phẦn 1: lỜi mỞ ĐẦu -...
TRANSCRIPT
0
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
----------
TÀI LIỆU
BỒI DƢỠNG THƢỜNG XUYÊN CẤP TIỂU HỌC
NĂM HỌC 2016-2017
Thang 10 năm 2016
1
SINH HOẠT CHUYÊN MÔN DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Ly do biên soan tai liêu:
Nghị quyết Trung ương hai khoá VIII xác định: Giáo dục - đào tạo
là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Phát triển giáo dục là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và
của toàn xã hội, trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là
lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng
giáo dục. Trong những năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm xây dựng, phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá,
bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, nâng cao chất lượng, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương
tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo, đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực
sư phạm, thậm chí kiến thức phổ thông liên quan đến cấp học, môn học, chương
trình dạy học còn hạn chế, một số ít nhà giáo tinh thần trách nhiệm chưa cao,
ngại khó, ngại đổi mới. Đây là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhà giáo
gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên tiến, lúng túng
trong vận dụng, kết hợp các hình thức và phương pháp dạy học, các cách thức tổ
chức hoạt động học theo hướng nâng cao năng lực cho học sinh.
Vì vậy công tác bồi dưỡng đội ngũ là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay mà các nhà quản lí giáo dục
cần quan tâm thực hiện với nhiều giải pháp phù hợp.
Sinh hoạt chuyên môn là một cụm từ rất quen thuộc đối với mỗi nhà
giáo bởi lẽ đây là một việc làm thường xuyên có tính định kì được xây dựng
2
thành kế hoạch. Sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường là một hình thức bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn mỗi thầy cô giáo từ đó nâng cao
chất lượng học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Tuy nhiên trong thời gian qua, việc sinh hoạt chuyên môn ở một số trường
hiệu quả còn thấp, nội dung sinh hoạt chuyên môn chưa phong phú, chưa thực
sự thiết thực đối với giáo viên, nhiều trường thực hiện sinh hoạt chuyên môn
còn qua loa, hình thức, chưa mang lại hiệu quả trong phát triển chuyên môn
cho giáo viên.
Nhằm nâng cao năng lực quản lí cho cán bộ quản lí trường học, năng
lực giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục cho giáo viên phổ thông,
giáo dục thường xuyên, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục đào tạo, bắt đầu từ năm học 2014-2015, Bộ GD&ĐT chủ trương đổi
mới các hoạt động sinh hoạt chuyên môn trong nhà trường trong đó “Sinh
hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học” là một nội dung cốt lõi.
“Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học” (hay còn gọi ngắn
gọn là sinh hoạt chuyên môn mới) là một hình thức sinh hoạt chuyên môn
nhằm nâng cao năng lực cho giáo viên thông qua dự giờ, phân tích bài học
giúp giáo viên nhận ra những vấn đề của tiết học từ đó có những điều chỉnh
phù hợp trong những tiết học sau. Cũng bao gồm 4 bước như sinh hoạt
chuyên môn truyền thống nhưng trong “Sinh hoạt chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bài học” cách thức thực hiện các bước có sự thay đổi, cải tiến
để việc sinh hoạt chuyên môn có chất lượng hơn, có tác dụng lớn hơn trong
phát triển chuyên môn cho giáo viên.
Đối với tỉnh Quảng Bình, sau nhiều năm thực hiện tại các trường
hưởng thụ Dự án Plan tại huyện Quảng Ninh, huyện Minh Hóa và hơn hai
năm triển khai thực hiện rộng rãi ở tất cả các trường tiểu học, việc sinh hoạt
chuyên môn của một số trường đã đi vào nền nếp, giáo viên đã có những
thay đổi tích cực trong cách dạy, quan tâm nhiều hơn đến việc học của học
sinh, tổ chức được nhiều hoạt động học tập giúp học sinh phát huy tính tích
3
cực, chủ động và khả năng tự học của học sinh. Thông qua sinh hoạt
chuyên môn mới, những tình huống học tập cụ thể được phân tích, suy
ngẫm, nhiều phương án cải tiến được đề xuất, giáo viên rút ra được nhiều
bài học để cho bản thân để điều chỉnh dạy học phù hợp hơn. Bên cạnh
những kết quả đạt được, việc sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu
bài học vẫn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Một số cán bộ quản lí nhà trường
chưa nhận thức đầy đủ về mục đích ý nghĩa cũng như quy trình và cách
thức thực hiện sinh hoạt chuyên môn mới này. Trong quá trình thực hiện,
nhiều trường chưa thực hiện đúng các khâu bước nên chưa mang lại hiệu
quả, thậm chí còn đưa sinh hoạt chuyên môn quay về cách thức sinh hoạt
truyền thống.
Vì vậy, Sở GD&ĐT biên soạn tài liệu này làm tài liệu bồi dưỡng thường
xuyên năm học 2016-2017 nhằm giúp cán bộ quản lí, giáo viên có thêm
kiến thức, kĩ năng điều hành, tham gia sinh hoạt chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bài học, vận dụng những bài học rút ra được sau những buổi
sinh hoạt chuyên môn vào quá trình dạy học, nâng cao chất lượng dạy học
đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
Tài liệu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Sở
Giáo dục và Đào tạo rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cơ sở,
đặc biệt là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục tiểu học.
2. Mục tiêu của tai liêu: Giúp cán bộ quản lí và giáo viên:
- Hiểu sâu về sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học,
phân biệt sinh hoạt chuyên môn truyền thống với sinh hoạt chuyên môn
dựa trên nghiên cứu bài học.
- Có kĩ năng điều hành, tham gia sinh hoạt chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bài học,
- Tích cực vận dụng những bài học rút ra được sau những buổi sinh
hoạt chuyên môn vào quá trình dạy học, nâng cao chất lượng dạy học.
4
3. Câu truc nôi dung tai liêu:
Ngoài Lời mở đầu, nôi dung chinh cua tai liêu gôm 3 phân:
Phân I . Những vấn đề cơ bản về sinh hoạt chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bài học.
Phân II. Một số vấn đề về dạy học và sinh hoạt chuyên môn hiện nay
cần được khắc phục thông qua sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu
bài học.
Phần III. Vai trò của cán bộ quản lý, giáo viên trong triển khai thực
hiện sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học.
4. Hƣơng dân sƣ dụng tai liêu:
4.1. Mỗi cán bộ quản lí, giáo viên cần đọc kĩ toàn bộ nội dung tài
liệu, đánh dấu vào những nội dung quan trọng cần ghi nhớ như:
- Mục đích sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học;
- Điểm khác biệt giữa sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài
học với sinh hoạt chuyên môn truyền thống;
- Cách thức tiến hành và những lưu ý đối với từng bước thực hiện;
- Những điều cần khắc phục khi sinh hoạt chuyên môn;
- Một số kĩ năng cần thiết cho cán bộ quản lí và giáo viên;
- ...
4.2. Trao đổi với đồng nghiệp về những vấn đề còn băn khoăn,
những vấn đề chưa hiểu. Tập hợp những nội dung còn gặp khó khăn để
phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT giải đáp, hướng dẫn.
4.3. Kết hợp những kiến thức của tài liệu này với những tài liệu,
nguồn thông tin khác và kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống của bản thân để
tự rèn luyên các kĩ năng cần thiết cho nghề nghiệp nói chung và sinh hoạt
5
chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học nói riêng. Việc này không ai có
thể làm thay. Có thể tham khảo một số cách sau:
- Thường xuyên dự giờ đồng nghiệp: có thể cả tiết hoặc chỉ một số
hoạt động.
- Dùng các phương tiện để quay lại tiết học của mình để xem lại (tự
dùng máy quay phim có chân để quay hoặc nhờ đồng nghiệp quay). Qua
cách làm này, mỗi giáo viên sẽ tự nhận ra, tự khắc phục những hạn chế của
bản thân mà người khác không có điều kiện để góp ý.
- Xem các băng hình về các tiết học được Sở GD&ĐT cung cấp hoặc
các băng đĩa được chia sẻ trên Internet và thực hanh phân tích, ghi lại
những bài học rút ra được cho bản thân từ những điểm tích cực cũng như
những điểm còn hạn chế trong các tiết học đó.
4.4. Mạnh dạn ap dụng những gì bản thân học hỏi được vào bài học
trên lớp hàng ngày. Quan sát việc học của học sinh để tiếp tục có những cải
tiến giúp cho chất lượng dạy-học ngày được nâng lên.
4.5. Tham gia bồi dưỡng tập trung để được các giảng viên hướng dẫn
sâu hơn.
6
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
1. Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học la gì?
Thực chất Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học là
quan sát hoạt động, những biểu hiện của học sinh để biết về việc học của
các em từ đó có cách điều chỉnh, cải tiến cho phù hợp. Là nơi mọi giáo viên
đều có cơ hội học tập, phát triển chuyên môn.
Như vậy “Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học” đáp
ứng mục đích, yêu cầu cũng như phù với những điều kiện để phát triển
chuyên môn giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu bai học:
Mục đích sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học hướng
tới là:
+ Đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên: Thông
qua sinh hoạt chuyên môn, từng tình huống học tập cụ thể của học sinh trên
lớp được chia sẻ, suy ngẫm, phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp tốt
nhất giúp cải tiến giờ học. Từ đó mỗi giáo viên đều học được nhiều bài học
từ đồng nghiệp, áp dụng hiểu biết mới vào thực tế dạy học của bản thân.
+ Đảm bảo cơ hội học tập cho từng em học sinh: Mỗi học sinh đến
trường đều phải đƣợc học và học đƣợc. Giáo viên phải chấp nhận mọi em
học sinh với đặc điểm riêng của từng em và có điều chỉnh dạy học phù hợp
với từng em một. Để thực hiện được điều này thực sự không dễ dàng, cần
phải có sự nỗ lực thường xuyên và lâu dài của mỗi một giáo viên. Thông
qua Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, giáo viên học hỏi,
tích lũy các kinh nghiệm, rèn luyện các kĩ năng dạy học theo đối tượng học
sinh, đảm bảo cho mỗi học sinh đều có cơ hội học tập.
7
+ Xây dựng cộng đồng học tập để đổi mới nhà trường: Từ chỗ phân
tích tiết học tập trung vào việc học của học sinh để mỗi giáo viên tự rút ra
bài học cho bản thân mình, giáo viên dạy minh họa không bị chỉ trích, các
giáo viên cởi mở, thoải mái trong chia sẻ, buổi sinh hoạt chuyên môn trở
nên nhẹ nhàng, hiệu quả hơn. Giáo viên trở nên thân thiện hơn góp phần
tạo nên động lực để giáo viên học hỏi, phát triển chuyên môn, nghiệp vụ
của mình.
3. Những khac biêt giữa sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên cứu
bài học với sinh hoat chuyên môn truyền thống:
T
T
Những
đặc
điểm
Sinh hoat chuyên môn
truyền thống
Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên
cứu bai học
1
Mục
đích
Mục đích sinh hoạt
chuyên môn truyền thống
là để đánh giá, xếp loại
giờ dạy, thống nhất cách
dạy cho một loại bài cụ
thể hay phương pháp đặc
trưng cho một môn học để
mọi giáo viên được áp
dụng theo cách đã được
thống nhất trong buổi sinh
hoạt chuyên môn.
Mục đích của sinh hoạt chuyên
môn dựa trên nghiên cứu bài học là
để từng bước xây dựng văn hóa nhà
trường trong đó mọi thành viên đều
tôn trọng, tin tưởng, mở rộng tâm
hồn học hỏi đồng nghiệp, giúp giáo
viên hiểu biết sâu sắc hơn về học
sinh nâng cao năng lực dạy học cho
giáo viên.
1
Chuẩn
bị bài
Thông thường tổ chuyên
môn cùng giáo viên dạy
minh họa xây dựng và
thống nhất phương án dạy
học
Giáo viên dạy minh họa chủ động
xây dựng Kế hoạch bài học, đưa ra
các ý tưởng dựa trên đặc điểm tình
hình của lớp mình, có thể tham
khảo ý kiến của đồng nghiệp và tổ
chuyên môn.
Vị trí dự giờ là ngồi Lựa chọn vị trí dễ quan sát biểu
8
2
Dự
giờ,
quan
sát
tiết
học
cuối lớp
Việc quan sát tập trung
vào hoạt động dạy học của
giáo viên : dạy đúng quy
trình, các bước lên lớp
không, cung cấp đúng, đủ
kiến thức hay không, phân
bố thời gian có phù hợp hay
không, nền nếp lớp có tốt
hay không, cử chỉ, điệu bộ
của giáo viên như thế nào…
Ghi chép theo diễn biến
tiết học : giáo viên nói gì,
giáo viên làm gì...
hiện trên gương mặt để nhận ra
việc học của học sinh mà không
ảnh hưởng đến các em : phía trước
lớp hoặc xung quanh lớp học.
