trẦn hoÀng hÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/vnu_123/33907/1/02050004728(1).pdfnhu cầu đối...

42
ĐẠI HC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------ TRẦN HOÀNG HÀ NHU CẦU ĐỐI VI HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG NÂNG CAO ĐỜI SNG TINH THẦN CHO NGƢỜI KHUYT TT TẠI PHƢỜNG NGHĨA ĐÔ, QUN CU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI Hà Nội - 2016

Upload: others

Post on 30-Dec-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------

TRẦN HOÀNG HÀ

NHU CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI

TRONG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI PHƢỜNG NGHĨA ĐÔ,

QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội - 2016

Page 2: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------

TRẦN HOÀNG HÀ

NHU CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI

TRONG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO NGƢỜI

KHUYẾT TẬT TẠI PHƢỜNG NGHĨA ĐÔ,

QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Mã số: 60.90.01.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thu Hƣơng

Hà Nội- 2016

Page 3: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành đề tài luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc

tới PGS.TS. Hoàng Thu Hương là người hướng dẫn đã luôn tận tình giúp đỡ,

chỉ bảo và động viên trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân phường Nghĩa

Đô, cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các cán bộ ban ngành đoàn

thể của phường đã luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ sở vật chất cung

như cung cấp thông tin, số liệu hữu ích trong thời gian tôi nghiên cứu và thực

hiện các hoạt động phục vụ cho đề tài.

Tôi cũng xin cảm ơn những thành viên là NKT đã phối hợp, hỗ trợ nhiệt

tình trong quá trình thực hiện đề tài.

Xin trân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2016

Học viên

Trần Hoàng Hà

Page 4: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6

1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 6

2. Tổng quan nghiên cứu ............................................................................... 7

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn .................................................... 12

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................. 13

5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................. 13

6. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu ................................................................ 14

7. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 14

NỘI DUNG CHÍNH ...................................................................................... 18

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 18

1.1. Khái niệm công cụ ........................................................................... 18

1.1.1. Người khuyết tật .......................................................................... 18

1.1.2. Nhu cầu ........................................................................................ 20

1.1.3. Công tác xã hội ............................................................................ 22

1.1.4. Đời sống tinh thần của người khuyết tật ..................................... 24

1.1.5. Nhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời

sống tinh thần cho người khuyết tật ...................................................... 25

1.2. Một số lý thuyết áp dụng ............................................................... 27

1.2.1 Thuyết nhu cầu ............................................................................. 27

1.2.2. Lý thuyết hệ thống ....................................................................... 30

1.3. Khái quát về một số vấn đề của ngƣời khuyết tật hiện nay ........ 31

1.3.1. Chăm sóc đời sống người khuyết tật ........................................... 32

1.3.2. Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng ................. 33

1.3.3. Học văn hoá đối với người khuyết tật ......................................... 33

1.3.4. Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật .......................... 34

1.3.5. Tiếp cận văn hóa, thể thao và công trình công cộng ................... 36

1.4. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ................................................... 37

Page 5: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

2

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 37

CHƢƠNG 2. NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG VÀ NGHE NHÌN

TẠI PHƢỜNG NGHĨA ĐÔ: ĐẶC ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG ĐỜI

SỐNG TINH THẦN. ..................................................................................... 40

2.1. Sơ lƣợc về tình hình ngƣời khuyết tật tại phƣờng Nghĩa Đô ...... 40

2.2. Đặc điểm NKT vận động và nghe nhìn tại phƣờng Nghĩa Đô .... 41

2.2.1. Về độ tuổi .................................................................................... 41

2.2.2. Tình trạng hôn nhân ..................................................................... 43

2.2.3. Trình độ chuyên môn và việc làm. .............................................. 45

2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ................................................. 48

2.3. Điều kiện sống của ngƣời khuyết tật vận động nghe và nhìn ..... 50

2.3.1. Về người chăm sóc ...................................................................... 50

2.3.2. Về tình trạng nhà ở ...................................................................... 52

2.4. Đời sống tinh thần của ngƣời khuyết tật vận động và nghe nhìn

tại phƣờng Nghĩa Đô .............................................................................. 53

2.4.1.Đánh giá Tình trạng sức khỏe tinh thần của người khuyết tật ..... 53

2.4.2. Đối tượng chia sẻ, giúp đỡ khi người khuyết tật gặp phải vấn đề

về sức khỏe ............................................................................................ 54

2.4.3. Hoạt động văn hóa, thể dục – thể thao, giải trí của người khuyết tật..... 56

2.4.4. Các hoạt động trong thời gian rảnh rỗi ........................................ 60

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 64

CHƢƠNG 3: CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC HỖ TRỢ

NÂNG CAO ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO NGƢỜI KHUYẾT TẬT . 65

3.1. Vai trò của công tác xã hội nhóm trong hỗ trợ ngƣời khuyết tật

trong nâng cao đời sống tinh thần ........................................................ 65

3.1.1. Lý do lực chọn công tác xã hội nhóm ......................................... 65

3.1.2. Cơ sở đề xuất biện pháp can thiệp bằng phương pháp công tác xã

hội nhóm ................................................................................................ 67

Page 6: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

3

3.1.3. Xây dựng quy trình vận dụng biện pháp can thiệp công tác xã hội nhóm . 69

3.1.4. Qui trình hình thành nhóm ........................................................... 70

3.2. Thực hành đề xuất xây dựng mô hình Công tác xã hội nhóm vào

nâng cao đời sống tinh thần cho ngƣời khuyết tật .............................. 82

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Page 7: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Ý nghĩa

1 NVCTXH Nhân viên công tác xã hội

2 CTXH Công tác xã hội

3 NKT Người khuyết tật

4 KT Khuyết tật

5 TC Thân chủ

6 TDTT Thể dục thể thao

7 UBND Uỷ ban nhân dân

8 LĐTBXH Lao động Thương binh và xã hội

9 BTXH Bảo trợ xã hội

10 CSSK Chăm sóc sức khỏe

11 PHCN Phục hồi chức năng

12 PHCNDVCĐ Phục hồi chức năng dựa vào cộng

đồng

13 CLB Câu lạc bộ

Page 8: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

5

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

1. Danh mục các bảng

Bảng 1.1. Cơ cấu mẫu trong nghiên cứu (n= 120)

Bảng 2.1. Sơ lược tình trạng NKT của phường Nghĩa Đô

2. Danh mục các biểu đồ

Biểu 2.1: Cơ cấu mẫu khảo sát theo độ tuổi

Biểu 2.2: Tình trạng hôn nhân theo mức độ khuyết tật của NKT

Biểu 2.3: Tỷ lệ trình độ chuyên môn của NKT phân theo dạng tật

Biểu 2.4: Tỷ lệ việc làm của NKT theo dạng tật

Bảng 2.5: Nguyên nhân dẫn đến khuyết tật của NKT

Biểu 2.6: Tỷ lệ người chăm sóc NKT

Biểu 2.7: Tình trạng nhà ở của NKT

Biểu 2.8: Các triệu chứng tâm lý của NKT trong tuần qua

Biểu 2.9: Đối tượng hỗ trợ NKT khi gặp phải vấn đề về sức khoẻ

Biểu 2.10: Tỷ lệ NKT tham gia vào các hoạt động TDTT

Biểu 2.11: Những hoạt động vui chơi, giải trí của NKT khi có thời gian rảnh rỗi

Page 9: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề khuyết tật và người khuyết tật (NKT) là mối quan tâm toàn cầu,

theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, ước tính có khoảng 10-15% dân số thế giới

(tức là khoảng 700 triệu cho đến một tỷ người) là NKT và 80% trong số họ

đang sống ở các nước đang phát triển. NKT chiếm 20% trong số người nghèo

nhất trên thế giới và rất khó khăn trong tiếp cận giáo dục, việc làm, chăm sóc

sức khỏe và dịch vụ trợ giúp xã hội khác [1,tr.2]. Tại Việt Nam, ước tính của

tổ chức Y tế thế giới (WHO) NKT Việt Nam chiếm khoảng 10% dân số,

tương đương 8,6 triệu người, trong đó khoảng 2 triệu là trẻ em [5, tr.3]. Tỉ lệ

khuyết tật trên dân số dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng lên do những nguyên nhân

xuất phát từ ảnh hưởng hệ quả của quá trình phát triển xã hội, tai nạn, ô nhiễm

môi trường, do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh hoặc do thất lạc vũ khí,....

NKT phải đối mặt với những khó khăn đáng kể khi hòa nhập đời sống xã

hội bởi sự kỳ thị và phân biệt; thiếu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK)-

phục hồi chức năng (PHCN); không tiếp cận được với các phương tiện giao

thông, các công trình công cộng, cũng như công nghệ thông tin(CNTT),

truyền thông. Kết quả, NKT có sức khỏe kém hơn, kết quả học tập thấp hơn,

có ít cơ hội tham gia các hoạt động kinh tế, tỷ lệ đói nghèo cao hơn và các

quyền cơ bản chưa được đảm bảo đầy đủ, bình đẳng so với các nhóm cộng

đồng dân cư khác trong xã hội .

