tƢƠng quan giỮa phong cÁch lÀm cha mẸ vỚi sỰ tỰ...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
------------------------
CHU THỊ BÍCH HỒNG
TƢƠNG QUAN GIỮA
PHONG CÁCH LÀM CHA MẸ
VỚI SỰ TỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM
VÀ VỊ THÀNH NIÊN
Mã số: Thí điểm
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Ngọc Khanh
TS. Trần Thành Nam
HÀ NỘI - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến PGS.TS. Đỗ Ngọc Khanh và TS. Trần Thành Nam đã tận tình
hướng dẫn tôi suốt quá trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường,
các thầy cô giáo, cha mẹ và các em học sinh Trường THPT Phùng Khắc
Khoan, Trường THPT Nhân Chính, Trường THPT Hòa Bình và Trường
THPT Bưng Riềng đã tạo điều kiện thuận lợi và tham gia nhiệt tình vào đề tài
nghiên cứu của tôi.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn học, anh chị em đồng
nghiệp và gia đình đã luôn bên cạnh động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn của mình.
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN ................ iv
DANH MỤC CÁC BẢNG SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI ................................ v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI ................................... vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .......................................................... 2
5. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................... 2
6. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3
7. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 3
8. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 3
9. Kế hoạch thực hiện.................................................................................... 4
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................... 5
1.1. Lịch sử nghiêu cứu vấn đề ........................................................................ 5
1.1.1. Nghiến cứu về phong cách làm cha mẹ .............................................. 5
1.1.2. Nghiên cứu về tự đánh giá .................................................................. 9
1.1.3. Các hướng nghiên cứu tương quan giữa phong cách, hành vi làm cha
mẹ và tự đánh giá. ........................................................................................ 20
1.2. Một số vấn đề về lý luận .......................................................................... 22
1.2.1. Khái niệm tương quan ....................................................................... 22
1.2.2. Phong cách làm cha mẹ..................................................................... 23
1.2.3. Tự đánh giá ....................................................................................... 25
1.2.4. Học sinh trung học phổ thông ........................................................... 31
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 35
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu. .......................................... 35
2.1.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu .......................................................... 35
2.1.2. Đặc điểm về khách thể nghiên cứu ................................................... 36
iii
2.2. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................. 41
2.2.1. Giai đoạn 1 ........................................................................................ 41
2.2.2. Giai đoạn khảo sát thực trạng, xử lý số liệu ..................................... 41
2.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 41
2.3.1. Cách tiếp cận nghiên cứu lý luận. ..................................................... 41
2.3.2. Cách tiếp cận nghiên cứu thực tiễn ................................................... 42
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 50
3.1. Thực trạng tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ............................ 50
3.1.1. Các khía cạnh của tự đánh giá .......................................................... 50
3.1.2. Thực trạng tự đánh giá của học sinh theo các mặt............................ 52
3.1.3. So sánh điểm trung bình tự đánh giá các mặt của học sinh theo
trường, khối, giới, học lực ........................................................................... 63
3.2. Thực trạng về các phong cách, hành vi làm cha mẹ ............................... 66
3.2.1. Các loại phong cách, hành vi mà cha mẹ sử dụng ............................ 66
3.2.2. So sánh sự tự đánh giá của cha mẹ với đánh giá của học sinh về
phong cách của cha mẹ ................................................................................ 71
3.3. Tương quan giữa phong cách, hành vi của cha mẹ đến các yếu tố tự đánh
giá của học sinh trung học phổ thông ............................................................. 72
3.3.1. Tương quan giữa phong cách làm cha với tự đánh giá của học sinh
trung học phổ thông ..................................................................................... 72
3.3.2. Tương quan giữa phong cách, hành vi của mẹ với tự đánh giá của
học sinh trung học phổ thông....................................................................... 74
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 78
1. KếT LUậN ............................................................................................... 78
1.1 Về mặt lý luận.......................................................................................... 78
1.2 Về mặt thực tiễn....................................................................................... 79
2. KHUYếN NGHị ...................................................................................... 79
2.1. Đối với cha mẹ các em học sinh .............................................................. 80
2.2. Đối với nhà trường và thầy cô giáo ........................................................ 80
2.3. Đối với các nhà chuyên môn quan tâm đến chủ đề này. ........................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 84
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
1. TĐG: Tự đánh giá
2. HS: Học sinh
3. THPT: Trung học phổ thông
4. THCS: Trung học cơ sở
5. ĐTB: Điểm trung bình
6. PC: Phong cách
7. CRPBI: Child’s Report of Parental Behavior
8. PAQ: Parental Authority Quesionnaire
9. MHC-SF: Mental health continuum – short from
10. GAD-7: thang đánh giá lo âu
11. PHQ-9: thang đánh giá trầm cảm.
v
DANH MỤC CÁC BẢNG SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Bảng 2. 1. Số lượng khách thể nghiên cứu theo từng trường ......................... 35
Bảng 2.2. Số lượng và khách thể nghiên cứu phân theo khối ......................... 36
Bảng 3.1. Tự đánh giá chung về các mặt của học sinh THPT ........................ 50
Bảng 3.2. Tự đánh giá của học sinh THPT về mặt học tập ............................ 53
Bảng 3.3. Tự đánh giá của học sinh THPT về mặt xã hội .............................. 55
Bảng 3.4. Tự đánh giá của học sinh THPT về mặt đạo đức ........................... 57
Bảng 3.5. Tự đánh giá của học sinh THPT về mặt thể chất ........................... 58
Bảng 3.6. Số lượng và tỉ lệ học sinh có lo âu, trầm cảm. ............................... 60
Bảng 3. 7. Mức độ lo âu .................................................................................. 61
Bảng 3.8. Mức độ trầm cảm ............................................................................ 62
Bảng 3.9. So sánh ĐTB TĐG về các mặt giữa các trường ............................. 63
Bảng 3.10. So sánh ĐTB TĐG về các mặt theo khối lớp. .............................. 64
Bảng 3.11. So sánh ĐTB TĐG về mặt xã hội giữa hai nhóm giới tính .......... 64
Bảng 3.12. So sánh điểm trung bình tự đánh giá về các mặt cảm giữa các
nhóm học lực ................................................................................................... 65
Bảng 3.13. Điểm trung bình thang đo phong cách của cha ............................ 66
Bảng 3.14. Phong cách của cha theo đánh giá của học sinh ........................... 67
Bảng 3.15. Điểm trung bình thang đo phong cách của mẹ ............................. 68
Bảng 3.16. Phong cách của mẹ theo đánh giá của học sinh ........................... 68
Bảng 3.17. Hành vi của mẹ theo đánh giá của học sinh ................................. 69
Bảng 3.18. Hành vi của mẹ theo đánh giá của học sinh ................................. 70
Bảng 3.19. So sánh điểm trung bình tự đánh giá của cha với đánh giá của học
sinh về phong cách của cha. ............................................................................ 71
Bảng 3.20. So sánh điểm trung bình tự đánh giá của mẹ với đánh giá của học
sinh về phong cách của mẹ. ............................................................................. 72
Bảng 3.21. Tương quan giữa phong cách làm cha với tự đánh giá của HS THPT ... 73
Bảng 3.22. Tương quan giữa phong cách của mẹ với tự đánh giá của học sinh
THPT ............................................................................................................... 74
Bảng 3.23. Tương quan giữa hành vi của mẹ với tự đánh giá của học sinh THPT ..... 75
vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Biểu đồ 2.1.Tỉ lệ giới tính thamgia vào ngiên cứu ......................................... 37
Biểu đồ 2.2. Điều kiện kinh tế của gia đình phân theo trường ....................... 38
Biểu đồ 2.3. Nghề nghiệp của cha học sinh phân theo trường ....................... 39
Biểu đồ 2.4. Nghề nghiệp của mẹ học sinh phân theo trường ........................ 40
Biểu đồ 2.5. Tình trạng hôn nhân của cha mẹ phân theo trường. ................... 40
Biểu đồ 3.1. Tự đánh giá tổng thể về bản thân ............................................... 52
Biểu đồ 3.2. Mức độ tự đánh giá về mặt học tập ............................................ 54
Biểu đồ 3.3. Mức độ tự đánh giá về mặt xã hội .............................................. 56
Biểu đồ 3.4. Mức độ tự đánh giá về mặt đạo đức ........................................... 57
Biểu đồ 3.5. Mức độ tự đánh giá về mặt thể chất ........................................... 59
Biểu đồ 3.6. Tự đánh giá về cảm xúc .............................................................. 59
Biểu đồ 3.8. Mức độ tự đánh giá cảm nhận hạnh phúc chủ quan ................... 60
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tự đánh giá là một hoạt động nhận thức, trong đó con người tự đánh giá
tổng thể các giá trị, khả năng của bản thân mình. Đây là một hoạt động quan
trọng mà các nghiên cứu trước đây đã cho thấy nó có ảnh hưởng đến sự phát
triển nhân cách của chủ thể và có mối quan hệ với kết quả học tập của học
sinh, sinh viên. Trên cơ sở nhận thức và đánh giá được mình, các em mới có
khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt động của bản thân cho phù hợp với yêu
cầu khách quan, mới giữ được quan hệ, giữ được vị trí xứng đáng trong xã
hội, trong lớp học, trong nhóm bạn.
Nếu mỗi cá nhân đánh giá tích cực về bản thân thì cá nhân ấy sẽ phấn
đấu để đến gần với “cái tôi lý tưởng” của chính mình. Ngược lại, đánh giá quá
cao bản thân, dẫn đến tự cao, coi thường người khác hoặc đánh giá quá thấp,
coi mình là bất tài, vô dụng sẽ để lại hậu quả đáng tiếc trong cuộc đời mỗi
người, đến sự phát triển lành mạnh và sự trưởng thành của cá nhân ấy.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tự đánh giá của học sinh. Bao
gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội như những trải nghiệm về thành
công và thất bại trong cuộc sống, qua sự so sánh, đối chiếu với ý kiến đánh
giá của những người xung quanh về bản thân từ gia đình, nhóm bạn, thầy cô
giáo…. Tìm hiểu các đề tài nghiên cứu khoa học trong nước cho thấy, có sự
ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ đến hành vi không thích nghi của trẻ
em Vị thành niên có rối loạn hành vi, có sự tương quan giữa phong cách làm
cha mẹ với lòng tự trọng của học sinh trung học cơ sở và tương quan giữa
phong cách làm cha mẹ đế kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Ngoài ra, chưa có đề tài nào nghiên cứu nào về “Tương quan giữa phong
cách làm cha mẹ với sự tự đánh giá bản thân của học sinh trung học phổ
thông” (HS THPT). Vì vậy đó là lý do để tôi thực hiện đề tài này với hi vọng
2
tìm ra được những ảnh hưởng khác của các phong cách làm cha mẹ đến sự phát
triển của HS THPT để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao sức khỏe
tinh thần cho các em học sinh là việc làm có ý nghĩa cả về thực tế lẫn lý luận.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu mối liên hệ giữa phong cách, hành vi làm cha mẹ với sự tự
đánh giá bản thân của HS THPT.
- Đề xuất một số giải pháp về việc áp dụng các phong cách làm cha mẹ
giúp học sinh tự đánh giá bản thân 1 cách tích cực.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về phong cách làm cha mẹ và sự tự
đánh giá của HS THPT.
- Khảo sát phong cách, hành vi làm cha mẹ và sự tự đánh giá bản thân
của HS THPT.
- Tìm hiểu tương quan giữa phong cách, hành vi làm cha mẹ với sự tự
đánh giá của con ở lứa tuổi HS THPT.
- Đề ra một số giải pháp
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Khảo sát trên 574 khách thể, gồm 290 học sinh
THPT đang học trong các trường trung học phổ thông tại Hà Nội và 284 phụ
huynh của các em.
