy hóa trong chấn thương mô và ý nghĩa di truyền của nó đối với độc lực vi rút.

Chúng tôi thiếu kiến thức về tác động của các thành phần trong đất lên hàm lượng selen trong ngũ cốc và các mô động vật. Kinh nghiệm của Trung Quốc về tác động to lớn của

Page 17: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

lượng sắt trong đất và độ pH thấp lên lượng selen tích trữ có thể cũng có ý nghĩa tương tự ở vùng đất đá ong rộng lớn ở châu Phi và các nơi khác. Có căn cứ để tin rằng các yếu tố chung của selen và i-ốt có thể ảnh hưởng đến nguồn cung cấp và lượng tích trữ của chúng từ đất vào chuỗi thức ăn của con người. FAO nên được khuyến khích việc phát triển các nghiên cứu về tác động của điều kiện đất đai lên việc cung cấp hai yếu tố chuyển hoá phụ thuộc lẫn nhau vốn ảnh hưởng đến sức khỏe con người này.

Việc phát hiện sớm của ngộ độc selen (selenosis) bị cản trở bởi việc thiếu các chỉ số sinh hóa phù hợp. Việc phát hiện và kiểm soát ngộ độc selen hiệu quả ở nhiều nước đang phát triển đang chờ đợi sự phát triển và cải thiện những kỹ thuật chẩn đoán đặc hiệu.

Tài liệu tham khảo:

1. Levander, O.A. 1986. Selen. In: Trace elements in human and animal nutrition 5th edn. Mertz, W. ed. p 209-279. Orlando, Florida 209-279. Academic Press Inc.

2. Arthur, J.R. & Beckett, G.J. 1994. Neometabolic roles for selen. Proc. Nutr. Soc. 53: 615-624.

3. Ge, K. & Yang, G. 1993. The epidemiology of selen deficiency in the etiological study of endemic diseases in China. Am. J. Clin. Nutr., Supplement 57: 259S-263S.

4. Arthur, J.R., Bermano, G., Mitchell, J.H. & Hesketh, J.E. 1996. Regulation of selenoprotein gene expression and thyroid hoóc mône metabolism. Biochem. Soc. Trans., 24: 384-388.

5. Howie, A.F., Arthur, J.R., Nicol, T., Walker, S.W., Beech, S.G. & Beckett, G.J. 1998. Identification of a 57-kilodalton selenoprotein in human thyrocytes as thioredoxin reductase. J. Clin. Endocrino.l Metab., 83: 2052-2058.

6. Mairrino, M., Thomas, J.P., Girotti, A.W. & Ursini, F. 1991. Reactivity of phospholipd hydroperoxide glutathione peroxidase with membrane and lipoprotein lipid hydroperoxides. Free. Radic. Res. Commun. 12: 131-135.

7. Arthur, J. 1997. Selen biochemistry and function. In: Trace Elements in Man and Animals - 9. Proceedings of the Ninth International Symposium on Trace Elements in Man and Animals. Fischer, P.W.F., L'Abbe, M.R., Cockell, K.A., Gibson, R.S. eds. p. 1-5.Ottawa, Canada, NRC Research Press.

8. Reilly, C. 1996. Selen in food and health. London, Blackie Academic and Professional.

9. Anikina, L.V. 1992. Selen-deficient cardiomyopathy (Keshan disease). In: Fifth International Symposium on Selen in Biology and Medicine. Burk, R.F. ed. Vanderbilt University, Nashville, TN p 122.

11. Brennan, M.F. & Horwitz, G.D. 1984. Total parenteral nutrition in surgical patients. Advances in Surgery, 17: 1-7. van RiJ., A.M., Thompson, D., McKenzie, J.M. & Robinson, M.F. 1979. Selen deficiency in total parenteral nutrition. Am. J. Clin. Nutr., 32: 2076-2085.

Page 18: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

12. Rossipal, E. & Tiran, B. 1995. Selen and glutathione peroxidase levels in healthy infants and children in Austria and the influence of nutrition regimens on these levels. Nutrition, 11 (5 suppl): 573-575.

13. Lombeck, I., Kasperek, K., Bonnermann, B. et al. 1975. Selen content of human milk, cows milk and cows milk infant formulas. Eur. J. Pediatr., 139-145.

14. Okada, A., Takagi, Y., Nezu, R., Sando, K. & Shenkin, A. 1995. Trace element metabolism in parenteral and enteral nutrition. Nutrition, 11; 106-113.

15. Collip, P.J. & Chen, S.Y. 1981. Cardiomyopathy and selen deficiency in a two year old girl. N. Engl. J. Med., 304: 1304-1305.