NKT bình đẳng và hòa nhập xã hội thể hiện ở chỗ NKT có quyền tham

gia mọi hoạt động của đời sống xã hội. NKT cần được khuyến khích tham gia

mọi hoạt động trong gia đình, trong cộng đồng giống như mọi thành viên

khác. Chẳng hạn, một thanh niên khuyết tật ngoài chăm sóc bản thân, chung

sức với các thành viên khác trong gia đình họ còn có thể làm nội trợ, chăn

nuôi gia súc, hoặc các hoạt động có thu nhập khác…cũng cần có các hoạt

Page 10: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

7

động vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao. Gia đình, bạn bè, cộng đồng, xã hội

cần tạo mọi điều kiện để NKT có thể tiếp cận và tham gia các hoạt động này.

Hiện nay, các hoạt động hỗ trợ NKT ở Việt Nam chủ yếu trên 9 nhóm

hoạt động chính: (1) công tác xác định mức độ khuyết tật, (2) CSSK, chỉnh

hình và PHCN, (3) Giáo dục, (4) Dạy nghề và việc làm, (5) văn hóa, thể dục,

thể thao, giải trí và du lịch, (6) nhà chung cư, công trình, giao thông công

cộng, (7) CNTT và truyền thông, (8) bảo trợ xã hội (BTXH) và (9) các mô

hình, tổ chức của NKT với sự chủ trì, tham gia thực hiện của nhiều bộ, ngành

và các tổ chức khác nhau. Nhiều nghiên cứu, báo cáo chỉ ra rằng, tuy các hoạt

động hỗ trợ NKT ở Việt Nam đã được triển khai trên diện rộng và bao phủ

hầu hết các vấn đề liên quan đến NKT, tuy nhiên tính liên kết chưa cao, còn

manh mún, chưa có cơ chế phối hợp, tổ chức thực hiện hiệu quả và đồng bộ.

Phường Nghĩa Đô là phường có số NKT cao nhất quận Cầu Giấy, tuy

nhiên hiện nay hoạt động liên quan đến NKT mới chỉ đừng là ở các hoạt động

thông báo các thông tin liên quan đến dạy nghề khi có lớp; tổ chức khám chữa

bệnh cho NKT (chỉ chọn 50 NKT/năm) [24]; tặng quà cho NKT đặc biệt nặng

vào dịp tết; cấp phát thẻ BHYT miễn phí; theo dõi, làm hồ sơ xác nhận mức

độ khuyết tật.

Với những lý do trên việc nghiên cứu "Nhu cầu đối với hoạt động công

tác xã hội trong nâng cao đời sống tinh thần người khuyết tật tại phường

Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” là rất cần thiết. Tác giả mong

muốn nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn

trong việc chăm sóc đời sống tinh thần cho NKT.

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1 Các nghiên cứu nƣớc ngoài

Năm 2011 trong một báo cáo của Liên Hợp Quốc (UN) và Tổ chức lao

động quốc tế ILO đã chỉ ra có khoảng 5 tỷ người (khoảng 75% dân số thế

giới) không được hưởng các chế độ an sinh xã hội phù hợp. Báo cáo của UN

Page 11: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

8

và ILO cho thấy, có khoảng 38% dân số thế giới (tương đương 2,6 tỷ người)

không được hưởng các hệ thống chăm sóc sức khỏe thỏa đáng và 884 triệu

người không được dùng nước sạch. Thêm vào đó, có khoảng 1,4 tỷ người

vẫn phải sống ở mức dưới 1,25 USD/ ngày. Báo cáo cũng đề xuất các nguồn

trợ cấp xã hội công cộng dành cho những gia đình nghèo, trong đó bao gồm

trợ cấp cho những người già cả, người khuyết tật và khoản trợ cấp dành cho

trẻ em và những người thất nghiệp. Bên cạnh đó, chăm sóc y tế, giáo dục,

nước sạch và vệ sinh dịch tễ cũng nên được đảm bảo cho tất cả mọi người

[30]

Công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT (2006) cũng đã xác

định được những quyền cơ bản của NKT, trong dó đề cập đến các quyền cơ

bản về chăm sóc sức khỏe, học tập, việc làm, thu nhập, an sinh xã hội,

nguyên tắc chống phân biệt đối xử, bảo vệ phụ nữ và trẻ em khuyết tật. Việt

Nam cũng đã ký kết tham gia thực hiện công ước. [11]

Trên tạp chí nghiên cứu người khuyết tật NewZealand, năm 1996 đã

đăng bài viết về một nghiên cứu lịch sử. Nghiên cứu này khảo sát về nhu cầu

của NKT và đáp ứng nhu cầu của họ. Khảo sát chi ra rằng hiện nay NKT phải

đối mặt với các rào cản khác nhau để được sống một cuộc sống bình thường

và tham gia hoạt động xã hội. Vì cậy để trợ giúp cho NKT cần có những thay

đổi trong chính những suy nghĩ của họ về khuyết tật cũng như thay đổi thái độ

của cộng đồng đối với khuyết tật. Nghiên cứu cũng đưa ra nhiều vấn đề cần

thay đổi trong suy nghĩ về khuyết tật đối với NKT như: cần phải thay đổi suy

nghĩ cho rằng khuyết tật là vấn đề của cá nhân NKT, cần nhìn thấy thế mạnh

của họ hơn là khuyết tật mà họ đang có, không chỉ người hoạt động về lĩnh

vực khuyết tật mà người dân cũng cần hiểu về khuyết tật cũng như đặc điểm,

nhu cầu và quyền của người khuyết tật. [14]

Nghiên cứu “Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và sự duy trì những giá trị

văn hóa truyền thống” của Ronald Inghart và Waye E.Baker xuất bản năm

Page 12: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

9

(2000), do Bùi Lưu Phi Khanh dịch. Tác giả đã phân tích về sự biến đổi văn

hóa nói chung, sự biến đổi đời sống tinh thần nói riêng của con người dưới sự

tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. [27]

2.2 Các nghiên cứu trong nƣớc

Trong những năm gần đây, có rất nhiều tác giả, các bộ, ngành nghiên

cứu về lĩnh vực NKT. Báo cáo của liên hợp quốc về người khuyết tật (2002)

chỉ ra rằng người khuyết tật chiếm trên 10% dân số thế giới, cuộc sống của họ

đa phần gặp khó khăn cả về kinh tế và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã

đưa ra báo cáo số 62/BC-LĐTBXH tổng kết 10 năm thực hiện pháp lệnh về

người tàn tật và các văn bản pháp luật liên quan [3].

Năm 2010, Nguyễn Ngọc Toàn đã có đề tài nghiên cứu về “Chính sách

trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt Nam” [15]. Tác giả đã có viết

một phần về NKT; chỉ ra số lượng NKT (2008) trên cả nước và phạm vi phân

bổ NKT, dạng khuyết tật và nhu cầu của NKT. Kết quả nghiên cứu phát hiện

nhu cầu trợ giúp tương đối đông, tính chung 16,22% dân số cần trợ giúp xã

hội. Các nhu cầu trợ giúp (đời sống, sức khỏe, giáo dục) là khác nhau, tùy

thuộc vào nhóm đối tượng cụ thể.

Năm 2007, Nguyễn Hải Hữu đã có ý nghiên cứu về thực trạng trợ giúp

xã hội và ưu đãi xã hội ở nước ta năm 2001 – 2007 và khuyến nghị đến năm

2015 [16]. Tác giả đã đến cập đến các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có

người khuyết tật và các trợ giúp xã hội mà người khuyết tật được hướng đến.

Đưa ra các kiến nghị, giải pháp tiếp tục hoàn thiện các chính sách trợ giúp xã

hội khám chữa bệnh, giáo dục, tiếp cận các công trình giao thông công cộng

cho các đối tượng bảo trợ xã hội nói chung và người khuyết tật nói riêng.

Năm 2012, tác giả Nguyễn Hải Hữu đã chủ biên sách “Giáo trình nhập

môn an sinh và xã hội” [17]. Đồng thời nghiên cứu đề tài về “Thực trạng trợ

giúp xã hội và ưu đãi xã hội ở nước ta năm 2001 – 2007 và khuyến nghị tới

Page 13: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

10

năm 2015” [16].

Năm 2013, Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ NKT tại Việt Nam đã có

báo cáo năm 2013 về hoạt động trợ giúp NKT tại Việt Nam [2]. Năm 2014,

tác giả Nguyễn Thị Thu Hà biên soạn tập bài giảng “Công tác xã hội với

Người khuyết tật” [5].

Cuốn sách “Những vấn đề thời sự văn hóa” của Huỳnh Khái Vinh, Nxb.

Văn hóa thông tin, năm 1998, là công trình tổng hợp nhiều bài viết của tác giả

được đăng trên các tạp chí, các báo trong nước. Các bài viết đã bàn đến nhiều

lĩnh vực của văn hóa tinh thần như: tư tưởng, đạo đức, lối sống, khoa học,

giáo dục, văn học nghệ thuật,…; phân tích làm rõ chức năng, vai trò của văn

hóa và các lĩnh vực của văn hóa tinh thần, đường lối chính sách phát triển văn

hóa và xây dựng con người, thực trạng và giải pháp xây dựng và phát triển

các lĩnh vực đa dạng của văn hóa tinh thần [9].

