phÁp luẬt vỀ xỬ phẠt vi phẠm hÀnh chÍnh: lÝ luẬn...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI TIẾN ĐẠT
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
5
1.1. Xử phạt vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 8
1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 11
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính 11
1.2.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính 20
1.2.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu
quả
21
1.2.4. Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt vi
phạm hành chính
24
1.2.5. Thẩm quyền quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và các biện
pháp khắc phục hậu quả
25
1.2.6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính 26
1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính 27
1.3. Sơ lƣợc quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
ở nƣớc ta
29
1.3.1. Giai đoạn 1945 – 1975 29
1.3.2. Giai đoạn 1975 – 1986 30
1.3.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
37
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 37
2.1.1. Hình thức các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 37
2.1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 40
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 71
2.2.1. Áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 71
2.2.2. Chấp hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 76
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 79
2.3.1. Cấu trúc hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành 79
2.3.2. Những thành tựu 80
2.3.3. Những hạn chế 81
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế 86
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
89
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong giai
đoạn hiện nay
89
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
89
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính phục vụ yêu cầu hội
nhập quốc tế, bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế
90
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm bảo vệ quyền
con người
95
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở
nƣớc ta hiện nay
97
3.2.1. Xây dựng triết lý về vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính
97
3.2.2. Xác định lại mối quan hệ giữa pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và
pháp luật hình sự
101
3.2.3. Xây dựng lại cấu trúc hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 102
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở nƣớc ta
hiện nay
102
3.3.1. Xây dựng Luật Xử phạt vi phạm hành chính 102
3.3.2. Xác định lại thẩm quyền quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và
các biện pháp khắc phục hậu quả
104
3.3.3. Xác định mối quan hệ giữa Luật Xử phạt vi phạm hành chính và các luật,
pháp lệnh chuyên ngành quy định về xử phạt vi phạm hành chính
111
3.3.4. Xác định rõ khái niệm “vi phạm hành chính”, “xử phạt vi phạm hành chính” 112
3.3.5. Bổ sung nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính 113
3.3.6. Bổ sung hình thức xử phạt vi phạm hành chính, xác định lại tính chất của
các hình thức đó
114
3.3.7. Bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả và phân loại theo từng lĩnh vực 115
3.3.8. Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả
115
3.3.9. Sửa đổi, bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo
xử phạt vi phạm hành chính theo hướng bảo vệ quyền con người
116
3.3.10. Quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính phù hợp với từng lĩnh vực 116
3.3.11. Hợp lý hóa thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và tăng tính hiệu lực, hiệu
quả thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
117
KẾT LUẬN 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VPHC Vi phạm hành chính
XLVPHC Xử lý vi phạm hành chính
XPVPHC Xử phạt vi phạm hành chính
PLXPVPHC Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
PLXLVPHC Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
BLXPVPHC Bộ luật Xử phạt vi phạm hành chính
BLXLVPHC Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính
LXPVPHC Luật Xử phạt vi phạm hành chính
LXLVPHC Luật Xử lý vi phạm hành chính
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
TAND Tòa án nhân dân
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật
hành chính nói riêng luôn là nhiệm vụ trọng yếu của nhà nước ta. Trong bối cảnh hiện
nay, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính chưa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Tính hiểu quả của các biện pháp xử phạt chưa cao; thủ tục xử phạt còn rườm rà;
tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản… là những điều bức xúc của người
dân cũng như bộ máy hành chính.
Do đó, Nghị quyết của Quốc hội số 11/2007/NQ-QH12 ngày 21 tháng 11 năm
2007 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII
(2007-2011) và năm 2008 đã đưa dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính vào chương
trình chính thức. Với dự án luật này, nhà nước ta mong muốn tạo một đột phá trong
lịch sử phát triển pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có xử phạt vi phạm
hành chính) của Việt Nam.
