tr ần thanh hải ngô h ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán...

54
- 1 - Văn phòng Uban Quc gia vHp tác Kinh tế Quc tế Tel: (+844) 934 2813 * Fax: (+844) 934 3998 E-mail: [email protected] Biên dch: Trn Thanh Hi Ngô Hng Đip Nguyên bn: GATS 2000 - The General Agreement on Trade in Services European Commission, Directorate-General I, External Relations 200 Rue de la Loi B-1049 Brussels, Belgium

Upload: others

Post on 15-Nov-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 1 -

Văn phòng Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế Tel: (+844) 934 2813 * Fax: (+844) 934 3998

E-mail: [email protected] Biên dịch: Trần Thanh Hải Ngô Hồng Điệp Nguyên bản: GATS 2000 - The General Agreement on Trade in Services European Commission, Directorate-General I, External Relations 200 Rue de la Loi B-1049 Brussels, Belgium

Page 2: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 2 -

Lời nói đầu Mở cửa thị trường dịch vụ Ngày nay, dịch vụ phát triển vô cùng nhanh chóng, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Dịch vụ không chỉ chiếm 2/3 nền kinh tế và việc làm ở EU mà còn chiếm 1/4 xuất khẩu và 1/2 FDI của khu vực này sang các nước thứ 3. Cộng đồng châu Âu hiện nay là nhà xuất khẩu và đầu tư lớn nhất thế giới trong lĩnh vực dịch vụ. Chính sách của cộng đồng EU trong lĩnh vực này là nỗ lực trợ giúp các nhà cung cấp dịch vụ của châu Âu nâng cao sức cạnh tranh, không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới. Ngày nay, nền kinh tế mang tính quốc tế cao, vấn đề thông tin, lưu chuyển vốn và thương mại được tiến hành vô cùng dễ dàng. Điều đó có nghĩa là việc đóng cửa thị trường đã trở nên lỗi thời. Vì vậy, chính sách của EU trong thương mại dịch vụ không chỉ hướng tới tăng trưởng trong nước mà còn mở rộng ra bên ngoài, với mục tiêu tạo các cơ hội xuất khẩu, mở rộng đầu tư ra bên ngoài, đồng thời xây dựng một thị trường nội địa tự do và mang tính cạnh tranh cao - một thị trường mà ở đó các công ty cung cấp dịch vụ của châu Âu có thể tạo ra lợi nhuận và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Công cụ chủ yếu để thực hiện những mục tiêu trên là Hiệp định GATS, một trong ba nền tảng cơ bản của WTO. Hiệp định GATS tạo ra một khuôn khổ các quy tắc rõ ràng, dễ dự đoán. Trong khuôn khổ này, thương mại dịch vụ dưới những phương thức khác nhau có thể phát triển và quyền lợi của các nhà cung cấp dịch vụ được đảm bảo tại các nước thứ 3. GATS đề cập đến tất cả các lĩnh vực dịch vụ, từ dịch vụ làm sạch cho đến buôn bán chứng khoán, từ tư vấn cho đến vận tải đường bộ. Và sau khi đàm phán về viễn thông thành công năm 1997 thì lĩnh vực này đã được đưa vào GATS, chịu sự điều chỉnh của những quy định về tự do hoá hiện hành. GATS vẫn còn là một hiệp định mới mẻ. Tuy vậy, mặc dầu mới chỉ tồn tại 5 năm, GATS đã chứng tỏ là một công cụ hữu hiệu để đạt mục tiêu tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, các nước đều cho rằng (và hy vọng rằng) GATS có thể tiếp tục tăng cường việc tiếp cận thị trường. Vẫn còn nhiều lĩnh vực - ví dụ như vận tải biển - còn chưa nằm trong phạm vi điều chỉnh của các quy tắc của GATS. Và cũng còn nhiều hàng rào thương mại, nhiều khi có tác dụng cản trở rất lớn, mà các nước thứ 3 hiện vẫn đang duy trì đối với hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ châu Âu. Đó là lý do giải thích tại sao Hiệp định GATS lại quy định rõ đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ sẽ được nối lại vào năm 2000. Do đã hoàn tất việc hợp nhất thị trường, EU ngày nay trở thành một thị trường dịch vụ thông thoáng, thống nhất và ít bị hạn chế nhất thế giới. Chúng ta hy vọng rằng thông qua những cuộc đàm phán này, các nước đối tác của chúng ta có thể đạt được một mức độ mở cửa thị trường tương xứng với các tiêu chuẩn châu Âu. Tuy nhiên, để đạt được thành công, các nhà đàm phán châu Âu cần hợp tác với các ngành dịch vụ khác nhau, cùng nhau đề ra mục tiêu đàm phán trên cơ sở ưu tiên của các ngành, tiếp cận các nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa vào sự giúp đỡ của giới doanh nghiệp nhằm xây dựng liên minh giữa các quốc gia để đưa ra các quyết định trong giai đoạn kết thúc quá trình đàm phán.

Page 3: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 3 -

Cuốn sách này theo dự định sẽ trở thành một bản hướng dẫn không mang tính chất kỹ thuật cho các doanh nghiệp. Tôi hy vọng rằng những ai đang hoạt động trong lĩnh vực này sẽ cung cấp cho Uỷ ban Châu Âu và Chính phủ các nước thành viên những chỉ dẫn rõ ràng về các ưu tiên trong kinh doanh của mình để tiến hành đàm phán. Về phần mình, tôi sẽ xem xét cẩn trọng ý kiến của các doanh nghiệp và luôn sẵn sàng theo đuổi mục tiêu không ngừng tự do hoá. Leo Brittan Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu

Page 4: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 4 -

Tóm tắt tổng quát

Page 5: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 5 -

GATS: các quy tắc cơ bản của thương mại dịch vụ Hiệp định GATS phản ánh niềm tin của các Thành viên vào mô hình kinh tế mở, phi điều tiết hoá, các quy tắc thị trường bình đẳng và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng. GATS là một hiệp định giữa các chính phủ song lại có liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp. Hiệp định này đưa ra khuôn khổ các quy tắc quốc tế tạo cơ sở cho các công ty có thể hoạt động khắp thế giới. Bằng cách cho phép các công ty được tự do cung cấp các dịch vụ của mình hơn nữa và thông qua việc tạo môi trường quốc tế mang tính cạnh tranh mạnh mẽ hơn, Hiệp định GATS khuyến khích sự sáng tạo, nâng cao tính cạnh tranh của dịch vụ về giá cũng như chất lượng. Trước hết, các doanh nghiệp cần nghiên cứu GATS vì hiệp định này đề cập đến hầu như tất cả các khía cạnh của việc cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng nước ngoài. Nó đề cập tới:

đại đa số các loại hình dịch vụ; hầu hết các thị trường chính trên thế giới; tất cả các phương thức cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng nước

ngoài; và một loạt các vấn đề liên quan đến việc thiết lập hiện diện thương

mại ở thị trường nước ngoài. WTO là một cơ chế thương mại toàn cầu tương đối mới, và GATS là một trong những thành tố cơ bản của cơ chế này. Kể từ khi WTO được thành lập năm 1995, tổ chức này đã có nhiều cố gắng nhằm mục tiêu tự do hoá thị trường dịch vụ cả trong và ngoài phạm vi biên giới quốc gia. Ngoài những điều khoản ban đầu trong Hiệp định gốc, hai năm qua (96 và 97), Hiệp định GATS còn được tăng cường thông qua các cuộc đàm phán đa phương về mở cửa thị trường viễn thông và tài chính. Hiệp định GATS tạo ra các quy tắc nền tảng cho việc tiến hành thương mại dịch vụ trên thế giới, nó quy định rõ ràng các nghĩa vụ của mỗi nước thành viên đồng thời cũng đưa ra một khuôn khổ pháp lý nhằm đảm bảo các nghĩa vụ được thực thi. Điều đó cho phép các công ty xác định được thị trường nào thông thoáng với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, đồng thời được đảm bảo rằng thị trường đó sẽ tiếp tục mở cửa trong tương lai. Nếu trên thực tế, thị trường đó không đạt mức độ tự do hoá như trong quy định của GATS thì hiệp định này tạo cơ hội để các quốc gia đòi hỏi các quyền lợi và sự đối xử thích đáng cho các nhà cung cấp dịch vụ của mình.

Tại sao các doanh nghiệp lại cần quan tâm đến GATS?

Page 6: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 6 -

Tóm lại, Hiệp định GATS là một văn bản tham chiếu quan trọng cho bất kỳ một nhà xây dựng kế hoạch của công ty nào đang có mong muốn mở rộng tầm hoạt động của công ty mình ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia. Do vậy, đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ GATS sắp tới - GATS 2000 - sẽ trở thành tiêu điểm của sự chú ý từ phía các doanh nghiệp. Những dịch vụ nào nằm trong GATS? Về nguyên tắc, Hiệp định GATS và các quy tắc chung của nó đề cập đến tất cả các ngành dịch vụ được tiến hành trên cơ sở thương mại, mặc dù một số dịch vụ lại chịu điều tiết của các phụ lục cụ thể hạn chế phạm vi điều chỉnh. Theo hệ thống "Các cam kết cụ thể", các nước thành viên có thể xác định chính xác những lĩnh vực dịch vụ nào cam kết mở cửa thị trường cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và những hạn chế nào vẫn sẽ được duy trì trong các lĩnh vực đó. Các quốc gia thương mại lớn và phát triển nhất đã đưa ra một danh sách dài các lĩnh vực mà họ muốn tự do hoá, trong khi đó, các nước khác, ví dụ như các nước đang phát triển, có xu hướng đưa ra ít cam kết hơn với lý do ngành dịch vụ của mình mới đang trong giai đoạn phát triển ban đầu và chưa sẵn sàng để tự do hoá toàn bộ. Các doanh nghiệp có thể tìm hiểu mức độ cam kết của mỗi quốc gia thành viên bằng cách xem xét danh mục cam kết cụ thể của nước đó - danh mục này được WTO cung cấp và rất nhiều trong số đó được đưa lên website "GATS - Info" của Uỷ ban châu Âu1. Hiệp định GATS xóa bỏ sự phân biệt đối xử ở thị trường nước ngoài như thế nào? Số lượng thành viên của GATS tương đối lớn. Hiện tại, các nước Thành viên của GATS (130 nước) chiếm tới trên 90% thương mại dịch vụ thế giới. Hầu hết các nền kinh tế lớn khác cũng đang nộp đơn xin tham gia Hiệp định GATS, bao gồm Nga, các nước SNG (Cộng đồng các Quốc gia độc lập), Trung Quốc, Đài Loan; một khi các nước này gia nhập thì hầu như 100% thương mại dịch vụ thế giới sẽ được thực hiện giữa các Thành viên của GATS. Về vấn đề tiếp cận các thị trường này, các công ty có thể căn cứ vào Hiệp định GATS để đảm bảo rằng họ được đối xử giống như bất kỳ công ty từ một nước nào khác theo nguyên tắc MFN (quy tắc này yêu cầu các nước thành viên GATS phải đối xử với các công ty từ các nước khác nhau một cách công bằng). Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là Hiệp định này cũng chứa đựng cả những quy tắc xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nước và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Nếu trên thực tế vẫn tồn tại sự đối xử không công bằng trong điều tiết thị trường của một nước dẫn đến hậu quả là người cung cấp dịch vụ nước ngoài bị bất lợi so với nhà cung cấp dịch vụ trong nước thì nước Thành viên đó có nghĩa vụ phải thông báo công khai sự phân biệt đối xử này trong danh mục các cam kết cụ thể của mình để tất cả mọi người đều có thể nắm được. Yếu tố mang tính chất quyết định ở đây là, theo định nghĩa đưa ra trong Hiệp định này, ngay cả sự đối xử giống hệt nhau trong một số trường hợp cũng có thể bị coi là phân biệt đối xử, nếu như trong thực tiễn, quy định đó dẫn đến việc nhà cung cấp dịch vụ trong nước có lợi thế hơn. Ví dụ: một nước đưa ra 1 Để có thêm thông tin, xin tham khảo website: http://gats-info.eu.int

Page 7: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 7 -

yêu cầu là nhà cung cấp dịch vụ phải cư trú tại nước này. Trong trường hợp này, nước đó cần phải thông báo rõ trong danh mục cam kết của mình là đã tạo thuận lợi hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ trong nước vì họ đã thực sự cư trú tại nước này rồi. Các công ty có thể kiểm tra xem các nước thành viên có duy trì những biện pháp phân biệt đối xử trong các lĩnh vực dịch vụ hay không bằng cách xem xét danh mục cam kết cụ thể của từng nước. Hiệp định GATS có liên quan như thế nào đến công việc kinh doanh cung cấp dịch vụ diễn ra hàng ngày? Hiệp định GATS đề cập đến tất cả những phương thức chủ yếu mà các nhà cung cấp dịch vụ phục vụ khách hàng của mình, tức là đề cập đến tất cả các "phương thức cung cấp". Điều này có nghĩa là một nước phải nêu rõ:

có cho phép các công ty nước ngoài giao dịch với khách hàng trong nước qua biên giới hay không?

có cho phép công dân nước mình đi ra nước ngoài tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài đó hay không?

có cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập công ty tại thị trường nước mình hay không?

hoặc có cho phép các thể nhân vào nước mình để kinh doanh hay không?

Điều này cho phép các công ty biết được họ có mặt ở vị trí nào trên thị trường nước ngoài và quan hệ giao dịch của họ với các khách hàng nước ngoài ra sao - và nếu các công ty gặp trở ngại trong công việc kinh doanh của mình, họ có thể nhanh chóng kiểm tra xem Thành viên GATS đó có cam kết nào về trở ngại đó hay chưa; từ đó kết luận Thành viên đó có vi phạm cam kết hay không. Nếu như các nước thấy rằng một Thành viên nào đó của GATS vi phạm các nghĩa vụ thì bất kỳ Thành viên nào cũng có thể sử dụng các điều khoản của Hiệp định GATS để tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp. Trong số tất cả các phương thức cung cấp dịch vụ, phương thức có ý nghĩa nhất về mặt đầu tư là thành lập công ty hoặc công ty con ở thị trường nước ngoài. Trong các cam kết ở mỗi lĩnh vực dịch vụ nhất định, các Thành viên phải nêu rõ có áp đặt hạn chế nào đối với hình thức hay sở hữu của các doanh nghiệp mới được thành lập hay không? Phương thức cung cấp dịch vụ thứ 4 - hiện diện của tự nhiên nhân, tức là vấn đề di chuyển của bản thân những người cung cấp dịch vụ - cũng có liên quan đến việc thành lập hiện diện thương mại ở nước ngoài. Rất nhiều nước Thành viên đã cam kết cho phép những cán bộ chủ chốt của các công ty vào nước mình nếu như những người đó tham gia trực tiếp vào việc thành lập một công ty con hay hiện diện thương mại trên lãnh thổ nước mình. Các công ty có thể kiểm tra các chi tiết trong các danh mục cam kết cụ thể của từng nước để xem xét xem nước mà họ quan tâm đã tự do hoá phương thức này chưa. Tóm lại, GATS là một hiệp định rộng và bao quát, không chỉ đưa ra các hướng dẫn mà còn cả cơ chế đảm bảo thực thi cho các nhà cung cấp dịch vụ có quan tâm đến hoạt động cung cấp cho khách hàng nước ngoài. Bất kể lĩnh vực dịch

Page 8: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 8 -

vụ nào, bất kể loại hình cung cấp nào và bất kể thị trường nào, Hiệp định GATS đều có thể được áp dụng. Khi các nhà cung cấp dịch vụ nghi ngờ về các quyền lợi của mình tại một thị trường nước ngoài, hay khi cần làm rõ các cơ hội của mình, các doanh nghiệp trước hết nên tham khảo GATS. Hiệp định GATS xây dựng nên những quy tắc đầu tiên về tự do hoá thương mại dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới. Vòng đàm phán thương mại quốc tế Uruguay đã diễn ra trong khuôn khổ GATT, một tổ chức đặt trụ sở tại Geneva, Thuỵ Sỹ. Vòng đàm phán này được các Bộ trưởng Thương mại của hơn 100 nước khởi xướng tại Punta del Este, Uruguay tháng 9/1986. Tính đến thời điểm các cuộc đàm phán chính thức hoàn tất vào tháng 4/1994 tại Marrakesh, Ma-rốc, số bên tham gia đã lên tới 125. Thành công của 50 năm đàm phán thương mại hàng hoá trong khuôn khổ GATT đã đưa ra một minh chứng đầy sức thuyết phục đối với các chính phủ. Việc liên tục giảm thuế quan áp dụng đã thúc đẩy thương mại hàng hoá thế giới tăng mạnh, cao hơn cả mức tăng của thu nhập thế giới. Thuế quan trung bình trên phạm vi toàn thế giới đã giảm từ mức 35% sau Chiến tranh Thế giới II xuống còn khoảng 5% ngày nay và mức tăng trưởng thương mại bình quân đã vượt mức tăng trưởng kinh tế thế giới không dưới 2%/năm. Thêm vào đó, sự phát triển của các luật lệ thương mại quốc tế trong GATT đã tăng cường thêm khả năng dự báo chế độ thương mại hàng hoá thế giới. Thương mại dịch vụ đã bị bỏ qua vì trước đây, dịch vụ bị coi là phụ thuộc vào sản xuất và thương mại hàng hoá. Rất nhiều dịch vụ được điều tiết chặt chẽ để bảo vệ cả người tiêu dùng lẫn nền kinh tế trong nước, và một số ngành thuộc độc quyền nhà nước. Do vậy, một số nước coi việc đề cập tới các quy định quốc gia gây cản trở cho thương mại và tiến hành các cuộc đàm phán quốc tế là đe doạ đến chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, vào giữa những năm 80, rất nhiều nước phương Tây phải đối mặt với những lo ngại về suy thoái toàn cầu, lạm phát kéo dài và nạn thất nghiệp gia tăng. Các nước ngày càng phải lưu ý hơn đến tầm quan trọng của thương mại dịch vụ quốc tế vì đến thời điểm này, công nghệ đã thúc đẩy khả năng thương mại hoá hoạt động dịch vụ. Các nước này đi đến kết luận, việc xoá bỏ các cản trở đối với thương mại dịch vụ quốc tế và tạo cho các nhà xuất khẩu dịch vụ khả năng dự đoán được tình hình thương mại và đầu tư quốc tế sẽ tạo ra những đông lực xuất khẩu dịch vụ; xuất khẩu đó sẽ hỗ trợ cho sự phát triển mà không gây ra lạm phát trong nước và giải quyết vấn đề điều chỉnh cơ cấu để bước vào kỷ nguyên của xã hội thông tin và chuyển sang nền kinh tế có yếu tố trí tuệ ngày càng cao. Mục tiêu lúc này rõ ràng là phải cải thiện hơn nữa phương thức giao dịch trước đây là thông qua các hiệp định song phương, các hiệp định này thường chưa đề cập đến tất các ngành dịch vụ một cách đầy đủ. Một hiệp định đa phương về

Tại sao GATS được thành lập?

Page 9: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 9 -

dịch vụ trong khuôn khổ tổ chức GATT (under GATT's auspices) sẽ khắc phục được những thiếu sót đó. Do vậy, khi khởi xướng Vòng đàm phán Uruguay năm 1986, các nước đã nhất trí đưa thương mại dịch vụ vào đàm phán, với tư cách là một bộ phận trong cam kết trọn gói, với tin tưởng rằng điều đó sẽ cải thiện toàn bộ hệ thống thương mại thế giới. Với những quan điểm và ý tưởng như vậy, các cuộc đàm phán tại Vòng Uruguay có tham vọng rất lớn và phức tạp. Trên thực tiễn, tại Punta del Este năm 1986, các Bộ trưởng đã cho phép thảo luận một loạt các vấn đề có tác động đến thương mại thế giới. Vòng đàm phán này đặt ra mục tiêu giảm thuế quan và hàng rào phi quan thuế đối với hàng hoá, mở rộng các quy tắc đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như trong Dệt-May. Vòng đàm phán này cũng đề ra mục tiêu xây dựng một chế độ thương mại tự do hơn cho thương mại dịch vụ thông qua việc hình thành một khuôn khổ các nguyên tắc và quy định thương mại. Việc đưa thương mại dịch vụ vào phạm vi đàm phán đã xoá đi một khiếm khuyết nghiêm trọng của các quy tắc thương mại đa phương. Các cuộc đàm phán tại Vòng Uruguay cũng đã cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp, và nhìn chung đã khắc phục được vấn đề cơ cấu của các hiệp định thương mại đa phương. Các quy tắc pháp lý hiện nay đã mở rộng tới hầu như tất cả các lĩnh vực của thương mại quốc tế và do một tổ chức quốc tế thường trực là WTO điều hành.