Cuốn sách “Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay” do

Trần Văn Bính chủ biên, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1998, đã phân

tích những biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của con người dưới sự

tác động của quá trình đô thị hóa ở nước ta, chỉ ra hiện trạng quản lý văn hóa

đô thị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đề xuất một số

giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của con người trong quá trình

đô thị hóa hiện nay [32].

Đề tài “Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở thành phố Hồ Chí Minh

trong giai đoạn hiện nay” của Trần Chí Mỹ, Luận án tiến sĩ triết học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2002, đã tập trung phân

tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần

ở thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó đã xác định phương hướng và đề

xuất một số giải pháp tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở thành

phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế [33].

Cuốn sách “Phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kì công nghiệp

Page 14: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

11

hóa, hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, năm 2003, phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển con người, về mối quan hệ giữa

văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới, về phát triển toàn diện con người và

xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị mới; đồng thời các tác giả cũng đã

đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp cho các vấn đề nêu trên [21].

Đề tài “Nhân tố văn hóa tinh thần trong nền kinh tế thị trường Việt

Nam” của Vũ Đức Khiển, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Khoa học xã hội

vùng Đông Nam bộ, năm 2005. Tác giả đã phân tích làm rõ những điều kiện

hình thành giá trị văn hóa tinh thần truyền thống Việt Nam, hệ thống hóa các

giá trị văn hóa tinh thần truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam, ảnh

hưởng và vai trò của văn hóa tinh thần đối với nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, đề xuất một số giải pháp góp phần giữ gìn và phát

huy giá trị văn hóa tinh thần trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [40].

Cuốn sách “Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội nhập

quốc tế” của Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2010, đã phân

tích khá sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của sự nghiệp xây dựng văn hóa

đối với sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam cũng như đối với sự

phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập

quốc tế [8].

Công trình “Xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong

tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do Dương Phú Hiệp làm chủ nhiệm,

chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX.03/06-10, năm

2010, đã đánh giá thực trạng xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt

Nam trong hơn hai mươi năm đổi mới; xác định những yêu cầu đặt ra đối với

việc nâng cao nguồn nhân lực và xây dựng nhân cách văn hoá của con người

Việt Nam trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, của toàn

Page 15: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

12

cầu hoá và hội nhập quốc tế; cung cấp luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn để

xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới

và hội nhập kinh tế quốc tế; đề xuất hệ quan điểm, các chính sách, giải pháp

và lộ trình xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong hai thập

niên đầu thế kỷ XXI [7].

Toạ đàm “Phương pháp luận đánh giá thực trạng đời sống văn hoá tinh

thần ở nước ta trong 30 năm đổi mới” là hoạt động khoa học nằm trong đề án

“Đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân các tầng lớp, các vùng, miền trong

cả nước” được tổ chức tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hà Nội

vào tháng 01 năm 2012. Các ý kiến tại buổi tọa đàm đã tập trung phân tích

các vấn đề về phương pháp tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu đánh

giá thực trạng đời sống văn hoá tinh thần, khái niệm và cấu trúc các thành tố

cơ bản của đời sống văn hoá tinh thần, xây dựng các tiêu chí đánh giá thực

trạng đời sống văn hoá tinh thần ở nước ta hiện nay, những vấn đề đặt ra

trong đời sống văn hoá tinh thần của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, cùng

với đó là các giải pháp xây dựng, phát triển đời sống văn hoá tinh thần ở nước

ta ngày càng cao đẹp [29].

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

3.1. Ý nghĩa khoa học

Những kết quả của nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học cho việc thiết

lập nhưng mô hình trợ giúp NKT về vấn đề đời sống tinh thần

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp thấy được thực trạng đời sống tinh

thần của NKT nói chung và NKT ở phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành

phố Hà Nội nói riêng, có cái nhìn tổng quan hơn vềnhững trợ giúp dành cho

NKT , bên cạnh đó cũng thấy được những hạn chế trong việc ban hành, thực

hiện các hỗ trợ dành cho NKT và khuyến nghị xây dựng mô hình chăm sóc

đời sống tinh thần cho NKT

Page 16: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

13

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.

4.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu nhằm xác định, làm sáng tỏ các nhu cầu đối với

hoạt động CTXH trong nâng cao đời sống tinh thần cho NKT tại phường

Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Mô tả đặc điểm NKT trên địa bàn phường Nghĩa Đô;

- Xác định, đánh giá thực trạng đời sống tinh thần của NKT;

- Tìm hiểu hoạt động CTXH trợ giúp NKT tại phường Nghĩa Đô;

- Phân tích các nhu cầu của NKT về các hoạt động CTXH hỗ trợ nâng

cao đời sống tinh thần.

- Sử dụng phương pháp CTXH nhóm để hỗ trợ NKT phường Nghĩa Đô

nâng cao đời sống tinh thần.

5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhu cầu đối với hoạt động CTXH trong

nâng cao đời sống tinh thần cho NKT.

5.2. Khách thể nghiên cứu: NKT tại phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy,

thành phố Hà Nội; cán bộ Lao động- Thương binh và Xã hội phường Nghĩa

Đô; tổ trưởng tổ dân phố, công tác viên dân số của tổ, hội phụ nữ... tổ dân phố

có NKT sinh sống.

5.3. Phạm vi nghiên cứu:

Chủ đề về NKT là chủ đề nóng đã và đang được các nhà nghiên cứu tìm

hiểu rất nhiều. Với thời gian và nguồn lực có hạn nên tác giả giới hạn phạm vi

nghiên cứu của đề tài như sau:

Theo Luật Người khuyết tật Việt Nam (2010) tại Điều 3 quy định về

phân loại dạng khuyết tật thì có 6 dạng khuyết tật bao gồm: (1) Khuyết tật vận

động; (2) Khuyết tật nghe, nói; (3) Khuyết tật nhìn; (4) Khuyết tật thần kinh,

tâm thần; (5) Khuyết tật trí tuệ; (6) Khuyết tật khác, vì mỗi dạng khuyết tật

Page 17: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

14

có những đặc điểm và cách thức hỗ trợ khác nhau, nghiên cứu sử dụng

phương pháp CTXH nhóm để hỗ trợ nâng cao đời sống tinh thần cho NKT.

Các hoạt động hỗ trợ nâng cao đời sống tinh thần cho NKT tập trung vào các

hoạt động văn, giải trí, thể dục thể thao do đó tác giả tập trung vào nghiên cứu

đối với 3 dạng khuyết tật bao gồm: (1) Khuyết tật vận động; (2) Khuyết tật

nghe, nói; (3) Khuyết tật nhìn.

6. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu

6.1 Câu hỏi nghiên cứu

Đời sống tinh thần của NKT tại phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy hiện

nay như thế nào?

Những nhu cầu cơ bản nào cần được đáp ứng nhằm hỗ trợ nâng cao

đời sống tinh thần cho NKT tại phường Nghĩa Đô?

Sử dụng phương pháp CTXH nào phù hợp với hoạt động nâng cao đời

sống tinh thần cho NKT tại phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy ?

6.2. Giả thuyết nghiên cứu:

NKT tại phường Nghĩa Đô hiện nay chưa có câu lạc bộ nào dành riêng

cho NKT và đa số NKT sinh sống tại phường cũng không tham gia bất kì câu

lạc bộ nào khác trên địa bàn thành phố Hà Nội.

NKT cần được đáp ứng nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần như những

người không khuyết tật khác để làm cơ sở hỗ trợ họ vươn lên trong cuộc

sống.

Sử dụng cách thức tiếp cận dựa vào cộng đồng để xây dựng các hoạt

động liên kết các hệ thống nguồn lực nhằm hỗ trợ nâng cao đời sống tinh thần

cho NKT tại phường Nghĩa Đô.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Đây là phương pháp chính sử dụng trong quá trình nghiên cứu của tác

giả. Phân tích các tài liệu liên quan tới mô hình chăm sóc đời sống tinh thần

Page 18: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

15

dành cho NKT nhằm mục đích làm rõ vị trí vai trò của mô hình trợ giúp đối

với NKT trong hệ thống trợ giúp xã hội hiện này của Việt Nam. Đặc biệt phân

tích nguồn số liệu từ báo cáo tổng hợp số liệu NKT phường Nghĩa Đô, quận

Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

7.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến

Phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích tổng quan được tình

hình NKT trên địa bàn phường Nghĩa Đô về đặc điểm nhân khẩu học, về tình

trạng tật, về việc làm, về thực trạng cũng như nhu cầu của NKT về vấn đề

chăm sóc đời sống tinh thần. Từ đó có cơ sở xây dựng mô hình trợ giúp về

vấn đề chăm sóc đời sống tinh thần cho NKT

Số lượng phiếu phát ra: 120 phiếu

Số lượng phiếu thu về: `120 phiếu

Bảng 1.1. Cơ cấu mẫu trong nghiên cứu (n= 120)

Đặc điểm về nhân khẩu

Số lƣợng

Tỷ lệ (%)

Giới tính 120 100

Nữ 48 40

Nam 72 60

Tình trạng hôn nhân 120 100

Chưa lấy vợ/chồng 39 32,5

Có vợ/chồng 29 24,2

Góa 25 20,8

Ly hôn 27 22,5

Dạng tật 120 100

Vận động 48 40

Nghe- nói 35 29,2

Nhìn 37 30,8

Page 19: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

16

7.3. Phương pháp quan sát

Để thu thập được những thông tin cần thiết, đáp ứng được mục tiêu

nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp quan sát. Quát sát

trong nghiên cứu xã hội được hiểu là quá trình tri giác và ghi chép mọi yếu tố

có liên quan đến đối tượng nghiên cứu phù hợp với đề tài và mục tiêu nghiên

cứu. Đây cũng là một phương pháp nhằm kiểm tra tính xác thực của những

thông tin thu được trước đó hoặc những thông tin thu được từ những phương

pháp khác nhau.

