ph Ần mỞ ĐẦu - sdh.ueh.edu.vn · pdf filecứu, sự phát triển kinh tế...
TRANSCRIPT
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc
tế mà thời gian qua đã giúp cho các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP lập nên kỷ
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và
nông nghiệp công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống xã hội
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua
cũng bộc lộ khá nhiều yếu kém: tăng trưởng xuất khẩu không ổn định, còn chứa đựng
nhiều yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài; sản
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, sự phát triển kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng giữa các ngành nghề, lĩnh vực và
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng,
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao…
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào
khác có được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để ĐBSCL xác
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát
2
triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường
hội nhập và cạnh tranh quốc tế…
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Xác định sản
phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây:
1) Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho
toàn vùng.
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020.
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực
ĐBSCL trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các
nhiệm vụ trọng tâm như sau:
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn và
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020.
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
3
4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chủ lực
mang đặc trưng cho lợi thế, tiềm năng và gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế của
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng
bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, khi nghiên cứu nhu cầu thị trường thì phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước.
4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Phát triển cụm công nghiệp gắn với phát triển vùng lãnh thổ và địa phương, hoặc
phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều
công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên,
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu,
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra.
4.1. Tài liệu nước ngoài
1) Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter (1990). Porter cho rằng,
các lý thuyết phát triển truyền thống như lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so
sánh của David Ricardo xem nền kinh tế như là sự “định hướng bởi yếu tố nguồn lực”.
Tức, lợi thế của một quốc gia trong thương mại quốc tế được xác định bởi các yếu tố
nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì
chúng tạo ra chi phí thấp. Tuy nhiên, theo Porter thì "sự thịnh vượng của quốc gia được
tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao
hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị
4
độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter
và các lý thuyết cạnh tranh khác vào việc xác định lợi thế cạnh tranh để phát triển cụm
chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21].
2) Lý thuyết cụm phát triển của M. Porter (1990). Ban đầu, Porter cung cấp các
nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn
với các chiến lược phát triển địa phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về
nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên
kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận
dụng thành công lý thuyết này vào lựa chọn và phát triển ngành/sản phẩm chủ lực tập
trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48].
3) Sự phát triển của khái niệm cụm Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra,
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48].
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát
triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị
trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm.
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm
là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45].
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các
5
giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc
gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa,
dịch vụ chủ lực của địa phương [47].
Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này
được tác giả tham khảo như: “Regional innovation systems (RIS) in China của Jon
Sigurdson” đăng trên Working Paper No 195, July 2004 [49]; “Sustaining the Green
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in
Japanese alcoholic beverages and fermented foods, Tokyo University of Agriculture
Sedagayaku, Tokyo, Japan [54]; “Identifying and assessing the factors that influence
cluster’s competitiveness in Oregon, and some initial suggestions”, Luận án Tiến sĩ của
Sam Gi Hong (2007) [52]....Nhìn chung các tài liệu này đều nhấn mạnh đến vai trò của
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững.
4.2 Tài liệu trong nước
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
tỉnh vùng Bắc Trung bộ” của Nguyễn Hồng Lĩnh (2007). Luận án đã vận dụng các lý
thuyết liên quan, đặc biệt là mô hình kim cương của M. Porter để phân tích tìm ra các
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo
sát thực tế; rút kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông
Nam Á và dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, Luận án đã xác định các ngành công
nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9].
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo
Chương trình, sẽ hình thành và phát triển hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam bằng
công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các
6
doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường
quốc tế [24].
3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 –
2005 của Bộ Khoa họcCông nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với
chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Nội dung chủ yếu của Chương trình
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh…; xây dựng các mô hình thâm canh và
sản xuất công nghiệp trong nuôi trồng nông, lâm, thủy hải sản theo hướng bền vững và
bảo vệ môi trường sinh thái...[1]
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực
Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của
Thành phố là các tiêu chí gồm sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được
tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng
cao, ổn định; hoặc thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn vào
tổng GDP công nghiệp. Qui trình xét chọn có 4 bước: đề xuất doanh nghiệp tham gia
Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận
sản phẩm chủ lực...[17].
5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2002 – 2005”. Theo Chương trình này, Hệ thống tiêu chí lựa chọn sản
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham
gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt
động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín,
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].
7
Ngoài ra, Luận án còn tham khảo nhiều tài liệu chương trình phát triển sản phẩm
chủ lực tương tự của các địa phương khác cũng như hội thảo, hội nghị,... liên quan đến
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lực
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy
(Tp Cần Thơ) giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020” và các bài viết khác của
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết vấn
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững.
5. Tính mới của Luận án
So với các công trình nghiên cứu cũng như chương trình phát triển sản phẩm chủ
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau:
1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương
pháp xác định sản phẩm chủ lực để vận dụng vào giải quyết các vấn đề có tính lý luận
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2020.
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn.
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho
việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng.
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện
việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển
vọng trong vùng để từ đó lập ra bảng Danh mục những sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
năm 2020.
8
5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực của
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020.
6. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như:
+ Tiếp cận hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực của
Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính
đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại trong cả nước. Nghĩa là xem hàng hóa, dịch vụ đó của Đồng bằng sông Cửu
Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước.
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó.
+ Các phương pháp hỗ trợ khác: Sử dụng các phương pháp mô hình hóa, sơ đồ
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp hồi qui tuyến tính…, đặc biệt trong phân tích
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng.
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây
dựng cơ sở lý thuyết một cách khoa học và khách quan về sản phẩm chủ lực. Công cụ
được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo
luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát ...
6.3Phương pháp nghiên cứu định lượng
Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như:
Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa
(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...
9
7. Khung nghiên cứu
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
Cơ sở lý luận xác định SP chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Lý luận chung về SP chủ lực Thuyết lợi thế tuyệt đối (A.Smith) và lợi thế so sánh của (D.Ricardo) Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia và Cụm phát triển của M. Porter
Phương pháp xác định và phát triển SP chủ lực Các tiêu chí đánh giá và thang điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực Qui trình xác định SP chủ lực Các nội dung và nguyên tắc cơ bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực
Chương 2. THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA
Thực trạng phát triển sản phẩm chủ lực Lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản Lĩnh vực công nghiệp Lĩnh vực thương mại và dịch vụ
Thực trạng xác định sản phẩm chủ lực Xây dựng tiêu chí và qui trình xác định Danh mục sản phẩm chủ lực Nhận xét, đánh giá
Đánh giá tiềm năng phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL Vận dụng mô hình kim cương (M.Porter) và các lý thuyết đã khác trình bày
Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020
Xây dựng Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL Hệ thống tiêu chí Thang điểm và phương pháp tính toán
Xây dựng Danh mục SP chủ lực ĐBSCL Sản phẩm chủ lực ĐBSCL 20062010 Sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
Giải pháp triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL Giải pháp phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
10
8. Kết cấu chung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học cho việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển
sản phẩm chủ lực
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm
chủ lực trong phát triển kinh tế vùng, địa phương; các lý thuyết có liên quan và kinh
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước.
Chương 2: Thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng
sông Cửu Long thời gian qua
Chương này chủ yếu thực hiện việc phân tích, đánh giá thực trạng xác định sản
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược
điểm trong việc xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020.
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực ĐBSCL; đề xuất Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL một
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực
11
Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ. Điển hình nhất là Nhật bản, 20 năm sau thế chiến thứ 2 (1951 – 1973) đã trở
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá
rẻ... đã đưa nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn
nền kinh tế hàng đầu thế giới (WB, 2007). Tương tự, thông qua hai cuộc “Cách mạng
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53]
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi
nói về sản phẩm chủ lực.
v Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) là sản phẩm giúp gia tăng kim ngạch và
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ cũng như tạo điều kiện
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định
12
số: 21/2001/QĐbKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1].
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ
Chí Minh giai đoạn 20022005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ Chí Minh giai đoạn
20022005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều
nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐUB) [2].
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước; Được tạo ra trên dây chuyền thiết bị có công nghệ ngang tầm khu
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định
ở mức cao và thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực với tỷ trọng đóng góp vào tổng
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐUB) [17].
+ Cùng một quan niệm với Tp Hồ Chí Minh và Tp Hà Nội, tỉnh Đồng Nai với
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn
20062010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Đây là những sản
phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành công nghiệp có nhịp độ tăng
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và ảnh hưởng đến sự phát triển đối
với nhiều sản phẩm công nghiệp khác cũng như có sức cạnh tranh cao trên thị trường
trong nước và xuất khẩu (Quyết định số 955/QĐUBND). Nói cách khác, đối với tỉnh
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].
13
v Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh,
Chuyên gia nghiên cứu khu công nghiệp, trong một bài viết của mình cũng đã sử dụng
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai
phát triển mạnh về công nghệ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô
hình nữa.
+ Với TS Lê Tấn Bửu, Trưởng khoa Thương mạiDu lịchMarketing, trường Đại
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến
nông, thủy sản vì đây là thế mạnh của Việt Nam mà trọng điểm là ĐBSCL, đồng thời
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội.
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi
thời kỳ khác nhau việc nhận thức về sản phẩm chủ lực có khác nhau. Chính từ sự nhận
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để
tập trung đầu tư phát triển là nhiệm vụ có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia, địa
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án cần đi đến một nhận
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực.
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực
Trước hết, cần bắt đầu với thuật ngữ “chủ lực”. Theo Từ điển tiếng Việt thông
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác
dụng quyết định. Ứng với tiếng Anh là “driving force” (lực lượng có tính dẫn đạo) hay
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ
lực lượng quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chiến trường như “quân chủ lực”, “bộ
đội” chủ lực...Lực lượng này được sử dụng khi cần giải quyết các mục tiêu chiến lược,
14
quyết định đến phạm vi toàn cục. Đặc trưng của chủ lực là tập trung với số lượng lớn,
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác
chiến trên diện rộng.
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức là sản phẩm hữu
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm
chế biến có thịt đóng hộp, cá đóng hộp, thịt đông lạnh, cá đông lạnh..., ngành hóa mỹ
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng
với sản phẩm chủ lực hay ngành hàng chủ lực như: key products, main products, major
products hoặc key sectors, main sectors.
Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến),
Canned (đóng hộp)...
Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ yếu của Công
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết
kế và cài đặt tất cả các bảng phân phối điện), Control Board (Bảng kiểm soát điện),
Electric Box (Hộp điện), Capacitor Bank medium and low Voltage (Tụ bù trung áp và
thấp áp)….
Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ
sản phẩm chính của Sumikin Bussan Special Steel Co., Ltd là: Tubes and Pipes (ống
nước, ống kết cấu cho xe ô tô, máy móc và ống thép đặc biệt cho các nhà máy hóa dầu);
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử,
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay.
Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có
15
các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình)....
Từ những kết quả phân tích đã trình bày ở phần trên, có thể nhận diện sản phẩm
chủ lực thông qua định nghĩa như sau: “Sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và năng lực cạnh
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời
nó còn có thể là sản phẩm thể hiện tính đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa của một
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” 1 .
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản
của sản phẩm chủ lực như sau:
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng,
mẫu mã kiểu dáng và các tính năng khác phải giống nhau giữa các cá thể. Rõ ràng, sản
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi
lực yếu, sức cạnh tranh không cao.
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng,
thiết kế kỹ thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo tiêu chuẩn quốc tế; có khả năng tiêu thụ tốt
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp.
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh
1 Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có
16
Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ,
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo.
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ
Một sản phẩm chủ lực còn là sản phẩm thể hiện lợi thế đặc trưng của quốc gia,
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính lợi thế cạnh tranh của
quốc gia hay vùng lãnh thổ (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động…). Ngoài ra,
nhiều sản phẩm chủ lực còn là biểu tượng văn hóa của quốc gia hay vùng lãnh thổ, góp
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi
trường so với sản phẩm được thay thế.
1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới.
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực
Khái niệm trong Luận án Các khái niệm trước đây
17
Nêu bật mục đích chính của sản phẩm
được tạo ra là để trao đổi mua bán, đặc
biệt là mua bán quốc tế.
Chỉ cho biết sản phẩm nói chung chứ chưa
thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua
bán, nhất là mua bán quốc tế.
Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa
trên tiềm năng, lợi thế chung của vùng,
miền quyết định một cách khách quan.
Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào
điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và
do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan
Bao gồm cả sản phẩm công nghiệp, nông
nghiệp thủy sản và dịch vụ
Thường chỉ đề cập chủ yếu đến sản phẩm
công nghiệp, hoặc nông nghiệp
Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến
các ngành nghề khác
Chú trọng đến khía cạnh tạo ra giá trị sản
lượng, tốc độ tăng trưởng, hiệu quả... riêng
của sản phẩm chủ lực mà thôi.
Sản phẩm không những mang giá trị vật
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa…
Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật
chất, giá trị kinh tế mà thôi
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:
1) Xác định đúng sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định được năng lực
cạnh tranh cốt lõi của quốc gia, vùng lãnh thổ…, để từ đó có chính sách đầu tư đúng
hướng, tập trung và có chiều sâu.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu
tư phát triển một cách có trọng tâm, trọng điểm và theo chiều sâu trên cơ sở lợi thế so
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.
18
2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa,
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng,
có tác động lôi kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ các ngành
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này,
có thể xác định được những ngành nào có khả năng lan tỏa đến nó để có chính sách
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ.
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu.
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp,
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó.
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững.
4) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa là xác định đúng đối tượng
khách hàng và thị trường tiêu thụ để tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý và thực
hành chất lượng phù hợp.
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng.
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (17231790)
Adam Smith được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Tác phẩm lớn nhất của
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá.
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm
19
bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó,
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc khai thác lợi thế
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm,
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ.
Khi nhập công nghệ sản xuất, lao động trong nước sẽ học được cách sử dụng máy móc
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này,
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển (có lợi thế tuyệt
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển (có lợi thế tuyệt đối về nguồn lực) thông
qua bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55].
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (17721823)
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại
thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh. Nghĩa là việc
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự
khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi
hỏi lao động đơn vị khác nhau.
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công
nghệ như nhau: các nước phát triển có cung về tư bản nhiều hơn các nước đang phát
20
triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản.
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế
so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có
lợi thế so sánh về những hàng hóa này. Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất
khẩu nhiều sản phẩm thô hoặc sơ chế như dầu thô, than đá, thủy sản đông lạnh... hoặc
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc,
thiết bị từ các nước phát triển [3].
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (17721823)
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và
cuốn ''Lợi thế cạnh tranh quốc gia” vào năm 1990. Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành
của quốc gia đó. Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri
thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. M. Porter cho rằng các nền kinh tế đều
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất,
cạnh tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt
với cạnh tranh quốc tế.
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
21
định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để
sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh.
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter
Nguồn: Porter (1990)
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên
ưu thế quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số
ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước,
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế
giúp cho các doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh
doanh quốc tế. Theo Michael.E Porter, lợi thế cạnh tranh của quốc gia, địa phương hay
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm.
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của
một quốc gia. Bốn thuộc tính này định hình nên môi trường cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu,
Nền kinh tế định hướng yếu tố
Nền kinh tế định hướng đầu tư
Nền kinh tế định hướng sáng tạo
Hiệu quả nhờ chi phí đầu vào
Hiệu quả nhờ đầu tư mạnh
Hiệu quả nhờ đổi mới
22
các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
Ông còn đưa ra thêm 2 yếu tố bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ. (Xem
Michael E. Porter, 2008) [21].
Hình 1.2 Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter
Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter
Qua mô hình kim cương, Michael M. Porter đưa ra 4 yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm:
v Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
+ Chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Những điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước.
+ Các điều kiện về phía cầu. Thị trường trong nước với số cầu lớn và có những
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia.
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ.
CHIẾN LƯỢC CÔNG TY, CẤU TRÚC VÀ CẠNH TRANH NỘI ĐỊA
CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ CÓ
LIÊN QUAN
CÁC ĐIỀU KIỆN VỀ
CẦU
ĐIỀU KIỆN YẾU TỐ SẢN
XUẤT
SỰ NGẪU NHIÊN
CHÍNH PHỦ
23
v Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
+ Vai trò của chính phủ. Chính phủ có thể tác động tới năng lực cạnh tranh của
ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
• Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
• Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành,
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.
• Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể.
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các
hàng rào thuế quan hay phi thuế quan của chính phủ các nước đối với mặt hàng nào
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại.
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cần phải
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới.
1.1.3.4 Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter
Được phát triển bởi M. Porter (1990), lý thuyết cụm được sử dụng một các phổ
biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm
tương tự vào trong một vùng nhằm tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng năng suất,
khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành
sản xuất, dịch vụ nhằm tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).
24
Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt.
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối
quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51].
Ban đầu, Porter cung cấp các nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế
nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia.
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản
xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng
với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại:
(1) quan hệ mua bán bởi sự tập trung và hội nhập dọc giữa quá trình sản xuất
chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ;
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng
lao động và thông tin.
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công
cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó.
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế IUCN công bố), thuật ngữ "phát
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ
biến rộng rãi thông qua nội dung của Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới WCED (nay là Ủy ban
Brundtland). Theo báo cáo này thì phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng
25
CON NGƯỜI
SẢN PHẨM
CHỦ LỰC
TÀI NGUYÊN
LỢI NHUẬN
được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài
hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội...
phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế xã
hội và môi trường.
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững
Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã
hội và môi trường.
Hình 1.3 Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm
Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm hướng tới phát triển bền vững
1) Liên quan đến yếu tố Con
người: Phát triển sản phẩm chủ lực phải
đáp ứng các yêu cầu về xã hội và công bằng.
Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở
26
nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng trongthu
nhập thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
2) Liên quan đến yếu tố tài nguyên: Phát triển sản phẩm chủ lực trong giới hạn khả
năng cho phép của tài nguyên, nguồn lực và hệ sinh thái.
Phát triển sản phẩm chủ lực phải góp phần giảm sử dụng năng lượng hóa thạch, hạn
chế sử dụng các hóa chất độc hại, giảm chất thải công nghiệp và làm sạch các khu vực bị ô
nhiễm, đồng thời ngăn ngừa việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên tái tạo và nước;
chặn đứng phá rừng, xói mòn đất, rửa trôi chất màu và phá hủy hệ sinh thái, giảm đốt củi
và sử dụng phân gia súc.
3) Liên quan đến yếu tố lợi nhuận: Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra giá trị
một cách công bằng cho người tiêu dùng và các bên liên quan trong chuỗi giá trị.
Phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm khả năng sinh lời cho các doanh nghiệp
và các bên liên quan, tạo ra giá trị hữu dụng cao cho người tiêu dùng, đảm bảo nối kết
giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các công ty lớn và các công ty đa quốc gia, công
nghiệp hóa, hiện đạt hóa và không ngừng tăng quy mô sản xuất hợp lý [42].
1.2. Phương pháp xác định và phát triển sản phẩm chủ chủ lực
1.2.1. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
1.2.1.1. Khái niệm tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một hoặc một số chỉ tiêu định lượng hoặc
định tính mà theo đó, người ta có thể nhận biết được sản phẩm nào có ưu thế trong sản
xuất, kinh doanh hoặc cạnh tranh trên thương trường để công nhận là sản phẩm chủ lực.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu thì có thể tiếp cận vấn đề này từ các
khía cạnh như sau:
Một là, phải xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm chủ lực dựa trên cả hai nhóm
tiêu chí, tiêu chí cần và tiêu chí đủ.
+ Nhóm tiêu chí cần: là những yếu tố nội tại của một sản phẩm cụ thể nào đó mà
chúng có thể giúp sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội, đặc biệt là đáp ứng
được các mục tiêu của nhà quản lý như: có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nộp ngân sách
lớn, giải quyết nhiều lao động... Khi một sản phẩm có đủ các yếu này thì sản phẩm đó
được coi là sản phẩm chủ lực.
+ Nhóm tiêu chí đủ: là những yếu tố mà sản phẩm chủ lực đòi hỏi về phía xã hội.
Chẳng hạn như: phải có tài nguyên, nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng thương hiệu, chính
27
sách hợp lý… Trên thực tế, khi các doanh nghiệp hay nhà nước đáp ứng tốt những đòi hỏi
này thì sản phẩm bình thường vẫn có thể trở thành sản phẩm chủ lực.
Có thể nói rằng, tiêu chí cần là mục tiêu cuối cùng mà một sản phẩm phải hướng
tới, còn tiêu chí đủ là những yếu tố mà “xã hội” phải quan tâm đảm bảo để sản phẩm đạt
đến mục tiêu của mình.
Hai là, khi xem xét, đánh giá lựa chọn sản phẩm chủ lực phải cân nhắc đầy đủ cả
hai tiêu chí, tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.
Mặc dù mọi phương pháp xác định sản phẩm chủ lực đều cố gắng lượng hóa đến
mức tối đa để có thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, nhưng trên thực tế không thể
quy tất cả các yếu tố kinh tế và xã hội thành các con số. Đó là chưa kể còn có nhiều biến
số khó lường có thể làm đảo lộn mọi tính toán. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng cả
hai loại tiêu chí định tính và định lượng. Tiêu chí định lượng dựa trên các số liệu thống kê,
phân tích bằng các thuật toán, còn tiêu chí định tính chủ yếu dựa trên các yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội được xác định bằng kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia [37].
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cũng cần phải vận dụng linh hoạt, không cứng
nhắc khi sử dụng các tiêu chí. Chẳng hạn, có tiêu chí về lý thuyết có thể định lượng như
nhu cầu thị trường, giá trị thương hiệu, nhưng nếu không thể đo đếm, tính toán được các
chỉ tiêu đo lường một cách chính xác thì đành phải sử dụng nó như là tiêu chí định tính,
với vai trò đánh giá của các chuyên gia. Tuy vậy, khi xây dựng tiêu chí, cần cố gắng lượng
hóa cả các đánh giá định lượng và định tính thành điểm số để dễ so sánh và lựa chọn.
1.2.1.2. Yêu cầu đối với tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực chỉ bảo đảm được chất lượng tốt và khả thi khi
nó thỏa mãn các yêu cầu sau:
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính định lượng. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có
thể xây dựng dưới dạng định tính hoặc định lượng. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, minh
bạch thì các tiêu chí cần được lượng hóa. Những tiêu chí không thể lượng hóa được như
chỉ tiêu đánh giá độ mạnh của thương hiệu, biểu trưng văn hóa địa phương…thì cần có
tiêu chí trung gian khác làm cơ sở đánh giá.
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực được xây dựng dựa trên các số liệu, dữ kiện khách quan, không áp đặt theo cảm
tính hay ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đồng thời nó còn phù hợp với qui luật vận động của
các yếu tố kinh tế, xã hội – văn hóa.
28
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính đặc trưng của địa phương. Tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực phải thể hiện được những đặc trưng của từng vùng, miền. Đây là cơ sở phân
biệt một hàng hóa của địa phương này với hàng hóa của địa phương khác.
+ Tiêu chí phải bảo đảm dễ hiểu, dễ thực hiện. Xây dựng tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực không nên sử dụng các mô hình toán phức tạp, triết lý cao siêu hay viện dẫn
quanh co làm cho việc áp dụng tiêu chí vào thực tế gặp khó khăn phức tạp.
+Tiêu chí phải bảo đảm tính công khai. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của địa
phương cần được xây dựng tập thể và công bố rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan đều
biết. Việc xây dựng và công bố này nhất thiết phải được thực hiện ngay từ khi ban hành
chương trình hay qui định về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương. [2], [8]...
1.2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có ý nghĩa rất quan trọng cả về
mặt giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Cụ thể:
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là thước đo giá trị nội tại và khách quan của
hàng hóa. Nó phản ảnh trung thực về khả năng đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, của
xã hội cũng như của nhà quản lý. Thông qua các tiêu chí đánh giá, người ta có thể nhận
biết được sản phẩm chủ lực đang sở hữu những tính năng, chất lượng gì và có khả năng
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tới đâu.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực còn là những yêu sách về phía xã hội và nhà
quản lý. Nếu đáp ứng được những yêu sách này thì sản phẩm sẽ đủ điều kiện trở thành sản
phẩm chủ lực. Như vậy, cũng có thể xem hệ thống tiêu chí đánh giá là khuôn mẫu cho các
chính sách đầu tư về công nghệ, sử dụng tài nguyên, đào tạo tay nghề và các chính sách hỗ
trợ của Nhà nước.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, khi được thừa nhận, là một văn bản có giá
trị pháp lý, chi phối mọi hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, nhà hoạch định chính
sách và nhà quản lý. Để phát triển sản phẩm chủ lực, các nhà sản xuất phải điều chỉnh
công nghệ, tổ chức lại sản xuất và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hợp chuẩn. Sẽ
không còn tùy tiện, chủ quan xem thường qui chuẩn thường thấy ở đối tượng này. Nhà
hoạch định chính sách và nhà quản lý sẽ lấy đó làm mục tiêu để định ra các biện pháp tổ
chức thực hiện thích hợp.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một bản tuyên ngôn về chất lượng của
hàng hóa, thể hiện sự cam kết về trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà sản xuất với cộng
29
đồng, xã hội. Thông qua hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, người tiêu dùng
hiểu được rằng nhà sản xuất sẽ làm gì, làm như thế nào và chịu trách nhiệm ra sao trong
việc cung cấp các tiện ích để thỏa mãn nhu cầu của họ ở chính trong sản trong phẩm của
các nhà sản xuất.
+ Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là bản tuyên bố sứ mạng của các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh, có giá trị lâu dài về mục đích và giúp phân
biệt được doanh nghiệp này với những doanh nghiệp khác. Có thể gọi đó là phát biểu của
một doanh nghiệp về triết lý kinh doanh, những nguyên tắc kinh doanh, thể hiện niềm tin
và tầm nhìn của doanh nghiệp [2], [8], [16], [17], [37]....
1.2.1.4. Nội dung các tiêu chí
Xuất phát từ các vấn đề đã bàn luận trên đây, có thể thấy việc xác định sản phẩm
chủ lực của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ cần dựa trên các tiêu chí định lượng
và định tính sau đây:
v Nhóm tiêu chí định lượng:
Có tác dụng đánh giá khả năng sản xuất, mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
vùng và lợi thế cạnh tranh về mặt định lượng thông qua các số liệu thống kê hoặc điều tra
thu thập được qua các thời kỳ. Nhóm này có 10 tiêu chí gồm:
(1) Tỷ trọng của sản phẩm so với toàn vùng (ROV).
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực vùng với tổng giá trị
sản lượng của vùng được tạo ra trong một thời kỳ xác định. Tiêu chí này phản ảnh mức độ
tập trung lao động xã hội của sản phẩm tại một vùng, miền hay địa phương được thể hiện
thông qua giá trị sản lượng, giá trị gia tăng....(Lindqvist et al, 2003; Karlsson, năm 2008;
Solvell et al, 2009). Tiêu chí này còn phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực
thông qua sự đóng góp giá trị của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
100 x OV OV R
R
P OV =
Trong đó :
• OVP : Giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực
• OVR : Tổng giá trị sản lượng của toàn vùng
(1.1)
30
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực đang xét càng quan trọng đối
với vùng vì nó đóng góp giá trị lớn và có sức tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh
doanh của toàn vùng.
(2) Hệ số địa phương hóa của sản phẩm trong vùng (LQ ir )
Hệ số địa phương hóa (Location Quotient ) giúp đo lường mức độ tập trung chuyên
môn hóa của vùng, miền hay địa phương về lĩnh vực khu vực i trong mối quan hệ với
vùng lãnh thổ lớn hơn R (thường là một quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế (tức là, tất
cả các lĩnh vực của nền kinh tế của một quốc gia). Thông qua hệ số này, người ta thấy
được mức độ tập trung chuyên môn hóa của một ngành hay sản phẩm nào đó tại một vùng,
miền hay địa phương so với mức độ tập trung chuyên môn hóa ngành, sản phẩm đó của
vùng lớn hơn hay trên cả nước ((Maggioni và Riggi năm 2008).
Hệ số địa phương hóa được thể hiện theo công thức:
IR iR
Ir ir ir X X
X X LQ / /
=
Trong đó:
Xir: Giá trị sản lượng sản phẩm loại i của vùng, miền, địa phương r
X Ir : Tổng giá trị sản lượng trong vùng, miền, địa phương r
X iR : Giá trị sản lượng sản phẩm i toàn ngành (khu vực lớn hơn hay cả nước R)
XIR: Tổng giá trị sản lượng của cả nước (hoặc khu vực lớn hơn hay cả nước R)
Thực tế nghiên cứu của các nước cho thấy nếu LQ <1, cho biết vùng, miền hay địa
phương đang xét có ít tiềm năng phát triển sản phẩm i; LQ> 1, cho biết vùng, miền hay địa
phương đang xét nhiều hay ít tiềm năng phát triển sản phẩm i và khi LQ≥1,25, cho biết
vùng, miền hay địa phương đang xét có tiềm năng đặc biệt phát triển sản phẩm i để cạnh
tranh toàn cầu (Florida State University, 2010).
(3) Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong vùng (Grw).
Tiêu chí này cho biết mức độ tăng trưởng về sản lượng, giá trị sản lượng hoặc giá
trị gia tăng của sản phẩm chủ lực. Nó phản ảnh khả năng và triển vọng phát triển của hàng
hóa chủ lực trong tương lai.
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm có thể nhận được từ số báo cáo hàng năm của địa
hoặc tính theo công thức :
(1.2)
31
100 0
0 1 x OV OV OV Grw
− =
Trong đó :
OV 1 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm xem xét
OV0 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm định gốc so sánh
Tiêu chí này có thể xem xét qua nhiều năm. Nếu tốc độ tăng trưởng trung bình càng
cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực của vùng, miền hay địa phương đang xét càng có khả năng
và triển vọng tăng trưởng tốt, ổn định và bền vững.
(4) Hệ số vượt trội của sản phẩm (C Grw ).
Tiêu chí này phản ảnh khả năng vượt trội của hàng hóa chủ lực đối với toàn ngành
kinh tế. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ hàng hóa chủ lực đang xét giữ vai trò quyết định
trong việc hình thành mức tăng trưởng chung cho toàn ngành.
Công thức xác định hệ số vượt trội có dạng :
RWs
RWi Grw G
G C =
Trong đó:
G Rwi : là tốc độ phát triển của sản phẩm i
GRWs: là tốc độ phát triển chung của toàn bộ ngành (khu vực) kinh tế
Sử dụng hệ số vượt trội để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng sản phẩm i
đến toàn bộ ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ) sản phẩm i.
Nếu CGrw < 1, việc phát triển sản phẩm i sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm i trong
ngành nên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (kéo giảm tốc độ tăng
trưởng của ngành); Nếu CGrw >1, việc phát triển sản phẩm y sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản
phẩm i trong ngành nên sẽ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng của ngành).
(5) Tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm so với toàn vùng (REX)
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực với tổng giá trị xuất
khẩu của toàn vùng. Tiêu chí này phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực trong
lĩnh vực xuất khẩu thông qua mức đóng góp của nó trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn
vùng cũng như khả năng đóng góp ngoại tệ cho địa phương thông qua sự đóng góp giá trị
xuất khẩu của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
(1.4)
(1.3)
32
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
100 x EX EX R
R
P EX =
Trong đó :
• EXP : Giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực
• EXR : Tổng giá trị xuất khẩu của toàn vùng
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ tính chủ lực của sản phẩm đang xét càng mạnh
vì nó ảnh hưởng lớn đến thành tích xuất khẩu chung của toàn vùng.
(6) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa (RCA D )
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của vùng về một sản
phẩm cụ thể trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả nước về sản phẩm đó. Nếu tỷ
trọng xuất khẩu của vùng về sản phẩm chủ lực lớn hơn tỷ trọng sản phẩm cùng loại đó
trong tổng xuất khẩu của cả nước thì vùng, địa phương đang xét được coi là vùng có lợi
thế so sánh về loại sản phẩm đó.
Công thức tính hệ số này như sau:
N iN
r ir D X EX
EX EX RCA / /
=
Trong đó:
EX ir : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của vùng, địa phương r
EXr: Tổng giá trị xuất khẩu của vùng, địa phương r
EX iN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của cả nước
EXN: Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả nước
Nếu hệ số RCA D lớn hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là có
lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao.
Ngược lại, nếu RCAD nhỏ hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là không
có lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i.
(7) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu thế giới của sản phẩm (RCAW)
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa
chủ lực trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả thế giới về hàng hóa đó. Nếu tỷ
trọng xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa chủ lực lớn hơn tỷ trọng hàng hóa đó trong tổng
xuất khẩu của cả thế giới thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh về hàng hóa đó.
(1.6)
(1.5)
33
Công thức tính hệ số này như sau:
W iw
N iN W X EX
EX EX RCA / /
=
Trong đó:
EXiN: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của quốc gia
EX N : Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia
EXiw: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của thế giới
EX W : Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả thế giới
Nếu hệ số RCAW lớn hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là có lợi thế so sánh
quốc tế về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao. Ngược lại, nếu
RCA W nhỏ hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là không có lợi thế so sánh quốc tế
về sản phẩm i.
8) Hệ số thương mại ròng của sản phẩm (NTR)
Là chỉ tiêu phản ảnh mối tương quan giữa xuất và nhập khẩu của hàng hóa cùng
loại với hàng hóa chủ lực.
Công thức tính hệ số thương mại ròng:
i i
i i
IM EX IM EX NTR
+ −
=
Trong đó:
EX i : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i
IMi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm i
Nếu hệ số NTR có giá trị lớn hơn 0 thì quốc gia đang xem xét có lợi thế so sánh ở
sản phẩm i, còn nếu NTR nhỏ hơn 0 thì quốc gia đang xem xét không có lợi thế so sánh ở
sản phẩm i. Giá trị NTR gần bằng 0 là tình trạng lợi thế không rõ ràng
(9) Hệ số bảo hộ hiệu dụng của hàng hóa chủ lực (EPR)
Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính
theo giá trong nước của ngành sản phẩm đó và giá trị gia tăng tính theo giá thế giới rồi
chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. ERP Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ
trong nước đối với hàng hóa chủ lực hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng hóa chủ lực
thông qua thuế quan.
(1.7)
(1.8)
34
Mức bảo hộ hiệu dụng làm tăng giá trị gia tăng trong nước và được tính toán bằng
công thức:
PW
PW PD
AV AV AV ERP
− =
Trong đó:
AVPD: là giá trị gia tăng tính theo giá trong nước;
AV PW : là giá trị gia tăng tính theo giá thế giới.
Hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể có giá trị âm, có thể có giá trị dương hoặc bằng 0.
Hệ số này thường có giá trị âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu,
bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành đó bằng 0, trong khi đó đầu vào sản xuất lại
phải chịu thuế nhập khẩu. Việc tính toán AVPD và AVPW cần dựa vào bảng cân đối liên
ngành I/0.
10) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)
DRC là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành hàng thông
qua xem xét tính hiệu quả của nguồn lực trong nước được sử dụng để sản xuất ra sản
phẩm. DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng
với 1 đơn vị tiền tệ thu được từ sản phẩm đem bán. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản
phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao.
Công thức tính:
) 1 (
) (
i
i i PV
FIV P
FIV DIV PV DRC −
− − =
Trong đó:
PVi: Giá trị sản xuất của một đơn vị sản phẩm i
DIV i : Giá trị đầu vào nội địa trong một đơn vị sản phẩm i
FIVi: Giá trị đầu vào nhập khẩu trong một đơn vị sản phẩm i
P i : Giá nhập khẩu của một đơn vị sản phẩm i (tính theo giá nội địa)
Hệ số DRC>1 có nghĩa là phải tốn hơn 1 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo
ra 1 đồng giá trị gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. [10], [43], [46]
v Nhóm tiêu chí định tính:
(1.9)
(1.10 )
35
Là các tiêu chí khó lượng hóa mà chỉ có thể dễ dàng thu thập thông tin thông qua
các phương pháp định tính như phỏng vấn, khảo sát....
Nhóm này có 5 tiêu chí gồm:
(1) Qui mô thị trường
Chỉ tiêu này cho biết qui mô thị trường tiêu thụ hàng hóa chủ lực rộng hay hẹp, nội
địa hay quốc tế. Qui mô thị trường, đặc biệt thị trường quốc tế càng rộng lớn, nói lên khả
năng phát triển ổn định và bền vững của hàng hóa chủ lực trong tương lai lâu dài.
(2) Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ phụ trợ
Chỉ tiêu này phản ảnh bối cảnh tác động từ bên ngoài có thuận lợi hay không đối
với quá trình sản xuất và cung ứng hàng hóa chủ lực. Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ
phụ trợ càng đa dạng và phát triển thì hàng hóa chủ lực càng có điều kiện phát triển tốt.
(3) Mức độ lan tỏa đến các lĩnh vực, ngành nghề khác
Chỉ tiêu này lại cho biết sự phát triển của hàng hóa chủ lực sẽ có lợi cho những
ngành nghề nào trong nền kinh tế. Mức độ lan tỏa càng lớn chứng tỏ vai trò của hàng hóa
chủ lực càng quan trọng bởi sự tồn tại và phát triển của hàng hóa chủ lực đã góp phần
quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế trong vùng.
(4) An toàn và thân thiện với môi trường
Sản xuất gắn với môi trường đang được xem là “vũ khí” tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thương trường. Một ngành sản xuất không phá hủy cân bằng hệ sinh
thái, không ô nhiễm môi trường tự nhiên, không ảnh hưởng đến sức khỏe cộng
đồng…được xã hội thừa nhận, pháp luật bảo vệ. Đây chính là điều kiện gần như tiên quyết
để phát triển hàng hóa chủ lực một cách bền vững.
(5) Chính sách ưu đãi của Nhà nước
Nội dung bao gồm ưu đãi trong sử dụng đất đai, vay vốn, thuế suất, đầu tư,…Một
ngành sản xuất nếu được nhiều chính sách ưu đãi sẽ có nhiều thuận lợi hơn cho cạnh
tranh, tổ chức đầu tư, sản xuất cũng như cung ứng sản phẩm ra thị trường. [2], [8], [16].
1.2.1.5 Xây dựng khung thang điểm và xác định điểm chuẩn tối đa cho tiêu chí
Xây dựng hệ thống các tiêu chí để xác định sản phẩm chủ lực là việc làm cần thiết,
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là cơ sở để xem xét các yếu tố lợi thế cạnh tranh, tiềm
năng, nguồn lực cũng như các yếu tố liên quan đến điều kiện và môi trường kinh doanh
khác. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, vì chưa có cơ sở định lượng để xác
36
định mức độ đạt được của các tiêu chí trên. Do vậy, bên cạnh hệ thống các tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực, phải xây dựng khung thang điểm với điểm chuẩn tối đa cho hệ
thống tiêu chí cũng như từng tiêu chí cụ thể.
+ Về điểm chuẩn tối đa. Đây là biểu thị mức độ đạt được của hệ thống các tiêu chí;
là cơ sở để đưa ra quyết định việc có công nhận một sản phẩm nào đó là sản phẩm chủ lực
hay không (xét về mặt định lượng). Điểm chuẩn tối đa của hệ thống có thể là 10, 20, 50
hoặc 100, tùy vào quyết định chủ quan của người xây dựng. Tuy nhiên, để đảm bảo việc
đánh giá chính xác đến mức phần trăm (1/100), cần chọn theo thang điểm ‘bách phân’, tối
đa là 100 điểm (thực tế nhiều địa phương trong nước đã làm).
+ Về điểm chuẩn tối đa cho từng tiêu chí. Đây là biểu thị mức độ đạt được của một
tiêu chí cụ thể; là cơ sở xem xét mức độ đạt được về mặt định lượng của một yếu tố nào
đó. Do mỗi tiêu chí có mức độ quan trọng khác nhau nên khi xây dựng thang điểm chuẩn
cho mỗi tiêu chí, cần tiến hành theo phương pháp chuyên gia thông qua phỏng vấn bằng
bảng câu hỏi để thu thập thông tin, xử lý và tìm ra trọng số cho mỗi tiêu chí.
