tiểu kinh sư tử hống
DESCRIPTION
Có khi đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo rống tiếng rống con sư tử trong khi thuyết pháp, tức đức Phật muốn nhấn mạnh một vấn đề mà các ngoại đạo đều hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Trong kinh số 11, Trung Bộ, này đức Phật khuyên bảo các Tỷ-kheo hãy rống tiếng rống con sư tử, tuyên bố dứt khoát rằng chỉ ở đây, trong giáo pháp đức Phật dạy, mới có Đệ nhất Sa môn tức là chứng quả Dự lưu; mới có đệ nhị Sa môn tức là chứng quả Nhất lai; mới có Đệ tam Sa môn tức là chứng quả Bất lai; mới có đệ tứ Sa môn tức là chứng quả A-la-hán; còn các ngoại đạo khác không có bốn hạng Sa môn như vậy.TRANSCRIPT
LOGO
Như tiếng rống của sư tử trong rừng sâu khiến
muôn thú run rẩy, im lặng; Cũng vậy, giáo lý Phật
giáo nói lên sự thật khiến ngoại đạo run rẩy, im
lặng.
Có khi đức Phật khuyên các vị Tỷ-kheo rống tiếng
rống con sư tử trong khi thuyết pháp, tức đức Phật
muốn nhấn mạnh một vấn đề mà các ngoại đạo
đều hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Đấy là nội
dung được đề cập trong bản kinh số 11 này.
Đức Phật tuyên bố rằng: chỉ
trong Giáo pháp mà Ngài
thuyết giảng mới có thể tìm
thấy bốn cấp bậc Thánh
chúng, tức là đệ nhất sa-môn,
đệ nhị sa-môn, đệ tam sa-
môn và đệ tứ sa-môn. Sau
đó, Ngài giải thích giáo lý mà
Ngài thuyết giảng khác với
các tôn giáo khác ở chỗ độc
đáo phủ nhận tất cả kiến chấp
về bản ngã như thế nào.
1. Sāvatthi (Xá-vệ): Kinh thành của vương quốc
Kosala, và là một trong sáu kinh thành lớn ở Ấn
Độ vào thời đức Phật.
Sāvatthi được mang tên như vậy vì trong kinh
thành có Hiền giả Savattha an trú. Truyền thuyết
khác nói rằng trước đó tại đây có một chỗ trọ qua
đêm cho các đoàn xe đi buôn; lúc gặp nhau các
thương buôn thường hỏi nhau họ có cái gì “Kiṃ
bhandaṃ atthi?” - “Sabbaṃ atthi” - và tên của
thành phố được gọi dựa trên câu trả lời.
Thế Tôn thường an trú tại Sāvatthi như là một nơi
hoằng Pháp chính của Ngài. Trưởng giả
Anāthapiṇḍika là người thỉnh Ngài đến đây lần đầu
tiên. Sau đó Ngài an cư kiết hạ 25 lần tại Sāvatthi,
19 mùa trong Jetavana và 6 mùa trong
Pubbārāma do tín nữ Visākhā kiến tạo và cúng
dường.
Theo một thống kê, có 871 bài kinh được thuyết
tại Sāvatthi, trong đó:
- 844 trong Jetavana,
- 23 trong Pubbārāma,
- và 4 ở ngoại thành Sāvatthi;
Bao gồm:
- 6 kinh thuộc Trường Bộ,
- 75 kinh thuộc Trung Bộ,
- 736 kinh thuộc Tương Ưng,
- và 54 kinh thuộc Tăng Chi.
2. Jetavana (Kỳ viên hay Kỳ-đà lâm) do Trưởng
giả Anāthapiṇḍika mua lại từ khu vườn của Thái
Tử Jeta gần thành Sāvatthi dâng cho đức Phật.
Tại đây Ngài đã nhập hạ 19 lần và nhiều bài Kinh
quan trọng đã được Thế Tôn thuyết ra.
Vì Trưởng giả Anāthapiṇḍika
đã dùng vàng lót trên mặt đất
để mua cho được khu vườn
theo lời thách của Thái Tử
Jeta, nên chùa này còn được
gọi là Bố Kim Tự (chùa trải
vàng).
Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vì đạo
của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng
toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và
Tăng chúng , nên ngôi chùa thường
được gọi với danh xưng : Jetavane
Anāthapiṇdikassa Ārāme – tại
Jetavana, trong vườn ông
Anāthapiṇḍika để ghi nhớ người sáng
lập.
