thùc thi chÝnh s¸ch an sinh x· héi ë thµnh phè §µ n½ng ...hcma.vn/uploads/2017/4/4/lu_n...

230
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH LÊ ANH THùC THI CHÝNH S¸CH AN SINH X· HéI ë THμNH PHè §μ N½NG hiÖn nay - THùC TR¹NG Vμ GI¶I PH¸P LUN ÁN TIN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRHC Mã s: 62 31 02 01 Người hướng dn khoa hc: 1. PGS.TS. NGUYN VĂN VĨNH 2. PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH HÀ NI - 2017

Upload: others

Post on 16-Sep-2019

12 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ ANH

THùC THI CHÝNH S¸CH AN SINH X· HéI

ë THµNH PHè §µ N½NG hiÖn nay - THùC TR¹NG

Vµ GI¶I PH¸P

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 62 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN VĨNH

2. PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Lê Anh

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7

1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách công, chính sách xã hội 7 1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách an sinh xã hội, hệ

thống chính sách an sinh xã hội và thực thi chính sách an sinh xã hội ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng 9

1.3. Nhận xét tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 16

Chương 2: CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 19

2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về an sinh xã hội, chính sách an sinh xã hội 19

2.2. Thực thi chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong thực thi chính sách an sinh xã hội 28

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA 46

3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng 46

3.2. Hoạt động thực thi chính sách an sinh xã hội ở Đà Nẵng trong thời gian qua 48

3.3. Đánh giá kết quả việc thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua 82

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI 102

4.1. Dự báo những yếu tố tác động đến hoạt động thực thi chính sách an sinh xã hội ở Đà Nẵng 102

4.2. Quan điểm nâng cao chất lượng thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng 106

4.3. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới 108

KẾT LUẬN 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH : An sinh xã hội BCÐ : Ban chỉ đạo BCHTƯ : Ban chấp hành Trung ương BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BTXH : Bảo trợ xã hội CNH, HÐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, ÐTH : Công nghiệp hóa, đô thị hóa CP : Chính phủ CSC : Chính sách công CTQG : Chính trị quốc gia CT - XH : Chính trị - xã hội DTTS : Dân tộc thiểu số ÐTCS : Ðối tượng chính sách ÐTN : Ðào tạo nghề GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HÐND : Hội đồng nhân dân HTX : Hợp tác xã KCB : Khám chữa bệnh KTTT : Kinh tế thị trường KT - XH : Kinh tế - xã hội LÐ-TB&XH : Lao động - Thương binh và xã hội LLLÐ : Lực lượng lao động NCC : Người có công NCT : Người cao tuổi NKT : Người khuyết tật NOXH : Nhà ở xã hội TCXH : Trợ cấp xã hội TGXHTX : Trợ giúp xã hội thường xuyên TTg : Thủ tướng UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Trang

Bảng 3.1: Ý kiến đánh giá của người dân về hiệu quả thực thi chính sách

an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 5 năm

gần đây (2010 - 2015) 88

Bảng 3.2: Ý kiến đánh giá của người dân về điều kiện thuận lợi mà các

chính sách an sinh xã hội mang lại 89

Biểu đồ 3.1: Đồ thị tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, 2005-2014 68

Biểu đồ 3.2: Kinh phí hỗ trợ nhà ở 79

Biểu đồ 3.3: Thu ngân sách của thành phố Đà Nẵng qua các năm 98

1

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Nghị quyết Đại hội XII cũng chỉ rõ: Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập [56, tr.76, 78].

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khóa XI khẳng định: Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ… Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội [55, tr.90, 91].

Nhờ thực hiện tốt các chính sách xã hội, thời gian qua các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội; nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ [55, tr.70,71].

Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước [17], đã xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung.Trên cơ sở mục tiêu chung đó, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện chủ trương gắn phát triển kinh tế với

2

giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách an sinh xã hội, quan tâm nhân tố con người và đã đạt được những kết quả tích cực: Trên lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Đà Nẵng từ 1997 - 2015 đạt 10,62%, nhất là giai đoạn 2001 - 2010 đạt gần 11,96%/năm (tỷ lệ này cao hơn nhiều so với bình quân cả nước là 7,07%/năm). Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người của năm 2011 đạt 23,62 triệu/người (tăng hơn 5 lần so với năm 1997 là 4,69 triệu/người) [7, tr.8-9]. Tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không chỉ để sớm đưa Đà Nẵng trở thành một thành phố hiện đại, phát triển; mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu xã hội. Trên lĩnh vực xã hội: Song song với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế; tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, nhiều chính sách ASXH đậm tính nhân văn được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt. Chương trình thành phố “5 không”, “3 có” gắn với công tác đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện tốt: Trong 3 năm 2011 - 2013, với chủ đề “Năm an sinh xã hội”, thành phố tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc. Mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành, Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm (năm 2012), giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm (năm 2015), đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố (Chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015, thành phố 500.000 đồng/người/tháng, nông thôn 400.000 đồng/người/tháng. Chuẩn nghèo giai đoạn 2013 - 2017, thành phố 800.000 đồng/người/tháng, nông thôn 600.000 đồng/người/tháng). Đề án “Có nhà ở” được triển khai đồng bộ bằng cả nguồn vốn ngân sách và xã hội hoá (Đã đưa vào sử dụng 176 khối nhà chung cư với gần 9.000 căn hộ; đang triển khai xây dựng 128 khối chung cư với gần 17.500 căn hộ; hoàn thành 02 khu ký túc xá sinh viên tập trung phía Tây và phía Đông thành phố, đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho 5.500 sinh viên), đặc biệt trong 2 năm 2014, 2015 đã tập trung hỗ trợ xây dựng, sửa chữa hơn 2.200 nhà ở cho các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân Làng Vân. Đề án “Có việc làm” được quan tâm thực hiện, tổ chức tốt các phiên giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động, hằng năm giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 55%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đến cuối năm 2015 giảm còn 4,15% (cuối năm 2010 là 4,9%) [48, tr.9-10]. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả khả quan nói trên, lĩnh vực kinh tế và ASXH vẫn còn

3

những hạn chế, bất cập: Quá trình phát triển kinh tế đã dẫn đến việc mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ đã thu hút số lượng lớn lao động từ các địa phương khác đến tham gia làm việc và cư trú, trong đó có không ít lao động tự do, những người lang thang cơ nhỡ. Mặt khác, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, các đối tượng dân cư bị thu hồi đất, phải chuyển đổi nghề nghiệp, phải tái định cư do quá trình mở rộng và chỉnh trang đô thị rất lớn, gây áp lực cho việc giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống, bố trí nhà ở trên địa bàn thành phố, gây khó khăn cho công tác ASXH. Bên cạnh đó, hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đã góp phần làm tăng số lượng học sinh, sinh viên đến học tập và ở lại làm việc đã gây áp lực không nhỏ về vấn đề chỗ ở, khám chữa bệnh, chăm sóc y tế và các vấn đề xã hội khác [48, tr.18-19].

Ngày 12-11-2013, Bộ Chính trị ban hành Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW năm 2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” với nhiều cơ chế, chính sách mới, tạo động lực mới cho Đà Nẵng phát triển [19].Với quan điểm phát triển bền vững: “Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội” [48, tr.87], “Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của BTV Thành uỷ và các chính sách an sinh xã hội đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân” [47, tr.33-34] để phấn đấu xây dựng Đà Nẵng trở thành “một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có đời sống văn hóa cao; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống” [48, tr.29], một thành phố giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại [48, tr.24], thành phố “4 an” - an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm và an sinh xã hội; việc khảo sát một cách khách quan thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những luận cứ khoa học nhằm thực thi chính sách ASXH một cách có hiệu quả hơn là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề "Thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học.

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực thi chính sách ASXH; phân

tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng việc thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ASXH, về thực thi chính sách ASXH ở

nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng thời

gian qua. - Xác định quan điểm và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng

việc thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Quá trình thực thi chính sách ASXH của thành phố Đà Nẵng trên các lĩnh

vực bảo trợ xã hội, giảm nghèo, người có công với cách mạng, nhà ở xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động (nhất là người lao động bị thu hồi đất sau chỉnh trang đô thị), bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... được thể hiện trong các chương trình ASXH có tính “đặc thù” của thành phố Đà Nẵng (chương trình thành phố “5 không”, “3 có” “4 an”) giai đoạn từ năm 1997 đến nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Chu trình chính sách công bao gồm nhiều bước (hoạch định, tổ chức thực thi, đánh giá kết quả); trong giới hạn của đề tài chỉ tập trung vào giai đoạn tổ chức thực thi chính sách và đánh giá kết quả. Nội dung hệ thống chính sách ASXH bao gồm nhiều nội dung; luận án chỉ tập trung phân tích, đánh giá về việc thực thi chính sách ASXH ở các nội dung cơ bản có tính “ưu trội” ở thành phố Đà Nẵng: Chính sách ưu đãi, chính sách bảo trợ xã hội; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách nhà ở cho người có công, dân tộc thiểu số và nhà ở thu nhập thấp; chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế...

- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn từ năm 1997 đến 2015 và đề xuất các giải pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2025

5

- Không gian: Thành phố Đà Nẵng 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính trị nói chung và vấn đề chính sách xã hội, chính sách ASXH nói riêng, về khoa học chính sách công, khoa học quản lý công

4.2. Cơ sở thực tiễn Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện của Đảng bộ, chính quyền thành phố

Đà Nẵng trong việc xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trên quan điểm phát triển bền vững “Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề ASXH” [48, tr.87].

4.3. Phương pháp nghiên cứu - Việc tiếp cận vấn đề được dựa trên nền tảng khoa học của chuyên ngành chính

trị học và vận dụng các kiến thức liên ngành chính sách công, quản lý công. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích tài liệu có sẵn (là những tài

liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các tài liệu khác liên quan đến đề tài) thông qua việc phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh. Phương pháp định lượng: NCS tiến hành điều tra chọn mẫu với số lượng 307 phiếu trưng cầu ý kiến. Số phiếu điều tra này có cơ cấu mẫu như sau: về giới tính, có 142 nam (46,3%), 165 nữ (53,7%); địa bàn thành thị có 212 người (69%), nông thôn gồm 105 người (31%). Địa bàn khảo sát được lựa chọn đại diện cho 3 vùng (vùng nội thành là quận Hải Châu có 109 phiếu; vùng ven là quận Cẩm Lệ có 103 phiếu; và vùng nông thôn là huyện Hòa Vang có 105 phiếu); mẫu được NCS chọn theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Phương pháp định tính: NCS thực hiện 21 mẫu phỏng vấn sâu, trong đó, đối tượng phỏng vấn sâu được lựa chọn ngẫu nhiên trên 3 địa bàn kể trên.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học chính sách công, quản lý công; vai trò của

việc thực thi hệ thống chính sách ASXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. - Góp phần hiện thực hóa những nội dung được nêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ

5 BCHTƯ khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.

6

- Đánh giá một cách khách quan về những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi hệ thống chính sách ASXH để xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố “an bình, đáng sống”.

Với những đóng góp đó, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề này.

6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án gồm có 4 chương, 11 tiết.

7

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chính

sách công, chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội (ASXH), thực thi chính sách ASXH, đáng quan tâm là những công trình sau:

1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

- "Tìm hiểu về khoa học chính sách công" của Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [176] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về khái niệm, cấu trúc và chu trình chính sách công - hoạch định, thực thi, đánh giá chính sách công. Vị trí của chính sách công trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị. Chu trình chính sách với 4 giai đoạn chính: Xác lập chương trình nghị sự (tìm kiếm sự nhất trí về mục tiêu), ra quyết định chính sách (tìm kiếm sự nhất trí về biện pháp đạt được mục tiêu), triển khai chính sách (thi hành các biện pháp đã được nhất trí), đánh giá chính sách (đánh giá việc thực hiện mục tiêu và đặt ra các vấn đề mới). Vai trò của nhà nước trong việc thực thi các chính sách xã hội nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các chính sách chính của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách cũng chỉ rõ: Chính sách công là lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới, vì vậy đó chỉ là những nhận thức và cơ sở lý luận ban đầu cho những khảo sát cụ thể hơn về thực tế quy trình hoạch định chính sách ở nước ta

- "Chính sách công của Hoa Kỳ (giai đoạn 1935 - 2001)" của Lê Vinh Danh [37] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản như: Chính sách công và chính quyền - tổ chức chính quyền hợp chủng quốc Hoa Kỳ, chính sách công ; Quy trình thiết kế chính sách công; Chính sách công Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2000; Quy trình thiết kế chính sách trong thực tế. Cuốn sách đã khái quát nội dung với 3 phần: Chính sách công và chính quyền, tiến trình lập và thực hiện chính sách, thiết kế chính sách công trong thực tế. Những mục tiêu tương đồng về lợi ích quốc gia, lề lối thiết kế và quản trị mang tính cơ bản có thể thể nghiệm cho các nước đang phát triển xem xét. Tuy nhiên, chính sách công của Hoa Kỳ không những được điều chỉnh cho phù hợp với những điều kiện biến động của xã hội; hơn thế nữa hệ thống giá trị, hệ thống chính trị của nước Mỹ có những

8

khác biệt so với các nước trên thế giới, vì vậy việc vận dụng đòi hỏi phải có những điều chỉnh tất yếu

- "Giáo trình Hành chính học" của Nguyễn Hữu Hải [74] và "Đại cương về phân tích chính sách công" của Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa [75] đã trình bày những nội dung cơ bản về khái niệm, chức năng, ý nghĩa của phân tích chính sách công; các nguyên tắc và yêu cầu của việc phân tích chính sách công; các yếu tố tác động đến phân tích chính sách công; tiêu chí trong phân tích chính sách công; nội dung phân tích chính sách công; phương pháp phân tích chính sách công. Phân tích chính sách công có vai trò quan trọng và là khâu khởi đầu, xuyên suốt trong chu trình chính sách. Cuốn sách đã cung cấp công cụ và phương pháp phân tích chính sách thực sự khoa học. "Chính sách công - Những vấn đề cơ bản" của Nguyễn Hữu Hải [76] đã trình bày những nội dung cơ bản về Chính sách công như: Đặc điểm, vai trò, phân loại chính sách công; cấu trúc nội dung và chu trình chính sách công; hoạch định chính sách công; tổ chức thực thi chính sách công - quan niệm, vị trí, ý nghĩa, các bước tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách công; đánh giá chính sách công; tổ chức công tác phân tích, đánh giá chính sách công. Đặc biệt cuốn sách đã cung cấp những phụ lục về quy trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam: quy trình hoạch định chính sách công của Quốc hội, quy trình hoạch định chính sách công của Chính phủ, quy trình hoạch định chính sách công của HĐND cấp tỉnh. Đây là tư liệu cung cấp khá hệ thống những kiến thức cơ bản về chính sách công , vận dụng những kiến thức cơ bản đã học vào thực tiễn đánh giá chính sách công, góp phần hoàn thiện công tác hoạch định và thực thi chính sách công trong quản lý nhà nước.

- "Quản lý công" của Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải [156] đã đề cập đến quá trình phát triển khoa học quản lý công; vấn đề khu vực công; nhà quản lý công và nội dung quản lý công, kỹ năng quản lý công; những thách thức trong quá trình quản lý công ở Việt Nam. Đây là tài liệu thể hiện cách tiếp cận mới về nội dung, hình thức, phương pháp quản lý trong khu vực công - việc áp dụng khoa học quản lý công vào các tổ chức công xét đến cùng là quản lý con người trong tổ chức.

- "Chính sách công và phát triển bền vững - Cán cân thanh toán, nợ công và đầu tư công" của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kinh tế [57]. Cuốn sách đã đề cập đến 2 nội dung cơ bản: Nội dung thứ nhất là cán cân thanh toán (mối liên hệ giữa cán cân thanh toán và sự phát triển kinh tế cũng như các vấn đề tỷ giá, lạm phát) và phát

9

triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nội dung thứ hai là đầu tư công và nợ công (các yếu tố tác động đến quy mô và chất lượng của đầu tư công, vấn đề nợ công, chi tiêu công và phát triển bền vững), tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, cải cách thể chế và định vị lại vai trò của đầu tư công. Những nội dung đó được tiếp cận bằng phương pháp nghiên cứu hiện đại, khách quan, kết hợp định tính và định lượng với những kiến nghị có cơ sở khoa học trong việc tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công ở nước ta

- "Đại cương về Chính trị học" của Lê Văn Đính [59]; "Giáo trình Chính trị học Đại cương" của Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Đính [179] đã trình bày quan niệm, đặc trưng, chu trình chính sách công. Đây là những tư liệu tiếp cận vấn đề chính sách công ở giác độ của Chính trị học: quan tâm đến vai trò của nhà nước trong việc thực thi chính sách công nói chung và các chính sách xã hội nói riêng nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ngoài những tư liệu nói trên, còn có các bài viết công bố trên các tạp chí liên quan đến quan niệm, đặc điểm, chu trình chính sách công.và việc đánh giá chính sách công - nội dung, tiêu chí của đánh giá chính sách công có thể kể đến là: "Chính sách công" của Lê Chi Mai [98], "Đánh giá chính sách công ở Việt Nam - Vấn đề và giải pháp" của Nguyễn Đăng Thành [128].

1.2. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI, HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về an sinh xã hội, hệ thống chính sách an sinh xã hội

- “Pháp luật an sinh xã hội - kinh nghiệm một số nước đối với Việt Nam” của Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương [73] đã làm rõ quan niệm và vai trò của pháp luật an sinh xã hội của một số nước như Đức, Nga, Hoa Kỳ cũng như khái quát khá đầy đủ hệ thống pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã nhấn mạnh để hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam trong tình hình mới cần phải xúc tiến xây dựng Bộ Luật an sinh xã hội và cải cách các Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế.

- "Mô hình phát triển xã hội của một số nước phát triển Châu Âu: Kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt Nam" của Nguyễn Quang Thuấn, Bùi Nhật Quang [137] đã phân

10

tích cách thức nhà nước cung cấp các dịch vụ ASXH cho người dân ở một số quốc gia phát triển ở châu Âu. Từ đó, tác giả đưa ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp cho sự lựa chọn mô hình phát triển, chính sách đảm bảo ASXH của nước ta hiện nay trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

- “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Đinh Công Tuấn [157] đã phân tích tổng quan về hệ thống ASXH của châu Âu cũng như làm rõ nhu cầu, thách thức trong việc cải cách hệ thống an sinh xã hội của châu Âu, đồng thời, chỉ ra những thành công, hạn chế, những kinh nghiệm trong đảm bảo ASXH thông qua: Hệ thống ASXH theo mô hình “thị trường xã hội” của Đức; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “xã hội dân chủ” của Thuỵ Điển; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “thị trường tự do” của Anh. Từ đó, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho xây dựng và thực hiện chính sách ASXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.

- "Bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản hiện nay" của Trần Thị Nhung [105] đã phân tích được khái niệm và lịch sử phát triển của hệ thống đảm bảo xã hội của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, tác giả cung cấp thông tin một cách đầy đủ về đặc điểm, các loại hình, vai trò, chức năng của nhà nước cũng như những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện các chế độ đảm bảo xã hội của nhà nước như: Chế độ đảm bảo thu nhập, bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và trợ giúp xã hội.

- "Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi ở Nhật Bản" của Nguyễn Duy Dũng [39] đã khái quát sự hình thành và phát triển chế độ phúc lợi xã hội ở Nhật Bản; các hình thức và biện pháp nhà nước đảm bảo phúc lợi xã hội ở Nhật Bản (Chế độ chăm sóc sức khoẻ; phúc lợi đối với bà mẹ và trẻ em; phúc lợi xã hội đối với người già, người tàn tật, người có thu nhập thấp); tổ chức quản lý và tài chính cho việc thực hiện chính sách phúc lợi xã hội của Nhật Bản.

- "Giáo trình nhập môn về an sinh xã hội" của Nguyễn Hải Hữu [90]; "Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Hải Hữu [91]; "Giáo trình Luật an sinh xã hội" của Nguyễn Thị Kim Phụng [110]; "Giáo trình ưu đãi xã hội" của Trường Đại học Lao động [154]; "Giáo trình Cứu trợ xã hội" của Trường Đại học Lao động [155]; "Giáo trình Bảo hiểm xã hội" của Trường Đại học Kinh tế quốc dân [151]. Các giáo trình đã trình bày quan niệm về ASXH, đặc điểm và cấu trúc an sinh xã hội, phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính sách ASXH, vai trò và tầm quan trọng của xây dựng và thực thi chính sách ASXH.

11

- “Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiểu [24] đã đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản chính sách an sinh xã hội và kinh nghiệm một số nước, thực trạng thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với tư liệu này, luận án đã kế thừa nội dung tính tất yếu, vai trò và yêu cầu đặt ra đối với nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH (tính tất yếu được thể hiện ở các nội dung: bản chất, chức năng xã hội của nhà nước, khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền cơ bản của con người, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế)

- “Xây dựng và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Mai Ngọc Cường [35] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của chính sách ASXH trong nền kinh tế thị trường; thực trạng hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay; phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2015. Cuốn sách đã chỉ rõ tác động mặt trái của kinh tế thị trường: tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập, nguy cơ thất nghiệp và bệnh tật, đói nghèo. Đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng, Nhà nước trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nói chung, ASXH nói riêng

- “An sinh xã hội ở nước ta ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ Văn Phúc [109] đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thế giới về ASXH: quan điểm và cách tiếp cận về về an sinh xã hội, xây dựng và thực hiện hệ thống về ASXH ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; những vấn đề thực tiễn về an sinh xã hội ở nước ta: xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, ASXH cho cư dân vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng dân tộc và miền núi, đào tạo nghề. Cuốn sách đã phác họa bức tranh tổng thể về cơ sở lý luận và những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta. Tuy nhiên, các chuyên đề, bài viết của chuyên gia chưa được tổng quan hóa nên tính logich của các nội dung vẫn còn bất cập.

-“Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp” của Lê Quốc Lý [95] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách

12

ASXH; những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở Việt nam gần đây thông qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng chính sách; trên cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020 cuốn sách đã nêu lên 5 nhóm giải pháp khắc phục những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở nước ta (thiết kế và thực thi chính sách ASXH, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ máy thực thi chính sách ASXH, nâng cao nhận thức của đối tượng thụ hưởng về chính ASXH).

- Các bài nghiên cứu trên các tạp chí liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội có thể kể đến là: “An sinh xã hội ở nước ta - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Phúc [108]; “Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta những năm tới” của Mai Ngọc Cường [36]; “Hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn [118]; "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững" của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân [102]; “Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” của Dương Văn Thắng [133]. Các bài viết nói trên đã đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta, xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam trên quan điểm các nghị quyết chuyên đề của Đảng về ASXH.

- Ngoài các ấn phẩm sách, tạp chí, các kỷ yếu của các cuộc hội thảo sau đây cũng phần nào làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến lĩnh vực ASXH : “An sinh xã hội ở Việt Nam: Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới” do Đại học Kinh tế Quốc dân [152]; Hội thảo“Xây dựng Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020” của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) [20]; “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [9]... Qua các hội thảo này, cũng đã có nhiều phát hiện và tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện chính sách ASXH cũng như vai trò của nhà nước trong thực hiện chính sách ASXH, thực trạng và giải pháp thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam.

- Ngoài các tài liệu trong nước, liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội còn có các tài liệu nước ngoài: "Social security today and tomorrow" (An sinh xã hội hôm nay và ngày mai) của tác giả Robert M. Ball [187] đã đề cập dến quan niệm An sinh

13

xã hội (là hệ thống các chính sách hỗ trợ những người đang đối mặt (hoặc đe doạ) bởi sự thiếu thốn nguồn thu nhập (mà đó chính là khoản lương bổng) hoặc các khoản chi tiêu đặc biệt khác) và đề cập đến các chương trình mà chính phủ các nước đặt ra với mục đích hàng đầu là giúp đỡ những người dân gặp rủi ro dẫn đến việc bị mất hoặc giảm sút thu nhập; chế độ ASXH được xem như là sự bảo vệ của nhà nước đối với người dân trước những rủi ro về xã hội. "Social Security in Global Perspective" (An sinh xã hội trong viễn cảnh toàn cầu) của tác giả John Dixon [185] đã đề cập đến nội dung ASXH của một quốc gia là nhằm cung cấp các biện pháp công cộng (tiền mặt và hiện vật) cho những biến cố ngẫu nhiên mà luật pháp đã quy định người dân có quyền được hưởng bao gồm mất mát thu nhập hoặc thu nhập không đầy đủ, bù đắp hỗ trợ chi phí đối với những người sống phụ thuộc; an sinh xã hội chỉ dành cho những cá nhân và hộ gia đình bị rơi vào hoàn cảnh mất hoặc giảm thu nhập thường xuyên một cách đột ngột - ASXH chỉ tập trung vào hạn chế nghèo đói, bồi thường xã hội và phân phối lại thu nhập, các hình thức bảo hiểm không được coi là một bộ phận của ASXH. "Về bảo trợ xã hội và thúc đẩy xã hội: Thiết kế và triển khai hệ thống an sinh hiệu quả" của nhóm tác giả M.Grosh, C.Ninno, E.Tesliuc và A.Ouerghi [71] đã đề ra quan niệm "Mạng lưới an sinh xã hội vừa dùng để đỡ những người rơi từ trên xuống về phương diện kinh tế trước khi họ rơi vào cảnh bần hàn, vừa trợ cấp hoặc cung cấp một khoản thu nhập tối thiểu cho những người ở trạng thái nghèo thường xuyên, lâu dài hơn"; ASXH chỉ bao gồm hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không có đóng góp và nhắm đến đối tượng là người nghèo và người dễ bị tổn thương. Đồng thời, ASXH cũng chỉ dừng lại ở những hoạt động chính thức của nhà nước mà không tính đến vai trò của tư nhân, thị trường trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH khác.

Nhìn chung, các ấn phẩm và quan niệm của một số học giả được đề cập đến ở trên đều nhấn mạnh rằng, ASXH là các biện pháp bảo vệ sự an toàn xã hội cho các thành viên của mình trong trường hợp họ gặp rủi ro dẫn đến bị mất hoặc giảm thu nhập hay tăng chi phí đột ngột, thông qua các tầng lưới khác nhau để duy trì cuộc sống bình thường - các tầng lưới đó bao gồm các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững và đối với Việt Nam, các quan điểm nghiên cứu về chính sách công, góc độ tiếp cận và nhìn nhận đối với chính sách an sinh xã hội cũng có nhiều điểm tương đồng.

14

1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về thực thi chính sách an sinh xã hội ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng

- Về ấn phẩm sách liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội ở các tỉnh khu vực miền Trung có thể kể đến là: “Xây dựng chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh [61]. Đây là đề tài nghiên cứu cấp thành phố và được xuất bản thành sách (tác giả luận án là thành viên của đề tài). Cuốn sách đã đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết nhà ở thu nhập thấp trong chính sách an sinh xã hội; thực trạng thị trường và chính sách chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; hoàn thiện chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Những nội dung trong cuốn sách được tác giả luận án kế thừa khi phân tích sự “ưu trội”, “đặc thù” về thành tựu trong việc xây dựng nhà ở xã hội và nhà ở thu nhập thấp ở thành phố Đà Nẵng. “Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Dũng Anh [4]. Đây là luận án tiến sĩ được xuất bản thành sách. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phân tích tác động của thu hồi đất và tính cấp thiết của việc tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng thực sự có ý nghĩa đối với việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng.

- Một số bài viết liên quan đến nội dung an sinh xã hội được đăng tải trên Tạp chí: “Quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng: Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững” của Lê Văn Đính, Lê Anh [62] đã trình bày những thành tựu trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Quận Hải Châu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững ở Quận Hải Châu trong thời gian đến. “Giải quyết nhà ở cho người thu nhập thấp tại Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp" của Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh [60] đã trình bày những thành tựu trong việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm hiện thực hóa Chương trình 3 có (có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn minh đô thị) và mục tiêu xây dựng thương hiệu Thành phố đáng sống ở Đà Nẵng.“Đà Nẵng với bài học thân dân, an dân và đồng thuận xã hội trong xây dựng

15

và phát triển" của Lê Văn Đính [58] đã trình bày những thành tựu trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng và đánh giá nguyên nhân của thành tựu đo là do Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố đã phát huy bài học thân dân, an dân và đồng thuận xã hội trong xây dựng và phát triển.

- Ngoài các ấn phẩm sách, tạp chí; còn có những bài viết, chuyên đề được in trong các kỷ yếu hội thảo, đề tài nghiên cứu và các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về ASXH ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng: Hội thảo “Phát triển kinh tế và an sinh xã hội - từ lý luận đến thực tiễn các miền tỉnh miền Trung” của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III [87]. Kỷ yếu Hội thảo bao gồm các chuyên đề lý luận về an sinh xã hội; kết quả thực thi chính sách an sinh xã hội trên các lĩnh vực (xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, trợ cấp xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà ở xã hội) ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng. Hội thảo “Tăng trưởng xanh khu vực miền Trung - Tây Nguyên: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra” của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Vùng Trung bộ - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực III [175] đã bàn về vấn đề tăng trưởng xanh khu vực miền Trung - Tây Nguyên

Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những nội dung trong hệ thống an sinh xã hội ở khu vực miền Trung: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ” của tác giả Phan Thăng An [1] đã hệ thống được các phương pháp đánh giá tác động giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng; Phân tích tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập tại Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ và đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm tối ưu giữa tăng trưởng kinh tế và giảm thiểu bất bình đẳng thu nhập ở Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ.“Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng" của tác giả Nguyễn Dũng Anh [3] đã trình bày cơ sở lý luận về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; đã phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả tạo việc làm cho cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng. "Thực thi chính sách an sinh xã hội ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải

16

pháp” của tác giả Lương Vĩnh Thái [131] đã đề cập đến cơ sở lý luận về chính sách an sinh xã hội - quan niệm, đặc điểm và cấu trúc an sinh hội; sự cần thiết việc thực hiện chính sách ASXH ở quận Hải Châu; thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ASXH ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.“Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Văn Quang [112];“Giải quyết việc làm cho lao động có đất bị thu hồi trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng" của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang [144] đã đề cập đến cơ sở lý luận về chính sách việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sản xuất; phân tích và đánh giá chính sách việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng."Quản lý nhà nước về dạy nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay" của tác giả Nguyễn Văn An [2] đã đánh giá thực trạng dạy nghề ở Đà Nẵng; dự báo tình hình phát triển của lực lượng lao động, phát triển dạy nghề và đề xuất các giải pháp phát triển dạy nghề đến năm 2020; kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề thành phố Đà Nẵng với vai trò, chức năng quản lý để phát triển dạy nghề trên địa bàn.

1.3. NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

- Từ những công trình nghiên cứu được đề cập, có thể thấy rằng về cơ bản đã đề cập được những nội dung lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội ở Việt Nam. Qua các công trình đó có thể rút ra mấy nội dung sau đây: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về chính sách công, chính sách xã hội đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại chính sách công; Cấu trúc nội dung và chu trình chính sách công; Hoạch định chính sách công; Tổ chức thực thi chính sách công; Phân tích chính sách công; Đánh giá chính sách công; Tổ chức công tác phân tích chính sách công - quy trình phân tích chính sách công, Nội dung và phương pháp phân tích chính sách công, Truyền đạt kết quả phân tích chính sách công. Chính sách xã hội và vai trò của chính sách xã hội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội: Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển; chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù

17

hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ. Những nghiên cứu này là tài liệu tham khảo để tác giả luận chứng, làm rõ những nội dung cơ bản của vấn đề chính sách công, chính sách xã hội nói chung và chính sách ASXH nói riêng. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về chính sách ASXH, hệ thống chính sách ASXH đã trình bày những vấn đề cơ bản: Lý luận cơ bản chính sách ASXH và kinh nghiệm một số nước, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay, thực trạng hệ thống và việc thực thi chính sách ASXH ở nước ta hiện nay; phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây là những tham khảo để tác giả làm rõ quan niệm, cấu trúc, vai trò của chính sách ASXH; đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Thứ ba, các công trình nghiên cứu về ASXH ở miền Trung nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng đi sâu vào việc nghiên cứu từng mảng riêng lẻ trong nội dung cơ bản của hệ thống ASXH như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; chính sách bảo trợ xã hội, ưu đãi người có công, thương bệnh binh, gia đình chính sách; dạy nghề và giải quyết việc làm; xóa đói giảm nghèo, nhà ở xã hội và nhà ở thu nhập thấp… Các kết quả nghiên cứu này là tài liệu tham khảo quý giá, để từ đó tác giả có cái nhìn tổng quan trong việc phân tích thực trạng chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng.

- Như đã phân tích ở trên, có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về an sinh xã hội và việc thực hiện chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên; vấn đề ASXH có nội hàm rất rộng và có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển KT - XH, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, cho nên nghiên cứu về ASXH vẫn luôn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mặt khác, hiện nay, chưa có công trình nào đi vào đánh giá việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng một cách cụ thể, toàn diện. Đà Nẵng là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tốc độ đô thị hóa rất nhanh nhưng chính quá trình đó cũng đã dẫn đến nhưng vấn đề xã hội bức xúc: Quá trình phát triển kinh tế đã dẫn đến việc mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ đã thu hút số lượng lớn lao động từ các địa phương khác đến tham gia làm việc và cư trú, trong đó có không ít lao động tự do, những người lang thang cơ nhỡ… Mặt khác, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, các đối tượng dân cư bị thu hồi đất, phải chuyển đổi nghề

18

nghiệp, phải tái định cư do quá trình mở rộng và chỉnh trang đô thị rất lớn, gây áp lực cho việc giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống, bố trí nhà ở trên địa bàn thành phố, gây khó khăn cho công tác ASXH. Bên cạnh đó, hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đã góp phần làm tăng số lượng học sinh, sinh viên đến học tập và ở lại làm việc đã gây áp lực không nhỏ về vấn đề chỗ ở, khám chữa bệnh, chăm sóc y tế và các vấn đề xã hội khác. Với quan điểm phát triển bền vững: “Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội” [48, tr.87] để phấn đấu xây dựng Đà Nẵng trở thành “một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống” [48, tr.29]…; việc khảo sát một cách khách quan thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những luận cứ khoa học nhằm thực thi chính sách ASXH một cách có hiệu quả hơn là rất cần thiết.

- Đề tài luận án "Thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay - thực trạng và giải pháp” có sự tiếp thu, chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó, đồng thời có những kiến giải riêng về những vấn đề đang đặt ra từ góc nhìn Chính trị học: Nhìn nhận việc thực thi chính sách an sinh xã hội trong một chỉnh thể với các chính sách kinh tế, văn hóa, an ninh chính trị. Việc đảng bộ, chính quyền thành phố đặt ra các chương trình liên quan đến an sinh xã hội như chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, thành phố “4 an” không phải là sự ban õn mà là nghĩa vụ của đảng bộ, chính quyền đối với người dân Đà Nẵng. Hơn nữa, Đà Nẵng còn đặt mục tiêu xây dựng “thành phố đáng sống” và những chương trình liên quan đến an sinh xã hội của Đà Nẵng đã thể hiện quyết tâm về mặt chính trị “nói đi đôi với làm”. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả sẽ triển khai những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về ASXH và hệ thống chính sách ASXH ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua. Thứ ba, xác định quan điểm và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng việc thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

19

Chương 2 CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH

AN SINH XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ AN SINH XÃ HỘI, CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

2.1.1. An sinh xã hội - khái niệm, cấu trúc và nội dung 2.1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội

An sinh xã hội (Social Security) là khái niệm được ra đời ở các nước công nghiệp phát triển từ cuối thế kỷ XIX và hiện nay đã phát triển rộng khắp trên toàn cầu. Theo Ngân hàng Thế giới (WB): “ASXH là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập”. Quan niệm này nhấn mạnh đến các giải pháp nhằm kiềm chế nguy cơ làm giảm thu nhập của các cá nhân, gia đình và cộng đồng. Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp. Quan niệm này nhấn mạnh khía cạnh phân phối phúc lợi, bảo hiểm và mở rộng việc làm cho những đối tượng ở khu vực kinh tế không chính thức. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): ASXH là một hệ thống chính sách công (CSC) nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia đình và cá nhân. Quan niệm này nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc đảm bảo ASXH, giảm nhẹ những tác động bất lợi đến các cá nhân và hộ gia đình [35, tr.21-22].

- Trong cuốn: Giáo trình nhập môn an sinh xã hội của Nguyễn Hải Hữu quan niệm: ASXH là một hệ thống cơ chế chính sách, biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế, xã hội làm cho họ có nguy cơ bị sút giảm nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không có sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa ..., thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và hỗ trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ đặc biệt [90, tr.16-17].

- Trong cuốn An sinh xã hội Việt Nam hướng tới 2020 tác giả Vũ Văn Phúc quan niệm: Theo nghĩa rộng ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con

20

người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mấy việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, địch họa. Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải những rủi ro khác [109, tr.14].

- Trong cuốn Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp tác giả Lê Quốc Lý cho rằng: ASXH là sự bảo đảm thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội trong trường hợp họ gặp phải các rủi ro hay khó khăn trong cuộc sống, với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự an sinh cho mọi thành viên trong xã hội [95, tr.17]

- Trong Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khóa XI khái niệm về ASXH được quan niệm như sau:

An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và các chương trình do nhà nước, các đối tác xã hội thực hiện nhằm đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản [21, tr.2], [55].

- Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, an sinh xã hội được quan niệm: ASXH là một hệ thống chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân [106, tr.18]

Tóm lại, ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

21

Mục đích của ASXH là tạo ra một mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống. Bản chất của ASXH là đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, vì thế nó mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Đối tượng của ASXH là những thành viên trong cộng đồng trước những rủi ro trong cuộc sống do những tác động bất thường về kinh tế, xã hội, môi trường - đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, vùng nghèo, vùng dân tộc, miền núi, nông thôn [106, tr.18-19]. Phương thức hoạt động của ASXH là thông qua các chính sách, biện pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trụ cột “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời phải được xã hội hóa cao, huy động sự tham gia của mọi tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và của toàn xã hội [106, tr 18,19].

2.1.1.2. Cấu trúc an sinh xã hội Có nhiều cách tiếp cận để phân tích cấu trúc của hệ thống ASXH. Tùy thuộc vào mục đích, phương pháp tiếp cận nghiên cứu, nội dung, yêu cầu để đưa ra những cấu trúc khác nhau. Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế và quan niệm này cũng được trình bày trong cuốn An sinh xã hội Việt Nam hướng tới 2020 của PGS, TS Vũ Văn Phúc [109, tr.15-16] và cuốn Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam của GS, TS Mai Ngọc Cường [35, tr.30-32]... thì một hệ thống ASXH phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính sau đây: Thứ nhất, những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro. Đây là tầng trên cùng của hệ thống ASXH. Chức năng của những chính sách này là hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp dân cư có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chính sách, chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề, hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động. Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là tầng thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống ASXH, có vai trò đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất trong tầng này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), v.v. Nhóm chính sách này rất nhạy cảm, nếu phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực cho Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Ngược lại, nếu

22

chính sách không phù hợp, người dân sẽ không tham gia hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng. Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội. Đây là tầng cuối cùng của hệ thống ASXH với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như: thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo...

Đối với nước ta, hệ thống ASXH được xác định gồm năm trụ cột cơ bản: Thứ nhất, hệ thống chính sách, giải pháp và các chương trình phát triển thị trường lao động, mà trọng tâm là trợ giúp đào tạo nghề, tạo việc làm. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn liền với triển khai các chương trình phát triển KT - XH. Thứ hai, phát triển hệ thống bảo hiểm như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân), bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm sản xuất nông nghiệp và các hình thức bảo hiểm phù hợp khác. Phát triển mạnh cả các hình thức bảo hiểm bắt buộc và các hình thức bảo hiểm tự nguyện. Thứ ba, hoàn thiện các chính sách và hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro (trợ giúp đột xuất và trợ giúp thường xuyên). Nâng cao vai trò của Nhà nước cùng với đẩy mạnh phát triển các hình thức trợ giúp xã hội, cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo, dựa vào cộng đồng; chú trọng đối với nhóm dân cư dễ bị tổn thương, các đối tượng bảo trợ xã hội. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đối với những người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ. Hoàn thiện các chính sách và hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt. Thứ tư, thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững. Thứ năm, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và hệ thống dịch vụ xã hội, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu như: y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin... cho mọi người dân, nhất là đối với người nghèo, vùng nghèo [106, tr 19,.20], [95, tr.32-42]. Xét về thực chất, năm trụ cột này là nhằm thực hiện 3 chức năng chiến lược của hệ thống ASXH: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro. So với mô hình phổ biến trên thế giới, hệ thống ASXH ở nước ta có một cấu phần đặc thù, đó là chính sách ưu đãi xã hội. Chính sách này nhằm thực hiện mục tiêu cao cả là đền ơn, đáp nghĩa đối với sự hy sinh, công lao đặc biệt và cống hiến to lớn của những người có công với cách mạng, với đất nước; thực hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội chăm lo, bảo đảm cho người có công có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện [35, tr.31, 40].

23

2.1.1.3. Nội dung hệ thống an sinh xã hội Hệ thống ASXH giữa các quốc gia trên thế giới được xây dựng không hoàn

toàn đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, hệ thống ASXH thông dụng tại nước ta hiện nay bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:

- Ưu đãi xã hội: Là một bộ phận đặc thù trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, ƯĐXH là sự đãi ngộ vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với dân, với cách mạng nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Điều này không những thể hiện trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng và toàn xã hội mà còn nói lên đạo lý của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ở nước ta Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 của UBTV Quốc hội) chỉ rõ: Đối tượng hưởng chế độ ưu đãi quy định tại Pháp lệnh bao gồm Người có công với cách mạng và Chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng và thân nhân [171].

- Bảo trợ xã hội: Là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội - đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. BTXH là sự giúp đỡ thêm của nhà nước và xã hội bằng tiền hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng. BTXH thường có 02 loại: Trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp đột xuất. Trợ giúp thường xuyên là hình thức trợ giúp xã hội đối với những người hoàn toàn không thể lo được cuộc sống trong một thời gian dài (một hoặc nhiều năm) hoặc trong suốt cả cuộc đời của đối tượng trợ giúp (ví dụ: trợ cấp một khoản kinh phí hàng tháng; miễn phí thẻ BHYT cho những đối tượng người cao tuổi, người nghèo, người tàn tật, tâm thần; miễn, giảm học phí học tập; đưa người già cô đơn, trẻ em mồ côi vào các trung tâm nuôi dưỡng…). Trợ giúp đột xuất là hình thức trợ giúp xã hội do nhà nước và cộng đồng giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc gặp những biến cố khác mà đời sống của họ bị đe dọa về tính mạng, lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn cất hay phục hồi sản xuất nếu không có sự trợ giúp khẩn cấp. Đối tượng, chế độ của hai nhóm đối tượng trên được

24

quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007; Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật.

- Xóa đói giảm nghèo: Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ trợ những vùng khó khăn vươn lên XĐGN nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. XĐGN là làm cho bộ phận dân cư đói nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người đói nghèo giảm xuống - nói một cách khác, XĐGN là một quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, XĐGN là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. Giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Xóa đói, giảm nghèo luôn là mục tiêu xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN với mục tiêu tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục…nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và thoát nghèo bền vững. Các chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như sau: Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo; Chính sách hỗ trợ sản xuất, cung cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; Chính sách dạy nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động cho người nghèo; Chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo. Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về giáo dục - đào tạo; Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo; Chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo nhất cả nước…).

25

- Bảo hiểm xã hội: BHXH là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động từ hoạt động nghề nghiệp của họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động [35, tr.40]. Có thể nói, không có BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH có các đặc điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập trước khi hưởng BHXH… Ở nước ta, BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất. Nguyên tắc bảo hiểm xã hội: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH. Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn. Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH…[113].

26

- Bảo hiểm y tế: Là loại hình BHXH nhằm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho người tham gia theo quy định của pháp luật, không vì mục tiêu lợi nhuận [35, tr.52-53]. Nguyên tắc bảo hiểm y tế: Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế. Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính (sau đây gọi chung là mức lương tối thiểu). Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả. Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ. Chính sách của Nhà nước về bảo hiểm y tế: Nhà nước đóng hoặc hỗ trợ tiền đóng BHYT cho người có công với cách mạng và một số nhóm đối tượng xã hội. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ BHYT để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Nguồn thu của quỹ và số tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm y tế được miễn thuế. Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia BHYT hoặc đóng bảo hiểm y tế cho các nhóm đối tượng. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến trong quản lý BHYT. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế được quy định ở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (Luật số: 46/2014/QH13) [114].

2.1.2. Chính sách an sinh xã hội và vai trò của hệ thống chính sách an sinh xã hội 2.1.2.1. Chính sách an sinh xã hội - Chính sách xã hội là một loại hình chính sách được thể chế hóa bằng pháp luật nhà nước, là hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong một thời gian và không gian nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến đời sống của con người theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm góp phần ổn định và phát triển bền vững đất nước. Các chính sách xã hội cơ bản gồm chính sách dân số, chính sách gia đình, chính sách sức khỏe, chính sách giáo dục, chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; chính sách đối với các giới, chính sách an sinh xã hội…. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Đảng khóa XI khẳng định: Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển.

27

Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ… Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội [55, tr.73].

- Trong cuốn An sinh xã hội ở nước ta ở Việt Nam hướng tới năm 2020, tác giả Vũ Văn Phúc [109] đã cho rằng: Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội [109, tr.14]. Trong cuốn Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam tác giả Nguyễn Văn Chiểu cho rằng: Chính sách ASXH là những biện pháp bảo vệ của nhà nước nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm đâu, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì nguyên nhân khách quan khác thông qua các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội [24, tr.18].

Chính sách an sinh xã hội được hiểu là hệ thống chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa. Đây là hệ thống chính sách nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro thông qua các hoạt động bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và trợ giúp xã hội. Mục tiêu của chính sách ASXH là đảm bảo thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho mọi thành viên trong xã hội. Đối tượng của chính sách ASXH là mọi người dân, kể cả những người trong đối tượng lao động, người chưa đến tuổi lao động và người hết tuổi lao động, trong đó bao gồm các đối tượng của chính sách xã hội là người nghèo thành thị và nông thôn, phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số…[35, tr.22-25].

2.1.2.2. Vai trò của hệ thống chính sách an sinh xã hội trong xã hội Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt hướng vào phát huy mọi nguồn

lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của

28

nền kinh tế tạo ra bước phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác không ngừng hoàn thiện hệ thống ASXH để giúp cho con người, nhất là người lao động, có khả năng chống chọi với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong KTTT và rủi ro xã hội khác. Ngoài tác động chung như đối với các nước giàu, chính sách ASXH có thể có những đóng góp cho sự nghiệp phát triển KT - XH ở những nước nghèo. Điều này thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, các chính sách ASXH tác động đến quá trình tích lũy vốn con người vì nó cải thiện trình độ giáo dục và sức khỏe của con người, loại bỏ những hình thức tồi tệ nhất của sự bần cùng, nghèo đói. Thứ hai, các chính sách ASXH cũng có những tác động tích cực đến khía cạnh cầu vì nó là sự phân phối lại sức mua và có lợi cho nền sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nước. Thứ ba, các chính sách ASXH còn đóng góp lớn trong việc tạo ra điều kiện để xây dựng môi trường CT - XH bền vững. Khi lợi ích từ tăng trưởng kinh tế đến được với mọi người dân, gồm cả nhóm xã hội trước kia bị gạt ra ngoài lề, điều này sẽ góp phần làm giảm tình trạng mất trật tự về CT - XH. Những tác động này bắt nguồn từ bản chất tái phân phối của hệ thống BHXH.

2.2. THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

2.2.1. Tổ chức thực thi trong chu trình chính sách 2.2.1.1. Chu trình chính sách Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của nhà nước tác động có ý

thức đến đời sống của nhân dân theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội [76, tr.51]. Chu trình chính sách (chính sách công) là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách công đến khi kết quả của chính sách được đánh giá - là quá trình luân chuyển các bước từ khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội [74, tr.166-190], [76, tr.84].

Chu trình chính sách theo mô hình của các nước trên thế giới gồm 5 giai đoạn: (1) Thiết lập chương trình nghị sự chính sách là quá trình mà các vấn đề công được trở thành sự quan tâm của Nhà nước và đưa vào chương trình nghị sự; (2) Hình thành chính sách là quá trình thiết lập các phương án chính sách khác nhau để

29

giải quyết vấn đề công; (3) ra quyết định chính sách là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua đường lối hành động cụ thể bằng một chính sách; (4) Thực hiện chính sách là quá trình đưa chính sách vào thực tế để các đối tượng cùng tham gia thực hiện; (5) Đánh giá chính sách là việc xem xét kết quả tác động của chính sách đến các đối tượng và quá trình kinh tế -xã hội theo hệ thống tiêu chí định tính và định lượng [74, tr.166-190]. Trong đó, bước triển khai (thực thi) chính sách đóng vai trò rất quan trọng: Các chính sách sau khi được thông qua đều phải tổ chức triển khai. Giai đoạn triển khai bao gồm ban hành các văn bản có tính pháp lý, qui định trách nhiệm, quyền hạn cũng như việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, chu trình chính sách thường được chia làm 3 công đoạn: Hoạch định chính sách, tổ chức thực thi chính sách, đánh giá chính sách: Giai đoạn đầu tiên trong chu trình là hoạch định chính sách: Hoạch định chính sách là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và ban hành đầy đủ một chính sách. Đây là giai đoạn hình thành phương án chính sách và ra quyết nghị chính sách. Để hoàn thành giai đoạn này, các cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm tiến hành các hoạt động phân tích thực trạng để xác định vấn đề chính sách và đưa ra việc giải quyết vấn đề vào chương trình nghị sự để ban hành chính sách. Hoạt động xác định vấn đề chính sách không chỉ do các cơ quan nhà nước thực hiện mà còn có sự tham gia rộng rãi của xã hội, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể nhân dân như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của nó. Nguyên tắc hoạch định chính sách công là: Vì lợi ích cộng công cộng, nguyên tắc đa số, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc hiện thực. Nội dung quan trọng trong giai đoạn hoạch định chính sách công là việc xác định mục tiêu chính sách và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó. Để thực hiện việc này, các chủ thể cần phân tích tác động của từng giải pháp và so sánh các giải pháp với nhau để cuối cùng cơ quan có thẩm quyền ra quyết định chính sách. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn tổ chức thực thi chính sách: Đây là giai đoạn hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội - giai đoạn tổ chức thực hiện các giải pháp chính sách đã lựa chọn và kiểm tra việc thực hiện. Có thể nói đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách. Giai đoạn này bao gồm các bước như: Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi; Phổ biến, tuyên truyền vận động; Phân công, phối hợp thực thi; Duy trì việc thực hiện chính sách; Điều chỉnh chính sách; Theo dõi, kiểm tra, động viên. Cuối cùng là giai đoạn đánh giá chính sách, tổng kết rút kinh nghiệm: Đây là giai đoạn đo lường các chi phí, kết quả của việc thực

30

hiện chính sách và các tác động thực tế của chính sách trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách, từ đó xác định hiệu quả của một chính sách trong thực tế. Trên cơ sở kết quả của đánh giá chính sách, các cơ quan nhà nước có thể đưa ra những điều chỉnh chính sách nếu thấy cần thiết. Các cơ quan này có thể bổ sung mục tiêu, thay đổi, hoặc điều chỉnh các giải pháp cho phù hợp, thậm chí có thể quyết định tiếp tục theo đuổi mục tiêu hay chấm dứt sự tồn tại của chính sách [74, tr.166-190], [76, tr.88-94]. Phân tích chính sách không phải là một giai đoạn độc lập của chu trình chính sách, mà là một hoạt động gắn kết với các giai đoạn của chu trình chính sách. Đây là hoạt động cơ bản làm nền tảng ra quyết định cho các chủ thể hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách công.

2.2.1.2. Thực thi chính sách và thực thi chính sách an sinh xã hội Thực thi chính sách (Policy Implementation) là quá trình biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra; là toàn bộ quá trình hoạt động của chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách công một cách có hiệu quả [76, tr.127].

Tầm quan trọng của việc thực thi chính sách là để giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội đặt ra. Nếu thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại; nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương, chế độ chỉ là những khẩu hiệu. Nếu công tác tổ chức thực thi chính sách không tốt sẽ dẫn đến thiếu lòng tin. Quá trình tổ chức thực thi chính sách góp phần hoàn chỉnh bổ sung chính sách: Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh, bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện. Quá trình thực thi chính sách với những hành động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có thể đầy đủ, có sức thuyết phục là sau khi thực hiện chính sách. Qua tổ chức thực hiện, cơ quan chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại đa số nhân dân chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không.

Việc thực thi chính sách bao gồm các bước cơ bản sau đây: Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do

31

đó phải có kế hoạch. Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống và gồm các bước sau đây: Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi; kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị; kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; dự kiến về quy chế, nội quy về tổ chức và điều hành thực thi chính sách. Bước2: Phổ biến tuyên truyền chính sách: Đây là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua. Nó giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có hiệu quả. Việc tuyên truyền này cần phải được thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi chính sách đang được thực thi và với mọi đối tượng.Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách: Một chính sách thường được thực hiện trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bước 4: Duy trì chính sách: đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố, như Nhà nước là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để chính sách được thực thi tốt. Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực thi chính sách. Bước 5: Điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh). Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu. Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách: Bất cứ triển khai chính sách nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách được thực hiện đúng, và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Các cơ quan Nhà nước thực hiện việc kiểm tra này, và nếu tiến hành thường xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết luận chính xác về chính sách. Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách. Bước 7: Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm: khâu này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng

32

phần hay toàn bộ chính sách. Ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách [76, tr.131, 136].

- Thực thi chính sách an sinh xã hội là quá trình biến các chủ trương, phương hướng và biện pháp liên quan đến hệ thống ASXH thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước và sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và toàn xã hội, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Đó là quá trình triển khai hệ thống chính sách ASXH (trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giải quyết việc làm…) vào thực tiễn bằng các công cụ, bộ máy của nhà nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra [95, tr.44].

Việc thực thi chính sách ASXH như thế nào phụ thuộc vào các bộ phận (cơ quan nhà nước hoạch định chính sách ASXH, cơ quan chấp hành thực hiện chính sách ASXH, cộng đồng xã hội tham gia hoạt động ASXH, đối tượng thụ hưởng chính sách ASXH) và các bước cơ bản trong việc thực thi chính sách ASXH. Trên thực tế các bộ phận nói trên nhiều khi không tách biệt độc lập một cách tuyệt đối mà có sự đan xen, lồng ghép với nhau (như người hoạch định chính sách ASXH cũng là đối tượng thụ hưởng chính sách…). Việc thực hiện các bước trong thực thi chính sách an sinh xã hội phải được xem xét ở cấp độ chủ thể thực thi: Chính sách xã hội, chính sách ASXH được cấp trung ương hoạch định (chính sách quốc gia) thì cấp thực thi chính sách ASXH đó là chính quyền địa phương các cấp. Trên cơ sở chính sách quốc gia, chính quyền địa phương các cấp trên cơ sở điều kiện đặc thù của địa phương mình lại tiếp tục thể chế hóa chính sách quốc gia thông qua việc ban hành các quyết định, kế hoạch, chương trình (chính sách địa phương) và tổ thức thực hiện để hiện thực hóa các chính sách nói trên. Vì vậy, trong tính tương đối, vừa có thể coi việc thực thi chính sách ASXH của một tỉnh, thành phố chỉ là một khâu trong chu trình chính sách (hoạch định, thực thi, đánh giá kết quả) và vừa có thể coi việc thực thi đó hàm nghĩa cả chu trình chính sách (chính sách địa phương) với cả 3 bước (hoạch định, thực thi, đánh giá kết quả).

2.2.2. Chủ thể, đối tượng, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách an sinh xã hội

2.2.2.1. Chủ thể, đối tượng tham gia vào quá trình tổ chức thực thi chính sách an sinh xã hội ở nước ta

- Nhà nước là chủ thể ban hành và cũng là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực thi chính sách ASXH - nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có

33

thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, Chính phủ, các Bộ (chính sách quốc gia), chính quyền địa phương các cấp (chính sách địa phương). Ngoài ra, các tổ chức ngoài nhà nước như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội (tình nguyện, thiện nguyện, từ thiện vì cộng đồng…) và cộng đồng dân cư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần hiện thực hóa các chính sách an sinh xã hội do nhà nước, chính quyền ban hành. Nghĩa là hệ thống ASXH được thiết kế theo nguyên tắc: Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời việc thực thi chính sách ASXH phải được xã hội hóa cao, huy động sự tham gia rộng rãi của mọi tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và của toàn xã hội; xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, đa tầng hướng tới bao phủ toàn dân; nâng cao năng lực tư sinh của người dân và cộng đồng [106, tr.19].

- Đối tượng của chính sách ASXH là mọi người dân, kể cả những người trong đối tượng lao động, người chưa đến tuổi lao động và người hết tuổi lao động, trong đó bao gồm các đối tượng của chính sách xã hội là người nghèo thành thị và nông thôn, phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số… [35, tr.22-25]. Nhìn chung, ở tất cả các nước đều có hai loại đối tượng tham gia và chương trình ASXH: Thứ nhất là, các đối tượng tham gia vào các chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc đóng - hưởng. Đối tượng này là người lao động gặp rủi ro và khó khăn do những nguyên là ốm đau, thai sản, mất sức lao động, tuổi già phải đối mặt với những khó khăn do bị “mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập". Những người lao động này phải đóng góp một khoản góp một khoản tiền cho quỹ bảo hiểm trong suốt thời gian làm việc với một tỷ lệ thu thập nhất định. Việc tham gia bảo hiểm xã hội đảm bảo cho họ duy trì mức sống trong trường hợp gặp những vấn đề nêu trên. Đối tượng tham gia vào các chương trình ASXH theo nguyên tắc đóng hưởng ở các nước đang phát triển có sự khác biệt với các nước phát triển. Do trình độ phát triển cao hơn nên hầu hết lao động ở các nước phát triển. Do trình độ phát triển cao hơn nên hầu hết lao động ở các nước phát triển làm việc trong khu vực chính thức, thường là khu vực làm công ăn lương, cũng vì thế mà hầu hết người lao động trong các nước này tham gia vào các chương trình ASXH theo nguyên tắc đóng hưởng. Trong khi đó, đối với các nước đang phát triển, phần lớn cư dân lao dộng tự do và làm việc trong nông nghiệp phân tán, nhỏ lẻ, trong các khu kinh tế thì kết cấu không tính được, hay gọi chung là lao động làm việc ngoài khu vực chính thức. Thông thường đối với khu vực này, người lao động có mức thu nhập, tiền

34

công thấp; làm cho việc tham gia của họ vào các chương trình ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng khó khăn hơn. Vì thế, trọng tâm của các chính sách ASXH không chỉ hạn chế trong đối tượng người lao động trong khu vực chính thức. Mức độ người lao động ngoài khu vực chính thức tham gia vào các chương trình ASXH thể hiện sự thành công của chính sách ASXH. Ngoài ra, do người lao động khu vực này làm việc phân tán, không có hợp đồng lao động nên việc tổ chức quản lý để người lao động ngoài khu vực chính thức ở các nước đang phát triển tham gia vào các chương trình ASXH cũng phức tạp hơn. Điều này đòi hỏi chính sách ASXH ở các nước đang phát triển cũng phải có nét đặc thù so với các nước phát triển, phải có các chương trình phù hợp vơi khả năng thu nhập để thu hút được người lao động ngoài khu vực chính thức tham gia vào các chương trình ASXH. Thứ hai là, những đối tượng tham gia vào chương trình ASXH theo nguyên tắc trợ giúp: Theo ILO, tại các nước phát triển, ASXH cung cấp chăm sóc y tế và trợ giúp cho các gia đình có nạn nhân là trẻ em. Đối với các nước đang phát triển, đối tượng giúp đỡ rộng rãi hơn. Các nhóm này bao gồm người di cư ở thành thị, nhóm dân tộc thiểu số, những người dân nghèo đói liên miên, những đối tượng rất dễ bị tổn thương (người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi), những người bị thiệt hại trước những biến đổi đột xuất của tự nhiên và xã hội. Trong những nhóm này, người nghèo nhất thường là đối tượng của các chương trình xóa đói giảm nghèo (XĐGN). Nhưng những chương trình XĐGN thường hướng đến các đối tượng sống dưới ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm. Nhiều gia đình và cá nhân thuộc nhóm dễ bị tổn thương chưa được tham gia những chương trình XĐGN, cũng như bất kỳ hình thức nào vì nhìn chung họ đều không có hợp đồng lao động. Việc mở rộng sự tiếp cận của họ với hệ thống ASXH sẽ nảy sinh ra vấn đề phân phối nguồn lực. Đối với những nước trãi qua chiến tranh lâu dài như Việt Nam, chính sách ASXH còn bao gồm cả những đối tượng người có công với cách mạng, những gia đình liệt sĩ, thương binh và thân nhân của họ đã hy sinh xương máu cho sự tồn vinh của đất nước. Về thực chất, đây là hình thức trợ giúp xã hội cho các đối tượng nạn nhân chiến tranh, nhưng đó là đối tượng đặc biệt, nên tên gọi có thể khác nhau như "chính sách đối với người có công", "chính sách đền ơn đáp nghĩa", "chính sách ưu đãi xã hội"...[35, tr.28-31].