Nếu gọi i (i=1,2,3,4,5...n), là các phương án trả lời cho mỗi câu hỏi trong thang đo
và cũng là trọng số của phương án lựa chọn; tỷ lệ người chọn trả lời phương án là r (r=%
của số người tham gia trả lời); vậy, trọng số của một tiêu chí cụ thể nào đó chính là ∑ir.
Từ đó, nếu gọi t là tiêu chí thứ t (với t = 1,2,3,4,5...m) thì tổng trọng số của cả hệ thống
các tiêu chi được biết là ∑∑ir. Bây giờ gọi P là tổng điểm chuẩn tối đa của hệ thống và P t là điểm chuẩn tối đa của tiêu chí. Vậy, điểm chuẩn tối đa của một tiêu chí được tính bằng
công thứcsau:
∑∑
∑
= =
= = m
t
n
i
n
i t
ir
ir P P
1 1
1 .
1.2.2. Qui trình xác định sản phẩm chủ lực
Như phân tích ở phần trên, đánh giá và xét chọn sản phẩm chủ lực là một việc làm
cực kỳ trọng đối với mỗi địa phương, doanh nghiệp. Nó góp phần nâng cao vị thế cạnh
tranh và bảo đảm sự tồn tại, phát triển một cách bền vững của mỗi địa phương cũng như
doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc đánh giá, lựa chọn sản phẩm chủ lực đòi hỏi phải
được tiến hành một cách nghiêm túc, khách quan và khoa học.
(1.11)
37
Qua nghiên cứu qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm của các địa phương tác giả
nhận thấy, để đảm bảo được yêu cầu này, ĐBSCL cần thực hiện theo qui trình với 4 giai
đoạn với các nội dung công việc chủ yếu như sau:
Hình 1.4 Qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1) Giai đoạn chuẩn bị
Trong giai đoạn này, các địa phương thực hiện bước 1 của qui trình với công việc
chủ yếu là chuẩn bị về thủ tục mang tính pháp lý trên cơ sở phân tích điều kiện thực tế của
vùng cũng như của từng địa phương như:
+ Thành lập cơ quan chỉ đạo chung về đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản
phẩm chủ lực của toàn vùng. Để đảm bảo sự chỉ đạo một cách nhất quán, tránh việc mỗi
địa phương chỉ đạo thực hiện theo cách riêng vì lợi ích mang tính cục bộ, cần hình thành
một bộ phận chỉ đạo có tính độc lập. Bộ phận này có nhiệm vụ thống nhất về mặt hoạch
định chính sách, qui trình, thủ tục pháp lý, chỉ đạo và giám sát việc thực hiện đối với từng
địa phương. Ngoài ra, bộ phận này phải được các địa phương thừa nhận về pháp nhân và
đặt dưới sự quản lý chung của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ.
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
GIAI ĐOẠN THÔNG TIN VÀ TIẾP NHẬN ĐĂNG KÝ
Đủ chuẩn Không đủ chuẩn
LOẠI BỎ
GIAI ĐOẠN ĐÁNH GIÁ
Thiếu chuẩn Không đủ chuẩn
HOÀN THIỆN
Đủ chuẩn
GIAI ĐOẠN CÔNG NHẬN TÔN VINH
38
+ Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực cho toàn vùng. Bộ tiêu
chí này phải đảm bảo các yêu cầu chủ yếu như:
• Bảo đảm tính định tính và định lượng. Cần ưu tiên xem xét các tiêu chí định
lượng kết hợp cân nhắc một số tiêu chí định tính cần thiết.
• Bảo đảm cả điều kiện cần và điều kiện đủ. Tức Bộ tiêu chí phải vừa thể hiện
rõ khả năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường, đồng thời chỉ ra được những bức xúc, đòi
hỏi mà xã hội, địa phương cần hỗ trợ.
Để bảo đảm khách quan, khoa học, thiết nghĩ công việc này cần giao cho các nhà
nghiên cứu và chuyên môn trong từng lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh, xuất nhập
khẩu…phối hợp thực hiện.
+ Xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của vùng. Một sản
phẩm có thể chưa trở thành chủ lực của vùng do còn thiếu các điều kiện hỗ trợ cần thiết
như đầu tư, xây dựng và quảng bá thương hiệu…Do đó, các địa phương cần thống nhất
xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ chung để sản phẩm đó trở thành chủ lực của vùng.
Để đảm bảo tính hiệu lực khi thực thi, việc hoạch định chính sách phải được các cơ
quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực tài chính, kế hoạch đầu tư, quản lý nhà nước
về sản xuất kinh doanh phối hợp với bộ phận chỉ đạo chung xây dựng.
+ Thiết kế các thủ tục đăng ký, mẫu biểu giấy tờ cần thiết. Cần hoàn thiện các qui
định, hướng dẫn, mẫu biểu giấy tờ cần thiết…để làm cơ sở pháp lý và tạo ra tính thống
nhất trong chỉ đạo cũng như quản lý hành chính trong quá trình thực hiện.
Về thẩm quyền, các thủ tục này do bộ phận chỉ đạo chung soạn thảo và được các
địa phương phê duyệt.
2) Giai đoạn thông tin và tiếp nhận đăng ký
Đây là bước 2 của qui trình xác định với 2 công việc chủ yếu sau:
+ Công bố Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của vùng. Cơ quan
truyền thông của bộ phận chỉ đạo chung thông tin toàn bộ nội dung chương trình, chính
sách hỗ trợ, các qui định, hướng dẫn đăng ký tham gia và Bộ tiêu chí đánh giá, xét chọn
sản phẩm chủ lực cho tất các doanh nghiệp, người sản xuất được biết thông qua các
phương tiện truyền thông phù hợp.
+ Tiếp nhận đăng ký và sàng lọc đối tượng tham gia chương trình. Nhằm bảo đảm
tính khả thi và tập trung, tránh dàn trải, bộ phận chỉ đạo tiếp nhận đăng ký của các doanh
nghiệp và tiến hành sàng lọc với 2 nội dung sau:
39
• Sàng lọc sản phẩm có triển vọng. Căn cứ Phiếu đăng ký của doanh nghiệp
tham gia Chương trình, bộ phận chỉ đạo có trách nhiệm tổng hợp, phân loại theo từng
nhóm ngành kinh tế kỹ thuật và lên kế hoạch kiểm tra, khảo sát thực tế tại doanh nghiệp,
sau đó lên “Danh sách sản phẩm có triển vọng” để tiếp tục xem xét, hỗ trợ.
• Sàng lọc doanh nghiệp có năng lực. Cũng trên cơ sở Phiếu đăng ký tham gia
của các doanh nghiệp, đồng thời căn cứ vào các điều kiện qui định ban đầu để tiến hành
sàng lọc, chọn ra các doanh nghiệp có năng lực tham gia chương trình
Danh sách các doanh nghiệp có năng lực và Danh mục sản phẩm có triển vọng
tham gia chương trình nhất thiết phải được các địa phương thông qua và phê duyệt.
3) Giai đoạn tổ chức đánh giá, xét chọn
Giai đoạn này, các Hội đồng chuyên ngành (do bộ phận chỉ đạo chung thành lập)
căn cứ vào hệ thống tiêu chí (cả định tính lẫn định lượng), thang bảng điểm đã được phê
duyệt để tổ chức đánh giá, xét chọn đối với các sản phẩm có triển vọng được bộ phận chỉ
đạo chung lựa chọn và các địa phương thông qua. Việc đánh giá, xét chọn ở giai đoạn này
có thể dẫn đến 3 tình huống với 3 phương án giải quyết và thực hiện theo 2 bước sau:
Bước 3. Đánh giá sản phẩm chủ lực trên 2 nhóm tiêu chí định lượng và định tính:
Phương án 1: Sản phẩm đạt tổng điểm chuẩn theo quy định thì được chuyển thẳng
sang giai đoạn 4 (Bước 5. công nhận và tôn vinh sản phẩm chủ lực của vùng và đầu tư
phát triển bền vững).
Phương án 2: Sản phẩm chủ lực không đạt yêu cầu theo điểm chuẩn quy định (cả
điều kiện cần và điều kiện đủ) thì bị loại ra khỏi Danh sách các sản phẩm có triển vọng.
Phương án 3: Sản phẩm chưa đủ điểm chuẩn theo qui định nhưng đã đảm bảo được
các điều kiện cần thì chuyển sang bước 4 (đầu tư hỗ trợ để bổ sung điều kiện đủ), sau đó
sẽ xem xét đánh giá lại để quyết định chuyển sang giai đoạn 4 để công nhận, tôn vinh hoặc
loại bỏ ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng.
Bước 4. Hỗ trợ để để bổ sung hoàn thiện sản phẩm chủ lực.
Đây là bước có tính chất “dự bị” đối với những sản phẩm còn non điểm ở một vài
tiêu chí đủ nào đó so với chuẩn qui định. Trong bước này các địa phương cần tập trung
đầu tư hỗ trợ về mặt tài chính, công nghệ, quảng bá, tiếp thị…để các nhà sản xuất nâng
dần chất lượng và thương hiệu đối với sản phẩm. Sau một thời gian, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ
được xem xét công nhận sản phẩm chủ lực của vùng (chuyển sang bước 5), ngược lại sẽ bị
loại ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng.
40
4) Giai đoạn công nhận và tôn vinh sản phẩm chủ lực
Với bước cuối cúng này, Ban chỉ đạo căn cứ đề nghị của Hội đồng chuyên ngành
sẽ, xem xét ra quyết nghị công nhận sản phẩm chủ lực của vùng. Quyết nghị này phải
được UBND các địa phương phê duyệt và thông qua. Đây là căn cứ pháp lý để các doanh
nghiệp và nhà sản xuất hưởng hỗ trợ theo các cơ chế đặc thù của địa phương mình. Bên
cạnh đó, các sản phẩm chủ lực còn được tôn vinh và công bố, giới thiệu rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương cũng như địa phương [2], [8], [16], [17]..
1.3. Kinh nghiệm phát triển sản phẩm chủ lực của một vài quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Nam Á có nét tương
đồng về nhiều mặt như vùng kinh tế ĐBSCL của Việt Nam, đã rất khó khăn trong
phát triển kinh tế vào đầu nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, gần đây đã phát triển vượt
bậc nhờ vào lựa chọn và phát triển sản phẩm/ngành sản phẩm phù hợp theo mô hình
cụm phát triển của M. Porter. Xin dẫn chứng 3 trường hợp điễn hình nhất như sau:
1.3.1 Kinh nghiệm của Indonesia
Chính phủ Indonesia cho rằng, với một đất nước mà kinh tế nông nghiệp còn giữ
vai trò chủ lực, nông dân và nông thôn vẫn còn là địa bàn quan trọng thì nhiệm vụ trước
hết là phải có những chính sách tác động mạnh mẽ vào công nghiệp chế biến nông, lâm
sản. Chính phủ cũng đã tiến hành cải tổ lại khu vực kinh tế đồn điền nhằm mục đích tư
nhân hóa một bộ phận quan trọng đồn điền của Nhà nước, thu hút đầu tư của tư bản nước
ngoài để mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất
khẩu… Chính phủ khuyến khích tư bản tư nhân trong nước tham gia kinh doanh đồn điền
trên cơ sở Nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp, miễn giảm thuế kinh doanh và cho
phép phối hợp với Nhà nước để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Từ năm 1968, khuyến
nông được Indonesia xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong đó, việc cung
cấp lúa gạo, ổn định lương thực được xem như là mục tiêu chính của kế hoạch phát triển.
Nhờ chính sách khuyến khích sản xuất nông sản và cải tạo hệ thống lưu thông nông sản
như vậy mà công nghiệp chế biến của Indonesia đã có những bước tiến căn bản. Là nước
nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới, Indonesia bắt đầu tự túc được lương thực từ năm 1981.
Các loại cây công nghiệp được chú trọng phát triển để tiêu thụ trong nước và tham gia
xuất khẩu trên thị trường như: cà phê, ca cao, cao su, hồ tiêu hạt trắng và hồ tiêu hạt đen.
41
Trong thời kỳ 19851996, Indonesia tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu dầu cọ, cao
su, sắn, hoa, trái cây, cơm dừa và dầu dừa, gỗ.
Những năm cuối thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh
tế Indonesia bị thiệt hại nặng nề. Tình hình chính trị bất ổn và hạn hán xảy ra nghiêm
trọng đã làm cho nông nghiệp nước này không phát triển được. Sau khi Chính phủ mới
được thành lập (6/1999) kinh tế Indonesia nói chung và nông nghiệp nói riêng đã có dấu
hiệu phục hồi: chiến lược phát triển nông nghiệp mới của Indonesia thể hiện một cuộc cải
tổ sâu sắc, đặc biệt là trong lĩnh vực lưu thông nông sản như: xóa bỏ độc quyền của Bulog
trong nhập khẩu lúa mì, bột mì, đậu tương, tỏi và gạo; cắt giảm thuế quan với tất cả các
hàng thực phẩm xuống mức cao nhất là 5%; cho tự do buôn bán giữa các vùng, loại bỏ
những cản trở đối với việc buôn bán và vận chuyển một số hàng hóa, giảm các cản trở phi
thuế quan đối với thị trường nông sản, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nhỏ có cơ hội
tăng thu nhập; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm, chuyển dần từ cơ chế hành chính sang
các công cụ tài chính, thị trường để quản lý lương thực và ổn định giá; đảm bảo giá sàn
theo mức thích hợp cho từng vùng để hỗ trợ nông dân, thay cho việc bảo hộ người tiêu
dùng trước đây. Trong vụ thu hoạch khi giá xuống quá thấp Chính phủ sẽ mua vào bằng
giá sàn để hỗ trợ cho nông dân; loại bỏ độc quyền phân phối phân bón và các vật tư thiết
bị nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã chuyển đổi hệ thống hợp tác xã
thành các tổ chức kinh doanh hiện đại, hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng cường
cho vay tín dụng đối với nông dân từ 1,4 triệu Rupi/ha lên hai triệu Rupi/ha, tổng lượng
tín dụng cho vay tăng từ 1,9 nghìn tỷ lên 3,4 nghìn tỷ; đẩy mạnh công tác nghiên cứu
giống, chấm dứt sự độc quyền của các công ty giống quốc doanh, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia thị trường này; nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thủy lợi
nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong nông nghiệp – nguyên liệu đầu vào của công
nghiệp chế biến nông, lâm sản [45].
1.3.2 Kinh nghiệm của Philippines
Philippines là một trong số các quốc gia có lợi thế hơn trong công nghiệp hóa so
với các quốc gia châu Á láng giềng khác. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ
trọng lớn trong GDP và là ngành kinh tế quan trọng, luôn đảm bảo sự ổn định cho kinh tế
xã hội của Philippines. Phần lớn sản xuất nông nghiệp là các loại cây trồng cho tiêu thụ
trong nước như gạo và ngô, và cây trồng để xuất khẩu như dừa, mía và chuối. Trước đây,
sản xuất nông nghiệp thường được tiến hành theo quy mô nhỏ, nhưng hiện nay nó được tổ
42
chức thành các đồn rộng lớn. Ngay từ thập kỷ 60, Philippines đã tiến hành cuộc cách
mạng xanh nhằm tăng năng suất cây trồng bằng cách áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật như lai tạo ra các giống lúa cao sản, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và xây
dựng hệ thống thủy nông. Đã từ lâu, Philippines là quê hương của giống lúa cao sản
tại châu Á; ở đây có Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và là nước đi đầu trong
việc áp dụng những giống lúa do IRRI tạo ra. Sản xuất lúa, dừa, mía là những ngành
nghề có qui mô lớn và mang tính truyền thống. Trung tâm sản xuất lương thực của
Philippines là vùng Mindacao, chiếm 34% diện tích Philippines, đóng góp 34% cho
sản xuất nông ngư nghiệp của Philippines, Chính phủ đầu tư 1/3 ngân sách nông
nghiệp xây dựng vùng này thành vùng sản xuất chuyên canh lúa. Ngành sản xuất dừa
là ngành chính trong nền kinh tế Philippines, đặc biệt trong việc thu ngoại tệ và tạo
công ăn việc làm. Khoảng 90% lượng dừa của nước này được chế biến thành cùi dừa
khô. Trong đó, 5% lượng cùi dừa khô là để xuất khẩu, 95% chế biến thành dầu ăn và
dầu công nghiệp khác. Mía đường được trồng trên những đồn điền lớn, đường
Philippines được nhập theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ.
Vì là một nước nông nghiệp, nên Philippines đã chọn phát triển ngành công
nghiệp chế biến nông sản. Chính phủ Philippines đề ra ba mục tiêu của ngành công
nghiệp chế biến nông sản là bảo đảm xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, tìm các
nguồn hàng nông nghiệp mới để xuất khẩu và tự sản xuất để thay thế nhập khẩu.
Philippines quyết định thay đổi chính sách nông nghiệp từ bảo trợ sang tăng cường
cạnh tranh. Một loạt các chính sách phát triển nông nghiệp ra đời như:
Luật “hiện đại hóa nông, ngư nghiệp" (AFMA1998), cung cấp các chính sách
cơ bản cùng với các biện pháp để hiện đại hóa nông nghiệp và thủy sản. Luật này nhằm
mục đích: (1) thực hiện các biện pháp theo tầm quan trọng của nông nghiệp và thủy sản
(2) đảm bảo sự lãnh đạo mạnh mẽ của Bộ Nông nghiệp và (3) nâng cấp ngắn hạn và dài
hạn khả năng hành chính của Bộ Nông nghiệp và các tổ chức liên quan.
Dự án GMA là một kế hoạch trung hạn của Philippines (19992001) nhằm thực
hiện AFMA1998. Theo kế hoạch này, dự án lúa bao gồm: (1) thực hiện an ninh lương
thực quốc gia, (2) xóa đói giảm nghèo ở các làng nông nghiệp, (3) tăng thu nhập cho nông
dân, (4) thực hiện nông nghiệp bền vững, và (5) nâng cấp khả năng của nông dân.
Chương trình nghị sự của Bộ nông nghiệp (2001) bao gồm 11 mục: (1) thúc đẩy
việc thực hiện các quy định chủ yếu của đạo luật Hiện đại hóa nông nghiệp thủy sản năm
43
1997, (2) tăng cường các biện pháp chống buôn lậu và cải thiện môi trường đầu tư, (3)
triệt để triển khai thực hiện Luật Thuỷ sản, (4) sắp xếp các cơ sở hạ tầng, bao gồm cả các
cơ sở thủy lợi và đường giao thông, (5) thiết lập một hệ thống tài trợ cho nông dân và
những người tương tự, (6) thảo luận về tài nguyên nước trong nông nghiệp, (7) xem xét
các dự án GMA, (8) xem xét ưu đãi trong thúc đẩy phát triển kinh doanh và tài chính, (9)
xúc tiến phát triển ở Mindanao, (10) cung cấp hỗ trợ để tái lập các quỹ thuế dừa, và (11)
củng cố tổ chức của nông dân (ASEANJAPAN CB Project).
Có thể nói đây là một tổ hợp các chính sách liên quan đến sản xuất, nghiên cứu
chuyển giao công nghệ, khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, thương mại, tài
chính và thị trường với nhiều chương trình, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu
quả và năng lực cạnh tranh cho ngành nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia và tăng trưởng xuất khẩu cho Philippines [54]
1.3.3 Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một nước nông nghiệp rất đặc trưng ở Đông Nam Á. Có thể nói, từ
thời cổ đại, cơ sở của nền kinh tế Thái Lan là nông nghiệp và đang phát triển với nền
tảng là nông nghiệp. Từ cuối những năm 1980, cả Thái Lan đã được công nghiệp hóa
một cách nhanh chóng thể hiện ở giáo dục chất lượng cao và sự thịnh vượng của Thái
Lan. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP cũng như xuất
khẩu trong nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành kinh
tế chủ lực làm nền tảng cho phát triển kinh tế của quốc gia này. Sản xuất nông nghiệp
được phân bổ tập trung theo cụm ở rải rác khắp nơi trên lãnh thổ như: vải thiều, dâu
tây và các loại trái cây khác tập trung ở Bắc Thái Lan; lúa gạo, mía, sắn được trồng
nhiều ở khu vực Đông Bắc; khu vực Miền Trung Thái Lan nổi tiếng về lúa gạo xuất
khẩu, nơi đây được mệnh danh là “Nồi cơm của Châu Á”. Tương tự, vùng quê phía
Nam Thái Lan là nơi tập trung của các đồn điền cao su và dừa.
Về chính sách phát triển nông nghiệp, bắt đầu từ năm 1961, Chính phủ Thái
Lan thiết lập các định hướng chính sách cho Bộ Nông nghiệp và các Tổ chức hợp tác
trong nông nghiệp theo từng thời kỳ 5 năm. Theo khuôn khổ này, các chính sách khác
nhau ở các cấp được triển khai thực hiện. Điển hình là trong Kế hoạch lần thứ 9 phát
triển nông nghiệp Thái Lan (2002 – 2006) đưa ra 4 mục tiêu chủ yếu là: (1) nâng cao
năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; (2) ổn định
nền kinh tế xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nông dân; (3) Tăng cường tổ
44
chức nông dân và thiết lập mạng lưới phát triển nông nghiệp thích nghi với kiến thức
và văn hóa truyền thống của địa phương; (4) Cải thiện hệ thống quản lý trong nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và sử dụng tài nguyên theo cách bền vững. Để đạt các
mục tiêu này, đầu năm 2002 Chính phủ Thái Lan đã dành ra 124 tỷ Bath (3 tỷ USD)
để cải thiện toàn diện nông nghiệp trong 2 năm (2002 2004). Trong đó chú trọng
nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển loại giống tốt, mở rộng tưới tiêu, phát triển
công nghệ sinh học, phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt khuyến khích và cho phép
nông dân tham gia trực tiếp vào các kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn.
(ASEANJAPAN CB Project).
Về công nghiệp, Thái Lan tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến với
sự phân bố đều khắp ở các địa phương. Công nghiệp chế biến lúa gạo của Thái Lan
bao gồm hàng chục ngàn cơ sở xay xát lớn, vừa và nhỏ cộng với hệ thống kho chứa
gạo, kho dự trữ, các xí nghiệp sản xuất bao bì đóng gói ở khắp các thị trấn, thành
phố, bến cảng. Mặt hàng gạo sấy của Thái Lan đang "một mình, một chợ" và Thái
Lan đang đẩy mạnh sản xuất mặt hàng này lên tới 30% khối lượng gạo xuất khẩu.
Công nghiệp mía đường, công nghiệp chế biến sắn của Thái Lan cũng khá phát triển
với sản lượng khoảng gần 4 triệu tấn sắn khô/năm. Đặc biệt, công nghệ chế biến trái
cây và rau xuất khẩu của Thái Lan phát triển khá nhanh với rất nhiều chủng loại từ
dứa, xoài, dừa, chuối, bưởi, măng cụt, rau thơm và đặc biệt là đồ gia vị... Hiện nay,
Thái Lan là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau quả chế biến
sang thị trường các nước Mỹ, Nhật, EU. Trồng và chế biến cao su cũng là ngành kinh
tế có giá trị cao ở Thái Lan. Nhằm khuyến khích nông dân chế biến tập trung để nâng
cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh, Chính phủ
Thái Lan hỗ trợ cho nông dân sơ chế 100% mủ cao su trên cơ sở các hộ có nhu cầu sơ
chế phải tự nguyện liên kết lại trong các tổ chức tự quản như tập đoàn, hợp tác xã,...
và đăng ký với Quỹ hỗ trợ trồng lại cao su (ORRAF) để được xem xét đầu tư nhà
máy chế biến có qui mô, công suất thích hợp (nhà máy do ORRAF đầu tư 100% vốn
và giao cho tập đoàn hoặc hợp tác xã tự quản lý). Hiện nay, Thái Lan là quốc gia có
nền công nghiệp chế biến cao su đạt trình độ cao và một trong những nước xuất khẩu
cao su hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong xu thế toàn cầu
hóa, tự do hóa thương mại, nông nghiệp Thái Lan cũng phải đối mặt với nhiều khó
45
khăn: chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp diễn ra chậm, năng suất thấp, chi phí sản xuất
cao, giá nhân công tăng; cơ sở hạ tầng và trang thiết bị sản xuất kém, nhất là vùng
phía Bắc và Đông Bắc; các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kém hiệu
quả...Để khắc phục tình trạng này, Bộ Nông nghiệp Thái Lan đã đưa ra chương trình
đầu tư theo chiều sâu để tăng cường khả năng cạnh tranh các mặt hàng chủ lực và đề
ra các giải pháp thích hợp cho mỗi nhóm hàng xuyên suốt từ sản xuất, chế biến, tiêu
thụ; chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư cho thủy lợi và
khoa học kỹ thuật. Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của
nông dân thông qua quỹ "Hỗ trợ chính sách cho nông dân", giảm thuế xuất khẩu nông
sản và nguyên liệu.
Để giúp ngành công nghiệp chế biến cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Thái
Lan định hướng mạnh mẽ vào việc tăng chất lượng nông sản phẩm. Các nhà đầu tư đã
chấp nhận áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng "Hệ thống quản lý môi trường"
(EMS) cho các sản phẩm chế biến. Cố gắng này giúp sản phẩm của Thái Lan đạt tiêu
chuẩn quốc tế như ISO/14000 và vượt qua các rào cản về kỹ thuật để vào thị trường
quốc tế. Nhờ nổi tiếng về chất lượng, nông sản chế biến của Thái Lan đang cạnh
tranh quyết liệt chiếm dần thị phần của Indonesia và Malaysia. Bên cạnh đó, Chính
phủ Thái Lan tập trung khai thác thị trường các nước đạo Hồi với chủ trương xây
dựng tỉnh Pattani (giáp biên giới Malaysia) thành trung tâm sản xuất thực phẩm cho
đạo Hồi của thế giới. Chính phủ Thái Lan đã đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng,
khuyến khích đầu tư bằng thuế, tín dụng ưu đãi, giúp các nhà đầu tư nghiên cứu thị
trường Ai Cập và Nam Phi, thống nhất với Indonesia và Malaysia về nhãn hiệu, qui
tắc quản lý chất lượng thức ăn Hồi giáo của các nước ASEAN. Đến nay, 221 nhà máy
sản xuất sản phẩm này của Thái Lan đã đi vào hoạt động [52].
1.3.4 Bài học rút ra cho Luận án
Cò thể nói, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc xác định và phát
triển các sản phẩm nông nghiệp cũng như xây dựng các ngành hàng công nghiệp bổ
trợ như chế biến nông sản, lâm sản và thủy sản đã cho thấy sự cần thiết của việc xác
định đúng đắn ngành hàng, sản phẩm chủ lực trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của mỗi
quốc gia để có chính sách hỗ trợ phù hợp từ phía chính phủ nhằm tạo ra những động
lực và xung lực cho sự phát triển bền vững của ngành và sản phẩm chủ lực. Có thể rút
46
ra bài học kinh nghiệm từ sự thành công của một số quốc gia trong khu vực qua các
nghiên cứu trên đây như sau:
Một là, xác định đúng ngành, sản phẩm chủ lực lấy đó làm điểm khởi đầu để
tiến hành qui hoạch, xác lập chính sách hỗ trợ đúng trọng tâm, trọng điểm.
Hai là, phối hợp đồng bộ các chính sách và các giải pháp trong từng thời kỳ
nhất định, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản, bước
đầu phải có chính sách bảo hộ và chương trình hỗ trợ đặc biệt như chương trình trợ
giúp nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, vốn đầu tư... để tạo dựng thương
hiệu sản phẩm hoặc ngành hàng xuất khẩu chủ lực.
Bốn là, chú trọng phát huy các lợi thế so sánh hiện có để thực hiện chiến lược
phát triển sản phẩm chủ lực, tạo vùng và qui hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản
xuất chuyên canh tập trung sản xuất hàng hóa.
Năm là, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nông, lâm thủy sản.
Đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Sáu là, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất tiêu
thụ xuất khẩu, phản ứng nhanh trước sự thay đổi nhu cầu và thị hiếu của thị trường
về hình thức, chất lượng của hàng hóa nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh, coi trọng
chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường mới.
1.4. Kết luận chương 1
Sản phẩm chủ lực là những sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ chủ yếu giữ vị trí chủ
đạo trong phát triển kinh tế của một địa phương, một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Đây là
những sản phẩm vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa mang ý nghĩa về mặt văn hóa, tâm
linh của cộng đồng xã hội. Trong môi trường kinh doanh với tính chất cạnh tranh ngày
càng khốc liệt như hiện nay, sản phẩm chủ lực đã trở thành nhân tố quyết định đến sự
thành công trong phát triển kinh tế, xã hội của một địa phương, quốc gia hay vùng lãnh
thổ. Vần đề đặt ra là, mỗi địa phương, quốc gia hay vùng kinh tế phải tìm ra những sản
phẩm có đủ điều kiện trở thành sản phẩm chủ lực để tập trung đầu tư phát triển, tránh tình
trạng phân tán làm suy yếu nguồn lực kinh tế dẫn đến suy giảm sức cạnh tranh của quốc
gia. Muốn vậy, trước tiên cần có phương pháp phù hợp cho việc xác định sản phẩm chủ
lực với qui trình và tiêu chí đánh giá, xét chọn chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa
học, thể hiện đúng tiềm năng, lợi thế và đặc trưng văn hóa của mỗi địa phương, vùng kinh
47
tế. Vấn đề còn lại là chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của các ngành, các cấp
và hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, chương này đã hệ thống hoá lý luận về sản
phẩm chủ lực, với phát triển vùng địa phương trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh nghiên cứu phương pháp xác định sản phẩm chủ lực và
đưa ra các tiêu chí để đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực trên địa bàn các vùng và địa
phương, luận án có sử dụng các mô hình lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lý
luận về phát triển kinh tế địa phương để luận giải và xác định các nội dung cơ bản về phát
triển cụm sản phẩm chủ lực cho vùng và địa phương. Ngoài ra, Luận án cũng nghiên cứu
kinh nghiệm trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của một số nước trong
khối ASEAN có nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội để rút ra bài học cho
Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng.
Chương 2
THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM
CHỦ LỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
ĐBSCL còn được gọi là miền Tây Nam Bộ, có diện tích tự nhiên khoảng 4 triệu
Km 2 (chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước), là vùng đất trù phú nhất Việt Nam và cũng
là một trong 13 đồng bằng châu thổ lớn hàng đầu thế giới. Nằm trong tiểu vùng sông
Mekong, ĐBSCL có 3 mặt tiếp giáp biển; phía Đông Bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh và
vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ, Tây và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái
Lan; Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Nếu đối chiếu khoảng cách sang các nước xung
quanh thì ĐBSCL chiếm vị trí trung tâm của Đông Nam Á, rất thuận lợi cho các hoạt động
giao thương, vận tải bằng đường bộ, đường không cũng như đường biển với các nước
trong khu vực. Địa giới hành chính của ĐBSCL được xác định bởi 12 tỉnh và 1 thành phố
thực thuộc Trung ương, gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà
Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và Tp. Cần Thơ.
Theo số liệu thống kê chính thức từ Tổng cục thống kê, dân số ĐBSCL năm 2010 có
khoảng 17,272 triệu người chiếm 19,87% dân số cả nước. Trong đó, người kinh chiếm đại
48
đa số với hơn 90%, số còn lại là khme chiếm 6,4%, dân tộc Hoa, Chăm và dân tộc khác có
khoảng 3,6%. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ĐBSCL là vùng đất có nhiều tiềm năng và lợi
thế mang tính đặc thù rất thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung, sản phẩm chủ
lực nói riêng. Để làm rõ vấn đề này, Luận án sẽ dựa theo mô hình kim cương của Michael
E. Porter để phân tích những tiềm năng và lợi thế gần như có một không hai này.
2.1.1 Điều kiện về các yếu tố sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực
2.1.1.1 Điều kiện về nguồn nhân lực
Như đã nói ở phần trên, dân số ĐBSCL năm 2010hiện có 17,272 triệu người, chiếm
19,87% dân số cả nước và mật độ dân số là 426 người/km 2 , cao hơn trung bình chung cả
nước (263 người/km 2 ). Dân số nông thôn ĐBSCL có 13,272 triệu người (chiếm 76,84%),
cao hơn rất nhiều so với cả nước (69,83%). Số người trong độ tuổi lao động của toàn vùng
có khoảng 10,129 triệu người, chiếm 58,64% dân số, trong đó số lao động có việc làm
chiếm tới 76,2%.
Bảng 2.1. Dân số và lao động ĐBSCL so với cả nước giai đoạn 2006 – 2010 Đơn vị tính: 1000 người
Dân số và lao đông 2006 2007 2008 2009 2010
Cả nước Tổng dân số 83.311,2 84.218,5 85.118,7 86.025,0 86.927,7 Dân số nông thôn 60.265,4 60.472,2 60.445,6 60.440,3 60.703,3
DS từ 15 – 60 tuổi 44.904,5 47.160,3 48.209,6 49.322,0 50.392,9
Lao động có việc làm 51,9 53,7 54,6 55,5 56,4
ĐBSCL
Tổng dân số 16.946,9 17.042,0 17.129,5 17.199,9 17.272,2 Dân số nông thôn 13.426,1 13.451,2 13.440,4 13.257,1 13.271,9
Dân số trong tuổi lao động 9.354,8 9.772,7 9.895,2 10.046,2 10.128,7
Tỷ lệ lao động có việc làm 52,8 54,8 55,5 56,2 56,7 Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2010
Theo số liệu trong bảng 2.1, dân số ĐBSCL đã tăng từ 16946,9 ngàn người năm
2006 lên 17272,2 ngàn người năm 2010, tăng 1,92% cả giai đoạn (thấp hơn tốc độ trung
bình cả nước tăng 4,34% cả giai đoạn). Trong đó, dân số nông thôn có chiều hướng giảm
và người trong độ tuổi lao động có việc làm cũng tăng và luôn cao hơn trung bình chung
của cả nước (từ 52,8% năm 2006 lên 56,7% năm 2010). Tuy nhiên, lực lượng lao động đã
49
qua đào tạo chuyên môn còn rất thấp với tỷ lệ cao nhất năm 2010 là 7,9%, tăng hơn so với
2005 (7,2%). Trong khi đó tỷ lệ này của cả nước là 14,46% và 12,5%. Đứng đầu là ĐBSH
với 20,7% năm 2010 so với 16,5% năm 2005.
Bảng 2.2. Lao động đã qua đào tạo các vùng giai đoạn 2006 2010
Vùng lãnh thổ 2006 2007 2008 2009 2010
Cả nước 12,5 13,6 14,3 14,8 14,6
Trung du và miền núi phía Bắc 16,3 17,8 18,1 20,9 20,7
Đồng bằng sông Hồng 10,1 11,0 12,2 13,2 13,3
Bắc Trung bộ và duyên hải MT 11,0 12,0 13,1 13,5 12,7
Tây Nguyên 11,0 12,0 11,4 10,9 10,4
Đông Nam bộ 19,6 21,4 22,5 19,6 19,5
Đồng bằng sông Cửu Long 7,2 7,9 7,8 7,9 7,9
Nguồn: Tổng cục thống kê 2010
Như vậy, về dân số và lao động ĐBSCL có thế mạnh về các ngành nghề không đòi
hỏi chuyên môn kỹ thuật cao nên phù hợp với điều kiện sản xuất đơn giản, công nghệ sản
xuất thấp và thâm dụng lao động.
2.1.1.2 Điều kiện về tài nguyên thiên nhiên
1) Tài nguyên đất
Tổng diện tích ĐBSCL có khoảng 4,0 triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha được
sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 65,6%; khoảng 0,5 triệu
ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng chiếm khoảng 43% và tỷ lệ che phủ rừng chỉ
chiếm 5%. Ngoài ra, ĐBSCL còn có vùng bãi triều đứng đầu cả nước với diện tích khoảng
480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nước
lợ. Theo các nhà khoa học đất thì ĐBSCL có 4 nhóm đất chính: nhóm đất phù sa sông vời
khoảng 1,2 triệu ha, tập trung chủ yếu ở vùng trung tâm ĐBSCL; nhóm đất phèn với
khoảng 1,6 triệu ha, bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn nặng và trung bình, trong đó
đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng trung tâm bán đảo
Cà Mau; nhóm đất nhiễm mặn có khoảng 0,75 triệu ha, khó cung cấp nước ngọt từ hệ
thống sông ngòi nên chỉ trồng được lúa vào mùa mưa, còn mùa khô nhiều nơi được
chuyển sang nuôi tôm nước mặn và lợ; và các loại đất khác chỉ với khoảng 0,35 triệu ha,
50
gồm đất than bùn (vùng rừng U Minh), đất xám trên phù sa cổ (cực Bắc của ĐBSCL) và
đất đồi núi (phía TâyBắc ĐBSCL).
Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và các loại
cây trồng, đặc biệt trồng lúa là thế mạnh gần như tuyệt đối của vùng đất này.
Bảng 2.3. Diện tích lúa theo các vùng trên cả nước giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị tính: 1000 ha
Năm Cả nước ĐBSCL ĐBSH TD & MNPB
BTB& DHMT
TN & ĐNB
2006 7.324,8 3.773,9 1.171,2 661,0 1.206,9 511,8
2007 7.207,4 3.683,1 1.158,1 671,9 1.188,7 505,6
2008 7.400,2 3.858,9 1.153,2 658,8 1.210,3 519,0
2009 7.437,2 3.870,0 1.155,5 670,4 1221,0 520,3
2010 7.513,7 3.970,5 1.150,1 664,2 1214,6 514,3 Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Qua số liệu thống kê các năm giai đoạn 2006 – 2010 cho thấy, đất trồng cây hàng
năm của ĐBSCL chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu là đất trồng lúa, chiếm trên 90%
(chiếm đến 52% của cả nước; gấp 3,3 lần đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ duyên
hải Miền Trung). Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng
150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, chiếm khoảng 8,2% diện tích tự nhiên
của toàn vùng..
Bảng 2.4 Diện tích một số cây trồng quan trọng giai đoạn 2006 – 2010
Loại cây trồng Trong đó 2006 2007 2008 2009 2010
1. Cây ăn quả các loại
Cả nước (ha) 764.400 778.500 775.500 774.000 776.300
ĐBSCL (ha) 276.896 281.675 279.049 255.348 258.918
Tỷ trọng (%) 36,22 36,18 35,98 32,99 33,35
2. Cây mía Cả nước (ha) 288.100 293.400 270.700 265.600 266.300
ĐBSCL (ha) 69.496 66.792 64.032 62.990 61.843
Tỷ trọng (%) 24,12 22,76 23,65 23,72 23,22
2. Cây dừa Cả nước (ha) 134.870 136.600 141.000 144.900 147.000
ĐBSCL (ha) 107.896 109.269 112.760 115.941 117.544
Tỷ trọng (%) 80,00 79,99 79,97 80,00 79,96 Nguồn: Tổng Cục Thống Kê và Thống kê kinh tế xã hội các tỉnh, thành ĐBSCL 2010
51
Từ bảng trên có thể thấy, ĐBSCL là quê hương của các loại cây mà đứng đầu là
cây dừa với diện tích chiếm khoảng 80% diện tích dừa cả nước. Kế đến chính là cây ăn
quả và thứ ba phải kể đến là cây mía với diện tích lần lượt chiếm 35% và 23% của cả
nước. Trong 5 năm gần đây (2006 – 2010), diện tích của một số loại cây trồng quan trọng
của ĐBSCL có chiều hướng giảm nhưng nhìn chung tỷ lệ biến động không đáng kể.
2) Tài nguyên mặt nước
Do đặc điểm tự nhiên mà ĐBSCL có cả 3 vùng nước ngọt, mặn và lợ. Trong đó,
diện tích vùng triều khoảng 750.300 ha, chiếm trên 26% tổng diện tích đất tự nhiên của 8
tỉnh ven biển của vùng và chiếm 74% tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản trên
vùng triều toàn quốc. Vùng bán đảo Cà Mau có diện tích tiềm năng cho phát triển nuôi
trồng thủy sản mặn lợ rất lớn (trên 630.000 ha). Nếu so sánh với cả nước, diện tích nuôi
thủy sản ĐBSCL giữ vị trí dẫn đầu với hơn 70% diện tích của cả nước, gấp 6 lần diện tích
loại này của đồng bằng sông Hồng (khu vực đứng thứ 2 về diện tích nuôi trồng thủy sản
sau ĐBSCL) và gấp 14 lần miền Đông Nam bộ. Các tỉnh có điện tích nuôi thủy sản lớn
nhất ĐBSCL là: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, trong đó
Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang chiếm khoảng 70% diện tích nuôi thủy sản toàn vùng.