Phương pháp này được tác giả sử dụng có kế hoạch trong các buổi làm

việc với đối tượng tại chính nhà của họ, nơi sinh hoạt nhóm hoặc nơi trò

chuyện, giao tiếp. Sử dụng phương pháp quan sát nhằm mục đích giúp tác giả

thu thập được các thông tin về đối tượng như: hoàn cảnh, điều kiện sống (quan

sát môi trường xung quanh đối tượng); tâm lý, hành vi của đối tượng (quan sát

thái độ, cử chỉ, nét mặt của đối tượng khi giao tiếp).

Page 20: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

17

7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

Phương pháp này được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác như

quan sát, phân tích tài liệu… để có được những thông tin chiều sâu, đặc biệt là

trong việc khai thác thông tin liên quan đến nhu cầu, mong muốn của đối tượng,

hay những khó khăn của họ gặp phải trong cuộc sống… Phương pháp này còn

được sử dụng để thu thập thông tin về tiểu sử của NKT. Đồng thời, quá trình

phỏng vấn sâu còn giúp tác giả hiểu được bản chất của vấn đề, từ đó có định

hướng cho việc đưa ra các giải pháp, mô hình hỗ trợ phù hợp với điều kiện và

nguyện vọng của đối tượng, của địa bàn nghiên cứu.

Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu 09 người, trong đó có 6 NKT và 3 người hỗ

trợ NKT. Những buổi phỏng vấn này được sắp xếp và hẹn trước. Địa điểm

phỏng vấn tại nhà và tại hội trường nhà văn hóa nơi sinh hoạt nhóm.

7.5. Phương pháp CTXH nhóm

- Tác giả đã sử dụng phương pháp CTXH nhóm trong hỗ trợ nâng cao

đời sống tinh thần cho NKT tại phường Nghĩa Đô.

- Thành viên nhóm gồm 9 thành viên đến từ các 4 tổ trên địa phường

Nghĩa Đô, tác giả lựa chọn thành viên có độ tuổi từ 40-60, có dạng tật khác

nhau.

- Tác giả tiến hành làm việc trong 8 buổi, trong đó: 02 buổi làm việc với

lãnh đạo UBND phường , hội trưởng hội NKT phường và các tổ trưởng tổ

dân phố tại tổ có NKT cư trú được chọn là thành viên của nhóm thân chủ; 06

buổi làm việc trực tiếp với nhóm thân chủ.

- Khó khăn: NVCTXH chưa độc lập tổ chức được các buổi làm việc với

thân chủ, hầu hết các buổi làm việc đều là kết hợp với các hoạt động khác của

phường hoặc hoạt động liên tổ khác.

Page 21: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

18

NỘI DUNG CHÍNH

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm công cụ

1.1.1. Người khuyết tật

Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm NKT. Hiện có hai quan

điểm chính đó là quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật

xã hội.

Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế

đề cập đến tình trạng thể chất nội tại của cá nhân có thể làm gây những hạn

chế, gây bất lợi trong cuộc sống. Mô hình y tế xem xét khuyết tật dưới góc độ

là một vấn đề khiếm khuyết của con người do bệnh tật, chấn thương, hoặc các

lý do khác, điều này đòi hỏi NKT phải được duy trì chăm sóc y tế và cung cấp

các hình thức điều trị cá nhân để có thể giữ ổn định hoặc cải thiện tình trạng

khuyết tật. Trong mô hình y tế, quản lý của tình trạng tàn tật là nhằm mục

đích "chữa trị", hay điều chỉnh và thay đổi hành vi của cá nhân mà có thể dẫn

đến chữa bệnh hiệu quả. Trong mô hình y tế, chăm sóc y tế được xem như là

vấn đề chính, và ở góc độ quản lý nhà nước, phạm vi chủ yếu là của các chính

sách về NKT là sửa đổi, cải cách y tế.

Do đó, Nhà nước và xã hội nên đầu tư vào chăm sóc y tế và dịch vụ liên

quan để chữa bệnh tật, cho phép NKT có một cuộc sống bình thường. “Theo

phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm

khuyết, khuyết tật và tàn tật. Khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không

bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật

chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết.

Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm

khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của

họ. Như vậy mô hình cá nhân hay y tế nhìn nhận NKT như người có vấn đề

về thể chất và cần được chữa trị. Điều này đẩy những NKT vào thế bị động

Page 22: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

19

của người bệnh. Mục tiêu của hướng tiếp cận y tế là làm cho NKT cảm thấy

trở lại trạng thái bình thường nhưng vô hình chung lại kiến cho họ cảm thấy

họ không bình thường. Theo đó vấn đề khuyết tật được cho là hạn chế ở từng

cá nhân. Khi bị khuyết tật những người này cần phải thay đổi chứ không phải

xã hội hay môi trường xung quanh thay đổi” [35, tr.10-11].

Ngược lại, mô hình xã hội đề xuất rằng các rào cản và định kiến cũng

như sự loại trừ của xã hội (cố ý hoặc vô ý) là những yếu tố cuối cùng xác định

NKT hay không khuyết tật. Mô hình này thừa nhận rằng một số người có sự

khác biệt về thể chất, trí tuệ, hay tâm lý (mà đôi khi có thể suy yếu) so với các

tiêu chuẩn, những người này có thể dẫn đến tàn tật nếu xã hội không chấp

nhận họ như một phần của xã hội. Nói cách khác, mô hình xã hội khuyết tật

coi xã hội là vấn đề, giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội và chính

sách cần phải cải tổ chứ không phải là NKT. Mô hình xã hội giúp NKT hiểu

điều gì cần thực hiện để tiếp cận với quyền công dân và quyền con người.

Điều này có ý nghĩa chính là NKT cũng phải nhận thức được đầy đủ các

nghĩa vụ của mình với tư các là công dân trong mọi lĩnh vực đời sống, kinh

tế, chính trị, xã hội mà mình tham gia.

Như vậy, mỗi quan niệm nói trên có những điểm mạnh và những hạn chế

nhất định: Quan điểm khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một

số lĩnh vực cụ thể như y tế phục hồi chức năng và bảo đảm xã hội. "Quan

điểm khuyết tật theo mô hình xã hội là công cụ quan trọng để giải quyết các

nguyên nhân gốc rễ của NKT bị tách biệt khỏi xã hội, những vấn đề bất lợi và

vấn đề phân biệt đối xử. Mô hình xã hội ghi nhận rằng câu trả lời cho câu hỏi

liệu ai đó có bị xếp vào danh sách NKT hay không có liên quan chặt chẽ tới

các yếu tố như văn hóa, thời gian và môi trường" [35, tr.14-15].

Khái niệm NKT, cơ sở pháp lý để công nhận ai là NKT và từ đó được

bảo vệ bởi hệ thống pháp luật liên qua, phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà

luật hoặc chính sách cụ thể theo đuổi. “Ngày 17/6/2010 Quốc hội Việt Nam

Page 23: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

20

đã thông qua Luật NKT, chính thức sử dụng khái niệm NKT thay thế cho khái

niệm “người tàn tật” phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế

giới về vấn khuyết tật . Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Luật này thì

“NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy

giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiên cho lao đôn g, sinh hoat,

học tập gặp khó khăn” . Về dạng tật, Luật NKT quy định tại khoản 1, Điều 3

gồm 5 dạng khuyết tật bao gồm: Khuyết tật vận động ; Khuyết tật nghe , nói;

Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh , tâm thân; Khuyết tật trí tuệ và Khuyết

tật khác. Về mức độ khuyết tật, khoản 2, Điều 3 quy định theo mức độ khuyết

tật: NKT đặc biệt nặng; NKT nặng; NKT nhẹ [25, tr. 2-3].

Đây là một bước tiến quan trọng thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các

quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về NKT nhằm tạo

môi trường pháp lý, điều kiện, cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với NKT

theo hướng xây dựng các chính sách đối với NKT trên cơ sở tiếp cận và bảo

đảm quyền của NKT; quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã

hội trong việc xóa bỏ rào cản và bảo đảm các điều kiện để NKT hòa nhập xã

hội như những người bình thường khác.

