page 4 76 vh12

76

Upload: tang-kien

Post on 17-Jan-2015

229 views

Category:

Documents


7 download

DESCRIPTION

 

TRANSCRIPT

Page 1: Page 4 76 vh12
Page 2: Page 4 76 vh12

Taïp chí xuaát baûn 02 kyø/thaùngGiaáy pheùp hoaït ñoäng baùo chí soá 397/GP- BVHTTVaø soá 41/GP - SÑBSGiaáy pheùp Quaûng caùo soá 1187/BC

TOØA SOAÏN TRÒ SÖÏ27 Höông Vieân, Q. Hai Baø Tröng, Haø NoäiÑT & Fax: (84.4)39.764.693

CHUÛ NHIEÄMGS. Hoaøng Chöông

TOÅNG BIEÂN TAÄPNhaø baùo Nguyeãn Theá Khoa

PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP THÖÔØNG TRÖÏCNhaø baùo Traàn Ñöùc Trung

PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄPTs. Nguyeãn Minh San

TRÖÔÛNG BAN TRÒ SÖÏNhaø baùo Nguyeãn Hoaøng Mai

THÖ KYÙ TOØA SOAÏNNhaø baùo Traàn Thu HieànNhaø baùo Töø My Sôn

GIAÙM ÑOÁC ÑIEÀU HAØNHNhaø baùo Voõ Thaønh TaânPGÑ: Nhaø baùo Leâ Haûi Chaâu

GIAÙM ÑOÁC VPPT VAÊN HIEÁN VIEÄT NAMPhan Toân Tònh Haûi

HOÄI ÑOÀNG BIEÂN TAÄPGS. Vuõ Khieâu - GS. Traàn Baûng - GSTS. Traàn Vaên Kheâ - Nhaø thô Nguyeãn Khoa Ñieàm - NS. Vuõ Maõo - GSVS. Hoà Só Vònh - GS. Tröôøng Löu - GSTS. Thaùi Kim Lan - TS.NSND Phaïm Thò Thaønh - NSND Ñaëng Nhaät Minh - TS. Ñoaøn Thò Tình - GSTS. Nguyeãn Thuyeát Phong - NB. Phaïm Ñöùc Löôïng - NB. Trung Ñoâng

BAN CHUYEÂN ÑEÀVAÊN PHOØNG BAN BIEÂN TAÄPSoá 64 Trung Hoøa (Soá 06 - Loâ 12B cuõ) Khu ÑTM Trung Yeân - Trung Hoøa - Caàu Giaáy - Haø NoäiÑT: (84.4)37.83.1961 - 37.83.1962Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn

VAÊN PHOØNG QUAÛNG CAÙO VAØ PHAÙT HAØNHSoá 404 Ñöôøng Böôûi, Q. Ba Ñình - TP. Haø NoäiÑT: 04. 3 7717665 * Fax: 04. 3 7718875; Mobile: (+84)989.186661Email: [email protected]: www.vanhien.net; www.tinnhanh24.vn

VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI TP. HCM288B An Döông Vöông - Q. 5 - TP. HCMÑT: (84.8)38.353.878

VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI ÑAØ NAÜNGTaàng 5 Khaùch saïn Eiffel -117 Leâ Ñoä - TP. Ñaø NaüngÑT: (84.511)647.529 - Fax: (84.511)811.972Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn

Trình baøy - De. Quang Anh

TAØI TRÔÏ PHAÙT HAØNHDoanh nghieäp saùch Thaønh nghóa - TP. HCM

In Taïi - Coâng ty TNHH MTV in Quaân ñoäi I

GIAÙ: 36.000VNÑ

NỘI DUNG SỐ 12 (244)-2013

CULTURE OF VIETNAM

SỰ KIỆN - BÌNH LUẬN4. Tiến tới Hội thảo “Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc”

Văn hiến6. Lễ thụ phong quân hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội Võ Nguyên Giáp

Văn Hiến 8. 20 năm - Huế Di sản Văn hoá nhân loại

Hoàng Linh 10. Nghệ thuật đàn/đờn ca tài tử Nam Bộ - Di sản Văn hóa phi vật thể nhân loại

Trương Nguyễn12. Làm thế nào để ngành sân khấu dân tộc có tác phẩm hay

GS. Hoàng Chương15. Sự im lặng - quy ước của tình yêu không lời giữa Võ Hồng Anh với người cha Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Nguyễn Minh Hoàng19. Trung tâm văn hóa Việt Nam tại Lào - cầu nối tình hữu nghị Việt - Lào

Nguyễn Gia LâmHIỀN TÀI ĐẤT VIỆT23. Chuyện Nguyễn Huệ thu phục Võ Văn Dũng

Hà Bình25. Phùng Khắc Khoan hóa Trạng, hóa Thần Nông… chỉ bởi quá tài

Châu Giang28. Chuyện tình Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo

Trương Nguyễn Hà Bình32. Nhạc sĩ Trần Hoàn vị Bộ trưởng có công xây dựng văn hóa dân tộc

Trung Thu TỪ TRONG DI SẢN34. Đọi Sơn - Núi thiêng đất Việt

TS. Nguyễn Minh San38. Bắc Ninh - Tỉnh có nhiều Hiệu trưởng Quốc Tử Giám

Nguyễn Thuỳ Linh41. Một số kỷ niệm của đoàn ca múa quân đội với Bác Hồ

Khắc Tuế45. Ngã ba Đồng Lộc - Đài hoa bất tử

Lý Nhân

DIỄN ĐÀN49. Bảo tồn và phát huy giá trị âm nhạc dân tộc trong cuộc sống hôm nay

PGS.TS Lê Văn Toàn 52. Hát Chầu văn - Hướng tới là di sản Văn hoá thế giới

Nguyễn Thu Hiền 55. Hoạt động âm nhạc ở TP Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp

TS. Văn Minh HươngVÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG58. Công ty TNHH MTV Dịch vụ hàng không sân bay Tân Sơn Nhất SASCO khi những dòng sông đổ về biển lớn

PV 60. Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Trung tâm Thẻ - Cam kết giữ vững danh hiệu “top” đầu

Bùi Thọ62. Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam - Hướng đến sự phát triển kinh tế bền vững

Mộng Huệ DOANH NHÂN TÂM - TÀI64. Công ty TNHH MTV Yến sào Khánh Hòa - Không chỉ là một doanh nhân giỏi

Trần Thu 66. Tổng Cty xây dựng công trình giao thông 1 - Chuyện về một nhà quản lý xuất sắc

Thế Điệp 68. Công ty CP Khoáng sản Quảng Trị - Sự chủ động làm nên thành tích của một doanh nhân

Thế Điệp 70. Tổng công ty bảo đảm an toàn hàng hải miền Bắc - Chuyện về một doanh nhân xuất sắc

Trúc LamTHƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA72.Trường Đại học Sao Đỏ - Chất lượng đào tạo khẳng định thương hiệu

Quang Hòa ĐỜI SỐNG QUANH TA74. Hình tượng ghe, xuồng trong văn hóa dân gian miền Tây Nam Bộ

Phạm Tấn Thiên

Ảnh bìa 1: Gs. TS. Bosengkham Vongdara - Bộ trưởng Bộ TT - VH & DL Lào (trái) và GS. Hoàng Chương - Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc Việt Nam (phải) trao giải thưởng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Doanh nghiệp.

Page 3: Page 4 76 vh12

BAN TỔ CHỨC CÁC GIẢI THƯỞNG ASEANVỚI CÁC HOẠT ĐỘNG ỦNG HỘ

CÁC QUỸ TỪ THIỆN CỦA NƯỚC BẠN LÀO

Page 4: Page 4 76 vh12

• “Là một người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời chuẩn bị thành lập Đảng, sống và chiến đấu bên cạnh Bác trong 30 năm từ năm 1940 đến năm 1969, suốt đời học tập, nghiên cứu và thực hiện từ tưởng, phong cách và đạo đức Hồ Chí Minh, đồng chí đã trở thành nhà lãnh đạo có uy tín lớn, được Đảng, nhân dân ta và bạn bè trên thế giới tin yêu, kính trọng.

Suốt 41 năm là ủy viên Trung ương Đảng, 35 năm là ủy viên Bộ Chính trị, 32 năm là Thủ tướng Chính phủ, 10 năm là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Phạm Văn Đồng là nhà lý luận chính trị và văn hóa xuất sắc, giàu kinh nghiệm thực tiễn, có tầm nhìn chiến lược, tư duy luôn luôn năng động, tình cảm luôn luôn chan hòa với nhân dân, nhạy cảm, thấu hiểu được nguyện vọng của đồng bào. Nhờ vậy, đồng chí có nhiều đóng góp lớn trong việc hoạch

định, làm thấu suốt và chỉ đạo thực hiện đường lối của cách mạng Việt Nam suốt bảy thập kỷ qua... Đồng chí là một nhà văn hóa lớn của dân tộc, luôn luôn quan tâm sâu sắc đến văn hóa và liên tục sáng tạo văn hóa, nhấn mạnh văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa, luôn luôn coi trọng phát huy vai trò động lực của văn hóa đối với kinh tế và xã hội, có nhiều ý tưởng sáng tạo chỉ đạo các mặt hoạt động văn hóa, đối thoại thân tình và giúp đỡ thiết thực các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ; bản thân mình có nhiều tác phẩm văn hóa nổi tiếng với một văn phong trong sáng, mẫu mực” (Lời điếu của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam)

• “Nói đến Phạm Văn Đồng là nói đến đạo đức của Anh: giản dị, liêm khiết, thanh bạch, yêu thương cán bộ. Cho đến trước khi mất, điều Anh lo nhất là hiện tượng thoái hóa trong Đảng. Nhiều khi Anh đã

TIẾN TỚI HỘI THẢO “PHẠM VĂN ĐỒNG

VỚI VĂN HÓA DÂN TỘC” Hội thảo do Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức tại Quảng Ngãi nhân Kỷ niệm 108 năm sinh của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1/3/1906 - 1/3/2014)

l VĂN HIẾN

4

Page 5: Page 4 76 vh12

kêu lên: “Sao đảng viên bây giờ nhiều người hỏng thế” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

• “Về văn hóa, đồng chí trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và đổi mới tổ chức và hoạt động của các ngành giáo dục, khoa học, văn học nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao,...Những bài nói, bài viết và những buổi nói chuyện của đồng chí về các lĩnh vực nói trên toát ra những sự hiểu biết hoàn chỉnh về nền văn hóa của Việt Nam vừa phát huy truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa kiến thức của nhân loại” (Đỗ Mười - nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam).

• “Chính cuộc đời của đồng chí Phạm Văn Đồng là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa nhân văn cao cả. Đồng chí là nhà văn hóa lỗi lạc của dân tộc” (Trần Đức Lương - nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam)

•... “Anh rất say sưa, trăn trở, trăn trở đến cuối đời, về hoạt động văn hóa - giáo dục; luôn quan tâm đến đời sống của dân và đạo đức, phẩm chất của cán bộ. Anh am tường về văn học, lịch sử, lại rất chịu nghe, nhất là trước những vấn đề thực tế đặt ra. Anh trọng trí thức, hiền tài mà không sách vở, giáo điều” (Phan Văn Khải - nguyên Thủ tướng Chính phủ). n

• “Dù làm quân sự hay ngoại giao cũng phải tìm hiểu về văn học nghệ thuật” (Phạm Văn Đồng)

• “Một tác phẩm hay phải có nội dung 100%, nghệ thuật 100%”

(Phạm Văn Đồng)• “Mỗi nhà văn nên lượng sức mình

để viết. Chớ tham viết dài, viết lấy được. Viết ngắn mà hay còn hơn viết dài mà dở. Truyện ngắn của ta rất hay, nhiều truyện có thể sánh với các truyện ngắn hay trên thế giới. Viết ngắn mà gói được ý tưởng lớn, sâu sắc hơn là viết dài

mà dây cà, dây muống. Nhân dân lao động ta ít có thời gian, nên đọc dài mà gặp văn không hay dễ bỏ. Nghệ thuật biểu diễn cũng vậy, chớ tham kéo dài thời gian, phải biết kết thúc khi khán giả còn luyến tiếc. Nghệ thuật hay ở chỗ là phải biết dừng đúng lúc” (Phạm Văn Đồng”.

• “Với tầm nhìn bao quát, phải thấy văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa, như vậy hai là một và một thành hai.... Đổi mới phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất văn hóa” (Phạm Văn Đồng)

PHẠM VĂN ĐỒNG VỚI VĂN HÓA DÂN TỘC

5

Page 6: Page 4 76 vh12

An toàn khu ngày 28/5/1948Hôm nay cũng là ngày lịch sử, vì là ngày thụ

phong chức Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp. Đáng lẽ cử hành sáng hôm nay nhưng mưa to quá, suối đầy nước lội qua không được. Vả lại Hội đồng Chính phủ vẫn chưa hết chương trình, phải để lại buổi chiều.

Cả buổi sáng, Hội đồng giải quyết các vấn đề lặt vặt ở các Bộ không có gì quan trọng lắm. 12 giờ trưa xong, trời cũng bắt đầu tạnh mưa. Ăn xong, nghỉ một chốc, đến một giờ đi đến địa điểm làm lễ thụ phong.

Trong một căn nhà dựng bên cạnh suối nước lớn, dựa một bên núi, cây cối chen phủ kín, ở ngoài trông vào rất khó thấy mà máy bay cũng khó lòng lục lạo. Một phòng trưng bày đặc biệt. Có bàn thờ Tổ quốc,

chung quanh băng đỏ ghi các khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Thống nhất độc lập nhất định thành công”…Sự trưng bày rất đơn giản mà trang nghiêm.

Đến giờ làm lễ, Hồ Chủ tịch và Cụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội lên đứng hai bên bàn thờ, toàn thể nhân viên Chính phủ đứng sắp hàng trước bàn thờ. Hồ Chủ tịch tay cầm Sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi Cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt mà không nói được tiếng gì. Một phút vô cùng cảm động, có lẽ trong chúng mình không ai nhìn thấy ai, nhưng mỗi người đều rớm nước mắt.Giây lâu, Hồ Chủ tịch mới cất được tiếng mà tuyên bố: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ

LỄ THỤ PHONGQUÂN HÀM ĐẠI TƯỚNG

CHO TỔNG CHỈ HUY QUÂN ĐỘIVÕ NGUYÊN GIÁP

l VĂN HIẾN

L.T.S. Ngày 20/1/1948, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh phong chức Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội Võ Nguyên Giáp. Hơn 4 tháng sau, ngày 28/5 /1948, lễ thụ phong đã được tổ chức trọng thể tại chiến khu Việt Bắc. Nhân kỷ niệm 100 ngày mất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn hiến Việt Nam xin đăng lại bài tường thuật buổi lễ giản dị nhưng trọng thể và trang nghiêm này do Cụ Bộ trưởng Lê Văn Hiến - một thành viên Chính phủ trực tiếp dự lễ ghi lại đăng trong tập “Nhật ký của một Bộ trưởng” do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1995.

6

Page 7: Page 4 76 vh12

Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho”. Võ Nguyên Giáp nhận Sắc lệnh. Cụ Trưởng ban Thường trực nhân danh Quốc hội tuyên bố mấy lời. Ông Phan Anh thay mặt Chính phủ nói mấy câu chúc mừng. Cuối cùng Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Quốc Phòng nhân danh bộ đội, tỏ lời mừng của toàn thể bộ đội và nêu cao tinh thần phấn đấu anh dũng dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau cùng, Võ Nguyên Giáp đứng lên cảm ơn Hồ Chủ tịch, Quốc hội và Chính phủ, và tuyên bố sẽ tiếp tục nỗ lực làm tròn nhiệm vụ để đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước. Tuyên bố xong, Võ Nguyên Giáp lần lượt bắt tay tất cả mọi người. Rồi Hồ Chủ tịch tuyên bố bế mạc cuộc lễ.

Sau khi hết lễ, ai nấy ngồi xung quanh Hồ Chủ tịch và nghe Cụ nói sự xúc cảm của Cụ trong buổi lễ. Trước những ngày lễ có tính cách long trọng, Cụ không thể nào không nhớ đến các tiên liệt, các bạn đồng chí đã từ bao năm chiến đấu cho đất nước, chịu bao nỗi gian lao khổ sở, kẻ hy sinh đầu này, người hy sinh chỗ nọ, nhờ những hy sinh dũng cảm ấy nên mới có ngày nay. Mỗi lần nhớ đến các bạn ấy là Cụ cầm lòng không đặng. Cụ xin lỗi anh em.

Chúng mình nghe Cụ nhắc lại những ngày trong trường chiến đấu, trải qua những giai đoạn gian lao, cũng cảm thấy xúc động trong người khi nhớ đến các bạn ngày nay đã khuất bóng.

Toàn thể nhân viên Chính phủ ra chụp ảnh kỷ niệm”.n

Câu đối viếngĐại tướng Võ Nguyên Giáp

Tàithaolượclẫylừngthếgiới

Đứcnhânvănrạngrỡnonsông

Đặng Minh Phương

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

7

Page 8: Page 4 76 vh12

20 nămHuếl HOÀNG LINH

DI SẢNVĂN HÓA NHÂN LOẠI

Nằm giữa miền Trung Việt Nam, Huế trong một thời gian dài là Kinh đô của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta, có sông

Hương ru vỗ du dương, bao bọc bởi những đồi cây xanh tốt, trang trí thêm bằng những vườn tược sum suê, có những dòng kênh bao quanh như chạm khắc, thêu ren, thành phố Huế là một kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị. Xứ Huế có sắc thái riêng trong thiên nhiên Việt Nam đa dạng mà thống nhất. (Dĩ nhiên, từ đó) Xứ Huế có sắc thái riêng trong văn hóa Việt Nam đa dạng mà thống nhất. Vùng văn hóa Huế (Thừa Thiên - Huế) được phân lập trong những vùng văn hóa Việt Nam khác, như vùng văn hóa Tây Bắc, Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh, Tây Nguyên, Nam Bộ,…với những sắc riêng mà, muôn một (của) văn hóa hữu thể của vùng văn hóa Huế ấy là di tích cố đô Huế đã được Ủy ban Di sản thế giới của

UNESCO quyết định công nhận là Di sản Văn hóa của nhân loại vào ngày 11/12/1993, cách đây vừa tròn 20 năm. Quyết định đó của UNESCO chính là bản tuyên ngôn về sự khẳng định và tôn vinh của thế giới đối với văn hóa Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống văn hiến 4.000 năm của dân tộc và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đó cũng là sự khẳng định từ đây, Di tích cố đô Huế sẽ là tài sản chung của nhân loại, nằm trong vòng tay chăm sóc không chỉ của người dân Huế, không chỉ của người dân Việt Nam, mà của cả thế giới.

Còn nhớ, với sức tàn phá của thời gian dòng dã hơn 300 năm ở trong vùng gió mùa này, cùng với sự phá hoại của một trong những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất lịch sử, kinh thành Huế, ở trong thành nội cũng như trong Tử Cấm Thành, hầu hết những cung điện đã bị cháy trụi

Ảnh SGpt

8

Page 9: Page 4 76 vh12

hoặc hư hỏng nhiều. Không ít những giá trị vật thể và phi vật thể trong kho tàng văn hóa và thiên nhiên đẹp đẽ lạ thường của thành phố Huế đã bị chiến tranh, bom đạn, sự ly tán, cuộc mưu sinh, gió mưa… lấy đi. Những di tích may mắn còn sót lại thì, mưa gió làm mòn phai những mẫu hình trang trí, xóa mờ những màu sắc và làm hư nát những cột kèo, rui xà bằng gỗ, và cây cỏ xâm lấn dần vườn cảnh và hồ nước. Trước cảnh hoang tàn của kinh thành Huế, không chỉ trong mỗi tâm hồn người Huế - dù kẻ ở hay người đi - trong mỗi tâm hồn Việt Nam dù đến Huế một lần hay chưa từng đến Huế, đều không khỏi xót xa về những gì còn - mất trên kinh đô nhỏ bé này. Nhưng chỉ sau 20 năm Huế là Di sản văn hóa nhân loại, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ ngày càng có hiệu quả của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là sự nỗ lực thực hiện các chương trình hành động với sự tham gia đông đảo, đồng bộ của các ngành, các lực lượng của nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế, công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa Huế đã có chuyển biến mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng tự hào. Nhiều di tích bị hủy hoại nghiêm trọng bởi chiến tranh và thiên tai, bão lũ và cả sự vô cảm của con người trước đó, đã được khôi phục. Một số công trình kiến trúc có giá trị tiêu biểu đã được trùng tu. Di sản văn hóa phi vật thể từng bước được phục hồi; cảnh quan thiên nhiên ngày càng được quan tâm giữ gìn, bảo vệ. UNESCO đã nhất trí đánh giá, quần thể di tích cố đô Huế đã vượt qua cơn hiểm nghèo và đang từng bước được hồi sinh. Những giá trị và tinh hoa hương sắc tưởng chừng bị mai một đã dần dần sống lại trong sinh hoạt cộng đồng, trong nếp nghĩ và việc làm hàng ngày của người dân cố đô Huế. Từ đó đã khôi phục lại diện mạo ban đầu và nâng lên một tầm cao mới giá trị văn hóa hữu thể và văn hóa phi vật thể của kinh đô của triều đại cuối cùng lịch sử phong kiến Việt Nam, tạo nên tiềm năng to lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa và du lịch, góp phần mở rộng giao lưu và hội nhập vào đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với văn hóa nhân loại.

Sau 20 năm là Di sản văn hóa nhân loại, có thể khẳng định Huế đã được cứu vãn. Huế đã thực sự sống lại tràn đầy trong từng mạch vôi vữa, giữa những nền móng, trên mỗi viên ngói chịu nhiều mưa gió. Huế đã thực sự có được lòng tin cậy và sự giúp đỡ kịp thời rất quý báu của những người yêu Huế để tự bảo tồn và phát triển.

Từ sự xót xa, nay Huế đã trở thành niềm tự hào trong mỗi tâm hồn không chỉ của riêng người Huế, mà là của cả dân tộc Việt Nam. Hơn mọi thời kỳ trong lịch sử, Huế

đã được đón tiếp rất nhiều sứ giả của nhân loại đến chiêm ngưỡng và hợp tác và làm việc. Tự hào hơn, kiêu hãnh hơn, trong 20 năm qua, thông qua Di sản Văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam đã vượt qua biên độ của không gian, tỏa sáng và hội nhập với các nền văn minh lâu đời của thế giới. Đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và tin tưởng: “Tôi tin rằng cùng với thời gian, cái nhìn của chúng ta với quần thể kiến trúc cung đình Huế, chung hơn, với thành phố Huế sẽ không ngừng biến đổi. Một ngày nào đó cung điện và lăng tẩm là biểu tượng của quyền uy, lại một lần nào đó là biểu tượng của hoài niệm, tâm linh, và bây giờ là sự thanh lọc của ngày tháng, cả Kinh Thành trở lại vẹn nguyên trong thế giới của văn hóa, mới mẻ trong từng nếp rêu dĩ vãng….Thành phố của những con người với chất giọng riêng biệt ấy, với màu áo quyến rũ ấy, với tiếng hát dìu dặt ngưng đọng ấy, với vị cay và vị ngọt ấy, với chuông chiều thu không tĩnh lặng ấy… phải chăng sẽ còn mãi trong tình yêu của chúng ta?...Bây giờ thì tôi có thể nói thực sự vui mừng về lòng tự trọng và những cố gắng không mệt mỏi của Thừa Thiên - Huế đã giữ gìn cho đất nước một kinh thành từng được dựng lên bằng tiền của, mồ hôi, xương máu của cả một quốc gia ở thời đại thịnh của nó. Những nỗ lực chỉ có thể liên tưởng bằng các chuyện thần thoại, trong đó các nhà quản lý, các kỹ sư, thợ xây dựng của chúng ta phải ngày đêm giành giật từ tay Thần Gió, Thần Sấm, Thần Mưa từng công trình kiến trúc, từng hàng cây cổ thụ, khôi phục từng chút vẻ đẹp vốn có của nó, giúp nó vượt qua cơn lũ của sự quên lãng, đưa nó trả lại với con người. Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, Thế Miếu, Lăng Tự Đức, Lăng Minh Mạng… được tu sửa từng phần và vẻ đẹp rạng rỡ của non sông xưa như tìm thấy lại”.

So với thời gian phía trước, 20 năm qua, kể từ ngày UNESCO công nhận quần thể kiến trúc Huế là Di sản văn hóa nhân loại, là vô cùng ít ỏi. Dẫu vậy, Huế cũng đã chứng minh cho thế giới thấy tầm vóc một di sản văn hóa, chứng minh khả năng giữ gìn di sản của người Huế, của người Việt Nam và, của nhân loại.

Hai mươi năm qua, công việc mới là bắt đầu, nhưng đã cho tôi, cho bạn, cho chúng ta - những người yêu Huế một niềm tin Huế sẽ hài hòa tuyệt diệu trong phong cảnh diệu huyền của núi Ngự Bình và dòng sông Hương, sẽ muôn đời Đẹp và Thơ.

Bởi, Huế là một bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa loài người, luôn được chúng ta bảo vệ, giữ gìn bằng Tâm/huyết và Khoa học cho những thế hệ tương lai.n

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

9

Page 10: Page 4 76 vh12

Nghệ thuật đờn/đàn ca tài tử Nam Bộ là loại hình nghệ thuật dân gian, ra đời vào thế kỷ XIX ở Nam Bộ - Việt Nam, trên cơ sở kết

hợp giữa âm nhạc dân gian và âm nhạc bác học (cụ thể là nhã nhạc miền Phú Xuân - Thuận Hóa và ca Huế) ở những loại bản lớn như Nam, Oán, Ngự. Đàn/đờn ca tài tử được người dân Nam Bộ ưa thích, hâm mộ, dần dần phát triển hoàn thiện và trở thành một loại hình sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật phổ biến vào thập niên 1930.

Môi sinh /không gian văn hóa ra đời và nuôi dưỡng nghệ thuật đàn/đờn ca tài tử là vùng đất Nam Bộ - cụ thể hơn là miền đồng bằng sông Cửu Long. Trước khi người Việt vào khai phá vùng đất này, nơi đây đã chịu những cơn thịnh nộ của thiên nhiên, những trận đại hồng thủy đã tiêu hủy, vùi lấp tất cả những gì mà con người đã mất bao sức lực dựng xây nên. Song, dưới cái vẻ hoang tàn/hoang vu ấy, ẩn chứa một cơ tầng văn hóa Khơmer cổ. Với những lưu dân người Việt, vùng đất Nam Bộ là vùng “đất mới” (tất nhiên, “mới” đây là tương đối mới so với Đất Tổ Bắc Bộ “quê hương buổi đầu của người Việt” (Phạm Văn Đồng), cũng tương đối mới so với mảnh đất miền Trung Bộ.

Các lưu dân Việt trong quá trình Nam tiến mở cõi qua nhiều đợt di dân (có tổ chức và tự do), đã tới khai phá và định cư lại ở vùng đất “chín Rồng” màu mỡ. Người đến/ở đâu, văn hóa sinh ra/nảy nở ở đó. “Từ độ mang gươm đi mở cõi” (thơ Huỳnh Văn Nghệ), truyền thống văn hóa của vùng đất cha ông cũng theo chân người Việt vô đây, tiếp tục phát triển trong môi cảnh mới, đã tạo nên những nét văn hóa đặc sắc, khác lạ với văn hóa nơi quê cha đất tổ. Như các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc của người dân Nam Bộ cũng phát triển, với nhiều loại hình mới, trong đó có đờn ca tài tử trên cơ sở của nền văn hóa ấy, làm cho sinh hoạt ca hát của cư dân Nam Bộ rất phong phú, đa dạng.

Đờn ca tài tử xuất hiện đầu tiên từ / trong các lễ hội dân gian ở các làng xã vùng đất Gia Định. Trên cơ sở ba điệu thức Oán, Bắc và Nam, dân gian hay nói đúng hơn là những tài tử ,vùng đất Chín Rồng đã sáng tạo một số “lòng bản” / cốt cách theo những mô thức nhất định, tạo nên “mầu” âm nhạc tài tử riêng, với 3 loại “hơi” là: hơi Nam tôn nghiêm, tự tin, nhẹ nhàng; hơi Bắc vui tươi, khỏe khoắn, rộn ràng; hơi Oán tỏ nỗi đau đớn, oán hờn, thường được dùng đặc tả nỗi thống khổ của người bạc phước, số kiếp bẽ

l TRƯƠNG NGUYỄN

ĐƯỢC UNESCO CÔNG NHẬN LÀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ NHÂN LOẠI

NGHỆ THUẬT ĐÀN/ĐỜN CA TÀI TỬ NAM BỘ

Ngày 04/12/2013, một tin vui đến với người dân Nam Bộ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung, Nghệ thuật đàn/đờn ca tài tử Nam Bộ đã được UNESCO chính thức công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể nhân loại. Đây là Di sản Văn hóa thế giới đầu tiên trên mảnh đất Nam Bộ và là Di sản Văn hoá phi vật thể thứ 8 của Việt Nam được UNESCO công nhận.