Kết quả của Vòng đàm phán Uruguay Kể từ khi Vòng Uruguay tạo ra nền tảng cho tự do hoá thương mại dịch vụ, hai cuộc đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ lớn trong ngành viễn thông và tài chính đã được hoàn tất. Sau kết quả đạt được tại Vòng Uruguay, lần đầu tiên, hoạt động thương mại dịch vụ được điều chỉnh bởi một hiệp định thương mại toàn cầu. Hiệp định này đưa thương mại dịch vụ vào một khuôn khổ rộng bao gồm các quy tắc và luật lệ đa phương tương đương với khuôn khổ áp dụng cho thương mại hàng hoá theo GATT. Các Thành viên của GATS đã đưa ra các nghĩa vụ và cam kết mà việc thực hiện chúng được đảm bảo thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu lực cao trong khuôn khổ WTO. Một khi các cam kết đối với một dịch vụ cụ thể đã được một Thành viên đưa ra thì Thành viên đó không thể rút lại cam kết này nếu không có bù đắp cho thích đáng cho các quốc gia Thành viên khác. Tuy nhiên, việc một nước trở thành Thành viên GATS không có nghĩa là nước đó phải đưa ra cam kết mở cửa thị trường trong tất cả các ngành dịch vụ và/hay cam kết đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ. Mức độ của các cam kết này có thể, và trên thực tế là rất khác nhau giữa các Thành viên WTO.

Những kết quả đã đạt được tới nay

Page 10: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 10 -

Trong suốt Vòng Uruguay, các cuộc đàm phán tập trung chủ yếu vào các nguyên tắc và quy định cơ bản điều chỉnh tiến trình tự do hoá thương mại dịch vụ đa phương. Do thiếu kinh nghiệm trong vấn đề tự do hoá thương mại dịch vụ, vì trước đây quá trình này chỉ được tiến hành trên cơ sở song phương và có đi có lại, các cuộc đàm phán đã diễn ra rất phức tạp và tốn nhiều thời gian. Thực tiễn này khiến các nước không có nhiều thời gian để đàm phán các cam kết tự do hoá cụ thể. Tuy nhiên, với kết quả của Vòng đàm phán này, rất nhiều nước đã từ bỏ quyền cấp giấy phép cho tiếp cận thị trường nước mình trên cơ sở song phương, và rút bỏ các điều kiện về quốc tịch. Ngày nay, các nước Thành viên phải tuân thủ nghĩa vụ MFN, và nghĩa vụ này tạo ra mức độ tự do hoá lớn hơn và nhiều cơ hội tiếp cận thị trường hơn ở các nước, tất nhiên là cả ở những thị trường mà EU quan tâm. Với thực tế là nhiều nước Thành viên đã cam kết giữ nguyên trạng, các nước này không thể đảo ngược tiến trình tự do hoá của mình mà không có sự bù đắp xứng đáng. Vào thời điểm ký kết Văn kiện cuối cùng của Vòng Uruguay ngày 5/4/1994 tại Marrakesh, 95 nước Thành viên đã đệ trình danh mục cam kết cụ thể trong dịch vụ và 65 nước đưa ra danh mục miễn trừ đối với quy tắc MFN. Tất cả những yếu tố này mang tính tích cực cao, nhưng không nghĩa là Uỷ ban châu Âu sẽ không phải xem xét đến vấn đề cải thiện Hiệp định này hơn nữa. Ngay khi kết thúc đàm phán, các nước cũng đã nhận thức được và nhất trí sẽ tiếp tục đàm phán trong những lĩnh vực cụ thể và chi tiết hoá hơn nữa các quy tắc để củng cố Hiệp định GATS. Trên hết, Hiệp định GATS được xây dựng trên nguyên tắc không ngừng tự do hoá. Các nước Thành viên có trách nhiệm tiến hành các vòng đàm phán định kỳ để cải thiện các cam kết và đạt đến "một mức độ tự do hoá ngày càng cao hơn". Mặc dù hoàn toàn công bằng khi nói rằng hầu hết các nước phát triển đã cam kết gần như ở tất cả các lĩnh vực, vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện. Trên thực tế, quá nhiều nước là Thành viên GATS mà chỉ đưa ra cam kết trên một số ít lĩnh vực. Trong các lĩnh vực dịch vụ có ý nghĩa sống còn đối với một nền kinh tế hiệu quả, ví dụ như phân phối và viễn thông, rất ít nước đưa ra cam kết của mình vào cuối Vòng Uruguay. Trong một số lĩnh vực dịch vụ khác, quá trình tự do hoá ở các nước phát triển mới chỉ bắt đầu, và bước đi thích hợp tiếp theo sẽ là mở cửa các thị trường này cho các đối tác nước ngoài. Trong một số ít các lĩnh vực dịch vụ, các nước Thành viên tỏ ra rất miễn cưỡng khi đưa ra các cam kết đa phương, ví dụ như trong dịch vụ nghe nhìn, chỉ có một số Thành viên WTO đưa ra cam kết. Tương tự, trong lĩnh vực vận tải biển, mặc dù vốn là một lĩnh vực được điều chỉnh bởi chính sách hàng hải tự do (open sea policy), chỉ có 30 nước đưa ra cam kết. Kết thúc Vòng Uruguay, một nền tảng vững chắc đã được tạo dựng, tạo cơ sở cho quá trình tự do hoá hơn nữa. Khả năng đạt được các kết quả tự do hoá lớn hơn ở tất cả các lĩnh vực là hoàn toàn có thể vì không có lĩnh vực nào bị loại

Page 11: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 11 -

trừ khỏi phạm vi của GATS, ngoài ngoại lệ hiện thời là các quyền trong vận tải hàng không. Do vậy, tất cả vấn đề nằm ở các cuộc đàm phán trong tương lai. Những kết quả đạt từ sau Vòng đàm phán Uruguay Vào thời điểm kết thúc Vòng Uruguay, các nước nhất trí tiếp tục tiến hành đàm phán trên một số lĩnh vực dịch vụ nhất định. Đó là trường hợp dịch vụ tài chính, viễn thông cơ bản và di chuyển của tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ. Các nước cũng thấy cần phải xây dựng chi tiết hơn nữa các quy tắc và quy định về mua sắm dịch vụ, các biện pháp trợ cấp có tác dụng bóp méo thương mại và có thể là cần phải có một điều khoản tự vệ trong trường hợp khẩn cấp. Các nước cũng đã xây dựng chương trình nghị sự để tiến hành xây dựng các quy định chi tiết hơn về quy chế trong nước: GATS ghi nhận quyền cơ bản của một nước là được phép điều tiết việc cung cấp dịch vụ nhưng cho rằng trong quá trình điều tiết đó, một nước không được đối xử phân biệt hay điều tiết theo cách gây ra nhiều cản trở hơn mức cần thiết. Lĩnh vực đầu tiên hiện đang được xem xét chi tiết hơn là dịch vụ kế toán. Các cuộc đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản đã kết thúc thành công vào tháng 2/1997 và về dịch vụ tài chính kết thúc vào ngày 12/12/1997. Kết quả của cả hai cuộc đàm phán này được trình bày chi tiết trong các chương. Tháng 6/1995, các Thành viên kết thúc đàm phán về di chuyển của các tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ và các nước EC đã có đóng góp to lớn cho lần đàm phán này thông qua việc đưa ra các cam kết cụ thể cho cái gọi là "các nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng´- hay là các nhà cung cấp dịch vụ làm việc trên cơ sở hợp đồng - ở một số dịch vụ nhà nghề và kinh doanh. Về kế toán, Nhóm làm việc về Dịch vụ nhà nghề đã đạt được những tiến bộ đáng kể và đặt mục tiêu sẽ đề nghị các nước thông qua các quyết định cụ thể hơn nhằm đảm bảo các nước Thành viên áp dụng các điều kiện cấp giấy phép cũng như các biện pháp, quy định khác theo cách ít gây cản trở cho thương mại nhất và có mức độ minh bạch hoá cao. Các cuộc đàm phán về vận tải biển theo kế hoạch sẽ được kết thúc ngày 30/6/1996 đã bị hoãn lại, tuy nhiên các nước đã nhất trí sẽ nối lại đàm phán trong lĩnh vực này không muộn hơn năm 2000. Tới nay, các bên vẫn chưa thống nhất đi đến một kết quả làm hài lòng tất cả các bên liên quan trong lĩnh vực này - một lĩnh vực mà từ trước tới nay hoạt động thương mại vẫn diễn ra trên nguyên tắc tự do và không phân biệt đối xử. Đây là một điều bất thường và cần được các nước xem xét giải quyết, đưa ra các nỗ lực nhằm đạt mục tiêu tự do hoá. Cuối cùng, các nước đã bắt đầu thảo luận về ảnh hưởng của các biện pháp môi trường đối với thương mại dịch vụ. Mục tiêu của chúng tôi là đảm bảo các nước có thể thông qua và thực thi những biện pháp hợp lý cần thiết để bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững, đồng thời cũng đảm bảo ngăn chặn việc sử dụng các biện pháp môi trường làm hàng rào trá hình để bảo hộ thị trường trong nước.

Page 12: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 12 -

Chúng tôi cũng mong muốn vòng đàm phán GATS sắp tới sẽ tập trung vào tự do hoá hơn nữa thương mại toàn cầu đối với tất cả dịch vụ bảo vệ môi trường quan trọng.

Vòng đàm phán dịch vụ năm 2000 sẽ mở rộng tự do hoá trên toàn thế giới, tạo ra các cơ hội kinh doanh và đầu tư mới trong tất cả các lĩnh vực. Thực chất, tự do hoá trong một lĩnh vực dịch vụ sẽ tạo ra cơ hội tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực khác. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại là người sử dụng các loại hình dịch vụ. Do đó, tự do hoá không chỉ là mối quan tâm trong một lĩnh vực cụ thể mà còn tạo ra các cơ hội kinh doanh trong các lĩnh vực dịch vụ khác. Ví dụ, sự tồn tại của các phương tiện vận tải tốt và hệ thống vận tải hiệu quả sẽ làm đầu tư nước ngoài tăng lên; đầu tư nước ngoài tăng lên đến một mức độ nhất định sẽ tăng các cơ hội cho các hoạt động dịch vụ khác như xây dựng, dịch vụ pháp lý và kế toán... Các cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ là một yếu tố cần thiết bổ sung cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của GATT. Hàng hoá không thể tự thân vận động - chúng cần được phân phối và vận chuyển. Cơ chế "cho và nhận" (give and take) là cơ chế duy nhất có thể tồn tại được đồng thời thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại mạnh mẽ khắp thế giới. Các nước phát triển không chỉ ngồi chờ các nước đang phát triển mở cửa thị trường của họ hơn nữa, vì mặc dù tự do hoá là mối quan tâm trên hết của các nước phát triển, các nước này vẫn còn một số ngành dịch vụ chưa có tính cạnh tranh cao. Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta rất quan tâm đến việc xuất khẩu các dịch vụ ngân hàng có sức cạnh tranh cao của mình sang các nước đang phát triển, nhưng các nước này lại không hề quan tâm đến việc thành lập một ngân hàng ở Cộng đồng châu Âu vì thị trường ở đây đã mang tính cạnh tranh rất cao. Có lẽ các nước này quan tâm đến các lĩnh vực dịch vụ khác mà họ thực sự có khả năng cạnh tranh, ví dụ, như dịch vụ máy tính, công nghệ phim, dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ cơ khí, xây dựng hoặc bất kỳ hoạt động dịch vụ nào khác mà thường là sử dụng ít vốn hay phụ thuộc vào sức lực và kỹ năng của con người nhiều hơn là công nghệ. Do đó, châu Âu nên xây dựng một danh sách các nước quan tâm và xác định rõ các hàng rào tiếp cận thị trường nào mà chúng ta thấy cần phải dỡ bỏ. Chúng ta cũng cần cân nhắc về những lĩnh vực chúng ta có thể cải thiện, ví dụ như trong một số lĩnh vực dịch vụ, việc tiếp cận thị trường chỉ được cấp phép theo quy tắc có đi có lại truyền thống; ở các lĩnh vực khác, các điều kiện về quốc tịch vẫn còn được duy trì, hoặc vẫn còn tình trạng độc quyền mà về bản chất, tình trạng này ngăn cản các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thứ 3 xâm nhập thị trường.

Đàm phán thương mại dịch vụ năm 2000 sẽ diễn ra ở đâu?

Page 13: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 13 -

Đồng thời, chúng ta cũng cần phải tạo dựng và duy trì sự ủng hộ rộng rãi đối với một mô hình kinh tế thế giới rộng mở, thông thoáng, tạo ra sự phát triển nhanh chóng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới trong những thập kỷ tới. Hiện nay có quá nhiều dư luận lo ngại rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế sẽ đe doạ đến môi trường, các đặc trưng văn hoá và lối sống của con người. WTO có một sứ mệnh lớn lao là khuyến khích sự phát triển bình đẳng và bền vững, nhưng WTO cần phải thực hiện nhiều công việc hơn nữa để truyền bá thông điệp này. Đó là lý do tại sao Uỷ ban châu Âu lại gây sức ép đòi vấn đề tự do hoá các dịch vụ và công nghệ thân thiện với môi trường phải được ưu tiên. Năm 2000 không còn xa nữa, và việc tự chuẩn bị chẳng bao giờ là quá sớm. Chúng ta càng tự chuẩn bị tốt thì chúng ta càng có nhiều cơ hội đạt được các mục tiêu của mình. Quá trình dỡ bỏ các hàng rào thương mại và tạo ra các cơ hội tiếp cận thị trường hơn nữa phải được dựa trên cơ sở tình hình các ngành công nghiệp chứ không chỉ là ý chí của các quan chức chính phủ. Công việc chuẩn bị cho vòng đàm phán mới cần phải trả lời được 3 câu hỏi sau đây: - xác định rõ các rào cản thị trường, những hàng rào thường gặp nhất và quan trọng nhất là gì: thiếu minh bạch, tệ quan liêu, hạn chế đầu tư, điều kiện hoạt động? - các quốc gia ưu tiên: chúng ta đã có đủ đại diện ở Mỹ Latinh chưa? ở các thị trường mới như các nước cộng hoà Cộng đồng các Quốc gia độc lập (CIS)? Chúng ta cũng cần xem xét những nước chưa phải là thành viên WTO nhưng đang trong quá trình gia nhập như Trung Quốc, Nga, Đài Loan, Kazakstan, Saudi Arabi hay Việt Nam. - các lĩnh vực dịch vụ ưu tiên: chúng ta đã chọn ra các lĩnh vực dịch vụ mà EC quan tâm nhất và có sức cạnh tranh cao chưa? Trước hết, chúng ta cần thông tin cơ bản. Và bước đi đầu tiên theo hướng này là Uỷ ban châu Âu đưa lên mạng Internet một website về thương mại dịch vụ và Hiệp định GATS, trong đó cung cấp các thông tin về hiệp định này, mức độ tự do hoá mà các nước thành viên WTO đã cam kết, các điểm liên lạc trong Uỷ ban Châu Âu để cung cấp các thông tin về vấn đề này hay các hàng rào thương mại thường gặp phải ở thị trường nước ngoài. Bằng cách cùng làm việc ngay từ những bước đầu, khu vực tư nhân và Cộng đồng châu Âu có thể tạo dựng một quan hệ hợp tác có cùng mục tiêu, điều này sẽ giúp chúng ta ở một vị thế có lợi để đối đầu với những thử thách trong tương lai.

Các doanh nghiệp có thể làm gì?

Page 14: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 14 -

Việc các ngành dịch vụ tham gia tích cực vào các cuộc đàm phán có ý nghĩa quyết định đối với việc EUcó đạt được các mục tiêu đàm phán của mình trong các lĩnh vực kinh doanh ưu tiên hay không. GATS không chỉ là một hiệp định tồn tại giữa các chính phủ. Trên hết, nó là một công cụ làm lợi cho kinh doanh, không chỉ cho hoạt động kinh doanh nói chung mà còn cho từng công ty dịch vụ cụ thể có mong muốn xuất khẩu dịch vụ hay đầu tư và hoạt động ở nước ngoài. Uỷ ban Châu Âu quan tâm giúp đỡ hoạt động kinh doanh thông qua thúc đẩy và phát triển quá trình tự do hoá thương mại theo khuôn khổ GATS. Nhưng Uỷ ban Châu Âu cũng cần sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp để có những chính sách phù hợp với nhu cầu xuất khẩu thực tế và nhu cầu phát triển kinh tế của các ngành dịch vụ của EU. Giới kinh doanh - bao gồm các công ty cụ thể - và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể đóng góp vào việc xây dựng chính sách thương mại dịch vụ của EU thông qua 5 con đường: - bằng cách khuyến khích lãnh đạo các doanh nghiệp khác cùng đóng góp xây dựng một mạng lưới doanh nhân không chính thức để Uỷ ban có thể tham khảo ý kiến khi chuẩn bị cho các cuộc đàm phán, xây dựng mục tiêu đàm phán cũng như tham khảo ý kiến khi liên hệ với các doanh nhân nước ngoài để xây dựng một mô hình tự do hoá thương mại dịch vụ đa phương có sức thuyết phục. - bằng cách yêu cầu các phòng ban về marketing và quan hệ quốc tế của các công ty này tham gia xây dựng website dịch vụ của Uỷ ban và các phương tiện cơ sở dữ liệu có liên quan thông qua việc cung cấp các thông tin về các thị trường mà mình quan tâm nhất, về các hàng rào cản trở thương mại lớn nhất ở các nước đó. - bằng cách đảm bảo rằng các hiệp hội và liên đoàn thương mại của mình có những nguồn lực cần thiết và tận dụng hết các nguồn lực đó để có thể đóng góp đáng kể giúp các nhà đàm phán dịch vụ châu Âu. - bằng cách thuyết trình với Chính phủ các nước mà mình tiến hành kinh doanh tại đó về những lợi ích mà nền kinh tế sẽ gặt hái được với tư cách là người mua trong quan hệ thương mại dịch vụ hay nước nhận đầu tư nếu họ có một thị trường dịch vụ rộng mở và mang tính cạnh tranh cao - đặc biệt là với các nền kinh tế mới nổi lên và các nước đang phát triển. - bằng cách chuyển thông điệp tới tất cả các bên quan tâm ở châu Âu và tiếp đó là, thông qua việc tạo thuận lợi cho lưu chuyển đầu tư và thương mại dịch vụ tự do, GATS sẽ góp phần tạo ra sự tăng trưởng bền vững, tạo ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, cả trong và ngoài EU.