* Với cách tiếp cận đó, có thể khái niệm NKT trong phạm vi nghiên cứu

này được khái quát như sau: NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều

bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể

và lâu dài trong việc tham gia của NKT vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình

đẳng với những chủ thể khác.

1.1.2. Nhu cầu

Nhu cầu là khái niệm được nhiều ngành khoa học nghiên cứu và ứng

dụng vào các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Có nhiều công trình nghiên

cứu về nhu cầu và đi đến nhận định: “Nhu cầu là một trong những nguồn gốc

nội tại sinh ra tính tích cực của con người. Nhu cầu là một trạng thái tâm lý

xuất hiện khi cá nhân cảm thấy cần phải có những điều kiện nhất định để đảm

Page 24: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

21

bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Trạng thái tâm lý đó kích thích con

người hoạt động nhằm đạt được những điều mình mong muốn”(Trung tâm

nghiên cứu Phụ nữ/ Đại học quốc gia Hà Nội) [6, tr 34].

Theo nghĩa hẹp, nhu cầu được hiểu là yêu cầu cần thiết của con người để

sống và tồn tại. Theo nghĩa rộng thì nhu cầu là tất cả những yêu cầu của con

người để tồn tại để hạnh phúc và để giảm đau khổ.

Nhà kinh tế học Philip Kotler cho rằng:“nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà

con người cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển”

Các nhà tâm lý học Liên xô khi nghiên cứu về nhu cầu khẳng định: “nhu

cầu là yếu tố bên trong, quan trọng đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con

người. Đó chính là điểm khác hẳn với con vật. Mọi nhu cầu của con người (kể

cả những nhu cầu sơ đẳng) đều có bản chất xã hội” [12,tr149].

A.Maslow cho rằng, ở con người ngay từ khi mới ra đời đã có các lớp

nhu cầu phân loại một cách nhất quán, tính logic nhất quán chứng tỏ một trật

tự xuất hiện các nhu cầu trong quá trình phát triển cơ thể. Tuy nhiên, hệ thống

nhu cầu có tính chất thứ bậc này lại hết sức linh hoạt và biến động. Căn cứ

vào các đặc trưng cơ bản của Maslow phân chia nhu cầu từ thấp đến cao theo một

hệ thống 5 bậc và sắp xếp nó theo thứ tự hình tháp được gọi là tháp nhu cầu:

Các nhu cầu về sinh lý: ăn, ngủ...

Các nhu cầu về an toàn an sinh.

Nhu cầu về xã hội văn hoá.

Nhu cầu tự trọng

Nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định

Theo A.Maslow, nhu cầu được sắp xếp theo thứ tự phân cấp các mức

độ quan trọng với nguyên tắc nhu cầu ở cấp độ nào thấp hơn phải được thỏa

mãn thì mới này sinh nhu cầu cao hơn. Tuy nhiên không nhất thiết phải thỏa

mãn hoàn toàn một nhu cầu nào đó như quan điểm của Maslow mà chỉ cần

thỏa mãn một phần nhu cầu cấp dưới nào đó của con người đã muốn thực

Page 25: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

22

hiện nhu cầu cấp cao hơn. Tóm lại việc sắp xếp thứ bậc các nhu cầu như trên

chỉ mang tính tương đối.

Vận dụng thang nhu cầu của Maslow vào việc nghiên cứu nâng cao đời

sống tinh thần cho NKT tại phường Nghĩa Đô có một ý nghĩa đáng kể, nó

giúp người làm nghiên cứu xác định NKT phường Nghĩa Đô đang ở bậc

thang nhu cầu nào, trên cơ sở đó đưa ra các hoạt động nâng cao đời sống tính

thân hướng tới việc thỏa mãn nhu cầu đó.

* Trong nghiên cứu này, nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần cho NKT

được giới hạn ở 4 nội dung: Nhu cầu được tham gia các mô hình sinh hoạt

chuyên biệt dành cho NKT tại địa phương, nhu cầu về nội dung, hình thức

sinh hoạt, và cuối cùng là nhu cầu về đối tượng mà NKT cần được nhận sự

trợ giúp.

1.1.3. Công tác xã hội

Đã có rất nhiều cách hiểu, các khái niệm khác nhau về công tác xã

hội. Những khái niệm này bắt nguồn từ những quan niệm khác nhau như:

Công tác xã hội là việc thực hiện các chính sách xã hội; Công tác xã hội

là hoạt động nhân đạo, từ thiện; Công tác xã hội là các thiết chế xã hội;

Công tác xã hội là các dịch vụ xã hội; Công tác xã hội là phong trào xã

hội… Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả xin giới thiệu một số những

khái niệm được coi là phổ biến và được chấp nhận rộng rãi trong lĩnh vực

Công tác xã hội.

Theo khái niệm của Hiệp hội Quốc gia các nhân viên xã hội –

NASW (Hoa Kì): Công tác xã hội là hoạt động mang tính chất chuyên

môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, các nhóm hoặc cộng đồng tăng cường

hoặc khôi phục năng lực thực hiện chức năng xã hội của họ và tạo điều

kiện thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu ấy [26,tr2].

Theo từ điển bách khoa ngành Công tác xã hội: “Công tác xã hội là

một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con

Page 26: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

23

người, tạo ra những chuyển biến xã hội và đem lại an sinh cho người dân

trong xã hội” [24, tr.18].

Theo Liên hiệp Công tác xã hội thế giới: “Công tác xã hội là hoạt động

chuyên môn nhằm giúp con người đáp ứng các nhu cầu nảy sinh trong cuộc

sống, trong quá trình tương tác giữa cá nhân và môi trường, giúp con người

phát huy hết tiềm năng của họ” [22, tr.18].

Đại hội của Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế tổ chức tại Motreal

(Canada) vào tháng 7 năm 2004, đã đưa ra một định nghĩa mới về Công tác

xã hội như sau: “Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội,

giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực,

giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng tốt đẹp. Vận

dụng lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội can thiệp sự tương tác

giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các

nguyên tắc căn bản của nghề công tác xã hội” [22, tr.18].

“Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ

giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu

và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về

chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng

giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã

hội” [22, tr.19].

* Trong nghiên cứu này công tác xã hội với người khuyết tật được hiểu

là các hoạt động chuyên nghiệp của nhân viên CTXH giúp đỡ những NKT

nhắm tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ,

huy động nguồn lực, xác định những dịch vụ cần thiết để hỗ trợ NKT, gia

đình và cộng đồng triển khai các hoạt động trợ giúp NKT một cách hiệu quả,

vượt qua những rào cản, đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động

xã hội trên nên tảng sự cộng bằng như những người không khuyết tật

trong xã hội.

Page 27: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

24

1.1.4. Đời sống tinh thần của NKT

Đời sống tinh thần là một khái niệm chỉ tình trạng tâm thần và cảm xúc

của mỗi cá nhân. Các nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan và các

giả thuyết khoa học khác nhau đều có ảnh hưởng tới khái niệm "đời sống tinh

thần"...

Có một cách để nhận xét đời sống tinh thần là xem xem một người thể

hiện chức năng của mình thành công tới mức nào. Cảm thấy có đủ khả năng

tự tin, có thể đối mặt với những mức tình trạng căng thẳng ở bình thường,

luôn giữ được các mỗi quan hệ một cách thoải mái, có một cuộc sống độc lập,

và dễ hồi phục sau những tình huống khó khăn... đều được coi là các dấu hiệu

của một đời sống tinh thần tốt.

Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài thời gian làm việc là hoạt

động chính để có thu nhập đảm bảo cuộc sống thì việc tham gia vào các hoạt

động khác như văn hóa, thể thao, giải trí, du lịch cũng là nhu cầu cần thiết.

Đặc biệt khi xã hội đã phát triển ở mức độ nhất định, mức sống trung bình xã

hội đã được nâng lên, nhất là đời sống vật chất đã được cải thiện rõ rệt thì

nhu cầu về đời sống tinh thần càng được đặt ra. Người khuyết tật với tư cách

là một bộ phận không tách rời của xã hội và nhân loại cũng không nằm ngoài

tinh thần đó. Việc thưởng thức hoặc tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao,

giải trí…như những hoạt động xã hội mang tính tinh thần sẽ giúp mọi người

nói chung, người khuyết tật nói riêng giải tỏa những căng thẳng, áp lực trong

cuộc sống làm việc hoặc cuộc sống sinh hoạt, lấy lại sự cân bằng, hoặc làm

tăng giá trị cuộc sống. Nói cách khác, các hoạt động xã hội mang yếu tố tinh

thần như văn hóa, thể thao, du lịch, giải trí là một phần không thể thiếu của

cuộc sống mỗi con người nói chung, người khuyết tật nói riêng trong xã hội

hiện đại.