- Đối tượng nghiên cứu: Tương quan giữa phong cách, hành vi làm cha
mẹ với sự tự đánh giá của con ở lứa tuổi HS THPT.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Có mối tương quan giữa các phong cách, hành vi làm cha mẹ với sự tự
đánh giá bản thân của HS THPT. Cụ thể:
- Cha mẹ áp dụng phong cách dân chủ và có hành vi ấm áp, nhất quán có
mối tương quan thuận với sự tự đánh bản thân của HS THPT.
- Cha mẹ áp dụng phong cách độc đoán, dễ dãi và có hành vi theo hướng
kiểm soát - áp đặt có tương quan nghịch với sự tự đánh bản thân của HS THPT.
3
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Năm học 2015-2016.
- Phạm vi không gian: Do thời gian có hạn vì vậy giới hạn của đề tài
được xác định trên HS THPT
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Tương quan giữa phong cách, hành vi
làm cha mẹ với sự tự đánh giá bản thân của HS THPT.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, tổng hợp trên tư liệu có sẵn.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi về các phong cách làm cha mẹ gồm: Sử dụng thang đo
hành vi của cha mẹ dành cho con CRPBI (Child’s Report of Parental
Behavior) do Earl S. Schaefer thuộc Viện sức khỏe tâm thần quốc gia Mỹ
nghiên cứu và phát triển. Thang đo gồm 30 câu hỏi, tương ứng với 3 kiểu
hành vi: Nồng ấm, áp đặt – kiểm soát, nhất quán.
Thang PAQ (Parental Authority Quesionnaire): Bộ câu hỏi về phong
cách làm cha mẹ, gồm 30 câu hỏi đánh giá các mức độ sau: Phong cách dân
chủ, phong cách độc đoán, phong cách dễ dãi - nuông chiều.
Thang đo tự đánh giá “Perceived compentence scale for children”
của Susan Harter xây dựng năm 1979.
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
8. Cấu trúc của luận văn
- Mở đầu
- Chương I: Cơ sở lý luận
- Chương II: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương II: Nội dung nghiên cứu
- Kết luận và khuyến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
4
9. Kế hoạch thực hiện
Thời gian Nhiện vụ
Tháng 1, 2 Xây dựng cơ sở lý luận
Tháng 3 Chuẩn bị công cụ, thư mời khách thể tham gia nghiên
cứu, phát phiếu điều tra số liệu
Tháng 4,5 Thống kê và xử lý số liệu
Tháng 6,7 Phân tích số liệu
Tháng 8, 9 Hoàn thiện nội dung nghiên cứu
5
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiêu cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ
Tổng quan các nghiên cứu trong nước và trên thế giới về phong cách làm
cha mẹ cho thấy các nghiên cứu của các tác giả thầu hết tập trung tìm hiểu về
thực trạng, các yếu tố tác động đến phong cách làm cha mẹ và những ảnh
hưởng của phong cách làm cha mẹ đến vấn đề hành vi, cảm xúc và kết quả
học tập của các đối tượng khác nhau. Sau đây là nội dung chi tiết về các
nghiên cứu này:
Nghiên cứu trong nước:
Nghiên cứu về thực trạng:
- Tác giả Vũ Thị Khánh Linh, trong nghiên cứu “Thực trạng về phong
cách giáo dục của cha mẹ học sinh trường THCS Trần Đăng Ninh – TP Nam
Định”, đã tiến hành trên 103 học sinh lớp 8, 9 và 103 cặp phụ huynh và giáo
viên chủ nghiệm của 2 lớp được nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
phong cách giáo dục dân chủ chiếm ưu thế nhất trong tổng số 103 gia đình
được nghiên cứu, còn gần một nửa số phụ huynh còn lại có phong cách giáo
dục độc đoán và tự do. Có sự chênh lệch giữa tự đánh giá của các bậc phụ
huynh về phong cách giáo dục của mình và nhận định của học sinh về phong
cách giáo dục của cha mẹ các em [30, tr. 17-23].
- Tác giả Phùng Thị Hiên, trong luận văn thạc sỹ “Mối tương quan giữa
cách ứng xử của cha mẹ với hành vi của trẻ tiểu học” ngành Tâm lý học lâm
sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục cho thấy mỗi cha mẹ tham
gia vào nghiên cứu đều có các cách ứng xử với con cái xen lẫn nhiều phong
cách khác nhau nhưng nhìn chung đa số cha mẹ đều ứng xử với con thiên về
một trong ba phong cách dễ dãi, độc đoán và dân chủ. Nhưng vẫn có những
cha mẹ ứng xử với con không nghiêng hẳn về bất kỳ phong cách nào, họ là
6
những người ứng xử theo phong cách tổng hợp. Trong đó, tỉ lệ cha mẹ có
cách ứng xử nghiêng về phong cách dễ dãi, nuông chiều là cao nhất và đều
thống nhất ở cả cha, mẹ và con; phong cách dân chủ (đánh giá từ cha mẹ)
hoặc phong cách độc đoán (đánh giá của trẻ) là thấp nhất [21, tr. 76-108].
Nghiên cứu về ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ đến vấn đề hành
vi và cảm xúc:
- Năm 2012, luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Bích Phượng ngành
Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục về “Ảnh
hưởng của phong cách làm cha mẹ đến hành vi không thích nghi của trẻ em vị
thành niên có rối loạn hành vi”. Nghiên cứu được thực hiện trên 342 khách
thể, gồm học sinh, cha mẹ và giáo viên của các em Trường Giáo dưỡng và
Trường THCS Hiệp Phước. Kết quả cho thấy, hai phong cách độc đoán và dễ
dãi, nuông chiều đều có tương quan với rối loạn hành vi hướng ngoại ở trẻ vị
thành niên Việt Nam. Có những biến số tác động đến mối quan hệ giữa phong
cách làm cha mẹ và rối loạn hành vi ở trẻ vị thành niên đó là số lượng thành viên
trong gia đình, trình độ học vấn của cha mẹ, nghề nghiệp của mẹ. [5, tr. 41].
- Năm 2013, luận văn thạc sỹ của tác giả Phùng Thị Hiên về “Mối tương
quan giữa cách ứng xử của cha mẹ với hành vi của trẻ tiểu học”. Nghiên cứu
được thực hiện trên tổng số 310 khách thể nghiên cứu... Kết quả nghiên cứu
cho thấy có mối tương quan thuận giữa phong cách dân chủ và cách ứng xử
thống nhất của cha mẹ với những hành vi tích cực của trẻ. Ở một số lĩnh vực,
phong cách dễ dãi, độc đoán của cha có tỉ lệ thuận với những hành vi tích cực
của trẻ, nhưng ở một số lĩnh vực hành vi nhất định, mẹ ứng xử theo phong
cách độc đoán, dễ dãi lại tỉ lệ thuận với hành vi tiêu cực ở trẻ. Phong cách
tổng hợp là phong cách bất lợi nhất cho sự phát triển của những hành vi tích
cực và hạn chế những hành vi tiêu cực của trẻ và nó thống nhất ở hầu hết dữ
liệu do trẻ và cha mẹ cung cấp [21, tr. 76-108].
7
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến phong cách làm cha mẹ:
- Nghiên cứu tác giả Vũ Thị Khánh Linh cũng chỉ ra yếu tố độ tuổi, trình
độ văn hóa, nghề nghiệp của các bậc phụ huynh có ảnh hưởng nhất định đến
việc hình thành ở họ những phong cách giáo dục khác nhau [30, tr. 17-23].
- Nghiên cứu tác giả Phùng Thị Hiên lại [21, tr. 76-108] chỉ ra các yếu tố
liên quan đến điều kiện sống hay trình độ học vấn của cha mẹ và nghề nghiệp,
tình trạng nghề nghiệp của mỗi người hầu như có liên hệ rất ít đến phong cách
làm cha mẹ [21, tr. 76-108].
Nghiên cứu trên thế giới:
Ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ đến sự phát triển của trẻ:
Trong các tác trên thế giới nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ và
những ảnh hưởng của các phong cách làm cha mẹ đến sự phát triển của trẻ.
Baumrind là người có nhiều đóng góp to lớn và sâu rộng về chủ đề này.
- Kết quả nghiên cứu của Baumrind cũng chỉ ra rằng, trẻ vị thành niên
của phong cách cha mẹ dân chủ học được cách thương lượng và kết nối trong
những thảo luận, trẻ hiểu và tự đánh giá được những ý kiến của bản thân. Kết
quả là, trẻ thể hiện mình tốt trong xã hội, sẵn sàng hợp tác với mọi người, có
trách nhiệm và có tính tự quyết cao.
- Cha mẹ độc đoán có khuynh hướng không khuyến khích tính độc lập
của trẻ và điều này làm hạn chế tính tự quyết nơi trẻ. Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng, trẻ vị thành niên của phong cách cha mẹ độc đoán học được rằng phải
tuân theo những quy định, luật lệ cha mẹ đưa ra, kết quả là trẻ vị thành niên
trở nên chống đối hoặc phụ thuộc và cha mẹ. Với những trẻ chống đối thường
bộc lộ bằng những hành vi gây hấn. Ngược lại, với trẻ trở nên phụ thuộc thì rất
dễ phục tùng và có khuynh hướng đeo bám và quá phụ thuộc vào cha mẹ. Chúng
thường cảm thấy buồn rầu, bất hạnh, bất lực, dễ hốt hoảng, không thân thiện.
- Trẻ vị thành niên của những cha mẹ dễ dãi - nuông chiều học được rằng
có rất ít ranh giới giữa những luật lệ cũng như hậu quả có được cũng không
8
quá quan trọng. Kết quả là, trẻ vị thành niên có lẽ rất khó tự kiểm soát bản
thân, hiếu chiến và có khuynh hướng chỉ coi trọng bản thân, hách dịch, điều
này cản trở trong việc phát triển mối quan hệ với các bạn cùng trang lứa.
- Cuối cùng, trẻ vị thành niên của cha mẹ thờ ơ – không quan tâm học
được rằng cha mẹ chúng có khuynh hướng thích thú với cuộc sống riêng tư
của bản thân và ít đầu tư cho việc chăm sóc con cái. Kết quả là trẻ vị thành
niên dần dần bộc lộ mô hình hành vi tương tự như cha mẹ chúng và trẻ tăng
hành vi bỏ mặc chuyện gia đình; có vấn đề trong việc tự điều chỉnh bản thân,
tăng hành vi bốc đồng, có tính hiếu chiến cao và có những biểu hiện bên
ngoài như cáu giận, thù địch, ích kỷ, nổi loạn; dễ dàng có những hành vi
chống xã hội, phạm pháp như: Nghiện rượu, lạm dụng ma túy, ứng xử tình
dục sai lệch, bỏ học và rất nhiều hành vi phạm pháp khác. Những trẻ này
không có mục đích dài hạn có ý nghĩa [18, tr. 161-167, tr. 731-734].
Các nghiên cứu ở phương Tây, từ năm 1970 về phong cách làm cha mẹ
đã khẳng định , trong bốn loại phong cách làm cha mẹ thì phong cách dân chủ
là tối ưu nhất trong việc cải thiện hành vi của con cái, trong khi đó ba loại
phong cách làm cha mẹ còn lại là phong cách độc đoán, phong cách dễ dãi,
phong cách thờ ơ đều có những tác động ít nhiều tiêu cực đến hành vi xã hội,
thành tích học tập, các vấn đề hành vi và vấn đề cảm xúc. Cho thấy có mối
tương quan chặt chẽ giữa phong cách làm cha mẹ dân chủ, ấm áp với những
hành vi vâng lời. Ngược lại phong cách độc đoán, bỏ mặc hoặc quá nuông
chiều và có những hành vi lạnh lùng, thiếu nhất quán có liên hệ với rối loạn
hành vi ở trẻ, bao gồm hung tính, trộm cắp, bạo lực, lừa dối đến những vấn đề
rối loạn cảm xúc như lo âu, trầm cảm (dẫn theo [22, tr. 47-60].)