Page 15: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 15 -

Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)

Page 16: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 16 -

ý nghĩa của Dịch vụ đối với nền kinh tế, thương mại và đầu tư thế giới Thương mại dịch vụ của toàn thế giới, nếu xác định trên cơ sở cán cân thanh toán thì chiếm khoảng 15% tổng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, tức là lên tới khoảng 6,5 tỷ USD năm 1997. Theo tính toán, tổng xuất khẩu của các dịch vụ thương mại trên thế giới năm 1997 đạt 1,3 tỷ USD, nếu tính cả thương mại nội bộ 15 nước thành viên EU với nhau. Người ta đánh giá rằng thương mại dịch vụ dưới hình thức hiện diện thương mại ít nhất cũng phải bằng thương mại qua biên giới, do vậy, các con số trên cán cân thanh toán chỉ phản ánh được một nửa con số thực tế. Năm 1996, EU là nhà xuất khẩu dịch vụ lớn nhất thế giới, chiếm 26% tổng giao dịch dịch vụ toàn cầu (43% nếu tính cả xuất khẩu trong nội bộ EU), so với mức 22% của Mỹ và 7% của Nhật. Năm 1996, dịch vụ chiếm 25,3% tổng xuất khẩu của EU, so với 27,7% của Mỹ và 14,5% của Nhật Bản. Trong giai đoạn 86-96, thương mại dịch vụ cũng phát triển ở tốc độ tương đương với thương mại hàng hoá (8,7% so với 8,1%). Trên 46% lực lượng lao động của EU ngày nay làm việc trong các ngành dịch vụ kinh doanh (tức là không kể các dịch vụ thuộc chính phủ), và khu vực này chiếm tới trên 52% GDP. ở EU, việc làm trong lĩnh vực dịch vụ ngày nay nhiều gấp 2 lần việc làm trong ngành sản xuất. Các con số về dịch vụ liên quan đến GDP và việc làm theo từng ngành của các nước OECD được biểu thị ở những biểu đồ dưới dây. Các nghiên cứu cho thấy giá trị gia tăng tạo ra trong ngành dịch vụ có thể lên tới 70% tổng giá trị của các sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra, về tổng thể, các nền kinh tế phát triển ngày nay tạo ra được 70% sản lượng cũng như việc làm từ các hoạt động liên quan đến thương mại dịch vụ. Tầm quan trọng của các lĩnh vực dịch vụ đối với các nước đang phát triển cũng rất đáng kể. Thực tế là dịch vụ chiếm một tỷ trọng nhỏ hơn trong nền kinh tế các nước này vì khu vực dịch vụ kinh doanh và tài chính của họ kém phát triển hơn. Tính trung bình, trong cả OECD và các nước đang phát triển, dịch vụ xây dựng, phân phối, khách sạn và nhà hàng, giao thông và thông tin chiếm khoảng 30% tổng giá trị gia tăng trong GDP. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 1/2 tổng đầu tư ra nước ngoài, và có thể ước tính là mang lại thu nhập ở mức độ tương đương với con số về thương mại qua biên giới. Tổng đầu tư FDI ra bên ngoài trên toàn cầu đã tăng khoảng 30%/năm, tức là nhanh hơn xuất khẩu và sản lượng của thế giới. Tổng mức đầu tư FDI năm 80 là 500 triệu USD, dến năm 90 đã tăng lên 3 lần tới 1,5 tỷ USD và năm 1996 đã đạt đến 3 tỷ USD (theo giá trị ghi trên sổ sách). Mức đầu tư này đã làm tăng doanh thu của các công ty con ở nước ngoài lên tới 6,5 tỷ USD năm 1996 trên phạm vi toàn cầu - giá trị hàng hoá và dịch vụ của 286.000 công

Tầm quan trọng của thương mại dịch vụ

Page 17: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 17 -

ty chi nhánh nước ngoài thuộc 44.000 công ty mẹ trên toàn thế giới - so với xuất khẩu thế giới năm đó là 5 tỷ USD (trong đó, 1/3 là xuất khẩu trong nội bộ công ty). Gần 60% tổng lưu chuyển FDI ngày nay là đầu tư vào các hoạt động thương mại dịch vụ. Như có thể thấy trên biểu đồ, từ năm 1992-1995, phần trăm giữa sản xuất và dịch vụ trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của EU biến đổi rất mạnh. Trừ năm 1994, khu vực dịch vụ bao giờ cũng chiếm phần lớn nhất trong tổng đầu tư FDI của EU. Năm 1992, sản xuất và dịch vụ tương đối cân bằng (42 so với 53%), nhưng đến năm 1993, khoảng cách ngày càng tăng lên với dịch vụ chiếm 56% trong khi đó đầu tư vào sản xuất giảm xuống còn 31%. Năm 1995, đầu tư FDI ra nước ngoài của EU lên tới 44,4 tỷ ECU, trong đó 53% được đầu tư vào dịch vụ còn 37% đầu tư vào hoạt động sản xuất. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào EU giữa năm 1992 và 1995 cũng chủ yếu là vào khu vực dịch vụ, tăng từ 54% năm 1992 lên 62% năm 1994. Trong năm 1995, tổng FDI vào EU đạt 37,7 tỷ ECU, trong đó 47% là đầu tư vào dịch vụ và 43% vào hoạt động sản xuất.

Các quy tắc của GATS được áp dụng cho tất cả các dịch vụ, cả hiện tại cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, mức độ mở cửa thị trường của từng nước thì không được quy định một cách tự động mà phải thông qua đàm phán. Trong khi một số điều khoản của GATS như nghĩa vụ MFN và minh bạch hoá được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ thì các điều khoản liên quan đến tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia cho tới nay mới chỉ được áp dụng ở mức mà các nước đưa ra cam kết trong lĩnh vực cụ thể. Mức độ các lĩnh vực được cam kết của các nước Thành viên khác nhau rất xa và chưa có Thành viên nào đưa ra cam kết trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ. Quy tắc của GATS áp dụng đối với bất kỳ biện pháp nào của các nước Thành viên có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ (các biện pháp này do bất kỳ cấp nào của chính phủ thông qua). Từ "biện pháp" được hiểu rất rộng, bao gồm: "bất kỳ biện pháp nào của một nước Thành viên, cho dù dưới hình thức một luật lệ, một quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định, hành động quản lý, hay bất kỳ một hình thức nào khác". Các biện pháp bao gồm tất cả những gì "do Chính phủ và các cơ quan trung uơng, vùng hoặc địa phương" áp dụng hoặc do "các cơ quan phi chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan chính phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao cho". Các phương thức cung cấp dịch vụ Hiệp định GATT về thương mại hàng hoá chỉ phải xem xét hình thức cung cấp duy nhất là sản phẩm đi qua biên giới quốc gia. Trong GATS, một phương thức

GATS áp dụng ở những lĩnh vựcnào?

Page 18: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 18 -

tiếp cận mới đã được hình thành để tính đến bản chất khác biệt của dịch vụ và thực tế là việc cung cấp dịch vụ cũng diễn ra dưới nhiều hình thức hay phương thức khác nhau. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ được định nghĩa trên cơ sở xuất xứ của người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ đó, cũng như mức độ và hình thức hiện diện trên lãnh thổ của các bên vào thời điểm dịch vụ được chuyển giao. Những phương thức này bao gồm: - Qua biên giới: khi thương mại diễn ra từ lãnh thổ một nước Thành viên này sang lãnh thổ một nước Thành viên khác. Chỉ có bản thân dịch vụ di chuyển qua biên giới mà không có sự di chuyển của con người. Ví dụ về loại hình cung cấp này có thể kể đến như việc chuyển các thông tin hay tư vấn bằng fax hoặc email, hay vận tải hàng hoá. Nhà cung cấp dịch vụ không thiết lập bất kỳ một hiện diện nào trên lãnh thổ nước Thành viên tiêu dùng dịch vụ. - Tiêu dùng ở nước ngoài: Phương thức này đề cập đến những dịch vụ được tiêu dùng bởi các công dân của một nước Thành viên trên lãnh thổ một nước Thành viên khác khi dịch vụ được cung cấp. Về bản chất, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng trên lãnh thổ nước Thành viên không phải là nơi người tiêu dùng đó cư trú. Ví dụ điển hình với phương thức này là du lịch, hoặc trường hợp tài sản của người tiêu dùng dịch vụ được di chuyển qua biên giới để sử dụng các dịch vụ nước ngoài, như tàu được đem đi sửa chữa ở một nước khác. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có một điều khoản cụ thể (thuộc một "Biên bản giải thích"), điều khoản này định nghĩa rộng hơn về phương thức Tiêu dùng ở nước ngoài: phương thức này gồm tất cả các trường hợp khi công dân một nước mua dịch vụ tài chính của nước khác, không hề có yêu cầu về tiêu thụ hay cung cấp dịch vụ này ở nước ngoài. - Hiện diện thương mại: khi người cung cấp dịch vụ di chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài để tiến hành cung cấp dịch vụ thông qua hiện diện này. Sự hiện diện như vậy có thể dưới hình thức cơ sở kinh doanh hay cơ sở chuyên môn như chi nhánh, văn phòng đại diện, liên doanh… - Hiện diện của tự nhiên nhân: Phương thức cung cấp dịch vụ này chỉ áp dụng cho tự nhiên nhân, khi họ có mặt tạm thời tại thị trường, ví dụ như sự có mặt của bản thân các nhà cung cấp dịch vụ hay người làm công của họ. Mục tiêu chính của việc định nghĩa cung cấp dịch vụ theo các phương thức như trên là để tạo thuận lợi cho việc xác định các quy tắc có ảnh hưởng đến các phương thức cung cấp này. Mức độ tiếp cận thị trường đáng kể sẽ chỉ có thể có được khi các cam kết được đưa ra trên cơ sở kết hợp các phương thức liên quan. Ví dụ: mối quan hệ giữa phương thức cung cấp qua biên giới, hiện diện thương mại và di chuyển của tự nhiên nhân sẽ đặc biệt quan trọng khi nhà cung cấp dịch vụ có tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch vụ, như trong trường hợp đặc biệt của dịch vụ nhà nghề, hay trong trường hợp thiết lập cơ sở với sự hiện diện của các cán bộ chủ chốt trong công ty. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ này thể hiện nét đặc trưng riêng trong các cam kết tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia trong danh mục của từng nước.

Page 19: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 19 -

Những vấn đề không hoặc chưa được GATS đề cập tới Mặc dù phạm vi của GATS khá rộng, đề cập đến "tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ", song một số khía cạnh có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà cung cấp dịch vụ lại nằm ngoài phạm vi các quy định của GATS, với điều kiện là các biện pháp áp dụng trong các khía cạnh này không bị các thành viên sử dụng để trốn tránh các nghĩa vụ của mình, như:

quy định về nhập cảnh;

các dịch vụ cung cấp theo uỷ quyền của Chính phủ;

các chính sách tài chính và biện pháp thuế - có các quy định đảm bảo việc đánh thuế phải dựa trên nguyên tắc MFN và không được gây ra tác dụng bóp méo không cần thiết;

hệ thống hải quan - việc nhập khẩu các thiết bị cần thiết để cung cấp một dịch vụ;

các khía cạnh nhất định trong bảo vệ nhà đầu tư, liên quan đến việc di chuyển vốn;

quản lý tỷ giá ngoại hối - WTO sẽ làm việc với IMF và WB để tạo ra các điều kiện tiến tới sự ổn định hơn nữa về mặt kinh tế, trong đó có việc quản lý tỷ giá hối đoái (ví dụ thông qua việc định ra tỷ lệ lãi suất);

tư nhân hoá - các hình thức sở hữu không được đề cập tới, song có các quy định về các xí nghiệp thương mại nhà nước và độc quyền.

Một số vấn đề khác đã được đưa vào chương trình làm việc trong tương lại của GATS, gồm có:

các biện pháp tự vệ;

quy tắc về mua sắm của chính phủ;

quy định về trợ cấp;

quy định về việc điều tiết trong nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều những vấn đề khác nảy sinh cần được WTO thảo luận mà Hội nghị Bộ trưởng WTO lần 2 tại Singapore tháng 12/1996 đã nêu ra, gồm có: - thương mại và môi trường, - thương mại và đầu tư, - thương mại và chính sách cạnh tranh, - các quy tắc về lao động có liên quan đến thương mại.

Những nghĩa vụ pháp lý của các chính phủ đối với các nhà cung cấp dịch vụ người nước ngoài

Page 20: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 20 -

GATS là hiệp định đa phương đầu tiên có hiệu lực pháp lý trong thương mại và đầu tư dịch vụ. Hiệp định này tạo ra khuôn khổ để tiến hành hoạt động thương mại dịch vụ và khởi xướng tiến trình tự do hoá. Mục tiêu của GATS là chấm dứt tình trạng can thiệp bằng các luật lệ một cách tuỳ tiện và đảm bảo luật pháp có tính dự báo được để tạo ra tăng trưởng trong thương mại và đầu tư. Mỗi nước Thành viên ít nhất cũng phải đưa ra cam kết đảm bảo sự tiếp cận một số ngành trong thị trường dịch vụ nước mình. Các cam kết này được mô tả trong "Danh mục cam kết cụ thể" của từng nước đi kèm Hiệp định GATS. Bản thân Hiệp định GATS đề ra những quy tắc mà các chính phủ phải tuân thủ khi áp đặt các quy định có ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào đến thương mại và sự hiện diện của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Các quy định của Hiệp định này không nhằm mục đích tạo ra một "sân chơi bình đẳng" theo kiểu Thị trường chung châu Âu mà chủ yếu là để tạo ra một "con đường" với những tín hiệu tiêu chuẩn, chỉ rõ các hạn chế cần tuân thủ. GATS cũng cần được xem xét để tạo ra "luật quản lý giao thông" mà các chính phủ phải chấp hành khi tiến hành định vị con đường cũng như đặt các biển báo tín hiệu. Quy tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) Một nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế, vốn là nền tảng của GATT là nguyên tắc MFN. Nguyên tắc này yêu cầu các nước Thành viên phải dành sự đối xử ưu đãi nhất đã dành cho bất kỳ đối tác thương mại nào của mình cho tất cả các nước Thành viên WTO còn lại ngay lập tức và vô điều kiện. Sự phân biệt đối xử với các nước thứ 3 bị cấm hoàn toàn. Hơn 40 năm qua, nguyên tắc này đã tạo nền tảng cho tự do hoá thương mại hàng hoá trên khắp thế giới với một tốc độ không thể ngờ được. Hiệp định GATS cũng chứa đựng nguyên tắc này: "Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi hiệp định này, mỗi nước Thành viên sẽ phải dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước Thành viên nào sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương tự của một nước bất kỳ một cách ngay lập tức và vô điều kiện". Nghĩa vụ này được áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, ở tất cả các ngành, cho dù đã có cam kết cụ thể hay chưa. Nguyên tắc MFN có mục tiêu đạt được mức độ tự do hoá thành công như đối với thương mại hàng hoá, thông qua việc áp dụng nguyên tắc này đối với càng nhiều nước càng tốt và trên tất cả các ngành dịch vụ. Các nước Thành viên dành cho nhau những nhượng bộ thương mại không phải dựa trên các đánh giá hẹp theo từng ngành mà dựa trên cơ sở lợi ích thương mại tổng thể trên các ngành và cho tất cả các nước. Một số người e rằng điều này sẽ khuyến khích một số kẻ ăn theo một cách không công bằng, ví dụ như sẽ có một số nước chỉ hưởng lợi từ các nhượng bộ mà không có những nhượng bộ đáp lại, nhưng trên thực tế, nguyên tắc MFN rất hữu hiệu trong thúc đẩy tự do hoá. Do đó, điều quan trọng là nguyên tắc không phân biệt đối xử hàm chứa trong MFN phải là cốt lõi của bất kỳ biện pháp đa phương nào để đạt tới tự do hoá. Gần đây, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp WTO đã giải thích nghĩa vụ MFN là không những các quy định không được phép tạo ra sự đối xử phân biệt đối xử

Page 21: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 21 -

trong văn bản(ví dụ như sự phân biệt đối xử được quy định cụ thể trong các luật lệ) mà còn không được phép tạo ra sự phân biệt đối xử trên thực tế (sự phân biệt đối xử bắt nguồn từ những quy tắc hay biện pháp mà về mặt hình thức không có sự phân biệt đối xử). Có được phép đưa ra miễn trừ đối với quy tắc MFN không? GATS có điều khoản về khả năng miễn trừ trong việc áp dụng nghĩa vụ MFN. Điều khoản này cho phép các Thành viên có sự linh hoạt trong phát triển quan hệ thương mại song phương, đồng thời vẫn bảo toàn được nguyên tắc chung là không được phân biệt đối xử giữa những người nước ngoài. Phụ lục về Miễn trừ MFN của Hiệp định GATS chỉ cho các Thành viên một cơ hội duy nhất để đưa ra các miễn trừ đối với nghĩa vụ MFN trước khi Hiệp định này có hiệu lực. Cách thức áp dụng ngoại lệ này sẽ được mô tả trong Danh mục Miễn trừ MFN của từng nước, nêu rõ những nước nào được hưởng chế độ đối xử ưu đãi hơn và chỉ rõ thời hạn ưu đãi. Về nguyên tắc, một ngoại lệ sẽ không kéo dài quá 10 năm, và sẽ phụ thuộc vào đàm phán trong tương lai. Cứ 5 năm một lần, các nước sẽ rà soát lại những điều kiện tạo nên sự cần thiết phải đưa ra ngoại lệ đó. Vì hiện nay Hiệp định GATS đã có hiệu lực nên các nước Thành viên sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi xin áp dụng ngoại lệ. Ngoại lệ đó phải được từ 3/4 tổng số Thành viên trở lên thông qua, đồng thời, cơ sở pháp lý cho sự đối xử phân biệt này sẽ được xem xét lại hàng năm theo thủ tục bãi miễn. Các nước gia nhập WTO trong tương lai cũng sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất như các nước đã tham gia Vòng đàm phán Uruguay để áp dụng các ngoại lệ MFN. Những điều kiện tương tự như trong Vòng Uruguay sẽ được áp dụng và các nước sẽ đàm phán các ngoại lệ MFN với danh nghĩa là một phần trong đàm phán các cam kết cụ thể của họ. Điều quan trọng là, tất cả các cam kết mô tả trong danh mục của từng quốc gia phải được áp dụng trên cơ sở MFN. Một ngoại lệ MFN sẽ không cho phép một nước dành cho những nước nhất định sự đối xử kém ưu đãi hơn mức quy định trong Danh mục cam kết của nước đó. Nó chỉ cho phép nước này dành đối xử ưu đãi hơn mức quy định trong Danh mục cam kết cho một số Thành viên hay quốc gia nêu trong ngoại lệ. Minh bạch Minh bạch là nguyên tắc chìa khoá để tiến tới tự do hoá đa phương. Nguyên tắc này giúp các Thành viên và các doanh nghiệp xác định được những hạn chế và bảo hộ. Các nghĩa vụ cơ bản của nguyên tắc này là việc ấn bản và thông báo nhanh chóng, duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát pháp lý một cách công bằng. "Tất cả những biện pháp được áp dụng rộng rãi có liên quan hay ảnh hưởng đến việc thực hiện Hiệp định GATS" phải được công bố nhanh chóng và "chậm nhất là vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực". Kể cả ở những lĩnh vực của một chính phủ thuộc "Các Hiệp định quốc tế có liên quan hay tác động đến thương mại dịch vụ" thì chính phủ đó vẫn có nghĩa vụ thông báo. Việc công bố các quy định này có thể diễn ra ở bất kỳ đâu, bằng bất kỳ biện

Page 22: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 22 -

pháp nào, kể cả những biện pháp do chính quyền cấp địa phương hay cấp vùng đưa ra. Ngoài nghĩa vụ công bố tất cả các biện pháp liên quan, các Thành viên còn có nghĩa vụ thông báo nhanh chóng, ít nhất là mỗi năm một lần cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về các luật lệ, quy định hay hướng dẫn hành chính mới (hay các thay đổi) trong các ngành và tiểu ngành đã có cam kết cụ thể. Các chính phủ cũng cam kết sẽ "nhanh chóng đáp ứng tất cả đòi hỏi về các thông tin cụ thể" của các chính phủ khác về những biện pháp trên, và sẽ thành lập các điểm hỏi - đáp. Những nguyên tắc tự do hoá cụ thể: đãi ngộ quốc gia, tiếp cận thị trường và quy định trong nước Mức độ tiếp cận thị trường dịch vụ một nước Thành viên GATS là kết quả của việc áp dụng hai nguyên tắc cơ bản. Các cam kết của từng nước Thành viên chỉ rõ hai nguyên tắc này được thực thi như thế nào trên lãnh thổ nước mình. Hai nguyên tắc đó là:

Đãi ngộ quốc gia: Nguyên tắc này quy định rằng một khi các công ty được phép xâm nhập thị trường theo những điều kiện quy định thì họ sẽ không bị phân biệt đối xử tại thị trường nội địa đó.

Tiếp cận thị trường: Nguyên tắc này cho phép các công ty nước

ngoài cung cấp các dịch vụ qua biên giới lãnh thổ của một nước khác mà không cần lập cơ sở ở nước đó, họ cũng có thể lập hiện diện thương mại và gửi các cán bộ chủ chốt đến các cơ sở tại nước ngoài của mình, và cũng có thể cung cấp dịch vụ ở nước mình cho những khác hàng không phải là công dân nước mình mà đến từ các nước khác.