Bảng 2.5. Diện tích nuôi trồng thủy sản theo vùng kinh tế giai đoạn 2006 2010
Đơn vị tính: 1000ha Vùng kinh tế 2006 2007 2008 2009 2010 Cả nước 976,5 1.018,8 1.052.6 1.044,7 1.066,0
Đồng bằng sông Hồng 113,1 117,2 121,2 124,9 125,1 Trung du & MN PB 33,8 36,2 37,9 40,0 41,0 Bắc TB & DHMT 77,6 78,9 77,9 79,6 79,9 Tây nguyên 8,5 9,3 10,7 11,1 13,0 Đông Nam Bộ 52,3 53,4 52,7 51,5 53,7 ĐBSCL 691,2 723,8 752,2 737,6 753,3
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Ngoài ra, ĐBSCL còn sở hữu diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng
360.000 km 2 , chiếm 37% tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế của cả nước. Toàn vùng
có khoảng 750 km chiều dài bờ biển (chiếm khoảng 23% tổng chiều dài bờ biển toàn
quốc) với 22 cửa sông, cửa lạch và hơn 800.000 ha bãi triều (7080% là bãi triều cao).
52
Điều kiện giao thoa mặn, lợ, ngọt cũng đã tạo nên một vùng sinh thái đặc thù, hiếm thấy
trên thế giới, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất thủy sản hàng hoá tập trung.
3) Khí hậu thời tiết
ĐBSCL nằm trong vùng nhiệt đới Bắc bán cầu, cận xích đạo, mang tính chất nhiệt đới gió
mùa, mặt khác lại là vùng đồng bằng ven biển nên khí hậu trong vùng có sự pha trộn khí hậu hải
dương với nền nhiệt độ cao và lượng mưa hàng năm dồi dào. Số giờ chiếu sáng cao và phân bố
tương đối đồng đều trong năm; Độ ẩm không khí trung bình dao động từ 8388%; Lượng mưa tập
trong mùa mưa, chiếm khoảng 90% lượng mưa của cả năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và
mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhìn chung, điều kiện thời tiết khí hậu của các địa
phương ĐBSCL là khá tương đồng và rất thuận lợi cho các loại cây trồng nhiệt đới thích nghi với
nhiệt độ, độ ẩm cao, nắng nhiều và lượng mưa trung bình trong năm lớn. Tuy nhiên, đây cũng còn
là môi trường thuận lợi cho nhiều loại côn trùng phát triển, nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ dịch bệnh,
nấm mốc ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp
2.1.1.3 Điều kiện về tri thức, khoa học
1) Hệ thống trường và cơ sở đào tạo
ĐBSCL đang trên đường hoàn thiện cơ sở hạ tầng giáo dục và đào tạo với hệ thống
13 trường đại học, 2 phân hiệu (Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh và Thủy sản Nha
Trang), 26 trường cao đẳng, 28 trường trung học chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, một số
trường khác đang chuẩn bị thành lập như Đại học Quốc tế Cần Thơ, Đại học Kỹ thuật –
Công nghệ.... Như vậy, tính đến cuối năm 2010, đã có 10/13 tỉnh trong vùng có trường đại
học, tất cả các tỉnh đều có trường cao đẳng. Hệ thống cơ sở giáo dục thường xuyên đã cơ
bản phủ khắp địa bàn tỉnh, huyện. Riêng lĩnh vực dạy nghề, ĐBSCL hiện có 334 cơ sở,
trong đó có 8 trường cao đẳng nghề, 30 trường trung cấp nghề và 127 trung tâm dạy nghề
(41% là cơ sở dạy nghề tư thục). Mỗi năm có hàng vạn sinh viên, học sinh tốt nghiệp ra
trường. Trong đó, có 10,1% sinh viên học ngành Nông lâm ngư nghiệp, ở bậc cao đẳng tỷ
lệ này là 4,7% . Đây là lực lượng lao động có chuyên môn nhiều trình độ khác nhau bổ
sung vào nguồn nhân lực cho ĐBSCL.
2)Viện nghiên cứu
Ngoài hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề kể trên, ĐBSCL còn có hệ thống các viện nghiên cứu chuyển giao công nghệ và đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao cho các địa phương trong vùng như: Viện
Lúa ĐBSCL, Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL thuộc trường Đại học Cần Thơ, Viện
Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II của Bộ Nông
53
nghiệp & Phát triển Nông thôn đóng tại phía Nam. Các đơn vị này có nhiệm vụ thực hiện
nghiên cứu cơ bản và ứng dụng cũng như chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông
nghiệp; tham gia đào tạo sau đại học, sản xuất và cung cấp các loại giống nông nghiệp
phục vụ cho phát triển sản xuất vùng ĐBSCL.
Hiện nay, cùng với hệ thống các trường đào tạo trong vùng, hệ thống các viện
nghiên cứu giữ vai trò trọng yếu trong việc đào tạo nguồn lao động có trình độ cao và
cung cấp cho ĐBSCL những tiến bộ mới của khoa học công nghệ, thiết thực phục vụ cho
sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng.
2.1.1.4 Điều kiện về vốn đầu tư
Vốn đầu tư toàn xã hội trong vùng hàng năm đều tăng, tính đến năm 2010 tổng vốn
đầu tư xã hội vùng ĐBSCL đã đạt gấp 5,37 lần năm 2006, tăng bình quân cả giai đoạn này
khoảng 23%/năm. Nếu xét về tăng trưởng theo khu vực kinh tế thì vốn đầu tư trên cả 3
khu vực đều tăng nhưng tăng mạnh nhất là khu vực II (công nghiệp và xây dựng), khu vực
I (nônglâm nghiệp và thủy sản) và khu vực III (thương mại và dịch vụ) có tốc độ tăng
chậm hơn nên cơ cấu vốn đầu tư có chiều hướng nghiêng về khu vực II.
Tuy nhiên, theo số liệu thể hiện trên hình 2.1, cơ cấu vốn đầu tư bình quân giai
đoan 2006 – 2010 của ĐBSCL vẫn nặng về khu vực III với tỷ trọng 51,87%, khu vực I có
vốn đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng ít nhất với khoảng 10,1%.
Nguồn: Niên giám thống kế các tỉnh thành ĐBSCL 2010
Về đầu tư nước ngoài (FDI), ngay sau khi có luật đầu tư nước ngoài, năm 1988
ĐBSCL đã thu hút được 4 dự án với tổng vốn đầu tư là 7,8 triệu USD, bằng 10% về số dự
án và 2,09% tổng vốn đầu tư của cả nước và qua các năm số liệu này đều tăng.
Bảng 2.6 FDI cả nước được cấp phép tích lũy đến 31/12/2010
Vùng kinh tế Số dự án đăng ký Vốn đăng ký
54
Dự án (%) Triệu USD (%) Cả nước 12.463 100 194.572,2 100 Đồng bằng sông Hồng 3.305 26,52 39.099,4 20,10 Trung du và MNPB 323 2,59 2.455,6 1,26 Bắc Trung bộ và DHMT 717 5,75 51.620,7 26,53 Tây nguyên 133 1,06 791,5 0,41 Đông Nam bộ 7.377 59,19 88.610,9 45,54 Đồng bằng sông Cửu Long 565 4,53 9.439,9 4,85 Dầu khí 43 0,34 2.554,2 1,31
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2010
Theo số liệu báo cáo của Bộ Đầu tư (bảng 2.6), nếu tính riêng năm 2010, vùng
ĐBSCL thu hút được 70 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1,6 tỷ USD chiếm trên
12% tổng vốn đăng ký đầu tư của cả nước và đứng thứ 3/8 vùng, chỉ sau vùng Đông Nam
Bộ và vùng Đông Bắc. Như vậy, sau hơn 20 năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài, toàn vùng ĐBSCL đã có 565 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 9,5
tỉ USD, chiếm 4,53% số dự án và 4,85% vốn FDI đăng ký cả nước. Trong đó, vốn FDI
lĩnh vực công nghiệp chế biến chiếm 79,1% về số dự án và 56,3% về vốn đăng ký. Long
An hiện là địa phương dẫn đầu cả về số dự án và vốn đăng ký, chiếm 59,47% số dự án và
37,07% tổng vốn đăng ký; Kiên Giang xếp thứ hai về vốn với khoảng 3,71% số dự án và
29,56% vốn đăng ký.
2.1.1.5 Điều kiện về kết cấu hạ tầng giao thông
Về đường bộ. Tính đến hết năm 2010, ĐBSCL đã có 47.202,74 km đường bộ, trong
đó quốc lộ có khoảng 1.960 km, tỉnh lộ có 3.720 km, đường huyện có 8.402 km, đường xã
có 33.119 km. Tuyến đường huyết mạch của vùng ĐBSCL chính là quốc lộ 1A bắt đầu từ
Long An đến Đất Mũi Cà Mau với chiều dài trên 330 km. Hỗ trợ cho quốc lộ 1A là 2
tuyến trục dọc N1 dài 235 km và tuyến N2 dài 440 km, nối miền Đông Nam bộ với các
tỉnh ĐBSCL. Đặc biệt, đường bộ cao tốc TP.HCM Cần Thơ quy mô 4 làn xe đã đưa vào
sử dụng đoạn TP.HCM – Trung Lương. Dự kiến đến năm 2015 sẽ khởi động thêm nhiều
dự án giao thông mang tầm cỡ quốc gia như dự án tuyến đường sắt TP.HCM Cần Thơ,
hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc TP.HCM Cần Thơ, tuyến đường Hồ Chí Minh nối
dài đến Đất Mũi. Cùng với hệ thống giao thông nông thôn đang được các địa phương đầu
tư, hệ thống giao thông đường bộ ĐBSCL sẽ đảm bảo tốt cho lưu thông thông nội vùng,
kết nối với các tỉnh Đông Nam bộ và TP.HCM cũng như từ ĐBSCL đi các nước lân cận,
55
bảo đảm cho hàng hóa nông sản ĐBSCL đi khắp nơi trong nước và vươn ra thế giới, góp
phần phá thế cô lập giữa các địa phương trong vùng cũng như giữa vùng với bên ngoài.
Về đường không. Hiện tại, ĐBSCL đã có 4 cảng hàng không quan trọng, trong đó
Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ được là cảng hàng không lớn nhất và hiện đại nhất
ĐBSCL với tổng diện tích sàn hơn 20.700 m2; công suất 35 triệu khách/năm, cả ngày và
đêm có thể tiếp nhận các loại máy bay hạng nặng như Boeing 777300ER, Boeing 747
400 và tương đương, đạt tiêu chuẩn phục vụ hành khách hạng C của Theo tiêu chuẩn quốc
tế. Bên cạnh đó, ĐBSCL còn có các cảng hàng không nội địa như Rạch Giá, Phú Quốc và
Cà Mau, đồng thời tỉnh An Giang cũng đã đề xuất Chính phủ cho đầu tư thêm sân bay
Châu Đốc. Hiện các sân bay này chỉ sử dụng các máy bay nhỏ, khai thác các tuyến bay
ngắn phục vụ du lịch. Tới đây, theo qui hoạch phát triển hàng không dân dụng của vùng,
các sân bay này có thể tiếp nhận các tuyến bay quốc tế trực tiếp từ Singapore, Malaysia,
Indonesia, Thái Lan, Campuchia… tới, hoặc bay tới sân bay Tân Sơn Nhất (hiện nay), sân
bay Long Thành (trong tương lai), ĐBSCL sẽ có nhiều cơ hội hơn để mở rộng và khai
thác thị trường vận tải hàng không trong nước, khu vực và thế giới.
Về đường biển. Luồng tàu là những khâu đột phá trong khai thác lợi thế vận tải biển
của ĐBSCL. Theo số liệu thống kê gần đây, toàn vùng có 20 cảng với tổng năng lực thông
quan 1214 triệu tấn/năm, trong đó cảng Cần Thơ, Cái Cui vẫn là cảng trung tâm của cả
vùng. Theo định hướng phát triển đến năm 2015, tầm nhìn 2020, vùng ĐBSCL sẽ có hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông vận tải biển đồng bộ và tương đối hoàn chỉnh với cảng
biển lớn ngoài khu vực sông Hậu (tỉnh Trà Vinh) để tiếp nhận tàu 60.000 tấn.
Đường thủy nội địa. Với khoảng 10.000km kênh rạch, trong đó tuyến đường thuỷ
nội địa quốc gia là 2.857km, ĐBSCL hiện sở hữu một hệ thống giao thông thủy nội địa
chằng chịt rất thuận tiện cho việc đi lại của người dân trong vùng và thông thương hàng
hoá. Ngoài 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu ăn thông với biển Đông bằng 9 cửa, ĐBSCL
còn có nhiều tuyến sông ngang, dọc như tuyến TP. HCM đi Cà mau dài 332km; Tuyến
thành phố HCM đi Kiên Lương tỉnh Kiên Giang dài 230 km (hai tuyến này có chung đoạn
từ TP.HCM đi Mỹ Tho dài 72 km); Tuyến từ Bến Tre đi Cà Mau với chiều dài trên 220
km; sông Cái Lớn có chiều dài khoảng 60km chảy qua Hậu Giang, Kiên Giang và đỏ ra
biển Rạch giá và hàng trăm con sông lớn, nhỏ và kênh đào khác đã tạo nên mạng lưới giao
thông thủy phong phú bậc nhất cả nước và khu vực. Hàng năm, hệ thống này đã vận
56
chuyển tới 32% hành khách và 70% khối lượng hàng hoá thế mạnh của vùng như lương
thực, thủy sản xuất khẩu, vật liệu xây dựng …
2.1.2 Qui mô cầu thị trường về các sản phẩm chủ lực
1) Thị trường lúa gạo
Theo dự báo của Tổ chức nghiên cứu thị trường EIU (Economist Intelligence Unit)
trong vòng 10 năm tới, năng suất lúa thế giới tiếp tục tăng bình quân trên 0,7% hằng năm,
trong đó 70% tăng trưởng về sản lượng lúa thế giới sẽ từ Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam,
Thái Lan, Myanmar và Nigeria. Tuy nhiên do tốc độ tăng dân số nhanh hơn nên hằng năm
mức tiêu thụ gạo bình quân đầu người sẽ giảm khoảng 0,4 % mỗi năm. Ấn Độ và Trung
Quốc vẫn sẽ là các nước tiêu thụ gạo lớn nhất và ước khoảng 50% lượng gạo tiêu thụ toàn
thế giới. Riêng năm 2010, do khí hậu biến đổi thất thường làm cho sản xuất lúa gạo chịu
ảnh hưởng tiêu cực. Tại Ấn Độ, diện tích lúa giảm đã kéo theo sản lượng gạo giảm từ 99
triệu tấn niên vụ 2009 xuống còn 89 triệu tấn niên vụ 2010; tại Indonesia, sản lượng gạo
niên vụ 2010 chỉ có thể đạt 37,1 triệu tấn, giảm 1,2 triệu tấn so với niên vụ 2009; tương tự,
Philippines giảm gần 1 triệu tấn xuống còn 9,772 triệu tấn. Nhìn chung, diện tích lúa thế
giới niên vụ 2010 chỉ vào khoảng 156,1 triệu ha, giảm 1,7 triệu ha so với niên vụ 2009,
trong khi năng suất không tăng đã làm giảm sản lượng, niên vụ 2010 ước chỉ đạt 441,2
triệu tấn, giảm 6,9 triệu tấn so với niên vụ 2009.
Bảng 2.7 Tiêu thụ gạo tại các thị trường trên thế giới giai đoạn 2007 – 2012
Đơn vị tính: triệu tấn Niên vụ 2007/08 2008/09 2009/10 2010/11 2011/12
Tổng 427,5 437,5 440,4 444,4 450,2 Trung Quốc 127,5 131,0 134,5 133,0 134,0 Ấn Độ 90,6 93,2 90,5 93,0 94,8 Indonesia 36,7 37,4 37,8 38,2 38,7 Các nước Đông & Nam Á khác 115,3 117,3 118,2 119,5 120,8 Châu Phi 20,4 21,6 22,3 22,8 23,2 Châu Mỹ Latinh 17,2 18,3 18,2 18,7 18,9 Các nước khác 19,8 18,8 18,8 19,2 19,8
Nguồn: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA); Economist Intelligence Unit.
Cũng theo dự báo, thương mại gạo trên toàn cầu sẽ có sự phục hồi nhờ vào sự gia
tăng nhu cầu nhập khẩu gạo của nhiều nước Châu Á. Trong đó, Philippines là nước nhập
57
khẩu gạo lớn nhất thế giới, dự kiến sẽ nhập khẩu khoảng 40% trong năm 2010, đạt mức
2,6 triệu tấn và sẽ tăng mức nhập khẩu 2,5 triệu tấn mỗi năm trong thời gian tới. Nếu nhu
cầu nhập khẩu gạo của thị trường Châu Á và Châu Phi tăng sẽ thúc đẩy khối lượng giao
dịch gạo thế giới lên hơn 31,3 triệu tấn vào năm 2012 và 33,4 triệu tấn năm 2016.
Đối với thị trường gạo Việt Nam, nếu so với những năm gần đây thì tiêu dùng gạo
trong nước hầu như không có những biến đổi lớn, mặc dù quy mô dân số của Việt Nam
không ngừng tăng và gạo vẫn được coi là lương thực thiết yếu. Nguyên nhân là do đời
sống của người dân ngày càng được nâng lên nên lượng gạo trong khẩu phần của mỗi gia
đình hầu như đã giảm xuống; thay vì đáp ứng số lượng như trước đây thì một bộ phận
không nhỏ dân cư đã chuyển sang dùng những loại gạo có chất lượng cao hơn. Vậy, vấn
đề chủ yếu về thị trường gạo Việt Nam là xuất khẩu. Như đã nêu ở phần trên, do nguồn
cung trên thế giới bị thu hẹp đã tạo ra cơ hội cho ngành xuất khẩu gạo Việt Nam phát
triển. Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam nói chung vẫn là
Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu trong năm 2010 là
thị trường Philipines, chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch; thị trường
Indonesia xếp vị trí thứ 2 với 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch; thứ 3 là
Singapore với chiếm 7,83% về lượng và chiếm 7,01% tổng kim ngạch.
Bảng 2.8 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, năm 2010
Thị trường xuất khẩu (tên quốc gia)
Khối lượng (tấn)
Kim ngạch (1000USD)
Phillipines 1.475.821 947.379 Indonesia 687.213 346.017 Singapore 539.298 227.792 Cu Ba 472.270 209.217 Malaysia 398.012 177.689 Đài Loan 353.143 142.705 Đặc khu Hồng Công 131.123 65.176 Trung Quốc 124.466 54.637 Đông Timo 116.727 51.527 Liên bang Nga 83.696 36.059
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010
2) Thị trường thủy sản
58
Theo Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO), tổng cầu về thuỷ sản và các sản phẩm
thuỷ sản trên thế giới dự kiến sẽ đạt 183 triệu tấn vào năm 2015, với tốc độ tăng trưởng
bình quân 2,1%/năm. Tiêu thụ thuỷ sản tính theo đầu người trên toàn cầu sẽ tăng bình
quân 0,8% trong giai đoạn đến năm 2015, giảm so với mức 1,5% đã đạt được trong 20
năm trước. Tiêu thụ cá và sản phẩm cá bình quân đầu người dự báo sẽ đạt 13,7 kg vào
năm 2010 và 14,3 kg vào năm 2015, trong khi đó nhu cầu về shellfish (thuỷ sản có vỏ) và
các sản phẩm nuôi khác sẽ đạt mức tương ứng 4,7 và 4,8 kg/người.
Bảng 2.9 Dự báo tiêu thụ thuỷ sản theo mục đích và theo nhóm nước đến 2015
Đơn vị: Triệu tấn
Mục đích và quốc gia tiêu thụ thủy sản đến năm 2015 2005 2010 2015
Bình quân giai đoạn (%) 2010/2005 2015/2010
Thế giới 144,5 157,2 183.0 1,70 3,08 Tiêu dùng cho thực phẩm 107,5 117,2 138,0 1,75 3,30 Hao hụt và tiêu dùng khác 37 40 45,0 1,60 2,40 Trong đó Các nước đang phát triển 74,5 82,4 2,05 4,05 Các nước phát triển 33,0 34,8 1,40 1,88
(Nguồn: FAO, Future prospects for fish and fishery product: mediumterm projections to the years 2010 and 2015)
FAO còn cho biết thêm, trong tổng lượng gia tăng nhu cầu thuỷ sản dùng làm thực
phẩm (khoảng 40 triệu tấn), có 46% mức tăng là do dân số tăng, 54% còn lại là do kinh tế
phát triển và các nhân tố khác. Các nước đang phát triển sẽ dẫn đầu về mức tăng nhu cầu
tiêu thụ tính theo đầu người với mức tăng dự kiến là 1,3%, trong khi đó tại các nước phát
triển mức tăng nhu cầu tiêu thụ tính theo đầu người bình quân mỗi năm giảm 0,2%. Bên
cạnh đó, FAO cũng đưa ra dự báo về tổng sản lượng thuỷ sản của thế giới sẽ đạt mức 159
triệu tấn vào năm 2010 và 172 triệu tấn vào năm 2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân
1,6%/năm giai đoạn 2010 – 2015 (bảng 2.9). Sự tăng trưởng này chủ yếu nhờ vào tăng sản
lượng thuỷ sản nuôi, ước khoảng 73% sản lượng gia tăng và dự kiến sẽ chiếm 45% trong
tổng sản lượng thuỷ sản toàn cầu vào năm 2015.
Bảng 2.10 Dự báo sản lượng thuỷ sản thế giới đến năm 2015
Đơn vị: Triệu tấn
Nguồn cung thủy sản 2005 2010 2015
So sánh giai đoạn (%)
59
thế giới 2010/2005 2015/2010 Tổng sản lượng 140,5 159,0 172,0 2,50 1,60 Sản lượng đánh bắt 95,0 95,5 94,5 Sản lượng nuôi trồng 45,5 63,5 77.5 6,95 4,10
(Nguồn: FAO, Future prospects for fish and fishery product: mediumterm projections to the years 2010 and 2015)
Như kết quả trong bảng 2.10, ở các nước đang phát triển dự kiến sẽ tăng 2,7%/năm,
trong đó thuỷ sản đánh bắt dự kiến chỉ tăng 1%/năm. Do vậy, phần lớn mức sản lượng
tăng sẽ là từ phía thuỷ sản nuôi, với sản lượng dự kiến tăng 4,1% một năm. Đây là cơ hội
lớn cho ngành thủy sản các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Có thể nói, đây
chính là tiền đề để Việt Nam có thể trở thành cường quốc xuất khẩu thủy sản trong tương
lai như đã từng đối với gạo.
Về xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Theo báo cáo của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam (VASEP), năm 2010, thủy sản Việt Nam đã xuất sang 162 quốc gia
trên thế giới. Trong đó, top 10 thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam năm
2010 đạt 3,420 tỷ USD chiếm 68% giá trị xuất khẩu và đều có mức tăng trưởng khá cao,
bình quân từ 10 – 25% so với năm 2009. Mức tăng trưởng cao nhất là Pháp với 68%. Các
mặt hàng thủy sản chủ yếu xuất khẩu là tôm (chiếm 42%), cá tra (chiếm 28,4%), nhuyễn
thể (chiếm 9,7%) và cá ngừ (chiếm 5,8%)
Bảng 2.11 Qui mô và cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2010
TT Quốc gia Giá trị (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
1 Mỹ 971 19,3 2 Nhật Bản 897 17,8 3 Hàn Quốc 386 7,7 4 Hồng Kông 247 4,9 5 Trung Quốc 247 4,9 6 Đức 210 4,1 7 Tây Ban Nha 167 3,3 8 Australia 152 3,0 9 Itali 136 2,7 10 Hà Lan 132 2,6
Nguồn: VASEP, 2010
Qua bảng số liệu trên ta thấy, nếu tính riêng từng quốc gia thì Mỹ vẫn giữ vị trí hàng đầu
trong các thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2010, đứng thứ nhì là Nhật Bản và thứ ba
60
là Hàn Quốc. Chỉ riêng ba quốc gia này đã chiếm 44,8% thị phần xuất khẩu của thủy Sản Việt
Nam. Tuy nhiên, nếu xem EU là một thị trường chung thì Mỹ đứng thứ hai. EU luôn dẫn đầu
nhập khẩu thủy sản Việt Nam kể từ năm 2005 trở lại đây.
3) Thị trường trái cây Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, ĐBSCL đã trở thành vùng cây ăn quả lớn
nhất nhì cả nước. Trong đó, các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp có diện tích
trồng lớn nhất toàn khu vực. Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, mấy năm gần đây trái cây Việt
Nam đã có mặt ở 50 nước trên thế giới. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết, sản
lượng trái cây thu hoạch trên cả nước đạt hơn 7 triệu tấn và trên đà tăng nhanh lên nhanh chóng.
Chuối được đánh giá là loại quả có sản lượng thu hoạch lớn nhất, sau đó đến cam, quýt, nhãn,
dứa, xoài, vải thiều, thanh long… Tuy nhiên, theo số liệu thống kê gần đây, có tới 90% sản lượng
trái cây vẫn phải tiêu thụ trên thị trường nội địa, tỷ lệ trái cây xuất khẩu mới chỉ chiếm 10% với 5
6% là trái cây tươi.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tỷ lệ trái cây nhập khẩu mấy năm qua liên
tục tăng ở hai con số, chỉ tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2011, các doanh nghiệp đã nhập về
134 triệu USD mặt hàng rau quả, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều loại trái cây như
táo, cam, quýt, mận, nho, lựu từ Trung Quốc, Thái Lan, Philíppin, Mỹ, Niu Dilân đầy dẫy trên
thị trường nước ta.
Bảng 2.12 Các nước sản xuất trái cây tươi hàng đầu thế giới
Hạng Lãnh thổ Giá trị (1000USD)
Sản lượng (tấn)
1 India 2,786,652 7,983,900 2 Viet Nam 913,390 2,616,910 3 China 761,026 2,180,378 4 Iran (Islamic Republic of) 632,442 1,811,980 5 Indonesia 488,647 1,400,000 6 Myanmar 442,557 1,267,950 7 Nigeria 377,668 1,082,040 8 Papua New Guinea 343,284 983,528 9 Nepal 220,538 631,855 10 Egypt 196,024 561,620
Nguồn: Theo FAO Statistical Yearbook 2010
Từ kết quả đạt được nhiều năm mà FAO đã đánh giá và xếp hạng theo bảng trên, Việt
Nam là quốc gia đứng thứ hai sau Ấn Độ về sản xuất trái cây cả về số lượng lẫn giá trị. Tuy vậy,
61
ngành trái cây chưa thể hiện đúng tầm với tiềm năng và lợi thế, chưa chiếm lĩnh được thị trường
thế giới và thị trường nội địa cũng đang bị bỏ ngõ.
4) Thị trường du lịch
ĐBSCL với đặc thù là vùng sinh quyển độc đáo trên thế giới, nơi đây sẽ là điểm
đến mới đối với du khách quốc tế. Địa hình của vùng rất đặc trưng với nhiều sông rạch
chằng chịt, hội đủ các yếu tố cho phát triển ngành du lịch như: rừng, núi, biển, hải đảo...
và nhiều địa danh nổi tiếng tại 8 vùng sinh thái đặc trưng đã tạo cho ĐBSCL một sắc thái
du lịch riêng biệt. ĐBSCL còn nổi tiếng là trung tâm cây ăn trái nhiệt đới với nhiều loại
trái cây đặc sản quanh năm. Các chuyên gia về du lịch dự báo, số du khách quốc tế đến
nước ta sẽ gia tăng nhanh trong thời gian tới với các lý do: Việt Nam ngày càng được các
nước biết đến, làn sóng đầu tư mới sau khi Việt Nam gia nhập WTO, quốc gia ổn định về
chính trị và ít bị tác động của thiên tai, cộng đồng người Việt có nhu cầu trở về thăm thân
nhân và đầu tư, các thủ tục xuất nhập cảnh đang được giản lượt đáng kể... sẽ mở ra một
hứa hẹn mới cho ngành Du lịch Việt Nam nói chung, du lịch ĐBSCL nói riêng. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng về lượng khách và thu nhập du lịch của ĐBSCL so với cả nước
vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng, của địa phương; việc
phát triển còn manh mún, chưa đồng bộ. Thực tế có thể nhận thấy, du khách khi đến
ĐBSCL thường có mức chi tiêu rất thấp và ít quay trở lại những lần tiếp theo.
2.1.3 Chiến lược phát triển và môi trường cạnh tranh của sản phẩm chủ lực
Là vùng kinh tế trọng điểm, có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
của cả nước, ĐBSCL còn được xem là vựa lúa lớn nhất với nhiệm vụ bảo đảm an ninh
lượng thực không những cho quốc gia mà còn cho cả thế giới. Theo dự báo, dân số, đất đai
đến 2020, tầm nhìn 2050 của vùng sẽ có nhiều thay đổi quan trọng, tạo ra nhiều cơ hội
phát triển cũng như khó khăn cho vùng. Theo sự báo, đến năm 2020 dân số ĐBSCL có
khoảng 20 21 triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 7,0 7,5 triệu người với tỷ lệ đô
thị hóa khoảng 33 35%; đến năm 2050 con số này sẽ là khoảng 30 32 triệu người, trong
đó dân số đô thị khoảng 25 27 triệu người, với tỷ lệ đô thị hóa khoảng 40 50%; tương
ứng thời gian này, quy mô đất đai xây dựng đô thị từ khoảng 100.000 110.000 ha lên
320.000 350.000 ha, quy mô đất đai công nghiệp tập trung từ khoảng 20.000 30.000 ha
lên 40.000 50.000 ha.
Với tình hình như vậy, ngày 09 tháng 10 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 1581/QĐTTg về việc phát triển ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn
62
2050, với các nội dung cơ bản sau:
1) Về mục tiêu phát triển
Phát huy vai trò, vị thế và tiềm năng của vùng theo mô hình đa cực tập trung kết
hợp các hành lang kinh tế đô thị, với thành phố Cần Thơ là đô thị trung tâm của vùng;
Phát triển cấu trúc không gian toàn Vùng với hành lang kinh tế sông Tiền, sông Hậu,
quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, cụm các đô thị trung tâm và các đô thị nhỏ được phân bố
đều dựa trên các vùng nông nghiệp, công nghiệp và du lịch;
Phát triển các vùng nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp tập trung chuyên
môn hóa; hình thành các trục hành lang kinh tế công nghiệp và dịch vụ, tạo động lực cho
các tỉnh trong Vùng phát triển nhanh và bền vững;
Phát triển các vùng, các trung tâm du lịch tầm quốc tế, quốc gia gắn với đặc trưng
văn hóa, đô thị và cảnh quan tự nhiên; Phát triển hài hoà giữa đô thị và nông thôn;
Hình thành hệ thống hạ tầng xã hội đa dạng và linh hoạt trên cơ sở hệ thống hạ
tầng kỹ thuật gắn kết hệ thống dân cư, đô thị trên toàn vùng, kiểm soát môi trường chặt
chẽ....,với các giải pháp giảm thiểu ảnh hưởng thay đổi bất thường của thiên nhiên.
Hình thành các chương trình, dự án chiến lược có sức lan tỏa và thúc đẩy sự phát
triển vùng; Xây dựng mô hình quản lý và kiểm soát phát triển không gian, kiến trúc cảnh
quan vùng có hiệu quả.
2) Định hướng phát triển không gian và vùng
Vùng phát triển đô thị: Gồm có vùng đô thị trung tâm gồm đô thị hạt nhân thành
phố Cần Thơ; vùng phụ cận xác định trong phạm vi bán kính 30 50 km từ vùng đô thị
trung tâm; vùng đối trọng với các đô thị tỉnh lỵ có khoảng cách trung bình 30 50 km từ
đô thị trung tâm.
Các trục hành lang kinh tế đô thị: Gồm có trục hành lang kinh tế đô thị sông Tiền
sông Hậu (trục hành lang kinh tế Đông Tây) và quốc lộ 91; trục hành lang kinh tế đô thị
quốc lộ 1A đường Hồ Chí Minh (hướng Bắc Nam); các trục hành lang kinh tế đô thị khác
kết nối các đô thị còn lại trong các hoạt động phục vụ sản xuất nông nghiệp và các dịch vụ
cho nông thôn.
Vùng phát triển công nghiệp: Gồm có vùng công nghiệp trung tâm tại ĐBSCL bố
trí các ngành công nghiệp chế xuất, kỹ thuật cao, công nghiệp sạch và công nghiệp phụ
trợ; vùng công nghiệp phía Đông Bắc tại tỉnh Long An, Tiền Giang giáp với thành phố Hồ
Chí Minh bố trí công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, cơ khí phục vụ sản xuất nông
63
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng; đóng sửa tàu thuyền; vùng công nghiệp phía Tây Nam tại
các tỉnh Trà Vinh, An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vị Thanh, Cà Mau và Kiên Giang bố
trí các ngành công nghiệp khí điện đạm, chế biến thủy sản, vật liệu xây dựng, điện
tử...và công nghiệp phụ trợ.
Vùng sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng: Gồm có các vùng du lịch quốc gia, quốc tế;
Các tuyến du lịch nội vùng; Các tuyến du lịch quốc tế quốc gia; Tuyến du lịch caravan
bằng đường thủy dọc sông MêKông đến biển hồ Campuchia (dài 250 km).
Vùng nông nghiệp, vùng bảo tồn thiên nhiên: Vùng nông nghiệp được bảo vệ và
phát triển với công nghệ sinh học tiên tiến chủ yếu thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang và
An Giang; vùng bảo tồn thiên nhiên gồm khu rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ, vùng
sinh thái Đồng Tháp Mười... vùng du lịch biển là Phú Quốc, Hà Tiên, Hòn Chông và các
điểm khác trên bờ biển Đông của các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng...
3) Định hướng phát triển hạ tầng xã hội vùng
Phân bố hệ thống đào tạo vùng: Tập trung các cơ sở đào tạo trong vùng tại các
thành phố: Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Cà Mau và thị xã Bạc Liêu với Tp Cần Thơ làm
trung tâm; hình thành các trung tâm vệ tinh tại các thành phố: Cao Lãnh, Long Xuyên và
Rạch Giá, với ngành mũi nhọn có tính đặc thù cho phát triển kinh tế xã hội của vùng.
Phân bố hệ thống y tế vùng: Nâng cao công suất và chất lượng bệnh viện Đa khoa
Trung ương Cần Thơ để đảm nhận chuyên môn kỹ thuật cao nhất cho vùng. Đồng thời,
củng cố và tăng cường đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật cho các bệnh viện đa khoa các tỉnh;
xây dựng bệnh viện chấn thương chỉnh hình ở Tiền Giang; đầu tư phát triển Trung tâm y
tế dự phòng Cần Thơ để đảm nhiệm chức năng của cả vùng.
Phân bố hệ thống nhà ở: vùng đô thị trung tâm nhà ở thương mại tập trung mật độ
cao dọc sông Tiền, sông Hậu; vùng đô thị đối trọng Tây Nam Đông Bắc phát triển theo
các đô thị mở rộng và gắn với các khu công nghiệp vùng nông nghiệp và vùng sinh thái;
các vùng đô thị gắn với các khu công nghiệp tập trung.
Phân bố hệ thống dịch vụ thương mại: Hình thành trung tâm thương mại, dịch vụ
lớn của ĐBSCL tại Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau và tại các khu kinh tế cửa
khẩu với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo, sản phẩm đông lạnh thủy sản, các loại trái
cây ăn quả nhiệt đới, các mặt hàng dệt may, giày dép, điện tử…
2.1.4 Ngành sản xuất và dịch vụ phụ trợ cho phát triển sản phẩm chủ lực
64
Trong bối cảnh hội nhập vào cạnh tranh quốc tế, ĐBSCL cần xây dựng một nền sản
xuất nông nghiệp có khả năng cạnh tranh mạnh và tham gia vào phân công lao động quốc
tế, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế địa phương. Muốn vậy, một
trong các điều kiện tiên quyết là phải có một nền công nghiệp bổ trợ phát triển, đáp ứng
được nhu cầu của các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong vùng.
1) Ngành công nghiệp chế biến.
Những năm gần đây, công nghiệp trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ phát
triển cao, bình quân tăng 21,8%. Đến đầu năm 2009, ĐBSCL có 99.966 cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn, tăng 15.931 cơ sở so với năm 2005. Trong đó tăng nhiều nhất là công nghiệp
chế biến nông sản như: chế biến gạo, thủy hải sản xuấy khẩu; chế biến sữa, dầu thực vật, đường,
trái cây, rượu, bia, nước giải khát, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất xi măng, khí điện đạm,
phân bón, điện nước...
Ngành xay xát lương thực với số lượng cơ sở được phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành với
nhiều nhà máy có công suất khác nhau, theo số liệu thống kê, sản lượng xay xát toàn vùng năm
2009 đạt hơn 7,8 triệu tấn . Tuy nhiên, công suất xay xát và chế biến gạo xuất khẩu hiện tại chưa
tương ứng với nguồn nguyên liệu của địa phương, công nghệ xay xát lạc hậu tiêu tốn nhiều năng
lượng, tỷ lệ hao hụt cao. Tương tự, ngành chế biến thủy sản có 133 nhà máy với tổng công suất
690.000 tấn/năm. Mặc dù chế biến thủy sản là ngành công nghiệp mũi nhọn, luôn chiếm tỷ trọng
và có tốc độ tăng trưởng cao trong vùng, nhưng sản phẩm chế biến chỉ dừng lại ở mức là cá tra
phi lê, tôm đông lạnh, mực đông lạnh.
2) Ngành sản xuất giống
65
Giống lúa. Giống là một trong bốn yếu tố có ý nghĩa quyết định trong quá trình
sản xuất lúa (nước, phân, cần giống). Viện lúa ĐBSCL và Trường Đại học Cần Thơ là 2
đơn vị chủ đạo đã không ngừng nghiên cứu và phát triển nhiều giống lúa mới có sức
chống chịu được với một số sâu bệnh hại chính và một số điều kiện của môi trường cấp
cho những người sản xuất. Riêng năm 2010, Viện lúa ĐBSCL đã tổ chức nghiên cứu, lai
tạo thêm được 18 giống lúa mới được Bộ NNPTNT công nhận, trong đó có 5 giống chính
thức và 13 giống sản xuất thử, nâng tổng số giống lúa được Bộ NNPTNT công nhận đến
nay là 115 giống với 50 giống chính thức, trong đó có 80% giống do Viện lúa ĐBSCL
nghiên cứu lai tạo. Các loại giống của Viện lúa ĐBSCL nghiên cứu, lai tạo có đặc tính
năng suất cao, ngắn ngày, ngon cơm và chống chịu tốt với một số sâu bệnh hại chính cho
cây lúa như bệnh bạc lá, cháy lá, virus và rầy nâu; chống chịu với một số điều kiện khó
khăn của môi trường và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
lúa hàng hóa lớn ở ĐBSCL
Giống thủy sản Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), hiện cơ
sở sản xuất con giống thủy sản tập trung chủ yếu ở ĐBSCL và Nam Trung bộ với gần
2.800 trại giống, trong đó khu vực ĐBSCL có hơn 1.200 trại. Riêng ĐBSCL hiện có 175
cơ sở sản xuất cá tra giống (bằng 82% so với năm 2009) tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng
Tháp, An Giang và TP Cần Thơ. Năm 2010, các cơ sở đã sản xuất khoảng 1,8 tỷ con cá tra
giống, tăng 19% so với năm 2009 và đủ cung cấp nhu cầu giống cá tra, với diện tích nuôi
5.420 ha. Với tôm giống, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chưa có trại giống đạt chuẩn. Trong năm
đã cung cấp 25 tỷ con tôm sú, 20 tỷ con tôm thẻ chân trắng, chiếm khoảng 45 – 50% con
tôm giống thả nuôi, số còn lại phải nhập từ các tỉnh miền Trung, Khánh Hòa, Bà Rịa
Vũng Tàu…Đã vậy, ngành thủy sản đang phải đối mặt với thực trạng thiếu trầm trọng về
số lượng và bất ổn về chất lượng con giống. Chỉ tính riêng tại Cà Mau, trong số 819 trại
sản xuất giống thì có đến 300 trại nằm ngoài quy hoạch; 50% số trại trong quy hoạch
không đạt tiêu chuẩn về an toàn dịch bệnh, cơ sở vật chất xuống cấp nghiêm trọng.