Nghiên cứu của Coplan, Reichel và Rowan (2009) tiến hành tìm hiểu
mối quan hệ phong cách, hành vi của cha mẹ và khả năng tự chủ, kiểm soát
cảm xúc ở con cái đã khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa hành vi làm cha
mẹ và khả năng kiểm soát cảm xúc ở trẻ vị thành niên. Cụ thể là trẻ VNT
9
sống trong những gia đình cha mẹ ấm áp, phát huy tính dân chủ và có khả
năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn những gia đình bố mẹ độc đoán và quá bao
bọc con cái [34, tr. 241-268].
Nghiên cứu ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ đến kết quả học tập
Một số nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ liên hệ đến thành tích học
tập của con. Nghiên cứu của Pratt, Green, MacVicar và Bountrogianni (1992)
chỉ ra rằng những trẻ sống trong gia đình có phong cách dân chủ có kết quả
học tập môn toán khá hơn những trẻ sống trong gia đình có phong cách độc
đoán. Trẻ ở những gia đình nuông chiều cũng có kết quả học tập nói chung
kém. Nghiên cứu trong nhóm đối tượng sinh viên đại học, thì phong cách cha
mẹ dân chủ trong suốt thời gian các em ở trong giai đoạn vị thành niên có thể
dùng để dự đoán sự khỏe mạnh về tinh thần cũng như sự thành công trong học
đường. Nghiên cứu cũng khẳng định rằng phong cách cha mẹ dân chủ đặc
trưng bằng sự nồng ấm, có những nguyên tắc để quản lý hành vi và chú ý phát
triển tính tự lập của con cái có liên quan đến động cơ học tập cao và tỉ lệ
thuận với điểm số GPA ở đại học [34, tr.17–34.]
1.1.2. Nghiên cứu về tự đánh giá
Nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu của các tác giả trong nước về TĐG khá phong phú. Các
hướng nghiên cứu bao gồm: đặc điểm, mức độ tự đánh giá; mối quan hệ giữa
tự đánh giá và kết quả học tập của học sinh, sinh viên; nghiên cứu về các yếu
tố ảnh hưởng đến tự đánh giá.
Nghiên cứu về đặc điểm, mức độ TĐG có các công trình nghiên cứu
của các tác giả Vũ Thị Nho, Văn Thị Kim Cúc, Đỗ Ngọc Khanh, Trương
Quang Lâm, Cao Hải An ở các lứa tuổi khác nhau như sau:
- Nghiên cứu về một số đặc điểm tự đánh giá của học sinh cuối bậc tiểu
học, tác giả Vũ Thị Nho đã thực hiện nghiên cứu về khả năng TĐG phù hợp,
ổn định của HS cuối bậc tiểu học, nghiên cứu được thực hiện trên 500 học
10
sinh lớp 4 và lớp 5 theo trình độ học lực (khá, giỏi, trung bình, yếu) tại 6
trường tiểu học của TP Hà Nội và Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu cho
thấy “HS cuối bậc tiểu học đã có khả năng TĐG những phẩm chất nhân cách
cơ bản của người học sinh, người đội viên; song việc TĐG phù hợp và ổn
định chiếm tỉ lệ chưa cao và phụ thuộc khá rõ vào nội dung, chuẩn đánh giá
cũng như trình độ học lực. Học sinh giỏi TĐG phù hợp và ổn định trội hơn
hẳn so với HS các loại khác”. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa một số khuyến nghị
sau “đối với học sinh cuối bậc tiểu học, việc nâng cao chất lượng học tập, khả
năng nhận thức là một trong những con đường nâng cao khả năng TĐG của
các em, giúp các em “hết mình” và chính xác trong sự định hướng, điều chỉnh
và tự giáo dục một cách hiệu quả”. Theo tôi, đây là một đề tài hiếm hoi trong
số các đề tài nghiên cứu về tự TĐG tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến
sự TĐG và đề ra các kiến nghị để nâng cao TĐG của học sinh [31, tr. 58 ].
- Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu của các tác giả Văn Thị Kim Cúc, Đỗ
Ngọc Khanh, Trương Quang Lâm, Cao Hải An, Nguyễn Văn Lượt, Bùi Thu Hà
cho thấy TĐG của HS THCS, HS THPT và sinh viên ở mức trung bình.
Trong đó nghiên cứu của tác giả Văn Thị Kim Cúc được thực hiện trên
120 trẻ từ 10 đến 15 tuổi, gồm 60 trai, 60 gái, được lựa chọn ngẫu nhiên ở
một số trường THCS tại Hà Nội trên 3 lĩnh vực: cái tôi thể chất, cái tôi cảm
xúc và cái tôi trường học. Sự tự đánh giá bản thân của học sinh bộc lộ tính
tích cực ở lĩnh vực học đường thể hiện rõ khả năng đáp ứng thích hợp của các
em vào các hoạt động chủ đạo, vào các quan hệ trong khuôn viên cuộc sống
học đường của giai đoạn lứa tuổi này. Hơn nữa sự đánh giá về cảm xúc của
bản thân cũng tỏ ra khả quan cho phép các em làm chủ tốt các tình huống này
sinh của tuổi đầu thanh niên. Tuy nhiên các em đánh giá thấp về hình thức và
các năng lực thể chất của các em, cho thấy các em không kịp thích nghi, còn
quá bỡ ngỡ về những thay đổi nhanh chóng của cơ thể mình
11
Còn nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh được thực hiện trên 471
khách thể nghiên cứu là các em học sinh THCS tại 5 trường THCS ở 4 quận
nội thành Hà Nội. Nói chung, sự TĐG về học tập, đạo đức, xã hội của học
sinh THCS tại Hà Nội đạt mức trung bình cao. Sự TĐG về mặt thể chất ở
mức trung bình. Trong đó, các em học sinh đánh giá sức khỏe tích cực hơn
đánh giá về hình dáng bản thân. Sự TĐG về mặt cảm xúc đạt mức trung bình
thấp. Các em có sự TĐG về cảm xúc tiêu cực liên quan đến khía cạnh học tập,
trong khi đó cảm xúc tích cực thường liên quan đến quan hệ xã hội.
- Nghiên cứu của tác giả Trương Quang Lâm, thực hiện nghiên cứu trên
256 cặp khách thể gồm học sinh và phụ huynh cùng 6 giáo viên chủ nhiệm
trên 3 khối lớp 10, lớp 11, lớp 12 tại trường THPT Tô Hiệu, Hà Nội. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, đa số học sinh có TĐG phù hợp với đánh giá của cha mẹ
và giáo viên. TĐG của học sinh không đồng đều ở các mặt, trong đó học sinh
đánh giá cao hơn ở mặt giao tiếp xã hội, định hướng tương lai và về thể chất
ngoại hình. TĐG về mặt học tập thấp hơn, gần đạt mức trung bình [25, tr.
107-108].
- Nghiên cứu của tác giả Cao Hải An kết luận, các khách thể nghiên cứu
nhận thấy bản thân có giá trị nhất định, về cơ bản, họ thấy mình có một số
phẩm chất tốt, cho rằng bản thân có khả năng làm việc tốt như những người
khác. Họ cũng có sự hài lòng nhất định về bản thân. Tuy nhiên, các khách thể
nghiên cứu chưa nhận thức một cách thực sự đầy đủ về những năng lực, phẩm
chất nhân cách của bản thân, chưa có được sự tôn trọng cao đối với bản thân
mình” [3, tr. 91-92].
- Như vậy nghiên cứu TĐG ở các đối tượng khách thể có lứa tuổi khác
nhau đều cho thấy TĐG ở mức độ trung bình [7, tr. 26-27, tr. 30], [27, tr. 20],
[25, tr. 107-108], [3, tr. 91-92], [19, tr. 58-69]. Tuy nhiên, luận văn thạc sỹ
của tác giả Hoàng Thu Huyền tiến hành nghiên cứu trên 290 học sinh lớp 5 tại 3
trường tiểu học trong địa bàn Hà Nội. Kết quả cho thấy, tự đánh giá tổng thể của
học sinh lớp 5 qua 2 lần nghiên cứu đều ở mức trung bình khá [10, tr 86-87].
12
NC mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập:
Các nghiên cứu về mối tương quan giữa TĐG và kết quả học tập là khác
nhau.Trong khi luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thu Huyền, nghiên cứu đề
tài “Tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp
5 tại Hà Nội”, cho thấy, không có mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân
tổng thể, tự đánh giá bản thân về thể chất, học đường, xã hội ở cả 2 lần nghiên
cứu với kết quả học tập [10, tr 86-87].
- Ngược lại, trong nghiên cứu “Mối tương quan giữa tự đánh giá bản
thân và kết quả học tập của học sinh THPT” của tác giả Nguyễn Thị Thủy cho
thấy có mối liên hệ mật thiết giữa ĐGBT và kết quả học tập của HS THPT, cụ
thể là những em xếp loại học lực khá, giỏi đánh giá bản thân cao hơn những
em xếp loại học lực trung bình. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả
nghiên cứu của tác giả Cao Hải An trên sinh viên đại học công nghiệp Quảng
Ninh “Có mối tương quan giữa TĐG bản thân và kết quả học tập của sinh
viên, cụ thể là những sinh viên có học lực khá có sự TĐG bản thân tích cực
hơn những sinh viên có học lực trung bình” [17, tr. 70-71], [3, tr. 91-92].
NC mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và sức khỏe tâm thần.
- Trong bài viết “Vai trò của tự đánh giá bản thân đối với rối loạn stress
sau sang chấn ở phụ nữ sau sinh”, TS. Bùi Thị Hồng Thái lấy từ kết quả
nghiên cứu trên 1.134 sản phụ mới sinh con trong vòng 12 tháng trở lại tại 3
thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh. Bài báo chỉ ra rằng “Tự đánh
giá bản thân cao làm giảm rối loạn stress sau sang chấn ở sản phụ. Bên cạnh
đó, tự đánh giá bản thân có thể điều tiết mối quan hệ giữa những yếu tố không
thuận lợi với rối loạn stress. Theo đó, những sản phụ trong hoàn cảnh kinh tế
sa sút, điều kiện hôn nhân không tốt, không có sự trợ giúp sau sinh sẽ càng
tăng điểm rối loạn stress khi kết hợp với tự đánh giá bản thân ở mức thấp.
Trong khi đó, các yếu tố này không trở thành nguy cơ đối với rối loạn stress
sau sang chấn khi sản phụ tự đánh giá bản thân ở mức chuẩn và mức cao” [2,
tr. 47– 49].
13
- Một bài viết khác “Mối liên hệ giữa tự đánh giá và cảm nhận về hạnh
phúc của sinh viên”, được tác giả Nguyễn Văn Lượt, Bùi Thu Hà khảo sát
trên 124 sinh viên trên địa bàn Hà Nội cho thấy giữa TĐG và cảm nhận về
hạnh phúc của sinh viên có mối tương quan thuận, tương đối chặt chẽ, giữa
các mặt TĐG (thể chất, xã hội, học đường, gia đình) và cảm nhận về hạnh
phúc của sinh viên (tâm lý, cảm xúc và xã hội) [19, tr. 58-69].
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá:
Từ kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Nho cho chúng ta thấy kết quả học
tập có ảnh hưởng đến khả năng tự đánh giá của học sinh. Ngoài ra tác giả
cũng nhận định rằng “trình độ nhận thức và trình độ học lực đã ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng tự đánh giá” [31, tr. 58 ].