ở những ngành có cam kết về tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia, bên cạnh các quy tắc cơ bản này, Hiệp định GATS nêu rõ rằng các quy định trong nước mà mỗi nước Thành viên áp dụng đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải được duy trì một cách công bằng, khách quan và hợp lý. Nói cách khác, các Thành viên không được áp đặt những gánh nặng phi lý hay không thích hợp với các công ty nước ngoài nhằm ngăn cản việc tiếp cận thị trường của các công ty này. Bảng dưới đây tóm tắt các điều khoản của GATS về các hình thức hạn chế thương mại khác nhau, tuỳ theo từng loại quy định (có phân biệt đối xử hay không) gây ra hạn chế. Hình thức hạn chế Hạn chế số lượng Hạn chế chất lượng Các quy định mang tính hạn chế

Quy định mang tính phân biệt đối xử

Tiếp cận thị trường Đãi ngộ quốc gia

Quy định không phân biệt đối xử

Tiếp cận thị trường Đãi ngộ quốc gia

Tính cân xứng của Quy định trong nước

Page 23: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 23 -

Rất nhiều dịch vụ được các chính phủ điều tiết để đảm bảo việc cung cấp diễn ra một cách có trật tự với mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng. Hiệp định GATS thừa nhận chủ quyền của các chính phủ Thành viên trong việc điều tiết các dịch vụ trong nước, do vậy, GATS chỉ chú trọng vào xây dựng quy định trong các lĩnh vực mà quy tắc trong nước có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ quốc tế. Thứ nhất, GATS đặt mục tiêu loại trừ sự phân biệt đối xử giữa người nước ngoài với nhau, giữa người nước ngoài với công dân trong nước. Thứ hai, GATS đưa ra mục tiêu tăng cường tính công khai (minh bạch). Điều khoản về quy định trong nước đưa ra các quy tắc đảm bảo các biện pháp trong nước được xây dựng một cách hợp lý, khách quan và công bằng. Những nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải được quyền kháng nghị lại các quyết định hành chính và phải được thông báo nêu như đơn xin cấp phép của mình bị từ chối. Khi việc cung cấp một dịch vụ đã có cam kết cụ thể là cần phải xin cấp phép, quyết định cho phép phải được đưa ra trong một khoảng thời gian hợp lý kể từ khi nhận được đơn xin cấp phép được coi là hoàn chỉnh theo quy định trong nước. Khi có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ cung cấp "thông tin liên quan đến tình trạng của đơn xin cấp phép". Đặc biệt, "những yêu cầu và thủ tục về khả năng, các tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu cấp phép" không được phép "tạo ra những hàng rào không cần thiết đối với thương mại dịch vụ". Hiệp định GATS dự kiến sẽ phát triển những quy tắc nhằm đảm bảo những yêu cầu đó phải: dựa trên các tiêu chuẩn khách quan và minh bạch, ví dụ như về khả năng và năng lực cung cấp dịch vụ; không đặt ra nhiều gánh nặng hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ; và thủ tục cấp giấy phép không được tạo ra một hạn chế đối với việc cung cấp dịch vụ. Đãi ngộ quốc gia (NT) Trong phạm vi một thị trường, Đãi ngộ quốc gia trong Hiệp định GATS chủ yếu hàm chứa ý nghĩa không phân biệt đối xử giữa người nước ngoài và trong nước. So với nghĩa vụ này trong thương mại hàng hoá theo GATT, hình thức Đãi ngộ quốc gia của GATS còn sâu rộng hơn vì nó bao trùm cả vấn đề người cung cấp dịch vụ, mặc dù chỉ dưới hình thức một cam kết cụ thể được đưa ra đàm phán. Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia phát biểu rằng "mỗi nước Thành viên sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một nước Thành viên nào khác sự đối xử trong tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ không kém ưu đãi hơn mức dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước mình". Do đó, Đãi ngộ quốc gia trong GATS áp dụng cho cả dịch vụ nhập khẩu và nhà cung cấp dịch vụ ngay tại thị trường. Có 3 mức độ xem xét, kiểm tra để đảm bảo không có sự phân biệt đối xử:

Page 24: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 24 -

(a) Các bên thừa nhận rằng không thể dành cho người nước ngoài sự đối xử giống hệt như mức dành cho công dân nước đó, nhưng điều này phải là thông lệ.

(b) Các bên thừa nhận rằng ngay cả trong những trường hợp nhà

cung cấp dịch vụ nước ngoài được hưởng sự đối xử pháp lý giống như mức dành cho những nhà cung cấp dịch vụ trong nước, cách đối xử hợp pháp này trên thực tế có thể gây bất lợi cho nhà cung cấp nước ngoài. Do vậy, "sự đối xử giống hệt về mặt hình thức hay sự đối xử khác biệt về mặt hình thức" đều được chấp nhận với điều kiện là không tạo ra sự đối xử "kém thuận lợi hơn".

(c) Nếu một cách đối xử bị nghi ngờ là không đáp ứng tiêu chuẩn

"không kém ưu đãi hơn", các bên sẽ tiến hành kiểm tra, sự đối xử "sẽ bị coi là kém ưu đãi hơn nếu nó làm thay đổi các điều kiện cạnh tranh theo hướng có lợi cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước Thành viên đó so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước Thành viên nào khác".

Do vậy, tiêu chuẩn xem xét là sự đối xử thực tế xuất phát từ việc áp dụng các biện pháp. Khái niệm này gần với "tính công bằng về cơ hội cạnh tranh" và khái niệm mới này là yếu tố thứ hai có tác dụng củng cố đáng kể nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia của GATS. Điều này hoàn toàn hợp lý vì đãi ngộ quốc gia trong dịch vụ có vai trò quan trọng hơn so với trong hàng hoá. Thương mại hàng hoá có xu hướng bị hạn chế tại biên giới2, trong khi đó, dịch vụ lại phụ thuộc nhiều hơn vào các quy định trong nước có tác động tới việc cung cấp dịch vụ tại thị trường nội địa. Nghĩa vụ không phân biệt đối xử đối với dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo GATS không được hiểu là yêu cầu một Thành viên phải bù đắp cho "bất kỳ bất lợi cố hữu nào trong cạnh tranh nảy sinh từ đặc tính nước ngoài của dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ có liên quan". Quy định này đề cập đến những tình huống mà công dân một nước không thích mua dịch vụ nước ngoài vì những lý do thuộc tâm lý cá nhân, văn hoá, chính trị, tôn giáo hay các lý do khác. Các ban hội thẩm của WTO chắc chắn sẽ diễn giải ngoại lệ này rất hẹp. Các chính phủ phải mô tả tất cả các điều kiện và tiêu chuẩn áp dụng đãi ngộ quốc gia trong danh mục cam kết của mình. Cột Đãi ngộ quốc gia trong một danh mục cam kết cụ thể được dành để mô tả mọi hạn chế chỉ mang tính phân biệt đối xử, trong khi đó những biện pháp tác động tới cả vấn đề tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia không thể tách rời nhau được sẽ được nêu trong cột Tiếp cận thị trường. Một khi các cam kết cụ thể đã được đưa ra, Hiệp định GATS cấm phân biệt đối xử giữa người trong nước với người nước ngoài và mọi hình thức hạn chế số lượng, trừ khi một nước đã bảo lưu quyền được duy trì áp dụng một biện pháp 2 Trọng tâm chính của NT đối với hàng hoá trong GATT là giảm thuế, cấm hạn chế số lượng nhập khẩu và bất kỳ loại thuế hay sự phân biệt đối xử nào khác sau khi đã nộp thuế hải quan)

Page 25: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 25 -

hạn chế nào đó. Về nguyên tắc, sự bảo lưu như vậy sẽ được dỡ bỏ trong các vòng đàm phán tiếp theo. Tiếp cận thị trường Điều khoản Tiếp cận thị trường đề cập tới 4 phương thức cung cấp, và quy định rằng một Thành viên "sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một nước Thành viên nào khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã quy định trong các điều khoản, điều kiện và hạn chế đã nhất trí và ghi rõ trong danh mục của mình". Quy định này ngăn chặn những trở ngại đối với việc tiếp cận thị trường và đảm bảo rằng những điều kiện giống nhau được áp dụng cho tất cả các dịch vụ và nhà cung cấp. Các lĩnh vực dịch vụ thường được điều tiết bởi các chế độ quy định phức tạp. Hiện trạng này tương đối khác với tình trạng của hàng hoá tức là các mức thuế quan đơn giản là công cụ bảo hộ chủ yếu. Điều này nói lên mong muốn của các bên xây dựng các khái niệm về tiếp cận thị trường và không ngừng tự do hoá ngay trong GATS, mặc dù một định nghĩa chính xác về các thuật ngữ này không được đưa ra. Không giống Hiệp định GATT đối với hàng hoá, Hiệp định GATS không đưa ra nghĩa vụ chung về việc dành quyền tiếp cận thị trường cho bất kỳ ai theo cả bốn phương thức cung cấp. Việc tiếp cận thị trường theo một cách thức nào đó sẽ tuỳ thuộc vào các cam kết cụ thể của một nước mô tả trong cột "Tiếp cận thị trường" trong danh mục cam kết của nước đó. Trong trường hợp này, một nước Thành viên có quyền đặt ra một số hạn chế về tiếp cận thị trường. Điều khoản tiếp cận thị trường liệt kê một danh sách đầy đủ và ngắn gọn các hạn chế như vậy, và tất cả các biện pháp mà các Thành viên áp dụng phải nằm trong giới hạn đã xác định đó. Những hạn chế số lượng và pháp lý bao gồm các hạn chế về:

số lượng người cung cấp dịch vụ,

tổng giá trị của giao dịch dịch vụ hay tài sản,

tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ đầu ra,

hạn chế về số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể,

phần trăm tham góp vốn của nước ngoài. và bất kỳ yêu cầu về những hình thức cụ thể về chủ thể pháp lý như giới hạn sự hiện diện chỉ ở mức độ chi nhánh hay liên doanh. Những biện pháp này không nhất thiết phải mang tính phân biệt đối xử về bản chất mới là trái với điều khoản về Tiếp cận thị trường. Thậm chí ngay cả nếu chúng được áp dụng với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước, những biện pháp này vẫn có tác dụng quản lý sự hiện diện của một nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Bốn biện pháp hạn chế số lượng đầu tiên có thể diễn ra dưới hình thức kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì Hiệp định GATS không quy định đưa ra định nghĩa về việc kiểm tra nhu cầu kinh tế hay chỉ ra những tiêu chuẩn để xem xét, việc áp dụng các biện pháp này có thể mang tính hạn chế và tuỳ tiện, dẫn đến việc tiếp cận thị trường trở nên khó dự đoán. Một nước sẽ được coi là cho phép tiếp cận thị trường hoàn toàn nếu như không đàm phán quyền được áp dụng bất kỳ hạn chế nào nêu trên. Lúc đó, nước này có thể ghi "không" vào cột Tiếp cận thị trường trong danh mục cam kết của

Page 26: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 26 -

mình, tức là không có hạn chế nào trong ngành dịch vụ đó. Nếu một hình thức tiếp cận thị trường cụ thể được một nước nêu trong danh mục cam kết của mình thì nó phải được áp dụng trên cơ sở MFN. Lúc đó, các nước sẽ không được phép điều chỉnh quy định của mình theo hướng gây khó khăn hơn cho việc tiếp cận thị trường theo bất kỳ cách nào. Mọi di chuyển vốn có liên quan đến việc cung cấp một dịch vụ đã được cho phép trong Danh mục quốc gia cũng phải được chấp thuận. Trong trường hợp cung cấp qua biên giới, mọi di chuyển vốn ra hay vào lãnh thổ một nước Thành viên phải được cho phép nếu như nó là một phần cốt yếu của dịch vụ cung cấp, ví dụ như trả tiền bảo hiểm. Trong trường hợp dịch vụ được cung cấp thông qua hiện diện thương mại, lượng vốn cần thiết để thiết lập hiện diện đó cũng phải được chấp thuận. Các điều kiện khác Hiệp định GATS đưa ra một số điều khoản bổ sung khác, nhằm hỗ trợ cho quá trình tự do hoá không ngừng mà hiệp định này đã khởi xướng. Nó đưa ra các quy tắc yêu cầu các Thành viên phải cho phép tiến hành thanh toán và chuyển tiền khi cho phép tiếp cận thị trường, hay phải cho phép các tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ được có mặt tạm thời tại thị trường. Các điều khoản khác cho phép được ký kết các hiệp định hội nhập kinh tế về tự do hoá thương mại dịch vụ, theo những điều kiện nhất định nhằm tránh bóp méo thương mại, phá vỡ tự do hoá đa phương, cho phép ký kết các hiệp định thừa nhận quy định lẫn nhau để sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn và chuẩn mực mà các chính phủ khác nhau áp dụng khi cấp giấy phép, chứng nhận và cho phép các dịch vụ không tạo ra các hàng rào đối với thương mại dịch vụ. Hiệp định GATS cũng chứa đựng một điều khoản miễn trừ chung cho phép các nước Thành viên được áp dụng những biện pháp vì mục tiêu chính sách công cộng hợp lý. Tuy nhiên, GATS không cho các Thành viên được tự do hoàn toàn áp dụng các biện pháp đó mà chúng phải được kiểm tra tính cân xứng và cũng không loại trừ đối với việc áp dụng các điều khoản giải quyết tranh chấp đối với các biện pháp này. GATS không cho phép một nước đơn phương điều chỉnh các cam kết của mình nếu như không đền bù hợp lý. Cuối cùng, Hiệp định GATS đưa ra giải thích rõ ràng về những điều khoản cụ thể gồm:

Các biện pháp tự vệ khẩn cấp, với thời hạn cuối cùng của các biện pháp này là tháng 6/1999,

Mua sắm của chính phủ - trừ trường hợp các dịch vụ tài chính đối với những nước công nghiệp lớn ra thì quy tắc Đãi ngộ Quốc gia và Tối huệ quốc không áp dụng,

Trợ cấp.

Tham vấn và Giải quyết Tranh chấp

Page 27: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 27 -

Khi một công ty chịu sự đối xử bất bình đẳng hay mang tính phân biệt trái với các nghĩa vụ theo GATS của một nước thì công ty đó có thể phục hồi lại quyền lợi của mình như thế nào? GATS là một hiệp định ghi nhận các nghĩa vụ được thoả thuận giữa các chính phủ thành viên. Nếu một công ty đặt trụ sở tại EU thấy rằng một quy định, quyết định hành chính hay các hàng rào khác của một nước ngoài vi phạm nội dung của GATS hay mục tiêu tự do hoá của Hiệp định này, công ty đó cần báo cáo tình hình với chính phủ của mình hoặc Uỷ ban Châu Âu. Những nhà kinh doanh thuộc khu vực tư nhân không thể tiếp cận trực tiếp hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Một công ty hoặc một ngành có thể đưa các vấn đề mình thấy cần thiết phải giải quyết tranh chấp ra Uỷ ban Châu Âu, thông qua thủ tục quy định trong Quy chế Hàng rào Thương mại - TBR - (3286/94) có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Tuy nhiên, Thủ tục đưa ra TBR để mở điều tra hay yêu cầu WTO giải quyết tranh chấp lại phụ thuộc vào mức độ quan tâm của Cộng đồng Châu Âu. Do đó, khu vực tư nhân không thể tự quyết định có đưa một vấn đề thương mại ra Hệ thống Giải quyết Tranh chấp hay không. Các tranh chấp theo GATS là tranh chấp giữa các chính phủ, và nảy sinh khi một Thành viên thấy rằng một Thành viên khác không tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo GATS và WTO, kể cả về mặt thủ tục hay trên thực tế. "Thoả thuận WTO về Quy tắc và Thủ tục Điều chỉnh về Giải quyết Tranh chấp" (DSU) áp dụng cho tất cả các tranh chấp theo GATS. DSU chứa đựng những quy tắc cụ thể về thủ tục và thời gian tiến hành từng bước trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mục tiêu cơ bản của quy trình này là đạt được một giải pháp đối với tranh chấp làm tất cả các bên hài lòng thông qua tham vấn giữa các Thành viên có quan tâm. Các quyền và nghĩa vụ theo WTO xác định mức độ tiếp cận thị trường, như đã được các nước thành viên thoả thuận. Việc không tôn trọng một cam kết sẽ làm mất đi sự cân bằng này. Do vậy, mục tiêu đầu tiên là tìm một giải pháp tái tạo lại sự cân bằng mà các bên đã đàm phán. Nếu như các bên không nhất trí được với nhau về một giải pháp, Thành viên khiếu kiện có thể yêu cầu thành lập một ban hội thẩm, thông thường gồm ba người, có đủ năng lực, thuộc khu vực chính phủ cũng như phi chính phủ. Ban Thư ký có lưu một danh sách các hội thẩm viên do các Thành viên đề xuất. Các hội thẩm viên được chọn trong một tranh chấp phải có "chuyên môn cần thiết về các ngành dịch vụ cụ thể" trong trường hợp tranh chấp đó. Ban Hội thẩm sẽ xem xét vụ việc trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của các bên xuất phát từ Hiệp định GATS. Có hai dạng tình huống được xác định rõ là:

(a) Một nước Thành viên không thực hiện các nghĩa vụ hay các cam kết cụ thể của mình (gọi là trường hợp vi phạm), và

(b) Một biện pháp không trái với các điều khoản của GATS, song

một nước Thành viên lại thấy rằng nó làm vô hiệu hoá hay tổn

Page 28: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 28 -

hại tới những lợi ích mà nước đó trông đợi một cách hoàn toàn hợp lý từ một cam kết cụ thể (gọi là trường hợp không vi phạm).

Thông thường, Ban Hội thẩm có 6 tháng để đưa ra một báo cáo, trong đó có thể bao gồm cả các khuyến nghị với các bên. Để thực hiện mục tiêu này, ban hội thẩm phải cộng tác chặt chẽ với các bên tranh chấp, và có thể yêu cầu các thông tin cũng như xin tư vấn từ các quốc gia. Để đảm bảo sự công bằng và khách quan, những nghiên cứu chi tiết của ban hội thẩm được giữ bí mật. Các báo cáo của Ban hội thẩm cần phải được Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) thông qua thì mới có tính ràng buộc. Những khuyến nghị và phán quyết mà DSB đưa ra phải nhằm mục tiêu đạt được một giải pháp thoả đáng đối với vấn đề tranh chấp. Các Thành viên được khuyến nghị điều chỉnh những biện pháp và quy định không tuân thủ cho phù hợp với các nghĩa vụ của mình theo GATS. Nếu như một Thành viên không thực hiện khuyến nghị này trong một thời gian hợp lý, bất kỳ một bên nào cũng có thể yêu cầu đàm phán nhằm đạt được sự điều chỉnh thoả đáng thông qua bồi thường, ví dụ như bằng cách đưa ra một cam kết mới khác. Nếu các bên không nhất trí được về một sự bù đắp thoả đáng trong một thời hạn nhất định, bên khiếu kiện có thể yêu cầu DSB cho phép ngừng những nhượng bộ trước đây dành cho bên vi phạm. Mức độ ngừng các nhượng bộ mà DSB cho phép phải tương ứng với mức độ thiệt hại, và chỉ được tiếp tục cho đến khi biện pháp đang tranh cãi đã được điều chỉnh cho phù hợp. Vai trò của DSB là giám sát việc ngừng các nhượng bộ để đảm bảo rằng chúng không được đưa ra một cách tuỳ tiện, và không bên nào đưa ra các hành động đơn phương. Mục đích của việc ngừng các nhượng bộ là tái lập lại sự cân bằng về lợi ích giữa các nước Thành viên chứ không phải là một biện pháp trừng phạt thương mại. Trước tiên, một nước Thành viên nên ngừng các nhượng bộ trong lĩnh vực tranh chấp. Trong chừng mực mà điều này là không thể, nước này có thể tuỳ chọn ngừng các nhượng bộ trong bất kỳ lĩnh vực nào khác. Hành động này được hiểu là trả đũa chéo. Theo đó, nếu một Thành viên vi phạm các quyền theo GATS của mình, nhưng việc trả đũa nước này theo Hiệp định GATS là không thực tế hoặc không có hiệu uqả, các nước có thể ngừng các nhượng bộ theo Hiệp định GATT hoặc TRIPS. Tương tự như vậy, các bên có thể trả đũa trong phạm vi GATS. Trong chừng mực có thể, việc trả đũa không nên làm rối loạn những quyền của các nhà cung cấp dịch vụ đã tiếp cận thị trường trước đó. Để đảm bảo giải quyết hiệu quả các tranh chấp, DSB bắt các bên phải tuân thủ nhanh chóng những khuyến nghị và phán quyết của mình. Sử dụng biện pháp đền bù và ngừng (rút bỏ) nhượng bộ chỉ được coi là phương sách cuối cùng. Các Thành viên có quyền đệ đơn kháng nghị chống lại quyết định của Ban hội thẩm lên Cơ quan Kháng nghị thường trực, quyết định của cơ quan này là chung thẩm. Đó là một đặc điểm mới của WTO mà GATT 1947 không có. Hoạt động của Hệ thống Giải quyết Tranh chấp của WTO