Hiện nay, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định xử lý vi phạm
hành chính gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
xử lý hành chính khác có bản chất, mục đích, đối tượng, các biện pháp áp dụng, thủ
tục áp dụng… khác nhau. Và trên thế giới có nhiều nước xây dựng một đạo luật riêng
về xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, việc nghiên cứu riêng về vấn đề pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính được đặt ra có ý nghĩa lý luận và thực tiến lớn. Vì vậy,
học viên thực hiện Luận văn thạc sĩ với đề tài “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính: Lý luận và thực tiễn” để góp phần vào việc nghiên cứu đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính được công bố trong khoảng 10 năm gần đây như:
a. Công trình khoa học nghiên cứu liên quan nhiều tới đề tài luận văn:
Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật. Luận văn này nghiên cứu về chế định trách nhiệm hành chính -
một cách tiếp cận gần gũi nhưng vẫn có nhiều điểm khác biệt với vấn đề pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, luận văn này được nghiên cứu hơn 10 năm
trước đây nên cần có sự nghiên cứu cập nhật với hiện tại.
b. Các công trình khoa học nghiên cứu một vấn đề nhỏ trong việc xử phạt vi
phạm hành chính hoặc pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
- Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
- Đỗ Hoàng Yến (2002), “Tăng cường và đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát trong
xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (8).
- Bùi Xuân Đức (2006), “Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt hành
chính: những hạn chế và giải pháp đổi mới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).
- Đỗ Hoàng Yến (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây
dựng Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (5).
- Nguyễn Ngọc Bích (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những
bất cập trong quy định pháp luật hiện hành”, Tạp chí luật học (8).
- Trương Khánh Hoàn (2008), “Bất cập của các quy định về biện pháp khắc phục
hậu quả trong xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (31,32).
c. Các công trình khoa học nghiên cứu về việc xử phạt vi phạm hành chính
trong một lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể
- Đàm Đức Tuyền (2006), Vi phạm hành chính và áp dụng trách nhiệm hành
chính trong lĩnh vực hải quan tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
- Kim Long Biên (2007). Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước
và pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật TPHCM.
- Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - ĐHQGHN.
d. Các công trình khoa học nghiên cứu tổng thể về pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính (bao gồm cả pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính)
- Đỗ Hoàng Yến (2007), “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở một số nước
trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10).
- Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh Xử
lý vi phạm hành chính năm 2002, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính.
- Bộ Tư pháp, Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) - Dự án VIE/02/015
(2008), Kỷ yếu Hội thảo Định hướng xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành chính, Quảng
Ninh, 08-09/5/2008.
e. Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật – ĐHQGHN,
Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập về trách nhiệm hành chính.
Các công trình khoa học trên hoặc đã cũ hoặc chỉ đề cập đến một tiểu vấn đề
hoặc chưa trực diện nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn này vừa là sự kế thừa, phát triển
các công trình trên nhưng cũng là cách tiếp cận mới về mặt khoa học và có ý nghĩa về
mặt thực tiễn. Các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho luận văn thạc sĩ
này.
3. Mục đích của đề tài
Với đề tài này, tác giả mong muốn:
- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Phân tích thực trạng quy định và thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính; chỉ ra những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật này.
- Đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và nội dung
các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Vấn đề thực hiện pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính không phải là vấn đề trọng tâm nhưng cũng được xem xét
nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu về xử
phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp
theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả.
2. Phương pháp so sánh
So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của nước ta trong từng giai đoạn;
So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của nước ta với các nước trên thế giới.
3. Phương pháp lịch sử
Xem xét pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính theo từng thời kỳ. Mỗi giai
đoạn sẽ có pháp luật phù hợp. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính.
4. Phương pháp thống kê xã hội học
Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực trạng vi phạm hành chính
và xử phạt vi phạm hành chính để đề ra những giải pháp hợp lý.
5. Các phương pháp của xã hội học pháp luật
Phân tích cơ sở xã hội của việc xử phạt vi phạm hành chính.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà
nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên.