Việc quan sát tập trung vào việc
học của học sinh : học sinh học như
thế nào, khi nào các em học thực
sự, khi nào các em không tập trung
vào việc học, các em gặp phải khó
khăn gì, giáo viên giúp các em vượt
qua khó khăn như thế nào?
Ngoài diễn biến tiết học, người
dự ghi chép các tình huống học tập
cụ thể : thời điểm nào, em nào, học
như thế nào, vì sao...
3
Chia
sẻ,
suy
ngẫm
- Đánh giá rút kinh
nghiệm
+ Nhận xét giờ học
+ Tìm ra ưu khuyết
điểm của giờ học
+ So sánh đối chiếu bài
dạy với giáo án
+ Chỉ ra cách dạy mới
+ Thống nhất phơng
Chia sẻ, phân tích dựa trên các
tình huống học tập cụ thể :
+ Nêu tình huống, phân tích nguyên
nhân có tình huống học tập đó
+ Chia sẻ những khó khăn gặp
phải khi tiến hành bài học
+ Tìm hiểu nguyên nhân tại sao
+ Học được gì qua bài học của
đồng nghiệp
+ Từ bài dạy của đồng nghiệp
suy ngẫm về bản thân
9
tiết
dạy
pháp
- Ý kiến của người dự
thường mang tính áp đặt
một chiều giáo nên không
tránh khỏi tâm lí người dạy
bị áp lực bị trì triết phê phán
dẫn đến không ai muốn dạy
minh hoạ
- Việc thống nhất cách dạy
khiến mọi giáo viên dạy
theo một qui trình mà dạy
theo một qui trình thì không
thể phù hợp với tất cả giáo
viên và các lớp học.
- Mọi giáo viên đều chia sẻ ý
kiến về những tình huống học tập
cụ thể giúp mọi giáo viên có sự
hiểu biết sâu sắc về học sinh hơn
- Tạo niềm tin và sự tôn trọng đồng
nghiệp, tăng sự hiểu biết và kinh
nghiệm dạy học để có thể cải tiến
giờ học.
4
Áp
dụng
trong
dạy
học
hằng
ngày
Giáo viên áp dụng
những ý kiến chỉ đạo của
chuyên môn nhà trường
hoặc quy trình dạy học đã
được thống nhất vào quá
trình dạy học hằng ngày
một cách cứng nhắc. Có
thể những quy trình hoặc
phương pháp đã được
thống nhất đó không phù
hợp với thực tế lớp mình
nhưng không dám thay
đổi.
Giáo viên áp dụng những bài
học mà bản thân học được qua sinh
hoạt chuyên môn một cách chủ
động nhất. Giáo viên mạnh dạn
điều chỉnh cả nội dung, hình thức,
phương pháp dạy học để phù hợp
với từng học sinh, giúp cho mọi
học sinh “được học” và “học
được”.
10
4. Cac giai đoan triển khai Sinh hoat chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bai học:
Thông thường triển khai thực hiện Sinh hoạt chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bài học có 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1:
+ Mục tiêu của giai đoạn này là hình thành cách dự giờ, suy ngẫm
mới, xây dựng tình đồng nghiệp mới
+ Ở giai đoạn này, sinh hoạt chuyên môn tập trung giải quyết: Học
sinh học như thế nào? Tại sao ?. Giai đoạn này có khi kéo dài cả học kì,
thậm chí cả năm học, nhà trường tập trung giúp giáo viên biết quan sát tiết
học một cách tinh tế để nhận ra các vấn đề liên quan đến việc học của học
sinh. Ví dụ: Ở thời điểm nào, em nào (nhóm nào) đã học thực sự, em nào
(nhóm nào) chưa học thực sự. Dựa vào những biểu hiện cụ thể từ phía học
sinh mà các giáo viên quan sát được, suy ngẫm phân tích nguyên nhân vì
sao tình huống học tập đó xảy ra. Cũng trong giai đoạn này, các nhà trường
tập trung rèn luyện kĩ năng góp ý, chia sẻ cho giáo viên trên quan điểm
phân tích việc học của học sinh để từ đó giáo viên nhận ra vai trò của mình
trong tình huống học tập chứ không tập trung chỉ trích giáo viên như trước
đây. Điều này giúp xây dựng tình đồng nghiệp mới, cải tiến văn hóa giao
tiếp trong nhà trường.
Giai đoạn 2
Mục tiêu của giai đoạn này là phân tích nguyên nhân, các mối quan
hệ trong giờ học, tìm các biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài
học bằng cách áp dụng các phương pháp, các kĩ thuật dạy học tích cực phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Ở giai đoạn này sinh hoạt chuyên môn tập trung giải quyết: Học sinh
học như thế nào? Tại sao ? Làm thế nào để cải tiến thực tế đó? Có nghĩa là
nâng cao hơn nữa kĩ năng quan sát, suy ngẫm cho giáo viên đồng thời giúp
11
giáo viên đưa ra các giải pháp thích hợp để cải tiến giờ học, giúp cho tất cả
giáo viên tham gia sinh hoạt chuyên môn có những hiểu biết mới hoặc có
thêm kinh nghiệm để áp dụng trong thực tế dạy học tại lớp mình.
5. Cac bƣớc triển khai Sinh hoat chuyên môn dựa trên nghiên
cứu bai học:
Sinh hoạt chuyên môn trải qua chu trình 4 bước như sau:
Bƣớc 1: Chuẩn bị bai minh họa
- Nguyên tắc: Khuyến khích và tôn trọng sự tự chủ, sáng tạo của giáo viên.
- Phân công người dạy: Cố gắng dựa trên tự nguyện. Nếu chọn cử
phải bảo đảm lần lượt ai cũng được dạy minh họa
- Bài dạy minh họa phải:
+ Đặt ra các mục tiêu mới so với SGV, có ý nghĩa hơn với học sinh:
Mục tiêu có ý nghĩa với học sinh là mục tiêu được đặt cho đối tượng học
sinh vừa mang tính mới, tính vừa sức, phù hợp đối tượng vừa mang tính
thách thức để tăng hứng thú của học sinh. Mục tiêu ở sách giáo viên (thiết
kế) mang tính đại trà có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với học sinh của lớp
học mà giáo viên đang giảng dạy. Mục tiêu phải cụ thể, đánh giá được và
12
thông thường bắt đầu bằng các động từ (ví dụ: Nêu được...; Liệt kê được...;
Làm được...)
+ Điều chỉnh nội dung bài dạy cho phù hợp và có ý nghĩa với học
sinh: Nội dung dạy học trong sách giáo khoa là dùng chung cho toàn quốc,
không thể phù hợp cho tất cả các vùng miền và các đối tượng học sinh
trong lớp. Vì vậy giáo viên cần mạnh dạn điều chỉnh (thêm, bớt, thay thế
nội dung khác) để phù hợp với đối tượng lớp mình. Khi điều chỉnh cần
nghiên cứu nội dung bài học đảm bảo khoa học, đảm bảo tính hệ thống và
gần gũi với đời sống của học sinh.
+ Có ý định sáng tạo về tổ chức hoạt động học tập để nâng cao chất
lượng bài học: Nhiều giáo viên chọn giải pháp an toàn là thực hiện các hoạt
động dạy học theo sách giáo viên. Tuy nhiên nếu làm như vậy buổi sinh hoạt
chuyên môn sẽ có ít bài học được trao đổi hơn khi giáo viên mạnh dạn đưa ra
những cách làm mới.
- Có thể tổ bộ môn cùng chọn bài và cùng trao đổi phương án lên
lớp: Với sinh hoạt chuyên môn truyền thống, tổ chuyên môn có thể sẽ áp
đặt bài dạy cũng như bài dạy cho giáo viên minh họa. Điều đó sẽ làm mất
đi tính chủ động, sáng tạo của giáo viên. Do đó trong sinh hoạt chuyên môn
dựa trên nghiên cứu bài học, giáo viên dạy minh họa chủ động chọn bài và
chuẩn bị các phương án dạy học theo ý mình, có thể tham khảo ý kiến của
đồng nghiệp hoặc không.
- Soạn bài: Có thể tự soạn bài hoặc cùng GV khác.
- Tuyêt đối không day trƣớc bai học đó cho học sinh.
Bƣớc 2: Tiến hanh day va dự giờ:
* Vị trí khi dự giờ:
- Bố trí lớp dạy minh họa có chỗ ngồi hoặc đứng quan sát đủ rộng
13
- Điều chỉnh số lượng người vừa mức không quá đông để GV quan
sát được và HS không bị ảnh hưởng
- Vị trí người dự giờ: bảo đảm có thông tin chính xác về việc học của
học sinh
* Quan sat khi dự giờ:
- Quan sát khi dự giờ cần tập trung vao viêc học của học sinh. Nói
như vậy không phải là chúng ta không quan sát giáo viên mà chúng ta vừa
quan sát hoạt động tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ, giảng giải của giáo viên vừa
tập trung quan sát việc học của học sinh. Điều này không dễ. Vì vậy giáo
viên cần có sự học hỏi, rèn luyện nhiều thông qua sinh hoạt chuyên môn và
thường xuyên dự giờ đồng nghiệp.
- Cach thức quan sat khi dự giờ:
• Kết hợp nhìn bao quát lớp và chọn tìm học sinh điển hình nhất để
tập trung chú ý, thu thập thông tin
• Lắng nghe câu trả lời, các ý kiến của HS
Bảng
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Vị trí q
uan
sát c
ủa g
iáo
viê
n
(Vị trí này viêc quan sát bị han chế)
Vị trí q
uan
sát c
ủa G
V
Vị trí quan sát của
GV
Vị trí quan sát của
GV
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Học sinh
Học sinh
14
• Tìm hiểu, xem kết quả bài làm của học sinh
- Quan sát HS:
+ Thái độ, hành vi: yêu thích, hứng thú hay mệt mỏi, uể oải..
+ Lời nói, cử chỉ và điệu bộ: Đó là lời nói cử chỉ điệu bộ học sinh khi
giao tiếp, thảo luận với bạn, khi trả lời thầy cô giáo, khi trình bày bài trước
lớp...Qua quan sát lời nói, cử chỉ và điệu bộ, của học sinh, giáo viên sẽ
nhận ra học sinh nắm bài như thế nào, có tự tin không hoặc gặp khó khăn gì
trong học tập.
+ Sự quan tâm đối với bài học: Nếu quan tâm đến bài học, học sinh
sẽ học tập tốt hơn, hiệu quả hơn. Sự quan tâm đến bài biểu hiện ở chỗ học
sinh có sự chú ý, tập trung cao, tham gia hoạt động học tự giác, tích cực.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự quan tâm của học sinh đối với bài học: Nội
dung bài học (nội dung quá dễ, quá khó, đã học rồi hoặc xa rời cuộc sống
của các em làm cho các em ít quan tâm), đồ dùng học tập, cách thức tổ
chức của giáo viên...
+ Mối quan hệ giữa HS, hoạt động và sản phẩm của HS: Học sinh
tương tác với nhau, tương tác với đồ dùng, kết quả học tập như thế nào...
- Chú y đến thay đổi của HS:
+ Trước hành vi của GV: VD: Học sinh học tích cực hơn khi được
giáo viên hỗ trợ hay vẫn khó khăn. Khi nghe cô hỏi, học sinh nhanh chóng
phát biểu hay không có phản xạ gì...
+ Trước hành vi, kết quả của bạn: Tiếp nhận sự giúp đỡ của bạn, chủ
động nhờ bạn giúp, cách thức giúp đỡ, hỗ trợ nhau có phù hợp không (nhiều
Xảy ra ở số đông hay số ít học sinh ?
Nguyên nhân?
15
giáo viên không quán xuyến hết sẽ dẫn đến một số em sửa cho bạn đúng thành
sai, gnhi ngờ kết quả của bạn mà không dám trao đổi với cô giáo...)
+ Khi thay đổi hoạt động học tập: Vui vẻ, hứng thú, đáp ứng được
hay bị gò ép, lúng túng, khó thực hiện...
Với những quan sát như vậy, người dự giờ sẽ có những suy ngẫm sâu
sắc về bài học, tìm ra nguyên nhân và cách làm để cải tiến giờ học, làm
cho các tình huống học tập của học sinh trở nên có ý nghĩa hơn đối với các
em. Từ đó trong chia sẻ về tiết dạy sẽ đưa ra những ý kiến góp ý có chất
lượng hơn cho đồng nghiệp.
* Ghi chép khi dự giờ:
Giáo viên lựa chọn cách ghi chép phù hợp và dễ hiểu nhất với bản thân.
