phÒng thƯƠng mẠi vÀ cÔng nghiỆp viỆt...
TRANSCRIPT
PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VIỆN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
***
Hà nội ngày 27 tháng 5 năm 2011
BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 11/ NQ-CP CỦA
CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
A. GIỚI THIỆU VỀ KHẢO SÁT
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, lạm phát gia
tăng, giá dầu thô, giá nguyên liệu cơ bản của sản xuất, giá lương thực, thực
phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục tăng cao, trong nước thiên tai và thời
tiết tác động bất lợi đến sản xuất và đời sống, một số mặt hàng là đầu vào
quan trọng của sản xuất như điện, xăng dầu vẫn chưa thực hiện theo cơ chế
giá thị trường buộc phải điều chỉnh tăng, mặt khác chúng ta phải nới lỏng
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để ngăn chăn suy giảm, duy trì tăng
trưởng trong thời gian qua.Tình hình trên đây đã làm giá cả tăng cao, tăng
nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô của nước ta.Vì vậy tập trung kiềm chế lạm phát
và ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm và cấp bách. Chính
vì thế, ngày 24/2/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP/2011
nhằm thực hiện các mục tiêu trên.
Để đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 11 của cộng đồng doanh nghiệp
và những tác động của Nghị quyết tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp sau hơn một tháng Nghị quyết đi vào thực hiện, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành “Khảo sát tình
hình thực hiện Nghị quyết 11 của cộng đồng doanh nghiệp Việt nam”.
Cuộc khảo sát được tiến hành trong khoảng thời gian từ 15/4/2011 đến
30/4/2011. Khảo sát được thực hiện trả lời trực tuyến qua trang Khảo sát
động thái doanh nghiệp Việt Nam -VBiS (www.vbis.vn) hoặc nhận phiếu
khảo sát thông qua các trụ sở và văn phòng của VCCI trên khắp cả nước.
Tổng số doanh nghiệp trả lời khảo sát là 360 doanh nghiệp, trong đó doanh
nghiệp siêu nhỏ chiếm 8,7%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 25,8%, doanh nghiệp
vừa chiếm 36,8% và doanh nghiệp lớn chiếm 28,7%. Mặc dù còn nhiều hạn
chế về độ lớn và cơ cấu phân bổ của mẫu khảo sát về mặt địa lý, ngành nghề
kinh doanh và quy mô hoạt động, chúng tôi nhận thấy rằng chất lượng các
câu trả lời rất tốt, thể hiện rõ sự hiểu biết thấu đáo vấn đề và ý thức thành
tâm đóng góp của người trả lời, những người đang đảm nhiệm vị trí quản lý
của doanh nghiệp.
B. CÁC KẾT QUẢ CHÍNH
PHẦN I. CẢM NHÂN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH
Khi xét về cảm nhận chung của các doanh nghiệp về tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp Quý I/2011 so với quý IV/2010 kết quả
điều tra cho thấy có 48,5% doanh nghiệp cho rằng tình hình cơ bản ổn đinh,
và có 26.5% số doanh nghiệp cho rằng tình hình có khá hơn và 25,1 % số
doanh nghiệp cho rằng xấu đi. Sư “ ổn định “ nêu trên trong cảm nhận của
đa số các doanh nghiệp là do phần lớn các yếu tố thành phần sau đều ổn
định: hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị, số lượng công nhân viên, năng
suất lao động bình quân của một công nhân viên và sản phẩm tồn kho. Tuy
nhiên một số yếu tố khác có những biến đổi lớn như: Tổng doanh số tăng
lên do giá bán bình quân tăng lên nhưng lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm
lại giảm đi. Điều này có thể giải thích rằng giá bán bình quân một đơn vị sản
phẩm tăng lên nhưng đồng thời giá thành bình quân trên một đơn vị sản
phẩm cũng tăng lên và tốc độ tăng của giá thành cao hơn tốc độ tăng của giá
bán, dẫn đến lợi nhuận giảm. Hiện tượng giá thành sản phẩm tăng phổ biến
tại 62 % số doanh nghiệp được điều tra và hệ quả là có tới 44% số doanh
nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên dơn vị sản phẩm bị giảm (xem Hình 1).
