phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông gianh quảng bình
TRANSCRIPT
-----------------------
Đinh Việt Hùng
PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG
LƯU VỰC SÔNG GIANH QUẢNG BÌNH
HÀ NỘI - 2011
-----------------------
Đinh Việt Hùng
PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG
LƯU VỰC SÔNG GIANH QUẢNG BÌNH
: Khoa học Môi trường
: 60 85 02
: TS. LẠI VĨNH CẨM
– 2011
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT Bảo vệ môi trường
BVTV Bảo vệ thực vật
ĐDSH Đa dạng sinh học
HST Hệ sinh thái
KTXH Kinh tế - xã hội
LVS Lưu vực sông
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PTBV Phát triển bền vững
QHMT Quy hoạch môi trường
TN&MT Tài nguyên và môi trường
TNN Tài nguyên nước
UBND Uỷ ban nhân dân
VQG Vườn Quốc gia
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài ............................................................................. 2
2.1. Mục tiêu: ....................................................................................................... 2
2.2. Nhiệm vụ: ..................................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Các kết quả đạt được ........................................................................................... 3
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 3
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG
TRONG QUẢN LÝ TỔNG HỢP LƯU VỰC SÔNG ............................................ 4
1.1. Phương pháp luận và phương pháp phân vùng chức năng môi trường ............ 4
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................. 4
1.1.2. Phương pháp luận phân vùng chức năng môi trường ................................ 5
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng chức năng môi trường .............. 15
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng trên thế giới và Việt Nam .. 15
1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng chức năng môi trường ở Việt
Nam .................................................................................................................... 18
1.3. Tích hợp phân vùng chức năng môi trường trong quản lý tổng hợp lưu vực
sông ........................................................................................................................ 21
1.3.1. Quản lý tổng hợp lưu vực sông................................................................ 21
1.3.2. Tích hợp phân vùng chức năng môi trường trong quản lý tổng hợp lưu
vực sông ............................................................................................................. 24
1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội lưu vực sông Gianh, Quảng
Bình ....................................................................................................................... 26
1.4.1. Điều kiện tự nhiên.................................................................................... 26
1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................ 32
Chương 2. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ XÂY
DỰNG BẢN ĐỒ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG LƯU VỰC
SÔNG GIANH ......................................................................................................... 35
2.1. Đặc điểm các yếu tố môi trường lưu vực sông Gianh .................................... 35
2.1.1. Môi trường đất ......................................................................................... 35
2.1.2. Môi trường nước ...................................................................................... 39
2.1.3. Rừng và đa dạng sinh học ........................................................................ 41
2.2. Phân tích cấu trúc, chức năng và mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường
lưu vực sông .......................................................................................................... 47
2.2.1. Tương tác đất - nước - rừng ................................................................... 47
2.2.2. Tương tác đất - rừng - thuỷ sản ............................................................. 47
2.2.3. Khai thác tài nguyên nước và những biến đổi trên lưu vực sông ........ 48
2.2.4. Quản lý lưu vực sông là xu thế tất yếu ................................................. 49
2.2.5. Những vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ đa dạng giữa điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội trong lưu vực sông ...................................................... 50
2.3. Đánh giá hiện trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường lưu vực sông
Gianh ..................................................................................................................... 50
2.3.1. Hiện trạng nước lục địa .......................................................................... 50
2.3.2. Hiện trạng môi trường đất...................................................................... 61
2.3.3. Hiện trạng rừng....................................................................................... 65
2.3.4. Hiện trạng môi trường đô thị và công nghiệp ....................................... 65
2.3.5. Hiện trạng môi trường nông thôn, nông nghiệp ................................... 65
2.3.6. Hiện trạng môi trường ven biển ............................................................ 66
2.3.7. Dự báo và quy hoạch phát triển liên quan đến môi trường nước lưu
vực sông ............................................................................................................ 67
2.3.8. Các nội dung quy hoạch phát triển liên quan đến môi trường nước lưu
vực sông ............................................................................................................ 69
2.4. Thành lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh . 71
2.4.1. Nguyên tắc và phương pháp phân vùng chức năng môi trường lưu vực
sông Gianh ......................................................................................................... 71
2.4.2. Các yếu tố sử dụng trong phân vùng chức năng môi trường ................... 75
2.4.3. Yếu tố địa hình ......................................................................................... 76
2.4.4. Yếu tố hiện trạng sử dụng đất .................................................................. 78
2.4.5. Yếu tố sinh khí hậu .................................................................................. 80
2.4.6. Bản đồ phân vùng chức năng môi trường ................................................ 81
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG PHỤC
VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÃNH THỔ ...................................................... 87
3.1. Lợi thế, hạn chế, cơ hội, thách thức và xuất phát điểm của lưu vực sông
Gianh ..................................................................................................................... 87
3.1.1. Lợi thế ...................................................................................................... 87
3.1.2. Hạn chế .................................................................................................... 87
3.1.3. Cơ hội....................................................................................................... 88
3.1.4. Thách thức ............................................................................................... 88
3.2. Các giải pháp công trình ................................................................................. 89
3.3. Các giải pháp phi công trình ........................................................................... 90
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, HÌNH CỦA LUẬN VĂN
STT Tên Trang
Hình 1.1 Hình 1.1 Bản đồ Hành chính lưu vực sông Gianh
Quảng Bình
27
Bảng 2.1 Số liệu của các hệ sông và sông ở Quảng Bình 39
Bảng 2.2 Các hồ chứa có dung tích trên 1 triệu m3 và các
công trình lớn
40
Bảng 2.3 Diện tích rừng và đất lâm nghiệp lưu vực sông Gianh 41
Bảng 2.4 Diện tích rừng trồng mới, khai thác, chuyển đổi
năm 2004
42
Bảng 2.5 Diện tích có rừng, rừng tự nhiên, rừng trồng năm 2004 43
Bảng 2.6 Các nhóm loài thực vật 44
Bảng 2.7 Thống kê lưu vực sông 51
Bảng 2.8 Thống kê phân phối dòng chảy bình quân nhiều năm 51
Bảng 2.9 Quy hoạch sử dụng nước hồ chứa theo lưu vực sông
đến 2020
52
Bảng 2.10 Chỉ số một số chỉ tiêu phân tích vượt ngưỡng 55
Bảng 2.11 Tình hình sử dụng đất năm 2009 62
Bảng 2.12 Dự báo nhu cầu sử dụng nước phục vụ sản xuất công
nghiệp các huyện tại lưu vực sông đến năm 2015
68
Sơ đồ 2.1 Nguyên tắc phân vùng chức năng môi trường lưu vực
sông Gianh
82
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ môi trường lưu vực sông là một vấn đề đã được thực hiện ở nhiều nước
trên thế giới trong nửa cuối của thế kỷ 20 và phát triển rất mạnh trong vài thập kỷ
gần đây, nhằm đối phó với những thách thức về sự khan hiếm nước, sự gia tăng tình
trạng ô nhiễm và suy thoái các nguồn tài nguyên và môi trường của các lưu vực
sông. Mỗi lưu vực sông đều có một đặc điểm riêng về tài nguyên thiên nhiên cũng
như tài nguyên nước. Do đó, cách thức tổ chức quản lý sẽ khác nhau, tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình sử dụng đất, đặc điểm môi trường, giá trị mỗi
lưu vực sông.
Phân vùng là việc phân chia lãnh thổ thành các đơn vị tương đối đồng nhất
theo các tiêu chí và các mục tiêu nhất định nhằm đơn giản hóa việc nghiên cứu hay
quản lý có hiệu quả hơn theo đặc thù riêng của từng đơn vị trong vùng. Phân vùng
có thể là: phân vùng kinh tế, phân vùng sinh thái, phân vùng địa lý, phân vùng môi
trường. Song, vấn đề phân vùng chức năng như trên còn nhiều bất cập, còn nhiều
mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình thực hiện các quy hoạch như quá trình phát triển
làm mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên, vượt quá sức chịu tải của môi
trường và môi trường bị suy thoái. Một trong những nguyên nhân của các vấn đề
trên là chúng ta chưa thực sự quan tâm đến việc phân vùng chức năng môi trường
trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên.
Hiện nay, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đang gây ra nhiều tác động xấu
tới môi trường nói chung và môi trường nước các lưu vực sông nói riêng. Hiện
trạng môi trường nước của các lưu vực sông đang diễn biến phức tạp, ngày càng
xấu đi. Chất lượng nước sông đang bị suy thoái ở nhiều nơi, đặc biệt ở các đoạn
sông chảy qua các khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề. Bên cạnh các nguồn
ô nhiễm nước do các hoạt động dân sinh và công nghiệp, các hoạt động khác như
nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ điện, khai thác tài nguyên dưới lòng sông, giao thông
vận tải thuỷ, nuôi trồng thuỷ sản... cũng liên quan mật thiết đến việc khai thác sử
2
dụng nước và gây tác động xấu đến môi trường nước của hệ thống sông và sức khoẻ
người dân.
Sông Gianh là một trong năm con sông lớn nhất ở Quảng Bình và cũng đang
phải chịu tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn
trên, tác giả thực hiện đề tài “Phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh
Quảng Bình” với mục đích nghiên cứu các yếu tố môi trường nhằm phân vùng chức
năng môi trường và đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững lực vực sông Gianh, Quảng Bình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Xác lập cơ sở khoa học cho phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông
phục vụ công tác quản lý môi trường trong phát triển kinh tế xã hội của lưu vực
sông Gianh, Quảng Bình đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ:
- Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Xác định các nguyên tắc, yếu tố sử dụng trong phân vùng chức năng môi
trường lưu vực sông.
- Xác định những nhân tố tác động tới môi trường lưu vực sông với những
mức độ tác động khác nhau.
- Thành lập lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông.
- Đề xuất các giải pháp bảo vệ tài nguyên môi trường phục vụ phát triển bễn
vững lãnh thổ.
3. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi không gian nghiên cứu
Lưu vực sông Gianh, Quảng Bình (gồm các huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa, một
phần các huyện Quảng Trạch và Bố Trạch).
* Giới hạn về nội dung nghiên cứu
- Xác định ranh giới lưu vực sông Gianh, Quảng Bình làm cơ sở để giới hạn
không gian nghiên cứu.
3
- Dùng phương pháp Hệ thống thông tin địa lý thành lập bản đồ phân vùng
chức năng môi trường lưu vực sông. Trong đó, lựa chọn ba nhân tố: địa hình, hiện
trạng sử dụng đất và sinh khí hậu làm cơ sở để xây dựng bản đồ phân vùng chức
năng môi trường lưu vực Gianh.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập các dữ liệu, số liệu có liên quan,
phỏng vấn ngoài thực địa.
- Phương pháp tổng hợp phân tích các số liệu, tài liệu qua quá trình điều tra
khảo sát và thu thập.
- Phương pháp bản đồ và hệ thống thông tin địa lý nghiên cứu đánh giá tổng
hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
- Phương pháp kế thừa các nghiên cứu đã công bố.
5. Các kết quả đạt được
- Đánh giá hiện trạng môi trường lưu vực sông Gianh.
- Xác định nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới dân cư và suy
giảm các hệ sinh thái.
- Phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh.
- Đề xuất một số biện pháp bảo vệ và phát triển bền vững môi trường lưu vực
sông Gianh.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 93 trang, có 01 hình, 01 sơ đồ, 12 bảng số liệu và 04 bản đồ.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành 3
chương:
Chương 1. Tổng quan về phân vùng chức năng môi trường và sử dụng
hợp lý lãnh thổ
Chương 2. Phân tích đánh giá các yếu tố môi trường và xây dựng bản đồ
phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh
Chương 3. Các giải pháp bảo vệ tài nguyên môi trường phục vụ phát triển
bền vững lãnh thổ
4
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG
TRONG QUẢN LÝ TỔNG HỢP LƯU VỰC SÔNG
1.1. Phương pháp luận và phương pháp phân vùng chức năng môi trường
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
a, Môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái (HST) và các hình thái
vật chất khác. [13]
b, Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật. [13]
c, Suy thoái môi trường
Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần
môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật. [13]
d, Sự cố môi trường
Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của
con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến
đổi môi trường nghiêm trọng. [13]
e, Tài nguyên nước
"Nguồn nước" chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai
thác, sử dụng được, bao gồm sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao; các tầng
chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác. [14]
g, Lưu vực sông
Theo định nghĩa của luật Tài nguyên nước (TNN), lưu vực sông (LVS) là
vùng địa lý mà trong phạm vi đó, nước mặt nước dưới đất chảy tự nhiên vào sông.
Theo một định nghĩa khoa học khác, LVS là phần lãnh thổ thu nhận các nguồn nước
5
mặt và nước ngầm cùng các chất rắn và chất hòa tan trong nước, và chuyển nước
cùng các chất này về cửa sông.
LVS là một bộ phận lãnh thổ có đường biên xác định trên mặt đất, đường biên
đó thường không trùng với ranh giới quốc gia và hành chính các địa phương. Ở
vùng trung du và đồng bằng, khi xác định ranh giới LVS cần xét ranh giới các hệ
thống thuỷ lợi có khi trải trên hai lưu vực, như vậy sẽ hình thành sự quản lý liên lưu
vực.
h, Quản lý tổng hợp lưu vực sông
Quản lý TNN và quản lý LVS thuộc một phạm trù TNN, có khác nhau về
phạm vi và mức độ. Quản lý TNN có phạm vi vĩ mô của quốc gia, còn quản lý LVS
chỉ có phạm vi không gian của từng LVS. Tuy nhiên quản lý tổng hợp LVS đề cập
trực tiếp hơn các quan hệ thượng lưu - hạ lưu, quan hệ của TNN với các tài nguyên
và môi trường liên quan và vai trò của cộng đồng trên LVS.
i, Phân vùng môi trường
Phân vùng môi trường là xác định các khu vực môi trường khác nhau xếp theo
cấp bậc đơn vị từ lớn đến nhỏ của hoàn cảnh môi trường phục vụ cho công tác quy
hoạch môi trường.
k, Quy hoạch môi trường
Quy hoạch môi trường (QHMT) là quá trình sử dụng một cách hệ thống các
kiến thức để thông báo cho quá trình ra quyết định về tương lai của môi trường.
QHMT có thể được hiểu là quá trình nghiên cứu, đề xuất và lựa chọn phương
án sử dụng hợp lý, bảo vệ, cải thiện & phát triển một / những môi trường thành
phần hay những tài nguyên của môi trường nhằm tăng cường một cách tối ưu năng
lực, chất lượng của nó để đạt được các mục tiêu môi trường xác định. [17]
1.1.2. Phương pháp luận phân vùng chức năng môi trường
a, Chức năng của môi trường
Môi trường là thế giới quanh ta, bao gồm những thể sống và những thể không
sống, là nơi có hoạt động sống của giới động vật, thực vật, có hoạt động kinh tế - xã
hội (KTXH) của con người trong mối quan hệ phức tạp giữa con người và giới tự
6
nhiên. Môi trường có 5 chức năng cơ bản: 1) Môi trường là không gian sống của
con người và các loài sinh vật. 2) Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết
cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người. 3) Môi trường là nơi chứa
đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất
của mình. 4) Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con
người và sinh vật trên Trái Đất. 5) Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin
cho con người. [8]
Từ 5 chức năng cơ bản mang tính tổng hợp nêu trên, bằng cách chi tiết hóa có
thể xác định những thuộc tính như là những chức năng thành phần ở cấp độ nhỏ
hơn. Năm chức năng này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, một trong 5 chức năng
đó suy giảm thì ảnh hưởng trực tiếp đến 4 chức năng kia. Mỗi một khu vực lãnh thổ
(vùng, miền...), hoặc một đơn vị hành chính (thành phố, tỉnh, huyện, xã) đều có đủ 5
chức năng môi trường, chúng tồn tại đồng thời nhưng tính trội của các chức năng ở
mỗi vùng khác nhau và phân bố ở những vị trí địa lý xác định.
Nhận biết những chức năng đó và sử dụng hợp lý chúng là điều kiện tiên quyết
để đảm bảo phát triển bền vững (PTBV). Vì vậy phân vùng chức năng môi trường
của một khu vực lãnh thổ là bước đi đầu tiên trong việc quy hoạch, khai thác, sử
dụng tài nguyên một cách hiệu quả.
Trong một vùng lãnh thổ có thể có nhiều kiểu vùng, mỗi kiểu vùng có những
đặc điểm riêng, không giống với đơn vị liền kề. Kiểu vùng có tính lặp lại trong
không gian. Kiểu vùng được áp dụng để phân chia lãnh thổ theo các dạng tài
nguyên cho mục đích khai thác, sử dụng trong các ngành kinh tế và trong hoạt động
nhân sinh, ví dụ phân chia các đơn vị đất đai và đánh giá tính thích hợp của chúng
cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp, công nghiệp, đô thị, v.v...
b, Phân vùng chức năng môi trường
Vùng chức năng môi trường là một bộ phận thuộc cấp phân vị của lãnh thổ, có
một số thuộc tính xác định về môi trường, sinh thái, có thể phân biệt nó với vùng
khác.
7
Phân vùng chức năng môi trường về bản chất là tổ chức không gian lãnh thổ
dựa trên sự đồng nhất về phát sinh, cấu trúc hình thái và tính thống nhất nội tại của
vùng cho mục đích khai thác, sử dụng, bảo vệ và bảo tồn sao cho phù hợp với sự
phân hóa tự nhiên của các điều kiện tự nhiên, đặc điểm môi trường, sinh thái và
hoàn cảnh KTXH của vùng.
Phân vùng chức năng môi trường một địa phương cấp (tỉnh thành, huyện, thị
v.v...) căn cứ vào việc nghiên cứu những vấn đề về điều kiện tự nhiên, tài nguyên,
môi trường và hoạt động kinh tế để phân chia lãnh thổ của địa phương đó thành
những đơn vị vùng và tiểu vùng với những đặc trưng riêng của chúng, phản ảnh
thực tế khách quan về môi trường, sinh thái, hiện trạng và tiềm năng sử dụng của
lãnh thổ.
Phân vùng chức năng môi trường một địa phương là nhằm xác lập những cơ
sở khoa học và thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng QHMT và quản lý tài
nguyên, môi trường và định hướng phát triển trên địa bàn địa phương đó một cách
có hiệu quả.
c, Mục tiêu phân vùng chức năng môi trường
Phân vùng chức năng môi trường là bước chuẩn bị, bước đi đầu tiên, nhằm
tạo dựng và cung cấp cơ sở dữ liệu về các khía cạnh điều kiện tự nhiên, KTXH, môi
trường cho việc lập các quy hoạch phát triển.
Mục tiêu phân vùng chức năng môi trường của một địa phương cụ thể (tỉnh
thành, kể cả huyện thị...) là:
- Làm sáng tỏ đặc điểm về tự nhiên của địa phương đó, xác định tính quy luật
trong sự phân hóa các yếu tố tự nhiên theo không gian lãnh thổ, dẫn đến sự hình
thành các vùng có những chức năng mang tính tự nhiên, ví dụ vùng đất ngập nước
nội đồng, vùng đất ngập nước ven biển, vùng rừng mưa nhiệt đới ẩm...
- Phân tích, đánh giá các hoạt động nhân sinh trong quá trình hoạt động sống,
cũng như trong phát triển KTXH, làm biến đổi những vùng có chức năng mang tính
tự nhiên, dẫn đến sự hình thành các vùng có những chức năng mang tính nhân sinh,
8
ví dụ vùng đất trống đồi trọc do tàn phá rừng, vùng đô thị như là kết quả của phát
triển KTXH, vùng công nghiệp do quá trình công nghiệp hóa...
- Lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường để thể hiện kết quả phân vùng
một cách rõ ràng theo không gian lãnh thổ, đó chính là tư liệu tổng hợp phục vụ đắc
lực công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển và quản lý lãnh thổ theo định
hướng PTBV.
d, Nhiệm vụ của phân vùng chức năng môi trường
Nhiệm vụ của phân vùng chức năng môi trường là việc phân chia lãnh thổ
thành các vùng có điều kiện tự nhiên, KTXH khác nhau phục vụ việc xây dựng kế
hoạch, quy hoạch phát triển KTXH và phát triển các ngành kinh tế nhằm bảo tồn,
khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, đảm bảo PTBV.
Để thực hiện phân vùng chức năng môi trường một cách khoa học, phù hợp
yêu cầu phát triển vững cần phải:
- Lựa chọn cách tiếp cận phân vùng và phương pháp phân vùng nhằm phản
ảnh tính quy luật khách quan, đồng thời đảm bảo giá trị sử dụng thực tiễn các tiểu
vùng được phân chia.
- Xác lập các tiêu chí phân vùng thành các vùng, tiểu vùng (và các phân vị
nhỏ hơn) phục vụ xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển đáp ứng nhu cầu con
người và bảo tồn.
- Sử dụng các công cụ khoa học nhằm phân vùng chính xác, khoa học, dễ
dàng sử dụng cho các mục đích khác nhau.
Phân vùng chức năng môi trường thực chất là giải bài toán về mối quan hệ đa
chiều giữa các yếu tố điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường và con
người trên một không gian xác định, trong đó giữa các yếu tố luôn luôn có tác động
tương hỗ và sự phụ thuộc lẫn nhau. Kết quả phân vùng là đưa ra một hệ thống cơ
cấu các vùng, tiểu vùng (và các phân vị nhỏ hơn, nếu cần thiết) để phục vụ quy
hoạch phát triển KTXH, bảo vệ môi trường (BVMT) sinh thái, trong hệ thống đó
mỗi vùng và tiểu vùng, dựa vào chức năng và lợi thế so sánh của mình để định
9
hướng chiến lược phát triển, lập quy hoạch phát triển KTXH và quy hoạch ngành,
bao gồm cả QHMT.
e, Cách tiếp cận trong phân vùng chức năng môi trường
Phân vùng chức năng môi trường một địa phương cụ thể có thể dựa vào các
cách tiếp cận khác nhau, vì vậy khi tiến hành phân vùng cần lựa chọn các tiếp cận
phù hợp. Dưới đây giới thiệu các cách tiếp cận thường sử dụng trong phân vùng
chức năng môi trường.
Cách tiếp cận hệ thống
Phương pháp tiếp cận hệ thống phù hợp cho việc nghiên cứu phân vùng chức
năng môi trường, phục vụ mục đích tổ chức lãnh thổ, trên cơ sở phân tích khả năng
cung cấp tài nguyên, sức chịu tải của hệ thống lãnh thổ, quan hệ liên vùng, liên
ngành của vùng lãnh thổ (hệ thống mở), để phân chia các khu chức năng cho mục
đích quy hoạch phát triển nhằm sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
BVMT. Dưới góc độ phân vùng chức năng môi trường theo cách tiếp cận hệ thống
thì phải đảm bảo nguyên tắc là trong mỗi tiểu vùng có những nét đặc trưng của toàn
vùng, lợi ích cục bộ phải phục vụ lợi ích chung của toàn hệ thống.
Vì vậy, khi phân vùng chức năng môi trường, chúng ta phải xem vùng lãnh
thổ được nghiên cứu và các tiểu vùng ở cấp vị nhỏ hơn đều là những hệ thống mở
với các đặc trưng nêu trên.
Cách tiếp cận sinh thái
Hệ sinh thái là một đơn vị tự nhiên gồm các quần xã sinh vật và các yếu tố vô
sinh của môi trường tại một khu vực nhất định, mà ở đó luôn luôn có tác động qua
lại và trao đổi vật chất, năng lượng trong hệ và với các hệ khác. Con người là một
phần của HST, là yếu tố quan trọng đảm bảo cân bằng của HST bằng cách điều
chỉnh các điều kiện vật lý, hóa học của môi trường, thay đổi mối tương tác sinh học.
Có thể xem vùng lãnh thổ là một HST. Nhiệm vụ của phân vùng chức năng là phân
tích, đánh giá hệ thống này cho mục đích quy hoạch, quản lý khai thác, sử dụng tài
nguyên, môi trường. Mục đích của việc phân vùng dựa trên HST là tìm cách tốt
nhất, hợp lý nhất để con người khi sử dụng HST có thể đạt được sự hài hòa giữa lợi
10
ích thu được từ tài nguyên của HST với việc duy trì khả năng của HST tiếp tục cung
cấp được những lợi ích đó ở mức độ bền vững, lâu dài.
Hệ sinh thái là một hệ thống mở bao gồm các sinh vật tác động qua lại với môi
trường bằng các dòng năng lượng tạo nên cấu trúc dinh dưỡng nhất định đa dạng về
loài và các chu trình vật chất.
Hệ sinh thái là đơn vị cơ bản của sinh thái học và được chia thành HST nhân
tạo và HST tự nhiên như HST nông nghiệp, HST rừng, HST biển, HST ao hồ, HST
đồng cỏ tự nhiên, HST đô thị.... Đặc điểm của HST là một hệ thống mở có 3 dòng
(dòng vào, dòng ra và dòng nội lưu) vật chất, năng lượng, thông tin.
Hệ sinh thái cũng có khả năng tự điều chỉnh để duy trì trạng thái cân bằng, nếu
một thành phần thay đổi thi các thành phần khác cũng thay đổi theo ở mức độ nào
đó để duy trì cân bằng, nếu biến đổi quá nhiều thì sẽ bị phá vỡ cân bằng sinh thái.
Phân vùng chức năng môi trường làm nhiệm vụ phục vụ công tác xây dựng
quy hoạch KTXH, quy hoạch môi trường. Vì vậy, khi xây dựng các quy hoạch này
đòi hỏi phải xem xét đến sự phân hóa môi trường do quá trình phát triển KTXH tạo
ra và vị thế, năng lực con người, truyền thống văn hóa của vùng.
g, Nguyên tắc phân vùng chức năng môi trường
Tôn trọng tính khách quan của vùng
Xuất phát từ quan niệm rằng, vùng là một thực thể khách quan, nó được hình
thành do tác động tương hỗ lâu dài của các yếu tố tự nhiên, tuân theo quy luật tự
nhiên về dòng năng lượng và trao đổi vật chất, vì vậy cần vận dụng những đặc tính
khách quan đó của vùng ở trạng thái cân bằng nội tại trong các chính sách nói
chung và trong điều tiết sự mất cân đối của vùng do tác động của con người nói
riêng. Nhưng nhận thức và vận dụng tính khách quan của vùng lại mang tính chủ
quan, phụ thuộc vào chủ thể nhận thức, đặc biệt là khi con người ngày càng can
thiệp mạnh mẽ vào giới tự nhiên. Mặc dù vậy, bản chất khách quan và cân bằng nội
tại của vùng vẫn không mất đi, do đó nó cần được tôn trọng trong nhận thức, cũng
như hành động khi tiến hành phân vùng chức năng môi trường.
11
Đảm bảo tính đồng nhất tương đối của vùng
Phân vùng dựa trên sự phân tích, đánh giá tổng hợp nhiều tiêu chí về tự nhiên
và KTXH. Mỗi vùng được phân định theo sự đồng nhất về tất cả các tiêu chí phân
vùng, tuy nhiên không thể có sự đồng nhất tuyệt đối, mà đó chỉ là sự đồng nhất
tương đối. Vì vậy, vấn đề quan trọng là xác định được các tiêu chí chính, mang tính
chủ đạo và tiêu chí phụ mang tính bổ trợ đối với từng cấp độ phân vùng.
Ở mỗi cấp độ phân vùng yếu tố trội đặc trưng được lựa chọn để làm cơ sở cho
việc phân vùng và sự đồng nhất của vùng trước hết phải thể hiện được theo yếu tố
đó. Đối với cấp vùng trong phân vùng chức năng môi trường ở các tỉnh ven biển
miền Trung, có thể dựa vào yếu tố mang tính trội là địa hình để phân vùng, ví dụ
vùng miền núi, vùng đồng bằng, vùng biển ven bờ và hải đảo; hoặc dựa vào các
quần cư để phân ra vùng đô thị, vùng nông thôn.