2.2.2.2. Các yếu tố ảnh hướng đến việc thực thi chính sách an sinh xã hội Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách công là: Tính chất

của vấn đề chính sách công (đơn giản hay phức tạp, cấp bách, bức xúc hay bình

35

thường); môi trường thực thi chính sách công (điều kiện vật chất - kỹ thuật trong nền kinh tế, bầu không khí chính trị, trật tự xã hội, nhóm lợi ích, quan hệ quốc tế); mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách công (thống nhất hay không thống nhất về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách công); tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách công (trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội về cả quy mô và trình độ); đặc tính của đối tượng chính sách công (tính tự giác, tính kỷ luật, tính sáng tạo, lòng quyết tâm, tính truyền thống); năng lực thực thi chính sách công của cán bộ, công chức (tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật, năng lực thực tế, đạo đức công vụ); mức độ tuân thủ các bước trong chu trình chính sách công; các điều kiện vật chất để thực thi chính sách công (trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại hỗ trợ); sự đồng tình, ủng hộ của người dân (thiết thực với đời sống nhân dân, phù hợp với điều kiện và trình độ hiện có của nhân dân) [76, tr.137, 145].

Cụ thể, những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách an sinh xã hội có thể kể đến như sau:

- Thể chế chính sách về ASXH: Thể chế chính sách là trụ cột quan trọng của hệ thống ASXH. Nội dung cơ bản của thể chế chính sách ASXH là xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh với những tiêu chí, điều kiện cụ thể và cơ chế xác định đối tượng theo một quy trình thống nhất; xác định các chính sách, các chế độ đóng góp, thụ hưởng và những điều kiện ràng buộc nhất định về trách nhiệm đóng góp, trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách, chế độ đề ra. Cơ chế để tham gia các loại hình ASXH mà các quốc gia thường áp dụng là bắt buộc hoặc tự nguyện những có sự hỗ trợ của nhà nước. Mỗi một cơ chế cụ thể đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, việc vận dụng cơ chế nào là phụ thuộc vào điều kiện KT - XH và truyền thống văn hóa của từng quốc gia. Nếu chính sách ASXH phù hợp với đòi hỏi với thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ thuận lợi, khả thi; ngược lại chính sách ASXH phù hợp với đòi hỏi với thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ khó khăn, thậm chí không khả thi, thiếu hiệu quả. Biểu hiện của sự không khả thi đó là chính sách xây dựng có mức độ bao phủ hẹp; không đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhóm các đối tượng yếu thế cần trợ giúp trong xã hội; không đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, cân đối giữa các bộ phận trong cấu trúc ASXH; không đồng bộ với kế hoạch triển khai và địa bàn áp dụng; thiếu các điều khoản giám sát và chế tài xử phạt; không đảm bảo tính bền vững về tài chính [95, tr.48-56].

36

- Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ: Nhân tố này có vai trò quyết định trong việc tổ chức các chính sách ASXH. Cho dù chính sách có tốt đến mấy đi chăng nữa nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chính sách sẽ không đi vào cuộc sống. Do vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp (từ nhận thức, cơ cấu tổ chức, năng lực, phẩm chất, phương thức phối hợp) để thực hiện có hiệu quả việc thực thi chính sách ASXH. Về nguyên tắc, có thể thiết lập hệ thống tổ chức độc lập cho từng hợp phần; nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền hiện có để thực hiện, tùy điều kiện cụ thể. Thể chế chính sách mang tính phổ cập thì chi phí quản lý ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế phức tạp thì chi phí quản lý tốn kém hơn. Nếu chủ thể thực thi chính sách (tổ chức, cơ quan, cán bộ) triển khai không đúng kế hoạch, thiếu đồng bộ, không đúng đối tượng và định mức, vụ lợi...sẽ làm giảm hiệu quả việc thực thi chính sách và giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

- Nhận thức của xã hội và người dân: Sự phát triển của hệ thống ASXH phụ thuộc vào nhận thức chung về ASXH của xã hội. Khi người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước hiểu được tầm quan trọng của chính sách ASXH, từ đó tự nguyện và tích cực tham gia, thì hệ thống này mới có cơ hội phát triển và ngược lại. Người dân là đối tượng thụ hưởng chính sách ASXH, nếu họ tự giác, tích cực, chủ động, tự nguyện tham gia thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ có hiệu quả, bền vững; ngược lại nếu họ thờ ơ, thụ động, ỷ lại và thậm chí vụ lợi thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ không hiệu quả

- Môi trường thực thi chính sách ASXH: Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, xã hội của mỗi địa phương, vùng, miền: Những địa phương, vùng, miền có vị trí, điều kiện tự nhiên thuận lợi, người dân có hiểu biết và nhận thức về chính sách ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi; ngược lại nơi nào có vị trí, điều kiện tự nhiên khó khăn, phong tục tập quán lạc hậu, người dân ít hiểu biết về chính sách ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn. Trình độ phát triển kinh tế của các địa phương, vùng, miền: Nếu địa phương nào có trình độ phát triển kinh tế cao, nguồn lực tài chính mạnh, thu nhập của người lao động ổn định, mức độ thất nghiệp thấp thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và ngược lại. Môi trường chính trị: Nơi nào đảm bảo giữ vững ổn định - xã hội trong quá trình phát triển thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và nơi nào không giữ vững ổn định - xã hội thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn.

37

2.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc thực thi chính sách an sinh xã hội và việc thực thi chính sách an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian qua

2.2.3.1. Tính tất yếu khách quan của việc nhà nước thực hiện chính sách an sinh xã hội

Tính tất yếu của việc nhà nước thực hiện chính sách ASXH xuất phát từ những lý do cơ bản sau: - Thứ nhất, xuất phát từ một trong hai chức năng cơ bản của nhà nước - chức năng xã hội: Với tư cách là một công quyền, nhà nước có hai chức năng cơ bản: chức năng giai cấp (chức năng thống trị chính trị) và chức năng xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng thực hiện quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo những công việc chung của toàn xã hội và trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn một số nhu cầu của cộng đồng dân cư trong xã hội. Chức năng xã hội biểu hiện ở những nhiệm vụ như: giải quyết những công việc chung của xã hội; tổ chức kiến tạo và bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ môi trường sinh thái; quản lý, điều tiết các lĩnh vực của đồi sống xã hội. Điều này, được Đảng ta khẳng định trong các Văn kiện “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội” [55, tr.91].

Thứ hai, để khắc phục những mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường: Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. KTTT bên cạnh mặt ưu điểm, thì nó vẫn có những hạn chế, khuyết tật như sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải, ô nhiễm môi trường sống. Chính vì vậy cần sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của nhà nước để “định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng býớc, từng chính sách phát triển… bảo đảm ASXH, phát triển xã hội bền vững” [56, tr.103- 104].

Thứ ba, bảo đảm ASXH và nâng cao phúc lợi xã hội không chỉ là nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển, mà còn là bảo vệ quyền của mọi gười dân theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hiệp quốc. Quyền được an sinh là một quyền quan trọng của con gười, được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta (Ðiều 34, chương 2: Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội).

38

Thứ tư, ASXH cũng được coi như là một dịch vụ mà khu vực tư nhân khó có thể thể đảm nhiệm thực hiện được đầy đủ, hoàn thiện. Hay nói cách khác, chỉ có nhà nước mới có thể đưa ra những cơ chế khuyến khích phù hợp và ảnh hưởng của mình để gây sức ép cần thiết trong việc thúc đẩy những đóng góp bắt buộc.

2.2.3.2. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực trạng thực thi chính sách an sinh xã hội ở nước ta thời gian qua \

* Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về vấn đề an sinh xã hội Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã từng bước nhận

thức và quan trọng hơn đã tìm được những biện pháp, bước đi để xử lý biện chứng mối quan hệ phát triển kinh tế với việc thực hiện chính sách xã hội (bảo đảm công bằng xã hội, ASXH, tiến bộ xã hội): Tại Đại hội VI (1986) đến Đại hội VIII (1996) Đảng ta đã chính thức khẳng định một số quan điểm chỉ đạo “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [51, tr.113]. Đến Đại hội IX của Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường… Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH...” [52, tr.104-107, 163]. Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước và từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế...” [53, tr.110]. Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, “Bảo đảm ASXH” được khẳng định với tư cách là nội dung cấu thành của một trong 11 chủ đề chính của Báo cáo chính trị, và “Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả” [54, tr.125] cũng được xem là một trong những nội dung hợp thành của sự định hướng về “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế” trong Chiến lược phát triển KT - XH 2011 - 2020. Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Khóa XI, Đảng ta đã ban hành nghị quyết “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội… [54, tr.105-107]. Ngày 22/11/2012, Bộ Chính

39

trị đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu cần phấn đấu là: Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện; thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế [18].

Ðại hội XII của Ðảng ta đã nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ an sinh xã hội là: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công. Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội. Ðẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đầu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân. Thực hiện tốt chính sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cõ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin [56, tr.137].

* Trên quan điểm của Đảng, hệ thống chính sách An sinh xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được Nhà nước thể chế hóa bằng những văn bản có giá trị pháp lý qua từng chặng đường phát triển trong quá trình đổi mới

- Về chính sách BHXH: Trên phương diện hệ thống chính sách, đây là giai đoạn phát triển nhất của chính sách BHXH với sự ra đời của một loạt các văn bản có giá trị pháp lý cao như: Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của HĐBT về

40

trợ cấp đối với công nhân viên chức hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội; Nghị định số 43/CP ngày 22/6/1993 của Chính phủ quy định tạm thời chế độ BHXH… Sự ra đời của Bộ luật Lao động năm 1994 có ý nghĩa to lớn trong việc thể chế hóa các quy định pháp luật về lao động. Trên cơ sở Bộ luật Lao động, chính phủ ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành.Đáp ứng yêu cầu của điều kiện KTTT, đảm bảo hơn nữa quyền của người lao động, ngày 2/4/2002 tại kỳ họp lần thứ 11, Quốc hội khóa X đã thông qua đã thông qua Luật sữa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động năm 1994, có hiệu lực ngày 01/01/2003. Theo đó, phạm vi đối tượng và chế độ bảo hiểm được mở rộng nhằm bảo vệ hơn nữa người lao động trong quan hệ lao động…Ngày 20 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016) [113]. Bộ luật này đã quy định chi tiết hơn một số chính sách về bảo hiểm xã hội hiện hành và bổ sung nhiều chính sách mới có lợi cho người lao động; đặc biệt, luật còn đưa ra cũng quy định để thực hiện lộ trình đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng, sự bền vững của hệ thống bảo hiểm xã hội [28], [113].

Về chính sách BHYT: Những năm gần đây các quy định về BHYT thể hiện chủ yếu trong các văn bản sau đây: Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của chính phủ ban hành Điều lệ BHYT; Thông tư liên tịch số 21/2005/TTLT-BYT-BTC ngày 24/8/2005 của liên bộ Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện; Quyết định số 36/2005/QĐ-BYT ngày 31/10/1995 của Bộ Y tế ban hành danh mục kỹ thuật cao, chi phí lớn được BHXH thanh toán; và các văn bản khác về các vấn đề có liên quan tới BHYT như: công tác giám định, quản lý quỹ BHYT, kế toán, hạch toán…Tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XII, ngày 14 tháng 11 năm 2008 đã thông qua Luật BHYT. Cùng với Luật BHXH, đây là hai văn bản thể chế hóa ở mức cao nhất hai bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách ASXH ở nước ta.

Ngày 13 tháng 16 năm 2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015). Ngày 15 tháng 11 năm 2014 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 105/2014/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo

41

hiểm y tế. Những điểm mới của Luật Bảo hiểm y tế liên quang đến đối tượng tham gia BHYT; mức hưởng BHYT; mở thông tuyến khám chữa bệnh có BHYT [29], [114]. Nhìn chung, hệ thống các văn bản pháp luật BHXH, BHYT giai đoạn hiện nay tương đối hoàn thiện, có giá trị pháp lý cao, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của người lao động.

- Về chính sách trợ giúp xã hội: Trong những năm đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về trợ giúp xã hội, trong đó một số văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như: Nghị định số 05/CP ngày 26/1/1994 của Chính phủ trong đó có quy định điều chỉnh chế độ trợ cấp và mức lương hưu đối với các đối tượng chính sách (ĐTCS) xã hội; Pháp lệnh về người tàn tật số 06/1998/PL-UBTNQH10 ngày 30/7/1998; Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật; Pháp lệnh Người cao tuổi (NCT) số 23/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 ngày của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội (BTXH). Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP. Các văn bản pháp luật đã quy định rõ phạm vi hưởng, đối tượng, chế độ, nguồn tài chính thực hiện cứu trợ xã hội thường xuyên và cứu trợ xã hội đột xuất làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện trợ giúp xã hội ở nước ta.Ngày 21 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội [26]. Theo Nghị định quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, có 6 đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; cấp thẻ BHYT cho đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo, cận nghèo

- Về chính sách ưu đãi xã hội: Những năm qua, các văn bản pháp luật về chính sách ưu đãi xã hội ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Hai văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng năm 1994, cùng một loạt các nghị định, thông tư khác để hướng dẫn thi hành hai pháp lệnh này như quy định danh hiệu vinh dự nhà nước bà mẹ Việt Nam, Nghị định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều lệ xây dựng và quản lý quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đã quy định rõ đối tượng và chế độ ưu đãi xã hội. Ngày 20 tháng 10 năm 2012 UBTV Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một

42

số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Ngày 22 tháng 5 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” [27], [172].

* Đánh giá việc thực thi chính sách ASXH ở nước ta trong thời gian qua Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển đất nước. Đến nay, công tác bảo đảm ASXH đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao:

Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, công tác gia đình và bình đẳng giới. Ðời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định CT - XH. Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ [55, tr.104].

Về mặt thể chế, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách ASXH quan trọng, huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tượng (người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,...; Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín dụng, việc làm; Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ người dân tốt hơn. Hệ thống pháp luật về ASXH ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý

43

quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống BHXH được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. BHXH được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (BHXH và BHYT), bảo hiểm tự nguyện và BHTN. Tuy nhiên, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống ASXH, kể cả các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước mắt, cũng như trong trung và dài hạn. Các quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm y tế ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần. Nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội của Nhà nước khó đáp ứng được yêu cầu an sinh xã hội ngày càng tăng của người dân, trong khi đó huy động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà. Một số chính sách an sinh xã hội còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình ASXH [108].

Tiểu kết chương 2 An sinh xã hội là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho

cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mục đích của ASXH là tạo ra một mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội trước

44

những rủi ro trong cuộc sống. Bản chất của ASXH là đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, vì thế nó mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Đối tượng của ASXH là những thành viên trong cộng đồng trước những rủi ro trong cuộc sống do những tác động bất thường về kinh tế, xã hội, môi trường - đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, vùng nghèo, vùng dân tộc, miền núi, nông thôn. Phương thức hoạt động của ASXH là thông qua các chính sách, biện pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trụ cột “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời phải được xã hội hóa cao, huy động sự tham gia của mọi tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và của toàn xã hội” [106, tr.18-19]. Chính sách an sinh xã hội được hiểu là hệ thống chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa. Thực thi chính sách an sinh xã hội là quá trình biến các chủ trương, phương hướng và biện pháp liên quan đến hệ thống ASXH thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước và sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và toàn xã hội, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Nhà nước có vai trò cơ bản trong thực hiện chính sách ASXH với những lý do cơ bản sau: Thứ nhất, xuất phát từ một trong hai chức năng cơ bản của nhà nước - chức năng xã hội. Thứ hai, để khắc phục những mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường. Thứ ba, Quyền được an sinh là một quyền quan trọng của con gười, được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta. Thứ tư, chỉ có nhà nước mới có thể đưa ra những cơ chế khuyến khích phù hợp và ảnh hưởng của mình để gây sức ép cần thiết trong việc thúc đẩy những đóng góp bắt buộc.

Trong quá trình đổi mới, các nghị quyết của Đảng về vấn đề chính sách xã hội đều nhấn mạnh: Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển; chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người

45

có công và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên quan điểm của Đảng, hệ thống chính sách ASXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được Nhà nước thể chế hóa bằng những văn bản có giá trị pháp lý qua từng chặng đường phát triển trong quá trình đổi mới. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Hệ thống ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng được mở rộng; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện; ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng; tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều; nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN.

46

Chương 3 THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA

3.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1.1. Về vị trí địa lý tự nhiên,dân số, hành chính Thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở thành

thành phố trực thuộc Trung ương vào ngày 01/01/1997 và đến năm 2003, thành phố chính thức trở thành đô thị loại I cấp quốc gia. Đà Nẵng có vị trí địa lý thuộc vùng trung Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích tự nhiên của thành phố Đà Nẵng hiện nay là 1.285,43km2; trong đó, các quận nội thành chiếm diện tích 245,54 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích 1039,89km2. Tổng dân số thành phố Đà Nẵng theo niên giám thống kê năm 2014 là 1.011.803 người, trong đó dân số thành thị là 879.524 người và nông thôn là 127. người; dân tộc Kinh chiếm 99,6 % dân số và các dân tộc thiểu số chiếm 0,4% dân số.Hiện nay Đà Nẵng có 19 thành phần dân tộc thiểu số với 3999 khẩu, 1514 hộ. Riêng trên địa bàn huyện Hòa Vang có 14 dân tộc thiểu số phân bố trên 11 xã với 426 hộ (1309 khẩu), chiếm 1.06% dân của huyện bao gồm các dân tộc Cơ tu, Mường, Nùng, Tày, Thái, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Hrê, KhơMe, Xơ Đăng, Chăm, Ê Đê, Gia Rai và người Hoa. Trong đó người Cơ Tu có 322 hộ (1109 khẩu) chiếm 84.76% trong đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống tập trung chủ yếu tại 03 thôn Phú Túc (xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang), thôn Tà Lang, Giàn Bí (xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang) [32]. Về đơn vị hành chính, thành phố Đà Nẵng gồm có 6 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ và hai huyện: Hòa Vang, huyện đảo Hoàng Sa (Huyện đảo Hoàng Sa hiện nay đang bị Trung Quốc xâm chiếm bất hợp pháp từ tháng 01 năm 1974, Việt Nam đang đấu tranh đòi lại chủ quyền huyện Hoàng Sa); với tổng cộng 56 xã, phường (45 phường và 11 xã) [32, tr.9]. Với vị trí địa lý, tự nhiên và giao thông hết sức thuận lợi của Đà Nẵng có một lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho thành phố phát huy nội lực để phát triển kinh tế và thực hiện tốt các chính sách ASXH.

47

3.1.2. Về kinh tế - xã hội 3.1.2.1. Về kinh tế - Ngày 1/1/1997, Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo

Nghị quyết kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX và bắt đầu thời kỳ phát triển mới. Từ đó đến nay, lãnh đạo và nhân dân Đà Nẵng đã chung sức, chung lòng quán triệt và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, năng động, sáng tạo, tập trung khai thác tiềm năng nội ngoại lực, khơi dậy nguồn lực trong dân, đầu tư xây dựng nhiều công trình trọng điểm nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH thành phố; đồng thời chủ động tháo gỡ, khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển Đà Nẵng thành một thành phố trung tâm trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội toàn khu vực miền Trung và cả nước. Giai đoạn 1997-2010, KT - XH thành phố phát triển có tính đột phá, tạo được thế và lực, cũng như xác lập được vị thế của Đà Nẵng trên cả nước, khu vực và quốc tế. Những thành tựu đáng kể đó là: tổng sản phẩm quốc nội (GDP, giá so sánh năm 1994) tăng bình quân 11,4%/năm, cơ cấu đầu tư chuyển dịch đúng định hướng “CN - DV - NN”, đồng thời định hướng để chuyển dịch sang hướng “DV - CN - NN” từ sau năm 2010; thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước với GDP bình quân (giá hiện hành) năm 2010 đạt 33,2 triệu đồng/người, gấp 7 lần so với năm 1997 và gấp 1,7 lần so với bình quân cả nước (2010). Cũng trong giai đoạn này, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại I cấp quốc gia (năm 2003) và được BCT ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa”. Đây vừa là động lực, vừa là điều kiện thuận lợi để thành phố huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư, xây dựng, phát triển và thực thi các chính sách ASXH. Giai đoạn 2010-2015, trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được của giai đoạn trước, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương và huy động hiệu quả các nguồn ngoại lực, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà Nẵng tiếp tục xây dựng, phát triển thành phố, thay đổi tích cực diện mạo đô thị, quan tâm giải quyết các vấn đề ASXH, môi trường. Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn giai đoạn 2010 - 2015 (GRDP, giá so sánh 2010) tăng 9,7%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước, đến năm 2015 đạt 45.885 tỷ đồng, bằng 1,6 lần năm 2010; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, năm sau cao hơn năm trước, đến năm 2015 đạt 62,65 triệu đồng, tương đương 2.908 USD, gần bằng 2

48

lần năm 2010 (Tỷ giá bình quân năm 2015 là 21.500 đồng/USD.); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3% và nông nghiệp 2,1% [48, tr.2] [Phụ lục 1].

3.1.2.2. Về xã hội Bên cạnh những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ

tầng và chỉnh trang đô thị; thành phố Đà Nẵng còn được biết đến là địa phương ban hành nhiều chính sách mang đậm tính nhân văn, nhiều giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, dần định hình nét văn hóa của thành phố, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Chương trình “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có” là những chủ trương lớn được thành phố thực hiện, nhằm hướng đến các mục tiêu an sinh bền vững. Từ năm 2003, thành phố đã hoàn thành mục tiêu “không có hộ đói”, năm 2009 hoàn thành mục tiêu “không có người mù chữ” và điều chỉnh các mục tiêu này theo hướng “không còn hộ đặc biệt nghèo” và “không có học sinh bỏ học trong độ tuổi”. Chương trình thành phố “5 không”, “3 có” gắn với công tác đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện tốt [48, tr.9-10]. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả khả quan nói trên, lĩnh vực kinh tế và an sinh xã hội vẫn còn những hạn chế, bất cập: Tiến độ đầu tư, xây dựng một số dự án, công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm còn chậm, kéo dài, gây lãng phí nguồn tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, gây bức xúc và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân. Quá trình vận dụng, thực thi một số chủ trương, chính sách về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai có mặt còn khuyết điểm. Chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đạt kết quả chưa cao. Việc chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho một bộ phận dân cư thuộc diện di dời giải toả thực hiện chưa tốt [48, tr.18-19]. Đạt được những kết quả trên là do nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố tác động, nhưng trước hết phải kể đến tác động của yếu tố chính sách của thành phố thời gian qua, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế - xã hội của thành phố theo hướng bền vững, gắn kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề ASXH.

3.2. HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA

3.2.1. Chủ trương, chính sách về An sinh xã hội của Đảng bộ, Chính quyền thành phố Đà Nẵng trong quá trình xây dựng và phát triển

- Mục tiêu tổng quát giai đoạn 2010 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 được Đại hội Đảng bộ thành phố XX xác định: Phấn đấu đến năm 2020, Đà Nẵng trở

49

thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống [46, tr.29]. Từ thực tiễn của thành phố và từ kinh nghiệm đúc kết được ở trong và ngoài nước, Thành ủy và UBND thành phố Đà Nẵng đã chọn phương thức vừa kết hợp hài hòa giữa phát triển toàn diện, đồng bộ với phát triển trọng điểm, giữa những vấn đề bức xúc hiện tại với những vấn đề phục vụ cho phát triển lâu dài, phát triển kinh tế phải gắn liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội và các chính sách ASXH cho người dân. Một trong những quan điểm phát triển được nêu trong Văn kiện ĐHĐB lần thứ XX của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng là: Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội [46, tr.87]. Cụ thể là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình “thành phố 5 không”, “thành phố 3 có”; giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt nghèo, học sinh bỏ học. Phát triển nghề công tác xã hội; xây dựng hệ thống ASXH hiệu quả, đa dạng, ngày càng mở rộng phù hợp với nhu cầu của nhân dân. Phát triển mạnh và đa dạng hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Thực hiện đồng bộ, toàn diện các chương trình, dự án giảm nghèo, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, tín dụng, dạy nghề, tạo việc làm, khuyến nông - lâm - ngư, tiêu thụ sản phẩm...; xây dựng các đề án, giải pháp, mô hình giảm nghèo, tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo, giảm nghèo bền vững. Thực hiện tốt các chính sách xã hội; vận động toàn dân tham gia các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc người có công với nước; chăm lo đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho con em gia đình chính sách; đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, nhân đạo hỗ trợ những người cô đơn, yếu thế, nghèo khó trong xã hội, tạo thuận lợi để họ vươn lên hoà nhập cộng đồng. Tăng cường các cơ hội và dịch vụ kinh tế cho người khuyết tật. Hoàn thành các chương trình xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp và học sinh, sinh viên. Giảm thiểu chênh lệch về mức sống, thu nhập giữa các vùng nông thôn, miền núi với thành thị. Chú trọng tạo việc làm, nâng cao chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, coi đây là nhiệm

50

vụ xuyên suốt đối với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tiếp tục đầu tư phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân [46, tr.108-111]. Cố Bí thư thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh từng nói: “Trở thành một thành phố công nghiệp không chỉ đơn giản là tăng tỷ trọng giá trị công nghiệp trong GDP. Quan trọng hơn, ...là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là nâng cao mức sống của người dân... ” [46, tr.10-11].

- Trên cơ sở định hướng đó, trong thời gian qua UBND thành phố đã cụ thể hóa các chương trình ASXH nói trên thành các đề án, các quyết định, kế hoạch như: QĐ số 129/2000/QĐ-UB ngày 05/12/2000 về việc ban hành kế hoạch thực hiện chương trình “Thành phố 5 không”: không có hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy, không có giết người cướp của. Đến tháng 6/2009, UBND thành phố đồng ý theo đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc điều chỉnh các mục tiêu Chương trình “Thành phố 5 không” giai đoạn 2009-2015 - theo đó, mục tiêu của Chương trình “Thành phố 5 không” giai đoạn 2009-2015: Không có hộ nghèo theo chuẩn thành phố, Không có học sinh bỏ học ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, Không có người lang thang xin ăn, Không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng, Không có giết người để cướp của. Nghị quyết số 1151/UBND-VP của HĐND thành phố Đà Nẵng ngày 26/7/2005 về thực hiện Chương trình xây dựng “Thành phố 3 có”: Có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hóa - văn minh đô thị. QĐ số 140/2005/QĐ-UBND ngày 14 tháng 10 năm 2005 phê duyệt Đề án đảm bảo có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 - 2010. QĐ số 19/2008/QĐ-UBND ngày 17/3/2008 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố. QĐ số 19/2008/QĐ-UBND ngày 17/3/2008 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố. QĐ số 9470/QĐ-UBND ngày 19/12/2009 về việc phê duyệt Đề án thực hiện mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” đến năm 2015. QĐ số 48/2008/QĐ-UBND ngày 19/11/2008 về chính sách trợ giúp bộ đội xuất ngũ bị bệnh tâm thần trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số 61/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 ban hành quy định về chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ 3882/QĐ-UBND ngày 26/5/2009 phê duyệt Đề án xây dựng 7.000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số

51

12/2009/QĐ-UBND ngày 13/3/2009 ban hành quy chế quản lý, sử dụng vốn ủy thác của ngân sách thành phố tại Chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng để cho vay giải quyết việc làm đối với các đối tượng trong diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải tỏa trên địa bàn thành phố. QĐ số 21/2010/QĐ-UBND ngày 19/7/2010 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số 24/2010/QĐ-UBND ngày 23/8/2010 về việc sửa đổi điều 1 QĐ số 48/2008/QĐ-UBND ngày 19/11/2008 về chính sách trợ giúp đối với bộ đội xuất ngũ bị bệnh tâm thần trên địa bàn thành phố. QĐ số 47/2010/QĐ-UBND ngày 27/12/2010 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 2 Quy định về trợ cấp thường xuyên, đột xuất đối với người có công với cách mạng mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (ban hành kèm theo QĐ số 14/2009/QĐ-UBND ngày 30/5/2009 của UBND thành phố). QĐ số 22/2011/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số 23/2011/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 ban hành quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số 24/2011/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. QĐ số 25/2011/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 ban hành Quy định chính sách hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp đối với lao động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố. Đề án Giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012 - 2015 (ban hành kèm theo QĐ số 2644/QĐ-UBND ngày 09 tháng 4 năm 2012). Kế hoạch số 8190/KH-UBND ngày 16-9-2013 triển khai Chương trình hành động số 26 CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”. Kế hoạch số 11344/KH-UBND ngày 11/12/2014 về triển khai hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số có nhà ở xuống cấp năm 2015. QĐ số 25/2015/QĐ -UBND ngày 28 tháng 8 năm 2015 Về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng…

52

Các chương trình, nói trên đều có sự phân công trách nhiệm cụ thể trong quá trình thực hiện: Như để thực hiện mục tiêu của “Chương trình xây dựng thành phố 5 không ; xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao” trên địa bàn thành phố, UBND thành phố giao trách nhiệm cho các đơn vị, địa phương như sau: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, địa phương và các đoàn thể xây dựng và tổ chức thực hiện đề án “Hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số”, “Trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”; đề án "giảm nghèo" theo chuẩn mới đã được HĐND thành phố phê chuẩn, tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả việc thực hiện đề án “giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trong quá trình chỉnh trang đô thị”, đề án “không có người lang thang xin ăn”; nghiên cứu đề xuất UBND thành phố ban hành Quy chế cai nghiện tập trung và quản lý sau cai ma túy tại cộng đồng; vận động và có sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp tiếp nhận lao động sau cai hoặc đầu tư tổ chức lao động tại chỗ nhằm giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy đã qua thời gian cai nghiện, thử thách... Sở Xây dựng nghiên cứu tham mưu xây dựng đề án “Xây dựng 7000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, “Xây dựng nhà ở thu nhập thấp phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. Tham mưu cho UBND thành phố xét chọn địa điểm, mẫu chung cư và lập thủ tục phê duyệt quy hoạch tổng mặt bằng các địa điểm xây dựng chung cư phục vụ cho Đề án; phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện; giúp UBND thành phố tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai Đề án và định kỳ tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất giải quyết các vướng mắc, khó khăn về UBND thành phố. Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Tài chính phối hợp với các ngành, đơn vị có liên quan để đề xuất kế hoạch bố trí vốn ngân sách cho chương trình ASXH theo từng giai đoạn; phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội thành phố và các tổ chức tín dụng, ngân hàng để đề xuất quy định hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các đối tượng theo chế độ quy định, có kế hoạch bổ sung vốn ngân sách vào dự toán chi ngân sách hàng năm để thực hiện các chính sách liên quan đến hoạt động ASXH. Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các ngành có liên quan đề xuất các

53

chính sách, cơ chế về sử dụng đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển quỹ nhà ở của thành phố, trình UBND thành phố phê duyệt. Sở Y tế phối hợp với Sở LĐ - TB và XH thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về BHXH; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; kiểm tra, giám sát, cải tiến quy trình giải quyết hưởng BHTN; có giải pháp ngăn chặn tình trạng lạm dụng, gây thất thoát quỹ BHXH, BHTN; chủ trì, phối hợp với BHXH thành phố trong việc quản lý cấp thẻ BHYT kịp thời, chính xác, đúng quy định cho các đối tượng thuộc diện chính sách, xã hội được ngân sách Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng BHYT. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực, cải cách thủ tục KCB, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao y đức trong cán bộ, công chức, viên chức phục vụ người bệnh. Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền về kết quả và nhiệm vụ của chương trình ASXH. UBND các quận, huyện có trách nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo các phòng trực thuộc có liên quan, Ủy ban nhân dân các xã, phường thực hiện tốt chương trình. Đặc biệt chú trọng đến tình hình “không có người lang thang xin ăn”, “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”, “không có giết người để cướp của” trên địa bàn xã, phường, quận, huyện. Ủy ban MTTQ Việt Nam và các, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, quận, huyện có liên quan để lồng ghép các chương trình hoạt động, các phong trào cụ thể nhằm thực hiện tốt Chương trình xây dựng “thành phố 5 không”; xóa đói giảm nghèo; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục - thể thao” nhằm góp phần đưa đời sống tinh thần của nhân dân thành phố từng bước đi lên, thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển cao và bền vững…

Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu và những giải pháp công tác lớn cũng như phân công trách nhiệm cụ thể trong chương trình. UBND thành phố các quận, huyện, các sở, ban, ngành, các đơn vị liên quan căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai nghiêm túc chương trình của UBND thành phố và chịu trách nhiệm trước UBND thành phố về việc thực hiện Chương trình này ở địa phương, đơn vị mình. Định kỳ hàng quí, 6 tháng, 1 năm báo cáo kết quả thực hiện về UBND thành phố để theo dõi, chỉ đạo và 3 hoặc 5 năm năm tiến hành tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.

54

- Từ những chủ trương, chính sách nói trên, tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, nhiều chính sách ASXH đậm tính nhân văn được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt ở thành phố Đà Nẵng: Chương trình “thành phố 5 không” cơ bản hoàn thành; chương trình “Thành phố 3 có” đạt một số kết quả bước đầu rất khả quan [46, tr.19-20]. Những thành quả đó chính là kết tinh của sự chung lưng đấu cật của Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các tầng lớp nhân dân thành phố.Trong bối cảnh ảnh hưởng của suy giảm kinh tế, thành phố đã triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách ASXH mang đậm tính nhân văn đó đã tạo được sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân thành phố: “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ” [125, tr.1-5].

3.2.2. Kết quả thực thi chính sách An sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua

Trong phạm vi giới hạn đã nêu, luận án chỉ tập trung đánh giá việc thực thi một số chính sách có tính đặc thù của Đà Nẵng trong hệ thống chính sách ASXH như: Chính sách bảo trợ xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo,chính sách nhà ở xã hội, chính sách giải quyết việc làm cho người lao động (nhất là người lao động bị thu hồi đất sau chỉnh trang đô thị), chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế... và các chương trình ASXH có tính đặc thù (Chương trình thành phố “5 không và 3 có”...) của thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 1997 đến nay.

3.2.2.1. Thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội * Thực trạng đối tượng cần trợ giúp xã hội, đối tượng phục vụ của các cơ sở

trợ giúp xã hội ở Thành phố Đà Nẵng - Thành phố Đà Nẵng, là một trong những địa phương chịu tác động nặng nề

của cuộc chiến tranh, đặc biệt là một trong những “điểm nóng” của cả nước về ô nhiễm Dioxin, với số lượng người dân có nguy cơ bị phơi nhiễm đioxin tiềm tàng cao, dẫn đến nguy cơ bệnh tật của nhiều thế hệ, hơn nữa thường xuyên phải gánh chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh và những tai nạn, rủi ro trong cuộc sống nên số người cần trợ giúp xã hội rất lớn. Thành phố hiện có trên 120.000 người cần sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các dịch vụ công tác xã hội (chiếm trên 10% dân số) trong đó có 76.000 người cao tuổi; 16.287 người khuyết tật; 22.045 hộ nghèo; 2.485 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trên 1000 người nghiện ma tuý và khoản hơn 2.000 đối tượng cần trợ giúp

55

khác… mỗi năm ngân sách chi trên 200 tỷ để chi trợ cấp thường xuyên cho các đối tượng bảo trợ xã hội (BTXH) và một số nhóm đối tượng cần trợ giúp khác.Thành phố Đà Nẵng hiện có 12 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 02 cơ sở công lập, 10 cơ sở ngoài công lập của các tổ chức xã hội hiện nuôi dưỡng gần 1.200 đối tượng là trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, người khuyết tật và người cao tuổi, tuy nhiên con số này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số đối tượng cần giúp đỡ, trợ giúp (Phụ lục 3.1). Năm 2010, được sự hỗ trợ của Trung ương thành phố triển khai xây dựng mô hình Trung tâm công tác xã hội trẻ em nay chuyển thành Trung tâm công tác xã hội, với nhiệm vụ phục vụ các đối tượng yếu thế trong xã hội cần cung cấp các dịch vụ gồm tiếp nhận thông tin, đánh giá nhu cầu, phân loại và chuyển tuyến dịch vụ trợ giúp về y tế, giáo dục, phát triển cộng đồng và hệ thống tư pháp; chăm sóc ngắn hạn các đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp; cung cấp dịch vụ tư vấn, tham vấn, trị liệu tâm lý, can thiệp khủng hoảng, giáo dục hỗ trợ đối tượng hoà nhập. Tuy nhiên, trung tâm này mới thành lập đi vào hoạt động với số lượng đội ngũ cán bộ còn hạn chế do vậy năng lực chăm sóc, kết nối trợ giúp các đối tượng chưa đáp ứng nhu cầu của cộng đồng xã hội.

* Hệ thống các chính sách về bảo trợ xã hội của thành phố Đà Nẵng Trên cơ sở các chính sách của Trung ương về BTXH, thành phố Đà Nẵng đã

vận dụng và ban hành những chính sách như sau: Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên, trợ giúp xã hội đột xuất: Quyết định 45/2012/QĐ-UB ngày 06/10/2012 về thực hiện chính sách trợ giúp đối với các đối tượng bảo trợ xã hội, với mức chuẩn trợ cấp 210.000 đồng/tháng, cao hơn so với Trung ương từ 15-20%. Điểm ưu việt nổi trội của quyết định này là Trung ương quy định đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên phải thuộc hộ nghèo, nhưng thành phố Đà Nẵng mở rộng đối tượng không những thuộc hộ nghèo mà những hộ có hoàn cảnh khó khăn đủ các điều kiện theo quy định đều được hưởng. Ngoài ra, các tất cả đối tượng hưởng trực tiếp đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí hằng năm, chết được hỗ trợ mai táng phí 3.000.000đ/người. Ngày 28 tháng 8 năm 2015 UBND thành phố tiếp tục ban hành Quyết định số 25/2015/QĐ -UBND về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Điểm mới của Quyết định này là chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội được tăng lên rất nhiều so với các quyết định trước đây: Người khuyết tật đặc biệt nặng tăng từ 630.000 đồng lên 810.000 đồng/người/tháng; người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em hoặc người cao tuổi tăng

56

từ 840.000 đồng lên 1.080.000 đồng/người/tháng; trợ cấp mai táng phí 3 triệu đồng/người tăng lên 5,4 triệu đồng/người. Riêng người đơn thân nghèo, thoát nghèo trong vòng 2 năm đang nuôi con đồng thời là người bị nhiễm HIV, người cao tuổi, người khuyết tật nặng thì ngoài chế độ đối với người đơn thân nghèo đang nuôi con còn được hưởng chế độ người bị nhiễm HIV hoặc người cao tuổi hoặc người khuyết tật nặng; người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nhưng mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì ngoài chế độ đối với người khuyết tật còn được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm sóc mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Chính sách trợ giúp đối với người cao tuổi: Căn cứ các văn bản quy định của Trung ương về chính sách trợ giúp đối với NCT, thành phố cụ thể hoá triển khai thực hiện bằng các văn bản như Kế hoạch số 5411/KH-UBND ngày 27/6/2013 thực hiện Chương trình hành động quốc gia về NCT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2020; Quyết định số 4083/QĐ-UBND ngày 01 tháng 6 năm 2010 về việc thành lập Ban công tác NCT thành phố, quận, huyện thành lập Ban đại diện NCT, xã, phường thành lập Hội NCT; đồng thời 56/56 xã phường đều thành lập quỹ chăm sóc NCT. Theo quy định, NCT từ 80 tuổi trở lên Trung ương chỉ hỗ trợ 1 mức trợ cấp là 180.000đ. Tuy nhiên, theo Quyết định 45/2012/QĐ-UB ngày 06/10/2012 thành phố Đà Nẵng quy định mức trợ cấp cao hơn quy định của Trung ương, cụ thể: Người từ 80-89 tuổi, không có lương hưu hoặc không có trợ cấp BHXH với mức trợ cấp 210.000đ/người tháng; người từ 90-94 tuổi, không kể có thu nhập hay không có thu nhập với mức trợ cấp 210.000đ/người/tháng; người từ 95-99 tuổi, không kể có thu nhập hay không có thu nhập với mức trợ cấp 230.000đ/người/tháng; người từ 100 tuổi trở lên, không kể có thu nhập hay không có thu nhập với mức trợ cấp 350.000đ/người/tháng; Ngoài ra theo Quyết định số 4270/QĐ-UBND ngày 20 tháng 5 năm 2011 về chính sách chúc thọ, mừng thọ với mức thấp nhất là 200.000 đồng, cao nhất là 1.000.000 đồng theo độ tuổi quy định. Bên cạnh đó, thành phố có chủ trương mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho các đối tượng người cao tuổi hưởng trợ cấp tuất hàng tháng do bảo hiểm chi trả (theo quy định đối tượng này không được hưởng). Chính sách đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn: Các chính sách của thành phố trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thể hiện tại Quyết định số 45/2012/QĐ-UB ngày 06/10/2012 về chính sách trợ giúp đối với trẻ em mồ côi cha mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm

57

HIV/AIDS, trẻ em bị tàn tật với mức từ 210.000 đồng/tháng đến mức 410.000 đồng/tháng, hỗ trợ mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em từ 6-16 tuổi (không thuộc diện hưởng trợ cấp BTXH hàng tháng, trẻ em khuyết tật nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH, học tại các trường chuyên biệt); Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày 09/10/2014 hỗ trợ phẫu thuật tim bẩm sinh cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh tối đa không quá 20 triệu đồng, hỗ trợ tiền ăn, đi lại tại. Chính sách đối với hộ nghèo: Trên cơ sở khung kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 80/NQ-CP và các chính sách giảm nghèo của Trung ương, thành phố ban hành Đề án giảm nghèo, giảm hộ đặc biệt nghèo từng giai đoạn với mức chuẩn thường cao hơn so với Trung ương: Năm 2015, thành phố Ðà Nẵng cơ bản xóa hết hộ nghèo, về đích sớm 2 năm so với kế hoạch. Không thỏa mãn với kết quả đạt được, thành phố Ðà Nẵng quyết định nâng mức chuẩn thu nhập hộ nghèo, đồng thời thực hiện nhiều chính sách đột phá trong giai đoạn tiếp theo với mục tiêu thoát nghèo bền vững. Kỳ họp thứ 14 HÐND Thành phố Ðà Nẵng khóa 8 ngày 9/7/2015, đã thông qua nghị quyết quy định về chuẩn nghèo mới trên địa bàn, giai đoạn 2016-2020 để làm cơ sở xây dựng đề án giảm nghèo. Theo đó, mức chuẩn hộ nghèo mới ở Ðà Nẵng có thu nhập 1,1 triệu đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 1,3 triệu đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Trong khi đó, chuẩn hộ nghèo của cả nước hiện nay là có thu nhập 700.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở thành thị. Mức chuẩn nghèo mới của Ðà Nẵng cao gấp gần 3 lần so với mức chuẩn nghèo theo quy định chung của cả nước (theo Quyết định số 09/2011 của Thủ tướng ban hành, áp dụng trong giai đoạn 2011-2015: hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống; hộ nghèo ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng; hộ cận nghèo ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng). Ðà Nẵng luôn xem giảm nghèo là bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương và muốn giảm nghèo thực sự, muốn giảm nghèo đa chiều phải dùng tổng lực nguồn xã hội; không chỉ nguồn lực tập trung cho hộ nghèo mà phải có nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội, phải đảm bảo thoát nghèo thực chất, thoát nghèo bền vững. Ngoài ra, thành phố còn ban hành nhiều chính sách có tính chất “vượt trội” và đã có tác dụng tích cực trong quá trình thực hiện mục tiêu

58

giảm nghèo của thành phố; cụ thể như: Chính sách hỗ trợ xóa nhà tạm, sửa chữa nhà xuống cấp, bố trí nhà ở chung cư; hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh tại bệnh viện đối với phụ nữ thuộc diện hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và phụ nữ nghèo bị bệnh ung thư; hỗ trợ 80% chi phí khám, chữa bệnh tại bệnh viện sau khi trừ đi phần chi của BHYT đối với phụ nữ thuộc diện hộ nghèo; hỗ trợ cho người mắc bệnh ung thư, suy thận mãn tính chạy thận nhân tạo thuộc hộ nghèo với mức trợ cấp 500.000đ/ng/tháng; trợ cấp hàng tháng đối với các người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em thuộc hộ đặc biệt nghèo hỗ trợ thêm 200.000đ/ng/tháng đối với người đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội; hỗ trợ 400.000đ/ng/tháng đối với đối tượng không thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng ; cho hộ đặc biệt nghèo vay vốn hỗ trợ 100% lãi xuất.

* Kết quả thực hiện chính sách bảo trợ xã hội ở thành phố Đà Nẵng - Thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên, đột xuất: Tính đến năm 2015, toàn

thành phố đã có 27.565 người hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, tăng hơn 20.000 người so với năm 2006. Trong đó có 635 trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi; 1.008 người cao tuổi cô đơn; 15.609 người từ 80 tuổi trở lên; 49 người bị nhiễm HIV/AIDS; 44 gia đình nuôi trẻ em bị bỏ rơi, trẻ mồ côi; 1.086 người đơn thân nuôi con; 9.134 cá nhân, hộ gia đình người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng, với tổng kinh phí 1 năm 86,9 tỷ đồng. Từ năm 2012, thành phố Đà Nẵng là một trong 15 tỉnh, thành phố tự cân đối được ngân sách đã chủ động nâng mức trợ cấp hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội cao hơn mức quy định của Trung ương - mức quy định của Trung ương là 180.000 đồng/tháng (Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý là 120.000đ/tháng.Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý là 180.000đ/tháng), mức quy định của thành phố là 210.000 đồng/tháng (cao hơn so với Trung ương từ 15-20%). Đối tượng hưởng chính sách BTXH theo QĐ số 45/2012/QĐ-UBND ngày 06/10/2012 là 18.431 đối tượng, với kinh phí 48.158.400.000đồng; theo QĐ số 25/2015/QĐ về chính sách trợ giúp xã hội đối với

59

đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tiếp tục nâng mức chuẩn trợ cấp đối với các đối tượng bảo trợ xã hội là 270.000 đồng/người/tháng (mức cũ là 210.000 đồng/người/tháng) (Phụ lục 3.3).

Song song với hoạt động trợ giúp xã hội thường xuyên, công tác cứu trợ đột xuất của thành phố trong những năm đã thực hiện kịp thời và đảm bảo theo quy định. Kết quả thực hiện trợ cấp đột xuất (Cứu trợ giáp hạt, trợ cấp lương thực tết Nguyên đán, trợ cấp thiên tai, hỏa hoạn, trợ cấp đột xuất khác) giai đoạn 2005 - 2010 có 115.474 hộ được trợ cấp với số kinh phí 34,8 tỷ đồng; giai đoạn 2011 - 2014 có 259.032 hộ được trợ cấp với số kinh phí 77,4 tỷ đồng (Phụ lục 3.2).

- Thực hiện chính sách đối với người khuyết tật, người tâm thần: Tính đến cuối năm 2014, thành phố Đà Nẵng có 9.134 người khuyết tật (NKT) và hộ gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng NKT được giải quyết hưởng chính sách trợ cấp xã hội tại cộng đồng và được cấp thẻ BHYT miễn phí. Hàng năm gần 1.000 trẻ em khuyết tật từ 6 đến 16 tuổi (không thuộc đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH và trường chuyên biệt) được cấp thẻ BHYT miễn phí. Hầu hết NKT cô đơn, không có nơi nương tựa lang thang trên địa bàn thành phố đều được đưa vào nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội và Trung tâm Điều dưỡng Người tâm thần (hiện nay các cơ sở này đang nuôi dưỡng 590 người) với mức nuôi dưỡng từ 500.000đ đến 840.000đ/người/tháng. Bên cạnh đó các đơn vị, địa phương thực hiện đầy đủ các chính sách trợ giúp như cho vay vốn, đào tạo nghề miễn phí, hỗ trợ sinh kế, phẫu thuật phục hồi chức năng, hỗ trợ học bổng... hàng năm cho gần 1.000 người. Trong khuôn khổ các chương trình của dự án trợ giúp người khuyết tật của các tổ chức phi chính phủ như USAID, UNISEP, EMWF đã hỗ trợ xây dựng được hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu về người khuyết tật. Hàng năm thông qua các tổ chức này đã trợ giúp cho 500-700 hộ gia đình được thụ hưởng trợ giúp về sinh kế, học bổng, đào tạo nghề, cải thiện nhà ở. Hiện nay thành phố đã công nhận 6 cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật tạo việc làm thường xuyên cho gần 200 người và 17 doanh nghiệp hoà nhập tham gia tiếp nhận giải quyết việc làm từ 5 người khuyết tật trở lên, với gần 150 người khuyết tật đang làm việc.Thành phố Đà Nẵng, hiện có khoảng 5.000 người tâm thần, trong đó chỉ có từ 300-350 đối tượng được đưa vào nuôi dưỡng tập trung (chiếm tỷ lệ 6%) trong khi đó nhu cầu cần còn rất lớn. Trước thực trạng thành phố đầu tư mở rộng cơ sở Trung tâm điều dưỡng người tâm thần

60

làm nơi điều trị phục hồi điều dưỡng luân phiên với quy mô từ 50-100 đối tượng, đầu tư bộ máy, trang thiết bị, xây dựng quy trình điều dưỡng luân phiên bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2015 và ban hành Quyết định số 9382/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 phê duyệt Đề án “Mô hình cơ sở phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí, hỗ trợ người bệnh tâm thần dựa vào cộng đồng” tại Trung tâm công tác xã hội - với nhiệm vụ xây dựng phương án, kế hoạch khảo sát thực trạng về nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần của những người bị bệnh tâm thần và phụ huynh của trẻ khuyết tật nằm trong nhóm nguy cơ cao dễ bị rối nhiễu và sang chấn tâm lý, mời bác sĩ tâm thần tổ chức các lớp tập huấn về nhận dạng bệnh tâm thần và các kỹ năng phát hiện, tư vấn trợ giúp người tâm thần nhằm ngăn ngừa bệnh tâm thần trong thời gian đến.

- Thực hiện chính sách đối với người cao tuổi: Hàng năm thành phố đã thực hiện đầy đủ trợ cấp hàng tháng cho 16.617 người cao tuổi cô đơn, người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên, với kinh phí 1 năm là 43,1 tỷ đồng. Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa được đưa vào nuôi dưỡng tập trung tại các trung tâm, mái ấm tình thương, hiện nay các cơ sở nuôi dưỡng tập trung gần 150 cụ. Đồng thời, hàng năm thành phố chủ động rà soát, lập danh sách người cao tuổi thuộc diện chúc thọ, mừng thọ và tặng quà theo quy định từ 75 tuổi trở lên để tổ chức tặng quà vào các dịp ngày người cao tuổi Việt Nam, tết Nguyên Đán, bình quân hàng năm có từ 6.000-7.000 người cao tuổi, với kinh phí 4 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó các đơn vị địa phương cấp quận, huyện , phường, xã đã thực hiện đầy đủ các chính sách ưu tiên khám chữa bệnh, mở sổ khám chữa bệnh ban đầu (với kinh phí trên 4 tỷ đồng/năm), miễn giảm giao thông, vé tham quan các điểm du lịch cho NCT tại xã phường.

- Trợ giúp khác: Các chương trình, đề án liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội được triển khai trên địa bàn thành phố đều có sự tham gia của các Hội. Năm 1998 chỉ có 3 hội, đến nay nâng lên 10 Hội hoạt động trong lĩnh vực ngành như “Hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh”, “Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi”, “Hội từ thiện và bảo vệ quyền trẻ em”, “Hội nạn nhân chất độc da cam”...Thành phố Đà Nẵng hiện có hơn 5.000 nạn nhân chất độc da cam/dioxin, trong đó có khoảng 1400 trẻ em bị tật nguyền do di chứng của thứ chất độc chết người này; nhiều gia đình có đến 2-3 thế hệ cùng bị phơi nhiễm. Hiện có 150 em nhiễm chất độc da cam/dioxin đang sinh sống, học tập tại 3 cơ sở thuộc Trung tâm nuôi dưỡng và chăm sóc nạn nhân chất độc da cam/dioxin (trong đó có 20 em nạn

61

nhân chất độc da cam bại liệt hoàn toàn). Vì thế lãnh đạo và nhân dân thành phố Đà Nẵng trong hơn 10 năm vừa qua với chính sách ASXH đã có những hành động và đóng góp thiết thực mang lại những giá trị tinh thần và vật chất chia sẻ nỗi đau cho những nạn nhân chất độc da cam và gia đình họ. Trải qua 10 năm hoạt động, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Đà Nẵng đã xây dựng tổ chức ở 100% địa bàn quận, huyện (toàn Hội hiện có 2946 hội viên, trong đó có 60 hội viên danh dự người nước ngoài) và đã xây dựng được 3 Trung tâm nuôi dưỡng và chăm sóc nạn nhân chất độc da cam/dioxin. Số tiền ủng hộ thông qua tổ chức Hội trong 10 năm qua (2005 -2015) lên đến gần 100 tỉ đồng từ các nhà hảo tâm, doanh nghiệp trong và ngoài nước (riêng trong năm 2015, các cấp Hội trên địa bàn thành phố vận động được gần 44 tỉ đồng để duy trì các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ nạn nhân da cam/dioxin) [107]. Các chương trình “Ðồng hành đi bộ vì nạn nhân chất độc da cam”, “Mùa xuân cho em”, phong trào “Tết vì nạn nhân chất độc da cam” do Hội Nạn nhân chất độc da cam phối hợp cùng Báo Công an TP Ðà Nẵng, Ðài Phát thanh - Truyền hình TP Ðà Nẵng, Bộ Chỉ huy Quân sự, Sở GD&ÐT, Hội Doanh nhân, cá nhân hảo tâm trong nước và quốc tế… đã thực sự thu hút sự chung tay của cả cộng đồng trong hoạt động “đồng hành chia sẻ nỗi đau da cam” [92, tr.13]. Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi cũng đã luôn quan tâm, theo sát hoàn cảnh của từng người trong Hội. Ngoài việc nuôi dưỡng người khuyết tật (NKT) neo đơn và các cháu mồ côi có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Hội còn thường xuyên tổ chức khám chữa bệnh, dạy nghề miễn phí, trợ cấp khó khăn đột xuất, xây dựng và nâng cấp nhà ở, tổ chức lao động sản xuất cho NKT, trẻ mồ côi. Bên cạnh đó, việc nâng cao kiến thức, tư vấn nghề nghiệp còn giúp những NKT nơi đây có công ăn việc làm, tạo kế sinh nhai, vượt qua mặc cảm để hòa nhập cộng đồng. Với mối quan hệ gắn kết hơn suốt gần 10 năm qua (2005 - 2015), Hội đã vận động sự tài trợ lên tới 1,7 tỷ đồng, 120 chiếc xe lăn, xe lắc từ Quỹ Hỗ trợ cộng đồng Lawrence S.Ting (gọi tắt là Quỹ Lawrence S.Ting) thông qua nhiều chương trình, hoạt động ý nghĩa [181, tr.12]. Thông qua các hoạt động gây quỹ “Những trái tim hồng” của Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi để trợ giúp nuôi dưỡng thường xuyên hàng năm từ 50-70 trẻ mồ côi; Quỹ “bát cháo tình thương” của Hội từ thiện trợ giúp cho trên 200 bệnh nhân nghèo hàng ngày tại các bệnh viện; Quỹ hỗ trợ phẫu thuật tim bẩm sinh của Hội phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh đã trợ giúp hàng năm từ 30-50 ca phẫu thuật tim bẩm sinh...

62

3.2.2.2. Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo * Công tác chỉ đạo và triển khai chương trình giảm nghèo qua các giai đoạn ở thành phố Đà Nẵng

Ngay sau khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, đồng thời với việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, chỉnh trang đô thị, Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố xác định xoá đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển KT-XH thành phố.Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương về lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo; Thành ủy và UBND Thành phố Đà Nẵng đã có những chủ trương, chính sách chỉ đạo và triển khai chương trình giảm nghèo như: QĐ số 09/2009/QĐ-UB ngày 25 tháng 2 năm 2009 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc ban hành Đề án giảm nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2009-2015; QĐ số 10081/QĐ-UBND ngày 05 tháng 12 năm 2012 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc Ban hành “Đề án giảm nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2017; QĐ số 10632/QĐ-UBND ngày 21 tháng 12 năm 2012 của UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hộ đặc biệt nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2017”...

* Thực trạng thực hiện các chương trình giảm nghèo qua các giai đoạn - Giai đoạn 1997-2000: Theo chuẩn nghèo giai đoạn này, đầu năm 1997, trên

địa bàn thành phố có 11.321 hộ đói, nghèo, chiếm tỷ lệ 8,79% tổng số hộ, trong đó có 850 hộ đói, chiếm 0,66% tổng số hộ. Huyện Hoà Vang có tỷ lệ đói nghèo cao nhất là 10,91%. Toàn thành phố, địa phương nào cũng có hộ đói, nghèo, nhưng không có xã nằm trong diện xã nghèo theo chương trình 135 của Chính phủ, 4 xã khó khăn nhất là Hoà Bắc, Hoà Phú, Hoà Ninh, Hoà Liên. Đến năm 2000, thành phố đã xóa hết hộ đói, giảm được 8.904 hộ nghèo, còn 1.567 hộ nghèo, chiếm 1,07% tổng số hộ, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra (Bảng 3.4.1: Phụ lục 3.4). Trong số hộ thoát nghèo giai đoạn 1997-2000, có gần 2.000 hộ vượt chuẩn nghèo của giai đoạn 2001-2005. Đời sống nhân dân được cải thiện, mức sống của đa số hộ chính sách được nâng lên trên mức sống trung bình của dân cư. Có được những kết quả trên là do thực hiện đồng bộ, lồng ghép các giải pháp, chính sách: Chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm ăn cho 6.378 lượt người; đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho 20.000 lượt lao động; tăng mức vay lên 5 triệu đồng/hộ (mức vay Trung ương quy định: 3 triệu), tăng thời hạn vay lên 5 năm (Trung

63

ương: 3 năm), hạ lãi suất vay từ 0,7%/tháng xuống 0,5%/tháng, tăng lãi suất tiền gửi từ 0,4%/tháng lên 0,7%/tháng; hỗ trợ 10.478 nhà ở cho người nghèo, với kinh phí hỗ trợ 6.480 triệu đồng và nhiều chính sách, giải pháp khác.

- Giai đoạn 2001-2004: Mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII và Chương trình “Thành phố 5 không" là "Không có hộ đói", giảm nghèo bình quân 1,3%/năm theo chuẩn mới, phấn đấu đến năm 2005 không còn hộ nghèo. Kết quả trong 4 năm (2001-2004), toàn thành phố đã giảm được 9.584 hộ nghèo, bình quân hàng năm giảm 2.400 hộ; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 6,66% năm 2001 xuống còn 0,13% vào năm 2004 và hoàn thành cơ bản mục tiêu giảm nghèo đề ra cho giai đoạn 2001-2005 trước 1 năm. Giai đoạn này, thành phố đã tăng đầu tư cho công tác giảm nghèo; ban hành và tổ chức thức hiện các chính sách và giải pháp hỗ trợ người nghèo đúng đắn, phù hợp hơn với thực tế: Hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm cho trên 14.728 lượt người nghèo; cho 37.000 lượt hộ nghèo và hộ di dời giải toả vay tín dụng ưu đãi, doanh số cho vay là 214,571 tỷ đồng; khám chữa bệnh và cấp, phát thuốc cho 55.026 lượt người nghèo; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 88.554 lượt người; miễn, giảm các khoản đóng góp cho 26.079 lượt học sinh, sinh viên nghèo; đã xoá 3.206 nhà tạm của hộ nghèo và thực hiện đồng bộ các chính sách khác (Bảng 3.4.2, Phụ lục 3.4).