Page 29: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 29 -

Củng cố hệ thống giải quyết tranh chấp WTO là một trong những mục tiêu chính của Cộng đồng châu Âu trong Vòng đàm phán Uruguay. Việc thiết lập một hệ thống như vậy thông qua việc đưa các điều khoản thích hợp vào các hiệp định của Vòng Uruguay và đặc biệt là cho ra đời DSU được coi là một thành công lớn của vòng đàm phán này. Nhưng trên thực tế hệ thống này đã hoạt động như thế nào? Nó có đáp ứng được những kỳ vọng về một hệ thống giải quyết tranh chấp có hiệu quả hơn, tạo ra sự an toàn pháp lý, ngăn chặn các rắc rối thương mại và thu hút các nước Thành viên giải quyết tranh chấp của mình bằng hệ thống này mà không sử dụng các biện pháp đơn phương hay không? Cho đến nay, chúng ta có thể nói rằng hoạt động của Hệ thống Giải quyết Tranh chấp mới là một thành công. Biểu hiện rõ nhất của thành công này là các thành viên WTO đã sử dụng hệ thống này một cách rộng rãi. Trong khi con số các tham vấn giải quyết tranh chấp theo hệ thống cũ trung bình là 6 vụ một năm và chưa đến 3 ban hội thẩm được thành lập mỗi năm thì một số lượng lớn các tranh chấp (trên 120 vụ) đã được đưa ra trong khuôn khổ Thủ tục Giải quyết Tranh chấp mới. Hơn 20 ban hội thẩm đã được thành lập, và các báo cáo đã đưa ra cũng được đưa lên Cơ quan Kháng nghị, cơ quan này cũng đã có phán quyết trong một số vụ việc. Thực tiễn mới chỉ khoảng 20 vụ việc (chiếm khoảng một nửa) đi tới giai đoạn thành lập ban hội thẩm phải được gắn với thực tiễn là một số lượng lớn các vụ việc đã được giải quyết thông qua biện pháp hoà giải sau khi đã khởi động các thủ tục giải quyết. Một dấu hiệu khác cho thấy các nước tin tưởng vào hệ thống này trong giải quyết các rắc rối thương mại và quan tâm đến hoạt động của hệ thống này là cho đến nay, tất cả các bên thua kiện trong giải quyết tranh chấp đều bày tỏ ý định tuân thủ các phán quyết của cơ quan kháng nghị. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nếu chúng ta xét đến thực tế là hầu hết những bên liên quan trong các vụ việc giải quyết tranh chấp, kể cả là bên đi kiện và bên bị kiện, đều là những quốc gia thương mại lớn. Sự tồn tại của một Cơ quan Kkháng nghị để các bên có thể kháng nghị lại những diễn giải pháp lý của ban hội thẩm là một trong những điểm tích cực nhất của hệ thống mới. Các quyết định của Uỷ ban này cho đến nay vẫn được đánh giá là chấp nhận được. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có vụ việc cụ thể nào "chỉ thuần tuý liên quan đến GATS" được đưa ra hệ thống Giải quyết Tranh chấp tới Cơ quan Kháng nghị, do vậy, vẫn còn quá sớm để đánh giá những ảnh hưởng pháp lý của các luật lệ của GATS. Tuy nhiên, đã có một vụ việc rất có ý nghĩa về GATT, GATS và các hoạt động WTO khác mà GATS có ảnh hưởng rộng, liên quan đến chế độ nhập khẩu chuối của EU. Cơ quan khuyến nghị đã đi đến hai kết luận có liên quan và có ảnh hưởng đến các vụ việc về GATS trong tương lai:

(1) GATT - GATS chồng chéo: Cơ quan Kháng nghị kết luận rằng bất kỳ biện pháp nào có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ đều nằm trong phạm vi của GATS, và chính bản chất cụ thể của mỗi

Page 30: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 30 -

biện pháp sẽ quyết định việc GATT và GATS có áp dụng đồng thời hay không.

(2) Những nhà kinh doanh chuối là nhà cung cấp dịch vụ. Cơ quan

Kháng nghị kết luận rằng bất kỳ nhà kinh doanh nào có tham gia cung cấp dịch vụ bán buôn và sau đó bán lại hàng hoá là một nhà cung cấp dịch vụ theo Hiệp định GATS, ngay cả trong trường hợp chỉ xem xét đến hoạt động mua hàng nhập khẩu của họ. Điều này có nghĩa là các cam kết về dịch vụ phân phối phát huy chức năng vì hàng hoá có liên quan chặt chẽ đến ngành phân phối.

Các hành động đơn phương của các chính phủ Một trong những mục tiêu cơ bản của các cuộc đàm phán trong Vòng Uruguay là củng cố hệ thống thương mại đa phương. Vì vậy, các nước Thành viên nhất trí sẽ giải quyết tranh chấp (về các vấn đề thuộc phạm vi của WTO) chỉ thông qua Thủ tục Giải quyết Tranh chấp đa phương. Trong điều khoản 23, DSU quy định rõ ràng là một Thành viên sẽ không đơn phương:

kết luận rằng một Thành viên khác vi phạm những nghĩa vụ WTO của mình, hoặc

tự quyết định mức độ thiệt hại,

thông báo ý định trả đũa của mình, hoặc trên thực tiễn áp dụng các biện pháp trừng phạt.

Như vậy, một hoạt động đơn phương liên quan đến việc thực thi các nghĩa vụ WTO là vi phạm luật. Việc bắt buộc thực thi chỉ có thể thông qua các thủ tục đa phương.

Page 31: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 31 -

Các lĩnh vực

Page 32: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 32 -

GATS áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ Danh mục phân loại chuẩn có 11 ngành lớn, mỗi ngành lại chia thành một số tiểu ngành: 1. Dịch vụ kinh doanh

Các dịch vụ nghề nghiệp, bao gồm các dịch vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán, kiến trúc, bất động sản, y tế nha khoa, thú y và các dịch nghề nghiệp khác.

Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan, dịch vụ nghiên cứu và phát triển, bất động sản cho thuê.

Các dịch vụ kinh doanh khác như tư vấn quản lý, quảng cáo, thử nghiệm kỹ thuật, bảo dưỡng sửa chữa, đóng gói in ấn, tổ chức hội nghị, vệ sinh.

2. Dịch vụ liên lạc

Tất cả các dạng dịch vụ viễn thông cơ bản và gia tăng giá trị kể cả thông tin trực tuyến và xử lý dữ liệu.

Dịch vụ bưu chính và chuyển phát.

Dịch vụ nghe nhìn : dịch vụ phát thanh, phát hình, dịch vụ sản xuất và phân phối băng hình, liên lạc vệ tinh.

3. Dịch vụ xây dựng và thi công 4. Dịch vụ phân phối, kể cả bán lẻ, bán buôn và thuê mua 5. Dịch vụ giáo dục 6. Dịch vụ môi trường: như dịch vụ thoát nước, vệ sinh và xử lý chất thải 7. Dịch vụ tài chính

Bảo hiểm trực tiếp, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ bảo hiểm hỗ trợ khác,

Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác kể cả các dịch vụ liên quan đến chứng khoán, cung cấp thông tin tài chính và quản lý tài sản.

8. Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và dịch vụ xã hội

GATS bao gồm những lĩnh vực nào?

Page 33: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 33 -

9. Dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành 10. Dịch vụ giải trí, văn hoá và thể thao kể cả dịch vụ giải trí và thông tấn 11. Dịch vụ vận tải Kể cả dịch vụ vận tải đường biển, đường sông, đường bộ, hàng không, vũ trụ, vận tải đường ống, vận tải đa phương thức, các dịch vụ hỗ trợ cho tất cả các phương thức vận tải. 12. Các dịch vụ khác Mảng này bao gồm bất kỳ các loại hình dịch vụ nào chưa được nêu ở trên. Trong mảng này có vận chuyển và phân phối năng lượng và các dịch vụ khác liên quan đến năng lượng, mặc dù chúng cũng có thể một phần thuộc về các mảng dịch vụ phân phối, vận tải, môi trường và các dịch vụ kinh doanh khác.

Dịch vụ kinh doanh bao gồm nhiều loại hoạt động thiết yếu đối với các công ty để hoạt động tốt trong môi trường kinh doanh hiện nay. Dịch vụ này gồm các dịch vụ như tư vấn máy tính, xử lý dữ liệu, lắp đặt phần cứng và phần mềm máy tính, nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, tiếp thị, tư vấn quản lý, sắp đặt và tuyển dụng nhân sự, vệ sinh, in ấn và xuất bản. Dịch vụ nghề nghiệp cũng thuộc về dịch vụ kinh doanh nói chung, mặc dù các dịch vụ này có những đặc tính riêng. Các dịch vụ này được điều tiết một cách chặt chẽ hơn các dịch vụ kinh doanh khác, đặc biệt là về mặt đòi hỏi trình độ để một cá nhân được hành nghề và tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt. Do tính đa dạng nên rất khó có thể khái quát hoá về các dịch vụ này nhưng nhìn chung các dịch vụ này chiếm khoảng 20% kim ngạch thương mại quốc tế về dịch vụ của EU và trong vài năm gần đây đã tăng thêm cùng với đà tăng trưởng chung của thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Các dịch vụ kinh doanh chung Trong số các dịch vụ "doanh nghiệp với doanh nghiệp" này, nhiều loại thường không có quy định chi tiết của chính phủ và khả năng các công ty Châu Âu cung cấp các dịch vụ này ra nước ngoài thường phụ thuộc vào chế độ chung về đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Các dịch vụ này quan trọng ở chỗ chúng có khả năng tạo ra việc làm và thường có tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế. Các dịch vụ liên quan đến ứng dụng và vận hành thông tin tỏ ra đặc biệt hiệu quả khi công nghệ thông tin đang lớn mạnh trên khắp thế giới. Dịch vụ kinh doanh cũng được hưởng lợi khi

Dịch vụ kinh doanh, kể cả dịch vụ nghề nghiệp

Page 34: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 34 -

các cơ quan chính phủ và các công ty có chiều hướng gia tăng hợp đồng về dịch vụ. Với mức độ mà các thành viên GATS đã cam kết đối với các ngành dịch vụ này các điều kiện ngày càng tỏ ra thông thoáng hơn. Tuy nhiên mặc dù nhiều hoạt động kinh doanh của các dịch vụ này không bị điều tiết mạnh như các ngành dịch vụ khác, nhiều nước chưa có cam kết thích đáng theo tinh thần Hiệp định. Đây là một lĩnh vực các công ty châu Âu thuộc loại dẫn đầu thế giới. Việc đảm bảo cho các công ty châu Âu có thể đầu tư và kinh doanh trong một môi trường ổn định và dự báo được là rất quan trọng. Xét thực lực của Châu Âu và tầm quan trọng của ngành này, vòng đàm phán của GATS tiếp theo chác chắn cần phải nhiều chú ý hơn nữa cho các hoạt động này. Dịch vụ nghề nghiệp Tự do hoá dịch vụ nghề nghiệp nói chung quan trọng đối với công nghiệp Châu Âu vì các hoạt động này bao trùm hàng loạt yếu tố thiết yếu với sự vận hành của nền kinh tế hiện đại của bất kì nước nào. Các dịch vụ này gồm có dịch vụ pháp lí, kế toán và kiểm toán, kiến trúc và thi công, y tế và các ngành dịch vụ liên quan. Có nhiều luật lệ tác động đến các dịch vụ nghề nghiệp. Chính quyền các nước từ trung ương đến địa phương, các tổ chức và hiệp hội nghề nghiệp đều coi trọng việc quy định tiêu chuẩn trình độ và kinh nghiệm của các cá nhân và cơ cấu của các ngành nghề. Mặc dù cơ sở của nhiều quy định là nhằm bảo hộ người tiêu dùng và quyền lợi chung, nhưng nhiều điều kiện đặt ra đối với các ngành nghề thực sự là rào cản cho thương mại quốc tế. Điều kiện quốc tịch là một ví dụ điển hình của loại hạn chế này vì điều kiện đó đóng cửa thị trưòng hoàn toàn đối với nhân công nước ngoài. Nhưng các quy định khác cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhà cung cấp dịch vụ của EU muốn làm ăn ở nước ngoài. Ngay cả khi một Thành viên GATS đã dành đãi ngộ quốc gia cho nhân công nước ngoài, thị trường dịch vụ vẫn có thể bị đóng kín vì các quy chế cấp phép và tuyển chọn mang nặng tính quốc gia làm cho người nước ngoài gần như không thể đáp ứng được. Với những quy định về dịch vụ nghề nghiệp chặt chẽ như vậy, việc tự do hoá lĩnh vực này tỏ ra khó khăn hơn các lĩnh vực khác. Do đó, GATS cho phép các thành viên được ký các hiệp định công nhận lẫn nhau giữa hai bên hoặc nhiều bên nhằm khuyến khích và thúc đẩy sự di chuyển nhân công và nhà cung cấp dịch vụ giữa các nước (Điều VII của GATS). Các hiệp định đó cho phép các nước công nhận bằng cấp và trình độ của nhau nên người lao động không phải sát hạch lại khi họ muốn làm ăn ở một nước khác. Sự ngoại lệ đối với nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) này cho thấy nhu cầu phải xử lý các rào cản pháp lý làm cản trở thương mại quốc tế về dịch vụ nghề nghiệp. Vòng đàm phán Urugoay đã nhận thấy việc thiếu một quy tắc đa phương rành mạch về các quy định nghề nghiệp nên đã lập ra một Nhóm công tác về Dịch vụ nghề nghiệp. Nhóm công tác này rà soát chi tiết các quy định của chính phủ có tác động đến khả năng thương mại của dịch vụ nghề nghiệp, ví dụ các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện xâm nhập thị trường. Để có một minh chứng cụ thể, công việc bắt đầu tập trung vào ngành kế toán. Nhóm công tác đã vạch ra

Page 35: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 35 -

định hướng cho các thành viên GATS đang muốn tham gia các hiệp định công nhận lẫn nhau và tiếp tục đề ra các quy tắc cơ bản điều tiết ngành kế toán. Công tác này dựa theo Điều 6 của GATS.

Viễn thông Viễn thông là một trong những ngành dịch vụ lớn nhất và phát triển nhanh nhất, đóng vai trò vừa là một dịch vụ liên lạc, vừa là một phương tiện nền tảng để chuyển tải nhiều loại hình dịch vụ khác về mặt điện tử. Đây là ngành đặc biệt quan trọng đối với mọi nhà xuất khẩu dịch vụ liên quan đến dịch vụ này trong quá trình sản xuất và cung cấp loại hình dịch vụ của họ. Hiện nay, thị trường dịch vụ viễn thông ước tính khoảng 600 tỷ USD. EU là một nhà xuất khẩu lớn về dịch vụ viễn thông. Doanh thu viễn thông của EU chiếm vào khoảng 28% tổng doanh thu viễn thông thế giới. Năm 1995, số giao dịch của EU với phần còn lại của thế giới lên đến 12.503 ECU đối với dịch vụ liên lạc và 13.190 ECU đối với dịch vụ máy tính và thông tin. Thị trường dịch vụ viễn thông thế giới dự kiến tăng gấp đôi thậm chí gấp ba trong thập kỷ tới. Doanh số phát sinh từ mạng vào năm 2001 dự tính đạt 1.000 tỷ USD. Phụ lục về viễn thông Phụ lục này của GATS đặt ra những quy tắc về viễn thông, đề cập đến các biện pháp có ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ và mạng viễn thông công cộng. Phụ lục này không tính đến các biện pháp tác động đến phát thanh, phát hình hoặc truyền hình cáp. Phụ lục không buộc các nước Thành viên phải cho phép các hãng được cung cấp dịch vụ và thiết bị viễn thông. Nhưng các nước Thành viên phải đảm bảo rằng các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cũng có thể kinh doanh các hệ thống và dịch vụ công cộng một cách hợp lý và không bị phân biệt đối xử cả ở trong và ngoài nước. Điều này bao gồm cả thiết bị kết nối, việc kết nối các mạch riêng, chọn giao thức điều hành. Cần cho thông tin lưu chuyển tự do, kể cả thông tin trong nội bộ doanh nghiệp hay việc truy cập đến cơ sở dữ liệu. Các nước có thể đưa ra hướng dẫn chi tiết ở mức độ chấp nhận được về điều kiện và tiêu chí truy cập và sử dụng. Về nghĩa vụ công khai, cần phải công bố thông tin về chi phí, giao diện kỹ thuật, tiêu chuẩn, điều kiện cho thiết bị đi kèm cũng như yêu cầu về đăng ký. Hợp tác kỹ thuật và việc đề ra tiêu chuẩn quốc tế cho tính tương thích toàn cầu đều được khuyến khích. Phụ lục về viễn thông được áp dụng khi một nước Thành viên đưa ra cam kết về cung cấp dịch vụ trong một ngành (trong bất cứ ngành nào, kể cả viễn thông).

Dịch vụ liên lạc

Page 36: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 36 -

Nghị định thư thứ tư của GATS về Dịch vụ Viễn thông Cơ bản Trong GATS, viễn thông được chia làm hai mảng lớn: dịch vụ cơ bản (điện thoại, truyền dữ liệu cả gói và chuyển mạch, telex, điện báo, fax, mạch thuê bao) và dịch vụ giá trị gia tăng (thư điện tử, thư thoại, truy cập cơ sơ dữ liệu và thông tin trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển đổi mã và giao thức). Do kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, đa số các nước đã có các cam kết về các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, nhưng chỉ một số nước đưa dịch vụ viễn thông cơ bản vào bản cam kết của mình. Một quyết định về đàm phán dịch vụ viễn thông cơ bản đã được nhất trí vào thời gian đó nhằm tự do hoá mạnh mẽ và toàn diện thương mại trong dịch vụ viễn thông không trừ một khía cạnh nào. Một nhóm đàm phán về viễn thông cơ bản được thành lập để theo dõi quá trình đàm phán này. Quá trình đàm phán về viễn thông cơ bản kết thúc ngày 15/2/1997, muộn hơn dự định ban đầu (30/4/1996) mười tháng. 69 nước chiếm hơn 93% doanh số thế giới về dịch vụ viễn thông đã có cam kết trong hầu hết các tiểu ngành viễn thông cơ bản. Sự kiện này sẽ làm công nghiệp dịch vụ viễn thông với giá trị khoảng 600 tỷ USD sẽ tăng gấp đôi thậm chí gấp ba trong vài năm tới. Việc kết thúc đàm phán đã được ghi nhận trong Nghị định thư thứ tư của GATS về dịch vụ viễn thông cơ bản, có hiệu lực từ ngày 5/2/1998. Nghị định thư thứ tư của GATS đề cập đến tất cả các tiểu ngành của dịch vụ viễn thông: nội hạt, đường dài và quốc tế, bất kể đó là sự truyền âm, dữ liệu, hình ảnh hay tổ hợp của chúng. Nhìn chung cam kết của các nước WTO về viễn thông cơ bản bao gồm mọi phương thức có thể được về mặt kỹ thuật: cáp, sóng hoặc vệ tinh. Đa số các nước đã nêu trong bản cam kết của mình là các chương trình phát thanh, phát hình đều được loại trừ không cam kết (thông qua các ghi chú đầu trang, cuối trang hoặc tham chiếu cụ thể đến cam kết chung trong bản cam kết). Một văn bản của Chủ tịch vòng đàm phán nêu rõ các bản cam kết, trừ khi quy định khác, sẽ mang tính "trung hoà về mặt kỹ thuật" (tức là bất kỳ dịch vụ viễn thông cơ bản nào đã được cam kết cũng có thể được cung cấp thông qua bất kỳ phương thức kỹ thuật nào - cáp, không dây hay vệ tinh). Các cam kết của 69 nước trong Nghị định thư thứ tư về dịch vụ viễn thông cơ bản đề cập đến tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia, tuỳ theo mức phát triển của mình. Cam kết tiếp cận thị trường của đa số các nước đều thực hiện dần dần, thời hạn tự do hoá các dịch vụ như điện thoại công cộng khác nhau giữa các nước từ 1998 đến 2011. Chín nước đưa ra ngoại lệ với nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) của GATS. Đa số các ngoại lệ này nhằm bảo lưu khả năng duy trì giá cước khác nhau đối với liên lạc quốc tế. Tuy nhiên, các ngoại lệ MFN khác (như Hoa kỳ và Brazil nêu ra) lại nhằm bảo vệ một vài dịch vụ viễn thông cụ thể: dịch vụ dựa trên vệ tinh. 48 nước thành viên WTO có cam kết bổ sung về các nguyên tắc định hướng trên cơ sở của "Tài liệu tham khảo" - một văn bản không ràng buộc với các nguyên tắc về vấn đề kết nối, chống cạnh tranh, điều kiện cấp phép, tài nguyên hiếm, dịch vụ phổ thông và tính độc lập với các nhà chức trách. Các nguyên tắc này chỉ là đại cương để có thể dễ dàng phù hợp với các chế độ chính trị khác