Đối với cấp tiểu vùng, đó có thể là chức năng đặc dụng của lớp phủ thực vật,
ví dụ chia ra: rừng phòng hộ, rừng sản xuất, rừng cảnh quan. Các tiểu vùng tuy có
những đặc điểm riêng, khác với tiểu vùng liền kề, nhưng cũng có một số tiểu vùng
giống nhau, có tính lặp lại trong không gian với các vị trí phân bố khác nhau, dựa
vào đó có thể phân ra các kiểu tiểu vùng. Như vậy, mỗi kiểu tiểu vùng gồm 2 hay
nhiều hơn số lượng tiểu vùng.
Phù hợp với chức năng môi trường
Đây là nguyên tắc chủ đạo. Với cách tiếp cận sinh thái trong phân vùng thì
mỗi vùng là một HST lớn, mỗi tiểu vùng là một HST nhỏ hơn. Tính chức năng của
vùng thể hiện sự gắn kết chặt chẽ theo chiều ngang giữa các hợp phần trong mỗi
vùng, từ trung tâm đến ngoại vi. Mỗi HST đều có một vài chức năng chính riêng và
một số chức năng khác, ví dụ HST rừng đầu nguồn có chức năng phòng hộ, vừa có
chức năng tạo cảnh quan; HST rừng ngập mặn ven biển có chức năng phòng hộ,
bảo vệ bờ biển, vừa có chức năng cung cấp thức ăn, bãi đẻ, nơi cư trú cho nhiều
giống loài sinh vật, đồng thời cung cấp củi đun, dược liệu cho cư dân ven biển.
12
Vì vậy, khi tiến hành phân vùng chức năng cần hết sức tôn trọng tính toàn vẹn
của HST, nói cách khác, phải tuân thủ các quy luật tự nhiên, bảo tồn các chức năng
sinh thái và môi trường của vùng.
Phù hợp với yêu cầu quản lý
Phân vùng chức năng môi trường của một địa phương (tỉnh thành, huyện thị)
nhằm mục đích quy hoạch, quản lý, khai thác sử dụng tài nguyên, tạo dựng cơ sở để
khoa học điều hoà sự phát triển trong khả năng chịu tải của các HST và môi trường
tự nhiên. Bản chất tự nhiên của mỗi cấp độ vùng đã thể hiện ý nghĩa của vấn đề
quản lý. Ranh giới phân chia các vùng thường là ranh giới tự nhiên, đó có thể là một
đường bình độ chuyển tiếp từ đồng bằng lên miền gò đồi, hoặc một đường đẳng độ
mặn 0,1% , 0,4%; một dòng sông hoặc một đường phân thủy... Tuy nhiên, trong
trường hợp có điều kiện, thì có thể khoanh vẽ ranh giới vùng và tiểu vùng theo ranh
giới hành chính, nhằm nâng cao tính khả thi trong việc quản lý tài nguyên và môi
trường theo đơn vị hành chính.
Tính khoa học trong phân vùng
Phân vùng chức năng môi trường các tỉnh thành phải dựa trên các cơ sở khoa
học sao cho, một mặt phản ảnh được thực tế khách quan của địa phương, mặt khác,
vừa mang tính lý thuyết, hệ thống, nhằm đúc rút được kinh nghiệm về phương pháp
luận và phương pháp kỹ thuật phân vùng chức năng môi trường khả dĩ có thể áp
dụng cho các tỉnh thành khác trong cùng nhóm. Để làm được điều đó cần tiến hành
điều tra, nghiên cứu kỹ đặc thù của địa phương và thu thập tài liệu, tư liệu về tất cả
các yếu tố tự nhiên, kinh tế -xã hội, tài nguyên & môi trường, sinh thái & đa dạng
sinh học (ĐDSH), căn cứ vào đó để lựa chọn trong hệ thống các tiêu chí phân vùng
những tiêu chí phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của địa phương tỉnh thành.
h, Tiêu chí phân vùng chức năng môi trường
Nhóm tiêu chí tự nhiên:
1) Nền địa chất. Các thông số đo: Diện phân bố các thành tạo địa chất, tính
bằng km2; Tuổi địa chất, tính bằng triệu năm; Loại đá chính (theo tên gọi).
13
2) Địa hình. Các thông số đo: Độ cao tuyệt đối so với mực nước biển, tính
bằng mét; Độ cao tương đối so với mực xâm thực địa phương, tính bằng mét; Độ
dốc sườn, tính bằng độ.
3) Khí hậu. Các thông số đo: Nhiệt độ trung bình tháng, năm, tính bằng độ;
Lượng mưa trung bình tháng, năm tính bằng milimet; Tổng tích ôn, tính bằng độ.
4) Thổ nhưỡng. Các thông số đo: Loại đất (theo tên gọi); Thành phần hóa học,
tính theo % hợp phần; Diện phân bố và sử dụng đất, tính bằng ha.
5) Mạng thủy văn. Các thông số đo: Các sông chính (theo tên gọi); Diện tích
LVS, tính theo km2; Lưu lượng dòng chảy trung bình năm, tính bằng m3/s.
6) Thảm rừng. Các thông số đo: Loại thảm rừng (theo tên gọi thảm rừng tự
nhiên, rừng trồng, rừng ngập mặn...); Vị trí và diện tích phân bố (km2); Trữ lượng
rừng (giàu, nghèo, trung bình, m3 gỗ/ha.
7) Hệ sinh thái và ĐDSH. Các thông số đo: Kiểu HST (trên cạn, dưới nước);
Vị trí và diện tích phân bố (km2); Mức độ bảo tồn, bảo vệ.
8) Cấu trúc đới bờ và biển ven bờ. Đây là tiêu chí rất quan trọng đối với phân
vùng chức năng môi trường của 28 tỉnh thành có biển của Việt Nam. Các thông số
đo bao gồm: Cấu trúc hình thái (đầm ven biển, cồn đụn cát, bãi biển, biển và đảo);
Các tài nguyên và nguồn lợi chủ yếu (trong các thủy vực, trong cồn cát, bãi biển,
trên hải đảo, trong biển); Các HST nhạy cảm (rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn
cửa sông).
Nhóm tiêu chí kinh tế - xã hội:
9) Quần cư (chủ yếu là đô thị). Các thông số đo: Giới hạn hành chính và diện
tích (km2); Dân số và mật độ dân số (người, người/ km2). Mức độ phát triển cơ sở
hạ tầng đô thị.
10) Khu vực cung cấp nguyên liệu. Các thông số đo: Loại hình nguyên liệu
cho công nghiệp (khai khoáng, vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến nông lâm sản...);
Công suất trung bình năm; Sản lượng (nghìn tấn).
14
11) Khu công nghiệp, khu kinh tế. Các thông số đo: Vị trí và diện tích mặt
bằng (km2), Loại hình (theo tên gọi); Sản phẩm công nghiệp (loại hàng hóa, thị
trường tiêu thụ).
12) Hệ canh tác. Các thông số đo: Loại hình canh tác (tên gọi); Diện tích phân
bố (ha). Sản phẩm hàng hóa (tấn/năm).
13) Thủy vực tự nhiên và nhân tạo tiếp nhận nước thải: Các thông số đo: Loại
hình thủy vực (đầm hồ, sông suối, biển ven bờ...); Diện tích thủy vực, tính bằng
(km2); Sức chịu tải của thủy vực ( khả năng pha loãng, tự làm sạch).
Các tiêu chí này luôn luôn song hành tồn tại. Trong những tiêu chí trên được
phân ra tiêu chí chính, mang tính chủ đạo như nền địa chất, địa hình, mạng sông,
dân cư... và tiêu chí phụ, mang tính cục bộ, có ý nghĩa bổ trợ, như đất đai, thảm
thực vật, tài nguyên động vật... Dựa vào tiêu chí chính, mang tính trội để chia ra các
vùng quy mô lớn. Các tiêu chí phụ thường được sử dụng để tiếp tục chia nhỏ mỗi
vùng thành các tiểu vùng.
Mỗi vùng, tiểu vùng đã được phân ra trên cơ sở tổ hợp các tiêu chí, có sự đồng
nhất tương đối về tiêu chí chính và một số tiêu chí bổ trợ. Tùy thuộc hoàn cảnh của
mỗi địa phương tỉnh thành mà xác định tiêu chí chính.
Ví dụ, đối với tỉnh Quảng Bình, do sự phân hóa về địa hình quyết định sự
phân bố các hợp phần khác, nên nó được xác định là tiêu chí chính.
Đối với tỉnh miền núi Thái Nguyên, thì mạng sông là yếu tố trội, mang tính
quyết định và chi phối các hợp phần tự nhiên, cũng như nhân sinh, nên nó được xác
định là tiêu chí chính. Tương tự như vậy đối với một số tỉnh miền núi khác trong cả
nước.
Như vậy, hệ thống tiêu chí phân vùng chức năng môi trường không phải là
một hệ thống sơ cứng, vai trò, ý nghĩa của từng tiêu chí trong hệ thống có thể thay
đổi tùy thuộc vào đối tượng phân vùng.
Về phương diện nào đó, việc phân chia các vùng và tiểu vùng chức năng môi
trường có thể hình dung như giải một bài toán có nhiều ẩn số. Mỗi vùng (hoặc tiểu
15
vùng) là một hàm đa biến, mỗi tiêu chí nêu trong hệ thống nêu trên là một biến. Nó
cũng tương tự như bài toán tính xói mòn trên lưu vực.
Quá trình xói mòn trên lưu vực chịu tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên (địa
hình, độ dốc sườn, chiều dài sườn, lượng mưa, thảm thực vật v.v...) và yếu tố nhân
tạo (hệ canh tác, cây trồng...), do đó, công việc đánh giá xói mòn theo định lượng
khá phức tạp. Tuy nhiên theo phương trình mất đất phổ dụng của Whischmeier -
Smith, là một hàm của nhiều biến: A= R.K.L.S.C.P thì có thể tính được lượng đất bị
xói mòn A cho từng LVS.
Như vậy, hàm đa biến trong bài toán phân vùng chức năng môi trường của
một vùng, miền nào đó về nguyên tắc cũng có thể tìm lời giải khi biết được sự phụ
thuộc của hàm vào các biến, đồng thời biết được tác động tương hỗ giữa các biến
trong sự hình thành chức năng môi trường của vùng.
i, Bản đồ phân vùng chức năng môi trường
Bản đồ phân vùng chức năng môi trường thuộc loại bản đồ đánh giá tổng hợp,
thể hiện lãnh thổ thành các cấp vùng theo các chức năng môi trường tương ứng,
nhằm giúp cho việc tổ chức, quản lý, khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên
nhiên một cách khoa học, hợp lý, hiệu quả mà vẫn đảm bảo được chất lượng môi
trường theo hướng PTBV.
Bản đồ phân vùng chức năng môi trường được sử dụng như một tài liệu dẫn
xuất quan trọng để xây dựng phương án quy hoạch, kế hoạch BVMT cũng như cho
việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể và các chuyên ngành khác. Đồng thời
nó còn được sử dụng như một công cụ khung để giám sát các hoạt động liên quan
đến sử dụng không gian vùng trong phát triển kinh tế- xã hội.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng chức năng môi trường
1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng trên thế giới và Việt Nam
Vùng (zone) là một thực thể khách quan, đòi hỏi con người phải có nhận thức
đúng đắn và nhận biết rõ ràng về vùng, để vận dụng những đặc tính khách quan của
thực thể đó ở trạng thái cân bằng nội tại trong các chính sách nói chung và điều tiết
sự mất cân đối của vùng do tác động của con người nói riêng. Trong thời đại hiện
16
nay con người tác động đến giới tự nhiên ngày càng mạnh hơn, sâu sắc hơn. Tuy
nhiên bản chất khách quan và cân bằng nội tại của vùng vẫn tồn tại, đòi hỏi con
người khi tiến hành phân vùng phải tôn trọng điều đó trong nhận thức cũng như
hành động để bảo tồn và hướng đến PTBV. [19]
Vùng là một bộ phận (một đơn vị Taxon cấp cao) của lãnh thổ, có một sắc thái
đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối quan hệ tương đối
chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó, cũng như những mối quan hệ có chọn
lọc và với các không gian các cấp bên ngoài. [16]. Ví dụ:
Vùng kinh tế được chia theo tiềm năng kinh tế, mức độ phát triển và mối quan
hệ tương hỗ mật thiết giữa các khu vực của vùng được xác định (ví dụ: các vùng
Kinh tế trọng điểm).
Vùng sinh thái là một đơn vị lãnh thổ đặc trưng bởi các phản ứng sinh thái đối
với khí hậu trái đất, thực vật, động vật và hệ thống thủy vực. Phân định các vùng
sinh thái để tạo cơ sở cho việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên có hiệu quả tối
ưu, phát huy đầy đủ tiềm năng của vùng.
Vùng địa lý được phân theo tính tương đối đồng nhất của các yếu tố địa lý, khí
hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa chất…
Vùng đô thị là một trung tâm đông dân số bao gồm một đại đô thị và các vùng
phụ cận nằm trong phạm vi ảnh hưởng của đô thị này hay nói cách khác là vùng
gồm có hơn một thành phố trung tâm gần sát nhau và vùng nằm trong phạm vi ảnh
hưởng của các thành phố trung tâm này. Một hai nhiều thành phố lớn có thể phục
vụ như một trung tâm hay các trung tâm cho toàn vùng. Thông thường vùng đô thị
được đặt tên theo tên thành phố trung tâm lớn nhất hoặc quan trọng nhất trong vùng.
Phân vùng (zoning) là việc phân chia lãnh thổ thành các đơn vị tương đối
đồng nhất theo các tiêu chí và các mục tiêu nhất định nhằm đơn giản hóa việc
nghiên cứu hay quản lý có hiệu quả hơn theo đặc thù riêng của từng đơn vị trong
vùng. Phân vùng có thể là phân vùng kinh tế, phân vùng sinh thái, phân vùng địa lý,
phân vùng môi trường….
17
Các đặc tính của phân vùng đó là: Tính toàn vẹn lãnh thổ (không lặp lại); Tính
ước định ranh giới (có thể xác định hoặc không); và Tính chủ quan trong phân
vùng: thể hiện mục đích của phân vùng.
Mục đích chủ yếu của phân vùng là chia các vùng để sử dụng đất một cách
hợp lý; Trong thực tế phân vùng là hệ thống cho phép ngăn ngừa các tác động bất
lợi của sự phát triển đối với môi trường. Đặc trưng của phân vùng là chỉ rõ các vùng
có thể hoạt động cư trú, công nghiệp, giải trí hoặc thương mại… Nhà địa lý học Mỹ
G. P. March (1801 – 1882) vào năm 1864 đã nghiên cứu kỹ về những thay đổi trong
tự nhiên do tác động của con người gây ra và đề xuất các nguyên lý bảo vệ thiên
nhiên.
Trên thế giới, việc phân vùng đã được sử dụng rộng rãi trong quy hoạch đô
thị, điều chỉnh sử dụng đất ở Bắc Mỹ, Anh và Úc… Trong khi các thành phố của
châu Âu kiểm soát phát triển từ cuối thế ký 19 mà ngày nay được biết như phân
vùng chức năng, thành phố New York phân vùng đầu tiên vào năm 1916. Vào cuối
những năm 1920 nhiều nước đã thực hiện việc điều chỉnh phân vùng chức năng đáp
ứng nhu cầu phát triển.
Bộ Môi trường và Tài nguyên nước Paraguay cũng đã tiến hành phân vùng
môi trường nhằm bảo vệ thượng nguồn LVS Paraguay. Dựa trên các yếu tố địa chất,
hình thái địa lý, địa hình, khí hậu và độ che phủ thực vật, LVS được chia thành 34
đơn vị môi trường tự nhiên, trong đó có 24 đơn vị có địa hình cao và 10 đơn vị có
địa hình đồng bằng, đôi khi bị ngập lũ. Dựa vào các yếu tố KTXH như hiện trạng sử
dụng đất, tình hình sản xuất, cơ sở hạ tầng và tổ chức trong vùng, LVS được chia
thành 33 đơn vị môi trường KTXH.
Như vậy, trên thế giới phân vùng môi trường được sử dụng như một công cụ
phục vụ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên trong một không gian lãnh
thổ. Cơ sở để phân vùng môi trường là tổng hợp các yếu tố tự nhiên và KTXH tại
mỗi vùng.
Ở Việt Nam, ngay từ thế kỷ XV, mặc dù đất nước ta chưa rộng và hoàn chỉnh
như ngày nay, song đã có nhiều nhà bác học đề cập đến vấn đề phân chia đất nước
18
ra các vùng. Đáng kể nhất là nhà “bác học” Nguyễn Trãi, với tác phẩm “Dư địa chí”
mô tả các vùng, đề cập tới vị trí địa lý, ranh giới, qui mô lãnh thổ, tổ chức xã hội,
tình hình kinh tế với những nét đặc thù riêng.
Sau này vào giữa thế kỷ XVIII, nhà bác học lỗi lạc Lê Quý Đôn cũng đã xây
dựng bản đồ Việt Nam, trên đó có sự phân chia các vùng. Đặc biệt là vùng Thuận
Hóa – Quảng Nam. Trong đó ông đề cập đến quá trình hình thành, sự biến động về
tự nhiên, kinh tế một cách khá tỉ mỉ.
Sang đến thế kỷ XIX và đến năm 1954, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên
cứu của các học giả Việt Nam và nước ngoài (đặc biệt là người Pháp) đã để công
nghiên cứu và phân chia đất nước ra các vùng kinh tế riêng biệt. Trong đó các vùng
được nghiên cứu khá kỹ về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và dân cư. Song nói
chung các cách nghiên cứu, cũng như sự phân chia các vùng kinh tế còn mang tính
chủ quan của các nhà nghiên cứu, hoặc mang tính phân chia quyền lực.
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, trong khuôn khổ của Ủy ban Phân vùng Nhà
nước, công tác phân vùng ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng
trong việc phân ra các vùng địa lý tự nhiên. Đó là cơ sở quan trọng phục vụ cho
công tác chỉ đạo và phát triển các vùng, miền đất nước trong thời kỳ miền Bắc đi
lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, điều đó đặt ra các tiền đề quan trọng làm cơ sở cho
các nghiên cứu về sau của Địa lý tự nhiên Việt Nam. Các nhà khoa học Địa lý, với
quan điểm tổng hợp của mình đã đóng một vai trò quan trọng trong công tác trên.
1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phân vùng chức năng môi trường ở Việt
Nam
Hiện nay tại Việt Nam chưa có phương pháp luận hoàn chỉnh về phân vùng
chức năng môi trường. Tuy nhiên, một số ngành, địa phương đã thực hiện phân
vùng chức năng môi trường để phục vụ quy hoạch phát triển KTXH và kiểm soát ô
nhiễm môi trường.
Một số nghiên cứu liên quan đến phân vùng chức năng môi trường đã được
thực hiện, đó là đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy hoạch môi trường phục vụ phát
triển KTXH Vùng Đồng bằng sông Hồng” và “Nghiên cứu xây dựng quy hoạch môi
19
trường Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung” thuộc chương trình "Bảo vệ Môi
trường và phòng tránh thiên tai" (KC-08), “Nghiên cứu vấn đề quy hoạch môi
trường vùng lãnh thổ, lấy Hạ Long - Quảng Ninh làm ví dụ”, “Nghiên cứu xây
dựng quy hoạch bảo vệ môi trường vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, “Quy hoạch
môi trường vùng Đông Nam Bộ”. Trong các nghiên cứu này đều có nội dung phân
vùng môi trường theo chức năng khác nhau làm cơ sở cho QHMT.
Một số địa phương đã xây dựng QHMT như Tỉnh Hà Tây (cũ) trong QHMT
và định hướng phát triển kinh tế phân thành 7 vùng chức năng môi trường: Vùng
bảo tồn kết hợp du lịch sinh thái (vùng núi Ba Vì), diện tích khoảng 13 nghìn ha,
chiếm 15,5% diện tích tự nhiên của tỉnh, phân thành 5 tiểu vùng. Vùng sản xuất ven
sông Hồng với diện tích khoảng 49 nghìn ha, chiếm 22,36% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh, phân thành 3 tiểu vùng (tiểu vùng sản xuất, tiểu vùng sản xuất gần các khu
dân cư và tiểu vùng nhạy cảm ven sông). Vùng phát triển ven thành phố Hà Nội,
diện tích khoảng 27 nghìn ha chiếm 12,44% diện tích đất tự nhiên và chia thành 4
tiểu vùng. Vùng sản xuất ven sông Đáy có diện tích gần 20 nghìn ha, diện tích cho
chuyên sản xuất chiếm khoảng 9 nghìn ha. Vùng đa sử dụng giáp tỉnh Hưng Yên
với diện tích khoảng gần 7 nghìn ha, phân bố cho các hoạt động sản xuất, phát triển.
Vùng sản xuất giáp tỉnh Hà Nam, diện tích khoảng 10 nghìn ha chia thành 2 tiểu
vùng. Vùng cao núi đá vôi giáp tỉnh Hoà Bình và Khu di tích chùa Hương diện tích
gần 31 nghìn ha và chia thành 6 tiểu vùng. Bắc Giang được phân thành 14 vùng
chức năng môi trường bao gồm: khu bảo tồn; khu phòng hộ; sản xuất lúa-màu; vùng
lúa-thuỷ sản; vùng xử lý nước thải tập trung; xử lý nước sinh hoạt; các hồ sinh học;
bãi chứa rác thải; các trạm quan trắc nước thải; các khu du lịch, lịch sử, văn hoá;
rừng; và các làng nghề.
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và tỉnh Đồng Nai đã và đang tiến hành phân
vùng chất lượng nước theo chỉ số chất lượng nước (Water Quality Index - WQI).
Mục đích của việc nghiên cứu là phân vùng chất lượng nước theo chỉ số chất lượng
nước và đánh giá khả năng sử dụng các nguồn nước sông, kênh rạch cho mục đích
khác nhau như sinh hoạt, nuôi tôm cá, thủy lợi… của vùng nghiên cứu.
20
Ngày 11 tháng 12 năm 2007, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định số
65/2007/QĐ-UBND quy định phân vùng môi trường tiếp nhận nước thải, khí thải
công nghiệp trên địa bàn; Theo quyết định này, địa bàn môi trường được phân làm 2
vùng. Một là, vùng môi trường các nguồn nước mặt để tiếp nhận các nguồn nước
thải công nghiệp, bao gồm 14 sông, suối và 12 hồ lớn, nhỏ. Những khu vực thuộc
vùng này được áp dụng những hệ số khác nhau về lưu lượng nguồn thải, dung tích
nguồn tiếp nhận và phương pháp tính nồng độ tối đa cho phép các chất ô nhiễm
trong nước thải công nghiệp. Vùng thứ hai là môi trường không khí để tiếp nhận các
nguồn khí thải công nghiệp, được chia thành 5 môi trường khu vực, tương ứng với 5
khu vực địa giới hành chính khác nhau. Vùng này cũng sẽ áp dụng những hệ số tiêu
chuẩn, lưu lượng nguồn khí thải khác nhau và có những phương pháp tính nồng độ
tối đa cho phép của các chất ô nhiễm trong khí thải công nghiệp được quy định.
Dự án “Nghiên cứu xây dựng bản đồ phân bố các vùng nhạy cảm môi trường”
do Trung tâm Viễn thám thực hiện năm 2003 – 2004 nhằm nghiên cứu phương pháp
và quy trình thành lập bản đồ nhạy cảm môi trường, xây dựng hệ phân loại nội dung
bản đồ nhạy cảm môi trường và đã thành lập bộ bản đồ phân bố các vùng nhạy cảm
môi trường của TP. Hải Phòng ở tỷ lệ 1: 50 000.
Ngoài việc phân vùng chức năng môi trường như trên, các nhà khoa học còn
nghiên cứu phân vùng sinh thái. Đề tài “Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Hồng” do GS. TS Cao Liêm, trường Đại học Nông nghiệp I chủ trì
(1990), Trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới điều kiện sinh thái của vùng
đồng bằng sông Hồng như: khí hậu, nhiệt độ, thuỷ văn, lượng mưa, độ ẩm, địa chất,
địa hình, thổ nhưỡng và các yếu tố xã hội khác, đã đề xuất được tiêu chuẩn một số
đơn vị phân vùng sinh thái, xây dựng được một bản đồ phân vùng sinh thái vùng
đồng bằng sông Hồng tỉ lệ 1/250.000 kèm theo bản chú giải. Các tác giả đã phân ra
8 vùng và 13 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp, mô tả đặc điểm, hướng sử dụng cho
từng vùng sinh thái chính ở đồng bằng sông Hồng là: bạc màu, chua mặn, trũng
úng.
21
Để bảo vệ và phục hồi vùng biển Rạn Trào, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà,
Viện Hải dương học Nha trang đã triển khai thực hiện đề tài "Nghiên cứu phân
vùng chức năng cho khu bảo tồn Rạn Trào - Vạn Ninh" từ tháng 11/2003 - 11/2004.
Cụ thể hơn, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng có Quyết định số 54 /2007/QĐ-
UBND ngày 13 tháng 9 năm 2007 quy định về phân vùng quản lý, bảo tồn rạn san
hô và các HST liên quan đến vùng biển từ Hòn Chảo đến Nam Hải Vân và bán đảo
Sơn Trà. Trong đó có phân chia các vùng:
- Vùng khai thác hợp lý: Là vùng khai thác nguồn lợi thuỷ sản một cách hợp
lý, đảm bảo PTBV kinh tế biển.
- Vùng phục hồi sinh thái: Là vùng được quản lý, bảo vệ và tổ chức các hoạt
động nhằm duy trì chất lượng các HST, nguồn lợi sinh vật hiện có, đảm bảo khả
năng phục hồi HST, ĐDSH và nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
- Vùng bảo vệ nghiêm ngặt: Là vùng có rạn san hô và HST trong tình trạng
tốt, đa dạng sinh học cao, nguồn lợi sinh vật biển phong phú cần được quản lý chặt
chẽ nhằm duy trì tính tự nhiên của các HST.
Việc phân vùng chức năng môi trường ở Việt Nam còn mới mẻ, chưa có
phương pháp luận thống nhất cũng như chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của
chúng trong quy hoạch phát triển KTXH, quy hoạch ngành, trong đó có QHMT
nhằm khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường.
1.3. Tích hợp phân vùng chức năng môi trường trong quản lý tổng hợp lưu vực
sông
1.3.1. Quản lý tổng hợp lưu vực sông
Quản lý nguồn nước theo lưu vực là một cấp độ trong quản lý tổng hợp TNN.
Quản lý nước theo lưu vực nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hợp lý tài nguyên trên cơ
sở hiểu biết và tôn trọng các quy luật tự nhiên hình thành TNN trong một lưu vực
cụ thể.
Trong quản lý TNN theo lưu vực, đơn vị địa lý để thực hiện quản lý không
phải là địa giới hành chính mà là toàn bộ LVS. Thông qua hoạt động của bộ máy
22
quản lý lưu vực, tất cả các hoạt động sử dụng và bảo vệ tài nguyên được xem xét
một cách thống nhất và hợp lý.
Nhu cầu cấp nước của toàn lưu vực phải được tính trên cơ sở cân bằng với khả
năng tái tạo về lượng và chất cuả tài nguyên. Nếu giả định việc khai thác tài nguyên
không làm HST xấu hơn trạng thái tự nhiên vốn có của nó, thì lượng nước khai thác
trong mùa kiệt không được làm mức nước sông hạ xuống thấp hơn ngưỡng bảo đảm
an toàn sinh thái cho toàn hệ. Ngoài ra, nếu không tính tới các hệ quả sinh thái bất
thường khác, thì toàn bộ lượng nước đưa vào lưu vực bằng con đường nhân tạo và
lượng nước lũ mà các hồ chứa điều tiết được, sau khi đã trừ tổn thất, là phần mà loài
người có thể độc quyền tiêu thụ, bao gồm cả phần để cải thiện HST tự nhiên theo
nhu cầu của con người.