Như vậy, để đảm bảo cho thủy sản chủ lực phát triển tốt đòi hỏi phải có mạng lưới
các cơ sở sản xuất giống đạt tiêu chuẩn cả về qui mô cũng như chất lượng với công nghệ
sản xuất hiện đại, đủ sức đáp ứng nhu cầu nuôi của toàn vùng trong thời gian tới.
2.2 Thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
2.2.1 Hình thành và phát triển tự nhiên dựa trên lợi thế tính đặc thù vùng
2.2.1.1 Vài nét tổng quát về thành quả phát triển kinh tế chung của vùng
66
Từ vị trí địa lý thuận lợi cộng với sự ưu đãi của thiên nhiên mà từ rất lâu ĐBSCL đã trở
thành vùng kinh tế nông nghiệp hàng hóa lớn của cả nước. Năm 2010, tổng GTSX của toàn vùng
(tính theo giá so sánh năm 1994) đạt 350.419,6 tỷ đồng, gấp 1,6 lần năm 2006. Tốc độ tăng
trưởng chung của vùng duy trì ở mức cao và ổn định, bình quân giai đoạn 2006 – 2010 là 11,88%,
cao hơn gấp 1,75 lần tốc độ tăng trưởng cả nước năm 2010 (6,78%). Kim ngạch xuất khẩu toàn
vùng năm 2010 đạt khoảng 6.990,655 triệu USD, tăng gấp gần 2 lần năm 2006 và đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoan 2006 – 2010 là 18,28%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ
690 USD năm 2006 lên 1100 USD năm 2010 gấp 1,6 lần năm 2006 và bằng 95% GDP bình quân
đầu người cả nước. Trong đó, Tp Cần Thơ có thu nhập bình quân đầu người cao nhất với 1.950
USD/ người/năm, hơn gấp đôi thu nhập bình quân chung của toàn vùng (xem thêm bảng 1.12).
Với thành tích như vậy, hàng năm ĐBSCL đóng góp khoảng 18% GDP cho cả nước; trên 53%
sản lượng lúa gạo; gần 60% sản lượng thủy sản; chiếm 90% lượng gạo và khoảng 80% lượng thủy
sản xuất khẩu của cả nước.
Bảng 2.13 Một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng ĐBSCL giai đoạn 2006 2010
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tăng (%)/năm
GTSX (tỷ đồng)
Thực tế 362.235,5 449.048,5 583.754,0 694.675,0 845.108,6 // 1994 218.097,7 250.679,9 289.093,7 308.611,4 350.419,6 12,57
GDP (tỷ đồng)
Thực tế 165.492,3 205.721,9 262.071,1 307.441,9 365.685,9 // 1994 102.509,0 116.281,4 131.291,7 143.720,8 160.659,5 11,88
Xuất khẩu (1000USD)
Thực tế 3.571.769 4.211.646 5.702.609 5.877.720 6.990.655 18,28
GDP/người (1000USD)
Thực tế 690 780 950 975 1100 12,36
Nguồn: Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian này cũng đạt kết quả tốt với xu
hướng tăng dần tỷ trọng GDP khu vực công nghiệp và thương mại, dịch vụ đồng thời với
việc giảm dần tỷ trọng GDP khu vực nông – lâm nghiệp và thủy sản. Nếu năm 2000 tỷ
trọng GDP của khu vực I là 53,5%, khu vực II là 18,5%, khu vực III là 28,0% thì đến năm
2010 con số này lần lượt là 39%; 26% và 35%. Như vậy sau 10 năm, khu vực I giảm
14,4%%, khu vực II tăng 7,5% và khu vực III tăng 7%.
67
Nguồn: Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
2.2.1.2 Kết quả hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong các ngành
1) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong ngành nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong số các lĩnh vực thế mạnh của ĐBSCL, trong đó cây lúa,
cây ăn trái và một số cây công nghiệp như mía, dừa...là những cây mũi nhọn của vùng.
GTSX của ngành nông nghiệp năm 2010 đạt 66.796,92 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994),
tăng gấp 1,21 lần năm 2006 và bình quân cả giai đoạn 2006 – 2010 là 4,88%/năm.
Bảng 2.14 Sản lượng và giá trị một số loại cây trồng giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị tính: SL, 1000 tấn; GT, Tỷ đồng Loại sản phẩm Tiêu
chí 2006 2007 2008 2009 2010
So sánh (%)
R OV G RW
GTSXNN (1994) 55.277,0 57.453,7 61.759,2 64.791,7 66.796,9 21,75 4,85
Lúa gạo SL 18.075,0 19.221,8 21.388,2 20.523,2 21.569,8 1,05 GT 28.852,3 30.765,8 33.137,7 31.559,6 35.309,2 11,34 5,18
Trái cây SL 2.101,4 2.184,6 2.416,9 2.237,7 2.357,2 0,93 GT 6.186,5 6.431,5 7.115,3 6.587,8 6.939,6 2,36 2,92
Dừa SL 742,0 780,3 830,6 902,1 953,7 6,67 GT 667,8 702,3 747,5 811,9 838,3 0,27 5,84
Mía SL 5.167,8 5.055,1 5.061,3 5.116,6 5.333,8 0,79 GT 1.808,7 1.769,2 1.771,4 1790,8 1.866,8 0,64 0,79
Giá súc SL 397.9 378.5 351.4 329,4 309.6 0,61 GT 4.924,1 4.823,6 5.758,2 6.055,4 5.688,4 1,94 3,67
Gia cầm SL 54,7 61,3 73,7 85,5 94,0 14,49 GT 1.388,9 1.607,9 2.467,7 3.119,5 3.486,5 0,86 25,87
Nguồn: Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
68
Về lúa. GTSX theo giá so sánh 1994, năm 2010 đạt 35.309,2 tỷ đồng gấp 1,22 lần
năm 2006 (28.852,3 tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 11,34% GTSX toàn vùng và đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2006 – 2010 là 5,18%/năm. Năng suất lúa tăng từ 48,3 tạ/ha
năm 2006 lên 54,3 tạ/ha năm 2010; nâng sản lượng tương ứng từ 18 triệu tấn lên 21,57
triệu tấn, tăng 19,33% cho cả giai đoạn. Riêng năm năm 2010, ĐBSCL đã góp 6 triệu tấn
gạo cho xuất khẩu thu về 3 tỷ USD, chiếm 90% kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Về cây ăn trái. Bên cạnh lúa, cây ăn trái là loại cây trồng phổ biến ở ĐBSCL với
diện tích chiếm 40% và hàng năm thu hoạch hàng năm chiếm 70% sản lượng trái cây cả
nước. Tuy nhiên, do tác động của nhiều nguyên nhân mà diện tích cây ăn trái ĐBSCL từ
năm 2008 về sau có giảm so với 2007, nhưng sản lượng vẫn tăng tăng nhẹ. Hiện tại, toàn
vùng chỉ còn khoảng 259 ngàn ha cây ăn trái, bằng 0,93 diện tích năm 2006 và sản lượng
đạt khoảng 2,357 triệu tấn, gấp 1,12 lần năm 2006. Về GTSX, năm 2010 ước đạt 6.939,6
tỷ đồng, gấp 1,12 lần năm 2006 (6.186,5 tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 2,35% tổng GTSX toàn
vùng và tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoan 2006 – 2010 là 2,9%/năm. Tuy nhiện, hiện
tại, xuất khẩu trái cây chưa phải là thế mạnh của ĐBSCL
Về cây dừa. Vườn dừa ĐBSCL có ở khắp các tỉnh trong vùng, nhưng tập trung chủ
yếu là ở Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau, Vĩnh Long… Trong đó, Bến Tre và Trà
Vinh là nơi phát triển mạnh về diện tích lẫn chế biến xuất khẩu. Năm 2010, GTSX của
dừa toàn vùng ước đạt 1.508,3 tỷ đồng, gấp 1,42 lần năm 2006, và tăng trưởng bình quân
cho cả giai đoạn 2006 – 2010 là 9,2%/năm. Hiện trên địa bàn tỉnh Bến Tre có hơn 1.000
cơ sở sản xuất, chế biến các sản phẩm từ dừa như: Bột sữa dừa, cơm dừa nạo sấy, dầu dừa,
kẹo dừa, chỉ sơ dừa,... với kim ngạch xuất khẩu khoảng 55 triệu USD/năm, đứng hàng thứ
hai sau thủy sản, giải quyết công ăn việc làm cho trên 20 ngàn lao động.
Cây mía đường. Diện tích trồng mía ĐBSCL có xu hướng giảm mạnh từ năm 2006
đến nay. Theo số liệu của Hiệp hội mía đường Việt Nam Tiểu vùng khu vực ĐBSCL,
diện tích trồng mía hiện nay của vùng ĐBSCL còn 61.843ha, giảm 7.653ha so với năm
2006 và tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Long An 13.700ha; Hậu Giang 13.000ha; Sóc Trăng
11.300ha; Bến Tre 5.074ha; Trà Vinh 4.300ha; Kiên Giang 4.106ha; Cà Mau 2.000ha.
Tuy nhiên, sản lượng mía nguyên liệu chỉ giảm nhẹ vào các năm 2007 và 2008, đến năm
2009 tăng nhẹ trở lại và đạt khoảng 5,3 triệu tấn vào năm 2010. GTSX cây mía toàn vùng
cũng có sự biến động theo sản lượng nhưng nếu so sánh năm 2010 với 2006 thì tăng bình
quân 0,79%/năm, đạt 1.866,8 tỷ đồng vào năm 2010.
69
Về chăn nuôi. Đây cũng là lĩnh vực thế mạnh của ĐBSCL, nhất là nuôi gia cầm
(thủy cầm là sản phẩm đặc trưng của vùng sông nước). Tuy nhiên, vì lý do thị trường, dịch
bệnh mà ngành chăn nuôi chưa phát huy hết lợi thế của mình. Theo số liệu thống kê,
GTSX chăn nuôi năm 2010 của vùng đạt 9.174,9 tỷ đồng tăng bình quân 9,79%/năm cả
giai đoạn 2006 – 2010. Trong đó, chăn nuôi gia súc (chủ yếu là chăn nuôi heo) có chiều
hướng giảm về sản lượng (0,61%/năm) nhưng tăng nhẹ về GTSX (3,67%/năm). Tỷ trọng
GTSX của gia súc chiếm khá cao, 1,94% và gia cầm là 0,86% (bảng 2.13)
2) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong ngành thủy sản
Cùng với lúa gạo, thủy sản là thế mạnh đặc thù của ĐBSCL không những trở thành
ngành sản xuất chủ lực của vùng mà còn là nguồn cung cấp sản phẩm xuất khẩu chủ lực
của cả nước. ĐBSCL hiện chiếm 70% diện tích nuôi trồng và 58% sản lượng thủy sản của
cả nước. Năm 2010, sản lượng thủy sản toàn vùng đạt 2,4 triệu tấn, tăng 1,65 lần so với
năm 2006, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 9,47%. Trong đó, nuôi trồng chiếm
đến 53,61% GTSX toàn ngành. Cá tra và tôm nuôi, đặc biệt là cá tra nuôi là mặt hàng gần
như độc quyền của ĐBSCL, đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chiến lược không những của
vùng mà còn của cả nước với 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm.
Bảng 2.15 Sản lượng và giá trị của một số thủy sản quan trọng 2006 – 2010
Đơn vị tính: SL, 1000 tấn; GT, Tỷ đồng
Loại thủy sản
Tiêu chí
2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%) R OV G RW
GTSXNN (1994) 31.351,6 36.973,4 40.013,2 42.114,4 45.024,8 13,89 9,47
Cá nuôi SL 652,3 790,2 1.115,2 1.419,0 1.465,4 22,43 GT 4.175,7 5.754,8 7.200,9 7.828,2 8.222,9 2,36 18,46
Tôm nuôi
SL 265,8 286,8 309,5 307,1 318,6 4,63 GT 3.023,2 3.254,3 3.377,6 3.530,4 3.782,7 1,13 5,76
Cá đánh bắt
SL 539,0 544,1 563,0 592,3 615,6 3,37 GT 6.193,3 7.000,3 8.727,9 10.348,1 10.207,1 3,02 13,34
Nguồn: Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
Với số liệu trong bảng 2.14 cho thấy, cá nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân cao
nhất với 22,43% về sản lượng, 18,46% giá trị và đóng góp cho GTSX toàn vùng 2,36%;
tôm có thành tích kém hơn với 4,63% sản lượng, 576% giá trị và 1,13% tỷ trọng. Đánh bắt
cũng có đóng góp quan trọng với số liệu tương ứng 3,37%, 13,34% và 3,02%.
70
3) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong ngành công nghiệp.
Ngành công nghiệp ĐBSCL so với nhiều vùng khác thì còn kém xa, chỉ bằng
22,85% ĐNB, 27,9% ĐBSH và thậm chí chỉ bằng 92,48% BTB&DHMT. Năm 2010, giá
trị sản xuất công nghiệp toàn vùng đạt 134.592,3 tỷ đồng, gấp 2,2 lần năm 2006, đạt tốc
độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 21,86%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân
cả nước giai đoạn này 3,77% (bình quân cả nước18,09%), trong đó công nghiệp chế biến,
chế tạo chiếm đến 96% GTSX của ngành. Các mặt hàng chủ yếu của ngành là chế biến
thực phẩm, đồ uống; may mặc; gỗ chế biến, tre nứa và thủ công mỹ nghệ....
Bảng 2.16 Chỉ tiêu giá trị một số SPCN chủ yếu ĐBSCL 2006 – 2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Loại sản phẩm
2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%)
ROV GRW
GTSXCN (94) 61.020,9 76.750,7 93.164,2 105.673,7 134.592,3 33,49 21,86
CB thực phẩm 34.642,6 49.329,2 59.699,1 65.831,1 70.144,3 19,74 19,30 May mặc 572,3 859,7 1.176,7 1.334,1 1.635,7 0,40 30,02
SP từ gỗ, tre... 1.082,7 1.488,2 1.694,0 2.358,1 2.588,9 0,65 24,30 Nguồn: Tổng hợp từ Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
Theo số liệu trong bảng 2.6, nhóm chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng 19,74%
trong GTSX toàn vùng và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 – 2010 19,3%;
kế đến là nhóm sản phâm chế biến từ gỗ, tre, mây, thủ công mỹ nghệ chiếm 0,65% và tốc
độ tăng trưởng đạt 24,30%; may mặc chiếm 0,4% với tốc độ tăng trưởng rất cao,
30,02%/năm.
4) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong thương mại, dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng từ 116,2 ngàn tỷ đồng năm
2006 lên 305,4 ngàn tỷ đồng năm 2010, gấp 2,6 lần năm 2006. Các lĩnh vực tăng trưởng
mạnh là bán lẻ, vận tải và du lịch. Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng năm 2010 đạt 6,99 tỷ
USD, bằng 9,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
bình quân chung giai đoạn 2006 – 2010 đạt 18,28%/năm, cao hơn bình quân cả nước (chỉ
đạt 16,6%/năm). Trong đó, các mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao
và liên tục là: gạo, cá đông lạnh, tôm đông lạnh, nông sản chế biến...,chiếm tỷ trọng gần
như tuyệt đối trong xuất khẩu toàn vùng.
71
Bảng 2.17 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng quan trọng ĐBSCL 2006 – 2010
Đơn vị tính: 1000USD
Loại sản phẩm 2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%)
R EX G RW
KNXK ĐBSCL 3.571.769 4.211.646 5.702.609 5.877.720 6.990.655 18,28 Gạo 774.296 723.195 1.432.515 1.396.173 1.421.759 21,81 16,40 Rau quả 794.795 824.204 854.700 915.831 989.100 16,13 5,61
Sản phẩm từ dừa 56.000 55.500 54.980 59.782 55.000 1,07 0,45 Cá đông lạnh 416.413 641.121 1.292.618 930.856 1.017.109 16,31 25,01 Tôm đông lạnh 981.794 1.127.636 1.184.488 1.046.107 1.215.554 21,08 5,48 Thực phẩm CB 131.792 164.117 303.444 231.178 272.766 4,19 19,95 May mặc 228.183 238.987 357.782 376.310 536.001 6,59 23,80 Đan, lát mỹ nghệ 13.380 24.231 27.015 33.417 30.953 0,917 23,32
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn
Theo số liệu tổng hợp trong bảng trên, nhóm hàng nông, thủy sản có tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu chiếm khá cao. Trong đó, đứng đầu về tỷ trọng là gạo chiếm 21,81% kim
ngạch xuất khẩu toàn vùng; kế đến là tôm đông lạnh, 21,08%; cá đông lạnh 16,31% và rau
quả đông lạnh chiếm 16,13%; chiếm tỷ trọng thấp nhất các sản phẩm từ gỗ, tre, đan lát
(hàng thủ công mỹ nghệ) với gần 1%. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy có GTSX khá
cao nhưng tham gia xuất khẩu còn hạn chế, hiện chỉ chiếm 4,19% đối với thực phẩm chế
biến và đồ uống và 6,59% đối với may mặc. Về tăng trưởng xuất khẩu, trừ dừa và sản
phẩm chế biến từ dừa có chiệu hướng giảm nhẹ (0,45%/năm) còn lại hầu hết đều tăng
mạnh. Đứng đầu là cá đông lạnh (25,01%/năm); may mặc (23,80%/năm); hàng thủ công
mỹ nghệ (23,32%/năm); gạo 16,40%; còn lại rau quả và tôm đông lạnh khoảng 5,5%/năm.
5) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong du lịch.
Hoạt động du lịch ĐBSCL giai đoạn 2006 2010 cũng đạt được những thành tựu
rất quan trọng. Lượng khách tăng trưởng bình quân giai đoạn là 31,05%, trong đó khách
nội địa tăng 32,9%, khách du lịch quốc tế tăng chậm hơn nhưng cũng đạt 16%/năm.
Doanh thu từ du lịch ước đạt hơn 1% so với GDP thực tế toàn vùng. Nếu tính riêng năm
2010, cả vùng thu hút được 16,1 triệu lượt khách, trong đó có 1,3 triệu khách du lịch quốc
72
tế và khoảng 14,8 triệu lượt khách nội địa (chiếm trên 50% lượng khách nội địa cả nước).
Các hình thức du lịch cũng đã được đa dạng hóa như: du lịch tham quan miệt vườn; du
lịch sông nước ĐBSCL; du lịch lễ hội; du lịch nghỉ tại nhà dân kết hợp tham quan miệt
vườn; du lịch sinh thái; du lịch biển đảo và du lịch tham quan thắng cảnh.
Bảng 2.18 Kết quả du lịch ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010
Khách du lịch và
doanh thu Trong đó 2006 2007 2008 2009 2010
So sánh (%) Tỷ trọng
GRW
Khách đến (1000 lượt)
Tổng số 5.457,8 6.718,7 9.040.5 6.926,6 16.100 31,05 Trong nước 4.741,0 5.149,6 7.985,7 5.893,0 14.800 87,17 32,90 Quốc tế 7.16,9 1.569,2 1.054,8 1.033,6 1.300 12,83 16,00
Doanh thu (Tỷ đồng)
Lưu trú và lữ hành
1.723,7 1.902,0 2.475,8 3.046,1 3.957,3 1,08 23,09
Nguồn: Tổng hợp từ Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
Theo kết quả thống kê trên đây cho thấy, khách du lịch quốc tế đến ĐBSCL còn
hạn chế, chỉ chiếm 12,83% tổng số khách đến, trong khi đó khách nôi địa chiếm phần áp
đảo với tỷ lệ 87,17%. Về doanh thu, năm 2010 toàn vùng đạt được 3.957,3 tỷ đồng, cao
gấp 2,3 lần năm 2006, tính bình quân chung cho cả giai đoạn tăng 23,09%/năm.
6) Hình thành và phát triển sản phẩm chủ lực trong vận tải –Bưu điện
Năm 2010, ngành vận tải các địa phương ĐBSCL đã vận chuyển với khối lượng
hành khách và hàng hóa khá lớn. Cụ thể, vận chuyển hành khách đạt 561,5 triệu người,
trong đó vận tải đường bộ chiếm tới 79,1%, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
giai đoạn 2006 – 2010 là 5,43%;
Bảng 2.19 Kết quả vận tải ĐBSCL 2006 – 2010
Chỉ tiêu kết quả
Trong đó 2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%)
ROV GRW
GTSX Tỷ đồng 11.491,0 12.410,8 15.319,2 20.502,1 23.426,4 2,83 19,48
VT hàng khách
1000 người
Tổng số 454.498 478.230 504.127 528.978 561.485 5,43 VT bộ 342.350 375.323 405.833 422.200 453.439 79,10 7,28 VT thủy 112.132 10.2885 98.272 106.778 108.046 20,90 0,92
VT hàng hóa
Tổng số 66.051 69.913 73.844 88.796 93.406 9,05 VT bộ 22.221 23.885 23.922 30.040 31.672 33,61 9,26
73
1000 tấn VT thủy 43.829 46.029 49.922 58.756 61.734 66,39 8,94 VT HH quốc tế
1000tấn 3.001 3.638 4.029 6.287 4.622 5,50 11,40
Nguồn: Tổng hợp từ Thống kê các tỉnh, thành ĐBSCL năm 2010
Bảng 2.19 cho thấy, vận chuyển hàng hóa năm 2010 đạt khoảng 93,5 triệu tấn chiếm
12,2% cả nước (phần lớn là nông sản) và đạt tốc độ tẳng bình quân 9,05%/năm. Nếu năm so với
10 năm trước đây (2001), khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn vùng tăng gấp 3 lần. Trong đó, do
ĐBSCL có lợi thế về sông ngòi nên vận tải hàng hóa bằng đường thủy chiếm ưu thế với tỷ trọng
66,39% và đường bộ chiếm 33,61% tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển hàng năm toàn vùng.
Ngoài ra, thông qua các cảng lớn, khối lượng hàng hóa vận chuyển quốc tế (xuất và nhập khẩu)
của toàn vùng chiếm 5,5%. Từ kết quả vận tải như vậy mà GTSX ngành vân tải không ngừng gia
tăng. Nếu năm 2006 đạt 11.491 tỷ đồng thì năm 2010 con số này là 23.426,4 tỷ đồng, tăng gấp 2
lần; tốc độ tăng trưởng bình quân GTSX giai đoạn này 19,48%
2.2.1.3 Nhận diện sản phẩm chủ lực vùng qua một số tiêu chí định lượng
A. Nhận diện
Dựa vào các dữ liệu đã phân tích trên, Luận án cần xác nhận và làm rõ tính chủ lực của
các sản phẩm thông qua một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh sau:
1) Sản phẩm chủ lực ngành nông nghiệp
Bảng 2.20 Chỉ tiêu phản ảnh năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp
Sản phẩm LQ ir C Grw RCA D Năng lực Cạnh tranh
1. Lúa gạo 2,08 1,07 5,83 Cao
2. Trái cây 2,84 0,60 24,44 Trung bình
3. Dừa và SP từ dừa 2,70 1,20 3,03 Cao
4. Mía 1,18 0,16 0 Thấp
5. Gia súc 0,96 0,76 0 Thấp
6. Gia cầm 1,95 5,55 0 Thấp
Nguồn: Số liệu thống kê và áp dụng công thức (1.2), (1.4) và (1.6)
Theo kết quả trong bảng 2.20, có 3 loại sản phẩm nông nghiệp đạt các chỉ tiêu năng
lực cạnh tranh cao và giữ vị trí chủ lực của ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010 là lúa gạo, trái
cây và dừa và sản phẩm từ dừa. Trong đó, lúa gạo và dừa và sản phẩm từ dừa có năng lực
cạnh tranh mạnh nhất (các chỉ số đều lớn hơn 1), riêng trái cây tuy năng lực cạnh tranh về
74
địa phương hóa và lợi thế so sánh trông thấy nội địa cao nhưng hệ số tăng trưởng vượt trội
thấp (CGrw <1), tức sức cạnh tranh trong nội bộ ngành thấp.
2) Sản phẩm chủ lực ngành thủy sản
Bảng 2.21 Chỉ tiêu phản ảnh năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủy sản
Sản phẩm LQ ir C Grw RCA D Năng lực Cạnh tranh
1. Cá nuôi 1,54 1,95 5,58 Cao
2. Tôm nuôi 0,79 0,61 9,01 Trung bình
3. Cá đánh bắt 2,74 1,41 0 Không rõ
Nguồn: Số liệu thống kê và áp dụng công thức (1.2), (1.4) và (1.6)
Với số liệu ở bảng 2.21 cho thấy, sản phẩm cá nuôi có năng lực cạnh tranh cao nhất
và các chỉ tiêu đều lớn hơn 1, kế đến là tôm nuôi. Tuy tôm nuôi không đạt chỉ tiêu địa
phương hóa cao so với trung bình cả nước và cạnh tranh nội bộ ngành không cao nhưng
lợi thế so sánh trông thấy nội địa rất cao (RCAD = 9,01) nên vẫn giữa được vị thế chủ lực
của vùng. Riêng cá đánh bắt cần xem xét thêm các chỉ tiêu cạnh tranh trong “đội hình”
chung cả nước mới xác định được, vì hiện RCA D = 0, tức lợi thế so sánh trtroong thấy nội
địa không được thể hiện hay bằng không.
3) Sản phẩm chủ lực ngành công nghiệp
Bảng 2.22 Chỉ tiêu phản ảnh năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp
Sản phẩm LQ ir C Grw RCA D Năng lực Cạnh tranh
1. Thực phẩm chế biến 1,80 0,88 9,74 Trung bình
2. May mặc 0,17 1,37 0,43 Thấp
3. Gỗ, tre, nứa..mỹ nghệ 0,57 1,11 2,97 Trung bình
Nguồn: Số liệu thống kê và áp dụng công thức (1.2), (1.4) và (1.6)
Sản phẩm công nghiệp của ĐBSCL chủ yếu là công nghiệp chế biến và thủ công
mỹ nghệ. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của các sản phẩm này không cao, chỉ đạt mức
trung bình và thấp so với nội bộ vùng cũng như cả nước (bảng 2.22). Trong đó, thực phẩm
chế biến có chỉ số địa phương hóa và lợi thế so sánh trông thấy nội địa cao nhưng tốc độ
tăng trưởng so với bình quân ngành thấp. Kế đến là hàng gỗ, mây, tre...mỹ nghệ có chỉ số
75
tăng trưởng vượt trội và lợi thế so sánh trông thấy nội địa cao nhưng hệ số địa phương hóa
thấp, riêng may mặc không đủ năng lực cạnh tranh để thành sản phẩm chủ lực thời gian
qua do các chỉ tiêu biểu hiện cạnh tranh phạm vi cả (LQir và RCAD) nước quá thấp.
4) Sản phẩm chủ lực ngành du lịch, dịch vụ
Bảng 2.23 Chỉ tiêu phản ảnh năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch, dịch vụ
Sản phẩm LQ ir C Grw RCA D Năng lực Cạnh tranh
1. Du lịch 0,46 1,44 0,65 Thấp
2. Vận tải 1,12 1,22 1,02 Cao
Nguồn: Số liệu thống kê và áp dụng công thức (1.2), (1.4) và (1.6)
Theo kết quả ở bảng 2.23 thì du lịch không phải là sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian
qua, vì ngoài hệ số tăng trưởng vượt trội lớn hơn 1 (cạnh tranh nội bộ ngành trong vùng cao) thì
các chỉ tiêu còn lại thấp (không có lợi thế cạnh tranh với cả nước). Còn lại, ngành vật tải có lợi thế
cạnh tranh cao do các chỉ tiêu cạnh tranh nội bộ ngành và cả nước đều lớn hơn 1 nên được coi là
sản phẩm chủ lực vùng thời gian qua.
B. Nhận xét
Như đã phân tích ở các phần trước, ĐBSCL với lợi thế trời cho nên hàng trăm năm
nay vùng đất này đã hình thành một cách tự nhiên nhiều sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cả
về số lượng, chất lượng cũng như chi phí sản xuất so với nhiều vùng địa phương khác
trong nước. Nhiều sản phẩm có vị thế cao trên thương trường và nổi tiếng khắp cả trong
lẫn ngoài nước như: lúa gạo (từ thời Pháp thuộc ĐBSCL đã từng xuất khẩu gạo ra nước
ngoài); trái cây; thủy sản.... Trong đó, lúa gạo và thủy sản là 2 nhóm sản phẩm luôn được
xem là sản phẩm chủ lực của vùng vì nó vừa có qui mô sản xuất rộng, vừa có sản lượng
lớn và tham gia xuất khẩu với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, do sản phẩm chủ lực hình thành một
cách tự nhiên và tự nhiên quyết định gần như hoàn toàn nên dẫn đến tình trạng canh tác
mang tính truyền thống, lạc hậu, đầu tư phân tán, tùy tiện, thiếu qui hoạch chung nên trên
cùng một diện tích canh tác nhưng lại phát triển nhiều giống cây trồng khác nhau nên
không hình thành được vùng chuyên canh với sản lượng đủ lớn phục vụ cho công nghiệp
chế biến và xuất khẩu. Vì vật nuôi, cây trồng rất đa dạng về chủng loại nhưng lại ít về số
lượng, hệ quả là nếu tiêu dùng trong nước thì thừa nhưng xuất khẩu thì chưa đạt ngưỡng.
Đồng thời với thực trạng như vậy, việc triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới, hiện
76
đại vào sản xuất sản phẩm chủ lực gặp nhiều khó khăn, do vậy mà chất lượng sản phẩm
chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong cũng như ngoài nước, sức cạnh
tranh không cao và hiệu quả sản xuất kinh doanh sản phẩm chủ lực thấp.
2.2.2 Thực trạng xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương ĐBSCL
Thực tế nghiên cứu cho thấy, tính cho đến thời điểm này ĐBSCL chưa có bất kỳ
một công trình nghiên nghiên cứu hoặc chủ trương có tính nhất quán, đồng bộ trên phạm
vi toàn vùng về việc xác định sản phẩm chủ lực và qui hoạch vùng chuyên môn hóa để tập
trung đầu tư phát triển sản phẩm chủ lực qui mô cấp vùng. Phổ biến nhất hiện nay là một
số sản phẩm mặc nhiên được thừa nhận là sản phẩm chủ lực vì nó là sản phẩm có thể phát
triển dựa trên lợi thế đặc thù có một không hai của vùng kinh tế này (như đã trình bày ở
phần trên), hoặc nột số địa phương đã tiến hành đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực và
đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực cho riêng địa phương mình. Sau đây
là một số điển hình xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương ĐBSCL như sau:
2.2.2.1 Xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Bến Tre
Bến Tre là một trong các địa phương trong cả nước đi đầu trong triển khai chủ
trương xác định và hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực. Để làm cơ sở qui hoạch và có chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển một cách tập trung các sản phẩm chủ lực, từ đó tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, tỉnh Bến Tre đã căn cứ vào định hướng
chiến lược, tính đặc thù của địa phương mà tiến hành các thủ tục đánh giá, xét chọn sản
phẩm chủ lực cho riêng mình.
A. Về cơ sở lý luận
Bến tre là một trong số rất ít địa phương tích cực triển khai chương trình hỗ trợ phát
triển sản phẩm chủ lực với phương pháp khá bài bản và nội dung thủ tục rất đầy đủ, chi
tiết ở ĐBSCL. Quá trình xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của Bến Tre dựa trên cơ
sở nhận thức “Sản phẩm công nghiệp chủ lực là các sản phẩm công nghiệp (hoặc nhóm
sản phẩm hẹp) có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường tương đối lớn, đem lại
hiệu quả kinh tế cao đối với người sản xuất và đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội
địa và phát triển kinh tế của tỉnh”. Trong đó, ưu thế cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp
chủ lực Bến Tre được thể hiện trên các mặt: kiểu dáng, mẫu mã, bao bì...có tính hiện đại
và tính hữu ích cao; chất lượng và thương hiệu tin cậy; chi phí sản xuất thấp; năng lực sản
xuất lớn và thực hiện hợp đồng nhanh chóng; môi trường lao động thân thiện.
77
Về cơ bản, nhận thức trên đây là khá phù hợp với xu hướng lựa chọn sản phẩm chủ
lực chung của cả nước. Bởi, muốn có thị phần lớn, hiệu quả kinh tế cao…trước hết phải
đứng vững được trên thị trường trong cũng như ngoài nước trong môi trường cạnh tranh
mang tính toàn cầu ngày càng khốc liệt.
B. Qui trình đánh giá, xét chọn
Với nhận thức về sản phẩm công nghiệp chủ lực như trên, Bến Tre đã chuẩn bị và
triển khai qui trình xác định khá thận trọng qua 2 giai đoạn: giai đoạn đánh giá, xét chọn
đầu vào và giai đoạn đánh giá xét chọn đầu ra. Ở mỗi giai đoạn lại được thực hiện với
nhiều thủ tục khá phức tạp. Cụ thể như sau:
v Thủ tục xét đầu vào.
Các doanh nghiệp đăng ký tham gia Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ
lực phải tự đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp theo mẫu do Ban chỉ
đạo Chương trình đưa ra.
Mẫu này gồm có 3 tài liệu quan trọng như sau:
1) Bảng tự chấm điểm đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp.
Đây là dạng bảng đánh giá tổng hợp có tác dụng thăm dò, gạn lọc bước đầu, có 30
chỉ tiêu với tổng số điểm tối đa cho các chỉ tiêu là 100 điểm, trong đó có 10 tiêu chí dùng
để tham khảo và đánh giá về mặt định tính. Với bảng điểm tự đánh giá này, trước hết phải
nói rằng, Bến Tre đã chú ý đầy đủ đến tiêu chí cần và tiêu chí đủ, tiêu chí định tính và định
lượng. Tuy nhiên, có nhiều tiêu chí được sử dụng không gắn với việc đánh giá tính cạnh
tranh của sản phẩm, nhất là các chỉ tiêu định tính (chỉ tiêu 1, 2, 11, 24, 25, 26…), gây ra sự
phức tạp và dẫn đến việc xem xét lựa chọn lệch hướng (xem phụ lục 1).
2) Phiếu tự đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Một thủ tục thứ hai ở đầu vào tác giả cho rằng rất quan trọng và cần thiết là Phiếu
tự đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp. Phiếu này được thiết kế dưới
dạng bảng câu hỏi dùng để điều tra nghiên cứu gồm 3 phần với 29 câu hỏi dưới 2 dạng câu
hỏi đóng và câu hỏi mở. Trong đó, phần thông tin về doanh nghiệp có 4 câu hỏi dạng kết
hợp giữa câu hỏi đóng và mở để doanh nghiệp thông tin về bản thân theo yếu cầu của Ban
chỉ đạo; phần thông tin về sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp có 20 câu hỏi chủ yếu ở
dạng đóng có liên quan đến bảng điểm nêu trên và phần dành cho việc phản ảnh những
khó khăn, trở ngại đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp và đề xuất việc hỗ trợ từ phía
chính phủ cho phát triển nhanh sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp trong thời gian tới.
78
Kết quả thu được ở các câu hỏi trong phiếu tự đánh giá này là cơ sở để doanh
nghiệp chấm điểm theo thang điểm mẫu mà Ban tổ chức cung cấp. Tuy nhiên, phiếu điều
tra này lại có khá nhiều câu hỏi ít liên quan đến tính chủ lực hay năng lực cạnh tranh của
sản phẩm mà lại liên quan đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (xem phụ lục 2).
3) Thang điểm mẫu đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Theo tôi, thủ tục này là không thể thiếu được vì nó giúp chi tiết hóa điểm số cho
từng chỉ tiêu mà doanh nghiệp đã đạt được trong thực tế. Trên cơ sở lấy kết quả điều tra áp
vào Khung thang điểm, năng lực cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp được đo lường
cấp độ tương ứng. Tùy vào tính chất và độ quan trọng mà điểm số được chia thành nhiều
mức khác nhau, điểm khởi đầu có thể là 0 hoặc 1 điểm (xem phụ lục 3).
v Thủ tục xét công nhận đầu ra
Giai đoạn xét công nhận đầu ra cho sản phẩm chủ lực cũng được tiến hành qua 2
bước. Đây có thể nói là động thái tích cực nhằm tôn trọng tính tự nguuyện, tự giác của các
doanh nghiệp cũng như có sự đối chiếu với kết quả đánh giá của Ban chỉ đạo.
Bước một, các doanh nghiệp được duyệt tham gia chương trình phát triển sản phẩm
công nghiệp của Tỉnh tiến hành chấm điểm các sản phẩm tham gia chương trình của
doanh nghiệp mình theo Bảng tự chấm điểm xét công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực
và Thuyết minh hướng dẫn chấm tiêu chí công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực cho
từng đợt của Ban chỉ đạo Chương trình. Cụ thể như sau:
1) Bảng tự chấm điểm xét công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực
Bảng 2.24 Bảng tự chấm điểm xét công nhận SPCN chủ lực đợt I, năm 2007
STT Chỉ tiêu Điểm (tối đa) Ghi chú 1 Tổng doanh thu toàn công ty /10 2 Tổng doanh thu sản phẩm chủ lực /15 3 Tỷ lệ tăng trưởng của toàn công ty /10 4 Tỷ lệ tăng trưởng của sản phẩm chủ lực /10 5 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế /10 6 Tăng trưởng xuất khẩu toàn công ty /10 7 Tăng trưởng xuất khẩu của SPCL /10 8 Trình độ công nghệ /10 9 Môi trường /5
Điểm khuyến khích tối đa /10
79
10 + Hệ thống quản lý chất lượng hiện đại /1
Điểm khuyến khích
+ Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa /3 + Môi trường lao động ISO 14000 /2 + Các thành tích đặc biệt khác /4
Tổng /100 Nguồn: Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực Bến Tre
So với bảng điểm đánh giá năng lực cạnh tranh đầu vào, bảng điểm tự đánh giá đầu
ra này chỉ còn 10 tiêu chí (chỉ tiêu). 9 tiêu chí chính thức với điểm tối đa 90 điểm và 1
nhóm gồm 4 tiêu chí cho điểm khuyến khích với tổng điểm là 10. Như vậy, mặc dù số tiêu
chí có giảm đi nhưng tổng số điểm đánh giá tối đa vẫn là 100 điểm (bảng 2.24), vì vậy các
doanh nghiệp sẽ dễ dàng chấm điểm hơn cũng như đối tượng được đánh giá tập trung hơn.
Để xem xét chấm điểm và đánh giá theo bảng điểm này, cũng đòi hỏi doanh nghiệp
phải có đủ 3 tài liệu:
(1) Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả triển khai các dự án với
chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực;
(2) Các chứng từ có liên quan về tiền lương, bảo hiểm xã hội và
(3) Bản sao các chứng nhận, chứng chỉ.
Ngoài các tiêu chí tính điểm trên, các doanh nghiệp muốn được xét công nhận sản
phẩm chủ lực phải đảm bảo các tiêu chuẩn bắt buộc như: phải có Hệ thống quản lý chất
lượng theo ISO 9000 với các phiên bản và phải đăng ký nhãn hiệu hàng hóa trong nước
cho các sản phẩm chủ lực đã đăng ký; không nợ lương lao động quá 1 tháng và nợ bảo
hiểm xã hội quá 3 tháng và không được có 2 tiêu chí trong 9 tiêu chí đầu có điểm dưới
50% số điểm tối đa của tiêu chí đó. Nếu doanh nghiệp nào không đạt hoặc thiếu một tiêu
chuẩn nào trên đây sẽ không được xét công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tỉnh.