- Luận văn đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp.
- Những điểm mới nhất của luận văn là: đưa ra triết lý về về vi phạm hành chính
và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính; đưa ra cấu trúc mới của hệ thống pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính; đưa ra các giải pháp dựa trên yêu cầu hoàn thiện
pháp luật hiện nay cũng như kinh nghiệm trên thế giới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. Xử phạt vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
1.1.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước
đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi
nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát
triển bền vững của xã hội [61, tr. 288]. Pháp luật có ba chức năng: điều chỉnh, bảo vệ
và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì trong xã hội vẫn tồn tại những “vi
phạm pháp luật” – là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích của xã hội,
quyền và lợi ích của công dân, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
một cách có lỗi [61, tr. 537]. Và người vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp
lý – hậu quả của vi phạm pháp luật và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế (chế tài xử lý) [61, tr. 550].
Vi phạm hành chính là một trong những loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ
biến và có ảnh hưởng lớn tới xã hội1. Vi phạm hành chính là hành vi (hành động hoặc
không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách
nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã
hội, trật tự quản lý, sở hữu của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các
quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của pháp luật phải
chịu trách nhiệm hành chính [81, tr. 393]. Và chủ thể thực hiện vi phạm hành chính
phải chịu trách nhiệm hành chính - là hậu quả của vi phạm hành chính, thể hiện ở sự
áp dụng bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền những chế tài pháp luật hành
chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ tục do luật hành chính quy định. Đó
là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với người thực hiện vi phạm hành chính, kết
quả là chủ thể thực hiện vi phạm hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi,
thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình trạng ban đầu của họ [81, tr. 397]. Theo lý
1 Theo báo cáo của Công an các tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 1990 đã phát hiện 523.030 vụ vi phạm
hành chính. Vậy mà, đến 2003, chỉ tính riêng trong lĩnh vực giao thông đường bộ, theo số liệu công bố của Bộ
Công an thì trong 10 tháng đầu năm 2003 có 3.000.000 trường hợp vi phạm pháp luật về giao thông với số tiền
nộp phạt là 347 tỷ đồng, đã quyết định tạm giữ trên 20.000 ôtô, 43,4, vạn môtô, xe máy mắc lỗi nặng, lập biên
bản gần 1000 trường hợp hối lộ sau khi vi phạm (Nguồn: Báo An ninh thủ đô số 1097 ra ngày 03/11/2003 – [44,
tr. 8]
luận về trách nhiệm hành chính thì có hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành chính là
các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khôi phục các quyền và lợi
ích đã bị vi phạm hành chính xâm hại [81, tr. 402].
Tiếp nhận lý luận trên, trong thực tiễn, nhà nước ta thực hiện các hoạt động “xử
phạt vi phạm hành chính” “để đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành chính,
góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước” (Phần mở đầu của Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính 2002). Và khoản 2 Điều 1 PLXLVPHC quy định “xử phạt vi phạm hành
chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân,
tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”. Và Pháp lệnh cũng quy định 3 nhóm biện pháp có thể được áp dụng đối với vi
phạm hành chính: 1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; 2. Các biện pháp khắc
phục hậu quả; 3. Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử
phạt vi phạm hành chính. Áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả chính là hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành
chính theo lý luận nêu trên. Còn các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm
bảo việc xử phạt vi phạm hành chính là các biện pháp ngăn chặn hành chính, được áp
dụng trong các trường hợp cần thiết phải ngăn chặn, dập tắt những vi phạm hành
chính, đảm bảo việc xử phạt hay ngăn chặn những hậu quả thiệt hại do vi phạm hành
chính gây ra [81, tr. 378]. Vậy, có thể kết luận xử phạt vi phạm hành chính là việc
các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế
hành chính (gồm các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp khắc
phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử
phạt vi phạm hành chính) đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành
chính nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
nằm trong khái niệm xử lý vi phạm hành chính khi Điều 1 PLXLVPHC 2002 quy định
rằng “Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp xử lý hành chính khác”. Pháp lệnh XLVPHC 1995 và 2002 đều không đưa ra
định nghĩa mang tính lý luận về XLVPHC, XPVPHC và các biện pháp xử lý hành
chính khác mà chỉ quy định trực tiếp những hình thức, biện pháp thuộc nội hàm của
các chế định này. Chúng ta cần xem xét liệu điều đó đã đúng về mặt lý luận hay chưa?