16. Lombeck, I., Ebert, K.H., Kasparek, K. et al. 1984. Selen intake of infants and young children, healthy children and dietetically treated patients with phenylketonnria. Eur. J. Pediatr., 143: 91-102.

17. Levander, O.A. & Beck, M.A. 1997. Interacting nutritional and infectious ecologies of Keshan Disease. Biol. Trace Elem. Res., 56: 5-21.

18. Yang, G-Q., Zhu, L-Z., Liu, S-J., Gu, L-Z., Qian, P-C., Huang, J-H. & Lu, M-D. 1984. Human selen requirements in China. In: Selen in Biology and Medicine. Combs, G.R., Spallholz, J.E., Levander, O.A., Oldfield, J.E. eds. p.589-607. New York, AVI Van Nostrand.

19. Johnson, C.C., Ge, X., Green, K.A. & Liu, X. 1996. Studies of selen distribution in soil, grain, drinking water and human hair samples from the Keshan Disease belt of Zhangjiakou district, Henei Province, China. Technical Report WC/96/52. Nottingham, UK, Overseas Geology Series, British Geological Survey.

20. Li, J-Y., Ren, S-X., Cheng, D-Z., Wan, H-J., Liang, S-T., Zhang, F-J. & Gao, F-M. 1984. Distribution of selen in the microenvironment related to Kaschin-Beck disease. In: Selen in Biology and Medicine. Combs, G.F., Spallholz, J.E., Levander, O.E., Oldfield, J.E. eds. p.911-925. New York, AVI Van Nostrand.

21. Beck, M.A. 1998. The influence of antioxidant nutrients on viral infection. Nutr. Revs., 56: S140-S146.

22. Baum, M.K. & Shor-Posner, G. 1998. Micronutrient status in relationship to mortality in HIV-1. Nutr. Revs., 56: S135-S139.

23. Baum, M.K., Shor-Posner, G., Lai, S.H., Zhang, G.Y., Fletcher, M.A., Sanberlich, H. & Page, J.B. 1997. High risk of HIV-related mortality is associated with selen deficiency. J. Acquir. Immune Defic. Syndr. Hum. Retrovirol., 15: 370-374.

24. Cirelli, A., Ciardi, M. & DeSimone, C. 1991. Serum selen concentration and disease progress in patients with HIV infection. Clin. Biochem., 24: 211-214.

25. Dworkin, B.M. 1994. Selen deficiency in HIV infection and the acquired immunodeficiency syndrome (AIDS). Chem. Bio. Interact., 91: 181-186.

Page 19: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

26. Taylor, E.W., Nadimpalli, R.G. & Ramanthan, C.S. 1997. Genomic structures of viral agents in relation to the synthesis of selenoproteins. Biol. Trace Elem. Res., 56: 63-91.

27. Zazzo, J.F., Chalas, A. & LaFont. 1988. Is monobstructive cardiomyopathy in AIDS a selen deficiency-related disease. J. Parenteral Enteral Nutr., 12: 537-538.

28. Kavanaugh-McHugh, A.L., Ruff, A. & Pearlman, A. 1991. Selen deficiency and cardiomyopathy in acquired immunodeficiency syndrome. J. Parenteral Enteral Nutr., 15: 347-349.

29. Ramanathan, C.S. & Taylor, E.W. 1997. Computational genomic analysis of Hemorrhagic vi rútes; viral selenoproteins as a potential factors in pathogenesis. Biol. Trace Elem. Res., 56: 93-106.

30. Serfass, R.E. & Ganther, H.E. 1975. Defective microbial activity in glutathione peroxidase deficient neutrophils of selen deficient rats. Nature, 225: 640-641.

31. Boyne, R. & Arthur, J.R. 1986. The response of selen deficient mice to Candida albicans infection. J. Nutr., 116: 816-822.

32. Ip, C. & Sinha, D.K. 1981. Enhancement of mammary tumorigenesis by dietary selen deficiency in rats with a high polyunsaturated fat intake. Cancer Res., 41: 31-34.

33. Levander, O.A. 1987. A global view of human selen nutrition. Annu. Rev. Nutr., 7: 227-250.

34. Birt, D.F., Pour, P.M. & Pelling, J.C. 1989. The influence of dietary selen on colon, pancreas, and skin tumorigenesis. In: Wendel A., ed. Selen in biology and medicine. p. 297-304. Berlin, Springer-Verlag.

35. Arthur, J.R., Nicol, F. & Beckett, G.J. 1993. Selen deficiency thyroid hoóc mône metabolism and thyroid hoóc mône deiodinases. Am. J. Clin. Nutr., Supplement, 57: 236S-239S.