2) Thuyết minh và hướng dẫn chấm điểm tiêu chí công nhận sản phẩm công nghiệp
chủ lực
Để các doanh nghiệp nắm rõ nội dung, ý nghĩa và phương pháp chấm điểm, Ban
chỉ đạo Chương trình đưa ra bản thuyết minh và hướng dẫn cách chấm điểm cho các tiêu
chí xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực như giai đoạn đầu vào. Tuy nhiên, nội dung
hướng dẫn này có nhiều điểm cần làm rõ thêm như: điểm cơ bản để làm cơ sở tính điểm
cho từng mức thang điểm không rõ nguồn gốc (doanh thu toàn công ty 0.45; doanh thu sản
phẩm chủ lực 1.4…); Số lượng bậc thang điểm không đồng đều giữa các tiêu chí và việc
80
dùng thuật ngữ “xác nhận phù hợp” và “xác nhận không phù hợp” cho tiêu chí môi trường
là rất định tính, khó xấc định (xem phụ lục 4).
Bước hai, Ban chỉ đạo Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực tiến hành
chấm điểm và xét chọn công nhận chính thức sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tỉnh đợt 1 năm
2007 theo Bảng điểm với Hệ thống tiêu chí đã xác định. Đây là bước quyết định đối với các sản
phẩm đã được các doanh nghiệp đề nghị dựa trên kết quả mà các doanh nghiệp tự đanh giá. Ở
bước này, có hai thủ tục được thực hiện sau :
1) Tiêu chí và thang điểm xét chọn công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực
Đây là Bảng điểm dùng để đánh giá chính thức và cũng bao gồm các nội dung tiêu chí
giống như Bảng điểm các doanh nghiệp tự đánh giá như đã giới thiệu ở phần trên. Tuy nhiên, có 2
vấn đề khác nhau giữa 2 Bảng điểm là : 9 tiêu chí chính thức được cơ cấu 100 điểm và tiêu chí thứ
10 có 10 điểm dành riêng để khuyến khích chứ không đưa vào thang điểm chính thức, có thể coi
đây là phần bảo hiểm cho các sản phẩm có triển vọng. Như vậy, điểm tối đa của Bảng tiêu chí này
là 110 điểm thay vì 100 điểm như Bảng điểm tự đánh giá của doanh nghiệp.
Bảng 2.25 Bảng tiêu chí xét chọn công nhận SPCN chủ lực đợt I, năm 2007
STT Chỉ tiêu Điểm Ghi chú 1 Tổng doanh thu toàn
công ty 15 Tính cho năm cuối cùng trước thời điểm
xét công nhận 2 Tổng doanh thu sản
phẩm chủ lực 10 Tính cho năm cuối cùng trước thời điểm
xét công nhận 3 Tỷ lệ tăng trưởng của
toàn công ty 15 Tính cho năm cuối cùng trước thời điểm
xét công nhận 4 Tỷ lệ tăng trưởng của
sản phẩm chủ lực 10 Tính cho năm cuối cùng trước thời điểm
xét công nhận 5 Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế 10 Lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu năm
cuối cùng trước thời điểm xét công nhận 6 Tăng trưởng xuất khẩu
toàn công ty 10 Tăng trưởng doanh số XK công ty năm
cuối cùng trước thời điểm xét công nhận 7 Tăng trưởng xuất khẩu
của SPCL 10 Tăng trưởng doanh số XK SPCL năm
cuối cùng trước thời điểm xét công nhận
8 Trình độ công nghệ 15 Tuổi thọ trung bình các thiết bị, máy móc chính (năm cuối trước thời điểm xét)
9 Môi trường 5 Có chứng chỉ môi trường phù hợp
81
10 Điểm khuyến khích tối đa 10
Điểm khuyến khích 6 điểm: cho hệ thống quản lý chất lượng hiện đại: 1điểm; đăng ký nhãn hiệu hàng hóa: 1 3 điểm; cho môi trường: 2 điểm Các thành tích đặc biệt khác: 4 điểm
Tổng /100 Nguồn: Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực Bến Tre
Nhìn chung, giữa 2 Bảng tiêu chí tự đánh giá của các doanh nghiệp và đánh giá, xét chọn
chính thức của Ban chỉ đạo giống nhau là cơ bản, các chỉ tiêu rời rạc có tính liệt kê hơn là so sánh
đánh giá, một số chỉ tiêu khuyến khích không có ý nghĩa. Tuy nhiên, có 2 điểm khác biệt có thể
tạo ra sự thiếu nhất quán trong đánh giá giữa các doanh nghiệp và Ban chỉ đạo đó là sự thay đổi
tổng điểm số tối đa của các tiêu chí 1, 2, 3 và 8 và thay đổi cơ cấu và tổng điểm tối đa của cả 10
tiêu chí. Chính điều này có thể gây ra sự bất mãn dẫn đến thiếu nhiệt tình cộng tác từ phía các
doanh nghiệp thời gian qua.
2) Thang điểm chi tiết xét chọn công nhận sản phẩm công nghiệp chủ lực đợt I
Về thủ tục này tác giả nhận thấy có sự khác nhau khá nhiều so với phần tự đánh giá
của các doanh nghiệp. Bên cạnh sự điều chỉnh điểm tối đa đối với các tiêu chí 1, 2, 3 và 8
cho phù hợp với Bảng tiêu chí thì số bậc thang điểm cũng giảm, đặc biệt là đã bỏ bậc điểm
0. Tức điểm tối thiểu của Bảng tiêu chí này là 1 thay vì 0 như tự đánh giá (xem phụ lục 5).
C. Danh mục sản phẩm công nghiệp chủ lực được lựa chọn
Tuy được Ban chỉ đạo Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực
chuẩn bị khá công phu về qui trình, thủ tục đánh giá, xét chọn nhưng thực tế triển khai đã
gặp phải khó khăn dẫn đến có thể nói Chương trình này bị phá sản. Một trong những khó
khăn nan giải của Bến Tre là hầu như các doanh nghiệp không mặn mòi với Chương trình
này nên không đăng ký tham gia. Kết quả là, việc đánh giá xét chọn sản phẩm công nghiệp
chủ lực của Bến Tre lại được tiến hành theo hướng khác. Vào ngày 13 tháng 5 năm 2008,
UBDN tỉnh Bến Tre đã ban hành Quyết định số 904/QĐUBND “Về việc công bố danh
mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2007
2010 và tầm nhìn đến năm 2020”.
Theo Quyết định này, tỉnh Bến Tre bước đầu xác định 5 ngành công nghiệp ưu tiên
và 2 ngành công nghiệp mũi nhọn cho 3 giai đoạn từ 2007 đến 2020. Cụ thể:
1) Ngành công nghiệp ưu tiên: (1) Dệt may (sợi, vải, lụa, quần áo xuất khẩu,
nguyên phụ liệu); (2) Da giầy (thuộc da, giầy dép xuất khẩu, nguyên phụ liệu); (3) Chế
82
biến nông, lâm, thủy hải sản (trong đó phân ngành chế biến tôm, cá, nghêu, sản xuất cơm
dừa được xác định là sản phẩm mũi nhọn của ngành này); (4) Hóa chất (phân bón, hóa
dược); và (5) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng gió, năng lượng mặt trời, công
nghiệp phần mềm)
2) Ngành công nghiệp mũi nhọn: (1) Cơ khí chế tạo (đóng tàu, máy nông nghiệp,
cơ điện tử) và (2) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin
Bảng 2.26 Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2007 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
TT Tên ngành
Giai đoạn
2007 2010 2011 2015 2016 2020 CN ưu tiên
CN mũi nhọn
CN ưu tiên
CN mũi nhọn
CN ưu tiên
CN mũi nhọn
1 Dệt may (sợi, vải, lụa, quần áo xuất khẩu, nguyên phụ liệu) X X X
2 Da giầy (thuộc da, giầy dép xuất khẩu, nguyên phụ liệu) X X X
3 Chế biến nông, lâm, thủy hải sản a) Chế biến tôm các loại X X X b) Chế biến cá các loại X X X c) Chế biến nghêu các loại X X X d) Thu gom, sản xuất sản phẩm từ
mụn dừa X X X
e) Sản xuất chỉ xơ dừa và các sản phẩm từ chỉ xơ dừa X X X
f) Sản xuất than hoạt tính X X X g) Sản xuất cơm dừa nạo sấy X X X h) Sản xuất kẹo dừa các loại X X X i) Sản xuất bột sữa dừa, nước cốt dừa X X X j) Sản xuất thức ăn chăn nuôi (nuôi
gia súc, gia cầm, thủy sản) X X X
4 Hóa chất (phân bón, hóa dược) X X X
5 Cơ khí chế tạo (đóng tàu, máy nông nghiệp, cơ điện tử) X X X
6 Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin X X X
7 Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng gió, năng lượng mặt trời, công nghiệp phần mềm)
X X X
Nguồn: UBND tỉnh Bến Tre
83
Gần 2 năm sau, để cụ thể hóa Quyết định số 904/QĐUBND nói trên, vào ngày
14/01/2010, UBND Bến Tre tỉnh đã phê duyệt danh sách 112 doanh nghiệp sản xuất các
sản phẩm thuộc danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn giai đoạn
20072010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó có:
63 doanh nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm từ dừa (cơm dừa nạo sấy, kẹo
dừa, than gáo dừa, chỉ xơ dừa, đất sạch, hàng thủ công mỹ nghệ…);
07 doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc;
15 doanh nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm thủy sản;
16 doanh nghiệp ngành cơ khí;
08 doanh nghiệp ngành dệt may;
02 doanh nghiệp sản xuất thuốc trị bệnh và dụng cụ y tế và
01 doanh nghiệp sản xuất phân bón.
Các doanh nghiệp trên đây sẽ được hưởng các chính sách hỗ trợ theo qui định của
Chính phủ cũng như tỉnh Bến Tre như: hỗ trợ giới thiệu sản phẩm miễn phí trên Website
thông tin kinh tế xã hội của tỉnh; hỗ trợ trưng bày sản phẩm tại các hội chợ, triển lãm của
địa phương; hỗ trợ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và bảo
vệ môi trường…Tuy nhiên, Danh sách các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công
nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn tỉnh Bến Tre không chốt cứng ở đây mà luôn được
cập nhập, bổ sung, điều chỉnh định kỳ hàng năm cho phù hợp tình hình thực tế.
D. Nhận xét
Nhìn chung, Qui trình, thủ tục và việc triển khai thực hiện xác định hàng hóa chủ
lực của tỉnh Bến Tre có những ưu điểm và hạn chế cơ bản như sau:
v Về ưu điểm
Trước hết, phải nói đây là một công trình nghiên cứu có sự đầu tư nhiều về thời
gian và công sức của tỉnh Bến Tre và từ đó đưa ra được qui trình và nội dung thủ tục thực
hiện cụ thể. Các tiêu chí xét chọn đều được lượng hóa bằng các thang điểm với nội dung
hướng dẫn cách chấm điểm cụ thể, giúp cho doanh nghiệp và chuyên gia có cơ sở đánh giá
mức độ thực tế đạt được của từng tiêu chí đối với sản phẩm chủ lực. Đặc biệt, Chương
trình có Hệ thống tiêu chí dành cho doanh nghiệp tự đánh giá, đã nói lên tính dân chủ, tự
giác tự nguyện của các đơn vị này, đồng thời đảm bảo được tính công khai, minh bạch của
tiêu chí đánh giá.
84
v Về hạn chế
Việc xây dựng các Hệ thống tiêu chí xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực tỉnh
Bến Tre chưa thực sự dựa vào các yếu tố khách quan như các lý thuyết về lợi thế so sánh
của David Ricardo hay lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal M. Porter…mà chỉ dựa
trên sự mong muốn chủ quan nên tính khoa học chưa cao.
Bảng tự chấm điểm đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm công nghiệp chủ lực
của doanh nghiệp có khá nhiều tiêu chí, trong đó có nhiều tiêu chí không phản ảnh được
năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chủ lực, chẳng hạn tiêu chí danh hiệu, giải
thưởng về sản phẩm chủ lực hay 10 tiêu chí có tính chất tham khảo.
Hệ thống tiêu chí và bảng điểm đánh giá ở đầu ra và đầu vào và giữa tự đánh giá
của doanh nghiệp với Hội đồng xét công nhận không nhất quán với nhau. Số lượng tiêu
chí đánh giá ở đầu ra ít hơn nhiều so với đầu vào và đặc biệt là nội dung các tiêu chí gần
như khác nhau hoàn toàn. Điều này dẫn đến sự mâu thuẩn kết quả giữa đầu vào và đầu ra,
giữa tự đánh giá của doanh nghiệp với Hội đồng xét chọn.
Cơ cấu và phân chia thang điểm cho các tiêu chí khá phức tạp, khó hiểu và giữa tự
đánh giá của doanh nghiệp và Hội đồng xét chọn cũng khác nhau về cơ bản.
Với những hạn chế trên, Chương trình phát triển sản phẩm công nghiệpchủ lực tỉnh
Bến Tre trong đó đặc biệt là các Hệ thống tiêu chí và bảng điểm đánh giá, xét chọn sản
phẩm chủ lực trở nên thiếu khách quan, khoa học và cũng trở nên thiếu rõ ràng, minh
bạch. Từ đó, các doanh nghiệp thiếu nhiệt tình trong phối hợp thực hiện cũng như thiếu sự
quan tâm chỉ đạo thực hiện đến cùng của lãnh đạo Bến Tre, kết quả hiện tại là Bến Tre đã
tự tách rời khỏi các thủ tục và qui trình xét chọn đã chuẩn bị trước, tự tạo ra hướng đi mới,
cách làm mới trong đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương và
dĩ nhiên, kết quả thu được sẽ khác đi rất nhiều.
2.2.2.2 Xác định sản phẩm chủ lực của tỉnh Tiền Giang
A. Cơ sở lý luận
Tiền Giang là địa phương thứ hai của ĐBSCL có sự chuẩn bị chu đáo và tích cực
triển khai Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực khá sớm. Quan điểm của Tiền
Giang là thông qua xác định các sản phẩm chủ lực của Tỉnh sẽ hình thành một số sản
phẩm mới, đồng thời cũng để tập trung các biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh, năng suất, chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ...Theo Tiền Giang thì
sản phẩm chủ lực bảo đảm các yêu cầu sau:
85
Về năng lực sản xuất: Sản lượng phải đủ lớn để đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong
nước và chế biến xuất khẩu; qui trình sản xuất hiện đại, có khả năng áp dụng các tiến bộ
của khoa học kỹ thuật; sản phẩm mới phải có tốc độ tăng trưởng nhanh…
Về thị trường tiêu thụ: Sản phẩm phải đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài
nước, tăng trưởng nhanh, ổn định, nhu cầu của thị trường về về sản phẩm còn cao, thương
hiệu có uy tín trong và ngoài nước; Sản phẩm phải có tham gia xuất khẩu từ 15% sản
lượng hoặc doanh thu trở lên và có giá thành bằng hoặc thấp hơn sản phẩm cùng loại trên
thị trường.
Về chất lượng sản phẩm: Sản phẩm phải được áp dụng và đạt các tiêu chuẩn chất
lượng của Việt Nam và quốc tế hay khu vực.
Về chiến lược phát triển sản phẩm: Sản phẩm phải có chiến lược mở rộng thị
trường và có tiềm năng phát triển thị trường mới trong tương lai; có khả năng cạnh tranh
cao và có chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh trong dài hạn; đồng thời có chiến lược
phát triển qui mô sản xuất, kinh doanh dựa trên tiềm năng và ưu thế của tỉnh Tiền Giang…
B. Qui trình đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực của tỉnh Tiền Giang
Theo Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực tỉnh Tiền Giang giai đoạn
2009 – 2015, ban hành kèm theo Quyết định số 20/2009/QĐUBND ngày 03 tháng 8 năm
2009 thì Qui trình xác định sản phẩm chủ lực của Tỉnh có 2 thủ tục: Xét chọn sản phẩm
chủ lực và xét chọn đơn vị, doanh nghiệp tham gia Chương trình hỗ trợ phát triển sản
phẩm chủ lực với các nội dung và kết quả cụ thể được ghi nhận như sau:
v Thủ tục xét chọn sản phẩm chủ lực
Trình tự và thủ tục thực hiện xét chọn như sau:
Trong năm 2009, các sở, ngành trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển của
ngành 5 năm, 10 năm… đề xuất hiện trạng, khả năng phát triển các sản phẩm chủ lực của
ngành để Ban chỉ đạo nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm chủ lực của tỉnh Tiền Giang
(gọi tắt là Ban chỉ đạo) xem xét, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt chung. Sau đó, các
sở, ngành lập Kế hoạch chi tiết phát triển các sản phẩm chủ lực của từng ngành giai đoạn
từ 20092015 (trong đó nêu rõ mục tiêu, chỉ tiêu, tiến độ, các bước thực hiện, các nguồn
kinh phí đầu tư…) thông qua Ban chỉ đạo xem xét, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt
để tổ chức thực hiện.
Ban chỉ đạo căn cứ vào nội dung phê duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh, hàng năm
có trách nhiệm phối hợp với sở, ngành vận động và xét chọn các tổ chức, doanh nghiệp,
86
hợp tác xã…tham gia chương trình và tiến hành các hoạt động hỗ trợ theo quy định. Tiêu
chí đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực của Tiền Giang dựa trên: Mức độ sản lượng,
Doanh thu, Diện tích nuôi trồng, quy mô sản xuất của từng loại sản phẩm và có ảnh hưởng
đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Để làm cơ sở xem xét, lựa chọn sản phẩm
chủ lực, Tiền Giang đưa ra bảng đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực với
trên 30 câu hỏi xoay quanh nhiều vấn đề liên quan nêu trên (xem phụ lục 6)
Bảng 2.27 Danh mục và tiêu chí xét chọn sản phẩm chủ lực Tiền Giang
STT Nhóm sản phẩm nông nghiệp, thủy sản
Diện tích nuôi trồng toàn vùng (ha)
Diện tích nuôi trồng tập trung (ha) không
nhỏ hơn
Sản lượng (Tấn/năm)
1 Xoài cát Hòa Lộc 1500 200 20.000 2 Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim 1500 200 28.000 3 Sầu riêng 1500 200 15.000 4 Bưởi long Cổ Cò 1000 100 10 000 5 Thanh long Chợ Gạo 1000 100 15.000 6 Khóm (dứa) Tân Lập 3000 500 60.000 7 Sơ ri Gò Công 500 100 7.000 8 Nhãn 1000 100 10.000 9 Lúa thơm đặc sản, 5000 500 50.000 10 Nếp bè Chợ Gạo 3000 200 30.000 11 Nghêu 2000 100 15.000 12 Tôm hoặc thuỷ sản khác 100 10.000 13 Cá da trơn 100 10.000
14 Heo thịt hướng nạc Qui mô nuôi công nghiệp, tổng đàn phải từ 2000 con/ trại trở lên.
15 Tôm giống quy mô sản xuất trên 100 triệu con/năm; đạt chuẩn giống tốt, sạch bệnh.
16 Giống thủy sản nước ngọt (tôm càng xanh, cá tra, …)
Quy mô sản xuất trên 100 triệu con/năm; đạt chuẩn giống tốt, sạch bệnh.
STT Nhóm sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Sản lượng (Tấn/năm)
Doanh thu (tỷ đồng/năm)
1 Gạo đặc sản 50.000
2 Gạo chất lượng cao (gạo có hàm lượng tấm nhỏ hơn hoặc bằng 5%) 50.000
3 Các sản phẩm chế biến từ gạo 1.500 4 Rau quả chế biến các loại 5.000 5 Cá phi lê đông lạnh 5.000
87
6 Nghêu đông lạnh 2.000 7 Thủy sản đông lạnh các loại (trừ cá phi lê) 3.000 8 Thủy sản chế biến đóng hộp 1.000 9 Thức ăn CN (gia súc, gia cầm và thủy sản) 50.000 10 Sản phẩm may công nghiệp 2.000.000 SP/năm 11 Thuốc tân dược, nam dược 200triệu viên/năm 12 Hàng thủ công mỹ nghệ XK có doanh thu 30 Nguồn: Chương trình hỗ trợ phát triển các sản phẩm chủ lực tỉnh Tiền Giang Theo Bảng danh mục và tiêu chí xét chọn trên đây cho thấy, tuy có sự quan tâm
toàn diện ở cả nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nhưng việc
xét chọn sản phẩm chủ lực của Tiêng Giang cũng vẫn còn nặng về chủ quan và chủ yếu
dựa vào nguồn lực sản xuất và qui mô sản lượng, chưa quan tâm thật sự đến đầu ra cũng
như năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhiều sản phẩm được chọn nặng về địa phương,
không mang tính phổ biến của vùng như nghêu, bưởi long Cổ Cò…
v Thủ tục xét chọn đơn vị, doanh nghiệp tham gia Chương trình
Sau khi xét chọn sản phẩm chủ lực, các doanh nghiệp có sản phẩm được lựa chọn
đăng ký tham gia Chương trình sẽ được đánh giá, lựa chọn chính thức là danh nghiệp chủ
lực của Tỉnh. Về xét chọn đoan vị, doanh nghiệp tham gia chương trình, Tiền Giang đưa
ra 2 thủ tục:
1) Tiêu chí xét chọn đơn vị, doanh nghiệp tham gia
Về tiêu chí lựa chọn, chủ yếu cũng dựa vào 4 yếu tố: (1) năng lực sản xuất; (2) thị
trường tiêu thụ; (3) chất lượng sản phẩm và (4) chiến lược phát triển doanh nghiệp
Bảng 2.28 Tiêu chí xét chọn đơn vị, doanh nghiệp tham gia chương trình
TT Tiêu chí Điểm 1 Năng lực sản xuất 35
a
Đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ có sản lượng sản phẩm (đối với loại hình kinh doanh dịch vụ xét chọn mức doanh thu) đạt trên 75% so với mức qui định sản lượng, doanh thu về sản phẩm chủ lực của Phụ lục II. Đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất lĩnh vực nuôi trồng nông thuỷ sản có diện tích sản xuất đạt trên 75% so diện tích nuôi trồng tập trung hoặc sản lượng đạt trên 30% so với mức qui định sản lượng về sản phẩm chủ lực của Phụ lục II.
20
Hoặc Đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ có sản lượng sản phẩm (đối với loại hình kinh doanh
15
88
dịch vụ xét chọn mức doanh thu) đạt từ 50% đến 75% so với mức qui định sản lượng, doanh thu về sản phẩm chủ lực của Phụ lục II. Đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất lĩnh vực nuôi trồng nông thuỷ sản có diện tích sản xuất đạt dưới 75% so diện tích nuôi trồng tập trung hoặc sản lượng đạt từ 20%30% so với mức qui định sản lượng về sản phẩm chủ lực của Phụ lục II.
b
Quy trình sản xuất, công nghệ hiện đại, tiên tiến. Đối với loại hình dịch vụ cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn ngành qui định, phong cách phục vụ chuyên nghiệp thỏa mãn nhu cầu khách hàng và là loại hình dịch vụ chất lượng cao. Đối với các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất lĩnh vực nuôi trồng nông thuỷ sản xây dựng và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến (như: GAP, SQF, HACCP, ISO 22000…)
10
Hoặc Quy trình sản xuất, công nghệ trung bình. 5
c Sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương, trong nước. Hoặc sản phẩm mang tính đặc thù, đặc sản của tỉnh Tiền Giang.
5
2 Thị trường tiêu thụ 30 a Đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, tăng trưởng nhanh 10
b Sản phẩm có giá thành bằng hoặc thấp hơn sản phẩm cùng loại trên thị trường 10
c Thương hiệu có uy tín trong và ngoài nước 5 d Sản phẩm có tham gia thị trường xuất khẩu từ 15% sản lượng 5 3 Chất lượng sản phẩm (đạt 1 trong 2 mức sau) 15 20
a
Sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế, quốc gia. Riêng đối với loại hình dịch vụ, chất lượng đáp ứng nhu cầu thỏa mãn khách hàng; cơ sở áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9001:2008; 5S); gia tăng khách hàng lặp lại.
20
Hoặc Sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp sản xuất xây dựng và áp dụng theo tiêu chuẩn cơ sở, hài hòa tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu chuẩn quốc tế, khu vực. Loại hình dịch vụ chất lượng đáp ứng nhu cầu thỏa mãn khách hàng.
15
4 Chiến lược phát triển doanh nghiệp 15
a Doanh nghiệp có chiến lược mở rộng thị trường, có tiềm năng phát triển các thị trường mới trong tương lai 5
b
Doanh nghiệp có chiến lược nâng cao chất lượng; có khả năng áp dụng các công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, gia tăng sức cạnh tranh với DN cùng ngành. Đối với loại hình dịch vụ, có chiến lược nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải tiến phong cách phục vụ…nhằm nâng cao chất lượng phục vụ.
5
89
c Doanh nghiệp dựa trên tiềm lực, điều kiện và ưu thế tỉnh Tiền Giang gia tăng sản lượng, doanh thu, hiệu quả kinh tế và có khả năng phát triển quy mô lớn trên địa bàn tỉnh
5
Tổng cộng: 100 Nguồn: Chương trình phát triển sản phẩm chủ lực tỉnh Tiền Giang
C. Danh mục sản phẩm chủ lực tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2009 2015
Trên cơ sở đề xuất của Ban chỉ đạo chương trình phát triển sản phẩm chủ lực tỉnh
Tiền Giang, tháng 8 năm 2009 UBND Tỉnh đã phê duyệt danh mục sản phẩm chủ lực tỉnh
Tiền Giang giai đoạn 20092015. Trong đó:
v Ngành nông nghiệp và thủy sản có 7 ngành hàng:
(1) Trái cây (có bảy loại: vú sữa Vĩnh Kim, thanh long Chợ Gạo, sầu riêng Ngũ
Hiệp, sơ ri Gò Công, khóm Tân Lập, bưởi lông Cổ Cò, xoài cát Hoà Lộc)
(2) Nếp bè Chợ Gạo;
(3) Lúa chất lượng cao;
(4) Rau an toàn;
(5) Các sản phẩm nuôi trồng thủy sản (cá tra, tôm, nghêu);
(6) Giống thuỷ sản;
(7) Giống lúa và các giống cây khác.
v Ngành công thương gồm có 6 ngành hàng:
(1) Thủy sản chế biến các loại;
(2) Rau quả chế biến các loại;
(3) Các sản phẩm chế biến từ gạo hoặc cây lương thực khác;
(4) Thức ăn chăn nuôi;
(5) Sản phẩm may công nghiệp;
(6) Hàng thủ công mỹ nghệ.
v Ngành du lịch và dịch vụ:
(1) Dịch vụ du lịch có số lượng khách quốc tế
(2) Dịch vụ khách sạn, nhà hàng
(3) Dịch vụ chuyển giao công nghệ
(4) Dịch vụ xuất khẩu lao động
Nhìn chung, sản phẩm chủ lực tỉnh Tiền Giang được phê duyệt bao gồm các sản
phẩm nằm trong Danh mục và tiêu chí đánh giá đã được Ban chỉ đạo Chương trình xây
90
dựng và mang tính đặc thù địa phương cao. Đồng thời, nếu được liên kết và đầu tư đúng
mức chúng có thể trở thành sản phẩm hàng hóa chủ lực của vùng.
Tuy nhiên, vấn đề lựa chọn doanh nghiệp chủ lực, tức doanh nghiệp có sản xuất
kinh doanh sản phẩm chủ lực ở đây chưa được xác định rõ ràng mà chỉ cho biết các doanh
nghiệp có sản xuất, kinh doanh sản phẩm chủ lực nêu trên, được hưởng các chính sách
khuyến khích hỗ trợ phát triển theo Quy định hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực giai đoạn
2009 2015 được ban hành theo Quyết định số 21/2009/QĐUBND ngày 03/8/2009 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh mà thôi.
D. Nhận xét
So với thực trạng đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Bến
Tre, việc đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực của tỉnh Tiền Giang có những ưu, nhược
điểm như sau:
v Về ưu điểm
So với Bến Tre, số lượng tiêu chí đánh giá của Tiền Giang có ít hơn và cách đánh
giá cũng đơn giản hơn. Về cách chấm điểm, chỉ cần phân ra mức độ đạt được như thế nào
để cho điểm, không phải xây dựng thang điểm riêng. Vì có tiêu chí xét chọn doanh nghiệp
chủ lực riêng nên có thể tìm ra những doanh nghiệp thực sự có tiềm lực và triển vọng để
tập trung đầu tư. Có Hệ thống tiêu chí dành riêng cho sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp
và thủy sản nên có thể tìm ra sản phẩm lợi thế trên cả 3 khu vực kinh tế của địa phương,
làm cho chủ trương hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực mang tính toàn diện hơn.
v Về nhược điểm
Cũng giống như Bến Tre, Hệ thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực
tỉnh Tiền Giang chưa thực sự dựa vào các yếu tố khách quan như các lý thuyết về lợi thế
so sánh của David Ricardo hay lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal M. Porter…mà chỉ
dựa trên sự mong muốn chủ quan nên tính khoa học chưa cao; Sự phân chia mức độ đạt
được trong mỗi tiêu chí và cách lựa chọn trong mỗi tiêu chí thiếu cơ sở định lượng nên có
thể dẫn đến tùy ý, chủ quan; Không có thang điểm nên rất khó đánh giá chính xác mức độ
đạt được trong mỗi tiêu chí cũng như cả Hệ thống tiêu chí, dẫn đến việc xét chọn thiếu
khách quan; Việc lựa chọn doanh nghiệp chủ lực không thể hiện được vấn đề cốt lõi mà
chỉ là “hư danh”, dễ gây ra hiểu nhầm dẫn đến lựa chọn sản phẩm chủ lực bị lệch lạc. Đặc
biệt, Danh mục sản phẩm và tiêu chí xét chọn sản phẩm chủ lực Tiền Giang giai đoạn
91
1009 – 1015 chỉ dựa vào diện tích tập trung, sản lượng hay qui mô hoạt động và doanh thu
là rất phiến diện, bởi nó đã bỏ qua nhiều tiêu chí quan trọng khác như lợi thế cạnh tranh,
môi trường, độ lan tỏa của hàng hóa chủ lực…
Tóm lại, có thể nói việc đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực của Tiền Giang cũng
chưa thực sự khách quan, khoa học và do đó nó vẫn thiếu tính rõ ràng, minh bạch.
2.2.2.3 Xác định hàng hóa chủ lực của tỉnh Vĩnh Long
Vĩnh Long là một trong số các địa phương không có chương trình phát triển sản phẩm chủ
lực mang tính chuyên đề của ĐBSCL. Tuy vậy, ngày 30 tháng 3 năm 2008, Vĩnh Long đã tổ chức
cuộc hội thảo với chủ đề : «Xác định sản phẩm chủ lực của Vĩnh Long đến năm 2015». Đây cũng
chính là đề tài nghiên cứu khoa học do Sở Khoa học – Công nghệ Vĩnh Long phối hợp thực
hiện cùng Hội Khoa học kinh tế Hà Nội.
Sau gần 3 năm nghiên cứu, đề tài đã được nghiệm thu với Danh mục sản phẩm chủ lực của
Vĩnh Long bao gồm:
v Các sản phẩm nông nghiệp:
(1) Lúa gạo,
(2) Trái cây,
(3) Thịt heo,
(4) Rau,
(5) Nuôi trồng thủy sản;
v Các sản phẩm công nghiệp:
(1) Xay xát gạo,
(2) Chế biến thủy sản,
(3) Sản xuất hột vịt muối,
(4) May giày xuất khẩu,
(5) Gốm mỹ nghệ.
v Các sản phẩm dịch vụ và du lịch:
(1) Dịch vụ bán lẻ,
(2) Xuất khẩu,
(3) Khách sạn nhà hàng và
(4) Du lịch sinh thái miệt vườn
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nghiên cứu, Ban chủ nhiệm đề tài chỉ phối hợp với
các Sở, ngành trong Tỉnh để thu thập số liệu và tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng các sản
phẩm chủ lực của Tỉnh để chọn ra sản phẩm chủ lực chứ không xây dựng Hệ thống tiêu chí đánh
giá để căn cứ xét chọn. Đồng thời, kết quả xác định sản phẩm chủ lực của Vĩnh Long cũng mới
92
chỉ dựa trên phương pháp định tính mà không sử dụng các chỉ tiêu định lượng nhất là chỉ tiêu
phản ảnh năng lực cạnh tranh của hàng hóa chủ lực….Do đó, việc đề xuất các sản phẩm chủ lực
của Vĩnh Long vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách quan, khoa học
2.2.2.4 Xác định hàng hóa chủ lực của tỉnh Long An
Tương tự Vĩnh Long, tỉnh Long An cũng không xây dựng Chương trình chuyên đề về phát
triển sản phẩm chủ lực, mà xây dựng « Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chủ yếu trên địa
bàn tỉnh Long An đến năm 2010 ». Đây có thể coi là kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp
chủ lực của Long An với Danh mục các ngành cụ thể sau:
(1) Công nghiệp mía đường
(2) Chế biến lương thực
(3) Chế biến thủy sản
(4) Chế biến cây đay
(5) Chế biến rau quả
(6) Thức ăn gia súc
(7) Sản xuất thép
(8) Cơ khí
(9) Chế biến hạt điều nhân xuất khẩu
(10) Công nghiệp dệt may da dày
(11) Sản xuất đồ gỗ thủ công mỹ nghệ
(12) Chế biến cây tràm
(13) Sản xuất nhựa – hóa chất
Ngoài các ngành công nghiệp chủ yếu được qui hoạch trên đây, Long An còn xác định các
hoạt động dịch vụ dưới đây là dịch vụ chính của Tỉnh để Qui hoạch phát triển kinh tế xã hội
Long An giai đoạn 2007 2010 và lâu hơn nữa:
(1) Thương mại và xuất nhập khẩu
(2) Dịch vụ du lịch
(3) Dịch vụ tài chính nhân hàng
(4) Dịch vụ bưu chính viễn thông
(5) Dịch vụ vận tải
Việc lựa chọn ngành công nghiệp và dịch vụ chủ yếu của Long An nêu trên cũng không
dựa trên các tiêu chí đánh giá, xét chọn nào mà chủ yếu dựa trên sự phân tích, đánh giá tình hình
thực tế phát triển, cơ hội và thách thức cũng như định hướng mục tiêu phát triển công nghiệp của
Tỉnh trong tương lai mà lựa chọn. Do đó, kết quả lựa chọn này cũng không có đủ cơ sở khoa học
vững chắc.
93
2.2.2.5 Xác định hàng hóa chủ lực của tỉnh An Giang
Cũng giống như Long An, An Giang tiến hành lựa chọn ngành công nghiệp chủ yếu dựa
trên sự phân tích, đánh giá tình hình thực tế phát triển, cơ hội và thách thức cũng như quan điểm,
định hướng mục tiêu phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của Tỉnh trong tương lai mà
lựa chọn ra các ngành công nghiệp chủ yếu. Do đó, kết quả lựa chọn này cũng không có đủ cơ sở
khoa học vững chắc nên tác giả nêu ra đây chỉ có tác dụng tham khảo, đối chiếu với các địa
phương khác mà thôi.
Danh mục các ngành công nghiệp chủ yếu của An Giang từ 2007 – 2010 bao gồm :
(1) Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống
(2) Công nghiệp cơ khí
(3) Công nghiệp khai khoáng và sản xuất vật liệu xây dựng
(4) Công nghiệp thêu, may, da giày
(5) Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản
(6) Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước
2.2.2.6 Xác định hàng hóa chủ lực của tỉnh Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang là địa phương có cách xác định ngành công nghiệp ưu tiên, ngành
công nghiệp mũi nhọn mang tính hành chánh nhất. Bởi vì, việc xác định này được UBND
ra quyết định dựa trên Thông tư của Bộ Công thương hướng dẫn một số nội dung quy định
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên,
ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và Tờ trình
của Giám đốc Sở Công thương Tỉnh…,để đề xuất Danh mục các ngành công nghiệp ưu
tiên, công nghiệp mũi nhọn cho từng giai đoạn. (xem phụ lục 7)
2.2.3 Chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về nội dung và phương pháp xác định sản phẩm
chủ lực ở mối địa phương thời gian qua, nhưng ở các địa phương này đều có chung một
quan điểm và chủ trương phát triển sản phẩm chủ lực thông qua chính sách hỗ trợ cho các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất một cách rất cụ thể. Thông qua các chính sách hỗ trợ này,
nhiều sản phẩm của địa phương đã tạo được uy tín về chất lượng, thương hiệu và nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần quan trọng vào phát
triển kinh tế xã hội trong toàn vùng. Sau đây là một số vấn đề chủ yếu liên quan đến hỗ
trợ phát triển sản phẩm chủ lực ở các địa phương ĐBSCL.
2.2.3.1 Đối tượng được hỗ trợ
94
Đối tượng được xem xét hỗ trợ là các doanh nghiệp, hợp tác xã; các cơ sở sản xuất
có sản phẩm chủ lực và đáp ứng các điều kiện sau:
Có năng lực xây dựng và thực hiện các đề tài, dự án, tạo ra các sản phẩm có ưu
thế cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội;
Sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chí về sản phẩm chủ lực và đạt điểm tối thiểu
theo Hệ thống tiêu chí do Ban chỉ đạo đề ra;
Có quy mô, năng lực sản xuất hoặc có quy hoạch, kế hoạch về quy mô, năng lực
sản xuất phù hợp; và
Được Ban chỉ đạo chương trình phát triển sản phẩm chủ lực tỉnh xét chọn và được
lãnh đạo địa phương phê duyệt
2.2.3.2 Nguyên tắc hỗ trợ
Việc hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm tính chính xác, minh bạch
cũng như hiệu quả tối ưu. Do vậy, việc hỗ trợ này phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
Trong cùng một nội dung hỗ trợ, sản phẩm (hoặc tổ chức, doanh nghiệp…) chủ
lực chỉ được hỗ trợ 01 lần và khi chưa có nguồn tài chính khác hỗ trợ. Trong trường hợp
cùng nội dung hỗ trợ nếu có các qui định khác do cơ quan thẩm quyền ban hành mức hỗ
trợ cao hơn thì các tổ chức, doanh nghiệp sẽ được hưởng theo mức hỗ trợ của quy định đó.
Các trường hợp sử dụng nguồn hỗ trợ sai mục đích hoặc không đúng đối tượng thì
sẽ bị thu hồi.
Việc quản lý kinh phí hỗ trợ thực hiện đúng theo quy định quản lý tài chính hiện
hành của Nhà nước.
2.2.3.3 Nội dung hỗ trợ
1) Hỗ trợ sản xuất giống phục vụ cho phát triển vùng nguyên liệu
Hỗ trợ chi phí cây giống, con giống để thực hành thí điểm, hướng dẫn kỹ thuật,
chuyển giao công nghệ cho các vùng nguyên liệu; với quy mô sản xuất phù hợp và tổng
kinh phí đề tài, dự án không vượt mức qui định của địa phương
2) Hỗ trợ thực hiện các đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm
Hỗ trợ cho các đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới
quy mô vừa và nhỏ để phát triển sản phẩm chủ lực. Mức hỗ trợ thực hiện theo quy định
quản lý và hỗ trợ triển khai đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của
địa phương.
3) Hỗ trợ nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp
95
Bao gồm: hỗ trợ kinh phí cho các công việc như hướng dẫn, xây dựng và công bố
hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn; xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên
tiến, các quy trình sản xuất sản phẩm chất lượng cao, an toàn, tiết kiệm năng lượng, tham
gia các giải thưởng chất lượng quốc gia và quốc tế; hỗ trợ đào tạo hoặc tư vấn quản lý
doanh nghiệp, hệ thống thông tin điện tử, hệ thống trả lương, cơ cấu tổ chức.v.v..
4) Hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu
Hỗ trợ cho các công việc như: thông tin thương mại, tuyên truyền và tư vấn xuất
khẩu; đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh dịch vụ và xuất khẩu cho doanh
nghiệp; hội chợ triển lãm; khảo sát tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để phát triển
sản xuất và dịch vụ; quảng bá thương hiệu và sản phẩm xuất khẩu, dịch vụ đặc trưng của tỉnh,
tham gia trưng bày tại các showroom trong và ngoài nước; mở các cửa hàng giới thiệu sản
phẩm ra ngoài tỉnh; nghiên cứu ứng dụng phát triển thương mại điện tử phục vụ xuất khẩu và
xây dựng trang website cho doanh nghiệp
5) Hỗ trợ chống giai lận thương mại
Hỗ trợ hướng dẫn xây dựng và bảo vệ thương hiệu, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ; tư vấn,
thông tin pháp luật, thực hiện chống hàng gian, hàng giả.