10

Page 11: Page 4 76 vh12

bàng, hoặc số phận người dân mất nước, sống mà như đã chết. Cái “mầu” âm nhạc ấy của đờn ca tài tử phù hợp với đồng bằng sông Cửu Long - một vùng đất rộng, hệ thống sông rạch chằng chịt, người thưa, phương tiện di chuyển đi lại chủ yếu là ghe thuyền, làm ăn thuận lợi, mau khá, lúa gạo dư thừa, nảy sinh dân thương hồ (buôn bán bằng xuồng ghe) và đạo đi buôn. Theo GS. Trần Quốc Vượng, Nam Bộ “đất rộng rãi, nông phóng khoáng, cá đầm đìa, nhà không rào, làng không lũy, thương hồ phiêu lãng” đã tạo nên “cá tính miền Nam” là chất phóng khoáng, hiếu khách, nặng nghĩa. Sinh hoạt đờn ca tài tử hoàn toàn tự phát trên cơ sở tự nguyện (tài tử), không phải bận tâm chuyện trang trí phông màn, sân khấu, không cần hóa trang cầu kì, cũng không giới hạn số lượng người tham gia tiết mục. Các tài tử đều rất nhiệt tình, vui vẻ. Người chơi - các tài tử không ai đặt vấn đề “bồi dưỡng” bao giờ. Cuộc chơi có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, thường thì bắt đầu lúc trời vừa sụp tối sau một ngày lao động mệt nhọc, có khi mê say kéo dài thâu đêm suốt sáng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù với không khí nhộn nhịp của những buổi họp mặt, cưới hỏi, giỗ chạp diễn ra tại tư gia một nhà hàng xóm, hay những đêm trăng thanh gió mát, thậm chí một đêm tối trời tĩnh lặng, đều có thể làm các tài tử bất chợt nổi hứng, trải đệm ngoài sân nhà, sân lúa, ngồi xếp bằng tròn… đờn/đàn và cất lên lời ca đầy tâm sự, chất / chan chứa nỗi lòng, nỗi niềm.

Nhạc cụ /đờn/đàn sử dụng trong âm nhạc tài tử, cũng phát triển qua thời gian. Ban đầu, ban cổ nhạc tài tử chỉ có đàn kìm (đàn nguyệt), đàn cò (nhị), độc huyền cầm (đàn bầu), đàn tranh (đàn thập lục), tiêu (sáo trúc), đàn tỳ bà, một số nhạc cụ bộ gõ như trống nhỏ, nhiều loại cồng nhỏ, chuông, chuôm chọe nhỏ. Sau khi văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta, dàn nhạc tài tử Nam Bộ bổ sung thêm đàn violon, ghita phím lõm. Đặc biệt là ghita phím lõm, một sáng tạo độc đáo, trên cơ sở đàn ghita du nhập từ phương Tây vào.

Cùng với thời gian, nghệ thuật đờn/đàn ca tài tử thoát khỏi các lễ hội, kết hợp với dân ca Nam Bộ để phát triển toàn diện vào thập niên 1930, làm ra đời một loại hình /binh chủng nghệ thuật mới để trình diễn với quần chúng trên sân khấu vào đầu thế kỷ XX - nghệ thuật Cải lương mang đậm đặc “cá tính miền Nam” mà lại có sức lan tỏa ra cả nước về sau. Nghệ thuật Cải lương trên cơ sở kế thừa và phát triển đờn/đàn ca tài tử đủ sức phục vụ cho một sân khấu trữ tình hỷ, nộ, ái, ố. Thêm vào đấy là sự tiếp thu những đặc tính của dân ca Nam Bộ (giai điệu vừa là nhạc kể chuyện (hát nói), vừa là nhạc đối đáp), đã tạo cho âm nhạc Cải lương ngoài chất trữ tình, còn có chất tự sự. Điều này đã làm nên đặc trưng nghệ thuật của sân khấu cải lương: đó là tính tự sự - trữ tình.

Với Nghệ thuật đờn/đàn ca tài tử Nam Bộ, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Nhã nhạc cung đình Huế, Lễ hội Thánh Gióng, Ca trù, Dân ca quan họ Bắc Ninh, Hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được vinh danh là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại, đã làm cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ba miền Bắc - Trung - Nam nước ta phong phú và khởi sắc. Song, cũng như các Di sản văn hóa nhân loại khác đã được vinh danh ở nước ta trước đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị của Nghệ thuật đờn/đàn ca tài tử Nam Bộ đang cần sự chung tay của nhà quản lý và những người làm nghệ thuật tài năng, tâm huyết, có Tâm, đặc biệt là của người dân Nam Bộ - chủ nhân sáng tạo nên loại hình nghệ thuật đặc biệt này. n

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

11

Page 12: Page 4 76 vh12

Cuối tháng 11 năm 2013 để tiếp tục tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết - Hội nghị lần thứ V của BCH Trung ương Đảng Khóa VIII

về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hội đồng lý luận VHNT Trung ương tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Phấn đấu sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật cao - thực trạng và giải pháp.

Đây là vấn đề không có gì mới nếu không nói là rất cũ: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Nhưng có điều, biết rồi, và nói mãi mà vẫn không chuyển biến, hoặc chuyển biến rất chậm, vì vậy mà các cơ quan quản lý, lãnh đạo VHNT nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc nói trên là vô cùng cần thiết. Sở dĩ vậy, bởi sức ỳ của nền VHNT Việt Nam đang thể hiện quá rõ qua các liên hoan, hội diễn và qua hội thảo khoa học các chuyên ngành

nghệ thuật (* ) Ở đây, tôi chỉ giới hạn trong ngành sân khấu và đi sâu hơn vào các loại hình nghệ thuật, sân khấu, dân tộc, lãnh địa mà tôi đang hoạt động và tiếp cận được nhiều hơn.

Thử nhìn lại trong một thập kỷ qua, trên các sân khấu, các loại hình tuồng, chèo, cải lương và dân ca kịch như Bài chòi, ca Huế, Ví dặm Nghệ Tĩnh, có rất ít vở diễn hay, thể hiện rõ nhất ở các liên hoan hội diễn sân khấu chuyên nghiệp cứ 3 năm một lần. Trong các cuộc đua tài đó, hầu hết các nhà hát, đoàn nghệ thuật rất vất vả trong việc đi tìm kiếm kịch bản hay, mặc dù đội ngũ viết kịch ở nước ta đang tồn tại khá đông, nhưng người viết cho sân khấu, nhất là sân khấu dân tộc thì rất ít. Vì vậy mới có hiện tượng một tác giả như Trần Đình Ngôn đã có tới 6 vở tham gia hội thi chèo tại Hải Phòng cuối tháng 10 năm 2013, hoặc nhà viết

l GS. HOÀNG CHƯƠNG

ĐỂ NGÀNH SÂN KHẤU DÂN TỘC CÓ TÁC PHẨM HAY

Làm thế nào

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

12

Page 13: Page 4 76 vh12

kịch Nguyễn Đăng Chương cũng có tới ba, bốn vở tham gia trong các hội diễn năm 2013.

Về đạo diễn, cũng có hiện tượng tương tự, có người dựng tới ba, bốn vở trong một hội diễn. Như vậy làm sao đủ thời gian vật chất đầu tư cho những đứa con tinh thần của mình được tròn trặn, khôi ngô, cụ thể là tác phẩm của mình có giá trị nghệ thuật cao. Tôi đã từng chứng kiến hai nhà văn tên tuổi Thanh Nha và Thế Lữ khi cùng viết vở dân ca kịch “Tiếng sấm Tây Nguyên” năm 1960 chỉ một lớp cho nhân vật Tống Lang chết mà hai ông phải trao đổi suốt một đêm dài mới xử lý nổi. Cũng gần như vậy, khi tôi dựng vở tuồng “Quang Trung đại phá quân Thanh” cho Nhà hát Tuồng Đào Tấn (Nghĩa Bình) tác giả Trúc Đường phải vào nằm ở TP Quy Nhơn một tháng trời để chữa kịch bản tại chỗ, nhờ vậy mới có một vở tuồng hay được Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (đầu năm 1980) xem và đánh giá cao. Tổng bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng xem xong còn gặp tác giả và đạo diễn để trao đổi để cho vở Tuồng tiếp tục hoàn thiện thành một tác phẩm hay.

Trong lịch sử sân khấu thế giới, những nhà viết kịch được tôn vinh, chỉ có năm, mười vở thôi, như trường hợp L.Cargrale (Rumani) đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Việt Nam đã dịch và đã diễn vở “Đêm giông tố” của Caragrale. Ngay cả Sếchxpia vĩ đại của nước Anh cũng không có quá mười kịch bản, nhưng hầu hết là tác phẩm hay, là kịch bản để đời, kịch sống mãi với thời gian. Ở Việt Nam ta trước đây cũng vậy, như trường hợp Đào Tấn, Nguyễn Diêu, Trần Hữu Trang… mỗi ông để lại cho đời 5, 10 tác phẩm hay là quá đủ để cho người đời chiêm ngưỡng.

Ngày nay, có lẽ do tác động của cơ chế thị trường mà ngành sân khấu quan tâm đến số lượng, chạy theo số lượng hơn là chất lượng cao. Thậm chí có những vở tuồng được coi là Kiệt tác nhưng đâu đó đưa lên sân

khấu trở thành vở diễn tầm thường.Hiện tượng “chạy sô” lấy lượng thay chất, và hiện

tượng lặp lại mình khá phổ biến trong một số tác giả và tác phẩm sân khấu chuyên nghiệp trong thời gian qua rất rõ. Nhiều tác giả, đạo diễn đã liệt kê thành tích tới hàng trăm tác phẩm nhưng rất ít tác phẩm ghi được dấu ấn trong ký ức người xem.

Hàng chục trại sáng tác đã mở ra, nhưng gặt hái thành quả chẳng được bao nhiêu. Kịch bản hay không có, hoặc rất ít, buộc các nhà hát, các đoàn sân khấu phải lấy cũ làm mới, nhưng thường vở cũ làm mới lại không bằng vở cũ, bởi việc đầu tư tiền bạc, chất xám và thời gian cần thiết không bằng ngày xưa. Ngày xưa đời sống vật chất thì rất thấp, nhưng tinh thần lao động sáng tạo lại rất cao, vở dàn dựng, phải tập luyện hai, ba tháng trời là chuyện bình thường. Còn bây giờ thì… vài tuần lễ là xong một tác phẩm. Vì vậy mà sự sơ lược, sống sượng là chuyện dễ xảy ra.

Là người từng ngồi làm giám khảo hội diễn, hội thi sân khấu dân tộc, tôi có cảm giác, các giám đốc, trưởng đoàn sân khấu trong cả nước hiện nay đều có chung mục tiêu là đầu tư cho nghệ sĩ trẻ để giành được huy chương vàng, bạc hơn là đầu tư cho vở diễn hay. Vì có huy chương mới có danh hiệu NSUT, NSND và nghệ sĩ có danh hiệu rồi mới chịu gắn bó với đơn vị, không thì bỏ nghề, bỏ nhà hát.

Điều này thấy rất rõ ở hội thi tuồng và dân ca kịch tại TP Tam Kỳ Quảng Nam năm 2013. Suốt tám ngày đêm mà không tìm ra được một vở tuồng hay để trao Huy chương Vàng. Đến như Nhà hát Đào Tấn - một anh cả đỏ trong làng tuồng Việt Nam, mà phải trắng tay mang thất bại trở về “chịu tội” trước anh linh vị hậu tổ của mình là Đào Tấn! Vì sao dẫn đến thảm họa này? Theo chúng tôi được biết thì lãnh đạo Nhà hát này, từ tác giả đến đạo diễn chưa đầu tư đúng mức cho kịch bản Đêm phương Nam - kịch bản văn học chưa thật hoàn chỉnh, lại thêm đạo diễn dàn dựng đã lệch chủ đề tư tưởng của tác phẩm, biến nhân vật anh hùng dân tộc Quang Trung thành con người “ủy mị” thương dân phương Nam mà cứ đầm đìa nước mắt và biến Nữ tướng Bùi Thị Xuân thành một “cán bộ dân vận”… Hành động của những nhân vật anh hùng, võ tướng như vậy thì làm sao đánh bại được 5 vạn quân Xiêm hùng mạnh và giải phóng được miền đất phương Nam trong cuối TK 18? Muốn xây dựng một công trình nghệ thuật, một tác phẩm nghệ thuật lớn không thể bỏ qua yếu tố tri thức, tài năng. Xem thường yếu tố này sẽ chuốc lấy thất bại.

Cảnh trong vở Tuồng Sơn Hậu - Nhà hát Tuồng Việt Nam. Ảnh Internet

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

13

Page 14: Page 4 76 vh12

Sáng tác kịch bản sân khấu “là khó nhất trong các thể loại văn học”, nói như văn hào Macxim Gorki, nhưng dường như còn rất nhiều người chưa nhận thức rõ điều đó, mà cứ cho đẻ những đứa con thiếu tháng, hoặc thiếu những yếu tố cần thiết về tính sân khấu và tính văn học để cho ra đời, cho xuất hiện trên sân khấu những tác phẩm tầm thường, đó là nguyên nhân làm cho khán giả quay lưng với sân khấu. Các đoàn nghệ thuật vì thiếu kịch bản mà buộc phải dàn dựng những vở kịch chưa đạt chất lượng cao. Trong khi một vở ca kịch dân tộc hay là phải đủ các tiêu chí: kịch bản văn học hay (thơ hay), câu chuyện kịch hấp dẫn với nội dung phản ánh một hiện thực mà xã hội quan tâm, vở phải mang ý nghĩa triết luận sâu sắc về trung hiếu, tiết nghĩa, về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, về tình yêu con người, như những vở: Hộ sanh đàn, Diễn võ Đình, Trần Hương Cát… của Đào Tấn, như Ngũ Hổ Binh Liêu (3 hồi), Hồ Nguyệt Cô hóa cáo của Nguyễn Diệu, hoặc Đông Lộ địch của Ưng Bình Thúc Gia Thị hoặc những vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính, Xúy Vân giả dại hoặc những vở Cải lương : Tô Ánh Nguyệt, Đời Cô Lựu… của Trần Hữu Trang

Câu chuyện kịch trong những vở tuồng, chèo, cải lương… hay, không chỉ có ý nghĩa giáo dục mà còn phải được thể hiện ngôn ngữ văn học hay, bằng những câu thơ hay, thông qua các làn điệu thật hợp lý, thật sâu sắc, chữ ít, nghĩa nhiều. Ví dụ, câu hát Nam của nhân vật Kỷ Lan Anh trong tuồng “Hộ sanh đàn” của Đào Tấn:

“Lao xao sóng vỗ ngọn tùngGian nan là nợ anh hùng phải vay”Hoặc câu hát Nam của nhân vật Hồ Nguyệt Cô

trong tuồng “Hồ Nguyệt Cô hóa cáo” của Nguyễn Diêu, thật quá hay:

Đã phủi rồi son phấn một trườngÂu trở lại nước non ngàn dặmNgàn dặm thẹn cùng non nướcGẫm mơ màng thân trước thân sauDặm hòe một bước một đauNhìn xem cảnh cũ ra màu dở dangÔm lòng hổ với phu langÔi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây…Kho tàng tuồng truyền thống vô cùng quý giá mà

chúng ta đang kế thừa là do những bậc thức giả, những nghệ nhân có tài sáng tác dưới sự chỉ đạo của những thầy Tuồng. Thầy Tuồng là người am hiểu sâu sắc về văn học dân gian và văn thơ cổ điển.

Văn thơ trong nghệ thuật truyền thống phải hay,

phải thâm thúy, sâu sắc kết hợp với các yếu tố nghệ thuật khác hoàn thiện từ nội dung đến hình tượng nhân vật và ca hát… thì mới được coi là tác phẩm hay. Nhưng ngày nay rất ít người chịu nghiên cứu học tập, tiếp thu vận dụng kịch bản truyền thống vào sáng tác, và đạo diễn của mình, nên đa số vở diễn đều non kém về mặt văn học, xa rời truyền thống về xử lý nghệ thuật theo phương pháp cách điệu, ước lệ đầy tính khoa học, mặc dù đạo diễn hiện đại có tìm tòi nhiều hình thức mới, nhưng cái mới không ăn nhập với cái cũ - truyền thống nên lại “gieo vừng ra ngô” như Bác Hồ đã cảnh báo. Đó là một trong những nguyên nhân ít có tác phẩm hay trên sân khấu truyền thống hiện nay.

Trước thực trạng ngành nghệ thuật sân khấu dân tộc còn ít tác phẩm hay, tôi xin đề xuất mấy giải pháp nhỏ dưới đây: Trước hết phải đầu tư cho những nhà văn, nhà viết kịch có tài năng và tâm huyết có hiểu biết sâu rộng về nghệ thuật truyền thống sáng tác theo đơn đặt hàng, theo đề tài, và theo thời gian nhất định. Như trường hợp mới đây chúng tôi đặt hàng nhà viết kịch Lê Quý Hiền viết về đề tài văn hóa giao thông. Bản thảo thứ nhất tuy văn học kịch thì hay nhưng nội dung chưa trúng về văn hóa giao thông, kịch tính chưa cao, tính hấp dẫn còn hạn chế nên chúng tôi từ chối và đề nghị nhà viết kịch viết lại vở khác theo gợi ý nội dung của chúng tôi. Kết quả kịch bản thứ hai lấy tên là “Đoạn cuối của một cuộc tình” đạt yêu cầu và được Đạo diễn NSND Lê Hùng nhận dàn dựng cho Đoàn kịch Hải Phòng rất thành công. Vở diễn được UBATGTQG chấp nhận, được khán giả hoan nghênh và các đài truyền hình VTV1, ANTV, TTXTV, VOV đã ghi hình và phát trong những ngày cuối tháng 11 năm 2013.

Như vậy, muốn có tác phẩm hay, phải “chọn mặt gửi vàng”, phải đầu tư đúng chỗ, đúng người, đúng việc. Cụ thể là chọn đúng tác giả, đạo diễn có tài năng và đơn vị thực hiện vở diễn phải là một tập thể nghệ sĩ tài năng, giàu kinh nghiệm cũng thực thì sẽ đem lại kết quả khả quan. Đó là tác phẩm hay. Còn “tác phẩm cao” thì như định nghĩa của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, là: Tư tưởng phải 100 phần trăm và nghệ thuật cũng 100 phần trăm./. n

* Xem bài “Nâng cao tính dân tộc trong phim truyện hiện nay”

của PGS - TS Hồng Vinh - Tạp Chí văn hiến Việt Nam số 10/2013

Và bài: Thấy gì qua Hội thi Tuồng và dân ca kịch toàn quốc ở

TP Tam Kỳ năm 2013 của GS Hoàng Chương đăng trên tạp chí

tuyên giáo số 7 - 2013

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

14

Page 15: Page 4 76 vh12

Võ Hồng Anh sinh ở Hà Nội, nhưng không được sống với ba mẹ nhiều, vì hai người bận việc cách mạng. Chưa đầy 1 tuổi, Hồng Anh

đã cùng mẹ tiễn cha bí mật sang Trung Quốc tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Mẹ gửi Hồng Anh về sống với bà nội ở thôn An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà nội đã nhiều lần phải bế Hồng Anh sơ tán, chạy giặc từ Quảng Bình ra Hà Tĩnh, Nghệ An,...sống trong sự đùm bọc, chở che của những người dân Khu IV. Năm 1942, bà Quang Thái

bị địch bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò. Bị giam giữ và tra tấn nhiều, sức khỏe của bà yếu đi nhiều. Bà mong ước cháy bỏng được gặp Hồng Anh. Bà nội chiều con dâu, đưa Hồng Anh lên tầu ra gặp mẹ, nhưng chuyến tầu đó bị máy bay của quân đồng minh ném bom, bà cháu không ra Hà Nội được. Bà Quang Thái hy sinh trong nhà giam Hỏa Lò năm 1944 mà không được gặp chồng, gặp con. Lúc đó, Hồng Anh mới 2 tuổi. Trước lúc hy sinh, mẹ Quang Thái đã gửi một bức tâm thư, trong đó đã nhắn cho con gái “Hồng Anh phải không

l NGUYỄN MINH HOÀNG

SỰ IM LẶNGQuy ước của Tình Yêu Thương không lờiGiữa VÕ HỒNG ANH với người chaĐại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

MỐI TÌNH LÃNG MẠN GIỮA HAI TRÍ THỨC TRẺ CÓ HOÀI BÃO LỚN VÕ NGUYÊN GIÁP (SAU NÀY LÀ VỊ ĐẠI TƯỚNG HUYỀN THOẠI CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM) VÀ NGUYỄN THỊ QUANG THÁI - EM RUỘT NGUYỄN THỊ MINH KHAI - BÍ THƯ THÀNH ỦY TP SÀI GÒN - GIA ĐỊNH NĂM 1940-1941- VỢ CỦA NHÀ CÁCH MẠNG NỔI TIẾNG LÊ HỒNG PHONG ĐÃ KẾT TINH CHO ĐỜI MỘT NHÀ KHOA HỌC HẠT NHÂN TÀI NĂNG, ĐỨC ĐỘ GS.TS VÕ HỒNG ANH. NĂM VÕ NGUYÊN GIÁP CƯỚI NGUYỄN THỊ QUANG THÁI KHI ÔNG 24 TUỔI, CÒN BÀ VỪA TRÒN ĐÔI MƯƠI. SAU KHI CƯỚI NHAU, NGUYỄN THỊ QUANG THÁI THEO CHỒNG RA HÀ NỘI. VÕ NGUYÊN GIÁP DẠY HỌC, CÒN QUANG THÁI THÌ THI ĐỖ VÀO HỌC TRƯỜNG THUỐC (NAY LÀ ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI).

Mẹ con Võ Hồng Anh

15

Page 16: Page 4 76 vh12

Bình mình trên biển.Ảnh hoangnamduong’s photos

biết khổ, nhưng phải biết thương người nghèo khổ”. Kỷ niệm về mẹ của Hồng Anh chỉ được nghe bà nội, bà ngoại và ba Giáp kể lại.

Khi bà Quang Thái bị bắt giam, Võ Nguyên Giáp đã về nước theo chỉ thị của Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo khác xây dựng chiến khu Cao - Bắc - Lạng. Ông không biết vợ mình bị địch bắt giam. Nhiều khi ngồi dưới gốc cây trong rừng đại ngàn, ông mong đến ngày được gặp lại vợ và con gái. Do điều kiện hoạt động phải giữ bí mật, lâu lâu ông mới gửi về nhà một bức thư viết trên mẩu giấy thuốc lá khi có liên lạc trực tiếp. Ông chia sẻ với vợ nỗi đau chị Minh Khai hy sinh. Ông không hề hay biết vợ ông đã hy sinh trong tù. Những lá thư chứa chan tình yêu viết trên giấy thuốc lá mỏng manh vẫn tiếp tục gửi về địa chỉ người đã mất. Cho đến một ngày tháng 4 năm 1945, trong Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp ở Hiệp Hòa, Bắc Giang, ông Giáp mới nghe đồng chí Trường Chinh nói tin dữ mà tưởng ông đã biết:

- Chị Thái chưa kịp rút vào hoạt động bí mật thì bị chúng bắt... Cũng không ngờ chị mất ở trong tù.

Nghe tin quá đột ngột, ông Giáp lặng người hỏi:- Anh nói sao?Ông Trường Chinh rất ngạc nhiên:- Anh chưa biết tin à?Quang Thái mất rồi ư? Bị sốc quá mạnh, ông Giáp

bàng hoàng đi sang buồng bên, bỏ dở cuộc họp... Ông không ngờ cái ngày hôm ấy, cuộc chia tay ngắn ngủi, bịn rịn bên hồ Tây lại là lần cuối cùng ông gặp người vợ thương yêu. Nén nỗi đau riêng, ông trở lại với trách nhiệm của người chỉ huy Đội Tuyên truyền giải phóng quân Việt Nam.

Mãi tới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, năm 1946, Hồng Anh mới gặp lại cha mình. Nhiều năm sau, bà Võ Hồng Anh vẫn ấn tượng về lần gặp cha ấy: “Năm 1946, khi tôi được gặp ba lần đầu, trong dịp ba ghé thăm ông bà nội và tôi ở Đồng Hới (Quảng Bình) trên đường đi kinh lý Nam Bộ - thì tôi lại ngậm thinh, nhất định không nói một lời nào, kể cả khi ba bế tôi ra chỗ vắng, chỉ với một câu hỏi: Có nhớ, có thương ba không?”. Lần thứ hai Hồng Anh được gặp cha là vào năm 1951. Sau chiến thắng chùa Non Nước (Ninh Bình), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đạp xe thẳng từ đấy về Thanh Chương, Nghệ An thăm hai bà cháu. Lúc đó, ba có hỏi gì, Hồng Anh cũng lặng thinh. Kể cả lúc ba đèo con gái bằng xe đạp lên chợ Rạng, Đô Lương thăm cậu ruột của bà, dọc đường ba lại hỏi: “Con có nhớ ba không?”, Hồng Anh cũng im lặng trong tiếng xích xe đạp lạo xạo đường quê... Những chi tiết trên, sau này bà Hồng Anh kể, đã cho thấy ngay từ nhỏ, Võ Hồng Anh đã thể hiện một cá tính gan góc, lối tư duy tự lập. Qua đây, ta hiểu thêm về một khía cạnh đời thường của vị Đại tướng huyền thoại. Ông vô cùng xót xa do bận việc nước mà không có thời gian chăm sóc con thơ, thương con hơn ai hết nên ông rất hiểu tính khí đặc biệt của con gái, nên giữa hai cha con hình thành nên sự hiểu nhau không cần lời. Một tác giả khi nghe bà Võ Hồng Anh kể chuyện lúc nhỏ, đã nhận xét rất đúng về sự im lặng đó: “Sự im lặng này gần như trở thành quy ước của yêu thương không lời giữa hai ba con”.

Năm 1951-1952, Võ Hồng Anh học tại Trại Thiếu sinh quân Quảng Trị đóng ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó, Võ Hồng Anh cùng bà nội theo liên lạc

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

16

Page 17: Page 4 76 vh12

của bộ đội đi bộ từ Thanh Chương, Nghệ An ra chiến khu Việt Bắc để sống bên người cha. Tướng Giáp rất yêu thương con gái, song không cưng chiều. Sau này bà Võ Hồng Anh kể về những ngày ở Việt Bắc “thỉnh thoảng ba tôi lại bảo bà nội “Buổi chiều bà cho Hồng Anh tham gia với các chú bộ đội. Tôi lấy đôi ủng của ba để đi ra ruộng rau (như mọi đứa trẻ, tôi thích thú vì đó là thứ của ba và tôi rất sợ bị vắt bám), đôi ủng cao lút cả hai chân, tôi đi vẹo vọ, nhìn rất ngộ. Tôi mới học lớp ba, bốn gì đó, ba bắt đọc cuốn “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” của bác Trường Chinh”.

Từ năm 1952-1954, Võ Hồng Anh được sang học tại Trường Thiếu nhi Việt Nam tại Quế Lâm, Trung Quốc. Trước khi đi, Hồng Anh được cha kể về mẹ, về lòng vị tha, đức hy sinh, về tính cách vừa dịu dàng, vừa kiên nghị của mẹ. Rồi cha tặng Hồng Anh một cuốn sổ trong đó ghi những lời dặn dò con gái noi gương mẹ, lớn lên trả thù cho mẹ.

Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Võ Hồng Anh nằm trong số những “hạt giống đỏ” được Đảng và Nhà nước chọn cử sang đào tạo ở Liên Xô. Năm 1956, bà tốt nghiệp loại xuất sắc Khoa Vật lý - Trường Đại học Tổng hợp Lomonoxov (MGU). Sau đó, chị về nước nhận công tác tại Ban Toán - Lý thuộc Ủy ban KH&KT Nhà nước. Đến tháng 12/1965, chị được cử đi nghiên cứu sinh tại Khoa Vật lý, Trường Đại học Lomonoxov (Liên xô cũ). Tháng 1/1969, chị bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ Toán - Lý về lý thuyết Plasma (việc bà lựa chọn ngành khoa học vật lý là do có lần ba đã gợi ý) tại Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu vật lý hạt nhân Liên Xô. Sau đó, từ năm 1969 -1971, bà làm cộng tác viên khoa học tại Viện

Dubna - một cơ sở khoa học quốc tế có uy tín của hệ thống các nước XHCN. Năm 1972, bà về nước, làm việc tại Viện Vật lý Hà Nội, tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề về lý thuyết chất rắn. Năm 1979, Võ Hồng Anh được trở lại công tác tại Viện Dubna. Đến năm 1982, bà đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Toán - Lý (nay là Tiến sĩ Khoa học) tại đây. Từ năm 1984-1986, bà công tác tại Trung tâm Vật lý lý thuyết thuộc Viện Khoa học Việt Nam.

Từ tháng 2/1987 đến tháng 6/2002, GS.TSKH Võ Hồng Anh đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng phòng, rồi Trưởng phòng Vật lý lý thuyết, Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia (nay là Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam). Năm 1991, bà được Nhà nước phong hàm Giáo sư. Trong cuộc đời khoa học, GS.TSKH Võ Hồng Anh đã có trên 60 công trình khoa học được công bố ở nhiều tạp chí khoa học có uy tín trong và ngoài nước, trong đó có cuốn sách Lý thuyết tương tác thông số của bức xạ điện tử công suất lớn lên chất rắn - do Nxb Nauka - Matxcova xuất bản năm 1985. Các công trình của bà trình bày những kết quả nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực của Vật lý các môi trường: Chất lỏng, chất rắn, chất khí, Plasma… Đặc biệt, những kết quả về tác động của bứa xạ laser và các trường mạnh khác lên bán dẫn có nhiều triển vọng ứng dụng trong vật lý và kỹ thuật. Đây là một công trình được đánh giá cao ở nhiều cơ sở nghiên cứu của nhiều nước. Bà đã tham dự và báo cáo ở nhiều hội nghị khoa học quốc tế và trong nước, được mời đi trao đổi, nghiên cứu, thỉnh giảng, thuyết trình Simena ở nhiều trung tâm nghiên cứu của Liên Xô (cũ) và hầu hết các nước XHCN Đông Âu, ở Ấn Độ, Pháp, Nhật Bản. Năm

GS Võ Hồng Anh cùng con trai và Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1974. Ảnh tư liệu

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

17

Page 18: Page 4 76 vh12

1988, GS.TSKH Võ Hồng Anh được Nhà nước ta tặng Giải thưởng Kovalevskya - Giải thưởng cao quý nhất dành cho những nhà khoa học nữ có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.