Sau đây là mẫu ghi chép được cho là ưu điểm:
PHIẾU DỰ GIỜ
SƠ ĐỒ LỚP HỌC
Họ và tên người dạy:……………………………………………………
Ngày dạy:…………………………….Môn:…………………Lớp: … ……
Tên bài dạy:……………………………………………
Thời
gian
Diễn biến Em nào (nhóm
nào) như thế
nào?
Suy ngẫm Giải pháp
Ý kiến chia sẻ cho người dạy:
:……………………………………………………………………………….………...........................................................................
………………………………………………………………….…….…………………………………………………………………
Một số bài học cho bản thân:……………………………………………..…................................................
……………………………………………………………………………………………..……………………………………………
…………....................................................................................................................................................................................................
16
GỢI Ý CÁCH GHI PHIẾU DỰ GIỜ
Phiếu dự giờ dùng cho giáo viên ghi chép khi dự giờ đồng nghiệp
nhằm lưu lại thực tế dạy học trện lớp. Từ đó giúp cho bản thân giáo viên có
những suy ngẫm, chia sẻ, rút kinh nghiệm trong những buổi sinh hoạt
chuyên môn và trong thực tiễn dạy học. Đây là công cụ góp phần đổi mới
sinh hoạt chuyên môn hiệu quả nhằm phát triển năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho giáo viên. Dựa trên gợi ý sau đây, mỗi giáo viên lựa chọn
cách ghi sao cho phù hợp, ngắn gọn và dễ hiểu nhất đối với bản thân mình.
1. Sơ đồ học sinh: Dùng kí hiệu, hình vẽ, chữ số…để ghi lại sơ đồ
lớp học, đánh số vị trí từng học sinh (từng nhóm). Điều này giúp giáo viên
dự giờ có thể nhớ và nêu được cụ thể em nào, nhóm nào, học như thế nào
khi chia sẻ cùng đồng nghiệp.
2. Thời gian: Ghi thời gian bắt đầu tiết học, ghi thời điểm xảy ra các
tình huống học tập mà giáo viên quan sát được (khoảng phút thứ mấy của
tiết học), cũng có thể ghi thời gian diễn ra mỗi hoạt động học trong tiết học
đó (khoảng mấy phút).
3. Diễn biến: Ghi lại diễn biến tiết học bao gồm: hoạt động học của
học sinh, hoạt động của giáo viên, các câu hỏi, câu trả lời hoặc nội dung bài
học theo trình tự thời gian.
4. Ghi chép tình huống quan sát được từ thực tế việc học của học
sinh (cả tình huống tích cực và tình huống chưa tích cực).
Quan sát thái độ, hành vi, lời nói, sự quan tâm đến bài học và kết quả
bài làm của các em. Suy nghĩ xem học sinh đang suy nghĩ gì, cảm thấy gì,
gặp khó khăn gì.
Chú ý sự thay đổi của học sinh khi nhận được sự hỗ trợ, tác động của
giáo viên của bạn bè và khi thay đổi hoạt động học tập.
Chú ý xem tình huống đó xảy ra với cả lớp hay nhóm học sinh hay
từng em học sinh.
5. Suy ngẫm: Ghi lại những suy nghĩ của bản thân về tình huống học
tập đó. Phán đoán lí do tại sao thực tế đó lại xảy ra.
17
6. Giáp pháp: Ghi những giải pháp để phát triển những tình huống học
tập tốt và khắc phục những tình huống chưa thành công trong tiết học theo suy
nghĩ của bản thân. giải pháp càng cụ thể và sát với thực tế việc học của học sinh
càng tốt.
7. Ý kiến chia sẻ cho người dạy: Dựa trên thực tế việc học của học
sinh đã diễn ra trong tiết học, giáo viên đưa ra những ý kiến sẽ góp ý chia
sẻ cho đồng nghiệp về một số hoặc tất cả các vấn đề sau:
- Về kết cấu và tiến trình bài học
- Về việc học của học sinh (thành công, khó khăn)
- Các mối quan hệ và ứng xử của giáo viên
- Tính cô đọng và ý nghĩa thiết thực của nội dung bài học
- Hiệu quả đạt được so với mục tiêu bài học
- Việc phân bố, sử dụng thời gian cho các hoạt động học.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học…
8. Một số bài học cho bản thân: Ghi lại những bài học kinh nghiệm,
những hiểu biết mới có thể áp dụng vào quá trình dạy học của bản thân sau
khi dự giờ và trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp.
Bƣớc 3. Suy ngẫm, chia sẻ về tiết day.
Trình tự thực hiên buổi chia sẻ:
1) Người dạy minh hoạ mục tiêu và ý định thực hiện bài học:
Trước hết chủ trì cần cảm ơn người dạy minh họa đã thể hiện tiết học
để đồng nghiệp có cơ hội chia sẻ, học tập. Đây là việc làm cần thiết để
giảm áp lực cho người dạy minh họa và cũng tạo không khí thoải mái, cởi
mở trước khi vào buổi chia sẻ.
Tiếp theo, chủ trì mời người dạy giải thích các mục tiêu mà người
dạy muốn thực hiện thông qua bài học này, để người dạy giải thích lý do tại
sao lại dạy theo cách đó, những ý định chủ đề và nhận thức các vấn đề về
bài học, v.v.
Sau đó, để người dạy minh hoạ tự nói về cảm nghĩ của mình sau giờ
dạy minh hoạ: Về những điểm đã tiến hành thành công, những điểm còn
18
cảm thấy khó khăn, băn khoăn, cảm nghĩ về điểm nổi bật của bài học: chỉ
ra một vài tình huống học tập của học sinh và nêu cảm nghĩ của mình.
Người dạy minh hoạ cũng có thể gợi nhớ lại các tình huống trong
giờ học và những phản ứng của học sinh khiến cho giáo viên đó phải ngạc
nhiên. Hoặc cảm thấy khó có thể đáp ứng được yêu cầu của học sinh.
2) Chủ trì điều hành phần đóng góp ý kiến của người dự:
Tùy vào mục tiêu của buổi sinh hoạt chuyên môn (là sinh hoạt theo
chuyên đề hay sinh hoạt định kì), chủ trì có thể gợi ý trước vấn đề trọng
tâm cần trao đổi hoặc để giáo viên tham dự trao đổi tất cả những nội dung
xung quanh tiết học.
Sau đó người chủ trì điều hành các giáo viên dựa trên thực tế việc
học của học sinh đã diễn ra trong tiết học để đưa ra những ý kiến sẽ góp ý
chia sẻ cho đồng nghiệp về một số hoặc tất cả các vấn đề sau:
+ Kết cấu và tiến trình bài học;
+ Việc học của học sinh (thành công, khó khăn);
+ Các mối quan hệ và ứng xử của giáo viên;
+ Ý nghĩa thiết thực của nội dung bài học;
+ Tính phù hợp, vừa sức của các nhiệm vụ học tập;
+ Hiệu quả đạt được so với mục tiêu bài học;
+ Việc phân bố, sử dụng thời gian cho các hoạt động học;
+ Sử dụng đồ dùng dạy học…
Một số lƣu y:
1)Các vấn đề người chủ trì cần quan tâm:
+ Trực tiếp giúp đỡ hoặc phân công GV giúp đỡ người dạy minh họa
+ Nhắc nhở GV cách ngồi dự và cách quan sát.
+ Sử dụng máy quay, ghi lại hình ảnh để giáo viên có thể quan sát lại
khi phân tích tình huống học tập.
+ Đảm bảo để giáo viên suy ngẫm về bài dạy
19
+ Đảm bảo việc lắng nghe của mọi người trong thảo luận
+ Không để xảy ra tình trạng GV dạy minh họa trở thành mục tiêu bị
phê bình, chỉ trích
+ Gọi tất cả GV để ai cũng phải có ý kiến
+ Không nhất thiết phải tổng kết lại cuối mỗi buổi thảo luận
2) Yêu cầu đối với người tham gia:
+ Ý kiến cần thể hiện sự đánh giá cao về tiết dạy của đồng nghiệp.
Các bài dạy minh hoạ không chỉ tạo cơ hội cho người dạy nâng cao
năng lực mà còn tạo cơ hội cho những người dự học tập giáo viên dạy. Ta
có thể học tập được ở từ người dạy phản ứng thế nào đối với hành vi của
học sinh. Đồng thời chúng ta sẽ học tập được thái độ, ý định và nhận thức
của người dạy minh hoạ đối với các vấn đề của học sinh. Như một phép
lịch sự, tất cả mọi người cùng góp ý kiến về những điều mình học được từ
người dạy minh hoạ. Nếu ta không phát biểu ý kiến gì thì điều đó có nghĩa
là ta chẳng học được gì từ người dạy và như thế thì quá khiếm nhã.
+ Suy ngẫm về những gì diễn ra trong giờ lên lớp.
Ta cần phải tái tạo lại các tình huống các em học sinh được học và
các tình huống học sinh không được học trong tiết dạy. Ta không nên thảo
luận giáo viên lên lớp như thế nào, mà nên nhặt ra những chi tiết xảy ra đến
với học sinh. Ta cần xuất phát từ mối quan tâm của ta đối với học sinh, ví
dụ: “Chúng ta muốn biết nhiều hơn về học sinh!” Những gì diễn ra đối với
các học sinh ở gần ta chính là những thay đổi về sự hiểu biết và cảm xúc
của học sinh như ngạc nhiên, vui, buồn, chán ngán, vv chúng ta hãy trao
đổi xem tại sao những biến đổi này cảm xúc này lại diễn ra như vậy.
+ Trao đổi với người dạy về những ý định và mục tiêu của người đó
chứ không đưa ra những cách dạy khác.
Buổi sinh hoạt chuyên môn không phải để ta trao đổi các quan điểm
của những người dự như giáo viên dạy minh hoạ cần phải dạy như thế nào,
hoặc phải dạy những gì. Chúng ta cần trao đổi theo các ý định và mục tiêu
do người dạy đề ra. Cuộc trao đổi cần xuất phát từ sự quan tâm chú ý của ta
đối với giáo viên dạy minh hoạ, chẳng hạn như: “Tôi muốn biết rõ hơn ý
20
định của giáo viên”. Trước hết, chúng ta hãy trao đổi về những gì ta học
được từ giáo viên dạy minh hoạ, sau đó thảo luận xem các ý định và mục
tiêu đó liên hệ như thế nào với những gì đã diễn ra đối với học sinh là kết
quả của sự đáp ứng của giáo viên dạy minh hoạ đối với học sinh. Chúng ta
cần trao đổi về những gì mà giáo viên dạy minh hoạ muốn biết.
3) Để không tạo áp lực cho giáo viên, trong sinh hoạt chuyên môn
không đánh giá, xếp loại giờ dạy.
Việc đánh giá, xếp loại giáo viên các nhà trường có thể tiến hành
theo dõi, dự giờ, kiểm tra kết quả dạy học thông qua chất lượng học sinh và
tiến hành trong cả năm học theo nhiều hình thức khác nhau. Còn sinh hoạt
chuyên môn là nơi để giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Nếu đem tiết
dạy ra để xếp loại, chắc rằng giáo viên sẽ rất áp lực, không dám đổi mới,
không dám sáng tạo, chỉ dạy theo sách giáo khoa, sách giáo viên cho an
toàn. Vì vậy chúng ta sẽ không học được nhiều qua sinh hoạt chuyên môn.
Bƣớc 4. Áp dụng vao thực tế day học hang ngay
- Có thể thiết kế lại bài học đó tại lớp mình
- Áp dụng những gì giáo viên học được vào các giờ dạy hàng ngày của mình
- Chuẩn bị bài học tiếp theo, nhen nhóm những ý tưởng mới cho
những hoạt động học trong tiết học sau.
Đây là bước cuối cùng của chu trình nhưng cũng là những chuẩn bị,
trải nghiệm để bắt đầu bước 1 của chu trình tiếp theo tạo nên vòng tròn
khép kín, liên tục. Nếu thực hiện tốt, sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên
cứu bài học giúp năng lực giáo viên phát triển nhanh chóng về mọi mặt.
Đây là giải pháp tối ưu mà các nhà trường cần thực hiện nghiêm túc để
nâng cao chất lượng đội ngũ.
21
PHẦN II.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HỌC VÀ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
HIỆN NAY CẦN ĐƢỢC KHẮC PHỤC THÔNG QUA SINH HOẠT
CHUYÊN MÔN DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC:
1. Trong day học:
1.1. Môi trường học tập không thân thiện:
Quan hệ giữa Học sinh với Giáo viên, Học sinh với Học sinh:
- Chưa tin cậy và thoải mái
- Thiếu sự quan tâm lắng nghe lẫn nhau
- Chưa thể hiện chấp nhận lẫn nhau: thừa nhận thực tại, lắng
nghe lẫn nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau.