6) Hỗ trợ đổi mới công nghệ; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm
Hỗ trợ chi phí cho các hoạt động tư vấn theo hợp đồng đã ký với đơn vị có tư cách pháp
nhân tư vấn, dịch vụ, sau khi hợp đồng được thanh lý; hỗ trợ lãi suất vay vốn để thực hiện việc
đổi mới công nghệ; hỗ trợ chuyển giao công nghệ tiên tiến
7) Hỗ trợ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Hỗ trợ chi phí tổ chức các khóa bồi dưỡng theo chuyên đề; cập nhật kiến thức cho cán
bộ quản lý, kỹ sư, công nhân, nông dân, chủ trang trạị; hỗ trợ tập huấn nâng cao trình độ về áp
dụng công nghệ mới và quản lý doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp tham quan học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm trong và ngoài nước về cải tiến và nâng cao năng suất, chất lượng.
8) Hỗ trợ về thông tin và tiếp cận nguồn tài chính
Hỗ trợ về thông tin nguồn tài chính và tiếp cận nguồn vốn tín dụng nhà nước, bao gồm:
cung cấp thông tin về các nguồn vốn tín dụng ưu đãi; hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận các
nguồn vốn tín dụng nhà nước và vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp; hỗ trợ
doanh nghiệp kêu gọi đầu tư, hợp tác đầu tư; hướng dẫn thủ tục đầu tư, đăng ký kinh doanh.
9) Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư xử lý chất thải và xây dựng hệ thống bảo vệ môi trường
96
Hỗ trợ chi phí cho các hoạt động tư vấn, đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý đảm bảo
môi trường (ISO 14000,…); hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư, xây dựng hệ thống xử lý chất thải,
chuyển giao công nghệ sản xuất sạch, bảo vệ môi trường
10) Hỗ trợ phát triển các hợp tác xã tham gia xây dựng, áp dụng và chứng nhận
đạt các tiêu chuẩn tiên tiến
Đối với các hợp tác xã kinh doanh, sản xuất các sản phẩm chủ lực trong quá trình
xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến (ISO, GAP, HACCP, SQF,
GMP, GHP…) thì ngoài các hỗ trợ đã nêu trên còn được hỗ trợ kinh phí về xây dựng cơ sở
hạ tầng, tư liệu hoặc củng cố nhân sự của hợp tác xã theo các dự án, đề tài cụ thể được lãnh đạo
địa phương phê duyệt.
2.2.3.4 Nguồn kinh phí hỗ trợ
Tuỳ theo tính chất, nội dung, yêu cầu phát triển, sản phẩm chủ lực sẽ được xét hỗ
trợ thông qua từ các nguồn: quỹ sự nghiệp khoa học công nghệ địa phương; quỹ khuyến
nông, quỹ khuyến công; quỹ khuyến ngư; quỹ xúc tiến đầu tư và thương mại – du lịch;
quỹ hỗ trợ phát triển từ các sở, ngành tỉnh theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo. Ngoài ra, còn có
nguồn hỗ trợ từ các ngành trung ương và nguồn hỗ trợ từ các doanh nghiệp đầu tư; nguồn
liên kết kinh doanh, các nguồn phi ngân sách khác .v.v…
2.2.4 Nhận xét chung
Qua nghiên cứu thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL
thời gian qua, tác giả đã rút ra được những điểm mạnh và điểm còn hạn chế để rút kinh
nghiệm cho việc xác định sản phẩm chủ lực và đề xuất giải pháp phát triển sản phẩm chủ
lực ĐBSCL đến năm 2020. Cụ thể:
1) Về xác định sản phẩm chủ lực
Qui trình xét chọn và công nhận sản phẩm chủ lựcchưa phù hợp
Nhìn chung, quá trình xét chọn sản phẩm chủ lực ở các địa phương thường không
theo một qui trình cụ thể và thống nhất nào cả. Có địa phương xây dựng qui trình với 2
giai đoạn, xét đầu vào và xét đầu ra; ở đầu ra thực hiện theo 2 bước, bước tự đánh giá của
các doanh nghiệp và bước đánh giá của ban chỉ đạo (tỉnh Bến Tre). Lại có địa phương xây
dựng qui trình xét chọn theo 2 bước, bước xét chọn sản phẩm chủ lực và bước xét chọn
đoan vị, doanh nghiệp tham gia (tỉnh Tiền Giang). Tuy nhiên, cũng có địa phương tiến
hành lựa chọn sản phẩm chủ lực bằng công trình nghiên cứu khoa học (tỉnh Vĩnh Long và
Tp Cần Thơ). Thậm chí, có nhiều địa phương xác định sản phẩm chủ lực hoặc ngành nghề
97
chủ lực không theo bất kỳ qui trình hay công trình nghiên cứu nào, mà ra quyết định xét
chọn dựa trên tư vấn của các cơ quan quản lý nhà nước về chức năng hoặc ngành của địa
phương, dẫn đến kết quả rất chủ quan, thiếu cơ sở khoa học.
Thủ tục xét chọn và công nhận sản phẩm chủ lực chưa rõ ràng, khoa học
Về thủ tục xét chọn sản phẩm chủ lực cũng mang tính đa dạng, phức tạp và không
thống nhất với nhau giữa các địa phương. Có địa phương đưa ra nhiều thủ tục rườm rà từ
khâu đăng ký tham gia Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực đến tự đánh giá đề
xuất sản phẩm tham gia, đến kiểm tra đánh giá của ban chỉ đạo Chương trình và sau đó là
thủ tục đăng ký, hợp đồng, cam kết để được hỗ trợ của địa phương.
Tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực còn mang tính chủ quan
Tuy các địa phương trong vùng đều có những đặc trưng chung giống nhau, nhất là
điều kiện sản xuất một số sản phẩm chủ lực, nhưng tiêu chí đánh giá, xét chọn các sản
phẩm chủ lực đó lại không giống nhau. Có địa phương chú trọng vào lợi nhuận, xuất khẩu,
sức tăng trưởng của sản phẩm và các tiêu chí chất lượng, môi trường...(Bến Tre), thì địa
phương khác lại chú trọng vào diện tích canh tác và sản lượng thu hoạch hàng năm (Tiền
Giang). Cũng có địa phương chỉ căn cứ vào định hướng mục tiêu phát triển kinh tế địa
phương mà qui hoạch ngành nghề chủ lực...
2) Về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực
Nhìn chung, các địa phương đều có chính sách hoặc qui chế khá cụ thể để hỗ trợ
các doanh nghiệp, người sản xuất tập trung phát triển sản xuất đối với các sản phẩm được
chọn và công nhận là sản phẩm chủ lực của địa phương. Tuy nhiên, hầu hết các địa
phương vẫn chưa triển khai thực hiện được do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ yếu vẫn là cơ chế điều hành của địa phương và quan hệ phối hợp giữa các doanh
nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực. [8], [16], [17]. Cụ thể:
Qui hoạch chưa đồng bộ, nhất quán nên phát triển còn manh mún.
Qui hoạch còn mang tính chủ quan, chưa đồng bộ và nhất quán giữa các địa
phương trong vùng nên dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, mỗi địa phương triển khai
thực hiện theo cách riêng, hệ quả là sản phẩm thiếu tính đồng nhất, qui mô sản lượng thấp,
tính cạnh tranh không cao, do đó khó có thể phát triển lâu dài.
Liên kết còn lỏng lẽo, hình thức nên phát triển không ổn định.
Do sản xuất manh mún, mạnh ai nấy làm nên chưa có sự phối hợp, gắn kết nhau
giữa các địa phương, doanh nghiệp. Hoặc giả, nếu có thì cũng chưa có cơ chế ràng buộc
98
chặt chẽ giữa các thành viên, dẫn đến mỗi người chỉ vì lợi ích riêng trước mắt mà xâm hại
đến lợi ích chung, lâu dài, làm cho các mối liên kết sớm tan vỡ hoặc chỉ còn trong hình
thức. Điển hình nhất là liên kết “4 nhà”. Theo theo các nhà kho học, chưa chính sách nào
khuyến khích để họ có thể gắn kết với người sản xuất, nhằm tạo ra sản phẩm đủ chất
lượng cho thị trường đang đòi hỏi. Những điều trên đã dẫn đến người sản xuất cũng như
nhà doanh nghiệp phải tự “bơi trong bể” thị trường bao la, đầy rủi ro, khi được lợi thì họ
làm, nếu thất bại thì họ nghỉ nên sản phẩm khó tồn tại lâu dài.
Đầu tư còn dàn trải, thiếu cân đối nên phát triển một cách khập khiểng.
Tình trạng phổ biến hiện nay ở các địa phương là chạy đua xây dựng các khu công
nghiệp để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất công nghiệp
nhưng thiếu quan tâm đầu tư cho phát triển nguồn nguyên liệu và hệ thống phân phối sản
phẩm đầu ra. Tức, đầu tư thiếu cân đối giữa các khâu trong chuỗi giá trị sản phẩm, dẫn
đến tình trạng sản xuất tự phát, chạy theo phong trào và hệ quả là thường xuyên rơi vào
vòng lẫn quẩn: thừa, thiếu sản phẩm liên tục xảy ra.
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất còn hạn chế, làm cho
cho sản phẩm chủ lực khó đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Thời gian qua, nhìn chung phát triển khoa học và công nghệ của ĐBSCL còn chưa
tương xứng, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc
biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công
nghệ còn ở mức rất thấp (khoảng 0,6% GDP), trong đó chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà
nước. Tỷ lệ đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ mới đạt khoảng 43%
nguồn từ ngân sách. Chất lượng đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập nên nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ ngày càng không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Chính
vì vậy mà tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất, kinh doanh còn yếu, sản
phẩm được sản xuất ra không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chất lượng thấp, tính an
toàn không cao.
Phát triển sản phẩm chủ lực chưa đảm bảo tốt các yếu tố bền vững.
Sản phẩm chủ lực ĐBSCL với điểm tựa là sản phẩm nông nghiệp. Do đó, phát triển
sản phẩm chủ lực bền vững không tách rời với phát triển nông nghiệp bền vững. Tuy
nhiên, phát triển trong lĩnh vực này thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập như: sản xuất
thiếu định hướng chiến lược, tự phát chạy theo phong trào; thâm canh tăng vụ, lạm dụng
hóa chất và chuyển đổi mục đích sử dụng tràn lan làm giảm diện tích cũng như chất lượng
99
đất nông nghiệp. Ngoài ra, việc tổ chức sản xuất và sử dụng hóa chất thiếu khoa học đã
gây ra tình trạng suy thoái môi trường, ô nhiểm nguồn nước và mất an toàn trong sản xuất
cũng như sử dụng sản phẩm nông nghiệp.
Tóm lại, ngoài 2 tỉnh Bến Tre và Tiền Giang là thuộc số ít địa phương ở ĐBSCL đã
xây dựng hoàn chỉnh Hệ thống tiêu chí và Bảng điểm đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực
của mình và công bố rộng rãi cho các đơn vị trên địa bàn tỉnh để triển khai thực hiện. Số
địa phương còn lại của ĐBSCL chưa xây dựng được Hệ thống tiêu chí để lựa chọn sản
phẩm chủ lực mà hiện chỉ mới xây dựng kế hoạch, qui hoạch hoặc đề án phát triển mà
thôi...Tuy nhiên, việc xây dựng qui hoạch, kế hoạch của hai địa phương trên chủ yếu dựa
vào sự đánh giá tình hình biến động của thế giới và khu vực, thế mạnh của địa phương và
quan điểm, chủ trương phát triển của lãnh đạo...chứ chưa thật sự dựa trên các kết quả
nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ tình hình như vậy mà sản phẩm chủ lực được chọn ở
mỗi địa phương đều có khác nhau, mang tính đặc thù địa phương cao, thiếu sự đồng nhất
do không có sự liên kết, phối hợp. Ngoài ra, các địa phương trong vùng chưa có các giải
pháp và chính sách hỗ trợ phát triển mang tính nhất quán, đồng bộ nên phát triển sản phẩm
chủ lực còn manh mún, thiếu ổn định và chưa đảm bảo tốt các yếu tố phát triển bền vững.
2.4. Kết luận chương hai Đã từ lâu, ĐBSCL được mệnh danh là vựa lúa của cả nước, là quê hương của cây xanh trái
ngọt và là tôm cá đầy sông. Điều này đã nói lên tiềm năng, lợi thế có tính đặc thù của vùng kinh tế
mang tầm chiến lược quốc gia. Với lợi thế và tiềm năng như vậy, ĐBSCL đã tạo ra nhiều sản
phẩm với qui mô sản lượng lớn, chất lượng cạnh tranh và mức tăng trưởng cao luôn giữ vị trí chủ
chốt trong phát triển kinh tế xã hội của vùng cũng như xuất khẩu của cả nước. Mặc dù vậy, việc
xác định một cách khoa học đâu là sản phẩm chủ lực của vùng để có qui hoạch và tập trung đầu tư
phát triển một cách thống nhất, đồng bộ trên phạm vi toàn vùng hầu như còn bỏ ngõ. Nhiều sản
phẩm hình thành và phát triển một cách tự nhiên nên không ổn định, phức hợp về giống loài và
phụ thuộc vào thiên nhiên. Gần đây, nhiều địa phương trong vùng đã ý thức được tầm quan trọng
của việc xác định và phát triển sản phẩm chủ lực nên đã chủ động nghiên cứu, triển khai nhiều hệ
thống tiêu chí đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực cũng như xây dựng chương trình hỗ trợ phát
triển sản phẩm chủ lực cho địa phương mình. Tuy nhiên, việc làm này vẫn còn nhiều hạn chế: hệ
thống tiêu chí thiếu tính khoa học; sản phẩm chủ lực được lựa chọn thiếu khách quan, manh mún,
thiếu tính liên kết giữa các địa phương nên không tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho sản phẩm toàn
vùng.
100
Chương 3
XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN
SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020
3.1 Quan điểm, mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
3.1.1 Quan điểm phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
Xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL là việc xem xét, lựa chọn để tìm ra sản
phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ thực sự có năng lực cạnh tranh và tiềm năng phát triển
lớn để tập trung đầu tư nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng. Do
đó, việc xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020, nhất thiết phải dựa trên
các quan điểm phát triển cơ bản sau đây:
1) Phát triển sản phẩm chủ lực trên cơ sở khai thác tốt lợi thế của vùng về
nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền, trên biển, thềm lục địa với nguồn lao
động dồi dào, cùng với tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài thông qua các
chính sách phù hợp nhằm phát triển kinh tế ĐBSCL một cách toàn diện với nền tảng
là nông nghiệp công nghệ cao đạt tốc độ phát triển nhanh và bền vững.
2) Phát triển sản phẩm chủ lực theo hướng tập trung vào phát triển công nghiệp chế
biến có lợi thế về nguyên liệu; các sản phẩm nông nghiệp có vị thế cạnh tranh tốt trên thị
trường nội địa và xuất khẩu, tạo nền tảng vững chắc cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
3) Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra môi trường đầu tư tập trung cao
nhằm khai thác hiệu quả nguồn lực hiện có và tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, đặc biệt đối với những mặt hàng chế biến nông, thủy sản xuất khẩu, tạo động
lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại
hóa.
4) Phát triển sản phẩm chủ lực phải gắn với tăng cường mối liên kết 4 nhà, liên kết
chuỗi sản xuất và liên kết vùng, tạo ra các khu vực sản xuất tập trung với qui mô lớn
trong đó thu hút được nhiều thành phần kinh tế, nhiều lĩnh vực ngành nghề cùng tham gia,
tiến tới hình thành các tập đoàn kinh tế đủ mạnh, có khả năng tham gia cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu.
101
5) Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra sự kết hợp hài hoà giữa tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo môi trường sinh thái, cảnh quan du lịch , giữa hiệu quả
kinh tế xã hội với an ninh quốc phòng.
3.1.2. Định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020,
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và quan điểm phát triển nêu trên thì:
Về nông nghiệp, xác định cây lúa là cây trồng chủ lực, tiếp tục đầu tư khoa học,
kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đảm bảo
cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, khuyến khích phát triển vùng sản xuất lúa lớn,
chuyên canh (mô hình cánh đồng mẫu lớn), nhất là các địa phương có thế mạnh về sản
xuất lúa gạo như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp. Đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia và giữ vững xuất khẩu khoảng từ 6 7 triệu tấn gạo/năm, đồng thời mở rộng diện tích
để tăng sản lượng cây ăn quả, cây công nghiệp cũng như các cây trồng khác; đẩy mạnh
phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm. Phấn đấu tăng sản lượng 6 8%/năm để đáp ứng nhu
cầu thực phẩm cho thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu.
Về thủy sản, xây dựng ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất
hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh cao, kim ngạch xuất khẩu lớn. Tiếp tục phát triển nuôi
trồng thủy sản theo hướng thâm canh và tập trung, mở rộng khu vực nuôi trồng thủy sản
trên biển, đảo, khu vực nước ngọt, nước lợ. Cụ thể: Phấn đấu đến năm 2015 sản lượng
nuôi trồng thủy sản đạt 3,60 triệu tấn, trên diện tích 1,10 triệu ha; giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 3,5 4,0 tỷ USD, giải quyết việc làm cho khoảng 3,0 triệu lao động. Đến năm
2020 sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 4,5 triệu tấn, trên diện tích 1,2 triệu ha; giá trị kim
ngạch xuất khẩu đạt 5,0 5,5 tỷ USD, giải quyết việc làm cho khoảng 3,5 triệu người.
Về công nghiệp, tập trung phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ và
tiêu thủ công nghiệp vì đây là ngành luôn giữ vị trí quan trọng nhất trong các ngành công
nghiệp của vùng; tăng cường các ngành sản phẩm công nghiệp then chốt là công nghiệp
chế biến lương thực thực phẩm để giữ vai trò chủ lực của vùng, từ nay đến năm 2020 cần
tập trung phát triển mạnh: công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, công nghiệp súc sản và chế
biến các sản phẩm thịt, công nghiệp chế biến rau, trái cây, nước giả khát.
Về du lịch, tập trung phát triển du lịch đặc thù vùng ĐBSCL như du lịch tham
quan sông nước, miệt vườn kết hợp với nghỉ tại nhà dân, du lịch văn hóa tìm hiểu văn hóa
các dân tộc trong Vùng, du lịch sinh thái, du lịch tham quan, nghiên cứu các hệ sinh thái
102
đa dạng Vùng, du lịch nghỉ dưỡng biển đảo cao cấp (tại Phú Quốc, Hà Tiên). Phấn đấu
đến năm 2020 đạt 3,9 triệu lượt khách quốc tế và 6,5 triệu lượt khách du lịch nội địa; thu
nhập xã hội từ hoạt động du lịch đạt 1.349,5 triệu USD, GDP du lịch đạt 877,1 triệu USD.
3.2 Xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
3.2.1. Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
3.2.1.1 Cơ sở xây dựng Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL
Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL là khuôn khổ các tiêu chuẩn
bao gồm cả định lượng và định tính dùng để đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực chung
cho toàn vùng từ nay đến 2020 và có thể xa hơn nếu về khách quan không có gì thay đổi.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, quá trình hình thành Hệ thống tiêu chí, tác giả đã
dựa trên các cơ sở lý luận về lợi thế cạnh tranh; kinh nghiệm của một số địa phương và
thăm dò ý kiến của đại diện các cơ quan ban ngành trong vùng.
1) Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của Hệ thống tiêu chí là các lý thuyết được trình bày ở chương 1 như:
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith; Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo;
Thuyết Lợi thế cạnh tranh quốc gia (chủ yếu vận dụng mô hình Kim cương) và Lý thuyết
Cụm phát triển của Michael E. Porter. Từ các lý thuyết này, các chỉ tiêu định lượng cũng
như định tính được xem xét và lựa chọn để hình thành Hệ thống tiêu chí.
2) Kinh nghiệm thực tế
Thông qua nghiên cứu, tham khảo phương pháp xác định sản phẩm chủ lực và Hệ
thống các tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực của các địa phương trong cả nước
như : thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Nghệ An, tỉnh Bến Tre và tỉnh Tiền
Giang...Đồng thời, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát thực thực tế tại các thành
phố lớn và một số tỉnh ĐBSCL. Từ thực tế này, tác giả xem xét phương pháp xây dựng
điểm chuẩn đánh giá chung và thang điểm đánh giá cho mỗi tiêu chí cụ thể.
3) Tham khảo ý kiến chuyên gia
Tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề ‘xác định sản phẩm chủ lực Tp Cần Thơ giai
đoạn 2007 – 2010, tầm nhìn 2020’ với tối tượng tham gia gồm đại diện các cơ quan quản
lý nhà nước (sở ngành); đại diện các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu và các nhà
khoa học của Tp Cần Thơ và khu vực ĐBSCL. Ngoài ra, tác giả còn tổ chức gửi phiếu cỏi
hỏi khảo sát đến nhiều đối tượng có chuyên môn trong lĩnh vực này và những người quan
tâm khác trong vùng (xem phụ lục 8).
103
Từ các ý kiến thảo luận trong hội thảo và trả lời bảng câu hỏi, tác giả tính toán
trọng số cho mối tiêu chí và từ đí xác định số điểm chuẩn tối đa theo trọng số cho từng
tiêu chí cụ thể..
3.2.1.2 Nội dung và cách tính toán cho các tiêu chí
v Nội dung các tiêu chí
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL được xây dựng thành 2 hệ thống. Hệ
thống tiêu chí xác định sản phẩm hàng hóa chủ lực và Hệ thống xác định sản phẩm dịch
vụ chủ lực. Mỗi hệ thống lại có có 2 nhóm, nhóm tiêu chí định lượng và nhóm tiêu chí
định tính. Nhóm tiêu chí định lượng bao gồm các chỉ tiêu cần, tức các tiêu chí phản ảnh
sức mạnh cạnh tranh nội tại của sản phẩm, còn nhóm tiêu chí định tính bao gồm các chỉ
tiêu thể hiện điều kiện đủ, tức đòi hỏi xã hội đáp ứng để sản phẩm chủ lực phát triển. Nội
dung khái quát của các tiêu chí này đã được trình bày ở mục 1.2.1.4, Chương 1.
v Điểm chuẩn tối đa của hệ thống và điểm chuẩn tối đa cho từng tiêu chí
Điểm chuẩn tối đa của hệ thống được chia làm 2 nhóm, nhóm định lượng chọn
thang điểm 100 và nhóm định tính chọn thang điểm 20 (vì có ý nghĩa khuyến khích nên
chỉ chọn số điểm tối đa bằng 20% điểm chuẩn định lượng).
Điểm chuẩn tối đa cho mỗi tiêu chí là biểu thị mức độ đạt được của sản phẩm chủ
lực ĐBSCL đối với mỗi tiêu chí cụ thể. Đây là cơ sở để xem xét mức độ đạt được về mặt
định lượng của sản phẩm chủ lực đối với một yếu tố nào đó. Mỗi tiêu chí có mức độ quan
trọng khác nhau nên khi xây dựng thang điểm, tác giả đã sử dụng phương pháp chuyên gia
và sử dụng công thức tính điểm trọng số (1.11) để tính điểm chuẩn cho mỗi tiêu chí. (xem
phụ lục 9)
Sau đây, tác giả đề xuất xây dựng Hệ thống tiêu chí và phương pháp tính toán cụ
thể cho mỗi tiêu chí nhằm làm cơ sở đánh giá xét chọn và đề xuất Danh mục sản phẩm chủ
lực ĐBSCL đến năm 2020.
A. Nhóm tiêu chí định lượng
A1. Trường hợp sử dụng để đánh giá sản phẩm hàng hóa (sản phẩm hữu hình)
Sản phẩm hàng hóa là sản phẩm vật chất nên việc đánh giá định lượng khá dễ dàng,
do đó có thể áp dụng cả 10 chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh và lợi thế so sánh như đã
trình bày ở phần (1.2.1.4), Chương 1. Đồng thời, tổng số điểm chuẩn của 10 tiêu chí này là
100 điểm (dùng thang điểm 100 để tiện cho việc tính toán chi tiết). Điểm chuẩn tối đa cho
mỗi tiêu chí được tính theo công thức (3.1) và (3.2). Tuy nhiên, trọng số chỉ có giá trị xác
104
định tiêu chí nào quan trọng hơn tiêu chí nào (theo suy nghĩ của chuyên gia), còn việc xác
định mức điểm cụ thể tác giả tự điều phối cho phù hợp với điều kiện tính toán thực tế. Hệ
thống tiêu chí định lượng được trình bày trong bảng 3.1 dưới đây.
Bảng 3.1 Hệ thống tiêu chí định lượng dùng cho xác định hàng hóa chủ lưc
TT Tên/nội dung tiêu chí Ký hiệu
Điểm chuẩn tối đa (P t )
1 Tỷ trọng GTSL của sản phẩm so với toàn vùng R OV 10
2 Hệ số địa phương hóa của sản phẩm LQri 10
3 Tốc độ tăng trưởng bình quân của sản phẩm GRW 10
4 Hệ số vượt trội của sản phẩm CGrw 12
5 Tỷ trọng GTXK của sản phẩm so với toàn vùng REX 12
6 Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa RCA D 12
7 Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu quốc tế RCA W 8
8 Hệ số thương mại ròng NTR 10
9 Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu EPR 8
10 Hệ số chi phí nguồn lực trong nước DRC 8
Cộng điểm chuẩn chung (P) 100 Nguồn:Dựa vào nội dung lý thuyết ở 1.2.1.4 tác giả xây dựng và đề xuất
A2. Trường hợp xác định sản phẩm dịch vụ chủ lực (sản phẩm vô hình)
Hệ thống tiêu chí xác định dịch vụ chủ lực chỉ có 6 tiêu chí gồm các tiêu chí
1,2,3,4,5 và 6 (tác giả cho rằng tiêu chí 7,8,9 và 10 không phù hợp tính cho dịch vụ). Tổng
số điểm chuẩn tối đa vẫn là 100 điểm, cách tính như
Bảng 3.2 Hệ thống tiêu chí định lượng dùng cho xác định dịch vụ chủ lưc
TT Tên/nội dung tiêu chí Ký hiệu
Điểm chuẩn tối đa (Pt)
1 Tỷ trọng GTSX của sản phẩm so với toàn vùng R OV 18
2 Hệ số địa phương hóa của sản phẩm LQ ri 18
3 Tốc độ tăng trưởng bình quân của sản phẩm G rw 15
4 Hệ số vượt trội của sản phẩm C Grw 18
5 Tỷ trọng GTXK của dịch vụ REX 16
105
6 Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa RCA D 15
Cộng điểm chuẩn chung (P) 100 Nguồn:Dựa vào nội dung lý thuyết ở 1.2.1.4 tác giả xây dựng và đề xuất
Trong đó:
Tiêu chí 1 (R OV ): Là tỷ số so sánh giữa GTSX (hoặc GDP) của sản phẩm xem xét
với STSX (hoặc GDP) của toàn vùng công thức (1.1). Mức tỷ trọng chuẩn để tính điểm
tối đa cho tiêu chí là 10% (tỷ trọng trung bình của các loại sản phẩm được xem xét).
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 10 và tính cho dịch vụ là 18.
Thang điểm:
R OV (%) ≤ 1 >1 4 >4 7 >7 10 > 10 Điểm số hàng hóa 2 4 6 8 10 Điểm số dịch vụ 3,6 7,2 10,8 14,4 18
Tiêu chí 2 (LQir): Là tỷ số so sánh giữa ROV của sản phẩm đang xem xét của
ĐBSCL với R OV tương ứng của cả nướccông thức (1.2). Tiêu chí này phản ảnh mức độ
tập trung mang tính chuyên môn hóa của sản phẩm đang xem xét tại ĐBSCL so với mức
độ tập trung chuyên môn hóa đối với sản phẩm cùng loại trên cả nước. Mức hệ số chuẩn
để tính điểm tối đa là 1,5 (nồng độ cao gấp 1,5 lần trung bình cả nước)
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 10 và tính cho dịch vụ là 18
Thang điểm :
LQri ≤ 0,75 >0,75 1 >1 – 1,25 > 1,25 1,5 >1,5 Điểm số hàng hóa 2 4 6 8 10 Điểm số dịch vụ 3,6 7,2 10,8 14,4 18
Tiêu chí 3 (Grw). Là tỷ lệ so sánh mức tăng trưởng giữa năm trước và năm sau của
sản phẩm công thức (1.3). Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân càng cao chứng tỏ sản
phẩm đang xem xét của ĐBSCL càng có khả năng và triển vọng phát triển tốt. Mức tăng
trưởng chuẩn để tính điểm tối đa là 12% (tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn vùng)
106
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 10 và tính cho dịch vụ là 15
Thang điểm :
G RW (%) ≤ 3 >3 6 >6 – 9 > 9 12 >12 Điểm số hàng hóa 2 4 6 8 10 Điểm số dịch vụ 3 6 9 12 15
Tiêu chí 4 (C Grw ). Là tỷ số so sánh giữa tốc độ tăng trưởng (G RW ) của sản phẩm
xem xét với tốc độ tăng trưởng của ngành kinh tế mà sản phẩm xem xét đóng góp công
thức (1.4). Mức tăng trưởng vượt trội chuẩn để tính điểm tối đa cho tiêu chí là 1, 5 (sản
phẩm xem xét tăng nhanh hơn ngành 50%)
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 12 và tính cho dịch vụ là 18
Thang điểm :
C Grw ≤ 0,75 >0,75 1 >1 – 1,25 > 1,25 – 1,5 >1,5 Điểm số hàng hóa 2,4 4,8 7,2 9,6 12 Điểm số dịch vụ 3,6 7,2 10,8 14,4 18
Tiêu chí 5 (R EX ): Là tỷ số so sánh giữa giá trị (kim ngạch) xuất khẩu của sản
phẩm xem xét với giá trị xuất khẩu chung của toàn vùng công thức (1.5). Mức tỷ trọng
xuất khẩu chuẩn để tính điểm tối đa cho tiêu chí là 10% (tỷ trọng trung bình của các loại
sản phẩm xuất khẩu của vùng).
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 12 và tính cho dịch vụ là 16
Thang điểm :
REX (%) ≤ 2,5 >2,5 5 >5 7,5 >7,5 10 > 10 Điểm số hàng hóa 2,4 4,8 7,2 9,6 12 Điểm số dịch vụ 3,2 6,4 9,6 12,8 16
107
Tiêu chí 6 (RCA D ): Là tỷ số so sánh giữa tỷ trọng xuất khẩu (R EX ) hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ quốc tế của ĐBSCL với tỷ trọng xuất khẩu tương ứng trong cả nước
công thức (1.6). Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì ĐBSCL được coi là vùng có lợi thế cạnh
tranh về loại sản phẩm đó so với cả nước. Mức hệ số chuẩn để tính điểm tối đa cho tiêu
chí là 5 (hệ số trung bình của các loại sản phẩm so sánh).
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Điểm tối đa tính cho sản phẩm
hàng hóa là 12 và tính cho dịch vụ là 16
Thang điểm :
RCA D ≤ 2 >2 3 >3 4 >4 5 > 5 Điểm số hàng hóa 2,4 4,8 7,2 9,6 12 Điểm số dịch vụ 3 6 9 12 15
Tiêu chí 7 (RCA W ) : Là tỷ số so sánh giữa tỷ trọng xuất khẩu (R EX ) hàng hóa
cùng loại hàng hóa xem xét của ĐBSCL trên cả nước với tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa
tương ứng của thế giới công thức (1.7). Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì ĐBSCL được coi là
vùng có lợi thế cạnh tranh quốc tế về loại sản phẩm đang xem xét. Mức hệ số chuẩn để
tính điểm tối đa cho tiêu chí là 5 (hệ số trung bình của các loại sản phẩm so sánh).
Cách tính: Lấy số trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét đối chiếu
với thang điểm dưới đây để tính điểm thực tế cho tiêu chí. Tiêu chí này chỉ tính cho hàng
hóa chủ lực với điểm chuẩn tối đa là 8 điểm
Thang điểm :
RCA W ≤ 2 >2 3 >3 4 >4 5 > 5 Điểm số hàng hóa 1,6 3,2 4,8 6,4 8
Tiêu chí 8 (NTR): Là chỉ tiêu phản ảnh mối tương quan giữa xuất và nhập khẩu
của sản phẩm cùng loại với sản phẩm đang xét của ĐBSCL công thức (1.8). Mức hệ số
chuẩn để tính điểm tối đa cho tiêu chí là 0,5 (có nghĩa là giá trị xuất khẩu xem xét lớn hơn
1,5 lần giá trị nhập khẩu sản phẩm cùng loại).
Cách tính: Tính trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét hoặc kết
quả tính toán của cơ quan chức năng, đối chiếu với thang điểm dưới đây để tính điểm cho
tiêu chí. Tiêu chí này chỉ tính cho hàng hóa chủ lực với điểm chuẩn tối đa là 10 điểm.
108
Thang điểm :
NTR <0,25 0,25 – <0, 0 – <0,25 0,25 – <0,5 ≥0,50 Điểm số hàng hóa 2 4 6 8 10
Tiêu chí 9 (EPR): Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ trong nước đối với sản
phẩm chủ lực (cùng loại mà ĐBSCL đang xét) hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng
hóa chủ lực thông qua thuế quan, công thức (1.9). Mức chuẩn để tính điểm tối đa cho
tiêu chí là 30% (tương đương mức bảo hộ danh nghĩa bằng thuế quan cao nhất)
Cách tính: Tính trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét hoặc kết
quả tính toán của cơ quan chức năng, đối chiếu với thang điểm dưới đây để tính điểm cho
tiêu chí. Tiêu chí này chỉ tính cho hàng hóa chủ lực với điểm chuẩn tối đa là 8 điểm
Thang điểm :
EPR (%) ≤ 0 >0 – 10 >10 20 >20 – 30 > 30 Điểm số hàng hóa 1,6 3,2 4,8 6,4 8
10) Tiêu chí 10 (DRC): Là chỉ số được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành
hàng thông qua xem xét tính hiệu quả của nguồn lực trong nước được sử dụng để sản xuất
ra sản phẩm chủ lực ĐBSCL công thức (1.10). Mức chuẩn để tính điểm tối đa cho tiêu
chí này là 0,55 (tức tốn 0,55 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo ra được 1 đồng giá
trị giá tăng cho sản phẩm chủ lực)
Cách tính: Tính trung bình trong 5 năm gần nhất của sản phẩm xem xét hoặc kết
quả tính toán của cơ quan chức năng và đối chiếu với thang điểm dưới đây để tính điểm
cho tiêu chí. Tiêu chí này chỉ tính cho hàng hóa chủ lực với điểm chuẩn tối đa là 8 điểm
Thang điểm :
DRC ≥1 <1 – 0,85 <0,85 – 0,7 <0,7 – 0,55 <0,55 Điểm số hàng hóa 1,6 3,2 4,8 6,4 8
B. Nhóm tiêu chí định tính
Nhóm tiêu chí định tính gồm có 5 tiêu chí, là nhóm tiêu chí dùng để đánh giá một
sản phẩm chủ lực thông qua các yếu tố định tính. Đây là các yếu tố thuộc điều kiện cần,
đòi hỏi xã hội hỗ trợ đê sản phẩm chủ lực có điều kiện phát triển. Đồng thời, điểm số của
nhóm tiêu chí định tính còn có tác dụng khuyến khích đối với sản phẩm có điểm định
109
lượng thấp. Điểm chuẩn tối đa cho nhóm tiêu chí là 20 (bằng 20% điểm định lượng) và
được dùng để đánh giá cho cả hàng hóa chủ lực và dịch vụ chủ lực. Điểm chuẩn tối đa cho
mối tiêu chí cũng dựa trên cơ sở tính toán trọng số từ số liệu khảo sát ý kiến chuyên gia
theo công thức (3.1) và (3.2) như tiêu chí định lượng. Cụ thể như bảng dưới đây.
Bảng 3.3 Hệ thống tiêu chí định tính xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lưc
TT Tên/nội dung tiêu chí Điểm chuẩn tối đa (Pt)
Hàng hóa Dịch vụ
1 Qui mô thị trường 5 5
2 Ngành phụ trợ hoặc lợi thế đặc thù về nguồn lực 4 5
3 Mức lan tỏa đến hàng hóa, dịch vụ khác 3 4
4 An toàn và thân thiện với môi trường 5 3
5 Chính sách ưu đãi của địa phương 3 3
Cộng điểm chuẩn chung (P) 20 20 Nguồn: tác giả xây dựng và đề xuất
Trong đó:
Tiêu chí 1. Khuyến khích đối với hàng hóa, dịch vụ có phạm vi thị trường tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ rộng lớn, đa dạng. Chỉ tiêu này được đánh giá dựa trên
phạm vi thị trường nội địa, khu vực hay toàn cầu.
Cách tính: Dựa vào các báo cáo chuyên ngành, ý kiến của chuyên gia hoặc kết
quả khảo sát thực tế để xác định phạm vi tiêu thụ hàng hóa theo 4 mức độ: thị trường nội
địa ; thị trường khu vực (ASEAN) ; thị trường châu lục (Châu Á) và thị trường toàn cầu
(có mặt trên nhiều châu lục). Đối với hàng hóa điểm tối đa là 5 điểm và dịch vụ 5 điểm.
Thang điểm :
Thị trường Nội địa Khu vực Châu lục Toàn cầu
Điểm cho hàng hóa 1,25 2,50 3,75 5
Điểm cho dịch vụ 1,25 2,50 3,75 5
Tiêu chí 2. Khuyến khích đối với hàng hóa, dịch vụ có nhiều nguồn lực đặc thù so
với các địa phương khác trong nước hoặc có nhiều ngành sản xuất khác bổ trợ, tạo điều
kiện thuận lợi để sản phẩm chủ lực phát triển hoặc kinh doanh hiệu quả hơn.
110
Cách tính: Dựa vào các báo cáo chuyên ngành, ý kiến chuyên gia hoặc kết quả
khảo sát thực tế để xác định mức độ đảm bảo điều kiện sản xuất kinh doanh cho hàng hóa,
dịch vụ thông qua các yếu tố về ngành nghề phụ trợ hoặc lợi thế đặc thù về nguồn lực. Đối
với hàng hóa điểm tối đa là 4 điểm và dịch vụ 5 điểm.
Thang điểm :
Mức độ đảm bảo Thấp Trung bình Tốt Rất tốt
Điểm cho hàng hóa 1 2 3 4
Điểm cho dịch vụ 1,25 2,50 3,75 5
Tiêu chí 3. Khuyến khích đối với hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng lớn đến các
ngành nghề khác hoặc tạo điều kiện để các ngành nghề khác, đặc biệt ngành sản phẩm chủ
lực phát triển hoặc kinh doanh hiệu quả hơn.
Cách tính: Dựa vào các báo cáo chuyên ngành, ý kiến chuyên gia hoặc kết quả
khảo sát thực tế để xác định mức độ tác động đến hàng hóa, dịch vụ khác. Điểm tối đa
hàng hóa 3 điểm dịch vụ 4 điểm.
Thang điểm :
Phạm vi tác động Hẹp Trung bình Rộng Rất rộng
Điểm cho hàng hóa 0,75 1,50 2,25 3
Điểm cho dịch vụ 1 2 3 4
Tiêu chí 4. Khuyến khích đối với hàng hóa, dịch vụ đảm bảo an toàn trong sản
xuất cũng như sử dụng, không gây hại đến môi trường tự nhiên và xã hội.
Cách tính: Dựa vào các báo cáo chuyên ngành, ý kiến chuyên gia hoặc kết quả
khảo sát thực tế để xác định mức độ nguy cơ mất an toàn và ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường. Đối với hàng hóa điểm tối đa 5 điểm và dịch vụ 3 điểm.
Thang điểm :
Mức độ an toàn Thấp Trung bình Cao Rất cao
Điểm cho hàng hóa 1,25 2,50 3,75 5
Điểm cho hàng hóa 0,75 1,50 2,25 3
111
Tiêu chí 5. Khuyến khích đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện được địa phương
khuyến khích phát triển với nhiều chính sách ưu đãi hơn so với mặt bằng ưu đãi chung của
cả nước.