Hình 1. Cảm nhận về các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất kinh
doanh
Thực trạng trên cho thấy , quý 1 năm 2011 không phải là quý dễ dàng đối
với doanh nghiệp cho dù có cảm nhận “ ôn định hơn quý IV/2010 “ tổn tại
ở đa số doanh nghiệp. Chính sự ra đời của Nghị quyết 11/ NQ_ CP ngày
24/2/2011 đã tạo nên cái nhìn có chút chút lạc quan hơn đối với doanh
nghiệp. Hình 2 thông qua: Chỉ số động thái thực thấy “- CSĐT thực thấy
“và “ chỉ số động thái dự cảm – CS ĐT dự cảm ” cho thấy những nỗ lực của
các doanh nghiệp trong việc giảm giá thành , tăng năng suất lao động và
hiệu suất sử dụng máy móc. Kỳ vọng về việc cát giảm lỗ cũng được đưa ra
nhưng không dễ dàng . Cũng đã có những tín hiệu nhất định trong việc giảm
giá bán, tuy không nhiều nhưng cũng là đóng góp đáng kể trong điều kiện
lạm phát hiện nay.
.
Hình 2: Cảm nhận về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp quý I/2011 và dự cảm đối với quý 2/ 2011
III. VỀ VIỆC TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG SX-KD DOANH NGHIỆP
THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHỊ QUYẾT 11/NQ-CP
Theo kết quả của cuộc khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp trả lời khảo sát đều
biết đến và thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-CP. Tỷ lệ doanh nghiệp biết đến Nghị
quyết 11 chiếm 76,7%, trong khi số doanh nghiệp không nghe nói đến Nghị
quyết này chiếm 23.3%. Hầu hết các doanh nghiệp biết đến Nghị quyết 11/NQ-
CP thông qua truyền hình, báo chí hoặc tự tìm hiểu thông qua internet hoặc các
mối quan hệ cá nhân. Có thể nói các cơ quan truyền hình, truyền thanh và báo chí
đã làm tốt công tác tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-CP và các doanh
nghiệp cũng đã có ý thức và chủ động trong việc tự tìm hiểu về các chính sách và
quy định mới của nhà nước. Tuy nhiên, việc tồn tại một tỷ lệ khoảng 23% các
doanh nghiệp ở các quy mô khác nhau chưa biết đến Nghị quyết 11/ NQ-CP cũng
cần phải lưu ý. Có thể là bộ phận doanh nghiệp này chưa chủ động và chưa dành
nhiều thời gian để tìm hiểu các văn bản, quy định mới của Chính phù và Nhà
nước.
Trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết 11/NĐ-
CP các doanh nghiệp có thể chọn các trọng tâm khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm của doanh nghiệp của mình. Tỷ lệ các doanh nghiệp hoàn toàn đồng ý và cơ
bản đồng ý được thể hiện qua Bảng 1.
Bảng 1. Trọng tâm của doanh nghiệp trong việc thực hiện
Nghị quyết 11/NĐ-CP.