1.2. Học sinh không hứng thú học
- Bài học không phù hợp
- Việc học của học sinh khác với ý định của giáo viên
- Các hoạt động học tập diễn ra hình thức
1.3. Chất lượng việc học chưa cao: Học nhiều-Hiểu ít
- Học nhiều: Học sinh tham gia nhiều hoạt động trong giờ học với
thời gian và lượng kiến thức nhiều nhưng không kịp hiểu bài
- Hiểu ít: Thiếu độ sâu và chiều rộng hiểu biết, thiếu các năng lực
mới
1.4. Giáo viên chưa nhận ra vấn đề của học sinh
- Giáo viên không biết hoặc chưa nhận ra được vấn đề liên quan đến
việc học của học sinh
- Chưa có ý thức và thói quen quan tâm chú ý riêng tới từng đối
tượng học sinh
22
- Giáo viên chưa có thói quen chấp nhận sự khác biệt của từng em
học sinh
- Giáo viên thiếu năng lực quan sát, lắng nghe, cảm nhận, phản ứng
tinh tế và nhạy cảm trước việc học của riêng từng cá nhân học sinh
1.5. Giáo viên chưa chấp nhận thực tế bản thân và đồng nghiệp:
- Giáo viên không hoặc chưa có khả năng tự giám sát, theo dõi và điều
chỉnh bản thân do đặc tính môi trường làm việc có tính đơn lẻ giữa các lớp
học khác nhau.
- Nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa chấp
nhận bản thân và đồng nghiệp.
1.6. Giáo viên thực hiện các bài học với tốc độ nhanh và qua loa.
Có lẽ một trong các lý do là các câu hỏi giáo viên đặt ra cho học sinh
có bản chất đơn giản, không nằm ngoài mức độ kể lại, thuật lại. Giáo viên
hiếm khi hỏi học sinh về ý kiến của các em hay lý do của các câu trả lời
(kiến thức bài học không được đào sâu). Trong nhiều trường hợp, giáo viên
và học sinh đánh giá câu trả lời của các bạn khác là đúng hay sai. Thiếu sự
suy ngẫm sâu sắc vể câu trả lời của học sinh trong bài học dẫn đến học sinh
không hiểu cặn kẽ về bài học. Khi gọi học sinh phát biểu thường chọn các
em học sinh khá, giỏi, những người có thể trả lời rất nhanh và đúng. Như
vậy, những học sinh còn lại sẽ không theo kịp tiến độ bài học và thường bị
giáo viên bỏ rơi hoặc ít được quan tâm đến.
2. Trong sinh hoat chuyên môn:
2.1. Thái độ đánh giá trong sinh hoạt chuyên môn.
Về thái độ đánh giá của giáo viên đối với học sinh: trong khi thảo
luận sau bài học, giáo viên thường đề cập đến việc học sinh không thể tập
trung vào bài học hơn là miêu tả lại bối cảnh học tập của học sinh. Mục
đích của viêc tổ chức sinh hoat chuyên môn la thúc đẩy sự chia sẻ va
23
nghiên cứu về bối cảnh học tập một cach chi tiết. Bằng cách làm như
vậy, thái độ của giáo viên đối với học sinh sẽ trở nên yêu thương và tích
cực hơn. Nhưng thực tế, giáo viên thường chỉ trích những học sinh mà
mình đã quan sát thấy và chỉ đưa ra những ấn tượng tiêu cực.
Về thái độ đánh giá của giáo viên đối với các đồng nghiệp: người dự
giờ vẫn có xu hướng đánh giá giáo viên dạy minh hoạ hơn là có thái độ học
tập từ bài học đã được dự. Một số người dự đưa ra những nhận xét như “cô
giáo đã đạt được mục tiêu của bài học” hoặc “Tôi không nghĩ rằng cô giáo
đã đạt được mục tiêu của bài học”. Hơn nữa, người dự cũng thường xuyên
kết thúc ý kiến phát biểu của mình bằng việc chỉ ra những thiếu sót của bài
học đã được dự. Thái độ đánh giá đồng nghiệp như vậy làm cho tình đồng
nghiệp không phát triển, dễ gây chia rẽ trong nhà trường. Hơn nữa, sự thiếu
tin tưởng này cũng dẫn đến thái độ tự vệ mạnh mẽ giữa các giáo viên,
những người không sẵn sàng thừa nhận những điểm yếu, thất bại hay sai
lầm. Việc xây dựng tình đồng nghiệp giữa các giáo viên thông qua việc suy
ngẫm về bài học và việc học của học sinh trong sinh hoạt chuyên môn là rất
hữu ích và cần thiết để giáo viên học hỏi từ những khó khăn và vấn đề
được nhận thấy trong các bài học khác. Việc giáo viên chấp nhận và tôn
trọng lẫn nhau dựa trên việc tự nhận thức về những thiếu sót khi tiến hành
bài học cũng là điều quan trọng.
2.2. Sự tự chủ của giáo viên.
Giáo viên thiếu sự tự chủ: về việc tự chủ, có hai vấn đề liên quan đến
chương trình và quy trình đánh giá. Nói chung, chương trình giáo dục của
ta vẫn còn rất nặng. Giáo viên coi trọng thực hiện chương trình do cấp trên
quy định hơn là chương trình do họ xây dựng nên và chịu rất nhiều áp lực
để thực hiện tất cả các nội dung dạy học. Hơn nữa, giáo viên có xu hướng
gặp khó khăn trong việc sử dụng chương trình một cách linh hoạt và hiếm
khi tổ chức lại chương trình trong các bài học. Đối với một số các chủ đề
nhất định, việc thay đổi nội dung dạy học cho phù hợp thực tế lại bị phản
24
đối. Giáo viên cũng ngại làm việc này và chỉ bám sát sách giáo khoa do lo
sợ bị đồng nghiệp và các cán bộ quản lý chỉ trích. Ngoài ra, các tiêu chí
đánh giá giáo viên do cấp quản lý ban hành thường tập trung vào hành vi
của giáo viên đứng lớp như chữ viết hay giọng nói của giáo viên mà ít tập
trung vào mối quan hệ giữa giáo viên-học sinh hay giữa các học sinh với
nhau. Những tiêu chí đánh giá hiện tại là lấy giáo viên làm trung tâm. Hệ
quả là, giáo viên phải cạnh tranh với nhau theo các tiêu chí này để được
bình chọn là “giáo viên giỏi” các cấp. Vì sự tồn tại của cách đánh giá này,
có một sự mâu thuẫn lớn giữa nền tảng lý tưởng giáo dục lấy học sinh làm
trung tâm và hệ thống đánh giá hiện tại.
2.3. Sự học hỏi của giáo viên.
Học hỏi là việc không thể thiếu đối với sự phát triển chuyên môn của
giáo viên. Giáo viên thiếu cơ hội để nâng cao kiến thức học thuật của họ.
Trình độ của giáo viên tiểu học còn thấp khi nhiều người chỉ được đào tạo
thiếu bài bản. Hơn nữa, cơ hội học tập giúp giáo viên mở rộng kiến thức còn
rất hạn chế. Nhằm nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên, chúng ta đã
tiến hành một loạt các khoá tập huấn nhưng có hai vấn đề của hình thức bồi
dưỡng này liên quan đến số lượng người tham dự và tính liên quan của
chương trình bồi dưỡng. Hoạt động sinh hoạt chuyên môn được coi là nơi để
nâng cao nền tảng thực hành, trên thực tế lại là nơi đánh giá đồng nghiệp,
khiến cho việc xây dựng mối quan hệ chia sẻ giữa các giáo viên trở nên rất
khó khăn. Thiếu sự học tập của tập thể dẫn đến sự suy giảm động cơ học tập
của mỗi cá nhân giáo viên. Hơn nữa, giáo viên cảm thấy rất ngần ngại trong
việc tiến hành sinh hoạt chuyên môn theo hướng thực hành (chia sẻ bằng
chứng liên quan đến việc học của học sinh trong khi suy ngẫm về bài học).
Thông thường, họ thích các bài thuyết giảng, các kết luận rõ ràng và chỉ dẫn
từ những cán bộ quản lý các cấp. Việc tổ chức tập huấn theo cách mà giáo
viên ưa thích có thể khiến họ tin là mình đã học được điều gì đó. Tuy nhiên,
có một khoảng cách giữa những điều giáo viên đã học và những gì họ thực
25
hiện trong bài học trên thực tế. Đối với họ, việc suy ngẫm về các bài học
thực tế và quyết định cách thức vượt qua những hạn chế dường như là việc
làm lâu dài và dễ gây buồn chán. Tuy nhiên, chỉ có trải qua quá trình lâu dài
này và có vẻ tẻ nhạt này, giáo viên mới có thể thay đổi cách dạy học và văn
hoá của họ.
2.4. Sự đối thoại giữa các thành viên.
Điều này thể hiện rõ ở các giáo viên khi tiến hành sinh hoạt chuyên
môn: (1) thiếu sự chú ý của người nghe dành cho người đang phát biểu; (2)
xu hướng người phát biểu chỉ hướng vào nói với chủ trì (3) sự ngần ngại
của một số giáo viên trong việc đưa ra ý kiến nhận xét của mình. Vì những
yếu tố trên, ở giai đoạn đầu của sinh hoạt chuyên môn, việc tạo ra một cuộc
đối thoại cởi mở hay mối quan hệ đối thoại giữa cách giáo viên tại các
trường là việc làm rất khó khăn. Lý do ở đây có lẽ là giáo viên không ý
thức được việc làm thế nào để trao đổi ý kiến một cách dân chủ và đối thoại
với đồng nghiệp bởi vì họ không được nhận bất cứ tập huấn nào về vấn đề
này từ những ngày họ còn ngồi trên ghế nhà trường. Hơn nữa, thậm chí
giữa các đồng nghiệp với nhau, chỉ một số ít người như ban giám hiệu hay
giáo viên có trình độ khá giỏi đưa ra ý kiến hay phổ biến chính sách; những
người khác dường như chỉ biết nghe theo và họ cũng không bị kiểm tra khi
họ ít chú ý tới các lời phát biểu. Một nguyên nhân nữa có thể là việc sợ làm
mất lòng đồng nghiệp. Ở trường học có hai nhóm giáo viên: các giáo viên
dẫn đầu và giáo viên thông thường. Trong khi các giáo viên khá giỏi lấn át
trong việc đưa ra ý kiến, các giáo viên khác chỉ im lặng. Họ sẽ không bị chỉ
trích và cảm thấy an toàn hơn một khi họ không có ý kiến gì. Trong tình
huống như vậy, họ không thể có được những cuộc đối thoại cởi mở, hiệu
quả cũng như không thể tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau.
Những vấn đề trên được quan sát thấy ở giai đoạn đầu của việc đổi
mới nhà trường. Chúng đang được các trường điểm giải quyết mặc dù tốc
độ cải cách ở mỗi trường có khác nhau. Vì vậy, không nên coi đây là những
26
vấn đề vĩnh viễn tồn tại. Cần phân tích những thay đổi do động cơ bên
trong mà các trường đạt được thông qua quá trình này. Hơn nữa, cũng cần
phải tiến hành một phân tích trên khía cạnh lịch sử về những vấn đề nêu
trên. Nghiên cứu này được dựa trên những hiện tượng đương thời được
quan sát thấy khi tiến hành một nghiên cứu trường hợp về dự án. Tuy
nhiên, những vấn đề trên có gốc rễ lịch sử sâu sắc.
Vì vậy, cần phải xem xét các nguyên nhân sự tồn tại của những hiện
tượng trên để có thể có được các giải pháp triệt để. Đối với các trường mới
triển khai đổi mới sinh hoạt chuyên môn bước đầu cán bộ quản lý và giáo
viên các trường đã hiểu về ý nghĩa của mô hình nhưng các năng lực của cán
bộ quản lý và giáo viên còn nhiều hạn chế biểu hiện: Khi dự giờ người dự
chưa tập trung vào việc quan sát học sinh, ít tư duy trong quá trình dự giờ
xem tại sao lúc đó học sinh lại có biểu hiện như vậy, chưa nhận thấy sự
tương tác giữa giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh và sự tương tác
của học sinh với nội dung bài học... người dự vẫn ghi chép nhiều, vẫn ghi
tiến trình giờ học ảnh hưởng tới việc quan sát học sinh. Việc kết hợp giữa
nghe, nhìn, tư duy và ghi chép khi dự giờ còn hạn chế. Người điều hành
chưa làm rõ thông tin của người chia sẻ chủ yếu là gọi từng người tham gia
phát biểu ý kiến. Văn hoá lắng nghe vẫn có những giáo viên nói chuyện
riêng khi chia sẻ. Vẫn ngại phát biểu vẫn để người điều hành phải gọi mới
phát biểu, chưa mạnh dạn hỏi trao đổi với đồng nghiệp những băn khoăn
thắc mắc và những khó khăn của bản thân khi giảng dạy. Người dự giờ vẫn
có xu hướng đánh giá giáo viên dạy minh hoạ hơn là có thái độ học tập từ
bài học đã được dự. Chưa phân tích sâu nguyên nhân thực tế diễn ra trên cơ
sở hoạt động học của học sinh mà thường đổ lỗi cho học sinh và những
nguyên nhân khách quan...