Trên thế giới, sau hội nghị Dublin và hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và
Phát triển họp tại Rio de Janero (Braxin, 1992), phần lớn các nước trên thế giới đều
thực hiện quản lý tổng hợp theo LVS. Lưu vực sông là đơn vị quản lý được chú
trọng và là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nước, sử dụng tài
nguyên - môi trường, điều phối giải quyết tốt các mâu thuẫn trong khai thác và sử
dụng tài nguyên giữa các vùng, khai thác sử dụng tài nguyên giữa các khu vực
thượng, trung, hạ lưu. Việc sử dụng nước có mối liên quan mật thiết với sử dụng đất
và ảnh hưởng đến HST lưu vực nên quản lý nước theo LVS sẽ giúp cho việc sử
dụng và bảo vệ tốt hơn tài nguyên đất và môi trường lưu vực, quản lý và giảm nhẹ
các tác động tiêu cực của các hoạt động phát triển KTXH của con người tới tài
nguyên và môi trường.
Chức năng và nhiệm vụ về quản lý tổng hợp LVS được quy định tùy theo hình
thức của mỗi kiểu tổ chức lưu vực. Tuy nhiên, có một số nhiệm vụ chung mà trong
quản lý LVS đều phải thực hiện, đó là:
- Lập quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ tài nguyên nước LVS và theo dõi
việc thực hiện quy hoạch.
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan của các bộ, ngành và địa phương trong
việc điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá TNN của lưu vực sông.
23
- Phối hợp với các đơn vị hành chính các cấp để giải quyết tranh chấp về TNN
nảy sinh trên lưu vực. Ngoài ra, tùy theo hình thức, một số tổ chức LVS có thể tham
gia trực tiếp vào chức năng thiết kế, thi công và quản lý các công trình khai thác, sử
dụng TNN trên lưu vực.
Quy mô của việc quản lý LVS tuỳ thuộc vào các điều kiện tài nguyên, địa lý
và hành chính. Mặc dù nhiều nước trên thế giới đã sử dụng cách tiếp cận thống nhất
và tổng hợp trong quản lý môi trường LVS, song cách hiểu và áp dụng tại mỗi nước
có nhiều điểm khác nhau. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có một số điểm chung là:
- Nhằm mục đích hài hoà các mục tiêu của các cơ quan địa phương và trung
ương trong lưu vực, giúp họ có được chiến lược quản lý hợp lý.
- Quá trình ra quyết định thường cố gắng bao hàm đầy đủ các lĩnh vực liên
quan và sử dụng kỹ năng "tìm tiếng nói chung" để xây dựng được kế hoạch đáp ứng
yêu cầu của các bên liên quan.
- Sử dụng thông tin khoa học và logic để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
HST thuỷ sinh, HST trên cạn, sức khoẻ con người, và các điều kiện kinh tế trong
lưu vực.
- Sử dụng các biện pháp tài chính phù hợp để chi phí được phân bổ cho các dự
án tương ứng với lợi ích thu được của chúng.
- Cố gắng tạo ra khung thoả thuận liên ngành nhằm đảm bảo các kế hoạch sẽ
được thực hiện dựa vào cách tiếp cận và mong muốn của các bên liên quan chứ
không phải dựa vào các luật lệ hay quy định.
- Xây dựng các biện pháp và tiêu chuẩn rõ ràng để kiểm tra và đánh giá hiệu
quả của việc quản lý LVS.
Nhìn chung, cách tiếp cận quản lý môi trường LVS này bao gồm 3 nét chính.
Thứ nhất là sự phát hiện vấn đề, phát hiện các mối đe doạ tiềm ẩn đối với sức khoẻ
con người và HST trong lưu vực. Thứ hai là sự tham gia của các bên liên quan, đòi
hỏi mọi người phải có sự quan tâm thích đáng hoặc thích hợp nhất. Thứ ba là sự
phối hợp hành động, đó là các nỗ lực được thực hiện một cách tổng hợp và toàn
diện một khi các giải pháp đã được quyết định.
24
1.3.2. Tích hợp phân vùng chức năng môi trường trong quản lý tổng hợp lưu vực
sông
Mục tiêu: Tăng cường năng lực của các cơ quan nhà nước trong công tác quản
lý môi trường nước các LVS. Hướng tới nỗ lực, gắn kết sự phối hợp giữa các bộ
ngành làm giảm các nguồn gây ô nhiễm tới các nguồn nước. Vì chỉ có điều này mới
hi vọng đảm bảo cải thiện được môi trường nước tại các LVS.
Lợi ích của tích hợp phân vùng chức năng môi trường để quản lý LVS:
Do tính phức tạp của ô nhiễm môi trường LVS (các nguyên nhân gây ô nhiễm
phức tạp và khác nhau, ranh giới LVS không rõ ràng, tính đa dạng của các hệ sinh
thái LVS...), do vậy cần cân nhắc trước khi quyết định một vấn đề để tránh làm cho
nó trầm trọng hơn hoặc phát sinh các vấn đề mới khác. Đây chính là lý do cần áp
dụng phương pháp tổng hợp để tiếp cận và giải quyết vấn đề. Các chương trình
quản lý tổng hợp LVS có thể tác động toàn diện đến các mặt kinh tế, xã hội và đem
lại nhiều lợi ích cho lưu vực như:
- Cấp nước: Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của con người và phục vụ phát triển
KTXH, cả ba nguồn nước (nước mưa, nước mặt và nước ngầm) ở LVS đều được
khai thác sử dụng.
- Chất lượng nước: Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến chất lượng nước bao
gồm địa chất, đất, địa hình, thảm thực vật, quần thể động thực vật hoang dã và khí
hậu. Nhưng yếu tố quan trọng hơn gây ra các vấn đề về chất lượng nước chính là
các hoạt động của con người và vấn đề sử dụng đất trong lưu vực. Quản lý LVS sẽ
phải kiểm soát chặt chẽ các yếu tố này.
- Kiểm soát lũ: Việc cấp nước đồng thời đảm bảo chống lũ có thể là lý do quan
trọng nhất của các nỗ lực quản lý LVS. Cách tiếp cận quản lý tổng hợp LVS quan
tâm đến các vùng đầu nguồn và bảo vệ các vùng đất ngập nước.
- Kiểm soát bồi lắng: Sự bồi lắng có thể ảnh hưởng đến chất lượng nước, sinh
cảnh, giao thông thuỷ, kiểm soát lũ và các dịch vụ du lịch, giải trí. Nó còn ảnh
hưởng đến các loài cá do bùn lắng trên lòng sông - nơi cần thiết cho chúng đẻ trứng,
và che phủ các sinh vật đáy quan trọng trong chuỗi thức ăn.
25
- Giao thông thuỷ: Các hoạt động giao thông thuỷ và dịch vụ cảng thường gây
ô nhiễm môi trường nước do việc xả dầu cặn và các chất thải có nguồn gốc dầu mỡ
khoáng cũng như chất thải sinh hoạt. Ngoài ra, vấn đề quan trọng nhất về mặt môi
trường với các hoạt động giao thông thuỷ là sự cố tràn dầu.
- Phát triển kinh tế với các công trình thuỷ điện-thuỷ lợi: Có thể thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế bằng việc quản lý LVS. Ở Việt Nam ngay từ những năm
80, Nhà nước đã đầu tư kinh phí xây dựng các hồ chứa để tích nước trong mùa mưa
lũ và xả nước trong mùa kiệt kết hợp với phát điện, điều tiết lưu lượng dòng chảy ở
hạ lưu và đẩy lùi ranh giới nhiễm mặn, đảm bảo nhu cầu cấp nước, nuôi cá, cải tạo
môi trường.
- Đa dạng sinh học: LVS, đặc biệt là những nơi cư trú ven sông là nơi cư trú
cần thiết và đa dạng cho nhiều quá trình và nhiều loài sinh vật, đây còn là nơi cung
cấp mối liên kết giữa HST thuỷ sinh với HST vùng cao. Quản lý LVS có thể là công
cụ được sử dụng để làm tăng số lượng động thực vật hoang dã, một nhân tố của sự
đa dạng sinh thái. Mặc dù không phải là thích hợp với mọi trường hợp nhưng việc
lập kế hoạch quản lý LVS có thể bao gồm những nỗ lực tránh sự suy thoái nơi cư
trú của các loài động thực vật hoang dã nguy cấp. Cá và các sinh vật thuỷ sinh khác:
cần có các hoạt động quản lý LVS để làm giảm các ảnh hưởng và cải thiện, bảo tồn
loài cá cũng như các sinh vật thuỷ sinh khác.
- Bảo tồn sinh cảnh: các LVS khi được bảo vệ tốt sẽ phục vụ cho nhiều mục
đích như giải trí, bảo vệ sinh cảnh hoang dã, lọc nước và lưu giữ nước.
- Giải trí - du lịch: Nước cấp cho các hoạt động giải trí - du lịch có thể được
tăng cường bằng việc quản lý LVS. Chẳng hạn như, các hoạt động quản lý LVS ở
phía hạ lưu sẽ giúp đảm bảo cấp nước đầy đủ và bảo vệ chất lượng nước, ngoài ra
còn có thể đem lại lợi ích cho các hồ chứa, làm tăng giá trị của chúng đối với các
hoạt động giải trí như bơi thuyền và câu cá.
Vì vậy, để thực hiện mục tiêu BVMT và PTBV lưu vực sông, cần thiết phải
xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm thống nhất và phối hợp chặt chẽ việc quản lý quy
hoạch sử dụng TNN và BVMT trên tất cả các LVS ở nước ta.
26
Khó khăn: Thực tế vẫn có một số điều kiện khách quan, ràng buộc ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện.
Ràng buộc lớn nhất hiện nay là tình hình thế giới đang rơi vào suy thoái kinh
tế, ảnh hưởng tới Việt Nam đã làm cho ngân sách của chính phủ hỗ trợ để thực hiện
các chương trình này khó khăn. Nguồn hỗ trợ từ nước ngoài cũng từ nguyên nhân
này có phần suy giảm.
Ngoài ra còn phải kể đến khó khăn về mặt định chế, đó là làm sao tạo ra môi
trường hành lang pháp lý để các cơ quan phối hợp với nhau hết sức đồng lòng, thực
hiện cắt hết nguồn gây ô nhiễm. Để làm được điều này cần phải có một nhạc
trưởng, một tổng tư lệnh có năng lực, có tâm để làm sao đẩy nhanh được sự kết hợp
đó.
Mặt khác, lĩnh vực BVMT sông là một lĩnh vực nóng trong xã hội. Vì vậy, các
ban ngành chuyên môn cũng xác định rằng cố gắng làm sao đạt được kết quả trong
thời gian ngắn nhất. Còn thời gian xác định 20 năm nữa, hay 30 năm nữa cắt giảm
hết ô nhiễm tại các LVS là không tối ưu.
1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội lưu vực sông Gianh,
Quảng Bình
1.4.1. Điều kiện tự nhiên
a, Vị trí địa lý
Lưu vực sông Gianh nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình, có toạ độ địa lý từ
17031’ đến 18
008’ vĩ độ Bắc, 105
036’ đến 106
032’ kinh độ Đông, tổng diện tích tự
nhiên 4.680 km2.
Phía Bắc giáp các xã thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Hà Tĩnh.
Phía Nam giáp các xã thuộc huyện Bố Trạch, huyện Quảng Ninh.
Phía Đông giáp biển.
Phía Tây giáp nước bạn Lào.
27
Hình 1.1 Bản đồ Hành chính lưu vực sông Gianh Quảng Bình
LVS có gần 26 km bờ biển và gần 100 km đường biên giới Việt Lào; có trục
giao thông quan trọng xuyên Bắc Nam đó là quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh
(nhánh phía Đông và phía Tây), đường sắt chạy dọc huyện; có cảng Gianh, các
danh thắng như vườn quốc gia (VQG) Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận di sản
thiên nhiên thế giới; vùng gò đồi, núi đá vôi, rừng, biển… với nhiều tiềm năng du
lịch và nghỉ dưỡng.
Vị trí địa lý tạo cho LVS có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển toàn diện
về KTXH, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, thực
hiện nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
b, Địa hình
Lưu vực sông Gianh nằm trên giải đất hẹp và dốc, núi và gò đồi chiếm trên
80% diện tích tự nhiên. Địa hình nghiêng dần từ Tây sang Đông, bị chia cắt mạnh
và có thể chia thành các vùng như sau:
28
- Vùng địa hình núi đá vôi: phân bố ở huyện Tuyên Hoá, huyện Minh Hoá, các
xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Sơn Trạch, Xuân Trạch, Phúc Trạch thuộc huyện Bố
Trạch và một số xã phía tây của huyện Quảng Trạch, chiếm hơn 1/3 diện tích tự
nhiên của lưu vực. Các khối núi đá vôi ở đây được hình thành vào thời kỳ Đềvon và
Cacbon-pecmi, thường bị chia cắt thành những giải liên tục hoặc độc lập, địa hình
lởm chởm, sườn thẳng đứng. Ở hầu hết khu vực núi đá vôi đều có dạng địa hình
caxtơ trên mặt và ngầm. Một số sông suối bị mất do chảy ngầm trong núi đá vôi
hàng mấy chục km, điển hình là động Phong Nha, đây là một trong những hang
động trong núi đá vôi dài nhất thế giới.
- Vùng núi đất thấp và trung bình: kiểu địa hình này chiếm gần 2/3 diện tích
của lưu vực, gồm những dãy núi liên tiếp độ cao các đỉnh núi trung bình 400 -
500m, có đỉnh cao tới 1.000m (Ba Rền 1.137m; UBò 1.009m), độ dốc chủ yếu là
trên 250, có nhiều nơi địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng gò đồi: là vùng tiếp giáp giữa vùng núi và đồng bằng, dọc đường Hồ
Chí Minh nhánh Đông gồm những đồi bát úp tạo nên một số thung lũng. Đây là
vùng có nhiều tiềm năng đất đai để phát triển kinh tế hàng hoá, tạo nên khối lượng
lớn nông-lâm sản hàng hoá cho lưu vực.
- Vùng đồng bằng: là vùng đất hẹp chạy dọc quốc lộ 1A. Địa hình tương đối
bằng phẳng, hình thành bởi phù sa các con sông lớn. Đây là vùng sản xuất nông
nghiệp chính của lưu vực, hàng năm cung cấp lượng lương thực chủ yếu cho nhân
dân các huyện thuộc lưu vực sông Gianh. Dọc theo bờ biển có những cồn cát và dải
cát trắng vàng độ cao 2m đến 50m. Đặc điểm địa hình tạo ra các vùng sinh thái khác
nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Có thể hình thành 7 tiểu vùng.
c, Khí hậu
Lưu vực sông nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của khí
hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới
điển hình ở phía Nam và có mùa đông tương đối lạnh ở phía Bắc. Nhiệt độ bình
quân hằng năm là 25 độ C, lượng mưa bình quân là 2.976mm, độ ẩm bình quân là
84,9%. Khí hậu toàn lưu vực chia làm hai mùa rõ rệt; Mùa mưa rét từ tháng 9 đến
29
tháng 3 năm sau, trong đó tháng 9 đến tháng 11 mưa bão; lượng mưa tập trung 70%
tổng lượng mưa của cả năm nên thường gây lũ lụt trên diện rộng, tháng 12 đến
tháng 3 rét và mưa phùn, gió bấc nhiệt độ có lúc xuống tới 9 – 11 độ C; mùa khô từ
tháng 4 đến tháng 8 nắng gắt gắn với gió Tây Nam (địa phương gọi là gió Lào) gây
khô nóng lượng bốc hơi lớn nên thường xuyên gây hạn hán, cát bay, cát chảy lấp
đồng ruộng và dân cư.
Điều kiện thời tiết bất lợi đối với lưu vực là gió Tây Nam khô nóng xuất hiện
khoảng 75 ngày trong năm, chủ yếu tập trung trong tháng 7, tháng 8 kết hợp với
thiếu mưa gây hạn hán. Mùa mưa bão tập trung vào tháng 9, tháng 10, bão thường
đi kèm với mưa lớn. Do địa hình hẹp, sông ngắn và dốc nên mùa mưa bão thường
có hiện tượng nước dâng tạo ra lũ quét gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp hàng năm. Để hạn chế sự bất lợi
cần phải có các chương trình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên có căn cứ khoa
học, như trồng rừng đầu nguồn, thiết lập vành đai rừng phòng hộ ven sông, ven
biển, nghiên cứu cơ cấu mùa vụ cây trồng vật nuôi, tuyển chọn cơ cấu giống, chống
chịu để né tránh các điều kiện về khí hậu, thời tiết.
d, Tài nguyên nước
Hệ thống sông Gianh là hệ thống sông lớn nhất tỉnh Quảng Bình, hệ thống
sông này chảy qua bốn huyện phía Bắc của tỉnh Quảng Bình đó là: Minh Hoá,
Tuyên Hoá, Quảng Trạch và Bố Trạch với tổng chiều dài khoảng 158 km, chiều dài
lưu vực 121 km, chiều rộng lưu vực bình quân 38,8 km, mật độ lưới sông 1,54 với
tổng diện tích lưu vực 4.680 km2. Sông có 13 phụ lưu cấp 1; 20 phụ lưu cấp 2 và 10
phụ lưu cấp 3. Trong đó phụ lưu với quy mô lớn nhất là sông Rào Cái, và sông Son.
Hệ thống sông Gianh có vai trò rất quan trọng cung cấp nước mặt cho các huyện
phía Bắc của tỉnh Quảng Bình.
Hiện tại trên diện tích của lưu vực, với bàn tay của con người đã tạo ra được
56 hồ chứa nước lớn nhỏ với tổng dung tích 153,023 triệu m3.
Hàng năm hệ thống sông Gianh đã tạo ra nguồn nước đổ ra biển Đông, tháng
thấp nhất (tháng 4) 331 triệu m3, tháng cao nhất (tháng 9) 6.685 triệu m3.
30
Sự chênh lệch về nguồn nước giữa các tháng trong năm rất lớn, các tháng 9,
10 và 11 là những tháng thường gây nên lũ lụt; các tháng 3, 4 thường là mùa nước
kiệt gây ra nhiều bất lợi cho con người.
Hệ thống sông Gianh là hệ thống sông chính của tỉnh Quảng Bình có tầm ảnh
hưởng lớn đối với cuộc sống của người dân các huyện: Tuyên Hoá, Minh Hóa,
Quảng Trạch và Bố Trạch. Đồng thời nó cũng đã tạo ra những danh lam thiên nhiên
đẹp, tiêu biểu là động Phong Nha, một di sản thiên nhiên của thế giới nên cần được
bảo vệ để không gây ô nhiễm nguồn nước và làm thay đổi lòng sông.
e, Tài nguyên đất
Đất đai ở lưu vực tương đối phong phú và đa dạng, đất đồi núi chiếm 85%, đất
đồng bằng chiếm 14,6%, đất cát nội địa chiếm 1,6% diện tích tự nhiên. Gồm 9
nhóm đất với 20 đơn vị đất.
g, Tài nguyên rừng
Lưu vực sông có trên 503.227 ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng tự nhiên
450,656 ha, đất có rừng trồng 52.543 ha và đất ươm cây giống 28 ha.
Thảm thực vật rừng đa dạng và phong phú, trong đó có nhiều loại gỗ quý như
lim xanh, sến, táu, đinh, gụ, pơ mu... Động vật có nhiều loại thú quý hiếm như hổ,
báo, trĩ sao, gà lôi và các loại móng guốc khác.
Đặc biệt khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi có hệ động thực
vật rất phong phú và đa dạng, là nơi giao thoa của hai luồng động thực vật từ Bắc
xuống và Nam lên. Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là di sản
thiên nhiên thế giới và có nhiều loại động, thực vật quý hiếm trong Sách Đỏ Việt
Nam.
Ngoài ra, HST rừng ngập mặn ven biển mặc dù đã bị khai thác để nuôi tôm
song những vùng còn lại vẫn còn những loại động thực vật thuỷ sinh có giá trị kinh
tế.
h, Tài nguyên biển
Về nguồn lợi biển, lưu vực nói riêng và tỉnh Quảng Bình có hầu hết các loài
hải sản có mặt ở Việt Nam (1.000 loài). Có những loài hải sản có giá trị kinh tế
31
cao như: Tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang... Trong đó, mực ống, mực nang
có trữ lượng khá lớn và chất lượng cao. Theo số liệu điều tra năm 1996 của Bộ
Thuỷ sản, trữ lượng nguồn lợi hải sản ở vùng biển Quảng Bình trên 90.000
tấn/năm, khả năng khai thác ước tính 40.000 tấn/năm.
Ngoài ra, vùng nội địa có nhiều sông suối, ao hồ, đồng trũng, bãi bồi ven
sông có nhiều loại thuỷ sinh sinh sống. Hàng năm, nhân dân địa phương khai
thác hàng nghìn tấn thuỷ sản nước lợ và trên 1 nghìn tấn thuỷ sản nước ngọt.
Tuy nhiên, tài nguyên biển tại đây vẫn chưa được khai thác hiệu quả do ngư
cụ thô sơ, chưa có nhiều tàu lớn để đánh bắt xa bờ. Mặt khác, nguồn vốn của
nhân dân khó khăn nên khả năng đầu tư sản xuất nuôi trồng thuỷ sản bị hạn chế.
h, Tài nguyên khoáng sản
Lưu vực sông Gianh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú nhưng
chưa được điều tra và khai thác nhiều.
Theo các số liệu điều tra khoáng sản Quảng Bình nằm rải rác các huyện
trong tỉnh từ vùng ven biển đến trung du miền núi:
- Nhóm kim loại: Có quặng Măngan ở Cái Đăng (Tuyên Hoá); Titan và
Ziricon ở trong dãi cát ven biển.
- Nhóm nguyên liệu hoá chất và phân bón: Có pyrit (Quảng Trạch);
photphorit (Bố Trạch, Tuyên Hoá, Minh Hoá và dọc sông Rào Nậy) với 23 điểm
khác nhau, trong đó 7 điểm có trữ lượng khá khoảng 123.000 tấn; cùng với than
bùn và đôlômit đang được khai thác làm nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp
N.P.K.
- Nhóm nguyên vật liệu xây dựng: Có đá vôi, đá sét xi măng, sét gạch ngói
và đá granit. Đá vôi các loại có trữ lượng khoảng 5.400 triệu tấn phấn bố ở
Tuyên Hoá, Quảng Trạch, Bố Trạch. Sét gạch ngói có trữ lượng hơn 7 triệu tấn
phân bố Đồng Lê (Tuyên Hoá).
- Nhóm nguyên vật liệu sản xuất thuỷ tinh: Có cát trắng, thạch anh ở phía
Bắc Ba Đồn (Quảng Trạch) trữ lượng khoảng 35 triệu tấn. Cát có độ tinh khiết
32
cao, hạt mịn, hàm lượng SiO2 đạt 98 - 99%. Các mỏ này lại nằm gần đường giao
thông nên dễ khai thác và vận chuyển.
- Nước khoáng và nước nóng: Trên phạm vi tỉnh Quảng Bình đã phát hiện
được 5 nguồn nước khoáng - nước nóng, trong đó có 4 nguồn đã được thống kê
trong "Danh bạ các nguồn nước khoáng - nước nóng Việt Nam":
+ Nguồn Thanh Lâm (Nô Bồ) thuộc thôn Nô Bồ, xã Ngư Hoá, huyện Tuyên
Hoá.
+ Nguồn Đông Nghèn thuộc thôn Đông Nghèn, xã Phúc Trạch, huyện Bố
Trạch.
+ Nguồn nước nóng khe nước Sốt, xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch.
i, Tài nguyên nhân văn và du lịch
Với nhiều lễ hội truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc như Hội rằm
tháng 3 ở Minh Hoá, lễ hội này có ý nghĩa lớn về mặt lịch sử, văn hoá, có tác
dụng giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương, động viên lao động sản
xuất.
Toàn lưu vực có hàng trăm di tích lịch sử đã được kiểm kê và đánh giá là di
tích lịch sử văn hoá được Nhà nước xếp hạng, đặc biệt có VQG Phong Nha - Kẻ
Bàng.
1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
a, Dân số, dân tộc và lao động
Theo số liệu thống kê năm 2009, dân số trung bình toàn lưu vực là 445.769
người trong đó dân số đô thị là 35.821 người (8,036%) với 10.533 hộ, dân số
nông thôn là 409.948 người với 89.539 hộ.
Tỷ lệ tăng dân số hàng năm có xu hướng giảm, năm 1995 là 2,42%; năm
2000 giảm xuống còn 1,47%; đến năm 2009 còn 1,21%.
Sự phân bố dân cư trên lãnh thổ không đều, phần lớn tập trung ở vùng đồng
bằng và ven biển. Mật độ dân số toàn lưu vực là 95,25 người/km2 cao nhất là thị
trấn Ba Đồn - 4.020 (huyện Quảng Trạch), thấp nhất là xã Thường Trạch - 3.1
(huyện Bố Trạch).
33
Tỷ lệ hộ đói ngèo giảm nhanh từ 24,5% năm 2000 xuống còn 12,12% năm
2009. Tuy nhiên mức thu nhập có sự chênh lệch giữa các vùng đô thị, đồng bằng
ven biển so với các vùng núi.
b, Giao thông
Hệ thống giao thông đường bộ của toàn lưu vực bao gồm quốc lộ 1A
(23km), đường Hồ Chí Minh nhánh Đông (144 km), nhánh Tây (122 km), 290,5
km đường tỉnh lộ 2,2 B, tỉnh lộ 3, tỉnh lộ 20; 494,86 km đường huyện; 297,8 km
đường xã và gần 625 km đường thôn bản.
Trong những năm qua giao thông tại lưu vực có những bước chuyển biến
khá tích cực. Việc thành lập tuyến đường Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn trong
việc phát triển kinh tế vùng và quốc phòng an ninh.
Mạng lưới giao thông đường bộ phân bố tương đối hợp lý trên địa bàn, đến
nay đã có 100% xã, thị trấn có đường ôtô đến UBND. Tuy nhiên các tuyến
đường cấp huyện, xã phần lớn là đường cấp phối chất lượng thấp gây khó khăn đi
lại đặc biệt là mùa mưa.
c, Cung cấp điện nước sinh hoạt
Trong những năm qua công tác thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp và
phòng chống lụt bão đã được chú trọng đầu tư. Hệ thống tưới tiêu nhiều đập
dâng và hồ chứa nước thuộc các công trình thủy nông và các xã quản lý đảm bảo
tưới tiêu cho trên 12.000 ha vụ đông xuân và trên 10.000 ha vụ hè thu của toàn
lưu vực. Các hạng mục công trình tiếp tục được đầu tư, củng cố và nâng cấp bao
gồm: xây dựng củng cố hệ thống trạm bơm, nạo vét và kiên cố hóa kênh mương,
cứng hóa đường ven biển, nâng cấp các kênh, mương.
Tuy nhiên cho đến nay hệ thống thủy lợi chỉ đảm bảo được 60% công suất
thiết kế. Thực tế hệ thống tưới mới đáp ứng được 64% diện tích vụ đông xuân và
50% vụ hè thu của toàn lưu vực. Hệ thống kênh tưới tiêu đang bị xuống cấp do
sạt lở, bồi tụ, đòi hỏi phải được đầu tư lớn để nạo vét tu bổ mới đảm bảo tưới
tiêu tốt, phát huy công suất thiết kế của công trình.
Mạng cung cấp điện sinh hoạt cho vùng chưa được xây dựng hoàn chỉnh.
Nguồn điện lưới chỉ mới đến được các cơ quan chính quyền và trạm xá xã, chưa
có các mạng nhánh cấp đến bản và hộ dân. Hiện nay, tại các bản, một số hộ đang
sử dụng thủy điện nhỏ phục vụ sinh hoạt.