Cách tính: Dựa vào các báo cáo về chủ trương, chính sách của địa phương, ý kiến
chuyên gia hoặc kết quả khảo sát thực tế để xác định mức độ ưu đãi của địa phương cho
ngành hàng hoặc dịch vụ đang xét. Đối với hàng hóa điểm tối đa 3 điểm, dịch vụ 3 điểm.
Thang điểm :
Mức độ ưu đãi Thấp Bình thường Cao Đặc biệt
Điểm cho hàng hóa 0,75 1,50 2,25 3
Điểm cho dịch vụ 0,75 1,50 2,25 3
3.2.1.3 Điều kiện xét công nhận hàng hóa chủ lực
Sản phẩm chủ lực của ĐBSCL phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
1) Trường hợp công nhận sản phẩm chủ lực
Sản phẩm phải có tổng số điểm chuẩn đạt tối thiểu 70 điểm trở lên. Trong đó, điểm
chuẩn tiêu chí định lượng phải đạt tối thiểu 50 điểm (từ trung bình trở lên). Như vậy, trong
trường hợp này điểm chuẩn của các tiêu chí định tính phải đủ 20 điểm (tức có sự khuyến
khích cao độ). Trong trường hợp tổng số điểm chuẩn của tiêu chí định lượng đạt lớn hơn
50 điểm thì điểm chuẩn định tính không nhất thiết phải đủ 20 điểm nhưng không được
dưới 10 điểm (bình quân mỗi tiêu chí phải có 2 điểm khuyến khích).
2) Trường hợp bổ sung hoàn thiện
Trường hợp sản phẩm không đủ điều kiện công nhận là sản phẩm chủ lực như trên
nhưng lại thuộc 1 trong 2 trường hơp sau đây có thể chuyển sang diện tăng cường hỗ trợ
để sản phẩm có thể trở thành sản phẩm chủ lực trong tương lai:
Có tổng số điểm chuẩn chung đủ 70 điểm trở lên nhưng tiêu chí định tính dưới 10
điểm (không đủ bình quân 2 điểm trên tiêu chí).
Có tổng điểm chuẩn tiêu chí định tính đủ 20 điểm nhưng tổng số điểm chuẩn
chung dưới 70 và điểm chuẩn định lượng không dưới 45 điểm.
3) Trường hợp không công nhận sản phẩm chủ lực
Hàng hóa, dịch vụ sẽ không được công nhận là sản phẩm chủ lực ĐBSCL nếu
không nằm trong các trường hợp nêu trên.
4) Trường hợp ngoại lệ
112
Trong trường hợp đặc biệt, có thể xem xét và công nhận sản phẩm chủ lực của
ĐBSCL trong một kỳ nào đó mà không nhất thiết phải áp dụng đầy đủ các tiêu chí trong
Hệ thống tiêu chí, có thể kết hợp hoặc thay thế bằng các yếu tố đặc thù khác.
3.2.2 Xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 1010
Dựa vào Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL, tác giả xác định
danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng trong thời gian qua như sau.
3.2.2.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế có liên quan của ĐBSCL
Để làm cơ sở tính toán các tiêu chí, cần tập hợp các chỉ tiêu kinh tế có liên quan đã
phân tích trong Chương 2 như sau:
1) Chỉ tiêu giá trị sản xuất ĐBSCL
Bảng 3.4 Chỉ tiêu giá trị sản xuất ĐBSCL giai đoạn 2006 2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Ngành/ Sản phẩm
2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%) 2
ROV GRW
GTSX Vùng 218.097,7 250.679,9 289.093,7 308.611,4 350.419,6 // 12,57 Ngành nông nghiệp
GTSX NN 55.277,0 57.453,7 61.759,2 64.791,7 66.796,9 21,75 4,85
1. Lúa gạo 28.852,3 30.765,8 33.137,7 31.559,6 35.309,2 11,34 5,18
2. Trái cây 6.186,5 6.431,5 7.115,3 6.587,8 6.939,6 2,36 2,92
3. Dừa 667,8 702,3 747,5 811,9 838,3 0,27 5,84
4. Gia súc 4.924,1 4.823,6 5.758,2 6.055,4 5.688,4 1,94 3,67
5. Gia cầm 1.388,9 1.607,9 2.467,7 3.119,5 3.486,5 0,86 25,87
Ngành thủy sản GTSX TS 31.351,6 36.973,4 40.013,2 42.114,4 45.024,8 13,89 9,47
1. Cá nuôi 4.175,7 5.754,8 7.200,9 7.828,2 8.222,9 2,36 18,46
2. Tôm nuôi 3.023,2 3.254,3 3.377,6 3.530,4 3.782,7 1,13 5,76
3. Cá đánh bắt 6.193,3 7.000,3 8.727,9 10.348,1 10.207,1 3,02 13,34
Ngành công nghiệp (chế biến) GTSX CNCB 61.020,9 76.750,7 93.164,2 105.673,7 134.592,3 33,49 21,86
1. TP chế biến 34.642,6 49.329,2 59.699,1 65.831,1 70.144,3 19,74 19,30 2. May mặc 572,3 859,7 1.176,7 1.334,1 1.635,7 0,40 30,02
2 Tính trung bình giai đoạn 2006 2010
113
3. SP từ gỗ, tre 1.082,7 1.488,2 1.694,0 2.358,1 2.588,9 0,65 24,30 Ngành du lịch và dịch vụ vận tải
GTSXTMDV 34.378,6 41.522,6 47.464,9 55.757,0 65.497,8 17,39 17,47
1. Du lịch 3 1.723,7 1.902,0 2.475,8 3.046,1 3.957,3 1,08 23,09 2. Vận tải 11.491,0 12.410,8 15.319,2 20.502,1 23.426,4 2,83 19,48
Nguồn: Tổng hợp từ (2.2.2 ), Chương 2
Số liệu trình bày trong bảng 3.4 trên đây được trích ra từ kết quả phân tích tại mục
2.2.2, Chương 2. Tuy có nhiều, nhưng tác giả chỉ chọn ra 13 sản phẩm tiêu biểu của 4
ngành kinh tế quan trọng của ĐBSCL để xem xét theo các tiêu chí đã được xây dựng.
Trong đó, nông nghiệp có 5 sản phẩm và nhóm sản phẩm (xin gọi chung là sản phẩm);
thủy sản có 3 sản phẩm; ngành công nghiệp có 3 sản phẩm và du lịch, vận tải có 2 sản
phẩm. Tiêu chí lựa chọn ở bước này chủ yếu dựa vào tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của
sản phẩm. Sản phẩm được chọn để xem xét phải có tỷ trọng không dưới 0,2% và tốc độ
tăng trưởng dương (>0).
2) Chỉ tiêu xuất khẩu ĐBSCL
Bảng 3.5 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng quan trọng ĐBSCL 2006 – 2010
Đơn vị tính: 1000USD
Loại sản phẩm 2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%)
REX GRW 4
KNXK ĐBSCL 3.571.769 4.211.646 5.702.609 5.877.720 6.990.655 // 18,28
Gạo 774.296 723.195 1.432.515 1.396.173 1.421.759 21,81 16,40 Rau quả 794.795 824.204 854.700 915.831 989.100 16,13 5,61
Sản phẩm từ dừa 56.000 55.500 54.980 59.782 61.088 1,12 2,20 Cá đông lạnh 416.413 641.121 1.292.618 930.856 1.017.109 16,31 25,01 Tôm đông lạnh 981.794 1.127.636 1.184.488 1.046.107 1.215.554 21,08 5,48 Thực phẩm CB 131.792 164.117 303.444 231.178 272.766 4,19 19,95 May mặc 228.183 238.987 357.782 376.310 536.001 6,59 23,80 Đan, lát mỹ nghệ 13.380 24.231 27.015 33.417 30.953 0,92 23,32 Du lịch 5 7.16,9 1.569,2 1.054,8 1.033,6 1.300 12,83 16,00
3 Du lịch được tính bằng doanh thu và so sánh với GDP 4 Tăng trưởng trong xuất khẩu 5 Được tính bằng số lượt khách quốc tế được phụ vụ so với tổng sô khách du lịch đến ĐBSCL
114
Vận tải quốc tế 6 3.001 3.638 4.029 6.287 4.622 5,50 11,40
Nguồn: Tổng hợp từ (2.2.2 ), Chương 2
Trong bảng 3.5 có 8 sản phẩm tham gia xuất khẩu và 2 ngành dịch vụ có cung ứng
sản phẩm cho khác quốc tế . Đứng đầu tỷ trọng xuất khẩu trong vùng là gạo, kế đến là tôm
cá, rau quả. Đứng đầu tăng trưởng trong xuất khẩu của vùng là cá đông lạnh, thứ đến là
may mặc, thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến...
3.2.2.2 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế tương ứng của cả nước
Để làm cơ sở so sánh, tính toán các chỉ tiêu trong Hệ thống tiêu chí định lượng,
Luận án đã tổng hợp, tính toán được các chỉ tiêu kinh tế tương ứng của cả nước như sau:
1) Chỉ tiêu giá trị sản xuất tương ứng của cả nước
Bảng 3.6 Chỉ tiêu kinh tế tương ứng của cả nước giai đoạn 2006 2010
Đơn vị tính: tỷ đồng
Ngành/ Sản phẩm
2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%)
R OV G RW
Tổng GTSX 853.282,4 973.501,7 1.106.082,1 1.198.846,6 1.353.714,4 12,22
Ngành nông nghiệp
GTSX NN 142.642,6 147.764,7 158.108,3 162.593,1 169.503,2 14,23 4,41
1. Lúa gạo 48.767.3 58.674,6 63.112,9 62.963,5 64758.6 5,44 7,35
2. Trái cây 8.005,6 8.789,0 9.378,3 9.676,1 9.908,7 0,83 5,48
3. Dừa 7 954,0 1.003,0 1.068,0 1.160,0 1.197,0 0,10 5,84
4. Gia súc 20.164,8 20.920,5 21.866,5 23.912,2 23.917,1 2,02 4,35
5. Gia cầm 3.619,3 3.781,6 4.695,5 5.539,0 6.717,5 0,44 16,72
Ngành thủy sản
GTSX TS 42.104,0 47.014,1 50.081,9 53.654,2 56.965,6 4,55 7,85
1. Cá nuôi 11.667,5 15.236,5 18.080,0 19.053,1 19.972,6 1,53 14,39
2. Tôm nuôi 14.298,8 15.291,8 15.073,3 16.285,6 17.478,9 1,43 5,14
3.Cá đánh bắt 11.120,2 11.387,7 11.694,0 12.637,7 13.464,7 1,10 4,90
Ngành công nghiệp chế biến
GTSX CNCB 417.813.2 497.615.5 573.681.0 620.341.2 722.222.2 51,52 14,65
1.TP chế biến 89.135.6 105.180.0 121.136.1 130.374.2 154.314.7 10,94 14,70
6 Được tính bằng khối lượng hàng hóa vận chuyển quốc tế so với tổng khối lượng vận chuyển của ĐBSCL 7 Ước tính từ tỉ lệ khoảng 70% của ĐBSCL theo các nguồn thống kê
115
2. May mặc 18.004.5 22.775.7 27.205.7 29.145.6 32.768.4 2,37 16,15
3. Mỹ nghệ 8 .. 10.134.2 10.934.8 12.257.1 13.681.3 15.684.3 1,14 11,54
Ngành du lịch và dịch vụ vận tải
GTSXTMDV 176.298,4 204.671,5 244.752,9 274.372,3 311.135,2 22,08 15,26
1. Du lịch 16.732,0 22.280,1 26.745,4 28.652,8 34.276,9 2,34 19,63
2. DV, vận tải 21.087,8 24.714,7 27.697,9 31.001,2 34.470,7 2,53 13,08
Nguồn: Tổng cục thống kê
2) Chỉ tiêu xuất khẩu cả nước
Bảng 3.7 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng quan trọng cả nước 2006 – 2010
Đơn vị tính: 1000USD
Loại sản phẩm 2006 2007 2008 2009 2010 So sánh (%) R EX G RW
KNXK cả nước 39.826.200 48.561.400 62.685.100 57.096.300 72.191.900 16,03
Gạo 1.238.553 1.347.531 2.581.519 2.428.958 2.901.669 3,74 23,72
Rau quả 259.100 305.600 406.500 438,900 450.500 0,66 14,83
SP từ dừa 70.000 69.375 68.725 747.275 76.360 0,37 2,20 Cá đông lạnh 1.083.400 1.379.100 1.968.700 1.766.900 1.996.700 2,92 13,00
Tôm đông lạnh 1.262.800 1.387.600 1.315.600 1.293.300 1.301.000 2,34 0,60
Thực phẩm CB 151.200 194.100 258.600 276.200 326.100 0,43 21,18
May mặc 5.854.800 7.732.000 9.120.500 9.065.600 11.209.700 15,33 17,63
Đan,lát mỹ nghệ 214.100 246.700 199.600 22.100 203.100 0,31 1,27
Du lịch 7.746,4 9.919,5 8.765,5 8.337,7 9.097,2 19,87 4,09
Vận tải quốc tế 25.042,1 29.516,7 33.849,0 40.863,8 48.354,3 5,41 17,86 Nguồn: Tổng cục thống kê
Thông qua số liệu trong các bảng 3.4, 3.5, 3.6 và 3.7 cho thấy, nông nghiệp và thủy
sản là 2 ngành thế mạnh của ĐBSCL với tỷ trọng lần lượt là 21,75% và 13,89% toàn
vùng, trong khi đối với cả nước con số này chỉ là 14,23% và 4,55%. Các sản phẩm dẫn
đầu không những toàn vùng mà còn dẫn đầu cả nước là lúa gạo, trái cây, cá nuôi, tôm
nuôi...Ngược lại, ĐBSCL kém cả nước về công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Nếu công
nghiệp cả nước chiếm đến 51,52% và thương mại dịch vụ chiếm 22,08% thì đối với
ĐBSCL con số tương ứng là 33,49% và 17,39%. Tương tự, về xuất khẩu ĐBSCL cũng
8 Sản phẩm chế biến từ gỗ, tre, mây, lát (thủ công mỹ nghệ)
116
chiếm ưu thế trong xuất khẩu gạo, thủy sản, hàng thủ công mỹ nghệ nhưng lại kèm về các
loại hàng hóa công nghiệp. Vấn đề này cũng có nghĩa, việc xác định và phát triển sản
phẩm chủ lực ĐBSCL không thể không tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản.
3.2.2.3 Tổng hợp đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực ĐBSCL 2006 2010
A. Xét tiêu chí định lượng
1) Mức độ đạt được của các chỉ tiêu định lượng
Từ dữ liệu ở các bảng 3.4, 3.5, 3.6 và 3.7, có thể tính được kết quả của các tiêu chí
định lượng như trong bảng dưới đây.
Bảng 3.8 Trị số các tiêu chí của sản phẩm điển hình ĐBSCL giai đoạn 2006 2010
Sản phẩm TC1 TC2 TC3 TC4 TC5 TC6 TC7 9 TC8 TC9 TC10 Lúa gạo 11,34 2,08 5,18 1,07 21,81 5,83 6,75 0,99 6,1 0,31
Trái cây 2,36 2,84 2,92 0,60 16,13 24,44 1,71 0,68 5,0 0,51
Dừa 0,27 2,70 5,84 1,20 1,12 3,03 1,49 0,99 5,0 0,47
Gia súc 1,94 0,96 3,67 0,76 0 0 7,30 0,22 13,0 0,51
Gia cầm 0,86 1,95 25,87 5,55 0 0 7,30 0,22 13,0 0,51
Cá nuôi 2,36 1,54 18,46 1,95 16,31 5,58 7,30 0,95 29,9 0,51
Tôm nuôi 1,13 0,79 5,76 0,61 21,08 9,01 7,30 0,95 29,9 0,51
Cá đánh bắt 3,02 2,74 13,34 1,41 0 0 7,30 0,95 29,9 0,51
TP chế biến 19,74 1,80 19,30 0,88 4,19 9,74 1,00 0,66 2,1 0,78
May mặc 0,40 0,17 30,02 1,37 6,59 0,43 5,43 0,69 1,25 0,78
SP gỗ, tre.. 0,65 0,57 24,30 1,11 0,92 2,97 22,46 0,33 20,7 0,78
Du lịch 1,08 0,46 23,09 1,44 10 12,83 0,65 // // // //
DV, vận tải 2,83 1,12 19,48 1,22 5,50 1,02 // // // // Nguồn:Kết quả tính toán theo công thức (1) đến(6) và tổng hợp từ nhiều nguồn
TC1: Tỷ trọng sản phẩm so với toàn vùng (chủ yếu tính bằng GTSX). Theo như
trên bảng 3.8, thực phẩm chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất (19,74%), kế đến là lúa gạo
(11,34%) và thấp nhất là dừa và sản phẩm từ dừa chỉ chiếm 0,27%.
TC2: Hệ số địa phương hóa. Theo kết quả tính toán được, mức độ tập trung cao
nhất là trái cây (2,84 lần tỷ trọng cả nước), kế đó là đánh bắt thủy sản (2,74), đến dừa (2,7
9 Từ tiêu chí 7 đến tiêu chí 10, kết quả trích từ các báo cáo và bài viết đăng tải trên online 10 Tăng trưởng bình quân ngành thương mại, dịch vụ và du lịch là 16%/năm (các nguồn thống kê)
117
lần), lúa gạo (2,08 lần), gia cầm (1,95 lần); mức độ tập trung thấp hơn cả (tức <1) là chăn
nuôi gia súc, tôm nuôi, thủ công mỹ nghệ, du lịch và may mặc.
TC3: Tốc độ tăng trưởng hàng năm. Kết quả cho thấy, tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2006 – 2010 cao hơn bình quân toàn vùng (12%) gồm: chăn nuôi gia cầm,
nuôi cá, đánh bắt thủy sản, thực phẩm chế biến, may mặc, thủ công mỹ nghệ, du lịch và
vận tải, trong đó may mặc có tốc độ tăng trưởng cao nhất là trên 30%.
TC4: Hệ số tăng trưởng vượt trội. Nếu so với ngành mà sản phẩm đóng góp thì trừ
trái cây, gia súc, tôm nuôi và thực phẩm chế biến thì 9 sản phẩm còn lại có tốc độ tăng
nhanh hơn (tức >1), có ưu thế phát triển trong ngành.
TC5: Tỷ trọng xuất khẩu so với toàn vùng (tính bằng kim ngạch, trừ du lịch tính
bằng lượng khách quốc tế và vận tải tính bằng khối lượng hàng hóa vận chuyên quốc tế).
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cao nhất vẫn là lúa gạo, tôm đông lạnh, cá đông lạnh, trái
cây. Riêng gia súc, gia cầm và cá đánh bắt của vùng không có xuất khẩu (hoặc không có
số liệu về xuất khẩu).
TC6: Hệ số lợi thế so sánh biểu hiện (trông thấy) trong nước. Theo kết quả tính
được, có lợi thế cao nhất so với cả nước là trái cây (24,44), kế đến là thực phẩm chế biến
và tôm nuôi. Lợi thế so sánh thấp hơn sản phẩm cùng loại trong cả nước là may mặc và du
lịch (<1). Chăn nuôi gia, súc gia cầm và đánh bắt thủy sản không so sánh được vì không
có số liệu xuất khẩu.
TC7: Hệ số lợi thế so sánh biểu hiện (trông thấy) quốc tế (dựa vào kết quả do các
cơ quan chức năng và tổ chức nghiên cứu công bố trên các báo online đến năm 2007).
Nhìn chung, hầu hết sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam (có ĐBSCL) đều có RCA W > 1
(trừ thực phẩm chế biến RCAW =1), tức những sản phẩm này có lợi thế so sánh hơn so với
sản phẩm xuất khẩu cùng loại trên thế giới. Trong đó lợi thế nổi trội nhất là sản phẩm thủ
công mỹ nghệ (gỗ, mây, tre, nứa...) với RCAW = 22,46.
TC8: Hệ số thương mại ròng (dựa vào kết quả do các cơ quan chức năng và tổ chức
nghiên cứu công bố trên các báo online đến năm 2007). Theo kết quả có được thì hầu hết
sản phẩm đều có lợi thế cạnh tranh với hàng ngoại nhập trên thị trường trong nước vì giá
trị xuất khẩu luôn lớn hơn giá trị nhập khẩu (NTR > 0), trong đó lúa gạo, dừa và thủy sản
có lợi thế cạnh tranh gần như tuyệt đối với NTR = 0,99 (gần bằng 1).
TC9: Tỷ lệ bảo hộ hiệu dụng (dựa vào kết quả do các cơ quan chức năng và tổ chức
nghiên cứu công bố trên các báo online đến năm 2007). Trừ may mặc và sản phẩm thủ
118
công mỹ nghệ không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước nhưng có lợi thế
cạnh tranh trong xuất khẩu vì EPR < 0, còn lại đều có lợi thế cạnh tranh và tỷ lệ bảo hộ
khá cao, trong đó nhóm sản phẩm thủy sản có tỷ lệ bảo hộ cao nhất với EPR gần 30%
TC10: Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (dựa vào kết quả do các cơ quan chức
năng và tổ chức nghiên cứu công bố trên các báo online đến năm 2007). Nhìn chung, hầu
hết sản phẩm nêu trên đều đạt được hiệu quả vì để tạo ra được 1 đơn vị giá trị gia tăng
(theo giá thế giới) chỉ phải tốn ít hơn 1 đơn vị giá trị yếu tố chi phí nguồn lực (theo giá
trong nước), hay DRC < 1. Trong đó, lúa gạo và dừa là hiệu quả nhất vì DRC < 0,5, nhóm
sản phẩm ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít hiệu quả hơn vì DRC gần bằng 1
2) Điểm số định lượng dựa trên trị số đạt được
Đối chiếu với thang điểm để tính điểm cho các tiêu chí định lượng, kết quả có được
như trong bảng dưới đây.
Bảng 3.9 Điểm số các tiêu chí của sản phẩm điển hình ĐBSCL giai đoạn 2006 2010
Sản phẩm TC 1 TC 2 TC 3 TC 4 TC 5 TC 6 TC 7 TC 8 TC 9 TC 10 + Lúa gạo 10 10 4 7,2 12 12 8 10 3,2 8 84,4
Trái cây 4 10 2 2,4 12 12 1,6 10 3,2 8 65,2
Dừa 2 10 4 7,2 2,4 3,4 1,6 10 3,2 8 51,8
Gia súc 4 4 4 4,8 0 0 8 6 3,2 8 42,0
Gia cầm 2 10 10 12 0 0 8 6 3,2 8 59,2
Cá nuôi 4 10 10 12 12 12 8 10 6,4 8 92,4
Tôm nuôi 4 4 4 2,4 12 12 8 10 6,4 8 70,8
Cá đánh bắt 4 10 10 9,6 0 0 8 10 6,4 8 66,0
TP chế biến 10 10 10 4,8 4,8 12 1,6 10 3,2 4,8 71,2
May mặc 2 2 10 9,6 7,2 2,4 8 10 1,6 4,8 60,4
SP gỗ, tre.. 2 2 10 7,2 2,4 4,8 8 8 1,6 4,8 50,8
Du lịch 7,2 3,6 15 14,4 12 3 // // // // 55,2
DV, vận tải 7,2 10,8 15 10,8 9,6 3 // // // // 56,4 Nguồn: Kết quả ở bảng 3.8 và nội dung hướng dẫn ở mục 3.1.1.2
Theo kết quả tính được trong bảng 3.9 cho thấy, trong số 13 sản phẩm và nhóm sản
phẩm tiêu biểu được chọn để xem xét có 1 sản phẩm không đủ điều kiện điểm chuẩn tôi
thiểu của tiêu chí định lượng, đó là gia súc (trâu, bà, heo, dê). Sản phẩm này chỉ đạt 42,0
điểm < 45 điểm, theo qui định sẽ không được công nhận là sản phẩm chủ lực và cũng
119
không được xem xét hỗ trợ để phát triển thành sản phẩm chủ lực mặc dù chưa xem xét đến
điểm định tính (vì nếu điểm định tính đạt tối đa 20 điểm thì tổng điểm chung cũng chỉ đạt
62,0 điểm mà thôi, dưới điểm chuẩn chung là 70). Còn lại 12 sản phẩm có điểm định
lượng cao hơn 50 điểm nên được tiếp tục xem xét tiếp điểm định tính.
B. Xét tiêu chí định tính
Trong luận án này, cơ sở để xem xét, đánh giá các tiêu chí định tính là các báo cáo
nghiên cứu, nhận định của chuyên gia và thông tin từ các ngành chức năng đã được công
bố bằng văn bản hoặc đăng tải trên các báo điện tử đến năm 2011. Kết quả cho thấy, mức
độ đạt được và điểm số của các tiêu chí được thể hiện trong các bảng dưới đây.
1) Mức độ đạt được của các chỉ tiêu định tính
Bảng 3.10 Mức độ đạt được đối với tiêu chí định tính 11
Sản phẩm TC1 TC2 TC3 TC4 TC5
Lúa gạo Châu lục Tốt Trung bình Rất cao Cao
Trái cây Châu lục Tốt Rộng Rất cao Cao
Dừa Khu vực Tốt Rộng Rất cao Cao
Gia cầm Nội địa Trung bình Trung bình Cao Cao
Cá nuôi Châu lục Trung bình Trung bình Cao Cao
Tôm nuôi Châu lục Trung bình Trung bình Cao Cao
Cá đánh bắt Nội địa Trung bình Trung bình Rất cao Cao
TP chế biến Khu vực Rất tốt Rất rộng Cao Cao
May mặc Châu lục Tốt Trung bình Rất cao Cao
Mỹ nghệ Khu vực Rất tốt Trung bình Rất cao Cao
Du lịch Châu lục Rất tốt Rộng Rất cao Cao DV, vận tải Khu vực Rất tốt Rất rộng Rất cao Cao
Nguồn: Tổng hợp từ các nguôn
Theo kết quả trình bày trình bày trong bảng 3.9 thì:
TC1: Qui mô thị trường hàng hóa hoặc phạm vi cung ứng dịch vụ. Lúa gạo, trái
cây, thủy sản may mặc và du lịch là những sản phẩm có qui mô thị trường tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ lớn nhất. Vì ngoài thị trường nội địa, các sản phẩm này còn
tiêu thụ rộng rải ở thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu hoặc cung cấp dịch vụ cho
khách hàng quốc tế trên nhiều châu lục.
11 Tham khảo các tài liệu, bài viết đă2ng trên báo điện tử
120
TC2: Có ngành công nghiệp, dịch vụ bổ trợ hoặc khai thác lợi thế đặc thù của
vùng. Sản phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, du lịch và vận tải (thủy) là những sản phẩm
vừa có ngành sản xuất và dịch vụ bổ trợ tốt vừa có nguồn nguyên liệu hoặc tài nguyên, hạ
tầng là lợi thế đặc thù của ĐBSCL nên đạt cấp độ cao nhất; kế đến là nhóm sản phẩm của
ngành trồng trọt và may mặc chỉ khai thức được nguồn lực tại chỗ, ngành công nghiệp và
dịch vụ bổ trợ thiếu nên đạt ở mức cao thứ hai; còn lại đạt mức trung bình.
TC3: Sức lan tỏa đến các ngành, sản phẩm khác. Thực phẩm chế biến và vận tải có
ảnh hưởng đến nhiều ngành nghề và sản phẩm khác nhất nên đạt mức cao nhất; kế đến là
trái cây, dừa và du lịch đạt mức thấp hơn, sau cùng là lúa gạo, nhóm sản phẩm của ngành
thủy sản, may mặc và thủ công mỹ nghệ.
TC4: Hầu hết sản phẩm trên đây khi sản xuất đều đảm bảo sự an toàn cho người
sản xuất, người sử dụng và môi trường nên đều có mức khuyến khách cao, trong đó các
nhóm sản phẩm thuộc ngành trồng trọt, đánh bắt thủy sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ, du
lịch và vận tải đạt mức khuyến khích cao nhất.
TC5: Ưu đãi của Nhà nước (địa phương). Các sản phẩm đều nằm trong diện ưu đãi
cao của địa phương.
2) Điểm số đạt được của các chỉ tiêu định tính
Bảng 3.11 Điểm số các tiêu chí định tính
Sản phẩm TC 1 TC 2 TC 3 TC 4 TC 5 Cộng Lúa gạo 3,75 3 1,50 5 2,25 15,50
Trái cây 3,73 3 2,25 5 2,25 16,25
Dừa 2,50 3 2,25 5 2,25 15,00
Gia cầm 1,25 2 1,50 3,75 2,25 10,75
Cá nuôi 3,75 2 1,50 3,75 2,25 13,25
Tôm nuôi 2,50 2 1,50 3,75 2,25 11,50
Cá đánh bắt 1,25 2 1,50 5 2,25 12,00
TP chế biến 2,50 4 3 3,75 2,25 16,00
May mặc 3,75 3 1,50 5 2,25 15,50
Mỹ nghệ 2,50 4 1,50 5 2,25 15,25
Du lịch 3,75 5 3 3 2,25 17,00
DV, vận tải 2,50 5 4 3 2,25 16,75 Nguồn: Kết quả ở bảng 3.10 và nội dung hướng dẫn ở mục 3.1.1.2
121
C. Kết quả tổng hợp
Từ kết quả tính toán được ở 2 bảng 3.9 và 3.10, có thể tổng hợp để xác định kết quả
chung của hai nhóm tiêu chí, định tính và định lượng, để xác định các loại sản phẩm hoặc
ngành sản phẩm đủ điều kiện công nhận là sản phẩm chủ lực của ĐBSCL giai đoạn 2006 –
2010. Trong bảng trình bày dưới đây sẽ cho thấy những sản phẩm nào đủ chuẩn công nhận
sản phẩm chủ lực, sản phẩm nào bị loại và sản phẩm nào cần xem xét hỗ trợ để phát triển
thành sản phẩm chủ lực trong tương lai do thiếu điểm chuẩn tối thiểu (70) nhưng chưa đến
mức loại bỏ hoàn toàn, tương lai cần điều chỉnh, cải thiện để phát triển tốt hơn.
Bảng 3.12 Kết quả điểm số chung
Sản phẩm/Nhóm sản phẩm
Điểm chung đạt được Kết quả Định lượng Định tính Cộng Nhận Loại
Lúa gạo 84,40 15,50 99,90 x
Trái cây 65,20 16,25 81,45 x
Dừa, SP từ dừa 51,80 15,00 66,80 x
Gia cầm 59,20 10,75 69,95 x
Cá nuôi 92,40 13,25 105,65 x
Tôm nuôi 70,80 11,50 82,30 x
Cá đánh bắt 66,00 12,00 78,00 x
TP chế biến 71,20 16,00 87,20 x
May mặc 60,40 15,50 75,90 x
Tre, may mỹ nghệ 50,80 15,25 66,05 x
Du lịch 55,20 17,00 72,20 x
DV, vận tải 56,40 16,75 73,15 x Nguồn: Tổng hợp từ bảng 3.9 và 3.10
D. Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010
Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2007 là danh mục các sản
phẩm/ngành sản phẩm đạt được điểm số theo qui định xét công nhận sản phẩm chủ lực đã
đưa ra tại mục 3.1.1.3.
Thực tế, những sản phẩm/ngành sản phẩm được xét chọn trong Danh mục sản
phẩm chủ lực này đã có sự đóng góp quan trọng vào thành quả phát triển kinh tế xã hội
chung của ĐBSCL thời gian qua mà tập trung nhất là giai đoạn 2006 – 2007. Những sản
122
phẩm này đã thể hiện đúng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh cốt lõi cũng như mang tính
đặc thù của vùng. Cụ thể, gồm có 9 sản phẩm của 4 ngành sau:
Ngành nông nghiệp có 2 sản phẩm: lúa gạo và trái cây;
Ngành thủy sản có 3 sản phẩm: cá nuôi, tôm nuôi và cá đánh bắt (khai thác biển);
Ngành công nghiệp có 2 sản phẩm: thực phẩm chế biến và may mặc;
Ngành du lịch, dịch vụ có 2 sản phẩm: du lịch và vận tải (đường thủy).
Thành tích về số lượng, giá trị, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2006
– 2010 của sản phẩm chủ lực được thể hiện trong bảng 3.12 dưới đây.
Bảng 3.13 Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010
STT Sản phẩm/ Nhóm sản phẩm chủ lực
Điểm đánh giá
Qui mô sản xuất và cung ứng năm 2010
Bình quân giai đoạn (%)
Sản lượng (tấn)
Giá trị (Triệu đồng)
Tỷ trọng
Tăng trưởng
Ngành nông nghiệp
1 Lúa gạo 99,90 21.576.900 35.309.000 11,34 5,18 2 Trái cây 81,45 2.357.200 6.939.600 2,36 2,92
Ngành thủy sản
1 Cá nuôi 104,90 1.465.400 8.222.900 2,36 18,46 2 Tôm nuôi 82,05 318.600 3.782.700 1,13 5,76
3 Cá đánh bắt 78,00 615.600 10.207.100 3,02 13,34
Ngành công nghiệp và tiêu thủ công nghiệp 1 Chế biến thực phẩm 87,45 // 70.144.300 19,74 19,30
2 May mặc 75,15 // 1.635.700 0,40 30,02
Ngành du lịch và dịch vụ 1 Du lịch 72,95 // 3.957.300 1,08 23,09
2 Vận tải hàng hóa 72,40 // 23.426.400 2,83 19,48 Nguồn: Từ bảng 3.12 và các bảng ở mục 2.2
Trong số các sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010 được xác định, thực
phẩm chế biến có mức đóng góp lớn nhất với tỷ trọng 19,74% GTSX toàn vùng và mức
tăng trưởng bình quân giai đoạn là 19,30%/năm; sản phẩm có mức đóng góp quan trọng
thứ 2 lúa gạo với tỷ trọng chiếm 11,34% GTSX toàn vùng, tuy nhiên mức tăng trưởng
tương tối chậm (5,18%) thấp hơn mức tăng trưởng chung toàn vùng gần 7%. May mặc là
123
sản phẩm có tỷ trọng thấp nhất, chỉ đạt 0,4% nhưng tốc độ tăng trưởng đạt mức cao nhất,
đứng đầu toàn vùng với hơn 30%/năm.
3.3 Phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
3.3.1. Xây dựng danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
3.3.1.1 Cơ sở xây dựng danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020 là danh sách các loại sản phẩm
hoặc nhóm/ngành sản phẩm giữ vai trò chủ lực trong chiến lược đầu tư và phát triển kinh
tế xã hội ĐBSCL hoặc có thể đầu tư hỗ trợ để phát triển thành sản phẩm chủ lực của
ĐBSCL đến năm 2020. Vì vậy, để xây dựng danh mục này, tác giả dựa trên các cơ sở sau:
1) Kết quả xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL giai đoạn 2006 – 2010 trên cơ sở áp
dụng Hệ thống tiêu chí đánh giá ở mục 3.1.2 Chương này. Theo đó, sẽ có 9 sản phẩm hoặc
ngành sản phẩm được coi là sản phẩm chủ lực cho từ nay đến năm 2020. Cụ thể:
Ngành nông nghiệp có 2: lúa gạo và trái cây (có chất lượng và giá trị kinh tế cao);
Ngành thủy sản có 3: Cá nuôi, tôm nuôi và cá đánh bắt (khai thác biển);
Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có 2: chế biến thực phẩm, may mặc
(xuất khẩu) và gỗ, tre, may đan lát mỹ nghệ;
Ngành du lịch và dịch vụ vận tải có 2: du lịch (chủ yếu là du lịch gắn với tài
nguyên, môi trường) và vận tải (chủ yếu là vận tải hàng hóa theo đường thủy)
2) Tiềm năng, lợi thế mang tính đặc thù của vùng nhưng chưa được khai thác tốt.
Trong đó, có ba lợi thế có tính đặc trưng nhất của ĐBSCL là: (1) đồng cỏ mênh mong,
sông rạch chằn chịt, ruộng lúa cò bay thẳng cánh; nhiệt độ bình quân ở là 27oC, ẩm độ
biến động từ 7085%, rất thích hợp để phát triển chăn nuôi gia cầm và phát triển cây dừa;
(2) vườn cây trái xum xuê bốn mùa trĩu quả, là nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển
ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ trái cây như đồ hộp, nước ép trái cây...; (3)
ĐBSCL có 3 phía là biển, đảo với trên 700 km bờ biển với vùng đặc quyền kinh tế rộng
lớn có thể thông thương đến nhiều nước trong khu vực và thế giới cộng với hệ thống sông
Mekong đi qua các nước Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia, và ra biển qua ĐBSCL,
rất thuận lợi cho phát triển ngành vận tải hàng hải nối với đường thủy liên vận quốc tế và
du lịch. Từ những lợi thế như vậy, ĐBSCL có thể phát triển thêm các ngành chủ lực như:
Ngành nông nghiệp có: dừa và sản phẩm từ dừa (hiện đạt 66,8 điểm, trong đó
điểm định lượng đạt 51,8 > 45 điểm), chăn nuôi gia cầm (hiện đạt 69,2 điểm)
Ngành công nghiệp chế biến có: trái cây đóng hộp, nước ép trái cây
124
Ngành du lịch có: du lịch khám phá biển đảo
Ngành vận tải có: vận tải biển quốc tế, vận tải thủy liện vận quốc tế
3) Nhu cầu bổ trợ hoặc tạo điều kiện tối ưu hóa chi phí sản xuất và phân phối sản
phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các ngành/sản phẩm chủ lực. Theo đó, các
ngành/sản phẩm sau đây cần chú trọng đầu tư phát triển mạnh trong thời gian tới là:
Ngành sản xuất giống chất lượng cao có: giống cây trồng, giống thủy sản
Ngành hóa chất có: phân bón, thuốc thú y, bảo vệ thực vật
Ngành logistics có: kho bãi tồn trữ, bảo quản xử lý sau thu hoạch, cung ứng
nguyên liệu, vật tư hàng hóa, hợp đồng giao nhận vận chuyển, thủ tục hải quan...
3.3.1.2 Bảng danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
Từ việc phân tích và dựa trên 3 cơ sở trên đây, tác giả đề xuất Danh mục các sản
phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020, được phân theo ngành kinh tế và có dự báo phát
triển cho 2 giai đoạn, giai đoạn 2010 – 2015 và giai đoạn 2015 đến 2020 như sau.
Bảng 3.14 Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020
STT
Ngành/Sản phẩm chủ lực
Năm 2010 Dự báo theo 12 S n = S 2010 (1+G RW ) n
SL (1000tấn)
GT (Tỷ đồng)
2010 2015 2015 2020 SL GT SL GT
Ngành nông nghiệp 1 Lúa gạo 21.576,9 35.309,0 22,785,2 46.607,9 24.061,2 61.522,4
2 Trái cây 2.357,2 6.939,6 2.477,4 8.049,9 2.603,8 9.337,9
3 Dừa, SP từ dừa 953,7 838,3 1.312,3 1.113,3 1.805,7 1.478,4
4 Gia cầm 94,0 3.486,5 178,6 10.459,5 339,3 3.137,8
Ngành thủy sản 1 Cá nuôi 1.465,4 8.222,9 3.956,6 18.912,7 10.682,8 43.499,1
2 Tôm nuôi 318,6 3.782,7 399,5 5.004,5 501,0 6.620,9
3 Cá đánh bắt 615,6 10.207,1 726,4 18.372,8 857,1 33.071,0
Ngành công nghiệp 1 Th.phẩm chế biến // 70.144,3 // 168.273,6 // 387.029,3
2 Trái cây chế biến Giải quyết 30% sản lượng trái cây hàng năm (khoảng 1 triệu tấn)
3 May mặc // 1.635,7 // 6.052,1 // 22.392,7
12 Sn là số dự báo của năm n (2015 hoặc 2020); S2010 là số hiện tại năm 2010 và GRW là tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 2010
125
4 SP gỗ, tre, mây... // 2.588,9 // 7.507,8 // 21.772,6
Ngành dịch vụ và du lịch
1 Du lịch // 3.957,3 // 11.080,4 // 31.025,2
2 Vận tải thủy 61.734 // 94.985 // 146.277 //
Các ngành sản xuất và dịch vụ phụ trợ 1 Sản xuất giống nuôi trồng Đảm bảo đáp ứng trên 80% nhu cầu trong vùng 2 Thức ăn chăn nuôi, thủy sản Đảm bảo đáp ứng trên 60% nhu cầu trong vùng
3 Phân bón, thuốc thú y, BVTV Đảm bảo đáp ứng trên 60% nhu cầu trong vùng 4 Dịch vụ logistics Đảm bảo đáp ứng trên 50% nhu cầu trong vùng
Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất Theo Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020 thì, ngoài 9 sản phẩm đã
xác định cho giai đoạn 2006 – 2010 tiếp tục được xác định cho đến 2020 (những sản phẩm
này vẫn sẽ thể hiện tốt vai trò chủ lực nếu được đầu tư, duy trì tốt), còn đề xuất thêm 8 sản
phẩm/ngành sản phẩm khác. Cụ thể:
1) Dừa và sản phẩm từ dừa. Điểm chuẩn giai đoạn 2006 – 2010 của dừa chỉ đạt
66,80 điểm (định lượng 51,80 và định tính 15,00). Dừa có các hệ số lợi thế và cạnh tranh
khá cao như hệ số địa phương hóa (LQ ir ), hệ số tăng trưởng vượt trội (C Grw ), lợi thế so
sánh trông thấy nội địa (RACD) và quốc tế (RCAW) đều lơn hơn 1 rất nhiều, nếu được qui
hoạch phát triển phù hợp và đầu tư đúng mức thì đây là sản phẩm còn mang tính chiến
lược của vùng.