27
PHẦN III.
VAI TRÕ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÍ, GIÁO VIÊN
TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
1. Đối với can bộ quản lí nha trƣờng:
1.1. Nâng cao nhận thức:
Người quản lí nhà trường cần nhận thức đầy đủ rằng: chỉ có thể thay
đổi nhà trường bằng nội lực của chính mình, không trông chờ từ bên ngoài
hay đỗ lỗi cho khó khăn. Để trường tiểu học có những bước đi chắc chắn,
người cán bộ quản lý cần có tầm nhìn về quy trình cải cách nhà trường đó
là: Giáo viên thay đổi -> Giờ học thay đổi -> Học sinh thay đổi -> Nhà
trường thay đổi.
- Nhà trường thay đổi: Để nhà trường thay đổi và phát triển, cán bộ quản
lí nhà trường cần xây dựng một tập thể cùng học tập. Làm phong phú hoạt động
lắng nghe lẫn nhau, học lẫn nhau, cùng nhau học tập và cùng nhau trưởng
thành. Chỉ đạo giáo viên xây dựng giờ học sát hơn với việc học của học sinh.
Giáo viên cũng học tập qua dáng vẻ của học sinh trong giờ học, có con mắt
nhìn xuyên thấu bản chất của tài liệu.
- Giáo viên thay đổi: Muốn giáo viên thay đổi cách duy nhất là xây
dựng tình đồng nghiệp giữa các thành viên trong nhà trường thiết lập tình
đoàn kết giữa các giáo viên trong trường, để mọi người luôn tôn trọng tin
tưởng và mở rộng tâm hồn học hỏi đồng nghiệp từ đó giúp mỗi giáo viên
phát triển năng lực chuyên môn của mình.
Nhằm xây dựng tình đồng nghiệp và nâng cao năng lực chuyên môn,
vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học khi giáo viên tiến hành bài dạy,
các nhà trường cần tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn trong tuần. Giáo
viên trong tổ, khối thay phiên nhau tiến hành các tiết dạy để cho các giáo viên
khác dự giờ. Bằng cách phân tích sâu thực tế giảng dạy của đồng nghiệp
thông qua giao tiếp với những người khác giáo viên có thể nhìn nhận một
cách khách quan hơn về việc học cũng như phát triển các năng lực của học
sinh thông qua bối cảnh học tập cụ thể. Cũng có thể thông qua thực tế giảng
28
dạy của đồng nghiệp giáo viên nhận thấy được thực tế giảng dạy của chính
mình. Tất cả mọi người dự giờ đều được quan sát và được đưa ra nhận xét về
giờ dạy của đồng nghiệp, nếu không mỗi cá nhân sẽ không bao giờ cải thiện
được bài dạy của chính mình.
1.2. Xây dựng kế hoach tổ chức sinh hoat chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bai học tai trƣờng:
Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học muốn thành công
cần thời gian dài bởi muốn thay đổi một thói quen đã ăn sâu trong cách
nghĩ, cách làm của giáo viên cần thay đổi dần từ cách chọn vị trí dự giờ,
cách thức quan sát, suy ngẫm về bài học, cách phát biểu góp ý đồng nghiệp,
cách quay phim, chụp ảnh hay chủ trì sinh hoạt chuyên môn…Nhiều người
nghĩ rằng đây là những việc làm hết sức quen thuộc của người giáo viên
không có gì là khó. Tuy nhiên khi đi vào chiều sâu thực sự không dễ.
Chẳng hạn, để thay đổi trọng tâm quan sát từ giáo viên sang học sinh, để
nhận ra học sinh học thế nào, các em đang nghĩ gì, đang gặp khó khăn gì,
vì sao các em lại có kết quả làm bài như vậy…giáo viên mất rất nhiều thời
gian, dự giờ nhiều, học hỏi nhiều từ những phân tích suy ngẫm của đồng
nghiệp mới thực hiện được. Vì vậy việc chỉ đạo lập kế hoạch sinh hoạt
chuyên môn trong các nhà trường hết sức quan trọng. Kế hoạch càng rõ
ràng, cụ thể bao nhiêu thì quá trình thực hiện thuận lợi bấy nhiêu. Chẳng
hạn:
* Xây dựng lộ trình (3 năm): Để thực hiện thành công Sinh hoạt chuyên
môn dựa trên nghiên cứu bài học, tạo nên sự thay đổi về chất lượng cũng
như văn hóa nhà trường đòi hỏi một thời gian dài, cần có lộ trình cụ thể. Vì
vậy hiệu trưởng nhà trường cần tổ chức xây dựng lộ trình ít nhất trong 3
năm. Việc đạt mục tiêu về hiểu biết, kĩ năng, thái độ cụ thể, đồng tâm và
mức độ tăng dần. Có thể minh họa một kế hoạch 3 năm như sau:
A. Năm thứ nhất:
I. Mục tiêu cần đạt:
1. Hiểu biết:
- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM
(Giải pháp hữu hiệu để đổi mới nhà trường) cùng nhau quyết tâm thực hiện
mô hình.
29
- Giúp giáo viên nhận thấy thực tế về việc học tập của học sinh.
2. Kỹ năng:
- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.
- Biết quan sát thu nhận thông tin nhận ra thực tế việc học của học sinh
trong các giờ học.
- Lắng nghe và tự giác trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ.
- Biết phân tích các tình huống học tập và nhận ra các hoạt động học
tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa.
- Hành vi ứng xử giữa các thành viên trở nên thân thiện.
3. Thái độ:
- Không ngại dạy minh hoạ.
- Không ngại phát biểu
- Mong muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến
- Có niềm tin, sự tôn trọng, mở rộng lòng mình chấp nhận mọi người
cầu thị sự tiến bộ.
- Tin tưởng vào kết quả SHCM mới.
II. Những công việc cần phải làm:
- Tổ chức tập huấn cho giáo viên nắm bắt được mục đích ý nghĩa,
những nguyên tắc và kỹ thuật tổ chức điều hành một buổi SHCM .
- Xây dựng kế hoạch lịch tổ chức SHCM cho cả năm học (người dạy
minh hoạ, người chủ trì phân công người hỗ trợ tư vấn thiết kế bài dạy cho
giáo viên dạy minh hoạ...).
- Chuẩn bị bài dạy minh hoạ: Giáo viên dạy minh hoạ nghiên cứu tài
liệu, chuẩn bị nội dung và thiết kế bài giảng cần có sự tham gia của cán bộ
quản lý chuyên môn, các thành viên trong tổ chuyên môn và những giáo viên
có kinh nghiệm giúp giáo viên dạy minh hoạ làm chủ kiến thức, phương pháp
và tự tin. (không dạy trước đối tượng học sinh của lớp dạy minh hoạ).
- Ủng hộ giáo viên dạy minh hoạ tạo tâm lý thoải mái, tự tin cho giáo
viên dạy minh hoạ.
- Thay đổi những thói quen cũ khi dự giờ và chia sẻ ý kiến với đồng
nghiệp.
- Rèn luyện kỹ năng quan sát thu nhận thông tin khi dự giờ .
- Rèn kỹ năng chia sẻ ý kiến trong thảo luận.
- Xây dựng văn hoá lắng nghe qua hoạt động chia sẻ ý kiến.
30
- Giúp giáo viên nhận thấy nhữn vấn đề về bài học hiện nay thông
qua việc phân tích các tình huống học tập cụ thể giúp giáo viên nhận thấy
hoạt động học tập có ý nghĩa và không có ý nghĩa.
- Xây dựng niềm tin sự tôn trọng nhau qua sự qua việc học hỏi tìm
hiểu ý nghĩa những lời phát biểu của đồng nghiệp.
- Xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các giáo viên thông qua việc
trao đổi cùng nhau nghiên cứu bài học.
- Xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên thông qua môi trường
làm việc cùng nhau.
- Luôn theo dõi nắm bắt những diễn biến tâm lý những sự thay đổi
của giáo viên về các năng lực cần thiết. Trong quá trình triển khai linh
hoạt điều chỉnh phương pháp tác động tới đối tượng tham gia.
- Đánh giá kết quả triển khai SHCM sau năm đầu thực hiện mô hình
bồi dưỡng giáo viên theo hướng nghiên cứu bài học. Phân tích những thành
công những điểm còn tồn tại tìm hiểu nguyên nhân đề ra giải pháp trong công
tác quản lý chỉ đạo và điều hành cho năm tiếp theo.
B. Năm thứ 2:
I. Mục tiêu cần đạt:
1. Hiểu biết:
- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM
(Giải pháp hữu hiệu để đổi mới nhà trường) cùng nhau quyết tâm thực hiện
mô hình.
- Giáo viên hiểu biết sâu sắc thực tế về việc học tập của học sinh, tìm
hiểu nguyên nhân có giải pháp cải tiến phù hợp.
2. Kỹ năng:
- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.
- Biết quan sát thu nhận thông tin để nhận ra thực tế việc học của
học sinh trong các giờ học .
- Lắng nghe trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ. Ngôn ngữ chia sẻ trôi
chảy, mạch lạc, rõ ý, thiện cảm, giao tiếp tốt trong buổi sinh hoạt chuyên
môn.
- Biết phân tích sâu các tình huống học tập, hiểu sâu các hoạt động
học tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa tìm hiểu
nguyên nhân.
31
- Làm rõ những vấn đề người dự, người dạy quan tâm.
- Các mối quan hệ giữa các thành viên thay đổi có chiều sâu.
3. Thái độ:
- Giáo viên đăng ký dạy minh hoạ.
- Giáo viên có nhu cầu trao đổi.
- Ham muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến.
- Có niềm tin, sự tôn trọng, mở rộng bản thân mình chấp nhận mọi
người cầu thị sự tiến bộ.
- Tin tưởng vào kết quả SHCM mới.
II. Những công việc cần phải làm:
- Giúp giáo viên hiểu sâu sắc đích ý nghĩa, những nguyên tắc và kỹ
thuật tổ chức điều hành một buổi SHCM thông qua thực hành SHCM.
- Xây dựng kế hoạch, lịch tổ chức SHCM cho cả năm học (người dạy
minh hoạ, người chủ trì phân công người hỗ trợ tư vấn thiết kế bài dạy cho
giáo viên dạy minh hoạ...).
- Chuẩn bị bài dạy minh hoạ: Giáo viên dạy minh hoạ nghiên cứu kỹ
tài liệu, nâng cao mục tiêu bài học, lựa chon nội dung phù hợp và có ý
nghĩa với học sinh. Phát triển ý tưởng mới, thiết bài học hay. (Thiết kế bài
giảng cần có sự tham gia của cán bộ quản lý chuyên môn, các thành viên
trong tổ và những giáo viên có kinh nghiệm giúp giáo viên dạy minh hoạ
làm chủ kiến thức và tự tin).
- Tiếp tục rèn các kỹ năng quan sát thu nhận thông tin khi dự giờ
những thông tin từ việc học của học sinh.
- Nâng cao văn hoá lắng nghe qua hoạt động chia sẻ ý kiến.
- Đi sâu phân tích các tình huống học tập cụ thể giúp giáo viên hiểu
sâu về các hoạt động học tập có ý nghĩa và không có ý nghĩa.
- Tiếp tục xây dựng niềm tin sự tôn trọng nhau qua sự qua việc học
hỏi tìm hiểu ý nghĩa những lời phát biểu của đồng nghiệp.
- Tiếp tục xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các giáo viên thông
qua việc trao đổi cùng nhau nghiên cứu bài học.
- Cải tiến chất lượng các giờ học hàng ngày thông qua vận dụng
những bài học kinh nghiệm từ SHCM.
- Xây dựng các mối quan hệ giữa các thành viên đi vào chiều sâu
thông qua môi trường làm việc cùng nhau.
32
- Tiếp tục theo dõi nắm bắt những diễn biến tâm lý những sự thay đổi
của giáo viên về các năng lực cần thiết. Trong quá trình triển khai linh
hoạt điều chỉnh phương pháp tác động tới đối tượng tham gia.