Trong khu vực chưa có hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung, người dân
chủ yếu sử dụng nước tự nhiên, dẫn về từ các khe suối, chưa qua xử lý và nguồn
34
cấp không ổn định, dồi dào trong mùa mưa, thiếu trong mùa khô. Tại xã có hệ
thống mương thủy lợi, có thể cung cấp nước tưới cho một số diện tích lúa nước
rất nhỏ, nhưng hệ thống này chưa đảm bảo tưới nuớc quanh năm vì nó phụ thuộc
hoàn toàn vào nguồn nước tự nhiên từ các khe suối.
d, Các hoạt động kinh tế chủ yếu
Tại LVS, nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu bao gồm trồng trọt,
chăn nuôi gia súc, gia cầm (trâu, bò, dê và gà vịt, cá..) trong đó, chăn nuôi là
hoạt động chính mang lại thu nhập cho người dân. Các hoạt động kinh tế khác
chiếm tỷ trọng không đáng kể. Cây nông nghiệp quan trọng là ngô, lúa nương và
sắn. Các sản phẩm ngô, lúa phục vụ nhu cầu tại chỗ của các hộ gia đình là chính,
chỉ có trâu, bò, dê ngoài mục đích phục vụ nhu cầu địa phương còn được bán ra
các vùng lân cận.
Thu nhập từ lương thực có hạt ở mức bình quân 325 kg/người/năm. Thu
nhập bằng tiền bình quân là 2.200.000đ/người/năm.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng 3%, thấp nhất trong cơ
cấu kinh tế hộ gia đình. Một mặt là do phần lớn đất lâm nghiệp trong vùng được
quy hoạch cho mục đích phòng hộ, nên chúng chỉ có giá trị phòng hộ đầu nguồn,
giảm xói mòn, điều tiết nguồn nước, nhưng những giá trị đó lại chưa được đánh
giá đầy đủ. Mặt khác, nhiều khu vực đã được quy hoạch để sản xuất lâm nghiệp,
nhưng người dân địa phương lại chỉ canh tác nông nghiệp trên đất đó. Đây chính là
nguyên nhân chính làm tỷ trọng giữa sản xuất nông và lâm nghiệp có sự khác biệt
rõ rệt. Hiện nay, thu nhập từ sản xuất lâm nghiệp chỉ là khoản kinh phí khoán bảo
vệ rừng tự nhiên theo khuôn khổ chương trình 661.
Các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ hầu như không
phát triển. Các hoạt động này chỉ phục vụ nhu cầu trong thôn bản là chính ví dụ sửa
chữa công cụ lao động nông nghiệp, sửa chữa xe máy, bán hàng tạp hóa. Mức độ
giao thương với các thị trường bên ngoài là rất thấp.
35
Chương 2. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÀ
XÂY DỰNG BẢN ĐỒ PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG MÔI TRƯỜNG
LƯU VỰC SÔNG GIANH
2.1. Đặc điểm các yếu tố môi trường lưu vực sông Gianh
Đối với lưu vực sông, đất, nước, rừng… là một trong các yếu tố tự nhiên
của môi trường ở xung quanh sinh vật, có tác động trực tiếp, gián tiếp hoặc tác
động qua lại tới sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của sinh vật và ĐDSH. Dưới
tác động của các quy luật địa lý tự nhiên (Quy luật thống nhất và hoàn chỉnh,
Quy luật tuần hoàn vật chất và năng lượng, Quy luật về tính nhịp điệu và Quy
luật địa đới và phi địa đới), giữa các yếu tố tự nhiên của một đơn vị cảnh quan
nhất định luôn có mối quan hệ tương hỗ với vai trò chủ đạo. Ví dụ, yếu tố địa
hình là nhân tố nội lực của cảnh quan và chi phối mạnh mẽ các thành phần khác
của cảnh quan tự nhiên như thay đổi khí hậu khu vực (đặc điểm địa hình, cấu tạo
bền mặt của đất làm thay đổi hướng gió, nhiệt độ độ ẩm tạo thành các vi khí hậu
riêng cho mỗi khu vực), điều tiết dòng chảy của sông ngòi. Bề mặt địa hình cũng
là cơ sở phát sinh, phát triển của thổ nhưỡng và lớp phủ thực vật. Đồng thời,
trong tác động qua lại giữa các thành phần của tổng thể tự nhiên, địa hình cũng
chịu ảnh hưởng của các thành phần khác của tự nhiên (quá trình ngoại sinh) như:
phong hoá, xói lở, trôi trượt bồi tụ do khí hậu, thuỷ văn, sinh vật...
Vì vậy, nội dung phân vùng chức năng môi trường LVS muốn đạt hiệu quả
cao thì cần phải tìm hiểu, phân tích và đánh giá đặc điểm các yếu tố môi trường
trên cũng như các mối quan hệ giữa chúng.
2.1.1. Môi trường đất
Lưu vực sông Gianh thuộc vùng đất duyên hải Bắc Trung Bộ, với tổng
diện tích đất tự nhiên là 4.680 km2. Khác hẳn với các tài nguyên khác, đất đai
là nguồn tài nguyên quý giá, không thể tái tạo được và có giới hạn về không
gian, là nơi để con người sinh sống và phát triển, là một trong bốn thành phần
cơ bản của môi trường.
36
LVS có 9 nhóm đất khác nhau với 20 đơn vị đất, thể hiện như sau:
Nhóm đất cát:
Nhóm đất cát có diện tích 7.449 ha, gồm 3 đơn vị đất:
- Cồn cát trắng vàng: Phân bố dọc theo bờ biển, thành phần cơ giới rất thô,
nghèo dinh dưỡng, chủ yếu trồng rừng phòng hộ.
- Đất cát biển trung tính ít chua: Phân bố ở địa hình thấp hơn và vào sâu
trong đất liền. Thành phần cơ giới của đất nhẹ, thường là cát pha. Loại đất này
đã được cải tạo trồng lúa ở những nơi thấp chủ động nước và trồng màu ở những
nơi cao.
- Đất cát biển chua có tầng hữu cơ: Phân bố một số xã ở huyện Quảng
Trạch. Đặc điểm của loại đất này là có tầng than bùn và hàm lượng hữu cơ rất
cao, được sử dụng làm phân hữu cơ vi sinh.
Nhóm đất mặn:
Có diện tích 1.085 ha, gồm 2 đơn vị đất:
- Đất mặn nhiều: Phân bố ở cửa Gianh, đất thường bị ngập bởi thuỷ triều,
hàm lượng Clo trong đất cao. Hiện nay, một phần đang được nuôi trồng thuỷ sản
hoặc làm muối.
- Đất mặn trung bình và ít: Phân bố theo các cửa sông nhưng ở vị trí xa
biển, phần lớn đã thoát khỏi ảnh hưởng của thuỷ triều. Đất có thành phần cơ giới
trung bình hoặc nhẹ, càng gần cửa sông càng nặng hơn. Hiện nay, đang trồng lúa
nhưng cần chủ động nước nếu không năng suất bị hạn chế.
Nhóm đất phù sa:
Có diện tích 6.958 ha, phân bố tập trung ở vùng đồng bằng ven biển và ven
các sông suối khác trong LVS, gồm 3 đơn vị đất:
- Đất phù sa trung tính ít chua: Phân bố ở Quảng Trạch, Bố Trạch. Thành
phần cơ giới của đất khá tơi xốp, không chặt, rất thích hợp để phát triển cây
lương thực.
37
- Đất phù sa chua: Có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt trung bình. Hầu
hết diện tích đã được sử dụng trong nông nghiệp, nơi cao trồng cây cạn ngắn
ngày, nơi thấp trồng hai vụ lúa cho năng suất trung bình khá.
- Đất phù sa Gley: Phân bố ở địa hình thấp khá bằng phẳng, có thành phần
cơ giới nặng. Vì vậy được sử dụng trồng hai vụ lúa cho năng suất khá.
Nhóm đất Gley:
Có diện tích 864 ha, phân bố ở xã Phúc Trạch. Đất có thành phần cơ giới
trung bình nặng, có độ phì khá nhưng do địa hình thấp trũng khó thoát nước nên
đất chặt bí, chua nhiều, đất này chỉ nên trồng lúa. Nhóm này chỉ có 1 đơn vị đất.
Nhóm đất mới biến đổi:
Có diện tích 3.108 ha, phân bố một số xã ở Minh Hoá, Quảng Trạch. Đất có
thành phần cơ giới trung bình nặng, thích hợp với lúa và các loại cây ngắn ngày.
Nhóm này chỉ có 1 đơn vị đất.
Nhóm đất có tầng loang lổ:
Có diện tích 597 ha, phân bố ở xã Hoá Phúc, Hoá Thanh. Đây là loại đất mà
trong phạm vi từ mặt đất xuống có tầng tích tụ sắt loang lổ, đất chua, hoạt tính
thấp, hình thành chủ yếu do hoạt động của con người khai hoang sản xuất nông
nghiệp, làm cho hình thái tự nhiên ban đầu của đất biến đổi đến mức có tầng
loang lổ, đỏ vàng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, dễ làm, ở bậc thềm cao dễ
thoát nước. Nhóm này chỉ có 1 đơn vị đất.
Nhóm đất xám:
Có diện tích 257.891 ha, phân bố khắp các nơi trong LVS. Nhóm đất này có
7 đơn vị đất:
- Đất xám lẫn đá: Phát triển chủ yếu trên đá granit ở địa hình dốc, thảm
thực vật che phủ thấp, trong phẫu diện đất có lẫn nhiều đá.
- Đất xám cơ giới nhẹ: Được hình thành trên đá cát, đá phiến sa. Một số
diện tích đất này được trồng sắn, trồng thông, còn lại là cây bụi, sim, mua. Đây
là đất nghèo dinh dưỡng, dễ bị khô hạn.
38
- Đất xám bạc màu: Là loại đất có chất dinh dưỡng thấp nhưng lại thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp vì phần lớn diện tích có địa hình bằng phẳng, thoáng
khí, thoát nước, dễ canh tác và thích hợp với nhiều cây trồng cạn ngắn ngày.
- Đất xám Feralit: Có phạm vi phân bố rộng, đặc điểm của đất rất đa dạng
phụ thuộc vào vị trí địa lý và mẫu chất hình thành đất. Trên đất này đang chú
trọng phát triển cao su, mía, dứa và cây ăn quả.
- Đất xám kết von: Đa số có tầng mỏng, có nhiều kết von, nghèo dinh
dưỡng, thực vật tự nhiên chủ yếu là sim, mua, cây lùm bụi. Vì vậy, cần trồng
những cây phát triển nhanh để che phủ đất và cải tạo đất như tràm hoa vàng, keo
tai tượng.
- Đất xám loang lổ: Có thành phần cơ giới nhẹ, nơi nào chủ động được
nước tưới tiêu nên trồng lúa, nơi nào không chủ động được nước thì trồng các
loại cây cạn ngắn ngày.
- Đất xám mùn trên núi: Phân bố ở vùng núi cao từ 900m trở lên, giáp với
biên giới Việt - Lào. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình thích hợp với các
loại cây dược liệu và cây rừng.
Nhóm đất đỏ:
Có diện tích 1.716 ha. Đặc điểm cơ bản của đất đỏ là có quá trình tích luỹ
sắt, nhôm tương đối nên đất có màu nâu đỏ hoặc nâu vàng điển hình. Cấu trúc
của đất phát triển và có hạt kết bền vững. Đất thích hợp trồng các loại cây dài
ngày có gá trị kinh tế như: cao su, cà phê, cây ăn quả. Nhóm này chỉ có 1 đơn vị
đất.
Nhóm đất tầng mỏng:
Có diện tích 18.274 ha, phân bố tập trung ở vùng gò đồi. Loại đất này có
tầng đất mỏng lẫn nhiều đá và kết von do xói mòn rửa trôi mạnh, nghèo chất
dinh dưỡng. Đây là một trong những loại đất xấu nhất, ít thích hợp với sản xuất
nông nghiệp, chỉ nên dành để phát triển lâm nghiệp, trồng những cây phát triển
nhanh, che phủ đất, cải tạo môi sinh. Nhóm này chỉ có 1 đơn vị đất.
39
2.1.2. Môi trường nước
Bảng 2.1: Số liệu của các hệ sông và sông ở Quảng Bình
T
T Hệ sông và sông
Chiều dài
(km) Diện
tích lưu
vực
(km2)
Độ cao
b/q
lưu
vực
(m)
Phụ
lưu
cấp 1
Mật độ
sông suối
b/q
(km/km2)
Sông Lưu
vực
1 Hệ thống sông Gianh 158 121 4680 360 13 1,04
2 Hệ thống sông Kiến
Giang 96 59 2650 234 8 0,84
3 Sông Roòn 30 21 261 138 3 0,88
4 Sông Lý Hoà 22 16 177 130 3 0,7
5 Sông Dinh 37 25 212 203 0 0,93
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Bình, 2009
Lưu lượng dòng chảy của hệ thống sông Gianh thuộc loại lớn so với các
sông ở nước ta, mô đun dòng chảy bình quân năm là 57 dm3/s/km2 tương đương 4
tỷ m3/năm. Tổng lượng dòng chảy vào mùa lũ (tháng IX - XI) chiếm 60 - 80%
lượng dòng chảy cả năm. Mùa kiệt kéo dài 8 tháng nhưng có thể tăng đột biến vào
cuối tháng V đầu tháng VI do mưa lớn trong tiết tiểu mãn. Tuy nhiên, sông ngắn
và dốc nên khả năng điều tiết nước kém, thường gây lũ kịch phát trong mùa mưa.
Hồ
Hệ thống hồ chứa nước ở LVS bao gồm các hồ tự nhiên và hồ nhân tạo, địa
hình đồi núi ở Quảng Bình cho phép xây dựng nhiều hồ chứa nước phục vụ sản
xuất nông nghiệp và dân sinh.
40
Bảng 2.2: Các hồ chứa có dung tích trên 1 triệu m3 và các công trình lớn
TT Tên hồ chứa,
công trình Địa điểm
Đặc trưng Nhiệm vụ tưới (ha)
F km2
W. 106
m3
Thiết kế Thực tế
1 Tiên Lang Quảng Trạch 36,7 16,6 1.240 600 - 800
2 Trung Thuần Quảng Trạch 9 40 200 120
3 Minh Cầm Tuyên Hoá 12 7 500 250
4 Đồng Ran Bố Trạch 7 5,3 250 150
5 Mù U Bố Trạch 4 2,7 180 120
6 Vực Sanh Bố Trạch 7 3,2 250 150
7 Vực Nồi Bố Trạch 13,6 11,2 600 340
8 Phú Vinh Đồng Hới 38 22 1.500 500
9 Khe Ngang Bố Trạch 4,6 1,7 100 68
10 Đầu Ngọn Bố Trạch 9,5 1,2 130 80
11 Đập Đá Mài Bố Trạch 141 1.600/600 500/400
12 Đập Ba Nương Minh Hoá 39 300 80
13 Trạm bơm Rào
Nan Quảng Trạch 780 1.600 1.000/1.200
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Bình, 2009
Ngoài ra, còn có các hồ đập nhỏ do địa phương quản lý phục vụ sinh hoạt,
tưới tiêu trên địa bàn nhỏ. Tuy nhiên, các hồ này thường bị cạn vào mùa khô nên
hiệu quả sử dụng không cao.
Chất lượng nước mặt:
Chất lượng nước mặt trên địa bàn LVS trong những năm gần đây chưa có dấu
hiệu ô nhiễm đáng kể, tuy nhiên một số lúc, một số nơi đã có những dấu hiệu gia
tăng một số tác nhân ô nhiễm như dầu mỡ, hoá chất nông nghiệp nước thải sản xuất
(đặc biệt là nước mặt trên các đoạn sông đi qua khu dân cư, tập trung, khu vực đô
thị và khu vực có mật độ sản xuất công nghiệp lớn).
41
Khả năng biến đổi chất lượng nước mặt chủ yếu là nước sông, các nguyên
nhân chính là do canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và chất thải sinh hoạt;
chất thải công nghiệp... Các dấu hiệu ô nhiễm nhẹ được biểu hiện vào mùa hè khi
lượng nước đầu nguồn bổ cập bị giảm và đây cũng là giai đoạn chịu ảnh hưởng
mạnh của sản xuất công nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản quảng canh tại khu
vực đất ngập nước vùng hạ lưu ven sông.
Các hồ ở LVS ít có khả năng ô nhiểm do tác động của con người mà chủ yếu
do tác động của thiên nhiên, chất lượng nước suy giảm do cạn kiệt hoặc khai thác
nước quá mức, do rửa trôi đất, do thẩm thấu mặn.
2.1.3. Rừng và đa dạng sinh học
a, Diễn biến diện tích rừng:
Nhận thức được giá trị to lớn của rừng đối với việc phát triển KTXH của
tỉnh với môi trường sống như góp phần điều hoà khí hậu, giữ nước, hạn chế lũ
lụt, chống xói mòn đất, do vậy chính quyền và nhân dân trong LVS đã có
nhiều cố gắng bảo vệ và phát triển rừng. Sự nỗ lực của cộng đồng cũng như
những chủ trương, biện pháp của chính quyền đã mang lại nhiều thành quả
đáng khích lệ: rừng đầu nguồn được bảo vệ, rừng trồng không ngừng tăng cả
về diện tích và độ che phủ. Diễn biến diện tích rừng qua các năm gầy đây
được thống kê như sau:
Bảng 2.3: Diện tích rừng và đất lâm nghiệp lưu vực sông Gianh
ĐVT: ha
Loại rừng Năm 1999 Năm 2004
Tổng Đặc dụng Phòng hộ Sản xuất
I. Đất có rừng 488.495,1 510.012,5 91.773,6 201.222,1 217.016,8
A. Rừng tự nhiên 449.360,5 448.843,3 91.714,8 182,925,8 174.202,8
1. Rừng gỗ 303.663,7 303.182,3 12.520,6 124.535,7 166.126,0
- Cấp trữ lượng I 2.005,9 2.012,9 2.005,9 7,0
- Cấp trữ lượng II 203,0 203,0 203,0
- Cấp trữ lượng III 70.260,3 69.326,9 11.895,3 37.363,9 20.067,7
42
- Cấp trữ lượng IV 99.700,4 99.506,0 493,9 51.003,9 48.008,2
- Cấp trữ lượng V 73.537,5 74.482,5 18.528,8 55.953,7
- Non có trữ lượng 37.050,0 36.957,2 42,0 9.051,8 27.863,4
- Non chưa tr.lượng 20.906,6 20.693,8 89,4 6.581,4 14.023,0
2. Rừng ngập mặn 47,5 47,5 4,1 43,4
- Đước 47,5 47,5 4,1 43,4
3. Rừng trên núi đá 145.649,3 145.613,6 79.194,2 58.386,0 8.033,4
B. Rừng trồng 39.134,6 61.169,2 58,8 18.296,3 42.814,1
1. Có trữ lượng 17.191,5 17.018,7 5.272,7 11.746,0
2. Chưa có tr.lượng 21.943,1 44.150,5 58,8 13.023,7 31.068,0
II. Đất không rừng
QH cho LN
180.304,8 158.623,8 244,9 75.752,9 82.626,0
1. Cỏ, lau lách 22.589,8 19.094,2 32,4 13.750,5 5.311,3
2. Cây bụi 62.195,8 46.491,7 43,3 7.928,1 38.520,3
3. Gỗ tái sinh nhiều 60.832,8 58.351,9 169,2 20.172,9 38.009,8
4. Núi đá không có
rừng
34.686,4 34.686,1 33.901,4 784,7
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình
Bảng 2.4: Diện tích rừng trồng mới, khai thác, chuyển đổi năm 2004
ĐVT: ha
Tên huyện Tổng cộng Trồng mới Khai thác Chuyển đổi
Minh Hoá 722,4 434,1 148,9 139,4
Tuyên Hoá 1.418,2 1.032,0 386,2
Quảng Trạch 5.850,9 5.747,9 103,0
Bố Trạch 54.707,1 3.969,7 666,2 50.071,2
Toàn tỉnh 75.607,1 22.321,4 1.155,9 52.129,8
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình
Ghi chú: + Chuyển đổi từ rừng phòng hộ sang rừng đặc dụng 50.071,2ha
+ Chuyển đổi từ đất quy hoạch cho lâm nghiệp 2.058,6ha
43
Bảng 2.5: Diện tích có rừng, rừng tự nhiên, rừng trồng năm 2004
ĐVT: ha
Tên huyện DT có rừng Rừng TN Rừng trồng Độ che phủ
rừng (%)
Minh Hoá 103.408,4 102.825,5 582,9 73,0
Tuyên Hoá 80.535,8 78.833,9 1.701,9 69,2
Quảng Trạch 24.679,8 12.386,5 12.293,3 30,9
Bố Trạch 156.500,1 144.051,4 12.448,7 71,8
Toàn tỉnh 510.012,5 448.843,3 61.169,1 64,22
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình
b, Diễn biến đa dạng sinh học
Đa dạng giống loài, những loài mới được phát hiện trong những năm gần
đây:
Bảo vệ ĐDSH được đặt ra với quan điểm bền vững. Nghĩa là bảo vệ được
những loài thực vật, động vật đã biết và đang tồn tại trong từng khu vực, khôi
phục số lượng của một số loài đã bị giảm trong thời gian qua trong các HST của
tỉnh là góp phần trong việc giữ gìn, bảo vệ sự ổn định và PTBV.
Căn cứ trên một loạt nhân tố và đặc tính cũng như giá trị của nó, Phong
Nha - Kẻ Bàng có đủ điều kiện để đại diện cho tất cả các hệ sinh thái Quảng
Bình và núi đá của Việt Nam. Với quy mô và diện tích rừng nguyên sinh khá lớn
(chiếm gần 90%), nhiều loài thú lớn được biết là các đối tượng bảo vệ cấp thiết
như: Hổ, Bò tót, Gấu và nhiều loại mới mang tính toàn cầu như Sao La, Mang
Lớn, Mang Trường Sơn...
Sự ĐDSH của khu Phong Nha - Kẻ Bàng được quyết định bởi sự đa dạng
về sinh cảnh: Rừng nguyên sinh núi đá vôi, núi đất, sinh cảnh trong các thung
lũng, sinh cảnh hang động mà các nơi khác không thể nào có được. Sự đa dạng
đó thể hiện ở khu hệ thực vật và động vật.
44
Khu hệ thực vật:
Hệ quả của các đặc điểm địa hình, khí hậu, đất, thuỷ văn đã hình thành nên
một khu hệ thực vật phong phú và độc đáo.
Bước đầu đã điều tra và thống kê được 138 họ, 401 chi và 640 loài thực vật
bậc cao có mạch (trong đó có 8 loài quý hiếm được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam).
Một số họ tuy loài ít nhưng đã đóng vai trò quan trọng hoặc về tổ thành vùng,
hoặc về trữ lượng gỗ, hoặc về sinh khối, hoặc về giá trị kinh tế như: họ Dầu, họ
Thị, họ Cau Dừa, họ Bồ Hòn. Một số họ thân thảo hàng năm, lâu năm như: Thu
Hải Đường, họ Gai, chúng phân huỷ đá tạo các kẻ nứt, khi chết thân của chúng
tạo thành mùn tích luỹ qua hàng triệu năm đã tạo nên môi trường thích hợp cho
thảm thực vật phong phú như hiện nay.
Trong số 18 loài quý hiếm được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam có 13 loài cây
thân gỗ, trong số 13 loài đó có 7 loài cây gỗ có giá trị như Pơ mu, Lát hoa,
Nghiến, Sơn tần, Hoàng đàn giả, Gụ và Chò nước. Có một loài cây gỗ cho lá
làm rau quý là Sắng, có một loài cây gỗ không quý chỉ làm nguyên liệu giấy là
Trầm hoặc Gió trầm nhưng cây này khi bị bệnh lại cho loài đặc sản quý là Trầm
hương, Trầm kỳ. Loài Song mật một cây cho nguyên liệu quý để làm hàng xuất
khẩu có nguy cơ bị khai thác lạm dụng nhưng cũng có thể gây trồng được.
Bảng 2.6: Các nhóm loài thực vật
Nhóm thực vật Họ Chi Loài
- Quyết thực vật
- Thực vật hạt trần
- Thực vật hạt kín
Chia ra:
+ Thực vật một lá mầm
+ Thực vật hai lá mầm
16
3
119
95
21
16
4
381
221
63
22
5
613
516
97
Cộng 138 401 640
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường khu BTTN Phong Nha, 2008
45
Ngoài các loài đã đưa vào Sách Đỏ Việt Nam, trong tương lai sẽ có thêm
nhiều loài quý hiếm, sau khi điều tra, khảo sát, cân nhắc sẽ phải đề nghị bổ sung
thêm. Trước mắt Phong Nha - Kẻ Bàng sẽ đề nghị bổ sung các loài: Mun sọc,
Sao mặt quỹ, Huỷnh, Dầu ke và Chò vảy.
Khu hệ động vật:
* Khu hệ thú:
Các loài thú phân bố không đồng đều trong toàn khu vực. Trên các dãy núi
đá chủ yếu phân bố các loài trong bộ Linh trưởng, Sơn dương và các loài cầy
trong bộ thú ăn thịt. Còn ở các khu vực núi đất như U Bò, Rào Thương, Cổ Khu
các loài thú trong bộ thú móng guốc ngón chẳn và bộ thú ăn thịt chiếm ưu thế
như Nai, Hổ, Gấu và các loài Cầy. Khu Hang Én là nơi tập trung các loài Khỉ
hầu.
Kết quả điều tra đã thống kê được 67 loài thú trong 15 họ và 11 bộ, trong
đó có 26 loài được mô tả trong Sách Đỏ Việt Nam. Đặc biệt là phát hiện mẫu vật
và dấu vết của hai loài thú mới mang ý nghĩa toàn cầu là Sao La và Mang Lớn.
Đã phát hiện thấy dấu vết của loài Sao La tại xã Hoá Sơn. Khảo sát trong năm
1996 đã phát hiện thấy 2 cặp sừng của Mang Lớn tại đội 1 - xã Sơn trạch và tại
một gia đình gần đường tàu. Xuất xứ của các cặp sừng này là từ thượng nguồn
sông Troóc và phía biên giới Việt - Lào. Cũng tại xã Tân Trạch lần đầu tiên phát
hiện hai bộ sừng loài thú mới và được công bố là loài Mang Trường Sơn (tháng
8/1997). Như vậy, tại đây ba loài thú mới đã được phát hiện. Số lượng các loài
thuộc họ trong bộ Linh trưởng là chiếm ưu thế hơn cả, khoảng 25% số loài trong
bộ Linh trường có ở nước ta
* Khu hệ bò sát, ếch nhái:
Trong 68 loài bò sát, ếch nhái phát hiện có khoảng 15% loài nằm trong
Sách Đỏ Việt Nam (48 loài bò sát, 20 loài ếch nhái).
* Khu hệ cá:
Phong Nha - Kẻ Bàng là vùng núi đá vôi rộng lớn, có nhiều sông suối, địa
hình hiểm trở lại bị chia cắt mạnh nên khu hệ cá cũng rất phong phú, có mặt
46
nhiều loài cá thuộc vùng cao (cá Chờng rờng, cá Mại Khe), vừa có mặt nhiều
loại cá đồng bằng (cá Rô, cá Quả), vừa có cả nguồn gốc biển (cá Hanh, cá
Gai). Điều đó phản ánh rõ lịch sử hình thành vùng đất Quảng Bình từ dãy
Hoành Sơn với sự bồi tụ của phù sa biển lấp dần các vùng biển và được ngọt
hoá dần.
Có thể nói, Phong Nhà - Kẻ Bàng là một khu hệ cá đặc biệt nhiều biến dị
mới về cá thể, chủng quần, sự hình thành nhiều loài địa lý. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến kết quả đó. Song nguyên nhân rõ nét và bao trùm hơn cả là
những đoạn sông ngầm của núi đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng đã là những
chướng ngại thiên nhiên làm cách ly sự giao lưu mỗi vùng, để lại một dấu ấn
khác nhau trong lịch sử tiến hoá.