Ở đây, cần phải thấy rằng khái niệm “xử lý vi phạm hành chính” là khái niệm mới xuất
hiện và được chính thức quy định lần đầu tiên trong PLXLVPHC 1995. Trước đó,
trong một số văn bản pháp luật có sử dụng cụm từ “xử lý hành chính” hàm nghĩa chỉ
các biện pháp phi hình sự như xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính. PLXPVPHC
1989 có khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” chỉ các biện pháp xử phạt thông
dụng như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm… Việc xuất hiện
khái niệm “xử lý vi phạm hành chính” trong PLXLVPHC 1995 nhằm đưa ra một khái
niệm chung bao hàm các chế tài tài xử phạt hành chính theo Pháp lệnh 1989 và các
biện pháp xử lý hành chính khác mới được đưa vào Pháp lệnh 1995 trên cơ sở các quy
định trước đây như Nghị quyết 49/NQ-TVQH ngày 20/06/1961 của UBTVQH về tập
trung giáo dục cải tạo, Thông tư số 68/TTg-VG của Thủ tướng Chính phủ ngày
13/07/1964 về việc thành lập các trường giáo dục thiếu niên hư, Quyết định số
217/TTG/CN ngày 18/12/1967 về việc tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư…
Khi Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định “Các biện pháp xử lý hành chính
khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự,
an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại
các điều 23, 24, 25, 26 của Pháp lệnh này” đã chứng tỏ vấn đề “các biện pháp xử lý
hành chính khác” được lồng ghép vào Pháp lệnh là một sự khiên cưỡng. Bởi vì các
biện pháp hành chính khác (hay còn gọi là các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc
biệt) về cơ bản không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính mà có bản chất rất
khác nhau, đa phần trong số đó là các biện pháp tư pháp hình sự. Trong Bộ luật Tố
tụng Hình sự đã có một số biện pháp tương tự bởi đối tượng áp dụng các biện pháp
này không chủ yếu là đối tượng VPHC [81, tr. 383]. Và chính vì “các biện pháp xử lý
hành chính khác” là một sự lồng ghép không đúng chỗ nên khái niệm “xử lý vi phạm
hành chính” cũng là một phép cộng khiên cưỡng khi Pháp lệnh quy định một cách máy
móc “Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp xử lý hành chính khác”. Do đó, có thể khẳng định khái niệm xử lý vi phạm hành
chính theo tinh thần Pháp lệnh không có tính khoa học.
1.1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
1. Cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính là vi phạm hành chính
Không có VPHC thì không có trách nhiệm hành chính, cũng như cơ sở của trách
nhiệm hình sự là tội phạm, của trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ dân sự, của
trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật.
2. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và do đó được áp dụng theo thủ tục
hành chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định.
Vì VPHC là những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc XPVPHC không theo thủ
tục tư pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, mà theo
thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực
hiện.
Không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có thẩm quyền XPVPHC
mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong số đó được nhà nước trao quyền hạn này.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hành chính nói chung, nằm ngoài hoạt động xét xử của Tòa án. Còn các biện pháp
trách nhiệm hình sự, dân sự được thực hiện theo trình tự xét xử của Tòa án. Tuy nhiên,
Tòa án cũng có thẩm quyền XPVPHC trong trường hợp ngoại lệ đặc biệt (đó là đối với
những hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa).