- Đánh giá kết quả triển khai SHCM sau năm thứ hai thực hiện mô
hình bồi dưỡng giáo viên theo hướng nghiên cứu bài học. Phân tích những
thành công những điểm còn tồn tại tìm hiểu nguyên nhân đề ra giải pháp
trong công tác quản lý chỉ đạo và điều hành cho năm sau.
C. Năm thứ 3:
I. Mục tiêu cần đạt:
1. Hiểu biết:
- Cán bộ quản lý và giáo viên hiểu mục đích ý nghĩa của SHCM cùng
nhau quyết tâm thực hiện mô hình. Có niềm tin và coi SHCM là trụ cột
trong chiến lược đổi mới và phát triển nhà trường.
- Giáo viên hiểu biết sâu sắc về học sinh nắm chắc nội dung kiến
thức chương trình cấp học, phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm.
2. Kỹ năng:- Biết hợp tác làm việc cùng nhau.
- Biết quan sát thu nhận thông tin để nhận ra thực tế việc học của
học sinh trong các giờ học một cách tinh tế.
- Lắng nghe với thái độ chân thành, khuyến khích người nói mạnh
dạn chia sẻ hết, không dè dặt, trao đổi ý kiến trong khi chia sẻ theo nhiều
chiều với thái độ học hỏi. ngôn ngữ diễn đạt thu hút được người nghe.
- Biết phân tích sâu các tình huống học tập, hiểu sâu các hoạt động
học tập có ý nghĩa và các hoạt động học tập không có ý nghĩa tìm hiểu
nguyên nhân.
- Làm rõ những vấn đề người dự người dạy quan tâm.
- Biết thiết kế bài học hay, tổ chức các hoạt động có ý nghĩa tạo cơ
hội học tập cho mọi học sinh.
- Thực hiện bài dạy lấy học sinh làm trung tâm.
- Các mối quan hệ giữa các thành viên thay đổi có chiều sâu.
3. Thái độ:
- Giáo viên tự nguyện đăng ký dạy minh hoạ.
- Giáo viên có nhu cầu trao đổi.
33
- Ham muốn cải tiến các tiết học để đồng nghiệp chia sẻ ý kiến, đề
xuất các giải pháp với chuyên môn và đồng nghiệp.
- Luôn luôn tin tưởng, tôn trọng, mở rộng ang mình chấp nhận mọi
người và cầu thị sự tiến bộ.
- SHCM mới là nhu cầu đối với giáo viên.
II. Những công việc cần phải làm:
Tiếp tục triển khai SHCM theo các công việc cần làm của năm trước,
Nâng cao chất lượng các giờ dạy SHCM, tính hiệu quả trong việc bồi
dưỡng nâng cao năng lực giáo viên.
- Mỗi giáo viên vận dụng những bài học kinh nghiệm từ SHCM vào việc
giảng dạy hàng ngày.
- Đánh giá mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường.
- Đánh giá phương pháp bồi dưỡng.
- Đánh giá hiệu quả các tiết giờ học của HS.
- Tập hợp số liệu viết báo cáo...
* Xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm:
- Những căn cứ.
- Xác định mục tiêu nhiệm vụ.
- Các giải pháp thực hiện.
- Xếp lịch SHCM.
1.3. Chuẩn bị điều kiên cho Sinh hoat chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bai học:
1.3.1. Thời gian cần được đảm bảo:
Tiến hành sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học tại
trường ít nhất hai tuần một lần, thời gian mỗi lần ít nhất là 3 tiếng trong đó
35 đến 40 phút đầu dành cho việc dự giờ thời gian còn lại dành cho suy
ngẫm về bài học vừa dự giờ. Trong điều kiện cho phép các trường dành
một buổi chiều để tiến hành sinh hoạt chuyên môn. Không nên tổ chức sinh
hoạt chuyên môn tranh thủ hoặc xen kẽ với các hoạt động khác. Tất cả giáo
viên cần tự nguyện, hứng thú tham gia suốt thời gian sinh hoạt chuyên môn
với nhu cầu học tập để nâng cao năng lực bản thân, góp phần tạo ra một
34
nền giáo dục tốt cho trường học. Nếu giáo viên không hiểu mục đích này
và không sẵn sàng cải thiện chất lượng dạy học thì việc kéo dài thời gian
bao lâu cũng không có hiệu quả.
1.3.2. Sự tham gia của tất cả giáo viên:
Một điều kiện đặt ra là phải đảm bảo sự tham gia của tất cả giáo viên
trong trường. Đó là vì mục đích của sinh hoạt chuyên môn là cung cấp cơ
hội học tập cho tất cả giáo viên.
Nếu trường đông quá có thể chia ra theo khối lớp nhưng tốt nhất vẫn
là sự tham gia của giáo viên toàn trường cùng với người chủ trì có kinh
nghiệm.
1.3.3. Bảo đảm nơi tiến hành bài học:
Bài học minh hoạ được tiến hành tại lớp học của giáo viên dạy minh
hoạ. trong không khí lớp học bình thường, học sinh có thể thể hiện việc học
của mình trong bài học dựa vào những kinh nghiệm đã được cung cấp bởi
giáo viên dạy minh hoạ. Người dạy có thể học tập được nhiều hơn theo
cách này.
Lớp học cần đảm bảo chỗ cho giáo viên dự giờ làm sao người dự có
thể quan sát được nét mặt của học sinh. Chú ý không can thiệp vào việc học
của HS.
1.3.4. Số lượng người dự giờ:
Khi tiến hành sinh hoạt chuyên môn tại trường thì không cần điều
chỉnh về số lượng người dự, nhưng khi có Phòng, Sở hoặc giáo viên ở
trường khác về dự thì cần phải điều chỉnh về số lượng người dự vì nếu số
lượng người quá đông học sinh có thể bị ảnh hưởng. Số lượng người dự giờ
cần duy trì làm sao mà khi chia sẻ, suy ngẫm, mọi người đều có thể phát
biểu thoải mái và thân mật.
1.3.5. Người dạy minh hoạ:
Cán bộ quản lí nhà trường xếp kế hoạch dạy minh hoạ cho giáo viên
trong trường. Khi đến lượt dạy nếu giáo viên dạy minh hoạ không thấy tự
tin lắm cần có sự hỗ trợ của cán bộ quản lí và đồng nghiệp, cần phân công
giáo viên có kinh nghiệm, năng lực cố vấn và giúp đỡ giáo viên đó để làm
35
rõ mục tiêu bài học và mong muốn của giáo viên đó đối với học sinh. Kế
hoạch bài học phương pháp dạy học nên phụ thuộc vào giáo viên dạy minh
hoạ. Giáo viên dạy minh hoạ cần quyết định mục tiêu bài học và phần nào
sẽ được phát triển từ sách giáo khoa. Giáo viên có thể đặt ra những mục
tiêu mới đối với giờ học nhưng cần được cân nhắc kỹ và những điều này
cần phải được làm rõ thông qua việc đối thoại giữa giáo viên dạy minh hoạ
với người cố vấn.
Sự hỗ trợ cần phải được làm thường xuyên chứ không phải riêng cho giờ
dạy minh hoạ.
1.3.6. Tác phong dự giờ:
Trước khi dự giờ, CBQL nên nhắc giáo viên không quấy rầy học
sinh khi dự giờ, không gây áp lực với các em, không nói chuyện với các
em, không được mượn sách vở của các em, mượn bàn, mượn ghế, không
được nói chuyện với người dự giờ để ảnh hưởng đến các em, cũng không
nên giới thiệu với các em như: “Hôm nay lớp ta có các thầy cô giáo ở Sở,
phòng đến dự giờ vậy chúng ta nhiệt liệt chào mừng” bởi vì các em học
sinh chứ không phải người dự là những nhân vật chính trong buổi học hôm
đó.
1.3.7. Vị trí tiến hành dự giờ:
Hướng dẫn để giáo viên dự giờ lựa chon vị trí đứng có thể quan sát
được việc học của học sinh, quan sát được gương mặt, thái độ, hứng thú…
và quá trình học, kết quả của học sinh.
Vị trí tốt nhất có thể là phía trước, hai bên lớp học, có thể di chuyển
nhưng giữ khoảng cách và im lặng không làm ảnh hưởng đến việc học của
học sinh.
1.3.8. Chuẩn bị, rèn luyện các kĩ năng cần thiết của người chủ trì
(có thể là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng, tổ phó hoặc giáo viên
có năng lực cao)
- Trong buổi sinh hoạt chuyên môn tất cả các giáo viên cần học hỏi
lẫn nhau. Cần xây dựng được mối quan hệ hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa
các giáo viên với nhau, nhằm mục đích học hỏi lẫn nhau và phát triển năng
lực của họ.
36
- Vai trò chính của người chủ trì trong khi trao đổi về bài học không
phải là đưa ra ý kiến riêng của mình, lại càng không phải là để hỏi những giáo
viên khá giỏi đưa ra ý kiến, mà là để hỏi ý kiến của mọi giáo viên tất cả mọi ý
kiến đều được tôn trọng. Người chủ trì không nhất thiết phải tổng kết lại buổi
thảo luận ấy, bởi vì mọi người tham gia phải tự phát triển khả năng tổng kết
của mình.
- Không được để người dạy minh hoạ trở thành mục tiêu để phê bình
chỉ trích. Trong SHCM tất cả giáo viên đều phải ủng hộ những nỗ lực của
giáo viên dạy minh hoạ.
- Có thể lần lượt từng người dự giờ nêu ý kiến. Nếu tất cả mọi người
đều đưa ra ý kiến về những điều mình khám phá được về những học sinh ít
được chú ý tới như thế nào, tình hình thực tế của học sinh và tiềm năng của
bài học, thì giáo viên dạy minh hoạ có thể học được rất nhiều. Để khám phá
được điều gì đó mới trong SHCM, điều căn bản là người dự giờ phải được tự
do đưa ra các ý kiến đóng góp có tính chất xây dựng của mình.
- Lúc đầu phần lớn giáo viên dự thường không phát biểu gì cả, hoặc
đưa ra các ý kiến giống nhau. Trong SHCM kiểu cũ mọi người thường đưa
ra những điểm thất bại của giáo viên, hoặc đề xuất một cách dạy khác cho
nên họ thấy khó có thể trao đổi với nhau về học sinh học tập như thế nào
trong giờ học hoặc học sinh học được những gì từ bài học. Người chủ trì
cần xem xét 3 điểm dưới đây nhằm phá vỡ các thói quen cũ có tính chất
tiêu cực:
(1) Tìm hiểu ý nghĩa những ý kiến đóng góp của người dự giờ:
Trong thực tế, nhiều người dự khi phát biểu ý kiến không biết chắc
mình muốn nói gì hoặc không thể diễn đạt nỗi ý mình muốn nói. Vì vậy,
người chủ trì phải tìm hiểu ý kiến đóng góp của người dự giờ bằng cách hỏi
người dự xem họ đang muốn nói đến tình huống nào, học sinh nào, như thế
nào…để làm sáng tỏ điều họ muốn nói, dẫn dắt để người dự giờ phải đưa ra
được các ý kiến theo cách nhìn của mình, khác với quan điểm của người
dạy minh hoạ, đồng thời nếu người dự không hiểu rõ về quan điểm của
người dạy minh hoạ thì người chủ trì phải nói rõ thông qua trao đổi giữa
các giáo viên dự giờ với nhau. Không nên bỏ qua, mời ngồi xuống hoặc
37
mời người khác nói cho nhanh bởi vì làm như thế sẽ làm họ phật long, lần
sau không muốn phát biểu và không tiến bộ được hoặc cũng có thể chúng
ta bị bỏ qua một ý kiến hay.
(2) Trao đổi kĩ lưỡng về ý định của giáo viên dạy minh hoạ và những
chủ điểm của người đó với bài dạy
Trong sinh hoạt chuyên môm mới, chúng ta khuyến khích giáo viên
sáng tạo. Tuy nhiên những sáng tạo nhiều khi không mang lại hiệu quả gì.
Ví dụ: Giáo viên dạy minh hoạ tiến hành bài dạy với những ý định riêng
của mình để phát triển những khả năng nào đó của học sinh. Nhưng cho dù
người dạy minh hoạ có cố gắng đến đâu thì khả năng học sinh cũng không
có những thay đổi.
Vì vậy, các giáo viên dự giờ cần phải trao đổi về những khả năng mà
học sinh đã đạt được trong thực tế giờ học, rồi đem đối chiếu với ý định
của giáo viên dạy minh hoạ. Bằng cách làm như vậy, giáo viên dạy minh
hoạ có thể định ra được kế hoạch cho bài học tiếp theo, và cả các giáo viên
dự lớp cũng có thể suy nghĩ lại về các ý định của họ cho các bài dạy của
mình từ cuộc trao đổi này.