GS.TSKH Võ Hồng Anh là một tài năng, một nhân cách lớn, một người giầu nghị lực, luôn phấn đấu bền bỉ và lặng lẽ, từ thiếu sinh quân trở thành một GS. TSKH ngành Toán - Lý. Là con gái của người mẹ là nhà cách mạng nổi tiếng Nguyễn Thị Quang Thái và vị Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, nhưng ở GS.TSKH Võ Hồng Anh luôn toát lên sự khiêm nhường của một người giầu nghị lực, ý chí vượt khó, biết làm chủ tài năng của mình. Đó là cảm nhận chung của những ai có điều kiện tiếp xúc với bà. Sự khâm phục và kính trọng là điều để lại trong lòng những đồng nghiệp nhiều năm làm việc cùng bà. Hầu hết các đồng nghiệp và nhiều người tiếp xúc, làm việc với bà Võ Hồng Anh đều có chung một nhận xét, dường như chưa bao giờ bà có ý coi mình là con gái của một vị Đại tướng lừng lẫy. Bà tự làm tất cả mọi việc trong sự thiếu vắng tình yêu người mẹ. Trong quá trình làm việc, bà luôn đặt công việc lên trên hết, khuyến khích mọi người cùng cố gắng phát huy tính độc lập cao nhất và coi trọng ý kiến của mọi người. Chẳng khi nào bà để quan hệ gia đình ảnh hưởng đến công việc. Được các nhà khoa học trân trọng và đánh giá cao, song, GS.TS Võ Hồng Anh vẫn rất khiêm tốn. Những lời tâm sự sau là một minh chứng cho đức tính cao đẹp của một nhà khoa học chân chính ấy: “Số phận khoa học của tôi có những thuận lợi và may mắn. Đó là hoàn cảnh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Sự may mắn được thừa hưởng một nền giáo dục lành mạnh từ tuổi ấu thơ, được tiếp xúc với nền khoa học tiên tiến và những đại biểu ưu tú của nó, và cả những khả năng trí tuệ bẩm sinh nữa. Bên cạnh đó, tôi cũng có những khó khăn của đời sống nằm trong khó khăn chung của đất nước hiện nay. Có những khó khăn của quá trình sáng tạo; có những khó khăn do thiếu thông tin và thiếu tiếp xúc, đặc biệt trong những thời kỳ làm việc trong nước. Và cả những khó khăn do thói hẹp hòi và hạn chế còn tồn tại đó đây trong giới khoa học và giới quản lý khoa học (chốn ngự trị của phái mạnh)…Đó cũng là những khó khăn không có gì đặc biệt. Nhưng để vượt qua được chúng, cần có một nghị lực. Không phải lúc nào cũng vượt qua được chúng. Và lúc vượt được, thì không phải bao giờ cũng dễ dàng. Tuy nhiên, tôi đã vượt được những khó khăn ở mức độ cho phép đạt được những kết quả tôi

có. Tuy vậy, điều đáng nói nhất ở đây là: Chính những biến đổi cách mạng lớn lao của đất nước đã xác định khoa học, sự trưởng thành của cá nhân tôi trong sự trưởng thành chung của đất nước và những người phụ nữ Việt Nam khác, trong đó có những phụ nữ trí thức, những người làm khoa học”. (Almanach Người Mẹ và Phái đẹp, tr 716).

“Lá xanh rụng xuống, lá vàng trên cây”, vào 16 giờ ngày 18/7/2009, vì bệnh hiểm nghèo, GS.TSKH Võ Hồng Anh đã qua đời. Đó là sự bất công của tạo hóa, sự nghiệt ngã của số phận dành cho vị Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. Trong trái tim của Tướng Giáp, mối tình đầu - người vợ đầu Nguyễn Thị Quang Thái có một vị trí đặc biệt, “Đó là một vị trí thiêng liêng và độc nhất vô nhị” như nhận xét của Võ Hồng Anh người con gái đầu của ông. Còn đối với Võ Hồng Anh, tình cảm của Đại tướng dành cho con gái đầu cũng là tình cảm đặc biệt. Và, Võ Hồng Anh cảm nhận được điều đó. Ngay từ khi còn nhỏ cho đến khi đi gặp mẹ kính yêu ở cõi vĩnh hằng, Võ Hồng Anh “cảm nhận sự đặc biệt đó chủ yếu vẫn qua “một cái kênh không lời” và phần nào qua cư xử hàng ngày của ba tôi, mà rõ nhất là sự đòi hỏi khắt khe”. Không ai hiểu con cái bằng cha mẹ. Tướng Giáp hiểu tình cảm của con gái giành cho mình, theo kiểu đặc biệt “một cái kênh không lời”. Võ Hồng Anh luôn tự hào về cha, mẹ mình: “Trong tôi, niềm tự hào về cha không tách rời niềm tự hào về Tổ quốc, và càng không bao giờ tách khỏi ý thức trách nhiệm. Tôi mong muốn sống xứng đáng với bố mẹ nhưng bằng sức lực tình cảm, trí tuệ của riêng mình. Người ta có quyền tự hào và kiêu hãnh về cha mẹ. Nếu vị trí của cha mẹ đem lại niềm cảm thông quý mến của những người xung quanh (kể cả cách nhìn nhận khắt khe và sự đòi hỏi cao do lòng quý mến) thì đó là cái “lộc” mà ta được hưởng. Nhưng người ta không có quyền núp dưới cái bóng của cha mẹ để đạt được những điều ngoài năng lực của mình”. Trước khi về cõi vĩnh hằng, niềm mong ước lớn nhất của Võ Hồng Anh, vẫn qua cái kênh “không lời”, là ước mong cha mình - Đại tướng Võ Nguyên Giáp sống khỏe mạnh đến trăm tuổi. Có con gái phù hộ, Tướng Giáp đã vượt qua cái ngưỡng bách niên, đến độ 103 năm dương thế.

Giờ đây, cho đến muôn năm, dưới suối vàng, Võ Hồng Anh đã được đoàn tụ cùng ba mẹ. Chắc là, hai cha con Tướng Giáp vẫn giữ quy ước từ lâu, trên dương thế: Sự im lặng.

Đó là Tình - Yêu - Thương không lời! n

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

18

Page 19: Page 4 76 vh12

Nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào nằm ở bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á, có biên giới giáp Myanma và Trung Quốc ở phía tây

bắc, Campuchia ở phía nam, Việt Nam ở phía đông và Thái Lan ở phía Tây. Nước Lào còn được gọi là đất nước Lạn Xạng (Triệu Voi hay Vạn Tượng). Cũng như hầu hết các nước Lào cũng bị ảnh hưởng về văn hóa với các nước, các dân tộc khác trong quá trình giao lưu và phát triển. Trong văn học và nghệ thuật, trong đó có múa cung đình thì văn hóa Phật giáo thể hiện rất rõ.Âm nhạc và nghệ thuật dân gian cũng có nhiều nét tương đồng với các nền văn hóa trong khu vực. Ví như, về các nhạc cụ như khèn, trống, bộ gõ; múa dân gian…về khab (hát), có nhiều làn điệu như khab Thoum, của Luổng Phạ Bang, khab Ngừm của Viêng Chăn, khab Phunoy, Khăp Lự, Khab Tay - Dam, Khab Lagati… Nghệ thuật múa dân gian Lào thường gọi chung là “múa lăm vông” - lăm là múa, vông là tròn, tạm dịch: “múa vòng tròn”. Có rất nhiều điệu “lăm” như : Lăm Tằng Vải, Lăm Xalavan, Lăm sithanđon, Lăm Mahasay… Mỗi loại “Lăm” có giai điệu riêng, cách múa riêng. Tuy vậy, người Lào đã tiếp nhận từ truyền thống, sáng tạo và làm đặc sắc thêm văn hóa của mình. Với tính chan hòa, cởi mở, người Lào sẵn sàng đơn giản hóa một số điệu múa để khách mới đến có thể cùng múa . Một phong tục rất hay nữa là “Lễ buộc chỉ cổ tay” tạm hiểu là Lễ gọi hồn hoặc Chúc phúc (ba - xỉ - xù - khuổn). Từ một nghi lễ hẹp dành cho gia đình, người Lào cũng đã khéo léo nâng lên thành nghi lễ tiếp khách rất xúc động là làm Lễ buộc chỉ cổ tay cho khách quí từ xa tới hay người thân chuẩn bị đi xa… Qua một vài ví dụ trên ta thấy người Lào đã bảo tồn, gìn giữ và phát huy khéo léo các di sản văn dân tộc và đưa văn hóa đó hòa nhập thời đại một cách uyển chuyển.

Việt Nam và Lào cùng nằm trên bán đảo Đông Nam châu Á, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn , cùng được dòng sông Mê Kông như mạch máu không ngừng chảy nuôi cơ thể… Với 2.130 km đường biên giới trên đất liền qua 10 tỉnh của Việt Nam là Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Kon Tum có 32 huyện, 129 xã biên giới và 10 tỉnh của Lào là Phong sa lỳ, Hủa Phăn, Luông Pha bang, Xiêng Khoảng, Bô ly khăm xay, Khăm Muộn, Sa vẳn na khệt, Sa la văn, Sê Koong và Attơpư với nhiều cửa khẩu quốc tế quan trọng như : Tây Trang, Pa Hang, Na Mèo, Nặm Cắn, Cầu Treo, Cha Lo, Lao Bảo, Bờ Y. Nhiều dân tộc đang cùng nhau sinh sống trên vùng viên giới Việt - Lào như người Mông, người Dao, người Thái, người Lào, người Tà Ôi, người Bru - Vân Kiều, … Ngoài các mối quan hệ giao lưu buôn bán về kinh tế, ở khu vực biên giới còn có mối quan hệ thân tộc, kết nghĩa anh em, hôn nhân… vì vậy văn hóa Việt Nam và văn hóa Lào có nhiều tương đồng là đúng với cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Đặc biệt, qua các văn bản được tìm thấy ở Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh cho thấy từ nhiều thế kỷ trước các triều đại hai nước đã có quan hệ, trao đổi về kinh tế, hàng hóa và hỗ trợ cưu mang, giúp đỡ nhau khi có biến động ở mỗi nước.

Trong giai đoạn cận hiện đại, hai nước cùng đứng lên chống giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc. Thời kỳ “hạt gạo cắn đôi,cọng rau sẻ nửa” đã làm cho hai dân tộc hiểu nhau hơn, thương nhau hơn. Từ quyết tâm chính trị của hai Đảng, hai Nhà nước đã tạo nên mối tình đoàn kết đến từng người dân, người chiến sỹ trên khắp các chiến trường. Đây cũng là thời kỳ hai nền văn hóa Việt - Lào hòa quyện, bổ sung cho nhau trở thành vũ khí tinh thần cho hai dân tộc vượt

l NGUYỄN GIA LÂM

TRUNG TÂM VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI LÀO

CẦU NỐI TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT - LÀO

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

19

Page 20: Page 4 76 vh12

qua được tất cả khó khăn, gian khổ, hy sinh và đi đến thắng lợi cuối cùng. Các văn nghệ sỹ hai nước đã biến các chủ trương, đường lối về công tác văn hóa văn nghệ của hai Đảng thành một lực lượng chính trị để thực hiện “nghệ thuật tâm công” góp phần làm nên chiến thắng. Người nghệ sĩ đã trở thành chiến sỹ và ngọn bút trở thành vũ khí cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đánh đuổi quân thù. Chúng ta đã huy động tổng lực các loại hình nghệ thuật từ văn học, thơ ca , hội họa, âm nhạc, phim ảnh động viên toàn dân tộc vào trận tuyến. Bản sắc văn hóa của hai dân tộc Việt - Lào được khơi dậy, phát huy, phát triển trở thành nguồn lực dồi dào cho các sáng tác mới phù hợp để phục vụ cách mạng, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu và trình độ thưởng thức của nhiều tầng lớp nhân dân. Song song với sử dụng vốn văn hóa dân tộc nhiều mô hình hoạt động nghệ thuật đã được tổ chức triển khai, các nghệ sỹ đã lồng ghép với nghệ thuật mới như xiếc, giao hưởng, kịch nói, điện ảnh.. làm tăng thêm hiệu quả cổ động.

Trong nhiều loại hình nghệ thuật và hình thức được triển khai, giao lưu văn hóa nghệ thuật quần chúng là một trong những hoạt động dễ làm và hiệu quả. Từ nguồn vốn phong phú của nghệ thuật truyền thống dân tộc, các “chiến sỹ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ”, kể cả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, đã đến tận thôn bản xa xôi, hẻo lánh; đến với những dân tộc ít người…học và sưu tầm các làn điệu dân ca, điệu múa về dàn dựng lồng ghép nội dung mới theo yêu cầu mới. Cách làm này có vẻ thô sơ nhưng thật sự đã đạt được kết quả rất cao, hấp dẫn và khuyến khích được đông đảo quần chúng

tham gia. Có thể khẳng định chính cách làm này đã giúp gìn giữ, phát huy vốn văn hóa dân tộc, cung cấp lực lượng nhân tài cho nghệ thuật chuyên nghiệp.

Tại các bản làng, các đoàn văn nghệ, văn công tỉnh, đơn vị bộ đội Lào, Việt, các “ải noojoong - phườn” (bộ đội Việt Nam tình nguyện)… đã cùng hát, biểu diễn vừa để tuyên truyền cách mạng, vừa để động viên nhau cùng vượt qua khó khăn gian khổ hy sinh của cuộc chiến tranh. Những câu thơ, lời hát của các văn nghệ sỹ như: Nhà thơ Quang Dũng với Tây Tiến; Chế Lan Viên với bài Theo tình nguyện quân ra biên giới năm 1952; Phạm Tiến Duật với bài thơ Buộc chỉ cổ tay, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Nguyễn Đức Mậu với: Tiếng trẻ khóc nơi bản Lào lửa cháy; hay Bua xỏn Búp xao Đon với Hai miền quê. Các bài hát thời “tiếng hát át tiếng bom” như: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp; Sải chay Lào - Việt Nam (Tấm lòng Lào - Việt Nam) của tác giả Hủm phăn Lắttạnạvông; Đèng heng ít xa lạ (Trên đất tự do) của Xi Xa nạ Xi xan, Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn của Hoàng Hà; Tình Việt - Lào của Hồ Hữu Thới, Hà Nội - Viêng Chăn của Xải xê khăm mản… Ngày nay, các sáng tác mới ca ngợi tình đoàn kết hữu nghị hai nước vẫn đang tiếp tục được bổ sung như bài hát Hồ Chí Minh kính yêu muôn đời của Bua Ngân Sa Pu vông và nhiều bài hát tác phẩm văn học, điện ảnh và tác phẩm nghệ thuật khác. Những bài hát đi cùng năm tháng, vẫn được các thế hệ hôm nay hát trong các cuộc gặp gỡ, giao lưu trong những vòng múa “lam vông”…

Sau khi hai nước giành độc lập , hai Đảng và hai nước tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và phát triển

Các Doanh nghiệp Việt Nam trao tiền và hiện vật cho các Quỹ từ thiện của nước bạn Lào, tại Thủ đô Viêng Chăn - Lào, tháng 7 năm 2013 do Ban tổ chức các giải thưởng Asean phát động.

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

20

Page 21: Page 4 76 vh12

kinh tế, văn hóa. Tháng 9 năm 1995. Trung tâm Văn hóa - Thông tin Việt Nam tại Lào (nay là Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Lào - từ đây gọi tắt là Trung tâm) được thành lập. Đây là một thuận lợi nữa cho việc đưa văn hóa Việt Nam và văn hóa Lào đến với công chúng hai nước. Các thiết chế văn hóa như thư viện, phòng triển lãm tranh ảnh thường xuyên và đột xuất được triển khai; các lớp dạy nhạc, câu lạc bộ ca nhạc được tổ chức hoạt động thử nghiệm để cán bộ, công nhân lao động, Việt kiều, cán bộ, học sinh, sinh viên, lực lượng vũ trang và nhân dân Lào đến cùng giao lưu gặp mặt nhân dịp các ngày lễ, tết của hai nước và quốc tế. Trung tâm cũng tham mưu cho lãnh đạo Bộ văn hóa hai nước đưa các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của nước này sang nước kia biểu diễn và giao lưu giúp đỡ nhau hợp tác sản xuất phim, tổ chức các tuần văn hóa, tuần phim, triển lãm kinh tế văn hóa.

Những năm gần đây, Trung tâm phối hợp với Bộ TT - VH Lào, Đại sứ quán Việt Nam tại Lào, các cơ quan Việt Nam xung quanh Sứ quán, Hội Người Việt Nam tại Lào tổ chức các hoạt động mới như: Hội diễn văn nghệ quần chúng cho bà con Việt Nam tại Lào; tổ chức thi vẽ, viết chữ đẹp và múa, hát ca ngợi lãnh tụ hai nước cho học sinh ở bậc tiểu học; giao lưu văn nghệ, thi hùng biện ngôn ngữ cho sinh viên Việt kiều và Lào tại trường Đại học Quốc gia Đồng Độc; tổ chức giao lưu văn nghệ và thể thao các cựu lưu học sinh Lào đã từng học tại Việt Nam… tại Thủ đô Viêng Chăn và một số bản Lào, đạt kết quả tốt.

Bên cạnh các hoạt động giao lưu, Trung tâm còn phối hợp và giúp đỡ ngành Văn hóa Thông tin Lào tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý và nghiệp vụ cho cán bộ của Bộ và các tỉnh. Các lớp bồi dưỡng về quản lý văn hóa, nghệ thuật, thanh tra văn hóa, nâng cao năng lực báo chí, nghệ thuật MC… được tổ chức tại Thủ đô Viêng Chăn, các tỉnh và huyện Xiêng Khoảng, Luông pha bang, Phong sa lỳ.

Từ những kinh nghiệm đó, Trung tâm đã triển khai hoạt động đến các tỉnh Chăm Pa Sắc, Xa Vẳn Na Khệt, Xiêng Khoảng, Luổng Fạ Bang, U Đôm Xay, Xay Nhạ Bu Ly… với phương châm sử dụng lực lượng tại chỗ là chính, vừa để cán bộ và nhân dân địa phương được thể hiện tình cảm của mình qua lời ca tiếng hát, điệu múa về tình đoàn kết của hai dân tộc, vừa tiết giảm kinh phí. Trung tâm còn thực hiện tặng báo Văn hóa, báo Du lịch cho cán bộ quản lý ngành Thông tin - Văn hóa - Du lịch, các ủy viên

trung ương Đảng NDCM Lào, viết các bài giới thiệu văn hóa Việt Nam và các hoạt động của Trung tâm trên các báo ở Thủ đô Viêng Chăn, mời lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ Lào tham dự các cuộc trưng bày triển lãm tranh, ảnh, giao lưu văn nghệ giới thiệu về đất nước, con người, tiềm năng hợp tác kinh tế, văn hóa, du lịch…,về tình đoàn kết hữu nghị Việt - Lào.

Những năm gần đây, Trung tâm còn tổ chức các cuộc vận động văn hóa lớn và có ý nghĩa tại Lào như: Thi sáng tác ca khúc về Chủ tịch Hồ Chí Minh (năm 2010), Thi vẽ tranh về Đảng và tình hữu nghị Việt - Lào (năm 2011), Thi đọc và viết về Nhật ký Đặng Thùy Trâm (năm 2011), tổ chức các Đêm thơ, các lớp học tiếng Việt cho cán bộ quản lý cấp vụ của ngành VH- TT & DL Lào (năm 2011)

Các hoạt động nói trên không chỉ thành công về mặt chính trị mà còn mở ra một hướng hoạt động mới, cách làm mới, chi phí cho các hoạt động thì lớn, khả năng kinh phí có hạn nên Trung tâm phải thực hiện xã hội hóa. Các hoạt động như sáng tác ca khúc về Bác Hồ, thi vẽ tranh, thi đọc sách được các cơ quan của Việt Nam và Lào như Ban Đối ngoại TƯ Đảng NDCM Lào, Bộ TT & VH, Bộ GD, Bộ QP, Trung ương Đoàn TNNDCM Lào, Hội Nhà văn Lào, Đại sứ quán, một số cơ quan thông tấn báo chí, các cơ quan đại diện khác của Việt Nam tại Lào rất ủng hộ và hưởng ứng. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp còn tham gia đóng góp hiện vật, tài chính, tạo thêm các giải thưởng nhằm động viên phong trào. Văn nghệ sĩ và nhân dân tại các tỉnh đã rất vui mừng hưởng ứng và nhiệt tình tham gia. Mỗi vùng, mỗi bộ tộc góp một sắc màu đã làm cho các cuộc thi, cuộc giao lưu đầy màu sắc sống động.

Trung tâm cũng phối hợp và tạo điều kiện cho phía Lào đưa cán bộ quản lý, các nghệ sỹ sang Việt Nam trao đổi kinh nghiệm, thực tế sáng tác và biểu diễn giao lưu để giới thiệu văn hóa Lào với nhân dân Việt Nam. Từ năm 2008, nghệ sỹ Lào Đuông my xay Ly kaya đã sang Việt Nam đến các di tích gắn bó với cách mạng Lào và Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác bản giao hưởng Hồng Hà - Cửu Long và các ca khúc khác. Năm 2010 và 2011, đoàn nghệ thuật nghiệp dư của bản người Mông Na xả la đã sang biểu diễn tại giao lưu ở Hà Nội (Ủy Ban Dân tộc), Lào Cai, Hạ Long, Nghệ An, Điện Biên, Sơn La.

Năm 2012, nhân Kỷ niệm 35 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

21

Page 22: Page 4 76 vh12

Bộ VH TT & DL tổ chức Giao lưu văn hóa, thể thao dân tộc toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã thật sự tạo được tình cảm thân thiết, gắn bó không chỉ với các tỉnh có cùng biên giới mà cả các tỉnh trong vùng Bắc Lào và các tỉnh khác góp phần củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.

Trong các hình thức đã triển khai là: Giao lưu VHNT, thể thao quần chúng và đưa các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đi biểu diễn thì mỗi loại có thế mạnh và hạn chế riêng. Giao lưu văn hóa - nghệ thuật, thể thao quần chúng có khả năng linh hoạt hơn phù hợp với nhiều đối tượng, tầng lớp công chúng, hạn chế sử dụng các thiết bị chuyên dụng, đắt tiền. Hình thức này là sử dụng công chúng - người sáng tạo cũng đồng thời là người hưởng thụ nên có sức cuốn hút cộng đồng tham gia, tạo cơ hội trao đổi, học hỏi, hiểu biết, kết giao tình cảm. Đồng thời nó có thể được lồng ghép những thông tin về các vấn đề đương đại theo mục đích của người tổ chức, vừa tạo điều kiện bảo tồn, phát huy, phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống.

Tuy nhiên, hình thức tổ chức các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và các loại hình nghệ thuật khác vẫn phải được triển khai. Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đến phục phụ quần chúng tại chỗ hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài phát thanh các cấp vẫn ngày càng phát huy hiệu quả. Đây là loại hình nhằm để mọi người được tiếp xúc nghệ thuật hàn lân, nâng cao trình độ mọi mặt.

Kinh nghiệm cho thấy, muốn các cuộc giao lưu quần chúng thành công, các đơn vị tổ chức cần rất nhiều cố gắng, tỷ mỷ từ thủ tục pháp lý, kế hoạch tổ chức, quy mô, huy động nhân lực, vật lực… việc này đòi hỏi cán bộ phải nhiệt tình, có tâm, am hiểu luật pháp, phong tục tập quán ở địa bàn. Người lãnh đạo cần có năng lực tiếp cận, huy động, thu hút quần chúng tham gia. Trân trọng và tôn vinh văn hóa dân tộc, để các dân tộc được thể hiện văn hóa của mình; hiểu và tránh xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào. Người thực hiện việc này phải có khả năng biết và làm được nhiều việc một cách trực tiếp, cụ thể, không thể “chỉ tay năm ngón”. Đây là công tác đối ngoại do đó cần tạo sự đồng thuận của các cấp, các ngành, địa phương tạo điều kiện giúp đỡ.

Trong bối cảnh các thế lực thù địch ngày đêm tìm mọi cách, mọi thủ đoạn nhằm phá hoại tình đoàn kết

giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Lào tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của mình phát huy những kết quả của gần hai chục năm qua, sáng tạo thêm những hình thức hoạt động mới phù hợp với từng thời điểm, điều kiện thực tế. Có thể triển khai các hình thức sau:

- Giao lưu văn hóa - nghệ thuật, thể thao, du lịch quần chúng ở tất cả các cấp: Trung ương, Bộ, ngành, tỉnh, các hội, các trường học…(chú trọng triển khai các hoạt động tại những địa phương nhạy cảm, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới của Lào với các nước khác).

- Tiếp tục đưa các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đến phục vụ nhân dân.

- Phối hợp tổ chức các ngày văn hóa, tuần văn hóa… tại hai nước (Nhà nước tổ chức).

- Tổ chức giao lưu các dân tộc tương đồng ngôn ngữ: (Tày, Thái, Nùng - Lào; Mông, Khơmú…).

- Tổ chức các hoạt động cho văn nghệ sỹ hai nước cùng đi thực tế và sáng tác.

- Tiếp tục duy trì và phát triển các hoạt động ở Trung tâm tại Thủ đô Viêng Chăn. Nhanh chóng đầu tư xây dựng Trung tâm mới và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất được Nhà nước trang bị.

- Huy động các nguồn lực tại chỗ: Tranh thủ sự ủng hộ của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở trung ương và địa phương, các Bộ, ngành và nhân dân nước Cộng hòa DCND Lào; Đại sứ quán, các Lãnh sự quán, các cơ quan đại diện của Việt Nam tại Lào, cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống làm ăn tại Lào…

- Tích cực góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành VH - TT & DL Lào để vừa có thêm bạn, vừa có thêm lực lượng tại chỗ hỗ trợ các hoạt động ngoại giao văn hóa.

- Nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao văn hóa có nghề. Đặc thù của cán bộ văn hóa đối ngoại (qua thực tế ở Lào) là cần thiết hội tụ 4 năng lực: nghiên cứu, tổ chức, hướng dẫn và triển khai, bởi vì người ít việc nhiều, kinh phí thuê khoán đắt nên cần một người biết nhiều việc, tinh thông một vài việc. Người quản lý phải có quan hệ tốt với các cơ quan và cá nhân nước sở tại. Không nên đưa người không có chuyên môn đi hoạt động văn hóa đối ngoại.

Với những thành tựu đã đạt được Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Lào đã được tặng thưởng 2 Huân chương Lao động hạng Ba của Việt Nam và Lào.n

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

22

Page 23: Page 4 76 vh12

Từ thị trấn Phú Phong đi chếch về hướng Tây Nam trên 2km là tới thôn Phú Mỹ - một thôn trù phú của xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh

Bình Định. Trong thôn có gia đình ông Võ Văn Khanh, vốn họ Lê, quê gốc ở Nghệ An, vào cư trú ở vùng này từ thời Lê, và đổi thành họ Võ. Ông bà Võ Văn Khanh có người con trai út là Võ Văn Dũng. Lúc mới ra đời, thấy cậu bé to khỏe hơn nhiều đứa trẻ bình thường khác, tướng mạo khôi ngô, nên bố mẹ mới đặt tên cho là Dũng, còn người trong thôn gọi cậu là Dõng.

Cũng như bao thanh niên khác trong vùng, Võ Văn Dũng rất ham luyện tập võ nghệ, côn quyền, đao kiếm đều tinh thông. Tới tuổi trưởng thành Võ Văn Dũng thân hình vạm vỡ, mặt vuông, mắt sáng, miệng rộng, sức khỏe, võ nghệ hơn người. Người dân trong vùng nay vẫn còn kể lại rằng nhờ cố công luyện tập, chàng Dũng có thể đứng trước đông người há to miệng đưa nắm tay hộ pháp tọng sâu vào cuống họng mình làm cổ phình to rồi lại rút ra như chơi mà sắc mặt vẫn điềm nhiên. Trai gái trong làng ai cũng thán phục và kiêng nể Dũng.

Sống trong thời buổi triều đình nhà Nguyễn rối ren, tên quan cai trị là Trương Phúc Loan, một kẻ chuyên quyền làm nhiều điều tàn ác, bọn hào lý ở thôn ấp đua nhau đục khoét của dân, bọn giàu có tham lam bòn rút dân tàn tệ, Võ Văn Dũng và dân

địa phương chịu vô vàn khổ cực. Đau lòng, phẫn trí trước cảnh đời đen tối của dân nghèo, Võ Văn Dũng đã tập hợp những thanh niên có chí khí thành toán đội chuyên hoạt động lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đón khách buôn qua đường lấy tiền cứu sống kẻ nghèo khó. Thương dân làng đói khổ, Võ Văn Dũng còn tổ chức một số thanh niên khai khẩn, phát hoang cỏ rậm, tạo nên cả một cánh đồng rộng lớn phía Bình Tường. Võ Văn Dũng vận động bà con trong thôn trồng những khu rừng dầu rái ở phía Phú Xuân, tổ chức đắp đập Lộc Động và Kiền Giang đưa nước về cho ruộng đồng. Một câu chuyện vẫn được bà con trong vùng truyền nhau, kể lại rằng: hai ông Lê Kim Bảng, Lê Kim Bôi (Bâu) cùng một số bà con ở Nghệ An cùng dòng họ với Võ Văn Dũng vào gặp gia đình ông Dũng tìm nơi cư trú. Với tấm lòng hào hiệp, Võ Văn Dũng xuất tiền, gạo, vận động nhân dân đắp đập. Ông Bảng và ông Bôi là hai người có công đứng ra giúp ông Dũng. Việc đắp đập Lộc Động gặp nhiều khó khăn vì lòng sông và đôi bờ đất đá cứng. Dân làng đổ bao công sức đục đá, khoét mương, kè đập, nhưng rồi một trận lũ lại cuốn mất. Nhưng Võ Văn Dũng vẫn không sờn lòng. Các cụ già xưa truyền lại rằng, đất trời đã cảm động trước lòng mong muốn cứu dân của Võ Văn Dũng nên đã sai thiên thần xuống cứu giúp, cho một tảng đá lớn hình con cá

l HÀ BÌNH

Chuyện NGUYỄN HUỆ thu phục VÕ VĂN DŨNG

23

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 24: Page 4 76 vh12

bống, đầu hếch lên, đuôi chìm xuống nước nằm chắn ngang giữa dòng nơi quãng đập bị vỡ. Nhờ có tảng đá hình cá bống khổng lồ đứng ra cản dòng nước nên việc đắp đập mới thành công. Người dân gọi tảng đá đó là Hòn Bống. Tương truyền, sau ngày ông Dũng hy sinh, có một trận lũ lớn tràn về cuốn Hòn Bống xuống vực sâu. Dân làng cầu cúng nhiều ngày làm cảm động đất trời thì một trận lũ lớn lại mang Hòn Bống từ dưới vực sâu về chỗ cũ, đập Lộc Động được đắp lại vững chắc hơn ngày xưa. Từ đấy dân làng cho Hòn Bống rất linh thiêng nên gọi là Ông Bống. Trước đây, hàng năm dân làng thường mang lễ vật ra cúng Ông Bống bên đập và nhắc nhau ghi nhớ công ơn Võ Văn Dũng.