36. Corrilain, B., Contempre, B., Longombe, A.O., Goyens, P., Gervy-Decoster, C., Lamy, F., Vanderpas, J.B. & Dumont, J.E. 1993. Selen and the thyroid: how the relationship was established. Am. J. Clin. Nutr., Supplement 57: 244S-248S.

37. Olivieri, O., Girelli, D., Stanzial, A.M., Rossi, L., Bassi, A. & Corrocher, R. 1996. Selen, zinc and thyroid hoóc mônes in healthy subjects. Low T3/T4 ratio in the elderly is related to impaired selen status. Biol. Trace Elem. Res., 51: 31-41.

38. MacPherson, A., Barclay, M.N.J., Scotts, R. & Yates, R.W.S. 1997. Loss of Canadian wheat imports lowers selen intake and status of the Scottish population. In: Trace Elements in Man and Animals -Proceedings of 9th International Symposium on Trace Elements in Man and Animals. Fischer, P.W.F., L'Abbe, M.R., Cockell, K.A., Gibson, R.S. p. 203-205. eds. Ottawa, Canada, NRC Research Press.

39. Vanderpas, J.B., Contempre, B., Duale, N.L. & Deckx, H. 1993. Selen deficiency mitigates hypothyroxinimia in iodine deficient subjects. Am. J. Clin. Nutr., 57 Suppl: 271S-275S.

40. Contempre, B., Le Moine, O., Dumont, J.E., Denef, J-F. & Many, M.C. 1996. Selen deficiency and thyroid fibrosis. A key role for macrophages and TGF-á. Mol. Cell. Enyzmol., 124: 7-15.

Page 20: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

41. Ma, T., Guo, J. & Wang, F. 1993. The epidemiology of iodine deficiency diseases in China. Am. J. Clin. Nutr., Supplement, 57: 264S-266S.

42. Contempre, B., Many, M.C., Duale, G.L., Denef, J.F. & Dumont, J.E. 1996. Selen and iodine in thyroid function: the combined deficiency in the etiology of the involution of the thyroid leading to myxoedematous cretinism. In: Thyroid and Trace Elments. 6th Thyroid Symposium. p. 35-39. Eds. Browerman, L.E., Kohsle, J., Eber, O., Langsteger, W. Graj-Eggenberg: Barmhersige Brudes.

43. Mahalingam, T.R., Vijayalakshni, S., Krishna, & Prabhu, R. 1997. Studies on some trace and minor elements in blood. A survey of the Kalpakkan (India) population. Part III: Studies on dietary intake and its correlation to blood levels. Biol. Trace Elem. Res., 57: 223-238.

44. Levander, O.A. 1987. A global view of human selen nutrition. Annu. Rev. Nutr., 7: 227-250.

45. Varo, P. & Koivistoinen, P. 1980. Mineral element composition of Finnish foods. XII General discussion and nutritional evaluation. Acta Agric. Scand., Supplement No. 22; 165-171.

46. MAFF. 1997. UK Dietary Intake of Selen. MAFF Food Surveillance Information Sheet: No. 126. London, MAFF/HMSO.

47. World Health Organization. 1998. Complementary Feeding of Young Children in Developing Countries \\WHO/NUT/98.1. Geneva, WHO.

48. Robberecht, H., Benemariya, H. & Dellstra, H. 1995. Daily dietary intake of copper, zinc and selen of exclusively breast fed infants of middle-class women in Burundi, Africa. Biol. Trace Elem. Res., 49: 151-159.

49. Williams, M.M.F. 1983. Selen and glutathione peroxidase in mature human milk. Proceedings of the University of Otago Medical School, Dunedin, 61: 20-21.

50. World Health Organisation/International Atomic Energy Agency. 1989. Minor and Trace Elements in Milk. Geneva, WHO.

51. Kumpulainen, J., Vuori, E. & Kuitunen, P. 1983. Longetudinal study on the dietary selen intake of exclusively breast fed infants and their mothers in Finland. Int. J. Vit. Nutr. Res., 53: 420-426.

52. Millar, K.R. & Sheppard, A.D. 1972. a-Tocopherol and selen levels in human and cow's milk. NZ J. Sci., 15: 3-15.

53. Sumar, S., Kondza, B. & Foster, L.H. 1997. Selen levels in infant formulae and breast milk from the United Kingdom: a study of estimated intakes. In: Trace Elements in Man and Animals - 9. Proceedings of the Ninth International Symposium on Trace Elements in Man and Animals. Fischer, P.W.F., L'Abbe, K.A., Cockell, K.A. Gibson, R.S. p.282-283.Ottawa, Canada, NRC Research Press.