- Giai đoạn 2005-2007: Từ năm 2005, thành phố đề ra chuẩn nghèo mới (cao hơn chuẩn nghèo quốc gia) Theo chuẩn mới này, vào năm 2005, hộ nghèo ở Đà Nẵng điều tra được là 23.242 hộ, chiếm 15,19% tổng số hộ. Qua 3 năm thực hiện, mặc dù chịu nhiều hậu quả nặng nề của thiên tai, lụt, bão (ảnh hưởng của cơn bão số 6 - bão Xangsane năm 2006), số hộ nghèo phát sinh, dịch bệnh, lạm phát, đời sống nhân dân gặp khó khăn, nhưng đã giảm được 18.632 hộ nghèo. Đến cuối năm 2007, số hộ nghèo còn lại là 6.466 hộ, chiếm 4,23% tổng số hộ. Các chính sách, giải pháp đẩy mạnh giảm nghèo giai đoạn này là tín dụng người nghèo, tăng vốn từ ngân sách uỷ thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội để cho hộ nghèo vay vốn. Thực tế cho thấy, hỗ trợ về tín dụng người nghèo là giải pháp có hiệu quả thiết thực nhất, giảm nghèo nhanh và hạn chế tình trạng tái nghèo. Đặc biệt, chính sách đào tạo nghề cho người nghèo được tổ chức trong năm 2007 đã tạo điều kiện cho người nghèo tự tạo việc làm, thoát nghèo (Bảng 3.4.3, Phụ lục 3.4).

- Giai đoạn 2009 - 2012: Sau khi kết thúc chương trình giảm nghèo giai đoạn 2005-2008 (hộ nghèo còn không đáng kể - dưới 1%); Thực hiện Kế hoạch số

64

5586/KH-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2008 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về việc điều tra hộ có mức thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để xác định chuẩn nghèo giai đoạn (2009-2015) có thu nhập 500.000đ/người/tháng trở xuống đối với khu vực thành thị, 400.000đ/người/tháng trở xuống đối với khu vực nông thôn (chuẩn nghèo Quốc gia chưa thay đổi, đến năm 2011 chính phủ mới thay đổi chuẩn nghèo mới bằng chuẩn nghèo Đà Nẵng lúc bấy giờ); đầu năm 2009, toàn thành phố có 32.796 hộ nghèo/227.150 hộ dân, chiếm tỷ lệ: 19,26%; số hộ phát sinh trong kỳ 2.393 hộ; qua 4 năm số hộ thoát nghèo trong giai đoạn là 34.189 hộ, số hộ nghèo còn lại vào cuối năm 2012 là 913 hộ; về trước 02 năm so với kế hoạch đề ra (Bảng 3.4.4, Phụ lục 3.4).

- Giai đoạn 2013-2014: Để chuẩn bị thực hiện đề án giảm nghèo giai đoạn tiếp theo, qua điều tra, phân tích nhu cầu mức sống tối thiểu của dân cư ở các khu vực thành thị và nông thôn về lương thực, thực phẩm và nhu cầu thiết yếu cần cho cuộc sống, Hội đồng nhân dân thành phố đã phê duyệt mức chuẩn nghèo giai đoạn (2013 - 2017) có thu nhập 800.000đ/người/tháng trở xuống đối với khu vực thành thị, 600.000đ/người/tháng trở xuống đối với khu vực nông thôn (chuẩn nghèo quốc gia vẫn ở mức 500.000đ/người/tháng đối với khu vực thành thị và 400.000đ/tháng đối với khu vực nông thôn); đầu năm 2013 thành phố có 22.045 hộ nghèo/242.230 hộ dân, chiếm tỷ lệ 9,10% (trong đó có 2.000 hộ đặc biệt nghèo); số hộ nghèo phát sinh trong kỳ 856 hộ; số hộ thoát nghèo 7.715 hộ; số hộ nghèo còn lại đến cuối năm 2014 là 15.186 hộ, chiếm tỷ lệ 6,27%. Năm 2014, tiếp tục thực hiện các giải pháp của chương trình, đặc biệt thành phố quan tâm đến hộ đặc biệt nghèo (hộ nghèo có mức thu nhập thấp và khó khăn để vượt qua chuẩn nghèo) thành phố ủy thác cho ngân hàng Chính sách xã hội hơn 21 tỷ đồng để cho vay mỗi hộ đặc biệt nghèo mức 30 triệu đồng không tính lãi để tạo sinh kế làm ăn, có hơn 1.000 hộ vay; đồng thời tập trung các giải pháp khác; kết quả giảm được 8.595 hộ nghèo, phát sinh 355 hộ, cuối năm còn lại 6.946 hộ, chiếm 2,87%. Năm 2015, 6.946 hộ nghèo nói trên đã thoát nghèo, về trước 02 năm so với kế hoạch đề ra (Bảng 3.4.5, Phụ lục 3.4). * Kết quả thực hiện các chính sách giảm nghèo

- Qua 10 năm thành phố đã điều chỉnh nâng mức chuẩn nghèo lên 3 lần chuẩn nghèo của thành phố thường đi trước Trung ương từ 3-4 năm. Bằng nguồn lực từ ngân sách, huy động của cộng đồng xã hội hàng năm chi cho công tác giảm

65

nghèo từ 200-250 tỷ đồng, trong đó nguồn từ ngân sách đảm bảo chi trả BTXH hàng tháng, bảo hiểm y tế, giáo dục, vay vốn, nguồn vận động của các tổ chức cá nhân đảm bảo chi hỗ trợ sinh kế, xây nhà sửa chữa nhà, đào tạo nghề, hỗ trợ học bổng, dụng cụ học tập.... Nhờ vậy, số hộ thoát nghèo hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu HĐND thành phố giao từ 20-30%, kết quả thực hiện các giải pháp và tình hình giảm hộ nghèo cụ thể: Chuẩn nghèo giai đoạn 2005 - 2008: Nông thôn 200.000 đồng/ người/tháng, thành thị 300.000 đồng/người/tháng (cao hơn trung ương 40.000 đồng); khảo sát điều tra số hộ nghèo tăng lên 23.242 hộ chiếm tỷ lệ 15,19%. Qua 4 năm thực hiện đã có 21.792 hộ thoát nghèo, số hộ nghèo còn lại 1.450 hộ, tỷ lệ 0,95%; về trước mục tiêu 2 năm; Chuẩn giai đoạn 2009 - 2015: Nông thôn 400.000 đồng/người/tháng, thành thị 500.000 đồng/người/tháng; khảo sát điều tra số hộ nghèo tăng lên 32.796 hộ chiếm 19,26% số hộ. Với mức chuẩn này UBND thành phố Đà Nẵng ban hành QĐ số 09/2009/QĐ-UBND ngày 25/2/2009 phê duyệt Đề án Giảm nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2009 - 2015 với mục tiêu đến cuối năm 2015 cơ bản không còn hộ nghèo. Kết quả 4 năm có 34.276 hộ thoát nghèo, số hộ còn lại cuối năm 2012 là 913 hộ chiếm 0,40% tổng số hộ, về trước mục tiêu 3 năm; Chuẩn nghèo giai đoạn (2013 - 2017): Khu vực nông thôn 600.000 đồng/người/tháng (7.200.000 đồng/người/năm); khu vực thành thị 800.000 đồng/người/tháng (9.600.000 đồng/người/năm). Với mức chuẩn này toàn thành phố có 22.045 hộ nghèo với 89.403 khẩu, chiếm tỷ lệ 9,1%/so với tổng số hộ dân cư. Kết quả cuối năm 2015 thành phố xóa hết hộ nghèo theo chuẩn nghèo thành phố.

3.2.2.3. Thực hiện chính sách giải quyết việc làm và việc làm cho người lao động bị thu hồi đât

* Tình hình lực lượng lao động trong quá trình CNH, ĐTH ở Đà Nẵng - Trong những năm qua lực lượng lao động thành phố tăng nhanh về tỷ trọng

và tốc độ. Năm 2003, lực lượng lao động có 355.820 người, chiếm 47,29% dân số; năm 2008 có 430.207 người, chiếm 49,46% dân số, và đến năm 2014 có 536.650 người, chiếm 52,40% dân số. Tốc độ tăng lực lượng lao động bình quân giai đoạn 2005-2014 là 3,8%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số bình quân (2,8%). Năm 2014, tổng số lao động là 536.650 người; với cơ cấu thủy sản, nông lâm 8,60%, công nghiệp xây dựng 32,75%, dịch vụ 58, 65%. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Đà Nẵng được cải thiện và nâng cao: Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ

66

48,77% năm 2007, lên 53,78% năm 2012. Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật qua đào tạo nghề của lực lượng lao động tăng từ tỷ lệ 22,03% năm 2007 tăng lên 28,31% năm 2012 và 43% năm 2014. Tuy lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng đều như vậy, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu lao động qua đào tạo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố: Qua điều tra lao động việc làm năm 2014, thành phố Đà Nẵng có tỷ lệ thất nghiệp 4,3%, trong đó chưa qua đào tạo chiếm 68,88%, đào tạo nghề dưới 3 tháng chiếm 4,17%, đào tạo nghề có bằng, chứng chỉ nghề chiếm 6,04%, trung học chuyên nghiệp chiếm 6,20%, và đại học, cao đẳng chiếm 14,69%. Điều đó thể hiện vai trò của lực lượng kỹ thuật thông qua đào tạo nghề đối với nền kinh tế rất quan trọng, tỷ lệ sử dụng cao hơn (Bảng 3.5.1 Bảng 3.5.2, Phụ lục 3.5).

- Từ năm 1997 đến năm 2013, để xây dựng và phát triển, thành phố Đà Nẵng đã triển khai hơn 3.000 dự án thu hồi đất với trên 100.000 hộ gia đình phải di dời đến các khu tái định cư, hàng chục ngàn hecta đất nông nghiệp phải chuyển đổi mục đích sử dụng, làm cho nguồn thu nhập quan trọng nhất của người nông dân trong nông nghiệp bị ảnh hưởng: Giai đoạn 1997 đến 2010, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện thu hồi đất với tổng diện tích 11.488 ha; tổng số tiền chi cho đền bù, giải tỏa các khu dân cư khoảng 5.000 tỷ đồng; tổng số hộ thuộc diện giải tỏa, đền bù hơn 82.000 hộ - trong đó, số hộ giải tỏa thu hồi đi khỏi nơi đang cư trú là 41.282 hộ, số hộ giải tỏa thu hồi một phần là 21.125 hộ, số hộ giải tỏa thuộc diện đất nông nghiệp, lâm nghiệp là 20.333 hộ. Trong 3 năm gần đây (2011 - 2013) thành phố Đà Nẵng đã thu hồi 3.924,06 ha đất nông nghiệp, tổng số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp là 16.313 hộ, số lao động bị mất hoặc thiếu việc làm do thu hồi đất nông nghiệp là 25.752 người, chiếm 55% tổng số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất (25.752 người/ tổng số lao động là 46.772 người) [4, tr.96; 167; 168]. Trong tổng số lao động bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất sản xuất, số lao động đủ việc làm chiếm khoảng 61, 35%, số lao động thiếu việc làm chiếm 34,62% và số lao động không thể kiếm được việc làm là 4,04%. Trình độ chuyên môn của những người bị thu hồi đất, kết quả điều tra thu được với mức độ khá thấp: số người không có trình độ chuyên môn là 84,5 %, số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ có 13,42%, trình độ khác là 2,08%. Điều đó cho thấy, đa số lao động bị thu hồi đất đều không có nghề hoặc có tay nghề thấp, nên việc bố trí việc làm sau thu hồi đất rất khó khăn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai thực hiện các chương trình, chính sách giải quyết việc làm (GQVL) cho lao động bị thu hồi đất.

67

Khảo sát thực tế và qua các báo cáo về việc làm của lao động bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng (chủ yếu ở các quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, huyện Hòa Vang), cho thấy: Thứ nhất, sau khi thu hồi đất tình trạng việc làm của họ khó khăn hơn trước khi thu hồi đất. Thứ hai, việc làm và thu nhập của đa số lao động có đất bị thu hồi không ổn định. Các công việc chủ yếu là phụ hồ, thợ xây, buôn gánh, bán bưng với thu nhập khoảng 1.300.000-1.800.000đồng/tháng. Một số chuyển sang chăn nuôi nhỏ, trồng cây ăn quả hoặc sản xuất tiểu thủ công nghiệp như mây tre đan xuất khẩu, chế biến lương thực, mộc - những công việc này cũng bấp bênh bởi thị trường tiêu thụ không ổn định. Một số ít chuyển sang kinh doanh dịch vụ xung quanh khu công nghiệp như ăn uống, nhà trọ, trò chơi giải trí và chỉ có một số ít lao động trẻ, có tay nghề được tuyển dụng vào các khu công nghiệp là có công việc và thu nhập ổn định hơn. (Bảng 3.5.4, Bảng 3.5.6, Phụ lục 3.5). * Các chính sách giải quyết việc làm ở thành phố Đà Nẵng

Giải quyết việc làm cho cho người lao động nói chung và lao động bị thu hồi đất luôn là sự quan tâm đặc biệt của đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà Nẵng. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách việc làm của Trung ương; Thành phố Đà Nẵng cũng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động bị thu hồi đất, trên địa bàn thành phố: QĐ số 142/2005/QĐ-UBND ngày 03/10/2005 về giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động của thành phố; Đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng trong diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải tỏa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ban hành kèm theo QĐ số 65/2005/QĐ-UBND ngày 24/5/2005 của UBND thành phố; QĐ số 63/2006/QĐ-UBND ngày 27/6/2006 về chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm; QĐ số 22/2011/QĐ-UBND, ngày 22/8/2011 ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 23/2011/QĐ-UBND, ngày 22/8/2011 ban hành quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận lao động vào đào tạo nghề và giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 24/2011/QĐ-UBND ngày 22 tháng 8 năm 2011 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề, chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng

68

thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 2644/QĐ-UBND ngày 09/4/2012 phê duyệt Đề án “Giải quyết việc làm cho người lao động trong độ tuổi lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012 - 2015". * Kết quả giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

- Trong 10 năm qua (2005-2014), Thành phố đã giải quyết việc làm cho 308.695 người, bình quân hơn 30.800 người/năm; tốc độ tăng 3,4%/năm. Năm 2005 thành phố ban hành Đề án “có việc làm” thì các giải pháp, chính sách hỗ trợ trực tiếp trong Đề án “có việc làm” có tác động tích cực trong công tác giải quyết việc làm; ngoài nguyên nhân tăng trưởng của nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp ở Đà Nẵng giai đoạn 2005-2014 có giảm nhưng còn chậm. Năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 5,05%, đến năm 2014 giảm xuống còn 4,3%.

Đơn vị tính: %

5.05 5.065.02

4.955

4.9

4.7

4.6

4.4

4.3

0 00

00

0

0

0

0

0

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014

Năm

lÖ (

%)

Biểu đồ 3.1: Đồ thị tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, 2005-2014 Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

- Giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất luôn là sự quan tâm đặc biệt của đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến năm 2013, để xây dựng và phát triển, thành phố Đà Nẵng đã triển khai hơn 3000 dự án thu hồi đất với trên 100.000 hộ gia đình phải di dời đến các khu tái định cư, hàng chục ngàn hecta đất nông nghiệp phải chuyển đổi mục đích sử dụng, làm cho nguồn thu nhập

69

quan trọng nhất của người nông dân trong nông nghiệp bị ảnh hưởng: Giai đoạn 1997 đến 2010, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện thu hồi đất với tổng diện tích 11.488 ha; tổng số tiền chi cho đền bù, giải tỏa các khu dân cư khoảng 5.000 tỷ đồng; tổng số hộ thuộc diện giải tỏa, đền bù hơn 82.000 hộ - trong đó, số hộ giải tỏa thu hồi đi khỏi nơi đang cư trú là 41.282 hộ, số hộ giải tỏa thu hồi một phần là 21.125 hộ, số hộ giải tỏa thuộc diện đất nông nghiệp, lâm nghiệp là 20.333 hộ. Trong 3 năm gần đây (2011 - 2013) thành phố Đà Nẵng đã thu hồi 3.924,06 ha đất nông nghiệp, tổng số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp là 16.313 hộ, số lao động bị mất hoặc thiếu việc làm do thu hồi đất nông nghiệp là 25.752 người, chiếm 55% tổng số lao động nông nghiệp bị thu hồi đất (25.752 người/ tổng số lao động là 46.772 người) [4, tr.96; 167; 168].Trong tổng số lao động bị ảnh hưởng bới việc thu hồi đất sản xuất, số lao động đủ việc làm chiếm khoảng 61, 35%, số lao động thiếu việc làm chiếm 34,62% và số lao động không thể kiếm được việc làm là 4,04%. Trình độ chuyên môn của những người bị thu hồi đất, kết quả điều tra thu được với mức độ khá thấp: số người không có trình độ chuyên môn là 84,5 %, số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ có 13,42%, trình độ khác là 2,08%. Điều đó cho thấy, đa số lao động bị thu hồi đất đều không có nghề hoặc có tay nghề thấp, nên việc bố trí việc làm sau thu hồi đất rất khó khăn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai thực hiện các chương trình, chính sách giải quyết việc làm (GQVL) cho lao động bị thu hồi đất. Khảo sát thực tế và qua các báo cáo về việc làm của lao động bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng (chủ yếu ở các quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, huyện Hòa Vang), cho thấy: Thứ nhất, sau khi thu hồi đất tình trạng việc làm của họ khó khăn hơn trước khi thu hồi đất. Thứ hai, việc làm và thu nhập của đa số lao động có đất bị thu hồi không ổn định. Các công việc chủ yếu là phụ hồ, thợ xây, buôn gánh, bán bưng với thu nhập khoảng 1.300.000-1.800.000đồng/ tháng. Một số chuyển sang chăn nuôi nhỏ, trồng cây ăn quả hoặc sản xuất tiểu thủ công nghiệp như mây tre đan xuất khẩu, chế biến lương thực, mộc - những công việc này cũng bấp bênh bởi thị trường tiêu thụ không ổn định. Một số ít chuyển sang kinh doanh dịch vụ xung quanh khu công nghiệp như ăn uống, nhà trọ, trò chơi giải trí và chỉ có một số ít lao động trẻ, có tay nghề được tuyển dụng vào các khu công nghiệp là có công việc và thu nhập ổn định hơn (Bảng 3.5.4, Bảng 3.5.5, Phụ lục 3.5).

Để lao động bị thu hồi đất có được một công ăn việc làm ổn định sau thu hồi đất là cả một quá trình với nhiều hình thức, biện pháp tổ chức, nhiều chính sách hỗ trợ cho

70

nông dân bị mất đất được triển khai thực hiện. Với “Đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng trong diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải toả trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” và lồng ghép các chương trình, dự án, hỗ trợ vay vốn, đào tạo nghề đã góp phần giải quyết việc làm cho 22.891 người, chiếm 88,98% so với tổng lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất [4, tr.107] (Bảng 3.5.8, Phụ lục 3.5). Có được kết quả đó là do thành phố đã đa dạng hóa phương thức tạo việc làm cho đối tượng trong diện thu hồi đất sản xuất: Tạo việc làm thông qua các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề (giai đoạn 2011 - 2013 đã duyệt cho vay 4.312 dự án, với tổng số vốn cho vay 91,439 tỷ đồng và đã GQVL cho 5.723 lao động - trong số đó có 68% là lao động nữ và 44,5% là lao động các hộ thuộc diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải tỏa) [4, tr.108; 167; 168]; tạo việc làm thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm và cơ sở dạy nghề (với 60 cơ sở dạy nghề, qua 04 năm 2010-2013, đã tuyển sinh đào tạo nghề cho 7.764 lao động nông thôn lao động di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất và lao động đặc thù khác, với tổng kinh phí đào tạo là 9,535 tỷ đồng - trong đó có 1.396 lao động thuộc diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất sản xuất, với tổng kinh phí đào tạo là 1,773 tỷ đồng. Các ngành nghề đào tạo tập trung vào các ngành nghề phục vụ cho phát triển du lịch của thành phố như nấu ăn, buồng - bàn - bar, lễ tân, điện dân dụng, trồng và chế biến nấm ăn. Số lao động được GQVL trung bình qua các năm chiếm tỷ lệ trên 80% - trong đó, tỷ lệ lao động tự tạo việc làm chiếm 81,50% và 18,50% là lao động được các doanh nghiệp tuyển dụng) [4, tr.117; 167; 168]; tạo việc làm thông qua các doanh nghiệp (trong mười năm qua, 2004 - 2013, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố đã thu hút 233.261 lao động, chiếm 77,84% tổng số lao động được tạo việc làm. Trong đó: Các DNNN trung ương và địa phương tạo việc làm cho 28.708 lao động; các doanh nghiệp dân doanh là khu vực giải quyết việc làm nhiều nhất, đã giải quyết việc làm cho 129.188 lao động, chiếm 55,38% số chỗ làm việc do các doanh nghiệp tạo ra ; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giải quyết việc làm cho 75.365 lao động, số lao động được giải quyết việc làm trong khu vực này tăng nhanh hàng năm, chủ yếu trong các ngành chế biến, may mặc, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất nhựa...); tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động (trong gần 10 năm, 2004 đến 2013 các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố đã đưa 2.817 người đi làm việc ở nước

71

ngoài, trong đó lao động có hộ khẩu tại Đà Nẵng là 559 người) [4, tr.121-122; 167; 168] (Bảng 3.5.9, Phụ lục 3.5).

3.2.2.4. Chính sách có nhà ở trong chương trình “thành phố 3 có” - có việc làm, có nhà ở, có nếp sống văn minh đô thị” của thành phố

* Hệ thống chính sách nhà ở cho người có công và nhà ở xã hội của thành phố - Trên cơ sở QĐ số 22/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở, trong những năm gần đây Thành ủy có chủ trương tiếp tục thực hiện hỗ trợ sửa chữa 1.000 nhà ở cho người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Chủ trương đó được UBND thành phố cụ thể hóa bằng QĐ số 61/2008/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2008 của UBND thành phố Đà Nẵng Về chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đề án hỗ trợ sửa chữa và xây dựng nhà ở cho gia đình chính sách người có công, Kế hoạch số 11344/KH-UBND ngày 11/12/2014 về triển khai hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Từ kết quả chương trình “Thành phố 05 và không”, Đà Nẵng đã mạnh dạn đề ra chương trình “Thành phố 3 có”: có việc làm, có nhà ở, có nếp sống văn minh đô thị. Với quyết tâm đó, chương trình 3 có của thành phố trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đà Nẵng là thành phố dẫn đầu cả nước về chính sách nhà ở xã hội, phát triển quỹ nhà ở xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, giải quyết một phần chính sách an sinh xã hội, tạo bước đột phá thực hiện chính sách có nhà ở, Đà Nẵng đã có nhiều chính sách đột phá để phát triển nhà ở xã hội [69].

Hệ thống chính sách nhà ở xã hội của thành phố Đà Nẵng được thể hiện các văn bản quan trọng sau: QĐ số 140/2005/QĐ-UBND ngày 14 tháng 10 năm 2005 của UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt Đề án Đảm bảo có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 - 2010; QĐ số 3882/QĐ-UBND ngày 26/5/2009 của UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt Đề án Xây dựng 7.000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 4305/QĐ-UBND ngày 10/6/2009 của UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt Đề án Xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên các Trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thuê; QĐ số 42/2012/QĐ-UBND ngày 20/9/2009 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc ban hành Quy chế quản lý sử dụng nhà chung cư do Nhà nước đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

72

Nhìn chung, các chính sách về nhà ở xã hội (NOXH) của thành phố Đà Nẵng phần lớn là cụ thể hóa các chính sách của Trung ương. Tuy nhiên, với mục đích làm thế nào để đảm bảo có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn, Thành phố đã vận dụng và ban hành các quyết định với những điểm khác biệt là: Về hỗ trợ cho đối tượng mua nhà: Đối với cán bộ công chức thực sự khó khăn về nhà ở, Thành phố chủ trương bán căn hộ chung cư theo phương thức thanh toán: trả trước 50%, còn lại 50% trả chậm trong vòng 10 năm. Đối với các trường hợp khác không phải là cán bộ công chức, viên chức (khó khăn về nhà ở, đông nhân khẩu, nhiều thế hệ ở trong một căn hộ,…): Thực hiện bán căn hộ theo phương thức bán trả góp 10 năm, 20 năm [56]. Tiêu chí về điều kiện được tiếp nhận đơn, xem xét giải quyết: Đối tượng xin thuê chung cư thuộc diện ưu tiên 1: Phụ nữ đơn thân thuộc hộ đặc biệt nghèo, hộ nghèo, đang nuôi con; gia đình thuộc hộ đặc biệt nghèo, hộ nghèo; gia đình diện chính sách, có công cách mạng (những đối tượng đang được hưởng chế độ chính sách đối với người có công); cán bộ thuộc diện thu hút của thành phố, đã lập gia đình, đang nuôi con; cán bộ, công chức, viên chức có thời gian công tác từ mười (10) năm trở lên, đã lập gia đình, đang nuôi con. Tất cả các đối tượng kể trên phải thuộc diện đặc biệt bức xúc về chỗ ở: Hiện nay đang ở nhà thuê, ở nhờ do từ trước đến nay chưa có nhà ở hoặc đang ở trong nhà có rất đông nhân khẩu với nhiều hộ gia đình cùng chung sống trên diện tích sử dụng rất chật hẹp. Đối tượng xin thuê chung cư thuộc diện ưu tiên 2: Phụ nữ đơn thân có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con; gia đình thuộc hộ nghèo; gia đình diện chính sách, có công cách mạng (những đối tượng đang được hưởng chế độ chính sách đối với người có công); cán bộ, công chức, viên chức có thời gian công tác từ 5 năm trở lên, đã lập gia đình, đang nuôi con. Tất cả các đối tượng kể trên phải thuộc diện bức xúc về chỗ ở [29]. Như vậy, có thể nói rằng trong những năm vừa qua, bằng hàng loạt các chính sách đã ban hành, thành phố đã từng bước tạo điều kiện để người dân, đặc biệt là các đối tượng xã hội, đối tượng có công với cách mạng và những người có khó khăn về nhà ở có điều kiện tạo lập chỗ ở, góp phần xây dựng cuộc sống văn minh, hiện đại.

* Kết quả xây dựng, hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo và nhà ở xã hội - Hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số: Thành phố đã triển khai có hiệu quả, Đề án hỗ trợ sửa chữa và xây

73

dựng nhà ở cho gia đình chính sách, người có công; Kế hoạch số 11344/KH-UBND ngày 11/12/2014 về triển khai hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho NCC với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số…; với kết quả đạt được: Năm 2014, hỗ trợ sửa chữa, xây mới 950 nhà (trong đó 81 hộ xây mới và 869 hộ sửa chữa với tổng kinh phí hỗ trợ là 22.627 triệu đồng). Năm 2015, hỗ trợ sửa chữa, xây mới là 1.188 nhà (xây mới 201 nhà, sửa chữa 987 nhà), đạt 115,12%, vượt so với kế hoạch 156 nhà (trong đó xây mới vượt 47 nhà; sửa chữa vượt 109 nhà); tổng kinh phí hỗ trợ 32.366 triệu đồng, đạt 119,21%, tăng 5.216 triệu đồng. Trong đó; hỗ trợ sửa chữa, xây mới cho đối tượng chính sách là1.052 nhà (xây mới 188 nhà, sửa chữa 864 nhà); hộ đồng bào dân tộc là 136 nhà (xây mới 13 nhà, sửa chữa 123 nhà). Thành phố Đà Nẵng cũng đã tiếp tục phát động chương trình làm thêm 1.000 ngôi nhà nữa cho gia đình chính sách trong năm 2016 [158]. Giải quyết nhà ở cho hộ nghèo: Từ năm 1997 đến nay, chính quyền thành phố phối hợp cùng với các cấp, ngành, hội đoàn thể và các nhà hảo tâm đã xây dựng cho các hộ nghèo 6.415 căn hộ đại đoàn kết và bố trí 75 căn hộ chung cư; hỗ trợ các hộ nghèo sửa chữa nâng cấp nhà ở, lắp đặt điện nước và hỗ trợ công trình vệ sinh với tổng kinh phí 112.614,23 triệu đồng (không tính căn hộ chung cư). Cụ thể đã xây 6.415 căn nhà đại đoàn kết với tổng kinh phí là 74.374,65 triệu đồng (65%); sửa chữa, nâng cấp 2.265 căn nhà với tổng kinh phí 32.425 triệu đồng (29%); lắp điện nước cho 2.537 hộ với tổng kinh phí 3.979,93 triệu đồng (4%); hỗ trợ công trình vệ sinh cho 646 hộ với tổng kinh phí 1.835 triệu đồng (2%) [61; 69]. Nhìn chung, việc triển khai xây dựng, hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho NCC với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo trong những năm qua luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra. Chất lượng công trình đảm bảo 3 chức năng, tiện sinh hoạt, chống bão và chống lũ. Có được những kết quả và sự thuận lợi như trên trước hết là là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ của Thường trực Thành ủy, Thường trực HĐND, UBND thành phố - trong đó, không thể không kể đến sự hưởng ứng tích cực của UBMTTQ thành phố, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cùng phối hợp, huy động, tham gia hỗ trợ kinh phí; các doanh nghiệp, đơn vị tham gia hỗ trợ kinh phí cùng thành phố thực hiện kế hoạch đã đề ra. Chính quyền, MTTQ Việt Nam ở các địa phương đã sâu sát nắm chắc hoàn cảnh từng hộ gia đình, hướng dẫn cụ thể, theo dõi sát tiến độ sửa chữa, xây dựng và ứng kinh phí kịp thời. Từ thành phố và các địa phương đã chủ động nguồn kinh phí để thực hiện đề; vận dụng ứng ngân sách, đáp ứng kịp thời cho các hộ gia

74

đình triển khai trong lúc các đơn vị chưa vận động kịp. Các hộ gia đình chính sách với tinh thần xã hội hóa “nhà nước và nhân dân cũng làm” đã tham gia đầu tư thêm nguồn kinh phí rất lớn vào để xây dựng, sửa chữa nhà; có gia đình thêm vào 200-600 triệu đồng cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để xây dựng khang trang [169].

- Đà Nẵng cũng là thành phố dẫn đầu cả nước về chính sách nhà ở xã hội, phát triển quỹ nhà ở xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, giải quyết một phần chính sách an sinh xã hội, tạo bước đột phá thực hiện chính sách có nhà ở; Đà Nẵng đã có nhiều chính sách đột phá để phát triển nhà ở xã hội [69]: Hiện thành phố Đà Nẵng đã và đang triển khai xây dựng tổng cộng 258 nhà chung cư với tổng số 20.162 căn hộ. Đến tháng 6 năm 2016, số lượng chung cư đã đưa vào sử dụng là 197 khối nhà chung cư với 11.074 căn hộ - trong đó 178 khối nhà chung cư với tổng số 9.278 căn hộ đầu tư từ nguồn ngân sách thành phố; 19 khối nhà chung cư với tổng số 1.796 căn hộ do các nhà đầu tư xây dựng. Số lượng chung cư đang triển khai xây dựng 24 khối nhà chung cư với tổng số 3.890 căn hộ - trong đó 10 khối nhà với 1.134 căn hộ đầu tư từ nguồn ngân sách thành phố; 14 khối nhà với 2.756 căn hộ do các nhà đầu tư xây dựng [170]. Về ký túc xá sinh viên tập trung và nhà ở công nhân khu công nghiệp: Là một thành phố có nhiều trường đại học, cao đẳng, nhiều khu công nghiệp (Đà Nẵng có 06 Khu công nghiệp tập trung với khoảng 72.000 công nhân lao động và có 23 trường đại học, cao đẳng công lập, dân lập với số lượng sinh viên đang theo học khoảng 75.000) nhu cầu về ký túc xá và nhà ở rất bức thiết. Trên cơ sở QĐ số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của TTCP ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp, Thông tư số 13/2009/TT-BXD ngày 30/6/2009 của Bộ Xây dựng về Hướng dẫn việc cho thuê, quản lý vận hành nhà ở sinh viên và nhà ở công nhân khu công nghiệp; thành phố đã kịp thời triển khai xây dựng các khu KTX sinh viên tập trung và nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp: Khu ký túc xá tập trung phía Tây (gồm 06 khối KTX 05 tầng và 01 nhà Trung tâm sinh viên 3 tầng, tổng số phòng ở là 728 phòng) đã bàn giao, đưa vào sử dụng từ tháng 8/2012.Khu ký túc xá tập trung phía Đông thành phố thuộc khu dân cư Nam Tuyên Sơn (gồm 02 khối KTX 05 tầng và 01 khối KTX 09 tầng, tổng số phòng ở là 418 phòng) đã bàn giao, đưa vào sử dụng từ tháng 7/2013. Ký túc xá tập trung phía Tây thành phố (tại khu đô thị Công nghiệp Hòa Khánh, Đông Nam hồ Bầu Tràm) gồm 06 khối nhà ký túc xá 07 tầng và 01 nhà Trung tâm sinh viên 03 tầng, tổng số 720 phòng đã bàn giao,

75

đưa vào sử dụng từ tháng 9/2014. Hiện đang triển khai xây dựng khu Ký túc xá tập trung phía Tây thành phố mở rộng (tại khu đô thị Công nghiệp Hòa Khánh, Đông Nam hồ Bầu Tràm) gồm 03 khối nhà ký túc xá 05 tầng, 03 khối nhà ký túc xá 07 tầng và 01 khối nhà Trung tâm sinh viên 03 tầng, tổng số phòng ở là 552 phòng. Dự án Khu chung cư cho công nhân và người có thu nhập thấp tại Khu Công nghiệp Hòa Khánh (gồm 08 khối nhà chung cư 12 tầng với 1.496 căn hộ với diện tích đất sử dụng 3,944ha) đã đưa vào sử dụng. Dự án nhà ở công nhân và người lao động tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố (gồm 14 khối nhà chung cư 09 tầng 1 khối trung tâm dịch vụ với 2.112 căn hộ) được triển khai xây dựng tại 03 địa điểm (Khu đô thị công nghiệp Hoà Khánh với diện tích 4.848m2; Khu tái định cư Hoà Hiệp 4 với diện tích 42.874m2; Khu công nghiệp Hoà Cầm với diện tích 18.811m2) với tổng mức đầu tư cho toàn bộ dự án là 1.383 tỷ đồng [170]. Đến nay, tổng số căn hộ đã bố trí 8.603 căn hộ (trong đó; hộ thuộc diện giải tỏa là 4.181 hộ; hộ thuộc diện cán bộ, công chức viên là 1.225 hộ; hộ khó khăn nhà ở là 2.204 hộ; hộ thuộc diện gia đình chính sách là 209 hộ; hộ ở tạm là 48 hộ; hộ cho mượn theo công văn ủy ban là 224 hộ và 56 hộ đã đấu giá mua căn hộ). Tổng số căn hộ đang thực hiện Đề án thí điểm bán nhà ở xã gồm 286 căn hộ (Tính đến ngày 15/07/2016, UBND thành phố có quyết định cho phép bán là là 150 căn hộ - Trong đó 146 hộ đã nộp đủ tiền và đã nhận bàn giao nhà; 04 hộ đang trong thời hạn thực hiện hợp đồng mua nhà - chưa đến hạn nộp tiền) [170]. Ðiểm đặc biệt của chương trình nhà ở xã hội tại thành phố Ðà Nẵng, chưa có địa phương nào trong cả nước thực hiện, là cấp nhà ở không thu tiền cho hộ giải tỏa, tái định cư; miễn giảm tiền thuê nhà cho thân nhân gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng theo mức 50%, 70%, 100% và hộ nghèo ở chung cư được giảm 50%… Ngoài ra, các đối tượng khác thụ hưởng từ chương trình nhà ở xã hội, như phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân (500 hộ được bố trí nhà ở chung cư); sinh viên, học sinh được vào ở những KTX gồm 728 phòng với 6.000 chỗ ở khang trang, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt và học tập.

3.2.2.5. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ

* Chính sách ưu đãi đối với người có công cách mạng ở Thành phố Đà Nẵng Đối với thành phố Đà Nẵng ngoài việc triển khai tốt các chính sách của

Trung ương trên địa bàn, thành phố ban hành một số chính sách bổ sung, mở rộng đối tượng, trợ cấp cho phù hợp với mức sống của nhân dân và khả năng của ngân

76

sách thành phố thông qua các quyết định: QĐ số 61/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 về việc Ban hành quy định về chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, QĐ số 01/2011/QĐ-UBND ngày 10/01/2011 về việc ban hành quy định trợ cấp hằng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% đang hưởng trợ cấp hằng tháng thuộc hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 14/2009/QĐ-UBND ngày 30/5/2009 ban hành Quy định về trợ cấp thường xuyên, đột xuất đối với người có công với cách mạng mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; QĐ số 01/2011/QĐ-UBND ngày 10/01/2011 quy định về trợ cấp hằng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% đang hưởng trợ cấp hằng tháng thuộc hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Kế hoạch số 11344/KH-UBND về triển khai hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số có nhà ở xuống cấp năm 2015.

* Kết quả thực hiện chính sách đối với người có công ở thành phố Đà Nẵng - Trợ cấp cho đối tượng là người có công với cách mạng: Trong 10 năm gần

đây (2005-2014), có hơn 402.100 lượt đối tượng NCC ở thành phố được hưởng trợ cấp ưu đãi một lần và hiện tại đang hưởng trợ cấp thường xuyên 22.618 người. Chính sách trợ cấp thường xuyên: Số đối tượng NCC với cách mạng ở Đà Nẵng hưởng trợ cấp ưu đãi tính đến 01/04/2015 (cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ “Tiền khởi nghĩa”, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người có công giúp đỡ cách mạng Mẹ VNAH, AHLLVT, AHLĐ, đối tượng hưởng trợ cấp chất độc hoá học, các loại ưu đãi khác - tuất từ trần, người phục vụ thương, bệnh binh nặng... ) gồm 101.567 đối tượng quản lý và 22.618 đối tượng đang hưởng trợ cấp thường xuyên (Bảng 3.6.1, Phụ lục 3.6). Kinh phí chi ngân sách Trung ương chi cho sự nghiệp người có công ở thành phố Đà Nẵng năm 2005 là 88.331 triệu đồng (trong đó chi cho thường xuyên: 74.575 triệu; chi một lần: 10.832 triệu, điều dưỡng: 1.831 triệu, chỉnh hình: 101 triệu, chi khác: 989 triệu); năm 2014 là 409.970 triệu đồng (trong đó thường xuyên: 353.528 triệu, một lần: 43.953, điều dưỡng: 7.168 triệu, chỉnh hình: 817 triệu, chi khác: 4.502 triệu) (Bảng 3.6.2, Phụ lục 3.6).

77

Bên cạnh đó, Thành phố Đà Nẵng thời gian qua đã đặc biệt quan tâm đến đời sống của đối tượng chính sách và đã ban hành nhiều chính sách mới bổ sung cho những đối tượng đặc biệt, đối tượng khó khăn: Trợ cấp thường xuyên: Trợ cấp thường xuyên cho đối tượng chính sách mắc bệnh hiểm nghèo, có hoàn cảnh khó khăn; mức 300.000 đồng/tháng từ tháng 6/2009 đến nay (theo Quyết định số 14/2009/QĐ-UBND ngày 31/5/2009). Trợ cấp thường xuyên cho 111 hộ có mức trợ cấp thấp, hoàn cảnh khó khăn; mức 150.000 đồng/tháng (thực hiện từ năm 2004 và đến nay còn 78 người hưởng) theo Quyết định số 170/QĐ-UBND ngày 25/10/2004). Trợ cấp thường xuyên hằng tháng với mức 100.000 đồng/tháng đối với NCC giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% đang hưởng trợ cấp hằng tháng thuộc hộ cận nghèo (theo Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND ngày 10/01/2011). Mỗi năm thành phố chi khoảng 209 triệu bổ sung mức phụng dưỡng cho Bà Mẹ VNAH (mức phụng hiện nay nay là 1.000.000 đồng/tháng/mẹ - trong đó các cơ quan, doanh nghiệp đóng góp 500.000 đồng/tháng; ngân sách thành phố cấp bù đủ 500.000 đồng/mẹ/tháng). Ngoài chế độ trợ cấp, tiền phụng dưỡng, các cơ quan, đơn vị, chính quyền và các đoàn thể còn tổ chức thăm hỏi, tặng quà, tặng các vật dụng gia đình, xây nhà tình nghĩa, hỗ trợ tiền sửa chữa nhà, tổ chức tham quan, nghỉ dưỡng . . . đã thực sự mang lại cho các Mẹ VNAH có cuộc sống ổn định về vật chất và tinh thần. Ngoài ra hằng năm, trong dịp tết Nguyên đán, kỷ niệm ngày Thương binh - liệt sĩ 27/7; thành phố thường xuyên tặng quà, thăm hỏi đối tượng chính sách: Từ năm 1997 đến nay thường xuyên tăng mức và mở rộng đối tượng; bình quân mỗi năm 6 tỷ đồng, năm sau tăng hơn năm trước (năm 2009: 12,4 tỷ đồng và năm 2014: 29 tỷ đồng). Trợ cấp đột xuất: Ngân sách thành phố thường xuyên trợ cấp đột xuất cho đối tượng chính sách có khó khăn đột xuất với mức từ 1 triệu đồng đến 10 triệu đồng/người; hàng năm có hàng trăm xuất được trợ cấp đột xuất. Ngoài ra, sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa trợ cấp khó khăn đột xuất cho hàng trăm đối tượng mỗi năm. Các chính sách khác như nhà ở, công tác mộ nghĩa trang liệt sĩ, thăm hỏi, tặng quà cũng được thành phố quan tâm và ngày càng mở rộng. Chính sách hỗ trợ cải thiện nhà ở: Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quyết định số về hỗ trợ người có công cách mạng cải thiện nhà ở; thành phố đã kịp thời cụ thể hoá bằng 03 Quyết định hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công cách mạng

78

(QĐ số 571/QĐ-UB ngày 23/01/1998; QĐ số 151/2002/QĐ-UB ngày 27/12/2002 và QĐ số 61/2008/QĐ-UBND ngày 31/12/2008). Các QĐ sau thay thế QĐ trước nhằm mở rộng đối tượng và nâng mức hỗ trợ. Với những chính sách này thành phố đã thực hiện rất tốt công tác hỗ trợ cải thiện nhà ở, huy động nhiều nguồn lực cho cải thiện nhà ở đối tượng chính sách hằng năm. Các năm qua đã hỗ trợ cải thiện nhà ở cho 227 cán bộ LTCM và thân nhân của CBLTCM, 127 cán bộ tiền khởi nghĩa và thân nhân CBTKN. Kinh phí hỗ trợ cải thiện nhà ở cho đối tượng chính sách trong 10 năm (từ năm 2005 đến năm 2014) là 242.377 triệu đồng (trong đó xây dựng 700 nhà tình nghĩa là 16.830 triệu đồng; sửa chữa, nâng cấp 6.160 nhà 73.062 triệu đồng; hỗ trợ 4.471 hộ tiền sử dụng đất là 117.192 triệu đồng; miễn giảm theo NĐ 60 cho 612 hộ với kinh phí 32.266 triệu đồng; miễn giảm theo NĐ 61 cho 150 hộ với kinh phí 3.027 triệu đồng). Thành phố cũng đã bố trí 710 lô đất và 180 căn hộ chung cư cho hộ chính sách có khó khăn về nhà ở, đất ở (Bảng 3.6.3. Phụ lục 3.6). Qua số liệu về các hình thức hỗ trợ về nhà, chúng ta thấy sự đầu tư của chính quyền và xã hội đối với việc hỗ trợ NCC cách mạng về nhà ở đã thực hiện một cách quyết liệt và thường xuyên. Thành phố đã xây dựng Đề án hỗ trợ người có công cách mạng về nhà ở và triển khai thực hiện rất tốt, huy động nhiều nguồn lực để thực hiện: Trong năm 2014 thành phố đã hỗ trợ cho 950 hộ gia đình chính sách cải thiện nhà ở (trong đó xây mới 81 nhà và sửa chữa 869 nhà) với tổng kinh phí trên 22,6 tỷ đồng. Tổng kết hỗ trợ sửa chữa nhà năm 2014 thành phố tặng mỗi hộ sửa chữa, xây mới 01 chiếc tivi và các đồ dùng sinh hoạt thiết yếu. Năm 2015 tiếp tục thực hiện Đề án hỗ trợ nhà ở cho đối tượng chính sách, tổng số nhà sửa chữa, xây mới trong năm 2015 là 1.120, (trong đó xây mới 187 nhà và sửa chữa 933 nhà) với kinh phí hỗ trợ 30.515 triệu đồng đồng. Ngoài kinh phí của nhà nước hỗ trợ 20 triệu hoặc 25 triệu hoặc 30 triệu (tùy theo mức độ hư hỏng) cho một nhà sửa chữa và 60 triệu cho một nhà xây mới; bản thân hộ gia đình chính sách cũng đã tự nguyện bỏ thêm vào để thực hiện cho khang trang hơn [69]. Đến cuối năm 2016, Thành phố đã hoàn thành hỗ trợ sửa chữa, xây dựng 1.327 ngôi nhà ở bị hư hỏng, xuống cấp cho người có công (trong đó hỗ trợ sửa chữa 1.030 nhà với mức 20 triệu đồng/nhà và xây mới 297 nhà với mức 60 triệu đồng/nhà) với tổng kinh phí thực hiện dự án khoảng 40 tỷ đồng từ nguồn ngân sách thành phố và vận động [181]. Sau gần 3 năm triển khai chủ trương bảo đảm nhà ở cho NCC với cách mạng, Đà Nẵng đã huy động được

79

gần 100 tỉ đồng để xây dựng, sửa chữa 3.500 căn nhà cho NCC với cách mạng với kinh phí gần 100 tỷ đồng. Ngoài ra, thành phố Đà Nẵng còn bố trí 550 lô đất và 166 nhà chung cư cho gia đình chính sách khó khăn về đất ở, nhà ở. Với cách làm quyết liệt, trách nhiệm, chủ trương bảo đảm nhà ở cho NCC ở Đà Nẵng không chỉ nhận được sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, mà còn thể hiện sự hưởng ứng thực hiện nghiêm túc QĐ số 22/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của TTCP, trở thành địa phương dẫn đầu cả nước trong công tác này. Ðến nay, toàn Thành phố không còn hộ chính sách ở nhà tạm, nhà dột nát, 100% hộ gia đình chính sách có mức sống từ trung bình trở lên so với dân cư nơi cư trú.

Biểu đồ 3.2: Kinh phí hỗ trợ nhà ở

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

3.2.2.6. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế * Chủ trương, chính sách của thành phố về BHXH, BHYT Xác định BHXH, BHYT và BHTN là trụ cột chính của hệ thống ASXH; Thành ủy, UBND thành phố Đà Nẵng đã có những nghị quyết, chương trình hành động, chỉ thị, kế hoạch như Chương trình hành động số 26-CTr/TU ngày 28/5/2013 của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020”; Kế hoạch số 8190/KH-UBND ngày 16/9/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố về triển khai Chương trình hành động số 26-CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị. Bảo

80

hiểm xã hội thành phố cũng đã ban hành Kế hoạch số 909/KH-BHXH ngày 09/8/2013 về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, chỉ đạo Bảo hiểm xã hội quận, huyện chủ động tham mưu Quận ủy, Huyện ủy, UBND quận, huyện ban hành kế hoạch triển khai thực hiện và phổ biến, quán triệt Nghị quyết số 21-NQ/TW đến toàn HTCT cấp quận, huyện, xã, phường.

*Kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: - Về công tác phát triển đối tượng BHXH, BHYT: Xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhằm hướng đến mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân; những năm qua, BHXH thành phố luôn chú trọng đến công tác khai thác mới, mở rộng đối tượng tham gia, nhất là khu vực ngoài quốc doanh. Từ năm 2008 đến nay, mặc dầu tình hình kinh tế của cả nước, của thành phố gặp khó khăn; tuy nhiên, BHXH thành phố đã mạnh dạn đề ra các giải pháp quyết liệt, khả thi, từ đó, cùng với việc mở rộng đối tượng, số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN hàng năm đều tăng: Năm 1995, chỉ có 707 đơn vị với 78.198 lao động tham gia BHXH bắt buộc, thì đến cuối năm 2014, có 5.125 đơn vị với 193.813 lao động tham gia BHXH bắt buộc. Qua 5 năm thực hiện hai chế độ mới là BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp, cho đến nay, toàn thành phố có 776 người tham gia BHXH tự nguyện và 176.876 lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Công tác BHYT và thực hiện lộ trình tiến đến BHYT toàn dân là một trong những điểm nổi bật của thành phố Đà Nẵng: Thực hiện Nghị quyết của Thành ủy, của HĐND, Kế hoạch của UBND thành phố về tổ chức thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, năm 1993 chỉ có 7,5% dân số tham gia BHYT; năm 2010 có 691.816 người có BHYT (tỷ lệ 76,62%); thì đến cuối năm 2014, có 925.321 người có BHYT (chiếm tỷ lệ 92,50% dân số toàn thành phố - trong khi bình quân cả nước chiếm khoảng 71,4% dân số); tăng gần 879.914 người so với năm đầu thực hiện. Trong 5 (2010 - 2014), BHXH thành phố đã triển khai nhiều giải pháp đẩy mạnh việc phát triển đối tượng tham gia các loại hình BHYT nhằm tiến tới BHYT toàn dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng sớm hơn luật định, đặc biệt 02 nhóm đối tượng được đưa vào lộ trình BHYT bắt buộc là: Trẻ em dưới 6 tuổi được tổ chức phát hành thẻ BHYT có giá trị sử dụng từ 01/10/2009 và đối tượng HSSV được thực hiện BHYT bắt buộc từ 01/01/2010 (Bảng 3.7.1, Phụ lục 3.7). Nhìn chung, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong hơn 5 năm

81

thực hiện Luật BHYT số đối tượng tham gia BHYT phát triển khá nhanh, số người tham gia trong năm 2012 là 820.400 người (bao gồm đối tượng thuộc lực lượng vũ trang và thân nhân quân đội), so với năm 2010 tăng 130.033 người (tăng 18,80%), so với năm 2011 tăng 50.167 người (tăng 6,50%). Năm 2014, thành phố có 92,50% dân số tham gia các loại hình BHYT, trong khi bình quân chung cả nước chỉ đạt 71% dân số tham gia BHYT.Đến cuối tháng 5/2016, thành phố Ðà Nẵng có 990.573 người/tổng dân số 1.029.000 người dân tham gia BHYT, đạt tỷ lệ 96,3% - trong khi bình quân chung cả nước chỉ đạt 71,5% dân số tham gia BHYT. Có thể nói, trong điều kiện kinh tế-xã hội địa phương còn khó khăn, nhiều doanh nghiệp khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, một bộ phận người lao động tự do, nông dân, ngư dân mức sống còn thấp nhưng tỷ lệ 96,3% dân số của thành phố tham gia BHYT là một minh chứng đầy sức thuyết phục về sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy, HÐND, UBND thành phố, sự vào cuộc cả hệ thống chính trị thành phố, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Y tế và ngành BHXH thành phố.

- Về công tác giải quyết chế độ chính sách BHXH, BHTN: Trong 20 năm qua, BHXH thành phố đã tiếp nhận, thẩm định, xét duyệt hàng chục nghìn hồ sơ hưởng chế độ BHXH hàng tháng, hồ sơ hưởng chế độ BHXH một lần, hơn 1 triệu lượt người hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe. Công tác lưu trữ hồ sơ từ phương pháp thủ công, đến nay đã lưu trữ theo phương pháp “giá, tầng, hộp” và trên phần mềm ứng dụng, đã góp phần làm tốt công tác quản lý hồ sơ đối tượng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH được nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Đã chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng với tổng số tiền trên 15.000 tỷ đồng; lương hưu và trợ cấp BHXH thường xuyên luôn đảm bảo nhận trước ngày 10 hàng tháng, chấm dứt hẳn tình trạng trả chậm lương hưu và trợ cấp BHXH như những năm trước 1995, đặc biệt, khi nguồn chi trả từ quỹ BHXH tăng lên thì nguồn chi từ Ngân sách Nhà nước được giảm dần, nếu như năm 1995 nguồn chi trả từ ngân sách nhà nước chiếm 91,22% tổng chi BHXH bắt buộc, thì đến hết năm 2014 chỉ còn 23,20%. So với năm 1995, số tiền chi trả các chế độ BHXH, BHYT năm 2014 tăng gần 1.000 lần. Riêng trong năm 2014, tổng số tiền chi trả các chế độ là 3.245 tỷ đồng và cho đến nay, BHXH thành phố đang quản lý 40.218 người hưởng chế độ BHXH thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra BHXH

82

thành phố còn chủ động phối hợp ngành LĐ- TB & XH, ngành Y tế, ngành GD & ĐT thành phố trong công tác tuyên truyền, thanh kiểm tra, đổi mới phương thức hoạt động, mà trọng tâm là nâng cao chất lượng dịch vụ lĩnh vực BHXH, BHYT, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và người dân. Hệ thống phát hành thẻ BHYT được mở rộng dưới nhiều hình thức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia, bước đầu hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, thành phố đã có chính sách đặc thù hỗ trợ người bệnh và cơ sở khám chữa bệnh BHYT nâng cao chất lượng KCB như hỗ trợ bệnh nhân nghèo chạy thận nhân tạo, Quỹ "Vì người nghèo" hỗ trợ người nghèo mắc bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo.

- Chính sách bảo hiểm y tế có tính chất hỗ trợ theo lĩnh vực an sinh xã hội (tổng số người tham gia không tính đối tượng thuộc LLVT và người nghỉ ốm đau, thai sản có sử dụng thẻ BHYT): Năm 2010 có 691.816 người, trong đó hưu trí, mất sức lao động là 29.118 người, người có công là 13.121 người, người nghèo là 13.121 người, trẻ em là 99.195 người và đối tượng khác là 436.576 người. Năm 2014, có 845.567 người, trong đó hưu trí, mất sức lao động là 37.353 người, người có công là 11.153 người, người nghèo là 79.823 người, trẻ em là 107.662 người và đối tượng khác là 609.576 người (Bảng 3.7.3, Bảng 3.8.4, Phụ lục 3.7).

3.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG THỜI GIAN QUA 3.3.1. Những mặt thành công

- Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ, Chính quyền Thành phố, sự đồng thuận của người dân, Đà Nẵng đã rất thành công trong thực hiện chính sách ASXH: Nhiều chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, gắn với các chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố đáng sống” được triển khai có hiệu quả, mang đậm tính nhân văn, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và dần hình thành nét văn hóa của thành phố [48, tr.22].Thành công lớn nhất của Đà Nẵng trong quá trình xây dựng và phát triển nói chung và thực thi chính sách an sinh xã hội nói riêng chính là được lòng dân. Bằng những việc làm cụ thể, thiết thực và hiệu quả trên lĩnh vực ASXH, Đà Nẵng đã tạo được sự đồng thuận trong xã hội và chính sự đồng thuận đó đã trở thành nguồn lực to lớn, ủng hộ, cổ vũ sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố, là bệ phóng để Đà Nẵng tăng tốc và cất cánh: Mẫu số chung của sự đồng thuận xã hội là việc thực thi các chính sách phát triển kinh

83

tế - xã hội nói chung và hệ thống chính sách ASXH nói riêng đều hướng đến mục tiêu nâng cao mức sống của người dân. Chính vì vậy, cái thành công nhất ở Đà Nẵng là: “Đảng nói dân tin, Mặt trận đoàn thể vận động dân theo, chính quyền làm dân ủng hộ” [48, tr.22]. Trên lĩnh vực an sinh xã hội, Đà Nẵng đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; các chủ trương, chính sách đề ra phải có lợi cho dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân [48, tr.22-23]. Kết luận số 75/KL-TW ngày 12-11-2013 của Bộ Chính trị đã đánh giá: “10 năm qua, …Các chính sách an sinh xã hội, nhất là chương trình “5 không”, “3 có” đạt kết quả tích cực, góp phần cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân” [19]. Báo cáo Phát triển con người Việt Nam về tăng trưởng bao trùm và báo cáo phát triển con người toàn cầu năm 2015 đã đánh giá Thành phố Đà Nẵng (cùng với Thành phố Hồ Chí Minh) có mức phát triển con người cao tương tự như Ba Lan hoặc Croatia - trong đó trọng tâm là việc thực hiện các chính sách ASXH [41].

- Các mặt thành công cụ thể trong việc thực thi hệ thống chính sách ASXH trên địa bàn thành phố trong thời gian qua:

+ Về chính sách giảm nghèo: Ðà Nẵng luôn xem giảm nghèo là bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương với quan điểm muốn giảm nghèo thực sự, muốn giảm nghèo đa chiều phải dùng tổng lực nguồn xã hội; không chỉ nguồn lực tập trung cho hộ nghèo mà phải có nguồn lực đầu tư cho ASXH, phải đảm bảo thoát nghèo thực chất, thoát nghèo bền vững.Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận, các ngành, đoàn thể, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, chương trình giảm nghèo của thành phố được thực hiện một cách toàn diện và đều khắp, đã tác động kịp thời đến các đối tượng nghèo cần được thụ hưởng, mang lại lợi ích thiết thực cho người nghèo: Trong 3 năm 2011 - 2013, với chủ đề “Năm an sinh xã hội”, thành phố tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc; mục tiêu “không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành; Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm (năm 2012), giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm (năm 2015), đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố. Kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo của thành phố Đà Nẵng qua các giai đoạn theo từng cấp độ khác nhau với chuẩn nghèo khác nhau (cao hơn

84

chuẩn nghèo quốc gia - mức chuẩn nghèo mới của Ðà Nẵng được thông qua ngày 9/7/2015 cao gấp gần 3 lần so với mức chuẩn nghèo theo quy định chung của cả nước) và luôn hoàn thành trước kế hoạch đề ra từ 1 -2 năm như đã trình bày là kết quả của việc thực hiện các giải pháp, các chính sách đối với hộ nghèo ở thành phố. Nâng chuẩn hộ nghèo được xem là khâu đột phá của thành phố Ðà Nẵng trong thực hiện chính sách giảm nghèo và điều quan trọng là Ðà Nẵng loại bỏ tư tưởng “giấu nghèo” vì chạy theo căn bệnh thành tích. Bởi trên thực tế không ít địa phương vì áp lực “giảm nghèo”, áp đặt chỉ tiêu mà nhiều hộ chịu oan loại khỏi danh sách hộ nghèo; hoặc nhiều hộ sớm tái nghèo do sự hỗ trợ, chăm lo chưa đến nơi đến chốn.

+ Về nhà ở cho người có công cách mạng, hộ đồng bào dân tộc nhà ở xã hội: Nhà ở cho gia đình chính sách người có công cách mạng và hộ đồng bào dân tộc: Trong các năm thành phố đã triển khai có hiệu quả Đề án hỗ trợ sửa chữa và xây dựng nhà ở cho NCC cách mạng và hộ đồng bào DTTS tại các địa phương; có sự tham gia chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ của cấp ủy đảng, chính quyền và tổ chức hội đoàn thể. Các địa phương đã chủ động và tích cực trong việc thực hiện kế hoạch; tổ chức chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện, giám sát tiến độ thực hiện của từng hộ gia đình NCC cách mạng và hộ đồng bào DTTS, tư vấn giúp gia đình trong việc đưa ra mô hình nhà ở an toàn, chi phí thấp, kịp thời đẩy nhanh tiến độ và chuyển kinh phí kịp thời cho gia đình NCC cách mạng và hộ đồng bào DTTS để thực hiện việc sửa chữa nhà ở. Các hộ gia đình được hỗ trợ đã ý thức được ý nghĩa của nguồn hỗ trợ, đã chủ động huy động thêm vốn từ gia đình và có những ý tưởng hay trong việc sửa chữa nhà ở, qua đó đáp ứng được yêu cầu về chất lượng nhà ở. Kết quả sửa chữa, xây mới nhà ở cho gia đình NCC cách mạng và hộ đồng bào DTTS đều hoàn thành trước thời gian và vượt so với kế hoạch đề ra. Để có được kết quả này, các cấp, các ngành toàn thành phố đã vào cuộc một cách khẩn trương hoặc có những cách làm sáng tạo để có nguồn tiền thực hiện các công trình. Cụ thể là các địa phương đã nắm chắc từng hộ gia đình, hướng dẫn cụ thể, theo dõi sát tiến độ sửa chữa, xây dựng và ứng kinh phí kịp thời. Nguồn kinh phí thực hiện từ thành phố đến địa phương đã chủ động vận dụng ứng ngân sách, đáp ứng kịp thời cho các hộ gia đình triển khai trong lúc các đơn vị chưa vận động kịp. Ngoài ra, xác định những công trình này làm một lần nên các hộ gia đình chính sách được thụ hưởng cũng tham gia tích cực, họ chủ động bỏ thêm nguồn kinh phí để xây dựng, sửa chữa

85

nhà [158]. Về nhà ở xã hội (NƠXH): Đà Nẵng là thành phố được Bộ Xây dựng đánh giá là “…là thành phố đi đầu trong cả nước về công tác quy hoạch, chỉnh trang đô thị, khai thác quỹ đất cũng như làm rất tốt các Chương trình nhà ở trọng điểm của Chính phủ” [61; 69]. Bên cạnh các chủ trương, chính sách chung, Đà Nẵng đã chủ động, sáng tạo mô hình phát triển riêng theo chính sách 3 có, trong đó có “Có nhà ở”. Nhìn chung, các chính sách về NOXH của thành phố Đà Nẵng phần lớn là cụ thể hóa các chính sách của Trung ương, nhưng điểm khác biệt chủ yếu là: Về hỗ trợ cho đối tượng mua nhà: Đối với cán bộ công chức thực sự khó khăn về nhà ở: Thành phố chủ trương bán căn hộ chung cư theo phương thức thanh toán: trả trước 50%, còn lại 50% trả chậm trong vòng 10 năm. Đối với các trường hợp khác không phải là cán bộ công chức, viên chức (khó khăn về nhà ở, đông nhân khẩu, nhiều thế hệ ở trong một căn hộ,…) thực hiện bán căn hộ theo phương thức bán trả góp 10 năm, 20 năm [56]. Như vậy, có thể nói rằng trong những năm vừa qua, bằng hàng loạt các cơ chế, chính sách đã ban hành, chính quyền thành phố đã từng bước tạo điều kiện để người dân, đặc biệt là các đối tượng xã hội, đối tượng NCC với cách mạng và những người có khó khăn về nhà ở có điều kiện tạo lập chỗ ở, góp phần xây dựng cuộc sống văn minh, hiện đại. Các chính sách này đã góp phần tạo ra bộ mặt đô thị ngày càng sạch đẹp (nhiều dự án nhà ở được xây dựng với sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, nhiều khu nhà ở mới khang trang đang dần dần thay thế các khu nhà ở cũ bị xuống cấp, hư hỏng, thay thế các khu nhà ổ chuột, chật chội, mất vệ sinh); người dân được sống trong các khu dân cư có điều kiện tốt hơn về hạ tầng cũng như điều kiện sinh hoạt, góp phần vào việc chỉnh trang đô thị và tạo lập được sự đồng thuận xã hội cao. Chương trình “Có nhà ở” đã thể hiện trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị trong việc tạo lập và phát triển quỹ nhà ở, tạo điều kiện nâng cao chất lượng sống cho cư dân thành phố.

+ Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất: Giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa luôn là sự quan tâm đặc biệt của chính quyền và nhân dân Đà Nẵng. Trong chương trình “3 có” được HĐND thành phố thông qua cuối năm 2009, chương trình có việc làm được ưu tiên hàng đầu. Quan điểm của lãnh đạo thành phố là, chỉ có việc làm ổn định thì người lao động mới có thể an cư lạc nghiệp và lao động bị thu hồi đất mới có thể tiếp tục cống hiến cho xã hội. Hơn nữa, GQVL cho đối tượng này là sự tri ân đối với những hy

86

sinh của hàng chục ngàn hộ gia đình vì sự nghiệp phát triển thành phố văn minh, hiện đại. Thành phố đã và đang triển khai có hiệu quả “Đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng trong diện thu hồi đất sản xuất, di dời, giải toả trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” và lồng ghép các chương trình, dự án, hỗ trợ vay vốn và đào tạo nghề đã góp phần GQVL cho 22.891 người, chiếm 88,98% so với tổng lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất. + Về thực hiện chính sách người có công: Thực hiện chính sách NCC trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua đã đạt được những kết quả hết sức to lớn: Hệ thống văn bản chính sách thành phố ban hành dành cho NCC ngày càng hoàn thiện, toàn diện; không bị bỏ sót, chế độ ưu đãi người có công (qua công tác rà soát hồ sơ chế độ chính sách người có công năm 2014, tổng số hồ sơ người có công không sai sót chiếm 99,99%, chỉ có 01 trường hợp sai sót cần phải điều chỉnh, như vậy công tác quản lý người có công ở thành phố rất chặt chẽ và chính xác, đạt hiệu quả cao). Các chính sách trợ cấp thường xuyên, trợ cấp 1 lần, trợ cấp đột xuất; chính sách hỗ trợ cải thiện nhà ở, chính sách điều dưỡng nâng cao thể trạng cho đối tượng là người có công với cách mạng và các phong trào đền ơn đáp nghĩa, toàn dân chăm sóc NCC… đã đem lại cho đối tượng chính sách ổn định cuộc sống và nâng mức sống lên bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú, trở thành trách nhiệm xã hội, tình cảm và nét văn hoá dân tộc, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực (kinh phí chi trợ cấp thường xuyên chiếm 86,24% trong tổng số kinh phí ủy quyền và sau 10 năm chi trợ cấp thường xuyên tăng 4,74 lần (tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng kinh phí chung, từ 74,57 tỷ năm 2005 tăng lên 353,53 tỷ năm 2014). Thực hiện tốt chính sách NCC cũng đem lại sự đồng thuận xã hội; tạo lập được niềm tin của nhân dân đối với Đảng bộ, chính quyền, MTTQ Việt Nam thành phố. Thành quả đó là kết quả của những chủ trương, chính sách sát hợp của lãnh đạo thành phố cùng với sự nỗ lực của các ban ngành, đoàn thể và sự đồng thuận của toàn xã hội trong công tác chăm sóc đối tượng chính sách “Chế độ trợ cấp của Nhà nước, sự chăm lo của toàn xã hội và sự phấn đấu vươn lên của chính đối tượng chính sách”.

+ Về hoạt động trợ giúp xã hội: Hoạt động trợ giúp xã hội ngày càng hoàn thiện và mở rộng toàn diện hơn, đối tượng thụ hưởng thông qua hệ thống các chính sách xã hội ngày càng nhiều hơn; đặc biệt là đối tượng yếu thế, người nghèo thụ hưởng tỷ lệ ngày càng cao: Thành phố Đà Nẵng là một trong ít tỉnh, thành phố tự cân đối được ngân sách đã chủ động nâng mức trợ cấp hàng tháng cho đối tượng

87

BTXH cao hơn mức quy định của Trung ương (từ 15% - 20%); qua 10 năm thành phố đã điều chỉnh nâng mức chuẩn nghèo lên 3 lần chuẩn nghèo của thành phố thường đi trước Trung ương từ 3-4 năm. Bằng nguồn lực từ ngân sách, huy động của cộng đồng xã hội hàng năm chi cho công tác giảm nghèo từ 200-250 tỷ đồng, trong đó nguồn từ ngân sách đảm bảo chi trả BTXH hàng tháng, bảo hiểm y tế, giáo dục, vay vốn, nguồn vận động của các tổ chức cá nhân đảm bảo chi hỗ trợ sinh kế, xây nhà sửa chữa nhà, đào tạo nghề, hỗ trợ học bổng, dụng cụ học tập. Nhờ vậy, số hộ thoát nghèo hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu HĐND thành phố giao từ 20-30%; trong 10 năm thành phố đã nâng mức chuẩn nghèo lên 3 lần, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm từ 4-5%/năm. Công tác thực hiện chính sách BTXH (chính sách bảo trợ xã hội đối với trẻ em, trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, có hoàn cảnh đặc biệt và phụ nữ nghèo, bất hạnh...) đã có những điểm sáng có tính “đặc thù” thông qua các hoạt động của “Hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh”, “Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi”, “Hội từ thiện và bảo vệ quyền trẻ em”, “Hội nạn nhân chất độc da cam”..., với việc xây dựng các Bệnh viện Phụ nữ, Bệnh viện Ung thư tầm cỡ khu vực để tầm soát, chữa trị miễn phí cho các bệnh nhân nghèo, phụ nữ mắc phải những căn bệnh nan y, ổn định đời sống của những người là nạn nhân chất độc da cam, những người có hoàn cảnh éo le, những người gặp rủi ro, tai nạn lao động, những người mất việc làm do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, những gia đình nghèo, các đối tượng chính sách, thai sản, những người không chăm sóc được bản thân, người khuyết tật có được cuộc sống ổn định.

+ Về hoạt động bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: Đối chiếu với mục tiêu Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020, thì đến cuối năm 2015, thành phố Đà Nẵng đã cơ bản hoàn thành vượt mức trước thời hạn chỉ tiêu về số lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (có 190.870 lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp,chiếm tỷ lệ 35,46%) và chỉ tiêu về số người tham gia BHYT (đến cuối tháng 5-2016, thành phố Ðà Nẵng có 990.573 gười/tổng dân số 1.029.000 gười dân tham gia BHYT; đạt tỷ lệ 96,3%). Có thể thấy với tỷ lệ 96,3% dân số của thành phố tham gia BHYT, dẫn đầu cả nước, là một minh chứng đầy sức thuyết phục về sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Thành ủy, HÐND, UBND thành phố, sự vào cuộc cả hệ thống chính trị thành phố, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Ngành Y tế và ngành BHXH thành phố. Những kết quả và thành tựu mà BHXH thành phố Đà Nẵng đạt được trong 20 năm qua

88

(2005 - 2015) đã góp phần khẳng định: Chính sách BHXH, BHYT là một trong những chính sách xã hội lớn, là trụ cột chính của hệ thống ASXH nước ta, là một chính sách hợp với ý đảng, lòng dân, mang lại ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT là góp phần ổn định đời sống cho nhân dân, là yếu tố quan trọng tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định chính trị xã hội, góp phần phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an ninh. Chủ trương đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước; từng bước xoá bỏ bao cấp và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Góp phần làm cho người lao động và nhân dân nhận thức sâu sắc về chính sách ASXH nói chung, chính sách BHXH, BHYT nói riêng; xoá bỏ sự mất bình đẳng về chế độ BHXH, BHYT giữa những người thuộc biên chế nhà nước và những người thuộc các thành phần kinh tế khác, được thể hiện rõ qua việc số người tham gia BHXH, BHYT tăng nhanh hằng năm, các chế độ BHXH, BHYT đã được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ, an toàn và thuận lợi cho các đối tượng, tạo tiền đề quan trọng để đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước là tiến tới thực hiện BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân.

- Từ kết quả điều tra chọn mẫu do tác giả luận án thực hiện cũng cho thấy, người dân trong diện khảo sát đã đánh giá rất cao những thành quả đạt được từ việc thực hiện các chính sách ASXH:

Bảng 3.1: Ý kiến đánh giá của người dân về hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (2010 - 2015)

Đơn vị tính: %

Mức độ đánh giá Các chính sách

Rất tốt Tốt Bình thường

Không tốt

Rất không tốt

1. Bảo trợ xã hội 10,0 60,0 20,4 6,2 3,4 2. Giảm nghèo 6,2 65,8 24,0 4,0 0,0 3. Giải quyết việc làm 2,5 58,0 21,0 11,0 7,5 4. Chính sách nhà ở 8,0 73,2 14,3 2,5 0,0 5. Ưu đãi người có công 5,0 75,0 20,0 0,0 0,0 6. CS BHXH 2,0 50,0 34,8 12,0 2,2 7. CS BHYT 3,5 80,0 15,0 1,5 0,0

Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu do tác giả luận án thực hiện.

89

Số liệu tổng hợp ở Bảng 3.1 đã cho thấy, nhìn chung, người dân đánh giá rất cao hiệu quả đạt được từ việc thực hiện các chính sách ASXH. Trong 7 loại hình chính sách ASXH cơ bản được nêu ra, mức độ đánh “Rất tốt” và “Tốt” đều chiếm tỷ lệ rất cao (trên 50%). Các chính sách như: Chính sách Nhà ở, Ưu đãi người có công, chính sách BHYT có tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức “Tốt” trở lên chiếm trên 80% (Bảng 3.1). Ở chiều đánh giá “Không tốt” và “Rất không tốt” nhìn chung là tỷ lệ thấp, chỉ có 2 loại chính sách còn có tỷ lệ đánh giá ở 2 mức này chiếm trên 10% là: Giải quyết việc làm (11,0% và 7,5%) và chính sách BHXH (12% và 2,2%) (Bảng 3.1).

Điều được người dân trân trọng và đánh giá rất cao là việc thực hiện các chính sách ASXH nêu trên đã thực sự giúp một bộ phận dân cư khi gặp khó khăn đã có cơ hội vươn lên để ổn định và phát triển đời sống. Kết quả trả lời câu hỏi: “Theo ông/bà, những chính sách ASXH đã tạo điều kiện cho người dân trong diện thụ hưởng chính sách khắc phục khó khăn đề ổn định đời sống hay chưa?” đã khẳng định lợi ích lớn lao mà chính sách đã mang lại.

Bảng 3.2: Ý kiến đánh giá của người dân về điều kiện thuận lợi mà các chính sách an sinh xã hội mang lại

Đơn vị tính: %

Mức độ đánh giá Các chính sách Rất thuận

lợi Thuận

lợi Bình

thường Không

thuận lợi Rất không thuận lợi

1. Bảo trợ xã hội 23,0 60,0 17,0 2. Giảm nghèo 45,0 46,3 8,7 3. Giải quyết việc làm 11,4 48,6 34,0 6,0 4. Chính sách nhà ở 30,0 53,0 9,7 7,2 5. Ưu đãi người có công 55,0 42,0 3,0 6. CS BHXH 11,0 26,0 60,0 3,0 7. CS BHYT 50,0 38,0 5,4 5,0 1,6

Nguồn: Kết quả điều tra chọn mẫu do tác giả luận án thực hiện. Có thể khẳng định rằng, về cơ bản, các chính sách ASXH mà lâu này thành

phố Đà Nẵng thực hiện thực sự là “cứu cánh” cho nhân dân, nhất là tầng lớp yếu thế, đang gặp phải những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống. Trên 90% ý kiến đánh giá tất cả các chính sách trên mang lại điều kiện thuận lợi từ mức độ “Bình thường” trở lên đến “Rất thuận lợi” đã nói lên tất cả. Điều đáng tâm đắc là ngoại trừ 1 chính sách BHXH (có lẽ loại chính sách này chỉ liên quan đến nhóm cán bộ, công chức, viên chức, công nhân) có tỷ lệ đánh giá ở mức “Bình thường”, 6 loại chính sách còn lại có tỷ lệ rất cao đánh giá ở mức “Rất thuận lợi” và “Thuận lợi”.

90

3.3.2. Những mặt hạn chế cần khắc phục Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, song công tác ASXH tại thành Đà Nẵng vẫn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục, cụ thể:

+ Về hoạt động trợ giúp xã hội: Một số vấn đề bức xúc chậm được giải quyết; số người trong diện yếu thế cần sự trợ giúp xã hội còn nhiều; đời sống vật chất tinh thần chưa được nâng cao nhiều, việc làm của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là các xã miền núi, các hộ dân thuộc diện di dời giải toả.Mức độ bao phủ một số chính sách chưa rộng khắp, khả năng tiếp cận của một số nhóm đối tượng còn hạn chế. Mức chuẩn trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội còn thấp chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu tối thiểu của đối tượng. Cơ sở vật chất của các cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố chưa đáp ứng được yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng và cung cấp các dịch vụ cho đối tượng bảo trợ xã hội nuôi dưỡng tập trung. Phần lớn cán bộ, nhân viên làm việc tại các cơ sở BTXH chưa đào tạo về công tác xã hội, nghiệp vụ chuyên môn chưa cao (đơn cử hoạt động của các Trung tâm bảo trợ trẻ em bất hạnh: Chưa tính những cơ sở tự phát và nhà chùa, riêng các Trung tâm bảo trợ trẻ em bất hạnh (có cơ quan chủ quản, hoặc đặt dưới sự giám sát của Sở LĐ-TB&XH thành phố) trên địa bàn Đà Nẵng hiện có 11 cơ sở ngoài công lập và 1 cơ sở công lập (Trung tâm Bảo trợ xã hội thành phố Đà Nẵng). Nếu Trung tâm Bảo trợ xã hội thành phố Đà Nẵng (tại phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu) là cơ sở công lập duy nhất, được ngân sách Nhà nước bao cấp (đang nuôi dưỡng tập trung 582 trẻ em thiệt thòi, bất hạnh); thì 10 trung tâm ngoài công lập còn lại đều hoạt động theo phương thức tự chủ, tự trang trải và tự quyết định. Vấn đề lớn nảy sinh tại các ngoài công lập gồm vấn đề liên quan đến kinh phí hoạt động, mức sống tối thiểu: và giáo dục trẻ: Nhiều năm qua, kinh phí duy trì hoạt động các trung tâm chủ yếu từ nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ; tuy nhiên, các nhà tài trợ đang cắt giảm dần nguồn hỗ trợ, bởi Việt Nam đã thoát khỏi nước nghèo (Cuối năm 2015, Đông Tây hội ngộ, một tổ chức phi chính phủ đồng hành với Làng Hy vọng suốt 22 năm qua, chính thức gửi thư thông báo, nêu rõ nguồn tiền hỗ trợ cho Làng sẽ bị cắt kể từ tháng 6-2016; rằng do tình hình kinh tế toàn cầu khó khăn, việc vận động tài trợ hạn chế nên không thể tiếp tục đồng hành với Làng Hy vọng. Trước đây, mỗi năm, tổ chức Đông Tây hội ngộ tài trợ cho Làng Hy vọng hơn 30.000 USD (660 triệu đồng). Số tiền này giúp

91

Làng nuôi dạy 113 em nhỏ và trả lương cho cán bộ, nhân viên. Bên cạnh đó, Làng Hy vọng còn có 2 nhà tài trợ khác là Hội Phụ nữ dân chủ Nhật Bản và Công ty TNHH quốc tế Unilever Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà tài trợ đều cho biết, trong tương lai gần, nguồn kinh phí dành cho Làng có thể sẽ giảm hoặc không còn)[101, tr.5]. Đời sống vật chất và tinh thần người cao tuổi (NCT) từng bước cũng được cải thiện và nâng lên nhưng so với mặt bằng chung của xã hội, cuộc sống của NCT vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với NCT vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đồng đều... Các hoạt động văn hóa tinh thần chưa được duy trì thường xuyên; các hoạt động văn hoá, thể thao có tổ chức nhưng chưa thật sự phong phú về loại hình, chưa rộng khắp trên tất cả các địa bàn thành phố. + Về lĩnh vực giảm nghèo: Bên cạnh kết quả đạt được nói trên, công tác giảm nghèo vẫn còn khó khăn, hạn chế đó là: Về phân cấp quản lý: Các Ban chỉ đạo (BCĐ) giảm nghèo quận, huyện và BCĐ giảm nghèo các phường, xã hoạt động hiệu quả chưa cao, chủ yếu thành viên BCĐ thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, mỗi thành viên ở mỗi ngành đoàn thể khác nhau nên việc kiểm tra, giám sát chương trình chưa chặt chẽ, còn phiến diện; công tác tuyên truyền và trợ giúp pháp lý còn hạn chế; việc sơ kết, tổng kết đánh giá chương trình một số địa phương chưa kịp thời; động viên khen thưởng đối với hộ thoát nghèo chưa chú ý; việc kiểm tra, đánh giá công nhận hộ nghèo mới, hộ nghèo phát sinh và hộ thoát nghèo một số địa phương chưa đúng qui trình, cả nể, sợ va chạm; có địa phương chưa kiên quyết xử lý đối với hộ nghèo lười lao động, ỷ lại chính sách trợ giúp của nhà nước. Việc điều hành kế hoạch và lồng ghép các chương trình KT - XH với giảm nghèo chưa đạt kết quả cao còn rời rạc; số hộ thoát nghèo nhanh nhưng chưa bền vững. Một số ngành, đoàn thể chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong hoạt động phối hợp, nên chỉ đạo chung chung, vào cuộc chưa quyết liệt; việc báo cáo định kỳ và đột xuất chương trình nghèo còn chậm trễ, thông tin chưa đầy đủ. Một số cán bộ làm công tác giảm nghèo thường xuyên thay đổi, chính sách đãi ngộ còn hạn chế; kinh phí hoạt động BCĐ giảm nghèo còn hạn hẹp; nguồn lực huy động từ các tổ chức, cá nhân... trong những năm gần đây rất khó khăn, do vậy việc triển khai thực hiện chương trình hiệu quả chưa cao. Chưa có nhiều chính sách mang tính chiến lược lâu dài trong công tác giảm nghèo như quan tâm đến trẻ em nghèo, nâng cao nhận thức cho người nghèo, tạo việc làm, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người nghèo.Các

92

chính sách hỗ trợ giảm nghèo còn thiên về hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt hoặc hiện vật, hơn là quan tâm đến việc tạo cơ hội và điều kiện để người nghèo tự nâng cao năng lực vươn lên thoát nghèo bền vững.

- Về lĩnh vực giải quyết việc làm: Mặc dù đã có những thành công nhất định trong quá trình tạo việc làm cho người lao động, song, thực tế cũng cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất phục vụ phát triển CNH, ĐTH ở Đà Nẵng đang đứng trước những bất cập, khó khăn. Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI cũng đã chỉ rõ: “Việc chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho một bộ phận dân cư thuộc diện di dời giải toả thực hiện chưa tốt” [48, tr.19]. Những hạn chế, bất cập thể hiện ở các nội dung: So với tổng số lao động mất việc làm, số nông dân bị thu hồi đất được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp, các khu công nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp. Số lượng nông dân chuyển sang ngành nghề mới còn ít, chất lượng, tính ổn định và bền vững của việc làm cho nông dân bị thu hồi đất chưa cao. Đa số những lao động bị thu hồi đất là lao động giản đơn, chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ ở bất kỳ trường lớp nào; trong khi đó nghề nghiệp đào tạo cho nông dân khi thu hồi đất chưa chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường sức lao động, cho nên người lao động đã được đào tạo nhưng vẫn khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và kết quả xuất khẩu lao động cho nông dân bị thu hồi đất đạt rất thấp (trong 3 năm, 2011-2013, số lao động sau thu hồi đất nông nghiệp đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số lao động có việc làm: 13 lao động/ 22.891 lao động) [4, tr.140; 144; 167; 168]. Nguyên nhân của hạn chế đó là: Nguồn vốn để giải quyết việc làm còn hạn chế. Công tác đào tạo chuyển đổi nghề cho lao động bị thu hồi đất còn nhiều bất cập. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền đối với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất hiệu quả chưa cao. Thiếu một sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các ngành chức năng trong việc giải quyết việc làm cho lao động nhường đất. Sự hỗ trợ của các doanh nghiệp đối với giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất chưa được quan tâm đúng mức. Tính thụ động và tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước của người lao động trong giải quyết việc làm vẫn còn nặng nề.

- Về thực hiện chính sách người có công: Do nguồn thu ngân sách trong những năm gần đây còn hạn chế trong khi đối tượng chính sách của thành phố có số lượng rất lớn (do đã trãi qua các cuộc chiến tranh tàn khốc) nên nguồn lực chưa

93

đảm bảo. Đối tượng NCC ngày càng mở rộng, tuy mức trợ cấp được nâng lên; nhưng vẫn còn một bộ phận lớn đối tượng chính sách cuộc sống còn khó khăn, nhà ở chưa được đầy đủ và kiên cố hóa hoàn toàn. Một bộ phận nhỏ gia đình chính sách chưa nhận thức rõ chính sách, còn có tư tưởng lạm dụng chính sách và một bộ phận cán bộ biến chất lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tiếp tay làm hồ sơ giả để được hưởng chế độ chính sách làm thất thoát nguồn kinh phí. Điều này đã không tạo lập được sự công bằng đối với các gia đình chính sách thật sự cống hiến, đồng thời làm giảm đi giá trị hình ảnh của người có công với cách mạng. Đặc biệt, để ngăn chặn sự lạm dụng đó, gần đây nhà nước ban hành các quy trình nghiêm ngặt hơn, điều kiện hồ sơ chặt chẽ hơn; tuy nhiên, điều này lại mang lại sự khó khăn đối với những người thực sự có công (nhưng hồ sơ bị thiếu, thất lạc) nên không thể giải quyết, đem lại thiệt thòi cho người có công thực sự. Công tác quản lý tài chính và chi trả chế độ đối với chính sách NCC và công tác kiểm tra giám sát cũng còn chưa chặt chẽ, nên một số cán bộ lợi dụng chiếm đoạt kinh phí của nhà nước. - Về hoạt động bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác BHXH, BHYT tuy đã được quan tâm đẩy mạnh hơn trước nhưng chưa được sâu rộng, thường xuyên. Nhận thức của một bộ phận chủ sử dụng lao động, người lao động và nhân dân về BHXH, BHYT còn hạn chế. Một số chủ sử dụng lao động cố tình không tham gia BHXH, BHYT cho người lao động hoặc chỉ tham gia cầm chừng mang tính đối phó, một số khác cố tình chiếm dụng, không trích đóng, để nợ đọng BHXH, BHYT số tiền lớn, thời gian kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động (đến cuối tháng 9/2015, trên địa bàn thành phố, tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN của các tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là 184,8 tỷ đồng). Còn khá nhiều đơn vị ngoài quốc doanh chưa tham gia BHXH, BHYT, tỷ lệ lực lượng lao động tham gia BHXH chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, nhiều chủ sử dụng lao động vẫn cố tình lách luật, tham gia có tính cách đối phó, cầm chừng; người lao động do áp lực về việc làm không dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Chất lượng khám chữa bệnh (KCB) ở một số cơ sở KCB BHYT còn chưa đáp ứng với sự hài lòng của người bệnh BHYT, chưa thực sự đáp ứng được sự hài lòng của người bệnh, thủ tục hành chính trong khám chữa bệnh BHYT còn rườm rà, tình trạng quá tải vẫn xảy ra ở các cơ sở khám chữa bệnh

94

BHYT; vẫn còn tình trạng lạm dụng quỹ BHXH, BHYT; tình trạng các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, có đơn vị nợ kéo dài với số tiền lớn làm ảnh hưởng đến việc giải quyết chế độ chính sách cho người lao động. Đây đó, vẫn còn có ý kiến phản ánh của cơ quan, đơn vị, người tham gia BHXH, BHYT về tinh thần, thái độ phục vụ của những người làm công tác BHXH, BHYT.. [131].

- Về lĩnh vực nhà ở xã hội, nhà ở thu nhập thấp: Việc bố trí chung cư do thành phố quản lý cho hộ giải tỏa, hộ khó khăn về nhà ở trong những năm trước đây là một chính sách an sinh xã hội rất nhân văn. Chính sách này cũng góp phần vào việc đẩy nhanh tiến độ chỉnh trang, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị khang trang, hiện đại. Tuy nhiên, chính sách quá “bao cấp”, thiếu “hậu kiểm” đã làm nảy sinh hạn chế là tình hình sang nhượng căn hộ chung cư trái phép gần đây diễn biến phức tạp (nhiều trường hợp được bố trí căn hộ chung cư của thành phố nhưng khi xây xong nhà riêng vẫn không trả lại nhà, trong đó có cả cán bộ, công chức, viên chức; nhiều hộ giải tỏa được bố trí thuê chung cư nhưng không ở mà cho thuê lại; một số trường hợp đã sang nhượng nhưng người nhận sang nhượng không làm các thủ tục chuyển tên hợp đồng thuê theo quy định - hiện toàn thành phố có 560 căn hộ chung cư có người ở không chính chủ, chưa ký hợp đồng với công ty; đối với các hộ này, công ty không thể thu tiền thuê nhà, có trường hợp đã “ở tạm” hơn 10 năm). Chưa có chế tài xử lý các trường hợp vi phạm sử dụng chung cư thuộc sở hữu nhà nước đối với hộ CBCCVC và hộ khó khăn về nhà ở (quan kiểm tra có khoảng 50% số căn hộ chung cư đã bố trí sử dụng không đúng mục đích - trong đó 1.073 hộ bán nhà ở, 177 căn hộ cho thuê lại,80 căn hộ cho ở nhờ, 53 căn hộ được cho người khác ở tạm, 63 căn hộ bỏ trống không sử dụng, 6 căn hộ bị chiếm ở trái phép) [60, tr.70]. Mặc dù Công ty Quản lý nhà chung cư đã tổ chức tăng cường công tác thu tiền thuê nhà, nhưng đa số các hộ đang ở tại các khu chung cư thuộc đối tượng là hộ nghèo, hộ chính sách, hộ khó khăn về nhà ở nên việc thu tiền thuê nhà còn gặp nhiều khó khăn; mặc khác, do ý thức ỷ lại nên nhiều hộ dân còn chây lỳ, không chấp hành tốt việc thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê nhà hằng tháng; điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thu của đơn vị để phục vụ cho chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị (như kinh phí thường xuyên để vận hành điện chiếu sáng công cộng hành lang, cầu thang, hệ thống bơm nước v.v) [170].

Tuy mức giá nhà thu nhập thấp ở Đà Nẵng thấp hơn nhiều so với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh giá tiền/m2 chỉ bằng 1/2 hoặc 1/3. Tuy nhiên, nhiều

95

người thu nhập thấp vẫn còn nhiều khó khăn mua nhà thu nhập thấp (giá bán căn hộ thuộc khối nhà T1, T2 của chung cư 12 tầng Nại Hiên Đông với diện tích 51,5 m2¨: tầng 2 là 397.715.000 đồng, tầng 12 là 352.006.000 đồng; giá bán căn hộ chung cư Blue House với diện tích 51,02m2: tầng 1 là 403.515.670 đồng, tầng 9 là 255.875.504 đồng). Đối với người có thu nhập thấp, người nghèo theo chuẩn nghèo mà UBND thành phố đưa ra thì có lẽ để có được căn nhà với giá hiện nay quả là một giấc mơ quá xa vời, kể cả là họ được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Đó là chưa nói đến các quy định rất khắt khe hiện nay của ngân hàng khi cho vay ưu đãi với đối tượng này; các quy định về phương thức thanh toán ghi trong hợp đồng mua nhà mang đến không ít khó khăn cho người mua - người có thu nhập thấp [60]. Thủ tục hành chính giải quyết các vấn đề liên quan đến ASXH còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực thi chính sách: Cụ thể là các thủ tục xét duyệt việc mua bán, cho thuê nhà cho người nghèo, người có thu nhập thấp vẫn còn chậm. Quy trình xét duyệt chưa công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, việc xét duyệt thực hiện theo nhiều kênh khác nhau như Sở LĐ - TB và XH, Công ty Quản lý nhà chung cư, Hội LHPN thành phố, HĐND thành phố... Nhiều người dân phàn nàn rằng họ phải đi lại rất nhiều, rồi chờ mấy năm rồi mà vẫn chưa được giải quyết hay phản hồi (hiện nay tại Sở LĐ - TB và XH vẫn còn 1.850 hồ sơ xin mua nhà thu nhập thấp chưa được các cấp có thẩm quyền xét duyệt). Phương thức thanh toán hiện nay chưa linh hoạt và khả thi, nhiều hộ gia đình rất khó khăn về nhà ở không đủ khả năng tài chính để chi trả một lúc số tiền 20- 30% tổng giá trị căn hộ hoặc chi trả tiền góp hàng tháng theo quy định. Các biện pháp mới chỉ ở mức độ hành chính, chưa có các chính sách cụ thể về thuế, tín dụng, điều chỉnh thị trường nhà ở tạo cơ hội cho người thu nhập thấp cải thiện điều kiện ở. Chính sách về thuê nhà dành cho người thu nhập thấp hiện nay vẫn chưa có trong khi nhu cầu thuê nhà rất [60].

3.3.3. Nguyên nhân của kết quả đạt được và hạn chế 3.3.3.1. Nguyên nhân của kết quả đạt được - Thứ nhất, đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ có đường lối đúng đắn và

sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Thành ủy; sự quản lý, điều hành năng động, sáng tạo của chính quyền; sự giám sát chặt chẽ của HĐND, sự phối hợp nhịp nhàng của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng bộ, Chính quyền luôn nêu cao truyền

96

thống đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, tăng cường sức mạnh đồng thuận trong xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, từ đó đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trong quá trình xây dựng và phát triển; Đảng bộ, Chính quyền thành phố luôn đứng trên quan điểm phát triển bền vững: Kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện trong mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020, Đà Nẵng trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống”… “Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của BTV Thành uỷ và các chính sách ASXH đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân” [46; 47, tr.24, 33]. Thành phố Ðà Nẵng được đánh giá là địa phương ban hành nhiều chính sách mang đậm tính nhân văn, nhiều giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, dần định hình nét văn hóa của thành phố, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Chương trình “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có” là những chủ trương lớn được thành phố thực hiện, nhằm hướng đến các mục tiêu ASXH bền vững.

- Thứ hai, chính quyền thành phố đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cơ chế, chính sách và tranh thủ sự quan tâm, hỗ trợ của trung ương, các bộ, ban, ngành; khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương, lựa chọn đúng và chỉ đạo thực hiện có kết quả những vấn đề lớn, mang tính đột phá trong công tác tổ chức thực hiện; huy động được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tranh thủ được nguồn lực bên ngoài để thực hiện mục tiêu ASXH bền vững. Các chính sách, chương trình, kế hoạch về ASXH có mức độ bao phủ rộng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của đối tượng yếu thế cần trợ giúp; đảm bảo tính hệ thống, cân đối, công bằng, tính xã hội hóa và tính bền vững về tài chính; đảm bảo sự đồng bộ giữa việc hoạch định chính sách với kế hoạch triển khai và địa bàn áp dụng; đảm bảo tính nghiêm minh đối với các hoạt động giám sát thực thi chính sách. Bộ máy chính quyền các cấp của thành phố với đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, tâm huyết, chuyên nghiệp hóa với tinh thần trách nhiệm cao

97

“nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, biết dấn thân vì sự nghiệp chung”, công bằng, công khai, minh bạch trong các hoạt động thực thi chính sách ASXH.

- Thứ ba, trên cơ sở phương châm “tương trợ cộng đồng”, “xã hội hóa”, Uỷ ban MTTQ, các tổ chức CT - XH trên địa bàn thành phố đã có nhiều sáng tạo, linh hoạt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Đảng, chính quyền về ASXH: Đã phát động nhiều phong trào, nhiều chương trình hành động, các cuộc vận động (cộng đồng xã hội, của người dân, của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các tổ chức phi chính phủ, các hội đoàn tôn giáo - nhất là hội đoàn Phật giáo), cùng các mô hình tiêu biểu, tạo được sự đồng thuận, tham gia và hưởng ửng nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, phát huy được ý chí tự lực tự cường, quyền làm chủ trong nhân dân góp phần cùng với chính quyền trong giải quyết các yêu cầu bức xúc trong đời sống của nhân dân - nhất là các đối tượng chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo và hộ diện giải tỏa gặp hoàn cảnh khó khăn (mỗi năm, bình quân các cấp MTTQ Việt Nam thành phố vận động khoảng 20 tỷ đồng vào Quỹ vì người nghèo và các tổ chức chính trị - xã hội vận động vào Quỹ an sinh xã hội khoảng trên 200 tỷ). Ðồng thời, MTTQ Việt Nam thành phố cũng thực hiện tốt hoạt động giám sát đảm bảo việc thực hiện chính sách đúng đối tượng, đúng định mức, công bằng, minh bạch. Những hoạt động đó đã góp phần củng cố và làm nổi bật mối quan hệ cốt lõi giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhân dân “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ” [48, tr.22].

- Thứ tư, trên tinh thần xã hội hóa với nguyên tắc “chính quyền và nhân dân đồng lòng, chung sức trong thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn nhằm xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố an bình, đáng sống”; các tổ chức xã hội, hội quần chúng đã có những “đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của thành phố, nhất là trên các lĩnh vực công tác xã hội, nhân đạo, từ thiện” [48, tr.17]. Các chương trình, đề án liên quan đến lĩnh vực ASXH được triển khai trên địa bàn thành phố đều có sự tham gia tích cực và hiệu quả của các Hội. Nếu năm 1998 chỉ có 3 hội, đến nay Đà Nẵng có 10 Hội hoạt động trong lĩnh vực ngành như “Hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh”, “Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi”, “Hội từ thiện và bảo vệ quyền trẻ em”, “Hội nạn nhân chất độc da cam”...; với các chương trình “Ðồng hành đi bộ vì nạn

98

nhân chất độc da cam”, “Mùa xuân cho em”, phong trào “Tết vì nạn nhân chất độc da cam”, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, hoạt động gây quỹ “Những trái tim hồng” ; “Bát cháo tình thương”.

- Thứ năm, chính quyền thành phố luôn quan tâm, ưu tiên việc duy trì sự bền vững về tài chính, luôn tính toán kỹ lưỡng khả năng thu - chi , khả năng đảm bảo về tài chính của các Quỹ ASXH và ngân sách thành phố trước khi xây dưng, thực thi các chế độ ASXH; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc chi trả các chế độ cho các đối tượng ASXH của các cơ quan quản lý, chính quyền các cấp (nhất là cấp cơ sở).

3.3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế - Thứ nhất, do tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu, việc sản xuất, kinh doanh

gặp khó khăn, đặc biệt là việc đóng băng thị trường bất động sản khiến nhiều dự án dừng, bỏ triển khai dẫn tới nguồn thu từ đất giảm mạnh - hàng loạt dự án bất động sản quy mô lớn trên địa bàn chung cảnh khó thu hồi vốn hoặc khó khăn nguồn vốn đầu tư nên chưa thể tiếp tục triển khai (có 70% ý kiến của đối tượng khảo sát cho rằng những hạn chế trong quá trình thực thi chính sách ASXH là do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu). Vì thế, việc trích ngân sách của thành phố và việc huy động kinh phí hổ trợ từ các tổ chức, đơn vị, cá nhân gặp nhiều khó khăn, do đó làm hạn chế nguồn lực vận động cho công tác ASXH.

Biểu đồ 3.3: Thu ngân sách của thành phố Đà Nẵng qua các năm Nguồn: Tác giả tổng hợp.

99

- Thứ hai, trong những năm qua do ảnh hưởng của thiên tai (bão lũ, hạn hán, nhiễm mặn) gây ra những hậu quả nặng nề vì thế đối tượng thụ hưởng chính sách ASXH thường xuyên biến động, nhất là nhóm đối tượng yếu thế cần trợ giúp xã hội. - Thứ ba, trong gần 20 năm qua, trên địa bàn thành phố đã thực hiện hàng ngàn dự án lớn nhỏ, gần một trăm nghìn hộ dân đã phải di dời và cũng gần tương ứng số hộ dân được tái định cư trên địa bàn thành phố. Tuy bộ mặt của thành phố ngày càng khang trang, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện hơn; song, bên cạnh đó cũng để lại nhiều khó khăn, nhất là việc thành phố di dời hàng loạt các hộ dân nghèo từ nơi này sang nơi khác, đã tạo cho một số địa phương gánh nặng trong thực hiện an sinh xã hội khai (có 80% ý kiến của đối tượng khảo sát cho rằng những hạn chế trong quá trình thực thi chính sách ASXH là do quá trình đô thị hóa quá nhanh, trong khi khả năng tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất lại có hạn).

- Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của chính sách ASXH có khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan (những người thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai; các văn bản hướng dẫn nhiều khi không được minh bạch, công khai: Các thông tin về nhà ở cho người thu nhập thấp chủ yếu được tuyên truyền qua báo chí địa phương, trong đó nguồn tiếp cận thông tin chủ yếu của người thu nhập thấp là từ tổ dân phố thì rất hạn chế.

- Thứ năm, cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, thống nhất - như quan niệm thế nào là vấn đề hộ thu nhập thấp, hộ nghèo vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau giữa Sở LĐ - TB và XH và Hội LHPN thành phố, Viện Nghiên cứu phát triển KT - XH thành phố Đà Nẵng. Do vậy, vẫn chưa có một đầu mối thống nhất trong việc tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ xin mua, thuê nhà ở xã hội và quản lý nhà ở xã hội. Trước năm 2004, việc bố trí các căn hộ cho các hộ tái định cư tại các khu chung cư (KCC) do các Ban quản lý, các Công ty Nhà nước (thực hiện các dự án đền bù, giải tỏa) thực hiện. Do các Ban, các Công ty này không ký hợp đồng thuê nhà; vì thế, hiện nay Công ty Quản lý nhà chung cư (QLNCC), được thành lập năm 2004, rất khó khăn trong việc thu hồi các căn hộ chung cư sử dụng không đúng mục đích (theo Luật Nhà ở việc bố trí tái định cư bằng căn hộ chung cư do Nhà nước quản lý phải ký hợp đồng thuê nhà). - Thứ sáu, một số chính sách ASXH vẫn còn mang bóng dáng của tư duy bao cấp”: Vẫn còn nhập nhằng trong việc phân biệt nhà ở bố trí tái định cư và nhà ở xã

100

hội; việc bố trí căn hộ do nhà nước quản lý cho hộ giải tỏa không thu tiền thuê, cho phép chuyển đổi tên hợp đồng thuê nữa nên dẫn đến nhiều bất cập trong công tác quản lý nhà chung cư của thành phố hiện nay (có 60% ý kiến của đối tượng khảo sát cho rằng một số chính sách ASXH của thành phố còn mang tính chất bao cấp, nên vẫn còn có hiện tượng một số đối tượng vụ lợi chính sách ASXH ).

- Thứ bảy, việc thực hiện ASXH mặc dù đã tạo được sự quan tâm nhất định của xã hội, nhưng chưa thật sự là phong trào sâu rộng của quần chúng nhân dân, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng trong xã hội nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực bổ sung để thực hiện các mục tiêu mà hệ thống ASXH hướng tới. Vì vậy, mức độ huy động đóng góp của người dân cho việc thực thi các chính sách ASXH còn thấp, chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách.

- Thứ tám, các nguyên tắc của hệ thống ASXH như mọi người dân có quyền an sinh và tiếp cận hệ thống ASXH; tạo sự gắn bó, đoàn kết, liên kết tương trợ giữa các cá nhân, nhóm xã hội; gắn trách nhiệm và quyền lợi, giữa đóng góp và hưởng lợi, khuyến khích mọi người dân, mọi thành phần trong xã hội tham gia chưa được nhận thức một cách đầy đủ: Một bộ phận nhân dân chưa ý thức được sâu sắc trách nhiệm cá nhân trong vấn đề đảm bảo ASXH nên tư tưởng dựa dẫm vào nhà nước, coi ASXH chỉ đơn thuần là “cứu trợ xã hội” có chiều hướng gia tăng: Không ít các hộ dân chưa chấp hành tốt việc thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê nhà hằng tháng; ý thức sử dụng tài sản công cũng như việc tuân thủ nội quy, quy định tại KCC còn hạn chế (tình trạng cạy phá thiết bị bấm gọi tầng thang máy, tiểu tiện trong buồng thang máy, vứt bỏ vật cứng, áo quần rác thải vào bồn vệ sinh và ống thoát nước thải làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước). Vẫn còn hiện tượng cán bộ, công chức, viên chức được bố trí căn hộ chung cư nhưng đóng cửa không ở, thậm chí không hợp đồng, không trả tiền thuê nhà…chưa được xử lý triệt để. Điều này đã làm cản trở việc khuyến khích gắn kết giữa trách nhiệm cá nhân (nỗ lực cố gắng, phấn đấu vươn lên) với hỗ trợ cộng đồng trong giải quyết vấn đề ASXH, nhân tố quan trọng để đảm bảo xây dựng hệ thống ASXH theo hướng bền vững.

- Thứ chín, sự thiếu cơ chế theo dõi và phối hợp trong việc đánh giá làm cho việc đánh giá kết quả thực hiện các chính sách ASXH trở nên khó khăn, chưa có các thông tin đáng tin cậy về những hoạt động và những đòi hỏi cần hoàn thiện.

101

Tiểu kết chương 3 Trong quá trình xây dựng và phát triển, Đà Nẵng, bên cạnh những thành tựu

nổi bật về phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị, thành phố Đà Nẵng còn được biết đến là địa phương ban hành nhiều chính sách mang đậm tính nhân văn, nhiều giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, dần định hình nét văn hóa của thành phố, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Chương trình “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có”, Thành phố “4 an” là những chủ trương lớn được thành phố thực hiện, nhằm hướng đến các mục tiêu an sinh bền vững. Bằng những việc làm cụ thể, thiết thực và hiệu quả trên lĩnh vực ASXH, Đà Nẵng đã tạo được sự đồng thuận trong xã hội và chính sự đồng thuận đó đã trở thành nguồn lực to lớn, ủng hộ, cổ vũ sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố, là bệ phóng để Đà Nẵng tăng tốc và cất cánh.

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, song hoạt động thực thi chính sách ASXH tại thành Đà Nẵng vẫn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục, cụ thể: Đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận nhân dân các xã miền núi, các hộ dân thuộc diện di dời giải toả vẫn còn khó khăn. Chưa có nhiều chính sách mang tính chiến lược lâu dài trong công tác giảm nghèo bền vững; nâng cao nhận thức cho người nghèo, tạo việc làm, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người nghèo. Việc giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng vẫn còn những hạn chế do nguồn vốn để giải quyết việc làm còn hạn chế; công tác đào tạo chuyển đổi nghề cho lao động bị thu hồi đất còn nhiều bất cập; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền đối với vấn đề giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất hiệu quả chưa cao; sự hỗ trợ của các doanh nghiệp đối với giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất còn hạn chế; tính thụ động và tâm lý sự ỷ lại, trông chờ vào nhà nước của người lao động trong giải quyết việc làm vẫn còn nặng nề. Vẫn còn tình trạng lạm dụng quỹ BHXH, BHYT; tình trạng các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, có đơn vị nợ kéo dài với số tiền lớn làm ảnh hưởng đến việc giải quyết chế độ chính sách cho người lao động… Để Đà Nẵng trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống, thành phố 4 an... cần có những giải pháp có tính toàn diện nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục hạn chế, bất cập đã nêu.

102

Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ

ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở ĐÀ NẴNG

4.1.1. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Mặc dù kinh tế thành phố trong những năm qua “duy trì mức tăng trưởng

khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển”; tuy nhiên “Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, tích lũy để tái đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển...Việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn” [48, tr.23]. Đặc biệt, nguồn vốn huy động từ khai thác quỹ đất bị giảm sút mạnh: Nếu so với năm 2011, nguồn thu từ đất của Đà Nẵng lên đến 5.102 tỉ đồng (đạt 138% kế hoạch); thì những năm trở lại đây, đất không còn là chiếc “phao” cho nền kinh tế của địa phương này nữa: Năm 2012, thu tiền sử dụng đất khoảng 1.300 tỷ đồng (chỉ đạt hơn 37,1% kế hoạch và giảm hơn 3.800 tỷ đồng so với năm 2011), năm 2013 thu 1.928 tỷ và năm 2014 thu 1.750 tỷ, năm 2015 thu 1.952 - giảm hơn 3.000 tỷ so với năm 2011). Điều này đã gây mất cân đối nghiêm trọng về nguồn vốn đầu tư bố trí cho các dự án trọng điểm có liên quan đến hạ tầng và ASXH [78, tr.3]. Tình hình đó đã ảnh hưởng nhất định đến khả năng cân đối và sử dụng các nguồn lực của hệ thống ASXH

4.1.2. Tác động của tốc độ đô thị hóa và áp lực của dân số, lao động, việc làm và nhà ở xã hội

- Do tốc độ đô thị hóa nhanh, một số lượng lớn dân ở nông thôn di cư ra thành phố, làm cho số lượng dân cư ở thành phố tăng nhanh một cách đột biến, mật độ dân cư dày đặc gây mất cân đối giữa đô thị và nông thôn (dân số Đà Nẵng năm 2014 là 1.007.425 người, mật độ dân số là 784 người/km2, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 541.181 - trong đó lao động ở thành thị là 463.171 người và nông thôn là 78.010 người. Dự báo đến năm 2020 khoảng 1,38 triệu người - trong đó, dân số thành thị chiếm khoảng 92% vào năm 2020) [32, tr.19, 42]. Điều này đã đặt ra những vấn đề nan giải cần giải quyết như công ăn việc làm, nhà ở và tệ nạn xã hội phát sinh làm cho trật tự xã hội ngày càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.

103

- Dự báo dân số thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 là 1.377.260 người; với tốc độ bình quân lực lượng lao động (LLLĐ) các năm thời kỳ 2016 - 2020 là: 2016 là 576.763 người, 2017 là 597.930, 2018 là 619.874 người, 2019 là 642.623 người và 2020 là 666.207 người (Bảng 4.1, Phụ lục 4). Như vậy, LLLĐ thành phố trong những năm tới tiếp tục tăng, tốc độ tăng bình quân 3,67%/năm (cả nước tăng 2,4%) và chiếm 50,33% dân số vào năm 2020, bổ sung mới vào LLLĐ thành phố khoảng 148.555 người; bình quân hàng năm bổ sung 21.200 lao động, đây là nguồn cung lao động lớn, cần đào tạo và giải quyết việc làm. (Bảng 4.3, Phụ lục 4).

- Dự báo đến năm 2020, nhu cầu về nhà ở nói chung và nhà ở xã hội nói riêng sẽ là rất lớn do các nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, với tốc độ đô thị hóa cao, do đó sẽ kéo theo một số lượng lớn người từ nông thôn ra thành phố kiếm việc làm. Thứ hai, trong các năm tới, điều kiện KT- XH và thu nhập của các hộ gia đình sẽ có bước tiến đáng kể, các hộ gia đình sẽ có nhu cầu nâng cao chất lượng tiện nghi và tăng diện tích sử dụng nhà ở. Diện tích nhà ở bình quân trên đầu người tại khu vực đô thị năm 2015 là khoảng 26 m2 sàn/người, năm 2020 dự báo là khoảng 29 m2 sàn/người. Năm 2009, dân số Đà Nẵng là 684,85 ngàn người và 227,15 ngàn hộ, bình quân 3,9 nhân khẩu/hộ; dự báo dân số Đà Nẵng đến 2020 là 1.377.260 người và khi đó số lượng hộ gia đình sẽ tăng tương ứng đến năm 2020 là 276,92 ngàn, tức là tương đương 49,77 ngàn căn hộ. Thứ ba, , hiện nay vẫn còn hơn 10.000 hộ gia đình ở Đà Nẵng đang thực sự bức xúc về nhà ở; đó là chưa kể tới hàng chục nghìn hộ dân trong các dự án chỉnh trang đô thị của thành phố đang chờ tái định cư. Như vậy, giả định nếu xây dựng hết 20.162 căn hộ theo đúng kế hoạch mục tiêu đề ra thì vẫn còn thiếu rất nhiều. Đó là chưa kể nhà của các đối tượng là công nhân tại các KCN và học sinh, sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn thành phố (Phụ lục 4).

4.1.3. Tác động về sự biến động của đối tượng người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, vấn đề giảm nghèo, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế

- Người có công cách mạng: Sự biến động của đối tượng người có công phụ thuộc vào 2 yếu tố thời gian và chính sách. Xét về mặt thời gian đối tượng NCC cách mạng luôn có xu hướng giảm đi (do thời gian và tuổi tác). Người có công cách mạng hưởng trợ cấp hằng tháng giảm dần (giảm tự nhiên và tăng cơ học) dự báo đến cuối năm 2020 còn 9.413 người. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khả năng nguồn lực từ ngân sách nhà nước hỗ trợ người có công ngày càng đảm bảo hơn, nên Đảng và Nhà nước thường xuyên có chính sách mở rộng đối tượng, do

104

đó tăng đối tượng được hưởng chính sách. Với quan điểm không những nâng cao mức sống NCC để bản thân và gia đình họ có mức sống trên mức trung bình của xã hội; thành phố Đà Nẵng đã đề ra mục tiêu 100% hộ chính sách có mức sống cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Hơn thế nữa, gần đây con cháu của đối tượng người có công đang công tác ở thành phố Đà Nẵng có tâm lý đưa thân nhân của mình (từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và các tỉnh khác) về sinh sống chung với gia đình để có điều kiện chăm sóc tốt hơn, vì vậy đối tượng NCC sẽ tăng lên.

- Bảo trợ xã hội: Theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP quy định các nhóm đối tượng được trợ cấp xã hội (TCXH) thường xuyên với những tiêu chí còn giới hạn (chưa mở rộng) và với các tiêu chí theo Nghị định đó thành phố Đà Nẵng có khoản 1,45% dân số. Tuy nhiên, với mục tiêu xây dựng “thành phố đáng sống”, thành phố đã ban hành QĐ số 19/2008/QĐ-UBND mở rộng đối tượng hơn, nên tỷ lệ người được hưởng TCXH nâng lên 1,84% dân số. Dự báo trung ương, thành phố sẽ tiếp tục duy trì các tiêu chí của các nhóm đối tượng xã hội có hoàn cảnh khó khăn và có thể mở rộng thêm vài nhóm đối tượng như hạ thấp độ tuổi ở nhóm người cao tuổi xuống 80 tuổi trở lên (hiện tại 85 tuổi), người bị bệnh hiểm nghèo, ốm đau dài ngày thuộc diện hộ nghèo; nên đối tượng TCXH cũng tăng đáng kể - khoảng 1,85% đến 2,0% dân số (theo chuẩn LHQ từ 1,5% đến 2,5% dân số là phù hợp) và mức trợ cấp sẽ tăng lên theo sự tăng trưởng kinh tế, mức thu nhập bình quân đầu người [16].

- Hộ nghèo và chương trình giảm nghèo: Với chương trình giảm nghèo với mức chuẩn 600.000 đồng/người/tháng ở nông thôn, 800.000 đồng/người/tháng ở thành thị; năm 2015 Đà Nẵng cơ bản xóa được hộ nghèo. Tuy nhiên, với quan điểm xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản; nên thành phố đã ban hành chuẩn nghèo giai đoạn năm 2016 - 2020 là 1.100.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 1.300.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Theo đó, số lượng hộ nghèo đầu năm 2016 theo đó là 31.835 (với 129.024 khẩu), tỷ lệ hộ nghèo trên tổng số là 13.14%. Để đạt được mục tiêu tổng quát là tập trung mọi nguồn lực từng bước cải thiện và nâng cao mức sống của người nghèo, mỗi năm giảm bình quân phải giảm ít nhất 2,62% hộ nghèo để đến năm 2020 thành phố Đà Nẵng không còn hộ nghèo theo chuẩn mới. Điều đó, đòi hỏi sự quyết tâm, nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, Chính quyền và ý thức phấn đấu vươn lên thoát nghèo của bản thân hộ nghèo ở thành phố [16].

105

- Người cao tuổi: Sự già hóa dân số sẽ dẫn đến tỷ lệ người cao tuổi (NCT) thành phố tăng lên (nếu 2012 tỷ lệ người cao tuổi là 7,5% so với tổng số dân số; thì năm 2015 là 8,2% và dự báo năm 2020 là 8,4%). Những thay đổi này, đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho NCT; đòi hỏi nhiều chi phí trong chăm sóc y tế (nhất là các đối tượng NCT mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn), chỗ ở (với NCT cô đơn không nơi nương tựa bị rơi, lang thang) và địa điểm sinh hoạt văn hóa (câu lạc bộ thơ ca, CLB dưỡng sinh, CLB bơi lội). Với mục tiêu đặt trong thời gian đến: 100% NCT từ 80 tuổi đến 89 tuổi (không có lương hưu, không có trợ cấp BHXH) và người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên đều được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng, được cấp thẻ BHYT miễn phí; 100% NCT khi ốm đau được khám chữa bệnh và được hưởng chăm sóc của gia đình, cộng đồng, đảm bảo NCT được ưu tiên khám chữa bệnh miễn phí; hình thành từ 3-4 khoa lão khoa tại các bệnh viện lớn hoặc tại các trung tâm y tế quận, huyện; 95% NCT tham gia sinh hoạt tại các hội NCT; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng chăm sóc sức khỏe cho 80-90% cán bộ y tế tại các trung tâm y tế quận, huyện và đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tại các xã, phường để chăm sóc NCT tốt hơn; 100% NCT cô đơn không nơi nương tựa lang thang được đưa vào nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội; phấn đấu duy trì 100% quận, huyện, xã, phường triển khai công tác phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng lồng ghép về chăm sóc sức khỏe cho NCT …, cũng đã đặt ra nhiều áp lực cho thành phố trong việc thực hiện mục tiêu nói trên [16].

- Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: Hiện nay ở TP Đà Nẵng có 188.686 người tham gia BHXH - chiếm 38,9% lực lượng lao động, có 167.157 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp BHTN - chiếm 34,5% lực lượng lao động, có 990.573/ tổng dân số 1.029.000 người dân tham gia BHYT - đạt tỷ lệ bao phủ toàn dân 96,3%.Thành phố xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là: Tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện; thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, trên địa bàn thành phố có 65% lực lượng lao động tham gia BHXH, 50% lực lượng lao động tham gia BHTN, 98% dân số tham gia BHYT (Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI xác định mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, trên 80% dân số tham gia BHYT; sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối Quỹ BHXH, Quỹ BHYT) [16].

106

4.1.4. Tác động của biến đổi khí hậu, lụt bão, hạn hán Là một thành phố ở ven biển miền Trung, dù nhận được rất nhiều lợi ích về

du lịch, khai thác chế biến thủy hải sản...; nhưng Đà Nẵng thường xuyên phải gánh chịu những ảnh hưởng, hậu quả nghiêm trọng của thiên tai như bão, lũ, hạn hán. Vấn đề nhà ở an toàn trước bão, lũ của người dân (nhất là các đối tượng có nhà ở tạm bợ) luôn là một trong những thách thức lớn đối với chính quyền thành phố khi phải đối mặt với các trận bão, siêu bão ngày càng gay gắt hơn. Ngoài ra; các nhà máy thủy điện A Vương, Sông Bung 4, Sông Tranh 2 vì quá tối ưu hóa lợi ích phát điện của mình, không tuân thủ quy trình vận hành liên hồ chứa đã khiến tình trạng thiếu nước sinh hoạt, xâm nhập mặn (vào mùa hè), lũ lụt (vào mùa mưa) gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất của gần 1,7 triệu dân vùng hạ du sông Vu Gia (trong đó Ðà Nẵng với gần 1 triệu dân). Ðiều này cũng đã gây áp lực trong việc tìm kiếm các giải pháp phòng ngừa, ứng phó khẩn cấp, hỗ trợ sau thiên tai cho các hộ nghèo.

4.2. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

4.2.1. Quan điểm định hướng chung của Đảng, Nhà nước ta và của Đảng bộ, Chính quyền thành phố Đà Nẵng về an sinh xã hội

- Các chính sách xã hội nói chung và ASXH nói riêng trong giai đoạn hiện nay thể hiện thông qua cương lĩnh, nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, dài hạn và các chương trình mục tiêu quốc gia như Nghị quyết Ðại hội XI, XII của Ðảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, Chiến lược ASXH Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020” của Bộ Chính trị… Trong đó trọng tâm là những quan điểm được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khóa XI: “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”.

- Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị "Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Kết luận số 75/KL-TW của Bộ Chính trị ngày 12 tháng 11 năm 2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Quyết định số 1866/QĐ-TTG ngày 8 tháng 10 năm 2010 của TTCP phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển

107

KT - XH thành phố Đà Nẵng đến năm 2020; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) đều nhấn mạnh quan điểm, mục tiêu của công tác ASXH: Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của BTV Thành uỷ và các chính sách ASXH đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo có phương tiện sinh kế để sản xuất; trợ giúp việc học tập, học nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, nhất là các hộ trong diện thu hồi đất sản xuất. Tập trung nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng Đề án giảm nghèo theo chuẩn mới sau khi hoàn thành mục tiêu xóa hộ nghèo hiện nay. Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng; duy trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa phương nơi cư trú. Tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bảo vệ, chăm sóc; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Tiếp tục thực hiện Đề án “Có việc làm”, phát huy hiệu quả hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả các phiên giao dịch việc làm định kỳ, cung cấp thông tin, dự báo, kết nối cung - cầu lao động trong thành phố và các địa phương trong khu vực. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, giải quyết thêm nhiều việc làm cho người lao động và sinh viên tốt nghiệp ra trường. Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2020 giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 3%... Đẩy mạnh thực hiện Đề án “Có nhà ở”, huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; tiếp tục khuyến khích đầu tư xây dựng ký túc xá cho sinh viên, nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp [48, tr.33-34], [17], [139].

4.2.2. Quan điểm của tác giả luận án - Thực thi chính sách ASXH là quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước nói chung và Đảng bộ, Chính quyền thành phố Đà Nẵng nói riêng nhằm nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của nhân dân và phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, chủ yếu.

- Thực thi chính sách ASXH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nói chung; của Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ Việt Nam nói riêng và là quyền lợi, trách

108

nhiệm của toàn xã hội. Nhà nước, Chính quyền thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm ASXH, phúc lợi xã hội cho nhân dân; song phải tạo điều kiện trong việc huy động mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao trách nhiệm và năng lực tự an sinh của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng.

- Hệ thống ASXH phải đa dạng, toàn diện, đa tầng, linh hoạt, công bằng, bền vững nhằm không ngừng mở rộng diện bao phủ và hiệu quả của chính sách ASXH sao cho không một người dân nào bị bỏ lại phía sau trong quá trình thực thi chính sách ASXH.

- Phát triển hệ thống ASXH phải đặt trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của thành phố - trong đó ưu tiên người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh đặc thù.