Trước những nghĩa cử của Võ Văn Dũng, người dân vô cùng vui mừng, ví Võ Văn Dũng như Chàng Lía, một chàng trai có sức khỏe phi thường, sống trượng nghĩa, yêu tự do, xem thường luật lệ triều đình phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Còn bọn quan lại địa phương thì cho Võ Văn Dũng là một kẻ lục lâm, một tướng cướp lợi hại ở vùng núi Tây Sơn, ngày đêm nơm nớp lo sợ.

Một ngày kia, Võ Văn Dũng dẫn đám tùy tùng lên đón đường khách thương ở chân đèo An Khê thì gặp Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu và Trần Nha đi chiêu hiền từ xuôi trở về căn cứ An Khê. Lúc này đôi bên chưa hiểu nhau nên ông đã sinh sự với ba người. Trần Nha bị Võ Văn Dũng đánh gục ngay từ hiệp đầu. Thấy vậy, Trần Quang Diệu nhảy vào thay. Một trận đấu sức, đấu tài quyết liệt diễn ra trước mặt mọi người, ai cũng kinh ngạc. Nguyễn Huệ vẫn khoanh tay đứng, chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng lại mỉm cười như một kẻ ngoài cuộc. Đã dư chục hiệp đấu mà cả hai còn sung sức lắm. Võ Văn Dũng quyết hạ đối thủ, nhưng Trần Quang Diệu đâu phải tay vừa. Diệu cũng là chàng trai to khỏe, võ nghệ cao cường. Trong lúc mọi người đang bị cuốn hút, say sưa theo dõi từng thế võ hiểm của hai đối thủ ngang tầm, thì Nguyễn Huệ bình thản bước từng bước chắc nịch tiến thẳng vào vòng đấu. Với vẻ mặt tự tin, Nguyễn Huệ đưa tay gạt nhẹ cho hai người dãn ra, cất tiếng nói sang sảng:

- Thật là hai tráng sĩ khó tìm trong thiên hạ! Nói xong, Nguyễn Huệ mời hai người dừng cuộc

đấu, và ân cần nói với Võ Văn Dũng:- Nếu tôi không lầm thì ông sẽ dùng ba thế võ

hiểm hóc nữa để dành phần thắng. Nếu vẫn chưa đánh ngã người bạn đồng hành của tôi thì ông dùng đến ngón “Xích mi tróc hầu” phải không?

Võ Văn Dũng vô cùng ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Huệ biết trước các đường đi nước bước sắp diễn ra trên trường đấu. Biết đây không phải là người thường, Võ Văn Dũng cúi đầu tạ tội vì đã gây chiến trước. Nguyễn Huệ khoan dung đặt bàn tay lên vai ông bảo:

- Ông là người hiền tài sao lại quanh quẩn núi non này làm kẻ lục lâm, không mang sức ra giúp đời?

Võ Văn Dũng ngẩng lên nhìn thẳng vào con người gợi đúng nỗi niềm thầm kín của lòng mình:

- Tôi vốn không muốn làm tướng cướp, nhưng ông nghĩ xem, triều đình thì rối ren, Trương Phúc Loan thì lộng hành, tàn ác, vơ vét của dân nghèo, vàng bạc phơi đầy vườn. Bọn quan lại ở Qui Nhơn, Tuy Viễn độc ác, ức hiếp dân tàn tệ. Ông bảo đấng nam nhi ngồi chờ lưỡi gươm chúng kề cổ mình hay sao? Phẫn chí tôi mới tụ tập những người can đảm cầm gươm giáo tung hoành một phen cho hả giận.

Võ Văn Dũng vừa nói xong thì Nguyễn Huệ cất tiếng cười vang, nắm tay ông thân mật giới thiệu từng người rồi bảo ông:

- Vậy mời ông lên An Khê hợp sức cùng chúng tôi làm việc đại nghĩa, diệt trừ bọn quan tham lại nhũng, bảo vệ cho dân lành được yên ổn làm ăn, có bát cơm no manh áo che thân. Tụ nghĩa được anh hùng bốn phương mới có sức mạnh đánh bại chúng. Bằng không nếu chỉ đơn độc dấy lên từng nhóm nhỏ thì trước sau cũng bị chúng đánh gục mà thôi. Giang sơn này là của muôn dân, đâu có phải là riêng của lũ vua chúa trong triều, đâu phải là nơi mặc sức hoành hành của bọn quan lại?

Sẵn nuôi ý chí phải làm nên công trạng gì cho dân, cho nước, không cam chịu mãi cảnh chỉ luẩn quẩn với vài ba chục thủ hạ quanh mấy ngọn núi quê nhà, trước lời chỉ bảo của Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng khảng khái đáp:

- Tôi xin vui lòng theo các ông và xin đưa anh em về tụ nghĩa cùng các ông để làm việc lớn.

Võ Văn Dũng dặn dò thủ hạ trở về chờ ông, rồi đi cùng Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu và Trần Nha lên An Khê gặp Nguyễn Nhạc.

Từ khi gặp được minh chủ, xả thân vì đại nghĩa, Võ Văn Dũng nhanh chóng trở thành dũng tướng tin cậy của nghĩa quân Tây Sơn, được phong làm Đại đô đốc, lập nên nhiều công trạng. n

(Bài viết sử dụng tư liệu trong bài Vị tướng tài bất tử, trong

sách Văn học dân gian Tây Sơn của Nguyễn Xuân Nhân, Nxb

Trẻ, 1999)

24

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 25: Page 4 76 vh12

Chỉ có học vị Hoàng giáp, nhưng ông lại được dân phong là Trạng, vua nhà Minh (Trung Quốc) phong là Trạng nguyên, hơn nữa, được

dân làng tôn thờ như một vị Thần Nông hàng trăm năm nay hương khói thờ phụng. Người được người đời huyền thoại hóa, huyền tích hóa quá nhiều ấy là Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan - tục gọi Trạng Bùng.

Phùng Khắc Khoan (1520-1613), tên tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai, tục gọi Trạng Bùng. Quê hương Phùng Khắc Khoan là làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây/ Hà Tây (cũ), nay thuộc Hà Nội. Gốc tổ của Trạng Bùng là Phùng Hạp Khanh, phụ thân của Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương. Dòng họ Phùng của Phùng Khắc Khoan hiện diện ở làng Bùng từ lâu đời, chí ít cũng từ thế kỷ VI-VIII. Bằng chứng là Thành hoàng thờ ở đình làng Bùng là Phùng Thanh Hòa - Hữu tướng quân của vua Tiền Lý Nam Đế (544-546) mà Triệu Quang Phục là Tả tướng quân. Trên bức cuốn thư ở đình làng Bùng của phường Vó cũng thuộc làng Bùng cung tiến đã nói đầy đủ về truyền thống lịch sử làng Bùng:

Công minh Tiền Lý sửTích hiển Hậu Lê thiDịch: Công rạng sử Tiền LýDanh vinh thuở Hậu Lê Phùng Khắc Khoan thuộc dòng dõi ba đời nhà

Nho. Điều này được khẳng định trong bài Tự thuật, ông viết:

Truyền đạo giáo thừa tam thế nghiệpMãn doanh hồng thắng vạn kim thư

Tạm dịch: Truyền đạo Nho, đã được dạy dỗ thừa kế ba đời

thành nghiệpHơn hẳn muôn lạng vàng đỏ ối chứa đầy hòm.Cả thời tuổi trẻ, Phùng Khắc Khoan sống trên đất

do nhà Mạc cai quản. Học giỏi, có tài thơ văn, song đường khoa cử của Phùng Khắc Khoan không xuôi chèo mát mái cho lắm. Khoảng cuối năm 1553-1554, Phùng Khắc Khoan đã bỏ đất Mạc, tìm vào Xứ Thanh theo nhà Lê - Trịnh. Trịnh Kiểm biết tài, đã dùng ông ở nhiều cương vị đáng kể. Ông đã hết lòng giúp Trịnh Kiểm. Nhưng trong thâm tâm, Phùng Khắc Khoan vẫn trung thành, tha thiết với nhà Lê. Điều này thể hiện trong câu ca dao lưu truyền ở Thanh Hóa, như muốn nói lên tâm sự riêng tư ấy của ông:

Chớ khinh chùa tích không thờMà đem xôi, oản cúng thờ gốc cây.Chùa tích là chùa xưa, tức là trỏ vào cơ đồ triều đại

nhà Lê đã có hai trăm năm lịch sử đến lúc này, dù thế lực bị suy vi vì bị nhà Mạc lật đổ. Xôi oản là nhắc đến câu nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm: giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản. Khi triều đình Lê - Trịnh trở về Thăng Long, Phùng Khắc Khoan được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng. Mặc dù làm quan, song Phùng Khắc Khoan vẫn nung nấu quyết tâm khoa cử bảng vàng. Vì thế, vào năm Canh Thìn (1580), niên hiệu Quang Hưng thứ 3, thời Lê Thế Tông, mặc dù đã 52 tuổi, lại đang làm quan triều Lê Trung Hưng, Phùng Khắc Khoan vẫn đi dự thi. Lần này, ông đã toại nguyện, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp).

Đương thời, Phùng Khắc Khoan là một nhân vật,

l CHÂU GIANG

KỶ NIỆM 400 NĂM MẤT DANH NHÂN VĂN HÓA PHÙNG KHẮC KHOAN (1613 - 2013)

PHÙNG KHẮC KHOANHoá t rạng hoá thần nông

Trạng Bùng - Phùng Khắc KhoanẢnh vanchuongviet.org

… chỉ bởi quá tài

25

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 26: Page 4 76 vh12

một nhà thơ nổi tiếng rất được trọng vọng. Thơ ông, ngoài các bài thể hiện tài xướng họa có tính chất “cung đình”, còn có một số bài có cốt cách. Ví như những câu thơ trong bài Lên đường tự thuật:

“Rồng nằm đâu chịu tôm nhờn mặtPhượng liệng thèm chi sẻ họp đàn.Chuyên đối phen này xuôi mọi việc,Quốc oai thêm mạch cõi trời Nam!”Thời Lê Trung Hưng mà Phùng Khắc Khoan sống

và phục vụ, triều đình nhà Minh (Trung Quốc) chỉ thừa nhận nhà Mạc. Vua Lê Trang Tông không chấp nhận điều này, tìm cách cho người đi sứ sang nhà Minh vận động vua Minh thừa nhận nhà Lê. Song, xét trong triều lúc đó không ai có đủ tài để đảm nhận việc này. Cuối cùng, vua Lê phải cầu đến Phùng Khắc Khoan lúc này đã 70 tuổi. Vào cái tuổi thất thập mà phải hàng tháng trời đi hàng vạn dặm đường với bao sự khắc nghiệt của thời tiết, sự thay đổi phong thổ, đèo cao, suối sâu, không nói thì cũng hiểu đó là công việc vượt quá sức của Phùng Khắc Khoan. Song, đến nay, ta chưa có tài liệu để tìm hiểu những suy nghĩ, đấu tranh ra sao của Phùng Khắc Khoan khi nhận được lệnh phải làm nhiệm vụ này. Chỉ biết, vào năm Đinh Dậu (1579), đúng năm 70 tuổi, Phùng Khắc Khoan, trong vai trò Chánh sứ Đại Việt sang nhà Minh. Vị sứ giả già Đại Việt đã khiến cả quần thần nhà Minh và sứ giả các nước vô cùng khâm phục. Điều này được Phùng Khắc Khoan phản ánh trong bài thơ “Ở kinh đô Trường An buổi chầu sớm ra về”, với những câu:

Sứ Nam mới tới chưa người rõ?Cười trỏ: Già kia thực dẻo dai!Trong thời gian ở triều đình Minh, ông đã tích cực

vận động làm cho nhà Minh thừa nhận nhà Lê, tuy nhiên Bắc Triều không chịu phong vương cho vua Lê. Tuy không đạt được mục đích cao nhất của chuyến đi, song với sứ mệnh Chánh sứ Đại Việt, ngay giữa triều đình nhà Minh, ông đã mang hết tài năng để tôn cao thể diện đất nước, làm cho vua quan nhà Minh và sứ thần các nước đều kính phục. Nhiều câu chuyện chứng minh học vấn uyên bác và tinh thần dân tộc rất cao của ông. Cùng với nhiều quan lại, văn nhân tài tử ở Trung Quốc và sứ thần một số nước khác, Phùng Khắc Khoan đã xướng họa thơ ca, bàn bạc trao đổi về văn học, chính trị. Ông đã giới thiệu về những nét đặc biệt của đất nước ta để mọi người biết văn hóa, phong tục, thiên nhiên Việt Nam. Những ngày Phùng Khắc Khoan là sứ giả Đại Việt trong triều Minh, cũng đúng dịp triều đình nhà Minh tổ chức chúc thọ đầu xuân vua

Minh Thần Tông. Nhân dịp này, Phùng Khắc Khoan đã làm một loạt 30 bài thơ vạn thọ khánh tiết dâng lên vua Minh, làm cho vua Minh cảm kích, mọi người khâm phục, tôn là Phùng kỳ lão. Vua Minh lập tức ra lệnh cho in ngay tập thơ này, phát hành rộng rãi, nhờ đó mà tên tuổi Phùng Khắc Khoan nổi bật lên giữa kinh đô nhà Minh lúc ấy. Vua Minh đặc cách phong ông là Trạng nguyên, tặng một đồng tiền Vạn Lịch bằng vàng. Trong một năm đi sứ, Phùng Khắc Khoan đã làm nhiều thơ, tiêu biểu là những bài: Qua ải quan, Gặp sứ thần nước Lưu Cầu, Miếu Bành tổ, Ở công quán làm thơ tức sự, Sứ thần nước Nam lưu đề, Ở kinh đô Trường An buổi chầu sớm ra về, Lên đường tự thuật,…

Sau chuyến đi sứ sang nhà Minh có tiếng vang lớn, về nước ông được phong chức Lại bộ Tả thị lang. Cũng từ đó, dân gian tôn phong ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Quê ông là làng Bùng, nên dân gọi ông là Trạng Bùng (Trạng nguyên làng Bùng). Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đứng vào hàng những người tài ngoại hạng được dân phong Trạng, như: Trạng Quét, Trạng Khiếu, Trạng Trịnh, Trạng Huyền Quang,... Theo người dân Bùng, ông đã là Trạng, thì ông tất giỏi cả các mặt canh nông, thủ công nghiệp. Điều này được chứng minh trong tác phẩm Lâm tuyền văn, ta thấy Phùng Khắc Khoan nhắc đến đủ các loại cây trồng trong vườn, ngoài ruộng. Trong tâm thức, cho đến nay, người dân Phùng Xá vẫn nói ông già Phùng Khắc Khoan 70 tuổi đi sứ Phương Bắc ấy đã mang về đủ các loại giống cây trồng: Ngô thì ông dắt ở búi tóc, dây khoai lang thì ông làm quai hòm, sắn thì ông làm gậy chống, đậu đen thì được ông đút vào hậu môn, vừng thì ông đút ở đầu dương vật,….Người dân ở đây còn bảo ông “cải tiến” hay giúp dân làm (vải/lụa) lượt Bùng, rồi giúp cả làng Nủa Vĩnh Lộc làm cày bừa để việc canh nông phát đạt. Bà con còn kể rằng Trạng Bùng đã khai mương dẫn nước từ núi Thầy về các cánh đồng Đặng Xá, Hoàng Xá, Phùng Xá,…Dân làng Bùng còn đinh ninh và nhớ ơn Trạng Bùng đã dạy cho họ biết dệt the

Lăng Trạng Bùng. Ảnh internet

26

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 27: Page 4 76 vh12

lượt, để lượt Bùng nổi tiếng trước đây. Về việc người làng Bùng đinh ninh Phùng Khắc

Khoan chính là người đã mang ngô, dây khoai lang, hạt đậu,… từ Trung Quốc về cho dân làng, GS Trần Quốc Vượng cho rằng điều đó không thể xảy ra, mà chỉ là huyền thoại hóa. GS Vượng dẫn chứng là, chính Lê Quí Đôn đã cho rằng việc đem ngô từ Trung Quốc về Sơn Tây do Tiến sĩ Trần Thế Vinh, sống sau Trạng Bùng 1 thế kỷ. Sách Đại Nam nhất thống chí viết về ông Phùng hay ông Trần đều không chép chuyện này. Trạng Bùng đi sứ Trung Quốc hơn 1 năm, từ Bắc Kinh về đến Thăng Long thì dây khoai lang làm quai hòm, sắn làm gậy chống đã “chết” từ lâu, làm sao mà đem về làng Bùng gây giống được? Và, GS Vượng cho rằng, ngô, khoai gốc ở Nam Mỹ, bằng con đường xuyên Thái Bình Dương mà được phổ biến ở Đông Nam Á từ lâu. Các nhà khảo cổ học đã tìm được củ khoai lang hóa thạch có tuổi 1.000 năm trước Công nguyên. Trong tác phẩm Lịch sử nông nghiệp Việt Nam đã dẫn ra tài liệu Trung Quốc nói khoai lang được trồng ở Việt Nam từ lâu, sau đó truyền giống cho Trung Quốc. Ngô cũng đã được trồng từ trước thế kỷ XV, thế kỷ của Phùng Khắc Khoan.

Như vậy có thể thấy người dân làng Bùng - quê hương Phùng Khắc Khoan đã “thần thánh hóa” nhiều tài năng của ông. Phùng Khắc Khoan - một ông Tiến sĩ đã thành ông Trạng nguyên, ông Thần Nông của các làng - xã xứ Đoài. Và, theo tâm thức dân gian người làng Bùng, một nhân vật tài giỏi kiệt xuất như Phùng Khắc Khoan không thể là con của những người bình thường, mà phải là những người đặc biệt. Người đặc biệt đó không ai khác chính là người đàn bà họ Nhữ, con gái của quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, thân sinh ra Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chuyện kể rằng, thân phụ Phùng Khắc Khoan vốn sinh ra ở vùng đất Thạch Thất. Ông từng đỗ Thái học sinh dưới triều Lê, nhưng buồn vì thời thế nên không ra làm quan. Vì giỏi nghề địa lý, ông thường ngao du thiên hạ tìm đất tốt. Một lần đến Kinh Bắc tình cờ ông gặp một người con gái đẹp đi cùng đường, là con gái Thượng thư Nhữ Văn Lan, người xứ Hải Dương, đã có chồng là Nghiêm quận công Nguyễn Văn Định, sinh ra Nguyễn Bình Khiêm (sau này là Trạng Trình). Khi Bỉnh Khiêm còn nhỏ, một lần chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, ông Văn Định nói với con: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”. Định đọc tiếp nhưng chưa nghĩ ra thì Bỉnh Khiêm đã đọc “Vén tay tiên, hốt hốt rung”. Văn Định mừng lắm, nói với vợ chuyện này. Nhưng nào ngờ bà giận, bà cho rằng

“Trăng là tượng của bề tôi, hốt rung cũng là bề tôi” sao lại dạy con như thế. Giận chồng chí mọn, bà bỏ về nhà rồi đi ngao du sơn thủy. Nghe chuyện và biết chí lớn của bà, người đàn ông họ Phùng trò chuyện tâm đắc, kết duyên vợ chồng. Năm sau, họ sinh Phùng Khắc Khoan, tiếng to, mắt đẹp, cốt cách khác người. Bà mẹ họ Nhữ vô cùng phấn khởi: “Xem ra con có nét phi phàm, ông nên dạy con học hành, may trời không phụ thì sau này có thể toại thành chí nguyện của thiếp”. Nghe lời vợ, phàm những điều bình sinh tâm đắc, ông đều dạy con. Lớn lên, Phùng Khắc Khoan được gửi sang Hải Dương học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người anh cùng mẹ khác cha. Nhờ vậy, Phùng Khắc Khoan giỏi toàn diện kiêm thông cả thuật số. Theo GS Trần Quốc Vượng, câu chuyện trên chỉ là huyền tích.

Sau khi mất, Trạng Bùng được chôn ở xóm Lộng Mai (xóm Đình), hiện phần mộ vẫn còn. Ông được dân làng Bùng lập đền thờ. Đền thờ Trạng Bùng quay hướng Đông Nam, thuộc xóm Phiên Nhất, đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1990. Người dân làng Bùng thờ trạng làm phúc thần và xem ông như một vị “Thần nông”, cúng ông bằng cháo đậu và cà. Nhà Nguyễn, từ năm Gia Long thứ 1 (năm 1802) đã liệt Phùng Khắc Khoan vào hàng “công thần trung hưng”, cho một người dòng dõi tập ấp, nối đời giữ việc thờ tự; năm Minh Mạng thứ 4 (năm 1823) cho phụ thờ ở miếu Lịch đại đế vương. Bia Tự Đức 1857 ghi rõ các quan tỉnh, huyện Sơn Tây của nhà Nguyễn đến làng Bùng đều “xuống xe đến yết kiến mộ cụ và làm lễ tế yết”, sau ghi tạc vào bia để nhớ và làm thơ ca tụng, cũng tạc vào bia (năm 1858).

Trân trọng những công lao đóng góp của Trạng Bùng, dân làng Bùng đã cần cù lao động, học hành, xây dựng làng Bùng trở thành làng nghề - làng văn. Gọi là làng văn, bởi làng Bùng có nhiều nhân tài: đời Lý có Đại tư mã Nguyễn Cảnh Câu; đời Trần có Thám hoa Nguyễn Đăng Đạt (làm đến chức Ngự sử đời Lê có Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Phùng Khắc Khoan (đỗ năm Canh Thìn khoa 1580; có Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân Cao Bằng (đỗ năm 1733);…Gọi là làng nghề, bởi làng Bùng có nghề dệt lượt nổi tiếng. Những thợ dệt tổ chức thành phường, như phường Sa Hoàn (gọi nôm na là phường lụa lượt), có trùm phường quản lý.

Cuộc đời Phùng Khắc Khoan đã được huyền thoại hóa, huyền tích hóa quá nhiều. Lý giải điều này, GS Trần Quốc Vượng cho rằng, đó là vì ông là một nhân tài “ngoại hạng”. n

27

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 28: Page 4 76 vh12

Tuy xây dựng cho mình hình tượng người bạn đời phải cao to, đẹp trai nhưng cuối cùng, ngay lần gặp đầu tiên, cô lại phải lòng một

người con trai trắng trẻo, nhỏ nhắn, thư sinh. Có sự xoay chuyển to lớn ấy bởi, người con trai ấy đã mang trong mình một sức mạnh làm cô tin tưởng gửi gắm cả cuộc đời. Còn anh, một cán bộ cấp cao trẻ tuổi, sống giữa thị thành hoa lệ, được nhiều thiếu nữ xinh đẹp ngưỡng mộ, yêu anh, nhưng anh không hề có tình yêu với ai, cũng yêu cô ngay từ lần gặp đầu tiên. Tình yêu đơm hoa kết trái. Hai người cưới nhau trong kháng chiến và bên nhau tới cuối đời.

Đó là chuyện tình của cô Phó Bí thư Phụ nữ tỉnh

Hà Tĩnh, sau này là nhà văn Nguyệt Tú, và anh Lê Quang Đạo - Bí thư Thành ủy Hà Nội năm 1946, sau này là Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Vào một ngày đầu Thu năm 1946, Nguyệt Tú - cô gái trẻ măng, và tròn như một hạt mít, có đôi mắt to đen và sáng rất thông minh, là Phó Bí thư Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh, được một người cùng đoàn thể tên là Như dẫn đến trụ sở tự vệ chiến đấu, cũng là nơi làm việc của Thành ủy Hà Nội đóng tại ngôi nhà số 103 phố Gambetta - Hà Nội (nay là phố Trần Hưng Đạo). Chị Như giới thiệu Nguyệt Tú với một thanh niên còn rất trẻ, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt trái xoan

LÊ QUANG ĐẠOl TRƯƠNG NGUYỄN HÀ BÌNH

Chủ tịch Quốc hội

Chuyện tình

Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo và phu nhân - nhà văn Nguyệt Tú. Ảnh tư liệu

28

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 29: Page 4 76 vh12

trắng trẻo, thông minh, đôi mắt đen, đeo cặp kính trắng: “Đây là đồng chí Đạo, Bí thư Hà Nội”. Nhìn người thanh niên giống nhà thơ, nhà báo hơn là một cán bộ Đảng, mà lại làm to như vậy, Nguyệt Tú lúng túng, đỏ mặt. Chị thầm nghĩ đồng chí Bí thư trẻ quá, trông chỉ như bạn học mình. Sau khi báo cáo công việc với đồng chí Bí thư Thành ủy xong, hai người ra về. Vừa ra đến cổng, Nguyệt Tú đã quay sang hỏi chị Như: “Như ơi, có thật đấy là đồng chí Bí thư Hà Nội không?”. Bởi, trong thâm tâm, chị vẫn chưa tin hẳn, vì trông anh trẻ quá. Như trả lời ngay: “Đồng chí Bí thư đấy”. Nghe xong, Nguyệt Tú lẩm nhẩm: “Bí thư sao mà trông mặt … non choẹt thế!”. Thấy bạn chưa tin, Như giải thích: “Trông trẻ thế nhưng anh ấy đã từng làm Bí thư Hà Nội hồi bí mật đấy. Anh ấy vừa từ Hải Phòng nước sôi lửa bỏng về”. Nhiều năm sau, Nguyệt Tú đã thú nhận “tôi yêu anh từ lần gặp đầu tiên”.

Sau lần gặp ấy, Nguyệt Tú còn gặp Lê Quang Đạo một vài lần nữa trong các buổi họp. Qua các buổi nghe anh Đạo diễn thuyết, Nguyệt Tú nhận ra các vấn đề lý luận phức tạp được anh trình bày rất đơn giản, dễ hiểu. Anh lại dí dỏm vui tính. Nguyệt Tú rất phục, xem anh là thần tượng. Sau khi về công tác tại Ủy ban kháng chiến Hà Nội, có điều kiện làm việc nhiều với anh, Nguyệt Tú đã vô cùng khâm phục và yêu mến anh. Trong bối cảnh giặc Pháp gây

hấn khắp nơi, quân và dân Hà Nội khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, người Bí thư Thành ủy trẻ tuổi Lê Quang Đạo với nụ cười rạng rỡ, trẻ thơ, vẫn bình tĩnh, xông xáo và “còn đùa được” khi chỉ đạo quân dân Hà Nội chuẩn bị kháng chiến, chị càng thầm yêu anh hơn. Nhưng khi có người bảo “Tú với anh Đạo rất hợp nhau”, Tú vẫn ngượng ngùng nói: “Anh ấy làm Bí thư Hà Nội chắc có nhiều cô để ý”. Khi biết anh chưa có ai, Tú cảm thấy vui vui và hy vọng. Song, cô vẫn thầm nghĩ “Anh chưa yêu ai nhưng anh công tác gần các cô Hà Nội xinh đẹp, chắc gì anh chưa có cảm tình đặc biệt với một cô gái nào?”.

Toàn quốc kháng chiến nổ ra, Nguyệt Tú theo Đội Tuyên truyền xung phong của Tổng bộ Việt Minh

ra mặt trận. Còn Lê Quang Đạo ở lại Hà Nội cùng Trung đoàn Thủ đô. Chia tay Lê Quang Đạo, Nguyệt Tú không nghĩ rằng số phận sẽ sắp đặt người Bí thư Thành ủy trẻ tuổi ấy thành người bạn đời của mình. Song, chính cuộc kháng chiến đã đưa hai người gần nhau, có dịp hiểu nhau hơn. Bà Tú kể: “Gặp lại anh Đạo ở Khu 11 năm 1948, tôi thấy anh giản dị, gần gũi hơn nhiều so với một năm về trước, khi còn ở Hà Nội. Anh mặc bộ quần áo nâu, một ống quần bị rách, túm bằng chiếc kim băng. Anh đi đôi dép cao su Con Hổ có một miếng vá bằng săm xe đạp màu đỏ. Tiếng anh cười hồn nhiên đến lạ. Bắt gặp ánh mắt sâu thẳm của anh nhìn mình, tôi thấy xao xuyến. Buổi tối, anh sang gặp tôi. Anh đã thay bộ quần áo nâu khác, mới hơn. Tôi chờ đợi: “Chắc anh ấy sắp đặt vấn đề với mình. Theo các chị nói, anh Đạo đã đề nghị tìm hiểu mình với tổ chức”. Nhưng anh chỉ say sưa kể chuyện về vùng địch tạm chiếm quanh Hà Nội. Tôi nghe anh nói chuyện nhưng chẳng có câu nào vào tai cả. Tôi không nhớ mình nói những gì. Câu chuyện trở nên rời rạc. Chúng tôi lúng túng chia tay nhau. Hôm sau, anh lại quay sang gặp tôi. Anh lại say sưa kể về công tác của mình. Tôi lại chờ đợi. Ngày thứ ba, tôi dậy sớm, có ý đợi anh. Nhưng anh đã đi xuống xã. Tôi cảm thấy rất buồn khi rời Khu 11.