Người chủ trì đừng bỏ qua việc trao đổi một cách cặn kẽ về ý định
của người dạy và cần có những gợi ý để người dự giờ có những ý kiến đối
chiếu tốt nhất.
(3) Cố gắng tìm ra những điểm trội của bai học trong cac tình
huống giao viên minh họa đap lai học sinh.
Trong phần phát biểu của mình sau khi thao diễn, giáo viên dạy minh
hoạ có thể báo cáo lại tình huống nào bài học diễn ra tốt đẹp, phần nào
chưa đạt kết quả hoặc người đó gặp khó khăn trong việc đáp lại học sinh
như thế nào, hoặc các giáo viên dự giờ có thể nhận thấy những thay đổi của
học sinh thông qua lời nói hoặc nét mặt của các em, và những tình huống
đó có thể là những điểm nổi trội quan trọng của bài học. Ta hãy tìm xem
những thay đổi của học sinh diễn ra hoặc có khả năng diễn ra ở những chỗ
nào, những chỗ nào học sinh được học, hoặc có thể được học, rồi trao đổi
các khả năng cải tiến bài học ở những thời điểm ấy.
38
Ví dụ: Vào thời điểm A học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên đã hỏi
thêm một câu hỏi hay làm cho cả lớp hứng thú, tiếp tục suy nghĩ và có
những ý kiến đào sâu kiến thức bài học. Hoặc thời điểm B học sinh nào đó
trả lời và cô đồng ý làm cho cả lớp mất hứng, đáng lẽ cần hỏi thêm một số
câu hỏi tạo tình huống có vấn đề để học sinh phản biện, trao đổi cùng nhau
thì lớp học sôi nổi hơn, học sinh hiểu bài sâu hơn…
Điểm tốt của sinh hoạt chuyên môn mới là ở chỗ tất cả các giáo viên
có thể cùng nhau hợp tác nhằm làm sáng tỏ những gì các giáo viên dự giờ
không nhận thấy rõ ràng hoặc những gì họ thực sự quan tâm chú ý. Thông
qua đó, tình đồng nghiệp sẽ nảy sinh và phát triển giữa tất cả giáo viên,
giúp họ hỗ trợ lẫn nhau trong công tác.
2. Một số kĩ năng cần thiết cho ngƣời chủ trì sinh hoat chuyên
môn:
Để chủ trì thành công buổi sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên
cứu bài học, người chủ trì cần phải là người có năng lực chuyên môn và
nhiều kĩ năng mềm: ngôn ngữ mạch lạc, diễn đạt tốt, tổng hợp, phân tích,
hài hước một chút, biết điều chỉnh không khí buổi sinh hoạt chuyên môn,
ngăn chăn xung đột có thể xảy ra giữa các giáo viên, liên kết các ý
kiến…Trong đó có 2 kĩ năng không thể thiếu, là điều kiện để nâng cao chất
lượng sinh hoạt chuyên môn một cách nhanh chóng.
2.1. Kĩ năng quay phim, chụp ảnh:
Để tổ chức một buổi sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài
học thành công, một kĩ năng quan trọng của người chủ trì là quay phim,
chụp ảnh để ghi lại các hình ảnh quan trọng trong tiết học (hình ảnh quan
trọng đó chính là các tình huống học tập của học sinh: tình huống học hay,
hứng thú hay tình huống học sinh gặp khó khăn trong học tập…). Các tình
huống này sẽ làm cơ sở để giáo viên phân tích, thảo luận trong quá trình
chia sẻ.
Tốt nhất là dùng máy quay chuyên dụng, vừa quay, vừa chụp, vừa
quay hết toàn bộ tiết học nhưng cũng có thể chụp, quay, cắt phim để lấy
những tình huống, những thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện có
39
thể của nhà trường, có thể dung các loại điện thoại của cá nhân cùng với
cần nối dài để quay, chụp mà không ảnh hưởng đến học sinh.
- Cách cầm, cách đứng để quay
Góc độ 1: Đối diện với đối tượng
Góc độ 2: Nhìn lên, nhìn xuống
Góc độ 3: Đến gần/dời khỏi đối tượng quay
- Vị trí người quay đứng ở lớp học: Hai góc phía trên bảng lớp
- Cách hướng máy vào đối tượng
+ Pan : Di chuyển theo hướng ngang : Di chuyển ống kính máy quay
từ bên này sang bên khác. Hướng ống kính sang bên trái, bên phải, đó gọi
là Quét-xoay-tròn “panning”
+Tilt: Di chuyển theo hướng dọc: Di chuyển ống kính máy quay lên
hay xuống, kiên định giữ trục quay theo hướng dọc. Ngẩng đầu lên hay
xuống – gọi là Nghiêng lên xuống
+ Vừa đi bộ vừa quay
2.2. Kĩ năng vừa quan sát học sinh một cách cụ thể vừa ghi chép:
Người chủ trì là người phải quay, chụp lai hình ảnh tiết học, vừa phải
ghi chép một cách tốt nhất các tình huống trong tiết học.Để là được điều
này không phải dễ. Có người quay thi mất ghi, ghi thì không quay được. Vì
vậy cần lưu ý rèn luyện kĩ năng vừa quay, vừa ghi chép.
* Cách quan sát việc học của học sinh:
Trường hợp 1: Học sinh thực sự cần sự giúp đỡ
Có học sinh không hiểu lời nói / yêu cầu của giáo viên
Có học sinh không thấy hứng khởi với bài học
Có học sinh không biết mình phải làm gì trong bài học.
Trường hợp 2: Mối quan hệ
học sinh tiếp xúc tốt/không tốt với bạn khác
học sinh nói/ không nói được “mình không hiểu bài” với bạn khác
40
Giáo viên chăm sóc/ không chăm sóc học sinh
Trường hợp 3: Nhận thức của học sinh
học sinh làm sai: học sinh làm sai, hiểu nhầm ntn?
học sinh học yếu: Làm thế nào để chăm sóc học sinh không hiểu
bài?
học sinh khá: học sinh bắt đầu chán học do lý do nào?
* Quan sát và quay hình
Ghi hình toàn cảnh lớp học để suy ngẫm về quan hệ giữa toàn lớp và
cá nhân
Ghi hình hoạt động nhóm (Ghi mối quan hệ, chứ không ghi cá nhân)
Ghi hình cá nhân như thế nào? (Mặt, mắt, miệng, nét mặt và tư thế)
* Vừa quay vừa ghi chép:
Chọn vị trí đứng phù hợp, dùng sổ có bìa cứng, có thể dùng camera
có chân...
* Mỗi người cần có học hỏi, rút kinh nghiệm để hoàn thiện cách ghi
chép của mình.
3. Đối với giao viên tham gia sinh hoat chuyên môn dựa trên
nghiên cứu bai học:
- Nhận thức đầy đủ vai trò trách nhiệm của giáo viên để có động cơ
học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
- Luôn nắm bắt cơ hội, thái độ học tập mọi nơi, mọi lúc.
- Tự bản thân xóa bỏ những yếu tố chủ quan làm cản trở quá trình
học hỏi, phát triển năng lực nghề nghiệp của bản thân như:
+ Tính kiêu ngạo: Một số người cho rằng mình có năng lực cao, tất
cả những người còn lại ở trong tập thể không ai qua mình. Vì vậy họ cho
rằng những người khác không có gì đáng để học tập và xuất hiện tâm lí coi
thường người khác. Những người này khi tham gia sinh hoạt chuyên môn
có thể chỉ trích đối với người dạy minh họa hoặc nếu họ là đối tượng dạy
minh họa thì sẽ tỏ thái độ khi người khác góp ý. Nếu bạn còn có tính kiêu
41
ngạo, hãy xóa bỏ dần bởi ai cũng có điểm mạnh riêng đáng để cho ta học
tập dù là nhỏ nhất.
+ Tính tự mãn: bản thân nhận thấy mình dạy như thế là tốt rồi, không
cần thay đổi gì nữa.
+ Sự thiếu tin tưởng: Không tin tưởng đồng nghiệp, luôn cho rằng
những đồng nghiệp năng lực yếu thì không thể tiến bộ được, ý kiến của họ
không có gì đáng để nghe, phương pháp của họ có gì hay mà học. Đây là
một tâm lí khá phổ biến làm cho các giáo viên không chấp nhận lẫn nhau,
là nguyên nhân làm cho các mối quan hệ trong nhà trường khó được cải
thiện.
+ Sự thiếu hăng say, thiếu động cơ: Trong điều kiện xã hội hiện nay,
nhiều người cho rằng lương giáo viên là thấp, là chưa đủ sống và thiếu
hăng say, nhiệt tình với công việc, ít học hỏi để nâng cao kiến thức, năng
lực nghề nghiệp. Tuy nhiên giáo viên là người có ảnh hưởng lớn và trực
tiếp đến nhiều thế hệ học sinh. Vì vậy, các giáo viên cần nhận thức đầy đủ
về vai trò, trách nhiệm của mình, nuôi dưỡng tình yêu nghề nghiệp, có
động cơ đúng đắn và thái độ học tập hăng say để ngày càng thực hiện tốt
hơn công việc của mình.
- Nâng cao năng lực xử lý tình huống và hỗ trợ học sinh trong giờ
học: Khi tham gia sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cần hết sức tập trung để
thảo luận và cùng suy ngẫm về việc học của học sinh, tập trung vào các
tình huống học tập cụ thể xem lúc đó học sinh học tập như thế nào, vì sao
lại như vậy? Khi biết được nguyên nhân tại sao, mỗi giáo viên sẽ tự ngẫm
và có cách xử lý, cách hỗ trợ học sinh của riêng mình.
- Nâng cao năng lực lựa chọn kiến thức phù hợp với đối tượng học
sinh: Trong dự giờ, cần quan sát xem kiến thức, nhiệm vụ có phù hợp với đối
tượng hay không để trao đổi, thảo luận. Nếu không trao đổi thảo luận thì hầu
như giáo viên chỉ biết dạy đủ các nội dung kiến thức trong sách mà không
quan tâm đến kiến thức nào phù hợp với học sinh kiến thức nào không phù
hợp. Qua sinh hoạt chuyên môn được trao đổi thảo luận kỹ lưỡng mỗi giáo
viên từng bước nâng cao năng lực lựa chọn kiến thức mỗi bài học phù hợp với
thực tế.
42
3.1. Một số kĩ năng cần thiết.
3.1.1. Kĩ năng quan sát:
Quan sát là một quá trình bao gồm: nhìn, nghe, cảm nhận, phân tích
một cách có chủ đích để đưa ra những nhận định đúng nhất về đối tượng.
Kĩ năng quan sát là kĩ năng hết sức cần thiết đối với mọi người đặc
biệt là đối với giáo viên. Quan sát tốt giúp giáo viên kịp thời phát hiện
những tình huống trong dạy học và giáo dục học sinh để xử lí, giúp giáo
viên đánh giá học sinh chính xác, cụ thể. Trong dự giờ, sinh hoạt chuyên
môn, việc quan sát sẽ giúp giáo viên có thêm nhiều bài học rút ra từ việc
học của học sinh, từ những thành công cũng như hạn chế của giáo viên dạy
minh họa. Để rèn luyện kĩ năng quan sát, giáo viên cần nắm vững:
Quá trình quan sát bao gồm:
- Trước khi quan sát: Xác định mục tiêu và lí do quan sát
- Trong khi sự việc diễn ra (dự giờ): Quan sát và lưu thông tin.
- Sau khi quan sát: Sử dụng thông tin để phân tích những gì rút ra từ
sự quan sát.
Các bước trong quá trình quan sát:
- Xác định mục tiêu và tiêu chí quan sát
- Tiến hành quan sát
- Phân tích và sử dụng những thông tin quan sát được.
Phát triển kĩ năng quan sát hiệu quả khi dự giờ:
- Biết quan sát chung, bao quát toàn lớp
- Quan sát kết hợp lắng nghe, suy ngẫm
- Quan sát từ nhiều góc độ, khía cạnh
- Quan sát kết hợp với xử lí thông tin (liên hệ, so sánh các tình
huống. Ví dụ: tình huống này học sinh học hiệu quả hơn, lí do;tình huống
khác học sinh học kém hiệu quả, lí do…)
43
- Thái độ quan sát tinh tế, ánh mắt trìu mến, vui vẻ, tránh nhìn chằm
chằm hoặc với thái độ thiếu thiện cảm làm cho giáo viên và học sinh thiếu
tự nhiên khi hoạt động.
- Vị trí quan sát, di chuyển hợp lí để không ảnh hưởng đến tâm lí
cũng như hoạt động học của học sinh.
Cần quan sát gì?