- Nghị quyết, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch của Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ Việt Nam thành phố về ASXH phải được tuyên truyền, tạo lập sự đồng thuận cao “Đảng nói, dân tin; Mặt trận vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ;” và tổ chức thực hiện quyết liệt.

- Phát triển hệ thống ASXH với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực mang tính hội nhập; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng và hợp tác khu vực, quốc tế trong việc thực hiện chính sách ASXH. 4.3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI

4.3.1. Nhóm giải pháp chung 4.3.1.1. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, Chính quyền trong

việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi hệ thống chính sách an sinh xã hội thống nhất, đồng bộ, hiệu quả

Chương trình, kế hoạch thực thi hệ thống chính sách an sinh xã hội thống nhất, đồng bộ, hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động thực thi chính sách ASXH. Vì vậy, cần đảm bảo các điều kiện sau: Thứ nhất, chính sách ASXH phải được cụ thể hoá bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, các kế hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách; xây dựng các đề án, dự án phát triển. Các thủ tục này tạo môi trường cho việc thực thi chính sách, quy định những đòi hỏi và bước đi cần thiết trong việc thực hiện chính sách. Thứ hai; Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách; huy động

109

các nguồn lực (bao gồm nguồn nhân lực, nguồn kinh phí...) từ trung ương, các địa phương, các tổ chức quốc tế. Về nguồn nhân lực, nên hạn chế ở mức ít nhất có thể số lượng cơ quan thực thi chủ yếu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách. Về nguồn kinh phí, nếu không có hoặc không đủ thì không thể thực hiện được chính sách, dù chính sách đó mang ý nghĩa xã hội to lớn. Vì vậy, có thể khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ. Nguồn kinh phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; cơ quan chính quyền cần giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả. Thứ ba; cần tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Trong phân công nhiệm vụ, trên cơ sở mục tiêu của mỗi đề án trong hệ thống chính sách ASXH cần chú ý đến khả năng, tính chất chuyên môn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân; hạn chế tình trạng trùng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. Thứ tư; thường xuyên thanh tra kiểm tra việc thực thi chính sách ASXH. Mục đích của việc thanh tra, kiểm tra là phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm (làm biến dạng hoặc vụ lợi); phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách để kiến nghị với cơ quan thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan. Kinh nghiệm thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng đã cho thấy để “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ” [48, tr.22] thì cần “nắm vững và quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đề ra phải có lợi cho dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân” và đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch triển khai thực thi hệ thống chính sách ASXH thống nhất, đồng bộ, đồng thuận và hiệu quả với thái độ, quyết tâm cao “nói đi đôi với làm” [48, tr.23]. Với mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành một “thành phố hấp dẫn và đáng sống”; Đảng bộ thành phố Đà Nẵng cần tiếp tục có những chương trình hành động cụ thể, thiết thực và hợp lòng dân (như chương trình “Thành phố 5 không; chương trình “Thành phố 3 có” - có việc làm, có nhà ở, có nếp sống văn minh đô thị;

110

“Thành phố 4 an” - an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm và an sinh xã hội). Trên cơ sở các chương trình đó, UBND thành phố cần cụ thể hóa các chương trình ASXH nói trên thành các đề án, các quyết định cụ thể như đã thực hiện thời gian qua (được trình bày trong Chương 3) và có sự phân công cụ thể trách nhiệm của các ban ngành, địa phương trong quá trình thực hiện (như Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở LĐ - TB và XH, Sở Y tế, Sở VH &TT, Sở Du lịch, Sở TT và TT, Sở Tài chính, Công an, UBND các quận, huyện, phường, xã; Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế..). Phát huy vai trò của Viện nghiên cứu phát triển KT - XH và Sở KH và CN thành phố Đà Nẵng trong việc kết nối (với các ban, ngành của UBND thành phố, Học viện Chính trị khu vực III, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng…) đối với việc nghiên cứu, xây dựng các đề án, kế hoạch về chính sách ASXH trên địa bàn thành phố (như Đề án Chính sách nhà ở cho hộ thu nhập thấp, Đề án có việc làm…). Các chương trình kế hoạch ASXH nói trên phải được cụ thể hóa về mục tiêu, lộ trình thực hiện trong tương quan với mục tiêu, lộ trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT - XH của thành phố và thường xuyên được kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện với thái độ quyết tâm cao: Trong những năm qua, tuy thành phố Đà Nẵng phải đối mặt với quá nhiều thách thức vì ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế; nhưng Đảng bộ, Chính quyền thành phố Đà Nẵng vẫn luôn khẳng định quyết tâm “Dù khó khăn nhưng vẫn bám sát mục tiêu “Thành phố đáng sống” - luôn xem trọng và đảm bảo tốt chính sách an sinh xã hội như chỗ ở, việc làm, học hành, khám bệnh, môi trường sống... Đây chính là động lực để Đà Nẵng hiện thực hóa mục tiêu Thành phố đáng sống!” [47], ”... phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại” [48, tr.24], thành phố 4 an (an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm và an sinh xã hội).

4.3.1.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống an sinh xã hội gắn với cộng đồng Giải quyết vấn đề ASXH trong điều kiện nước nghèo, nếu chỉ dựa vào ngân sách sẽ không thể nào đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, việc phát huy sức mạnh tổng hợp dựa trên sự đồng thuận cao của xã hội là điều cần thiết. Trong những năm qua, các chương trình “05 không,03 có” của Thành phố đã nhận được sự đồng thuận cao của người dân. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện vẫn chủ yếu là việc của “nhà nước” chứ người dân chưa thật sự xem là việc của cộng đồng. Để làm cho việc thực hiện các

111

chương trình này thật sự là phong trào sâu rộng của quần chúng nhân dân, cần chú ý các biện pháp sau:

- Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân, làm cho tinh thần tương thân tương ái, tinh thần cộng đồng phải được nâng cao và vững chắc. Thực tế qua khảo sát đối với dân cư trên địa bàn Thành phố cho thấy, công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như các phong trào lớn của chính quyền Thành phố trong thời gian qua vẫn còn những bất cập. Vì vậy, việc phải tăng cường công tác truyền thông nhằm tạo bầu không khí hiểu biết, đồng thuận và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động mang tính chất ASXH của mọi người dân Thành phố trong tương lai là rất quan trọng - đặc biệt, đối với các chương trình “Thành phố 05 không” và “Thành phố 03 có”, “Thành phố đáng sống”, “Thành phố 4 an”.

Công tác tuyên truyền, vận động phải thực sự đa dạng, phong phú và phù hợp với từng loại hình, đối tượng trong hệ thống ASXH như: Tuyên truyền nội dung và mục tiêu của chương trình “05 không”, “03 có”, “04 an”; tuyên truyền các chủ trương, chế độ chính sách và các loại hình bảo hiểm để người dân hiểu biết và lựa chọn - đặc biệt là về các Luật bảo hiểm để mọi người lao động và nhân dân hiểu rõ trách nhiệm, quyền lợi và chủ động tham gia BHXH, BHYT; tuyên truyền, động viên các doanh nghiệp tích cực tham gia thực hiện trách nhiệm ASXH; tuyên truyền về các chế độ chính sách đối với người bị nhiễm chất độc hóa học, người tàn tật và về các tấm gương nạn nhân vươn lên hòa nhập trong cuộc sống; tuyên truyền quốc tế để vận động nhiều nguồn lực và sự đồng thuận trong trợ giúp các nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật khắc phục khó khăn vươn lên hòa nhập trong cuộc sống; nêu gương và vinh danh người có nhiều công lao đóng góp trong việc thực hiện các hoạt động vì mục đích ASXH…

Việc tuyên truyền, vận động phải được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (Đài VTV8, Đài PT - TH Đà Nẵng; Báo Đà Nẵng, Cổng Thông tin điện tử thành phố...); gửi các tài liệu hướng dẫn nghiên cứu chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để tự nghiên cứu và xây dựng chương trình tham gia thực hiện chính sách; mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt, nghiên cứu các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện (hình thức này phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện chính sách). Thực tế cho thấy, những đối tượng là người nghèo thành thị và nông thôn, phụ nữ, trẻ em, thanh niên,

112

người tàn tật và người dân tộc thiểu số thường ít có thời gian, điều kiện để tiếp xúc với phương tiện truyền thông đại chúng, tọa đàm; vì vậy việc tuyên truyền, vận động tốt nhất là thông qua các tổ dân phố tại các khu dân cư. Cùng với các biện pháp tuyên truyền, vận động, thành phố cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh, chế tài bằng pháp luật của chính quyền đối với các doanh nghiệp cố tình sai phạm, không chịu thực hiện trách nhiệm xã hội của mình (như chây lì trong việc đóng BHXH, BHYT cho người lao động).

- Để thực hiện vai trò tổ chức của các cấp chính quyền, cần nâng cao trình độ nhận thức và hiểu biết về pháp luật, về chủ trương, đường lối thực hành ASXH, năng lực quản lý, tổ chức và vận động của cán bộ chính quyền cơ sở, các cán bộ dân vận, giúp cho các đối tượng này có đủ khả năng để tuyên truyền, vận động và giải thích, tư vấn cho người dân. Để làm điều này, thành phố cần có kế hoạch, chương trình cụ thể, đào tạo bài bản cho số cán bộ làm công tác dân vận, công tác mặt trận và các đoàn thể về các kiến thức vận động quần chúng, kiến thức khơi dậy và phát động phong trào trong quần chúng.

- Cần đề cao vai trò vận động, tập hợp và tổ chức của Mặt trận và các tổ chức CT - XH khác trong việc thực hiện các mục tiêu ASXH. ASXH là chủ trương lớn của Đảng, chính quyền thành phố, tuy nhiên việc triển khai thực hiện chủ yếu lại dựa vào sự tự nguyện của người dân (trừ các loại bảo hiểm bắt buộc). Vì vậy, việc tập hợp, lôi kéo được người dân tích cực tham gia đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo thành công cho các chương trình. Chính các tổ chức đoàn thể xã hội, trong đó đứng đầu là MTTQ, sẽ đóng vai trò là người chủ trì tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện trên địa bàn toàn thành phố. Muốn vậy, cần tăng cường năng lực quản lý điều hành, tổ chức cho Mặt trận (có cơ sở vật chất tốt, có con người năng động, có tài tổ chức, có khả năng vận động và thu hút các nhà hảo tâm tham gia): Nên chia các hoạt động quyên góp từ thiện ra thành 02 nhóm, nhóm các hoạt động thường xuyên và các hoạt động theo sự kiện. Đối với các hoạt động có tính chất ổn định, thường xuyên, Mặt trận nên đứng ra là người chủ trì, điều phối nhằm thống nhất đầu mối thực hiện để tránh chống chéo, dẫm đạp nhau. Đối với các hoạt động mang tính chất sự kiện, Mặt trận tham gia đối với tư cách là người điều phối và giám sát, các tổ chức hoặc cá nhân thực hiện sẽ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Mặt trận cần tiếp tục phát huy các hoạt động đồng hành với các hội đoàn thể, tôn giáo (nhất là Phật giáo) trong các hoạt động thiện nguyện.

113

- Khuyến khích phát triển đa dạng, các mô hình ASXH, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào cộng đồng, hỗ trợ phát triển các nhóm cộng đồng (các đoàn thể địa phương, nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình…) trở thành điểm tựa chống đỡ rủi ro cho các hộ nghèo, cận nghèo, các nhóm đối tượng đặc thù; vận động toàn xã hội tham gia các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”, các hoạt động nhân đạo như ngày vì người nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa. Khuyến khích sự ủng hộ của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo ASXH.

- Nghiên cứu các hình thức khen thưởng đối với những tổ chức, các nhân làm tốt công tác ASXH: Hiện nay, các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức làm tốt công tác ASXH cũng đã được xã hội thừa nhận và biểu dương. Tuy nhiên, các hình thức chính thức ở cấp nhà nước còn rất ít và thiếu tính quảng bá. Do vậy, việc nghiên cứu để sớm ban hành một số danh hiệu cho việc khen tặng, vinh danh các nhà hoạt động từ thiện, hoạt động tài trợ, trợ giúp và cứu tế xã hội có tính khích lệ cao là cần thiết. Lãnh đạo chính quyền thành phố nên bố trí thời gian gặp mặt các thành phần nhiệt tình tham gia các chương trình ASXH tại các địa phương để khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất về tinh thần và thủ tục hành chính để phát huy khả năng của các đối tượng này.

- Hình thành 1 kênh (hoặc chuyên mục truyền hình) và trang Website “Vì An sinh xã hội”: Việc thành lập 1 kênh hoặc chuyên mục truyền hình chuyên về lĩnh vực ASXH là cần thiết; nó sẽ là địa chỉ tin cậy để làm đầu mối kết nối các tấm lòng hảo tâm, các tổ chức từ thiện và tất cả cộng đồng xã hội cùng hướng đến lý tưởng cao đẹp “Vì người nghèo”. Kênh truyền hình còn giúp phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; phổ biến các kiến thức cần thiết để những người khó khăn có điều kiện vươn lên hoặc tiếp cận được với sự trợ giúp của xã hội; là nơi để tôn vinh các cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp cho công tác xã hội.Đặc biệt, chú ý việc tiếp tục tuyên truyền về tính nhân văn của chương trình ASXH của thành phố nhằm tạo lập sự đồng thuận rất cao của người dân thành phố trong việc chung tay xây dựng thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn,đáng sống. Trang website chính thức của thành phố cũng nên dành 01 mục chuyên đề về ASXH để thông tin và vinh danh những nhà hảo tâm, những người có nhiều nhiệt huyết cho sự nghiệp ASXH của thành phố.

114

4.3.1.3. Phân công, phối hợp, duy trì, điều chỉnh một cách đồng bộ, kịp thời trong việc thực hiện các giải pháp cụ thể trong hệ thống an sinh xã hội trên địa bàn thành phố

Hệ thống chính sách ASXH thường được thực hiện trên một địa bàn rộng lớn với nhiều loại hình và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi mục tiêu chính sách ASXH là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm, bởi vậy nên cần phối hợp các cấp, các ngành để triển khai chính sách một cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, vì duy trì ổn định. Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố như: chính quyền là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để chính sách được thực thi tốt; đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực thi chính sách. Việc kịp thời điều chỉnh chính sách là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách - việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu…Do đó; cần phân công, phối hợp, duy trì, điều chỉnh một cách đồng bộ, kịp thời trong việc thực hiện các giải pháp cụ thể trong hệ thống ASXH (chính sách ưu đãi người có công, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hỗ trợ xã hội và cơ chế tài chính) trên địa bàn thành phố.

4.2.1.4. Thực hiện nghiêm chỉnh quy định về việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội trên địa bàn thành phố

Việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua đã tạo được sự đồng thuận xã hội lớn trong đa số quần chúng nhân dân là do Đảng bộ, Chính quyền, MTTQ các cấp đã nghiêm chỉnh thực hiện Quyết định số 31/2011/QĐ - TTg ngày 02 tháng 06 năm 2011 của TTCP quy định việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội (Quyết định này quy định về công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về, BHXH, BHYT ; trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; ưu đãi đối với người có công; vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo; hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và cơ sở bảo trợ xã hội; các chương trình xã hội). Cụ thể: Trên lĩnh vực nhà ở xã

115

hội, thành phố đã công bố rộng rãi các tiêu chí và kết quả xét để người dân được biết và giám sát thực hiện, đồng thời có phản hồi, nêu rõ lý do cụ thể cho các đối tượng không được giải quyết được biết; thiết lập kênh thông tin và công bố danh sách các đối tượng được giải quyết nhà ở xã hội lên các phương tiện thông tin đại chúng tại các website của UBND thành phố, Sở Xây dựng, Công ty Quản lý nhà chung cư để kiểm tra, giám sát, tránh trường hợp được xem xét giải quyết nhiều lần. Trên lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; UBND thành phố cũng đã ban hành Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND của UBND thành phố ngày 14 tháng 03 năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. MTTQ Việt Nam thành phố phối hợp với Sở Tư pháp tuyên truyền sâu rộng Quyết định số 1126/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp ngày 26 tháng 05 năm 2016 Ban hành kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho người có công, vùng thường xuyên bị thiên tai.UBND thành phố cũng đã ban hành Quyết định số 32 /2015/QĐ-UBND ngày 09 tháng 11 năm 2015 quy định việc quản lý, sử dụng vốn uỷ thác của ngân sách thành phố tại Chi nhánh Ngân hàng CSXH trong việc cho vay hỗ trợ hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội của thành phố (Đối tượng vay vốn là hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn địa phương và hộ đã thoát nghèo nhưng cần có thêm 03 năm liên tiếp để ổn định và thoát nghèo bền vững; hộ gia đình bị thu hồi đất do di dời, giải tỏa trên địa bàn thành phố; hộ gia đình có thành viên đã chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương sinh sống, đã thực sự cải tạo tiến bộ, có ý thức rõ ràng trong việc quyết tâm hoàn lương, có hoàn cảnh gia đình khó khăn và có nhu cầu vay vốn nhằm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng - gọi tắt là đối tượng hoàn lương). Ban văn hóa - xã hội của HĐND thành phố, thanh tra chính quyền, ngành LĐ - TB và XH thường xuyên thành lập các đoàn công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý đối với việc cấp thẻ BHYT cho hộ nghèo trên địa bàn thành phố và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT…

Có thể thấy rằng; việc xây dựng, thiết kế các chương trình liên quan đến ASXH rất tốt; nhưng trên thực tế nhiều khi triển khai không đạt được mục tiêu đặt ra ban đầu. Một trong những nguyên nhân của thực trạng đó là do những trở ngại từ quá trình thực thi chính sách - trong đó có trở ngại từ chủ thể thực thi chính sách. Cụ thể, nếu việc thực hiện chính sách không kịp thời, không đồng bộ; thiếu công

116

bằng, công khai, minh bạch; không đúng đối tượng và định mức…sẽ gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đơn cử, trên lĩnh vực nhà ở xã hội, thời gian qua ở Đà Nẵng tuy thực hiện tốt chính sách nhà ở xã hội, nhưng vẫn còn những trường hợp cán bộ, công chức được bố trí căn hộ chung cư nhưng không ở và cho thuê lại, (có trên trên 560 căn hộ chung cư do thành phố quản lý bị sang nhượng nhiều lần); điều này không chỉ gây thất thoát lớn nguồn thu tiền thuê nhà cho thành phố mà còn gây bức xúc trong dư luận nhân dân về tính công bằng về lĩnh vực này. Để đảm bảo tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về ASXH đúng mục đích, đúng đối tượng; ngăn chặn những sai phạm và phòng, chống tham nhũng, lãng phí thì việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về ASXH là rất cần thiết. Việc công khai, minh bạch nhằm giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố hiểu đầy đủ, chính xác về mục đích, ý nghĩa, nội dung quy định pháp luật; đối tượng thụ hưởng, thứ tự ưu tiên, trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện quy định pháp luật về ASXH; việc kiểm tra nhằm nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về ASXH, phòng ngừa vi phạm pháp luật và xem xét, đánh giá hiệu quả việc thực hiện quy định pháp luật về ASXH; việc giám sát nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức thực hiện, đảm bảo tính chính xác, kịp thời, hiệu quả việc thực hiện quy định pháp luật về ASXH. Các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo đảm việc thực hiện các quy định về ASXH được áp dụng đúng đối tượng, chế độ, tiêu chuẩn, định mức; kịp thời phòng ngừa sai phạm trong quá trình thực hiện. MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên, tổ chức xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí trên địa bàn thành phố giám sát theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo mục tiêu và hiệu quả của việc thực hiện các quy định pháp luật về ASXH. Công dân, cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phản ánh kịp thời, trung thực những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quy định pháp luật về ASXH [140].

4.3.2. Nhóm những giải pháp cụ thể 4.3.2.1. Đối với chính sách ưu đãi người có công, thương bệnh binh, gia

đình chính sách Thực thi chính sách ưu đãi NCC cách mạng phải được xác định đó là trách

nhiệm của Đảng, chính quyền địa phương và của toàn dân nên phải thường xuyên và nó phải được thể hiện rõ trong nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế của thành

117

phố, chương trình, kế hoạch thực thi của cơ quan tham mưu. Phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, của chính quyền địa phương trong thực thi chính sách ưu đãi đối với NCC cách mạng theo hướng:

- Cần xác định ưu đãi xã hội đối với người có công (NCC) với cách mạng phải gắn liền với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng; là thực hiện trách nhiệm đối với lịch sử, phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Các văn kiện của Đảng bộ các cấp cần phải có những định hướng, mục tiêu và giải pháp về nâng cao mức sống và thực thi các chính sách mới đối với NCC với cách mạng; trên cơ sở đó chính quyền các cấp có những chương trình hành động cụ thể cho việc thực thi những chính sách này.

- Trên cơ sở các chính sách của trung ương, thành phố cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách ưu đãi xã hội đối với NCC với cách mạng, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về người có công, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của NCC phù hợp với từng giai đoạn phát triển KT - XH của thành phố. Cơ sở để xác định chế độ trợ cấp ưu đãi đối với NCC dựa trên mức chi tiêu trung bình của xã hội đạt được trong từng thời kỳ; phấn đấu để 100% NCC có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng nơi cư trú. Ngoài việc tổ chức triển khai tốt các chính sách của nhà nước trên địa bàn, thành phố ban hành một số chính sách bổ sung, nhất là các đối tượng là NCC cách mạng có mức thu nhập thấp, khó khăn về đời sống, nhà ở,…

- Giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh, hoàn thành công tác xác nhận NCC các thời kỳ. Tiếp tục có những chính sách bổ sung nhằm nâng cao mức sống NCC: Đối với NCC thuộc các diện gia đình nghèo, thành phố nên dành ngân sách để hỗ trợ trực tiếp bằng tiền, đảm bảo cho họ có cuộc sống ở mức khá chung của xã hội; đối với NCC không thuộc diện gia đình nghèo, thành phố sẽ dành ngân sách để hỗ trợ thêm cho họ một khoản để có thu nhập tương đương với mức sống khá trong xã hội; và đối với NCC già cả, đau ốm, không nơi nương tựa sẽ thực hiện chính sách chăm lo, nuôi dưỡng ngay tại cộng đồng (bằng cách tổ chức cho thân nhân hoặc những người dân lân cận trực tiếp chăm sóc, thành phố sẽ dành 1 khoản kinh phí để trang trải cho người nhận chăm sóc đó).

- Tổ chức Đảng, MTTQ và đoàn thể các cấp thường xuyên phát động phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn" nhằm huy động nguồn lực từ cộng đồng, góp phần chăm sóc và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần NCC. Đẩy

118

mạnh phong trào chăm sóc NCC với cách mạng, xã hội hóa nhiều lĩnh vực ưu đãi trong thời kỳ mới.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống chính sách ưu đãi đối với NCC trong hệ thống chính sách ASXH gắn với cộng đồng. Thời gian qua, chính sách đối với NCC với cách mạng đã được thực hiện một cách đầy đủ, hầu hết nhân dân đều biết chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với đối tượng đặc biệt này. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, người dân chưa nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ và chưa có ý thức tự giác tham gia nhằm mục tiêu hỗ trợ, chăm sóc NCC với đạo lý "Uống nước nhớ nguồn” nhằm bù đắp một phần vật chất, tinh thần cho NCC, góp phần vào việc nâng cao chất lượng thực thi chính sách ASXH của thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc thực hiện chính sách NCC trên địa bàn thành phố. Công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức cho phù hợp, thông qua các kênh thông tin đại chúng; thông qua các kênh mặt trận và các đoàn thể quần chúng và phương pháp gương điển hình tiên tiến v.v...Nội dung tuyên truyền cũng cần phải đa dạng, phong phú; không những tuyên truyền về chính sách, về gương điển hình tiên tiến, về các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, về hiệu quả của các chính sách; mà còn tuyên truyền những hành vi vi phạm sai trái đối với chính sách của nhà nước, những hành vi gian lận, lợi dụng chính sách để chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của người có công để xã hội nhận thức và đấu tranh chống tiêu cực đem lại nhận thức đúng đắn về chính sách ASXH, góp phần xây dựng thành công mục tiêu thành phố đáng sống.

Phân công, phối hợp chặt chẽ các cơ quan, tổ chức nhằm thực thi chính sách NCC hiệu quả hơn Với chức năng nhiệm vụ của các ngành các cấp kể cả các tổ chức Đảng, MTTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị -xã hội đều tham gia thực hiện và giám sát công tác triển khai thực hiện chính sách NCC; nên cần phải có sự phân công cụ thể, phối hợp đồng bộ giữa các cấp ủy Đảng, Chính quyền, MTTTQ: Các cấp ủy Đảng luôn quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo công tác chăm lo đời sống NCC, phải có những nghị quyết cụ thể về các chủ trương nhằm nâng cao mức sống, thực hiện nghiêm túc chính sách của nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, phục vụ NCC ngày càng tốt hơn; thường xuyên chỉ đạo công tác chính trị tư tưởng, tuyên

119

truyền nâng cao nhận thức trong Đảng, các đoàn thể trong hệ thống chính trị về chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước đối với NCC với cách mạng. Ủy ban MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội vận động hội viên và toàn xã hội đóng góp nguồn lực và trực tiếp chăm sóc đối tượng NCC, nhất là những NCC già yếu neo đơn, hoàn cảnh khó khăn. Tham gia giám sát chặt chẽ việc thực hiện chính sách ở địa phương; đấu tranh chống mọi tiêu cực lạm dụng chính sách. Chính quyền thành phố phải thật sự quan tâm, thường xuyên có những chính sách bổ sung cùng với chính sách của trung ương đảm bảo đầy đủ, bao trùm và kịp thời đối với NCC; từng bước nâng cao mức sống của NCC bằng mức sống trung bình và khá so với nhân dân nơi cư trú. Đặc biệt ngành LĐ - TB và XH tổ chức thực hiện tốt chính sách, tham mưu cho HĐND, UBND ban hành các chính sách thiết thực, nhạy bén và không để một đối tượng nào rơi vào hoàn cảnh khó khăn hoặc giải quyết chính sách không kịp thời; nhạy bén tham mưu những chính sách bổ sung khi thành phố có điều kiện về kinh tế, thường xuyên hướng dẫn chỉ đạo các quận, huyện nắm bắt một cách đầy đủ tình hình thực hiện chính sách và đời sống của đối tượng ở địa phương, đơn vị. Giải quyết rót ráo những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh và có kế hoạch thường xuyên triển khai thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa, công tác tổ chức thăm hỏi động viên và giám sát các xã phường triển khai thực hiện chính sách. Phối hợp với các cơ quan quân sự địa phương, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất giải quyết tồn đọng chính sách đối với quân nhân bị thương, hy sinh trước ngày 1-10-2005 (ngày có hiệu lực thực hiện chính sách theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng), chưa được hưởng chế độ thương binh, liệt sĩ theo quy định. Các địa phương cần phải triển khai tốt chính sách trên địa bàn; nắm rõ hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng NCC để thường xuyên có giải pháp giúp đỡ cụ thể, thiết thực.

Duy trì, điều chỉnh, bổ sung một cách đồng bộ, kịp thời trong việc thực hiện các giải pháp cụ thể trong thực thi hoạt động chính sách ưu đãi đối với NCC gắn với hệ thống ASXH trên địa bàn thành phố.

Ngoài những chính sách, giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước Trung ương, thành phố cũng cần phải có những giải pháp thiết thực cụ thể như: Giải quyết dứt điểm những vấn đề tồn đọng sau chiến tranh, hoàn thành công tác xác nhận NCC trong các thời kỳ, tiếp nhận hết số hài cốt quân tình nguyện Việt Nam của thành phố về nước, xây dựng các nghĩa trang, công trình di tích ghi công các liệt sĩ. Tiếp tục đầu tư, tổ chức các hoạt động sự nghiệp chăm sóc, nâng cấp các cơ sở phụng dưỡng người có

120

công già yếu neo đơn, các cơ sở điều dưỡng luân phiên, đảm bảo phục vụ ngày càng tốt hơn cho NCC với cách mạng. Tiếp tục thực hiện chương trình "Có nhà ở" cho đối tượng người có công, triển khai Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg của TTCP về hỗ trợ nhà ở trên địa bàn một cách sáng tạo, huy động nhiều nguồn lực, nâng mức hỗ trợ và đẩy mạnh hỗ trợ rót ráo để đến năm 2016 hầu hết NCC đều có nhà ở kiên cố, tiện nghi. Phát triển thêm nhiều hình thức hoạt động đền ơn đáp nghĩa với nội dung phong phú, thiết thực, phù hợp với điều kiện mới; triển khai có hiệu quả công tác xây dựng, quản lý Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” các cấp (cấp thành phố, cấp quận huyện và cấp xã phường). Phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình NCC với cách mạng trong những năm tới phải thực sự trở thành vấn đề tình cảm, trách nhiệm và phải được thấm nhuần sâu sắc như một nét đẹp văn hóa trong mỗi người dân thành phố.Ưu tiên đầu tư phát triển KT - XH tại các vùng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước (Đối với những khu vực có đông người có công với cách mạng nghèo sinh sống ở huyện Hòa Vang, Quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn. Người dân tại các khu vực này đã phải chịu nhiều hy sinh mất mát cho cách mạng, nhưng hiện chủ yếu vẫn còn nghèo, phải chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Để hỗ trợ một phần gánh nặng trong cuộc sống cho người dân ở các vùng này, giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập và mức sống, một mặt thành phố phải thực hiện việc miễn, giảm các khoản đóng góp này cho người nghèo; nghiêm cấm việc các địa phương tùy tiện đặt ra các khoản đóng góp ngoài quy định chung của thành phố; mặt khác, cần tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách vào các công trình thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở tại các khu vực này, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư đó). Tiếp tục tăng cường đầu tư, mở rộng và nâng cao chất lượng phục vụ của các Trung tâm chăm sóc NCC với cách mạng để đón nhận hết tất cả những NCC (già cả đau ốm, không nơi nương tựa). Có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo nghề, vận động các doanh nghiệp, tổ chức ưu tiên trong bố trí công ăn việc làm cho bản thân đối tượng NCC hoặc con cái của họ nhằm giảm khó khăn cho gia đình. Chăm lo đời sống tinh thần cho những NCC với cách mạng thông qua các hoạt động thường xuyên thăm hỏi tặng quà trong dịp tết Nguyên đán và ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7, thăm hỏi động viên những đối tượng ốm đau, già yếu; vận động các tổ chức đoàn thể xã hội, cộng đồng doanh nghiệp tài trợ những chuyến tham quan, nghỉ mát, vé xem các chương trình văn hóa nghệ thuật trong những dịp lễ lớn của đất nước. Tổ dân phố, mặt trận và các đoàn thể tại phường, xã được giao trách nhiệm là người tổ chức thực hiện và kiểm tra

121

giám sát quá trình thực hiện. Đề cao vai trò gương mẫu, tích cực, tự lực tự cường vươn lên trong cuộc sống của người có công. Khích lệ, biểu dương nhân rộng những gương điển hình làm kinh tế giỏi, các doanh nghiệp, cá nhân có công làm ăn có hiệu quả, khẳng định vai trò “Người công dân kiểu mẫu”, “Gia đình cách mạng gương mẫu” trong phát triển kinh tế, xây dựng quê hương đất nước. Tạo điều kiện về cơ chế tài chính cho phát triển chính sách ưu đãi đối với NCC và ASXH của thành phố: Thực hiện tốt các khoản chi của ngân sách Trung ương như chi ưu đãi NCC cách mạng, chi các chương trình mục tiêu quốc gia, chi các khoản BHXH do ngân sách đảm bảo. Đối với ngân sách địa phương cần thực hiện đầy đủ các khoản chi về đảm bảo xã hội như chi thường xuyên (nuôi dưỡng các đối tượng xã hội, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công về xã hội; chi trợ cấp thường xuyên đối tượng xã hội ở cộng đồng; chi các khoản đảm bảo các chính sách về ASXH vượt trội so với trung ương như mở rộng đối tượng, nâng mức chuẩn nghèo so với trung ương; chi các khoản đảm bảo duy trì hoạt động của xã hội văn minh, bình đẳng…); chi đột xuất (trợ cấp khó khăn đột xuất, hỗ trợ đột xuất do thiên tai, hỏa hoạn); chi mua BHYT cho các đối tượng xã hội theo luật BHYT; các khoản hỗ trợ khác (chi hỗ trợ nhà ở cho đối tượng chính sách, người nghèo thông qua “Quỹ vì người nghèo” do Ủy ban MTTTQ Việt Nam thành phố quản lý, chi quà lễ tết thông qua Sở LĐ-TB&XH thực hiện và quản lý...). Để công tác ASXH ngày càng phát triển đúng hướng, có hiệu quả; một mặt cần phải có những chính sách xã hội phù hợp và luôn được cải cách với mục tiêu giảm bất bình đẳng về kinh tế nâng cao mức sống trung bình của nhân dân, cải cách hệ thống ASXH phù hợp với công tác xã hội hóa ngày càng cao; mặt khác cần phải hoàn thiện cơ chế tài chính, ngân sách và cơ chế huy động nguồn lực. Quy định cụ thể về nguồn ngân sách, quy trình kế hoạch hóa, trong đó có định lượng đối tượng, mức trợ cấp để bố trí ngân sách tương xứng. Đẩy mạnh huy động đa nguồn; nguồn ngân sách ưu tiên cho thực hiện chính sách trợ cấp và cứu trợ, các nguồn huy động và lồng ghép để phát huy hiệu quả cao nhất. Đổi mới phương pháp quản lý nguồn ngân sách chi trợ cấp cho người có công (Hiện tại thực hiện theo hướng dẫn của liên Bộ Tài chính, LĐ - TB và XH là thực hiện ủy thác chi trả kinh phí trợ cấp NCC. Với trình tự là Sở LĐ - TB và XH chuyển kinh phí về cho Phòng LĐ - TB và XH quận, huyện; Phòng LĐ-TB&XH rút kinh phí ủy thác cho UBND xã, phường và cán bộ phụ trách thương binh - xã hội xã chi trả. Trình tự này có thuận lợi là khi người chi trả và người nhận chi trã đã hiểu biết về nhau. Tuy

122

nhiên, nó cũng có khó khăn, bất cập trong hoạt động giám sát (nhất là khi có sự biến động về số lượng NCC, nhưng không được báo cáo kịp thời sẽ dẫn đến biển thủ kinh phí; không kiểm soát chéo được). Vì vậy cần nên ủy thác cho người khác (độc lập) chi trả kinh phí nhằm kiểm soát chéo và hiện nay, người chi trả phù hợp nhất là bưu điện hoặc một đơn vị dịch vụ chuyển tiền nào đó (kho bạc hoặc ngân hàng).

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCC ở tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể và cơ sở; sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ gắn với ASXH: Công tác kiểm tra giám sát là công việc rất quan trọng trong mọi công tác triển khai thực hiện các chính sách chế độ của nhà nước; đối với thực hiện chính sách NCC thì công tác kiểm tra, giám sát là cực kỳ quan trọng; bởi vì, nếu thực hiện chính sách cho một đối tượng không đúng thì ảnh hưởng đến chất lượng của chính sách và uy tín Đảng, Chính quyền, MTTQ . Vì vậy công tác kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện chính sách NCC là phải thường xuyên và triệt để. Phát huy vai trò của Đảng, MTTQ Việt Nam, các đoàn thể xã hội tham gia giám sát, phản biện phát hiện những sai trái, những việc làm chưa đúng để điều chỉnh, xử lý kịp thời (nhất là ở cấp địa phương trực tiếp như tổ dân phố, thôn, xã, phường). Tăng cường công tác giám sát của HĐND các cấp đối với đời sống xã hội, nhất là đời sống đối tượng chính sách để thường xuyên chất vấn cơ quan chức năng, ban hành các chính sách địa phương kịp thời hiệu quả. Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng về kiểm tra, thanh tra - thanh tra nhà nước, thanh tra ngành LĐ - TB và XH luôn có kế hoạch thanh tra thường xuyên để răn đe, nhắc nhỡ, phòng ngừa các trường hợp vi phạm và xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm trong việc thực thi chính sách NCC.

4.3.2.2. Chính sách bảo trợ xã hội - Tiếp tục ban hành các văn bản triển khai thực hiện hoạt động bảo trợ xã hội phù hợp với thực tiễn của thành phố: Tập trung xây dựng các chương trình, kế hoạch mang tính dài hạn, hàng năm cụ thể hóa nội dung kế hoạch vào chương trình phát triển KT- XH của địa phương để thực hiện tốt công tác BTXH trong hệ thống ASXH của thành phố. Tiến hành rà soát sửa đổi bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách hiện có trên cơ sở kế thừa và phát triển theo hướng ngày càng mở rộng, nghiên cứu các chính sách hỗ trợ người nghèo theo hướng đa chiều; nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp tình hình thực tế. Ban hành các chính sách khuyến khích về đất đai, thuế, phí, lệ phí, tín dụng, bảo hiểm nhằm vận động

123

xã hội hoá các tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp các đối tượng BTXH. Nghiên cứu hoàn thiện chính sách BTXH nhằm tạo môi trường pháp lý hành chính, xã hội cho các đối tượng BTXH tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và hoà nhập. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo dõi giám sát đánh giá tình hình thực hiện chính sách BTXH.

- Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về hoạt động bảo trợ xã hội: Tập trung phổ biến quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động BTXH đến các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn xã hội nhằm nâng cao nhận thức và hành động. Đẩy mạnh tuyên truyền thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng trực quan, panô, áp phích, tờ rơi, hội nghị, hội thảo chuyên đề. Tổ chức trợ giúp tư vấn, tham vấn, kết nối thân chủ tiếp cận các dịch vụ trợ giúp bao gồm các cơ sở trong và ngoài công lập.

- Đầu tư nâng cấp mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội: Đầu tư nâng cấp mạng lưới cơ sở BTXH nhằm trợ giúp cho người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt không tự lo liệu cuộc sống, không nơi nương tựa vào nuôi dưỡng tập trung, đồng thời xây dựng và nhân rộng mô hình hộ gia đình nhận chăm sóc nuôi dưỡng tại cộng đồng. Duy trì và củng cố nâng cao hoạt động Trung tâm cung cấp dịch vụ trở thành mô hình kết nối chuyển tuyến theo phương pháp quản lý trường hợp thông qua mô hình này nhằm hướng dẫn các đơn vị liên quan thực hiện các hoạt động trợ giúp cho người các đối tượng yếu thế được tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách của nhà nước (như chế độ bảo trợ xã hội, bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí và chế độ cho hộ nghèo và trẻ em khuyết tật...). Các dịch vụ mang tính kỹ thuật, chuyên môn hoặc những hoạt động khác mang tính trợ giúp (như phẫu thuật, phục hồi chức năng, dụng cụ trợ giúp, khám và điều trị theo BHYT, tư vấn tâm lý, giáo dục đặc biệt, học nghề, vay vốn phát triển sinh kế, các hoạt động văn hóa, xã hội v.v.) được các đơn vị trong hoặc ngoài nhà nước cũng như các cá nhân, doanh nghiệp cung cấp cho xã hội nói chung và trợ giúp khác hiện có tại cộng đồng. Thành lập các Văn phòng tư vấn nhằm trợ giúp các vấn đề liên quan đến xã hội. - Thực hiện tốt các hoạt động trợ giúp: + Đối với lĩnh vực trợ giúp hàng tháng, đột xuất: Tổ chức rà soát nắm bắt tình hình đời sống nhân dân nhất là các dịp lễ, tết, thời kỳ giáp hạt, thiên tai, dịch bệnh để có phương án hỗ trợ kịp thời đối với những hộ thiếu lương thực. Thực hiện kịp thời đầy đủ chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi, người khuyết tật được quy định tại Luật và Nghị định 136/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ

124

về chính sách trợ giúp cho các đối tượng BTXH. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý đối tượng hưởng chính sách xã hội, nghiên cứu thực hiện chi trả theo hệ thống ngân hàng để giảm thiểu rủi ro tiện lợi cho các đối tượng. Đối với lĩnh vực trợ giúp người khuyết tật: Hoàn thiện phần mềm và duy trì hoạt động hệ thống quản lý NKT của thành phố để phục vụ công tác quản lý và lập kế hoạch hỗ trợ NKT; Sửa đổi, bổ sung nâng mức trợ giúp BTXH cho NKT, tăng định mức kinh phí hỗ trợ học nghề ngắn hạn tại các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp và định mức hỗ trợ chỉnh hình phục hồi chức năng phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của thành phố. Tăng cường các dịch vụ tư vấn, trị liệu tâm lý, lao động trị liệu, trợ giúp học nghề, việc làm, giải quyết trợ cấp xã hội và trợ giúp khác tại cộng đồng. Triển khai mô hình điều dưỡng luân phiên, điều trị rối nhiễu tâm trí phục hồi chức năng cho người tâm thần hoàn toàn dựa vào cộng đồng, thân thiện và được thực hiện kết hợp các dịch vụ công tác xã hội với điều trị y tế, tạo điều kiện để người tâm thần không bị xa lánh, phân biệt đối xử và hoà nhập cộng đồng. Hỗ trợ nâng cao năng lực cho Hội NKT thành phố và thành lập Hội NKT các quận, huyện. + Đối với người cao tuổi: Tăng cường việc phát huy vai trò của người cao tuổi: Các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các quận huyện, gia đình và cộng đồng, động viên và tạo điều kiện để người cao tuổi (NCT) đóng góp kinh nghiệm hiểu biết của mình vào sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố. Khuyến khích, động viên và tạo điều kiện cho NCT tham gia các hoạt động kinh tế, như khôi phục nghề và truyền dạy nghề truyền thống khuyến nông, khuyến ngư theo điều kiện và khả năng cụ thể. Phát huy vai trò của NCT trong công tác phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự và quốc phòng toàn dân. Tạo môi trường thuận lợi cho NCT được phát huy tài năng trí tuệ và phẩm chất tốt đẹp trong việc tham gia các hoạt động văn hoá - xã hội, truyền thụ những kiến thức văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ, gương mẫu đi đầu; giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ sau và làm nòng cốt trong phong trào xây dựng xã hội học tập, xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học. Tạo điều kiện cho NCT được tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật nhất là vấn đề liên quan đến NCT; tư vấn chuyên môn, kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực y tế, giáo dục của thành phố. Thường xuyên nâng cao đời sống vật chất cho người cao tuổi: Tăng mức hỗ trợ tài chính cho người già neo đơn lên mức đủ sống, ít nhất cũng ngang với mức lương tối thiểu do nhà nước quy định. Tiếp tục rà soát giải quyết

125

kịp thời các chính sách BTXH hàng tháng cho NCT; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách nhằm hỗ trợ cho NCT đều được cấp thẻ BHYT miễn phí. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động người dân, cộng đồng doanh nghiệp và các thành phần khác cùng đóng góp để chung tay hình thành 1 Quỹ tài chính nhằm phục vụ mục tiêu hỗ trợ NCT. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nhận phụng dưỡng chăm sóc NCT cô đơn không nơi nương tựa, không nguồn thu nhập. Nâng cao chất lượng các cơ sở BTXH, xây dựng các mô hình trợ giúp NCT cô đơn, tàn tật tại cộng đồng; đảm bảo ASXH về mọi mặt cho NCT như việc làm, chăm sóc y tế, phúc lợi xã hội, tiết kiệm; phát động phong trào và huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện giảm nghèo, hỗ trợ khó khăn thường xuyên cho NCT. Không ngừng nâng cao sức khoẻ cho người cao tuổi: Phát triển hệ thống Trung tâm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh miễn phí cho NCT và triển khai hỗ trợ khám tại gia. Nghiên cứu để hình thành các Khoa chuyên ngành lão khoa trong các bệnh viện lớn ở thành phố, tại các trung tâm y tế quận, huyện; có chương trình đào tạo tập huấn chuyên sâu, nâng cao chất lượng hoạt động cho đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên chăm sóc NCT. Đầu tư sửa chữa nâng cấp cơ sở BTXH của ngành LĐ-TB&XH phù hợp người cao tuổi đảm bảo nuôi dưỡng tập trung số NCT không nơi nương tựa và hướng đến đầu tư khu dành riêng chăm sóc NCT có điều kiện kinh tế khá giả (nhưng con cháu không có điều kiện chăm sóc, gửi vào đóng góp kinh phí để chăm sóc). Tạo điều kiện về ưu đãi đất đai, các chính sách tài chính khác để khuyến khích xã hội hóa xây dựng các cơ sở điều dưỡng, chăm sóc NCT tuổi tập trung. Tăng cường các hoạt động tư vấn, hướng dẫn bồi dưỡng và tập huấn kiến thức tự chăm sóc, nâng cao sức khoẻ đối với bản thân và gia đình NCT. Phát triển và nâng cao hoạt động các câu lạc bộ thể dục dưỡng sinh, câu lạc bộ văn hoá hiện có (về cơ sở vật chất cũng như loại hình hoạt động) để thu hút ngày càng đông NCT đến tham gia. Có các biện pháp mạnh mẽ để nhằm ngăn chặn tình trạng đối xử thô bạo với NCT. Quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của người cao tuổi: Xây dựng nếp sống, tạo môi trường ứng xử văn hoá phù hợp đối với NCT tại nơi công cộng cho mọi lứa tuổi, duy trì quan hệ gia đình, dòng họ, cộng đồng, trong việc chăm sóc và phát huy vai trò NCT; tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí phù hợp với NCT, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các Câu lạc bộ văn hoá thể thao cho NCT ở địa phương; khuyến khích, hỗ trợ hoạt động xây dựng quỹ chăm sóc NCT ở cơ sở theo quy định của pháp luật để trợ giúp khó khăn về đời sống kinh

126

tế cho NCT cô đơn, tàn tật hoặc thường xuyên đau ốm; mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của NCT và Hội người cao tuổi. Đẩy mạnh chương trình tuyên truyền, giáo dục về công tác chăm sóc và phát huy vai trò của NCT.

+ Đối với lĩnh vực chăm sóc trẻ em: Xây dựng hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ thành phố đến cơ sở, có cơ chế phối hợp vận hành hiệu quả nhằm phòng ngừa, phát hiện và trợ giúp kịp thời những trẻ em bị tổn hại. Cung cấp, kết nối các dịch vụ xã hội kịp thời, có chất lượng cho trẻ em và gia đình. Xây dựng các mô hình phù hợp với tình hình địa phương, phù hợp với các nhóm đối tượng nhằm chăm sóc, phục hồi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Phấn đấu đến năm 2020, giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xuống dưới 0,5% so với tổng số trẻ em trên địa bàn. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách của nhà nước dành cho trẻ em và việc thực hiện Quyền trẻ em; đánh giá rút kinh nghiệm việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em của các cấp, các ngành, các đơn vị. Đối với trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, bị nhiễm chất độc hóa học, tàn tật cần chỉ đạo sâu sát và triển khai việc thực hiện tốt Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em; phải có nhiều chương trình chăm sóc trẻ em và nhiều hình thức chăm sóc (chăm sóc tập trung và chăm sóc trẻ em ở cộng đồng). Nghiên cứu để tiếp tục phát triển thêm hệ thống các cơ sở nuôi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho các em tại nhiều khu vực khác (không chỉ ở các quận trung tâm thành phố; mà cần phát triển đến các xã vùng sâu của huyện Hòa Vang). Ngành y tế, ngành LĐ - TB & XH kịp thời nghiên cứu các giải pháp để phục hồi chức năng, để chăm sóc, nuôi dưỡng các em tốt nhất. Ngoài ngân sách của thành phố cần huy động các nguồn lực cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ để chăm sóc trẻ em ở cộng đồng. Đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực thực hiện chương trình (vận động Quỹ bảo trợ trẻ em hằng năm để chăm sóc, hỗ trợ trẻ em khó khăn, vận động các tổ chức, các nhà hảo tâm hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em và gia đình.

+ Đối với nạn nhân chất độc hóa học, người tàn tật: Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về các chế độ chính sách đối nạn nhân chất độc hóa học, người tàn tật (NNCĐHH, NTT); về các tấm gương nạn nhân vươn lên hòa nhập trong cuộc sống; mở rộng các hoạt động đối ngoại và tuyên truyền quốc tế để vận động nhiều nguồn lực và sự đồng thuận trong trợ giúp các NNCĐHH, NTT khắc phục khó khăn vươn lên hòa nhập trong cuộc sống. Chỉ đạo các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội phối hợp trong các phong trào, hoạt động liên quan đến mục tiêu chăm sóc, trợ giúp các

127

đối tượng nhân ngày/tháng hành động vì NNCĐHH, NTT hàng năm. Thường xuyên tổ chức các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác trong cả nước về việc nuôi dưỡng, chăm sóc điều trị, phục hồi chức năng, dạy chữ, dạy nghề và trong xây dựng củng cố các trung tâm, cơ sở nuôi dưỡng/dạy nghề cho nạn nhân. Huy động mọi nguồn lực xã hội, trong đó nguồn ngân sách đóng vai trò trọng yếu trong việc hỗ trợ điều trị chỉnh hình, trang bị dụng cụ giúp phục hồi chức năng và đặc biệt là phương tiện để họ có thể tự sinh hoạt, tự hòa nhập cộng đồng và tạo ra thu nhập để trang trải một phần chi phí cuộc sống. Xây dựng cơ sở dữ liệu về tất cả các đối tượng NNCĐHH, NTT xã hội ở thành phố để tiện cho việc theo dõi, triển khai các hoạt động (Dữ liệu này phải được cập nhật thường xuyên và chỉ những đối tượng nào có thời gian sinh sống ổn định tại thành phố, chấp hành đúng pháp luật và quy định của nhà nước, của địa phương mới được hưởng ưu đãi này). Có chính sách khuyến khích, ưu đãi về tài chính, mặt bằng và tư vấn quản lý để hình thành và phát triển các doanh nghiệp xã hội nhằm tạo cơ hội tiếp cận việc làm cho các đối tượng lao động là NNCĐHH, NTT.

4.3.2.3. Nhóm giải pháp giảm nghèo bền vững - Phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương,

mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi chính sách giảm nghèo: Đảng bộ thành phố luôn chú trọng công tác giảm nghèo, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình hành động hằng năm của đảng bộ. Những chủ trương phát triển về KT - XH của thành ủy đều lồng ghép sự phát triển về KT - XH với chính sách ASXH và công tác giảm nghèo bền vững. HĐND thành phố đã có nghị quyết về chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020, đây là nhiệm vụ lớn song song với nhiệm vụ xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020; trên cơ sở đó thành phố ban hành Quyết định phê duyệt “Đề án giảm nghèo giai đoạn 2016-2020” chuẩn nghèo mới (1.100.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn, 1.300.000 đồng/tháng đối với khu vực thành thị). Trong thời gian đến; UBND thành phố cần nghiên cứu ban hành các chính sách hỗ trợ cho các địa phương, hộ nghèo để tạo điều kiện phát triển kinh tế, tăng thu nhập và thu hưởng các dịch vụ xã hội nhiều chiều. Ban Chỉ đạo giảm nghèo thành phố cần xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng năm, giúp UBND triển khai thực hiện và Sở LĐ - TB và XH (cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo) theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện; đồng thời thực thi một số chính

128

sách bảo trợ xã hội có hiệu quả. Chính quyền các địa phương cần phát huy vai trò ở cơ sở, tổ chức gặp mặt đối thoại với hộ nghèo để biết rõ nguyên nhân nghèo của từng hộ để có giải pháp thích hợp cho từng hộ cụ thể. Ủy ban MTTQ với vai trò vận động, giám sát; chủ trì huy động “Quỹ vì người nghèo” để tập trung trợ giúp nhà ở cho hộ nghèo đảm bảo 100% nhà ở người nghèo không có nhà tạm, nhà dột nát và xuống cấp nặng; cùng với các đoàn thể vận động nguồn lực trực tiếp trợ giúp hộ nghèo để vượt qua khó khăn.

- Tiếp tục có những giải pháp cơ bản giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội: Hỗ trợ y tế: Trên cơ sở đánh giá xác định dịch vụ y tế thuộc các tuyến dịch vụ y tế của thành phố, rà soát công tác dịch vụ y tế để đảm bảo mọi người dân được thụ hưởng, không để cho người nghèo không được tiếp cận với dịch vụ y tế. Mua và cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người thuộc hộ nghèo, người thuộc hộ đã thoát nghèo trong thời hạn 2 năm, chi phí khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế 100% nhà nước chi trả. Tích cực vận động các tổ chức nhân đạo, từ thiện khám chữa bệnh miễn phí và lồng ghép các chương trình y tế quốc gia để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và người nghèo. Hỗ trợ giáo dục: Thực hiện chính sách miễn học phí cho trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ (hoặc người giám hộ trực tiếp nuôi dưỡng) thuộc diện hộ nghèo; chính sách này được tiếp tục hưởng 2 năm sau khi thoát nghèo. Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ (hoặc người giám hộ trực tiếp nuôi dưỡng) thuộc diện hộ nghèo; chính sách này áp dụng đối với đối tượng vẫn còn nằm trong chương trình nghèo. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, vận động các tổ chức, hội đoàn thể tạo điều kiện cho con hộ nghèo đến trường bằng nhiều hình thức: hỗ trợ học bỗng, dụng cụ học tập, sách, vở, phương tiện đi lại. Hỗ trợ nhà ở: Các hộ chưa có nhà ở ổn định, nhà tạm, nhà hư hỏng nặng được xây mới, sửa chữa hoặc đề xuất để thành phố xem xét bố trí thuê chung cư với giá ưu đãi đối với những hộ bức xúc về nhà ở theo kế hoạch chung của thành phố. Ủy ban MTTQ thành phố cần phối hợp với các ngành chức năng và các đoàn thể tổ chức huy động bằng nhiều hình thức thường xuyên nhằm để gây Quỹ vì người nghèo; mục đích chi quỹ chủ yếu là hỗ trợ nhà ở cho người nghèo (bởi vì, đối với thành phố do nguồn huy động còn hạn chế, nên ngân sách thành phố chỉ hỗ trợ bằng 60% tổng chi hỗ trợ cải thiện nhà ở cho hộ nghèo). Ủy ban MTTQ thành phố và Sở LĐ-TB&XH cần phối hợp với các địa phương thẩm tra thực trạng nhà tạm, nhà hư hỏng nặng của hộ nghèo lập kế

129

hoạch thực hiện xây nhà tình thương và nâng cấp sửa chữa nhà hằng năm. Xây dựng hoàn thành, quyết toán và thanh toán với ngân sách 60% kinh phí; 40% chi từ Quỹ vì người nghèo của thành phố.

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp giúp người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập nâng cao mức sống cho người nghèo để vươn lên thoát nghèo bền vững: Giải quyết việc làm và dạy nghề: Các địa phương điều tra nắm chắc danh sách lao động trong độ tuổi và con em hộ nghèo, phân loại lao động có nhu cầu học nghề, lao động đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào doanh nghiệp, lao động chỉ hỗ trợ bằng các chính sách tạo việc làm tại chỗ. Trên cơ sở đó phối hợp chặt chẽ với Sở LĐ - TB và XH thành phố, BQL Khu công nghiệp và chế xuất ưu tiên giới thiệu lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp, hỗ trợ học nghề theo Đề án giảm nghèo và Đề án hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm của UBND thành phố. Thực hiện Dự án dạy nghề cho hộ nghèo trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo, theo các hình thức dạy nghề gắn với tạo việc làm, dạy nghề gắn với giáo dục định hướng cho người nghèo đi xuất khẩu lao động, dạy nghề để chuyển đổi nghề từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác và người nghèo đi học nghề được miễn tiền học phí, hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại. Thành phố tiếp tục ban hành quy định chính sách hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp đối với lao động thuộc diện chính sách, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phù hợp với từng thời điểm để khuyến khích lao động hộ nghèo học nghề. Ngành LĐ - TB và XH tổ chức tốt sàn giao dịch việc làm, tổ chức các buổi tư vấn nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, các phiên chợ việc làm và tuyển sinh dạy nghề di động về các địa phương để cho người nghèo tiếp cận, kết nối với doanh nghiệp giải quyết việc làm hiệu quả. Hỗ trợ tín dụng: Bằng các hình thức cho hộ nghèo vay vốn từ các nguồn khác nhau với điều kiện ưu đãi về lãi xuất, thời hạn, có sự hướng dẫn sử dụng vốn một cách hiệu quả. Đảm bảo 100% hộ nghèo được vay vốn (vốn vay hộ nghèo và vốn vay học sinh - sinh viên) tại Ngân hàng Chính sách xã hội để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, đồng thời rà soát các thủ tục, cơ chế cho vay, thu nợ đảm bảo đúng kỳ hạn, quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo tiếp cận với nguồn vốn vay; ngoài nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội, cần tiếp tục huy động nguồn vốn tự giúp đỡ của các đoàn thể, của các cơ quan, đơn vị và cá nhân, vốn từ ngân sách quận hàng năm nhằm đáp ứng nhu cầu vay phát triển sản xuất của hộ nghèo. Hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm cho hộ nghèo:

130

UBND các quận, huyện chỉ đạo cho các phòng chức năng và UBND các phường nhân rộng, phổ biến các mô hình, kinh nghiệm về công tác giảm nghèo trong những năm qua, đặc biệt các mô hình giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo có hiệu quả và bền vững. Chủ động, linh hoạt, cải tiến nội dung, hình thức phổ biến, hướng dẫn các lớp tập huấn cho hộ nghèo phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, thời gian và sự nhận thức của từng hộ nghèo, giúp cho họ có cơ hội tìm việc làm và ổn định đời sống; mở rộng dạy nghề định hướng và hỗ trợ xuất khẩu lao động. Nhân rộng mô hình giảm nghèo: Nhân rộng, phổ biến các mô hình, kinh nghiệm giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo có hiệu quả, đặc biệt là mô hình hội đoàn thể giúp hộ nghèo làm kinh tế, hỗ trợ xoá nhà tạm, hỗ trợ cải thiện điều kiện sinh hoạt, hỗ trợ khám chữa bệnh. Tổ chức cho hộ nghèo tham quan những mô hình hiệu quả cao; cán bộ tham gia chương trình nghiên cứu các mô hình thích hợp để phổ biến cho người nghèo ở địa phương. Ưu tiên nguồn kinh phí để tập trung phát triển các làng nghề truyền thống nhằm giải quyết công ăn việc làm, tổ chức lại sản xuất bằng nhiều mô hình khác nhau như tổ hợp kinh tế, góp vốn liên kết để các nhóm hộ hỗ trợ cho hộ nghèo có điều kiện sản xuất, đảm bảo thu nhập ổn định cho các hộ nghèo.

- Nâng cao hiệu quả việc thực hiện các giải pháp truyền thông, giám sát đánh giá và nâng cao năng lực: Chính sách trợ giúp pháp lý: Phát triển các dịch vụ công, thành lập các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí cho những hộ nghèo có nhu cầu về các lĩnh vực đất đai, nhà ở, thừa kế, hộ khẩu, hộ tịch, hôn nhân gia đình, chế độ chính sách, bảo hiểm xã hội, lao động việc làm. Công tác truyền thông, giáo dục: Các cấp, các ngành, đoàn thể thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho người nghèo, tránh sự ỷ lại, tự ty, tự vươn lên thoát nghèo; đồng thời vận động toàn xã hội, tộc họ, tổ nhóm giúp đỡ, đỡ đầu cùng với các chính sách của nhà nước hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập ổn định đời sống. Xây dựng bản tin chương trình giảm nghèo phát sóng định kỳ 01 tuần/lần trên sóng phát thanh các phường; tuyên truyền giáo dục ý thức cho bản thân hộ nghèo tự lực vươn lên thoát nghèo bền vững. Giám sát, đánh giá: Công tác giám sát, đánh giá thực hiện chặt chẽ, liên tục từng quý, 6 tháng, 01 năm, nhằm đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện chương trình, mục tiêu, kết quả đạt được; kịp thời chấn chỉnh, rút kinh nghiệm những tồn tại; nhân rộng, biểu dương kết quả làm tốt. Thiết lập phương pháp thu thập và xử lý thông tin ở các cấp, quản lý hộ nghèo bằng phần mềm tin học. Báo cáo, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện Đề án

131

giảm nghèo theo mẫu thống nhất, khoa học. Giải pháp nâng cao năng lực: Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tham gia chương trình giảm nghèo đến phường, tổ dân phố nhằm nâng cao kỹ năng, phương pháp phân tích đánh giá diễn biến nghèo, quản lý và thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo trên địa bàn dân cư.