54. Cumming, F.J., Fardy, J.J. & Woodward, D.R. 1992. Selen and human lactation in Australia: milk and blood selen levels in lactating women and selen intake of their breast-fed infants. Acta Paediatrica, 81: 1058-1061.

Page 21: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

55. Levander, O.A., Moser, P.B. & Morris, V.C. 1987. Dietary selen intake and selen concentrations of plasma, erythrocytes, and breast milk in pregnant and postpartum lactating and nonlactating women. Am. J. Clin. Nutr., 46: 694-698.

56. Shearer, T.R. & Hadjimarkos, D.M. 1975. Geographic distribution of selen in human milk. Arch. Environ. Health, 30: 230-233.

57. Lombeck, I., Kasparek, & Bonnerman, B. 1975. Selen content of human milk, cow's milk and cow's milk infant formulaes. Eur. J. Paediatr.. 129: 139-145.

58. Iyengar, V. & Wooittiez, J. 1988. Trace elements in human clinical specimens: evaluation of literature to identify reference values. Clin. Chem., 34: 474-481.

59. Darlow, B.A., Inder, T.E., Sluis, K.B., Nuthall, G. et al. 1995. Selen status of New Zealand infants fed either a selen supplemented or a standard formula. J. Paediatr. Child. Health, 31: 339-344.

60. Smith, A., Picciano, M.F. & Milner, J.A. 1982. Selen intakes and status of human milk formula fed infants. Am. J. Clin. Nutr., 35: 521-526.

61. Lonnerdal, B. 1997. Effects of milk and milk components on calcium, magnesium, and trace element absorption during infancy. Physiol. Revs., 77: 643-669.

62. Yang, G., Wang, S., Zhou, R. & Sun, S. 1983. Endemic sleenium intoxication of Humans in China. Am. J. Clin. Nutr., 37: 872-881.

63. Luo, X.M., Yang, C.L., Wei, H.J., Liu, X. & Qixo, C.H. 1984. Selen intake and metabolic balance in 10 men consuming self-selected diets in a selen-deficient area of Hebei Provence, PR China. FASEB J., 43: Abstr. 1097.

64. Parr, R.M., Crawley, H., Aldulla, M., Iyengar, G.V. & Kumpulainen, J. 1992. Human dietary itnakes of trace elements: A global literature survey mainly for the period 1970-1991. I Data listings and sources of information. NAHRES 12, Vienna, International Atomic Energy Agency.

65. Robinson, M.T. & Thomason, C.D. 1984. Status of the food supply and residents of New Zealand. In: Combs GF (ed) Selen in Biology and Medicine. p. 631-644. New York, AVI Van Nostrand.

66. Abdulla, M.A., Behbehani, A. & Dashti, H. 1989. Dietary intake and bio-availability of trace elements. Biol. Trace Elem. Res., 21: 173-178.

67. Koivistoinen, P. & Varo, P. 1987. Selen in Finnish food. In: Selen in Biology and Medicine. Cambs. J.F., Spallholz, J.E., Lavander, O.A., p. 645-651. New York, Oldfield. Van Nostrand.

68. Mutanen, M. 1985. Comparison of chemical analysis and calculation emthod in estimating selen content of Finnish diets. Nutr. Res., 5: 693-697.

69. Mutanen, M. 1984. Dietary intake and sources of selen in young Finnish women. Hum. Nutr: Appl. Nutr., 38A: 265-269.

Page 22: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

70. Kadrabova, J., Madaric, A. & Ginter, E. 1998. Determination of the daily selen intake in Slovakia. Biol. Trace Elem. Res., 61: 277-286.

71. Oster, O. & Prellwitz, W. 1989. The daily dietary selen intake of West German adults. Biol. Trace Elem. Res., 20: 1-14.

72. Simonoff, M. & Simonoff, G. 1991. Le Selen et la Vie. Paris, Masson.

73. Levander, O.A. & Morris, V.C. 1984. Dietary selen levels needed to maintain balance in North American adults consuming self-selected diets. Am. J. Clin. Nutr., 39: 809-815.

74. Thomson, J.N., Erdody, P. & Smith, D.C. 1975. Selen in Canadian Foods and diets. J. Nutr., 105: 274-279.

75. Bratter, P, Bratter, N. & Gwlik, D. 1993. Selen in Human monitors related to the regional dietary intake levels in Venezuela. J. Trace Elem. Electrolyte Health Dis., 7: 111-112.