STT Nội dung trọng tâm Tỷ lệ
1 Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước
84.8%
2
Rà soát, sắp xếp, cắt giảm và loại bỏ những dự án
kém hiệu quả, đầu tư dàn trải
92%
3 Hạn chế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu 83%
4 Thực hiện chương trình tiết kiệm điện
92.6%
5 Thực hiện bình ổn giá
90%
6 Thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
86%
Có thể nhận thấy sự đồng tình khá cao của các doanh nghiệp đối với trọng
tâm “Rà soát, sắp xếp, cắt giảm và loại bỏ những dự án kém hiệu quả,
đầu tư dàn trải”. Tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện việc rà soát, sắp xếp, cắt
giảm và loại bỏ những dự án kém hiệu quả chiếm 64%. Tỷ lệ trung bình của
các khoản vốn của dự án bị cắt giảm trên tổng số vốn đầu tư dự kiến là
25,74%. Có doanh nghiệp cắt giảm những dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng
chưa cần thiết của doanh nghiệp, cũng có doanh nghiệp cắt giảm những dự
án mở rộng sản xuất. 80% doanh nghiệp cho rằng việc cắt giảm này không
hề ảnh hưởng đến các dự án cấp thiết của Nhà nước. Mặc dù vậy, các ý kiến
bình luận đưa ra cho thấy các doanh nghiệp không khỏi băn khoăn về việc
“cắt giảm các hạng mục đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa cần thiết’ nhất là đối
với các dự án có nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đó là: cơ quan nào đứng ra
đánh giá những dự án đó là kém hiệu quả và không cần thiết. Trên thực tế ,
đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước , công việc này được thực hiện thường
xuyên vì doanh nghiệp tự hạch toán nên phải điều chỉnh mục đích kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả nên chủ động tính toán để đầu tư
được hợp lý. Nói môt cách khác việc rà soát, sắp xếp, cắt giảm và loại bỏ
những dự án kém hiệu quả là việc làm trong nhiều năm, nhiều thời kỳ chứ
không phải chỉ trong giai đoạn này.
Đối với trọng tâm “Hạn chế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu” các doanh
nghiệp cũng đã đặc biệt nhiệt tình hưởng ứng. Tỷ lệ nhập khẩu thông thường
trung bình của doanh nghiệp được khảo sát chiếm 34.93% tính trên tổng trị
giá hàng hóa mua vào của doanh nghiệp trong tháng, trong khi tỷ lệ này trên
tinh thần thực hiện Nghị quyết 11 trung bình chiếm 26,35%. Như vậy, trên
tinh thần thực hiện Nghị quyết 11 là hạn chế xuất khẩu doanh nghiệp đã
giảm được 8.58% tỷ lệ nhập khẩu so với nhập khẩu thông thường. Biện pháp
mà doanh nghiệp áp dụng chủ yếu để hạn chế nhập khẩu là tìm nguyên liệu
sản phẩm có thể thay thế trên thị trường nội địa, 50,92 % doanh nghiệp chọn
biện pháp này, trong khi chỉ có 3,67% chọn giải pháp thu hẹp sản xuất. Điều
này cho thấy nỗ lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững sản xuất. Đồng
thời với việc hạn chế nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng không
ngừng đẩy mạnh xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu thông thường trung bình của
doanh nghiệp chiếm 51,97% tính trên tổng doanh thu bán ra trong tháng,
trong khi tỷ lệ xuất khẩu với tinh thần thực hiện Nghị quyết 11 này là 59,35
%, tăng 7.38% so với nhập khẩu thông thường. Các biện pháp chủ yếu mà
doanh nghiệp sử dụng để thúc đẩy xuất khẩu là tìm kiếm thị trường xuất
khẩu mới, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu và củng cố mối quan hệ
với khách hàng nước ngoài.
Hình 3: Các biện pháp doanh nghiệp lựa chọn để thúc đẩy xuất khẩu
1.3%
22.3%
17.5%
14.9%
21.1%
4.0%
18.9%
Tìm kiếm thị trường xuất khẩu
mới
Tìm kiếm khách hàng mới tại thị
trường xuất khẩu cũ
Phát triển sản phẩm xuất khẩu
mới
Nâng cao chất lượng sản phẩm
xuất khẩu
Giảm giá sản phẩm xuất khẩu
Củng cố mối quan hệ với khách
hàng nước ngoài
Khác
“Thực hiện chương trình tiết kiệm điện” là trọng tâm đươc hầu hết các
doanh nghiệp đòng tình ủng hộ. Việc tăng giá điện trong những tháng đầu
năm 2011 cùng với việc khủng hoảng điện Hạt nhân ở Nhật Bản và những
sự cố mất điện vào cùng kỳ năm trước (2010) chắc chắn đã tác động rất
mạnh mẽ đến ý thức tiết kiệm điện của doanh nghiệp. rất cao, chiếm
68,59%. Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ tiết kiệm điện thông thường trung bình
của doanh nghiệp là 15,26% tính trên mức tiêu thụ điện năng trên một đơn vị
sản phẩm hiện tại. Với tinh thần thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-CP tỷ lệ tiết
kiện là 18,78%. Điều này cho thấy tỷ lệ tiết kiệm điện của doanh nghiệp tăng
lên 3.52% trên mức tiêu thụ điện năng trên một đơn vị sản phẩm nhờ hưởng
ứng thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-CP của Chính phủ.