Được biết Trưởng giả Anāthapiṇḍika trả 180
triệu cho khu vườn và Jeta dùng hết số tiền
này để xây cổng rồi cúng dường lại cho
Jetavana. Còn Anāthapiṇḍika chi tất cả 540
triệu cho việc trải vàng mua đất và xây cất.
3. Sa-môn thứ nhất, tức là bậc Dự Lưu, Nhập
Lưu, cũng gọi là Tu-đà-huờn (Sotāpanna).
4. Sa-môn thứ hai, tức là bậc Nhất Lai, cũng gọi
là Tư-đà-hàm (Sakadāgāmi).
5. Sa-môn thứ ba, tức là bậc Bất Lai, cũng gọi là
A-na-hàm (Anāgāmi).
6. Sa-môn thứ tư, tức là bậc Ứng Cúng, cũng gọi
là A-la-hán (Arahanta).
7. Pháp hữu (Sahadhamīkā), chỉ cho các vị Tỷ-
kheo, Tỷ-kheo-ni, các vị tập sự, Sa-di, Sa-di-ni,
nam cư sĩ, nữ cư sĩ.
8. Cứu cánh (niṭṭhā), mục tiêu tối hậu. Cứu cánh
đa diện của ngoại đạo như Brahmaloka (Phạm
thiên giới) là cứu cánh của Bà-la-
môn, Ābhassārā (Quang âm thiên) cho các vị tu
khổ hạnh, Subhakiṇhā (Biến tịnh thiên) cho các
du sĩ, nhưng trong giáo pháp này, cứu cánh là A-
la-hán.
9. Chấp thủ (upādāna), là sự thích thú một cách
khắn khít, chặt chẽ; chấp nê một mù quáng.
10. Thuận ứng (anuruddha), chịu áp lực bởi
tham ái.
11. Nghịch ứng (paṭiviruddha), chịu chi phối bởi
sân hận.
12. Ưa hý luận, thích hý luận (papañcārāmassa
papañcaratino), là đồng nghĩa với tham dục, tà
kiến và kiêu mạn.
12. Hữu kiến (bhavadiṭṭhi), chấp vào cái có,
còn gọi là thường kiến, tức là ý kiến tin rằng
chẳng có sự thay đổi, hễ đã là người rồi thì
chết đi, lại sanh ra làm người nữa.
13. Phi hữu kiến (vibhavadiṭṭhi), chấp vào
cái không, còn gọi là đoạn kiến, tức là ý kiến
tin rằng con người sau khi chết là không có
linh hồn tồn tại đời sau, nghĩa là mất hẳn.
Bốn hạng sa-môn
Bốn pháp quyết định
Hai loại tà kiến
Những điều cần biết về các pháp
Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác
Bốn sự chấp thủ
Tập khởi của sự chấp thủ
BỐN HẠNG
SA-MÔN
Tu-đà-huờn
Tư-đà-hàm
A-na-hàm
A-la-hán
1. Sa-môn thứ nhất, tức là bậc Dự Lưu, Nhập
Lưu, cũng gọi là Tu-đà-huờn (Sotāpanna). Tức là
vị đã đắc sơ quả, tuyệt trừ ba kiết sử: Thân kiến,
hoài nghi, giới cấm thủ.
Bậc thánh Nhập lưu không còn tái sinh trong 4 cõi
ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.
Chỉ còn phải tái sinh làm người hoặc làm chư
thiên cõi trời dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến
kiếp thứ 7, thì chắc chắn sẽ chứng đắc A-la-hán,
rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi
trong tam giới.
2. Sa-môn thứ hai, tức là bậc Nhất Lai, cũng gọi
là Tư-đà-hàm (Sakadāgāmi), tức các vị đã đắc nhị
quả, đã giảm trừ hai kiết sử là dục ái và sân.
Các ngài chỉ còn tái sinh làm người hoặc làm chư
thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy sẽ chứng đắc
A-la-hán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử
sinh luân hồi trong tam giới.
3. Sa-môn thứ ba, tức là bậc Bất Lai, cũng gọi là
A-na-hàm (Anāgāmi), tức các vị đã đắc tam quả,
tuyệt trừ hẳn hai kiết sử dục ái và sân.
Bậc Thánh Bất lai không còn tái sinh trở lại cõi dục
giới, chỉ tái sinh lên cõi sắc giới (hoặc cõi vô sắc
giới) rồi sẽ trở thành bậc Thánh A-la-hán tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới
bốn loài.