Thủ tục XPVPHC đơn giản hơn so với thủ tục áp dụng cưỡng chế hình sự và dân
sự.
3. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính không chỉ nhằm đảm bảo thực hiện,
bảo vệ các quy phạm vật chất của ngành luật hành chính mà còn bảo đảm thực hiện và
bảo vệ các quy phạm vật chất của các ngành luật khác (như luật tài chính, ngân hàng,
đất đai, môi trường…)
4. Giữa cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện xử phạt vi phạm hành
chính và chủ thể bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính không có quan
hệ trực thuộc.
Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt việc áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính và các biện pháp cưỡng chế kỷ luật – dạng cưỡng chế mà cơ quan quản lý
nhà nước cũng có quyền áp dụng rộng rãi trong hoạt động của mình. Giữa chủ thể có
thẩm quyền áp dụng cưỡng chế kỷ luật và người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế đó
phải có quan hệ trực thuộc.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đời sống kinh
tế xã hội thì tình trạng vi phạm hành chính cũng ngày càng diễn ra phổ biến và đa
dạng về hình thức biểu hiện, gây ảnh hướng lớn đến an ninh trật tự an toàn xã hội
và sự phát triển nói chung, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực. Trước thực trạng VPHC diễn ra hết sức phổ biến và đa dạng, phức tạp như
vậy, Nhà nước ta đã dần hoàn thiện thể chế pháp lý về XPVPHC, đồng thời kiện
toàn bộ máy XPVPHC bao gồm cả con người, trang thiết bị phương tiện và những
vấn đề liên quan nhằm đáp ứng hữu hiệu yêu cầu hiện nay.Từ khi thành lập nước
đến nay, hệ thống pháp luật về XPVPHC nước ta ngày càng hoàn thiện hơn. Sau
cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam mới bên cạnh nhiệm vụ tiến hành công
cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập còn non trẻ và cũng để phục vụ sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc đó đã bắt đầu thực hiện những biện pháp bảo đảm an ninh
trật tự. Trong lĩnh vực hành chính Nhà nước cũng bắt đầu thi hành các biện pháp
“có tính cách hành chính” thể hiện bằng việc ban hành văn bản quy định các hình
thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm các chính sách của Nhà nước lúc bấy giờ.
Các văn bản của Nhà nước giai đoạn này quy định về vi phạm hành chính và chế
tài hành chính thường có trong nhiều văn bản và trực diện đưa ra các vi phạm và
biện pháp chế tài cụ thể đi liền.
Giai đoạn tiếp theo từ năm 1954 đến năm 1989, xét về mặt kỹ thuật lập quy cũng
như hoạt động xử phạt hành chính so với giai đoạn trước đó, cũng chưa có nhiều
biến chuyển. Việc quy định hành vi vi phạm hành chính và các chế tài đối với
chúng (ngoài những quy định cũ vẫn hiện hành) vẫn do nhiều cơ quan (từ Chính
phủ đến Bộ, Uỷ ban nhân dân) quy định trong các văn bản khác nhau và vẫn theo
cách xử lý tình hưống chứ chưa thành hệ thống, chưa có tính tổng thể, toàn diện.
Điểm đặc trưng là giai đoạn này nổi lên khía cạnh quản lý nhằm xác lập và bảo vệ
các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Chính điều này có ảnh hưởng rõ rệt đến việc quy
định các hành vi vi phạm và hệ thống chế tài đối với chúng. Thời kỳ này đã có một
văn bản quy định riêng về XPVPHC là Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo
Nghị định số 143/CP ngày 27-5-1977 của Hội đồng Chính phủ.