Theo Bảng 1 phần lớn các doanh nghiệp được hỏi hoàn toàn đồng ý coi
“thực hiện bình ổn giá” là trọng tâm của việc thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-
CP. Mặc dù trọng tâm thực hiện bình ổn giá được các doanh nghiệp cũng
đặc biệt quan tâm . Tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký tham gia chương trình bình
ổn giá chỉ chiếm 34% số doanh nghiệp được điều tra. Các doanh nghiệp
đăng ký tham gia bình ổn giá tại các siêu thị và các cửa hàng bán lẻ mà công
ty phân phối. Tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký giảm giá là 2%, tỷ lệ doanh
nghiệp cam kết khộng tăng giá là 32%, tỷ lệ doanh nghiệp cam kết chỉ tăng
giá dưới 10% là 46% và tỷ lệ doanh nghiệp cam kết tăng giá trong khoảng
10% - 20% là 13%. Có thể thấy rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều
có thể đăng ký tham gia bình ổn giá. Những nguyên nhân chủ yếu là doanh
nghiệp cho rằng vấn đề này phụ thuộc vào doanh nghiệp cung cấp hoặc là
sản phẩm không nằm trong chương trình bình ổn hoặc là do giá nguyên vật
liệu đầu vào tăng cao nên các doanh nghiệp không thể không tăng giá đầu ra,
nhất khi giá điện và xăng dầu tăng cùng một lúc như hiện nay. Tuy nhiên
bằng trách nhiệm và ý thức, nhiều doanh nghiệp đã tham gia bình ổn giá
bằng cách phân nhỏ thành nhiều giai đoạn điều chỉnh, hoặc tăng giá trễ hơn
so với yếu tố đầu vào. Lợi thế về quy mô đã giúp cho các DN lớn dễ ràng
giảm giá hơn so với doanh nghiệp nhỏ. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ các doanh
nghiệp siêu nhỏ và các doanh nghiệp lớn tham gia chương trình bình ổn giá
nhiều hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bảng 2. Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn giá theo quy
mô doanh nghiệp
STT Quy mô doanh
nghiệp
Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chương
trình bình ổn giá
Có không Tổng số
1 Doanh nghiệp siêu
nhỏ (Số lao động
<10)
58% 42% 100%
2 Doanh nghiệp nhỏ
(10 > số lao động<
50)
73% 27% 100%
3 Doanh nghiệp vừa
(50<số lao động <
300)
70% 30% 100%
4 Doanh nghiệp lớn (Số
lao động > 300)
66% 34% 100%
Đối với “trọng tâm tái cấu trúc”, các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào
các biện pháp như: giảm giá thành, tăng năng suất, mở rộng thị trường, tăng
chất lượng và giá trị sản phẩm. Tuy nhiên mức độ thành công của các biện
pháp này cũng khác nhau. Đối với biện pháp giảm giá thành, nhìn chung
doanh nghiệp đã có tới 55,0 % doanh nghiệp hoàn toàn và cơ bản hài lòng
với những kết quả đạt được. Tuy nhiên, biện pháp này đã không mang lại kết
quả cao như biện pháp “Tăng năng suất lao động”. Tỷ lệ doanh nghiệp hài
lòng và cơ bản hài lòng với kết quả đạt được khi thực hiện biện pháp này là
80, 8% số doanh nghiệp. Điều này một lần nữa khẳng định việc tăng năng
suất lao động là một dư địa hết sức thuận lợi hiện nay cho sự phát triển của
doanh nghiệp. (xem Hình 4)
Hình 4: Mức dộ hài lòng với biện pháp tăng năng suất lao động
2.0%5.3%
11.9%
49.8%
31.0% Hoàn toàn không hài lòng
Cơ bản không hài lòng
Nửa hài lòng nửa không hài
lòng
Cơ bản hài lòng
Hoàn toàn hài lòng
Đối với trọng tâm mở rộng thị trường, có thể nói đây là trọng tâm mà doanh
nghiệp thực hiện thành công nhất trong 3 trọng tâm hàng đầu của quá trình
tái cấu trúc doanh nghiệp. Có tới 50,14% doanh nghiệp hoàn toàn hài lòng
với những kết quả đạt được và 31,89% doanh nghiệp cơ bản hài lòng.
III. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA NGHỊ QUYẾT 11/ NQ-CP TỚI
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
Comment [LVT1]: Chuyển sang dạng PIE
Với những nỗ lực nêu trên có thể thấy các doanh nghiệp đang cũng đồng
hành với Chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp do Chính Phủ đưa ra.
Những giải pháp này ở nhiều mức độ khác nhau đã tác động trực tiếp tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xem Biểu đồ 5 cho thấy ,
hai yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến tình hình sản xuất kinh doanh là
việc tăng giá điện và điều chỉnh giá xăng dầu. Mặc dù, việc điều chỉnh này
đã nằm trong lộ trình , song thời điểm thực hiện khá nhạy cảm và lại thực
hiện cùng một lúc nên nó rất có thể gây nên tác động tiêu cực . Có tới trên
64 % các doanh nghiệp trả lời việc điều chỉnh giá điện và giá xăng dầu có
ảnh hưởng nghiêm trọng và cực kỳ nghiêm trọng đến tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, và chỉ có 0,8% doanh nghiệp trả lời là không có
ảnh hưởng gì.
Việc hạn chế cho vay vốn đối với hoạt động phi sản xuất như: bất động sản,
chứng khoán, việc không ứng trước vốn ngân sách nhà nước năm 2012 cho
các dự án, và việc Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế
hoạch tín dụng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước được hầu hết các
doanh nghiệp đánh giá là hầu như không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ có khoảng 1,5% doanh nghiệp trả lời
những nội dung trên có ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng đến tình hình sản
xuất kinh doanh của họ.
Hình 5 : Tác động nghiêm trọng của các biện pháp chính sách đối với
doanh nghiệp
Hầu hết các doanh nghiệp được phỏng vấn trả lời không rõ về tác động của
chính sách tài khóa thắt chặt đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
Việc hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 được phần lớn các
doanh nghiệp đánh giá là có ảnh hưởng đáng kể nhưng không nghiêm trọng
đến tình hình sản xuất kinh doanh của họ trong thời gian qua với khoảng
60,5% số ý kiến. Tuy nhiên, đáng lưu ý là chính sách điều hành lãi suất được
nhiều doanh nghiệp cho là có tác động không tốt hơn là có tác động tốt tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian hiện nay. Điều này
dẫn tới tình trạng có rất nhiều doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng, hoặc
phải vay ngân hàng với lãi suất khá cao. Vẫn còn khoảng 17 % số doanh
nghiệp không vay được lãi suất ngân hàng theo giá niêm yết và trên 44% số
doanh nghiệp đang đi vay với với lãi suất trên 18%/ năm , trong khi khả
năng có thể cắn răng chịu đựng chỉ mức lãi xuất này chỉ có ở gần 20% số
doanh nghiệp. Có khoảng 5% số doanh nghiệp đang đi vay với lãi suất trên
21% trong khi đó 100% số doanh nghiệp đang khẳng định lãi xuất hợp lý ở
thời điểm hiện tại là dưới 17-18%. Một khi lãi suất huy động sàn do ngân
hàng nhà nước quy định chỉ có 14% thì với nhu cầu vốn như trên của doanh
nghiệp rõ ràng đang diễn ra tình trạng lách luật trong huy động vốn của các
ngân hàng mà các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu ( đã có ngân hàng
huy động vốn với mức 17, 5- 18%/ năm) . Hệ lụy tiếp theo là các ngân hàng
buộc phải cho vay với mức lãi suất cao hơn và khoản lãi suất tăng thêm này
được ngụy trang dưới hình thức “lệ phí”. Có tới khoảng 17% số doanh
nghiệp khi vay vốn vẫn phải vay tiền của Ngân hàng với mức lãi suất cao
hơn mức niêm yết. Những doanh nghiệp này phải trả thêm mức phí trung
bình là 5,44%. Cùng với những thủ tục khó khăn, phức tạp trong quá trình đi
vay, tình trạng này có thể dẫn đến một hệ lụy là các doanh nghiệp phải huy
động vốn bên ngoài hệ thống các tổ chức tín dụng với mức lãi suất cao hơn,
và các tổ chức tín dụng sẽ tiếp tục “ khát” vốn đầu vào.