* Khu hệ chim:
Khu hệ chim được xếp vào hạng phong phú và có sự đa dạng cao về sinh
học: 15 loài có trong Sách Đỏ Việt Nam, 6 loài được quy định tại Nghị định
18/NĐ-HĐBT trong đó có 16 loài thuộc nhóm Trĩ của họ Trĩ. Song số lượng
của chúng ngày càng bị giảm sút nhanh chóng và bắt đầu bị đe doạ nghiêm
trọng. Đặc biệt là loại Gà lôi lam mào đen, Gà lôi lam đuôi trắng, Công vừa ở
mức độ nguy cấp vừa bị đe doạ ở mức toàn cầu.
Tình hình Khu Di sản Thiên nhiên Thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng:
Tại kỳ họp thứ 27 của Uỷ ban Di sản thiên nhiên thế giới tại trụ sở của
UNESCO (Pari - Cộng hoà Pháp) từ 30/6 - 05/7/2003 với sự tham dự của hơn
160 quốc gia thành viên tham gia Công ước về Di sản Thế giới, VQG Phong
Nha - Kẻ Bàng đã được công nhận là Di sản thiên nhiên Thế giới. Ngày
15/02/2004, tỉnh Quảng bình đã tổ chức lễ đón nhận bằng di sản do UNESCO
công nhận. UBND tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định số 65/2003/QĐ-UB
ngày 28/11/2003 về việc "Tổ chức lại bộ máy Ban Quản lý VQG Phong Nha -
Kẻ Bàng" nhằm hoàn thiện cơ quan quản lý Di sản có hệ thống, khoa học và
hiệu quả.
47
2.2. Phân tích cấu trúc, chức năng và mối quan hệ giữa các yếu tố môi
trường lưu vực sông
2.2.1. Tương tác đất - nước - rừng
Trong tương tác đất - nước - rừng, nước là yếu tố cội nguồn, phát sinh và
đảm bảo sự sống, là cơ sở hình thành HST nhân văn, đồng thời cũng là động lực
của thiên tai. Trong khi TNN là tài nguyên luôn biến động thì các tài nguyên đất
và rừng lại tương đối tĩnh. Đất là môi trường quyết định điều kiện sinh tồn của
con người. Rừng là nguồn sinh thuỷ, đồng thời có tác dụng hạn chế lũ.
Trong những năm qua, đã có biến động lớn về sử dụng đất. Diện tích đất
trước đây chưa sử dụng và diện tích đồi núi trọc đã được khai thác ngày càng
tăng. Diện tích đất đang sử dụng đã biến đổi lớn, như việc đất lúa giảm, đất cây
ăn quả tăng, đất rừng tăng, đất nuôi trồng thuỷ sản tăng, đất chuyên dùng cho
giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp và đô thị tăng. Khi sự sử dụng đất biến đổi như
thế, sử dụng nước tất nhiên thay đổi, nhưng hiện nay chưa có tư liệu cập nhật tin
cậy. Thực tế thì hiện trạng sử dụng nước chỉ có khả năng được cập nhật tin cậy
theo hệ thống nước và tổng hợp ở cấp LVS.
Nhờ trồng rừng đã tăng được độ che phủ như nói trên, nhưng độ che phủ
rừng trên toàn lãnh thổ vẫn còn thấp, năm 2004 là 34,4%, độ che phủ rừng trên
phần đất dốc là 54%. Tác dụng của rừng đối với bảo vệ đất - nước và hạn chế lũ,
trước kia nói trên nguyên lý, nay đã được một số thực nghiệm chứng minh.
Sự xuất hiện các hồ chứa trên các LVS, một mặt nhấn chìm một số HST
thung lũng sông suối trên thượng lưu, một mặt tạo ra những HST hồ chứa.
Những nghiên cứu khác ở các vùng hồ chứa cho thấy hồ chứa có tác dụng gia
tăng độ ẩm, điều hoà tiểu khí hậu, khiến cho rừng tăng trưởng bền vững.
2.2.2. Tương tác đất - rừng - thuỷ sản
Việt Nam có 1,7 triệu ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Nhờ khí hậu nhiệt
đới, mưa nhiều mà phát triển hoạt động khai thác tài nguyên thuỷ sinh vật, là
một tài nguyên tái tạo nhưng không phải là vô tận và sẽ cạn kiệt nếu khai thác
48
không đi đôi với bảo vệ. Trong HST đa dạng, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản
gắn liền với khai thác đất - nước - rừng và BVMT sinh thái nói chung.
Trong kinh tế thị trường, thuỷ sản là nguồn thu đáng kể trên LVS. Địa bàn
chính về nghề thuỷ sản trên LVS là đồng bằng và ven biển. Đã có nhiều thực tế
về các hệ thống canh tác nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và nước lợ ở đồng bằng
Cửu Long và ven biển miền Trung. Các dạng nuôi tôm được thực nghiệm giữa
quảng canh, bán thâm canh và thâm canh, luân canh lúa - tôm, xen canh lúa - cá,
hoặc nuôi tôm trên cát v.v... Tất cả đều liên quan đến sử dụng và bảo vệ đất -
nước - rừng trên cùng địa bàn, đặc biệt liên quan đến phục hồi rừng ngập mặn và
an toàn đê biển.
Nghề nuôi cá lồng bè trên sông khai thác được mặt mạnh của môi trường
nước chảy trên sông lớn, nhưng cũng là nguồn ô nhiễm chất lượng nước sông.
Hoạt động thuỷ sản cũng phát triển trên các hồ chứa, tuy nhiên để thành
một nghề thì phải đầu tư và có công nghệ mới. Còn hoạt động khai thác và nuôi
trồng thuỷ sản mà người dân kết hợp với nghề nông và nghề rừng chỉ có quy mô
nhỏ với tính chất tự cấp tự túc hoặc thị trường địa phương. Ở thượng lưu LVS,
hoạt động đánh bắt cá suối ở một số thung lũng là nguồn sinh sống của người
dân tộc vốn dựa vào HST sông suối mà tồn tại. Các dự án thuỷ lợi thuỷ điện một
khi tác động vào đó, cần có trách nhiệm tạo ra cơ hội cho họ chuyển đổi nguồn
sinh kế.
2.2.3. Khai thác tài nguyên nước và những biến đổi trên lưu vực sông
Trong quá trình phát triển quốc gia, các hoạt động khai thác sử dụng TNN
được tiến hành ngày một mạnh mẽ. Bắt đầu từ khai thác dòng sông tự nhiên bằng
đập dâng và hồ chứa nhỏ có dung tích cỡ từ triệu đến chục triệu m3 đã tiến lên
khai thác các dòng sông bằng hồ chứa lớn có dung tích cỡ tỷ và chục tỷ m3.
Thành tựu kinh tế về khai thác sử dụng nước rất lớn:
- Trên diện tích đất nông nghiệp 20.400 ha (2005), trong đó diện tích canh
tác cây hàng năm 16.000 ha, công trình thuỷ lợi đã tưới trực tiếp 4.400 ha, tạo
49
nguồn nước tưới cho 1.100 ha, tiêu úng cho 1.400 ha, ngăn mặn 900 ha và cải
tạo chua phèn 1.600 ha.
- Công trình cấp nước sinh hoạt cho đô thị đã đạt 67% số dân tại thị trấn Ba
Đồn và thị trấn Đồng Lê.
- Công trình cấp nước sinh hoạt cho nông thôn đạt 58% số dân nông thôn.
- Công trình thuỷ điện cung cấp 50% công suất và 38% sản lượng lưới điện
(2004).
Về khai thác TNN, có 11 hồ chứa lớn tổng dung tích 19 tỷ m3, những công
trình này đã điều chỉnh dòng chảy, thay đổi chế độ thuỷ văn dòng sông cũng như
tạo ra những điều kiện KTXH môi trường mới ở những LVS tương ứng. Cùng
với công trình thuỷ lợi nhỏ và các kết cấu hạ tầng khác cùng quá trình di cư và
đô thị hoá, diện mạo LVS đang ngày một biến đổi sâu sắc.
2.2.4. Quản lý lưu vực sông là xu thế tất yếu
Khi dân số còn thấp và yêu cầu sử dụng nước còn ít, TNN là dồi dào và
dòng sông tự hồi phục được sau các tác động của con người. Khi đó các lợi ích
được cân bằng. Cho tới thập niên 1980-1990, nền KTXH nước ta phát triển còn
thấp. Nhiệm vụ về Nước thời kỳ đó tập trung vào thuỷ lợi tưới tiêu và phòng
chống lũ lụt, còn cấp nước đô thị và thuỷ điện còn sơ khai. Vì chưa có mâu
thuẫn, nên chưa có nhu cầu quản lý TNN cũng như quản lý LVS.
Từ thập niên 1990, nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng mạnh, yêu cầu sử dụng
nước trở nên đa dạng, tăng nhanh về số lượng và giảm nhanh về chất lượng
nước. Trên LVS xuất hiện cạnh tranh giữa sử dụng nước truyền thống là tưới lúa
với sử dụng nước mới như công nghiệp, đô thị, du lịch, thuỷ sản v.v.. khiến cho
hoặc phải phân phối lại bằng cách giảm nước tưới nông nghiệp hoặc phát triển
nguồn nước mới. Đặc biệt ô nhiễm nước tập trung do đô thị hoá và công nghiệp
hoá cũng như ô nhiễm nước phân tán từ nguồn nông nghiệp và nông thôn đều tác
động đến dân sinh xã hội vùng hạ lưu. Một số sông khó tự hồi phục và đứng
trước nguy cơ trở thành sông chết. Sự khai thác riêng rẽ từng ngành với quy mô
50
lớn và ồ ạt các dòng sông và LVS còn gây xói mòn, rửa trôi, sa bồi, thoái hoá,
biến đổi các HST bản địa, từ thung lũng xuống châu thổ và ven biển.
Đó là biểu hiện của TNN đang cạnh tranh và LVS đang suy thoái. Vì mục
tiêu PTBV, tất yếu cần thay đổi cách làm cục bộ tuỳ tiện lâu nay bằng quản lý
tổng hợp LVS với sự tham gia trực tiếp của người dân trên địa bàn.
2.2.5. Những vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ đa dạng giữa điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội trong lưu vực sông
Mặc dù những điều kiện tài nguyên quốc gia là tương đồng, mỗi LVS lại có
đặc điểm tự nhiên và kinh tế dân sinh riêng, đặt ra những nhiệm vụ khác nhau.
Lưu vực sông Gianh là trung du có các vấn đề: thuỷ điện; chuyển nước lưu
vực; khai thác và bảo vệ đất - nước - rừng lưu vực; lũ và lũ quét; bắt đầu tranh
chấp nước nông nghiệp và nước đô thị - công nghiệp
Sự đa dạng của từng LVS chứng tỏ mỗi LVS mang tính đặc thù, mỗi LVS
cần được quản lý một cách thích hợp.
2.3. Đánh giá hiện trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường lưu vực
sông Gianh
2.3.1. Hiện trạng nước lục địa
a, Nước mặt
Tài nguyên nước mặt
Sông suối ở Quảng Bình hầu hết bắt nguồn trên lãnh thổ của tỉnh rồi đổ trực
tiếp ra biển Đông. Do đặc điểm địa hình hẹp và dốc nên sông ở Quảng Bình
thường ngắn và dốc, mật độ sông suối khá cao (0,8 - 1,1km/km2). Lưu lượng
dòng chảy các sông tương đối lớn, mô đun dòng chảy bình quân nhiều năm 57
l/s.km2 tương đương 4 tỉ m
3/năm. Tổng lượng dòng chảy vào mùa lũ (tháng 9 đến
tháng 11) chiếm 60 - 80% tổng lưu lượng dòng chảy cả năm. Dòng chảy kiệt kéo
dài 8 tháng, nhưng trong thời kỳ này thường có mưa lũ tiểu mãn có thể tăng tổng
lượng dòng chảy.
51
Bảng 2.7. Thống kê lưu vực sông
TT Tên sông
Diện tích
lưu vực
(km2)
Chiều
dài
(km)
Độ cao
b/q lưu
vực (m)
Độ dài b/q
lưu vực
(km)
Mật độ
sông suối
b/q
(km/km2)
1 Sông Roòn 275 30 100 17,5 0,88
2 Sông Gianh 4462 158 360 121 1,04
3 Sông Lý Hoà 177 22 130 16,0 0,7
4 Sông Dinh 212 37 200 25,0 0,93
5 Sông Nhật Lệ 2652 128 234 59 0,84
Cộng 7778 375 0,8 1,1
Nguồn: Báo cáo quy hoạch phát triển tài nguyên nước tỉnh Quảng Bình năm 2020
Lưu lượng dòng chảy theo mùa bình quân 21 năm (1961 - 1981) ở hai LVS
chính theo báo cáo “Đề tài thu thập tài liệu khí tượng thủy văn Quảng Bình từ
1956-2005” như sau:
Bảng 2.8. Thống kê phân phối dòng chảy bình quân nhiều năm
Lưu vực
sông
Gianh
Chỉ số đặc trưng Trạm Đồng Tâm - S. Gianh Trạm Tân Lâm - S. Gianh
Mùa lũ Mùa cạn Mùa lũ Mùa cạn
Q (m3/s )
W (106m
3 )
= Wmùa/Wnăm (%)
458,4
1.208
61,7
258,3
749,0
38,3
300,8
793,0
67,8
142,8
375,0
32,2
Nguồn: Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quảng Bình
Trong đó:
+ Q (m3/s): Lưu lượng dòng chảy
+ Wn( 106m
3 ): Tổng lượng dòng chảy
+ α (%) - Hệ số dòng chảy
+ Lưu vực sông Gianh: Mùa lũ 4 tháng (Tháng VIII - tháng XI)
Mùa cạn 8 tháng (Tháng XII - tháng VII năm sau).
52
Hệ thống sông Gianh là hệ thống sông lớn nhất tỉnh Quảng Bình, hệ thống
sông này chảy qua bốn huyện phía Bắc của tỉnh Quảng Bình đó là: Minh Hoá,
Tuyên Hoá, Quảng Trạch và Bố Trạch với tổng chiều dài khoảng 158 km, chiều dài
lưu vực 121 km, chiều rộng lưu vực bình quân 38,8 km, mật độ lưới sông 1,54 với
tổng diện tích lưu vực 4.680 km2. Sông có 13 phụ lưu cấp 1; 20 phụ lưu cấp 2 và 10
phụ lưu cấp 3. Trong đó phụ lưu với quy mô lớn nhất là sông Rào Cái, và sông Son.
Hệ thống sông Gianh có vai trò rất quan trọng cung cấp nước mặt cho các huyện phía
Bắc của tỉnh Quảng Bình.
Hiện tại trên diện tích của lưu vực, với bàn tay của con người đã tạo ra được 56
hồ chứa nước lớn nhỏ với tổng dung tích 153,023 triệu m3.
Hàng năm hệ thống sông Gianh đã tạo ra nguồn nước đổ ra biển Đông, tháng
thấp nhất (tháng 4) 331 triệu m3, tháng cao nhất (tháng 9) 6.685 triệu m3.
Sự chênh lệch về nguồn nước giữa các tháng trong năm rất lớn, các tháng 9, 10
và 11 là những tháng thường gây nên lũ lụt; các tháng 3, 4 thường là mùa nước kiệt
gây ra nhiều bất lợi cho con người.
Hệ thống sông Gianh là hệ thống sông chính của tỉnh Quảng Bình có tầm ảnh
hưởng lớn đối với cuộc sống của người dân các huyện: Tuyên Hoá, Minh Hóa,
Quảng Trạch và Bố Trạch. Đồng thời nó cũng đã tạo ra những danh lam thiên nhiên
đẹp, tiêu biểu là động Phong Nha, một di sản thiên nhiên của thế giới nên cần được
bảo vệ để không gây ô nhiễm nguồn nước và làm thay đổi lòng sông.
Bảng 2.9. Quy hoạch sử dụng nước hồ chứa theo lưu vực sông đến 2020
TT Lưu vực sông Số lượng hồ Tổng dung tích
hồ (triệu m3)
Tổng dung tích hữu
ích (triệu m3)
1 Sông Roòn 11 66,58 53,264
2 Sông Gianh 56 152,373 121,898
3 Sông Lý Hoà 11 15,734 12,587
4 Sông Dinh 6 39,04 31,224
5 Sông Nhật Lệ 43 255,066 204,053
Tổng cộng 127 528,793 423,026
Nguồn: Báo cáo quy hoạch phát triển tài nguyên nước tỉnh Quảng Bình năm 2020
53
Số lượng Hồ lưu vực sông Gianh là 56, trong đó phân bố chủ yếu tại huyện Bố
Trạch và Quảng Trạch, nếu như chủ động được nguồn nước thì hệ thống này tương
đối phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống, tạo cảnh quan môi trường đẹp.
Các nguồn gây ô nhiễm nước mặt lục địa
Trên địa bàn LVS, nguồn gây ô nhiễm nước mặt lục địa chủ yếu từ các nguồn:
- Nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý thải trực tiếp ra môi trường hòa vào LVS
làm ô nhiễm môi trường nước sông...
- Nước thải công nghiệp chưa qua xử lý với thành phần chủ yếu là các yếu tố:
Các kim loại nặng như Al3+, Pb2+, As3+, Hg2+, Cu2+, hàm lượng BOD5, COD,
TSS, Coliform, Fecal...
- Sử dụng thuốc BVTV chưa đúng quy trình, khi mưa xuống thuốc BVTV còn
tồn dư sẽ cuốn theo dòng nước ra các kênh mương gây ô nhiễm môi trường nước
mặt.
- Khai thác khoáng sản tại một số mỏ chưa có công nghệ phù hợp, chưa có hệ
thống xử lý đã gây đục nước sông, suối gây ô nhiễm đến nguồn nước...
- Các hoạt động khai thác cát sạn lòng sông đã làm ảnh hưởng đến lưu lượng
dòng chảy và chất lượng nước mặt.
- Thực trạng khai thác và chế biến của ngành thủy sản trong những năm qua đã
làm tăng lượng chất thải và gây ảnh hưởng đến môi trường nước. Hầu hết các cơ sở
chế biến thủy sản đều chưa có hệ thống xử lý nước thải, các hộ đều xả chất thải trực
tiếp ra cống rãnh xung quanh chảy trực tiếp ra hệ thống mương thủy lợi chung và
thoát ra sông.
- Các bãi rác tạm chưa có hệ thống thu gom, xử lý nước rác hoặc tuy đã có
nhưng không đúng quy trình, xuống cấp cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường nước
mặt lục địa.
- Nước thải từ các khu vực chợ, bệnh viện, trường học, nuôi cá trên lòng sông…
đều chưa được xử lý triệt để đã gây ô nhiễm cục bộ cho những điểm tiếp nhận nước
thải, gây nên mùi hôi thối, nơi phát sinh nguồn gây bệnh.
54
Ngoài ra, việc xây dựng các hồ nhân tạo trên các hệ thống sông tuy mang lại lợi
ích to lớn về tưới tiêu, cấp nước sinh hoạt, điều hòa tiểu khí hậu... nhưng hệ thống hồ
nhân tạo cũng tạo nên những mặt trái như hạn chế lưu tốc dòng chảy sẽ dẫn đến bồi
lắng dòng và cửa sông, hạn chế khả năng điều tiết chất thải và khả năng tự làm sạch
của tự nhiên.
Diễn biến ô nhiễm
Để đánh giá diễn biến chất lượng nước mặt lục địa, Trung tâm Quan trắc và Kỹ
thuật môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Bình (đơn vị được UBND
tỉnh Quảng Bình giao nhiệm vụ thực hiện chương trình quan trắc môi trường) thực
hiện chương trình quan trắc hàng năm theo mạng lưới quan trắc được UBND tỉnh phê
duyệt mới được 02 đợt quan trắc/năm nhưng mang tính thời điểm, chưa có trạm quan
trắc cố định; đợt một được tiến hành vào mùa khô (từ tháng 5 đến tháng 6 hàng
năm) và đợt hai tiến hành vào mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 10 hàng năm) nhằm
đánh giá, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường nước mặt lục địa tại các LVS và
hồ phục vụ cho các mục đích quy hoạch, phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Do
Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Quảng Bình đi vào hoạt động từ tháng
6 năm 2006, nên chương trình quan trắc môi trường chỉ được thực hiện từ mùa mưa
của năm 2006 trở đi; kết quả phân tích gồm 20 chỉ tiêu: pH, nhiệt độ, chất rắn lơ
lửng, DO, muối, độ dẫn điện, tổng chất rắn hòa tan, BOD5, COD, cyanua, sắt, đồng,
mangan, kẽm, cadimi, crom (VI), nitrat, nitrit, ammoniac và coliform.
Diễn biến ô nhiễm chất lượng nước sông
Để đánh giá diễn biến ô nhiễm chất lượng nước mặt của hệ thống sông Gianh,
theo mạng lưới quan trắc được UBND tỉnh phê duyệt, Trung tâm Quan trắc và Kỹ
thuật môi trường Quảng Bình đã tiến hành quan trắc tại 03 vị trí: M1: Cách cảng
Gianh 100m về phía hạ lưu; M2: Tại cầu Gianh lúc triều kiệt và M3: Tại thượng
nguồn - khu vực Nhà máy xi măng sông Gianh.
Kết quả quan trắc so sánh với Quy chuẩn Việt Nam QCVN 08:2008/BTNMT -
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (cột B2) cho thấy, phần lớn
các chỉ tiêu phân tích đều nằm trong giới hạn Quy chuẩn cho phép.
55
Chỉ có một số chỉ tiêu phân tích vượt Quy chuẩn cho phép tuy nhiên, mức
vượt này được xem là không đáng kể, không mang tính chất liên tục, thường xuyên
qua các năm.
Bảng 2.10: Chỉ số một số chỉ tiêu phân tích vượt ngưỡng
TT Chỉ tiêu
So sánh với Quy chuẩn
cho phép
Số lần vượt Chi tiết
1 Chỉ tiêu COD (vị trí M1 - mùa mưa năm 2006) 1,09 lần 54,3
2 Chỉ tiêu cyanua (vị trí M1 - mùa mưa năm 2007) 1,05 lần 0,021
3 Chỉ tiêu cadimi (vị trí M3 - mùa mưa năm 2007) 2,7 lần 0,027
4 Chỉ tiêu coliform (vị trí M1 + M2 - mùa mưa
năm 2006) 2,4 lần 24.000
Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Quảng Bình
Ngoài 03 vị trí quan trắc chất lượng nước sông Gianh như đã nêu, Trung tâm
Quan trắc và Kỹ thuật môi trường cũng đã tiến hành quan trắc thêm hai vị trí trên
sông Son, vị trí thứ nhất tại trung tâm bến thuyền động Phong Nha (M11), vị trí thứ
hai tại cửa hang động Phong Nha (M12). Sông Son là một nhánh nằm về phía
thượng nguồn của hệ thống sông Gianh, nơi diễn ra các hoạt động tham quan du
lịch động Phong Nha. Kết quả quan trắc tại hai vị trí này đều nằm trong giới hạn
chuẩn cho phép.
Nhìn chung, chất lượng nước sông Gianh không có sự thay đổi lớn giữa mùa
khô, mùa mưa và qua các năm; chưa có dấu hiệu của sự ô nhiễm do trên hệ thống
sông Gianh chưa chịu tác động bởi nước thải của các nhà máy sản xuất, chế biến
công nghiệp, chỉ chịu tác động do một số hoạt động khai thác khoáng sản, vận
chuyển giao thông đường thủy, nuôi trồng thủy sản và hoạt động dân cư thuần túy.
b, Nước dưới đất
Tài nguyên nước dưới đất lưu vực sông
Tuy chưa được điều tra chi tiết nhưng nguồn nước dưới đất của LVS khá
phong phú, tuy nhiên phân bố không đều, mức độ nông, sâu thay đổi phụ thuộc vào
56
địa hình và lượng mưa trong năm. Vùng đồng bằng ven biển thường có mực nước
ngầm nông và dồi dào, đối với vùng trung du nước ngầm sâu và dễ bị cạn kiệt vào
mùa khô.
Theo số liệu nghiên cứu của Viện Địa lý thuộc Viện khoa học Việt Nam về
nước dưới đất vùng cát ven biển lưu vực, nước dưới đất khu vực cát ven biển tàng
trữ trong thành tạo trầm tích Đệ tứ là chủ yếu, có thể phân tầng địa chất thủy văn
khu vực thành ba tầng chứa nước chính là:
- Tầng chứa nước lổ hổng trầm tích Holocen (hq): bao gồm các thành tạo địa
chất aQIV3, mvQIV
3, amQIV
2 phân bố thành dải song song với đường bờ biển ranh
giới LVS từ huyện Quảng Trạch đến huyện Bố Trạch. Tầng chứa nước qh được giới
hạn như sau: Phía Bắc giáp với Đèo Ngang, phía Tây được giới hạn bởi Quốc lộ
1A, phía Nam là sông Kiến Giang và phía Đông giáp biển Đông. Như vậy, toàn bọ
lưu vực nằm trọn trong giới hạn này.
Chiều dày trung bình khoảng 9,8m, trong đó phần phía Bắc có chiều dày trung
bình khoảng 11m, phần thuộc xã Quảng Phúc, xã Quảng Phú có chiều dày lớn hơn,
trung bình đạt 15m.
- Tầng chứa nước lổ hổng trầm tích Pleistocen (qp): bao gồm đất đá của trầm
tích Pleistocen (amQIII), phân bố thành dải kéo dài dọc đồng bằng ven biển Bắc
Quảng Bình. Phần lớn diện tích phân bố của tầng qp bị phủ bởi tầng sét cách nước
và tầng chứa nước qh, chúng chỉ lộ ra trên diện hẹp ven các đồi núi ở phía Tây khu
vực. Nước dưới đất trong tầng này phía giáp biển bị mặn hoàn toàn với độ tổng
khoáng hoá M = 1,0 - 2,5g/l.
Đối với các vùng khác, do chưa có số liệu điều tra chi tiết nên không thể tính
được trữ lượng nước dưới đất.
Các nguồn gây ô nhiễm nước dưới đất
Hiện trạng môi trường nước dưới đất ở LVS đã có những vấn đề đáng quan
tâm, mà trước hết là hiện tượng nhiễm bẩn, nhiễm mặn. Hầu hết các tầng chứa nước
trong các thành tạo Đệ tứ (nằm gần mặt đất) đều có biểu hiện của sự nhiễm bẩn bởi
sắt, mangan, hợp chất Nitơ (Nitrit - Nitrat), các hợp chất hữu cơ, vô cơ và các vi
57
sinh vật.... Các vùng ven biển nước dưới đất thường bị nhiễm mặn. Tuy nhiên để
xác định chính xác nguyên nhân gây ra sự nhiễm bẩn của nước dưới đất là một việc
làm hết sức phức tạp, chúng tôi đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Các yếu tố tự nhiên góp phần làm biến đổi chất lượng nước:
+ Hoạt động của thủy triều là nguyên nhân gây ra xâm nhập mặn cho nước
dưới đất.
+ Mưa bão gây ngập úng, gây ra hiện tượng xâm nhập các chất bẩn từ trên bề
mặt xuống nước dưới đất.
+ Bản thân đất đá chứa nước có chứa các hợp chất gây ô nhiễm cho nước dưới
đất (Mangan, sắt ...).
+ Các quá trình biển tiến, biển thoái tạo nên một số vùng nước có nguồn gốc
biển bị chôn vùi và quá trình rửa nhạt diễn ra chậm nên nước dưới đất vẫn bị mặn.
- Các yếu tố nhân tác:
+ Nước thải, rác thải công nghiệp: Nước thải và rác thải công nghiệp tập trung
chủ yếu ở khu vực thị trấn Ba Đồn, là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp,
chế biến hải sản, chế biến thực phẩm, các khu chế xuất với quy mô từ nhỏ đến vừa.