4. Sa-môn thứ tư, tức là bậc Ứng Cúng, cũng gọi
là A-la-hán (Arahanta), tức các vị đã đắc tứ quả,
tuyệt trừ năm kiết sử còn lại là ái sắc, ái vô sắc,
ngã mạn, phóng dật và vô minh; một bậc thánh
hoàn toàn thanh tịnh, đoạn diệt tất cả phiền não dù
thô hay tế, vị đã đặt xuống mọi gánh nặng, không
còn sự luân hồi sanh tử. “Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui
trạng thái này nữa.”
1. Lòng tín thành đối với bậc Đạo sư - satthari
pasādo.
2. Lòng tín thành đối với Pháp - dhamme pasādo.
3. Sự thành tựu viên mãn trong các giới luật -
sīlesu paripūrakārino.
4. Và những pháp hữu khả ái, khả ý, tại gia và
xuất gia kính mến - sahadhammikā piyā
manāpā gahaṭṭhā ceva pabbajitā ca.
Saddhā là niềm tin, sự tin tưởng; Pasāda là lòng
tịnh tín, sự tín thành.
Saddhā có hai nghĩa: Một là tất cả niềm tin nào ở
trong đời, chỉ cần mình có niềm tin thôi. Chữ
Saddhā này từ cái chữ tiếng Pāli là saddahati là
sự tin tưởng.
Còn chữ Pasāda có nhiều nghĩa là niềm tịnh tín,
chữ Pasāda có nghĩa là trong sạch, làm cho tin
tưởng, nó từ chữ Pāli là pasādeti có nghĩa là chọn
ra để mà tin.
Người Phật tử tin rằng
Đức Phật là bậc giác
ngộ hoàn toàn về ba
phương diện: tự giác,
giác tha, giác hạnh viên
mãn, có trí tuệ và
phương tiện thiện xảo,
Đức Phật có thể dìu dắt
chúng sinh ra khỏi vòng
vô minh lầm lạc, đạt
đến an lạc, cứu cánh
Niết bàn.
Người Phật tử tin rằng Phật pháp là chân lý mà
Đức Phật đã thân chứng, là phương pháp diệt
khổ, là con đường đưa đến an lạc giải thoát
Chánh pháp mà Đức Phật đã giác ngộ, Ngài có
khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ để giáo
huấn chúng sinh cho hiểu biết rõ và thực hành
đúng theo lời dạy của Ngài; để đem lại sự lợi ích,
sự tiến hóa, sự an lạc trong kiếp hiện tại, những
kiếp vị lai và đặc biệt đạt đến cứu cánh Niết Bàn,
giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới..
Hữu kiến
Phi hữu kiến
“Micchā passatīti = diṭṭthi: Thấy sai lệch (với chân
pháp), gọi là (tà) kiến.”
Tà kiến là nhìn thấy các pháp ấy trái ngược lại,
như vô thường cho là thường, khổ cho là lạc, vô
ngã cho là ngã, không trong sạch cho là trong
sạch.
Hữu kiến (bhavadiṭṭhi), chấp vào cái có, còn gọi
là thường kiến - sassatadiṭṭhi, cho rằng: Có một
thực thể thường hằng không thay đổi, không biến
hoại".
“Con người có một linh hồn (tự ngã) luôn luôn tồn
tại, nếu kiếp này là người thì kiếp sau cũng là
người, linh hồn này không bị hoại diệt...”
Thường kiến còn được gọi là “nắm giữ cái có”
(chấp hữu), thông thường chúng sanh cho rằng
“có một cái thức thường hằng”.
Chữ sassata = sa + sata. Sata là suy nghĩ, chú
tâm, sassata là “có (một) cái thức”. Tức là cho
thức không hề biến đổi, hay “có một cái thức” là
chủ tể (nātho) của thân xác này, thức ấy không hề
bị hoại diệt.
Từ ý nghĩ “có một thực thể thường hằng”, nảy sinh
quan điểm: “Có vị Thượng đế thường hằng” hay
“có một tự ngã (atta) thường hằng”.
Nói cách khác, thường kiến là tin tưởng “có một
thực thể (nào đó) không hề thay đổi (thực thể ở
đây nên hiểu là pháp hữu vi)”.