Sau khi về cơ quan Phụ nữ Trung ương, Nguyệt

Nhà văn Nguyệt Tú và cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo lúc mới cưới ở ATK Việt Bắc (Định Hóa, Thái Nguyên). Ảnh qdnd.vn

29

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 30: Page 4 76 vh12

Tú nhận được thư Lê Quang Đạo. Mấy dòng chữ ngắn ngủi viết vội trên một mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay: “Rất tiếc, tôi về chị đã đi Nam Định. Mong có ngày gặp lại”. Nguyệt Tú vừa buồn, vừa thất vọng, thao thức mấy đêm liền. Chị gửi thư trả lời ngay: “Chúng ta chỉ nên là hai người đồng chí tốt thôi anh ạ. Có lẽ quan niệm về tình yêu không giống nhau”. Nửa tháng sau, Nguyệt Tú nhận được một bức thư dài của anh Đạo. Anh chính thức đặt vấn đề tìm hiểu chị. Thư viết tình cảm, chân thành. Sau này, chị mới biết, anh đã nhận được lá thư “từ chối” của chị. Nhưng anh coi như không nhận được. Trong lá thư gửi cho chị để đặt vấn đề, anh đề ngày sớm hơn lá thư của chị.

Anh Đạo hẹn gặp Nguyệt Tú ở ngôi chùa bên dòng sông Tích Giang ở Khu 11, gần nơi họp của cơ quan Thành ủy Hà Nội. Anh không xưng “tôi” nữa: “Lần trước em về anh đang bận quá. Tình hình phong trào đang gay go. Nay công việc đã đi vào nền nếp hơn”. Sau này, chị mới biết, công tác của anh lúc ấy rất căng thẳng, nguy hiểm. Với cương vị Bí thư Hà Nội, anh thường xuyên bí mật ra vào nội thành để gây dựng lại phong trào đang bị Pháp khủng bố, phá vỡ. Anh trừu mến nhìn Nguyệt Tú: “Anh muốn đặt vấn đề tìm hiểu. Em có đồng ý không?”. Tú lúng túng, nhưng vẫn thốt lên bướng bỉnh: “Anh bận thế còn thì giờ đâu nghĩ đến chuyện yêu đương”. “Sao em lại nói thế?”. Nguyệt Tú hơi hoảng, cảm thấy mình lỡ lời. Anh băn khoăn, nét mặt đăm chiêu. Trong không gian yên lặng, chị chợt nghe tiếng cạch cạch đều đều. Nhìn sang, chị thấy không biết từ lúc nào, anh kiếm đâu ra đồng xu và cứ thế gõ nhịp xuống nền gạch. Chị hỏi: “Anh làm cái gì thế?”. Anh nhìn xuống tay, cười bối rối: “Ờ, anh cũng phải dựa vào đấy để nghĩ xem nói thế nào cho Tuệ hiểu được chứ”. Thấy vẻ bối rối của anh, chị biết, mình đã được yêu. Những lời giản dị bộc lộ sự chân thành của anh. Nhưng viễn cảnh về những ngày ngồi nhà ôm con, không được tham gia công tác làm chị băn khoăn: “Không biết anh có đồng ý 5 năm nữa mới cưới không. Trước đây em vẫn nghĩ khi nào nước nhà độc lập mới tính chuyện hôn nhân”. Chị hồi hộp chờ anh trả lời. Nguyệt Tú nghĩ, không biết mình có bắt anh chờ đợi quá lâu không? Nếu anh không đồng ý thì sao? Nhưng rồi, chị yên tâm ngay khi thấy anh vui vẻ: “Tùy em thôi, mấy năm anh cũng đợi được”.

Cơ quan Thành ủy đóng cách cơ quan Phụ nữ

hàng trăm cây số. Thỉnh thoảng hai người mới được gặp nhau. Nhiều năm sau Nguyệt Tú vẫn còn nhớ một kỷ niệm đi công tác cùng anh trên đường Quảng Nạp - Phú Minh, Thái Nguyên. Đường rừng vắng vẻ, lần đầu đi bên nhau, Tú và anh đều bối rối. Bâng khuâng nhìn những chiếc lá đỏ bên đường, chị cất tiếng: “Hoa gì mà lạ quá anh nhỉ? Cánh hoa trông như những chiếc lá, đo đỏ lại xanh xanh. Lá hay hoa?” - Cây Trạng nguyên đấy, em chưa thấy bao giờ sao? Nguyệt Tú cứ tưởng chỉ có hai người trên con đường mòn ấy. Nhưng không ngờ, nhà thơ Thâm Tâm đi sau. Không biết anh đã nghe được những gì. Trong Hội nghị Tuyên truyền toàn quốc, câu chuyện “Lá xanh xanh, hoa đo đỏ” được anh kể lại rất sinh động và hài hước.

Rồi một kỷ niệm khác khi Nguyệt Tú về làng Trinh Tiết, Hà Đông công tác. Cơ quan Thành ủy cũng đóng tại làng Trinh Tiết. Chị và anh Đạo được đoàn thể bố trí gặp nhau trong một nhà dân. Căn phòng mái lá đơn sơ được ngăn với phòng bên bằng một tấm liếp. Khi anh nhè nhẹ kéo chị vào lòng thì một tiếng ho bất ngờ làm cả hai giật mình. Bà chủ nhà ngồi bên kia vách vẫn canh chừng hai người qua khe hở tấm liếp. Người dân ở đây vẫn có tục lệ kiêng, không cho người lạ yêu nhau trong nhà mình. Họ cho rằng như vậy lợn nhà mình sẽ chê cám. Trước khi chia tay, chị nắn nót chép tặng anh bài thơ “Đợi anh về” của Ximonop và tặng anh tấm ảnh chân dung. Lần qua vùng địch hậu, bơi qua sông Đuống lên Việt Bắc, suýt chết đuối, anh vẫn giữ được tấm ảnh đó cùng với ảnh Bác Hồ. Trước khi vượt sông, anh đã bỏ lại ba lô, chỉ mang theo mình hai bức ảnh: ảnh Nguyệt Tú, ảnh Bác Hồ và chứng minh thư. Anh giữ mãi bức ảnh ấy đến sau này.

Mấy tháng sau ngày gặp nhau ở làng Trinh Tiết, anh Đạo lên Việt Bắc họp. Đồng chí liên lạc Văn phòng Trung ương sang cơ quan Phụ nữ gặp Nguyệt Tú: “Tổ chức cần gặp chị Tú”. Tú vội vàng xách tay nải nâu, chiếc nón Tày theo đồng chí liên lạc lội qua mấy con suối đến ngôi nhà sàn rất to, nơi Trung ương Đảng họp hội nghị. Một đồng chí bảo vệ gặp chị vui vẻ nói: “Hôm nay, Hội nghị có chuyện vui chị ạ. Tuyên bố cưới cho hai đôi: chị Nguyễn Khoa Diệu Hồng với anh Đặng Việt Châu, chị Nguyệt Tú với anh Lê Quang Đạo”. Tú rất ngạc nhiên, ngồi chờ đến hết buổi họp để gặp được anh Đạo: “Anh đã hứa chờ em 5 năm cơ mà. Em chưa muốn cưới khi chưa có ý kiến hai gia đình”. Anh cười thanh minh: “Chỉ tại

30

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 31: Page 4 76 vh12

các đồng chí quá sốt sắng. Nhân tiện có cuộc họp đông đủ, để anh báo cáo lại với các anh, hôm nay chúng ta chưa tuyên bố cưới vội”. Anh chị hẹn nhau sau 5 năm mới làm lễ cưới. Nhưng rồi, một chuyện bất ngờ đã xảy ra. Tháng 9 năm 1948, Pháp cho quân nhảy dù xuống Vân Đình đúng lúc Nguyệt Tú trên đường đi công tác qua. May mắn, Tú chạy thoát được và tình cờ gặp anh Đạo cùng Thành ủy Hà Nội sơ tán về Hà Đông. Anh rất mừng khi gặp chị: “Bọn Pháp không chỉ nhảy dù. Chúng còn đưa quân từ Hà Đông ra Vân Đình. Trong ngày hôm ấy, chúng đã bắt 200 phụ nữ tập trung về đình. May mà em chạy thoát”. Tối hôm ấy, anh Đạo bàn với chị: “Tuần sau, đoàn cán bộ do anh Lê Đức Thọ dẫn đầu vào Nam công tác. Thế nào cũng có bữa cơm tiễn đưa. Hay là chúng mình tuyên bố cưới luôn hôm ấy, vừa vui lại vừa không tốn kém gì”. Tú thầm nghĩ, từ lần đầu gặp nhau đến nay, bao nhiêu lần cơ quan thay đổi địa điểm, mấy lần gặp nguy hiểm. Tú biết, thời gian qua có mấy chị yêu anh. Người nói thẳng, người ý tứ nói bóng gió để anh hiểu. Nhưng anh vẫn chờ chị. Chị không muốn bắt anh chờ đợi mãi. Hơn nữa, trong chiến tranh, chẳng biết trước điều gì sẽ xảy ra.

Hai người đã cưới nhau chỉ gần một năm sau ngày hẹn ước. Đồng chí Lê Đức Thọ làm chủ hôn. Những bông hoa rừng hái dưới chân núi, cắm khéo léo vào chiếc cốc thủy tinh. Chú rể vẫn mặc bộ quần áo nâu thường ngày. Tóc cô dâu quấn theo kiểu “một lô cốt”. Tú mượn chiếc áo nâu mới của chị Hoàng Ngân, chiếc quần lụa đen của chị Bội Hoàn. Trong lúc chạy Tây nhảy dù, ba lô quần áo của chị đã bị mất. Mọi người đề nghị: “Cô dâu chú rể hát tặng một bài nào”. Tiếng hoan hô vang dậy. Tú lúng túng đưa mắt nhìn anh Đạo. Hiểu ánh mắt cầu cứu của chị, anh cất giọng hát bài quan họ Cây trúc xinh. Nguyệt Tú không ngờ anh biết hát, lại hát hay đến thế. Nhưng rồi Tú chợt nhớ, anh sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có truyền thống quan họ…. Chị Hai xinh, tang tình là chị hai đứng Đứng, đứng một mình, qua lối như còn xinh…Tiếng ngân nga của anh vừa dứt, mọi người lại quay sang Tú: “Bây giờ đến lượt cô dâu”. Thấy chị lúng túng, anh đỡ lời: “Hôm nay, tôi sẽ hát thay cô dâu”. Anh hát bài hát dân gian “Nồi niêu”. Bài hát rất dí dỏm. Hát đến câu: “Lại đây anh bế, anh bồng”, anh chợt đưa mắt nhìn chị làm chị thoáng xấu hổ.

Nguyệt Tú còn nhớ, đêm ấy, trời se se lạnh và trăng rất sáng. Phía cánh đồng, tiếng côn trùng rả

rích. Chị và anh nói chuyện đến khuya. Giữa chiến tranh, hai người chẳng có mấy ngày hòa bình. Con gái đầu Nguyệt Tĩnh của anh chị được sinh ra từ những đêm trăng sáng ấy. Anh Đạo cười hóm hỉnh nói với chị: “Từ khi đi làm cách mạng, anh đã nhiều lần lấy vợ… giả. Lần này mới được lấy vợ thật đấy”. Để che mắt mật thám, nhiều lần anh Đạo phải đóng giả vợ chồng với các cán bộ nữ. Có lần, anh với chị phải ngủ qua đêm ở nhà trọ phố Hàng Lọng. Hai người phải nằm chung một giường. Suốt đêm anh nằm im, không dám cựa quậy. Anh vừa sợ mật thám vừa sợ chị bạn hiểu nhầm. Lúc ấy, anh mới ngoài hai mươi tuổi. Khi hai người cưới nhau, có người trêu anh: “Ở Hà Nội bao nhiêu cô đẹp sao không chọn mà lại chọn một o Nghệ Tĩnh?”. Anh cười bảo: “Cái duyên cái số mà”. Hai người nhận được nhiều thư chúc mừng từ Việt Bắc gửi về. Những lời chúc dí dỏm “Chúc mừng hai hòn bi chồng lên nhau” của anh Trường Chinh. Anh Cả Ngyễn Lương Bằng thì viết “Giá các cậu ở gần đây, tôi xin tặng tấm chăn sui” (chăn vỏ cây). Riêng anh Tố Hữu gửi tặng tập thơ Từ ấy in bằng giấy bản, khổ nhỏ với lời đề tặng: Thân tặng “Đường sáng trăng sao”…

Được Thành ủy cho nghỉ một tuần, anh bàn với chị: “Em này, theo chế độ cơ quan thì từ Huyện ủy trở lên mỗi người được cấp 50 đồng khi xây dựng gia đình. Anh không nhận tiền ấy. Anh có tiết kiệm được 100 đồng đang cho một đồng chí vay, nếu cần anh sẽ đòi về. Mấy ngày nghỉ, anh định tranh thủ đi mổ mi mắt vì chẳng bao lâu nữa, Pháp nó đánh rộng ra thì mình chẳng còn thì giờ đâu”. Nguyệt Tú rất vui vì được chăm sóc anh. Hàng ngày, chị dắt anh đi thay băng ở trạm quân y. Nhìn chị cầm chiếc gậy tre dắt anh đi qua cầu, có người trêu: “Trông như vợ chồng xẩm”. Mỗi lần nghe tiếng chị soạn rổ đi chợ, anh lại nhắc: “Đi nhanh về nhé, anh chờ em sốt ruột chảy máu mắt đấy”. Nghe nói thế, chị hoảng lắm, quáng quàng mua lạng thịt, mớ rau cải rồi về ngay. Hàng ngày cơm canh đơn giản nhưng đun bằng rơm, khiến Tú lúng túng, khói cay mắt mà cơm mãi không chín. Mắt vẫn đang quấn băng, anh Đạo cùng đun bếp với chị. Hơn một tuần sau, anh Đạo về Thành ủy. Nguyệt Tú xuống xã lấy tài liệu viết bài cho báo Phụ nữ Việt Nam.

Tuần trăng mật của hai người trôi qua như vậy.n(Dựa theo Chuyện tình chính khách Việt Nam - Nguyệt Tú

- Nguyệt Tĩnh - Nxb Phụ nữ, H, 2011)

31

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 32: Page 4 76 vh12

Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928 - 2003) tác giả của gần 1.000 ca khúc trong quá trình hơn 60 năm hoạt động nghệ thuật, trong đó có nhiều

ca khúc nổi tiếng như: Sơn nữ ca, Tìm em, Lời người ra đi, Lời bác dặn trước lúc đi xa, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, …Sáng tác của nhạc sĩ rất phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, thể loại. Các ca khúc của ông đều mang đậm chất trữ tình, đặc biệt thấm đẫm chất dân ca đã đi vào lòng người và sống mãi với thời gian. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nghệ thuật.

Nhạc sĩ Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích, quê ở Hải Lăng, Quảng Trị. Cha ông là người rất ham thích âm nhạc và sành sỏi về ca Huế, Hát bội và cả tân nhạc nữa, có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp âm nhạc của ông. Ông theo học Quốc học Huế, tự học

nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi thể hiện rất rõ năng khiếu âm nhạc. Ông bắt đầu nổi tiếng với Sơn nữ ca, viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Ca khúc đậm chất trữ tình với hình ảnh cô gái miền núi tâm hồn trong trắng đầy chất thơ. Nhạc sĩ tham gia kháng chiến đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo các tổ chức văn hóa của Đảng, đầu tiên là Đoàn phó Đoàn tuyên truyền văn nghệ Trung Bộ và Liên khu IV. Năm 1948, Trần Hoàn được kết nạp vào Đảng. Từ năm 1948 đến năm 1956, ông phụ trách văn hóa văn nghệ Liên khu IV, Liên khu III, Khu Tả Ngạn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ, Trần Hoàn luôn luôn bám sát các cơ sở cách mạng vượt qua bao hiểm nguy đem ánh sáng văn hóa của cách mạng đến khắp nơi tuyên truyền cổ vũ cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc. Ông đã tập

Nhạc sĩ Trần HoànVị Bộ Trưởng có công Xây dựng Văn hóa Dân tộc

l TRUNG THU

Ngày 13 - 11 tại Hà Nội, Liên hiệp

các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam

tổ chức lễ tưởng niệm 10 năm ngày mất

của nhạc sĩ Trần Hoàn. Cùng lúc Nhà

hát ca múa nhạc Việt Nam tổ chức đêm

nhạc kỷ niệm 10 năm ngày mất của

nhạc sĩ Trần Hoàn theo quyết định của

Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.

32

Page 33: Page 4 76 vh12

hợp được nhiều văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến. Năm 1956, Nhạc sĩ Trần Hoàn về làm Giám đốc

Sở Văn hóa Hải Phòng, là một trong những cán bộ đầu tiên tham gia tiếp quản thành phố khi hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng. Là Giám đốc đầu tiên của Sở Văn hóa Hải Phòng trong 10 năm, Nhạc sĩ Trần Hoàn đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển Văn hóa của thành phố Cảng. Ông đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân theo cách mạng, xây dựng đời sống mới, xây dựng chính quyền thông qua các hình thức hoạt động văn hóa, nghệ thuật có hiệu quả…Ông là nhà quản lý nhiều kinh nghiệm, có nhiều công lao xây dựng, thúc đẩy phong trào văn hóa văn nghệ phát triển trong hoàn cảnh thành phố còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Vốn là một nhạc sĩ ông thấu hiểu khát vọng và những thử thách của văn nghệ sĩ trong cuộc sống khó khăn và ông là một trong những người đầu tiên xây dựng, tổ chức Hội Văn nghệ Hải Phòng. Đại hội văn nghệ Hải Phòng lần thứ nhất năm 1963, đã bầu nhà văn Nguyên Hồng là Chi hội trưởng và nhạc sĩ Trần Hoàn là Chi hội phó. Với cương vị Giám đốc Sở Văn hóa ông đã quan tâm

tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Chi hội văn học nghệ thuật Hải Phòng lúc mới thành lập như mở các lớp viết văn làm báo, hướng dẫn, bồi dưỡng lực lượng viết trẻ…Năm 1964, Nhạc sĩ Trần Hoàn trở lại chiến trường Bình Trị Thiên trong khói lửa chiến tranh chống Mỹ, cứu nước với bút danh Hồ Thuận An, thời gian này ông sáng tác những bài hát Tiếng hát trên Gio Cam giải phóng, Lời ru trên nương… Sau năm 1975, đất nước được hoàn toàn giải phóng, ông làm Trưởng ty Văn hóa Bình Trị Thiên. Đến năm 1983, ông được điều động tham gia Ban thường vụ Thành ủy Hà Nội, giữ chức Trưởng Ban Tuyên huấn, sau đó là Phó Bí thư Thành Ủy. Đại hội Đảng lần thứ IV ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VIII. Từ tháng 7 - 1996 ông giữ chức Phó Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương, Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Ủy Ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

Nhạc sĩ Trần Hoàn khi sáng tác luôn luôn có tâm hồn và cảm hứng với nghệ thuật dân tộc. Các tác phẩm nổi tiếng của ông thường dựa trên nền dân ca phong phú của dân tộc. Ở bất kỳ cương vị nào, nhất là sau khi làm Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, ông luôn luôn quan tâm hết lòng xây dựng văn hóa dân tộc, thực hiện nghiêm túc và sáng tạo đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, đưa ánh sáng văn hóa cách mạng đến mọi miền đất nước, hướng tới xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhạc sĩ Trần Hoàn tâm đắc và hết lòng ủng hộ việc thành lập Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam. Ông đích thân đến làm việc với Giáo sư Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam để gửi gắm Trung tâm hoạt động trong Liên hiệp với tư cách là cơ quan nghiên cứu khoa học về văn hóa dân tộc. Từ đó, Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam có thêm một thành viên nghiên cứu khoa học rất đặc thù và cũng rất độc đáo. Đó là nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc, nền tảng tinh thần của xã hội. Hơn 10 năm qua, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển và lớn mạnh. Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất của Nhạc sĩ Trần Hoàn, Trung tâm tỏ lòng biết ơn vị Bộ trưởng đã có công trong việc xây dựng văn hóa dân tộc./.n

Nhạc sĩ Trần Hoàn hát bên cạnh mộ bà Hoàng Thị Loan (1988)

33

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 34: Page 4 76 vh12

Đọi Sơn / Núi Đọi / Long Đọi nằm ở xã Đọi Sơn, phía đông nam huyện Duy Tiên. Từ TP Phủ Lý, theo quốc lộ 1A, đến thị xã Đồng

Văn, rẽ phải theo đường 38 về thị trấn Hòa Mạc, tiếp tục đi thẳng về xã Đọi Sơn khoảng 8 km là đến chân núi Đọi. Tuy chỉ cao chưa đến 200m, dưới chân có 9 ngọn suối, lại có huyệt đá, gọi là huyệt “Hàm rồng”, song Núi Đọi lại có một phẩm chất riêng và “sinh ra những bài hát của riêng mình” (ý thơ Trần Hòa Bình). Từ khi người Việt biết làm ra lịch sử, đã từ nghìn năm trước, phẩm chất núi Đọi, những bài

hát riêng của Núi Đọi ấy chính là nơi thần linh chọn để trú ngụ, soi dọi nguồn tâm linh và che chở vạn vật cõi trời Đại Việt. Núi không phải chỉ do cao, cứ có thần tiên là núi thiêng (Sơn bất tại cao, hữu thần (tiên) tắc linh) là vậy!

Núi Đọi đã thành Núi Thiêng từ ngàn xưa của người Việt.

Cách ngày nay đã trên dưới 2.000 năm, Đọi Sơn đã trở thành điểm qui chiếu và đã được thiêng hoá. Cùng với thời gian và sự ra đời, không ngừng phát triển của thuật phong thuỷ, Đọi Sơn ngày càng được

Núi thiêng đất ViệtĐọi sơn

TS. NGUYỄN MINH SAN

Hà Nam - một miền đất cổ ở đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đất “địa linh nhân kiệt” - nơi có vị thế Địa - Chính trị chiến lược trọng yếu của cả nước; là cửa ngõ, phên dậu muôn đời ở phía Nam Kinh đô Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, song Hà Nam lại có diễm phúc được tạo hóa ban cho một dải núi đá vôi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy, làm điểm tựa cho con đường “thượng đạo” truyền thống trước thế kỷ X - XI, nối liền Xứ Đoài - Xứ Nam - Xứ Thanh, đi ngang qua phía Tây kinh thành Thăng Long - Hà Nội. Và, hơn hết, Hà Nam còn được tạo hóa ban cho ngọn Đọi Sơn đột khởi trên ngút ngàn nương dâu, bãi mía, hàng ngàn năm nay đã là điểm tụ linh, quần cư và tỏa sáng văn minh Việt.

34

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 35: Page 4 76 vh12

thiêng hoá hơn nữa. Với những di chỉ, di vật khảo cổ học phát hiện trong thời gian qua ở quanh Đọi Sơn đã chứng minh điều đó. Tại di chỉ Đọi Sơn, khảo cổ học đã phát hiện được nhiều sọ chủ nhân văn minh Đông Sơn nguyên vẹn nhất, cách ngày nay ước khoảng 2.000 năm: “Người cổ Đọi Sơn có sọ cao, với cái trán rộng, mặt trung bình và không dô. Bốn trong số 7 người có nhuộm răng đen - một đặc điểm văn hoá tộc người truyền thống ở Việt Nam”. Quanh vùng Núi Đọi - Đệp (Đệp/Điệp - một ngọn núi thấp hơn, gần Đọi Sơn, hình núi trông như con trâu nằm, trên núi có chùa, đằng trước trông ra sông, phong cảnh đẹp), và nói rộng ra là cả vùng ven đồi sót của Duy Tiên - Bình Lục tỉnh Hà Nam đã là một vùng văn hoá. Những phát hiện nổi tiếng về trống đồng núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Ngọc Lũ, Vũ Bị, núi Gôi,…cùng các thạp đồng Châu Giang, Mộc Bắc, với các nhóm công cụ rìu, nhíp gặt lúa, dáo đồng Đông Sơn và đặc biệt các mộ cổ thuộc văn minh Đông Sơn quan tài hình thuyền cuối thời đại Hùng vương, được phát hiện ở quanh núi Đọi và vùng Kim Bảng, Thanh Liêm cùng cả vùng ô trũng Hà - Nam - Ninh, cho đến tận Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định là những minh chứng sáng tỏ cho kết luận trên. Có thể kể ra một số phát hiện của khảo cổ học trên vùng

đất cổ này, như sau: - Năm 1977, khai quật 2 ngôi mộ cổ quan tài hình

thuyền ở các xã Châu Sơn và Thanh Sơn (huyện Kim Bảng) phát hiện có đồ tuỳ táng gồm dáo đồng búp đa, rìu đồng, thố, cày chìa vôi,….niên đại đầu Công nguyên. Sau đó, một số ngôi mộ cổ khác được phát hiện ở Yên Từ, Mộc Bắc (huyện Duy Tiên), trên bờ sông Châu Giang cũ.

- Năm 1984, ngay dưới chân núi Đọi Sơn, đã phát hiện có 11 ngôi mộ cổ (3 ngôi mộ thuyền, 2 ngôi mộ kè đá, 4 ngôi có áo quan bằng thanh tre ken lại như giát giường, 2 ngôi mộ đất,…). Hiện vật là đồ đồng Đông Sơn muộn, như giáo, rìu xéo, mũi lao, dao gặt, vòng đồng nhọn mũi, đỉnh đồng, tiền Bán Lạng (đời Hán); còn có bát gỗ, quả cây làm dọi xe chỉ, múi dứa dại,…).

- Năm 1988, ở xã Đọi Nhất lại phát hiện được 3 ngôi mộ thuyền cổ với rìu xéo, dáo đồng Đông Sơn muộn và tiền Bán Lạng (Hán).

Qua nghiên cứu các ngôi mộ cổ, các nhà khoa học đều thấy tất cả các ngôi mộ này đều được chôn ở vùng đất trũng ven sông, chủ nhân các ngôi mộ

này đều quay đầu về núi Đọi. Theo GS Trần Quốc Vượng, đó là đặc trưng địa - văn hoá của các mộ thuyền trước sau Công nguyên thuộc nền văn minh Đông Sơn. Với việc phát hiện nhiều “mộ Hán” cổ ở thôn Nha Xá, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên với đồ gốm có hoa văn in hình học như vậy, đã khẳng định

Cổng Tam quan chùa Long Đọi Sơn

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh

35

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 36: Page 4 76 vh12

trong thời Bắc thuộc, vùng núi Đọi - sông Châu của Hà Nam ngày nay là một trấn trị quan trọng.

Vào thời Tiền Lê, sau khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế (năm 980), ngoài việc đánh Tống, bình Chiêm, mở đường sông, đường bộ từ Xứ Lạng cho đến bên kia Đèo Ngang (Quảng Bình), ông đã rất chú trọng phát triển nông nghiệp. Ông đã chọn miền chân Núi Đọi, quê cha làm nơi tiến hành nghi lễ cày tịch điền. Từ kinh đô Hoa Lư, vua Lê Đại Hành ngự thuyền rồng, theo dòng Hoàng Giang, ra ngã ba Gián Khẩu, vào sông Đáy, ngược lên Châu Cầu, rồi theo dòng Châu Giang ngược lên núi Đọi để làm lễ mở xá cầy đầu tiên cho dân vào vụ đầu năm. Theo Đại Việt sử lược, “Đinh Hợi, năm thứ 8 (năm 987), mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim Ngân” (tr 57). Nay ở chân núi Đọi, phía Tây, vẫn còn cánh đồng “tịch điền”, ruộng gần trăm mẫu và còn di tích vài nền nhà, gọi là Dinh trong, Dinh ngoài, tương truyền là nơi vua Tiền Lê về nghỉ, để sau đó đi cày.

Sang đời Lý, núi Đọi càng trở nên một vùng linh sơn, linh địa hơn khi vua Lý Nhân Tông sau khi về vãn cảnh, đặt tên núi là Long Đội và cho xây dựng trên núi một ngôi chùa lớn thờ Phật và một bảo tháp. Chùa Long Đọi Sơn (tên chữ là Diên Linh tự) được khởi dựng vào năm 1118 trên đỉnh núi Đọi, trong khuôn viên rộng gần 2 héc ta vườn, rừng. Chùa chính gồm 6 gian, quay hướng Nam, đúng như câu tục ngữ:

“Đầu gối núi ĐọiChân dọi Tuần VườngPhát tích đế vương, lưu truyền vạn đại”.Trước mặt chùa là con sông Châu Giang nước

trong xanh uốn lượn, những lúc gió lặng mặt sông như lụa biếc dài ra. Lưng chùa quay về núi Đệp/Điệp, những lúc mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu (Tây) chùa khống chế bình nguyên, trông tới luỹ cũ Càn Hưng. Bên tả (Đông) chùa men theo sông nhỏ (nay là sông Lấp) quanh Hán Thuỷ (sông Nhị) để ra khơi (qua Ngã Ba Lảnh - ở trên - hay ngã Ba Tuần Vường /Đại Hoàng ở dưới). Phía sau chùa chính là sân, vườn hoa. Hai bên sân là hai hành lang, mỗi bên đặt 9 pho tượng. Sau cùng là hậu điện. Bên phải chùa, cạnh vườn hoa là nhà thờ tổ, nhà giảng đường và nhà khách. Phía sau nhà thờ tổ là gian nhà trai, thiền tổ. Sau cùng là nhà bếp.

Ngôi bảo tháp có tên là Sùng Thiện Diên linh cạnh chùa được dựng tiếp sau đó. Tháp được xây

công phu, vững chãi, vật liệu chủ yếu là đá mân, đá vũ đều là những loại đá quý. Đây là loại tháp vuông 4 mặt. Tháp có qui mô cao lớn, cao 13 tầng chọc trời. Ngoài tầng đế và hai tầng trên không có cửa, còn lại 10 tầng mở cửa cả 4 phía (40 cửa) hóng gió. Ở tất cả các cửa vách đều trạm rồng ổ. Tháp Sùng Thiện Diên Linh là tháp mộ, tầng trên của tháp đặt hộp vàng xá lỵ, toả trường quang cho đời thịnh sau này. Tầng đế hợp với tầng đầu tiên thành nơi thờ Phật, trong đó có đặt tượng Đà Bảo Như Lai. Trên các xà của tháp có treo chuông đồng. Đây là loại chuông nhỏ, có khả năng là những bộ đinh đang, khi gió thổi va vào nhau tạo thành những âm thanh réo rắt. Tầng dưới chân tháp có “tám vị tướng khôi ngô đứng chống kiếm trang nghiêm chia đều ở 4 cửa” (nay chỉ còn lại 6 pho), trên nóc có “tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc cho bầu trời tạnh ráo”. Cả cây tháp như là ngọn bút, một tượng đài cao, bao gồm nhiều hình tượng và được thể hiện bằng nhiều phong cách khác nhau. Bên cạnh đó, ở rải rác trong các thành phần kiến trúc còn có nhiều tượng trang trí như tượng chim thần đầu người mình chim đặt trên các con sơn, tượng giống như ở các cửa cuốn, các đố dọc. Ngay cả những viên gạch dùng để ghép tường cũng có trang trí hình những vũ nữ đang múa.