Các ngành sản xuất này đã và đang mang lại những nguồn lợi không nhỏ cho các
địa phương. Song bên cạnh đó chúng đã và đang thải ra môi trường tự nhiên hàng
loạt các loại rác thải rắn và lỏng, mà hầu hết các loại chất thải này hầu như chưa
được xử lý (hoặc chỉ xử lý sơ bộ), chúng đều được đổ trực tiếp ra các kênh dẫn, ao
hồ hoặc nền đất tự nhiên trong vùng.
+ Nước thải, rác thải sinh hoạt: là một trong những nguyên nhân quan trọng
gây suy giảm chất lượng nước dưới đất. Những vùng điển hình nước dưới đất bị ảnh
hưởng như: khu vực thi trấn Ba Đồn, các thị trấn là nơi có mật độ dân cư lớn. Nước
và rác thải do sinh hoạt của con người chảy tràn trên mặt đất hoặc xả theo mương
máng ra các dòng mặt của khu vực. Nước và rác thải của các khu vực dân cư, các khu
du lịch và dịch vụ, đặc biệt là chất thải của các bệnh viện, cơ sở y tế... bao gồm một
lượng lớn các chất hữu cơ, các loại cặn vô cơ và vô số các vi khuẩn gây bệnh. Các
58
loại chất độc hại này theo mương máng ra các dòng mặt rồi ngấm xuống tầng nước
dưới đất và làm biến đổi chất lượng nước dưới đất.
+ Do các sản phẩm dư thừa trong sản xuất nông nghiệp: Trong sản xuất nông
nghiệp người nông dân với nghề trồng lúa nước là chủ yếu, họ phải tưới và bón ruộng
bằng các loại phân hóa học, phân chuồng để tăng độ phì nhiêu của đất. Đồng thời để
đạt năng suất cao trong sản xuất nông nghiệp, người nông dân đã sử dụng rộng rãi các
loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, thuốc BVTV, chính phần dư thừa của các loại phân và hóa
chất đó đã làm biến đổi chất lượng của nước dưới đất.
+ Do khai thác nước dưới đất không hợp lý: Việc phát triển các giếng khoan,
giếng khơi và đặc biệt là việc nuôi tôm trên cát thiếu quy hoạch đồng bộ dẫn việc
khai thác nước dưới đất một cách bất hợp lý. Ngoài các khu nuôi tôm trên cát của
các tổ chức được quy hoạch đồng bộ, có hệ thống xử lý nước thải, thì việc nuôi tôm
của các hộ gia đình, cá nhân phát triển một cách tự phát, thiếu quy hoạch, không có
hệ thống xử lý nước thải đã góp phần không nhỏ làm cho môi trường nước dưới đất
bị ô nhiễm và có hiện tượng xâm nhập mặn.
+ Do sự tồn lưu của các kho thuốc, hóa chất BVTV: Hiện trên địa bàn LVS
còn tồn đọng rất nhiều kho thuốc, hóa chất BVTV, nhiều kho thuốc đã bị chôn vùi
dưới đất. Sự thẩm thấu từ các kho thuốc, hóa chất BVTV này đã và đang gây ô
nhiễm nguồn nước dưới đất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước sinh hoạt của
người dân trong khu vực.
Diễn biến ô nhiễm
Theo mạng lưới quan trắc môi trường được UBND tỉnh phê duyệt, Trung tâm
Quan trắc và Kỹ thuật môi trường đã tiến hành quan trắc chất lượng nước dưới đất:
huyện Quảng Trạch 02 điểm, huyện Bố Trạch 01 điểm, huyện Tuyên Hóa 01 điểm
và huyện Minh Hóa 01 điểm. Các chỉ tiêu phân tích gồm: pH, độ cứng, chất rắn
tổng số, asen, cadimi, crom (IV), đồng, kẽm, mangan, clorua, sắt, nitrit, nitrat,
amoniac, sufat, cyanua và coliform.
Kết quả phân tích chất lượng nước dưới đất so sánh với Quy chuẩn Việt Nam
QCVN 09:2008/BTNMT cho thấy, đa số các chỉ tiêu đều nằm trong giới hạn Quy
59
chuẩn cho phép, riêng kết quả phân tích cyanua, mangan, coliform tại tất cả các vị
trí quan trắc đều vượt QCVN. Do đặc điểm của người dân vùng nông thôn thường
xây dựng các khu chăn nuôi gần các giếng nước nên nguồn nước dưới đất bị nhiễm
coliform.
Ngoài ra, tại huyện miền núi như Tuyên Hóa độ cứng trong nước cao hơn
Quy chuẩn cho phép từ 1,03 - 1,3 lần, do đặc điểm của các vùng này có cấu tạo
địa chất là vùng núi đá vôi.
c, Ảnh hưởng của ô nhiễm nước
Các nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cung cấp
* Ảnh hưởng đến chất lượng nước dưới đất:
Việc sử dụng phân hóa học không cân đối, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp đã
làm cho nguồn nước dưới đất bị ô nhiễm. Ngoài ra, ở khu vực nông thôn, các nguồn
phân người, rác, phân gia súc không được xử lý mà đưa thẳng ra tưới tiêu, ngấm
qua đất vào nước ngầm cũng làm cho chất lượng ngầm bị thay đổi. Khi nước ngầm
bị nhiễm bẩn, nó không có khả năng tự làm sạch như nguồn nước mặt có thể làm
được nếu nguồn không bị quá tải. Dòng chảy của nguồn nước ngầm rất chậm và
không phải là dòng chảy rối do đó các chất bẩn gây ô nhiễm không thể bị pha loãng
hay phân tán. Mặt khác số lượng vi sinh vật trong nước ngầm có khả năng chuyển
hoá các hợp chất dễ bị oxy hoá ít hơn trong nước mặt và phản ứng phân hủy cũng
diễn ra chậm hơn nên các chất gây ô nhiễm trong nước ngầm sẽ tồn tại lâu hơn.
* Ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt:
Theo các dòng chảy như các dòng sông, do có quá trình xáo trộn, pha loãng tốt
và quá trình phân hủy các chất ô nhiễm với sự tham gia tích cực của các sinh vật
hiếu khí thì hàm lượng chất bẩn cũng giảm đáng kể. Quá trình phục hồi tự nhiên
này sẽ rất hiệu quả nếu dòng chảy không bị quá tải các chất gây ô nhiễm hoặc dòng
chảy không bị cạn kiệt do hạn hán hoặc tưới tiêu.
Trong các ao hồ thì sự pha loãng thường có hiệu quả thấp hơn so với trong
sông vì trong hồ thường có dòng chảy tầng, ít bị xáo trộn theo phương đứng. Do đó
chất lượng nước ao hồ rất dễ bị suy thoái khi bị nhiễm bẩn bởi các chất dinh dưỡng
60
thực vật, dầu, phân vô cơ, các kim loại nặng như thủy ngân, asen, selen, chì.... Các
chất này đi vào chuỗi thức ăn trong HST thủy vực và gây ra những tác động nguy
hại tới hệ động vật và thực vật dưới nước.
Nước thải từ các Nhà máy (tinh bột sắn, bia, giấy, cao su...), các cơ sở sản xuất
kinh doanh, nước thải Bệnh viện (trước năm 2009)... chưa xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường mà xả trực tiếp ra sông, đồng ruộng là một trong những nguồn chính gây ô
nhiễm chất lượng nước mặt tại LVS. Bên cạnh đó, nước sông cũng đang bị ô nhiễm
do hoạt động khai thác khoáng sản.
* Ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
Các nguồn nước là đường truyền bệnh rất nguy hiểm. Ô nhiễm môi trường
nước tác động trực tiếp đến sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây các bệnh như
tiêu chảy (do vi rút, vi khuẩn, vi sinh vật đơn bào...), lị trực trùng, tả, thương hàn,
viêm gan A, giun, sán. Các bệnh này gây suy dinh dưỡng, làm thiếu máu, thiếu sắt,
gây kém phát triển, tử vong, nhất là ở trẻ em.
Một khi lượng nước sử dụng tăng lên có nghĩa là lượng nước thải cũng tăng
lên và nếu như khả năng thấm của đất bị quá tải và không có hệ thống thu nước thải
sẽ là nơi chứa chất các mầm mống gây bệnh.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do tồn dư thuốc BVTV cũng đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của người dân tại các vùng có kho thuốc như: thôn Vân
Nam, xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch... xung quanh khu vực này đã xuất hiện
nhiều bệnh như thần kinh, não, nổi mụn ngứa, ung thư...
* Ảnh hưởng tới sự biến đổi của của các hệ sinh thái
Nguồn nước ô nhiễm do các chất hữu cơ vi lượng (là các hoá chất hữu cơ bền
vững, tốc độ phân hũy trong nước rất chậm) từ hoạt động nông nghiệp như phun
thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt nấm... làm cho hệ sinh vật đất bị tiêu diệt như các loài
giun, mối, các loại vi khuẩn, tảo... dẫn đến làm biến đổi tính chất của đất, giảm độ
phì của đất.
Nguồn nước bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến HST dưới nước. Với các nguồn
nước ô nhiễm, nồng độ các chất bẩn hữu cơ cao, lượng oxy hoà tan quá thấp làm
61
cho các loài sinh vật nước không sống sót được, đặc biệt là sản lượng cá bị giảm rất
nhiều trong các hồ nuôi cá bị ô nhiễm.
Nguồn nước giàu các chất dinh dưỡng N, P gây nên hiện tượng phú dưỡng,
hay thủy triều đỏ, nở hoa nước, tức là nồng độ các chất dinh dưỡng tăng tới mức tạo
ra sự phát triển bùng nổ của các loài tảo, rong trong nguồn nước.
Quá trình phú dưỡng đóng vai trò quan trọng trong dây chuyền thực phẩm của
HST nước. Trong nước, tảo sử dụng cacbon dioxit, nitơ, phospho và các chất dinh
dưỡng khác với lượng rất nhỏ để phát triển. Tảo lại là thức ăn của động vật phù du.
Một số loài cá lớn lại ăn cá nhỏ. Như vậy, năng suất dây chuyền thực phẩm phụ
thuộc vào lượng N và P. Khi nồng độ N, P cao, rong tảo phát triển mạnh tạo ra khối
lượng lớn đến mức các loài động vật phù du không thể tiêu thụ hết dẫn đến việc làm
đục nước. Đặc biệt trong nguồn nước tù (ao, đầm) có thể tạo ra nước chứa đầy tảo.
Việc phân hủy tảo sẽ tạo mùi và tạo ra các chất cặn lắng, gây giảm oxi hoà tan trong
nước, từ đó gây cản trở cho việc phát triển hầu hết các loài cá. Trong điều kiện đó,
chỉ có một số loài cá dữ mới có thể sống được.
* Ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội
Nguồn nước với mật độ rong tảo cao, chất lượng nước sẽ bị suy giảm, gây ảnh
hưởng đến công tác cấp nước sinh hoạt (lắng lọc nước rất khó khăn), ảnh hưởng mỹ
quan và tạo trở ngại cho hoạt động du lịch, thể thao dưới nước...
Ô nhiễm môi trường nước không chỉ tác động xấu đến môi trường sinh thái
của các con sông mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của người dân và sức
khoẻ cộng đồng.
2.3.2. Hiện trạng môi trường đất
Ngoài tác động trực tiếp của thiên nhiên là mưa với cường độ cao, thời gian
dài nên đã đẩy mạnh quá trình rửa trôi, xói mòn. Ngập úng, ngập lũ, mặn hoá,
phèn hoá là những hiện tượng phổ biến ở vùng đồng bằng gây thiệt hại to lớn;
một số vùng đồi núi gây khô hạn nghiêm trọng.
62
Nhiều hoạt động trực tiếp của con người góp phần làm thoái hoá đất: tình
trạng du canh, độc canh, phá rừng, canh tác không bảo vệ đất đã làm độ phì suy
giảm, các chất dinh dưỡng trong đất bị cây trồng hút không được trả lại.
Vùng ven biển và đồng bằng đất bị ô nhiễm do nước thải và các chất thải
công nghiệp, đô thị và do hoá chất BVTV. Sử dụng các loại phân khoáng sinh
lắng chua liên tục trong nhiều năm cũng làm cho đất bị thoái hoá và chai cứng.
Vùng cát ven biển do thiếu thảm thực vật hoặc các mô hình sinh thái nông,
lâm kết hợp nên hiện tượng cát bay, cát chảy lấn chiếm đất canh tác, đất thổ cư
thường xuyên diễn ra, ảnh hưởng xấu và gây ra sa mạc hoá.
Về chống thoái hoá và phục hồi đất cần xuất phát từ quan điểm sử dụng đất lâu
dài, theo quy hoạch. Quản lý tốt các hệ thống phân bón tổng hợp trong nông
nghiệp để duy trì độ phì nhiêu của đất. Đảm bảo sử dụng tài nguyên rừng hợp lý
thoả mãn nhu cầu thương mại, chất đốt, xây dựng nhưng không làm thoái hoá đất
và mất nguồn nước.
Tình hình sử dụng đất:
Là khu vực có nhiều rừng, do đó đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao, tiếp đến là
đất đồi núi và đất bằng chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng
chiếm tỷ lệ thấp.
Bảng 2.11: Tình hình sử dụng đất năm 2009
TT Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Đất nông nghiệp:
- Đất trồng cây hàng năm
- Đất vườn tạp
- Đất trồng cây lâu năm
- Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
65.079
45.589
8.789
7.414
3.287
8,08
2 Đất lâm nghiệp:
- Đất có rừng tự nhiên
- Đất có rừng trồng
- Đất ươm cây giống
503.227
450.656
52.543
28
62,49
63
3 Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 1.767 0,22
4 Đất chuyên dùng:
- Đất xây dựng
- Đất giao thông
- Đất thuỷ lợi
- Các loại đất khác
23.980
1.672
7.019
8.783
6.416
2,97
5 Đất ở:
- Đất ở đô thị
- Đất ở nông thôn
4.292
432
3.860
0,53
6 Đất chưa sử dụng:
- Đất bằng chưa sử dụng
- Đất đồi núi chưa sử dụng
- Đất có mặt nước
- Đất chưa sử dụng khác
206.481
17.050
118.386
2.365
69.040
25,71
Cộng 804.826 100
Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Bình, 2009
So sánh số liệu thống kê đất đai (Niên giám thông kê Quảng Bình, 2001,
2002) năm 2001 (Đất nông nghiệp là 50,423 ha; đất ở là 3,765 ha) và năm 2002
(52,764 ha và 3,972 ha) cho thấy diện tích đất nông nghiệp, đất ở ngày càng tăng do
nhu cầu sử dụng đất của người dân tăng lên, đặc biệt là nhu cầu về đất ở. Diện tích
đất chưa sử dụng có xu hướng ngày càng giảm do diện tích đất chưa sử dụng được
quy hoạch cho mục đích sử dụng đất ở. Diện tích đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng
biến đổi không đáng kể.
Những biểu hiện quá trình thoái hoá đất:
Do xói mòn:
Lưu vực soonh hiện có 12.098 ha đất tầng mỏng, đây là nhóm đất có tầng
canh tác rất mỏng (<30 cm) do đất bị rửa trôi, xói mòn mạnh nên đất chặt cứng
và nghèo dinh dưỡng. Nguyên nhân trực tiếp của vấn đề xói mòn đất là do quá
trình canh tác trên đất dốc không áp dụng các biện pháp chống xói mòn.
64
Do giảm độ phì:
Trong sản xuất trồng trọt tại LVS, phân hữu cơ là nguồn cung cấp dinh
dưỡng quan trọng cho cây trồng, đặc biệt là cung cấp lượng mùn là yếu tố dinh
dưỡng có tác dụng cải thiện lý tính trong đất. Tuy nhiên, cân đối giữa diện tích
gieo trồng các loại cây và lượng phân hữu cơ có được từ ngành chăn nuôi thì chỉ
đảm bảo được khoảng 50% nhu cầu.
Do cát di động:
Với 7.449 ha thuộc nhóm đất cát phân bố ven biển tại LVS thì đất cát biển
có địa hình bằng phẳng chỉ chiếm 25% diện tích, còn lại 75% diện tích đất cát có
địa hình gò đồi lượn sóng, nhiều nơi chưa có thảm thực vật. Do ảnh hưởng của
gió và dòng chảy nên cát rất dễ di động. Vùng bờ biển và cửa sông do ảnh hưởng
của sóng triều nhiều nơi cát bị xói lở nghiêm trọng. Hiện tượng cát di động lấn
đất sản xuất, đất thổ cư của nhân dân các xã ven quốc lộ 1A ảnh hưởng đến sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Do nhiễm mặn:
Nguy cơ nhiễm mặn có thể xảy ra đối với các vùng đất ven sông chịu ảnh
hưởng của thuỷ triều do xâm nhập mặn vào mùa khô hoặc trong các cơn bão lớn.
Ô nhiễm do chất thải:
Đất ở LVS chưa xảy ra hiện tượng ô nhiễm do chất thải. Tuy nhiên, một số
vùng quanh nhà máy hoặc cơ sở sản xuất công nghiệp, khu dân cư thì ô nhiễm
đất xảy ra cục bộ do chất thải và nước thải.
Theo số liệu tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp tiến hành năm 2000,
khoảng 71,3% hộ nông thôn có hố xí (khoảng 46% số hộ có hố xí hợp vệ sinh),
20% số chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh. Số còn lại chưa hợp vệ sinh, chất thải
được thải ra môi trường đất tiếp nhận.
Bên cạnh đó, việc quản lý thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) chưa được tốt. Tình
trạng nông dân còn lạm dụng thuốc BVTV, vứt bỏ bao bì trên đồng sau khi sử
dụng thuốc, súc rửa phương tiện phun rãi thuốc không đúng nơi quy định vẫn
còn xảy ra.
65
2.3.3. Hiện trạng rừng
Những năm gần đây, diện tích rừng tại LVS ngày càng được tăng lên do
công tác trồng mới, chăm sóc, tu bổ và bảo vệ rừng đã được các cấp, các ngành
và nhân dân quan tâm đúng mực. Tuy nhiên, hiện tượng lâm sản khai thác trái
phép, đốt phá rừng dọn đất canh tác nương rẫy chưa được chấm dứt.
Trong công tác bảo vệ rừng còn nhiều bất cập: Lực lượng kiểm lâm quá
mỏng, phương tiện và công cụ chuyên dùng cho việc bảo vệ rừng còn thiếu, vừa
không đủ đáp ứng công năng. Nhận thức xã hội và ở các cộng đồng về bảo vệ và
sử dụng tài nguyên rừng một số nơi còn thấp...
Để bảo vệ tài nguyên rừng cần tiếp tục giao đất, giao rừng thực hiện chiến
lược "rừng có chủ và mục đích cụ thể", đẩy mạnh công tác xã hội hoá nghề rừng.
Có nhiều chính sách hợp lý nhằm tạo động lực trồng rừng, khôi phục vốn rừng.
Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm làm tổn hại đến tài nguyên rừng.
2.3.4. Hiện trạng môi trường đô thị và công nghiệp
Quá trình đô thị hoá xảy ra tương đối nhanh ở vùng ven biển và các đô thị
tại LVS đã có những ảnh hưởng đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến
sự cân bằng sinh thái. Tài nguyên đất bị khai thác để xây dựng đô thị làm giảm
diện tích cây xanh và mặt nước. Cùng với nhu cầu nước phục vụ sinh hoạt, sản
xuất và dịch vụ ngày càng tăng làm suy thoái nguồn TNN. Nhiều nhà máy, xí
nghiệp gây ô nhiễm môi trường nằm xen lẫn trong khu dân cư còn chưa có hệ
thống xử lý chất thải đảm bảo yêu cầu đã gây ô nhiễm môi trường không khí và
môi trường đất do bụi, tiếng ồn, chất thải rắn và thải lỏng. Bùng nổ giao thông cơ
giới cũng như gia tăng cơ học dân số từ nông thôn ra thành thị gây nên áp lực
đáng kể tới không gian đô thị...
2.3.5. Hiện trạng môi trường nông thôn, nông nghiệp
Môi trường nông thôn thực chất là các khía cạnh về sinh thái nông nghiệp
và phát triển nông thôn. Sinh thái nông nghiệp là các vấn đề điều kiện sinh thái
đồng ruộng, nguồn nước cấp, đa dạng nguồn gen trong nông nghiệp, điều kiện
canh tác, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu. Phát triển nông thôn là các vấn đề về
66
chất lượng cuộc sống, dân trí giáo dục, vệ sinh nông thôn, dịch bệnh, cơ sở hạ
tầng và các vần đề xã hội khác.
Môi trường nông nghiệp và nông thôn LVS nói chung đang bị ô nhiễm do
các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Hiện tượng thoái hoá, bạc màu
đất canh tác do sử dụng không hợp lý, độc canh, chưa có các loại cây trồng phù
hợp, phân bón hoá học, thuốc trừ sâu lạm dụng đã ảnh hưởng đến HST và sức
khoẻ cộng đồng. Ở nông thôn, tỷ lệ dân được cấp nước sạch còn thấp, nguồn
nước chủ yếu là giếng khoan, giếng đào, ao hồ, sông suối. Tình trạng hiếm nước
ở các vùng cao vào mùa khô và bị nhiễm mặn ở ven biển là rất lớn.
Một số làng nghề đã hình thành, cũng cố để đi vào hoạt động. Nếu không có biện
pháp BVMT hữu hiệu thì đây sẽ là nguồn gây ô nhiễm tiềm tàng.
2.3.6. Hiện trạng môi trường ven biển
Đầu tư phát triển thuỷ sản là một trong những hướng phát triển kinh tế mũi
nhọn của tỉnh Quảng Bình. Ngành thuỷ sản đã có những bước tăng trưởng khá
trong đánh bắt, nuôi trồng và chế biến biến góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động, đồng thời tăng thu ngân sách cho tỉnh. Vùng ven biển LVS có
trữ lượng hải sản tương đối dồi dào. Tuy nhiên, trong khai thác, đánh bắt và chế
biến vấn đề môi trường còn chưa được quan tâm đúng mức: việc dùng chất nổ,
mắt lưới không đúng kích cỡ, khai thác không đúng mùa vụ đã làm cho tài
nguyên biển suy giảm ảnh hưởng đến sự sinh tồn và phát triển các giống loài.
Việc nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm đã chặt phá làm thu hẹp diện tích
rừng ngập mặn hoặc diện tích rừng phòng hộ ven biển, chất thải do nuôi trồng
thuỷ hải sản chưa được xử lý triệt để trước khi thải ra biển. Việc nuôi tôm đã xãy
ra tình trạng nhiễm mặn, ô nhiễm dẫn đến dịch bệnh tại một số nơi. Đặc biệt là
chất thải của các cơ sở chế biến thuỷ sản ven biển, hoạt động của các tàu thuyền
đã ảnh hưởng nhất định đến chất lượng nước biển ven bờ.
67
2.3.7. Dự báo và quy hoạch phát triển liên quan đến môi trường nước lưu vực
sông
a, Dự báo nhu cầu sử dụng nước ăn uống - sinh hoạt
Dự báo nhu cầu sử dụng nước ăn uống - sinh hoạt khu vực đô thị
Cơ sở để tính toán dự báo nhu cầu sử dụng nước ăn uống - sinh hoạt khu
vực đô thị trong thời gian quy hoạch đến năm 2015 được dựa vào dự báo tăng
dân số và tiêu chuẩn sử dụng nước đến năm 2015. Theo báo cáo quy hoạch phát
triển KTXH tỉnh Quảng Bình đến năm 2015 dân số khu vực đô thị là 254.630
người và tiêu chuẩn sử dụng nước là 200 lít/người. ngày.
Kết quả dự báo, đến năm 2015 tổng nhu cầu sử dụng nước ăn uống – sinh
hoạt khu vực đô thị là 50.926 m3/ngày; trong đó nước mặt 45.833 m
3/ngày và nước
dưới đất 5.093 m3/ngày; tăng 4,1 lần so với năm 2008
Dự báo nhu cầu sử dụng nước ăn uống- sinh hoạt khu vực nông thôn
Tốc độ tăng dân số khu vực nông thôn trong những năm gần đây cũng có
dấu hiệu giảm dần. Theo báo cáo quy hoạch phát triển KTXH tỉnh Quảng Bình
đến năm 2015 dân số khu vực nông thôn là 670.370 người và tiêu chuẩn sử dụng
nước là 80 lit/người ngày.
Kết quả dự báo, đến năm 2015 tổng nhu cầu sử dụng nước ăn uống - sinh
hoạt khu vực nông thôn là 53.630 m3/ngày; trong đó nước mặt 21.452 m3/ngày
(chiếm 40%) và nước dưới đất 32.178 m3/ngày (chiếm 60%); tăng 1,22 lần so
với năm 2008.
b, Dự báo nhu cầu sử dụng nước phục vụ sản xuất công nghiệp
Cơ sở dự báo nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất công nghiệp được dựa trên
các chỉ tiêu dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp trong báo
cáo Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh QB đến năm 2015. Cụ thể tốc độ tăng
trưởng lĩnh vực công nghiệp các giai đoạn: 2008-2010: 16,7%; 2011-2015: 17,6%.
Năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp dự báo đạt: 513 159 376 USD
68
Việc dự báo khai thác sử dụng nước cho sản xuất công nghiệp ở đây được căn
cứ trên giá trị sản xuất và tiêu chuẩn sử dụng nước cho sản xuất công nghiệp đã
được quy định sử dụng để tính toán, theo đó khoảng 250 m3 nước /1.000USD
Trên cơ sở giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh dự báo năm 2015 là
513.159.376 USD, ước tính lượng nước sử dụng cho sản xuất công nghiệp năm
2015 khoảng 241.183 m3/ngày.
Bảng 2.12. Dự báo nhu cầu sử dụng nước phục vụ sản xuất công nghiệp
các huyện tại lưu vực sông đến năm 2015
TT Huyện, Thành
Phố
Giá trị sản xuất công
nghiệp (USD)
Tổng lượng nước tiêu thụ
(m3/ng)
2008 2015 2008 2015
1 Minh Hoá 595.625 1.824.531 326 1.000
2 Tuyên Hoá 54.278.750 166.267.801 29.742 51.106
3 Quảng Trạch 34.467.625 105.581.950 18.887 57.853
4 Bố Trạch 10.170.187 31.153.528 5.573 17.070
Tổng cộng 99.512.187 304.827.810 54.528 127.029
Nguồn: Báo cáo quy hoạch phát triển tài nguyên nước tỉnh Quảng Bình năm 2020
Như vậy, có thể nói rằng nhu cầu nước sử dụng cho sản xuất công nghiệp sẽ
tăng đáng kể trong thời gian tới. Cụ thể đến năm 2015 nhu cầu cấp nước phục vụ
công nghiệp là 127.029 m3/ngày, tăng 2,3 lần so với năm 2008.
c, Dự báo nhu cầu sử dụng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp
Cơ sở dự báo nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp được dựa trên
các chỉ tiêu dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp trong báo
cáo Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh Quảng Bình đến năm 2015.
Trên cơ sở tính toán, dự báo nhu cầu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp năm
2015 là 636.716 m3/ngày, so với năm 2008 tăng 1,05 lần.
Nếu tính tổng cộng tất cả nguồn nước dự báo phục vụ sinh hoạt, sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp và các mục đích khác toàn lưu vực thì đến năm 2015 nhu cầu
cấp nước là 784.219 m3/ngày, tăng 1,2 lần so với năm 2008.
69
2.3.8. Các nội dung quy hoạch phát triển liên quan đến môi trường nước lưu
vực sông
a, Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước sinh hoạt đến năm
2015
Chỉ tiêu lượng nước tiêu thụ trên đầu người mỗi ngày:
Dự kiến đến năm 2015, lượng nước tiêu thụ trên đầu người khu vực đô thị là
200 lít/người.ngày; vùng nông thôn là 80 lít/người.ngày.