Phi hữu kiến (vibhavadiṭṭhi), chấp vào cái
không, còn gọi là đoạn kiến - ucchedadiṭṭhi, cho
rằng: “Chúng sanh sau khi mệnh chung là hoại
diệt, không còn lại cái chi cả”.
Có ba loại đoạn kiến:
- Vô hành kiến (akiriyadiṭṭhi).
- Vô nhân kiến (ahetukadiṭṭhi).
- Vô hữu kiến (natthidiṭṭhi).
- Vô hành kiến (akiriyadiṭṭhi) cho rằng mọi hành
động tốt xấu đều không để lại hậu quả.
“Chúng sanh và thế giới này ngẫu nhiên hình
thành, không có nguyên nhân nào tạo ra cả”.
“Sự thành công hay thất bại là do năng lực trong
hiện tại, không do nhân của nghiệp nào trong quá
khứ hay trong đời này cả”.
Chúng sanh sau khi chết thì hoại diệt”, nên những
hành động trong kiếp sống này chỉ là “một sinh
hoạt đơn thuần”, tức là bất kỳ hành động nào của
thân, ngữ hay ý đều không có tính chất “tội hay
phước”. Tội hay phước chỉ là quan niệm của thế
tục, kết quả của “tội” hay “phước” chỉ có giá trị
trong kiếp sống hiện tại theo qui định của thế gian.
- Vô nhân kiến (ahetukadiṭṭhi) – cho rằng mọi
thứ ngẫu nhiên mà có .
“Chúng sanh và thế giới này ngẫu nhiên hình
thành, không có nguyên nhân nào tạo ra cả”.
“Sự thành công hay thất bại là do năng lực trong
hiện tại, không do nhân của nghiệp nào trong quá
khứ hay trong đời này cả”.
- Vô hữu kiến (natthidiṭṭhi) – phủ nhận mọi thứ
mình không thấy được.
“Không có nhân, không có quả nghiệp chi cả”.
Bố thí không có phước. Không có nghiệp, không
có quả dị thục của nghiệp. Không có cha mẹ. Đời
này cũng không có. Đời sau cũng không có.
Không có chúng sanh là hạng Hóa sanh như Chư
thiên, ngạ quỷ... Không có hạng Sa-môn, Bà-la-
môn đắc chứng pháp chi cả, không có ai biết được
đời trước hay đời sau.
Lý vô ngã (anatta) chỉ xuất hiện trong thời có Giáo
pháp của Đức Phật qua trí tuệ của vị Chánh đẳng
giác, cái sự sống (tồn tại) được Đức Phật minh
giải qua lý duyên khởi. Tức là sự sống ấy vốn có,
nhưng nó không thường cũng không đoạn, nó
hiện hữu nhờ có nhân duyên, khi hết nhân duyên
thì nó diệt, nhường bước cho sự sống khác sinh
lên.
Ví như ngọn lửa cháy nhờ có nhiên liệu, nhiên liệu
còn, ngọn lửa còn, thay đổi nhiên liệu thì ngọn lửa
thay đổi, khi nhiên liệu hết, ngọn lửa tắt. Nhiên liệu
ví như nhân duyên, ngọn lửa ví như sự sống.
Đã là chân lý thì chỉ có một. Giữa khi ngoại đạo
chủ trương hữu kiến (chấp thường), hoặc phi hữu
kiến (chấp đoạn) thì Phật giáo vượt ra khỏi thường
đoạn (không chấp hữu, không chấp vô) mà tuyên
bố sự thật là "Trung đạo", hay Duyên khởi.
Ngoại đạo do vì vướng vào chấp thường, đoạn mà
không thể có tuệ tri về sự tập khởi và sự đoạn diệt
của hai loại tri kiến ấy. Họ cũng không thể tuệ tri vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi các tri kiến
nọ.
Về sự tập khởi - samudaya - của hai loại kiến
chấp, Sớ giải kể ra tám yếu tố làm nhân duyên:
năm uẩn, vô minh, xúc, tưởng, tư, phi như lý tác ý,
bạn xấu, và tiếng nói của một người khác.
Sự đoạn diệt - atthaṅgama - hai loại tà kiến ấy là
Dự-lưu đạo, ở đấy tất cả quan điểm đều bị nhổ bật
gốc.
Vị ngọt của chúng - assāda - là sự thỏa mãn nhu
cầu tâm lý mà chúng đem lại;
Sự nguy hiểm - ādīnava - sự trói buộc liên tục mà
chúng gây ra;
Sự xuất ly - nissaraṇa - khỏi chúng là Niết Bàn.