Page 37: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 37 -

nhau trên thế giới. Chúng hỗ trợ cho các cam kết tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia của các Thành viên WTO. Trong quá trình đàm phán, một "văn bản của chủ tịch" nêu rõ khả năng của các nước Thành viên WTO duy trì chính sách về quản lý tần số. Đặc biệt, văn bản chỉ ra rằng quản lý tần số không phải là một biện pháp bị coi là hạn chế tiếp cận thị trường. Do đó, một nước Thành viên WTO có quyền thực hiện quản lý tần số với điều kiện việc quản lý đó phải phù hợp với các tiêu chí của Điều 6 (Quy định trong nước) của GATS. Điều này bao gồm cả khả năng phân bổ dải tần không chỉ dựa trên nhu cầu hiện tại mà cả tương lai. Ngày 15/2/1997, một bản ghi nhớ đã được ký kết giữa các Thành viên Nhóm Viễn thông Cơ bản, theo đó, việc tính cước theo Quy định Viễn thông Quốc tế sẽ không dẫn đến hành động giải quyết tranh chấp. Bản ghi nhớ này sẽ được xem xét lại trước khi bắt đầu vòng đàm phán mới về dịch vụ trong thời gian tới. Nghị định thư thứ tư của GATS cũng như những cam kết và ngoại lệ MFN của các nước Thành viên WTO về dịch vụ viễn thông cơ bản đều có hiệu lực từ ngày 5/2/1998. 57 trong số 69 nước thành viên WTO có cam kết về viễn thông cơ bản đã phê chuẩn Nghị định thư và 5 nước đã chấp nhận Nghị định thư bằng phê chuẩn hoặc bỏ phiếu. Thời hạn chấp nhận Nghị định thư đã kéo dài đến 31/7/1998 thay vì 30/11/1997 như dự định ban đầu để các nước kịp thời phê chuẩn. Dịch vụ bưu chính và chuyển phát Dịch vụ bưu chính gồm thư từ, bưu phẩm, bưu cục và "các dịch vụ bưu chính khác", kể cả "hòm thư lưu" và các dịch vụ bưu chính công cộng không được đề cập ở mục nào khác. Các dịch vụ như tiết kiệm bưu điện không được tính vào đây vì chúng thuộc về dịch vụ trung chuyển tiền tệ. Cho đến nay, dịch vụ chuyển phát vẫn được mô tả trong Bản phân loại các sản phẩm trung tâm (CPC) của Liên hợp quốc như các dịch vụ thu gom, vận chuyển và giao nhận thư từ, bưu phẩm, bưu kiện, cho dù nơi nhận là ở trong nước hay nước ngoài, do một hẵng chuyển phát thực hiện và sử dụng một hoặc nhiều phương tiện vận tải không thuộc hệ thống bưu chính quốc gia. Các dịch vụ này có thể sử dụng phương tiện vận tải sở hữu riêng hoặc công cộng. Dịch vụ chuyển phát thư bằng hàng không được xếp vào mục vận chuyển thư bằng hàng không. Hai ngành dịch vụ có liên quan này đang thay đổi rất nhanh trong bối cảnh bưu điện quốc gia ngày càng giảm bớt sự độc quyền của mình. Đây là một lĩnh vực các cuộc đàm phán tương lai cần quan tâm, vì mới chỉ một số ít các nước đã có cam kết trong hai ngành dịch vụ này theo bốn phương thức cung cấp dịch vụ. Về phía Liên hiệp Châu Âu, việc thông qua một chỉ thị giảm bớt đáng kể phạm vi dịch vụ thuộc độc quyền của bưu điện quốc gia sẽ làm cho tổ chức này có một lập trường vững chắc hơn và đòi hỏi các nước khác mở cửa thị trường nhiều hơn. Thông tin điện tử, thông tấn và dịch vụ nghe nhìn.

Page 38: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 38 -

Sự kết hợp của các hệ thống viễn thông, điện toán, thông tin, truyền thông và giải trí do tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng và giảm chi phí thiết bị đã dẫn đến tiến bộ vượt bậc trong thông tin điện tử, thông tấn và dịch vụ nghe nhìn, các dịch vụ này đều dựa trên hạ tầng cơ sở thông tin chung. Dịch vụ thông tin điện tử Hoạt động chính của ngành dịch vụ đang phát triển mạnh này là cung cấp dữ liệu tài chính và doanh nghiệp, thông tin về nghiên cứu thị trường, kinh doanh và tin tức. Dịch vụ thông tin kinh doanh đang vượt lên so với nhu cầu dữ liệu khoa học và công nghệ. Các dịch vụ dựa trên văn bản (số - chữ) chiếm khoảng 3/4 trong số 3,3 tỷ ECU của EU, còn dịch vụ có hình chiếm 17%. Các dịch vụ thông tin phục vụ tài chính và kinh doanh chiếm 96% nhu cầu dịch vụ thời gian thực và các dịch vụ này lại chiếm một nửa nhu cầu dịch vụ trực tuyến. Tuy thế, nhiều dịch vụ cũng chưa được ghi nhận vì theo dõi thông tin điện tử quốc tế bên ngoài biên giới gần như không thực hiện được. EU có sức cạnh tranh quốc tế trong ngành này, một số tập đoàn thông tin và truyền thông khổng lồ tầm cỡ thế giới đóng tại EU. Mặc dầu GATS xử lý các hàng rào pháp lý và hành chính kìm hãm sự phát triển của các sản phẩm thông tin xuyên quốc gia nhưng chỉ có sự hợp tác giữa ngành công nghiệp này với chính phủ mới có thể làm cho hạ tầng mạng viễn thông phát triển. Thông tấn Kinh doanh thông tấn từng được hiểu là việc thu thập và phân phát tin tức và ảnh cho các báo và tạp chí. Nay thông tấn còn cung cấp cả các đoạn tin tức truyền hình cho các đài, cơ sở dữ liệu thông tin, các chỉ số trên thị trường tài chính. Tại nhiều phòng phân tích tài chính, màn hình "tin tức" và "thông tin" được đặt cạnh nhau hoặc một màn hình chứa cả hai nội dung. Những bước tiến này đã xóa nhoà danh giới của phạm trù thông tấn, trừ một số nước mà hãng thông tấn quốc gia còn do nhà nước sở hữu hoặc thuộc độc quyền chính phủ. Chỉ có một số ít hãng thông tấn có quy mô toàn cầu, trong đó có một số đóng ở EU, lớn nhất là ở Anh và Pháp. Các hãng này cạnh tranh với các tập đoàn Mỹ và các dịch vụ ngân hàng dữ liệu trực tuyến thương mại lớn của Mỹ. Các hãng thông tấn thường được quốc tế biết đến cũng đóng ở Đức, Italia, Tây Ban Nha. Tuy vậy, phần lớn các hãng thông tấn đều mang tính quốc gia hoặc chuyên về một vài đề tài hoặc phương tiện, ví như tin thời sự, thể thao, phóng sự truyền thanh và truyền hình, nông nghiệp, các vấn đề EU, các dịch vụ tài chính và kinh tế khác nhau cho người dùng là doanh nghiệp. Với các hãng thông tấn châu Âu, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Bắc Mỹ và Viễn Đông, nhưng Mỹ La-tinh cũng sẽ là thị trường phát triển mạnh. Điều quan trọng là đa số các nước OECD đã có cam kết trong ngành này, nhưng chưa có nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi nào làm như vậy mà các nước này sẽ là thị trường tiềm năng trong tương lai. Dịch vụ nghe - nhìn Ba thị trường nghe - nhìn lớn nhất (EU, Nhật và Hoa Kỳ) trị giá 173 tỷ USD. Hoa Kỳ chiếm 51% thị trường nghe - nhìn thế giới so với 31% của châu Âu.

Page 39: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 39 -

Tăng trưởng ở ngành này đạt mức 8% (từ 1994 đến 1995). Thị trường châu Âu tăng trưởng nhanh nhất với tỷ lệ 13%, tiếp sau là Nhật với 10,6%. Tại Hoa Kỳ, tăng trưởng trong thời kỳ này là 4,8%. Dự đoán khoảng 1,8 triệu người làm việc trong ngành nghe - nhìn ở châu Âu và vào năm 2004, lực lượng này có thể lên tới 4 triệu. Phim và các sản phẩm nghe - nhìn khác phản ánh những giá trị văn hoá làm nên bản sắc dân tộc. GATT 1947 đã công nhận điều này và cho phép các nước ấn định hạn ngạch đối với phim ảnh. Một số nước đã áp dụng hạn ngạch này và đa số hạn chế được bỏ dần theo thời gian. Với sự xuất hiện của truyền hình như một đầu mối chủ lực phân phối các sản phẩm nghe - nhìn, các nước đã bắt đầu điều tiết loại hình này. Tại EU, chỉ thị "Truyền hình không biên giới" cho phép tự do lưu hành các chương trình của châu Âu với điều kiện phải đáp ứng thời gian phát sóng tối thiểu và đa số nội dung phải do châu Âu sản xuất. Đối mặt với sự cạnh tranh của các hãng lớn của Hoa Kỳ, công nghiệp phim châu Âu đang trên đà đi xuống và để đáp lại, các nước đã có những chương trình hỗ trợ cho các nhà làm phim châu Âu. Với Hoa Kỳ, sản phẩm nghe - nhìn là sản phẩm xuất khẩu thành công lớn thứ hai của họ và họ đang tìm cách xâm nhập hơn nữa vào thị trường châu Âu, đặc biệt là về truyền dẫn qua vệ tinh, mạng truyền hình trả tiền, các phương tiện thông tin mới nhất. EU đã không làm cho GATS nhận thấy bản chất đặc biệt của các sản phẩm nghe - nhìn và vì ngành dịch vụ này được đưa vào GATS nên EU đã chọn cách không đưa ra cam kết mở cửa thị trường. Do đó, EU được tự do điều tiết lĩnh vực này, kể cả việc đề ra các điều kiện mở cửa thị trường. Về mặt chính thức, sẽ không có cuộc đàm phán mới nào ở cấp đa phương cho đến khi bắt đầu vòng đàm phán mới về dịch vụ. Các cam kết và ngoại lệ MFN Chỉ có 12 nước có cam kết về dịch vụ nghe - nhìn. Hoa Kỳ (cũng như New Zealand) đưa ra cam kết đầy đủ và không có ngoại lệ MFN nào, mặc dù nước này có bảo lưu về thiết bị truyền thanh và truyền hình. EU không đưa ra cam kết và đặt tất cả các vấn đề liên quan đến ngành này vào ngoại lệ MFN. Một vài nước cũng có ngoại lệ MFN nhằm tuân thủ các hiệp định hợp tác và phát sóng khu vực. Chỉ có 3 nước (kể cả Hoa Kỳ) có cam kết liên quan đến công nghệ mới trong truyền dẫn và phân phối từ xa các dịch vụ nghe - nhìn. Các vấn đề phát sinh từ đây sẽ là đề tài cho các cuộc đàm phán tương lai. Tương lai của thương mại trong lĩnh vực dịch vụ - thương mại điện tử Ngày nay, đã có hơn 100 nước có thể truy nhập Internet. Số người dùng Internet ước tính vào khoảng 100 triệu và có khoảng 20 triệu website trên khắp thế giới. Đến cuối thế kỷ vừa qua, dự kiến số người dùng Internet đã tăng vào khoảng từ 250 đến 330 triệu. Buôn bán trên Internet sẽ đạt đến mức 300 tỷ ECU và kim ngạch thương mại điện tử sẽ tăng gấp 10 lần.

Page 40: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 40 -

GATS có liên quan trực tiếp đến thương mại qua Internet. Thực ra, thương mại điện tử là một tổ hợp của nhiều dịch vụ khác nhau: viễn thông, thông tin - quảng cáo, phân phối (trong trường hợp hàng hoá được đặt mua qua mạng), dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tải nội dung qua mạng. Các dịch vụ này có thể thuộc về dịch vụ nghề nghiệp và kinh doanh, dịch vụ văn hoá và giải trí, dịch vụ nghe - nhìn, dịch vụ ngân hàng - tài chính, giáo dục, du lịch và lữ hành. Các nguyên tắc của GATS cũng áp dụng cho thương mại đối với các dịch vụ cung cấp qua mạng. Phụ lục về viễn thông của GATS yêu cầu mỗi nước Thành viên đảm bảo cho nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước Thành viên WTO nào khác được sử dụng các dịch vụ và mạng viễn thông công cộng một cách hợp lý và không phân biệt đối xử "để cung cấp dịch vụ đã nêu trong bản cam kết của mình". Phụ lục về Viễn thông quy định mỗi khi một nước thành viên WTO có cam kết về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia đối với một ngành/ tiểu ngành dịch vụ nào đó thì các cam kết này cũng được áp dụng cho các ngành/ tiểu ngành dịch vụ đó khi được cung cấp qua mạng. Quy định này cũng áp dụng cho các dịch vụ phân phối mà hàng hoá được đặt hàng qua mạng rồi sau đó mới được chở đến. Cam kết mà các nước Thành viên WTO đưa ra trong bản cam kết GATS của mình về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia cũng bị ràng buộc không được rút lại, cho dù dịch vụ đó được cung cấp theo phương thức truyền thống hay phương thức điện tử. Bối cảnh điều tiết lý tưởng cho thương mại điện tử là sự kết hợp các cam kết về dịch vụ nội dung và dịch vụ viễn thông cơ bản. Do đó, tự do hoá cả hai ngành dịch vụ này theo GATS có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển thương mại điện tử. Tương tự như vậy, các nguyên tắc và nghĩa vụ chung của GATS (như nghĩa vụ công khai thông qua nguyên tắc tối huệ quốc) cũng áp dụng cho các dịch vụ cung cấp qua mạng. Về nguyên tắc, việc cung cấp dịch vụ bằng dạng thức điện tử không làm thay đổi tính pháp lý của các dịch vụ đó trong GATS. Do vậy, GATS là một môi trường pháp lý quốc tế tương đối rõ ràng và dự đoán được đối với thương mại điện tử. Tuy nhiên, đã nổi lên sự tranh cãi về việc có cần phải điều chỉnh các điều khoản GATS khi áp dụng cho các dịch vụ cung cấp qua mạng hay không. Hoa Kỳ đã đề xuất với các nước Thành viên WTO không đánh "thuế hải quan" vào các giao dịch điện tử. EU cũng đang xem xét các khía cạnh thương mại của thương mại điện tử có liên quan trong GATS để loại bỏ các cản trở đang có hoặc có thể có đối với sự phát triển các dịch vụ điện tử. Các khía cạnh liên quan đến thương mại bao gồm việc không đánh thuế nhập khẩu các dịch vụ và nội dung chuyển qua đường điện tử, bảo hộ thích đáng tính riêng tư và dữ liệu cá nhân để không làm cản trở dòng thông tin cần cho thương mại điện tử, coi các dịch vụ cung cấp qua mạng cũng như các dịch vụ được cung cấp theo phương thức khác, kể cả trường hợp không đánh thuế khác

Page 41: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 41 -

nhau; đảm bảo cho các nhà cung cấp dịch vụ được truy nhập và sử dụng Internet một cách bình đẳng. Về mặt này, có thể coi WTO/GATS là một diễn đàm để xem xét thích hợp về bất kỳ khía cạnh liên quan đến thương mại nào của thương mại điện tử, tìm ra giải pháp cho các vấn đề thể chế. Dịch vụ xây dựng bao gồm công tác tiền thi công, xây dựng mới và sửa chữa, thay đổi, khôi phục và bảo dưỡng các toà nhà hoặc công trình xây dựng dân dụng. Năm 1955, ngành dịch vụ xây dựng EU có thặng dư thương mại với nước ngoài là 4.604 triệu ECU, bằng 1,8 lần tổng thặng dư các ngành dịch vụ xuất khẩu ra nước ngoài. Xuất khẩu dịch vụ xây dựng đã tăng trung bình hàng năm 6,2% kể từ năm 1992. Hoạt động xây dựng chiếm đến 10% GDP ở các nước công nghiệp, nhưng ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này thấp hơn. EU là thị trường xây dựng lớn nhất thế giới và lớn hơn Hoa Kỳ khoảng 1/3. Hoạt động kinh doanh xuyên quốc gia chỉ chiếm khoảng 5% khối lượng xây dựng của EU. Khoảng 160 hãng xây dựng Hoa Kỳ và EU chiếm 85% số dự án trên thế giới, trong đó Hoa Kỳ là 49% và EU là 36%. EU là thị trường lớn của các hãng Hoa Kỳ, còn các hãng EU có thị trường chính ở châu Phi, Trung Đông và châu á. Dịch vụ xây dựng chủ yếu được thực hiện bởi các cơ sở nằm ở thị trường nước ngoài, các hãng tham gia thương mại quốc tế thường thiết lập các dạng công ty con, liên doanh hoặc chi nhánh ở các nước thứ ba. Do đó, những hạn chế về hiện diện thương mại như hạn chế đầu tư, yêu cầu về quốc tịch, hạn chế về loại hình doanh nghiệp đều có tác động lớn đến các hãng xây dựng cung cấp dịch vụ ở thị trường nước ngoài. Các hãng thành công thường có nhiều kinh nghiệm về kỹ năng quản lý, công nghệ tân tiến và thiết kế với sự trợ giúp của máy tính. Các nước có trình độ cao về dịch vụ tư vấn, thiết kế, công nghệ và bí quyết tổ chức sẽ có lợi thế cạnh tranh trong ngành dịch vụ xây dựng. Vì lý do này, việc tự do hoá dịch vụ xây dựng cần phải tiến hành song song với tự do hoá các hoạt động và các ngành liên quan. Dịch vụ xây dựng được điều tiết bởi các nguyên tắc chung của GATS, và do vậy một Phụ lục với các quy định chuyên ngành là không cần thiết. Việc xâm nhập thị trường có hiệu quả của các hãng xây dựng EU phụ thuộc vào việc các hãng này có khả năng đấu thầu được các dự án xây dựng công cộng ở nước ngoài hay không. Sự thiếu vắng quy chế đa phương về mua sắm của chính phủ có lẽ là hàng rào phi thuế quan chủ yếu nhất tác động đến ngành

Dịch vụ xây dựng

Page 42: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 42 -

này. Nhiều hàng rào thương mại "vô hình", không chính thức còn tồn tại trong dịch vụ xây dựng và không được đề cập trong quá trình lập cam kết. Việc thiết lập quy chế đa phương như dự kiến trong chương trình làm việc của GATS do vậy rất được hoan nghênh. Hiệp định nhiều bên hiện thời về mua sắm của chính phủ được áp dụng cho các dự án xây dựng do cơ quan nhà nước tiến hành. Hiệp định đã trở nên có giá trị hơn kể từ khi Hoa Kỳ, Nhật và một số nước phát triển khác ký tham gia. Các hãng xây dựng châu Âu cũng có nhiều quyền lợi kinh tế tại các thị trường khác, nhất là Đông Nam á, mặc dù tình hình hiện nay vẫn còn chưa thoả đáng. EU đã cam kết tự do hoá ngành này với việc cho phép thành lập các hãng nước ngoài và không áp dụng hạn chế mở cửa thị trường. Ngoài ra, việc bãi bỏ các hàng rào thương mại nội bộ như tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật sẽ là tăng thêm cơ hội kinh doanh cho các đối tác thương mại EU. Các nước phát triển lớn và một số nước đang phát triển đã có cam kết về ngành này, mặc dù tổng số còn rất hạn chế - mới chỉ có 55 nước. Một tỷ lệ đáng kể đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ rơi vào ngành phân phối liên quan đến việc bán các sản phẩm chế tạo, thực phẩm và đồ uống. Tại mỗi nước, bán buôn và bán lẻ đều chiếm một tỷ lệ lớn số lao động và GDP - khoảng 16% lao động và 13% GDP ở EU. Tính hiệu quả và năng động của ngành này có thể tác động đáng kể đến cả nền kinh tế, sự khắt khe của thị trường Nhật thường được dùng để lý giải cho giá tiêu dùng cao cũng như sự phản đối các sản phẩm nhập khẩu. Các cam kết GATS trong ngành này là dịch vụ đại lý hoa hồng, phân phối sỉ (bán lại hàng hoá cho người bán lẻ, người bán buôn khác hoặc những hộ tiêu dùng lớn) và bán lẻ (phân phối hàng tiêu dùng đến người dùng cuối). Franchising được coi là một tiểu ngành riêng và có thể có cam kết riêng. Các thay đổi lớn đang diễn ra trong ngành phân phối của EU với sự tích tụ lớn hơn và giảm dần số nhà hoạt động truyền thống trong tiểu ngành bán buôn. Về bán lẻ, trong khi các nhà bán lẻ độc lập truyền thống đang mất dần thị phần, sự hợp tác giữa các công ty và đa dạng hoá đã và đang là chiến lược chung trong vài năm trở lại đây. Bên cạnh đó, việc sử dụng các hình thức khác của bán hàng từ xa cũng tăng lên và các hình thức phân phối mới hơn như franchising cũng đóng vai trò đáng kể trong hiện đại hoá ngành này. Mặc dù có sự khác biệt giữa các tiểu ngành, nhưng đang có một xu hướng rõ ràng về quốc tế hoá giữa các doanh nghiệp phân phối EU. Điều này có nghĩa là GATS đang ngày càng quan trọng hơn với các công ty EU vì đây là một công cụ mở cửa thị trường và cải thiện môi trường kinh doanh.