- Đảm bảo tốt điều kiện về nguồn lực tài chính: Ngoài ngân sách của trung ương, thành phố và ngân sách quận bố trí để thực hiện Đề án giảm nghèo; cần huy động nguồn kinh phí từ các tổ chức phi chính phủ, đơn vị, tổ chức, cá nhân để ưu tiên hỗ trợ cho những địa phương có nhiều hộ nghèo, khó khăn, không đủ nguồn lực để thực hiện chương trình. Triển khai thực hiện Đề án giảm nghèo đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch, có sự tham gia của người dân, sự giám sát của Uỷ ban MTTQVN và các đoàn thể. Để đảm bảo cho giảm nghèo bền vững, tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ trong thời hạn 2 năm đối với hộ sau khi thoát nghèo như y tế, giáo dục, tín dụng, trợ cấp xã hội. Những hộ nghèo không có lao động, không nguồn thu nhập, chỉ có đối tượng bảo trợ xã hội được lập danh sách theo dõi riêng; kết hợp trợ giúp theo diện bảo trợ của ngân sách kết hợp với vận động các tổ chức, hội đoàn thể hỗ trợ lâu dài. Cương quyết đưa ra khỏi chương trình những hộ không chịu làm ăn, chây lười, mắc tệ nạn xã hội không chịu khắc phục và cố ý vi phạm Pháp lệnh Dân số.

4.3.2.4. Nhóm giải pháp về dạy nghề và giải quyết việc làm Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả dạy nghề, giải quyết việc làm ở thành phố Đà Nẵng bao gồm 2 nhóm giải pháp: Giải pháp đào tạo nghề, giải quyết việc làm và Giải pháp dạy nghề, giải quyết việc làm đối với lao động bị thu hồi đất sau tái định cư (giải pháp có tính đặc thù đối với thành phố đang có quá trình chỉnh trang đô thị mạnh mẽ).

- Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề + Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội về học nghề, đào tạo nghề: Tăng cường công tác chỉ đạo của lãnh đạo các cấp, các ngành đối với đào tạo nghề (ĐTN); coi ĐTN là giải pháp đột phá trong chiến lược phát triển KT-XH, giải quyết việc làm và đảm bảo ASXH của địa phương. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông để nhân dân, đặc biệt là thanh niên và những người trong độ tuổi lao động nhận thức đúng về vị trí, vai trò của ĐTN, về nghề nghiệp và học nghề để thay đổi hành vi, thu hút ngày càng nhiều người học nghề. Nâng cao nhận thức của doanh nhân về lợi ích của ĐTN đối với sự phát triển của doanh nghiệp để từ đó chủ động

132

tham gia, đóng góp chính vào hoạt động ĐTN. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động hướng nghiệp trong các trường THCS, THPT để định hướng phân luồng học sinh hướng sang tham gia giáo dục nghề nghiệp. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành phố đóng vai trò nòng cốt, cùng với các tổ chức CT - XH, các hội, đoàn thể, hội nghề nghiệp; tăng cường tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của thành phố về ĐTN; vận động thanh niên học nghề, tham gia công tác ĐTN. Duy trì thường xuyên ngày hội tuyển sinh học nghề, tư vấn mùa tuyển sinh, hội thi giáo viên dạy nghề giỏi, hội thi tay nghề giỏi, hội thi thiết bị dạy nghề tự làm.

+ Tăng cường các điều kiện đảm bảo nâng cao chất lượng đào tạo nghề: Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao năng lực thực hành cho người học nghề. Chuẩn hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị ĐTN, giáo viên dạy nghề. Tập trung đầu tư đồng bộ, hiện đại cho các Trường Cao đẳng nghề công lập, khuyến khích các trường ngoài công lập đầu tư các nghề trọng điểm, trường trọng điểm đạt chuẩn nghề khu vực ASEAN và quốc tế. Tăng cường liên kết, hợp tác giữa các cơ sở ĐTN với nhau, giữa cơ sở ĐTN và các cơ sở giáo dục khác, giữa cơ sở ĐTN và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả và chất lượng ĐTN. Kiểm định chất lượng cơ sở ĐTN và chương trình ĐTN trọng điểm - phấn đấu đến cuối năm 2016, 100% các trường cao đẳng nghề và trường trung cấp nghề được kiểm định và công bố chất lượng; có 3-5 chương trình ĐTN trọng điểm được kiểm định chất lượng, với bộ tiêu chuẩn quốc tế. Đào tạo đội ngũ kiểm định viên và cán bộ tự kiểm định của các cơ sở ĐTN. Thành lập các “Trung tâm đánh giá kỹ năng nghề” tại Trường Cao đẳng nghề Đà Nẵng và Trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Nẵng. Đề nghị Bộ LĐ-TB&XH thành lập “Trung tâm quốc gia đánh giá kỹ năng nghề” tại Đà Nẵng để đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề cho người lao động thành phố và khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Trước mắt, thành phố xây dựng danh mục nghề, đánh giá và cấp thẻ nghề cho người lao động hành nghề tự do trên địa bàn. Có cơ chế phối hợp để cộng đồng xã hội, các đoàn thể, các hội nghề nghiệp thực hiện việc giám sát, phản biện nhằm nâng cao chất lượng ĐTN. Thành lập Hiệp hội dạy nghề thành phố Đà Nẵng. Đăng cai tổ chức các sự kiện của cả nước, của quốc tế tại thành phố Đà Nẵng về thi tay nghề giỏi, thi giáo viên dạy nghề giỏi, triển lãm thiết bị dạy nghề để giao lưu, học hỏi, góp phần nâng cao chất lượng ĐTN. Tổ chức sắp xếp lại các Khoa Sư phạm Kỹ thuật (của Ðại học Bách khoa và Trường Cao đẳng Công nghệ) để trình Bộ GD & ÐT cho phép thành Trường Ðại học Sư phạm kỹ thuật Ðà Nẵng.

133

+ Có những chính sách ưu đãi, khuyến khích về dạy nghề và giải quyết việc làm; tăng cường quản lý nhà nước nâng cao chất lượng và hiệu quả: Về cơ chế, chính sách; thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các chính sách hỗ trợ người học nghề thuộc đối tượng đặc thù, nhóm yếu thế theo quy định của Nhà nước. Thành phố Đà Nẵng thực hiện thêm nhiều chính sách mở rộng đối tượng để tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết việc làm hiệu quả. Rà soát hoàn chỉnh và nghiên cứu ban hành các chính sách của thành phố: Chính sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề, chính sách đối với người học nghề, chính sách đối với cơ sở đào tạo nghề, chính sách đối với doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề, chính sách giải quyết việc làm đối với người sau học nghề. Đổi mới cơ chế kế hoạch và tài chính ĐTN từ ngân sách thành phố theo hướng tập trung vào cơ sở trọng điểm, ngành nghề trọng điểm. Đẩy mạnh thực hiện giao quyền tự chủ đối với các trường, trung tâm dạy nghề công lập. Về quản lý nhà nước: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về ĐTN của cơ quan quản lý các cấp; Kiện toàn hệ thống cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực bộ máy QLNN, đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực DN, trước hết là tuyển dụng và đào tạo cán bộ quản lý dạy nghề của Sở LĐ- TB&XH, kiện toàn bộ phận làm công tác quản lý ĐTN tại Phòng LĐ-TB&XH các quận, huyện; thường xuyên đào tạo, tập huấn nghiệp vụ. Tăng cường sự phối hợp trong quản lý nhà nước về ĐTN trên địa bàn. Xây dựng quy định phối hợp quản lý đối với các cơ sở ĐTN thuộc Bộ, ngành, Hội đoàn thể Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động trên địa bàn thành phố. Tăng cường và mở rộng kiểm định chất lượng nghề; xây dựng hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, quốc tế. Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật vào giảng dạy và sản xuất thực nghiệm. Từng bước thực hiện việc bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đối với cơ sở ĐTN công lập thuộc địa phương quản lý; xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước tại các cơ sở ĐTN công lập; kêu gọi vốn đầu tư, quản lý từ bên ngoài vào cơ sở ĐTN công lập. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý về ĐTN. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.

+ Tăng cường và đổi mới phương thức đầu tư cho dạy nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Đầu tư cho ĐTN là đầu tư cho phát triển, nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư. Nâng tỷ trọng đầu cho ĐTN trong tổng chi ngân sách thành phố. Giảm nguồn chi sự nghiệp hoạt động dạy nghề; tăng nguồn kinh phí sự nghiệp hỗ trợ cho đối tượng học nghề; tăng đầu tư xây dựng cơ bản cho

134

nghề trọng điểm; trung tâm đánh giá, cấp chứng chỉ nghề cấp quốc gia; nâng cao chất lượng giáo viên. Bổ sung Quỹ “Hỗ trợ dạy nghề”, bố trí kinh phí đối ứng với vốn ODA hoặc NGO. Tăng đầu tư ĐTN cho người nghèo, thanh niên, đối tượng chính sách, lao động vùng đô thị hoá, lao động nông thôn, người khuyết tật, học sinh bỏ học. Đến năm 2020, đầu tư đồng bộ (phát triển chương trình đào tạo, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề và đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý) cho 1-2 trường cao đẳng nghề công lập để có đủ điều kiện đào tạo từ 3-5 nghề thuộc lĩnh vực công nghệ cao đạt chuẩn quy định. Đối với các trường cao đẳng nghề thuộc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đóng trên địa bàn, nếu tham gia đào tạo từ 3-5 nghề trọng điểm, đạt chuẩn kiểm định chất lượng, được thành phố đặt hàng đào tạo và hỗ trợ đầu tư. Các cơ sở ĐTN ngoài công lập đạt chuẩn kiểm định được vay tín dụng ưu đãi, tín dụng đầu tư phát triển của thành phố theo quy định của pháp luật, được tham gia đấu thầu đặt hàng đào tạo từ ngân sách thành phố. Thành phố áp dụng chế độ thu hút nguồn nhân lực cho đội ngũ giáo viên, mở rộng Đề án 922 (đầu tư đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ nước ngoài và trong nước) cho đội ngũ giáo viên dạy nghề để nâng cao chất lượng đào tạo. + Đẩy mạnh xã hội hoá, hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề và xuất khẩu lao động: Huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển ĐTN. Ưu tiên các dự án nước ngoài để đầu tư phát triển ĐTN, đặc biệt là các dự án hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư cơ sở vật chất, phát triển chương trình, học liệu, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý. Tăng cường xúc tiến dự án đầu tư nước ngoài vào hoạt động ĐTN ở thành phố. Đối với dự án đầu tư nước ngoài được hỗ trợ chính sách theo quy định của pháp luật. Thực hiện hỗ trợ vốn vay ưu đãi, chính sách thuế, đất đai theo quy định của pháp luật cho mọi tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thành lập cơ sở ĐTN theo quy hoạch. Khuyến khích các cơ sở ĐTN trong nước hợp tác với các các trường ĐTN ở các nước phát triển để trao đổi chương trình đào tạo, giáo viên, chuyên gia đào tạo; chuyển giao công nghệ, phương pháp giảng dạy… Xúc tiến và đẩy mạnh chương trình hợp tác đào tạo với các nước tiên tiến kết hợp giải quyết việc làm tại nước ngoài bổ sung cho lĩnh vực xuất khẩu lao động.

- Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp + Tăng cường các yếu tố đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo việc làm mới: Nâng

cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư, Đà Nẵng giữ vững vị thế hàng đầu về chỉ số PCI nhằm thu hút đầu tư các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao và công nghệ thông tin; đặc biệt là các ngành dịch vụ du lịch. Tiếp tục cải cách thủ tục hành

135

chính, tạo tính minh bạch và trách nhiệm cao, rút ngắn tối đa thời gian chi phí để thực hiện một dịch vụ công hoặc thực hiện các thủ tục quy định của nhà nước. Phát huy thành quả của “Năm doanh nghiệp” tiếp tục thực hiện và mở rộng các giải pháp thực hiện năm doanh nghiệp - hỗ trợ doanh nghiệp phát triển có sức cạnh tranh cao. Tiếp tục thực hiện “Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế”, “Đề án Phát triển dịch vụ” trên địa bàn thành phố tạo cho nền kinh tế phát triển bền vững, doanh nghiệp phát triển đúng hướng tạo việc làm mới. Mở các lớp khởi sự doanh nghiệp cho thanh niên đã học xong các khóa đại học, học nghề để xây dựng và triển khai thực hiện các đề án khởi sự doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ ban đầu để doanh nghiệp hình thành và phát triển.

+ Phát triển nguồn vốn, phát huy hiệu quả sử dụng vốn cho vay giải quyết việc làm, giảm nghèo: Một mặt sử dụng hiệu quả nguồn vốn trung ương đầu tư cho vay giải quyết việc làm theo chương trình mục tiêu quốc gia, thành phố và các địa phương quận, huyện hằng năm trích số kết dư ngân sách ủy thác sang ngân hàng chính sách để cho vay giải quyết việc làm; khuyến khích cho vay các dự án có hiệu quả kinh tế, giải quyết được nhiều chỗ làm mới; đặc biệt là khuyến khích các doanh nghiệp trẻ theo chương trình khởi sự doanh nghiệp. Lồng ghép các hoạt động của chương trình cho vay giải quyết việc làm, chương trình giảm nghèo và chương trình xây dựng nông thôn mới để phát huy hiệu quả vốn vay; tạo việc làm mới và ổn định cuộc sống. Tranh thủ các dự án viện trợ của các tổ chức nước ngoài, phi chính phủ; các nguồn vốn khác được các hội đoàn thể huy động để hỗ trợ cho vay sinh kế tạo việc làm ổn định.

+ Xây dựng mô hình dạy nghề kết hợp với xây dựng các tổ chức quan hệ sản xuất: Xây dựng và thực hiện các chính sách về dạy nghề: Dạy nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn; dạy nghề cho hộ đi dời giải tỏa mất đất canh tác… kết hợp với thực hiện chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất; xây dựng các mô hình sản xuất chuyên nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế như hợp tác xã/tổ hợp tác sản xuất nấm ăn, hoa cây cảnh, thủ công mỹ nghệ, rau sạch chuyên canh. Có chính sách về tài chính: Đầu tư không hoàn lại, cho vay lãi suất ưu đãi… cho các mô hình mới, khuyến khích các mô hình có hiệu quả, giải quyết nhiều lao động.

+ Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài: Tiếp tục duy trì thị trường lao động truyền thống, tạo mọi điều kiện và thông tin đầy đủ cho người lao động về nhu cầu và điều kiện đi lao động ở nước ngoài để có thể tham gia. Tập trung tuyên truyền

136

tính hiệu quả của việc xuất khẩu lao động cho người dân yên tâm và sẵn sàng thực hiện. Tổ chức các khóa đào tạo định hướng, đào tạo ngoại ngữ cho con em hộ nghèo, hộ chính sách, bộ đội xuất ngũ và hộ di dời giải tỏa mất đất sản xuất để có điều kiện tham gia lao động có thời hạn ở nước ngoài. Hỗ trợ cho vay vốn để đi lao động nước ngoài; ngoài các chính sách ưu đãi cho vay được quy định ở Ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng NN và PTNT ; thành phố có chính sách hỗ trợ cho vay thêm bằng vốn ủy thác hoặc Quỹ hỗ trợ việc làm của thành phố.

- Nhóm các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất Ngoài các giải pháp đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã nêu trên; cần thực hiện lồng ghép nhóm các giải pháp có tính “đặc thù” để giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất, như sau:

+ Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các hình thức, cách thức đào tạo nghề cho lao động bị thu hồi đất: Các cơ sở đào tạo nghề phải phát huy nội lực với sự giúp đỡ của cấp chính quyền để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề; thực hiện chủ trương xã hội hóa và sự tham gia của doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề, cải tiến chương trình giảng dạy, nâng cao trình độ của giáo viên. Các cơ sở đào tạo cần thực sự gắn với thị trường lao động ở vùng nông thôn để tư vấn cho nông dân bị mất đất về việc làm, về định hướng nghề nghiệp để sau khi học nghề có thể tìm được việc làm. Đối với lao động trên 35 tuổi, chính quyền địa phương kết hợp và can thiệp với các doanh nghiệp sử dụng đất tạo điều kiện để các đối tượng này tổ chức các hoạt động dịch vụ (làm nhà cho công nhân thuê, phục vụ ăn uống, giữ xe và cung cấp nhu yếu phẩm cho công nhân) gần các KCN. Đối với lao động dưới 35 tuổi, nhất thiết phải đào tạo nghề cho họ và có thể áp dụng các hình thức học nghề sau: Đào tạo ngắn ngày cho lao động bị thu hồi đất - người học nghề chỉ phải học một, hai công đoạn sản xuất tương đối thành thạo trong thời gian ngắn là có thể làm được việc và trong quá trình làm việc, họ tiếp tục học các công đoạn khác. Hình thức đào tạo này rất phổ biến và dễ áp dụng đối với người lao động có trình độ học vấn thấp, mau chóng đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Đào tạo theo hợp đồng giữa chính quyền địa phương với cơ sở đào tạo đối với những học viên học nghề thuộc diện mất đất. Với hình thức này các doanh nghiệp sử dụng đất chịu kinh phí theo hợp đồng và số học viên này được lựa chọn trước hết phải có trình độ văn hóa tối thiểu là tốt nghiệp PTCS. Quan tâm đào tạo theo nhu cầu tìm kiếm việc làm mới ở các nơi khác ngoài thành phố cho lao động bị thu hồi

137

đất (một bộ phận trong số lao động này có thể đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động). Các địa phương cần có chính sách hướng nghiệp và chương trình phổ cập nghề đối với con em vùng thu hồi đất ngay từ cấp học phổ thông giúp cho học sinh, thanh niên định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn nghề, học nghề. + Thực hiện tốt chính sách việc làm của người có đất thu hồi và đảm bảo công tác tái định cư cho lao động thu hồi đất, đồng thời thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo: Chính quyền địa phương cần ban hành những chính sách việc làm cụ thể đối với người lao động bị thu hồi đất - nếu người lao động bị thu hồi đất đã có nghề thì địa phương phải có chính sách hỗ trợ kinh phí để phát triển những ngành nghề mà bản thân họ có khả năng; còn nếu chưa có nghề thì phải trợ cấp 100% kinh phí để họ học nghề. Đồng thời, khuyến khích những người lao động mất đất phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch như vui chơi giải trí ven biển, ẩm thực và tham gia vào các làng nghề truyền thống để sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Có chính sách hỗ trợ khuyến khích người lao động tích cực tham gia vào các lớp khuyến nông, đào tạo nghề ngắn hạn, ứng dụng công nghệ mới do Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh thành phố tổ chức. Những hộ dân sau khi giải toả, việc xây dựng nhà ở đã tiêu tốn toàn bộ tiền bồi thường (khoảng 90%), do vậy họ rất thiếu vốn để học nghề, sản xuất kinh doanh. Do vậy, cần nghiên cứu chính sách cho vay vốn lãi suất thấp, miễn giảm thuế trong thời gian đầu để hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất phát triển ngành nghề mới là rất cần thiết. Cần tiến hành rà soát, bỏ bớt các thủ tục rườm rà, không cần thiết để người lao động bị thu hồi dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay. Thời gian qua việc vay vốn của các hộ trong diện thu hồi đất để phát triển ngành nghề mới trên thực tế có nhiều khó khăn, thủ tục còn rườm rà (theo quy định vay vốn phải thuế chấp sổ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phải có đề án kinh doanh, sản xuất mới được vay vốn). Yêu cầu này là đúng quy định, tuy khi áp dụng thì đa số các hộ bị thu hồi đất rất khó khăn để đáp ứng được yêu cầu này [4], [112], [144], [174]. Ngoài ra việc giải quyết tốt các hoạt động tái định cư nhằm nhanh chóng đảm bảo ổn định chổ ở, cuộc sống cho lao động thu hồi đất là rất cần thiết. Nếu việc tái định cư thực hiện nhanh, đúng tiến độ thì đại bộ phận lao động ở các khu tái định cư nhanh chóng tiến hành học nghề, tìm việc làm và nâng cao khả năng thích ứng với môi trường mới (đầu năm 2016, ở quận Ngũ Hành sơn, Trung tâm Phát triển quỹ đất Thành phố Đà Nẵng đã yêu cầu nhiều hộ dân bàn giao mặt bằng nhưng lại không bố trí đất tái định cư kịp thời,

138

khiến các hộ dân phải làm lán trại tạm bợ để ở, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Nguyên nhân được lãnh đạo thành phố chỉ rõ là Trung tâm Phát triển quỹ đất Đà Nẵng "không đảm bảo quy trình theo quy định của UBND thành phố” - không thông qua Hội đồng giải phóng mặt bằng của quận Ngũ Hành Sơn nhưng vội vàng yêu cầu dân tháo nhà cửa) [93].

+ Tăng cường giáo dục tính chủ động, tích cực về tự tạo và tìm kiếm việc làm của người có đất bị thu hồi đất: Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trong thời gian qua cho thấy, nếu chỉ chủ yếu dựa vào các giải pháp kinh tế (hỗ trợ học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp), giải pháp hành chính (buộc các doanh nghiệp tiếp nhận lao động bị thu hồi đất); mà không tăng cường giáo dục tính tích cực chủ động của người có đất bị thu hồi đất thì hiệu quả GQVL không cao. Trình độ dân trí, tay nghề thấp, cộng với tính thụ động, ỷ lại đã làm cho nhiều chương trình, dự án tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất kém hiệu quả. Các khoản tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề, hỗ trợ tạo việc làm của nhà nước vì thế không được sử dụng đúng mục đích. Do vậy, cần khắc phục tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, sự thiếu tích cực của chính người bị thu hồi đất trong việc tự tạo và tìm kiếm việc làm. Để thực hiện tốt giải pháp này các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể thường xuyên vận động, giáo dục lao động bị thu hồi đất thấy được sự đúng đắn trong các chủ trương, chính sách phát triển CNH, ĐTH là đem lại sự ấm no, hạnh phúc và phát triển cho Đà Nẵng, trong đó có bản thân người lao động nhường đất và người lao động phải có trách nhiệm cùng với chính quyền chủ động, tích cực về tự tạo và tìm kiếm việc làm [4], [112], [144], [174].

4.3.2.5. Nhóm giải pháp nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số và nhà ở xã hội

- Nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số Mục tiêu đặt ra là đến cuối năm 2016, Thành phố sẽ hoàn thành hỗ trợ sửa chữa, xây dựng 1.327 ngôi nhà ở bị hư hỏng, xuống cấp (trong đó hỗ trợ sửa chữa 1.030 nhà với mức 20 triệu đồng/nhà và xây mới 297 nhà với mức 60 triệu đồng/nhà) cho NCC với cách mạng và hộ đồng bào DTTS; tổng kinh phí thực hiện dự án khoảng 40 tỷ đồng từ nguồn ngân sách thành phố và vận động. Sở LĐ-TB&XH đã tiến hành khảo sát kỹ để tiến hành đúng đối tượng, các gia đình được hỗ trợ phải có nhà ở thực sự xuống cấp, hư hỏng nặng và được thành phố, địa phương thống nhất chọn hạng mục để sửa chữa [181, tr.2].

139

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho NCC với cách mạng và hộ đồng bào DTTS; cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau: Tiếp tục thực hiện quyết liệt ý kiến chỉ đạo của Thường trực Thành ủy và UBND thành phố về triển khai thực hiện hỗ trợ sửa chữa ở cho NCC với cách mạng và hộ đồng bào DTTS: Thông báo số 303-TB/TU ngày 17/11/2014 về kết luận của Thường trực Thành ủy; Kế hoạch số 11344/KH-UBND ngày 11/12/2014 về triển khai hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình NCC với cách mạng và hộ đồng bào DTTS có nhà ở xuống cấp; Đề án hỗ trợ NCC với cách mạng về nhà ở trên địa bàn thành phố theo QĐ số 8885/QĐ-UBND ngày 08/12/2014. Sở LĐ-TB&XH phối hợp với các địa phương khảo sát tình trạng nhà ở của các gia đình người NCC với cách mạng và hộ đồng bào DTTS trên địa bàn thành phố; chủ trì phối hợp với các sở ban ngành, tổ chức đoàn thể và các địa phương tổ chức tiếp tục triển khai thực hiện - nhất là phối hợp với các cơ quan, đơn vị đảm nhận hỗ trợ sửa chữa nhà ở tích cực huy động kinh phí tạo nguồn để chuyển cho các địa phương thực hiện việc hỗ trợ. Các phòng chuyên môn của UBND quận, huyện cần phối hợp với UBND các xã, phường gặp gỡ, tư vấn cho từng hộ xác định cụ thể hạng mục công trình cần sửa chữa; đồng thời vận động gia đình triển khai sớm và bỏ thêm kinh phí vào để sửa chữa, qua đó, đảm bảo chất lượng về nhà ở sau khi sửa chữa, xây mới và cơ bản đáp ứng được chống bão, chống lũ và tiện lợi cho sinh hoạt. UBND quận, huyện chỉ đạo Phòng LĐ-TB&XH trực tiếp theo dõi, kiểm tra lập danh sách các hộ sửa chữa nhà theo từng xã, phường; tiếp nhận kinh phí và chi tạm ứng kinh phí cho từng hộ đã có hồ sơ cam kết thực hiện. Các địa phương nắm chắc từng hộ gia đình, hướng dẫn cụ thể, tư vấn đầy đủ về các hạng mục cần sửa chữa, theo dõi sát tiến độ sửa chữa, xây dựng và ứng kinh phí kịp thời.

- Nhóm giải pháp về nhà ở xã hội + Nhóm giải pháp chung - Phát triển nhà ở xã hội (NOXH) phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng chung của thành phố đã được phê duyệt, đảm bảo có hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ nhằm góp phần nâng cao chất lượng chỗ ở, bảo vệ các giá trị văn hóa, lịch sử & môi trường, gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, ASXH và phát triển đô thị bền vững.

- Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng quỹ nhà ở giá rẻ để bán trả dần và cho thuê đối với mọi đối tượng có khó khăn trong việc cải thiện chỗ ở. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển NOXH, thu nhập

140

trung bình theo quy định của pháp luật; phát huy khả năng của từng hộ gia đình, cá nhân kết hợp với sự giúp đỡ, hỗ trợ của cộng đồng và các thành phần kinh tế để thực hiện mục tiêu cải thiện chỗ ở cho họ.

- Ban hành các quy định cụ thể để có thể hình thành các định chế tài chính phi ngân hàng như: quỹ tín thác bất động sản, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ tiết kiệm nhà ở nhằm hỗ trợ cho thị trường bất động sản huy động được đa dạng các nguồn vốn trong xã hội, không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tín dụng từ ngân hàng mà thường là các khoản tín dụng ngắn hạn. Nghiên cứu và đưa vào vận hành mô hình “Quỹ phát triển nhà ở thành phố” để tăng nguồn vốn cho đầu tư NOXH.

- Tăng cường năng lực, vai trò quản lý của chính quyền thông qua các công cụ quản lý như pháp luật, tài chính, thanh tra kiểm tra; các hoạt động nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách để thúc đẩy đầu tư kinh doanh nhà ở. Thực hiện sự điều tiết mạnh bằng cách tham gia trực tiếp đầu tư, phát triển NOXH để đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho mọi đối tượng cũng như tạo quỹ nhà nhằm bình ổn và điều tiết thị trường, hỗ trợ nhà ở có mục tiêu, nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo trong lĩnh vực nhà ở. Hình thành các tổ chức, bộ phận chuyên trách để thực thi hiệu quả công tác quản lý và phát triển nhà ở cho thành phố như: bộ phận nghiên cứu thống kê dự báo nhu cầu, bộ phận (công ty) xây dựng nhà ở, bộ phận quản lý tài chính, quản lý nhà ở.

- Đề xuất các mô hình phát triển NOXH trong thực thi chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng: Mô hình nhà cho thuê: Mô hình nhà cho thuê có ưu thế bởi những lý do sau: Không đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn; giá thuê nhà là khá rẻ phù hợp với thu nhập thấp (hiện nay giá thuê 1 căn hộ 20 m2 tại Đà Nẵng giá cho thuê khoảng từ 1,5 - đến 2,0 triệu đồng tùy theo khu vực); thích ứng với tính linh hoạt về việc làm của người thu nhập thấp là hay thay đổi chỗ làm. Với những lợi thế trên, nhà cho thuê là một mô hình có tính khả thi trong việc giải quyết nhu cầu nhà ở cho người thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay. Mô hình nhà ở giá rẻ: Nhà ở giá rẻ là một loại hình nhà ở thương mại, việc mua bán hay cho thuê không phải chịu những ràng buộc đặc thù gì theo cơ chế “xin-cho”. Người mua, kể cả người thu nhập thấp, hễ có đủ tiền thì có thể chọn mua căn hộ thích hợp tại khu vực họ muốn. Để có được giá rẻ thì phải làm tốt những việc sau: Mô hình này chỉ có thể áp dụng ở vùng ven đô, ngoại thành nơi có giá đất thấp - các dự án phải có quy mô từ 50 ha trở lên, đủ sức trở thành một đơn vị ở với đầy đủ các khu chức năng như chợ, trạm y tế, nhà trẻ, trường học, trung tâm TDTT. Cần sự hỗ trợ

141

của nhà nước trong việc đứng ra giải quyết thỏa đáng cho cả đôi bên (chủ đầu tư và người dân) trong việc giải phóng quỹ đất để phục vụ cho lợi ích cả cộng đồng. Cần phải nghiên cứu các tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng sao cho giá thành các căn hộ xuống mức thấp nhất, nhưng phải tính đến việc cải tạo, nâng cấp trong tương lai. Để có được giá rẻ thì căn hộ chỉ nên giới hạn về diện tích, mỗi căn hộ khoảng 40-60 m2 đủ đáp ứng nhu cầu ở cho hộ gia đình có 4~5 người, tức là mỗi người ở khoảng 10-12 m2. Ngoài ra cũng nên có cả loại căn hộ 20-30 m2 cho người độc thân hay mới lập gia đình. Mô hình Hợp tác xã nhà ở: Theo mô hình này, chính quyền thành phố hỗ trợ đất đai bằng cách quy hoạch sử dụng đất đai cho xây dựng nhà ở thu nhập thấp để bán, cho thuê với thời gian dài (có thể đến 90 năm) để HTX xây dựng nhà ở với giá thấp hơn thị trường từ 30-60% tùy theo khu vực và lô đất cụ thể; trợ cấp cho người sử dụng nhà thông qua việc giảm tiền thuê nhà, giảm phí dịch vụ ngoài tiền thuê nhà cho những người có thu nhập thấp; hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật đến ranh giới đất của dự án, những kết nối và bảo dưỡng hàng tháng phải trả phí. Các HTX nhà ở được thành lập từ các chủ hộ cùng trong một chung cư một tòa nhà hoặc nhiều tòa nhà [60; 61].

- Các giải pháp cụ thể + Giải pháp về huy động vốn đầu tư phát triển: Nguồn vốn ngân sách: Ưu tiên dành kinh phí từ ngân sách thỏa đáng để tập trung đầu tư phát triển NOXH. Để nâng cao nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của thành phố, khai thác nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ưu đãi của Trung ương, đồng thời có các biện pháp chống tham nhũng, tránh lãng phí, thất thoát trong quá trình thực hiện. Nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài: Tận dụng tốt các mối quan hệ sẵn có và tăng cường thiết lập các mối quan hệ mới với các tổ chức tài chính lớn trên thế giới, các tập đoàn kinh tế lớn, các quỹ đầu tư đến từ các quốc gia phát triển như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); hoặc các nhà tài trợ lớn ODA là Nhật Bản, Phần Lan, Niu Di Lân, Canada, Bỉ, Đan Mạch; chương trình định cư con người của LHQ (UN - HABITAT); các tổ chức phi chính phủ (NGO để huy động vốn ưu đãi về lãi suất và thời gian ưu đãi. Nguồn vốn từ xã hội hóa: Thu hút mọi nguồn lực tham gia thị trường NOXH bằng cách tạo mọi điều kiện và cơ hội cho mọi tầng lớp trong xã hội tham gia thị trường này. Trong điều kiện khó khăn hiện nay, để thu hút được các nguồn vốn từ xã hội hóa, trước mắt phải đẩy mạnh công tác nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với cộng đồng, xác định việc xây dựng NOXH là việc làm đòi hỏi chữ TÂM, đòi hỏi văn

142

hóa doanh nghiệp lên trên bài toán kinh tế thị trường. Về lâu dài, phải có những định hướng và cơ chế chính sách mang tính đột phá tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia như cơ chế về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, miễn giảm sử dụng đất, kết nối hạ tầng, miễn giảm thuế và những hỗ trợ về tín dụng cho các nhà đầu tư bất động sản với những dự án này. + Giải pháp về hỗ trợ tài chính: Đối với các doanh nghiệp: Kéo dài thêm thời gian miễn giảm các loại thuế, phí như: tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; miễn thuế giá trị gia tăng, được miễn thuế sử dụng đất; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; thu tiền thuê nằm trong khung giá quy định của thành phố; đơn giản hóa tối đa quy trình giải quyết thủ tục hành chính để các chủ đầu tư có thể sớm triển khai thực hiện dự án nhằm giải quyết kịp thời nhu cầu nhà ở của người dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư tiếp cận nguồn vốn từ chương trình kích cầu của thành phố với hỗ trợ lãi suất ở mức cao nhất. Đối với những chủ đầu tư có dự án vướng mắc về đền bù giải tỏa (trong tương lai) thì UBND thành phố nên có các hỗ trợ cần thiết để giúp hoàn thành công tác đền bù giải tỏa và thực hiện nhanh chóng các bước tiếp theo như quy hoạch, cấp phép xây dựng,...nhằm giúp cho chủ đầu tư sớm triển khai thực hiện dự án đáp ứng yêu cầu của chương trình NOXH. Đối với các đối tượng mua nhà ở xã hội: Để đảm bảo sự trợ giúp đến đúng đối tượng cụ thể cần giúp. Tùy theo điều kiện cụ thể có thể sử dụng các mô hình sau: Mô hình cho vay thế chấp (Là khoản tín dụng tiêu dùng do ngân hàng phát ra và lấy nhà ở làm vật thế chấp. Do khoản vay này thường có thời hạn dài nên bên cho vay phải xem xét gắn với chỉ số tiền lương của người vay và với chỉ số lạm phát của tiền tệ). Mô hình tiền công tích (Đây là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, theo đó những người làm công đều phải nộp tiền công tích như một khoản tiết kiệm được hưởng lãi và chỉ được rút ra sử dụng theo quy định của nhà nước để chi dưỡng lão, chi bảo hiểm y tế, mua nhà ở. Tiền công tích được quy định nộp theo tỷ lệ mức lương của người làm công, bao gồm 2 phần: Một phần do người làm công nộp, phần còn lại do người sử dụng lao động nộp, mức nộp hồi mới lập quỹ là 10%, mỗi bên nộp 5% và hiện nay thì người lao động nộp 23%, người chủ sử dụng nộp 15%. Nói chung, tỷ lệ nộp còn tùy thuộc vào mức lương cao thấp và cả tuổi người nộp, từ 55 tuổi trở lên thì tỷ lệ nộp giảm dần).

+ Giải pháp về phân phối nhà ở xã hội: Thực hiện dịch vụ hành chính công về NOXH; có thể giao cho một tổ chức chuyên trách cung cấp dịch vụ này. Công bố rộng rãi các tiêu chí và kết quả xét để người dân được biết và giám sát thực hiện,

143

đồng thời có phản hồi, nêu rõ lý do cụ thể cho các đối tượng không được giải quyết được biết. Thiết lập kênh thông tin và công bố danh sách các đối tượng được giải quyết NOXH lên các phương tiện thông tin đại chúng tại các website của UBND thành phố, Sở Xây dựng, Công ty Quản lý nhà chung cư… để kiểm tra, giám sát, tránh trường hợp được xem xét giải quyết nhiều lần. Thành lập Hiệp hội nhà ở xã hội thành phố với chức năng gắn kết các tổ chức và đoàn thể xã hội nhằm phát huy vai trò phản biện, giám sát, tư vấn về nhà ở, giới thiệu danh sách người thu nhập thấp mua nhà. Tăng cường công tác giám sát cộng đồng đối với công tác này. Căn cứ theo các tiêu chí quy định, cơ quan thường trực chủ trì phối hợp các ngành liên quan xem xét thẩm định đối tượng được thuê, mua nhà ở xã hội. Công bố rộng rãi các tiêu chí và kết quả xét để nhân dân thực hiện chức năng giám sát thực hiện. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc lựa chọn đối tượng được thuê, thuê mua NOXH.

+ Giải pháp về tăng cường quản lý nhà nước về nhà ở xã hội: Xác lập chế độ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý, mọi công chức đồng thời phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền được phân công. Phân cấp triệt để, đặc biệt, phân cấp nhiều hơn cho cấp quận, huyện trong việc giải quyết việc mua bán sang nhượng nhà, giám sát, kiểm tra việc tuân thủ quy hoạch xây dựng trên địa bàn. Tập trung chỉ đạo và thực hiện rà soát các loại thủ tục hành chính trong lĩnh vực phát triển nhà ở xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng tiếp cận nhà ở của người thu nhập thấp. Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân tùy tiện đặt ra các thủ tục hành chính trái pháp luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho tổ chức và công dân. Tăng cường đối thoại giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức và công dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức, công dân và các chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng, ban hành và thực thi các thủ tục hành chính về nhà ở xã hội. Hình thành, niêm yết công khai đường dây nóng, sổ góp ý, hòm thư góp ý để tiếp nhận, xử lý những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân đối với các thủ tục hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện hiệu quả hơn công tác giám sát và góp phần nâng cao chất lượng của các thủ tục hành chính về NOXH. Xử lý mạnh tay đối với một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức không nắm vững pháp luật, trình độ chuyên môn thấp, hành động tùy tiện để

144

trục lợi cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về NOXH trên địa bàn thành phố [60; 61].

4.3.2.6. Nhóm giải pháp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Trên cơ sở Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020”, thành phố xác định mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 là: Tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện; thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân. Phấn đấu đến năm 2020, trên địa bàn thành phố có 65% lực lượng lao động tham gia BHXH, 50% lực lượng lao động tham gia BHTN, 98% dân số tham gia BHYT. Sử dụng an toàn và bảo đảm cân đối quỹ BHXH trong dài hạn; quản lý, sử dụng có hiệu quả và bảo đảm cân đối quỹ BHYT. Xây dựng hệ thống BHXH, BHYT hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Để hiện thực hóa mục tiêu nói trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

- Tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản chỉ đạo của BHXH Việt Nam; Chương trình hành động số 26-Ctr/TU ngày 28/5/2013 của Thành ủy Đà Nẵng về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020”; Kế hoạch số 8190/KH-UBND ngày 16/9/2013 của UBND thành phố triển khai Chương trình hành động số 26-Ctr/TU của Thành ủy Đà Nẵng. Chủ động báo cáo và tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị liên quan để thực hiện nhiệm vụ của ngành; tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách BHXH, BHYT. BHXH thành phố cần chủ động, tích cực tham mưu BHXH Việt Nam, Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ về BHXH, BHYT, BHTN; chú trọng làm tốt công tác vận động nhân dân và người lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN; phát hiện và biểu dương kịp thời những địa phương, đơn vị, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Các cấp ủy Đảng, Mặt trận, đoàn thể chính trị-xã hội, chính quyền từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường cần có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện trên địa bàn quản lý. Trên cơ sở các quy chế, chương trình phối hợp được ký

145

kết giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể, công tác tuyên truyền cần được tăng cường đẩy mạnh và duy trì đều đặn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, bảo đảm tính sâu rộng đến tận người dân tại các khu dân cư, người lao động, học sinh, sinh viên trên địa bàn.

- Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và công tác thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN: Đổi mới phương thức hoạt động theo hướng phục vụ chi trả nhanh chóng, kịp thời; thực hiện minh bạch, công khai và tăng cường quản lý để phòng chống hiện tượng trục lợi quỹ BHXH, BHYT; xây dựng, phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong các khâu nghiệp vụ công tác; giảm phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao chất lượng phục đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT, BHTN; nghiên cứu, xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác quản lý, chuyên môn. Duy trì có hiệu quả việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của đơn vị. Nâng cao năng lực quản lý quỹ và chất lượng của hệ thống cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHYT: Trước hết, đối với ngành BHXH: tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thực hiện chính sách BHYT, đảm bảo cấp thẻ BHYT và giải quyết kịp thời các chế độ đối với người tham gia BHYT; chủ động rà soát, phân loại đối tượng, xây dựng lộ trình và tổ chức thực hiện kế hoạch BHYT toàn dân; đẩy mạnh công tác khai thác, phát triển đối tượng; tăng cường công tác giám định BHYT; phân loại đối tượng đăng ký KCB ban đầu theo hướng giảm tỷ lệ đăng ký tại các cơ sở KCB tuyến trên; nâng cao chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và tác nghiệp chuyên môn nghiệp vụ. Đối với các cơ sở khám, chữa bệnh: tăng cường nhân lực, nâng cao y đức phục vụ người bệnh; nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế tại bệnh viện và các cơ sở KCB, đảm bảo quyền lợi người có thẻ BHYT; tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ tại các cơ sở KCB; đầu tư trang thiết bị y tế, tăng cường phát triển các kỹ thuật mới để nâng cao chất lượng điều trị trên cả 2 lĩnh vực lâm sàng và cận lâm sàng.

- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức ở địa phương trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN theo Quy chế phối

146

hợp đã được UBND thành phố ban hành: Công tác chỉ đạo, phối hợp của các cấp, các ngành có vai trò quyết định; bởi vì chủ trương BHXH, BHYT mang tính toàn dân, phụ thuộc vào nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau. Nếu không có sự chỉ đạo cụ thể và phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, liên tục thì không thể đạt được kết quả như mong muốn. Với chức năng là cơ quan tham mưu, tổ chức thực hiện thì ngành Y tế và ngành BHXH thành phố là hai cơ quan chịu trách nhiệm chính. Ngoài ra, công tác chỉ đạo, phối hợp cần được tăng cường trên cơ sở các nội dung dưới đây: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, các ngành, các tổ chức đoàn thể, nhất là trách nhiệm của chính quyền cơ sở. UBND quận, huyện chủ động rà soát, giao chỉ tiêu kế hoạch cụ thể cho các xã, phường; tiếp đến UBND xã, phường giao chỉ tiêu cụ thể cho từng khối phố, tổ dân phố, thôn, xóm... để có cơ sở đánh giá kết quả thực hiện, rút kinh nghiệm triển khai các năm tiếp theo. Các sở, ban, ngành phối hợp chặt chẽ với ngành BHXH đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia BHXH, BHYT toàn dân. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về BHYT đúng quy định của pháp luật. Bảo đảm kinh phí đóng BHXH, BHYT cho các đối tượng được ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ theo quy định của Luật BHXH, BHYT. Các cấp, các ngành phải xem việc thực hiện BHYT toàn dân là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, đảm bảo sức khỏe cộng đồng và thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Triển khai thực hiện kịp thời, đầy đủ các quy định mới của Luật BHXH sửa đổi, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, Luật Việc làm. Quản lý tốt đối tượng đóng và tham gia BHXH, BHYT, BHTN từ cơ sở. Tăng cường quản lý quỹ BHXH, quỹ BHYT, quỹ BHTN bảo đảm an toàn, chặt chẽ theo quy định của pháp luật và quy định của ngành.

- Đẩy mạnh công tác kiểm tra chuyên ngành và kiểm tra liên ngành việc chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT: Thường xuyên tổ chức thanh tra việc đóng BHXH kể từ năm 2016 theo hiệu lực của Luật BHXH (sửa đổi); kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ tiền BHXH, BHYT, BHTN và các hành vi tiêu cực, trục lợi quỹ BHXH, BHYT, BHTN. Đẩy mạnh công tác thi đua khen thưởng, công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng kịp thời các đơn vị thực hiện tốt, xử phạt các đơn vị không thực hiện đúng Luật BHXH, BHYT. Định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện BHYT toàn dân trên địa bàn thành phố. Khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân, đơn vị thực hiện tốt công tác BHYT toàn dân. Đưa nội dung

147

triển khai BHYT toàn dân vào chỉ tiêu thi đua hàng năm của cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan. Tổ chức thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện kịp thời và có biện pháp xử lý, kiến nghị xử lý đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động toàn nhân dân nâng cao ý thức về trách nhiệm, quyền lợi trong việc thực hiện chính sách BHXH,BHYT và góp phần đảm bảo ASXH: Tiếp tục đưa Nghị quyết 21-NQ/TW thật sự đi vào cuộc sống, bảo đảm đạt và duy trì bền vững các mục tiêu của Nghị quyết đã đề ra, còn nhiều việc phải làm và tiếp tục cần có sự vào cuộc cả hệ thống chính trị của thành phố. Đặc biệt công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHYT, BHXH phải thực hiện thường xuyên, đa dạng, có sức thu hút, thuyết phục hơn, giúp người dân dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ tham gia. Công tác tuyên truyền tập trung vào người sử dụng lao động, người lao động và đi vào từng khu dân cư, với yêu cầu đặt ra là làm sao cho mọi người dân, người lao động... nhận thức sâu sắc được mục đích, ý nghĩa nhân văn của chính sách BHXH, BHYT và coi đó là 2 trụ cột trong chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước ta; từ đó sẽ tạo niềm tin, khơi dậy ý thức tự giác của các đối tượng trong tham gia BHYT, BHXH, BHTN khi họ đã nhận thức được lợi ích và ý nghĩa về nghĩa vụ trong thực hiện các chính sách này. Một kênh tuyên truyền hiệu quả khác là hệ thống các cơ quan báo chí và phương tiện thông tin đại chúng của thành phố. Các cơ quan báo chí của thành phố cần tập trung tuyên truyền những mô hình, cách làm hiệu quả trong vận động thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT, BHXH, BHTN, đồng thời phê phán, đấu tranh với những trường hợp trốn, né tránh thực hiện nghĩa vụ tham gia BHYT, BHXH, BHTN hoặc những hình thức đối phó chỉ tham gia với mức lương tối thiểu gây thiệt thòi quyền lợi cho người lao động [148]. Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền BHXH, BHYT trong thời gian tới, cần chú trọng những biện pháp sau: Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH, BHYT, góp phần thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHXH cho mọi người lao động, BHYT toàn dân. Hai là, cần tăng cường các đoàn đi khảo sát, đánh giá công tác tuyên truyền BHXH, BHYT tại các địa phương, đơn vị; kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập trong triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói chung và công tác tuyên truyền nói riêng để giải đáp, tháo gỡ và tham mưu, đề xuất cho cấp trên những giải

148

pháp giải quyết hiệu quả. Tiếp tục tuyên truyền về những kết quả đạt được trong thực hiện NQ21-NQ/TW của Bộ Chính trị; Chương trình hành động số 26-Ctr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020", Kế hoạch số 8190/KH-UBND ngày 16/9/2013 của UBND thành phố triển khai Chương trình hành động số 26-Ctr/TU của Thành ủy Đà Nẵng, và làm tốt công tác tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những tập thể, cá nhân làm tốt công tác BHXH, BHYT, góp phần tạo phong trào thi đua sôi nổi trong toàn xã hội tích cực tham gia BHXH, BHYT. Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền BHXH, BHYT, đảm bảo tính phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, chú trọng giải thích, làm rõ những điểm mới của các Luật BHXH sửa đổi, Luật BHYT sửa đổi, bổ sung; các chế độ, chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân, người chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT (Luật Bảo hiểm Xã hội 2014, có hiệu lực từ 01/01/2016 với những điểm mới: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, tăng mức trợ cấp ốm đau, bổ sung nhiều chế độ thai sản, điều chỉnh chế độ hưu trí, đảm bảo bình đẳng trong tham gia bảo hiểm xã hội, tổ chức thực hiện minh bạch. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2014, có hiệu lực từ 01/01/2015 với những điểm mới: Đối tượng tham gia BHYT, mức hưởng BHYT, mở thông tuyến khám chữa bệnh có BHYT). Bốn là, tăng cường phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các cấp, ngành, đặc biệt là sự phối hợp giữa Bảo hiểm xã hội với Ban tuyên giáo và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền BHXH, BHYT. Coi trọng và phát huy vai trò đơn vị cơ sở, các xã, phường, thị trấn, cơ quan, trường học, doanh nghiệp…, là địa bàn trực tiếp tổ chức vận động đối tượng và giám sát thực hiện các chế độ BHXH, BHYT. Thường xuyên gắn công tác tuyên truyền với không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT; đổi mới phương thức hoạt động theo hướng phục vụ chi trả nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền lợi người tham gia bảo hiểm; thực hiện minh bạch, công khai và tăng cường quản lý các hoạt động khám, chữa bệnh; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT; kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm, nhất là tình trạng trốn đóng, nợ BHXH, BHYT và các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng chế độ, trục lợi BHXH, BHYT. Năm là, tăng cường nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội,

149

nhất là tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp về thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT đối với người lao động. Đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHXH, BHYT, kích động, lôi kéo người dân, nhất là công nhân, người lao động biểu tình, đình công gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội [22].

Tiểu kết chương 4 Không ngừng nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực

hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “4 an” là mục tiêu chung của chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng. Tính bao phủ của hệ thống ASXH ở thành phố Đà Nẵng được thể hiện ở các nội dung: Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo có phương tiện sinh kế để sản xuất; trợ giúp việc học tập, học nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, nhất là các hộ trong diện thu hồi đất sản xuất. Tập trung nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng Đề án giảm nghèo theo chuẩn mới sau khi hoàn thành mục tiêu xóa hộ nghèo hiện nay. Thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng; đảm bảo 100% gia đình chính sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa phương nơi cư trú. Tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bảo vệ, chăm sóc. Thực hiện có hiệu quả Đề án “có việc làm”; khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, giải quyết thêm nhiều việc làm cho người lao động và sinh viên tốt nghiệp ra trường. Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động; phấn đấu đến năm 2020 giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 3%. Đẩy mạnh thực hiện Đề án “Có nhà ở”, huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; tiếp tục khuyến khích đầu tư xây dựng ký túc xá cho sinh viên, nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp...

Để hiện thực hóa mục tiêu nói trên nhằm xây dựng Đà Nẵng trở thành một thành phố giàu tính nhân văn; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống, thành phố 4 an ... cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp chung như phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, Chính quyền trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi hệ thống chính

150

sách ASXH thống nhất, đồng bộ, hiệu quả; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống ASXH gắn với cộng đồng; phân công, phối hợp, duy trì, điều chỉnh một cách đồng bộ, kịp thời trong việc thực hiện các giải pháp cụ thể trong hệ thống ASXH; dân chủ công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội trên địa bàn thành phố và những giải pháp cụ thể trên các lĩnh vực ưu đãi người có công, thương bệnh binh, gia đình chính sách; bảo trợ xã hội; giảm nghèo bền vững, dạy nghề, giải quyết việc làm (nhất là dạy nghề, giải quyết việc làm đối với lao động bị thu hồi đất sau tái định cư); nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

151

KẾT LUẬN 1. Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để

phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ASXH trong từng bước và từng chính sách phát triển là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hệ thống ASXH hiện nay bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Ưu đãi xã hội, Bảo trợ xã hội, Xóa đói giảm nghèo, Giải quyết việc làm, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế. Chính sách ASXH là hệ thống chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế - xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng; tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều; nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp…

2. Trong những năm qua, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có nhiều nỗ lực, nhiều quyết sách đúng đắn để đẩy mạnh phát triển KT - XH của địa phương. Vì vậy, Đà Nẵng luôn đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và khá ổn định, các mặt trong đời sống xã hội tiến bộ rõ rệt, giải quyết tốt các chính sách ASXH, cơ sở hạ tầng phát triển tương đối đồng bộ, đô thị được chỉnh trang và xây dựng theo hướng hiện đại và đang phấn đấu trở thành một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống. Kết quả về chính sách ASXH có thể thấy rõ qua chương trình xây dựng “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có”,“Thành phố 4 an” - là những chủ trương lớn được thành phố thực

152

hiện, nhằm hướng đến các mục tiêu an sinh bền vững: Đến nay mục tiêu “không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành. Chương trình nhà ở xã hội, Dự án ký túc xá sinh viên và nhà ở xã hội cho công nhân và người lao động; tổ chức các hoạt động kết nối giải quyết việc làm; phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, Đề án hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình người có công với cách mạng, xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, cùng với các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện phát triển rộng khắp. Đà Nẵng là thành phố đi đầu trong cả nước về công tác quy hoạch, chỉnh trang đô thị, khai thác quỹ đất cũng như làm rất tốt các Chương trình nhà ở trọng điểm của Chính phủ. Ngoài ra, thành phố đã ban hành chính sách chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm cho các đối tượng trong diện thu hồi đất. Chính sách người có công với phương châm “Chế độ trợ cấp của Nhà nước, sự chăm lo của toàn xã hội và sự phấn đấu vươn lên của chính đối tượng chính sách” đã thực sự đã đem lại cho đối tượng chính sách ổn định cuộc sống và nâng mức sống lên bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú, trở thành trách nhiệm xã hội, tình cảm và nét văn hoá dân tộc, đạt hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực. Công tác thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đã có những điểm sáng có tính “đặc thù” thông qua các hoạt động của “Hội bảo trợ phụ nữ và trẻ em nghèo bất hạnh”, “Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi”, “Hội từ thiện và bảo vệ quyền trẻ em”, “Hội nạn nhân chất độc da cam”..., với việc xây dựng mang tính chất nhân đạo như Bệnh viện Phụ nữ, Bệnh viện Ung thư tầm cỡ khu vực, ổn định đời sống của những người là nạn nhân chất độc da cam, những người có hoàn cảnh éo le, những người gặp rủi ro, tai nạn lao động, những người không chăm sóc được bản thân, người khuyết tật có được cuộc sống ổn định… Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, song công tác ASXH tại thành Đà Nẵng vẫn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục, cụ thể: Việc làm của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là các xã miền núi, các hộ dân thuộc diện di dời giải toả. Chưa có nhiều chính sách mang tính chiến lược lâu dài trong công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao nhận thức cho người nghèo, tạo việc làm, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người nghèo. Việc giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng vẫn còn những hạn chế do nguồn vốn để giải quyết việc làm còn hạn chế; công tác đào tạo chuyển đổi nghề cho lao động bị thu hồi đất còn nhiều bất cập; sự hỗ trợ của các doanh nghiệp đối với giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất còn hạn chế; tính thụ động và tâm lý sự ỷ lại, trông chờ vào

153

nhà nước của người lao động trong giải quyết việc làm vẫn còn nặng nề. Chất lượng khám chữa bệnh (KCB) ở một số cơ sở KCB BHYT còn chưa đáp ứng với sự hài lòng của người bệnh BHYT; vẫn còn tình trạng lạm dụng quỹ BHXH, BHYT; tình trạng các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, có đơn vị nợ kéo dài với số tiền lớn làm ảnh hưởng đến việc giải quyết chế độ chính sách cho người lao động....

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) chỉ rõ sự cần thiết của việc tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”. “4 an”; Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của BTV Thành uỷ liên quan đến chính ASXH đang triển khai đã nhấn mạnh các mục tiêu nhằm nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của nhân dân...Để hiện thực hóa mục tiêu nói trên nhằm xây dựng Đà Nẵng trở thành một thành phố giàu tính nhân văn; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống... cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp chung như phát huy tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, Chính quyền trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi hệ thống chính sách an sinh xã hội thống nhất, đồng bộ, hiệu quả; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống ASXH gắn với cộng đồng; phân công, phối hợp, duy trì, điều chỉnh một cách đồng bộ, kịp thời trong việc thực hiện các giải pháp cụ thể trong hệ thống ASXH trên địa bàn thành phố và những giải pháp cụ thể trên các lĩnh vực ưu đãi người có công, thương bệnh binh, gia đình chính sách; bảo trợ xã hội; giảm nghèo bền vững, dạy nghề, giải quyết việc làm (nhất là dạy nghề, giải quyết việc làm đối với lao động bị thu hồi đất sau tái định cư); nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

154

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Lê Anh (2012), “Thực hiện chính sách An sinh xã hội ở quận Hải Châu (Đà Nẵng)”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5).

2. Lê Anh (2012), “Quận Hải Châu góp phần xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố “văn minh, hiện đại, đáng sống”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, (33).

3. Lê Anh (tham gia) (2012), Vấn đề giải quyết nhà ở xã hội ở đô thị Xingapo và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Sách: PGS, TS Lê Văn Đính (chủ biên), Về Hệ thống chính trị Xingapo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Lê Anh (Tham gia) (2013), Xây dựng chính sách nhà ở cho hộ thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Chủ biên: PGS, TS Lê Văn Đính - TS Hồ Kỳ Minh), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Lê Anh (tham gia) (2015), Một số giải pháp phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung (Chủ biên: PGS, TS Lê Văn Đính - ThS Phan Thăng An), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

6. Lê Anh (2016), “Ðà Nẵng với việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (3).

7. Lê Anh (2016), “Ðà Nẵng với việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, (76).

8. Lê Anh (2016), “Chính sách nhà ở cho gười có công cách mạng ở thành phố Ðà Nẵng”, Tạp chí Thông tin lý luận chính trị, (6).

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thăng An (2016), Nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học kinh tế Đà Nẵng, Đà Nẵng.

2. Nguyễn Văn An (2014), Quản lý nhà nước về dạy nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Dũng Anh (2014), Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

4. Nguyễn Dũng Anh (2016), Giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

5. Hoàng Mai Anh (2005), "Chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức và khả năng vận dụng ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, (3).

6. Minh Anh (2015), "Những điểm mới của Luật Bảo hiểm y tế từ 1/1/2015", Báo Người đưa tin, (13).

7. Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng (2015), Báo cáo tổng kết từ năm 2010 đến năm 2015, Đà Nẵng.

8. Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng (2013), Đà Nẵng 2013 - 10 sự kiện tiêu biểu, Đà Nẵng.

9. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2012), An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.

10. Báo Đà Nẵng cuối tuần (2012), "Đà Nẵng là địa phương triển khai tốt và rất hiệu quả các dự án nhà ở cho người thu nhập thấp", tại trang http://www.baodanang.vn/, [truy cập ngày 26/12/2015].

11. Báo Đà Nẵng (2015), "Bất cập nhà xe miễn phí ở bệnh viện: Chờ chấn chỉnh", tại trang http://tamnhin.net/bat-cap-nha-xe-mien-phi-o-benh-vien-bat-an-gui-xe-o-benh-vien-61167.html, [truy cập ngày 04/12/2015].

156

12. Bảo hiểm Xã hội thành phố Đà Nẵng (2012), Báo cáo tình hình thực hiện công tác 6 tháng đầu năm 2012 và nhiệm vụ công tác tháng 7 năm 2012, Đà Nẵng.

13. Bảo hiểm Xã hội thành phố Đà Nẵng (2013), Báo cáo tình hình, kết quả hoạt động năm 2012, Phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2013, Đà Nẵng.

14. Bảo hiểm Xã hội thành phố Đà Nẵng (2014), Báo cáo tình hình, kết quả hoạt động năm 2013, Phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2014, Đà Nẵng.

15. Bảo hiểm Xã hội thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo tình hình thực hiện công tác 6 tháng đầu năm 2015 và nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2015, Đà Nẵng.

16. Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng (2015), Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất, Đà Nẵng.

17. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 33- NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

18. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020, Hà Nội.

19. Bộ Chính trị (2013), Kết luận 75-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW năm 2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hà Nội.

20. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) (2009), Xây dựng Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.

21. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 -2020, Hà Nội.

22. Bảo Châu (2015), "Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội", Tạp chí Tuyên giáo, (28).

23. Nguyễn Đức Chiện (2012), Thành công và bất cập trong chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên, Viện Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội.

24. Nguyễn Văn Chiểu (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

25. Chính phủ (2012), Tình hình an sinh xã hội của Việt Nam 06 tháng đầu năm 2012, Hà Nội.

26. Chính phủ (2013), Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.

27. Chính phủ (2013), Nghị định số 56/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Hà Nội.

28. Chính phủ (2013), 6 đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, Hà Nội. 29. Chính phủ (2014), Nghị định số 105/2014/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, Hà Nội. 30. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều

của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội. 31. Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Để đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo ở miền

Trung", Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, (3). 32. Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng (2014), Niên giám thống kê năm 2014, Nxb

Thống kê, Hà Nội. 33. Mai Ngọc Cường (2001), Bình đẳng xã hội - vấn đề chủ yếu của tư tưởng xã

hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Mai Ngọc Cường (2005), Yếu tố xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 35. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2009), Xây dựng và hoàn thiện chính sách An

sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Mai Ngọc Cường (2012), “Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội

ở nước ta những năm tới”, Tạp chí Kinh tế phát triển, (178). 37. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ (giai đoạn 1935 - 2001),

Nxb Thống kê, Hà Nội. 38. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (Chủ biên) (1999), Khung chính sách xã

hội trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trưởng: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

39. Nguyễn Duy Dũng (1998), Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi ở Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

158

40. Nguyễn Hữu Dũng (2005), "Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong điều kiện phát triển thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (1).