Trung đạo - Duyên khởi Chấp ngã, chấp thường, chấp đoạn
Vô ngã Hữu ngã
- Vô tham, vô sân, vô si
- Đoạn ái, đoạn thủ
- Tuệ tri, không thuận ứng, không
nghịch ứng
- Tham, sân, si
- Ái, thủ
- Không tuệ tri, thuận ứng, nghịch ứng
Có Tứ sa môn quả Không có Tứ sa môn quả
Dẫn đến đoạn tận khổ
(Tịch tịnh, Niết bàn) Dẫn đến sinh, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não
Thủ là sự chấp nê, ôm ấp, không buông bỏ của
Tham Ái hoặc Tà Kiến.
Bhusaṃ ādiyanti amuñcanagāhaṃ gaṇhantīti
upādānāni: Chấp chặt không buông thì gọi là Thủ.
Thủ ở đây chính là Ái và Tà Kiến nhưng ở mức độ
trầm trọng, sâu sắc. Sự thích thú một cách khắn
khít, chặt chẽ cũng được gọi là Thủ mà cả sự hiểu
sai lầm một cách sâu sắc cũng là Thủ. Ái và Tà
Kiến ở mức độ bình thường không thể gọi là Thủ.
Các ngài ví dụ Tham Ái (taṇhā) là tên trộm trong
đêm và Thủ (ūpādāna) là động tác cầm nắm vật
trộm.
Dục Thủ (kāmupādāna): Tâm sở Tham (lobha)
trong 8 tâm tham (lobhamūlacitta) trong trường
hợp đam mê Ngũ Dục (pañcakāma).
Kiến Thủ (diṭṭhupādāna): Sự chấp trước những
Tà Kiến nằm ngoài Giới Cấm Thủ và Ngã Chấp
Thủ. Như tin Thượng đế tối cao, thiên đường
vĩnh cửu hay thờ phụng ma quỷ, thần vật. Chi
pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4
tâm tham hợp tà
(lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).
Giới Cấm Thủ (silabbatūpādāna): Là do muốn
được sanh vào một cảnh giới nào đó người ta
chấp nhận một đường lối hành trì vô lý, tuân
theo các giáo điều lầm lạc như đạo chó, đạo bò,
đạo lõa thể hoặc bất cứ một hình thức tu tập mù
quáng nào đó nằm ngoài giáo pháp của chư
Phật, hoặc lợi dưỡng hoặc khổ hạnh.
Ngã Chấp Thủ (attavādūpādāna): Đây là từ
đồng nghĩa của Thân Kiến (sakkāyadiṭṭhi). Thủ
này là sự chấp chặt quan điểm Ngã (ahankāra)
và Ngã Sở (mamaṅkāra) như có tôi, của tôi, có
hắn, của họ. Chi pháp là tâm sở Tà Kiến
(micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà
(lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).
ÁI DUYÊN THỦ (taṇhāpaccayā upādānaṃ)
Tham Ái ở giai đoạn mãnh liệt và có Tà Kiến đi
cùng thì được gọi là Thủ.
Ái Thủ
Tâm sở Tham Tham
Định nghĩa Sự thích thú, say
đắm
Sự ôm ấp, gắn
chặt
Hình ảnh minh
họa mầm non mới nhú cội cây có gốc rễ
Pháp đối lập Đức tánh thiểu
dục Đức tánh tri túc
Nhân tố Khổ tầm cầu Khổ bảo thủ
ÁI LÀM DUYÊN CHO DỤC THỦ
Ái trong trường hợp này là sự thích thú đơn thuần
ở giai đoạn tiên khởi, còn Dục Thủ tuy cũng là Ái
nhưng lại là Ái ở mức độ sâu sắc, trầm trọng.
Ái là nhân tố cho khổ tầm cầu (Pariyesanādukkha)
tức những vất vả, gian khó trong khát vọng tìm
kiếm dục lạc, còn Dục Thủ là nhân tố cho khổ bảo
thủ (Ārakkhadukkha) tức những sầu bi ưu não
phải chịu đựng trong ước muốn gìn giữ các dục
lạc cho đừng mất mát, đổ vỡ.
Câu chuyện tiền thân về việc Bồ-tát bị hoại thiền
chính do Dục Thủ quá mãnh liệt nên Bồ-tát đã
phải bị khổ tâm vì hình bóng bà hoàng hậu suốt
một tuần lễ như vậy.