Hình 6 . Thực tế và ý kiến của doanh nghiệp về mức lãi suất cho vay
ngắn hạn (VND)/ năm
Việc vay vốn đối với doanh nghiệp lớn đã khó, nhưng đối với các DNNVV
lại còn khó hơn. Nhìn chung các ngân hàng thương mại đều không mặn mà
cho các DNNVV do chi phí giao dịch cao, cộng với năng lực lập kế hoạch
kinh doanh hạn chế và thiếu tài sản thế chấp. Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV có thể giải quyết được phần nào vấn đề “ tài sản thế chấp” nhưng
quy chế này mới được thay đổi từ tháng 1/ 2011, do vậy chưa có thể đánh
giá được hết tác động tích cực của nó. Trong khi chỉ có 38,6% số DN lớn
phải đi vay với lãi xuất thực tế là trên 18% , thì có tới 46, 5% số DNNVV
phải đi vay mức này .Nếu như 42,6% DN lớn có thể chịu dựng được lãi xuất
15-16% thì khả năng chịu đựng này chỉ có ở 37% DNNVV.
Các biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt tỷ giá và thị trường ngoại hối phù
hợp với diễn biến của thị trường được đánh giá khá tích cực: Có tới 72%
doanh nghiệp nhận định rằng nhu cầu ngoại tệ của họ để nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu được đáp ứng đầy đủ, trong khi các doanh nghiệp còn lại chỉ
đáp ứng được đáp ứng ở tỷ lệ trung bình 49% nhu cầu ngoại tệ của họ. Có
tới 70% doanh nghiệp được mua ngoại tệ theo đúng giá niêm yết của Ngân
hàng, trong khi số còn lại là phải mất thêm mức phí trung bình là 5,66%i.
Cần lưu ý rằng tạo thời điểm báo cáo này được công bố thì trường ngoại hối
của Việt Nam đã có rất nhiều chuyển biến tích cực . Tuy nhiên, các nhận
định trên sẽ giúp cho các nhà hoặc định chính sách có thêm kinh nghiệm
trong quá trình điều hành tỷ giá linh hoạt.
Việc xem xét miễn giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu
vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong
nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thủy sản, …tiếp tục thực
hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa xuất khẩu trong
năm 2011 được các doanh nghiệp đánh giá là có tác động tích cực đối với
mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. Theo kết quả khảo sát, có tới 62,8% doanh
nghiệp trả lời có tác động tích cực trong khi vẫn còn 7,94% doanh nghiệp
cho rằng không hề có tác động gì. (Hình 7)
Hình 7: Ý kiến doanh nghiệp về tác động của các chính sách thuế đến
hoạt động xuất khẩu
7.9%
16.6%
21.3%41.5%
12.6%
Không hề có tác động gì
Hầu như không có tác
động
Hơi có tác động tích cực
Tác động tích cực
Tác động tích cực rất rõ
rệt
Hình 8 cho thấy các chính sách sau đây của Nghị quyết 11/ NQ-CP đã tác
động tới hoạt động của doanh nghiệp như sau:
Đa số các chính sách đều có tác dụng tốt đến hoạt động của các DNNVV,
nhất là chính sách giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cho DNNVV, chính sách
thúc đẩy sx-kd và chính sách khuyến khích XK, hạn chế nhập khẩu. Riêng
chính sách điều chỉnh lãi suất đã có tác động không tốt đến hoạt động của
các DNNVV.