- Nghiên cứu của tác giả Trương Quang Lâm cho thấy có sự khác biệt
trong TĐG giữa 2 giới, về mặt giao tiếp xã hội, mặt học tập, định hướng
tương lai nhìn chung nữ có TĐG cao hơn nam ở 3 mặt này, trong khi đó các
em nam có TĐG cao hơn so với các em nữ về mặt thể chất. So sánh mức độ
tự đánh giá của các khối lớp cho thấy, học sinh khối 11 có TĐG thấp hơn học
sinh khối 10 và 12 trên các mặt được đánh giá, trong đó học sinh khối 12 có
TĐG cao nhất. Cuối cùng tác giả khẳng định “con cái có mức độ TĐG cao
khi bố mẹ có cách ứng xử quan tâm, tích cực và ngược lại, con cái có TĐG
thấp khi cha mẹ ít quan tâm, thờ ơ hoặc có cách ứng xử phê phán tiêu cực”
[25, tr. 107-108].
- Theo tác giả Đinh Thị Tứ “tự đánh giá của con người được hình thành
và phát triển trong quá trình giao tiếp với mọi người xung quanh, trong quá
trình hoạt động và sinh hoạt tập thể và cuối cùng tự đánh giá được hình thành
và phát triển mạnh mẽ trong quá trình cá nhân tích cực hoạt động cải tạo
chính bản thân mình. Ba con đường trên đây nó có liên hệ mật thiết với nhau,
hai con đường đầu được coi là nguồn gốc để nảy sinh và phát triển khả năng
tự đánh giá. Con đường thứ ba là con đường quan trọng có ảnh hưởng quyết
định tới sự hình thành và phát triển tự đánh giá” [4, tr. 28].
14
Tóm lại, các nghiên cứu trong nước cho thấy các tác giả đã triển khai nhiều
công trình khoa học để tìm hiểu về thực trạng tự đánh giá của các đối tượng
khác nhau; nghiên cứu mối quan hệ giữa tự đánh giá với kết quả học tập và
vấn đề sức khỏe tâm thần, các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân.
NC trên thế giới
TĐG là một đề tài được quan tâm nghiên cứu nhiều trên thế giới. Riêng
ở Pháp, thống kê cho thấy chỉ trong vòng hơn 10 năm cuối thế kỷ XX đã có
hơn 20.000 công trình nghiên cứu về TĐG [28, tr. 24 – 31]. Còn theo thống
kê của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ trong vòng 30 năm kể từ 1967 đến 1996 đã
có 13587 các bài viết về TĐG được xuất bản [6, tr. 48- 49, tr. 33, tr. 176]. Có
nhiều cách tiếp cận và các quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về tự đánh
giá nhưng nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới
tập trung vào các vấn đề lớn như: Nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, nội dung,
quá trình hình thành và phát triển của TĐG, vai trò cũng như ảnh hưởng của
nó đến sự phát triển nhân cách con người” [19, tr. 58-69].
- Các tác giả nghiên cứu về nguồn gốc TĐG “Trường phái phân
tâm mới mà cụ thể là Sullivan, Horney và Fromm thì đánh giá cao tầm quan
trọng của TĐG nhưng chỉ coi nó như một chủ đề riêng lẻ chứ không coi nó là
trung tâm trong lý thuyết của họ. Adler nhìn nhận một cách rõ ràng, tầm quan
trọng của TĐG nhưng ông quan tâm đến vấn đề này để áp dụng vào trị liệu
hơn là để giải thích về lý thuyết. Roger cũng quan tâm đến TĐG nhưng chủ
yếu là bàn về bản chất chung của các trải nghiệm của khách thể và sự chấp
nhận về kinh nghiệm của cá nhân. Có thể nói W.James, GH, Meaf và
C.Cooley là những nhà tâm lý học đầu tiên nghiên cứu về sự TĐG và để lại
ảnh hưởng cho các thế hệ tâm lý học sau này. Họ quan tâm đến nguồn gốc
của TĐG cao và thấp... Các nhà tâm lý học Xô Viết như Rubinstein,
Ruvinski, Colovia, Adreeva và Petrevski chịu ảnh hưởng bởi tâm lí học hoạt
động cũng chỉ nghiên cứu TĐG như một phần trong khi nghiên cứu nhân
15
cách. Chỉ từ 30 năm trở lại đây mới có nhiều nghiên cứu sâu rộng về TĐG
của các nhà tâm lý học khác trên thế giới như: Harter, Baumerster, Lipkinna,
Franz v.v...” [7, tr. 26-27, tr. 30].
- Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá:
Nói về vấn đề này, các nhà nghiên cứu đưa ra ba quan điểm về các yếu
tố ảnh hưởng đến sự tự đánh giá, bao gồm: Các yếu tố xã hội, các yếu tố bên
trong cá nhân và các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài.
Thứ nhất, tự đánh giá ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội như sự đánh giá,
chấp nhận của những người xung quanh; từ mối quan hệ liên nhân cách với
các thành viên trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ; các trải nghiệm của cá nhân
về mối quan hệ sớm với cha mẹ; ảnh hưởng bởi nhóm xã hội mà cá nhân
tham gia vào.
Với quan điểm cho rằng sự tự đánh giá của cá nhân bị ảnh hưởng bởi
sự đánh giá, chấp nhận của người khác, G.H.Mead (1934) cho rằng một người
được xác định bởi sự đánh giá của người khác về anh ta, “anh ta đánh giá cao
bản thân khi được người khác chấp nhận, đánh giá thấp và hạ mình xuống khi
họ bác bỏ, từ chối hoặc hạ thấp anh ta” (dẫn theo [5, tr. 41]). Charles Horton
Cooley (1902) cũng cho rằng “đánh giá về giá trị của bản thân” là một sự xây
dựng xã hội. Các đánh giá mà chúng ta có về bản thân chúng ta đều bị chi
phối bởi sự tương tác xã hội với những người khác…Cá nhân nhìn vào đó và
rút ra được các ý tưởng từ các ý kiến mà người khác có về anh ta. Đánh giá
bản thân của cá nhân sẽ cao khi mọi người có ý kiến tốt về cá nhân đó và sẽ
thấp nếu ngược lại, mọi người có ý kiến không hay về cá nhân”. (dẫn theo
[27, tr. 20]).
Ảnh hưởng của mối quan hệ liên nhân cách, Sullivan (1953) và
Winnicott (1958) nhấn mạnh rằng chất lượng của các mối quan hệ tương tác
mẹ - con có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tình cảm về bản thân. Những bố
mẹ sáng suốt, đúng đắn luôn biết khích lệ và nâng đỡ các ý tưởng của trẻ
16
nhằm giúp trẻ làm chủ tốt với các tình huống đặt ra. Điều này làm thuận lợi
cho việc nhập tâm đến các tri giác tích cực về bản thân (Harter, 1998).
Bowlby (1982) cho rằng trẻ được sống cùng bố mẹ có thời gian dành cho trẻ,
biết yêu trẻ và biết khích lệ trẻ sẽ xây dựng mô hình tích cực về bản thân,
ngược lại trẻ cảm thấy không an toàn, bị chối bỏ, không cảm thấy bố mẹ dành
thời gian cho mình, không nhận được những lời động viên, khuyến khích sẽ
xây dựng mô hình tiêu cực về bản thân (dẫn theo [27, tr. 20]).
Những trải nghiệm trong gia đình cũng là yếu tố được Felson và
Zielinski (1989) đánh giá là yếu tố có ảnh hưởng tới sự đánh giá bản thân,
một danh sách các sự kiện tiêu cực ở tuổi thơ như có cha mẹ ly dị, tái kết hôn,
bị điên hoặc bị chết có liên quan tới sự TĐG thấp của trẻ sau này. Trong
nghiên cứu của mình Wallerrstein và Kelly tìm ra rằng trẻ em ở mọi lứa tuổi
trong các gia đình tái hôn đều có điểm số TĐG thấp. Những trải nghiệm gia
đình giai đoạn đầu đời được Horney đặc biệt chú ý và nhấn mạnh rằng mối
quan hệ sớm giữa mẹ con ảnh hưởng rất nhiều lên sự hình thành TĐG (dẫn
theo [1, tr. 17-18, tr. 67, tr. 263-282])
Ảnh hưởng của nhóm xã hội mà cá nhân tham gia vào, như năng lực
của những người trong nhóm cũng như vị trí của cá nhân trong nhóm cũng
được Mendelson & White (1985) và Kail (1998) coi là nguồn gốc của TĐG.
Kail cho rằng, TĐG phụ thuộc vào trình độ của những người trong nhóm xã
hội mà trẻ tham gia hay mức độ đòi hỏi của nhóm đó. Trẻ luôn so sánh mình
với những trẻ ở gần chúng. Như vậy các nhóm nhỏ chính là yếu tố gây ảnh
hưởng đến đánh giá bản thân của trẻ nhiều nhất. Ngoài ra vị trí của cá nhân
trong nhóm xã hội cũng được Mendelson & White (1985) chú ý đến. Các ông
cho rằng khi học sinh rời trường tiểu học với tư cách là những học sinh lớn
nhất và được tôn trọng nhất để chuyển sang trường trung học cơ sở, nơi mà họ
sẽ trở thành những học sinh nhỏ nhất và có ít am hiểu nhất cũng làm giảm
thiểu TĐG. (dẫn theo [1, tr. 17-18, tr. 67, tr. 263-282])
17
Tóm lại, các tác giả nêu trên đã chỉ ra những nhân tố xã hội bao gồm: Sự
đánh giá, chấp nhận của những người xung quanh; các mối quan hệ liên nhân
cách, đặc biệt là cha mẹ; các trải nghiệm của cá nhân và những tác động của
nhóm xã hội mà cá nhân tham gia vào… có tác động đến TĐG. Tuy nhiên,
TĐG không chỉ bị chi phối hoàn toàn bởi các yếu tố bên ngoài mà còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố bên trong cá nhân. Chính vì vậy, một số tác giả đã
tiến hành nghiên cứu các yếu tố bên trong của TĐG.
Thứ hai, tự đánh giá ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong cá nhân
như: Sinh lý, sức khỏe thể chất, sự phát triển về mặt nhận thức, sự kỳ vọng và
các thành tích mà cá nhân đạt được.
Trước hết, một số tác giả theo hướng này nhận thấy rằng, yếu tố sinh
học có tác động đến TĐG, Laurence Steiberg (1993) cho rằng ở các em nữ
thời điểm bộc lộ các dấu hiệu của tuổi dậy thì là một nguyên nhân ảnh hưởng
đến sự tự đánh giá. Nghiên cứu các em nữ người Mỹ cho thấy rằng các em nữ
trưởng thành sớm có sự tự tin thấp và quan niệm về bản thân nghèo nàn (dẫn
theo [6, tr. 48- 49, tr. 33, tr. 176]
Một yếu tố quan trọng nữa là tình trạng sức khỏe thể chất của trẻ cũng
ảnh hưởng đến TĐG. Alfred Adler và Schultz (1992) đã đề cập đến ảnh
hưởng của sức khỏe thể chất yếu ớt và bệnh tật trong việc gây ra TĐG thấp.
Mendelson và White kết luận rằng một vài học sinh trung học cơ sở có mức
độ tự đánh giá thấp hơn nếu họ tăng cân một cách nhanh chóng (dẫn theo [1,
tr. 17-18, tr. 67, tr. 263-282].. Những nam thiếu niên cho rằng mình quá nhỏ
hoặc thiếu cân cũng có TĐG thấp và có thể tham gia vào các hành vi nguy
hiểm cho sức khỏe như tập thể hình quá mức và sử dụng hóc môn Steroid (Mc
Creary & Sasse 2000) (dẫn theo [1, tr. 17-18, tr. 67, tr. 263-282].