Hoặc câu chuyện đức vua Bāraṇasī chính là cái
mộng tranh bá đồ vương được nung nấu lâu ngày
nên trở thành Dục Thủ. Cũng là cái Tham Ái
nhưng ở mức độ trầm trọng như vậy thì được gọi
là Dục Thủ
ÁI LÀM DUYÊN CHO KIẾN THỦ
Kiến Thủ là tất cả những Tà Kiến nào ngoài ra
Giới Cấm Thủ và Ngã Chấp Thủ. Còn Tham Ái ở
trường hợp này cũng là sự thích thú trong các
cảnh, hoặc Nội Phần hoặc Ngoại Phần. Cảnh Nội
Phần là những gì thuộc về bản thân, không liên hệ
gì với chính mình bất luận là chúng sanh hay vật
vô tri.
Câu chuyện về du sĩ lõa thể Guṇa và nguyên soái
Alāta tin chắc rằng hành động thiện ác không có
quả báo.
Qua câu chuyện trên đây, nếu xét cho cùng, ta sẽ
thấy rằng Tà Kiến của các nhân vật trong đó đều
bắt nguồn từ sự khao khát dục lạc, lấy sự sung
sướng làm tâm điểm cho nhận thức về vấn đề
nghiệp báo. Đó là Ái trợ sanh cho Kiến Thủ vậy.
ÁI LÀM DUYÊN CHO GIỚI CẤM THỦ
Dầu là muốn đạt tới cứu cánh giải thoát nào đó
hoặc để được sanh lên thiên đàng cũng đều là Ái
cả. Từ sự mong mỏi đó, người ta chấp nhận một
pháp môn tu tập tà vạy, hoặc lợi dưỡng hoặc khổ
hạnh, đó chính là Ái trợ sanh cho Giới Cấm Thủ.
Trong thời kỳ Đức Phật, có hai du sĩ nọ, vì muốn
sanh thiên nên chủ trương tu theo pháp môn khổ
hạnh bằng cách bắt chước theo con bò, con chó.
Hai loài thú này sinh hoạt thế nào thì họ cũng làm
theo như vậy. Đến khi gặp được đức Phật, Ngài
giải thích cho họ biết đó là đường lối sai lầm thì cả
hai mới quay về với Phật giáo.
Để mưu cầu hạnh phúc cho đời sau mà lại mù
quáng chấp trì một hạnh tu, một giáo điều hay giới
cấm nào đó sai lầm, đi ngược lại giáo pháp của
chư Phật thì đó là Giới Cấm Thủ mà cũng là
trường hợp để Ái làm duyên cho Giới Cấm Thủ.
ÁI LÀM DUYÊN CHO NGÃ CHẤP THỦ
Theo quy luật vận hành của hữu vi pháp thì tất cả
mọi sinh hoạt của chúng sanh đều được diễn biến
trên cơ sở nhân duyên thích ứng.
Đối với cảnh khả ái, khả hỷ thì chẳng những làm
điều kiện tốt cho tâm tham sanh khởi mà lại còn
khiến cho chúng sanh phải ôm ấp, chấp nê, khắn
khít sâu sắc với nó nữa và chính vì Tham Ái quá
mãnh liệt nên người ta mới đi đến ngộ nhận là có
một cái tôi, tôi tồn tại, tôi hiện hữu, tôi sinh hoạt, tôi
là tôi…Đó chính là Tham Ái trợ sanh cho Ngã
chấp thủ
Bốn Khía Cạnh Thực Tính Của Tứ Thủ
Bản tướng Sự nắm bắt, khắn khít
Nhiệm vụ Không buông bỏ cảnh sở tri
Đặc điểm Tham ái mãnh liệt,
có Tà kiến đi kèm
Nhân tố cần thiết Tham ái
Tư tưởng nhân loại thì mênh mông như biển cả;
giáo lý của các tạng kinh Phật giáo thì phong phú
đến choáng ngợp; giữa cái cảnh mênh mông ấy,
Tiểu kinh Sư tử hống đã cống hiến một sự đối
chiếu rất ngắn gọn và rất chân xác giống như tiếng
rống của sư tử trong rừng sâu khiến muôn thú run
rẩy, im lặng; Cũng vậy, giáo lý Phật giáo nói lên sự
thật khiến ngoại đạo run rẩy, im lặng, câm lặng.