Năm 1989 được lấy làm mốc cho giai đoạn mới của sự phát triển của pháp luật xử
phạt hành chính. Đấy là năm nước ta ban hành một văn bản chung thống nhất có
tính pháp điển hoá cao cho lĩnh vực xử phạt hành chính – Pháp lệnh xử phạt vi
phạm hành chính - và vì cũng từ đây pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói
riêng và pháp luật nói chung song hành với công cuộc đổi mới, vừa phục vụ sự
nghiệp đổi mới, vừa tự đổi mới trong đó phản ánh tư duy mới về dân chủ hoá xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bước phát triển
(hay có thể coi là hoàn thiện) tiếp theo về quy định hành vi vi phạm hành chính và
chế tài hành chính gắn với việc ban hành Pháp lệnh mới về xử lý vi phạm hành
chính được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6-7-1995 – Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính năm 1995.Do yêu cầu của công cuộc đổi mới, để kịp thời và
đủ hiệu lực đấu tranh với các vi phạm hành chính trong điều kiện mới nhất là các vi
phạm có liên quan đến mở cửa, hội nhập, pháp luật về xử phạt hành chính lại được
ban hành mới. Ngày 2-7-2002, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính mới – Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đến
nay đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào các năm 2007 và 2008).
Pháp lệnh XLVPHC 2002, các nghị định của Chính phủ, các thông tư, quyết định,
chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã tạo thành hệ thống
VBQPPL về XPVPHC và là cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác đấu tranh
phòng chống vi phạm hành chính, tạo nên sự chuyển biến lớn trong thời gian qua.
Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính gồm các vấn đề quy định về
vi phạm hành chính, các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính, các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn
chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền
quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu
quả, quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, quy định thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính.
Vậy, có thể định nghĩa pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính là một chế
định pháp luật trong hệ thống luật hành chính nước ta, bao gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính (tức là trong việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp
dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt vi phạm
hành chính; các biện pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành
chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính) đối với những cá nhân, tổ chức
thực hiện vi phạm hành chính nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà
nước).
1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1. Có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự, kế thừa nhiều chế định của luật
hình sự
Điểm khác biệt chủ yếu giữa tội phạm và VPHC là mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm cao hơn VPHC. Do đó, việc phân biệt này nhiều khi phụ thuộc quan
niệm mang tính chủ quan của nhà làm luật trong từng thời kỳ. Có nhiều hành vi được
coi là tội phạm khi đã bị xử phạt VPHC vì hành vi đó. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng
pháp luật, nhiều hành vi bị “nhập nhằng” giữa truy cứu trách nhiệm hình sự và truy
cứu trách nhiệm hành chính.
Lịch sử lập pháp ở nước ta, pháp luật về XPVHHC luôn đi sau pháp luật hình sự
và kế thừa những quan điểm lập pháp của luật hình sự. Nhiều khái niệm, chế định của
luật hình sự được tiếp nhận trong pháp luật về XPVPHC như tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, hình thức xử phạt chính
và bổ sung, các biện pháp ngăn chặn…
2. Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính gồm nhiều văn bản quy
phạm pháp luật hợp thành
Không như hệ thống pháp luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt trong duy
nhất Bộ luật hình sự, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được hợp
thành bởi nhiều VBQPPL khác nhau. Pháp lệnh XLVPHC 2002 chỉ quy định những
vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc về XPVPHC. Nhiều vấn đề của Pháp lệnh được
các nghị định của Chính phủ và các thông tư, quyết định, chỉ thị của Bộ quy định chi
tiết. Đặc biệt, toàn bộ các vi phạm hành chính và các biện pháp xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả cụ thể trong từng lĩnh vực được quy định rải rác ở rất nhiều nghị
định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
3. Vi phạm hành chính và các biện pháp chế tài đối với vi phạm hành chính trong
từng lĩnh vực thường được quy định ở nhiều văn bản dưới luật
Pháp lệnh XLVPHC đã ủy quyền cho Chính phủ quy định các vi phạm hành
chính và các biện pháp xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể trong từng lĩnh
vực quản lý nhà nước.
4. Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính không có tính ổn định cao
Các VBQPPL về XPVPHC không có tính ổn định cao do thường xuyên thay đổi.
Từ 1989 đến nay, chúng ta đã có 3 Pháp lệnh quy định về XPVPHC. Nhưng đặc biệt,
các nghị định quy định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước thì thay đổi
nhiều hơn.
5. Việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan
quản lý nhà nước thực hiện.
1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Cơ sở của việc XPVPHC là có VPHC được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu về
khái niệm vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận quan trọng vừa mang tính thực
tiễn sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa đúng về hành vi VPHC mới có thể xác định
được các VPHC cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được đúng
hành vi VPHC (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt) thì việc thực hiện xử phạt hành
chính mới đúng đắn, mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của DANH MỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
Văn bản pháp luật
4. Bộ luật Hình sự 1999.
5. Công văn số 2770/BC-BTP ngày 16/9/2005 của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng
Chỉnh phủ về kết quả kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương quy định về xử lý vi phạm hành chính.
6. Hiến pháp Việt Nam 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001).
7. Luật Cạnh tranh 2004.
8. Luật Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2006.
9. Luật Quản lý thuế 2006.
10. Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
11. Nghị định số 143/CP ngày 27/05/1977 về việc ban hành “Điều lệ xử phạt vi cảnh”.
12. Nghị định số 74/2003/NĐ-CP ngày 19/11/2003 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực điện lực.
13. Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 quy định chi tiết thi hành một số
điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
14. Nghị định số 49/2004/NĐ-CP ngày 11/4/2004 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục.
15. Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thuế.
16. Nghị định số 126/2004/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà.
17. Nghị định số 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên
các vùng biển và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam.
18. Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
19. Nghị định số 141/2004/NĐ-CP ngày 01/7/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
20. Nghị định 161/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
21. Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 ban hành quy chế tạm giữ người theo
thủ tục hành chính.
22. Nghị định số 169/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giá.
23. Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 quy định thủ tục áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
24. Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục.
25. Nghị định số 124/2005/NĐ-CP ngày 06/10/2005 quy định về biên lai thu tiền phạt và
quản lý, sử dụng tiền nộp phạt vi phạm hành chính.
26. Nghị định số 129/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thú y.
27. Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
28. Nghị định số 152/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 quy định về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
29. Nghị định 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương
mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại.
30. Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại
về hoạt động nhượng quyền thương mại.
31. Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực văn hóa thông tin.
32. Nghị định số 70/2006/NĐ-CP ngày 24/7/2006 quy định việc quản lý tang vật, phương
tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính.
33. Nghị định số 97/2006/NĐ-CP ngày 15/9/2006 quy định việc áp dụng hình thức xử
phạt trục xuất theo thủ tục hành chính.
34. Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
35. Nghị định số 129/2006/NĐ-CP ngày 31/10/2006 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
36. Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 quy định việc xử lý vi phạm hành
chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan.
37. Nghị định số 146/2007/NĐ-CP ngày 14/09/2007 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
38. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
39. Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính 1989.
40. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 1995.
41. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008).
Công trình khoa học
42. Nguyễn Ngọc Bích (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất
cập trong quy định pháp luật hiện hành”, Tạp chí luật học (8), tr. 3-9.
43. Kim Long Biên (2007). Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và
pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật TPHCM.
44. Bộ Tư pháp (2005). Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính số 3225/BTP/PLHS-HC ngày 01/11/2005.
45. Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính.
46. Bộ Tư pháp, Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) - Dự án VIE/02/015 (2008),
Kỷ yếu Hội thảo Định hướng xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành chính, Quảng Ninh,
08-09/5/2008.
47. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Cương (2008), “Đạo luật thiếu chế tài – Bàn về một thông lệ xây dựng
luật ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2), tr. 26-32.
49. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Dung (2006), “Sự cần thiết khách quan của quyền lập quy của Chính
phủ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (9), tr. 10-14.