- Quan sát quá trình tham gia của học sinh, bao gồm:
+ Mức độ hứng thú của học sinh với bài học
+ Mức độ kinh nghiệm của học sinh về nội dung bài học
+ Động cơ học tập của học sinh
+ Mức độ khó của bài tập
- Quan sát mối quan hệ của học sinh (HS-HS, HS-GV, HS-môi
trường, công cụ học tập)
Những điều cần quan sát khi học sinh thảo luận nhóm:
- Các nhóm đã sẵn sàng, tập trung để làm việc chưa, có hiểu yêu cầu
của giáo viên không?
- Có nhóm nào không hiểu bài tập, câu hỏi không?
- Các thành viên trong nhóm tham gia như thế nào?
- Vai trò của các thành viên trong nhóm
- Các nhóm làm việc, thảo luận ra sao?
- Người điều hành nhóm làm việc thế nào?
- Các nhóm làm việc có cùng tiến độ không?
- Có nhóm nào xong trước không, có nhóm nào làm ảnh hưởng đến
nhóm khác không?
Những điều cần quan sát giáo viên:
- Cách thức tổ chức hoạt động
- Cách thức tiếp cận và hỗ trợ cho các nhóm, các cá nhân học sinh
- Cách sử dụng đồ dùng dạy học
44
- Cách giáo viên tạo cơ hội cho học sinh, thái độ, cử chỉ, giao tiếp
với học sinh, có làm thay cho học sinh không, biết chờ đợi học sinh hay
không.
Một số yếu tố cản trở khả năng quan sát của giáo viên:
* Đối với người dạy:
- Quá căng thẳng, chưa thâm nhập bài dạy
- Chưa biết biểu hiện của học sinh nói lên điều gì (nhìn thấy nhưng
không nhận ra vấn đề)
- Chỉ quan tâm đến việc mình làm, không cho rằng quan sát là cần
thiết.
* Đối với người dự:
- Chưa biết nên quan sát điều gì
- Chọn vị trí quan sát không phù hợp.
- Sắp xếp bố trí bàn ghế đồng dùng trong phòng học.
3.1.2. Kĩ năng lắng nghe:
Đối với giáo viên, kĩ năng lắng nghe hết sức quan trọng. Người giáo
viên không chỉ biết “nghe bằng tai” còn phải biết “nghe bằng khối óc và
con tim của mình” bởi vì trong biểu đạt của một người, yếu tố ngôn từ có
giá trị 7% còn yếu tố phi ngôn từ có giá trị 93% còn lại.
Một số lưu ý cần thiết để lắng nghe tích cực trong dạy học:
- Cần tập trung khi nghe
- Biết giao tiếp bằng mắt, có thái độ khuyến khích đối với người nói.
- Tỏ thái độ tôn trọng và đồng cảm (nếu học sinh có trả lời sai)
- Biết chờ đợi, không tỏ thái độ nôn nóng, thúc giục.
Đối với người dự giờ:
- Cần lắng nghe câu lệnh của giáo viên xem có rõ ràng, mạch lạc, có
đủ để học sinh hiểu và thực hiện không
45
- Lắng nghe câu trả lời của học sinh, điều này giúp chúng ta biết
được mức độ hiểu bài và những năng lực mà mỗi học sinh có được. (Ví dụ:
học sinh trả lời không đầu không đuôi, xảy ra ở nhiều em trong lớp, điều
này chứng tỏ giáo viên chưa chú ý rèn luyện cho học sinh…nếu lắng nghe
được, giáo viên dự giờ có thể góp ý để giáo viên dạy minh họa và các giáo
viên khác rút kinh nghiệm).
- Lắng nghe những tranh luận của học sinh và suy ngẫm vì sao học
sinh lại tranh luận.
- Lắng nghe lời giảng, trao đổi của giáo viên với học sinh và xem
điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với học sinh (có giúp học sinh rõ thêm
vấn đề hay không, có khắc sâu thêm bài học hay không, có khuyến khích
học sinh học tập hay không, có đánh giá học sinh hay không...hay là những
câu vu vơ hoặc mắng nhiếc học sinh hoặc những câu sáo rỗng không có ý
nghĩa và không làm làm thay đổi gì cả.)
- Không nói chuyện, không nhắc nhở, can thiệp vào các cuộc thảo
luận của học sinh trong quá trình dự giờ.
- Biết lắng nghe và ghi chép những thông tin cần thiết cho việc chia
sẻ trong buổi suy ngẫm, rút kinh nghiệm.
Một số yếu tố cản trở khả năng lắng nghe của giáo viên:
- Thiếu tập trung, nói chuyện riêng (có những giáo viên dạy minh
họa tranh thủ nói chuyện riêng với người dự giờ)
- Thiếu quan tâm, thiếu kiên nhẫn: Trong khi dự giờ hoặc trong khi
chia sẽ về bài học, chúng ta thiếu sự quan tâm đến người nói, chỉ tham gia
để có mặt, điểm danh, không chú trọng ai nói cái gì. Cũng có lúc chúng ta
cũng không đủ kiên nhẫn chờ đợi khi thấy người nói diễn đạt chưa tốt, dài
dòng làm bản thân chúng ta chuyển chú ý sang việc khác.
- Không đặt ra mục tiêu, đối tượng để lắng nghe. Nghe nhưng không
nhận ra vấn đề gì cả: Trước khi dự giờ, chia sẻ, nhiều giáo viên không đặt
ra mục tiêu gì, vì vậy rất hạn chế khi lắng nghe.
46
- Nghe nhưng không kịp thời và không biết cách ghi chép lại, cuối
cùng không nhớmình đã nghe những gì.
3.1.3. Kĩ năng phản hồi tích cực:
Trong giao tiếp, phản hồi tích cực cũng là một kĩ năng hết sức quan
trọng quyết định hiệu quả giao tiếp. Phản hồi tích cực không chỉ giúp
chúng ta đạt mục tiêu của tình huống giao tiếp mà còn xây dựng hình ảnh,
uy tín của bản thân, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong tập thể, đơn vị.
Trong sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, phản hồi tích cực
là yếu tố quyết định thành công của buổi sinh hoạt bởi vì phản hồi tích cực
sẽ tạo niềm tin, động lực thúc đẩy giáo viên trao đổi, tạo nên sự cởi mở,
hòa đồng, không khí vui vẻ, thoải mái, ăn khớp, nhịp nhàng để buổi sinh
hoạt chuyên môn có thể kéo dài trong sự phấn chấn của mỗi giáo viên. Nếu
không buổi sinh hoạt sẽ tẻ nhạt, nhàm chán, hoặc dễ dẫn đến cãi vã, to
tiếng, buổi sinh hoạt nhanh chóng kết thúc trong sự ấm ức của một vài
người. Vì thế chúng ta mất đi cơ hội học tập lẫn nhau.
Tuy nhiên trong thực tế, không phải ai cũng có kĩ năng này. Vì vậy,
mỗi cán bộ quản lí, giáo viên cần phải học hỏi, rèn luyện để có được kĩ
năng phản hồi tích cực.
* Yếu tố tích cực trong phản hồi:
Quan tâm
Chấp nhận Tin tưởng
Cởi mở
47
* Cách phản hồi đúng:
Cụ thể
Được thúc đẩy
bởi mong muốn Không phán xét
giúp đỡ
Thẳng thắn Tôn trọng
* Luôn coi trọng ngƣời đang giao tiếp:
- Bắt đầu bằng những câu:
“Tôi nghĩ thế này…anh (chị) có ý kiến gì không?”
“ Anh (chị) đã làm tốt những điểm …Để làm tốt hơn nữa, anh
chị nên…”. Không nên bắt đầu bằng một số lời khen, sau đó dùng từ “tuy
nhiên” để nói về những khuyết điểm sẽ làm cho đối tượng được góp ý hụt
hẫng.
- Trước khi góp ý hạn chế cần nêu những điểm tốt mà đồng nghiệp làm
được, chia sẽ những cố gắng, nỗ lực, những khó khăn mà đồng nghiệp dã vượt
qua.
- Giao tiếp bằng lời: Ngôn ngữ là phương tiện để biểu đạt ý nghĩ của
mỗi người. Khi chúng ta muốn nói chuyện hoặc trao đổi thông tin với một
ai đó thì chúng ta phải sử dụng ngôn ngữ để truyền tải những thông điệp
mà mình muốn bày tỏ. Ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp mà chúng ta luôn
sử dụng nó hàng ngày. Nhưng để việc giao tiếp có hiệu quả hơn và truyền
tải được những thông tin mà mình muốn nói một cách rõ ràng và thu hút sự
lắng nghe cũng như sự chia sẽ, phản hồi ngược lại của người khác là điều
mà ai cũng cần học hỏi.
Trong sử dụng lời nói, cần chú ý:
+ Âm điệu của lời nói: Vừa phải, dễ nghe, không cao giọng quá, nói
to quá hoặc nói nhỏ quá…
48
+ Khi nói chuyện nên tập trung vào chủ đề đang thảo luận, tránh để
tư tưởng bị phân tán dẫn đến không hiểu nội dung câu chuyện.
+ Khi đối tượng giao tiếp đang nói thì ta nên lắng nghe, tuyệt đối
tránh ngắt lời hoặc cướp lời của người nói khi họ chưa nói hết ý của họ.
+ Trong khi giao tiếp nên tránh “thao thao bất tuyệt” mà không chú ý
đến thái độ của đối tượng giao tiếp. Hoặc đưa ra nhiều câu hỏi cùng một
lúc khiến người khác không kịp trả lời.
+ Khi nói về một chủ đề nào đó, nếu ta không được rõ thì lúc này
nên lắng nghe chứ không nên “nói bừa”, nghĩa là phải đảm bảo sự thành
thật và chính xác trong lời nói của mình.
+ Không nên bảo thủ chỉ coi trọng ý kiến của mình mà không tôn
trọng ý kiến của người khác.
- Giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ thể: Chúng ta cần quan sát ngôn ngữ
của toàn bộ cơ thể từ đầu, thân, tay và chân. Không phải lời nói nào cũng
thể hiện hết được ý nghĩa của nó, mà cần có sự kết hợp giữa lời nói và cử
chỉ để giúp cuộc nói chuyện thành công. Chúng ta có thể dễ dàng thấy
những giáo viên của mình không chỉ đơn thuần là nói mà họ còn kèm theo
những cử chỉ để làm cho người nghe tập trung, tăng sức thuyết phục của
cuộc hội thoại. Không nên làm thái quá cuộc nói chuyện bằng việc vung
tay trong mọi tình huống. Ngoài ra, biểu hiện rung lắc chân cho thấy sự lo
lắng hay cử chỉ gãi tai, gãi đầu thể hiện sự bối rối, mất tự tin.
- Giao tiếp bằng ánh mắt: Chúng ta thường quan niệm rằng giao tiếp
qua ánh mắt là phải nhìn trực diện từ ánh mắt đến ánh mắt. Thực tế đối với
nhiều người, giao tiếp bằng mắt là một cử chỉ thân mật nhưng đối với một
số khác lại làm họ cảm thấy không thoải mái. Nhìn thẳng vào mắt người
khác trong giao tiếp sẽ hiệu quả nếu cả hai bên đều cảm thấy thoải mái, nếu
không có thể gây ra sự hiểu nhầm là một sự thách thức với đối phương. Khi
giao tiếp với nhau, nếu bạn cảm thấy không thoải mái hay căng thẳng khi
phải nhìn trực tiếp vào mắt người khác hãy tìm một điểm khác trên mặt của
họ làm bạn thấy dễ chịu hơn khi nói chuyện. Nhưng bạn phải nhớ là đừng
để cho người bạn đang giao tiếp nhận ra bạn không nhìn trực tiếp vào mắt
49
họ. Như vậy khái niệm giao tiếp qua ánh mắt cần được hiểu là nhìn vào đối
tượng giao tiếp.
Một số biểu hiện không coi trọng người khác nên tránh:
+ Thể hiện mình hơn hẳn người khác
+ Cho rằng điều mình nói là hiển nhiên, không cần bàn cãi
+ Tỏ thái độ bàng quan, không lắng nghe.
+ Dùng lời lẽ coi thường người khác: “Anh (chị) thì biết gì mà nói,
cứ làm theo ý tôi là được”
…..
Ngoài những kĩ năng nêu trên, cán bộ quản lí, giáo viên cần học tập,
bồi dưỡng để bổ sung kiến thức trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là những kiến thức liên quan đến công việc, nghề nghiệp của mình, rèn
luện những phẩm chất năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện
nay.
Chúc các đồng nghiệp thành công!
TRƢỞNG PHÕNG GDTH KT. GIÁM ĐỐC
(Đã ký) PHÓ GIÁM ĐỐC
(Đã ký)
Trần Quốc Thắng Trần Thị Hƣơng