Hình 8: Tác động của các chính sách của Nghị quyết 11/ NQ-CP tới hoạt
động của doanh nghiệp
PHẦN IV. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
11/ NQ-CP CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC LIÊN QUAN
Nghị quyết 11/ NQ-CP đưa ra một loạt các giải pháp và được triển khai khá
quyết liệt. Các nội dung mà doanh nghiệp cho là đã được thực hiện tốt nhất
đó là việc điều hành linh hoạt tỷ giá và thị trường ngoại hối phù hợp với diễn
biến của thị trường và việc xem xét miễn giảm thuế nguyên liệu đầu vào
phục vụ xuất khẩu. Điều chỉnh giá xăng dầu và điều chỉnh giá điện là hai
nội dung mà các doanh nghiệp cho là được thực hiện chưa tốt
Hình 9: Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá mức độ thực hiện tốt của các nội
dung của Nghị quyết 11/NQ-CP ( %)
Về đánh giá những nỗ lực của VCCI và các tổ chức khác trong việc hỗ trợ
doanh nghiệp triển khai thực hiện nghị quyết 11 của Chính phủ: Như Hình
10 cho thấy VCCI được nhiều doanh nghiệp đánh giá là đã có nhiều nỗ lực
và nỗ lực rất cao trong việc vận động doanh nghiệp thực hiện Nghị quyết 11
nhất, tỷ lệ này chiếm 77%, tiếp theo là các hiệp hội doanh nghiệp chiếm
52.7%, đứng thứ ba là các cơ quan chính quyền địa phương.
Hình 10: Nỗ lực của VCCI và các tổ chức khác trong việc hỗ trợ doanh
nghiệp thực hiện Nghị quyết 11
%
77.0
52.7
37.5 34.4
44.4
30.1
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Ph
òn
g th
ươ
ng
mại v
à c
ôn
g
ng
hiệ
p V
iệt N
am
Các h
iệp
hộ
i do
an
h n
gh
iệp
Các c
ơ q
uan
ch
ính
qu
yền
địa
ph
ươ
ng
Các tổ
ch
ức x
úc tiế
n th
ươ
ng
mại, tru
ng
tâm
, kh
uy
ến
nô
ng
kh
uy
ến
cô
ng
Các n
gân
hàn
g th
ươ
ng
mại
Các tổ
ch
ức k
hác
C. CÁC KIẾN NGHỊ
1. Các kiến nghị của doanh nghiệp để giải quyết những khó khăn
hiện tại của nền kinh tế vĩ mô và chính sách của nhà nước:
Kiến nghị về lãi suất:
Mức lãi suất hiện tại mà các ngân hàng đang cho vay là 16-17%, mức lãi
suất cao nhất mà hầu hết các doanh nghiệp có thể chịu đựng được cho các
khoản vay của mình là 13-14%. Mức lãi suất mà các doanh nghiệp cho là
hợp lý là từ dưới 11%. Các doanh nghiệp kiến nghị nhà nước cần có những
chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp tiếp cận vốn vay được dễ dàng hơn. Bên
cạnh đó đa số các doanh nghiệp cho rằng nhà nước nên điều chỉnh linh hoạt
lãi suất theo diễn biến của thị trường hơn là để thị trường quyết định hoàn
toàn hoặc là nhà nước kiểm soát tuyệt đối.
Kiến nghị về tỷ giá:
Cũng giống như chính sách về tỷ giá, phần lớn các doanh nghiệp cho rằng
nhà nước nên điều chỉnh linh hoạt tỷ giá theo diễn biến của thị trường hơn là
để thị trường quyết định hoàn toàn, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng nhà nước
nên điều chỉnh linh hoạt tỷ giá theo diễn biến của thị trường chiếm 32.7%
khi chỉ có 3,8% doanh nghiệp cho rằng nhà nước không nên can thiệp chút
nào mà để thị trường hoàn toàn quyết định.