76. Alfthan, G. & Neve, J. 1996. Reference values for serum selen in various areas evaluated according to the TRACY protocol. J. Trace Elem. Med. Biol., 10: 77-87.

77. Diplock, A.T., Contempre, B., Dumont, J., Bebe, N. & Vanderpas, J. 1997. Interaction of selen and iodine deficiency diseases. In: Trace Elements in Man and Animals - 9. Proceedings of the ninth International Symposium on Trace Elements in Man and Animals. p. 63-68. Fischer, P.W.F. L'Abbe, M.R., Cockell, K.A., Gibson, R.S. Ottawa, ON, NRC Research Press.

78. Diplock, A.T. 1993. Indexes of selen status in Human populations. Am. J. Clin. Nutr., Supplement 57: 256S-258S.

79. Versieck, J. & Cornelis, R. 1989. Trace elements in Human plasma or serum. Boca Raton, CRC Press.

80. WHO. 1987. Selen, Geneva, World Health Organization. (Environmental Health Criteria, 58).

81. Patterson, B.H., Zech, L.A., Swanson, C.A. & Levander, O.A. 1993. Kinetic modelling of selen in Humans using stable isotope tracers. J. Trace Elem. Electrolyte Health Dis. 7: 117-120.

82. Mutanen, M. Bio-availability of selen. Ann. Clin. Res.,1986; 18: 48-54.

83. Levander, O.A. 1983.Bio-availability of selen to Finnish men as assessed by platelet glutathione peroxidase activity and other blood parameters. Am. J. Clin. Nutr., 37: 887-897.

84. Levander, O.A. 1988. The global selen agenda. In: Trace Elements in man and animals - 6. Proceeding of the 6th International Symposium on Trace Elements in Man and Animals. Hurley, L.S., Keen, C.L., Lonnerdal, B., Rucker, R.B. eds. New York Plenum Press Inc.

85. Gu, Q-P., Xia, Y-M., Ha, P-C., Butler, J.A. & Whanger, P.D. 1998.Distribution of selen between plasma fractions in guinea pigs and Humans with various intakes of selen. J. Trace Elem. Med. Biol., 12: 8-15.

Page 23: Vai trò của selenium trong quá trình trao đổi chất của con ... · Có báo cáo cho thấy nồng độ selen trong máu giảm tới một phần ... dẫn tới suy

86. WHO/FAO/IAEA. 1996. Trace elements in Human nutrition and health. Geneva. World Health Organization.

87. National Research Council, Food and Nutirtion Board. 1988. Recommended Dietary Allowances, 10 edition. Washington, D.C. US National Academy Press.

88. Lombeck, I., Kaspereck, K., Harbisch, H.D., Feinendegen, L.E. & Bremer, H.J. 1997. The selen status of healthy children. I. Serum selen concentration at different ages; activity of glutathione peroxidase of erythrocytes at different ages; selen content of food of infants. Eur. J. Paediatr., 125: 81-88.

89. Levander, O.A. 19893 Upper limit of selen in infant formulas. J. Nutr., 119: 1869-1871.

90. Scientific Committee for Food. 1993. Nutrient and Energy Intakes for the European Community. Report of the Scientific Committee for Food, Thirty First Series. Office for Official Publications of the European Communities, Brussels.

91. Department of Health. 1991. Dietary Reference Values for Food Energy and Nutrient Intakes for the United Kingdom. Report on Health and Social Subjects No.41.London, HMSO.

92. Netherlands Food and Nutrition Council. 1989. Recommended Dietary Allowances. The Netherlands. The Hague.

93. Smith, M.I., Franke, K.W. & Westfall, B.B. 1936. The selen problem in relation to publish health. US Public Health Report., 51: 1496-1505.

94. Smith, M.I. & Westfall, B.B. 1937. Further field studies on the selen problem in relation to public health. US Public Health Report, 52: 1375-1384.

95. Yang, G., Wang, S., Zhou, R. & Sun, S. 1983. Endemic selen intoxication of Humans in China. Am. J. Clin. Nutr., 37: 872-881.

96. Hadjimarkos, D.M. 1973. Selen in relation to dental caries. Food Cosmetic Toxicol., 11: 1083-1095.

97. Hadjimarkos, D.M., Storveik, C.A. & Renmert, L.T. 1952. Selen and dental casies. An investigation among school children of Oregon. J. Paediatr., 40: 451-455.

98. National Research Council. 1980. Mineral Tolerance of Domestic Animals. Commission on Natural Resources., Washinton, D.C. National Academy of Sciences.1.