51. Nguyễn Đăng Dung (2008), “Bản tính tuỳ tiện của Nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật (11), tr. 3-9,46.
52. Nguyễn Sĩ Dũng (2007), Thế sự - Một góc nhìn, NXB Tri thức, Hà Nội.
53. Nguyễn Ngọc Điện (2006), “Giải pháp cho bài toán “chất lượng nhân văn của luật””,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10), tr. 17-23.
54. Nguyễn Ngọc Điện (2008), “Tôn trọng pháp luật, lách luật và ứng xử của nhà nước”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (1), tr. 25-26,36.
55. Bùi Xuân Đức (2006), “Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt hành chính:
những hạn chế và giải pháp đổi mới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2), tr. 18-25.
56. Gorshumov D.N. (2006), “Những yếu tố tâm lý – xã hội trong thực thi pháp luật”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp (7), tr. 14-17.
57. Trần Thu Hạnh (1998), Vi phạm hành chính và tội phạm – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN.
58. Trương Khánh Hoàn (2008), “Bất cập của các quy định về biện pháp khắc phục hậu
quả trong xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (31,32), tr. 81-83.
59. Trần Minh Hương (2005), “Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và xử
lý vi phạm hành chính”, Tạp chí luật học (5), tr. 17-24.
60. Nguyễn Hữu Khiển (2006), “Trách nhiệm công dân trong nhà nước pháp quyền”, Tạp
chí Quản lý nhà nước, tr. 5-8.
61. Khoa Luật – ĐHQGHN (2005), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
62. Khoa Luật – ĐHQGHN (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
63. Tường Duy Kiên (2005), “Tăng cường hoạt động lập pháp bảo đảm quyền con người
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam’, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật (5), tr. 34-41.
64. Vũ Văn Nhiêm (2007), “Bàn về hình thức văn bản và thẩm quyền quy định về quyền
và nghĩa vụ của công dân”, Tạp chí Khoa học pháp lý (5), tr. 3-10.
65. Lưu Bình Nhưỡng (2007), “Đôi điều về triết lý làm luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp (10), tr. 23-26,42.
66. Hoàng Thị Kim Quế (2005), “Đời sống pháp luật’, Tạp chí Luật học (4), tr. 25-31.
67. Lương Ngọc Quỳnh (2007), Chỉ dẫn áp dụng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
68. Bùi Ngọc Sơn (2006), Những góc nhìn lập pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Lê Minh Tâm (2006), “Mấy vấn đề lí luận về pháp điển hóa”, Tạp chí Luật học (7), tr.
49-55.
70. Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật.
71. Nguyễn Văn Thảnh, Nguyễn Thị Hạnh (2006), “Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
trong soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(12), tr. 20-26.
72. Lê Ngọc Thạnh (2006), Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo pháp
luật hiện nay ở nước ta, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật phối
hợp đào tạo với Đại học Luật TPHCM.
73. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Luật hành chính Việt Nam, NXB Giao thông
vận tải.
74. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
75. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
76. Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - ĐHQGHN.
77. Phan Xuân Tuy (2003), “Bồi thường thiệt hại vật chất và biện pháp khắc phục hậu quả
do vi phạm hành chính gây ra”, Tạp chí Kiểm sát (4), tr. 26-28.
78. Đàm Đức Tuyền (2006), Vi phạm hành chính và áp dụng trách nhiệm hành chính
trong lĩnh vực hải quan tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
79. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2002, NXB Tư pháp, Hà Nội.
80. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2008), Báo cáo phúc trình Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng môn hình Bộ luật Xử lý vi phạm
hành chính ở Việt Nam”.
81. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
82. Đỗ Hoàng Yến (2002), “Tăng cường và đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát trong xử lý
vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (8), tr. 35-38.
83. Đỗ Hoàng Yến (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây dựng
Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (5), tr. 36-41.
84. Đỗ Hoàng Yến (2007), “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở một số nước trên thế
giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10), tr. 52-55.