Vì “lúc rảnh mới xây, được mùa mới lập”, nên phải qua “ba vụ cày, bốn mùa lúa chín” chùa và tháp trên Núi Đọi mới làm xong. Khi xây xong chùa và tháp Sùng Thiện Diên Linh, nhà vua sai Nguyễn Công Bật là Thượng thư Bộ Hình, soạn văn bia. Văn bia có tên là Đại Việt quốc Lý đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi. Bia đề ngày mùng 6 tháng 7 năm Tân Sửu (tức ngày 20 tháng 8 năm 1121). Nội dung văn bia Sùng Thiện Diên Linh chủ yếu ca ngợi công lao tài trí của vua Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc giữ nước; nói về việc vua Lý Nhân Tông về thăm núi Đọi năm 1118, đích thân nhà vua xem xét địa thế, thấy hợp, vua cho mời thầy địa lý, thợ mộc, thợ đo vẽ, thợ đẽo đá, thợ đúc chuông và thợ tạc tượng xây chùa, dựng tháp làm trong 4 năm (1118 - 1121) mới hoàn thành ngôi chùa tháp này; nói về qui mô kiến trúc và ý nghĩa của tháp Sùng Thiện Diên Linh. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh còn đã ghi lại cảnh đua thuyền, bơi chải trên sông Châu Giang lúc đó, mà ngày nay vẫn diễn ra đâu đó: “Hàng nghìn chiếc thuyền bơi giữa dòng nhanh như chớp, muôn tiếng trống khua hoà hợp với tiếng nước như sấm động”. Văn bia còn mô tả một

36

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 37: Page 4 76 vh12

loại hình nghệ thuật, ngày nay gọi là múa rối nước, như sau: “Hươu họp thành đàn đi lại nhảy nhót…. ở giữa sông một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên mặt nước, lộ vân trên thân và bốn chân. Chuyển nhìn trên bờ, miệng thì phun nước trên bến. Quay đường hướng tới ngai vua mà cúi đầu chào”. Mặt sau tấm bia khắc ghi việc Thái hậu Ỷ Lan cúng chùa 72 mẫu ruộng làm ruộng đèn nhang vào năm 1121. Ngày khánh thành chùa, tháp nhà vua thân hành đến chùa cùng chia vui với trẻ già muôn nơi, đọc kinh kệ, cúng lễ, ca múa, “thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn” (trích văn bia Sùng Thiện Diên Linh).

Diên Linh tự và tháp Sùng Thiện Diên Linh là một công trình kiến trúc Phật giáo lớn rất có giá trị mà vương triều Lý, cùng với sự đóng góp không nhỏ của thợ thủ công các ngành nghề Hà Nam trong thế kỷ XII tạo nên. Không lâu sau khi khánh thành, chùa Đọi đã trở thành một trung tâm Phật giáo của nước ta thời đó.

Sang thời Trần, sau khi xây chùa tháp Phổ Minh, Yên Tử, theo đó, trung tâm Phật giáo nước ta cũng chuyển về đây, khiến cho chùa Đọi có phần thanh vắng. Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, chúng đã phá hủy hoàn toàn chùa và tháp núi Đọi. Riêng bia Sùng Thiện Diên Linh do không phá được, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi.

Đến đời Lê, vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467) vị vua tôn sùng Nho giáo - nhà thơ Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả (phía Đông) núi Đọi, có lên chơi núi. Vua Lê Thánh Tông phong núi Long Đội là “Nam thiên đệ tam động” (Động thứ ba dưới trời Nam). Xúc cảm trước cảnh điêu tàn của ngôi chùa cổ, vua Lê Thánh Tông có làm bài thơ nhan đề Thiên Nam động chủ lưu đề, cho khắc vào sau tấm bia Sùng Thiện Diên Linh của nhà Lý. Bài thơ tuy có câu chê cười vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật): “Lý triều quái đản bi không tại” (dịch: Triều Lý hoang đường, bia vẫn đấy), song âm hưởng chủ đạo của bài thơ là tố cáo tội ác giặc Minh tàn bạo đã phá đổ chùa chiền:

“Lý triều quái đản bi không tại.Minh tặc hung tàn tự dĩ canh.Lộ thiểu nhân tung đài giáp lụcSơn đa xuân vũ hiểu ngấn xanh”Dịch:Triều Lý hoang đường, bia vẫn đấy

Giặc Minh hung bạo chùa đã thayĐường người đi ít làn rêu biếcNúi lắm mưa xuân ngấn sáng xanhTừ đó, suốt thời Lê, để mặc chùa, bia đổ nát.Phải đến thời nhà Mạc, vào cuối năm Tân Mão

(1591), niên hiệu Hưng Trị, đời Mạc Mậu Hợp, các quan bá tước cai quản vùng Duy Tân (Duy Tiên) mới cùng dân 3 giáp Nhất, Nhị, Tam là Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín dựng lại bia, bắc lại xà nhà, vá tô lại tượng, làm cửa, xây tường, “khiến cho sau hơn năm trăm năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ”. Việc này được khắc vào mặt sau tấm bia Sùng Thiện Diên Linh.

Vào năm Tự Đức thứ 13 (1860), chùa Đọi có sửa sang tòa thượng điện, tiền đường, nhà tổ, siêu hương, gác chuông, nghi môn. Đến năm 1864, chùa lại được sửa sang hành lang, đúc tượng Di Lặc, đúc khánh đồng và đục khánh đá do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đó trở thành Trường Bắc Kỳ Phật giáo. Ngôi chùa lúc này được dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Tại tam bảo, thượng điện có rất nhiều tượng Phật. Ngay ngõ vào là hai dãy Thập điện Diêm vương. Ngoài ra, chùa còn có nhà tổ, nhà khách, tăng phòng,… Ngay cổng chính, trước tòa tam bảo là nhà bia để tấm bia Sùng Thiện Diên Linh nổi tiếng.

Cảnh đẹp và sự linh thiêng của Đọi Sơn không chỉ được vua chúa các thời tìm về, mà còn được nhiều tao nhân mặc khách khắp thiên hạ cảm hứng ngợi ca. Tiêu biểu là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Sinh thời, ông có 4 bài thơ về Núi Đọi; trong đó có 2 bài thơ Nôm (là Chơi núi Long Đội và Nhớ cảnh chùa Đọi), 2 bài thơ chữ Hán (là Vọng Đội Sơn (Trông núi Đọi), Ức Long Đội Sơn (Nhớ núi ông Đội). Câu mở đầu bài Vọng Đội Sơn, Nguyễn Khuyến nêu rõ đấy là một danh sơn: Vô đoan bình địa xuất danh sơn (Nơi đất bằng bỗng nổi lên một ngọn núi có danh tiếng).

Mặc bao biến đổi của thời gian và sự tàn phá của binh lửa, ở chùa Đọi vẫn bảo lưu được một số di vật quí, như tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, 6 pho tượng Kim Cương, tượng Kinavi, tượng Phật Di Lặc, khánh đồng, là những hiện vật cách đây gần một thiên niên kỷ, rất quí báu đối với việc nghiên cứu văn hóa nước ta. Hiện nay, chùa Đọi vẫn là một trong những trung tâm Phật giáo của tỉnh Hà Nam. Hàng năm, các nhà sư phía trong tỉnh Hà Nam thường về đây khai hạ.

Núi thiêng Đọi Sơn - Sông Ngọc Châu Giang từ lâu đã là biểu tượng của tỉnh Hà Nam - Sơn - Thủy hữu tình./.n

37

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 38: Page 4 76 vh12

Để đề cao Nho học, tỏ rõ sự trọng học và cũng là để khai hoá cho muôn dân, vào tháng 10 năm Canh Tuất (năm 1070), niên

hiệu Thần Vũ thứ hai, vua Lý Thánh Tông đã cho xây Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long để thờ Khổng Tử - ông Tổ của Nho học/giáo cùng các học trò của Ngài. Lại sai Hoàng Thái tử tới đó học tập. Như vậy, Văn Miếu không chỉ là nơi thờ tự mà còn là trường học đầu tiên - trường học đặc biệt của triều Lý dành cho Hoàng Thái tử Càn Đức, vua Lý Nhân Tông sau này. Ở các địa phương, nhà vua cũng cho lập Văn chỉ để làm nơi thờ Khổng Tử nhằm khuyến khích việc học tập của nhân dân trong các làng xã. Năm 1076, nhà Lý cho xây Quốc Tử Giám kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử và con em hoàng thân quốc thích trong triều, về sau mở rộng thu nhận cả các học trò giỏi bốn phương. Từ mái trường sớm nhất và lâu đời nhất ở Việt Nam này đã đào tạo ra biết bao thế hệ nhân tài, những con người uyên bác, lỗi lạc được ngợi ca, vinh danh trong những trang sử hào hùng của dân tộc hàng ngàn năm qua. Không thầy đố mày làm nên! Có

được những người học trò ưu tú, nổi tiếng, xuất sắc ấy, phải kể đến và ghi nhận sự cống hiến lớn lao của những bậc thầy không quản công sức, khó nhọc đã cố công vun đắp, đào tạo nhân tài cho dân tộc. Các vị Tư nghiệp, Tế tửu Quốc Tử Giám - một chức vụ như chức Hiệu trưởng Đại học Quốc gia ngày nay, là những người thầy với sự nghiệp “trồng người” sớm nhất trong lịch sử Việt Nam.

Với vị thế quan trọng của Quốc Tử Giám như vậy, nên những người được giao trọng trách làm Tư nghiệp, Tế tửu Quốc Tử Giám luôn được các vương triều chọn lựa kỹ càng, tín nhiệm về cả tài và đức. Người được giao trọng trách Tư nghiệp, Tế tửu Quốc Tử Giám là niềm vinh dự vô cùng lớn lao không chỉ cho gia đình, dòng họ mà còn cho cả quê hương của họ.

Trải qua lịch sử khoa bảng Nho giáo nước ta, Quốc Tử Giám Hà Nội đã có 103 vị Tư nghiệp, Tế tửu; trong đó, tỉnh Bắc Ninh ngày nay có 20 vị, đứng thứ hai sau Hà Nội với 27 vị (Hà Nội hiện nay đã gồm cả 2 tỉnh cũ là Hà Đông và Sơn Tây). Những vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám người Bắc Ninh, là:

l NGUYỄN THÙY LINH

Bắc NinhHiệu trưởng Quốc Tử giám Tỉnh có nhiều

38

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 39: Page 4 76 vh12

1. Vũ Mộng Nguyên (1380 - 1545)Vũ Mộng Nguyên tên tự là Vị Khê, hiệu là Lạn Kha,

người làng Đông Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Thái học sinh tháng 8 năm Canh Thìn, niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất (1400), triều Hồ. Ông là người đức độ, tài học uyên thâm, xứng danh là thầy nên được nhiều người khâm phục, tôn xưng là Minh Phủ (bậc sáng suốt có tài đức). Ông 2 lần giữ chức Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Sau khi Lê Lợi đại định thiên hạ lập nên nhà Lê, đã mời ông ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Sau, ông được phong Thái trung Đại phu, thăng làm Tế tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám. Có thể nói, gần cả cuộc đời Vũ Mộng Nguyên gắn liền với Quốc Tử Giám. Năm 74 tuổi, ông về chí sĩ, được triều đình ban lễ, trọng thưởng hậu đãi, bách quan tiễn chân đông đúc tại cửa Đông Môn.

2. Nguyễn Thiên Túng (thế kỷ XV)Nguyễn Thiên Túng sinh vào đầu thế kỷ XV, tên

tự Ước Phủ, hiệu là Đức Giang, người làng Thiết Ứng, huyện Đông Ngàn, nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Dưới triều vua Lê Thái Tổ, ông được bổ làm Giáo thụ Quốc Tử Giám. Năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông, ông được thăng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông giữ chức vụ này suốt mấy chục năm liền.

3. Nguyễn Thiên Tích (thế kỷ XV)Nguyễn Thiên Tích, tên tự là Huyền Khê, hiệu Tiêu

Sơn, người làng Nội Duệ, huyện Tiên Du, nay là Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Hợi, niên hiệu Thuận Thiên 4, đời vua Lê Thái Tổ (1431), ông thi đỗ khoa Hoành từ (tương tự như khoa thi Tiến sĩ đầu thời Lê sơ). Ông giỏi văn thơ, đã hai lần được cử làm Phó sứ sang nhà Minh. Ông là người chính trực, thẳng thắn được cử xét xử các việc tố tụng. Đến triều vua Lê Thánh Tông, ông được bổ làm Thượng thư Bộ Binh, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám.

4. Nguyễn Nhân Thiếp (1452-15?). Ông quê xã Kim Đôi, huyện Võ Giang, nay là

Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra vốn rất thông minh, lớn lên lại ham học. Năm 1466, Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận thứ bẩy, triều đình mở khoa thi. Năm ấy, Nguyễn Nhân Thiếp mới 15 tuổi, song ông vẫn ứng thí. Anh trai Nguyễn Nhân Thiếp là Nguyễn Nhân Bị, cũng dự thi khoa này. Kết quả là, cả hai anh em đều đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (khoa này có 19 người). Nguyễn Nhân Bị chỉ đứng hàng thứ tư, còn Nguyễn Nhân Thiếp đứng hàng đầu.

Năm 1467, Nguyễn Nhân Thiếp được bổ làm Tri huyện, dự thi đỗ khoa Hoành từ, được vào đọc sách ở Bí Thư giám. Đầu năm Cảnh Thống, ông giữ chức Đông các Đại học sĩ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Văn chương của ông được người đời tôn trọng, đề cao. Ông làm quan đến Thượng thư Bộ Lại.

5. Nguyễn Vô CữuÔng người huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm

Giáp Thìn, ông đi thi, đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), ông được bổ làm Tế tửu Quốc Tử Giám.

6. Nguyễn Hoằng Nghị Ông người huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm

Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 21 (1490), ông thi đỗ Hoàng giáp, được bổ làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

7. Nguyễn Hiếu Tư (1459 - 15?)Ông quê ở huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm Ất

Sửu niên hiệu Đoan Khánh năm đầu (1505), đời vua Lê Uy Mục, ông thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sỹ, lúc 46 tuổi. Sau đó, ông được bổ làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

8. Hứa Tam Tỉnh (1476-154?)Người làng Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong, tỉnh

Bắc Ninh. Ông sinh năm Bính Thân, niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1476), triều Lê Thánh Tông. Ông nổi tiếng về văn học, lại có dung mạo khôi ngô tuấn tú. Năm Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh 4, triều Lê Uy Mục, ông thi đỗ Bảng nhãn. Khoa thi này lấy đỗ 3 Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 15 người đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ. Trạng nguyên là Nguyễn Giản Thanh. Khi các tân khoa vào chầu, nhà vua khen dung mạo ông, gọi vui là “Mạo Trạng nguyên” (Trạng nguyên dáng đẹp). Ông làm Thị thư và Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm Quý Dậu, Hồng Thuận thứ 5 (1513), ông được sung chức Phó sứ sang nhà Minh. Về sau, ông làm quan dưới triều Mạc, tới chức Thượng thư Bộ Lại, tước Đôn giáo hầu. Sau khi đi sứ sang nhà Minh về, ông được thăng Thiếu bảo, lãnh việc dạy Hoàng tử nhà Mạc.

9. Nguyễn Trọng Hiệu (1486-1559)Người huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, nay là

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514). Ông làm quan tới Thượng thư, triều Lê gia phong tước Bá. Khi nhà Lê mất ngôi, ông làm quan triều Mạc, giữ chức Hàn Lâm viện kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám.

10. Nguyễn Địch Khang (1492-?)Ông người huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

39

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 40: Page 4 76 vh12

Năm Nhâm Thìn niên hiệu Mạc Đại Chính 3 (1532), ông đi thi đỗ Hoàng giáp đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan đến chức Tả Thị lang Bộ Lại kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

11. Hoàng Sỹ Khải (1515-158?)Hoàng Sỹ Khải hiệu là Lãn Trai, người làng Lai Xá,

huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh khoảng năm 1515, xuất thân từ trong đội quân Vũ Lâm triều đình. Năm Giáp Thìn niên hiệu Nguyên Hòa 12 (1544), ông thi Hội, đỗ Đồng Tiến sĩ và giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Ông được cử đi sứ nhà Minh, khi về được thăng Hộ bộ Thượng thư, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, tước Vịnh Kiều Bá. Ông nổi tiếng hay chữ, hay dùng văn Nôm.

12. Nguyễn Hùng Đoán (Thế kỷ XVI)Ông quê ở huyện Lương Tài, phủ Thuận An, nay

là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Năm Bính Thìn niên hiệu Mạc Quang Bảo 3 (1556) triều Mạc Phúc Nguyên, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Tả Thị lang Bộ Lại kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

13. Dương Cảo (1586-?)Dương Cảo là một danh sĩ, quê làng Hà Lỗ, huyện

Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Năm Mậu Thìn (1628), ông đỗ Tiến sĩ lúc 42 tuổi, làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám.

14. Nguyễn Đăng Minh (1625- 1696)Ông quê xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, nay là

huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông đi thi năm Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, lúc đó ông 31 tuổi. Ông làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, được gia phong tước Nam. Năm Bính Tý, niên hiệu Chính Hòa 17 (1696) đời chúa Tây vương Trịnh Căn, Nguyễn Đăng Minh mất tại quê nhà, thọ 71 tuổi.

15. Nguyễn Chiêm (1599-?)Ông quê xã Cẩm Chương, huyện Đông Ngàn, phủ

Từ Sơn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức 2 (1650), ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân hàng thứ năm, lúc đó ông 51 tuổi. Tới năm Kỷ Hợi (1559), ông thi đỗ khoa Đông các. Ông làm quan đến chức Tham chính, kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, gia phong tước Cẩm Đường Nam.

16. Ngô Hải (thế kỷ XV)Ông quê huyện An Phong, phủ Từ Sơn, nay là

huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Năm Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508), đời vua Lê Uy Mục, ông đi thi, đỗ Hoàng giáp, được bổ nhiệm làm quan

Tế tửu Quốc Tử Giám.17. Nguyễn Long Bảng (1651-?)Ông quê xã Chân Hộ, huyện An Phong, nay là

huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Năm Quí Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 triều Lê - Trịnh (1683), ông đi thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, đời vua Lê Hy Tông. Năm đó, ông 31 tuổi, được bổ làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

18. Nguyễn Đức Vỹ (1700-1775)Ông người làng Phật Tích, huyện Tiên Du, nay là

huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Đức Vỹ đi thi Hương, đỗ Giải nguyên. Năm Đinh Mùi (1727), Bảo Thái thứ 8, ông thi đỗ đồng Tiến sĩ lúc đó mới 27 tuổi, được bổ làm Hiệu thư Đông các, sau được thăng hàm Hữu Thị lang Bộ Hình, sau đó đổi sang làm Hữu thị lang Bộ Binh. Năm đó ông mới 37 tuổi. Nguyễn Đức Vỹ có tài văn học nên được thăng Tả thị lang Bộ Lễ, sau chuyển sang làm Tả thị lang Bộ Hình. Năm 1740, ông được thăng chức Bồi tụng, Thượng thư Bộ Công, làm việc ở Bộ Lại kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, vào giảng sách ở tòa Kinh diên, tước Nghĩa Phương hầu. Năm Giáp Thân (1764), ông 64 tuổi, xin về ở ẩn, được gia hàm Thiếu bảo. Ít lâu sau, chúa Trịnh Doanh lại mời ông ra làm quan, thăng chức Thượng thư Bộ Binh, coi việc Bộ Lại và gia hàm Thái tử Thái phó. Ông mất năm 1775, thọ 75 tuổi, được truy tặng Thái Bảo. Ông nổi tiếng là người thanh bạch, liêm khiết.

19. Trần Danh Ninh (1703-1766)Ông quê làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc

Ninh. Là con của Tiến sĩ Trần Phụ Dực, anh của Tiến sĩ Trần Danh Lâm, Trần Danh Ninh nổi tiếng tài văn thơ, năm 20 tuổi, ông đỗ Giải nguyên, năm 1731, đỗ Hoàng giáp. Từ năm Canh Thân (1740), ông làm Thị giảng Viện hàn lâm, tước Bửu Huy Bá. Đến năm Quý Hợi (1743), ông làm Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi thăng Đông các Đại học sĩ, làm việc ở Viện Khu mật. Năm Bính Tuất (1766), ông về ở ẩn, được phong hàm Thượng thư Bộ Lễ. Năm 1767, ông mất tại quê nhà, thọ 64 tuổi, được truy tặng Thiếu Bảo, tên thụy là Mẫn Đạt.

20. Vũ/Võ Miên (1718-1782)Ông quê xã Xuân Lan, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc

Ninh. Năm 1784, Mậu Thìn, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Thị lang Bộ Lại, Hành Tham tụng kiêm Tế tửu, Tổng tài Quốc Tử Giám, và được phong tước Liêm Khê hầu. Năm Nhâm Dần (1782), ông mất, thọ 64 tuổi, được truy tặng Thượng thư, ban tên thụy là Ôn Cần. n

40

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 41: Page 4 76 vh12

Một sốkỷ niệmCủa đoànCa múa Quân đội

l KHẮC TUẾ

1.Bác thăm đoàn tại Bình NhưỡngĐoàn ca múa quân đội nhân dân Việt Nam được

nhà nước cử đi dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ sáu tại Matxcơva mùa hè năm 1957. Nhân dịp này, đoàn còn được đi thăm và biểu diễn ở bốn nước XHCN anh em: Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên và Mông Cổ. Do hoàn cảnh đặc biệt, đoàn đã lấy danh nghĩa là Đoàn nghệ thuật thanh niên Việt Nam. Khi chúng tôi đang biểu diễn ở Bình Nhưỡng - Thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, thì được tin Bác Hồ sẽ đến thăm đoàn.

Đại sứ quán Việt Nam nằm trên một quả đồi ở phía Tây Bình Nhưỡng. Chúng tôi được triệu tập đến đây để đón Bác. Đồng chí Đại sứ nhắc nhở đoàn: “Bác đến thăm Sứ quán và đoàn chỉ có ít phút thôi,

mong các đồng chí văn công chú ý giữ sức khỏe cho Bác!”. Sau mấy lời nhắc nhở ngắn gọn của Đồng chí Đại sứ, chúng tôi, cả tám chục cán bộ và diễn viên cứ đăm đăm nhìn con đường từ sứ quán dẫn ra quốc lộ để theo dõi đoàn xe của Bác, thì Bác đã xuất hiện ngay sau lưng mà không ai hay biết. Mấy người phát hiện được Bác trước thì cứ ú ớ như người bị bóng đè vậy, sau đó mọi người thấy Bác thì ồn ào náo nhiệt rồi chen chúc nhau theo Bác lên lưng đồi. Đến một nơi bằng phẳng, Bác quay lại đưa ngón tay trỏ lên miệng xuỵt cho mọi người yên lặng, rồi Bác bảo: “Nào bây giờ các cô các chú, ai có ý kiến thì phát biểu đi!”. Ca sĩ Đoàn Thiều nhanh nhẩu: “Dạ thưa Bác, chúng cháu nghe tin Bác mới về phép phải không ạ?”. Mọi người xôn xao, cho rằng Thiều nói thế cợt nhả quá. Nhưng với tấm lòng độ lượng, Bác

BÁC HỒVới Bác Hồ và các nghệ sĩ, diễn viên Đoàn Ca múa Tổng cục

Chính trị QĐND Việt Nam.

41

Page 42: Page 4 76 vh12

vuốt nhẹ chòm râu trả lời: Ừ, Bác mới ghé thăm quê”. Thấy Bác ôn tồn trả lời, được thể, đạo diễn Minh Tiến hỏi tiếp: “Thưa Bác, cháu mới nghe tin, gần đây ở Liên Xô, Ông Khơ - Rút - Xốp bị đánh đổ, có thể nào xin Bác giải thích cho chúng cháu ạ?”. Mọi người cũng không đồng tình với Minh Tiến, vì Tiến đề cập đến một vấn đề quá lớn. Mặc dù vậy, Bác vẫn điềm đạm trả lời: “Thôi, việc này thì chú phải tự giải thích lấy thôi”. Minh tiến lại gặng thêm, không hề quan tâm đến sự băn khoăn của cả đoàn: “Dạ thưa Bác, thế thì cháu không thể thông được ạ”. Lúc này Bác trở nên nghiêm nghị quát to: “Thế thì phải học để mà thông, nếu không học thì lại thắc mắc là tại sao mặt trời nó mọc, rồi đến lúc mặt trời lặn thì lại thắc mắc tại sao mặt trời lặn?”. Để mở đường thoát cho Minh Tiến, Bác bèn hô: “Nào bây giờ các cô, các chú hát đi!”. Để tránh đùn đẩy nhau, Bác liền chỉ định: “Cô Thương Huyền hát đi!”. Chị Thương Huyền bị Bác “bỏ bom” nên sinh ra lúng túng: “Dạ thưa Bác, Bác bảo cháy hát bài gì ah?”. Thấy chị Huyền lúng túng Bác liền nói vui: “Ơ kìa, cô cái “tủ” nào thì cứ việc đem ra mà dùng chứ còn băn khoăn gì nữa?”. Thấy Bác vui vẻ, cởi mở, chị Thương Huyền hát luôn bài “Trống cơm”; đến đoạn kết của bài là “em nhớ thương ai, duyên nợ khách tang bồng, Bác liền hỏi luôn: “Cô Huyền, duyên nợ khách tang bồng là gì?”. Chị Thương Huyền ở người ra, không trả lời được. Bác quay sang hỏi, thế Chú Nhuận (Nhạc sĩ Đỗ Nhuận, anh Nhuận cũng không trả lời được. Bác lại hỏi: “Thế chú Toàn?” (nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn), anh Toàn cũng không trả lời được. Thấy những nhạc sĩ thuộc loại đầu đàn mà không trả lời được, Bác quay sang ông Hoàng Văn Hoan (trợ lý của Bác trong chuyến đi này): “Thế Chú Hoan?” Ông Hoàng Văn Hoan là người rất giỏi Hán học, nhưng ông không trả lời mà giơ đồng hồ lên: “Dạ thưa Bác, đã đến giờ ra sân bay rồi, xin Bác đi kẻo nhỡ giờ bay”. Nghe lời ông Hoàng Văn Hoan, Bác đứng dậy, nâng cả hai tay chém gió: “Thôi nhé, vui như thế là đủ rồi, Bác đi đây. Các cô, các chú nhớ đoàn kết tốt, biểu diễn tốt”. Nói đoạn, Bác đi nhanh theo đồng chí cận vệ. Tất cả chúng tôi im phăng phắc, lưu luyến nhìn theo Bác. Cũng không ai dám chạy theo vì thái độ của đồng chí cận vệ rất nghiêm!

Từ hôm gặp Bác ở Bình Nhưỡng, chúng tôi, ai nấy đều băn khoăn về “duyên nợ khách tang bồng?”. Rồi có một hôm, tôi tìm đến nhà văn Tào Mạt (Đăng Thục) để nhờ anh cắt nghĩa cụm từ “duyên nợ khách

tang bồng”? Anh Tào Mạt giảng giải: “Tang là cây dâu tang, người ta lấy cây dâu tang làm cung để bắn, còn Bồng là cây cỏ bồng làm mũi yên kẹp vào cây dâu tang mà bắn. Còn hai chữ “duyên nợ” thì thuở xưa người dân có duyên nợ với những người lính nơi biên ải, nên mới thành duyên nợ khách tang bồng là vậy. Ôi! Bác Hồ thâm thúy lắm! Bác bảo là các bạn như con vẹt ấy, hát mà chẳng hiểu nội dung là gì”.

Chắc là Bác Hồ sẽ vui mừng khi biết chúng tôi đã thấu hiểu nội dung bài “Trống cơm”, dân ca quan họ Bắc Ninh.

2. Ai báo cáo với Bác đây?Cuối năm 1960, Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị

được Nhà nước cho khoác áo dân dự và cử đi thăm nước Cộng hòa Indonesia. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ, đoàn được mang danh hiệu là: Đoàn Văn hóa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên đoàn được nhiều cán bộ cấp cao phụ trách như : Ông Hoàng Minh Giám, Tổng thư ký Đảng xã hội - Bộ trưởng Bộ Văn hóa - làm trưởng đoàn, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật - làm phó đoàn, ông Trần Văn Phác - Cục phó Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - làm Tổng thư ký, Trưởng đoàn Ca múa quân đội - nhạc sỹ Lương Ngọc Trác - làm Chỉ đạo nghệ thuật.

Trong quá trình chuẩn bị chương trình biểu diễn, Bác gợi ý: nên có một tiết mục dành riêng tặng Tổng thống Xu Các Nô. Tuy là gợi ý nhưng thực ra đây là một ý tưởng lớn! Nó là mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước có chế độ chính trị khác nhau, và là mối quan hệ giữa hai vị đứng đầu của hai Quốc gia.

Thấm nhuần ý tưởng lớn này của Bác, Ban lãnh đạo đoàn đã giao cho nhà biên đạo múa Trọng Lanh, đạo diễn một tiết mục theo gợi ý của Bác.

Trọng Lanh đã khôn khéo chọn điệu múa dân gian miền Trung “Sắc Bùa” để biên đạo lại với diễn viên gồm tám cô gái và một ông già. Ông già đi trước, tám cô gái theo sau, đi gõ cửa chúc mừng các gia đình năm mới. Điệu múa đầy chất dân gian: dịu dàng, sôi nổi và điệu nghệ giữa ông già và các cháu gái non tơ, xinh đẹp.