41. Nguyễn Tấn Dũng (2010), "Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020", Tạp chí Cộng sản, (815).

42. Đào Văn Dũng, Nguyễn Kim Phượng (2012), "Những thách thức và giải pháp bảo đảm An sinh xã hội hiện nay", Tạp chí Tuyên giáo, (8).

43. Vũ Duyên (2015), "Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng có mức phát triển con người cao tương tự Ba Lan", tại trang http://www.qdnd.vn/xa-hoi, [truy cập ngày 05/02/2016].

44. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

45. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

46. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

47. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2012), Hội nghị Thành ủy lần thứ 10 (mở rộng), nhiệm kỳ XX, Đà Nẵng.

48. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XXI, Đà Nẵng.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

159

55. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

57. Đại học Quốc gia Hà Nội - Đại học Kinh tế (2010), Chính sách công và phát triển bền vững - Cán cân thanh toán, nợ công và đầu tư công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Lê Văn Đính (2011),“Đà Nẵng với bài học thân dân, an dân và đồng thuận xã hội trong xây dựng và phát triển", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (104).

59. Lê Văn Đính (2012), Đại cương về Chính trị học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 60. Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh (2012), "Giải quyết nhà ở cho người thu nhập thấp

tại Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội, (35).

61. Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh (2013), Xây dựng chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Lê Văn Đính, Lê Anh (2013), "Quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng: Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội, (42).

63. Lê Văn Đính, Phan Thăng An (2014), Một số giải pháp phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

64. Lê Văn Đính (2015), "Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội để sớm đưa Tây Nguyên thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhằm phát triển theo hướng bền vững", Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (70).

65. Trương Công Định (2010), "Sức sống Đà Nẵng", Báo Đà Nẵng điện tử, (26). 66. Nguyễn Văn Định (2000), Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong nền

kinh tế thị trường, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Định (2002), "Vấn đề an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (17).

68. Nguyễn Văn Định (2003), "Bảo hiểm nhân thọ ở nước ta những năm tới", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (21).

160

69. Xuân Đương (2015), "Đà Nẵng dẫn đầu cả nước về chính sách nhà ở xã hội", Báo Công an thành phố Đà Nẵng, (2).

70. Kim Em, Đăng Nam (2009), "Đà Nẵng mở thêm cơ hội phát triển", Báo Tuổi Trẻ, (26), tr.6.

71. M.Grosh, C.Ninno, E.Tesliuc và A.Ouerghi (2008), Về bảo trợ xã hội và thúc đẩy xã hội: Thiết kế và triển khai hệ thống an sinh hiệu quả, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

72. Trương Đình Hạnh (2014), Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Huế, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

73. Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội - kinh nghiệm một số nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên) (2012), Giáo trình Hành chính nhà nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (Đồng chủ biên) (2013), Đại cương về Chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Nguyễn Hữu Hải (2013), Chính sách công - Những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Minh Hải (2005), Tổ chức bảo hiểm y tế đối với người nghèo - thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.

78. Hải Hậu (2012), "Dù khó khăn nhưng vẫn bám sát mục tiêu “Thành phố đáng sống”", Báo Công an Ðà Nẵng, (288), tr.3.

79. Nguyễn Hiệp, Huỳnh Văn Thắng (2012), Chăm sóc người cao tuổi trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội địa phương: trường hợp TP. Đà Nẵng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đà Nẵng.

80. Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng (1996), Một số vấn đề phúc lợi xã hội của Nhật Bản và Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội.

81. Thu Hoa (2012), "Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh: Toàn xã hội chung tay lo cho người nghèo", Báo Đà Nẵng, (4667).

82. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị (1999), Tìm hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

161

83. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học chính trị (2004), Tập bài giảng Chính trị học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

84. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học (2005), Đề cương bài giảng Chính trị học, Hà Nội.

85. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình (2011), Phần Khoa học Hành chính Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính dùng cho các đối tượng đào tạo Trung tâm Học viện, Hà Nội.

86. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2012), Lao động, tiền lương, an sinh xã hội, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

87. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III (2012), Phát triển kinh tế và an sinh xã hội - từ lý luận đến thực tiễn các tỉnh miền Trung, Hội thảo khoa học, Đà Nẵng.

88. Hồ sơ Sự kiện (2011), An sinh xã hội, (169). 89. Hội từ thiện Thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo tổng kết của các Hội từ

thiện Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 - 2010, Đà Nẵng. 90. Nguyễn Hải Hữu (2007), Giáo trình nhập môn về an sinh xã hội, Nxb Lao

động - xã hội, Hà Nội. 91. Nguyễn Hải Hữu (2007), Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao động,

Hà Nội. 92. Công Khanh (2016), "Chia sẻ yêu thương", tại trang http://cadn.com.vn/news/

64_146297_chia-se-yeu-thuong.aspx, [truy cập ngày 29/03/2016]. 93. Hữu Khá (2016), "Ðà Nẵng mời dân nhận đất tái định cư và xin lỗi", Báo Tuổi

trẻ Onlne, [truy cập ngày 21/04/2016]. 94. Mai Đức Lộc, Hồ Kỳ Minh (2009), "Hành lang kinh tế Đông Tây và việc phát

triển kinh tế Đà Nẵng", Thông tin khoa học phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, (3), tr.73.

95. Lê Quốc Lý (2014), Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Văn Lý (2015), Phát triển con người vùng duyên hải Nam Trung bộ hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện Chính trị khu vực III, Đà Nẵng.

97. Đinh Xuân Lý (2011), Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới - Mô hình, thực tiễn và kinh nghiệm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

98. Lê Chi Mai (2008), "Chính sách công", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (4). 99. Nguyễn Văn Mạnh (2011), Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển xã hội

và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Nguyễn Văn Nam (2006), "Giải quyết việc làm và thu nhập trong quá trình xoá đói giảm nghèo ở Tây Nguyên", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (2).

101. Phạm Xuân Nam (2001), Quản lý sự phát triển xã hội theo nguyên tắc tiến bộ và công bằng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững", Tạp chí Cộng sản, (7).

103. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Thông tư số 18/TT-NHNN ngày 14/8/2009 của Ngân hàng Nhà nước quy định chi tiết việc cho vay của các ngân hàng thương mại đối với các đối tượng mua, thuê mua nhà ở tại các đô thị, Hà Nội.

104. Phan Minh Nguyệt (2014), Thực hiện Pháp luật ưu đãi người có công trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

105. Trần Thị Nhung (2008), Bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản hiện nay, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

106. Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng và Nguyễn Viết Thông (2016), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Hoàng Phương (2016), "Hơn 3.000 người đi bộ vì nạn nhân chất độc da cam", Báo Lao động, ngày 05/08/2006.

108. Vũ Văn Phúc (2012), "An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Cộng sản, (834).

109. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở nước ta ở Việt Nam hướng tới năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

110. Nguyễn Thị Kim Phụng (2007), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

111. Đỗ Thanh Phương (2006), "Tỉnh Kon Tum với công tác xóa đói giảm nghèo", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (01).

163

112. Nguyễn Văn Quang (2014), Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

113. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

114. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, Hà Nội.

115. D.Rajnes (2010), "Các chương trình bảo hiểm xã hội dành cho đối tượng người khuyết tật ở Nhật Bản", Bản tin An sinh xã hội, (15).

116. Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền và Nguyễn Anh Dũng (2009), Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Thế Sinh (2010), "Nhân Đại hội hội từ thiện thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ IV (2010-2015): Yêu thương vô tận”, Báo Công an Đà Nẵng điện tử, (215).

118. Nguyễn Danh Sơn (2012), “Hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân Việt Nam”, Tạp chí Xã hội học, (2).

119. Sở Kế hoạch Đầu tư (2012), Báo cáo tham luận tại buổi Tọa đàm về thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp tại thành phố Đà Nẵng do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng tổ chức ngày 20/9/2012, Đà Nẵng.

120. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng (2010), Giải pháp sữa đổi, bổ sung cơ chế tài chính, ngân sách cho An sinh xã hội thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

121. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo Tình hình thực hiện năm 2011 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2012, Đà Nẵng.

122. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện công tác lao động, thương binh và xã hội (2010-2015) dự báo phát triển đến năm 2020, Đà Nẵng.

123. Sở Xây dựng Thành phố Đà Nẵng (2014), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2014, Đà Nẵng.

124. Nguyễn Bá Thanh (2010), "Mọi thành quả đều hướng đến mục đích phục vụ nhân dân tốt hơn", Đặc san Báo Đà Nẵng, (35), tr.4-13.

164

125. Nguyễn Bá Thanh (2010), “Đồng thuận xã hội là nguồn lực vô giá cổ vũ cho sự phát triển của thành phố”, Báo Đà Nẵng, tr.1-5.

126. Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Dũng và Phạm Đỗ Nhật Tân (1996), Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

127. Nguyễn Thị Thanh (2011), Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

128. Nguyễn Đăng Thành (2012), "Đánh giá chính sách công ở Việt Nam - Vấn đề và giải pháp", Tạp chí Cộng sản, (836), tr.68-72.

129. Nguyễn Đăng Thành (Chủ biên) (2012), Đo lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước - những thành tựu trên thế giới và ứng dụng ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

130. Phạm Đình Thành (2003), Các giải pháp cơ bản để tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.

131. Lương Vĩnh Thái (2014), Thực thi chính sách an sinh xã hội ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

132. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên) (2011), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

133. Dương Văn Thắng (2011), “Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Tuyên giáo, (5).

134. Hoàng Kiến Thiết (2005), Các giai đoạn thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện giai đoạn từ nay đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Hà Nội.

135. Đức Thịnh (2008), "Quản lý, đầu tư hạ tầng cơ sở khu dân cư còn nhiều bất cập", Báo Đà Nẵng, tr.5.

136. Lê Văn Thơm (2012), "Chung tay chăm sóc người có công", Báo Công an Đà Nẵng, (219), tr.13.

137. Nguyễn Quang Thuấn, Bùi Nhật Quang (2011), Mô hình phát triển xã hội của một số nước phát triển Châu Âu: Kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

165

138. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg về Phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020, Hà Nội.

139. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1866/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, Hà Nội.

140. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 31/2011/QĐ-TTg ngày 02 tháng 06 năm 2011 quy định việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về an sinh xã hội, Hà Nội.

141. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

142. Mạc Văn Tiến (2010), "An sinh xã hội và Phúc lợi xã hội - các cách tiếp cận lý thuyết và thực tiễn", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (23).

143. Nguyễn Thanh Toàn (2010), "Then chốt trong xóa đói giảm nghèo, xây dựng thôn, buôn vững mạnh ở Đăk Nông", Tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3).

144. Nguyễn Thị Thu Trang (2014), Giải quyết việc làm cho lao động có đất bị thu hồi trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp Lý luận chính trị - hành chính, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng.

145. Phương Trà, Thu Hoa (2016), "Các Trung tâm bảo trợ trẻ em tại Đà Nẵng: Mạnh ai nấy làm", tại trang http://www.baodanang.vn/channel/5399 /201603/cac-trung-tam-bao-tro-tre-em-tai-da-nang-manh-ai-nay-lam-2473133/, [truy cập ngày 03, 04/03/2016].

146. Dương Xuân Triệu (2004), Lộ trình và giải pháp mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9-1-2003 của Chính phủ, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

147. Nguyễn Duy Trình (2009), Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

148. Sơn Trung (2015), "Tiếp tục nâng cao nhận thức về lợi ích khi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế", tại trang http://www.baodanang.vn/, [truy cập ngày 26/12/2015].

166

149. Trung tâm Từ điển Bách khoa (1998), Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập I, Hà Nội.

150. Trung tâm Từ điển học (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, Nxb Lao động, Hà Nội.

151. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2004), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

152. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), An sinh xã hội ở Việt Nam: Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới, Diễn đàn Phát triển Việt Nam, Hà Nội.

153. Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng (2014), Phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội khu vực duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, Hội thảo khoa học, Đà Nẵng.

154. Trường Đại học Lao động (2004), Giáo trình ưu đãi xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. 155. Trường Đại học Lao động (2004), Giáo trình Cứu trợ xã hội, Nxb Lao động,

Hà Nội. 156. Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý công, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội. 157. Đinh Công Tuấn (Chủ biên) (2008), Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 158. Nguyễn Tuấn (2015), "Chương trình hỗ trợ sửa chữa, xây mới 1.000 nhà cho người

có công: Về đích sớm", Báo Công an Thành phố Đà Nẵng, (112). 159. Nguyễn Thanh Tuấn (2014), Quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã

hội trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành Chính Quốc gia, Hà Nội.

160. Đoàn Minh Tuệ (2002), "Giải pháp xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội ở nông thôn Bắc Trung Bộ", Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

161. Nguyễn Trường Uy (2009), “Lột xác và phát triển", Báo Đà Nẵng, (62), tr.1-4. 162. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng hợp quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001- 2010, Đà Nẵng.

163. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2004), Chương trình Xây dựng thành phố "5 không" xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, thể dục, thể thao (Ban hành kèm theo QĐ số 136/2004/QĐ-UBND), Đà Nẵng.

167

164. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2005), Đề án giải quyết việc làm, (Ban hành kèm theo Quyết định số 142/2005/QĐ-UBND), Đà Nẵng.

165. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2009), Quyết định số 3882/QĐ-UBND ngày 26/5/2009 về việc V/v phê duyệt Đề án Xây dựng 7000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

166. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Xây dựng chính sách nhà ở cho hộ thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Tổng quan khoa học đề tài cấp thành phố, Đà Nẵng.

167. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Báo cáo Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011-2013, Đà Nẵng.

168. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2015), Tổng hợp từ báo cáo về tình hình giải quyết việc làm cho lao động vùng di dời phục vụ phát triển các công trình công nghiệp và đô thị của các địa phương ở Đà Nẵng thời kỳ 2000-2015, Đà Nẵng.

169. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo kết quả triển khai Kế hoạch hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho gia đình người có công với cách mạng và hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2015, Đà Nẵng.

170. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở Xây dựng (2016), Báo cáo tình hình triển khai xây dựng, bố trí các khu nhà chung cư thuộc chương trình nhà ở xã hội, các ký túc xá sinh viên tập trung trên địa bàn thành phố, Đà Nẵng.

171. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 04/2012/PL/UBTVQH 13 ngày 16/7/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Hà Nội.

172. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Hà Nội.

173. Văn phòng Quốc hội (2008), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, Hà Nội.

168

174. Nguyễn Thị Hải Vân (2012),Giải quyết việc làm cho lao động thuộc diện thu hồi đất trên địa bàn Quận Ngũ Hành Sơn, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.

175. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Vùng Trung bộ - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực III (2014), Tăng trưởng xanh khu vực miền Trung - Tây Nguyên: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Đà Nẵng.

176. Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1999), Tìm hiểu về khoa học chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

177. Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Lựa chọn công cộng - một cách tiếp cận chính sách công, Hà Nội.

178. Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng (2012), Xây dựng chính sách nhà ở cho hộ thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

179. Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Đính (2012), Giáo trình Chính trị học Đại cương, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

180. Mai Vy (2012), "Nâng chuẩn hộ nghèo lên 600-800 nghìn đồng /người/ tháng", Báo Công an Đà Nẵng, (161), tr.5.

181. Thảo Vy (2015), "Hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà ở cho gia đình có công", Báo Công an Thành phố Đà Nẵng, (95), tr.2.

Tài liệu tiếng Anh 182. Charles O.Jones (1984), An Introduction to the Study of Public Policy,

Monterey, CA: Brooks/Cole. 183. Harold D. Lasswell (1956), The Decision Process: Seven Catelogies of

Functional Analysis, College Park: University of Maryland. 184. James E. Anderson (1984), Public Policy Making: An Introduction, 3rd ed,

Boston: Houghton Miíĩlin Company. 185. John Dixon (1999), Social Security in Global Perspective, Praeger. 186. Management Development Institute of Singapore (2011), Public Administration &

Public Policies; Aspects of good Governance, Singapore. 187. Robert M. Ball (1978), Social Security Today and Tomorrow, Columbia

University Press. 188. Thomas R. Dye, Understanding Public Policy (Englevvood Cliffs, NJ:

Prentice Hall, 1972):2. 189. William I. Jenkins, Policy Analysis: A Political and Organizational

Perspective (London: Martin Robertson, 1978).

1

PHỤ LỤC

TT NỘI DUNG Trang

PHỤ LỤC 1:TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ

NẴNG (1997 - 2015) 3

1 -Bảng 1.1: Tốc độ tăng GDP của Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2015 3

2 -Bảng1.2: GDP Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2015 3

3 -Bảng 1.3: Cơ cấu GDP theo ngành của Đà Nẵng 4

4 -Bảng 1.4:Thu nhập bình quân đầu người của người dân Đà Nẵng so với

cả nước (1997 - 2015) 5

5 -Bảng 1.5: Tốc độ tăng trưởng GDP các nhóm ngành kinh tế TP Đà Nẵng 5

PHỤ LỤC 2:CÁC ĐỀ ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ

NẴNG VỀ LĨNH VỰC AN SINH XÃ HỘI 6

1 -Phụ lục 2.1: Đề án xây dựng 7000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở

cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 6

2 -Phụ lục 2.2: Quyết định số 45/2012/QĐ-UBND ngày 06 tháng 10 năm

2012 của UBND thành phố về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ

xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 12

-Phụ lục 2.3: Quyết định số 25/2015/QĐ -UBND ngày 28 tháng 8 năm

2015 Về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng 19

-Phụ lục 2.4: Kế hoạch số 8190/KH-UBND ngày 16-9-2013 Triển khai

Chương trình hành động số 26 CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện

Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2012-2020” 22

PHỤ LỤC 3:NHỮNG SỐ LIỆU VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN

SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 27

1 -Phụ lục 3.1: Tổng hợp số đối tượng đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở

bảo trợ xã hộ 27

2

2 -Phụ lục 3.2 : Kết quả thực hiện trợ giúp đột xuất từ năm 2005-2014 27

3 -Phụ lục 3.3: Tổng hợp số đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng

tháng tại cộng đồng; Chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo

trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 28

4 -Phụ lục 3.4: Kết quả thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Đà Nẵng 35

5 -Phụ lục 3.5: Số liệu về dạy nghề và giải quyết việc làm trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng 40

6 -Phụ lục 3.6: Chính sách về nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ

đồng bào dân tộc thiểu số và nhà ở xã hội của thành phố Đà Nẵng 42

-Phụ lục 3.7: Số liệu về Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội 44

PHỤ LỤC 4: CÁC SỐ LIỆU VỀ DỰ BÁO VỀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG, NHU CẦU LAO ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ 47

1 -Bảng 4.1: Dự báo lực lượng lao động thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 47

2 -Bảng 4.2: Dự báo nhu cầu lao động qua đào tạo nghề 47

3 -Bảng 4.3: Tổng hợp nhu cầu lao động đào tạo nghề 47

PHỤ LỤC 5: PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC 48

1 5.1: Phiếu trưng cầu ý kiến (người dân thụ hưởng chính sách ASXH trên

địa bàn TP Đà Nẵng) 48

2 5.2.Hướng dẫn phỏng vấn sâu 53

3

PHỤ LỤC Phụ lục 1

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (1997 - 2015)

Bảng 1.1: Tốc độ tăng GDP của Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2015 (Theo giá so sánh 2010)

Năm Tốc độ TTKT(%) Năm Tốc độ TTKT(%) Năm Tốc độ TTKT (%) 1997 1998 1999 2000 2001 2002

12,71 8,80 9,50 9,88 12,23 12,56

2003 2004 2005 2006 2007 2008

12,62 13,20 13,81 9,04 11,35 10,20

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

11,78 12,87 10,89 9,10 8.37 9.42 8.52

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

Bảng 1.2: GDP Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2015 Đơn vị tính: Tỷ đồng

Năm GDP Năm GDP Năm GDP 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

2589,84 2817,74 3085,43 3390,19 3804,94 4282,94 4823,42 5460,21

(theo GCĐ 1994)

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

6236,31 6776,1 7545,4 9878,56 10477,87 11826,59 13114,89 14229,9

2013 2014 2015

14684.4 15356.8 15765.6

(giá so sánh 2010)

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

4

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

Bảng 1.3: Cơ cấu GDP theo ngành của Đà Nẵng (giá hiện hành) Đơn vị tính: %

Năm Công nghiệp -Xây dựng Thương mại -dịch vụ Nông lâm -Thủy sản 1997 2000 2005 2010 2011 2012 2013 2014

2015

35,83 40,25 50,19 42,82

46 40,45 36,14 36,34 38,03

54,43 51,89 44,68 51,81

51 57,88 60,94 61,1 59,43

9,74 7,86 5,13 2,87

3 2,97 2,92 2,56 2,54

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

5

Bảng 1.4: Thu nhập bình quân đầu người của người dân Đà Nẵng so với cả nước (1997 - 2015)

Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Cả nước Đà Nẵng 1997 2000 2005 2010 2011 2012 2013 2014 2015

3,11 5,69 10,10

22,80 (24,8) 27,00 (31,6) 33,24 (36,6)

39,95 43,42 45,7

4,69 6,84 14,51

33,21 (31,23) 41,00 (39,08) 47,39 (44,27)

47,16 52,08 62,7

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

Bảng 1.5: Tốc độ tăng trưởng GDP các nhóm ngành kinh tế TP Đà Nẵng

(theo giá so sánh 2010)

Nguồn: Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng [32].

6

Phụ lục 2 CÁC ĐỀ ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VỀ LĨNH VỰC

AN SINH XÃ HỘI

Phụ lục 2.1: ĐỀ ÁN XÂY DỰNG 7000 CĂN HỘ PHỤC VỤ CHƯƠNG TRÌNH CÓ NHÀ Ở CHO NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG:

ỦY BAN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG -------

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------- Số: 3882/QĐ-UBND Đà Nẵng, ngày 26 tháng 5 năm 2009

QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN XÂY DỰNG 7000 CĂN HỘ PHỤC VỤ CHƯƠNG TRÌNH CÓ NHÀ Ở CHO NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG -Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003; -Căn cứ Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2009 của Chính phủ về một số cơ chế,

chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;

-Căn cứ Quyết định số 76/2004/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt định hướng phát triển nhà ở đến năm 2020.

-Căn cứ Quyết định số 155/2005/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án giải quyết chỗ ở cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng đến năm 2010;

-Căn cứ Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên của các Trường Đại học, Cao Đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuê;

-Căn cứ Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê;

-Căn cứ Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ -về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;

-Theo đề nghị của Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng tại Tờ trình số 106/TTr-SXD ngày 13/5/2009, QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án Xây dựng 7000 căn hộ phục vụ chương trình có nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Điều 2. Sở Xây dựng là cơ quan thường trực, chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức triển khai thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai Đề án và định kỳ tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất giải quyết các vướng mắc, khó khăn về UBND thành phố. Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày, kể từ ngày ký. Điều 4. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân thành phố, Giám đốc các Sở: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Lao động -Thương binh và Xã hội, Công thương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các quận, huyện, Thủ trưởng các cơ quan và các tổ chức, cá nhân có liên quan căn cứ Quyết định thi hành./. TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

CHỦ TỊCH (Đã ký)

Trần Văn Minh

7

ĐỀ ÁN XÂY DỰNG 7000 CĂN HỘ PHỤC VỤ CHƯƠNG TRÌNH CÓ NHÀ Ở CHO NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

(Ban hành kèm theo Quyết định số 3882/QĐ-UBND ngày 26 tháng 5 năm 2009 của UBND thành phố Đà Nẵng)

MỞ ĐẦU

Nhà ở là nhu cầu cần thiết cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện tốt vấn đề nhà ở là tiền đề quan trọng góp phần nâng cao mức sống của nhân dân, ổn định xã hội, tác động tích cực đến việc xây dựng và phát triển. Những năm qua, thành phố có nhiều chính sách hỗ trợ nhằm giải quyết khó khăn về nhà ở cho nhân dân, những chính sách hiện hành và kết quả thực hiện đã thực sự giải quyết một bước nhu cầu nhà ở cho các đối tượng thuộc diện giải toả, gia đình chính sách, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang) và người có thu nhập thấp đang sinh sống tại khu vực đô thị.

Xuất phát từ nhu cầu thực tế và chiến lược phát triển về lâu dài của thành phố, việc xây dựng Đề án nhằm giải quyết nhà ở cho nhân dân trên địa bàn thành phố là một bước có tính đột phá trong chính sách an dân và phát triển thành phố.

Cơ sở xây dựng đề án: - Quyết định số 76/2004/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ

về việc Phê duyệt định hướng phát triển nhà ở đến năm 2020; - Quyết định số 155/2005/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Đề án giải quyết chỗ ở cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng đến năm 2010;

- Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2009 của Chính phủ về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;

- Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên của các Trường Đại học, Cao Đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuê;

- Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê;

- Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;

- Hưởng ứng chủ trương kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng của Chính phủ và chương trình nhà ở xã hội của Bộ Xây dựng;

- Tiếp tục triển khai chương trình xây dựng “Thành phố 3 có” có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hoá - văn minh đô thị của thành phố Đà Nẵng.

Mục tiêu đề án: Xây dựng 7.000 căn hộ chung cư để giải quyết nhu cầu cần thiết về nhà ở cho nhân

dân trên địa bàn thành phố, tập trung cho các đối tượng khó khăn về chỗ ở (hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư…), các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang).

8

Phần I: SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN I. THỰC TRẠNG VỀ NHÀ Ở TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: Theo thống kê về nhu cầu nhà ở tại thành phố Đà Nẵng đã khảo sát tại Đề án có nhà ở

cho nhân dân trên địa bàn thành phố giai đoạn 2005-2010 đã được UBND thành phố phê duyệt tại Quyết định số 140/2005/QĐ-UBND ngày 14 tháng 10 năm 2005 thì từ năm 2005 đến 2010 thành phố cần đầu tư xây dựng 1.154.000m2 sàn ở, trong đó thể loại nhà ở dạng chung cư là 418.500m2.

Qua hơn 03 năm triển khai tính đến nay thành phố đã và đang triển khai xây dựng được 3.484 căn hộ chung cư tương đương khoảng 174.200m2 sàn ở. Như vậy cần phải tiếp tục đầu tư xây dựng thêm 244.300m2 sàn ở, tương đương khoảng 4.886 căn hộ, chưa kể đến các thể loại nhà ở khác (nhà liền kề, nhà trệt, nhà công vụ…) và một số biến động khác về nhà ở do tái định cư, tăng trưởng về dân số, di cư…

II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG ĐỀ ÁN: Trong những năm qua, bằng nhiều nỗ lực, quyết tâm của mình Chính quyền thành phố

đã tập trung đẩy mạnh chương trình phát triển nhà ở xã hội cùng với nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, hộ gia đình, cá nhân tạo lập nhà ở, đầu tư xây dựng nhà ở thương mại. Điều kiện về nhà ở của các tầng lớp nhân dân thành phố đến nay đã dần được cải thiện. Tuy nhiên, do ngân sách có hạn, ảnh hưởng của tình hình suy thoái kinh tế chung nên quỹ nhà ở xã hội được đầu tư vẫn còn hạn chế, chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư trong lĩnh vực này nên vẫn còn nhiều đối tượng có thu nhập thấp, khó khăn về chỗ ở có nhu cầu chưa được tiếp cận về nhà ở.

Việc đầu tư xây dựng 7000 căn hộ là nhằm để giải quyết vấn đề nhà ở cho các đối tượng nêu trên, phấn đấu hoàn thành mục tiêu chương trình “có nhà ở” của thành phố, đồng thời góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, hưởng ứng chủ trương kích cầu đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội và kích cầu tiêu dùng của Chính phủ, bảo đảm an sinh xã tại thành phố nói riêng và chương trình mục tiêu của Chính phủ nói chung.

Phần II: NỘI DUNG ĐỀ ÁN I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU: - Mục đích của đề án là phát triển quỹ nhà ở để cho thuê hoặc bán với nhiều hình thức,

chính sách hỗ trợ cụ thể cho từng loại đối tượng khó khăn về chỗ ở để ổn định cuộc sống. Tăng chất lượng và điều kiện ở.

- Yêu cầu từ năm 2009 đến 2010 xây dựng thêm 7.000 căn hộ chung cư tương đương với khoảng 500.000m2 diện tích sàn xây dựng.

II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG: Các đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội, gồm: Đối tượng thuộc diện gia

đình chính sách, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang), các đối tượng là công nhân tại các khu công nghiệp và sinh viên học sinh các Trường Đại học, Cao Đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và người có thu nhập thấp đang sinh sống tại khu vực đô thị, chưa có nhà ở hoặc có nhà ở nhưng diện tích ở bình quân dưới 5m2/người mà chưa được Nhà nước hỗ trợ về nhà ở, đất ở dưới mọi hình thức.

III. CÁC GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÂY DỰNG: 1. Về địa điểm xây dựng: Trên cơ sở rà soát các địa điểm đã và đang triển khai xây dựng, các vị trí còn lại đã có

sẵn mặt bằng, có khả năng đầu tư được ngay, những vị trí theo quy hoạch khả năng giải toả đền bù thuận lợi và những vị trí theo quy hoạch, chưa giải toả đền bù, UBND thành phố đã

9

xét chọn 15 địa điểm với diện tích khoảng 30 ha với cơ sở hạ tầng bên ngoài đã được đầu tư đầy đủ.

2 . Về phương án xây dựng: 2.1 Mẫu chung cư: - Giai đoạn đầu sử dụng mẫu Chung cư đang triển khai xây dựng trên địa bàn thành

phố (có điều chỉnh một số chi tiết cho phù hợp); - Tiếp tục tổ chức xét chọn các mẫu chung cư đang tham gia thi tuyển, chọn các mẫu

chung cư có chất lượng để tiếp tục triển khai xây dựng vào các giai đoạn tiếp theo. 2.2 Qui mô: Các mẫu chung cư có chiều cao tầng từ 05 đến 07 tầng, được đầu từ đồng bộ về hạ tầng

kỹ thuật. Tầng 1 bố trí để xe không gian công cộng và khu vực dịch vụ, các tầng còn lại bố trí các căn hộ ở, diện tích trung bình mỗi căn hộ là 50m2 và tối đa không quá 70m2.

IV. VỀ KINH PHÍ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ NGUỒN VỐN: 1. Kinh phí xây dựng: - Dự kiến suất đầu tư cho mỗi căn hộ diện tích 50m2 là 200.000.000đồng. - Kinh phí đầu tư xây dựng (phần công trình) cho 7000 căn hộ là: 7.000căn

x200.000.00đồng =1.400 tỷ đồng. - Đối với phần hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà (khoảng 20% giá trị công trình) tương đương

khoảng 300 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư xây dựng: 1.700 tỷ đồng. 2. Về nguồn vốn: - Nguồn vốn từ ngân sách (30% tổng vốn) : 510 tỷ đồng. - Nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ từ chương trình xây dựng nhà ở xã hội (50% tổng

vốn) : 850tỷ đồng. - Nguồn vốn còn lại huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, vốn liên doanh, liên

kết với các tổ chức cá nhân, vốn vay của các tổ chức tín dụng; vốn từ tiền ứng trước của bên có nhu cầu mua hoặc thuê mua nhà ở và các nguồn vốn hợp pháp khác theo qui định của pháp luật (20% tổng vốn): 340 tỷ đồng.

V. VỀ CƠ CHẾ CHÍNH TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG:

1. Về cơ chế chính sách trong đầu tư xây dựng: 1.1 Đối với nhà đầu tư: Được hưởng các chính sách ưu đãi đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số

18/NQ-CP và một số chính sách khác của UBND thành phố cụ thể như sau: - Khuyến khích các thành phần tham gia đầu tư xây dựng nhà ở để bán (trả tiền một lần

hoặc bán trả góp), cho thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo phương thức xã hội hóa;

- Được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong phạm vi dự án; - Được áp dụng thuế suất ưu đãi thuế giá trị gia tăng ở mức cao nhất (thuế suất 0%); - Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế

và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm tiếp theo và được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động. Giao Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quy định này;

- Được hỗ trợ tín dụng đầu tư từ các nguồn: + Vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc bù lãi suất theo quy định; + Vay từ Quỹ phát triển nhà ở của địa phương và các nguồn vốn vay ưu đãi khác (nếu có);

10

- Được xem xét, hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi vay (tùy theo khả năng ngân sách của từng địa phương);

- Được cung cấp miễn phí các thiết kế mẫu, thiết kế điển hình về nhà ở cũng như các tiến bộ khoa học kỹ thuật về thi công, xây lắp nhằm đảm bảo giảm giá thành xây dựng công trình; được áp dụng hình thức tự thực hiện nếu có đủ năng lực theo quy định của pháp luật hoặc chỉ định thầu đối với các hợp đồng tư vấn, thi công xây lắp;

- Được nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào dự án (giao thông, cấp điện, cấp thoát nước);

- Nhà đầu tư tự bỏ vốn ra (vay hoặc huy động) để đầu tư xây dựng các khu chung cư (kể cả hạ tầng ngoài nhà) và bán với giá (tính bình quân giữa căn hộ có 02 phòng ngủ và căn hộ 03 phòng ngủ) 200triệu đồng/1căn hộ (diện tích tối thiểu 1 căn hộ là 50m2). Nhà đầu tư được khai thác sử dụng phần lớn dịên tích tầng 1 của chung cư để làm dịch vụ (diện tích còn lại làm nơi giữ xe, nhà sinh hoạt cộng đồng miễn phí), khoản thu này để thực hiện các dịch vụ quản lý tại chung cư (trừ các khoản người sử dụng căn hộ phải trả tiền là tiền: điện, nước và rác).

1.2. Đối với các đối tượng được áp dụng: Người mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp được vay vốn từ các ngân hàng thương mại

có hỗ trợ của Nhà nước về lãi suất, để thanh toán tiền mua nhà ở (trả ngay 1 lần hoặc trả góp) hoặc tiền thuê mua nhà ở.

Đối tượng mua nhà trả trước ít nhất 25% giá bán căn hộ để nhận quyền sử dụng, số tiền còn lại được trả góp hàng tháng trong thời hạn 13 năm với lãi suất theo quy định của ngân hàng cho vay đầu tư nhà ở xã hội (2,9%/năm); khi trả xong tiền mua, được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà.

2. Về quản lý sử dụng: - Chủ đầu tư dự án phải bán, cho thuê, cho thuê mua theo đúng đối tượng do Nhà nước

quy định. - Người mua hoặc thuê mua nhà ở thu nhập thấp được phép bán hoặc cho thuê sau khi

trả hết tiền cho chủ đầu tư (sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở), nhưng phải đảm bảo thời gian tối thiểu là 13 năm kể từ thời điểm ký hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng thuê mua với chủ đầu tư dự án;

- Trong thời gian chưa đủ 13 năm, kể từ khi ký hợp đồng, nếu bên mua hoặc thuê mua có nhu cầu cần chuyển nhượng nhà ở thu nhập thấp, thì chỉ được chuyển nhượng cho Nhà nước hoặc cho chủ đầu tư dự án nhà ở đó hoặc cho đối tượng được mua, thuê mua nhà ở thu nhập thấp theo quy định của địa phương; giá chuyển nhượng nhà ở không cao hơn mức giá nhà ở thu nhập thấp cùng loại tại thời điểm chuyển nhượng.

Phần III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN Uỷ ban nhân dân thành phố phân công như sau: 1. Sở Xây dựng: Là cơ quan thường trực của Đề án, có trách nhiệm: - Tham mưu cho UBND thành phố xét chọn địa điểm, mẫu chung cư và lập thủ tục phê

duyệt quy hoạch tổng mặt bằng các địa điểm xây dựng chung cư phục vụ cho Đề án; - Phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện; - Giúp UBND thành phố tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai

Đề án và định kỳ tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất giải quyết các vướng mắc, khó khăn về UBND thành phố.

2. Văn phòng UBND thành phố:

11

Chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Sở, ngành, đơn vị làm việc với các cơ quan liên quan xúc tiến nguồn vốn đầu tư xây dựng nhà ở xã hội từ Trung ương.

3. Sở Kế hoạch Đầu tư: Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính và các ngành, đơn vị có liên quan để đề xuất kế

hoạch bố trí vốn ngân sách cho chương trình nhà ở theo từng giai đoạn. Đề xuất các cơ chế, chính sách nhằm thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu tư xây dựng nhà ở xã hội.

4. Sở Tài chính: Chủ trì phối hợp với các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã

hội thành phố và các tổ chức tín dụng, ngân hàng để đề xuất qui định hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các đối tượng theo chế độ quy định, có kế hoạch bổ sung vốn ngân sách vào dự toán chi ngân sách hàng năm để đầu tư phát triển quỹ nhà ở.

5. Sở Lao động Thương binh Xã hội: Chủ trì phối hợp với UBND các quận, huyện tổ chức điều tra xác định, thống kê, phân loại

đối tượng có nhu cầu về nhà ở theo chế độ quy định, lập danh sách trình UBND thành phố. Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính và các nghành liên quan đề xuất các phương án về

hỗ trợ, miễn giảm tiền cho thuê, mua nhà của từng đối tượng trình UBND thành phố. 6. Sở Tài nguyên Môi trường: Chủ trì phối hợp với các ngành có liên quan đề xuất các chính sách, cơ chế về sử dụng

đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển quỹ nhà ở của thành phố, trình UBND thành phố phê duyệt.

7. Sở Công thương: Tập hợp báo cáo UBND thành phố về tình hình đầu tư, nắm bắt nhu cầu về hoạt động

sản xuất các ngành Công nghiệp, tham gia đề xuất các cơ chế, chính sách về đất đai nhằm tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư tại các khu công nghiệp chế xuất thực hiện việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân.

8. Uỷ ban nhân dân các quận, huyện: Phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức điều tra, thống kê, phân loại đối tượng, xác

định số hộ có nhu cầu về chỗ ở, tổ chức xét chọn các đối tượng cần quan tâm hỗ trợ giải quyết nhà ở trên địa bàn quản lý, báo cáo theo định kỳ về UBND thành phố. Quản lý sử dụng nhà chung cư trên địa bàn được phân công./.

12

Phụ lục 2.2 QUYẾT ĐỊNH SỐ 45/2012/QĐ-UBND NGÀY 06 THÁNG 10 NĂM 2012 CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP CÁC ĐỐI TƯỢNG

BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG UỶ BAN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG --------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

--------------- Số: 45/2012/QĐ-UBND Đà Nẵng, ngày 06 tháng 10 năm 2012

QUYẾT ĐỊNH

VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP CÁC ĐỐI TƯỢNG BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003; Căn cứ Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12 của Quốc hội ngày 23 tháng 11 năm

2009 và Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi;

Căn cứ Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;

Căn cứ Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;

Căn cứ Thông tư liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18 tháng 8 năm 2010 của Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Quy định mức trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội; mức trợ giúp đột xuất cho cá nhân, hộ gia đình tại cộng đồng và hỗ trợ kinh phí cho cán bộ chi trả như sau:

1. Mức trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội và mức trợ giúp đột xuất cho cá nhân, hộ gia đình tại cộng đồng do xã, phường quản lý (theo Phụ lục số 1 kèm theo Quyết định này).

2. Mức trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý (theo Phụ lục số 2 kèm theo Quyết định này).

3. Hỗ trợ kinh phí cho cán bộ chi trả ở cấp xã, phường và công tác quản lý ở quận, huyện để thực hiện chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội với mức hỗ trợ cho xã, phường là 0,4%; quận, huyện là 0,15% so với tổng số tiền trực tiếp chi trả. Nếu xã, phường nào thấp hơn 150.000 đồng/tháng thì chi đủ 150.000 đồng/tháng. Nếu xã, phường nào vượt quá 400.000 đồng/tháng thì chi 400.000 đồng/tháng. Điều 2. Kinh phí thực hiện 1. Kinh phí trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội, kinh phí hỗ trợ cho cán bộ chi trả

ở xã, phường và công tác quản lý ở quận, huyện để thực hiện chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 1 Quyết định này do ngân sách quận, huyện bảo đảm.

13

2. Kinh phí trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại khoản 2, Điều 1 Quyết định này do ngân sách thành phố đảm bảo. Điều 3. Tổ chức thực hiện 1. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: a) Hướng dẫn, kiểm tra và giám sát các quận, huyện tổ chức quản lý, thực hiện chính

sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn. b) Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành có liên quan trong việc quản lý đối tượng bảo trợ

xã hội trên địa bàn thành phố. c) Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính trong việc lập dự toán và dự kiến kinh phí đảm

bảo cho việc thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội của các địa phương, đơn vị trên địa bàn, trình Uỷ ban nhân dân thành phố để trình Hội đồng nhân dân thành phố quyết định.

d) Tổng hợp, báo cáo định kỳ trước các ngày 15/01 và 15/7 hàng năm và báo cáo đột xuất về tình hình thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Uỷ ban nhân dân thành phố.

2. Uỷ ban nhân dân các quận, huyện có trách nhiệm: a) Cân đối ngân sách, thực hiện chi trợ cấp đúng đối tượng, đúng chế độ và quyết toán

theo quy định hiện hành của Nhà nước. b) Có biện pháp quản lý tốt các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn. Hướng dẫn, kiểm

tra và giám sát cấp xã, phường trong việc xác định và quản lý đối tượng. c) Tổ chức thực hiện chính sách trợ cấp, trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn.

Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ đề nghị trợ cấp xã hội của cấp xã, phường. d) Tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình và kết quả thực hiện chính sách

trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân thành phố.

e) Hàng năm, cùng với thời điểm lập dự toán ngân sách địa phương, UBND các quận, huyện lập dự toán kinh phí thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, chuyển Sở Lao động - Thương binh và Xã hội rà soát, tổng hợp, gửi Sở Tài chính tổng hợp, trình UBND thành phố theo đúng quy định. Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký ban hành và

thay thế Quyết định số 21/2010/QĐ-UBND ngày 19 tháng 7 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định số 07/2011/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc sửa đổi, bổ sung mục I, khoản 1, Điều I Quyết định số 21/2010/QĐ-UBND. Điều 5. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân thành phố, Giám đốc các sở: Lao động -

Thương binh và Xã hội, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giáo dục và Đào tạo, Y tế; Giám đốc Kho bạc Nhà nước Đà Nẵng, Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Đà Nẵng, Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng; Chủ tịch UBND các quận, huyện, phường, xã; Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

CHỦ TỊCH (Đã ký)

Văn Hữu Chiến

14

(Phụ lục 2.2.1: Ban hành kèm theo Quyết định số 45 /2012/QĐ-UBND ngày 06 tháng 10 năm 2012 của UBND thành phố Đà Nẵng)

TT Đối tượng áp dụng Mức trợ cấp (đồng)

I TRỢ CẤP XÃ HỘI TẠI CỘNG ĐỒNG DO XÃ, PHƯỜNG QUẢN LÝ

1

Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng; trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc thuộc diện nghèo. Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi học văn hoá, học nghề có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên.

1.1 Từ 18 tháng tuổi trở lên 210.000/người/tháng

1.2 Dưới 18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên nhưng bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS 310.000/người/tháng

1.3 Dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS 410.000/người/tháng

2

Người cao tuổi cô đơn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc thuộc diện hộ nghèo; người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo.

2.1 Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa dưới 80 tuổi 210.000/người/tháng

2.2 Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa dưới 80 tuổi bị tàn tật nặng 310.000/người/tháng

2.3 Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa từ 80 tuổi trở lên 310.000/người/tháng

2.4 Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa từ 80 tuổi trở lên bị tàn tật nặng 410.000/người/tháng

3 Người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên, trong đó:

3.1

Người từ 80 tuổi đến 89 tuổi không có lương hưu hoặc không có trợ cấp BHXH hoặc đang hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với Cách mạng mà không có lương hưu hay không có trợ cấp BHXH

210.000/người/tháng

3.2 Người từ 90 tuổi đến 94 tuổi, không kể có thu nhập hay không có thu nhập 210.000/người/tháng

3.3 Người từ 95 tuổi đến 99 tuổi, không kể có thu nhập hay không có thu nhập 230.000/người/tháng

3.4 Người từ 100 tuổi trở lên, không kể có thu nhập hay không có thu nhập 350.000/người/tháng

4 Người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, gia đình có hoàn cảnh khó

15

khăn. 4.1 Người tàn tật nặng không có khả năng lao động 210.000/người/tháng 4.2 Người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ 410.000/người/tháng

5

Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

310.000/người/tháng

6 Người bị nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc thuộc diện hộ nghèo.

310.000/người/tháng

7 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi (mức trợ cấp tính theo số trẻ nhận nuôi dưỡng)

7.1 Nuôi trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên 410.000/người/tháng

7.2 Nhận nuôi dưỡng trẻ em dưới 18 tháng tuổi; trẻ em từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS 520.000/người/tháng

7.3 Nuôi trẻ dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS 620.000/người/tháng

8 Hộ gia đình có từ 2 người trở lên bị tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ, người mắc bệnh tâm thần

8.1 Có 2 người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ, người mắc bệnh tâm thần 410.000/người/tháng

8.2 Có 3 người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ, người mắc bệnh tâm thần 620.000/người/tháng

8.3 Có 4 người tàn tật nặng trở lên không có khả năng tự phục vụ, người mắc bệnh tâm thần 830.000/người/tháng

9 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi; trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề được áp dụng đến dưới 18 tuổi

9.1 Nuôi con từ 18 tháng tuổi trở lên 210.000/người/tháng

9.2 Nuôi con dưới 18 tháng tuổi; từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS 310.000/người/tháng

9.3 Nuôi con dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS 410.000/người/tháng

II MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHÁC CHO ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG TRỢ CẤP HÀNG THÁNG

1

Các đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ BHYT miễn phí, được hỗ trợ tiền mai táng phí khi qua đời (ngoại trừ các đối tượng gián tiếp như: gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi (nhóm 7), hộ gia đình có từ 2 người trở lên bị tàn tật nặng, bị tâm thần (nhóm 8), người đơn thân thuộc diện hộ nghèo đang nuôi con nhỏ (nhóm 9))

1.1 Bảo hiểm y tế Theo quy định của Luật BHYT

1.2 Trợ cấp mai táng phí 3.000.000/người 2 Đối với các đối tượng BTXH đang học văn hóa, học nghề 2.1 Hỗ trợ mua sách vở, đồ dùng học tập 200.000/người/năm

16

2.2 Được miễn học phí, học nghề và các khoản đóng góp của nhà trường

Theo quy định hiện hành về GD&ĐT

III TRỢ CẤP ĐỘT XUẤT TẠI CỘNG ĐỒNG 1 Đối với hộ gia đình 1.1 Hộ gia đình có người chết, mất tích 4.500.000/người

1.2 Hộ gia đình có người bị thương nặng phải cấp cứu hoặc phải điều trị nội trú tại cơ sở y tế 1.500.000/người

1.3 Hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng 6.000.000/hộ

1.4 Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp nhà ở từ nơi ở cũ đến nơi ở mới do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét theo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện

6.000.000/hộ

1.5 Hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng và di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét thuộc vùng khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định

7.000.000/hộ

2 Đối với cá nhân

2.1 Trợ giúp cứu đói 15kg gạo/người/tháng; từ 1 đến 3 tháng

2.2 Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú mà bị thương nặng gia đình không biết để chăm sóc 1.500.000/người

2.3 Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú mà bị chết gia đình không biết để mai táng 3.000.000/người

2.4

Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ giải quyết. Trường hợp đặc biệt cần phải kéo dài thời gian thì thời gian được hưởng trợ cấp tối đa không quá 90 ngày và mức trợ cấp bằng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng tại cơ sở bảo trợ xã hội

15.000/ngày, không quá 30 ngày

17

Phụ lục 2.2.2: Ban hành kèm theo Quyết định số 45/2012/QĐ-UBND ngày 06 tháng 10 năm 2012 của UBND thành phố Đà Nẵng

TT Đơn vị và đối tượng Mục trợ cấp Mức trợ cấp (đồng)

Tiền ăn cho người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù trại giam, không còn người nuôi dưỡng, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ, người lang thang xin ăn không tìm được người thân.

500.000/người/tháng

Tiền ăn cho trẻ em dưới 18 tháng tuổi, trẻ bị tàn tật nặng, trẻ bị nhiễm HIV/AIDS

500.000/người/tháng

Mua chăn, màn, chiếu 100.000/người/năm Quần, áo, giày, dép 200.000/người/năm Đồ dùng vệ sinh cá nhân 10.000/người/tháng Thuốc chữa bệnh thông thường 30.000/người/tháng Vật dụng cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 10.000/người/tháng

Sách, vở, đồ dùng học tập cho trẻ em đi học PT, BTVH 500.000/người/năm

Miễn học phí và các khoản đóng góp của nhà trường đối với trẻ em đi học PT, BTVH

Theo quy định hiện hành vê GD&ĐT

Trợ cấp mai táng phí 3.000.000/người

1 Trung tâm Bảo trợ xã hội

Bảo hiểm y tế Theo quy định hiện hành về BHYT

Tiền ăn cho người mắc bệnh tâm thần 500.000/người/tháng

Mua chăn, màn, chiếu 100.000/người/năm Quần, áo, giày, dép 200.000/người/năm Đồ dung vệ sinh cá nhân 10.000/người/tháng Thuốc chữa bệnh thông thường 30.000/người/tháng Vật dụng cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ 10.000/người/tháng

Trợ cấp mai táng phí 3.000.000/người

2 Trung tâm Điều dưỡng người tâm thần

Bảo hiểm y tế Theo quy định hiện hành về BHYT

3 Các đối tương: Trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, người cao

- Bảo hiểm y tế - Miễn học phí và các khoản đóng góp của nhà trường

Theo quy định hiện hành về BHYT

Theo quy định hiện

18

tuổi cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần, người bị nhiễm HIV/AIDS đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội khác.

hành về GD&ĐT

4

Trẻ em từ 13 tuổi trở lên đang nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội không còn học văn hoá

Đươc giới thiệu đến các cơ sở dạy nghề để học nghề

Theo quy định hiện hành về đào tạo ngh

19

Phụ lục 2.3 QUYẾT ĐỊNH SỐ 25/2015/QĐ -UBND NGÀY 28 THÁNG 8 NĂM 2015 VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỐI TƯỢNG BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ỦY BAN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 25 /2015/QĐ-UBND Đà Nẵng, ngày 28 tháng 8 năm 2015

QUYẾT ĐỊNH

Phụ lục 2.3:Quyết định số 25/2015/QĐ -UBND ngày 28 tháng 8 năm 2015 Về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Căn cứ Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật; Căn cứ Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người cao tuổi; Căn cứ Thông tư liên tịch số 29/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Quy định mức trợ cấp, trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và kinh phí hỗ trợ cho cán bộ chi trả như sau:

1. Mức chuẩn trợ cấp, trợ giúp xã hội là 270.000 đồng. 2. Mức trợ cấp hàng tháng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng do xã,

phường quản lý (theo Phụ lục số 01 kèm theo Quyết định này). 3. Mức trợ cấp nuôi dưỡng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã

hội công lập thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý (theo Phụ lục số 02 kèm theo Quyết định này).

4. Hỗ trợ kinh phí cho cán bộ chi trả ở cấp xã, phường và công tác quản lý ở quận, huyện để thực hiện chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội với mức hỗ trợ cho xã, phường là 0,4% so với tổng số tiền trực tiếp chi trả. Nếu xã, phường nào thấp hơn 300.000 đồng/người/tháng thì chi đủ 300.000 đồng/người/tháng. Nếu xã, phường nào vượt quá 500.000 đồng/người/tháng thì chi đủ 500.000 đồng/người/tháng. Cấp quận, huyện là 0,15% so với tổng số tiền quản lý chi trả để thẩm định hồ sơ, hỗ trợ cho cán bộ và chi phí quản lý khác.

5. Trường hợp đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng với các mức theo hệ số khác nhau quy định tại khoản 2 Điều này thì chỉ hưởng một mức cao nhất. Riêng người đơn thân nghèo, thoát nghèo trong vòng 2 năm đang nuôi con đồng thời là người bị nhiễm HIV, người cao tuổi, người khuyết tật nặng quy định tại khoản 2 Điều này thì ngoài chế độ

20

đối với người đơn thân nghèo đang nuôi con còn được hưởng chế độ người bị nhiễm HIV hoặc người cao tuổi hoặc người khuyết tật nặng; người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nhưng mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì ngoài chế độ đối với người khuyết tật còn được hưởng kinh phí hỗ trợ chăm sóc mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

6. Thời điểm áp dụng: - Đối với đối tượng đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng tại cộng đồng,

được truy lĩnh kể từ ngày 01/01/2015 (riêng mai táng phí không được truy lĩnh). Đối với đối tượng giải quyết mới hưởng chính sách trợ giúp xã hội, thời gian được tính kể từ ngày ghi trong quyết định của Chủ tịch UBND các quận, huyện;

- Đối với đối tượng đang nuôi dưỡng tập trung tại cơ sở Bảo trợ xã hội công lập được tính kể từ ngày 01 của tháng liền kề sau tháng UBND thành phố ra quyết định phê duyệt chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố.

Điều 2. Kinh phí thực hiện: Kinh phí thực hiện chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng đối với đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng, kinh phí hỗ trợ hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng tại cộng đồng và kinh phí hỗ trợ cho cán bộ chi trả ở cấp xã, phường và công tác quản lý ở quận, huyện để thực hiện chi trả trợ cấp bảo trợ xã hội quy định tại Điều 1 Quyết định này do ngân sách nhà nước đảm bảo theo phân cấp.

Điều 3. Tổ chức thực hiện 1. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: a) Hướng dẫn, kiểm tra và giám sát các quận, huyện tổ chức quản lý, thực hiện chính

sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn. b) Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành có liên quan trong việc quản lý đối tượng bảo

trợ xã hội trên địa bàn thành phố. c) Hằng năm, tại thời điểm lập dự toán ngân sách địa phương, Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội chủ trì, lập dự toán kinh phí đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo trợ xã hội của các đơn vị theo phân cấp quản lý gửi Sở Tài chính tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố trình Hội đồng nhân dân thành phố xem xét, quyết định

d) Tổng hợp, báo cáo định kỳ trước các ngày 15/01 và 15/7 hàng năm và báo cáo đột xuất về tình hình thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân thành phố.

2. Ủy ban nhân dân các quận, huyện có trách nhiệm a) Có biện pháp quản lý tốt các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn. Hướng dẫn,

kiểm tra và giám sát cấp xã, phường trong việc xác định và quản lý đối tượng. b) Tổ chức thực hiện chính sách trợ cấp, trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội trên địa

bàn. Tiếp nhận và thẩm định phê duyệt hồ sơ đề nghị trợ cấp xã hội của cấp xã, phường. c) Tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình và kết quả thực hiện chính

sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố.

d) Hằng năm, tại thời điểm lập dự toán ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân các quận, huyện lập dự toán kinh phí thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội theo phân cấp gửi Sở Tài chính tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố trình Hội đồng nhân dân thành phố quyết định theo quy định và gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để theo dõi, phối hợp thực hiện.

đ) Thực hiện chi trợ cấp đúng đối tượng, đúng chế độ và quyết toán theo quy định hiện hành của Nhà nước.

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký,

21

bãi bỏ Quyết định số 45/2012/QĐ-UBND ngày 06 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban nhân dân thành phố về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 13/2014/QĐ-UBND ngày 06/5/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố về chế độ, chính sách trợ cấp xã hội cho người khuyết tật, hộ gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và Quyết định số 45/2014/QĐ-UBND ngày 08 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban nhân dân thành phố về quy định mức trợ cấp nuôi dưỡng và vật dụng phục vụ sinh hoạt đối với các đối tượng đang nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập.

Điều 5. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố, Giám đốc các Sở: Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giáo dục và Đào tạo, Y tế; Giám đốc Kho bạc Nhà nước Đà Nẵng, Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh Đà Nẵng, Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố Đà Nẵng; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện, phường, xã; Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nơi nhận: - Văn phòng Chính phủ; - Bộ LĐTBXH, Bộ Tài chính; - Cục Kiểm tra VBQPPL-Bộ Tư pháp; - Đoàn Đại biểu Quốc hội TP; - TVTU, TT HĐND TP; - Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND TP; - Ủy ban MTTQVN TP; - Sở Tư pháp; - Các sở, ban, ngành, đoàn thể; - UBND các quận, huyện, phường, xã; - Trung tâm THVN tại Đà Nẵng; - Báo Đà Nẵng, Đài PT-TH Đà Nẵng; - Cổng TT Điện tử thành phố; - CVP, các PCVP UBNDTP; - Lưu: VT, VX.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

CHỦ TỊCH (Đã ký)

Huỳnh Đức Thơ

22

Phụ lục 2.4 KẾ HOẠCH SỐ 8190/KH-UBND NGÀY 16-9-2013 TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH

HÀNH ĐỘNG SỐ 26 CTR/TU CỦA THÀNH ỦY ĐÀ NẴNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 21-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ (KHÚA XI) “VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ GIAI ĐOẠN 2012-2020”

ỦY BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Số: 8190/KH-UBND Đà Nẵng, ngày16 tháng 9 năm 2013

KẾ HOẠCH Triển khai Chương trình hành động số 26 CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện

Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”

I. MỤC TIÊU 1. Mục tiêu tổng quát Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y

tế (BHYT), đảm bảo thực hiện lộ trình “Kế hoạch thực hiện BHYT toàn dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2012 và những năm tiếp theo”; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, BHYT, nhất là BHXH tự nguyện, hướng đến mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân; mở rộng quyền lợi, nâng cao chất lượng phục vụ, giải quyết đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách về BHXH, BHYT cho người tham gia.

2. Hiện trạng và mục tiêu cụ thể đến năm 2020 2.1. Hiện trạng: Hiện nay có 188.686 người tham gia BHXH chiếm 38,9% lực lượng lao động, có

167.157 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) chiếm 34,5% lực lượng lao động, có 899.884 người tham gia BHYT đạt tỷ lệ bao phủ toàn dân 91% (Dân số trung bình 2013 tạm tính 989.354 người; lực lượng lao động tạm tính 484.783 người; tạm tính đối tượng quân đội, công an và thân nhân quân đội khoảng 6,9% dân số tương đương 68.265 người, đối tượng nghỉ thai sản khoảng 6.000 người).

2.2. Mục tiêu: a) Về công tác BHXH: - Đến năm 2020, có khoảng 65% lực lượng lao động tham gia BHXH, 50% lực

lượng lao động tham gia BHTN. - Đến năm 2020, 100% người lao động ký hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc

có thời hạn từ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc không xác định thời hạn tham gia BHXH.

- Đến năm 2020, 100% người lao động ký hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc có thời hạn từ 12 tháng trở lên và hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc không xác định thời hạn tham gia BHTN.

Mục tiêu cụ thể từ năm 2014:

23

Năm Tỷ lệ tham gia BHXH/lực lượng lao động (%)

Tỷ lệ tham gia BHTN/lực lượng lao động (%)

2014 43 38 2015 45 40 2016 47,5 42 2017 51 44 2018 55 46 2019 60 48 2020 65 50

b) Về công tác BHYT: -Tỷ lệ BHYT đến 31/12/2013 BHYT dự kiến đạt 94%, cụ thể như sau:

TT Tên nhóm Tỷ lệ (%) 1 Nhóm 1 (Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong

doanh nghiệp) 83

2 Nhóm 2 (Hưu trí, mất sức, bảo trợ xã hội, ….) 100 3 Nhóm 3 (Hộ nghèo, cận nghèo): đạt 100% 100 4 Nhóm 4 (Trẻ em dưới 6 tuổi) 100 5 Nhóm 5 (Học sinh, sinh viên) 100 6 Nhóm 6 (Đối tượng tự nguyện tham gia BHYT) 95

-Giai đoạn từ năm 2014 đến 2020 dự kiến đạt tỷ lệ như sau:

Năm Tỷ lệ BHYT toàn dân (%) Ghi chú

2014 94 Dự báo kinh tế vẫn còn khó khăn, ảnh hưởng độ bao phủ BHYT

2015 95 2016 96 2017 96 2018 96,5 2019 97 2020 98

- Đảm bảo cân đối Quỹ BHYT hằng năm. c) Về công tác khác: - 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại các doanh nghiệp, học

sinh, sinh viên và trên 90% các đối tượng khác được tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện BHXH, BHYT.

- Thực hiện cơ chế một cửa liên thông ngành BHXH từ năm 2014. Giải quyết hồ sơ trực tuyến từ 2015.

II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật,

chính sách, chế độ BHXH, BHYT - Triển khai hoạt động mạnh tổ khai thác mới thuộc BHXH để trực tiếp gặp các đơn

vị tuyên truyền tham gia BHXH, BHYT. Tối thiểu mỗi năm đi trực tiếp đến gặp hơn 200 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực hiện việc tuyên truyền.

24

- Bình quân mỗi năm phát hành hơn 20.000 tờ rơi, tờ gấp phục vụ việc tuyên truyền BHXH, BHYT, BHTN đến tận đơn vị, tổ dân phố, thôn.