Để đảm bảo việc tham gia đầy đủ và hiệu quả các hoạt động nêu trên của

người khuyết tật, pháp luật một mặt thừa nhận quyền tham gia của họ trên cơ

Page 28: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

25

sở bình đẳng như những người bình thường, mặt khác có các hoạt động, biện

pháp phù hợp để hỗ trợ người khuyết tật thực hiện quyền của mình, trong đó

có việc đảm bảo tiếp cận với môi trường vật chất như các công trình, dịch vụ

công cộng, giao thông, thông tin, truyền thông…Sẽ khó có thể nói đến sự

tham gia của người khuyết tật khi các công trình công cộng về văn hóa, thể

thao, giao thông, dịch vụ du lịch không đảm bảo điều kiện tiếp cận, chẳng hạn

nhà văn hóa, rạp chiếu phim không có đường dốc dành cho người khuyết tật

vận động sử dụng xe lăn, các bến xe không có hệ thống lao thông báo bằng

âm thanh giúp người khiếm thị nhận biết bến và tiếp cận tuyến xe phù hợp.

Đảm bảo điều kiện tiếp cận các công trình công cộng, thông tin, truyền thông

ngoài ra còn hỗ trợ người khuyết tật tham gia đầy đủ vào các lĩnh vực khác

của đời sống xã hội như lao động, học nghề, chăm sóc sức khỏe…

Tóm lại, trong nghiên cứu này có thể hiểu đời sống tinh thần

đối với người khuyết tật bao gồm các hoạt động văn hóa, thể dục, thể

thao, giải trí, du lịch mà người khuyết tật tham gia trong điều kiện

phù hợp để cải thiện sức khỏe và nâng cao đời sống tinh thần và việc

người khuyết tật sử dụng các công trình, dịch vụ công cộng trong

điều kiện tiếp cận nhằm hỗ trợ họ thực hiện bình đẳng các quyền và

hòa nhập cộng đồng.

1.1.5. Nhu cầu đối với hoạt động CTXH trong nâng cao đời sống tinh thần

cho NKT

Sức khoẻ tinh thần là hiện thân của sự thoả mãn về mặt giao tiếp xã hội,

tình cảm và tinh thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm giác dễ chịu,

cảm xúc vui tươi, thanh thản, ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời, ở những quan

niệm sống tích cực, dũng cảm, chủ động, ở khả năng chống lại những quan

niệm bi quan và lối sống không lành mạnh.

Có thể nói, tinh thần là nguồn lực để sống khoẻ mạnh, là nền tảng cho

chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu

Page 29: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

26

quả với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Tinh thần khỏe mạnh cho ta

khí thế để sống năng động, để đạt được các mục tiêu đặt ra trong cuộc sống và

tương tác với người khác với sự tôn trọng và công bằng.

Một tinh thần khỏe mạnh chính là sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn

minh và có đạo đức. Cơ sở của sức khoẻ tinh thần là sự thăng bằng và hài hoà

trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm. Những thói quen sau đây sẽ

là chìa khóa để bạn tìm được sự thanh thản trong tâm hồn mình, và có được

một cuộc sống tinh thần lành mạnh.

Mặc dù đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ dành cho nhóm đối tượng đặc

biệt này, nhưng trên thực tế, có một vấn đề NKT đang gặp phải, điển hình là

sự biệt đối xử; hơn nữa, số đông NKT chưa biết hoặc chưa có điều kiện, khả

năng tiếp cận, hiểu biết về những chính sách ưu đãi dành cho họ..., điều đó đã

dẫn đến khả năng hòa nhập và phát triển của NKT bị hạn chế. Do vậy, rất cần

sự giúp đỡ của đội ngũ nhân viên công tác xã hội (CTXH), giúp họ tiếp cận

với các nguồn lực, tư vấn cho họ phát huy khả năng, trình độ để trở nên mạnh

mẽ hơn, tự tin sống độc lập, hòa nhập cộng đồng và tham gia bình đẳng vào

các hoạt động xã hội, có cơ hội được lao động, học tập như những người bình

thường. Nói cách khác, nhân viên CTXH có vai trò và trách nhiệm quan trọng

trong việc tạo ra sự thay đổi tích cực đối với đời sống của NKT, thúc đẩy môi

trường xã hội, bao gồm chính sách, pháp luật, cộng đồng thân thiện để NKT

dễ dàng hòa nhập; tư vấn, giới thiệu những chính sách an sinh xã hội mà NKT

được hưởng…

Trong nghiên cứu này, nhu cầu đối với hoạt động CTXH trong nâng cao

đời sống tinh thần cho NKT là nhu cầu được tham gia các mô hình sinh hoạt

chuyên biệt cho NKT tại địa phương thông qua các hoạt động chuyên nghiệp

của NVCTXH nhằm giúp NKT dễ dàng hòa nhập với cộng động, thay đổi

tích cực đối với đời sống thường ngày.

Page 30: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

27

1.2. Một số lý thuyết áp dụng

1.2.1 Thuyết nhu cầu

Tiếp cận thuyết nhu cầu là một hướng tiếp cận theo quan điểm nhân văn

hiện sinh, đánh giá cao khả năng của con người và bản thân họ tự quyết định

lấy cuộc sống của mình. Tiếp cận thuyết nhu cầu cho thấy con người cần phải

đảm bảo được những nhu cầu cơ bản. Mọi vấn đề sai lệch xã hội đều do nhu

cầu không được giải quyết. Trị liệu không phải là để giải quyết nhu cầu mà

giúp thân chủ phân tích nguyên nhân vì sao nhu cầu không được đáp ứng và

để đáp ứng nhu cần này thân chủ cần có những điều kiện gì. Nhu cầu chi phối

mạnh mẽ đến đời sống tâm lý cũng như hành vi của con người. Nhân viên

CTXH là những người gần gũi với đối tượng. Họ phải thức tỉnh để thân chủ

đạt được những nhu cầu mà họ cần thiết trong cuộc sống. Nhu cầu là yếu tố

tất yếu, cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Nếu như

nhu cầu được thỏa mãn thì sẽ tạo nên cảm giác thảo mái và an toàn cho sự

phát triển và ngược lại, nếu không được đáp ứng thì sẽ gây nên sự căng thẳng

và có thể dẫn tới những hậu quả nhất định gây mất “ thăng bằng” trong đời

sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao.

Vì thế nhu cầu là động lực bên trong kích thích cá nhân hoạt động, quyết định

mọi hoạt động của con người [34, tr 68].

Theo Maslow thì nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính:

nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs) con người luôn

có những nhu cầu nhất định từ nhu cầu sơ cấp đến các nhu cầu cao cấp. Chính

vì vậy mà theo Maslow thì con người dù có khác nhau về nhiều khía cạnh

nhưng đều có các nhu cầu trên, các nhu cầu đó được sắp xếp từ thấp đến cao,

khi một nhu cầu được thỏa mãn thì các nhu cầu khác tạm thời lắng xuống và

khi nhu cầu này được thỏa mãn thì nhu cầu khác lại xuất hiện.

Page 31: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

28

(Nguồn: Thang nhu cầu của Abraham Maslow )

Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con

người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Là

nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con

người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được.

Đặc biệt là đối với những nhóm người dễ bị tổn thương, yếu thế trong xã hội

vì họ bị hạn chế nhiều hoạt động và các chức năng xã hội bị thiếu hụt.

Maslow quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức

độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ

không thể tiến thêm nữa.

Nhu cầu về an toàn: An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường

không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con

người. Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản

nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi

trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn

tâm lý, an toàn nhân sự…Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của

con người.

Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận: Do con người là thành

Page 32: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

29

viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận.

Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị

cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin,

lòng trung thành giữa con người với nhau. Nội dung của nhu cầu này bao gồm

các vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận,

tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình

bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này.

Nhu cầu được tôn trọng: Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng

tự trọng và được người khác tôn trọng.

Lòng tự trọng: bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có

năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự

biểu hiện và tự hoàn thiện.

Nhu cầu được người khác tôn trọng: gồm khả năng giành được uy tín,

được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được

người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ

tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là

điều không thể thiếu đối với mỗi con người.

Nhu cầu tự thể hiện: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách

phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm

năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào

đó. Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết,

nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài…), nhu cầu thực

hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.

Trong nghiên cứu này sử dụng thuyết nhu cầu để tìm hiểu về các nhu cầu

của NKT đặc biệt là nhu cầu đối với hoạt động hỗ trợ nâng cao sức khỏe tinh

thần, từ đó NVCTXH có thể đưa ra được những mô hình hỗ trợ phù hợp nhất.

Page 33: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

30

1.2.2. Lý thuyết hệ thống

Thuyết hệ thống trong công tác xã hội bắt nguồn từ lí thuyết hệ thống

tổng quát của Bertalanffy. Thuyết này dựa trên quan điểm lí thuyết sinh học

cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được tạo nên từ các hệ

thống và đồng thời bản thân các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống

lớn hơn.

Thuyết hệ thống được sử dụng rộng rãi trong công tác xã hội vì thuyết

này giúp cho nhân viên xã hội hiểu được đối tượng của mình (cá nhân, gia

đình, nhóm, cộng đồng) như là một hệ thống của các yếu tố tương tác với

nhau. Bên cạnh đó, để hệ thống này hoạt động hiệu quả, thân chủ sẽ có nhiều

tương tác với các hệ thống môi trường bên ngoài khác.