Theo W.James (1892) là người có đóng góp rất lớn trong lĩnh vực này,
ông xem sự đánh giá bản thân là “ý thức về giá trị của cái tôi”. Theo ông, sự
đánh giá bản thân không thể quy về một tri giác trung bình của sự thành công
18
và thất bại trên đường đời của chúng ta, mà là một mối liên hệ giữa các thành
công, thất bại và cái mà ông gọi là “những tham vọng”, có nghĩa là những
khát vọng mà chúng ta mong muốn đạt được. Một cá nhân sẽ có một sự đánh
giá bản thân cao trong chừng mực mà những thành tích đạt được ngang tầm
hoặc cao hơn những khát vọng, những chờ đợi của anh ta. Ngược lại, các khát
vọng và những mong đợi lớn hơn so với những thành tích mà cá nhân đạt
được, thì anh ta lại có sự đánh giá thấp về bản thân, mặc dù có thể những
thành tích mà anh ta đạt được cao hơn nhiều so với những người bạn cùng lứa
với anh ta. Sâu hơn nữa, James còn cho rằng một lĩnh vực nào đó không quan
trọng đối với cá nhân thì những thành tích hay thất bại trong lĩnh vực này không
ảnh hưởng đến sự đánh giá bản thân của cá nhân đó. (dẫn theo [27, tr. 20].
Sau này, Rosenberg (1979), Harter (1986, 1990a, 1993) sau nhiều năm
nghiên cứu, đã có kết luận rằng: Bắt đầu từ tuổi thứ 8, sự tự đánh giá bản thân
sẽ bị chi phối trực tiếp với cách thức mà trẻ tri giác về các năng lực của trẻ
trong lĩnh vực mà sự thành công được xem là quan trọng. Điều này được
khẳng định bởi những nghiên cứu so sánh về cái tôi lý tưởng và cái tôi thực
tế. Sự chênh lệch giữa cái tôi lý tưởng và cái tôi thực tế càng lớn, thì sự tự
đánh giá bản thân càng thấp (Glick & Zigler, 1985; Higgins, 1987,1991;
Teser & Campbell, 1983). Đối với trẻ nhỏ hơn, nếu các em càng có niềm tin
lớn về bản thân, càng có sự đánh giá cao về bản thân. (dẫn theo [27, tr. 20]).
Showers (1992) cho rằng sự hợp nhất các suy nghĩ tiêu cực và tích cực
có ảnh hưởng đến TĐG. Những người có TĐG cao biết kết hợp những thành
tố tích cực và tiêu cực trong cái tôi của họ. Sự hợp nhất các suy nghĩ tích cực
và tiêu cực về bản thân giúp kiểm soát tình cảm về cái tôi và tạo ra TĐG tích
cực. Nhưng nhiều người có suy nghĩ tích cực và tiêu cực tách biệt nhau, khi
họ nghĩ “tôi là người vụng về trong giao tiếp xã hội” đồng thời họ lại có
những suy nghĩ tiêu cực khác như “tôi là người bấp bênh”. Điều này hay xảy
ra ở người trầm cảm.
19
Các nghiên cứu của một số tác giả khác cho thấy, quá trình tâm lý của
cá nhân gồm khả năng tri giác như: Tự quan sát, thu thập thông tin; so sánh
đối chiếu hay còn gọi là kiểm tra độ tin cậy của thông tin đó; nhận thức của
mỗi cá nhân về tiêu chuẩn đánh giá có ảnh hưởng đến TĐG (dẫn theo [1, tr.
17-18, tr. 67, tr. 263-282]).
Như vậy, các nhà nghiên cứu quan niệm TĐG ảnh hưởng bởi yếu tố bên
trong đã chỉ ra rằng, TĐG bị tác động bởi các yếu tố: Sinh lý; sức khỏe thể
chất; mối liên hệ giữa các thành công, thất bại và sự kỳ vọng của cá nhân, sự
sự thống nhất giữa cái tôi lý tưởng và cái tôi thực tế, sự kết hợp giữa suy nghĩ
tích cực và suy nghĩ tiêu cực,…
Có thể thấy rằng, hai quan điểm trên, một cho rằng TĐG bị tác động bởi
các yếu tố xã hội, một cho rằng TĐG bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong
cá nhân là những quan điểm chưa phản ảnh một cách toàn diện các tác động
lên TĐG bởi cả hai yếu tố ấy đều chi phối sự TĐG. Do vậy xuất hiện một hướng
nghiên cứu nữa là sự kết hợp cả yếu tố bên trong và bên ngoài đến TĐG.
Thứ ba, tự đánh giá ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài
Tự đánh giá liên quan chặt chẽ với mối quan hệ qua lại của con người
với những người xung quanh; với sự đánh giá, chấp nhận của người khác; với
mức độ kỳ vọng, mức độ vươn lên, tức là mức độ khó khăn của những mục
đích mà con người đặt ra cho mình; kinh nghiệm của xã hội và tập thể được
cá nhân lĩnh hội cũng đóng vai trò to lớn trong việc hình thành tự đánh giá
[29]. Tóm lại, tự đánh giá ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài
chủ thể.
Rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã được thực hiện, giúp
con người hiểu biết một cách tường tận và đầy đủ về vấn đề tự đánh giá bản
thân và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của con người. Tuy nhiên, các
nghiên cứu của các tác giả trong nước về tự đánh giá khá phong phú nhưng
mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh mà các tác giả quan tâm như ảnh
20
hưởng của tự đánh giá đến kết quả học tập của học sinh, sinh viên và đến vấn
đề sức khỏe tâm thần, ít có các công trình nghiên cứu sâu về các yếu tố ảnh
hưởng đến tự đánh giá bản thân. Đó là lí do chúng tôi chọn thực hiện đề tài
nghiên cứu về vấn đề này.
1.1.3. Các hướng nghiên cứu tương quan giữa phong cách, hành vi
làm cha mẹ và tự đánh giá.
Các nghiên cứu về mối liên hệ giữa phong cách làm cha mẹ với TĐG ở trong
nước và trên trên thế giới đều cho thấy có sự tương quan ở các mức độ khác
nhau giữa các loại phong cách làm cha mẹ với các khía cạnh của tự đánh giá.
NC trong nước
Các nghiên cứu về tương quan giữa phong cách, hành vi làm cha mẹ với
TĐG ở trong nước cho thấy có sự tương quan nhưng chủ yếu ở mức trung
bình hoặc thấp.
- Trong luận án tiến sỹ Tâm lý học của tác giả Đỗ Ngọc Khanh đã tìm
hiểu vai trò của cha mẹ đối với sự tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, ứng xử của cha mẹ đóng một vai trò quan
trọng đối với tự đánh giá của học sinh THPT, con cái càng có mức độ tự đánh
giá cao khi bố mẹ có ứng xử yêu thương, khích lệ, quan tâm và ngược lại
chúng sẽ có mức độ tự đánh giá thấp khi cha mẹ ít quan tâm, ít yêu thương,
khích lệ, có mức độ hà khắc và ghét bỏ cao [6, tr. 48- 49, tr. 33, tr. 176].
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Thảo với đề tài “Tìm hiểu mối
tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự trọng của học sinh trung
học cơ sở” cho thấy: Có tương quan nghịch giữa phong cách độc đoán,
phong cách nuông chiều, hành vi làm cha mẹ kiểm soát do học sinh khai báo
với lòng tự trọng của học sinh trung học cơ sở, tuy nhiên mức độ tương quan
chỉ ở mức trung bình. Tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng đến mối quan hệ
giữa lòng tự trọng và hành vi làm cha mẹ nhất quán [9].
21
- Phong cách, hành vi làm cha mẹ có ảnh hưởng đến rối loạn hành vi của
thanh thiếu niên. Cụ thể là dự báo được các nhóm rối loạn lo âu trầm cảm, thu
mình trầm cảm, than phiền cơ thể, vấn đề xã hội, vấn đề tư duy, vấn đề chú ý,
hành vi xâm kích, hành vi phá luật. Phong cách dễ dãi nuông chiều ảnh hưởng
nhiều nhất và góp phần dự báo 7/8 nhóm rối loạn, tiếp theo là phong cách độc
đoán dự báo 5/8 nhóm rối loạn. Kết quả này được TS. Trần Thành Nam công
bố trong bài biết “mối quan hệ giữa phong cách hành vi làm cha mẹ và các
biểu hiện rối loạn hành vi cảm xúc ở thanh thiếu niên”, dựa trên kết quả
nghiên cứu trên 344 khách thể nghiên cứu để rút ra kết luận [22, tr. 47-60].
- Ngoài ra nghiên cứu của tác giả Phùng Thị Hiên cho thấy mẹ ứng xử
theo phong cách độc đoán, dễ dãi lại tỉ lệ thuận với hành vi tiêu cực ở trẻ.
Phong cách tổng hợp là phong cách bất lợi nhất cho sự phát triển của những
hành vi tích cực và hạn chế những hành vi tiêu cực của trẻ [21, tr. 76-108].
NC trên thế giới
Một nghiên cứu được thực hiện trên 120 thanh niếu niên trong độ tuổi
16-18 (60 nam- 60 nữ) ở Delhi và NCR tại Ấn Độ. Trẻ vị thành niên được
chọn là những người không mắc bất cứ khuyết tật nào cả về tinh thần và thể
chất, tham gia giáo dục thường xuyên tại trường học, có cùng môi trường kinh
tế - xã hội, sống trong một gia đình hạt nhân không bị tan vỡ, và có mẹ là nội
trợ. Nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể nào giữa ảnh
hưởng của phong cách nuôi dạy dễ dãi và dân chủ của cả cha và mẹ đến tự
đánh giá của trẻ. Và trong phần lớn các trường hợp, cả hai phong cách này
đều giúp trẻ có được lòng tự trọng cao hơn so với phong cách độc đoán của
người cha cũng như của người mẹ. Phong cách nuôi dạy độc đoán của bố mẹ
có sự tác động tiêu cực đáng kể đến tự đánh giá của đứa con trong độ tuổi vị
thành niên của họ [35, tr. 28-38]
Tóm lại, tổng hợp các nghiên cứu trong nước và trên thế giới về tương
quan giữa các phong cách làm cha mẹ với tự đánh giá chúng tôi không phát
22
hiện thấy nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu tìm hiểu về ảnh hưởng của phong cách, hành vi làm cha mẹ
và tự đánh giá đến các vấn đề hành vi, cảm xúc, kết quả học tập và các yếu tố
ảnh hưởng đến phong cách làm cha mẹ, đến tự đánh giá của trẻ em và thanh
thiếu niên,
1.2. Một số vấn đề về lý luận
1.2.1. Khái niệm tương quan
“Tương quan là một số đo lường về mối liên hệ giữa hai biến số” [23].
Trong nghiên cứu này, tìm hiểu “tương quan giữa phong cách làm cha mẹ với
sự tự đánh giá bản thân của học sinh trung học phổ thông” là nghiên cứu đo
lường mối liên hệ giữa phong cách làm cha mẹ với sự tự đánh giá bản thân
của học sinh trung học phổ thông.
Theo nghĩa thông thường, tương quan được hiểu là có quan hệ qua lại với
nhau; Có mối quan hệ so sánh với nhau [15].
Khái niệm tương quan thường được dùng trong thống kê học để chỉ mối
quan hệ tuyến tính giữa hai biến số khác nhau. Tương quan (corelation) giữa
hai biến số cho thấy nếu một thay đổi về lượng của một biến số đi kèm theo
một thay đổi có thể so sánh được về lượng của một biến số khác và sự thay
đổi của biến số thứ hai không xảy ra nếu không có sự thay đổi của biến số thứ
nhất thì những biến số này được cho là có tương quan với nhau [24, tr. 1604].
Có nhiều cách đánh giá mối quan hệ này trong Thống kê học, tương
quan pearson là một trong số đó.