Các chỉ tiêu chất lượng nước sinh hoạt:
Nước sinh hoạt phải thoả mãn các chỉ tiêu chất lượng được quy định tại “Tiêu
chuẩn vệ sinh nước sạch” được ban hành theo Quyết định số 09/2005/QĐ-BYT
ngày 11/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Chỉ tiêu chất lượng công trình cấp nước sinh hoạt:
- Công trình cấp nước sinh hoạt (hồ chứa, trạm bơm, giếng khoan bơm, bồn
chứa, nhà máy nước, hệ thống ống dẫn…) phải có tính bền vững, hoạt động lâu dài,
không làm biến đổi chất lượng nước đảm bảo vệ sinh và BVMT sinh thái.
- Các công trình cấp nước sinh hoạt phải do các đơn vị có chức năng, có năng
lực kỹ thuật công nghệ thiết kế, thi công xây lắp với quy trình giám sát, kiểm tra
chặt chẽ, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật theo thiết kế, được nghiệm thu đưa vào sử
dụng, bảo hành theo các quy định hiện hành.
- Các hồ chứa, các trạm bơm, giếng khoan, bồn chứa… phải có hành lang an
toàn vệ sinh, trong lưu vực hồ chứa không xây dựng các công trình có thể gây ô
nhiễm nguồn nước nhằm đảm bảo nguồn nước được bảo vệ, không bị ô nhiễm do
hoạt động của con người.
- Các công trình cấp nước nhỏ lẻ, phân tán của dân cũng phải dần được tiêu
chuẩn hoá về kỹ thuật, về vệ sinh và môi trường để đạt các tiêu chuẩn cần thiết
(nhất là tiêu chuẩn về nguyên tố vi lượng, coliform).
Như đã nêu ở trên, trên địa bàn tỉnh, nguồn nước nhìn chung là phong phú, cả
ba nguồn nước: Nguồn nước mưa, nước mặt và tầng chứa nước ngầm có chất lượng
tốt song lại phân bố không đều theo không gian và thời gian, 70% lượng nước mưa
70
và nước mặt đều tập trung vào các tháng mùa mưa. Trong mùa mưa lũ thường ngập,
nước bị đục nên rất gây khó khăn cho việc cấp nước mặt. Nguồn nước ngầm ở tỉnh
Quảng Bình không lớn, các tầng chứa nước mặn, nhạt lại xen lẫn nhau rất phức tạp
nên khi khai thác cần phải tuân thủ nghiêm túc quy trình kỹ thuật để tránh làm ô
nhiễm các tầng chứa nước có chất lượng tốt.
+ Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng TNN phục vụ sản xuất công nghiệp
đến năm 2015
Trên cơ sở dự báo giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh năm 2015, dự báo
lượng nước sử dụng cho sản xuất công nghiệp năm 2015 là 241.183 m3/ngày; tăng
3,1 lần so với năm 2008.
b, Quy hoạch nước phục vụ khu công nghiệp xi măng
- Nhu cầu cấp nước cho các nhà máy xi măng (Sông Gianh, Trường Thịnh,
Văn Hóa, nhà máy xi măng Cosevco 1.1, nhà máy xi măng Cosevco 6.6) là 22.000
m3/ngày (khoảng 8 triệu m3 /năm).
- Nguồn cấp lấy từ sông Rào Trổ, sông Rào Nậy, sông Rào Nan, hồ Tiên
Lang, hồ Rào Đá. Qua khảo sát, nhu cầu cấp nước công nghiệp xi măng lấy từ các
nguồn này là đủ đáp ứng.
c, Quy hoạch lưu vực sông cho các hồ chứa thủy điện:
Trong quy hoạch thủy điện quy mô nhỏ từ 2 MW trở lên, trên địa bàn tỉnh có
19 đập thủy điện, tổng trữ lượng tiềm năng 9218 triệu m3/năm, Trong đó, sông
Nguồn Nậy 2555 triệu m3. Tổng công suất dự kiến 111,5 MW (riêng nhà máy thủy
điện La Trọng công suất 18 MW hiện đang được xây dựng).
+ Quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng TNN phục vụ sản xuất nông nghiệp
đến năm 2015
Cơ sở dự báo nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp được dựa trên
các chỉ tiêu dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp trong báo
cáo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Quảng Bình đến năm 2015.
Tuy nông nghiệp tiếp tục có sự tăng trưởng và phát triển mới về chất, nhưng tỷ
lệ tương đối trong cơ cấu GDP sẽ tiếp tục giảm xuống: 20% (2010), 16,5% (2015).
71
Trên cơ sở tính toán, dự báo nhu cầu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp năm 2015
là 1.273.431 m3/ngày.
Để đáp ứng nhu cầu cấp nước lâu dài, tất cả 56 hồ trên địa bàn sẽ được đưa
vào quy hoạch khai thác, sử dụng phục vụ nông nghiệp. Các hồ lớn quy hoạch nâng
cấp bao gồm: Hồ Khe Đá, hồ Rào Nan, hồ Khe Am (Quảng Trạch); Hồ Nước Nóng
(Minh Hoá).
2.4. Thành lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh
2.4.1. Nguyên tắc và phương pháp phân vùng chức năng môi trường lưu vực
sông Gianh
a, Nguyên tắc phân vùng chức năng môi trường
Phân vùng chức năng môi trường một địa phương là nhằm xác lập những cơ
sở khoa học và thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng QHMT và quản lý tài
nguyên, môi trường và định hướng phát triển trên địa bàn địa phương đó một cách
có hiệu quả.
Do vậy, trước khi các nhà khảo sát tiến hành thực địa nghiên cứu một lãnh thổ,
nhất thiết phải thu thập tài liệu, bản đồ đã được nghiên cứu về lãnh thổ đó và những
tài liệu có liên quan. Trên cơ sở tài liệu và bản đồ thu thập được, tiến hành lập sơ đồ
phân vùng để xác định kế hoạch nghiên cứu và đưa ra các lộ trình khảo sát phù hợp.
Trong quá trình khảo sát thực địa, sẽ kiểm tra lại sơ đồ vạch trước, điều chỉnh
và bổ sung thêm, làm cho các đơn vị phân vùng đã được vạch ra sát thực với thực
tế. Kết thúc các đợt khảo sát và nghiên cứu lãnh thổ, các đơn vị phân vùng chức
năng môi trường được hoàn chỉnh với bản thuyết minh, trong đó, đưa ra những đặc
điểm giống nhau và khác nhau của các đơn vị phân vùng chức năng môi trường theo
từng cấp bậc, từ lớn đến nhỏ.
Trên cơ sở mô tả những đặc điểm giống nhau và khác nhau của các đơn vị
phân vùng chức năng môi trường, đặc biệt là quan hệ tương hỗ của các thành phần
tự nhiên - kinh tế, xã hội - môi trường của các phân hệ tự nhiên - sản xuất trong
từng đơn vị phân vùng chức năng môi trường, cũng như mối quan hệ giữa các đơn
vị phân vùng chức năng môi trường với nhau trong lãnh thổ và với các lãnh thổ kế
72
cận, để tìm ra những đặc điểm hiện trạng và xây dựng phương hướng khai thác và
sử dụng tài nguyên hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ứng với mỗi giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là một công cụ hữu hiệu để thể hiện trên không gian (diện) các vấn đề
môi trường, cũng như thể hiện những vấn đề môi trường bất cập tại những địa điểm
nhất định (điểm) phục vụ cho công tác nghiên cứu môi trường, vì thế, phân vùng
chức năng môi trường là công việc không thể thiếu được trong công tác quy hoạch
môi trường.
Để đáp ứng những yêu cầu trên và những đòi hỏi của thực tiễn, phân vùng
chức năng môi trường được xây dựng trên các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc khách quan
+ Nguyên tắc phát sinh
+ Nguyên tắc tổng hợp
+ Nguyên tắc đồng nhất tương đối
+ Nguyên tắc cùng chung lãnh thổ (tính toàn vẹn không chia cắt)
Những nguyên tắc trên, thực chất không hoàn toàn cùng thứ bậc và không sử
dụng một cách đơn lẻ mà được sử dụng một cách tổng hợp trong từng vấn đề, từng
lãnh thổ môi trường.
Nguyên tắc khách quan là nguyên tắc phân chia các đơn vị môi trường trên cơ
sở sự phân hoá có tính khách quan của các sự vật, hiện tượng, trong đó có cả sự
phân hoá của các đơn vị lãnh thổ môi trường, đây là nguyên tắc thể hiện quy luật
khách quan triết học của tự nhiên.
Nguyên tắc phát sinh yêu cầu khi được phân chia, các đơn vị lãnh thổ môi
trường phải có đặc tính giống nhau về những biểu hiện bên ngoài của các điều kiện
tự nhiên, các điều kiện KT-XH và các điều kiện liên quan đến các vần đề môi
trường (như hình thái của lãnh thổ; quá trình phát triển kinh tế, phát triển đô thị;
mặt bằng xã hội, … cho đến nguồn phát thải, không gian lan truyền ô nhiễm khí
thải, nước thải, chất thải rắn, v.v. ), đó là sự giống nhau về nguồn phát sinh và quá
trình phát triển của tất cả các yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng môi trường trong
73
một đơn vị lãnh thổ môi trường. Nguyên tắc phát sinh phải được vận dụng cho tất
cả các cấp phân vị từ lớn đến nhỏ trong phân vùng chức năng môi trường, tạo nên
sự thống nhất chung của diễn trình phát triển và hình thành những đặc tính cơ bản,
quan trọng nhất của môi trường trong đơn vị lãnh thổ đó.
Nguyên tắc tổng hợp đòi hỏi trong khi thực hiện công tác phân vùng không chỉ
chú ý tới một vài thành phần tự nhiên, KT-XH hay môi trường, mà phải cân nhắc
tới tất cả các thành phần và các mối quan hệ tổng hoà của tất cả các yếu tố đó trong
một thể thống nhất, mà trong đó, các tác động của các yếu tố, các thành phần mang
tính nhân quả.
Nguyên tắc đồng nhất tương đối thể hiện trong công tác phân vùng ở chỗ, các
sự vật, các hiện tượng trong thiên nhiên không ngừng biến đổi theo thời gian và
theo không gian, vì thế, ranh giới các đơn vị lãnh thổ trong phân vùng mang tính
tương đối; các tiêu chí phân vùng cũng không thể áp dụng tuyệt đối cho tất cả các
lãnh thổ, các vấn đề được xem xét trong quá trình phân vùng chức năng môi trường.
Nguyên tắc cùng chung lãnh thổ biểu hiện trong tính toàn vẹn của các đơn vị
phân vùng chức năng môi trường, đảm bảo cho việc vừa thể hiện tính khách quan,
vừa thể hiện tính thống nhất, nhưng cũng biểu hiện cả tính cá biệt của mỗi đơn vị
phân vùng môi trường. Không thể có một vùng lại nằm ở những nơi khác nhau,
những khoanh vi khác nhau mà cho dù có tính thống nhất, tính cá biệt, nhưng đều
nằm trong một lãnh thổ chung, đó là cái chung cho toàn bộ cái riêng thường được
xem xét trong phạm trù triết học.
b, Phương pháp sử dụng trong phân vùng chức năng môi trường
Công việc phân vùng chức năng môi trường chỉ có thể đạt được kết quả khi có
được nguồn tài liệu phong phú từ các ngành hữu quan và từ các kết quả khảo sát
thực địa, đồng thời phải có những nguyên tắc, phương pháp thích hợp. Trong công
tác phân vùng hiện nay thường dùng các phương pháp sau:
+ Phương pháp chồng xếp các bản đồ phân vùng bộ phận, đây là phương
pháp đơn giản, sử dụng các bản đồ phân vùng bộ phận đã có hoặc tiến hành thành
lập các bản đồ phân vùng bộ phận, sau đó tiến hành chồng xếp chúng với nhau theo
74
thứ tự lần lượt hoặc chồng xếp thành các bản đồ tổng hợp theo vấn đề rồi lại chồng
xếp các bản đồ tổng hợp đó với nhau. Tuy nhiên, trong thực tế rất ít có những sự
trùng lặp tuyệt đối, do đó, cần phải có sự điều chỉnh bằng các ranh giới trung gian.
+ Phương pháp phân tích liên hợp các thành phần tự nhiên, KT-XH và môi
trường mà nội dung chủ yếu là xây dựng các bản đồ thành phần riêng biệt, trên cơ
sở các bản đồ bộ phận, tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra nguyên nhân phân hóa
thành ra các đơn vị lãnh thổ môi trường.
Phân tích liên hợp các bản đồ thành phần tự nhiên chỉ cho kết quả tốt, khi đã
phát hiện được nguyên nhân chủ yếu và nhân tố chủ đạo của sự phân hóa ra các đơn
vị lãnh thổ môi trường (các vùng chức năng môi trường), đồng thời tìm được các
dấu hiệu chỉ thị, đặc trưng cho các thể tổng hợp và trên cơ sở các dấu hiệu đó có thể
vạch ra các vùng chức năng môi trường trên các bản đồ bộ phận được phân tích.
+ Phương pháp nhân tố chủ đạo hay còn được gọi là phương pháp nhân tố trội
mà theo đó, những đơn vị lãnh thổ môi trường được phân chia có thể theo một hoặc
một nhóm dấu hiệu chỉ thị đặc trưng, nổi trội, có tính chất chi phối phần chính hoặc
toàn bộ các quá trình liên quan đến chất lượng vùng chức năng môi trường.
Phương pháp nhân tố chủ đạo dựa trên có sở của tính không đồng nhất về giá
trị các nhân tố phân hóa tự nhiên, cho nên nhân tố chủ đạo phải hiểu là nhân tố có
tính quyết định sự phân hóa của thể tổng hợp địa lý tự nhiên, đồng thời có khả năng
tác động mạnh đến những nhân tố khác (nhân tố thứ yếu).
+ Phương pháp thực địa được tiến hành ở ngoài trời, nội dung của phương
pháp thực địa là phát hiện các nhân tố chủ đạo trong sự phân hóa ra các vùng chức
năng môi trường và phát hiện các dấu hiệu chỉ thị về phân bố của tác động ưu thế
của từng nhân tố chủ đạo để xác định ranh giới của các vùng môi trường đó.
Phương pháp thực địa được tiến hành theo tuyến, theo diện và tại các trạm cố
định hoặc lưu động.
+ Phương pháp GIS là phương pháp thường dùng hiện nay cho các nghiên
cứu xây dựng bản đồ phân vùng, theo phương pháp này, các thành phần và các yếu
tố tự nhiên, KT-XH và môi trường được xếp thành các lớp thông tin bằng các phần
75
mềm chuyên dụng, từ đó có thể tiến hành phân tích các lớp thông tin riêng rẽ, có thể
nghiên cứu sự đan xen, chồng chéo của các lớp thông tin để tìm ra các mối quan hệ
ràng buộc của các hợp phần tự nhiên, KT-XH và môi trường theo từng vùng lãnh
thổ. Phương pháp này hiện nay đang là phươg pháp ưu thế nhất trong số các phương
pháp phân vùng chức năng môi trường, đặc biệt là có thể cập nhật thông tin theo
thời gian và theo không gian cho các vùng chức năng môi trường, nhờ vậy có thể
nhanh chóng phát hiện các vấn đề môi trường nảy sinh trên địa bàn mỗi đơn vị phân
vùng lãnh thổ môi trường (vùng hay tiểu vùng môi trường).
2.4.2. Các yếu tố sử dụng trong phân vùng chức năng môi trường
Hệ thống đơn vị phân vùng môi trường trên LVS phù hợp với thực tiễn, theo
những yêu cầu chính là:
- Phản ánh được những đặc tính phân hóa không gian đối với các thành tố môi
trường tự nhiên, xã hội và nhân văn.
- Cấp phân chia lớn nhất phải thể hiện được sự phân hoá môi trường trên toàn
bộ lãnh thổ LVS và những cấp nhỏ hơn phân chia trong nội bộ đơn vị cấp lớn hơn,
mang những đặc trưng môi trường của đơn vị cấp cao hơn, những có những đặc
điểm riêng mà chỉ cấp đó có về mặt môi trường (theo tính chất trội của các yếu tố
chủ đạo).
+ Các đơn vị phân vùng môi trường được phân chia phải phục vụ đắc lực cho
công tác QHMT.
Do đó, hệ thống phân vị sử dụng trong luận văn nà gồm hai cấp: vùng và tiểu
vùng môi trường.
* Vùng chức năng môi trường là đơn vị đặc trưng của phân vùng môi trường
LVS. Các thành phần tự nhiên, KT-XH và hiện trạng môi trường trong vùng được
tương đối đồng nhất, bao gồm mối tương quan giữa môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội, nhân văn và có thể thể hiện trên bản đồ cũng như trong thuyết minh
về đặc trưng của từng vùng.
Chỉ tiêu của cấp vùng gồm:
- Có cùng một kiểu địa hình;
76
- Có cùng một loại đất chính;
- Có cùng một kiểu khí hậu.
* Tiểu vùng chức năng môi trường là đơn vị phụ được phân chia trong mỗi
vùng môi trường, chỉ ra mối quan hệ nhân – quả của các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng môi trường trong tiểu vùng.
Các vùng chức năng môi trường có thể phân chia thành các tiểu vùng chức
năng môi trường theo những nguyên tắc sau:
- Có sự xen kẽ một số yếu tố sinh thái khác ở mức độ nhỏ làm cho kém tính
đồng nhất của vùng nếu ta không tách riêng các tiểu vùng ra;
- Bị một vùng khác cắt ngang qua làm mất tính liên tục trong không gian và
trong thực tế đã chia vùng bị cắt thành hai vùng nhỏ.
2.4.3. Yếu tố địa hình
Các đặc điểm của yếu tố địa hình ấ
ở 1: 50.000.
Thủy hệ và các đối tượng có liên quan
- Đường bờ biển được thể hiện theo đúng các kiểu đường bờ với đặc điểm địa
mạo của chúng;
- , suối;
- , kênh mương;
- Các đầm phá, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo.
- Nguồn nước nóng có ý nghĩa định hướ ị kinh tế;
- Các đập hồ chứa nướ ế ;
Dân cư và đối tượng kinh tế - xã hội
- ị gồm thị trấn Ba Đồn, thị trấn Đồng Lê và thị
trấn Quy Đạt.
- , xóm.
- Ghi chú các điểm dân cư có trên bản đồ.
- Các đối tượng kinh tế - xã hộ : Các công trình công nghiệp (nhà máy
lớn, hầm mỏ, khu công nghiệp ở , đường dây điện cao thế, ruộng
77
muối và vùng nuôi trồng thủy sản, các di tích lịch sử- văn hóa lớn và có ý nghĩa, các
công trình công cộng.
Đường giao thông và các đối tượng có liên quan
- ờng sắt, các ga tàu;
- ờ ốc lộ, tỉnh lộ.
- Cầu, phà trên các trục đườ ;
- ;
Địa giới hành chính
- ịa giới hành chính cấp tỉnh;
- ạ giới hành chính cấp huyện.
Dáng đất và chất đất
- Hệ thố ờng bình độ (đường bình độ cái, đường bình độ cơ bản,
đường bình độ nửa khoảng cao đều, đường bình độ phụ, đường bình độ vẽ nháp),
ghi chú đường bình độ. Khoảng cao đều đường bình độ được quy định như sau:
+ Vùng đồng bằng, đồi: Đường bình độ cơ bản 20 m, bình độ cái 100 m;
+ Đồi, núi thấp, cao nguyên: Đường bình độ cơ bản 40 m, 100 m, bình độ cái
200 m, 500 m;
+ Núi trung bình, núi cao: Đường bình độ cơ bản 20 m, bình độ cái 100 m;
- ểm độ ố lượng điểm và ghi chú độ 10-15
điểm/1 dm2 ở vùng núi, 15-20 điểm/1 dm
2 ở vùng đồng bằng, vùng đồi.
- ịa danh dãy núi, núi;
- : Khe, rãnh, xói mòn, vách hẹp, sườn, vách dốc,
hang, động lớn, nổi tiếng, các hố, gò, đống, các bãi cát, bãi đá, đầm lầy.
78
2.4.4. Yếu tố hiện trạng sử dụng đất
Nội dung hiện trạng sử dụng đất đượ
.
ện trạng sử dụ
:
A. Nhóm đất nông nghiệp
1. Đất trồng cây hàng năm
- Đất trồng lúa
- Đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi
- Đất trồng cây hàng năm khác
2. Đất trồng cây lâu năm
- Đất trồng cây công nghiệp lâu năm
- Đất trồng cây ăn quả lâu năm
- Đất trồng cây lâu năm khác
3. Đất có rừng
- Đất rừng sản xuất
- Đất rừng phòng hộ
- Đất rừng đặc dụng
4. Đất nuôi trồng thủy sản
- Đất nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn
- Đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt
5. Đất làm muối
6. Đất nông nghiệp khác
79
B. Nhóm đất phi nông nghiệp
1. Đất ở
- Đất ở tại nông thôn
- Đất ở tại đô thị
2. Đất chuyên dùng
- Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
- Đất sử dụng vào mục đích an ninh- quốc phòng
- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
- Đất sử dụng vào mục đích công cộng.
3. Đất phi nông nghiệp khác
C. Nhóm đất chưa sử dụng
- Đất bằng chưa sử dụng
- Đất đồi núi chưa sử dụng
- Đất núi đá không có rừng cây
- Đất bãi ven biển chưa sử dụng .
D. Nội dung nền bản đồ
- ơ sở toán học
- Đường sắt, ga
- Đường ô tô, số đường
- Đường đất lớn
- Địa giới tỉnh
- Địa giới huyện
- Điểm dân cư đô thị
- Điểm dân cư nông thôn
- Hồ, ao
- Sông ngòi, kênh mương
80
2.4.5. Yếu tố sinh khí hậu
sinh khí hậ
ậu theo hiện trạ
sinh khí hậu:
- Nhiệt độ trung bình tháng, năm, tính bằng độ;
- Lượng mưa trung bình tháng, năm tính bằng milimet;
- Tổng tích ôn, tính bằng độ.
81
2.4.6. Bản đồ phân vùng chức năng môi trường
Bản đồ phân vùng chức năng môi trường là bản đồ quan trọng nhất trong bộ
bản đồ LVS được thành lập khuôn khổ của Luận văn. Đây là kết quả ghi nhận các
nội dung nghiên cứu về mặt học thuật liên quan đến phân vùng chức năng môi
trường, đồng thời còn là một thể nghiệm ban đầu của việc thành lập loại bản đồ này
về phương pháp luận, nội dung và cách trình bày bản đồ.
Mục tiêu của việc thành lập bản đồ phân vùng chức năng môi trường lưu vực
sông Gianh là xác lập cơ sở khoa học nhằm phục vụ công tác xây dựng quy hoạch,
kế hoạch phát triển và quản lý lãnh thổ theo định hướng PTBV.
Nhiệm vụ quan trọng của phân vùng là phân chia toàn bộ lãnh thổ lưu vực
sông Gianh thành các vùng và tiểu vùng tương ứng, trong đó làm nổi bật các HST
đặc trưng, các khu vực tài nguyên, các vùng nhạy cảm về môi trường để từ đó xây
dựng kế hoạch BVMT. Phân vùng chức năng là chia lãnh thổ thành những đơn vị
địa lý tổng hợp (các vùng và tiểu vùng). Mỗi đơn vị cấp vùng có ranh giới khép kín,
có những đặc điểm riêng, có chức năng riêng, không giống với các vùng liền kề và
không lặp lại trong không gian; Đối với cấp tiểu vùng cũng có những đặc điểm trên,
nhưng có thể lặp lại trong không gian ở một nơi khác.
Đối với lưu vực sông Gianh, phân vùng dựa theo đặc điểm của các yếu tố tự
nhiên, kết hợp với những đặc trưng về kinh tế, xã hội, nhân văn. Mặt khác, hoạt
động sống của con người bao gồm cả nông nghiệp truyền thống và văn minh công
nghiệp đã làm biến đổi những HST vốn có, hoặc xuất hiện những HST mới như
HST đất trống - đồi trọc, HST đô thị.
Như vậy sự tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, con người, theo không gian và
thời gian đã dẫn đến sự phân hóa lãnh thổ lưu vực sông Gianh thành những đơn vị
tiểu vùng nhỏ hơn, gắn liền với những HST đặc trưng có những chức năng và sản
phẩm có giá trị kinh tế và môi trường khác nhau. Từ đó có được một bức tranh về
sự phân hóa lãnh thổ lưu vực sông Gianh mang tính quy luật, để định hướng khai
thác, sử dụng một cách hợp lý tài nguyên, đảm bảo hiệu quả KTXH, bảo vệ ĐDSH,
bền vững về sinh thái và môi trường. Việc phân vùng chức năng môi trường lưu vực
82
sông Gianh được tiến hành dựa vào các tiêu chí tự nhiên và các tiêu chí KTXH. Các
yếu tố này luôn luôn song hành tồn tại. Trong những yếu tố trên có thể phân ra yếu
tố chính mang tính chủ đạo như nền địa chất, địa hình, dân cư... và yếu tố phụ,
mang tính cục bộ, có ý nghĩa bổ trợ, như đất đai, thảm thực vật, tài nguyên động
vật... Dựa vào yếu tố chính, mang tính trội để chia ra các vùng quy mô lớn. Các yếu
tố phụ thường được sử dụng để tiếp tục chia nhỏ mỗi vùng thành các tiểu vùng.
Đối với lưu vực sông Gianh việc phân vùng chỉ dừng lại ở 2 cấp: cấp vùng và
cấp tiểu vùng theo sơ đồ nguyên tắc trên sơ đồ 2.1. Lưu vực sông Gianh vùng
tiểu vùng.
Ở mỗi cấp yếu tố trội đặc trưng được lựa chọn để làm cơ sở cho việc phân
vùng. Đó có thể là yếu tố địa hình, khí hậu, vị trí địa lý, v.v... đối với cấp vùng, ví
dụ miền núi thấp phía Tây tỉnh; Vùng đồng bằng phía Đông tỉnh... Đối với cấp tiểu
vùng có thể dựa vào yếu tố đất đai, LVS v.v... , để phân chia.
Sơ đồ 2.1: Nguyên tắc phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh
Các tiểu vùng
Sinh thái
(đất và hiện trạng sử dụng đất, khí hậu, hoạt động của con người)
Lưu vực
sông Gianh
Địa hình
(Địa chất, vị trí Đia lý)
Vùng núi
thấp và cao Vùng đồi,
trung du
Vùng đồng
bằng
Vùng đô thị,
khu CN
Vùng bờ
ven biển
83
Kết quả phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông Gianh
Phân vùng chức năng môi trường theo các tiêu chí và nguyên tắc như đã trình
bày ở trên, toàn lưu vực sông Gianh đã được chia thành 5 vùng với 14 tiể
5 đã nêu ở trên
, ph
.
Dưới đây là mô tả các vùng chức năng môi trường của LVS:
Vùng A Vùng có chức năng môi trường chính là phòng hộ đầu nguồn sông
Nguồn Nậy, sông Rào Trổ, sông Nan và sông Son), tích nước cho các hồ thuỷ
điện/thuỷ lợi (Thuỷ điện Hố Hô tại thôn Tân Đức, xã Hương Hoá đã khởi công xây
dựng với tổng công suất 13MW, hoàn thành cuối năm 2005, đầu năm 2006 hoà lưới
điện quốc gia. Nhánh Rào Trổ có khả năng phát triển thuỷ điện với tổng công suất
25 MW); cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản (gỗ, giấy), khai
thác khoáng sản (đá, vàng); nơi cư trú của nhiều loài động/thực vật quý hiếm, bảo
tồn ĐDSH với Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.
Đây là vùng núi trung bình và núi thấp nằm ở phía Tây, Tây Nam và phía
Nam LVS, dạng địa hình núi thấp có độ cao từ 300 - 750 m và dạng địa hình núi
trung bình có độ cao trên 750 m, có tổng diện tích 3.436 ha. Địa hình núi thấp phân
bố dọc theo biên giới phía Tây lãnh thổ và bị chia thành 2 phần bởi khối núi đá vôi
Phong Nha - Kẻ Bàng tạo thành 2 tiểu vùng là tiểu vùng núi thấp Tây Bắc và tiểu
vùng núi thấp Tây Nam. Lớp thổ nhưỡng ở đây là các loại đất feralit. Địa hình nhìn
84
chung biến đổi đều đặn hơn tiểu vùng núi trung bình nhưng nhiều nơi vẫn vị chia
cắt mạnh, với nhiệt độ từ 22 - 23oC. Ngoài các khu rừng tự nhiên và rừng trông, owr
đây còn có một số diện tích đất chưa sử dụng tương đối lớn.