“Hệ thống là một tập hợp các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ

với nhau để hoạt đông thống nhất”. Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ

thống, đồng thời hệ thống đó cũng là một bộ phận của hệ thống lớn hơn

(25,tr218).

Cũng theo thuyết này, hệ thống mà NVCTXH làm việc là những hệ

thống rất đa dạng: gia đình, cộng đồng, hệ thống xã hội, môi trường văn hoá

mà con người tồn tại. Tuy nhiên hệ thống được phân thành 3 hình thức chính

sau đây:

- Hệ thống phi chính thức: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…

- Hệ thống chính thức: Nhóm cộng đồng, tổ chức đoàn thể, cơ quan…

- Hệ thống xã hội: các tổ chức xã hội, bệnh viện, trường học …

Trong lý thuyết hệ thống cần lưu ý đến một số khái niệm cơ bản, cũng

là cơ chế hoạt động của hệ thống:

Các hệ thống luôn có sự tác động lên các cá nhân. Có thể đó là sự tác

động tiêu cực hoặc tích cực. Bên cạnh đó không phải tất cả mọi người đều có

khả năng tiếp cận sự hỗ trợ như nhau về nguồn lực có từ các hệ thống tồn tại

Page 34: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

31

xung quanh. Như vậy, mỗi cá nhân chịu sự tác động khác nhau từ các hệ

thống mà họ tồn tại.

Nghiên cứu này tác giả sử dụng lý thuyết hệ thống nhằm nghiên cứu

những mối quan hệ xung quanh NKT, các mối quan hệ đó có thể là hệ thống

nguồn lực trợ giúp nhưng đó cũng có thể là những trở ngại đối với NKT.

1.3. Khái quát về một số vấn đề của NKT hiện nay

Theo số liệu của Bộ LĐ-TB XH, đến tháng 6/2015 ước tính cả nước có

trên triệu NKT (chiếm 7,8% dân số), trong đó: có 4,06 triệu nữ (chiếm 58%

NKT); 1,981triệu trẻ em (chiếm 28,3% NKT) và 14 nghìn người cao tuổi

(chiếm 10,2% NKT). Theo dạng tật, có 28% là NKT dạng vận động, 15%

khuyết tật nghe nói, 16% khuyết tật nhìn, 1% khuyết tật thần kinh, tâm thần,

15 khuyết tật trí tuệ, 12% các dạng khuyết tật khác. Có khoảng 700 nghìn

người, tương đương 10% số NKT đang sống trong hộ nghèo. Tính đến năm

2015 trên 1,3 triệu NKT được cấp giấy xác nhận khuyết tật (chiếm 18,7%

NKT), đa số là các trường hợp NKT nặng, đặc biệt nặng [37,tr 3].

Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 36% bẩm sinh, 32% do bệnh tật,

26% do hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động. Dự báo trong nhiều

năm tới số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô

nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến

tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai…

Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có

tới 80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn

sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; 32,5% thuộc diện nghèo

(cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm), 24% ở nhà tạm.

Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục,

học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong

cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng.

Công tác tuyên truyền phổ biến Pháp lệnh và chính sách liên quan đến

Page 35: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

32

người khuyết tật cũng còn hạn chế. Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã

hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 22,9% người biết Pháp lệnh về người

khuyết tật, còn tới 77,1% số người không biết. Trong số biết chỉ có 6,4% biết

rõ, 16,5% mới chỉ nghe và biết tên.Hiểu biết ít nên các hoạt động chăm sóc,

hỗ trợ người khuyết tật ở cộng đồng chưa được thực hiện tốt.Người khuyết tật

thường tự ti trong cuộc sống, chưa thấy được quyền và trách nhiệm của mình

[37,tr 13] .

1.3.1. Chăm sóc đời sống người khuyết tật

Thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ đã quy định chi tiết

chính sách trợ giúp xã hội đối với người tàn tật nặng không có nguồn thu

nhập và không nơi nương tựa, người mắc bệnh tâm thần mãn tính, hộ gia đình

có từ hai người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ. Thực hiện chính

sách này đến năm 2008, các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng

tháng cho 395.962 người khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết

tật, nuôi dưỡng tập trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã

hội. So với năm 1998, số người người khuyết tật được hưởng các chính sách

trợ giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh

tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng năm 2004 và

120.000đồng/tháng năm 2007. Chính sách trợ giúp xã hội đã đã góp phần

quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết

tật [4,tr 15].

Ngoài ra còn có 622.783 người khuyết tật là thương binh, người hưởng

chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân

nhân bị bệnh nghề nghiệp, 133.356 người tham gia kháng chiến và con đẻ của

họ bị hậu quả chất độc hóa học và khoảng 4.700 gia đình người có công với

cách mạng đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp

lệnh người có công với cách mạng 30.869 người hưởng trợ cấp tai nạn lao

động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.

Page 36: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

33

Tuy vậy, còn một bộ phận người khuyết tật nặng chưa được hưởng chính

sách trợ giúp xã hội do quy định của Pháp lệnh là đối tượng thuộc diện hưởng

chính sách phải là người khuyết tật nặng không có nguồn thu nhập và không

nơi nương tựa; mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn quá thấp so với mặt bằng

mức sống dân cư (mới chỉ bằng 60% chuẩn nghèo), chưa bảo đảm được

những nhu cầu sống tối thiểu của người khuyết tật.

1.3.2. Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng

Theo báo cáo đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho

100% người khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo, thực hiện chỉnh hình phục

hồi chức năng và cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300 ngàn

người khuyết tật; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy, chân tay

giả cho trên 100 ngàn người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ giúp phục hồi chức

năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật. Mạng lưới phục hồi chức năng

dựa vào cộng đồng đã được phát triển ở 46/63 tỉnh, thành phố với 215 huyện,

trên 2.420 xã... Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội

năm 2008 có 52,4% người khuyết tật đi khám bệnh, phục hồi chức năng nhận

được sự hỗ trợ về kinh phí (giảm viện phí) [37,tr 8].

Tuy nhiên, người khuyết tật vẫn khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ

y tế, nhất là người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, điều kiện đi lại

không thuận tiện. Nhiều địa phương do điều kiện khó khăn nên công tác chăm

sóc sức khỏe tại cộng đồng chưa được quan tâm thực hiện.

1.3.3. Học văn hoá đối với người khuyết tật

Thực hiện Luật giáo dục, Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ, các bộ

ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết tật

tiếp cận dịch vụ giáo dục. Số lượng học sinh, sinh viên là người tàn tật tăng

nhanh: Năm học 1996-1997 cả nước có 6.000 trẻ khuyết tật học trong 72 cơ

sở giáo dục chuyên biệt, 36.000 trẻ khuyết tật học trong 900 trường phổ thông

đến năm học 2005-2006 có 230.000 trẻ khuyết tật đi học trong 9.000 trường

Page 37: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

34

phổ thông (đạt 25%). Người khuyết tật đi học không chỉ tập trung ở bậc mầm

non, tiểu học mà còn ở bậc trung học và một số đang học ở bậc trung cấp, cao

đẳng, có nhiều học sinh khuyết tật đã đạt kết quả cao.

Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật ngày càng được

quan tâm đến nay các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã có các khoa đào

tạo, giáo dục đặc biệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ liên quan

đã ban hành mã ngành đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật, giáo dục đặc biệt.

Có 264 cán bộ quản lý giáo dục của 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các

trường đại học và cao đẳng sư phạm trong cả nước đã được bồi dưỡng về giáo

dục trẻ khuyết tật, gần 700 giáo viên trung học được đào tạo trình độ chuyên

môn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại 07 trường cao đẳng sư phạm, hơn

10.000 giáo viên mầm non và trung học được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng

dạy học trẻ khuyết tật, mạng lưới giáo viên cốt cán của các huyện được hình

thành để đáp ứng nhu cầu đi học của gần 230.000 trẻ khuyết tật.

Tuy nhiên, vẫn còn phần lớn trẻ em khuyết tật chưa tiếp cận được với

dịch vụ giáo dục, nhất là ở nông thôn. Theo kết quả đánh giá của Uỷ ban các

vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 36,8% người khuyết tật đã

từng đi học tại các trường tiểu học hoặc phổ thông. Nguyên nhân chính là do

điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức của gia đình và cộng đồng, cơ sở vật

chất giáo dục chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận...

1.3.4. Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật

a) Học nghề của người khuyết tật

Kể từ khi có Pháp lệnh đến nay, số lượng người khuyết tật được học

nghề ngày càng tăng: giai đoạn 1999 - 2004 có gần 19.000 người; giai đoạn

2005-2008 mỗi năm có khoảng 8.000 người, gấp 2 lần so với giai đoạn trước

(riêng năm 2008 có 8.712 người khuyết tật được học nghề). Hiện tại trong cả

nước có 260 cơ sở dạy nghề đóng trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố, trong đó 55

cơ sở chuyên biệt và 205 cơ sở có tham gia dạy nghề cho người khuyết tật.