Theo từ điển Thuật ngữ tâm lý học (Vũ Dũng, 2010), tương quan
Pearson là quan hệ tuyến tính giữa hai đại lượng X và Y dùng để tính mức độ
quan hệ chặt chẽ của hai đại lượng này. Giá trị nhận được của mối tương quan
này nằm trong khoảng -1 và +1. Dấu của giá trị nhận được có ý nghĩa quan
trọng trong giải thích mối quan hệ giữa X và Y. Dấu (+) là quan hệ tỷ lệ
thuận, dấu (-) là quan hệ tỷ lệ nghịch.
23
Trong nghiên cứu này, khi đánh giá mối quan hệ giữa các biến số được
nghiên cứu, chúng tôi sử dụng tương quan pearson.
1.2.2. Phong cách làm cha mẹ
1.2.2.1. Định nghĩa
- Theo từ điển tâm lý học của Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Tâm
lý học (Vũ Dũng, 2008), phong cách là: “Hệ thống các thói quen, phương
pháp, thủ pháp, cách thức giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động đặc trưng
cho một cá nhân” [29]. Như vậy, theo định nghĩa này, phong cách làm cha
mẹ là hệ thống các thói quen, phương pháp, cách thức hành xử của cha mẹ để
thực hiện các chức năng làm cha mẹ như nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, giáo
dục, yêu thương con cái…
Còn theo Baumrind “phong cách làm cha mẹ là những khuôn mẫu khác
nhau mà cha mẹ thường sử dụng để cố gắng kiểm soát và xã hội hóa đứa trẻ”.
(dẫn theo [20, tr. 95-96]).Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, chúng
tôi đồng tình với khái niệm của Baumrind: “Phong cách làm cha mẹ là những
khuôn mẫu khác nhau mà cha mẹ thường sử dụng để cố gắng kiểm soát và xã
hội hóa đứa trẻ”
1.2.2.2. Phân loại
“Các nghiên cứu về phong cách hành vi làm cha mẹ từ trước đến nay đều
bị ảnh hưởng bởi quan điểm phân loại của Diana Baumrind (1967), cho rằng
phần lớn bố mẹ sử dụng một trong ba phong cách khác nhau trong nuôi dạy
con cái (gồm phong cách làm cha mẹ dân chủ, phong cách làm cha mẹ độc
đoán và phong cách làm cha mẹ nuông chiều). Hơn 10 năm sau, một nghiên
cứu sâu hơn của Maccoby và Martin (1983) đã bổ sung thêm một phong cách
nữa là phong cách làm cha mẹ bỏ mặc hoặc thờ ơ, không quan tâm” [22, tr.
47-60].
Mô tả về từng phong cách làm cha mẹ theo quan điểm của Baumrind,
Maccoby và Martin được trình bày như sau:
24
Phong cách dân chủ - uy quyền
Cha mẹ dân chủ - uy quyền đặc trưng bởi sự ấm áp và nồng nhiệt đối với
trẻ, thể hiện nhiều cảm xúc tích cực tới trẻ. Họ thường kiểm soát con cái một
cách mềm dẻo, đưa ra những đòi hỏi hợp lý đối với con cái họ, những luật lệ
và những mong đợi được đưa ra một cách rõ ràng . Họ rất cẩn trọng giảng giải
những giới hạn mà họ đặt ra cho con cái và dõi theo để tin chắc rằng con cái
nghe theo lời họ. Tuy vậy, họ sẵn lòng chấp nhận và đáp ứng những quan
điểm của con cao hơn cha mẹ gia trưởng. Họ cho phép con tham gia bàn luận
những quyết định của gia đình dù cha mẹ vẫn là người nắm giữ quyết định
cuối cùng. Có thể nói cha mẹ dân chủ - uy quyền thực thi việc kiểm soát con
cái một cách duy lý và dân chủ, luôn tôn trọng và ghi nhận quan điểm của con.
Phong cách độc đoán
Cha mẹ độc đoán là khuôn mẫu vô cùng khắc nghiệt. Cha mẹ đưa ra rất
nhiều quy định, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối, không giải thích cho con hiểu
nguyên nhân của những đòi hỏi xuất phát từ bố mẹ và thường hay áp dụng
chiến lược trừng phạt bạo lực để có được sự vâng lời (áp dụng quyền lực hoặc
thu hồi tình yêu thương). Cha mẹ gia trưởng không mời gọi trẻ tham gia vào
việc cùng đưa ra những quyết định và họ không nhạy cảm đối với những quan
điểm xung khắc của con và chỉ muốn con coi lời của họ là luật và phải tôn trọng
quyền lực của họ. Họ cố gắng kiểm soát, kể cả hành vi và cảm xúc của trẻ.
Cả hai phong cách làm cha mẹ độc đoán và phong cách làm cha mẹ dân
chủ đều có yêu cầu cao đối với trẻ, cha mẹ mong đợi sự trưởng thành, có
trách nhiệm về mỗi hành vi của trẻ. Sự khác nhau của hai phong cách này là
cha mẹ độc đoán đặc trưng bởi sự đòi hỏi cao nhưng thấp ở đáp ứng của cha
mẹ. Cha mẹ dân chủ được đặc trưng bởi độ cao về sự đòi hỏi và cả đáp ứng.
Phong cách dễ dãi - nuông chiều
Cha mẹ dễ dãi được mô tả bởi sự nồng ấm cao, thường chấp nhận nhưng
không nghiêm khắc đối với con cái. Họ đưa ra rất ít đòi hỏi đối với con, cho
25
phép con thể hiện cảm xúc bột phát một cách tự do, thậm chí còn khoan dung
cho những hành vi bốc đồng của trẻ, không điều chỉnh hành vi của con một
cách chặt chẽ và hiếm khi kiểm tra hành vi của con mình. Với việc thiếu cấu
trúc và thiếu kiểm soát không có nghĩa là cha mẹ không chăm sóc hoặc bỏ
mặc con cái nhưng vì cha mẹ tin rằng trẻ sẽ phát triển và trưởng thành tốt nhất
khi chúng được độc lập và học qua cách trải nghiệm trực tiếp trong cuộc sống.
Phong cách thờ ơ - không quan tâm
Cha mẹ thờ ơ, không quan tâm thể hiện cách tiếp cận con cái không đòi
hỏi và khiếm khuyết. Họ có rất ít những kỳ vọng, mong chờ vào hành vi của
trẻ, thể hiện thấp cả về sự nồng ấm lẫn kiểm soát. Cha mẹ cung cấp rất ít
những kỷ luật cũng như không thể hiện tình cảm đối với trẻ. Họ hoặc là
không quan tâm đến con, hoặc là bị chìm đắm trong những stress của bản thân
đến nỗi không có thời gian hoặc công sức dành cho việc nuôi dạy con, thậm
chí họ cũng không đáp ứng những đòi hỏi hợp lý và những nhu cầu cần thiết
của trẻ.
Mặc dù cha mẹ dễ dãi - nuông chiều và cha mẹ thờ ơ - không quan tâm
giống nhau vì họ đều có ít yêu cầu với trẻ nhưng khác nhau ở chỗ cha mẹ dễ
dãi- nuông chiều có ít yêu cầu với trẻ vì căn bản họ tin rằng đứa trẻ sẽ phát
triển tốt nhất khi chúng tự mình khám phá thế giới xung quanh và học qua
việc tự trải nghiệm. Ngược lại, cha mẹ thờ ơ - không quan tâm có ít yêu cầu
đối với trẻ vì căn bản là họ không thích thú đối với con của họ [18, tr. 161-
167, tr. 731-734].
1.2.3. Tự đánh giá
1.2.3.1. Khái niệm
- Khái niệm tự đánh giá tương đương với thuật ngữ “self esteem" trong
tiếng Anh. Theo từ điển Anh Việt oxford, Self esteem có nghĩa là “sự đánh
giá tốt về tính cách và khả năng của bản thân mình” [24, tr. 1604], ngoài ra
thuật ngữ này cũng được một số nhà chuyên môn trong lĩnh vực tâm lý học
26
như Đỗ Ngọc Khanh, Văn Thị Kim Cúc…sử dụng là tự đánh giá. Nhưng
trong một số từ điển Anh – Việt khác, cũng như một số nhà chuyên môn khác
như Đỗ Thu Thảo [9] trong luận văn thạc sĩ tâm lý học, tác giả Lê Văn Hảo
trong cuốn “Tâm lý học xuyên văn hóa” [11, tr. 314] self esteem được dịch là
lòng tự trọng. Trên thực tế, không có khái niệm nào trong tiếng Việt tương
đương hoàn toàn với thuật ngữ “self esteem” trong tiếng Anh. Trong đề tài
nghiên cứu này, thuật ngữ “self esteem” được dịch sang tiếng Việt là “tự đánh
giá bản thân”.
- Theo từ điển tâm lý học của Viện khoa học xã hội Việt Nam (Vũ
Dũng, 2008), Viện Tâm lý học, tự đánh giá là “cá nhân đánh giá chính mình,
đánh giá những năng lực, phẩm chất và vị trí của mình so với những người
khác. Giá trị mà cá nhân gán cho mình hoặc cho những phẩm chất riêng biệt
của mình” [29].
- Trên thế giới, các tác giả đưa ra ba quan điểm về khái niệm tự đánh giá.
Quan điểm thứ nhất cho rằng tự đánh giá dựa trên năng lực của con người và
quan điểm thứ hai coi tự đánh giá dựa trên giá trị của con người và quan điểm
thứ ba là sự kết hợp của hai quan điểm trên.
Thứ nhất, quan điểm tự đánh giá dựa trên năng lực có tác giả William
James (1890), ông cho rằng tự đánh giá phát triển từ sự tích lũy kinh nghiệm,
trong đó con người đạt được những kết quả dựa trên mục tiêu mình đề ra
trong những lĩnh vực quan trọng. Ông đưa ra công thức:
Tự đánh giá = Thành công / kỳ vọng.
Như vậy, công thức của James cho thấy rằng mức độ thành công mà con
người đạt được không thể dự đoán được tự đánh giá về bản thân mà điều quan
trọng chính là sự thành công của họ liên quan như thế nào đến khát vọng của
họ. Vì vậy, có những cá nhân dù đạt được thành công lớn trong cuộc sống so
với những người cùng lứa tuổi và được những người khác ngưỡng mộ nhưng
lại có những đánh giá tiêu cực về bản thân mình do thành công của họ không
27
liên quan hoặc thấp hơn so với những mong đợi của họ. Như vậy, đánh giá
bản thân có thể tăng lên bằng cách giảm đi những mục tiêu, tham vọng mà cá
nhân tự đặt ra cho mình.
Thứ hai, quan điểm tự đánh giá dựa trên giá trị, có tác giả Morris
Rosenberg (1965), ông coi tự đánh giá như một kiểu thái độ đặc biệt, dựa trên
nhận thức của chúng ta về giá trị của mình, tự đánh giá là thái độ tích cực
hoặc tiêu cực hướng tới một đối tượng cụ thể, có tên tuổi hay đó chính là cái
tôi. Tự đánh giá cao phản ánh cảm xúc về việc một người đã “đủ tốt” và khi
đó, đơn giản cá nhân cảm thấy anh ta có giá trị. Anh ta tôn trọng chính mình
và không cần phải coi mình ở vị trí cao hơn người khác [10, tr 86-87]. Cùng
chung quan điểm với Morris Rosenberg, Coopersmith (1967) cũng cho rằng,
sự đánh giá của mỗi cá nhân về bản thân mình biểu lộ một thái độ về sự đồng
ý hay không đồng ý, cho biết sự đánh giá mà cá nhân tin tưởng vào khả năng,
tầm quan trọng, thành công và giá trị của mình. Tóm lại, tự đánh giá là sự
phán xét của cá nhân về giá trị được thể hiện qua thái độ của cá nhân đó
hướng tới bản thân mình.