Đêm đầu tiên biểu diễn tại cung Bô Go, dành riêng cho Tổng thống Xu Các Nô và gia đình Tổng thống, điệu múa “Sắc Bùa” được giới thiệu là :Món quà đặc biệt của Bác Hồ thân tặng Bung Cac Nô (anh cả Các Nô). Tổng thống rất xúc động về nghĩa

42

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 43: Page 4 76 vh12

cử của Bác Hồ. Khi điệu múa kết thúc, Bung Các Nô đã lên sân khấu ôm lấy ông già “Sắc Bùa” và nói bằng tiếng Việt: “Cám ơn Bác Hồ”.

Hôm sau, các báo hàng ngày của Jacacrta đăng bình luận về chương trình biểu diễn quá đặc sắc của đoàn Văn hóa Việt Nam, trong đó nêu bật điệu múa “Sắc Bùa” - một tác phẩm vũ đạo không thể bình luận, vì đó là món quà Bác Hồ dành riêng cho Bung Các Nô! - món quà tình nghĩa anh em giữa hai vị lãnh tụ Việt Nam và Indonesia.

Để cảm ơn đêm diễn đặc sắc của đoàn, Tổng thống đã tổ chức đêm múa rối “Roay ăng cu lít”, loại hình nghệ thuật riêng của Indonesia, để chiêu đãi đoàn tại phủ Tổng thống.

Trong suốt quá trình đoàn thăm và biểu diễn tại Indonesia, Tổng thống Xu Các Nô, coi các diễn viên của đoàn đều là cháu của Bác Hồ là em của mình nên Tổng thống đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức: nơi diễn, ăn, ở, đi lại phải thật chu đáo.

Khi đi diễn ở Đảo du lịch Bali đoàn được đi máy bay, chứ không đi tàu thủy để tránh say sóng. Khi ăn ở khách sạn thì đoàn được ăn ngon, ăn đủ. Cấm nhân viên khách sạn ăn bớt, ăn chặn! Thế là, chúng tôi đã thực thụ trở thành những người em của Bung Các Nô. Cũng nhờ đó mà cuộc lưu diễn của đoàn Văn hóa Việt Nam đã thành công mỹ mãn trên đất nước có ba ngàn hòn đảo - nước Cộng hòa Indonesia.

Rời Indonesia trở về nước, đúng vào mùa xuân 1961, nhà thơ Tố Hữu đến thăm và chúc mừng chuyến đi thắng lợi của đoàn, ông đọc thơ “Xuân 61” cho đoàn nghe, ông cũng “dự báo” Bác sẽ có buổi gặp đoàn sau chuyến này, nhưng chưa có lịch cụ thể. Thế là chúng tôi hy vọng, chúng tôi đợi chờ, chúng tôi thắc thỏm…

Một tuần sau, vào một buổi tối, đoàn được ông Tổng thư ký Văn Phác báo tin: “Sáng mai Bác sẽ gặp đoàn. Rút kinh nghiệm sau lần gặp Bác ở Bình Nhưỡng, có nhiều ý kiến hỏi, làm phiền lòng Bác. Lần này, chúng ta chỉ có nhiệm vụ báo cáo với Bác thôi. Tôi cử một nam là đồng chí Khắc Tuế là đội trưởng Múa, lại là người sắm vai cho ông già trong điệu múa “Sắc Bùa”. Còn nữ thì đồng chí Thanh Trúc, cũng là đại diện cho các diễn viên miền Nam luôn”.

Sau khi được Văn Phác giao nhiệm vụ, tôi và Thanh Trúc bàn với nhau xem có ai nói gì kẻo lại trùng nhau. Tôi chủ động gợi ý cho Thanh Trúc báo cáo với Bác chuyên đề về phụ nữ, như: trong đoàn có hai nữ chiến sĩ Điện Biên là diễn viên múa, một

nữ đơn ca người dân tộc Ba Na, một nữ đơn ca nữ là người Nam Bộ v.v… Cả hai chúng tôi mỗi người nói trong phạm vi năm phút. Chúng tôi gạch đầu dòng những vấn đề cần nói và ướm thử trong phạm vi năm phút.

Sáng hôm sau, cả đoàn khấp khởi bước vào phòng gương Phủ Chủ tịch, chúng tôi thấy các vị lãnh đạo đoàn: Hoàng Minh Giám, Lưu Hữu Phước, Văn Phác, đã tề tựu ngồi sẵn để chờ Bác và đoàn. Không khí quá trang nghiêm, mọi người ngồi không nhúc nhích, riêng tôi và Thanh Trúc đang ngồi bên nhau nhẩm nhẩm bài nói thì Bác xuất hiện. Toàn đoàn đứng dậy vỗ tay. Bác ra hiệu cho mọi người ngồi xuống, rồi Bác nói ngay: “Nào, bây giờ ai có báo cáo với Bác đây?”. Tôi đứng dậy, từ tốn: Thưa Bác! Đoàn chúng cháu vừa rồi đi theo vết chân của Bác trên đất nước Indonesia, được thừa hưởng danh thơm của Bác, nên nhân dân và Tổng thống nước bạn, chăm lo cho đoàn rất chu đáo,…Tôi đang kể về sự chu đáo của Tổng thống thì Bác hóm hỉnh thêm vào: “Thế có gặp được thím nào của Tổng thống không?”. Tôi thưa không và nói tiếp một vài chi tiết nữa, nhưng thấy Bác nhìn thẳng vào tôi, thế là tôi bắt đầu ấp úng…Bác liền bảo: “Thôi, như thế là được rồi. Đấy, có hoa, có chuối, cháu ưng thứ nào thì lấy”. Tôi nghĩ chả mấy khi được Bác cho quà, nên tôi lấy cả hai thứ. Bác nhìn hiền từ và Bác lại hô: “Còn cháu nào nữa?”. Thanh Trúc đứng lên, nhỏ nhẹ thưa với Bác về những thành tích của các chị em. Thấy Trúc hơi lúng túng Bác liền động viên: “Cứ bình tĩnh! Coi như Bác là khán giả đang xem cháu biểu diễn, không việc gì mà sợ”. Thế là Thanh Trúc cũng hơi trở lại bình tĩnh, nhưng nói vội cho xong. Bác bảo: “Cháu gái thì được lấy kẹo và hoa, tùy ý chọn”. Trúc cũng lại lấy luôn cả hoa lẫn kẹo. Bác lại hô: “Nào, còn cháu nào phát biểu nữa nào?” Diễn viên độc tấu nói - Văn Thắng giơ tay: “Cháu xin độc tấu nói để Bác nghe bài “Vì nông trường ngày mai” bài này đã được khán giả khen ạ”. Mọi người ồn ào, can Văn Thắng không nên diễn tấu bài ấy vì dài quá. Khi mọi người xì xào nói qua, nói lại thì Bác bảo: “Các cháu cứ để cho cháu ấy diễn thì có phải xong rồi không ? Thôi, cháu cứ diễn đi!”. Thế là Văn Thắng được thể hiện rất bốc. Được Bác chăm chú theo dõi nên anh diễn càng bốc hơn.

Trong bài độc tấu có đoạn nói về quan hệ giữa một chiến sĩ Điện Biên với người bác ruột ở quê. Khi người chiến sĩ đang băn khoăn giữa việc giải ngũ với

43

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 44: Page 4 76 vh12

việc làm nông trường, người chiến sĩ hỏi ông bác: “Vậy việc này bác nghĩ giúp cháu xem sao?”. Ông bác lưỡng lự trả lời: “Việc này là tùy ở cháu, con bây giờ bác già rồi sinh ra lẩm cẩm” Bác Hồ chen ngang: “Chưa chắc!”. Bác nói xong hai từ ấy rồi hai má bác đỏ bừng lên. Cả đoàn vỗ tay hoan hô, vì sự phản ứng rất nhạy cảm của Bác. Đúng lúc ấy, Tổng thư ký Văn Phác đứng lên thay mặt trưởng đoàn Hoàng Minh Giám và toàn dân, cảm ơn Bác. Bác lại nhắc: “Có kẹo, có chuối đấy, các cháu ăn không hết thì lấy phần cho người ở nhà”. Nói đoạn, Bác hô hát bài Kết đoàn rồi Bác vẫy tay bước ra khỏi phòng khách

3. Hoa của Bác HồNăm 1968, Đoàn ca múa Tổng cục Chính trị chia

làm ba bộ phận đi biểu diễn ở phía Nam. Bộ phận thứ nhất đi biểu diễn ở vùng Nam Lào, bộ phận thứ hai biểu diễn ở vùng Khe Xanh và bộ phận thứ ba biểu diễn ở vùng Tây Khu 4. Khi trở về Hà Nội, ba bộ phận xung kích nói trên đã tập chung hội diễn nhằm chọn lọc lấy một chương trình chính thức để công diễn phục vụ bộ đội và nhân dân. Trong quá trình hội diễn thì được lệnh cấp trên vào biểu diễn phục vụ Bác Hồ. Khi vào đến nơi thì chúng tôi mới biết là hôm nay biểu diễn phục vụ hội nghị Bộ Chính trị: các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp… đã tề tựu với khán giả, sau đó là Bác xuất hiện cùng đồng chí Vũ Kỳ. Lúc này Bác đã yếu rồi, phải chống ba toong, tuy nhiên Bác vẫn vui vẻ hoạt bát. Bác bước lên ngồi ở hàng ghế đầu song Bác quay lại giơ tay chào các đồng chí Bộ Chính trị. Và tất cả đứng dậy chào Bác. Khi ngồi xuống ghế, Bác như sực nhớ ra điều gì đó. Bác nhìn quanh một lúc rồi Bác hỏi: “Chú Xuân Thủy ngồi đâu?”. Đồng chí Xuân Thủy đứng dậy “Dạ thưa Bác đây ạ”. Bác liền giơ ba toong ra ngoặc vào tay đồng chí Xuân Thủy rồi kéo lại gần Bác và bảo: “Chú ngồi đây với Bác!”. (Mãi sau này chúng tôi mới biết là hôm ấy Bộ Chính trị quyết định cử đồng chí Xuân Thủy làm trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại hội nghị Paris). Khi các vị quan khách đã an tọa, đồng chí Trưởng đoàn Lương Ngọc Trác báo cáo tóm tắt tình hình hoạt động của đoàn, sau đó biểu diễn luôn. Từng tiết mục biểu diễn xong, Bác chỉ định từng đồng chí lãnh đạo lên tặng hoa cho các nghệ sĩ trong đoàn. Khi Linh Nhâm ngâm thơ xong, Bác chỉ định đồng chí Phạm Văn Đồng lên tặng hoa. Thời gian này Bác đã yếu, đi lại khó khăn nên mỗi tiết mục Bác lại rút một bông hoa trong lọ

hoa ở bàn của Bác, đưa cho một đồng chí trong Bộ Chính trị lên tặng hoa cho nghệ sĩ. Đến tiết mục Tường Vy hát bài “Tiếng đàn Ta Lư” Bác lại chỉ định đồng chí Lê Duẩn lên tặng hoa. “Tiếng đàn Ta Lư” là một tiết mục mới sáng tác của Huy Thục. Nghe xong Bác hỏi: “Tiếng đàn Talư là của dân tộc nào?” Nhạc sĩ Vũ Trọng Hối trả lời: “Thưa Bác của dân tộc Vân Kiều ạ”. Bác bảo: “Thế thì phải giới thiệu là đàn Talư là của dân tộc Vân Kiều, chứ không thì khán giả lầm tưởng của Nga”. “Tiếng đàn Ta Lư” mới “lọt lòng” đã được Bác Hồ quan tâm đặc biệt là như vậy ! Cũng từ đấy “Tiếng đàn Ta Lư” vang vọng cho đến ngày nay. Chính “Tiếng đàn Ta Lư” đã làm nên thương hiệu “Tường Vy”.

Sau khi biểu diễn xong, chúng tôi xúm quanh Bác. Bác với gọi: “Chú Kỳ đâu? Sao không tặng hoa cho các cháu?”. Đồng chí Vũ Kỳ báo cáo: “Thưa Bác, cơ quan đã chuẩn bị sẵn hoa rồi, hoa này ngắt ở vườn tươi nguyên đây ạ”. Bác cầm bó hoa tặng cho đồng chí Lương Ngọc Trác, đại diện của đoàn. Bác nhắc nhở: “Lần này, các cháu mới đi chiến trường về, đã trải qua gian khổ nguy hiểm phục vụ bộ đội tốt lại còn sáng tác được những bài ca, điệu múa hay, Bác khen ngợi các cháu”. Rồi Bác quay sang hỏi đoàn trưởng Lương Ngọc Trác: “Có phải sau đây các cháu đi biểu diễn ở Hải Phòng phải không?”. Đồng chí Lương Ngọc Trác trả lời: “Dạ thưa phải. Hiện nay địch đánh bằng không quân ở Hải Phòng rất ác liệt, các tầu Liên Xô, Ba Lan, Bungari v.v… mang hàng viện trợ cho ta, đoàn chúng cháu có nhiệm vụ đi phục vụ cho các bạn và các trận địa pháo ở Hải Phòng ạ”. Bác bảo: “Ừ, thế các cháu đi phục vụ cho tốt, nhớ giữ gìn sức khỏe và cho Bác gửi lời hỏi thăm đồng bào và các chiến sĩ nơi các cháu đến. Bác chúc tất cả đánh Mỹ cho tốt”.

Đồng chí Lương Ngọc Trác giao bó hoa của Bác cho đồng chí Hoàng Hà, đi dọc đường từ Hà Nội - Hải Phòng, đến trận địa pháo nào biểu diễn Hoàng Hà cũng rút một bông hoa tặng bộ đội và chuyển lời thăm hỏi “sốt dẻo” của Bác đến đồng bào và đồng chí Hải Phòng.

Thật không thể nào tả nổi sự xúc động của chúng tôi những cán bộ và diễn viên, nhân viên của Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị được Bác chăm lo và tin cậy! Nhờ có sự cổ vũ của Bác mà chúng tôi đã hiên ngang ngẩng cao đầu vượt qua trận đánh ác liệt của giặc Mỹ xuống Hải Phòng lúc 4 giờ sáng hôm sau. n

44

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 45: Page 4 76 vh12

Chiều ngày 24 tháng 7 năm 1968, mười cô gái thanh niên xung phong (TNXP) của tiểu đội 4, đại đội 552, gồm: Dương Thị Xuân,

Hà Thị Xanh, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Xuân, Trần Thị Hường, Trần Thị Rạng, Võ Thị Hà, Võ Thị Hợi, Võ Thị Tần, tất cả đều còn rất trẻ, trên dưới 20 tuổi, ra mặt đường, cách Ngã ba Đồng Lộc - nơi “túi bom” khốc liệt, về phía Nam khoảng 300m để san lấp hố bom, sửa chữa đường, kết hợp củng cố hầm trú ẩn. Dưới cái nắng gắt, gió Lào, 10 cô gái kẻ đào, người xúc, hồ hởi làm việc, vừa làm vừa chuyện trò trêu đùa nhau. Bỗng có một tốp máy bay Mỹ vượt qua trọng điểm. Tất cả chị em nhanh chóng nép mình vào triền đồi, nơi thành hố bom cũ tạo nên một cái rãnh lớn. Một lúc sau, hết tiếng máy bay, cả tiểu đội chồm dậy tiếp tục làm việc. Bất ngờ, một chiếc trong tốp máy bay lúc nãy quay lại, thả một loạt bom. Một quả bom rơi trúng vào chỗ 10 cô đang làm việc. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung tóe,

khói bom mù mịt, trùm lên cả đội hình 10 cô gái. Lúc đó là 4 giờ 40 phút.Tốp TNXP tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét.

Bộ đội và nhân dân ở gần đấy cũng lao ra gọi tên từng cô. Song, trước mắt mọi người chỉ còn thấy một hố bom sâu hoắm, một vài chiếc cuốc xẻng văng ra, tịnh không thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái TNXP đã hy sinh anh dũng. Suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, đồng đội đã đào bới, tìm kiếm thi hài các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như đang vừa đi vào giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị vào khu đồi Bãi Rịa với lòng xót thương vô hạn. Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra.

Ngọc thể Mười cô tan hòa vào cỏ cây, đất đá hóa thành Đài Hoa Bất Tử Ngã Ba Đồng Lộc!

l LÝ NHÂN

KỶ NIỆM 45 NĂM 10 CÔ GÁI TNXP HY SINH Ở NGÃ BA ĐỒNG LỘC (1968 - 2013)

Ngã Ba Đồng Lộc ĐÀI HOA BẤT TỬ

45

Page 46: Page 4 76 vh12

1. DƯƠNG THỊ XUÂNSinh ra và lớn lên trong một gia đình đông con

ở vùng quê Đức Tân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, Xuân sớm ý thức được trách nhiệm người chị cả của mình. Bố làm thợ mộc, mẹ bận bịu với nghề bán hến ở chợ, là con gái đầu lòng nên Xuân khá vất vả. Nhiều khi Xuân phải nghỉ học để trông nhà, trông em. Tính tình hiền hậu, nhu mì, những khi bị mẹ mắng, Xuân không bao giờ cãi lại. Học hết lớp 7, Xuân xin cha mẹ cho đi làm trên Nhà máy đường sông Lam, gần Rú Thành. Sống cuộc đời công nhân, Xuân phổng phao và đẹp hẳn lên. Xuân chăm làm, chịu khó học hành và công tác nên được nhà máy khen thưởng nhiều lần. Năm 1965-1966, Xuân được thưởng chiếc áo lụa hoa rất đẹp, thỉnh thoảng mới diện đôi chút. Sau đó, nhà máy đường sông Lam bị giặc Mỹ tàn phá, công nhân phải tạm chuyển đi làm việc khác. Xuân tình nguyện vào TNXP. Ra đi, Xuân vẫn nhớ ngọn Rú Thành cao chót vót bên nhà máy, nhớ Ngã ba sông Lam và sông La, nhớ khu nhà tập thể bên sườn núi đất.

Ông Quý, bố Xuân rất chiều con. Những lúc rảnh rỗi trước đây, ông thường xuống đơn vị thăm con. Nhiều bạn Xuân thầm ước ao có một người cha như thế, nhất là các cô Nhỏ, Cúc và Hường. Trước khi đi TNXP, Xuân có quen anh Tân người cùng xã. Gia đình anh rất quý Xuân, nhưng anh Tân chưa dám ngỏ lời với cha mẹ Xuân. Xuân cũng mến anh Tân nhưng chưa muốn vấn vương chuyện gia đình, chuyện chồng con. Xuân hẹn anh Tân khi nào thống nhất đất nước thì hẵng liệu. Anh Tân nghĩ vậy là đúng. Trước khi lên đường nhập ngũ, anh tặng Xuân một quyển Điều lệ Đảng mà anh vẫn dùng, và nói: “Anh cũng đi bộ đội. Sau này trở về chúng ta sẽ lo hạnh phúc riêng”. Nhưng rồi lời hẹn ước của Xuân và Tân đã không thực hiện được. Bởi, vào lúc 4 giờ, 40 phút chiều ngày 24 tháng 7 năm 1968,… Xuân, chị Tấn và 8 chị em trong tiểu đội 4 cùng bao nữ TNXP khác đã mãi mãi không trở về, gửi lại tuổi trẻ và tình yêu trên những tuyến đường.

2. HÀ THỊ XANHSinh ra ở vùng quê Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh

Hà Tĩnh, vốn là cô gái hiền lành, ít nói nhưng làm việc thì rất chăm. Xanh đậm người, khỏe mạnh, làm việc gì cũng xốc vác, hay nhận việc khó về mình. Môi trường chiến đấu, lao động, học tập đã khiến cho Xanh cùng chị em trong tiểu đội gắn bó với nhau như ruột thịt. Cũng như bao người mẹ khác, mẹ Xanh cũng thường giục con gái lấy chồng để sớm có cháu cho bà bồng bế. Những khi ấy, Xanh thường chống chế: TNXP

chống Mỹ cứu nước chúng con thực hiện phong trào “ba khoan”, nghĩa là khoan lấy chồng, mẹ ạ. Nghe con gái nói vậy, mẹ Xanh càng sốt ruột. Còn Xanh, chị vĩnh viễn không thực hiện được ước nguyện của mẹ. Bởi, vào lúc 4 giờ 40 phút chiều ngày 24 tháng 7 năm 1968 định mệnh ấy….

3. HỒ THỊ CÚCCúc cất tiếng khóc chào đời trên mảnh đất Nương

Bao, xã Sơn Băng, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, bên con sông Ngàn Phố trong xanh. Cúc vừa đầy một tuổi, nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp mất người cha, bà nội Cúc và bao người khác trong làng. Ông nội đưa hai mẹ con Cúc về nhà rau cháo lần hồi qua ngày tháng. Đến năm Cúc 4 tuổi, mẹ Cúc đi bước nữa. Từ đây, Cúc sống trong sự đùm bọc của ông nội, o Loan và chú Dũng. Tuy còn ít tuổi, lại nhỏ con, nhưng Cúc đã làm được nhiều việc giúp ông nội. Cúc đi chăn bò, cắt cỏ, bế em, và làm bao việc không tên khác trong nhà. Cúc làm chậm nhưng cần cù, cẩn thận. Năm 1965, Cúc đi TNXP, sống trong tập thể nam nữ thanh niên, chiến đấu trên mặt đường địch đánh phá ác liệt, cùng sống với nhau trong niềm thương yêu đồng chí, đồng đội, luôn giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đúng ngày thành lập Đảng, 3/2/1967, Cúc đã có vinh dự đứng dưới Đảng kỳ và chân dung Hồ Chủ tịch đọc lời tuyên thệ vào Đảng. Sau đó, Cúc được giao nhiệm vụ Tiểu đội phó, tiểu đội 4, đại đội 522. Càng vui sướng với niềm vui ấy bao nhiêu, Cúc càng hăng say công tác bấy nhiêu. Cúc đã cùng Tần chỉ huy tiểu đội bám trụ chiến đấu, đảm bảo thông suốt đường 15A trên trận địa Ngã ba Đồng Lộc.

Cái ngày Cúc và đồng đội hy sinh, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra. Thương xót người em, người đồng đội có số phận không may mắn, tác giả Yến Thanh (tên thật là Nguyễn Thanh Bình - cán bộ phụ trách kỹ thuật ngành giao thông vận tải) cùng có mặt lúc đó nghẹn ngào viết lên bài thơ Cúc ơi, với những câu thơ nghẹn ngào, tha thiết:

Tiểu đội đã về xếp một hàng ngangCúc ơi! Em ở đâu không về tập hợpChín bạn đã quây quần đủ hếtNhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, XanhA trưởng Võ Thị Tần đã điểm danhChỉ thiếu mình emChín bỏ làm mười răng được

46

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 47: Page 4 76 vh12

Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốcChỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùngCúc ơi ! Em ở đâu?Đất nâu lạnh lắmDa em xanh Áo em thì mỏngCúc ơi ! Em ở đâu?4. NGUYỄN THỊ NHỎCùng sinh năm 1944 như chị Tần, chị Cúc, nhưng

Nhỏ có một hoàn cảnh tương tự Cúc. Bố mẹ mất sớm, nhà chỉ có hai chị em gái: chị Miên và Nhỏ. Chị Miên thay bố mẹ nuôi Nhỏ từ tấm bé. Đến tuổi, chị Miên đi lấy chồng, nhưng chị không về quê chồng mà ở lại cùng em. Chồng chị là bộ đội thỉnh thoảng ghé thăm nhà. Sau khi chị sinh cháu trai đầu lòng, chồng chị hy sinh, chị ở vậy nuôi con và em. Thế rồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ngày một ác liệt. Nhỏ xin vào TNXP. Hôm chia tay, chị Miên dặn: “Em gắng làm việc cho bằng chị bằng em, phải cẩn thận nơi mũi tên hòn đạn”. Ngày vào TNXP, Nhỏ mới thật sự bước vào tuổi dậy thì. Sau một thời gian, Nhỏ phổng phao lên trông thấy, trên đôi má mới vương sắc máu hồng. Nhỏ ngày một xinh tươi hơn, thường lấy gương của chị Cúc soi trộm. Nhỏ chăm làm, xung phong gương mẫu hơn các em nên được các chị kèm cặp học thêm. Nhỏ ra đi vào lúc 24 tuổi, không kịp giã biệt người chị và đứa cháu nhỏ thân yêu, để lại tiếc thương cho biết bao người.

5. NGUYỄN THỊ XUÂNSinh trưởng trong một gia đình có truyền thống

cách mạng, bố là đảng viên 1930-1931. Năm 1967, học xong lớp 7, Xuân cùng nhiều chị em khác trong huyện lên đường đi TNXP, lăn lộn trên những cung đường bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Xuân quen anh Vĩnh bộ đội công binh trên một bãi bom nổ chậm. Đơn vị bộ đội công binh phá bom của anh Vĩnh đảm nhận nhiệm vụ phối hợp với TNXP đảm bảo giao thông ở cung đường La Khê, Địa Lợi, Cầu ác, Cầu Cháy ...Anh Vĩnh là một đảng viên, một tiểu đội phó dũng cảm và kiên quyết. Xuân quý và tin anh. Anh Vĩnh thường xuyên di chuyển đến những trận địa mới. Xuân thường xuyên nhận được thư anh, những lá thư viết vội giữa nhiều trận đánh, không được phẳng phiu và có nhiều nếp gấp, như có cả mùi bom đạn hăng nồng. Càng xa anh, Xuân càng yêu càng nhớ và một lòng chờ đợi. Nhưng....Mối tình đẹp vừa chớm nở thì Xuân đã cùng đồng đội vĩnh viễn ra đi, từ 4 giờ 40 phút ngày 24 tháng 7 năm 1968,…

6. TRẦN THỊ HƯỜNGHường là con liệt sĩ. Cha chị là vệ quốc quân hy

sinh năm 1953, khi chị mới 4 tuổi, còn mẹ đang có mang em Lý. Năm em Lý lên 2 và Hường 5 tuổi, mẹ đi lấy chồng, hai chị em ở với bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đông Quế, thị xã Hà Tĩnh. Tính tình hồn nhiên vui vẻ, lại có giọng hát hay, Hường được mệnh danh là chim sơn ca của tiểu đội và của C522. Với mái tóc đen dài ống ả, giọng hát hay, Hường đã được nhiều chàng trai cảm mến. Sau những giờ lao động mệt nhọc ở ngoài trận địa, Hường và anh chị em lại quây quần hát múa, diễn kịch. Hường là hạt nhân của phong trào Tiếng hát át tiếng bom trên chiến trường. Hường không chỉ hát hay mà còn là cô gái đằm thắm và dịu dàng, thích quan tâm đến mọi người theo cách riêng của mình. Cuộc chiến ngày càng ác liệt song không làm nụ cười và tiếng hát tắt trên môi Hường. Chỉ tiếc Hường không còn chờ đến ngày toàn thắng để cùng đồng đội hát bài ca khải hoàn. Hường đã vĩnh viễn ra đi giữa mùa hạ thứ 21 của đời mình.

7. TRẦN THỊ RẠNGSinh ra tại xóm chài Thọ Thủy, Đức Vĩnh, Đức Thọ,

Hà Tĩnh, từ nhỏ, cô bé Rạng đã tỏ ra can đảm, ít nói song tinh nghịch. Lớn lên, Rạng theo cha làm nghề chèo lái thuyền trên sông La. Khi Mỹ đánh phá ác liệt ở bến đò Hào - quê hương, chứng kiến cảnh đau thương của dân làng, Rạng quyết định rời cuộc sống sông nước lên bờ sinh hoạt với đoàn thanh niên, tham gia phục vụ chiến đấu tại huyện. Ngày 3/11/1967, chị vào TNXP. Bước vào tuổi 17, Rạng dong dỏng cao, nước da trắng hồng như bao nhiêu người con gái từng uống nước sông La. Đồng đội TNXP đều là những người cùng trang lứa. Cả tiểu đội A 4 của Rạng chỉ có chị Tần, chị Cúc, chị Xuân và chị Thao là đã từng ở TNXP 3 năm, còn Rạng là “lính nhiệm kỳ II” vào TNXP với bao điều bỡ ngỡ. Song với một quyết tâm sắt đá vươn lên bằng chị bằng em, Rạng đã nhiệt tình lao động và say mê học tập văn hóa. Ngoài giờ ra trận địa, Rạng cùng chị em làm toán, làm văn, tập hát, lúc nghỉ giải lao lại tìm cách trêu đùa đại đội trưởng và mấy anh lái xe ủi. Cuộc sống tuy gian khổ, ác liệt nhưng vui tươi sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan. Rạng ngày càng rắn rỏi, bạo dạn. Mặc dù lăn lộn với nắng mưa, bom đạn nhưng vẻ xinh tươi trên khuôn mặt Rạng vẫn không bao giờ tắt. 18 mùa xuân, cuộc đời đang như ánh ban mai, vậy mà Rạng đã phải vĩnh viễn giã từ đồng đội, đồng chí, yên nghỉ ngàn thu trên núi đồi quê hương.

47

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 48: Page 4 76 vh12

8. VÕ THỊ HÀSinh ra ở thị trấn Đức Thọ, là con thứ ba trong gia

đình, Hà là cô gái dịu dàng, xinh đẹp, nhiều mơ mộng. Chưa đầy 17 tuổi, Hà đã phải gác lại những ước vọng về con đường học hành để lên đường vào TNXP, đến Ngã ba Đồng Lộc, nơi “túi bom” khốc liệt.