2) Gia cầm. Cũng giống như dừa, gia cầm (nhất là thủy cầm) là loại sản phẩm rất
phù hợp phát triển ở vùng đồng bằng với nhiều đồng lúa, kênh rạch. Tuy nhiên, điểm
chuẩn giai đoạn 2006 – 2010 chỉ đạt 69,95 điểm (thiếu 0,05 điểm), trong đó điểm định
lượng khá cao (59,20), điểm định tính lại rất thấp (10,75). Do đó, để phát triển sản phẩm
gia cầm trong tương lai cần tăng cường hỗ trợ về cơ chế, chính sách khuyến khích sản xuất
và chế biến xuất khẩu (chính phẩm hoặc phụ phẩm).
3) Sản phẩm chế biến từ gỗ, tre, mây, đan lát mỹ nghệ. Điểm số của sản phẩm này
trong giai đoạn 2006 – 2010 cũng đạt được 66,05 điểm, trong đó định lượng 50,80 điểm
và định tính 15,25 điểm. ĐBSCL từ lâu đã có nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ mà
nguồn nguyên liệu được khai thác tại chỗ như gỗ, tre, lát, xơ dừa và gần đây là lục bình,
đã tạo ra nhiều sản phẩm tinh tế, có giá trị kinh tế cao để xuất khẩu. Tuy nhiên, để phát
126
triển loại sản phẩm này đúng tầm của mó thì cần có sự quan tâm đầu tư một cách đồng bộ
hơn, bài bản hơn từ phía Nhà nước và xã hội.
4) Chế biến trái cây. ĐBSCL có nguồn nguyên liệu trái cây rất dồi dào nhưng hiện
chỉ sử dụng dạng trái tươi để tiêu thụ trong nước và một ít cho xuất khẩu, đã gây ra tình
trạng lãng phí, kém hiệu quả và hạn chế phát triển nghề làm vườn. Để cải thiện tình trạng
này, thiết nghĩ cần tập trung hỗ trợ về nhiều mặt để ngành sản phẩm này phát triển tốt, qua
đó kéo theo sự phát triển của nghề trồng cây ăn trái ở ĐBSCL, nới được coi là quê hương
của cây lành, trái ngọt.
5) Giống nuôi trồng. Đây là ngành sản xuất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công của chiến lược phát triển sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp,
thủy sản. Tuy nhiên, thời gian qua ngành sản xuất này đã chưa được chú trọng đúng mức.
6) Thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Cũng như sản xuất giống, thức ăn chăn nuôi chất
lượng, đầy đủ sẽ góp phần cho các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản phát triển. Nếu thiếu,
việc phát triển sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản sẽ thất bại.
7) Phân bón, thuốc thú y và bảo vệ thực vật. Cũng như sản xuất giống, thức ăn chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y và thuốc bảo vệ thực vật là điều kiện hỗ trợ tích cực để cho
sản phẩm chủ lực ngành nông nghiệp, thủy sản phát triển tốt.
8) Dịch vụ logistics. Thất thoát sau thu hoạch; thiếu công nghệ bảo quản, tồn trữ;
vận chuyển, giao nhận chậm trễ...đã gây nên tình trạng kém hiệu quả trong sản xuất, đặc
biệt là sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL. Do vậy, rất cần tổ chức một hệ thống cung cấp các
dịch vụ logistics một cách đồng bộ, mang tính chuyên nghiệp để tạo điều kiện tốt hơn cho
phát triển tối ưu các sản phẩm chủ lực nói riêng, các hoạt động sản xuất kinh doanh của
ĐBSCL nói chung.
3.3.1.3. Tính ưu việt trong xác định sản phẩm chủ lực của Luận án
Việc xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lực cấp vùng trong cả nước nói chung, ở
ĐBSCL nói riêng, trước nay chưa có tiền lệ, mà chỉ có một vài địa phương có điều kiện
thực hiện mang tính riêng lẻ, cục bộ, vì vậy kết quả xác định được không mang tính đại
diện chung cho toàn vùng nên không được chấp nhận một cách rộng rãi. Với Luận án này,
tác giả đã tìm ra được những sản phẩm chủ lực ĐBSCL với nhiều điểm ưu việt hơn so với
đã làm trước đây. Phương pháp thực hiện và kết quả thu được trong Luận án này đảm bảo
được các yêu cầu như: đầy đủ hơn, có tính bao quát hơn, thực tiễn hơn, đi vào bản chất
hơn và trọng tâm hơn. Bảng 3.15 sẽ chỉ ra tính ưu việt của này như sau:
127
.Bảng 3.15. So sánh tính ưu việt của hàng hóa, dịch vụ chủ lực trong Luận án
Tiêu chí so sánh tính ưu việc của hàng hóa, dịch vụ chủ lực
Phương pháp của tác giả
Phương pháp xác định khác
Hình thành tự nhiên
Tính đại diện Cho ĐBSCL Cho tỉnh, thành Cho địa điểm
Tính thương mại hóa Đề cao Không rõ Không có
Tính cạnh tranh quốc tế Rất rõ Không rõ Không có
Tính ổn định theo thời gian Cao Tương đối Thấp
Tính khoa học Cao Thấp Không có
Tính đặc thù địa phương Tương đối Cao Rất cao
Tính lan tỏa Rất cao Thấp Không có Nguồn: Tác giả tổng hợp đề xuất
3.3.2 Giải pháp phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
Việc xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL là một một việc làm khó. Tuy nhiên, để
đảm bảo cho sản phẩm chủ lực tồn tại và phát triển một cách bền vững là việc làm khó
hơn gấp nhiều lần. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hiệu quả, khả
thi là việc làm không thể thiếu trong Luận án này. Vận dụng cơ sở lý luận về phát triển
cụm ngành sản phẩm; căn cứ vào quan điểm và tình hình thực tế phát triển sản phẩm chủ
lực ĐBSCL thời gian qua, tác giả xin đề xuất 7 nhóm giải pháp nhăm phát triển sản phẩm
chủ lực ĐBSCL đến năm 2020 như sau:
3.3.2.1 Nhóm giải pháp về qui hoạch
Nhằm khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, phân tán đã không tạo ra được khối
lượng hàng hóa lớn, dẫn đến sức canh tranh suy giảm, đồng thời giúp hình thành những
khu liên kết sản xuất qui mô lớn, mang tính tập trung chuyên môn hóa cao với việc ứng
dụng rộng rãi các thành tựu mới của khoa học – công nghệ để nâng cao năng suất lao động
và hiệu quả kinh doanh, ĐBSCL cần hoàn thiện qui hoạch các cụm phát triển mang tính
chuyên môn hóa các sản phẩm chủ lực. Theo tác giả, có thể hình thành 5 cụm như sau:
1) Cụm phát triển kinh tế biển
Khu vực này gồm có các tỉnh có biển như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, và Kiên Giang. Chuyên thực hiện các hoạt động khai thác, đánh
bắt, nuôi trồng và các hoạt hoạt động mang tính kinh tế khác từ nguồn lợi của biển thông
qua 2 hình thức cơ bản như:
128
Hoạt động trên biển: vùng lãnh hải của Việt Nam lớn hơn gấp 3 lần đất liền và có
tiềm năng kinh tế lớn. Vì vậy, cần tập trung đầu tư mạnh cho khai thác, đánh bắt hải sản
tầm xa; vận chuyển hàng hải; du lịch biển đảo; khai thác dầu khí...
Hoạt động ven biển: Với chiều dài hơn 700km bờ biển, nguồn lợi vùng nước lợ là
rất lớn, cần thúc đẩy các chương trình nuôi tôm, cá nước lợ đúng theo qui trình kỹ thuật,
có hiệu quả sản xuất lâu dài và đảm bảo môi trường lành mạnh; phát triển nhanh hơn cụm
công nghiệp khíđiệnđạm Cà Mau liên hợp với đô thị hóa, du lịch; và đầu tư phát triển
cảng biển, cảng container...
2) Cụm kinh tế cửa khẩu và biên giới
Bao gồm các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An có chung biên giới
dài với Campuchia. Cụm này có các cửa khẩu chính như Cửa khẩu quốc tế Hà Tiên (Kiên
Giang); Cửa khẩu Vĩnh Xương, Khánh Bình và Tịnh Biên (An Giang); Cửa khẩu quốc tế
Bình HiệpPrâyVo (Long An); Cửa khẩu Dinh Bà và Thường Phước (Đồng Tháp). Đây là
cụm chủ yếu phát triển kinh tế biên mậu với các Khu vực thương mại phi thuế quan và
công nghiệp chế biến xuất khẩu. Bên cạnh hoạt động mậu dịch, các cửa khẩu biên giới
cũng thuận lợi cho phát triển du lịch cả đường thủy và đường bộ.
3) Cụm phát triển kinh tế bên trong
Gồm có các tiểu vùng như Tứ Giác Long Xuyên (các huyện bên trong nội địa của
Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp Mười, vùng U Minh, vùng giữa sông Tiền và sông
Hậu và các vùng đất nội địa còn lại của ĐBSCL. Tập trung ưu tiên phát các ngành nông
nghiệp trọng điểm (lúa gạo, rauhoaquả, thủy sản và chăn nuôi), đặc biệt về khâu nghiên
cứu tạo giống năng suất, chất lượng cao, phòng ngừa dịch bệnh, đồng thời kết hợp phát
triển du lịch sinh thái, các khu công nghệ biến chế, bảo quản nông sản sau thu hoạch.
4) Cụm phát triển kinh tế vườn
Gồm có các tỉnh có lợi thế về diện tích, đất đai thổ nhưỡng thích hợp như Tiền
Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang. Cụm này cần
tăng cường đầu tư phát triển vườn cây ăn trái theo chủng loại với qui mô đủ lớn, đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng phổ thông trong nước và chế biến xuất khẩu. Hình thành quy trình
chuyên nghiệp từ nghiên cứu chọn giống, nhân giống đến việc ứng dụng các biện pháp
canh tác tốt và an toàn; xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa với các đối tác trong chuỗi
cung ứng từ sản xuất, thu hoạch, tiêu thụ và phản hồi từ thị trường.
5) Cụm phát triển cây công nghiệp
129
Gồm Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Long An. Cụm này
có lợi thế về phát triển một số loại cây công nghiệp lâu năm, đặc biệt là trồng dừa và chế
biến sản phẩm từ dừa. Do vậy, cụm cần tập trung đầu tư phát triển hơn nữa các vườn dừa
để tiêu thụ thông thường trong nước và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
sản phẩm từ dừa cho xuất khẩu.
6) Cụm phát triển công nghiệp và dịch vụ bổ trợ
Gồm các địa phương có lợi thế về mặt bằng và hạ tầng giao thông như Sóc Trăng,
Tp Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền giang, Long An. Cụm này có lợi thế nằm trên trục quốc lộ
1A và nằm bên các nhánh sông lớn, có khả năng phát triển các cảng biển, cảng nước sâu
và thuận tiện cho vận tải đường bộ cũng như xây dựng các khu công nghiệp tập trung với
qui mô lớn. Do đó cần tập trung phát triển công nghiệp đa ngành và hoạt động cung cấp
các dịch vụ như: sửa chữa cơ khí, dịch vụ tài chính, đào tạo, y tế, nhà hàng khách sạn…
3.3.2.2. Nhóm giải pháp về liên kết
Liên kết là mô hình phát triển kinh tế hiệu quả nhất trong thời đại ngày nay, là yêu
cầu mang tính sống còn của các tổ chức kinh tế trước bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay
gắt, quyết liệt. ĐBSCL là vùng có nhiều tiềm năng phát triển nhưng do tập quán sản xuất
mang tính truyền thống gia đình, địa phương với qui mô phân tán, nhỏ lẻ. Cạnh tranh nội
bộ ngày càng tăng làm cho năng lực cạnh tranh đối ngoại và quốc tế giảm. Để khắc phục
triệt để vấn đề này, ĐBSCL cần thực hiện đồng bộ các mô hình liên kết sau:
1) Liên kết vùng hàng hóa chuyên canh
Liên kết vùng hàng hóa chuyên canh là mô hình liên kết nhằm mở rộng qui mô theo
hướng nối kết không gian sản xuất và tăng cường hợp tác theo hướng chuyên môn hóa,
nhất thể hóa, đảm bảo thực hiện dự án chung, từ đó khắc phục tình trạng “cát cứ”, manh
mún và tận dụng lợi thế giống nhau của các địa phương. Có thể nói, thực chất đây là dạng
liên kết theo chiều ngang, nhằm tăng cường sức mạnh trong cạnh tranh về số lượng với
bên ngoài và giảm thiểu cạnh tranh nội bộ. Đồng thời tập trung đầu tư về đất đai, vốn,
công nghệ một cách đồng bộ và tiêu thụ hàng hóa hiệu quả, bền vững. Để liên kết vùng
hàng hóa chuyên canh ở ĐBSCL đạt hiệu quả, đòi hỏi có sự đồng thuận và nhất quán từ
Trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý nhà nước đến những người sản xuất, đặc
biệt là việc quy hoạch không gian liên kết này phải bảo đảm đáp ứng các yếu như:
1) Liên kết phải dựa trên lợi thế, tiềm năng và điều kiện tự nhiên giống nhau, vì
mục tiêu phát triển sản phẩm chứ không dựa vào ranh giới hành chính. Trong mỗi liên kết
130
cần có một trung tâm giữ vai trò nhạc trưởng để tránh sự cạnh tranh, “phá rào” ảnh hưởng
đến qui hoạch và định hướng phát triển chung của vùng;
2) Cần có sự điều chỉnh cơ cấu phát triển kinh tế phù hợp cho từng địa phương,
những địa phương nằm trong liên kết cụm có thể có cơ cấu phát triển kinh tế giống nhau,
tạo ra được sản phẩm giống nhau. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống quản lý hiệu quả liên
kết vùng hàng hóa chuyên canh với 3 trụ cột quan trọng là: chính sách phát triển chung
cho liên kết, nguồn lực tài chính và cơ chế quản lý phối hợp.
3) Liên kết vùng phải đảm bảo phù hợp cho phát triển "tam nông" (nông nghiệp
nông dân, nông thôn) một cách bền vững. Tức là:
+ Về nông nghiệp: phải tạo ra nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; ứng dụng công nghệ tiên tiến, đồng thời
có tính tới những yếu tố bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo
sự hài hòa về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn.
+ Về nông dân: phải phát huy vai trò chủ thể của nông dân, tạo điều kiện để nông
dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn để không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của dân cư nông thôn, đồng thời thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói,
giảm nghèo, làm giàu hợp pháp cho nông dân.
+ Về nông thôn: liên kết vùng phải đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng
theo các bước đi cụ thể, giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông
thôn ĐBSCL, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu
tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là thu hút đầu tư vào xây dựng nông thôn mới theo
hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
2) Liên kết chuỗi sản xuất
Đây là dạng liên kết theo chiều dọc gồm từ khâu sản xuất – chế biến – phân phối
sản phẩm. Trong nông nghiệp có thể bắt đầu từ khâu sản xuất gống đến nuôi trồng – đến
chế biến – cuối cùng là tiêu thụ (nội địa hay xuất khẩu).
Qui trình vận động của sản phẩm nông nghiệp thường phải trải qua rất nhiều khâu,
nhiều mắt xích. Trong một chuỗi các khâu, các mắt xích đó, khâu nào, mắt xích nào cũng
quan trọng và đều tác động xấu đến người sản xuất (nông dân), tức bất kỳ một mắc xích
nào đó có vấn đề thì cả chuỗi tê liệt và người gánh chịu nặng nhất là nông dân.
Như vậy, để hàng hóa nông sản có thể phát triển ổn định và bền vững, ngoài việc
qui hoạch và tạo ra cơ chế liên kết vùng, cần quan tâm tạo ra cơ chế liên kết theo chuỗi sản
131
xuất của từng ngành hàng. Trong đó, cần lấy khâu sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp làm
trung tâm và lấy lợi ích của nông dân làm chuẩn để cân nhắc.
3) Liên kết “4 nhà”
Quyết định 80/2002/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/2002, về việc
khuyến khích liên kết “4 nhà”: Nhà nông, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa học và Nhà quản
lý (Nhà nước) trong việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Đây là một chủ trương
đúng đắn vì nó tạo ra mối quan hệ tương trợ nhau giữa 4 nhà và vì vậy tạo ra sức mạnh
tổng hợp để chống lại đối thủ cạnh tranh bên ngoài và là nền tảng cho phát triển ổn định.
Ví dụ nhà doanh nghiệp đầu tư vật tư ban đầu cho nhà sản xuất (nông dân). Giúp đỡ bao
tiêu sản phảm và tiêu thụ đầu ra với giá ổn định cho người sản xuất an tâm và có lợi nhuận
đảm bảo đời sống và phát triển kinh tế. Đồng thời, người nông dân dựa vào vốn, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (nhà quản lý) để sản xuất đúng hướng và có hiệu quả. Về
phía Nhà quản lý cung cấp vốn thông qua ngân hàng, cung cấp thông tin, thị trường cho
nông dân và có thể đứng ra tổ chức việc liên kết sản xuất và kinh doanh đi đúng hướng, có
hiệu quả. Nhà khoa học tạo ra giống, quy trình kỹ thuật và đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật sản
xuất cho người nông dân…. Nhà khoa học là mốc đầu tiên trong chuỗi mốc xích liên kết
với các nhà khác. Chẳng hạn, từ các nhà khoa học, giống/quy trình kỹ thuật được đem đến
cho người nông dân sản xuất và “nhà sản xuất” là mốc kế tiếp với “nhà doanh nghiệp” để
tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, lâu nay liên kết “4 nhà” hầu như mới chỉ là khẩu hiệu chung chung mà
chưa có gì cụ thể, mỗi nhà đều hành động riêng rẻ để bảo vệ lợi ích cục bộ cuối cùng vẫn
là nhà nông là người hứng chịu toàn bộ thiệt hại. Vì vậy, để phát triển hiệu quả sản phẩm
chủ lực ĐBSCL (khu vực có thế mạnh về nông nghiệp), rất cần sự liên kết “4 nhà” một
cách thực chất. Trong đó, cần tập trung xây dựng và kiện toàn một số mô hình cụm phát
triển với nông nghiệp công nghiệp dịch vụ trong từng vùng sản xuất nông sản tập trung,
trong đó lấy doanh nghiệp chế biến làm nòng cốt, đầu tầu hướng dẫn, giúp đỡ các nông
hộ, tổ chức kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác sản xuất hàng hoá nông sản đáp
ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo ra
hành lang pháp lý, cung ứng tín dụng, xây dựng các quỹ bảo hiểm rủi ro, quỹ hỗ trợ xuất
khẩu; xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường; phát triển
sự nghiệp khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế. Đồng thời, ban hành các chính sách
khuyến khích việc gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến. Xây dựng các
132
chế tài đủ hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện hợp đồng liên kết giữa nhà máy và nông hộ.
Nói cách khác, Nhà nước cần giữ vai trò “nhạc trưởng” trong liên kết với việc tạo ra cơ
chế rõ ràng nhằm phân định vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi nhà. Trong đó, phải
quan tâm đến quyền lợi của nhà nông, vì đây là người có thể làm thay đổi mọi định hướng
nếu lợi ích của họ bị mất đi. Đồng thời, cũng cần có cơ chế trách nhiệm đối với các ngân
hàng trong việc hỗ trợ vốn cho nhà nông, doanh nghiệp và nhà xuất khẩu.
3.3.2.3 Nhóm giải pháp về khoa học và công nghệ
Hiện nay, việc đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ cao
vào sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế. Theo báo cáo của ngành khoa
học công nghệ, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ chủ yếu vẫn là nguồn từ ngân
sách nhà nước (chiếm 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ), trong đó
khoảng 57% dành cho hoạt động sự nghiệp khoa học và công nghệ và 43% dành cho đầu
tư phát triển khoa học và công nghệ, trong đó các tỉnh, thành phố đã tự cân đối 20% đến
24%. Kinh phí từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ
còn rất thấp. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển của các tổng công ty ở Việt Nam dao
động trong khoảng từ 0,05 đến 0,1% trên tổng doanh thu (các nước là 56%). Từ thực tế
như vậy, sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất sản phẩm chủ lực ĐBSCL nói riêng,
vẫn theo kinh nghiệm truyền thống, công nghệ lạc hậu đã làm cho chất lượng của nhiều
nông sản ĐBSCL thiếu sức cạnh tranh quốc tế. Để khắc phục tình trạng này, ĐBSCL cần
mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng qui trình sản xuất tiên tiến một cách đồng
bộ tại các khâu giống, nuôi trồng và chế biến. Cụ thể:
Phát triển công nghệ sinh học phục vụ việc chọn tạo và nhân giống cây trồng vật
nuôi, giống thuỷ sản có năng suất và chất lượng cao,
Sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ cho nuôi trồng, xử lý môi trường, chấn
đoán bệnh cây trồng, vật nuôi, vaccine xin phòng bệnh gia súc, gia cầm, thuỷ sản…
Phát triển các công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch, công nghệ bảo quản và chế
biến để giảm thất thoát, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng cho nông, thủy sản.
Áp dụng rộng rãi Global Gap trong sản xuất nông nghiệp nhằm kiểm soát an toàn
thực phẩm xuyên suốt từ khâu giống, ương nuôi đến khâu thu hoạch, chế biến, tồn trữ,
nhằm đảm bảo cho sản phẩm đạt chất lượng tốt, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, để làm được những việc đó, cần có sự phối hợp thực hiện của nhiều
phía và huy động vốn đầu tư nhiều nguồn. Trong đó, doanh nghiệp phải giữ thế chủ động
133
và tăng cường hơn nữa cho phát triển công nghệ của chính mình; Nhà nước giữ vai trò hỗ
trợ thông qua các chính sách thu hút đầu tư và cơ chế phối hợp trong nghiên cứu khoa học.
3.3.2.4 Nhóm giải pháp về đầu tư
Một trong các nguyên nhân dẫn đến sản phẩm chủ lực ĐBSCL khó phát triển thời
gian qua là vấn đề qui hoạch và thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài kém hiệu quả.
Đầu tư theo kiểu tự phát, chạy theo phong trào hoặc “con khóc thì mẹ cho bú” dẫn đến
tình trạng đầu tư thiếu đồng bộ, thiếu tập trung và đặc biệt là thiếu định hướng chiến lược.
Phổ biến hiện nay ở ĐBSCL là có quá nhiều khu công nghiệp tập trung nhưng lại thiếu
doanh nghiệp đăng ký đầu tư. Trong khi đó, nhiều dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng và sản
xuất nông nghiệp lại không được quan tâm hỗ trợ về phía chính sách cũng như thiếu mặn
mòi của nhà đâu tư. Tương tự, trông nội bộ ngành nông nghiệp cũng đang đau đầu vì tình
trạng thiếu cây, con giống, thiếu phương tiện, thiếu vốn lưu động…
Từ những thực tế trên, vấn đề quan trọng của ĐBSCL là thay đổi tư duy và chính
sách đầu tư. Chuyển từ đầu tư theo “đoạn” sang đầu tư theo “chuỗi” sản xuất. Với tư duy
đầu tư này, trước tiên cần xác định sản phẩm phải trải qua những công đoạn nào trong
chuỗi sản xuất, từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng. Chẳng hạn, nếu chọn cá tra là sản
phẩm chủ lực và qui hoạch phát triển cho 10 năm tới thì ngay bây giờ cần tập trung đầu tư
đồng bộ các khâu:
Sản xuất con giống: Công nghệ lai tạo và chọn giống hiện đại; áp dụng các bộ
chuẩn quản lý chất lượng quốc tế…
Khâu nuôi trồng: Chuyên môn hóa trong sản xuất, tập trung qui mô lớn, áp dụng
qui trình nuôi vỗ và kiểm soát chất lượng theo Global Gap…
Khâu chế biến: Máy móc thiết bị, công nghệ chế biến ra sản phẩm cuối cùng; áp
dụng các biện pháp quản lý sản xuất GMP, hệ thống kho tàng, qui trình bảo quản; kiểm
soát an toàn thực phẩm…
Khâu tiêu thụ: Xây dựng và quản lý tốt thương hiệu; thiết lập các kênh phân phối
nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng;
3.3.2.5 Nhóm giải pháp về thị trường
Với xu thế hội nhập ngày càng sâu, rộng, sản phẩm chủ lực ĐBSCL sẽ phải đối mặt
với sự cạnh tranh quyết liệt với các sản phẩm cùng loại của các nước thành viên WTO trên
các thị trường cả trong và ngoài nước. Vì vậy, cần đặc biệt chú trọng thực hiện tích cực và
hiệu quả các giải pháp về thị trường như: Tăng cường đầu tư cho công tác điều tra, nghiên
134
cứu, dự báo thị trường; tổ chức thường niên hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài để
các doanh nghiệp tham gia giới thiệu, quảng bá các sản phẩm chủ lực của địa phương; các
doanh nghiệp cũng cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc xây dựng chiến lược tiếp thị,
quản bá sản phẩm nhằm hạn chế chi phí phát sinh vô ích. Một vấn đề khác cũng không
kém phần quan trọng trong cạnh tranh là xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản
phẩm vụ chủ lực, đây là khâu có thể coi là đột phá trong nhóm giải pháp về thị trường.
Song song theo đó, cần mạnh dạn đột phá vào những thị trường lớn và mới nhưng có tiềm
năng như Mỹ, EU, Châu Phi, Nhật Bản…, Đặc biệt, các hiệp hội doanh nghiệp cũng như
cơ quan chính phủ cần hoạt động tích cực và chuyên nghiệp, phối hợp hỗ trợ nhau hiệu
quả nhằm bảo đảm đầu ra vững chắc cho hàng hóa chủ lực của vùng.
3.3.2.6 Nhóm giải pháp về hạ tầng giao thông
Ngoài việc tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ và phát triển
đường không như hiện nay, các địa phương ĐBSCL cần nghiên cứu qui hoạch phát triển
mạnh hơn nữa hệ thống giao thông đường thủy (cả thủy nội địa và đường biển). Trong đó,
việc qui hoạch phát triển cần bảo đảm được các yêu cầu cơ bản sau:
Cần đầu tư cho hiện đại hóa các phương tiện vận tải hàng hóa cũng như hành
khách, đảm bảo vận chuyển nhiều hơn, nhanh hơn và an toàn hơn.
Bảo đảm kết hợp được các phương tiện và hình thức vận chuyển trong đó vận tải
thủy giữ thế chủ lực, giải quyết tốt các vấn đề từ việc giao nhận hàng hóa nông sản từ
trong vùng sâu, xa hiểm trở đến việc chuyên chở các loại hàng hóa siêu trường, siêu trọng
mà các loại phương tiện giao thông khác không thực hiện được
Kết nối tốt các tuyến đường nội thủy với đường biển. Cần tạo ra mạng lưới giao
thông thủy với sự liên kết giữa vận tải nội vùng, trong nước với vận tải quốc tế. Muốn vậy
phải phát triển đồng bộ các cảng nội thủy, cảng nước sâu, vận hành tốt khâu bốc dỡ, giao
nhận, lưu kho, trung chuyển…
Đầu tư cho vận tải thủy ở ĐBSCL không khó khăn về kỹ thuật công nghệ, không
đòi hỏi nhiều vốn như vận tải đường không hay đường bộ vì là lợi thế đặc thù của vùng,
nên tác dụng và hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, để khai thác tốt lợi thế có một không hai này,
các cấp, các ngành, đặc biệt là ngành giao thông vận tải cần có tầm nhìn chiến lược, nhận
thức đúng đắn hơn để có chủ trương và tổ chức qui hoạch đầu tư tốt hơn cho lĩnh vực này.
3.3.2.7 Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
135
Hiện nay, phần lớn lao động ĐBSCL chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật một
cách căn bản vì đa số xuất thân từ nông thôn, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu bằng
khả năng và kinh nghiệm mang tính truyền thống, cho nên việc áp dụng tiến bộ của khoa
học công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý cũng thiếu
đào tạo một cách bài bản, dẫn đến quản lý điều hành mang tính tự phát, cảm tính và đặc
biệt là thiếu tầm nhìn. Hệ quả là, việc qui hoạch sản xuất không mang tính chiến lược, lâu
dài, thường chạy theo phong trào hoặc mô phỏng, sao chép lẫn nhau nên phát triển sản
phẩm chủ lực thiếu ổn định. Vì vậy, cần có quy hoạch, phân luồng đào tạo chuyên môn và
dạy nghề, đặc biệt chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, phù hợp,
cán bộ quản lý có năng lực để cung cấp cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất hay khu công
nghiệp sản xuất sản phẩm chủ lực cho toàn vùng.
3.3.3 Một số kiến nghị hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến 2020
Để sản phẩm chủ lực có thể phát triển bền vững, ĐBSCL cần có sự đồng thuận và
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, từ các
nhà quản lý đến doanh nghiệp.....Do vậy, ngoài các giải pháp nêu trên, Luận án còn đề
xuất một số kiến nghị đối với các cấp, các ngành như sau:
3.3.3.1 Đối với Nhà nước
Nhà nước nói chung, chính quyền các địa phương trong vùng nói riêng cần tích cực
hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng sản phẩm chủ lực để các doanh nghiệp
này có thể đáp ứng được các tiêu chí theo quy định. Cụ thể:
Cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng sản phẩm
chủ lực tiếp cận thị trường trong và ngoài nước thông qua đẩy mạnh các hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế của địa phương; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp cận thị trường như sử dụng Internet, xây dựng
Website riêng, thương mại điện tử…,cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nghiên
cứu và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nghiên cứu cải
tiến và tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới như: Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho công
tác nghiên cứu khoa học công nghệ gắn với hiệu quả của việc ứng dụng khoa học công
nghệ mới; Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nghiên cứu phát triển và bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài.
136
Cần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp để triển
khai dự án đầu tư, đổi mới công nghệ, liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp với nhau;
tạo điều kiện về đất đai, mặt bằng, địa điểm sản xuất kinh doanh nhằm giảm chi phí đầu
vào, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Có chính sách ưu đãi tín
dụng, đáp ứng nhu cầu vay vốn trung, dài hạn cho các dự án đầu tư chiều sâu để sản xuất
sản phẩm chủ lực như điều kiện vay hoặc hỗ trợ lãi suất vay...
Cần có chính sách hỗ trợ các chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn và công nhân kỹ thuật lành nghề thông qua cơ chế liên kết với các trường đại
học, các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước để mở các lớp đào tạo cán bộ kỹ thuật,
công nhân lành nghề, đào tạo những ngành nghề mới cho các doanh nghiệp, đảm bảo cung
cấp nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ để đáp
ứng cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ lực.
Cập nhật thông tin, hướng dẫn, phổ biến luật pháp và các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước đến các nhà đầu tư, nhất là các vấn đề liên quan đến chống bán phá giá,
cạnh tranh, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh đầu tư chiều sâu các hệ thống thông tin
của địa phương và vùng, nâng cao chất lượng thông tin trên các trang Web của mỗi địa
phương nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu thông tin cho các doanh nghiệp.
3.3.3.2 Đối với các Hiệp hội ngành nghề
Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành nghề, nhất là Hiệp hội chế
biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội lương thực Việt Nam, Hiệp hội các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam…., trong việc tìm kiếm thị trường, điều phối và gắn kết lợi
ích giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành hàng và lợi ích chung của toàn vùng. Các
hiệp hội ngành nghề phải thực sự là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp, nhà sản xuất với
Nhà nước, thị trường; là trung gian trong quan hệ quốc tế; là nơi thực hiện các hoạt động
đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng và
nhận thức cho đội ngũ cán bộ nhân viên kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác kinh
doanh; thường xuyên quan tâm hỗ trợ và giúp đỡ hội viên nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo nguồn nguyên liệu, mở rộng thị trường, tăng cường khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm chủ lực…
3.3.3.3 Đối với doanh nghiệp. Để sản phẩm có thể đáp ứng được với Hệ thống tiêu chí và trở thành sản phẩm chủ
lực vùng, doanh nghiệp cần tập trung thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
137
Cần đầu tư cho sản xuất với qui mô sản lượng đủ lớn để đáp ứng cho nhu cầu tiêu
thụ nội địa và chế biến xuất khẩu; quy mô sản xuất công nghiệp hoặc bán công nghiệp, có
khả năng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao tỷ trọng sử dụng nguyên liệu trong
nước. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, thủy sản, diện tích nuôi
trồng phải đủ đáp ứng nhu cầu nguyên liệu an toàn cho sản xuất và tiêu thụ tươi; sản phẩm
mới phải có tốc độ tăng trưởng nhanh. Đối với loại hình dịch vụ, cần cải thiện cơ sở hạ tầng
nhằm đạt tiêu chuẩn ngành qui định, phong cách phục vụ chuyên nghiệp đáp ứng, thỏa mãn
nhu cầu khách hàng và là loại hình dịch vụ chất lượng cao.
Phải đầu tư thích đáng cho hoạt động marketing, nghiên cứu thị trường để đáp ứng
tốt nhu cầu người tiêu dùng trong và ngoài nước, đảm bảo cho sản phẩm chủ lực tăng trưởng
nhanh, ổn định. Cần chú trọng xây dựng và nâng cao uy tín thương hiệu của sản phẩm chủ
lực, đảm bảo về chất lượng theo qui định của các tổ chức quản lý chất lượng quốc tế và giá cả
cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại trên thị trường trong cũng như ngoài nước.
Phải có chiến lược kinh doanh và phát triển sản phẩm chủ lực một cách cơ bản
như: chiến lược mở rộng thị trường mới có tiềm năng; chiến lược nâng cao năng lực cạnh
tranh (cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, chi phí, giá thành…); chiến lược nâng
cao chất lượng sản phẩm với việc áp dụng các công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến tăng. Đối
với loại hình dịch vụ, cần có chiến lược nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển tài nguyên, cải
thiện môi trường kinh doanh, cải tiến và nâng cao chất lượng phục vụ…giúp cho sẩn phẩm
chủ lực có thể phát triển một cách ổn định, lâu dài.
3.4 Kết luận chương 3
Để xác định đúng sản phẩm chủ lực và phát triển tốt sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
năm 2020, trước tiên cần phải xây dựng Hệ thống tiêu chí đánh giá, xét chọn đảm bảo
chính xác, khách quan và khoa học. Đây là cơ sở để đánh giá, xét chọn và hình thành
Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020. Tuy nhiên, để sản phẩm chủ lực của
vùng phát triển một cách bền vững, các địa phương ĐBSCL cần triển khai đồng bộ các
giải pháp như qui hoạch, liên kết, đầu tư, thị trường..., đồng thời các cấp, các ngành cần có
sự quan tâm hỗ trợ tích cực, hiệu quả trên nhiều phương diện cần thiết, cũng như bản thân
các doanh nghiệp và địa phương phải chủ động trong việc phối hợp qui hoạch đầu tư cho
phát triển sản phẩm chủ lực của chính doanh nghiệp, địa phương và ngành kinh tế. Có vậy,
việc phát triển sản phẩm chủ lực của vùng mới thuận lợi và đạt kết quả mong muốn.
138
PHẦN KẾT LUẬN
Sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ chủ yếu của một quốc gia,
địa phương hay vùng lãnh thổ, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn, có
sức cạnh tranh cao, qui mô thị trường rộng và tiềm năng phát triển tốt. Chúng còn là sản
phẩm có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất và đóng góp đáng kể
vào sản phẩm trong nước, có sức lan tỏa mạnh đồng thời là sản phẩm mang ý nghĩa về văn
hóa, thể hiện nét đặc trưng, thế mạnh của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ.
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định được năng lực cạnh
tranh cốt lõi của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ; xác định đúng trung tâm lan tỏa,
nguồn phát tác hấp lực đến các ngành nghề khác, định vị đúng nền kinh tế trong môi
trường cạnh tranh toàn cầu và nhận dạng đúng đối tượng khách hàng và thị trường mục
tiêu để từ đó tăng cường các hệ thống quản lý và thực hành chất lượng phù hợp. Vấn đề
quan trọng hơn nữa là thông qua việc xác định đúng sản phẩm chủ lực, các địa phương,
vùng lãnh thổ sẽ có định hướng đúng đắn mục tiêu chiến lược, xây dựng qui hoạch và
chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, thế
mạnh của mình. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, thông qua vận dụng một cách tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu, Luận án đã hướng vào giải quyết một cách cơ bản các vấn
đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
năm 2020, làm cơ sở để các địa phương tập trung đầu tư phát triển có trọng tâm, trọng
điểm nhằm khai thác hiệu quả hơn tiềm năng, thế mạnh của vùng. Xét về mặt học thuật,
Luận án đã đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của nghiên cứu khoa học; xét về mặt
ứng dụng, Luận án có thể triển khai thực hiện sau khi nghiên cứu sâu thêm đối với từng
sản phẩm cụ thể.
Những đóng góp cơ bản của Luận án được thể hiện thông qua các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong phần nội dung của Luận án. Đây cũng chính những thành công
cơ bản của Luận án dựa trên mục tiêu ban đầu mà tác giả đã đề ra. Cụ thể:
(1) hoàn thiện hệ thống lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó vào giải
quyết các vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực
và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020;
139
(2) xây dựng Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực với 2 Hệ thống, một dùng để
xác định sản phẩm hàng hóa và một dùng để xác định sản phẩm dịch vụ, trong đó chúng
vừa bảo đảm được các điều kiện cần và điều kiện đủ, vừa bảo đảm có chỉ tiêu định lượng
và chỉ tiêu định tính. Ngoài ra, Bộ tiêu chí này còn đảm bảo đầy đủ hơn, khoa học hơn,
thực tế hơn và đơn giản, dễ thực hiện hơn so với các bộ tiêu chí trước đây;
(3) Đề xuất Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm 2020 bao gồm 17 loại
sản phẩm/ngành sản phẩm chủ lực. Trong đó, nông nghiệp và thủy sản có 7 sản phẩm;
công nghiệp có 4 sản phẩm; dịch vụ và dịch vụ vận tải có 2 sản phẩm và ngành công
nghiệp – dịch vụ bổ trợ có 4 sản phẩm.
(4) Luận án còn đề xuất 7 nhóm giải pháp có tính đồng bộ và khả thi như: giải pháp
về qui hoạch, giải pháp về liên kết, giải pháp về đầu tư, giải pháp về phát triển công nghệ,
giải pháp về hạ tầng giao thông, giải pháp về thị trường và giải pháp về phát triển nguồn
nhân lực; dên cạnh đó, Luận án cũng đề xuất kiến nghị đối với các cấp, các ngành có liên
quan cũng như các Hiệp hội ngành nghề và chính doanh nghiệp trong việc hỗ trợ về nhiều
mặt để sản phẩm chủ lực có đủ điều kiện phát triển ổn định, bền vững trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng dẫn đến cạnh tranh ngày càng mang tính toàn cầu.