- Tuyên truyền trên sóng phát thanh ở tất cả các quận, huyện. - Tổ chức trả lời giải đáp chế độ thông qua trang thông tin điện tử cơ quan BHXH

tại địa chỉ www.bhxhdanang.gov.vn. - Có bài tuyên truyền hàng tháng trên báo ngành, báo Đà Nẵng, Bản tin nội bộ,

trang thông tin điện tử từ 2013 đến 2020. - Xây dựng và duy trì đường dây nóng tại cơ quan BHXH. - Bình quân mỗi năm treo hơn 1.000 áp phích, băng rôn, phướn ở nơi tập trung

đông dân cư, khu vực nhiều người qua lại như tại Khu công nghiệp Hòa Khánh, Khu công nghiệp Dịch vụ Thủy sản Đà Nẵng, trên các tuyến đường Trường Chinh, Ngô Quyền...

- Mỗi năm tổ chức tối thiểu 01 cuộc đối thoại, tọa đàm, tư vấn trực tiếp cho các đối tượng trên Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng hoặc Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng. Có ít nhất có 4 buổi tuyên truyền về BHXH, BHYT tại các cơ sở lớn như các trường thuộc Đại học Đà Nẵng, các trường thuộc ngành giáo dục và đào tạo thành phố, các đơn vị sử dụng lao động.

- Trả lời, xử lý đúng quy định 100% đơn, thư khiếu nại, tố cáo, hỏi chế độ được gửi đến cơ quan BHXH.

2. Tham gia hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, triển khai có hiệu quả các quy định về BHXH, BHYT

- BHXH tổ chức hoặc tham gia các nghiên cứu, đề xuất góp ý sửa đổi Luật BHXH, Luật BHYT, ưu tiên các giải pháp mở rộng đối tượng, mở rộng quyền lợi và nâng cao nhất lượng phục vụ cho người tham gia BHXH, BHYT.

- Hằng năm, BHXH tối thiểu 01 lần tiến hành rà soát, kiến nghị bổ sung để thực hiện nghiêm các quy định buộc người sử dụng lao động phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN.

- BHXH xây dựng biện pháp cụ thể thông qua các cuộc kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động; tránh trục lợi quỹ BHXH, BHYT, BHTN.

- BHXH tổ chức tham gia góp ý sửa đổi chính sách điều tiết nguồn thu BHYT kết dư, tham mưu BHXH Việt Nam trích lại tỉ lệ thích hợp cho địa phương để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh (KCB).

3. Nâng cao chất lượng dịch vụ và công tác thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT

- BHXH đẩy mạnh cải cách hành chính trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT, trong đó, tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ, giảm phiền hà cho đối tượng khi tham gia và thụ hưởng chính sách, chế độ BHXH, BHYT. Năm 2013 tiến hành cung cấp một số dịch vụ công thông qua mạng internet, mục tiêu cuối năm có ít nhất 20 đơn vị thực hiện giao dịch qua mạng, năm 2014 phấn đấu có hơn 50 đơn vị giao dịch qua mạng, bố trí cán bộ viên chức cơ quan BHXH thẩm định số liệu gửi qua mạng và gửi thông tin lại đơn vị, đảm bảo ở những đơn vị này chỉ đến cơ quan BHXH một lần để nộp hồ sơ và nhận kết quả. Nâng dần qua từng năm đến 2020 phấn đấu 95% đơn vị giao dịch qua mạng.

-Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách BHXH, BHYT ở tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị và người tham gia, đảm bảo công khai, minh bạch; xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT. Kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng nguồn quỹ BHXH, BHYT để hạn chế, ngăn chặn hiện tượng lạm dụng hoặc trục lợi từ quỹ.

25

-Kiện toàn tổ chức bộ máy của BHXH từ thành phố đến quận, huyện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý chặt chẽ; giải quyết kịp thời, chính xác các chế độ, chính sách BHXH, BHYT trên cơ sở áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 - 2008 trong toàn ngành chậm nhất cuối năm 2013.

- Đối với các cơ sở KCB: Tăng cường nhân lực, nâng cao y đức phục vụ người bệnh; nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ công chức. Tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị để đảm bảo phục vụ KCB cho người có thẻ BHYT. Đầu tư trang thiết bị y tế, tăng cường phát triển các kỹ thuật mới để nâng cao chất lượng điều trị cả 2 lĩnh vực lâm sàng và cận lâm sàng.

- Đối với các cơ sở đào tạo nghề, giới thiệu việc làm: Chủ động nghiên cứu thị trường, thường xuyên mở các lớp đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho người dân nói chung, người thất nghiệp, mất việc làm nói riêng.

4. Tăng cường quản lý Nhà nước về BHXH, BHYT - Các sở, ban, ngành, UBND quận, huyện phối hợp chặt chẽ với ngành BHXH đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia BHXH, BHYT. - Đưa chỉ tiêu thực hiện BHXH vào kế hoạch hằng năm của địa phương và các ngành liên quan và xem đây là chỉ tiêu quan trọng trong xem xét, đánh giá, bình xét các danh hiệu thi đua, khen thưởng hằng năm.

- Triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH tại địa phương. - Bảo đảm kinh phí đóng, hỗ trợ đóng BHYT từ ngân sách Nhà nước cho các đối

tượng theo luật định. - Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT. - Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHXH,

BHYT theo quy định của pháp luật. - Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, các ngành, đoàn

thể, đặc biệt là trách nhiệm của chính quyền cơ sở. - Các cấp, các ngành phải xem việc thực hiện BHXH cho mọi người lao động,

BHYT toàn dân là trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội và thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Bảo hiểm xã hội thành phố: - BHXH thành phố chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, hội, đoàn thể, cơ quan

thông tấn, báo chí và UBND các quận, huyện tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch này để mở rộng nguồn thu, phát trên đối tượng tham gia; giải quyết và chi trả kịp thời, chính xác các chế độ BHXH, BHYT cho người thụ hưởng; đảm bảo cân đối các nguồn quỹ.

-Triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001 - 2008 trong toàn ngành.

- Hàng năm, chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan, tổng hợp, báo cáo BHXH Việt Nam và UBND thành phố kết quả thực hiện Kế hoạch này.

2. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: -Thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về BHXH. Tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; kiểm tra, giám sát, cải tiến quy trình giải quyết hưởng BHTN; có giải pháp ngăn chặn tình trạng lạm dụng, gây thất thoát quỹ BHXH, BHTN.

- Chủ trì, phối hợp với BHXH thành phố trong việc quản lý cấp thẻ BHYT kịp thời, chính xác, đúng quy định cho các đối tượng thuộc diện chính sách, xã hội được ngân sách Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng BHYT.

26

3. Sở Y tế: -Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực hiện chính sách BHYT, kịp thời

phát hiện và có biện pháp xử lý các sai phạm trong KCB bệnh nhân BHYT. -Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực,

cải cách thủ tục KCB, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao y đức trong cán bộ, công chức, viên chức phục vụ người bệnh.

-Phối hợp với cơ quan BHXH thành phố và cơ quan liên quan triển khai kế hoạch BHYT toàn dân; kiểm tra việc tổ chức KCB BHYT tại các cơ sở KCB trên địa bàn, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai sót, ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quỹ BHYT.

-Phối hợp với BHXH thành phố, UBND các quận, huyện và các ngành, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHYT.

4.Sở Kế hoạch và Đầu tư: Hằng tháng, cung cấp danh sách doanh nghiệp mới thành lập qua đường thư điện tử cho BHXH thành phố Đà Nẵng để phục vụ công tác khai thác, mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT.

5.Sở Giáo dục và Đào tạo: Phối hợp với Đại học Đà Nẵng, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đóng trên địa bàn thành phố; chỉ đạo các trường trung học phổ thông và các cơ sở giáo dục do sở phụ trách; phối hợp với UBND các quận, huyện chỉ đạo các trường học, cơ sở giáo dục theo phân cấp thực hiện lộ trình BHYT toàn dân đã đặt ra.

6.Cục Thống kê thành phố: Phối hợp với BHXH thành phố trong việc cung cấp số liệu thống kê, dự báo các chỉ tiêu liên quan của từng xã, phường, quận, huyện.

7.Công an thành phố: Phối hợp với BHXH thành phố và các ngành liên quan phòng, chống các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT.

8.Ủy ban nhân dân các quận, huyện: - Giao chỉ tiêu thực hiện BHXH, BHYT hằng năm cho các đơn vị trực thuộc và

UBND các xã, phường. Chỉ đạo UBND các xã, phường giao chỉ tiêu thực hiện BHXH, BHYT đến tận tổ dân phố, thôn.

-Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc và UBND xã, phường thường xuyên phối hợp với BHXH quận, huyện thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn.

9.Đề nghị Đại học Đà Nẵng, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề

Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và BHXH thành phố tổ chức thực hiện BHYT trong học sinh, sinh viên, đảm bảo 100% học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế. Trên đây là Kế hoạch triển khai Chương trình hành động số 26-CTr/TU của Thành ủy Đà Nẵng thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”, UBND thành phố Đà Nẵng yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, UBND các quận, huyện triển khai thực hiện./. Nơi nhận: - Bộ Y tế (b/c); - Bộ LĐ-TB&XH (b/c); - BHXHVN (p/h); - TTTU, TTHĐNDTP (b/c); - UBMTTQVNTP (p/h); - CT, các PCT UBNDTP; - UBND các quận, huyện, phường, xã; - Các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể; - TT THVN tại ĐN, Đài PTTHĐN, Báo ĐN; - Lưu: VT, KTTH, VX.

TM ỦY BAN NHÂN DÂN CHỦ TỊCH

(Đã ký) Văn Hữu Chiến

27

Phụ lục 3 NHỮNG SỐ LIỆU VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Phụ lục 3.1: Tổng hợp số đối tượng đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội

Trẻ em Người khuyết tật

TT

Đơn vị

Người cao tuổi

TE mồ

côi không nơi

nương tựa

TE bị bỏ rơi

TE có hoàn cảnh khó

khăn

Người khuyết

tật

Trẻ em khuyết

tật

1 Trung tâm Bảo trợ xã hội 52 11 35 12 2 Trung tâm điều dưỡng người

tâm thần 330

3 Làng trẻ em SOS 220 4 Làng hy vọng 108 21 5 Mái ấm tình thương người già 25 6 TT Bảo trợ nạn nhân CĐDC &

TE bất hạnh - Hội NNCĐDC TP 147

7 Trung tâm nuôi TE MC Hoa Mai - Hội Bảo trợ NKT và TE MC 50

8 Trung tâm nuôi trẻ mồ côi - Hội chữ thập đỏ thành phố 2 19 15

9 Trung tâm Bảo trợ TE đường phố 41 44

10 Trung tâm nuôi trẻ mồ côi - Hội Bảo trợ NKT và TEMC thànhphố

4 9

11 Trung tâm hỗ trợ chăm sóc và dạy nghề dành cho TE có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn

6

12 Mái ấm Mary (2 cơsở) 22 8 Tổng cộng 77 356 28 160 512 48

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Phụ lục 3.2: Kết quả thực hiện trợ giúp đột xuất từ năm 2005-2014 Đơn vị tính : 1.000 đồng

Giai đoạn 2005-2010 Giai đoạn 2011-2014 Trợ cấp đột xuất Số hộ Số tiền Số hộ Số tiền Cứu trợ giáp hạt - - - - Trợ cấp lương thực Tết Nguyên đán

116.833 26.476.000 222.502 71.421.489

Trợ cấp thiên tai, hỏa hoạn 17.961 7.461.000 15.985 5.035.511 Trợ cấp đột xuất khác 680 932.000 544 962.000 Cộng 115.474 34.824.000 259.031 77.419.000

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

28

Phụ lục 3.3: Tổng hợp số đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng; Chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Bảng 3.3.1: Tổng hợp số đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng

ĐVT: 1.000 đồng

TT Đối tượng Tổng

số Mức

hưởng Kinh phí

1 năm

A Đối tượng hưởng chính sách BTXH theo QĐ số 45/2012/QĐ-UBND ngày 06/10/2012

18.431 48.158.400

1 Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi mất nguồn nuôi dưỡng 635 210- 410 1.617.000

2 Người cao tuổi cô đơn 1.008 210- 410 2.913.360 3 Người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên 15.609 210- 350 40.257.240

4 Người bị nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động

49 310 182.280

5 Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi

44 410- 620 217.800

6 Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi

1.086 210- 410 2.970.720

B Đối tượng hưởng chính sách BTXH theo QĐ số 13/2014/QĐ-UBND ngày 06/5/2014

9.134 38.801.700

1 Người khuyết tật đặc biệt nặng 706 420 3.558.240 2 Người khuyết tật đặc biệt nặng là người cao tuổi 363 525 2.286.900 3 Người khuyết tật đặc biệtnặng là trẻ em 321 525 2.022.300 4 Người khuyết tật nặng 4.949 315 18.707.220 5 Người khuyết tật nặng là người cao tuổi 1.197 420 6.032.880 6 Người khuyết tật nặng là trẻ em 804 420 4.052.160

7 Người khuyết tật đặc biệt nặng, NKT nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi

5 315 18.900

8 Hộ gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc một người khuyết tật đặc biệt nặng

727 210 1.832.040

9 Hộ gia đình nhận nuôi dưỡng, chăm sóc một người khuyết tật đặc biệt nặng

47 315 177.660

10 Hộ gia đình nhận nuôi dưỡng, chăm sóc hoặc hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng từ hai NKT ĐBN trở lên 15 630 113.400

Tổng cộng 86.960.100

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

29

Bảng 3.3.2: Chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Ban hành theo Quyết định số 25 /2015/QĐ-UBND ngày 28 / 8 /2015 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng): Mức trợ cấp hàng tháng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý và Mức trợ cấp nuôi dưỡng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý

3.3.2.1. Mức trợ cấp hàng tháng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý

TT Đối tượng áp dụng ĐVT Hệ số Mức trợ cấp (đồng)

1 2 3 4 5 I ĐỐI VỚI CÁ NHÂN

Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau: - Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi; - Mồ côi cả cha và mẹ; - Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại mất tích theo quy định của pháp luật; - Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội; - Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trạm giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; - Cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật; - Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội; - Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trạm giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

1

- Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;

Người

30

- Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trạm giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; - Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trạm giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.1 Trẻ em dưới 04 tuổi 2.5 675.000/người/tháng 1.2 Trẻ em từ 04 tuổi trở lên 1.5 405.000/người/tháng

2

Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại nhóm 1 Phụ lục này mà đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất

Người 1.5 405.000/người/tháng

3

Trẻ em bị nhiễm HIV; Người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không còn khả năng lao động mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác.

Người

3.1 Trẻ em dưới 04 tuổi 2.5 675.000/người/tháng 3.2 Trẻ em từ 04 tuổi đến dưới 16 tuổi 2,0 540.000/người/tháng 3.3 Người từ 16 tuổi trở lên 1.5 405.000/người/tháng

4

Người đơn thân thuộc diện hộ nghèo, thoát nghèo trong vòng 2 năm không có chồng hoặc không có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng người con đó đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất

Người

4.1 Đang nuôi 01 con 1,0 270.000/người/tháng 4.2 Đang nuôi từ 02 con trở lên 2,0 540.000/người/tháng

5 Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau:

31

5.1

Người cao tuổi thuộc hộ nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng

Người

5.1.1 Người từ đủ 60 tuổi đến 80 tuổi 1.5 405.000/người/tháng 5.1.2 Người từ đủ 80 tuổi trở lên 2,0 540.000/người/tháng

5.2 Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm 5.1 Phụ lục này

Người

5.2.1 Người từ đủ 80 tuổi đến 89 tuổi mà không có lương hưu hoặc không có trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng

1,0 270.000/người/tháng

5.2.2 Người từ 90 tuổi đến 99 tuổi, không kể có thu nhập hay không có thu nhập 1,0 270.000/người/tháng

5.2.3 Người từ 100 tuổi trở lên, không kể có thu nhập hay không có thu nhập 1,5 405.000/người/tháng

5.3

Người cao tuổi thuộc hộ nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH, nhà XH nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng

Người 3,0 810.000/người/tháng

6 Trẻ em khuyết tật, người khuyết tật Người 6.1 Người khuyết tật đặc biệt nặng 2,0 540.000/người/tháng

6.2 Người khuyết tật đặc biệt nặng là người cao tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em

2.5 675.000/người/tháng

6.3 Người khuyết tật nặng 1.5 405.000/người/tháng

6.4 Người khuyết tật nặng là người cao tuổi, người khuyết tật nặng là trẻ em 2,0 540.000/người/tháng

6.5 Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi một con dưới 36 tháng tuổi

1.5 405.000/người/tháng

6.6

Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang nuôi từ hai con trở lên dưới 36 tháng tuổi.

2,0 540.000/người/tháng

II ĐỐI VỚI HỘ GIA ĐÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG Hộ

1 Hộ gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc một người khuyết tật đặc biệt nặng

1,0 270.000/hộ/tháng

32

2 Trường hợp nhận nuôi dưỡng, chăm sóc một người khuyết tật đặc biệt nặng 1.5 405.000/hộ/tháng

3

Trường hợp nhận nuôi dưỡng, chăm sóc hoặc hộ gia đình trực tiếp nuôi dưỡng từ hai người khuyết tật đặc biệt nặng trở lên

3,0 810.000/hộ/tháng

4

Hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em mồ côi tại Khoản 1, Mục I và người cao tuổi cô đơn tại Điểm 5.3, Khoản 5, Mục I Phụ lục này

Hộ

4.1 Nuôi trẻ em dưới 04 tuổi 2.5 675.000/hộ/tháng 4.2 Nuôi trẻ em từ 04 tuổi đến dưới 16 tuổi 1.5 405.000/hộ/tháng

4.3

Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH, nhà XH nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng

1.5 405.000/hộ/tháng

III MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHÁC CHO ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG TRỢ CẤP THƯỜNG XUYÊN

1

Các đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ BHYT miễn phí, được hỗ trợ tiền mai táng phí khi qua đời kể cả con của người đơn thân nghèo (ngoại trừ các đối tượng gián tiếp như: gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và người cao tuổi; người đơn thân thuộc hộ nghèo đang nuôi con).

1.1 Bảo hiểm y tế Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế

1.2 Trợ cấp mai táng phí Người 20,0 5.400.000/người/lần

2

Đối với đối tượng quy định tại Khoản 1, 2, 3 và 6 Mục I Phụ lục này học mầm non, giáo dục Phổ thông, học nghề, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học

2.1 Hỗ trợ mua sách vở, đồ dùng học tập Người

2.2 Được miễn học phí, học nghề và các khoản đóng góp của nhà trường Người

Theo quy định hiện hành về GD&ĐT

IV TRỢ CẤP ĐỘT XUẤT TẠI CỘNG ĐỒNG

1 Đối với hộ gia đình

33

1.1

Hộ gia đình có người chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc lý do bất khả kháng khác

Hộ 20,0 5.400.000/hộ

1.2

Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không còn nơi ở

Hộ 20.000.000/hộ

1.3

Hộ phải di dời nhà ở khẩn cấp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền do nguy cơ sạt lở, lũ, lụt, thiên tai, hỏa hạn hoặc lý do bất khả kháng khác

Hộ 20.000.000/hộ

1.4

Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình khó khăn có nhà ở bị hư hỏng nặng do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không ở được

Hộ 15.000.000/hộ

2 Đối với cá nhân

2.1 Trợ giúp lương thực Người 15 kg gạo/người/tháng từ 01 đến 3 tháng

2.2

Người bị thương nặng do thiên tai, hoả hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác tại nơi cư trú hoặc ngoài nơi cư trú.

Người 10,0 2.700.000/người

2.3

Cơ quan, tổ chức, cá nhân tổ chức mai táng cho người chết do thiên tai, hỏa hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc lý do bất khả kháng khác không phải tại địa bàn cấp xã nơi cư trú của người đó, thì được hỗ trợ chi phí mai táng theo chi phí thực tế, nhưng không quá 30 lần mức chuẩn trợ giúp xã hội theo quy định.

Người 30,0 8.100.000/người

2.4

Người lang thang xin ăn, tâm thần lang thang trong thời gian tập trung chờ giải quyết về nơi cư trú hoặc đưa vào cơ sở BTXH, nhà xã hội, tối đa không quá 90 ngày

Người 25.000/người/ngày

3.3.2.2.Mức trợ cấp nuôi dưỡng đối với đối tượng bảo trợ xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập:

TT Nội dung hỗ trợ ĐVT Hệ số Mức trợ cấp (đồng)

1 2 3 4 5 I Tiền ăn cho các đối tượng Người 1 Trẻ em dưới 04 tuổi 5,0 1.350.000/người/tháng

34

2 Trẻ em từ 04 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc người từ đủ 60 tuổi trở lên 4,0 1.080.000/người/tháng

3 Người từ 16 tuổi đến đủ 60 tuổi 3,0 810.000/người/tháng 4 Người khuyết tật đặc biệt nặng 3,0 810.000/người/tháng

5 Người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng là người cao tuổi

4,0 1.080.000/người/tháng

II Hỗ trợ vật dụng phục vụ cho sinh hoạt thường ngày

1 Tiền mua sắm vật dụng cá nhân (chăn, màn, chiếu, gối...) Năm 300.000/người/năm

2 Tiền mua quần áo, dày dép Năm 350.000/người/năm 3 Đồ dùng, vệ sinh cá nhân Tháng 30.000/người/tháng 4 Thuốc chữa bệnh thông thường Tháng 100.000/người/tháng

5 Vật dụng cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ Tháng 30.000/người/tháng

6 Trợ cấp mai táng phí Lần 20,0 5.400.000/người/lần

7 Bảo hiểm y tế Năm Mức hỗ trợ theo quy định hiện hành về BHYT

8 Sách vở, đồ dùng học tập cho trẻ em đi học PT, BTVH và đi học nghề Năm

Mức hỗ trợ theo quy định hiện hành về GD&ĐT

III Hỗ trợ dụng cụ, phương tiện phục hồi chức năng đối với người khuyết tật đặc biệt nặng

1 Nạng, nẹp ( cấp 1 năm/1 lần) Lần 2 Chân, tay giả ( cấp 3 năm/1 lần) Lần

3 Xe lăn, xe lắc ( cấp 01 lần) Lần

Thực hiện theo Thông tư số 26/2012/TT-LĐTBXH ngày 12/11/2012 của Bộ LĐ-TBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật

4

Hỗ trợ các đối tượng: Trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV/AIDS đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội khác

Bảo hiểm y tế Năm

Miễn học phí và các khoản đóng góp của nhà trường Năm

Mức hỗ trợ theo quy định hiện hành về BHYT và GD&ĐT

35

Phụ lục 3.4: Kết quả thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Đà Nẵng Bảng 3.4.1: Kết quả thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Đà Nẵng giai đoạn 1997-2000

Xoá hộ đói trong năm Số liệu quý

III/1997 1998 1999 2000 Quận, huyện Số hộ đói % Số hộ

đói % Số hộ đói % Số hộ

đói %

Hoà Vang 502 1,63 244 0,78 95 0,28 0 0 Ngũ Hành Sơn 108 1,26 12 0,14 0 0 0 0

Sơn Trà 0 0 0 0 0 0 0 0 Hải Châu 38 0,11 0 0 0 0 0 0 Thanh Khê 32 0,12 0 0 0 0 0 0 Liên Chiểu 170 1,64 30 0,27 9 0,06 0 0 Tổng cộng 850 0,66 286 0,22 104 0,07 0 0 Số hộ thoát nghèo trong năm Số liệu quý

III/1997 1998 1999 2000

Số hộ nghèo % Hộ

nghèo % Hộ nghèo % Hộ

nghèo %

Hoà Vang 2.867 9,28 2.379 7,62 1.953 5,90 1.090 3,29 Ngũ Hành Sơn 721 8,41 578 6,74 406 4,14 230 2,35 Sơn Trà 1.731 9,89 1.115 6,25 766 3,82 440 2,20 Hải Châu 2.397 6,78 1.193 3,36 862 2,17 409 1,03 Thanh Khê 1.987 7,58 1.093 4,36 683 2,26 0 0 Liên Chiểu 768 7,42 529 4,78 375 2,72 248 1,80 Tổng cộng 10.471 8,13 6.887 5,25 5.045 3,44 2.417 1,65

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

Bảng 3.4.2: Kết quả thực hiện giảm nghèo ở Đà Nẵng, 2001-2004 Tổng Số hộ thoát nghèo trong năm Hộ 2001 2002 2003 2004

Hộ nghèo còn lại

Dân Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hoà Vang 33.117 459 1,39 455 1,37 633 1,91 975 2,94 0 0,00 Ngũ H.Sơn

9.794 242 2,47 272 2,78 432 4,41 521 5,32 0 0,00

Sơn Trà 20.043 462 2,31 441 2,20 399 1,99 400 2,00 185 0,92 Hải Châu 39.651 577 1,46 578 1,46 455 1,15 134 0,34 0 0,00 Thanh Khê

30.176 412 1,37 416 1,38 384 1,27 238 0,79 0 0,00

Liên Chiểu

13.790 140 1,02 182 1,32 194 1,41 183 1,33 0 0,00

Tổng cộng

146.571 2292 1,56 2344 1,60 2497 1,70 2451 1,67 185 0,13

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

36

Bảng 3.4.3: Kết quả thực hiện giảm nghèo ở Đà Nẵng, 2005-2008 Tổng Số hộ thoát nghèo trong năm Địa phương số hộ 2005 2006 2007

Hộ nghèo còn lại

dân Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hoà Vang 23.347 1.761 7,54 1.240 5,31 1.795 7,69 1.516 6,49 Cẩm Lệ 14.114 389 2,76 424 3,00 379 2,69 457 3,24 Ngũ H. Sơn 10.282 500 4,86 551 5,36 616 5,99 1.026 9,98 Sơn Trà 21.431 750 3,50 786 3,67 1.119 5,22 1.597 7,45 Hải Châu 37.930 980 2,58 1.081 2,85 619 1,63 332 0,88 Thanh Khê 29.831 916 3,07 1.064 3,57 1.026 3,44 723 2,42 Liên Chiểu 16.075 989 6,15 549 3,42 1.098 6,83 815 5,07 Tổng cộng 153.010 4525.761 4,11 2313.385 3,72 6.652 4,34 6.466 4,23

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

Bảng 3.4.4: Kết quả thực hiện giảm nghèo ở Đà Nẵng, 2009-2012

Năm 2009 Năm 2010

Tổng số hộ dân

Số hộ nghèo đầu năm 2009

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Q. Hải Châu 48.179 5.080 161 1.912 3.329 27 1.350 2.006 Q. Thanh Khê 43.784 4.804 97 1.579 3.322 44 1.458 1.908 Q. Sơn Trà 30.460 4.955 0 1.625 3.330 217 1.354 2.193 Q. Ngũ H.Sơn 16.985 3.426 219 850 2.795 93 1.087 1.801 Q. Liên Chiểu 34.996 4.922 0 1.578 3.344 144 1.318 2.170 Q. Cẩm Lệ 22.825 2.313 369 891 1.791 154 922 1.023 H. Hòa Vang 29.921 7.296 391 2.302 5.385 214 1.816 3.783 Tổng cộng 227.150 32.796 1.237 10.737 23.296 893 9.305 14.884

Năm 2011 Năm 2012

Tổng số hộ dân

Số hộ nghèo đầu năm 2011

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Q. Hải Châu 48.179 2.006 0 1.169 837 0 837 0 Q. Thanh Khê 43.784 1.908 22 1.312 618 0 618 0 Q. Sơn Trà 30.460 2.193 33 1.151 1.075 0 1.036 39 Q. Ngũ H.Sơn 16.985 1.801 57 978 880 0 880 0 Q. Liên Chiểu 34.996 2.170 80 1.111 1.139 1 1.140 0 Q. Cẩm Lệ 22.825 1.023 3 778 248 0 248 0 H. Hòa Vang 29.921 3.783 67 1.881 1.969 0 1.095 874 Tổng cộng 227.150 14.884 262 8.380 6.766 1 5.854 913

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

37

Bảng 3.4.5: Kết quả thực hiện giảm nghèo ở Đà Nẵng 2013-2014

Năm 2013 Năm 2014

Tổng số hộ dân

Số hộ nghèo đầu năm 2011

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Hộ nghèo phát sinh

Số hộ nghèo giảm

Số hộ còn lại

Q. Hải Châu 49.890 2.743 27 980 1.790 0 1.284 506 Q. Thanh Khê 44.910 2.601 104 887 1.818 44 959 903 Q. Sơn Trà 32.600 3.316 108 1.001 2.423 63 1.063 1.423 Q. Ngũ H.Sơn 18.940 2.257 90 839 1.508 8 921 595 Q. Liên Chiểu 39.020 4.018 128 1.328 2.818 77 1.370 1.525 Q. Cẩm Lệ 25.670 2.104 164 961 1.307 84 843 548 H. Hòa Vang 31.200 5.006 235 1.719 3.522 79 2.155 1.446 Tổng cộng 242.230 22.045 856 7.715 15.186 355 8.595 6.946

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

38

Bảng 3.4.6: Kết quả thực hiện giảm nghèo ở Đà Nẵng 2005-2014

THỰC HIỆN GIẢM NGHÈO (2005-2014)

GIAI ĐOẠN (2005-2008)

GIAI ĐOẠN (2009-2012)

GIAI ĐOẠN 2013-2014 Số

TT Đơn vị

Tổng cộng

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Tổng cộng

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Tổng cộng

Năm 2013

Năm 2014

1 Q. Hải Châu 3,012 980 1,081 619 332 5,268 1,912 1,350 1,169 837 1,509 980 1284 2 Q.Thanh Khê 3,718 916 1,064 1,026 712 4,967 1,579 1,458 1,312 618 1,301 887 959 3 Q. Sơn Trà 4,224 750 786 1,119 1,569 5,166 1,625 1,354 1,151 1,036 1,533 1000 1063 4 Q. Ngũ Hành Sơn 2,212 500 551 616 545 3,795 850 1,087 978 880 1,395 839 921 5 Q. Liên Chiểu 3,333 989 549 1,098 697 5,147 1,578 1,318 1,111 1,140 1,826 1328 1370 6 Q. Cẩm Lệ 1,488 389 424 379 296 2,839 891 922 778 248 1,400 961 843 7 H. Hòa vang 5,816 1,761 1,240 1,795 1,020 7,094 2,302 1,816 1,881 1,095 2,828 1719 2155

Toàn Thành Phố 23,803 6,285 5,695 6,652 5,171 34,276 10,737 9,305 8,380 5,854 11,792 7,714 8,595 Tỷ lệ (%) Hộ thoát

nghèo 4.11 3.72 4.35 3.38 4.73 4.10 3.69 2.58 3.20 3.40

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

39

Bảng 3.4.7: Kết quả thực hiện các giải pháp giảm nghèo từ năm (2005 -2014)

Trong đó Mục

tiêu Giải pháp

Đơn vị tính

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Năm 2014

Bố trí chung cư Hộ 0 0 0 19 56 19 9 247 79 162 Xây nhà Nhà 651.0 711.0 774.0 372.0 384.0 317.0 469.0 165.0 208 162 - Kinh phí Tr.đồng 7,297.4 8,667.5 7,740.0 5,223.0 6,238.4 7,809.0 11,583.4 5,859.17 7,963.00 6,271 Sửa chữa Nhà 122.0 200.0 1,265.0 144.0 256.0 278.0 601.0 315.0 416 522

Hỗ trợ về nhà ở

- Kinh phí Tr.đồng 732.0 1,000.0 16,475.9 666.2 1,522.0 2,028.8 7,793.5 2,920.98 3,458 5,415 Lắp đặt điện, nước Hộ 0.0 1,356.0 482.0 222.0 219.0 258.0 103.0 192.0 1 5 - Kinh phí Tr.đồng 0.0 833.0 2,308.0 253.6 217.3 368.0 149.9 1,320.8 2.00 10

CT vệ sinh Hộ 0.0 9.0 228.0 42.0 121.0 246.0 111.0 40.0 656 854

Điện, nước, công trình

vệ sinh - Kinh phí Tr.đồng 0.0 27.0 720.0 126.0 330.0 631.9 706.0 254.0 2273 1,261

Cho vay vốn Hộ 17,044 15,222.0 19,034.0 9,795.0 7,098.0 5,551.0 4,630.0 6,822.0 2658 2519

- Kinh phí Tr.đồng 102,751 70,816.0 149,320.0 102,852.0 95,610.0 76,858.0 66,521.0 105,186.0 45,757 52091 - Dư nợ Tr.đồng 330,660.0 357,160.0 370,055.0 413,378.0 432,332 357.174

Hướng dẫn cách làm ăn Người 2,943.0 1,000.0 1,590.0 13,000.0 1,597.0 4,511.0 6,206.0 13,484.0 4286 870

- Kinh phí Tr.đồng 30.0 30.0 40.0 59.5 692.4 331.2 455.7 674.2 336.56 306 Giới thiệu giải quyết việc làm Người 4,804.0 10,576.0 1,120.0 980.0 6,417.0 3,140.0 2485 2494

Dạy nghề - Số người Người 1,079.0 663.0 802.0 589.0 996.0 608.0 287.0 1,713.0 3823 1414

Hỗ trợ cho hộ

nghèo sản

xuất, kinh

doanh

- Kinh phí Tr.đồng 1,294.8 759.6 962.4 706.8 859.2 1,500.0 708.1 2,569.5 3823.00

40

Hỗ trợ phương

tiện SXKD Hộ 700.0 242.0 499.0 391.0 1,045.0 757.0 320.0 392.0 238 200 - Kinh phí Tr.đồng 0.0 236.0 2,234.0 620.1 3,021.0 3,990.0 1,692.9 2,082.8 1,760 1,124 Mua thẻ BHYT Người 20,675.0 84,059.0 93,620.0 73,144.0 137,906.0 113,368.0 114,862.0 97,135.0 97038 84117

- Kinh phí Tr.đồng 1,034.0 5,555.0 6,064.4 10,932.0 19,820.0 42,082.0 49,400.0 46,378.7 57,429.00 51.167 Khám

chữa bệnh miễn phí Người 15,800 17,277.0 1,230.0 36,559.0 17,961.0 27,165.0 30,555.0 46,831.0 17883 46069 - Kinh phí Tr.đồng 131 430.0 190.6 5,664.0 4,225.0 1,800.0 6,135.0 2,100.0 8,495.43 4.287

Miễn giảm học phí Người 4,043.0 2,906.0 5,624.0 4,994.0 4,744.0 6,582.0 8,552.0 6,083.0 3478 11.827

- Kinh phí Tr.đồng 904.0 699.0 1,437.3 1,252.8 1,090.0 2,474.0 9,300.0 2,822.95 1,672.00 3,954 Hỗ trợ

sách vở, dụng cụ học tập, học bổng Người 870.0 2,918.0 2,236.0 1,800.0 7,112.0 26,171.0 209,098.0 14,864.0 21330 11637

Hỗ trợ về y tế, giáo dục

- Kinh phí Tr.đồng 469.8 301.3 1,118.0 1,899.6 4,352.4 4,571.0 5,700.0 9,882.0 8,782.44 5,757.22

Nguồn: Ban Chỉ đạo chương trình mục tiêu giảm nghèo Đà Nẵng [7].

Phụ lục 3.5: Số liệu về dạy nghề và giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bảng 3.5.1:Quy mô lực lượng lao động và cơ cấu lao động tham gia hoạt động kinh tế chia theo ngành kinh tế ở Đà Nẵng 2005 - 2014

Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo ngành (%) Năm Tổng số lao động

(người) Thủy sản, nông lâm

Công nghiệp xây dựng Dịch vụ

2005 386.487 19,39 38,14 42,47 2006 387.277 12,95 31,25 55,80 2007 399.550 10,08 31,69 58,23 2008 430.207 9,24 32,04 58,70 2009 448.123 9,21 32,86 57,93 2010 463.796 8,72 33,46 57,82 2011 506.424 8,41 33,37 58,22 2012 515.018 9,20 32,70 58,10 2013 517.652 8,80 32,70 58,50 2014 536.650 8,60 32,75 58,65

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.5.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Đà Nẵng

Năm 2007 Năm 2009 Năm 2012 Cấp trình độ Số

người Tỷ lệ (%)

Số người

Tỷ lệ (%)

Số người

Tỷ lệ (%)

- Công nhân kỹ thuật (Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng

nghề)

88.040 22,03 114.978 25,65 140.910 28,31

- Trung học chuyên nghiệp 34.310 8,59 43.054 9,61 34.219 6,87 - Cao đẳng, Đại học, trên

Đại học 72.530 18,15 91.066 20,32 92.526 18,59

- Khác/Không có trình độ 204.670 51,23 199.025 44,41 230.024 46,22 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 3.5.3: Kết quả tuyển sinh dạy nghề Đà Nẵng, 2005 - 2013

Chia theo cấp độ Năm Tổng số Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Dưới 3T 2005 17.500 5.305 12.195 2006 20.050 5.500 14.550 2007 34.940 910 6.522 19.976 7.532 2008 38.907 2.865 6.095 22.652 7.295 2009 39.091 2.271 7.874 21.990 6.956 2010 42.187 2.730 9.750 24.302 5.405 2011 45.720 3.350 8.200 28.828 5.342 2012 44.189 4.411 4.515 25.935 9.328 2013 43.206 3.774 2.725 26.293 10.414

2014 44.633 3.682 1.740 21.750 17.461 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 3.5.4: Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi giai đoạn 2011-2013 Giai đoạn STT Các chỉ tiêu ĐVT 2011 2012 2013

1 Tổng diện tích đất nông nghiệp ha 67.268,812 66.028,1264 64.730,6264

2 Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ha 1.240,6956 1.297,50 1.385,861

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.5.5: Tình trạng việc làm của người lao động ở thành phố Đà Nẵng trước và sau

khi bị thu hồi đất Đơn vị tính: %.

Địa phương Không việc làm Nông nghiệp Công

nghiệp Hành chính

Buôn bán

Xe ôm

Việc khác

Già yếu

Trước khi bị thu hồi đất Đà Nẵng 7,4 13,7 18,0 6,5 19,9 11,4 25,5 0,6 Sau khi bị thu hồi đất Đà Nẵng 13,0 6,0 16,8 5,8 16,9 12,7 26,0 1,8

Nguồn: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng [168]. Bảng 3.5.6: Tình trạng việc làm của lao động sau khi bị thu hồi đất sản xuất ở các địa

phương thuộc thành phố Đà Nẵng (%)

Nguồn: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng [168]. Bảng 3.5.7: Số hộ và lao động bị ảnh hưởng việc làm do thu hồi đất nông nghiệp trong 3 năm

2011-2013 ở thành phố Đà Nẵng Giai đoạn STT Các chỉ tiêu Đơn vị

tính 2011 2012 2013

1 Số hộ bị thu hồi đất nông nghiệp. hộ 5.796 4.735 5.782

Tình trạng việc làm

STT Địa Phương

LĐ bị ảnh hưởng

Đủ việc làm

Thiếu việc làm

Không có việc làm

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

1 Hòa Vang 100 71.08 24.00 4.92 14.30 32.57 53.13 2 Liên Chiểu 100 76.10 21.10 2.80 8.67 61.25 30.08 3 Cẩm Lệ 100 64.26 32.33 3.41 25.00 39.90 35.1 4 Sơn Trà 100 65.39 29.87 4.74 2.36 42.00 55.64 5 Ngũ Hành Sơn 100 75.61 20.50 3.89 4.47 30.58 64.95 6 Thanh Khê 100 64.44 31.24 4.32 1.00 36.25 62.75

Số lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất nông

nghiệp Trong đó:

người 17.300 13.993 15.479

2 - Lao động bị mất việc làm do thu hồi đất nông

nghiệp người 10.172 7.054 8.499

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.5.8: Tình hình đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất

nông nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Giai đoạn STT Các chỉ tiêu Đơn vị

tính 2011 2012 2013 Số lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp

Trong đó: người 17.300 13.993 15.479

1 Lao động bị mất việc làm

do thu hồi đất nông nghiệp người 10.172 7.054 8.499

2 Số lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đã được đào

tạo nghề. người 1.855 1.697 1.786

3 Số lao động có việc làm

sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp.

người 7.929 6.847 8.115

4 Số lao động được nhận

vào DN, KCN, cụm kinh tế nhỏ

người 3.990 2.541 4.425

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.5.9: Hỗ trợ của chính quyền đối với hộ gia đình bị thu hồi đất về đào tạo, chuyển đổi

nghề nghiệp (Đơn vị: %)

Không nhận được sự hỗ

trợ nào

Hỗ trợ chuyển đổi

nghề nghiệp

Hỗ trợ học bổng học

nghề, học chữ

Hỗ trợ vay vốn làm ăn, vay ưu đãi

Hỗ trợ khác

Tổng số

74,1 11,4 1,8 5,5 7,2 100 Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng [178].

Phụ lục 3.6: Chính sách về nhà ở cho người có công với cách mạng, hộ đồng bào dân tộc

thiểu số và nhà ở xã hội của thành phố Đà Nẵng Bảng 3.6.1: Đánh giá các chính sách hỗ trợ nhà ở của UBND thành phố Đà Nẵng

Kết quả đánh giá Nội dung

ĐVT Phù hợp Chưa phù

hợp Không trả lời

(Missing system) Giá thuê nhà Số ý kiến 66 16 71

% 80,5 19,5 Số ý kiến 44 19 90 Giá bán nhà

% 69,5 30,2 Số ý kiến 10 7 136 Tỉ lệ % tiền trả

trước % 58,8 41,2 Số ý kiến 5 12 136 Lãi suất hỗ trợ

% 29,4 70,6 Số ý kiến 9 8 136 Thời gian trả

chậm % 52,9 47,1

Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng [178]. Bảng 3.6.2: Số đối tượng người có công với cách mạng ở Đà Nẵng hưởng trợ cấp ưu

đãi tính đến 01/01/2010 ĐVT: người

TT Đối tượng Đối tượng quản lý

Đang hưởng Trợ cấp

thường xuyên 1 Cán bộ Lão thành cách mạng 281 52 2 Cán bộ “Tiền khởi nghĩa” 358 116 3 Thương binh, người hưởng chính sách như TB 8.182 7.865 4 Bệnh binh 803 756 6 Người có công giúp đỡ cách mạng 9.370 2.232 7 Mẹ VNAH, AHLLVT, AHLĐ 3.177 324 - Mẹ Việt nam Anh hùng 3.088 289 - Anh hùng LLVT, Anh hùng Lao động 89 35 8 Đối tượng hưởng trợ cấp chất độc hoá học 2.335 2.335 - Đối tượng trực tiếp 1.746 1.746 - Gián tiếp (con của người tham gia KC) 589 589 9 Các loại ưu đãi khác (tuất từ trần, người phục vụ

thương, bệnh binh nặng . . . ) 1.238 1.000

10 Liệt sĩ 16.545 11 Thân nhân liệt sĩ 29.249 3.675 12 Người bị địch bắt tù đày trợ cấp 1 lần 5.922 4.190 13 Người hoạt động KC hưởng trợ cấp 1 lần 22.924 14 Quân nhân xuất ngũ từ 15-20 năm công tác 64 64 15 Người tham gia chiến tranh BVTQ, làm nhiệm vụ

quốc tế theo QĐ 62/2011/QĐ-TTg 9 9

16 Cựu thanh niên xung phong 1.110 Cộng 101.567 22.618

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.6.3: Kinh phí chi ngân sách Trung ương chi cho sự nghiệp người có công ở thành phố Đà Nẵng

Đơn vị tính: Triệu đồng

Trong đó Năm Tổng số Thường

xuyên Một lần Điều

dưỡng Chỉnh hình

Khác

2005 88.331,2 74.575,1 10.832,9 1.831,5 101,8 989,8 2006 110.331,0 93.964,0 11.841,0 2.016,0 189,0 2.321,0 2007 140.118,0 116.267,0 16.941,0 3.981,0 634,0 2.295,0 2008 170.888,0 146.744,0 17.633,0 4.079,0 642,0 1.790,0 2009 189.884,5 174.332,0 7.586,0 4.065,7 582,2 3.338,6 2010 227.802,4 206.407,2 11.932,5 4.001,2 896,4 4.502,0 2011 262.781,2 231.945,5 18.391,8 5.100,2 465,2 6.878,5 2012 310.474,4 280.998,5 18.894,6 5.067,9 506,6 5.006,7 2013 383.769,3 320.213,6 43.904,1 13.838,8 1.166,5 4.646,4 2014 409.970,0 353.528,3 43.953,1 7.168,7 817,8 4.502,1

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.6.4: Nội dung và kinh phí hỗ trợ cải thiện nhà ở cho đối tượng chính sách 10

năm từ năm 2005 đến năm 2014 TT Nội dung hỗ trợ về nhà ở Đơn vị

tính Số lượng

Số tiền (Triệu đồng)

Ghi chú

Xây dựng nhà tình nghĩa Nhà 700 16.830 Sửa chữa, nâng cấp nhà Nhà 6.160 73.062 Hỗ trợ tiền sử dụng đất Hộ 4.471 117.192 Miễn giảm theo NĐ 60 Hộ 612 32.266 Miễn giảm theo NĐ 61 Hộ 150 3.027 Tổng cộng 242.377

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.6.5:Kinh phí hỗ trợ về nhà ở cho người có công ở thành phố Đà Nẵng

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Kinh phí hỗ trợ trong năm 1,892 8,224 10,053 7,718 15,000 5,639 22,927 Lũy kế hỗ trợ 1,892 10,116 20,169 27,887 42,887 48,526 71,453

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.6.6: Nguồn lực chính chi trợ cấp và hỗ trợ người có công

Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Ngân sách TW ủy

quyền Ngân sách thành phố Quỹ đền ơn đáp

nghĩa 2005 88.331,2 9.950,5 1.762,5 2006 110.331,0 10.101,3 1.895,2 2007 140.118,0 9.523,1 6.307,4 2008 170.888,0 16.429,8 4.163,6 2009 189.884,5 19.808,6 4.824,1 2010 227.802,5 18.744,5 4.809,6 2011 262.781,2 23.936,3 5.360,5

2012 310.474,4 28.786,3 7.470,6 2013 383.769,3 29.925,0 6.836,4 2014 409.969,9 55.142.3 7.889,3

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Phụ lục 3.7: Số liệu về Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội

Bảng 3.7.1: Số người tham gia BHYT từ năm 2010 đến năm 2014 STT Năm Số người tham gia Tỷ lệ dân số 1 2010 691.816 76,62% 2 2011 770.233 81,94% 3 2012 820.400 91,70% 4 2013 929.192 93,90% 5 2014 925.321 92,50%

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.7.2: Số thu bảo hiểm y tế trong 5 năm

ĐVT: triệu đồng STT Năm Số thu BHYT Tỷ lệ so với KH 1 2010 379.900 102,00% 2 2011 470.725 113,00% 3 2012 580.372 101,30% 4 2013 690.867 101,20% 5 2014 768.743 103,87%

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 3.7.3: Số liệu khám chữa bệnh BHYT tại TP Đà Nẵng từ năm 2010 - 2014 (bao gồm: bệnh nhân nội tỉnh và các tỉnh khác đến)

Ngoại trú Nội trú Năm Số lượt Chi phí Số lượt Chi phí 2010 1.592.966 147.456.887.000 152.252 228.510.100.249 2011 1.778.037 191.647.664.700 162.789 295.524.772.300 2012 2.039.039 253.872.377.800 204.329 393.338.812.304 2013 2,330,903 303,533,328,046 239,680 568,284,667,761 2014 2,460,151 311,637,296,470 247,586 628,508,574,536

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.7.4: Số liệu khám chữa bệnh của bệnh nhân có thẻ BHYT do BHXH thành

phố phát hành từ năm 2010 - 2014 Số lượt KCB Chi phí Tần suất

Năm Số thẻ Ngoại trú Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú

Nội trú

2010 660.246 1.493.422 133.236 131.947.915.600 173.673.842.249 2,26 0,20

2011 745.538 1.677.712 138.914 173.132.318.096 216.246.205.600 2,24 0,18 2012 776,083 1,899,579 168,385 228,279,774,722 282,897,223,805 2.45 0.22 2013 842,428 2,127,380 193,466 268,900,661,105 391,301,143,099 2.53 0.23 2014 842,883 2,224,493 195,413 273,824,147,953 421,132,035,849 2.64 0.23 Tổng cộng

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 3.7.5: Chi phí khám chữa bệnh không đúng tuyến nhưng được hưởng quyền lợi khám chữa bệnh BHYT ngay tại cơ sở khám chữa bệnh thực hiện theo Luật BHYT (Mức hưởng 30%, 50% và 70% theo hạng bệnh viện):

Năm Số lượt Chi phí 2010 126.454 13.340.365.575 2011 166.825 22.602.341.156 2012 245.734 32.272.404.386 2013 353,056 49,872,842,491 2014 433,347 58,834,698,230

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 3.7.6: Số liệu thanh toán trực tiếp tại cơ quan BHXH (Bệnh nhân tự chi trả toàn bộ chi phí KCB BHYT tại cơ sở KCB sau đó đem chứng từ về cơ quan BHXH thanh toán) Năm Số lượt Chi phí 2010 1.059 1.388.978.349 2011 793 1.162.003.600 2012 584 975.333.560 2013 402 440.550.410 2014 413 493.723.637

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.7.7: Số liệu khám chữa bệnh BHYT trẻ em dưới 06 tuổi (2010-2014)

Số lượt Chi phí Tỷ lệ (số lượt)

Năm Có thẻ BHYT

Không có thẻ BHYT

Có thẻ BHYT Không có thẻ BHYT

Có thẻ BHYT

Không có thẻ BHYT

2010 161.885 27.784 18.500.542.500 7.692.494.300 85,35% 14,65% 2011 180.729 13.190 30.318.062.717 9.245.713.883 93,2% 6,8% 2012 212.687 13.601 46.050.037.135 10.480.222.550 94% 6,0% 2013 269,986 11,616 68,413,865,416 14,117,604,889 0.96% 0.04% 2014 281,260 11,185 66,619,765,360 13,166,566,465 0.96% 0.04%

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 3.7.8: Chính sách bảo hiểm y tế có tính chất hỗ trợ theo lĩnh vực an sinh xã hội1:

1 Ghi chú: Tổng số người tham gia không tính đối tượng thuộc LLVT và người nghỉ ốm đau, thai sản có sử dụng thẻ BHYT

Năm Tổng số người

Hưu trí, mất sức LĐ

Người có công

Người nghèo Trẻ em Đối tượng khác

2010 691,816 29,118 13,121 113,806 99,195 436,576 2011 770,211 31,372 13,042 115,814 103,769 506,214 2012 819,652 33,254 11,586 85,082 112,843 576,887 2013 853,883 35,274 11,333 94,704 108,010 604,562 2014 845,567 37,353 11,153 79,823 107,662 609,576

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Phụ lục 4 CÁC SỐ LIỆU VỀ DỰ BÁO VỀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG, NHU CẦU LAO

ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ

Bảng 4.1: Dự báo lực lượng lao động thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 CHỈ TIÊU THỰC HIỆN

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 LLLĐ (người) 448.123 463.796 506.424 515.018 517.652 536.650

CHỈ TIÊU DỰ BÁO Năm 2015 2016 2017 2018 2019 2020

LLLĐ (người) 556.345 576.763 597.930 619.874 642.623 666.207

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122]. Bảng 4.2: Dự báo nhu cầu lao động qua đào tạo nghề

CHỈ TIÊU THỰC HIỆN

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2009 2011 2013 2014

Lực lượng lao động Người 448.123 506.424 517.652 536.650 Số LĐ qua đào tạo nói

chung Người 208.467 263340 300.238 321.990

Tỷ lệ lao động qua đào tạo % 46,52 52,00 58,00 60,00 Số LĐ qua đào tạo nghề Người 156.395 197.505 222.590 241.490

Tỷ lệ LĐ qua đào tạo nghề % 34,90 39,00 43,00 45,0

CHỈ TIÊU DỰ BÁO

Chỉ tiêu Đơn vị tính 2016 2020

Lực lượng lao động Người 556.345 666.207 Số LĐ qua đào tạo nghề Người 264.260 428.270

Tỷ lệ LĐ qua đào tạo nghề % 47,50 64,20 Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Bảng 4.3. Tổng hợp nhu cầu lao động đào tạo nghề

Chỉ tiêu 2015 2016-2020 Đào tạo mới 23.950 162.830

Đào tạo lại (2%) 5.370 34.830 Tổng nhu cầu đào tạo 29.320 197.660

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Đà Nẵng [122].

Phụ lục 5

PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC

TT Nội dung 5.1 Phiếu trưng cầu ý kiến (người dân thụ hưởng chính sách ASXH trên địa bàn

TP Đà Nẵng) 5.1 5.2.Hướng dẫn phỏng vấn sâu

5.1: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Người dân thụ hưởng chính sách ASXH trên địa bàn TP Đà Nẵng)

Kính thưa ông/bà!

Nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để tư vấn xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội (ASXH) cho người dân ngày càng tốt hơn, chúng tôi tiến hành cuộc khảo sát để tìm hiểu thực trạng về đời sống cũng như thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa.

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác của ông/bà, những thông tin ông/bà cung cấp sẽ được giữ kín và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu.

Chúng tôi rất mong ông/bà cho biết ý kiến của mình về một số câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn cùng với các phương án trả lời. Ông/bà đồng ý với phương án nào thì đánh dấu vào ô vuông cùng dòng R, nếu không đồng ý xin để trống ô vuông □.

Xin chân thành cám ơn!

Quận/ Huyện: …………………………………………….…………Xã/Phường/ Thị trấn: ……………………………………………

Mã vùng

Điều tra viên …………………………………….……Ngày tháng năm: ………./ ………/ 2015

I. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI Ông (bà) vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân như sau: 1. Giới tính 1. Nam □ 2. Nữ □ 2. Độ tuổi:

1. Dưới 20 4. Từ 41-50 2. Từ 21-30 5. Từ 51- 60 3. Từ 31-40 6. Trên 61

3. Trình độ học vấn?

1. Không biết chữ □ □ 2. Tốt nghiệp tiÓu häc □

5. THCN

3. Tốt nghiệp THCS □ 6. Cao đẳng, đại học □

4. Tốt nghiệp THPT □ 7. Trên đại học □ 4 Tình trạng hôn nhân

1. Chưa có vợ/chồng □ 4. Goá □ 2. Đang có vợ/chồng □ 5. Ly thân □

3. Ly hôn (ly dị) □ 6. Độc thân □

5 Nghề nghiệp hoặc việc làm chính hiện nay?

1. Nông nghiệp □ 7. Bộ đội, công an □

2. Công nhân □ 8. Giáo viên □ 3. Ngư nghiệp □ □

4. Lâm nghiệp □ 8. Kinh doanh/buôn bán/dịch vụ

5.Thủ công nghiệp/thợ thủ công □ 9. Nội trợ □

6. Cán bộ, công chức, viên chức □ 10. Không có việc làm □ 11.Khác (ghi rõ):............................................................................

II. THÔNG TIN VỀ HỘ GIA ĐÌNH 6. Nơi ở hiện tại của gia đình ông/bà?

1. Thành thị 2. Nông thôn

□ □

7. Số thế hệ chung sống trong gia đình ông/bà?

1. Một thế hệ □

2. Hai thế hệ □ 3. Ba thế hệ trở lên □

8. Số thành viên hiện đang sống cùng gia đình ông/bà?...................... người

9. Thu nhập trung bình/tháng của hộ gia đình ông/bà là bao nhiêu? (tính quy đổi thành tiền): ................................................................. VN đồng

10. Chi tiêu trung bình/tháng của hộ gia đình ông/bà là bao nhiêu? (tính quy đổi thànhtiền):.......................................................................VN đồng

Trong đó chi cho: Tỷ lệ %

1. Ăn uống và sinh hoạt ........................................

2. Học tập của các thành viên ........................................

3. Chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh ........................................ 4. Các hoạt động văn hóa, giải trí ........................................

5. Chi khác ........................................ 11. Ông/bà hài lòng ở mức độ như thế nào đối với các nội dung sau:

Mức độ Nội dung Rất hài

lòng Hài lòng

Không hài lòng

Khó đánh giá

1. Việc làm 2. Thu nhập 3. Chi tiêu cho đời sống

4. Điều kiện nhà ở 5. Học tập của các thành viên 9. Điện sinh hoạt 10. Nước sinh hoạt 11. Vệ sinh môi trường 13. Trật tự an ninh

12. So với các gia đình ở địa phương hiện nay, mức sống của hộ gia đình ông/bà thuộc loại nào?

1. Giàu có □ 4. Nghèo □

2. Khá giả □ 5. Rất nghèo □ 3. Trung bình □ 6. Không biết/ không trả lời □

III. VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

13. Ông/bà cho biết ý kiến đánh giá của mình về hiệu quả thực thi chính sách ASXH trên địa bàn Đà Nẵng trong 5 năm gần đây

Mức độ đánh giá Các chính sách

Rất tốt

Tốt Bình thường

Không tốt lắm

Rất không tốt

1.Bảo trợ xã hội

2.Giảm nghèo

3.Giải quyết việc làm

4. Chính sách nhà ở

5.Ưu đãi người có công

6. Chính sách Bảo hiểm xã hội

7. Chính sách Bảo hiểm y tế

14. Theo ông/ bà, những chính sách trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong diện thụ hưởng chính sách khắc phục khó khăn để ổn định đời sống hay chưa chưa?

Mức độ đánh giá Các chính sách

Rất thuận lợi

Thuận lợi

Khá thuận lợi

Không thuận lợi

Rất không thuận lợi

1.Bảo trợ xã hội

2.Giảm nghèo

3.Giải quyết việc làm

4. Chính sách nhà ở

5.Ưu đãi người có công

6. Chính sách Bảo hiểm xã hội

7. Chính sách Bảo hiểm y tế

15. Theo ông/bà, còn những hạn chế trong qúa trình thực thi chính sách ASXH trên địa bàn Đà Nẵng thời gian qua do những nguyên nhân nào sau đây?

1.Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu

2. Do bị nhiều thiên tai

3.Do quá trình đô thị hóa quá nhanh, trong khi khả năng tạo việc làm cho nông dân bị mất đất có hạn

4. Một số chính sách ASXH còn mang tính chất bao cấp nên giải quyết thiếu công bằng

5. Phẩm chất của một số cán bộ thực thi chính sách ASXH chưa thực sự trong sáng, khách quan, thiếu nhiệt tình

6. Do những quy định trong một số chính sách trước đây không còn

phù hợp với tình hình hiện nay

Câu 16. Để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ASXH trên địa bàn Đà Nẵng những năm tới, theo ông/bà, Thành phố cần phải chú trọng thực hiện những giải pháp nào sau đây?

1.Chú trọng công tác xã hội hóa để tạo nguồn lực dồi dào

2. Xây dựng, kiện toàn bộ máy thực thi chính sách ASXH

3.Tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách

4. Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức và ý thức người dân

5. Cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch về chính sách

6. Tạo điều kiện về cơ chế tài chính cho phát triển chính sách ASXH của Thành phố

Xin chân thành cảm ơn các ý kiến quý báu của ông/ bà.

5.2. HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

1. Họ tên người được phỏng vấn: ………………………… Giới: ……………… Tuổi: ……………… Trình độ học vấn cao nhất: ……………… Dân tộc: ……………… Tôn giáo: ……………… Ngành nghề chính hiện nay: ………………………………

Nơi cư trú: Quận/Huyện: ……………………… Xã/Phường: …………………………………

2. Họ và tên người thực hiện phỏng vấn: ................................. Ngày phỏng vấn: ...... tháng ..... năm 2015

Địa điểm phỏng vấn: .................................................................... Nội dung phỏng vấn:

1. Lâu nay ông/bà có nghe nói nhiều đến các chính sách ASXH do thành phố Đà

Nẵng thực hiện hay không? Thử kể tên một số chính sách ASXH mà TP Đà Nẵng đang

quan tâm thực hiện?

2. Trong gia đình ông/bà, lâu nay có ai nằm trong diện thụ hưởng các chính sách

ASXH của thành phố hay không? Nếu có thì xin nói cụ thể

3. Theo ý kiến ông/bà thì khó khăn nhất cần giúp đỡ cho những người nghèo,

người có hoàn cảnh khó khăn hiện nay là điều gì ?

4.Ông/bà đánh giá như thế nào đối với việc thực thi các chính sách ASXH (gồm:

bảo trợ xã hội, giảm nghèo, giải quyết việc làm, chính sách nhà ở, chính sách người có

công, chính sách BHXH, BHYT). Nếu không hài lòng xin ông/bà cho biết chính sách nào

và lý do tại sao?

5.Ông/bà cho biết trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công

nghiệp hóa, đô thị hóa có tác động như thế nào đến đời sống của gia đình ông/bà (tác

động tích cực và tác động tiêu cực).

6.Ông/bà có kiến nghị hay đề xuất vấn đề gì đối với các cấp, các ngành, nhằm thực

thi chính sách ASXH hiệu quả nhất