Quan điểm thứ ba, tự đánh giá gồm cả năng lực và giá trị. Tác giả
Nathaniel Branden đưa ra khái niệm về tự đánh giá là “cảm giác về khả năng
tự thực hiện và cảm giác về giá trị cá nhân”. Sự kết hợp này cho thấy một
người có năng lực để sống và có giá trị trong cuộc sống. Việc tác giả nhìn tự
đánh giá theo cả hai khía cạnh năng lực và giá trị giúp chúng ta có cái nhìn
trọn vẹn hơn về tự đánh giá [33, tr. 11-29].
Như vậy, tự đánh giá là thái độ của mỗi người về bản thân mình, liên
quan đến niềm tin về khả năng và giá trị của mình. Nó không chỉ là những
điều cá nhân biết về bản thân mình như tên tuổi, sở thích, niềm tin, giá trị, đặc
điểm ngoại hình, chiều cao, cân nặng mà còn là phản ứng cảm xúc mà con
người có khi họ “ngắm nhìn” và đánh giá những điều khác nhau về bản thân
mình, đặc biệt là về giá trị và năng lực.
28
- Còn khái niệm tự đánh giá ở Việt Nam, Tác giả Đỗ Ngọc Khanh cho
rằng tự đánh giá là “một hình thức phát triển cao của tự ý thức, là sự đánh giá
tổng thể của một cá nhân về các giá trị bản thân với tư cách là một con người trong
hoạt động và trong giao tiếp với những người khác” [6, tr. 48- 49, tr. 33, tr. 176].
- Tác giả Vũ Thị Nho nêu khái niệm “TĐG là một hoạt động nhận thức
đặc biệt của con người, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ
thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra được
mức độ giá trị nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ, hành động, hoạt
động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển”
[31, tr. 58 ].
Với các quan điểm về tự đánh giá được trình bày ở trên của các tác giả
trong nước và trên thế giới, trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, chúng
tôi cho rằng tự đánh giá bản thân là sự đánh giá tổng thể của cá nhân về
các giá trị cũng nhƣ năng lực của bản thân mình, trong các lĩnh vực khác
nhau của nhân cách, với tƣ cách một thành viên của xã hội.
1.2.3.2. Cấu trúc của tự đánh giá
Tự đánh giá là quá trình nhận thức hướng vào chính bản thân chủ thể nên
nội dung của tự đánh giá hết sức phong phú và đa dạng, nó phát triển từ đơn
giản đến phức tạp theo lứa tuổi, theo mức độ phát triển của nhân cách.
Có hai cách tiếp cận cấu trúc của tự đánh giá. Cách tiếp cận thứ nhất
coi tự đánh giá như bức chân dung thống nhất toàn thể về con người, cách tiếp
cận thứ hai cho rằng tự đánh giá là bức chân dung nhiều chiều với những
thành tố độc lập.
- Theo cách tiếp cận thứ nhất, tự đánh giá được coi là thái độ của cá nhân
về tất cả các khía cạnh trong đời sống của mình. Với quan điểm này, Robins,
Hendin và Trzesniewski (2001) đã phát triển một thang đo toàn thể về tự đánh
giá. Trong đó thang đo có câu hỏi “tôi có sự tự đánh giá bản thân cao” với
29
mức điểm từ 0 đến 5. Họ thấy rằng câu hỏi này có tương quan với những
thang đo khác nhau có tính mở rộng hơn bao gồm những lĩnh vực tư đánh giá
cụ thể về nhân cách và tâm lý.
- Theo cách tiếp cận thứ hai, tự đánh giá được coi như một cấu trúc gồm
nhiều thành phần khác nhau. Theo quan điểm này, Susan Harter là một trong
những tác giả đi đầu trong việc đề cập đến các khía cạnh đánh giá cụ thể trong
tự đánh giá bản thân. Trong thang đo “Perceived compentence scale for
children” được tác giả xây dựng vào năm 1979, bà đã chia tự đánh giá bản
thân của trẻ thành 5 yếu tố: 1. Tự đánh giá tổng quát (đo mức độ trẻ em cảm
thấy hài lòng về bản thân mình như thế nào); 2. Tự đánh giá về học tập (trẻ
em cảm thấy có năng lực đến mức nào trong việc học tập); 3. Tự đánh giá về
thể chất (sức khỏe, hình dáng bên ngoài, năng lực thể thao); 4. Tự đánh giá về
giao tiếp xã hội (trẻ cảm thấy được nhiều người ưa chuộng hay giao tiếp xã
hội như thế nào với các bạn cùng trang lứa); 5. Tự đánh giá về cảm xúc, tình
cảm (trẻ cảm thấy như thế nào: Hạnh phúc, buồn rầu, tức giận, lo lắng…).
Nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh về tự đánh giá của học sinh
trung học cơ sở, tác giả đã sử dụng thang đo của Harter sau khi thích ứng vào
văn hóa Việt Nam. Trong quá trình thích ứng tác giả đã bổ sung thêm một
khía cạnh của tự đánh giá vào thang đo của mình là thang tự đánh giá về mặt
đạo đức vì tác giả cho rằng trong nền văn hóa Việt Nam, đạo đức là một lĩnh
vực quan trọng không thể thiếu khi con người tự đánh giá bản thân mình. Các
khía cạnh tự đánh giá trong nghiên cứu của Đỗ Ngọc Khanh bao gồm: Xã hội,
cảm xúc, học tập, thể chất, đạo đức.
Trong nghiên cứu này chúng tôi có chung quan điểm với tác giả Đỗ
Ngọc Khanh về các khía cạnh của tự đánh giá bao gồm các thành tố nhỏ: xã
hội, cảm xúc, học tập, thể chất, đạo đức. Bởi nó đều là những đặc điểm tâm lý
nổi bật của lứa tuổi HS THPT và cũng là các lĩnh vực mà các em HS THPT
rất quan tâm.
30
- TĐG về mặt thể chất bao gồm các biểu tượng về cơ thể, các năng lực
thể thao, về sức khỏe thể chất. “Hơn bất cứ lứa tuổi nào, thanh niên tự đánh
giá về hình ảnh cơ thể của bản thân một cách tỉ mỉ, nghiêm khắc. Điều này
phát triển ở tuổi thiếu niên, nhưng đến đầu tuổi thanh niên thì bộc lộ mạnh
mẽ. Thường thường họ rất không hài lòng về chiều cao (quá cao hoặc quá
thấp), vóc dáng thân thể (quá gầy hay quá béo). Họ thường mơ ước có cặp
mắt đẹp, mũi cao và miệng duyên dáng. Những thanh niên chậm lớn, béo phì,
có trứng cá trên mặt thì thường tỏ ra lo lắng, thất vọng. Những nỗi khổ đau
này được dấu kín và "dày vò" không ít những cậu thanh niên, cô thiếu nữ dẫn
đến "những bi kịch về tiêu chuẩn, hình thức" mà những người lớn xung quanh
ít quan tâm [32].
- TĐG về mặt học tập bao gồm: Những đánh giá của học sinh về khả
năng học tập, trí thông minh, sự nỗ lực cố gắng để trở thành học sinh giỏi.
Hoạt động học tập hướng nghiệp là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh
THPT. Vì vậy TĐG bản thân về mặt học tập là một hoạt động không thể thiếu giúp
các em định hướng cho nhiệm vụ cơ bản nhất của thanh niên là lựa chọn nghề
nghiệp, chuẩn bị cho lao động và hoạt động xã hội, tạo dựng cuộc sống riêng.
- TĐG về mặt cảm xúc: Là ý thức của mỗi cá nhân về những cảm xúc
của bản thân và cách thức biểu hiện những cảm xúc ấy, những cảm xúc này
có thể tích cực hoặc tiêu cực, phụ thuộc vào cách nhìn nhận cuộc sống xung
quanh của mỗi người.
- TĐG về mặt xã hội thể hiện qua mối quan hệ với người khác bao gồm
các yếu tố khả năng kết bạn, nhu cầu được làm việc với người khác, mức độ
sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, khả năng chiếm được tình cảm của người khác, sự
nhạy cảm… Ở tuổi thanh niên giao tiếp là một hoạt động quan trọng với các
em. “Tuổi thanh niên thường nỗ lực để được người khác chấp nhận. Chúng
mong có uy tín và có thể diện trước bạn cùng lứa. Những thanh niên không
được nổi bật trong các bạn cùng lứa thường muốn thay đổi nhân cách của
mình” [12].
31
TĐG về mặt đạo đức được thể hiện qua sự chấp hành nghiêm chỉnh nội
quy, lương tâm, trách nhiệm với gia đình và cộng đồng được biểu hiện qua
các hành vi của bản thân, sự tự giác làm việc. “Ở học sinh đầu tuổi thanh niên
cũng bắt đầu bộc lộ rõ những tình cảm đạo đức như khâm phục, kính trọng
những con người dũng cảm, kiên cường, coi trọng những giá trị đạo đức cũng
như lương tâm. Họ có mong muốn làm được một điều gì đó mang lại lợi ích
cho nhiều người, thể hiện sức mạnh thanh xuân của mình” [32].
1.2.4. Học sinh trung học phổ thông
1.2.4.1. Khái niệm học sinh trung học phổ thông
Học sinh trung học phổ thông bao gồm những em có độ tuổi từ 15 tuổi
đến 18 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 10 đến lớp 12 ở trường
trung học phổ thông. Theo các tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Nguyễn Ánh
Tuyết, Nguyễn Kế Hào, Phan Trọng Ngọ, Đỗ Thị Hạnh Phúc, thời kỳ từ 15
đến 18 tuổi, được gọi là tuổi đầu thanh niên (thanh niên học sinh) khi nói về
đặc điểm tâm lý lứa tuổi này tác giả gọi tắt là thanh niên [2, tr. 47– 49].
Ngoài ra, nó còn được các tác giả khác gọi là lứa tuổi thanh niên mới lớn hay
tuổi thanh xuân).
1.2.4.2. Tự đánh giá của học sinh trung học phổ thông
Tự đánh giá của HS THPT là “Sự đánh giá tổng thể của học sinh có
độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi đang theo học từ lớp 10 đến lớp 12 ở trƣờng
trung học phổ thông với tƣ cách là một thành viên của xã hội về những
giá trị và năng lực của bản thân trong các lĩnh vực xã hội, cảm xúc, học
tập, thể chất, đạo đức”.
1.2.4.3. Đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Cũng như thiếu niên, thanh niên khao khát muốn biết họ là người như
thế nào, có năng lực gì. Vì vậy, tự đánh giá là một nét tâm lí điển hình của lứa
tuổi này. Tự đánh giá của thanh niên có bốn đặc điểm sau:
32
Thứ nhất, tự đánh giá của thanh niên có chủ kiến rõ ràng và đã có sự đối
chiếu với các chuẩn chung của xã hội. Điều này khác với các lứa tuổi trước, ở
đó đánh giá về bản thân thường lặp lại ý kiến đánh giá của người lớn. Thanh
niên, khi đánh giá bản thân thường chủ yếu dựa vào nhận thức của mình. Tuy
nhiên, do khả năng nhận thức về bản thân chưa thực sự khái quát và sâu sắc
nên thanh niên chưa đánh giá đúng, khách quan bản thân mình.
Thứ hai, sự phản tỉnh về các phẩm chất tâm lí của mình là một trong
những đặc trưng điển hình của tuổi thanh niên. Phản tỉnh là sự quay vào bên
trong bản thân của ý thức, làm cho các phẩm chất tâm lý của cá nhân được
phản ánh rõ nét hơn. Sự phản tỉnh của tuổi thanh niên, giúp họ không chỉ ý
thức được rõ hơn “cái tôi” của bản thân, mà còn ý thức rõ hơn địa vị xã hội
của mình trong gia đình, nhà trường và xã hội. Những vấn đề như tôi là ai?