Dịch vụ phân phối

Page 43: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 43 -

GATS không có điều khoản nêu rõ việc tiếp tục đàm phán trong ngành này như với trường hợp dịch vụ viễn thông hoặc tài chính. Tuy nhiên, phần IV của GATS với các điều khoản chung về tiếp tục tự do hoá vẫn áp dụng với dịch vụ phân phối nên các doanh nhân vẫn có cơ hội thúc đẩy tự do hoá ngành này trong vòng đàm phán GATS tiếp theo. Các trở ngại thị trường Là những vấn đề chính liên quan đến hạn chế mở cửa thị trường vì thiết lập hệ thống bán buôn và bán lẻ ở thị trường nước ngoài đòi hỏi đầu tư lớn. Chế độ đầu tư nước ngoài chung ở các thị trường đó có ý nghĩa quan trọng, nhưng nhiều quy định khác của chính phủ có thể tác động lên việc cung cấp dịch vụ phân phối. Ví dụ như quy định về quy hoạch đô thị, trật tự công cộng, bảo vệ di tích lịch sử, hạn chế mua bán bất động sản, luật cạnh tranh hay quy chế riêng về phân phối một số mặt hàng nào đó. Để đảm bảo phù hợp với các quy định đa dạng đó thường có sự khảo sát nhu cầu trước khi chính quyền cấp giấy phép cần thiết để thiết lập các đầu mối phân phối. Tuỳ theo tiêu chí áp dụng, việc khảo sát nhu cầu có thể rất khắt khe, đặc biệt là với người nước ngoài vốn đã bị bất lợi vì họ không có mặt và cũng không có người đại diện tại thị trường đó. Ngoài ra, các trở ngại khác cũng có liên quan; ví dụ, các hãng cung cấp theo đơn đặt hàng sẽ quan tâm đến những hạn chế của việc cung cấp sản phẩm qua biên giới, các đại lý phải trả lệ phí cũng có mối quan tâm như vậy. Cam kết cụ thể Nói chung, các nước OECD cũng như một số nước ở Trung Âu, châu Phi, châu á và Mỹ La-tinh đã có cam kết trong ngành này từ mức rất thông thoáng cho đến trung bình. EU dành đãi ngộ quốc gia đầy đủ cho các hãng nước ngoài cung cấp qua biên giới hoặc có hiện diện thể nhân, mặc dầu vẫn còn một vài hạn chế về mở cửa thị trường. Tuy nhiên, tình hình chung còn chưa đáng thoả mãn: chỉ chưa đến 1/3 số Thành viên WTO có cam kết về dịch vụ phân phối, trong đó có những cam kết khá hạn chế. Số lượng cam kết nghèo nàn như vậy cần phải được xử lý trong các cuộc đàm phán tương lai cho tương xứng với tầm vóc kinh tế của ngành này, nhất là nay Cơ quan Chung thẩm của WTO đã xác nhận mối liên quan giữa các cam kết về dịch vụ phân phối với việc thực thi triệt để không chỉ GATS mà cả các quyền và nghĩa vụ của GATT. Franchising (Đại lý mượn danh) Các ngành mà franchising phát triển mạnh là cửa hàng mặt phố, các điểm bán lẻ đồ dùng nội thất, sao chụp và in ấn, tráng ảnh, dịch vụ sửa chữa và làm sạch. Các lĩnh vực khác là khách sạn và nhà hàng, thuê xe khách và xe tải, dịch vụ thuế và kế toán, tư vấn quản lý. Nhiều nước đã đưa franchising vào cam kết trọ gói ban đầu của mình. Tuy nhiên, xét tầm quan trọng kinh tế của franchising với các hãng châu Âu, mức độ cam kết cần phải được nâng lên ở các vòng đàm phán tiếp theo về cam kết cụ thể.

Page 44: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 44 -

Dịch vụ tài chính bao gồm các ngành bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán, kể cả buôn bán các văn kiện tài chính và tiền tệ, quản lý tài sản và các dịch vụ khác như cung cấp thông tin tài chính hoặc tư vấn tài chính. Dịch vụ này là một ngành lớn, chiếm hơn 7% GDP của EU. Đây cũng là ngành có vị trí trung tâm trong sự vận hành của cả nền kinh tế. Một ngành tài chính hiệu quả và hoạt động tốt có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với đời sống kinh tế của bất kỳ nước nào. Nó làm cho các khoản tiết kiệm được định hướng và phân phối hiệu quả cho những khoản đầu tư hay tiêu thụ cần hỗ trợ tài chính. Nó cũng làm giảm bớt rủi ro, đóng góp cho sự hoạt động ổn định của nền kinh tế nói chung. Việc đưa ngành này vào một hiệp định đa phương là bước phát triển có ý nghĩa lớn trong hợp tác kinh tế quốc tế. Ước tính các khoản giao dịch ngoại tệ lên đến 1,2 nghìn tỷ USD mỗi ngày. Giao dịch tài chính quốc tế do các ngân hàng trên khắp thế giới báo cáo về Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (tháng 3/1997) vào khoảng 7 nghìn tỷ USD, trong đó có 5,1 nghìn tỷ USD cho vay quốc tế. Tổng giá trị ngành ngân hàng thế giới là hơn 40 nghìn tỷ USD, phí bảo hiểm hơn 2 nghìn tỷ USD. Theo FIBV, trị giá thị trường chứng khoán vào cuối năm 1996 là hơn 19,6 nghìn tỷ USD và trị giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường vào khoảng 16,3 nghìn tỷ USD. Trong Vòng Uruguay, các bên tham gia đã nhất trí coi các hoạt động sau là dịch vụ tài chính trong GATS (Phụ lục GATS về Dịch vụ Tài chính): - Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan - dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ; tái bảo hiểm và chuyển nhượng; trung gian bảo hiểm như môi giới và đại lý; các dịch vụ bổ trợ cho bảo hiểm. - Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ bảo hiểm) - nhận đặt cọc; cho vay, kể cả tín dụng tiêu dùng; cho vay cầm cố, chi cho các giao dịch thương mại; cho thuê tài chính; dịch vụ thanh toán và chuyển tiền; bảo lãnh và cam kết; buôn bán trên thị trường tiền tệ, ngoại hối, tỷ giá và các công cụ lãi suất như swap và thoả thuận tỷ giá kỳ hạn, chứng khoán, văn tự chuyển nhượng được và các tài sản khác như vàng; tham gia phát hành chứng khoán mới; môi giới tiền tệ; quản lý tài sản như đầu tư gián tiếp hay quỹ hưu trí; dịch vụ thanh toán và thanh lý tài sản tài chính; cung cấp, chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính; cố vấn và các dịch vụ tài chính bổ trợ khác. Vòng Uruguay và đàm phán tiếp theo về dịch vụ tài chính Cam kết ban đầu về dịch vụ tài chính được đưa ra vào cuối Vòng Uruguay năm 1993, khi 82 nước cam kết mở cửa thị trường của mình cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài. Sau các cuộc đàm phán mở rộng vào nửa đầu năm 1995, lượt cam kết thứ hai có nâng cấp được đưa ra ngày 28/7/1995 khi 43 nước nhất trí nâng cấp các cam kết của Vòng Uruguay của mình. Thoả thuận tạm thời này đưa ra cơ hội mở cửa thị trường thuận lợi hơn cho tất cả các nước

Dịch vụ tài chính

Page 45: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 45 -

Thành viên WTO, kể cả những nước quyết định chưa ký thoả thuận tạm thời này (như Hoa Kỳ). Cam kết do 95 Thành viên WTO đưa ra tháng 7/1995 có hiệu lực từ ngày 1/9/1996. Tuy nhiên, theo một quyết định hồi tháng 7/1995, các cam kết và danh sách ngoại lệ MFN không phải áp dụng vĩnh viễn; chúng chỉ tiếp tục áp dụng nếu không bị sửa đổi hay rút lại trước thời hạn ngày 12/12/1997. Khoảng thời gian để các Thành viên được phép sửa đổi hoặc rút lại cam kết và ngoại lệ MFN bắt đầu ngày 1/11/1997 - đây là ngày mà các cuộc đàm phán tiếp theo về dịch vụ tài chính phải kết thúc. Đàm phán dịch vụ tài chính 1997 Khi đàm phán WTO về dịch vụ tài chính được mở lại vào tháng 4/1997, đó là lần thứ hai sau khi kết thúc Vòng Uruguay, các nước lại tham gia đàm phán để nâng cấp cam kết về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia về dịch vụ tài chính. Đợt đàm phán này kết thúc thành công vào thời hạn đã định là ngày 12/12/1997 với việc các thành viên WTO thoả thuận đưa dịch vụ tài chính vào GATS trên cơ sở vĩnh viễn và tối huệ quốc (MFN). Tất cả các đối tác thương mại lớn, kể cả Hoa Kỳ, đã ký thoả thuận này, và nhiều nước trong số đó đã đưa ra cam kết có nâng cấp đáng kể cả về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài. Như vậy, mục tiêu đàm phán chính của EU đã đạt được. 70 thành viên WTO (EU là 15) đã nâng cấp cam kết của mình, còn 32 nước khác duy trì cam kết đã có từ Vòng Uruguay hoặc từ thoả thuận tạm thời 1995. Điều này có nghĩa là các nước chiếm hơn 95% thị phần dịch vụ tài chính toàn thế giới đã đồng ý mở cửa thị trường tài chính nội địa cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài một cách vĩnh viễn và đảm bảo các điều kiện hoạt động công bằng, một khi có quy chế đa phương được thể chế hoá thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Nhiều nước thành viên WTO đã cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài được thiết lập hiện diện thương mại với những hình thức khác nhau (công ty con, chi nhánh, mua cổ phần của các công ty nội địa), được mở rộng hoạt động thương mại hiện thời và duy trì cổ phần hiện thời trong các hoạt động đó. Đồng thời, đa số đối tác thương mại chính của EU đều sẵn sàng áp dụng trước các biện pháp có đi có lại: chỉ rất ít nước đưa ra ngoại lệ MFN lớn để đáp lại biện pháp tương tự của nước khác. Yếu tố cơ bản cho khung pháp lý của thoả thuận hồi tháng 12/1997 là Nghị định thư thứ 5 của GATS thay thế phần dịch vụ tài chính trong các bản cam kết cụ thể và danh sách ngoại lệ MFN của các nước thành viên liên quan bằng các danh mục tương ứng đi kèm theo Nghị định thư. Điều này có nghĩa đây không phải là một thoả thuận riêng rẽ trong GATS mà chỉ đơn thuần là các cam kết và ngoại lệ MFN mới sẽ tạo nên một phần nhất quán trong cam kết của nước thành viên tương ứng khi kết quả đàm phán có hiệu lực. Điều kiện tiên quyết của việc có hiệu lực là các nước thành viên WTO, tuỳ theo thủ tục nội bộ của mình, chấp thuận trước ngày 29/1/1999. Khi đó, Nghị định thư thứ 5, cùng với các bản cam kết và danh sách ngoại lệ MFN mới sẽ có hiệu lực từ ngày 1/3/19999.

Page 46: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 46 -

Cùng với Nghị định thư thứ 5, một Quyết định thông qua Nghị định thư này đã đề ra một cam kết giữ nguyên hiện trạng, theo đó tất cả thành viên WTO sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết và ngoại lệ MFN mới đưa ra vào ngày 12/12/1997 cho đến khi Nghị định thư thứ 5 có hiệu lực. Cuối cùng, Quyết định tháng 12/1997 về Cam kết Dịch vụ Tài chính cho phép các thành viên được sửa đổi hoặc rút lại cam kết và ngoại lệ MFN về dịch vụ tài chính nếu vì lý do không lường trước mà Nghị định thư thứ 5 không có hiệu lực (ví dụ, do không phải tất cả các thành viên liên quan đều chấp nhận Nghị định thư thứ 5 trước thời hạn đã thoả thuận và những nước đã chấp thuận lại không cho Nghị định thư có hiệu lực). Điều này sẽ dẫn dến việc phục hồi đàm phán trong khoảng thời gian 2 tháng. Phụ lục của GATS về Dịch vụ Tài chính Phụ lục áp dụng cho tất cả các nước thành viên. Phụ lục hoàn thiện các điều khoản cơ bản của GATS bằng một số chi tiết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính như một danh sách phân loại dịch vụ tài chính và định nghĩa các hoạt động bị loại trừ. "Phân mảnh thận trọng" là một đặc điểm cốt yếu của Phụ lục, nó cho phép cơ quan quản lý và giám sát thi hành các biện pháp thận trọng để bảo hộ nhà đầu tư, bảo đảm tính toàn vẹn của hệ thống tài chính. Các nước thành viên cần chú ý hiểu rõ điều khoản này để không có sự biến tướng vì các lý do khó chấp nhận ngoài việc bảo hộ sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh quốc tế. Phụ lục đề ra cách phân loại riêng về các hoạt động dịch vụ tài chính. Phụ lục cũng chỉ rõ các hoạt động của ngân hàng trung ương, các hoạt động thuộc về hệ thống an sinh xã hội hoặc hưu trí công cộng không được đưa vào phạm vi của GATS. Tất cả các hoạt động khác mà cơ quan nhà nước tiến hành có sử dụng hoặc với sự bảo đảm của nguồn tài chính của chính phủ cũng bị loại trừ một cách tương tự. Phụ lục bắt buộc ban hội thẩm được bổ nhiệm để xem xét tranh chấp giữa các nước Thành viên liên quan đến các vấn đề mang tính thận trọng và các vấn đề tài chính khác "phải có đủ trình độ liên quan tới dịch vụ tài chính đang tranh chấp". Phụ lục cũng có một điều khoản cho phép các nước Thành viên công nhận tiêu chuẩn thận trọng của các nước thành viên khác, qua đó hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ của nhau xâm nhập thị trường. Bản ghi nhớ về Cam kết Dịch vụ Tài chính Bản ghi nhớ này là một phương cách khác mà đa số các nước OECD sử dụng để đạt được cam kết cụ thể. Thay cho cách làm "từ duới lên" chỉ liệt kê các ngành có cam kết ràng buộc về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia, Bản ghi nhớ này thực hiện cách làm "từ trên xuống". Các nước Thành viên nhất trí với lộ trình do Bản ghi nhớ đề ra tức là đã chấp nhận một nước cam kết tối thiểu cao hơn so với các điều khoản của GATS. Ngoài những điều khác, nghĩa vụ tối thiểu còn hàm chứa một cam kết quan trọng yêu cầu các nước Thành viên không áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế mới nào không phù hợp với những điều khoản nền tảng về mở cửa thị trường

Page 47: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 47 -

và đãi ngộ quốc gia của Bản ghi nhớ, do vậy, các hạn chế trong bản cam kết của một nước Thành viên chỉ có thể áp dụng cho các biện pháp không phù hợp đang có. Nghĩa vụ tối thiểu cũng gồm cả một quyền có hướng sâu rộng, đó là quyền thiết lập và mở rộng sự hiện diện thương mại dưới mọi hình thức có thể, kể cả thông qua việc mua lại một công ty đã có, và các nhà cung cấp dịch vụ tài chính cũng có quyền đưa ra các dịch vụ tài chính mới. Mỗi nước thành viên liên quan cũng đã nhất trí cố gắng bỏ hoặc hạn chế những tác hại lớn do các biện pháp phân biệt đối xử gây ra dẫn dến sự manh mún của các hoạt động ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán hoặc ngăn cản sự mở rộng về mặt địa lý. Điều này rất quan trọng ở Hoa Kỳ, nơi các đạo luật Glass - Steagall và MC Fadden hạn chế cơ hội kinh doanh của các ngân hàng và hãng chứng khoán châu Âu hoạt động ở đó. Hoạt động du lịch là các dịch vụ được sử dụng bởi những người di chuyển và tạm trú ở những nơi ngoài chỗ ở quen thuộc của mình trong khoảng thời gian liên tục dưới một năm để nghỉ ngơi, kinh doanh hoặc làm việc khác. Hoạt động này bao gồm cả các dịch vụ khác mà người du hành hoặc nhà tổ chức có thể tiêu dùng trước khi đi và sau khi đã đến đích, từ việc cung cấp lương thực, chỗ ở, phương tiện vận tải cho đến các dịch vụ trung gian do các đại lý lữ hành và nhà điều hành tuyến cung cấp. Năm 1997, có khoảng 613 triệu du khách trên khắp thế giới đã đi ra nước ngoài. Số lượt đến của du khách quốc tế tăng khoảng 64% trong chưa đầy một thập kỷ và doanh thu du lịch và lữ hành ra nước ngoài đã tăng trung bình hàng năm 4,3% từ năm 1992. Các hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến du lịch đóng vai trò quan trọng ở EU và khắp thế giới xét về mặt ngoại thương, tăng trưởng kinh tế và việc làm. Theo cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), kim ngạch du lịch và lữ hành ra nước ngoài của các nước thành viên EU là 481 tỷ ECU vào năm 1996 (kể cả du lịch giữa các nước EU). Dịch vụ du lịch và lữ hành chiếm 55% xuất khẩu và 56% nhập khẩu dịch vụ thương mại của EU. Hơn nửa buôn bán dịch vụ giữa các nước EU và các nước thứ ba (không kể trong nội bộ EU) là thuộc về lữ hành và các dịch vụ liên quan đến du lịch. Tại EU, sự đóng góp của du lịch vào tổng số việc làm (6%) và GDP (5,5%) là một yếu tố quan trọng của quá trình hoà nhập châu Âu. Ngoài ra, sự tăng trưởng chắc chắn của các dịch vụ liên quan đến du lịch, theo dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới, được coi là sự đóng góp quan trọng tạo ra việc làm và đấu tranh chống thất nghiệp. Mặc dù có sự giảm sút thị phần của châu Âu trên thế giới so với các địa điểm du lịch mới xuất hiện, EU vẫn là điểm đi và điểm đến chính của các dòng du khách quốc tế. Điều này được hỗ trợ thêm bởi việc tự đo hoá du lịch giữa các nước EU và không có nước lớn thứ ba nào còn hạn chế di chuyển của du khách và chi tiêu của họ ở nước ngoài. Phương thức chính cung cấp dịch vụ du lịch là cung cấp cho những người khách nước ngoài có mặt trên thị trường nội địa. Gần như tất cả các nước đã có cam kết trong ngành này - 107 nước, do vậy việc thực hiện các cam kết hiện thời theo hiệp định là một ưu tiên hàng đầu.