Page 38: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

35

Trong những năm qua nhà nước đã dành hàng trăm tỷ đồng kinh phí từ

Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo để đầu tư xây dựng

cơ sở, hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người khuyết tật (2005: 11,5 tỷ; 2006:

20tỷ; 2007: 156 tỷ; 2008: 165 tỷ và 2009: 183 tỷ (bao gồm 2 đối tượng nông

dân và người khuyết tật).

Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa

phương đã được kiện toàn một bước, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về

dạy nghề cũng đã quy định: các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết

tật được ưu tiên cấp địa điểm thuận lợi, hỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn

giảm thuế, được vay vốn với lãi xuất ưu đãi; các cơ sở dạy nghề khác nhận

người khuyết tật vào học nghề, nâng cao trình độ tay nghề được ưu tiên đầu

tư, bảo đảm định mức kinh phí đào tạo. Người khuyết tật học nghề được xem

xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội, được miễn hoặc giảm học phí căn cứ mức

độ khuyết tật và mức độ suy giảm khả năng lao động.

Đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 cho thấy

tỷ lệ người khuyết tật được học nghề còn thấp chiếm 12,1%.

b) Việc làm của người khuyết tật

Theo khảo sát năm 2008, có trên 50% người khuyết tật trong độ tuổi lao

động có việc làm, trong đó chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp (trên

70%). Thực hiện các chính sách giải pháp tạo việc làm người khuyết tật, cả

nước có hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh và người khuyết

tật, tạo việc làm ổn định cho 15.000 lao động là người khuyết tật, khoảng

65% số hộ có người khuyết tật được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển

sản xuất, như: miễn giảm thuế, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất...

Tuy nhiên, phần lớn những người khuyết tật có việc làm không ổn định, chủ

yếu là tự tạo việc làm, làm việc trong các tổ chức, cơ sở mang tính nhân đạo

từ thiện.Rất ít người tìm được việc làm và làm việc ổn định trong các cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Page 39: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

36

Pháp luật lao động quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần

kinh tế phải nhận từ 2-3% lao động là người tàn tật vào làm việc tuỳ theo loại

hình doanh nghiệp, doanh nghiệp không nhận đủ tỷ lệ lao động là người tàn

tật theo quy định phải đóng một khoản tiền vào Quỹ việc làm cho người tàn

tật. Hầu hết các doanh nghiệp không thực hiện được quy định này. Nguyên

nhân là do công tác tuyên truyền phổ biến, kiểm tra giám sát chưa được quan

tâm thực hiện. Mặt khác bản thân người khuyết tật chưa đáp ứng được yêu

cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đồng thời do tính chất sản xuất, kinh

doanh các doanh nghiệp cũng khó khăn trong việc bố trí việc làm phù hợp với

sức khoẻ, đặc điểm của người khuyết tật, nhất là các doanh nghiệp hoạt động

trong các ngành nghề đặc thù như luyện kim, hoá chất, địa chất, đo đạc bản

đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải...

1.3.5. Tiếp cận văn hóa, thể thao và công trình công cộng

a) Về văn hóa, thể thao

Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ

chức từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí

của người khuyết tật ngày càng được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao

được tổ chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng

cường sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc

cảm. Tham gia hoạt động thể dục thể thao giúp người khuyết tật hòa nhập

cộng đồng.

Từ năm 1997 cứ 5 năm một lần tổ chức Hội thi Thể thao-Văn nghệ

người khuyết tật toàn quốc, thu hút rất đông vận động viên trên khắp mọi

miền tổ quốc về tham dự. Phong trào thể dục thể thao dành cho người khuyết

tật tại các địa phương trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ cả về số

lượng người tập cũng như về số môn thể thao được đưa vào hoạt động, từ chỗ

chỉ có từ 10-15 tỉnh thành có phong trào TDTT của người khuyết tật đến nay

trong cả nước đã có hơn 40 đơn vị tỉnh thành có phong trào, thậm chí có

Page 40: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

37

những tỉnh đã có phong trào phát triển ở cấp quận, huyện (Hà Nội, TP. Hồ

Chí Minh, Quảng Trị). Đến nay cả nước đã có 35/63 tỉnh, thành phố thành lập

câu lạc bộ TDTT cho người khuyết tật tham gia tập luyện.Tuy nhiên, phong

trào văn hóa, thể thao của người khuyết tật mới chỉ phát triển bước đầu và chủ

yếu ở khu vực thành thị, còn khu vực nông thôn, miền núi chưa được quan

tâm đúng mức [37,tr 20].

b) Tiếp cận công trình công cộng

Thực hiện quy định pháp luật, trong những năm qua các Bộ, ngành địa

phương đã có cố gắng trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công

cộng đối với người khuyết tật, như: ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng

công trình công cộng bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa chữa

các công trình công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Tuy nhiên, số

lượng các công trình hạ tầng cơ sở bảo đảm điều kiện tiếp cận cho người

khuyết tật còn rất ít. Nhất là việc tiếp cận các công trình giao thông, cơ quan

hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học... Nguyên nhân chính là do nhận

thức và quan tâm của xã hội đối với người khuyết tật còn hạn chế, do thiếu

nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các công trình, thiếu chế tài xử phạt và

sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật. [36, tr17]

1.4. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

Tiền thân của phường Nghĩa Đô là thị trấn Nghĩa Đô được thành lập

năm 1982 trên cơ sở giải thể xã Nghĩa Đô.Năm 1992, tách khu dân cư Nghĩa

Tân của thị trấn Nghĩa Đô để thành lập thị trấn Nghĩa Tân.Năm 1997, thành

lập quận Cầu Giấy, tháng 12 năm 2008 thị trấn Nghĩa Đô trở thành phường

Nghĩa Đô.Phường Nghĩa Đô có 49 tổ dân phố, 7000 hộ với 30.000 dân.

Phía đông phường giáp Phường Bưởi quận tây Hồ, phía Tây giáp

phường Nghĩa Tân quận Cầu Giấy, xã Cổ Nhuế huyện Từ Liêm, phía Nam

giáp phường Quan Hoa, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, phía Bắc giáp

phường Xuân La quận Tây Hồ.

Page 41: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

38

Ngành nghề chủ yếu của phường là thương mại dịch vụ, vận tải, xây

dựng. Các vấn đề văn hóa- xã hội, giáo dục- đào tạo, y tế- chữ thập đỏ, công

tác lao động- thương binh và xã hội, công tác thông tin- thể dục thể thao….

Đều được triển khai tích cực. Tuy nhiên với nguồn nhân lực còn nhiều yếu

điểm, thiếu về số lượng, hạn chế vế chất lượng. Chỉ có 1 cán bộ Lao động-

Thương binh và xã hội phải kiểm nhiểu mảng việc, dẫn đến việc thiếu sáng

kiến trong những công tác trợ giúp đối với nhóm người yếu thể, cụ thể:

- Các hoạt động hỗ trợ cho NKT chỉ phụ thuộc vào chương trình của

quận. Các chương trình mới chỉ dừng lại ở khẩu phát thanh, truyền thông tin

của các hoạt động tới NKT.

- Chưa chủ động mở những lớp tập huấn về kĩ năng sống độc lập cho

NKT, chia sẻ, giao lưu về kinh nghiệm sống cũng như những tâm gương vượt

qua số phận, vươn lên trong cuộc sống.

Từ những thực trạng đó phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố

Hà Nội là địa bàn tác giả chọn để nghiên cứu, đề xuất các hoạt động trợ giúp

NKT, đưa ra các cơ sở khoa học góp phần thay đổi quan điểm, chính sách về

hỗ trợ NKT không chỉ là vật chất mà còn giúp cho tinh thần của họ thay đổi,

giúp NKT tin tưởng hơn vào tương lại tươi sáng .

Page 42: TRẦN HOÀNG HÀrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33907/1/02050004728(1).pdfNhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong nâng cao đời ... xuất phát

39

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Nội dung của chương 1 là cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.

Những khái niệm cơ bản về người khuyết tật, nhu cầu, công tác xã hội,

đời sống tinh thần của người khuyết tật, nhu cầu đối với hoạt động công tác

xã hội trong nâng cao đời sống tinh thần cho người khuyết tật và những lý

thuyết về phương pháp nghiên cứu là cơ sở khoa học để phát triển đề tài

nghiên cứu. Giúp cho người nghiên cứu có kiến thức, kỹ năng để hiểu về đời

sống tinh thần của người khuyết tật. Nội dung của cở sở lý luận là công cụ để

người ngiên cứu hiểu, nhận thức và phân tích được các nội dung trong đề tài

một cách khoa học.

Như vậy, với việc phân tích cơ sở lý luận về người khuyết tật, những

nhu cầu của người khuyết tật giúp tác giả có cở sở triển khai các hoạt động

nghiên cứu để phân tích rõ hơn về vấn đề nhu cầu đối với hoạt động công tác

xã hội trong nâng cao đời sống tinh thần cho người khuyết tật tại phường

Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.