Tôi là người như thế nào, tôi có những năng lực vượt trội nào? Lý tưởng của
tôi là gì? Tôi muốn trở thành người như thế nào?...Là những vấn đề trăn trở
trong suốt thời kỳ thanh niên, nhất là giai đoạn đầu thanh niên. Chúng trở
thành nhu cầu và là một yếu tố quan trọng của sự tự xác định về mặt đạo đức
– xã hội của thanh niên [18, tr. 161-167, tr. 731-734].
Thứ ba, tự đánh giá của thanh niên có chiều sâu và khái quát hơn
nhiều so với tuổi thiếu niên. Theo các tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan,
Nguyễn Văn Thàng “So với thiếu niên, thanh niên có sự phát triển vượt trội
về tự ý thức và tự đánh giá. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình
trong hiện tại như thiếu niên mà còn nhận thức vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai. Thiếu niên có thể hiểu rõ mình ở những phẩm chất nhân cách
bộc lộ rõ (lòng yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm…) thanh niên còn có thể
hiểu rõ những phẩm chất phức tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của
nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ…). Thanh
niên không chỉ đánh giá những cử chỉ, hành động riêng lẻ, từng thuộc tính
riêng biệt mà còn biết đánh giá nhân cách mình nói chung trong toàn bộ
33
những thuộc tính nhân cách. Thanh niên không chỉ có nhu cầu tự đánh giá mà
còn có khả năng đánh giá sâu sắc và tốt hơn thiếu niên về những phẩm chất,
mặt mạnh, mặt yếu của những người sống cùng và của chính mình. Nhưng
nhận thức người khác bao giờ cũng đỡ khó khăn hơn nhận thức bản thân. Tự
đánh giá khách quan không phải là dễ dàng. Thanh niên mới lớn thường dễ có
xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá. Hoặc là các em đánh giá thấp cái
tích cực, hoặc là đánh giá quá cao nhân cách mình – tỏ ra tự cao, coi thường
người khác” [13, tr. 75-75].
Thứ tư, tự đánh giá của thanh niên được thực hiện theo hai cách:
Cách thứ nhất: So sánh mức độ kỳ vọng, mong muốn của mình với
kết quả đạt đƣợc. Đa số thanh niên đánh giá cao năng lực và các phẩm chất
tâm lí – xã hội của mình. Để khẳng định khả năng của mình, thanh niên sẵn
sàng làm những công việc khó khăn, mạo hiểm. Sự kỳ vọng về bản thân và
tính sẵn sàng khẳng định mình là đặc điểm tâm lí quý báu của thanh niên, là
cơ sở của tính tích cực hoạt động của tuổi thanh niên. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, không phải bao giờ cũng có sự phù hợp giữa kì vọng về bản thân và tính
sẵn sàng khẳng định mình với kết quả hành động. Trong nhiều trường hợp, do
khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên thanh niên có thể thất bại (theo kì
vọng của họ và của xã hội). Từ đó thường xuất hiện sự tiêu cực khi đánh giá
về bản thân.
Cách thứ hai: Để thanh niên tự đánh giá các phẩm chất tâm lí của
mình là so sánh, đối chiếu với ý kiến đánh giá của ngƣời xung quanh về
bản thân. Thanh niên rất nhạy cảm với các ý kiến của người khác đánh giá về
mình và thường coi đó là các tiêu chuẩn để đánh giá và đánh giá lại. “Những
thanh niên nữ có tự đánh giá cao thường được bạn bè hỗ trợ, trong khi các
nam thanh niên tự đánh giá cao khi có khả năng tác động một cách có hiệu
quả nên bạn bè. Tự đánh giá thấp ở thanh niên nữ thường đồng hành với thất
bại trong việc được bạn bè ủng hộ, còn tự đánh giá thấp của nam thanh niên
34
thường song hành với việc không hiểu biết trong tình yêu, cụ thể là thất bại
trong việc tìm bạn gái và không được các bạn gái thích” [18, tr. 161-167, tr.
731-734].
Tóm lại tự đánh giá của thanh niên có chủ kiến rõ ràng và đã có sự đối
chiếu với các chuẩn chung của xã hội qua sự phản tỉnh về các phẩm chất tâm
lí của mình. Tự đánh giá của thanh niên có chiều sâu và khái quát hơn nhiều
so với tuổi thiếu niên và được thực hiện theo hai cách: tự đánh giá các phẩm
chất tâm lí của mình bằng cách so sánh mức độ kỳ vọng, mong muốn của
mình với kết quả đạt được. Và so sánh, đối chiếu với ý kiến đánh giá của
người xung quanh về bản thân.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bùi Hồng Quân (2015), "Tự đánh giá của trẻ tại các trung tâm bảo trợ xã hội ở TP.
HCM", Luận án tiến sĩ Tâm lý học, học viện Khoa học xã hội, tr. 17-18, tr. 67, tr.
263-282.
2. Bùi Thị Hồng Thái (2015), "Vai trò của tự đánh giá bản thân đối với rối loạn stress sau
sang chấn ở phụ nữ sau sinh", Tạp chí Tâm lý học, (số 10), tr. 47– 49.
3. Cao Hải An (2010), "Nghiên cứu sự đánh giá bản thân của sinh viên trường Đại học
Công ghiệp Quảng Ninh", luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học, ĐH
KHXH&NV, tr. 91-92.
4. Đinh Thị Tứ (1983), "Bước đầu tìm hiểu đặc điểm về thái độ đối với tập thể của giáo
sinh sự phạm ở ba trường ĐHSP Việt Bắc, cao đẳng sự phạm Hà Nam Ninh, cao
đẳng sư phạm Hải Hưng", Luận án thạc sĩ khoa học, ĐH sư phạm Hà Nội I, tr. 28.
5. Đỗ Ngọc Khanh (2004), "Về khái niệm “tự đánh giá bản thân"", Tạp chí Tâm lý học,
(Số 6), tr. 41.
6. Đỗ Ngọc Khanh (2005), "Nghiên cứu sự tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ở Hà
Nội", Luận án tiến sĩ Tâm lý học, viện Tâm lý học, tr. 48- 49, tr. 33, tr. 176.
7. Đỗ Ngọc Khanh (2005), "Nghiên cứu sự tự đánh giá của học sinh Trung học cơ sở ở Hà
Nội", Tạp chí tâm lý học, (số 7), tr. 26-27, tr. 30.
8. Đỗ Thị An (2013), "Tìm hiểu các biểu hiện rối loạn lo
âu ở sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội", Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học lâm
sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục, Tr. 69 - 70.
9. Đỗ Thị Thảo (2013), "Tìm hiểu mối tương quan giữa phong cách làm cha mẹ và lòng tự
trọng của học sinh trung học cơ sở", Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học lâm sàng
trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục.
10. Hoàng Thu Huyền (2012), "Tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập
của học sinh lớp 5 tại Hà Nội", Luận văn thạc sĩ của tác giả, ngành Tâm lý học lâm
sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục,, tr 86-87.
11. Larsen K. S., Lê Văn Hảo (2014), "Tâm lý học xuyên văn hóa", NXB ĐHQGHN, tr. 314.
12. Lê Thị Minh Hà "Tâm lí học phát triển", Đại học Sư Phạm TP. HCM, Khoa Giáo dục
đặc biệt, tài liệu lưu hành nội bộ.
13. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2001), "Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm", NXB ĐHQGHN, tr. 75-75.
14. Ngô Thị Liên (2013), "Thực trạng biểu hiện lo âu của học sinh Trung học phổ thông
huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học lâm
sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục., Tr. 67.
15. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (2013), "Đại từ điển tiếng Việt", NXB Đại học Quốc gia,
TP Hồ Chí Minh.
16. Nguyễn Thị Thu Sƣơng (2015), "Mối tương quan giữa lo âu - trầm cảm và mức độ bị
bắt nạt của học sinh trung học cơ sở", luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học
lâm sàng trẻ em và vị thành niên, Trường ĐH Giáo Dục, tr. 62 - 65.
17. Nguyễn Thị Thủy (2014), "Mối quan hệ giữa đánh giá bản thân và kết quả học tập của
học sinh trung học phổ thông", Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học, ĐH
KHXH&NV, tr. 70-71.
83
18. Nguyễn Văn Đồng (2012), "Tâm lý học phát triển", NXB Chính trị quốc qua, tr. 161-
167, tr. 731-734.
19. Nguyễn Văn Lƣợt Bùi Thu Hà ( 2016), "Mối liên hệ giữa tự đánh giá và cảm nhận về
hạnh phúc của sinh viên", Tạp chí Tâm lý học, (số 5 (206), 6 – 2015), tr. 58-69.
20. Phạm Thị Bích Phƣợng (2012), "Ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ đến hành vi
không thích nghi của trẻ em vị thành niên có rối loạn hành vi", luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, trường ĐH Giáo Dục
tr. 95-96.
21. Phùng Thị Hiên (2013), "Mối tương quan giữa cách ứng xử của cha mẹ với hành vi
của trẻ tiểu học", Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành
niên, trường ĐH Giáo Dục, tr. 76-108.
22. Trần Thành Nam (2015), "Mối quan hệ giữa phong cách hành vi làm cha mẹ và các
biểu hiện rối loạn hành vi cảm xúc ở thanh thiếu niên", Tạp chí Tâm lý học, (Số 4),
tr. 47-60.
23. Trần Văn Công (2016), "Tài liệu Phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS".
24. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), "Từ điển anh việt oxford,
oxford advanced learner’s dictionary", NXB. TP HCM, Viện ngôn ngữ học, tr.
1604.
25. Trƣơng Quang Lâm (2012), "Nghiên cứu TĐG của học sinh trung học phổ thông Tô
Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội", Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học, ĐH
KHXH&NV, tr. 107-108.
26. Trƣơng Thị Khánh Hà (2015), "Thích ứng thang đo hạnh phúc chủ quan dành cho vị
thành niên", tạp chí Tâm lý học, (số 5), tr. 52–64.
27. Văn Thị Kim Cúc (2003), "Tìm hiểu sự tự đánh giá bản thân ở trẻ 10 – 15 tuổi", Tạp
chí Tâm lý học, (Số 7), tr. 20.
28. Văn Thị Kim Cúc (2004), "Mối tương quan giữa biểu tượng về gia đình và sự tự đánh
giá bản thân ở trẻ 10 – 15 tuổi", Tạp chí Tâm lý học, (số 2, 2/2005.), tr. 24 – 31.
29. Vũ Dũng (chủ biên) (2008), "Từ điển tâm lý học", Viện khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Tâm lý học, (tr. 615, tr. 964-965).
30. Vũ Thị Khánh Linh ( 2007), "Thực trạng về phong cách giáo dục của cha mẹ học sinh
trường THCS Trần Đăng Ninh – TP. Nam Định", Tạp chí Tâm lý học, (Số 12), tr.
17-23.
31. Vũ Thị Nho (1998), "Tìm hiểu khái niệm tự đánh giá", Tạp chí Tâm lý học, (Số 3), tr. 58
32. Vũ Thị Nho (2008), "Tâm lý học phát triển", NXB ĐHQGHN.
TIẾNG ANH
33. Christopher J. Mruk PhD; "Self-Esteem and Positive Psychology", Research,
Theory, and Practice, Fourth Edition, tr. 11-29.
34. Pratt M. W., D. Green, J. MacVicar, M Bountrogianni ( 1992), "The mathematical
parent: Parental scaffolding, parent style, and learning outcomes in long-division
mathematics homework", Journal of Applied Developmental Psychology, ( 13),
tr.17–34.
35. Sharma G., Pandey N. "Parenting styles and its effect on self-esteem of adolescents",
The intetnationnal Journal of Indian Psychology, tr. 28-38.