Du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành

Page 48: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 48 -

Do phương thức chính cung cấp dịch vụ du lịch và các dịch vụ liên quan đến lữ hành là cho các cá nhân tiêu dùng dịch vụ ở nước đến du lịch, trọng tâm của dịch vụ du lịch và các dịch vụ liên quan đến lữ hành là di chuyển của người tiêu dùng qua biên giới - gọi là "tiêu thụ ở nước ngoài" (trái với hàng hoá và các loại dịch vụ khác, đặc điểm chính của du lịch quốc tế là các cá nhân đi ra nước ngoài để thoả mãn nhu cầu của mình). Luật lệ về đại lý lữ hành và điều hành tuyến ở nước ngoài có thể mang ý nghĩa lớn: thông thường sự hiện diện và sở hữu của nước ngoài bị hạn chế, các hệ thống đặt chỗ qua máy tính của nước ngoài đôi khi không được phép tại các đại lý lữ hành nội địa hoặc văn phòng nước ngoài đôi khi không được phép tại các đại lý lữ hành nội địa hoặc văn phòng nước ngoài. Một vài hạn chế về hiện diện thương mại của các hãng nước ngoài tại EU đã được ghi nhận. Các ngành khách sạn, nhà hàng, nấu ăn của EU là những ngành đầu tư chính ra nước ngoài, các dịch vụ này chỉ có thể cung cấp thông qua hiện diện thương mại. Do đó, bất kỳ sự phân biệt nào đối với các hãng nước ngoài so với các hãng trong nước đều quan trọng và các hãng EU cần nghiên cứu kỹ những hạn chế đãi ngộ quốc gia cũng như điều kiện và yêu cầu về mở cửa thị trường vì chúng có thể dẫn đến hạn chế về đầu tư và quyền sở hữu. Nhìn chung, điều kiện mở cửa thị trường thường tương đối thông thoáng và chế độ cởi mở này được phản ánh trong các bản cam kết. Cả các nước phát triển lẫn đang phát triển đều đã có cam kết đáng chú ý đối với ngành du lịch châu Âu.

Hàng hải Hàng hải xứng đáng là một ngành dịch vụ lớn vì đã tạo ra thu nhập ngoại tệ đáng kể cho EU từ việc trực tiếp vận chuyển hàng hoá xuất khẩu của EU (với các nhà xuất khẩu, dịch vụ này rất cần thiết) và vận chuyển giữa các nước thứ ba. Hàng rời chiếm 80% tổng lượng thương mại thế giới: dầu, khí hoá lỏng, than, quặng, hoá chất, ngũ cốc… và một số hàng hoá. Các con tầu hành trình giữa các cảng chuyên dụng thường do khách hàng của họ sở hữu: hầu hết đều là vận chuyển giữa các nước. Đa số dịch vụ thuê tầu suốt ngày đêm này không dùng để chở các hàng hoá khác. Các con tàu có thể chuyên môn hoá cao. Giữa các hãng tàu lớn có sự cạnh tranh quyết liệt. 20% còn lại của thương mại thế giới là vận chuyển thành phẩm và bán thành phẩm. Số hàng hoá này do các công ty tàu vận chuyển, tàu của các công ty này chạy theo lịch trình đã định với cước phí đã được công bố, do đó gọi là tàu chuyến. Ngày nay chỉ có một số ít tàu chuyến dành để chỉ người, thường là dạng du thuyền và phà hành trình ngắn. Một phần quan trọng số tầu chợ dùng để chở container và thường dựa vào phương tiện và dịch vụ cảng của nhà nước. Sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực này thường mạnh hơn trong chuyên chở hàng rời. Chỉ có một ít các cảng do tư nhân quản lý là dành cho hàng hoá tổng

Dịch vụ vận tải

Page 49: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 49 -

hợp. Vận chuyển container thường do các hãng vận tải đa phương thức đảm nhiệm, các hãng này cũng sở hữu hoặc thuê phương tiện để vận chuyển từ nhà sản xuất đến cảng xuất khẩu và từ cảng nhập khẩu đến người tiêu dùng. Việc vận chuyển này được thực hiện bằng đường sắt và đường bộ và là một phần không thể tách rời của dịch vụ này. Trong các cuộc đàm phán của Vòng Uruguay, dịch vụ hàng hải đã được đề nghị chia làm 3 loại, được các nhà đàm phán gọi là "3 cột trụ", đó là:

vận tải hàng hoá và hành khách quốc tế;

dịch vụ bổ trợ có tính thương mại (ví dụ bố xếp hàng hoá, kho bãi, thông quan, bến container, đại lý và giao nhận);

dịch vụ cảng (ví dụ hoa tiêu, lai dắt, nạp nhiên liệu, thu dọn rác, trợ giúp hành trình, tiện ích, sữa chữa khẩn cấp, neo đậu).

Nếu các cam kết ở hai loại đầu tiên có hiệu lực thì những dịch vụ cảng do nhà nước quản lý sẽ phải được dành cho cả các nhà vận tải hàng hải quốc tế mà đa số thường là các hãng tư nhân. Các dịch vụ này phải được cung cấp trên cơ sở hợp lý và không phân biệt đối xử, phù hợp với các điều khoản GATS về độc quyền và cung cấp dịch vụ đặc biệt. Cũng cần lưu ý rằng định nghĩa về một biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ bao hàm cả "việc cung cấp và sử dụng những dịch vụ được các nước thành viên yêu cầu đại chúng hoá". Điều quan trọng là dịch vụ cảng là một phần của các cam kết về vận tải hàng hải. Những gì muốn nói ở đây không phải là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ này, mà là các hãng tàu và các hãng liên quan đến thương mại của nước ngoài được sử dụng dịch vụ này một cách hợp lý và không phân biệt đối xử. Môi trường vận tải quốc tế là tương đối thông thoáng và cạnh tranh, một số hạn chế đang tồn tại chưa thể xử lý được tại các luật lệ đa phương hiện thời. Nhưng để đảm bảo tiếp tục tự do hoá và ngăn chặn nguy cơ "thụt lùi" từ các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá đã có, các cuộc đàm phán trước đã tập trung cả vào việc xoá bỏ tập quán ...... (thiếu) và hỗ trợ tích hợp đa phương thức và tự do tiếp thị các dịch vụ hàng hải ("cột hai"). "Cột ba", quyền sử dụng trang thiết bị cảng, được coi là một bổ sung kỹ thuật không thể thiếu để đảm bảo tính hiệu quả của cam kết. Nhiều nước thể hiện mức độ mong muốn cam kết bằng một "lịch trình nháp mẫu" có cả ba cột, nhưng nhiều cam kết; trong đó, kể cả của EU và các nước thành viên EU, đã bị rút lại để thể hiện sự không hài lòng với tình hình chung, do đó chỉ còn lại một ít cam kết đưa ra đàm phán. Thực ra, nhiều nước khác nhau, phần lớn là các nước phát triển, cố gắng xây dựng một cam kết trọn gói đồng đều với mong muốn tất cả các nước có đội tầu lớn sẽ chấp nhận các nghĩa vụ trong đó. Tuy nhiên, Hoa Kỳ còn nghi ngờ và miễn cưỡng bãi bỏ các biện pháp đơn phương làm các nước không đưa ra cam kết tự do hoá có ý nghĩa. Ngày 28/6/1996, Hội đồng Thương mại Dịch vụ thông qua Quyết định về Dịch vụ Vận tải Hàng hải do Nhóm đàm phán về Dịch vụ Vận tải Hàng hải (NGMTS) đề xuất. Quyết định này quy định về:

Page 50: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 50 -

1. Ngừng đàm phán về dịch vụ vận tải hàng hải và khôi phục lại khi bắt đầu đàm phán toàn diện về dịch vụ theo Điều XIX của GATS trên cơ sở các bản chào hiện thời hoặc đã nâng cấp; 2. Ngừng áp dụng nghĩa vụ MFN cho đến khi vòng đàm phán đã khôi phục lại kết thúc; 3. Điều khoản giữ nguyên hiện trạng được tuân thủ cho đến khi vòng đàm phán khôi phục lại kết thúc. Cuối cùng, dịch vụ vận tải hàng hải nằm trong phạm vi điều chỉnh của GATS và sẽ tiếp tục được đàm phán trong khuôn khổ vòng đàm phán GATS toàn cầu mới. Nghĩa vụ MFN sẽ bị tạm ngừng và điều khoản giữ nguyên trạng sẽ được áp dụng cho đến khi kết thúc vòng đàm phán đó. Đường bộ và dịch vụ vận tải đa phương thức Vận tải đường bộ không được chú ý nhiều trong các cuộc đàm phán của Vòng Uruguay. Việc tự do hoá vận tải hành khách và hàng hoá bằng đường bộ chỉ được các nước láng giềng quan tâm, do đó thường được đề cập song phương hay khu vực. Các thành viên GATS quyết định duy trì quan hệ song phương bằng việc khước từ nghĩa vụ MFN với các thoả thuận vận tải đường bộ song phương và nhiều bên. Cũng vì lý do đó, nhu cầu đàm phán để mở cửa vận tải đường sắt là rất ít vì loại hình vận tải này gắn chặt với cơ sở hạ tầng của đất nước và trong đa số trường hợp là độc quyền của nhà nước. Tuy nhiên, việc các nguyên tắc GATS cũng áp dụng cho vận tải đường bộ (đường sắt, đường sông, đường bộ) có thể sẽ trở nên quan trọng vì các hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức. Bằng các cam kết trong ngành này, các cuộc đàm phán trước đây về vận tải hàng hải đã nhằm đảm bảo các nhà điều hành vận tải đa phương thức có thể được thuê các xe tải, toa xe, xà lan cũng như trang thiết bị liên quan để vận tải hàng hoá trong nội địa. Họ cũng cần phải được sử dụng các trang thiết bị này với các điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử/ Dịch vụ vận tải hàng không "Phụ lục về Dịch vụ Vận tải Hàng không" đã nói rõ GATS áp dụng cho kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không, dù đã có cam kết hay chưa cam kết, và các dịch vụ kèm theo. Tuy nhiên, thương quyền (còn gọi là "quyền cứng") và các dịch vụ liên quan trực tiếp đến thực thi thương quyền được loại trừ. Phụ lục có nêu định nghĩa về thương quyền, trong đó bao gồm quyền hạ cánh, vạch tuyến, năng lực vận tải, giá vé, tiêu chí sở hữu và kiểm soát các hãng hàng không. Hiện giờ, các quy định GATS chỉ áp dụng cho các quyền mềm sau:

sửa chữa và bảo trì máy bay;

bán vé và tiếp thị, kể cả nghiên cứu thị trường, quảng cáo, phân phát tài liệu - nhưng không tính giá;

Page 51: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 51 -

và các điều kiện bán hàng khác;

hệ thống đặt chỗ bằng máy tính (CRS), thông tin lịch bay, giá vé;

đặt chỗ và xuất vé thông qua hệ thống trên. Cần lưu ý là các nước thành viên chỉ có thể cam kết về các dịch vụ bổ trợ được nêu rõ trong Phụ lục. Các cam kết đưa ra hoặc nghĩa vụ của GATS không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các hiệp định song phương và đa phương đang có hiệu lực tại thời điểm hiệp định WTO bắt đầu thi hành, ví dụ Công ước Chicago. Phạm vi của dịch vụ vận tải hàng không theo GATS được định kỳ xem xét lại. Phụ lục quy định ít nhất sau mỗi 5 năm tiến trình đàm phán ngành dịch vụ hàng không và việc thực hiện Phụ lục sẽ được xem xét lại để tính đến khả năng tiếp tục áp dụng các nguyên tắc GATS cho ngành này. EU đặt ngoại lệ MFN đối với hệ thống CRS, bán vé và tiếp thị nhằm đảm bảo điều khoản có đi có lại về hiển thị thông tin CRS theo luật của EU. Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO chỉ được áp dụng đối với các cam kết cụ thể sau khi mọi phương cách song phương và đa phương khác không có tác dụng. Viễn cảnh tương lai Mặc dù các dịch vụ hàng không chủ yếu đã bị loại trừ, GATS vẫn thể hiện cố gắng bước đầu nhằm định hình quy tắc kinh doanh cho ngành này trên toàn thế giới và đưa ngành này vào hệ thống đa phương thống nhất của WTO. Với xu hướng tiếp tục cổ phần hoá, phân quyền và toàn cầu hoá, triển vọng mở rộng phạm vi GATS sẽ có thể nâng cấp ngành dịch vụ này. Dịch vụ năng lượng Dịch vụ năng lượng không phải là một "ngành" được phân loại trong danh sách các ngành dịch vụ mà các nước Thành viên WTO lấy làm cơ sở để đưa ra cam kết. "Sản xuất năng lượng" bằng than, dầu, nước và các nguồn năng lượng khác thuộc phạm vi của GATT vì bản thân năng lượng được coi là một "sản phẩm". Tuy vậy, một số hoạt động kinh tế quan trọng có quan hệ tới năng lượng và các dịch vụ liên quan lại được GATS điều tiết dưới các đề mục khác nhau, ví dụ: dịch vụ vận tải đường ống và các dịch vụ vận tải khác, dịch vụ phân phối, dịch vụ môi trường, tư vấn liên quan đến năng lượng và các dịch vụ kinh doanh khác. Trong Vòng Uruguay, chỉ có rất ít các nước Thành viên WTO có cam kết về những hoạt động này. Trong việc phân quyền và mở cửa các ngành độc quyền cho cạnh tranh, tự do hoá dịch vụ năng lượng sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Chắc chắn sẽ có nhiều khả năng đưa ra các cam kết trong tương lai. EU đã thông qua (hay nhất trí) các chỉ thị mở cửa thị trường điện và khí cho cạnh tranh và như vậy là đã

Các dịch vụ khác

Page 52: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 52 -

dám chấp nhận thách thức. Việc này đòi hỏi phải hiểu sâu hơn nữa ngành "dịch vụ năng lượng", hoạt động dịch vụ nào kinh doanh được, ngành nào các nhà kinh doanh châu Âu có nhu cầu xuất khẩu. Mở cửa thị trường ngành dịch vụ năng lượng ở các nước thứ ba chỉ có thể đạt được với khả năng cho phép các tập đoàn năng lượng nước ngoài thành lập và mua lại các công ty, chủ yếu trong lĩnh vực truyền và phân phối ga và điện, kể cả các thiết bị cung cấp dịch vụ đi kèm. Một số công ty phân phối năng lượng châu Âu (thường là các công ty hợp nhất) đã vươn ra nước ngoài. Dịch vụ phân phối nước Một lĩnh vực khác có thể xứng đáng thu hút sự chú ý của các cuộc đàm phán tương lai là phân phối nước vốn nằm trong đề mục dịch vụ phân phối. Tiếp tục tự do hoá ngành này sẽ đem lại những cơ hội kinh doanh mới cho các công ty châu Âu, sự bành trướng của một số công ty nước châu Âu và các vụ mua lại ở nước ngoài đã minh chứng điều này.

Page 53: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 53 -

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định GATS

WTO là một hiệp ước liên chính phủ mới mang tính chất toàn cầu, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Trong các phụ lục của hiệp định này có chứa đựng ba hiệp định thương mại đa phương chính, là kết quả của các cuộc đàm phán Vòng Uruguay - Hiệp định GATT, GATS và TRIPS. WTO tạo nên một khuôn khổ thể chế thống nhất cho cả ba hiệp định này, với cùng một hệ thống giải quyết tranh chấp. Mục tiêu của WTO là phát triển một hệ thống thương mại đa phương thống nhất, có sức sống và mang tính bền vững cao hơn, và tạo ra một diễn đàn đàm phán về các quan hệ thương mại, với mục tiêu đạt được sự nhất quán hơn nữa trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu. Trên thực tế, vấn đề này có liên quan tới sự cộng tác chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Tập quán ra quyết định trên nguyên tắc đồng thuận của GATT vẫn sẽ được duy trì, và đối với những vấn đề nhất định cần bỏ phiếu lấy đa số, mỗi Thành viên sẽ có một lá phiếu, tức là EC sẽ có số phiếu bằng số Thành viên Cộng đồng này.2 Mỗi nước Thành viên riêng lẻ của EU đều là Thành viên của WTO, nhưng các cuộc đàm phán sẽ do Uỷ ban Châu Âu tiến hành đại diện cho cả Liên minh Châu Âu, Uỷ ban này là một Thành viên không có phiếu bầu. Sự đồng thuận là cần thiết để tiến hành hiệu chỉnh lại quy trình ra quyết định của WTO, cũng như một số nghĩa vụ cơ bản của GATT, GATS và TRIPS.

2 Vì những lý do pháp lý, Cộng đồng Châu Âu (EC), chứ không phải Liên minh Châu Âu (EU) là thành viên của WTO. Ngoài EC, tất cả các Nước Thành viên của EU đều là Thành viên của WTO, nhưng EC lại không có một lá phiếu; trong trường hợp EC bỏ phiếu thay mặt cho các Nước Thành viên của mình, số lượng lá phiếu của nó "sẽ không vượt quá số lượng các Nước Thành viên trong bất kỳ trường hợp nào".

Hội đồng Bộ trưởng

Đại Hội đồng Giải quyết tranh chấp Rà soát chính sách

Các uỷ ban: thương mại và phát triển hạn chế cán cân t/toán ngân sách

Hội đồng Thương mại Dịch vụ

Hội đồng Thương mại Hàng hoá

Hội đồng TRIPS

Các cơ quan trực thuộc Các cơ quan trực thuộc Các cơ quan trực thuộc

Page 54: Tr ần Thanh Hải Ngô H ồng Điệp quy tac co ban … · nguồn thông tin để đàm phán một cách hiệu quả, đồng thời các nhà đàm phán có thể dựa

- 54 -

Đứng đầu WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất hai năm một lần, Đại Hội đồng xem xét các hoạt động của Hội nghị này. Mỗi Thành viên có một ghế trong Đại Hội đồng. Đại Hội đồng cũng là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp, và điều phối Cơ chế Rà soát Chính sách. Ba Hội đồng nhỏ dưới cấp Đại Hội đồng sẽ giải quyết các vấn đề về hàng hoá, dịch vụ và các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng này cũng thành lập các cơ quan giúp việc cho mình. Hiệp định GATT 1994, tức là Hiệp định GATT 1947 sửa đổi, bao gồm các hiệp định về sản phẩm nông nghiệp, dệt may, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các hàng rào cản trở thương mại, trợ cấp, các biện pháp đối kháng, quy tắc xuất xứ, giám định trước khi xếp hàng và tự vệ. Hiệp định TRIPS có liên quan tới bản quyền, nhãn hiệu, thiết kế công nghiệp, bằng phát minh và bí mật thương mại, và chứa đựng cả các điều khoản thực thi. Vì nó đề cập đến các quyền đối với các sản phẩm dịch vụ, Hiệp định này có tầm quan trọng đối với các nhà xuất khẩu dịch vụ. Kết quả của Vòng Uruguay tạo thành một hệ thống duy nhất (trọn gói). Một nước muốn trở thành Thành viên WTO phải hoàn tất tất cả các điều kiện trong tất cả các Hiệp định Thương mại Đa phương. Các nước không được quyền loại trừ bất kỳ một Hiệp định nào. Bất kỳ nước nào muốn được hưởng lợi từ các yếu tố khác của Vòng Uruguay thì đều phải tham gia vào GATS. Là một phần của hệ thống WTO, một cơ chế Giải quyết Tranh chấp Thống nhất và các điều khoản thể chế áp dụng cho tất cả các Hiệp định cũng đã được xây dựng. "Cơ chế trọn gói" này phản ánh quá trình toàn cầu hoá thương mại thế giới và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các phần khác nhau của nền kinh tế. Có bốn Hiệp định nhiều bên đã được đàm phán lại trong Vòng Uruguay. Trong số này, chỉ có Hiệp định Mua sắm của Chính phủ có liên quan đến dịch vụ. Bốn Hiệp định nhiều bên này có số thành viên hạn chế, và chỉ bị ràng buộc giữa các nước đã trở thành thành viên của hiệp định đó. Chúng không tạo nên các quyền hay nghĩa vụ cho các nước Thành viên WTO không tham gia ký kết. WTO có một Ban Thư ký đạt tại Geneva. Đứng đầu Ban Thư ký là Tổng Giám đốc, và các quan chức WTO không phải chấp nhận các chỉ thị từ các chính phủ Thành viên hay từ các cơ quan khác. Sự đóng góp của các nước Thành viên vào ngân sách sẽ tiếp tục căn cứ vào giá trị thương mại hàng hoá của mình trong năm đầu tiên và có thể sẽ tiếp tục cho đến khi các con số thương mại dịch vụ được xem xét, hay một công thức khác được thông qua. Đa số phiếu (2/3) có thể thông qua ngân sách hàng năm.