Hình 10: Ý kiến của doanh nghiệp về mức độ can thiệp của Nhà nước
trong định mức tỷ giá
3.8%11.3%
25.2%
32.7%
27.0%
Trị trường quyết định hoàn
toàn
Nhà nước để thị trường quyết
định trong khung mức hướng
dẫn
Dung hòa giữa Nhà nước và
thị trường
Nhà nước quy định linh hoạt
theo diễn biến của trị trường
Nhà nước quy định và kiểm
soát tuyệt đối
Kiến nghị về việc điều chỉnh tỷ giá điện và xăng dầu:
Những điều chỉnh liên tục và bất thương về giá điện và xăng dầu trong thời
gian qua đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và có tác động xấu đến kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, doanh nghiệp mong muốn trong thời gian tới chính phủ cần
đưa ra một lộ trình hợp lý trong việc điều chỉnh để ổn định giá những mặt
hàng này và lộ trình này cần được thực hiện một cách chặt chẽ, minh bạch
và công khai.
Các kiến nghị khác:
Thực hiện Nghị quyết 11: các doanh nghiệp cho rằng cần tiếp tục thực hiện
Nghị quyết 11 trong thời gian tới và thực hiện quyết liệt hơn nữa để ổn định
kinh tế vĩ mô tăng niềm tin vào nền kinh tế cho doanh nghiệp, tiếp tục giảm
lượng cung tiền vào đầu tư bất đọng sản, tiếp tục ổn định giá cả
-Quản lý nhập siêu bà buôn lậu: tích cực quản lý nhập siêu và quản lý buôn
lậu
-Đầu tư công: hạn chế đầu tư công, đầu tư công có trọng điểm, tránh đầu tư
dàn trải, chậm tiến độ, thất thoát lớn, hiệu quả thấp
-Chống tham nhũng; chính phủ cần xử lý nghiêm và đẩy mạnh chống tham
nhũng để hạn chế đến mức thấp nhất quốc nạn tham nhũng và lãng phí.
- Cải cách hành chính: cần đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt xử lý
nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp,
- Chính sách thuế: đánh thuế cao hơn đối với các mặt hàng nhập khẩu mà
trong nước đã sản xuất được: ví dụ cáp quang thành phẩm…
2. Kiến nghị của VCCI để thực hiện tốt hơn Nghị quyết 11
Như kết qủa khảo sát cho thấy, vẫn tồn tại khoảng 23,3% doanh nghiệp chưa
nghe nói đến Nghị quyết 11 do những doanh nghiệp này chưa có thói quen
chủ động tìm hiểu những văn bản, quy định mới của Chính phủ. Như vậy,
cần có một số tổ chức, cơ quan chính thức phát động, tuyên truyền phong
trào thực hiện Nghị quyết 11 tới cộng đồng doanh nghiệp. Riêng Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tới đây sẽ tiếp tục tổ chức hoạt động
nhằm tuyên truyền rộng rãi và thực hiện tốt hơn Nghị quyết 11 của Chính
phủ trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. VCCI sẽ gửi công văn tới các
doanh nghiệp cùng với Nghị quyết 11 tới các doanh nghiệp trên cả nước
hoặc tổ chức những buổi tọa đàm về Nghị quyêt 11 để Nghị quyết được
tuyên truyền sâu rộng hơn và thực hiện tốt hơn trong cộng đồng doanh
nghiệp. Đồng thời, các hiệp hội doanh nghiệp, các cơ quan chính quyền địa
phương cũng cần có những chương trình tuyên truyền Nghị quyết 11 tới các
doanh nghiệp hội viên, tới các doanh nghiệp trên địa bàn để Nghị quyết
được phổ biến sâu rộng hơn trong cộng đồng doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát, hai nội dung của Nghị quyết 11 có liên
quan đến doanh nghiệp là : Nộp thuế đúng hạn, đầy đủ và nộp hết các
khoản thuế còn nợ đọng và tham gia chương trình bình ổn giá chưa được
thực hiện tốt. Vì vậy, các cơ quan liên quan như các cơ quan quản lý thuế
các cấp, cơ quan quản lý thị trường cần cho chương trình cụ thể để các nội
dung này được thực hiện tốt hơn.
i Thời điểm điều tra là 15/4/ 2011