Dạng địa hình núi trung bình có độ cao tuyệt đối trên 750 m, phân thành 2 tiểu
vùng là tiểu vùng là tiểu vùng núi trung bình phía Tây Bắc và tiểu vùng núi trung
bình phía Tây Nam. Địa hình ở đây bị chia cắt mạnh, rất dốc, có nhiều đỉnh núi cao
trên 1.000 m, với nhiệt độ từ 21 - 22oC. Ở đây chủ yếu là đất xám feralit và đất xám
mùn trên núi. Thực vật chủ yếu là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng với trữ lượng gỗ
tương đối lớn.
Ngoài ra, trên lãnh thổ còn có tiểu vùng đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng với địa
hình hiểm trở, thảm thực vật phong phú đa dạng nên hướng khai thác chủ yếu là
phục vụ cho phát triển du lịch và xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên.
Vùng A có 5 tiểu vùng là:
- Tiểu vùng AI là vùng núi trung bình và núi thấp đầu nguồn sông Rào Nậy;
- Tiểu vùng AII là vùng đồi thấp Rào Cái;
- Tiểu vùng AIII là vùng núi thấp đầu nguồn sông Rào Trổ;
- Tiểu vùng AIV là vùng núi thấp đầu nguồn sông Nan;
- Tiểu vùng AV là vùng núi thấp đầu nguồn sông Son và Vườn Quốc gia
Phong Kha - Kẻ Bàng.
Vùng B Vùng có chức năng môi trường chính là phục hồi HST rừng, chống
xói mòn, bảo vệ đất đai; trồng rừng/cây ăn quả dài ngày, cung cấp nguyên liệu chế
biến gỗ/giấy. Tổng diện tích là 761 ha. Có độ cao tuyệt đối từ 10 - 300 m và độ cao
tương đối từ 10 - 100 m. Vùng này có 2 dạng địa hình chính: dạng địa hình đồi núi
thấp từ 10 - 150 m chia cắt sâu dưới 50 m và dạng địa hình đồi cao từ 150 - 300 m
với độ chênh cao từ 50 - 100.
Dạng địa hình đồi thấp: Nhiệt độ từ 24 - 25oC, địa hình ít dốc, nhiều nơi khá
bằng phẳng. Trong địa hình này có các loại đất như: Đất xám feralit (Xf), đất mới
chưa biến đổi chua (CMc), đất phù sa chua (Pc)... Địa hình này có điều kiện thuận
lợi hơn hẳn các địa hình khác về nhiều mặt, nhất là giao thông, nguồn nước... nên
85
dân cư tập trung khá đông đúc và kinh tế khá phát triển. Tuy nhiên, cũng còn một số
nơi chưa khai thác hết quỹ đất.
Dạng địa hình đồi cao và núi thấp xen lẫn thung lũng: Địa hình này có hai
tiểu vùng, phân bố chủ yếu ở phía Đông Bắc và một số nơi ở phía Tây. Đặc điểm
thổ nhưỡng ở đây khá phong phú, bao gồm đất xám feralit, đất phù sa chua, đất phù
sa trung tính ít chua... Ở đây nhiệt độ khoảng 23 - 24oC độ ẩm tương đối cao so với
đồng bằng. Tuy nhiên, thảm thực vật tự nhiên ở vùng này chủ yếu là cây vụi và cỏ
tranh, lau lách. Một số nơi có thảm thực vật nhân tách: keo lá tràm, thông và cao su
với diện tích tự nhiên tương đối lớn.
Vùng B có 3 tiểu vùng là:
- Tiểu vùng BI là vùng đồi thấp và thung lũng Đồng Lê - Quy Đạt;
- Tiểu vùng BII là vùng núi thấp, xen lẫn đồi cao và thung lũng phía Tây sông
Nan;
- Tiểu vùng BIII là vùng đồi thấp phía Đông Bắc Rào Trổ.
Vùng C Vùng có chức năng môi trường chính là phát triển cây lương thực,
nhất là lúa; cung cấp lương thực/thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực; bảo tồn
ĐDSH đối với các HST nông nghiệp; có tiềm năng du lịch văn hóa- lịch sử, làng
nghề; tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số khu vực dân cư sống tập
trung (các tuyến đường giao thông, huyện lỵ, thị trấn, cụm công nghiệp, nhà máy,
làng nghề...).
Là vùng đồng bằng duyên hải có độ cao từ 15 m trở xuống với diện tích
khoảng 384 ha. Đây là các đồng bằng có nguồn gốc mài mòn, bồi tụ phân bố chủ
yếu ở các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch.
Vùng C có 2 tiểu vùng là:
- Tiểu vùng CI là vùng đồng bằng tích tụ hạ du Nguồn Nậy và Rào Trổ;
- Tiểu vùng CII là vùng đồng bằng đồi thấp và cao, tích tụ hạ du sông Nan và
sông Son.
Vùng D Vùng có chức năng môi trường chính là phòng chống thiên tai ven
biển do được che chắn bởi các cồn cát tự nhiên, rừng phòng hộ và hệ thống đê biển,
86
bảo vệ cho vùng đất bằng thấp phía nội đồng; nơi có các hoạt động nuôi trồng thủy
sản, làm muối, khai thác khoáng sản có giá trị (titan, cát trắng), du lịch nghỉ ngơi,
điều dưỡng; chứa thải từ các nơi khác đổ về tại các đầm phá và vùng hạ lưu các
sông lớn.
Đây là vùng đất ngập nước ven biển và dải cồn cát dọc bờ biển có diện tích
trên 54 ha. Nơi giáp ranh giữa đồng bằng và cồn cát còn có những dải đất trũng
ngập nước theo mùa và của sông là những HST thủy vực giàu nguồn lợi thuỷ sản.
Dải cồn cát này có độ cao thay đổi từ 2-3m đến 30-40m, nơi rộng nhất đạt 5 km, độ
dốc tương đối lớn, chịu tác động mạnh bởi quá trình hoạt động của gió và nước dẫn
đến hiện tượng cát bay, cát lấp vào đồng ruộng, đường giao thông gây khó khăn cho
sản xuất và đi lại. Đây cũng là vùng cần có đầu tư trồng rừng chắn cát và phát triển
mô hình kinh tế vùng cát vốn được coi là khắc nghiệt nhưng lại đầy tiềm năng kinh
tế của tỉnh.
Vùng D có 2 tiểu vùng là:
- Tiểu vùng DI là vùng đồng bằng trũng ven biển phía Bắc cửa Gianh;
- Tiểu vùng DII là vùng đồng bằng trũng ven biển ở phía Bắc và cao dần về
phía Nam cửa Gianh.
Vùng E Vùng có chức năng môi trường chính là đô thị trung tâm hành chính
- văn hóa của LVS, ở đây là Thị trấn Ba Đồn; tập trung dân cư đông đúc; hoạt động
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ; có tiềm
năng về du lịch, nghỉ dưỡng; nơi chứa thải lớn từ các hoạt động và sinh hoạt của
con người. Các khu công nghiệp, khu kinh tế là nơi sản xuất công nghiệp có quy mô
tập trung; nơi hình thành và chứa các nguồn thải công nghiệp (chất thải rắn, nước
thải, khí thải). Tổng diện tích là 38 ha.
Vùng E có 2 tiểu vùng là:
- Tiểu vùng EI là đô thị trung tâm - Thị trấn Ba Đồn;
- Tiểu vùng EII là khu vực ven Thị trấn Ba Đồn.
87
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG PHỤC
VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÃNH THỔ
3.1. Lợi thế, hạn chế, cơ hội, thách thức và xuất phát điểm của lưu vực sông
Gianh
3.1.1. Lợi thế
Lưu vực sông Gianh ở vào vị trí trung độ của cả nước, nơi giao thoa của đặc
thù lãnh thổ miền Bắc, miền Nam nên dễ hoà nhập, tiếp thu những tiến bộ kinh tế,
khoa học kỹ thuật. Nơi mà các tuyến đường giao thông quan trọng của Quốc gia
xuyên suốt chiều dài của lưu vực (Quốc lộ 1A, Quốc lộ 12A, đường Hồ Chí Minh,
đường sắt) là đầu mối giao thông của hai miền Nam – Bắc.
Có sông Gianh chảy từ Tây sang Đông và đổ ra biển, rất thuận lợi cho việc
vận chuyển, giao lưu hàng hoá giữa miền núi và đồng bằng. Có bờ biển dài 26 km
cùng với cảng Gianh với mực nước biển sâu đủ điều kiện xây dựng cảng nước sâu
để xây dựng cảng nước sâu có quy mô lớn trong tương lai.
Quỹ đất còn khá lớn, nhất là vùng gò đồi thuận lợi cho phát triển cây công
nghiệp dài ngày, ngắn ngày, trồng rừng nguyên liệu, vùng ven sông biển còn nhiều
đất để phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
Có nguồn lao động dồi dào, có nguồn lực con người thông minh, cần cù, giàu
lòng yêu nước, quyết tâm vượt mọi khó khăn. Mặt khác, có đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến.
3.1.2. Hạn chế
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nhiều yếu tố bất lợi về thời tiết khí hậu vẫn
thường xuyên xảy ra như: bão lụt, gió Tây Nam khô nóng, cát bay cát chảy đã ảnh
hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống. Địa hình phức tạp, bị chia cắt, đất chống
đồi núi trọc nhiều. Địa hình có độ dốc lớn nên đất canh tác thường bị bào mòn và
rửa trôi.
Thu nhập bình quân đầu người đạt mức bình quân so với cả tỉnh thấp so với cả
nước, là một trong những lưu vực có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế vẫn còn thuần
88
nông, tỷ lệ sản xuất hàng hoá và tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, thu ngân sách
chỉ đạt 33% tổng chi.
Cơ sở vật chất hạ tầng cũng như hạ tầng của nền kinh tế còn yếu kém, lại
không đồng bộ. Dân số tăng nhanh, trẻ em suy dinh dưỡng còn chiếm tỷ lệ còn cao.
Số người chưa có việc làm còn nhiều; một bộ phận dân cư, đặc biệt là ở miền núi,
miền biển còn gặp nhiều khó khăn.
Tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội đang hình thành và phát triền.
Trình độ dân trí của một bộ phận dân cư còn thấp, nhất là dân cư vùng nông thôn,
miền núi, vùng biển và vùng sâu vùng xa.
3.1.3. Cơ hội
Nước ta đã trở thành thành viên của WTO, theo đó tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế sẽ đem lại cho Quảng
Bình nói chung và lưu vực sông Gianh nói riêng, nhiều cơ hội phát triển KTXH
nhanh hơn, phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực – nguồn vốn,
công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của lưu vực sông.
Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các tổ chức phi chính phủ
(NGO) hằng năm đã hỗ trợ cho các địa phương trên địa bàn LVS khoản kinh phí
khá lớn, đã góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng và công tác xóa đói giảm nghèo, nâng
cao năng lực cho người dân vùng khó khăn.
Cơ hội này sẽ tạo điều kiện cho LVS phát huy các lợi thế và khắc phục các
hạn chế trong phát triển 10 – 15 năm tới.
3.1.4. Thách thức
Những tác động của cơ chế thị trường thế giới ảnh hưởng lớn đến Việt Nam –
Quảng Bình nói chung và LVS nói riêng. Xu thế đó tạo cho lưu vực sông Gianh có
cơ hội thu hút đầu tư, song vẫn đặt ra với LVS là phải lựa chọn hướng đầu tư có lợi
so sánh trong thương mại liên vùng.
Thách thức trong cạnh tranh, do người dân mới làm quen với cơ chế thị
trường, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, sản phẩm chưa có thương hiệu.
89
Thách thức về nguy cơ ô nhiễm môi trường gia tăng và khă năng bảo vệ môi
trường, thách thức trong phát triển kinh tế phải đảm bảo bền vững, công bằng xã
hội. Thách thức này đòi hỏi việc xác định phương hướng phát triển của LVS trong
tương lai cũng như việc đề ra những nhiệm vụ, những giải pháp đảm bảo cho các
định hướng phát triển phải dựa trên việc nắm bắt các cơ hội trên, khắc phục những
nguy cơ, những khó khăn tiền ẩn.
3.2. Các giải pháp công trình
- Xây dựng trạm quan trắc cảnh báo thiên tai. Với chức năng thi thập thông
tin, dự báo bão và các thiên tai khác để phát lại (tiếp sóng) cho các tàu thuyền hoạt
động trên biển của LVS.
- Xây dựng ở của sông Gianh âu thuyền để neo đậu tàu thuyền tránh bão.
- Đầu tư bê tông hóa hệ thống kè biển 2 cửa sông Gianh, đồng thời tổ chức
nạo vét lòng sông để tàu bè ra vào thuận lợi.
- Tiếp tục đầu tư các dự án trồng rừng trên cát ven biển và 2 bờ sông Gianh,
coi đây là biện pháp chủ động để ngăn chặn xói lở.
- Giải pháp xây dựng nhà ở của nhân dân theo phương hướng phòng chống
thiên tai:
+ Các vùng thấp lũ: xây dựng nhà kiên cố cao tầng hoặc ít nhất có một gia
kiên cố cao tầng, vận động tôn cao nền nhà, xóa bỏ nhà tạm, cho vay ưu đãi các hộ
nghèo để nâng cấp nhà đảm bảo phòng chống bão lũ.
+ Các vùng sạt lở đất, có lũ quyét, lũ ống: Phải nghiên cứu để quy hoạch bố trí
nhà ở theo phương châm phòng tránh, xây dựng khu tái định cư. Hình thành các khu
dân cư theo quy hoạch, được liên kết với nhau bằng hệ thống đường giao thông đảm
bảo tiêu chuẩn vừa thuận lợi cho việc phát triển kinh tế vừa có thể ứng cứu hỗ trợ
nhau khi có thiên tai.
+ Tăng cường thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn bằng
các nguồn vốn trong và ngoài nước. Trước hết huy động mọi nguồn lực để đầu tư
hoàn thành chương trình kiên cố hóa kênh mương, triển khai xây dựng các công
trình thủy lợi mới để tạo thêm nguồn nước, khai thác tối đa công suất hiệu quả sử
90
dụng công trình hiện có, mặt khác tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực nông
lâm ngư.
- Giải pháp sử dụng hợp lý nguồn nước:
+ Nâng cấp về kỹ thuật công nghệ và công suất các cơ sở cấp nước đang hoạt
động, kiên quyết loại bỏ các bộ phận, dây chuyền công nghệ quá lạc hậu, ảnh hưởng
chất lượng nước và gây ô nhiểm môi trường nước.
+ Đối với vùng núi, trung du cần lựa chọn dây chuyền công nghệ đơn giản
nhất có thể với các loại vật liệu, vật tư sẵn có trong nước và địa phương để giảm chi
phí, nhằm giảm tối đa giá thành nước sinh hoạt, tạo điều kiện để người dân sử dụng.
+ Ở những vùng nguồn nước mặt dồi dào (suối, sông nhánh, hồ đập) ít bị ô
nhiễm nên ưu tiên chọn dây chuyền cấp nước tự chảy hoặc bơm dẫn nước mặt, vừa
an toàn, vừa giảm chi phí, chỉ những nơi nguồn nước mặt khan hiếm hoặc bị ô
nhiễm mới sử dụng các giếng khoan bơm nước dưới đất.
+ Cần hướng dẫn cho nhân dân ở các vùng sâu, vùng xa, các vùng dân cư phân
tán, mức sống còn thấp về kỹ thuật cấp nước tự chảy quy mô nhỏ (có thể kết hợp
thủy điện nhỏ), xây lắp giếng khoan bơm nông quy mô gia đình, đào giếng khơi hộ
gia đình, xây lắp bể lọc, tàng trữ nước mưa cũng như kỹ thuật làm trong nước, xử lý
nước đơn giản để người dân với kinh phí ít ỏi có nguồn nước sạch để dùng.
3.3. Các giải pháp phi công trình
- Trên cơ sở những định hướng tổng thể phát triển ngành nông - lâm nghiệp,
tiến hành rà soát lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu thị
trường trong nước và thế giới để bố trí điều chỉnh cơ cấu cây trồng và vật nuôi một
cách hợp lý trên từng địa bàn nhằm khai thác lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng vùng
sinh thái, nâng cao khả năng của các loại nông sản hàng hóa.
- Nghiên cứu xây dựng đồng bộ hệ thống phòng chống dịch bệnh cho gia súc,
gia cầm, nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống lúa chịu hạn,
lúa cạn, giống lúa thơm chất lượng cao để áp dụng vào sản xuất.
- Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ hợp lý để tăng hệ số sử dụng đất, tăng giá trị thu
được trên một đơn vị diện tích, đưa vụ đông trở thành vụ sản xuất chính trong năm.
91
Quy hoạch một số vùng lúa hàng hóa phẩm cấp, chất lượng cao, quy hoạch xây
dựng vùng chuyên canh rau đậu, tạo thành vành đai quanh thị trấn Ba Đồn và một
số xã, phát triển ngành trông cây cảnh phục vụ đô thị và du lịch.
- Cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng để người dân bảo vệ và
phát triển vốn rừng, đồng thời có chế độ chính sách hợp lý sở hữu sản phẩm từ rừng
để đảm bảo đời sống cho nông dân sống bằng nghề rừng.
- Huy động các nguồn vốn nhất là nguồn vốn trong dân, trong các doanh
nghiệp để đầu tư cho các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá,
đánh bắt. Đa dạng hóa các loại hình sản xuất, khuyến khích hình thức tổ hợp tác,
củng cổ hợp tác xã đánh bắt xa bờ, phát triển hình thức hợp tác xã nuôi trồng và
nghề cá trong nhân dân. Đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư, tăng cường đào tạo tập
huấn và ứng dụng kỹ thuật mới, xây dựng mô hình trình diễn và ứng dụng nuôi sinh
học, nuôi sạch, nuôi tôm và thủy sản đặc sản xuất khẩu.
- Đẩy mạng hoạt động tư vấn, môi giới, dịch vụ khoa học công nghệ để phát
triển thị trường khoa học công nghệ. Sớm xây dựng cơ chế có hiệu quả gắn giữa
khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh xã hội hóa
hoạt động khoa học công nghệ theo hướng hỗ trợ hoạt động thị trường khoa học
công nghệ, khuyến khích, khen thưởng những nhà khoa học có đóng góp cho nền
kinh tế LVS phát triển. Xây dựng và đưa vào hoạt động quỹ khoa học công nghệ
cấp vùng
- Khuyến khích xây dựng mô hình kinh tế trang trại, mô hình liên hộ nhằm
khai thác tiềm năng đất đai tại chỗ. Tăng cường công tác tuyên truyền để thay đổi
nhận thức về vấn đề học nghề, thông qua đó mà lựa chọn nghề cho phù hợp với khả
năng của lao động.
- Chú trọng xây dựng nông thôn, xóm làng, cụm dân cư vững mạnh, phát huy
vai trò của các trưởng thôn và công an viên, xã đội viên để triển khai, tổ chức có
hiệu quả các nhiệm vụ phát triển KTXH và công tác an ninh, quôc phòng ở từng
thôn, từng cơ sở.
92
KẾT LUẬN
Phân vùng chức năng môi trường không phải là điều mới mẻ trên thế giới, tuy
nhiên đối với Việt Nam chưa có một phương pháp hoàn chỉnh về phân vùng chức
năng môi trường, đặc biệt trong phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông.
Mong rằng trong thời gian tới được nghiên cứu để phương pháp được hoàn thiện,
trở thành công cụ cho công tác phục vụ công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch theo
định hướng PTBV.
Quản lý tổng hợp lưu vực sông ngày nay được coi là một phương pháp luận
đặc biệt, lấy lưu vực sông làm cơ sở và xem xét vùng này như một hệ thống thống
nhất, trong đó có những tác động qua lại giữa nước, đất đai và môi trường với mục
đích chung là bảo vệ toàn bộ năng suất của các nguồn tài nguyên trong lưu vực. Đây
được xem là những phần thiết yếu để quản lý tốt các nguồn nước. Công tác quản lý
tổng hợp lưu vực sông còn liên quan đến nhiều khía cạnh như quản lý đất đai, quản
lý đô thị, quản lý công nghiệp, quản lý xã hội...
Qua điều tra, khảo sát thực địa, thu thập tài liệu liên quan, cho thấy rắng việc
phân vùng chức năng môi trường lưu vực sông để phục vụ công tác quản lý môi
trường theo hướng PTBV là có hiệu quả và khả thi. Sau khi đánh giá phân ra các
vùng cho lưu vực sông Giang Quảng Bình thu được kết quả là lưu vực sông Gianh
bao gồm 5 vùng và 14 tiểu vùng.
Lưu vực sông Gianh có nguồn nước tự nhiên khan hiếm, nhưng mật độ dân số
tương đối thấp và nguồn nước không được phát triển nhiều, so vậy khả năng nguồn
nước trên đầu người vẫn đủ. Đến năm 2020, khai thác nước sẽ khiến lưu vực ở đoạn
cuối, mức thấp của phạm vi căng thẳng trung bình. Lưu vực này có nhiều loài quan
trọng, các khu bảo tồn lớn, và dòng chảy phần lớn không bị điều tiết nhiều bởi các
đập. Có hai di sản thế giới trên lưu vực này (Phong Nha và Kẻ Bảng). Nuôi trồng
thủy sản đã phát triển trên những dòng chảy tương đối tự nhiên này. Tuy nhiên, một
tỉ lệ lớn các hộ gia đình nông thôn được đánh giá là sống trong nghèo đói, và tỉ lệ
thất nghiệp cao. Vì vậy, việc xem xét các chức năng môi trường mà mỗi lãnh thổ
93
của LVS có thể đảm nhận và thực hiện trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và
phải quy hoạch chúng trong khuôn khổ phát triển kinh tế hợp lý.
Kiến nghị:
- Đô thị hóa là một vấn đề phức tạp, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng của
đô thị, các chủ dự án phải có báo cáo ĐTM trước khi triển khai thực hiện dự
án.
- Chuyển đổi sử dụng đất, đặc biệt là đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng
tại lưu vực sông Gianh cần phải được xem xét, cân nhắc kỹ càng đảm bảo
tính hợp lý về sử dụng cũng như khi tổ chức lãnh thổ và giảm thiểu những
xung đột trong khai thác tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học và môi trường
theo quan điểm phát triển bền vững.
- Trong quá trình thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh đến năm 2020 vẫn có thể nảy sinh các vấn đề môi trường tại lưu vực
sông Gianh, có vấn đề môi trường trở thành cấp bách như chất thải rắn, ô
nhiễm không khí do sản xuất xi măng, vấn đề biến đổi khí hậu… vì vậy các
cơ quan quản lý, các nhà đầu tư phải có các giải pháp giải quyết các vấn đề
môi trường nảy sinh. Mặt khác phải thực hiện việc gắn liền giữa quy hoạch
bảo vệ môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
nói chung và lưu vực sông Gianh nói riêng.
- Nâng cao năng lực quản lý môi trường cho các cơ quan quản lý theo chức
năng, bao gồm lực lượng cán bộ có trình độ quản lý, cơ sở vật chất, thiết bị
phục vụ cho công tác quản lý môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Bình, Báo cáo hiện trạng môi trường
tỉnh Quảng Bình năm 2005, Đồng Hới.
2. Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày2-
12/2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội.
3. Chiến lược Quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam
đến năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg ngày
10- 7/1999, Bộ Xây dựng, Hà Nội.
4. Võ Chí Chung (2005), Hợp phần đất và rừng trên các lưu vực sông, Dự án
Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt
Nam - VIE/01/021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
5. Cục thống kê tỉnh Quảng Bình (2009), Niên giám thống kê Quảng Bình năm
2009, NXB Thống kê, Hà Nội.
6. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị
sự 21 của Việt Nam), ban hành theo Quyết định số 153/2004/ QĐ-TTg ngày
17- 8/2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
7. Lưu Đức Hải (2007), Cơ sở khoa học môi trường, NXB ĐHQG Hà Nội.
8. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2009), Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu
môi trường và phát triển, NXB ĐHQG Hà Nội.
9. Bùi Đình Khoa (2005), Thực trạng cấp nước đô thị Việt Nam, Báo cáo Hội
nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2005 của Ban Quản lý quy hoạch lưu
vực sông Hồng - Thái Bình, Hà Nội.
10. Vũ Tự Lập (2005), Địa lý tự nhiên Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
11. Cao Liêm và nnk (1990), Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng
sông Hồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
12. Luật Bảo vệ môi trường 2005, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Khóa X, Kỳ họp thứ 10, Hà Nội.
13. Luật Tài nguyên nước 1998, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Khóa X, Kỳ họp thứ 3, Hà Nội.
14. Nghị định số 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/12/2008 về Quản lý
lưu vực sông, Hà Nội.
15. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, NXB Thế giới, Hà
Nội.
16. Vũ Quyết Thắng (2007), Giáo trình Quy hoạch môi trường, NXB ĐHQG Hà
Nội.
17. Đặng Trung Thuận (2009), Phân vùng chức năng môi trường tỉnh Thái
Nguyên, Dự án quy hoạch bảo vệ môi trường tỉnh Thái Nguyên, Thái
Nguyên.
18. Đặng Trung Thuận, Nguyễn Thế Tiến (2003), Phân vùng lãnh thổ phục vụ
quy hoạch môi trường vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung, Báo cáo Hội
thảo chương trình KC. 08, Đồ Sơn.
19. Đặng Trung Thuận, Đặng Trung Tú (2007), Phân vùng lãnh thổ huyện đảo
Phú Quốc, Kiên Giang.
20. Đặng Trung Thuận và nnk (2006), Phân vùng lãnh thổ tỉnh Ninh Bình, Dự án
quy hoạch môi trường tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
21. Đặng Trung Thuận và nnk (2007), Phân vùng đới bờ tỉnh Quảng Nam, Dự
án quản lý tổng hợp đới bờ tỉnh Quảng Nam, Quảng Nam.
22. Trần Thục và nnk (2008), Sổ tay phổ biến kiến thức Tài nguyên nước Việt
Nam, Ủy ban Quốc gia về Chương trình Thủy văn Quốc tế (VNC-IHP),
2008.
23. Tổng cục Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường các năm 2006, 2007,
2008, 2009, Hà Nội.
24. Tổng cục Thống kê (2008), Kết quả điều tra lao động và việc làm năm 2007
ở Việt Nam, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê Việt Nam năm 2008, NXB
Thống kê, Hà Nội.
26. UBND tỉnh Quảng Bình (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã
hội tỉnh Quảng Bình đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Đồng Hới.
27. UBND tỉnh Quảng Bình (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
(2006 - 2010) của Quảng Bình, Đồng Hới.
28. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII (2005), Đẩy mạnh
CNH –HĐH, xây dựng tỉnh Quảng Bình phát triển nhanh và bền vững, Đồng
Hới.
Tiếng Anh
29. ADB. Guidelines for Intergrated Regional Economic - Environmental
Development Planning, Environment Paper No 3. 1991.
30. Cathy McGregor and other (1999), Prince George Land and Resource
Management Plan, the University of British Columbia.
31. Greg Lindsey (1997), Environmental Planning, Lecture Notes, CRES -VNU.
32. Malone-Lee Lai Choo (1997), Environmental Planning, National University
of Singapore.
33. Carla W. Montgomery (2004), Environmental geology, Northern Illinois
University.
34. Susan Buckingham - Hafield & Bob Evans (Editorial Leader) (1996),
Environmental Planning and Sustainability, John Wiley & Sons, New York.