Lúc nào về Hà cũng mang theo một vài quyển truyện để đọc “Không có sách, ngoài giờ ra trận địa con buồn lắm mẹ ạ”. Mẹ Hà hiểu đứa con gái thùy mị, đa cảm, có phần “tiểu tư sản” của mình, chưa từng lăn lộn với thực tế của cuộc sống, vẫn còn non dại so với chị em trong tiểu đội nên tìm mọi cách để động viên con. Sau mấy tháng ở tập thể, thấy con khỏe mạnh, rắn rỏi hơn, bà rất mừng. Lần cuối cùng Hà về thăm nhà, mẹ Hà có ý tìm đàn gà nhưng không thấy đâu cả. Biết mẹ tìm gà để làm thịt, Hà yên lặng, tủm tỉm cười quay đi “mẹ tìm chi đó?”. Năm mẹ con quây quần bên nhau ăn rất ngon lành. Sau đó, mẹ Hà gửi mấy con gà con đến Đồng Lộc để chị em nuôi. Nó càng sinh sôi nảy nở. Rồi có lần Hà đem về nhà một con gà mái. Một hôm tự nhiên nó vỗ cánh gáy như gà trống. Mẹ của Hà bảo với em “Thế nào chị Hà cũng có chuyện rồi”.Quả thật như vậy, 2 ngày sau, nghe tin Hà hy sinh. Những ngày ở tiểu đội, vì Hà ít tuổi nhất nên bao giờ cũng được chị Tấn, chị Cúc, chị Nhỏ coi như em út. Việc nặng các chị dành lấy, không cho Hà làm. Chị Tần hay vuốt tóc, tâm tình, động viên Hà những giây phút nhớ nhà, nhớ mẹ. Hà hay nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng ngồi một mình trầm tư, có khi thơ thẩn một mình, có khi lại cặm cụi ghi nhật ký 17 mùa trăng, Hà thanh thản ra đi khi chưa hề vướng một chút tơ lòng.

9. VÕ THỊ HỢISinh trưởng trong một gia đình nông dân ở xã Thiên

Lộc, huyện Can Lộc, nơi có dãy Hồng Lĩnh quanh năm mây vờn và ngôi chùa Hương cổ kính nằm ẩn mình trên đỉnh núi, từ nhỏ, cô bé Hợi đã cảm thấy yêu quê hương, yêu ruộng đồng yêu những người dân quê mộc mạc một nắng hai sương. Hợi là con thứ 5 trong gia đình. Để giúp bố mẹ, hàng ngày Hợi đem bò đi ăn trên những bãi cỏ gần chân núi cùng đám bạn bè trong xóm. Mỗi lần thôn xóm có lễ hội gì, nhất là những ngày đón Tết, Hợi thường cùng các bạn đội viên tập văn nghệ, múa hát suốt đêm. Hợi và đám bạn bè hay hát những bài hát về Đảng, về Đoàn thanh niên, về Bác Hồ kính yêu.

Năm 1965, học xong lớp 7, Hợi xung phong đi Ba sẵn sàng. Sống trong tập thể TNXP, Hợi nhanh chóng hòa nhập, chia ngọt sẻ bùi với chị em, nhất là chị em trong tiểu đội A4 nơi tuyến lửa. Sống giữa tiếng bom

đạn và máy bay gầm xé suốt ngày đêm, đất đá bụi tung mù mịt, nhưng Hợi và chị em trong tiểu đội đều không sợ. Cứ đợi dứt bom nổ là Hợi và chị em lại đã có mặt trên mặt đường, san lấp những hố bom vẫn cùn khói đen mù mịt, để xe khỏi bị tắc trên đường vào Nam. Nhưng rồi bom Mỹ đã cướp đi cuộc sống của Hợi và đồng đội.

10. VÕ THỊ TẦNSinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân

nghèo, nhưng giầu lòng yêu nước, lại được sự giáo dục của nhà trường nên chị Võ Thị Tần sớm hình thành lý tưởng cách mạng, lối sống giản dị, tiết kiệm, chịu đựng gian khổ để học tập. Năm 1963-1964 chị là Phó bí thư chi đoàn địa phương. Năm 1965, Tần đã cùng nhiều chị em trong toàn huyện xung phong vào lực lượng TNXP trực tiếp lao động, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu trên mặt trận đảm bảo giao thông. Ngày mới nhập ngũ, Tần biên chế vào C 552- P18 Hà Tĩnh bảo vệ sự thông suốt các tuyến đường ra mặt trận. Ngày mồng 2/5/1965, Tần cùng đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thông đường và bốc xếp hàng ở bến phà Địa Lợi thuộc cung đường 15 A trên đất Hương Khê. Tháng 11/1965 đến 6/1966, Tần được điều về làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trên đường 15 A, đoạn từ cầu Tùng Cốc đến Đức Thọ. Do có nhiều thành tích trong công tác và anh dũng trong chiến đấu, đạo đức tư cách tốt, Tần được kết nạp Đảng vào dịp kỷ niệm Đảng ta 37 tuổi (3/2/1967) và được giao làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4. Từ tháng 4/1967 đến tháng 6/1967, Tần cùng đơn vị được điều về công tác bảo vệ đường 15 A ở Đồng Lộc. Chị đã chỉ huy tiểu đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng chủ công, con chim đầu đàn của đơn vị.

Trong cuộc sống hàng ngày, Tần là cô gái vui vẻ, cởi mở, tính nết thẳng thắn, vô tư yêu đời song rất dứt khoát, rành mạch. Cuộc đời chị vì thế có phần đơn giản, hạnh phúc hơn chị Cúc. Chị yêu anh Hồng, một anh trai làng. Chiến tranh ngày một ác liệt, anh Hồng vào bộ đội, lên đường vào chiến trường miền Nam. Còn Tần sau đó đi TNXP. Họ hẹn nhau ngày toàn thắng sẽ nên vợ nên chồng. Nhưng rồi, ngày anh Hồng xuất ngũ trở về địa phương thì chị Tần đã vĩnh viễn ra đi. Đau đớn và xót thương người yêu, anh đã đi lại săn sóc bố mẹ già của chị. Mãi sau này, khi đã nguôi ngoai, anh mới xây dựng gia đình với người con gái khác. Được sự nhất trí của vợ, anh chị đã rước ảnh chị Tần về thờ trong ngôi nhà của mình và vẫn tiếp tục đi về với bố mẹ chị Tần như con cái trong gia đình. n

48

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 49: Page 4 76 vh12

Trong giai đoạn phát triển, hội nhập của đất nước hiện nay, hoạt động âm nhạc nói chung, âm nhạc dân tộc Việt Nam nói riêng đang

đứng trước nhiều biến đổi, thách thức; có nhiều thành tựu, nhưng cũng còn nhiều bất cập cần quan tâm, khắc phục.

Trong đời sống hiện nay, công tác tuyên truyền quảng bá âm nhạc là vô cùng quan trọng. Một tác phẩm âm nhạc xuất hiện trên sóng phát thanh, truyền hình sẽ được hàng triệu triệu người (ở Việt Nam và nước ngoài) biết đến, thưởng thức. Vậy mà có những tác phẩm, có những chương trình âm nhạc, nghệ thuật được đưa lên sóng chưa thực sự để lại ấn tượng tốt cho công chúng. Một vài loại hình âm nhạc được đầu tư quảng bá thiếu tính định hướng thẩm mĩ cho công chúng âm nhạc vẫn được xuất hiện trên sóng phát thanh & truyền hình, trong khi đó, nhiều loại hình như âm nhạc bác học, nhạc kịch, nhạc thính phòng giao hưởng có chất lượng nghệ thuật, có tính thẩm mĩ cao cũng như nhiều di sản âm nhạc dân tộc, âm nhạc truyền thống Việt Nam lại được/bị “quan tâm” lệch, thiếu sự ưu tiên, thiếu sự đầu tư “cân bằng” từ nhiều lĩnh vực: từ công tác tuyên truyền trên một số kênh phát thanh, truyền hình…; kinh phí đầu tư, ý thức thưởng thức của công chúng, đến việc đầu tư, đào tạo lực lượng, đội ngũ biểu diễn, thực hành nghệ thuật kế cận còn nhiều bất cập, còn nhiều biểu hiện thiếu hụt, thậm trí thiếu hụt trầm trọng.

Chẳng hạn, có những chương trình âm nhạc

nghiêm túc, di sản âm nhạc dân tộc đặc sắc chỉ được giới thiệu trên sóng truyền hình khi mọi người đã đi ngủ hoặc vào giờ mọi người đi làm… Ngược lại, nhiều chương trình âm nhạc giải trí, chất lượng nghệ thuật chưa cao, thậm chí tính giáo dục thấp lại được giới thiệu vào những giờ vàng bởi các chương trình có kinh phí tài trợ, những người làm chương trình phải thực hiện, đáp ứng theo yêu cầu Nhà tài trợ hay bị chi phối bởi các mục tiêu khác của nhà tài trợ… Với cách làm và nội dung, hình thức một số chương trình âm nhạc thực tế mang tính nghệ thuất ít, chất lượng nghệ thuật không cao nhưng cứ được xuất hiện, giới thiệu không chỉ một lần, thậm chí nhiều lần như vậy thử hỏi trình độ thẩm mĩ của công chúng âm nhạc toàn xã hội liệu có được nâng cao, sinh hoạt âm nhạc nghiêm túc nói chung, âm nhạc dân tộc nói riêng liệu có thể được coi là cân bằng, hợp lý theo hướng phát triển tích cực?

Rõ ràng đây là vấn đề rất cần được quan tâm chỉ đạo, cần được chú ý đầu tư thỏa đáng hơn, kịp thời hơn về kinh phí đồng thời cần có sự đầu tư đồng bộ hơn về lực lượng, đội ngũ cho mọi lĩnh vực hoạt động âm nhạc của quốc gia đảm bảo tính đồng bộ , tầm chiến lược với mục tiêu giáo dục, nâng cao thẩm mĩ nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng trong toàn xã hội. Có lẽ đây là vấn đề rất cần sự chia sẻ, giúp đỡ của nhiều cơ quan ban ngành, trong đó có các cơ quan thông tin báo chí, phát thanh, truyền hình TW và địa phương cùng các nhà quản lý văn hóa nghệ

l PGS. TS LÊ VĂN TOÀN

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

TRONG CUỘC SỐNG HÔM NAY

GIÁ TRỊÂM NHẠC DÂN TỘC

49

DIEÃN ÑAØN

Page 50: Page 4 76 vh12

thuật, các đơn vị biểu diễn, đào tạo, nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa VIII: “…động viên sức người sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa…”, chúng tôi cho rằng, mỗi ngành, đơn vị đặc biệt là các cơ quan chức năng cần quan tâm hơn nữa về vấn đề đào tạo con người, sử dụng những người yêu nghề, có nghề giỏi làm đúng chỗ, đúng vị trí để phát huy được thế mạnh của nghệ thuật, của âm nhạc nhất. Việc đầu tư và sử dụng con người hợp lý, đúng chỗ sẽ là bước chuẩn bị tốt cho sự phát triển mới nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng trong đó có lĩnh vực hoạt động và thưởng thức âm nhạc dân tộc giai đoạn hiện nay và những thập kỷ tới.

Nhìn lại thực tế mấy năm qua, chúng ta thấy có không ít chương trình biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Việt Nam dù là bán vé hay phát vé mời nhưng nhà hát vẫn nhiều ghế bị bỏ trống… Trong khi ở một số nước mà chúng tôi có dịp chứng kiến thì dường như mỗi khi nhà hát đỏ đèn biểu diễn (âm nhạc nói chung, nhạc

dân tộc nói riêng) là luôn chật kín khán thính giả mặc dù giá vé nơi đó không rẻ, có khi là hai ba trăm đô la thậm chí tới năm, bảy trăm đô la hay Euro/vé. Có những chương trình biểu diễn của Học viện ở nước ngoài, chúng tôi gửi vé mời đối tác là người nước bản xứ xong họ không nhận mà xin mua vé để được đóng góp cho xã hội, cho chương trình… Từ thực tế trên cho thấy, trách nhiệm công dân, nhu cầu và ý thức thưởng thức nghệ thuật nói chung, thưởng thức âm nhạc dân tộc nói riêng của công chúng nghệ thuật là vấn đề rất đáng bàn, rất đáng quan tâm bên cạnh vấn đề khác cần chú ý như về hình thức cũng như về chất lượng nghệ thuật, điều kiện đầu tư xây dựng các chương trình nghệ thuật dân tộc, tác phẩm âm nhạc dân tộc phù hợp trong từng giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Về ý thức người thưởng thức âm nhạc có một thực tế buồn là có không ít trường hợp ngồi trong nhà hát thưởng thức nghệ thuật, thưởng thức âm nhạc nhưng nhiều khán giả, thính giả vẫn dùng điện thoại, nói chuyện một cách vô tư như nơi không người, ngay cả khi có khách quốc tế cùng ngồi bên. Một hiện tượng

Hội chơi bài chòi

50

DIEÃN ÑAØN

Page 51: Page 4 76 vh12

nhỏ (nghe, dùng điện thoại tự do trong nhà hát) như nêu trên có liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có lĩnh vực giáo dục ý thức, nhận thức của mỗi người hay cộng đồng khi thưởng thức nghệ thuật nói chung, thưởng thức âm nhạc trong đó có nhạc dân tộc nói riêng mà chúng ta không thể xem nhẹ bởi nó thuộc lĩnh vực “trồng người”. Việc trồng người như vậy có thể hàng chục năm, hàng trăm năm như Bác Hồ từng dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Việc “trồng người”, sử dụng người thực hành nghệ thuật cũng chăm lo về chế độ chính sách cho họ hay việc giáo dục, nâng cao thẩm mĩ, ý thức cho người thưởng thức nghệ thuật là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời.

Đất nước ta vốn có truyền thống yêu ca hát. Nay hội nhập và phát triển chúng ta có thêm nhiều loại hình nghệ thuật và hình thức âm nhạc mới du nhập. Do đó việc giáo dục, phổ biến, quảng bá các loại hình âm nhạc mới cũng như với nhiều di sản âm nhạc dân tộc đang rất cần có sự quan tâm và đầu tư thỏa đáng, phù hợp hơn.

Để mọi người hiểu và yêu nghệ thuật, yêu âm nhạc nói chung, nhạc dân tộc nói riêng chúng ta cũng cần chú ý tới việc kết hợp trình diễn có dẫn giải. Cách làm này nhiều nơi trên thế giới vẫn thường làm, ở Việt Nam đã một thời chúng ta từng làm, làm có hiệu quả (trên sóng phát thanh, truyền hình) nhưng hiện nay cách làm này dường như đang chưa được duy trì tốt hay chưa được chú ý đầu tư thỏa đáng, chưa tạo thành nền nếp thường xuyên.

Sự đầu tư đồng bộ cho các hoạt động âm nhạc có hiệu quả cao đầu tiên là vấn đề đầu tư về con người, cho con người, cho đội ngũ làm chuyên môn (trong giáo dục đào tạo, biểu diễn, nghiên cứu âm nhạc) cũng như đầu tư bồi dưỡng nâng cao thẩm mĩ cho người thưởng thức; đầu tư cơ sở vật chất cũng như chế độ đãi ngộ cho công tác đào tạo, chế độ, chính sách tiếp nhận lực lượng trẻ, ưu tiên cho những tài năng trẻ được học tập, được hành nghề, được hưởng chế độ ưu tiên sau khi ra trường vv…cho phù hợp kế hoạch phát triển phù hợp nhu cầu xã hội hiện tại và tương lai cũng như sự phát triển của ngành văn hóa nghệ thuật nước nhà.

Bên cạnh các hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp, thưởng thức âm nhạc chuyên nghiệp, chúng ta cũng cần quan tâm tới các hoạt động văn nghệ dân gian, âm nhạc dân gian.

Ngày nay nhiều di sản văn hóa trong đó có nhiều

di sản âm nhạc được đưa vào dịch vụ du lịch đạt kết quả tốt. Tuy nhiên cần lưu ý nếu vì mục tiêu kinh doanh (du lịch) mà chúng ta chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các nhà quản lý du lịch, văn hóa, nghệ thuật cùng các chuyên gia để đưa ra nhưng tiêu chí “chuẩn” nhằm bảo tồn bền vững những đặc trưng, đặc sắc của mỗi di sản thì e rằng đến lúc nào đó nhìn lại chúng ta sẽ khó tìm thấy “Cái gốc” của di sản bởi mục tiêu của nghệ thuật âm nhạc lúc này đã không duy trì đúng bản chất tồn tại của di sản từ khi được sáng tạo rồi truyền nối qua nhiều thế hệ. Chẳng hạn xưa kia các liền anh liền chị Quan họ gặp gỡ là hát cho nhau nghe, hát cho cộng đồng làng xóm cùng thưởng thức để cầu vui, cầu may và để đua tài sáng tạo nghệ thuật, thơ ca. Hay với nghệ thuật Đờn ca tài tử - các tài danh gặp nhau là để tâm tấu, tâm ca… Nhưng ngày nay nếu với mục tiêu phục vụ du lịch thì thử hỏi liệu những nét rất riêng đó của Đờn ca tài tử có được biết đến để có thể đưa nghệ thuật đơn ca của Đờn ca tài tử lên tới đỉnh cao nghệ thuật sáng tạo, trình tấu, hòa tấu như vốn nó được trình tấu ở đúng môi trường văn hóa nghệ thuật, đúng đối tượng thực hành, đối tượng thưởng thức, giao hòa vv…

Có thể thấy rõ, người sáng tạo, thực hành hay thưởng thức âm nhạc dân gian trong cuộc sống hôm nay nhiều hay ít cũng đã chịu những tác động mới bởi môi trường trình diễn nguyên sơ không còn vì cuộc sống mới, môi trường mới. Không gian, điều kiện sống, môi trường văn hóa mới ấy đã có tác động không nhỏ tới chất lượng và cảm hứng của người nghệ sĩ dân gian… Chính vì thế mỗi chương trình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân tộc hay âm nhạc dân gian với mục tiêu phục vụ thế nào thì chúng ta cũng cần chú ý đến mục tiêu bảo tồn, gìn giữ bản sắc, đặc trưng của di sản văn hóa, nghệ thuật âm nhạc cần được tôn trọng, được bảo vệ tốt nhất.

Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động âm nhạc dân gian được phát triển và đáp ứng tốt hơn nhu cầu mới của cộng đồng, xã hội, chúng ta cũng không quên từng bước nâng cao nhận thức của mỗi người trong mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa âm nhạc dân tộc, âm nhạc truyền thống trong cuộc sống mới. Ngoài việc bảo tồn tốt bản sắc văn hóa âm nhạc cổ truyền, chúng ta cũng cần có những quan tâm cho sáng tạo mới để phát huy tốt các giá trị âm nhạc dân tộc nhằm đáp ứng kịp thẩm mĩ, nhu cầu thưởng thức văn hóa của con người Việt Nam mới thế kỷ XXI. n

51

DIEÃN ÑAØN

Page 52: Page 4 76 vh12

,,

Nghệ thuật hát Chầu văn gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu là tín

ngưỡng bản địa có nguồn gốc lâu đời ở nước ta.từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX vẫn tiềm ẩn và có chiều hướng phát triển trong xã hội hiện nay ở cả đồng bằng, đô thị và miền núi tạo nên một nét khá nổi

bật trong bức tranh chung vốn hết sức đa dạng và phong phú của tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam. Đây là một thứ tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong quá trình phát triển nó đã thu nhận không ít những ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo. Đạo Mẫu không hướng về “đời sống” bên kia của con người sau cái chết mà là đời sống thực tại

Hát chầu vănHƯỚNG TỚI LÀ DI SẢN VĂN HOÁ THẾ GIỚI

l NGUYỄN THU HIỀN

NGHI LỄ CHẦU VĂN LÀ MỘT HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG TÂM LINH, MỘT BẢO TÀNG SỐNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM CẦN ĐƯỢC BẢO TỒN PHÁT HUY

52

Page 53: Page 4 76 vh12

với ước vọng sức khỏe, tài lộc và may mắn. Chính vì thế, công tác bảo tồn nghi lễ Chầu văn cần được nhận thức một cách thấu đáo, khách quan để thấy những giá trị nhân văn, nhân bản trong loại hình nghệ thuật phục vụ tín ngưỡng tâm linh giàu bản sắc văn hóa dân tộc này. Tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ là một tín ngưỡng tôn giáo mà còn chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống với truyền thuyết, thần tích, huyền thoại về các thần linh, văn hóa truyền miệng, đặc biệt là diễn xướng với âm nhạc, ca hát, nhảy múa…đã sản sinh ra loại ca nhạc Hát văn là một trong những loại hình dân ca tiêu biểu nhất của người Việt.

Hà Nội có nhiều nơi thờ Mẫu, ngoài Phủ Tây Hồ còn có đền Gềnh, đền Lâm Du, đền Núi, đền Rừng, đền Bắc Biên, đền Thanh Thủy (quận Long Biên); đền Bà Kiệu, đền Nguyên Khiết, đền Tam Phủ (Quận Hoàn Kiếm); đền Liễu Giai, đền Đồng Nước (quận Ba Đình); Đền Sòng Sơn, đền Nhà Bà (quận Đống Đa); đền Hoàng Sơn, đền Yên Phủ (huyện Thanh Trì)… Từ đó nghệ thuật hát Chầu văn phát triển hình thành những thế hệ nghệ nhân (cung văn) nổi tiếng trong đó có nhiều cung văn trẻ xuất sắc không làm hổ thẹn với di sản các cụ đã truyền dạy.

Theo nhạc sĩ Thao Giang, Phó Giám đốc Trung tâm Nghệ thuật âm nhạc Việt Nam thì hát Chầu văn đã tiếp nhận một hệ thống làn điệu, bài bản phong phú của dòng dân ca đồng bằng Bắc Bộ và các vùng miền khác trên khắp lãnh thổ nước ta như ca trù, quan họ, hò lao động Nghệ An, hò trên sông nước Thừa Thiên - Huế và kể cả các điệu hát của các dân tộc thiểu số Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, Khmer,... Ngoài hệ thống làn điệu chính xen kẽ còn

có những đoạn ngâm vịnh và nhạc lễ. Tín ngưỡng thờ Mẫu sử dụng nghệ thuật Hát văn làm công cụ đắc lực. Điều này lý giải tại sao Hát văn lại đạt tầm cao của sự phát triển, tính thẩm mỹ của một loại hình nghệ thuật biểu diễn đặc trưng. Từ đó có thể hiểu được tại sao Hát văn lại dễ dàng được mọi tầng lớp quần chúng chấp nhận khi loại hình nghệ thuật âm nhạc này được sân khấu hóa trong nửa cuối thế kỷ XX. Lời văn trong các bài Hát văn cũng có xuất xứ từ thơ ca dân gian đôi khi vay mượn cả trong tác phẩm văn thơ bác học và thường là thể loại lục bát, lục bát biến thể, thất ngôn, bốn chữ. Các bản văn thường được sắp xếp như một câu chuyện kể về xuất xứ của thánh và những thánh tích như một bản hùng ca và linh thiêng như một bản thánh ca. Câu văn được chuyển vần và giai điệu hóa được lồng vào các điệu hát, chất thơ, chất nhạc được nâng lên tuyệt đỉnh kết hợp với các điệu múa thiêng tạo ra một hình thức hóa diễn xướng dân ca vô cùng độc đáo. Với sức hấp dẫn và lan tỏa khá mạnh, những lò đào tạo cung văn dần dần hình thành cả một tầng lớp nghệ nhân nhà nghề. Họ đã tạo ra mối quan hệ giao lưu khăng khít và gắn bó giữa tính chuyên nghiệp và ngẫu hứng dân gian trên khắp các vùng miền có tín ngưỡng thờ Mẫu.

Trong quá trình bảo tồn hát Chầu văn trước hết chúng ta cần có nhận thức sâu sắc và đúng đắn về nguồn gốc sinh ra nó là tín ngưỡng thờ Mẫu. Đây là một hoạt động tâm linh thể hiện vũ trụ quan và nhân sinh quan của ông cha ta thủa trước hướng con người làm việc thiện, trừ điều ác, tạo ra niềm tin, sức mạnh tinh thần trong cuộc sống. Tuy nhiên trong thực tế cũng có nhiều hiện tượng tiêu cực trong hoạt

Một điệu múa của thanh đồng. Ảnh tinngan.vnThanh đồng “thoát xác” trong một giá đồng. Ảnh laodong.com.vn

53

DIEÃN ÑAØN

Page 54: Page 4 76 vh12

động tín ngưỡng này. Bên cạnh những người chân chính, tu nhân tích đức cũng có những người “buôn thần, bán thánh” lợi dụng tín ngưỡng để kiếm tiền. Chính vì không hiểu thấu đáo tín ngưỡng thờ Mẫu mà nhiều người đã rơi vào tình trạng cuồng tín, mê tín dị đoan. Chủ nhang Nguyễn Thị Bích Loan cho rằng: đã có sự lệch lạc trong quá trình tu hành. Tu mà không hành hoặc hành mà lệch lạc thì phản tác dụng và tệ hơn là làm ô danh đạo thánh. Chỉ khi nào làm tròn sứ mệnh của mình như tu dưỡng công đức, hành thiện thì danh thơm của thánh mới đến với mình. Ngược lại dù có mâm cao cỗ đầy, nhảy múa nghe văn, vỗ gối tung tiền mà ăn ở thiếu đạo đức xảo trá, lừa gạt, bon chen, ích kỷ, độc ác thâm hiểm thì cũng chẳng có thần thánh nào chứng cho, càng hầu, càng khổ, càng cũng cúng có lỗi với Mẫu, càng lễ càng có tội với gia tiên.

Các hiện tượng tiêu cực lệch lạc đã ảnh hưởng xấu tới các những người Hát văn trẻ, xảy ra tình trạng đua đòi trong hành nghề. Vì chạy theo tiền bạc một số người đã học tập một cách vội vã, chộp giựt rồi tập hợp nhau lại đi kiếm tiền, điều đó gây tác hại lớn cho nghệ thuật hát văn. Một số nhà hát, đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp dàn dựng các giá đồng phục vụ công chúng, quảng bá nghệ thuật hát Chầu văn, tuy nhiên không thể xem nhẹ việc giới thiệu loại hình này. Không phải có giọng hát, có vốn hát dân ca nhạc cổ mà cho phép mình chuyển sang hát văn một cách dễ dãi như một số nghệ sĩ quan niệm. Đấy là chưa kể đến việc mô phỏng diễn xướng

một cách tùy tiện theo lối khoe mẽ trang phục, ánh sáng sân khấu lòe loẹt, lúc hét ầm ĩ, động tác pha tạp nghèo nàn đến mức giả tạo. Đó là cách bảo tồn không đúng quy cách.

Để bảo tồn nghệ thuật hát Chầu văn, phải giải quyết tốt mối quan hệ khăng khít giữa Hát văn với tín ngưỡng thờ Mẫu. TS Nguyễn Minh Trị, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Thăng Long Hà Nội kiến nghị: Nhà nước cần sớm có văn bản pháp luật về quản lý đối với tín ngưỡng thờ Mẫu. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sớm có văn bản hướng dẫn về thực hành nghi lễ Chầu văn ở các đền, điện, phủ trên địa bàn Hà Nội. Hướng dẫn cho các Ban quản lý, thủ nhang, đồng đền, thực hiện và tự quản đồng thời cùng chính quyền xã, phường kiểm tra để phát huy đúng giá trị quý của nghi lễ Chầu văn, khắc phục các lệch lạc và tiêu cực. n

Một thanh đồng đang phiêu. Ảnh dulichvietnam.com

Một thanh đồng đang hầu đồng. Ảnh Internet

54

DIEÃN ÑAØN

Page 55: Page 4 76 vh12

& l TS. VĂN MINH HƯƠNG

HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC Ở TP. HỒ CHÍ MINH

THỰC TRẠNGGIẢI PHÁP

1. Thực trạng hoạt động âm nhạc tại TP. Hồ Chí Minh

Trong thời gian qua, những lĩnh vực hoạt động Văn hoá nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc có sự tham gia của thành phần kinh tế không phải nhà nước được phát triển tự do theo cơ chế “xã hội hóa” ngày càng có sự lan tỏa, đáp ứng trực tiếp nhu cầu của người thụ hưởng có tình trạng ấy bởi những lý do sau:

- Yêu cầu mang tính thiết yếu về lợi nhuận:Đối với lĩnh vực âm nhạc, dòng nhạc nhẹ thời

gian qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng, vấn nạn nhiều ngôi sao ca nhạc nhẹ trở thành nạn nhân hoặc tự biến mình thành “nạn nhân” qua các scandle không mấy sạch sẽ cũng là xuất phát từ vốn liếng “chiêu trò” của những nhà đầu tư, kinh doanh nghệ thuật. Yêu cầu về lợi nhuận làm bẻ cong năng lực thật sự của các tài năng, qua đủ kiểu lăng xê các “nghệ sĩ” có chút ít khả năng âm nhạc và có lợi thế có về ngoại hình. Để thu hút khán giả, một số nhà đầu tư tìm mọi thủ đoạn để khiến đối tượng đầu tư của mình trở nên được nhiều người biết đến bất chấp lòng tự trọng và đạo đức nghề nghiệp.

Việc thả lỏng quá lâu trong quản lý các nội dung thông tin từ báo chí, thông tin trên mạng internet và khâu quản lý, kiểm định các hoạt động biểu diễn âm nhạc khiến tình hình ngày càng phức tạp, người dân hoang mang, hệ giá trị tài năng trong biểu diễn âm nhạc ngày càng biến tướng. Nhiều nghệ sĩ được đầu tư đào tạo bài bản, có năng lực thật sự lại không thể sống bằng nghề nghiệp mình theo đuổi, khổ luyện, trong lúc nhiều người năng lực có hạn nhưng được các nhà đại gia và đầu tư hậu thuẫn lại trở nên mau chóng “nổi tiếng” hái ra rất nhiều tiền giờ biến thành sao. Dòng nhạc nhẹ như miếng mồi ngon, được các nhà đầu tư nghệ thuật tự do, tha hồ khai thác trục lợi thành công!

Trái lại, dòng âm nhạc truyền thống và dòng nhạc cổ điển thính phòng trở nên lạc lõng và “bơ vơ” trước cơ chế thị trường. Hiện tại, TP. Hồ Chí Minh có đoàn Ca Múa Nhạc Dân tộc Bông Sen - đại diện chính thức cho dòng nhạc truyền thống tại TP. HCM, dàn nhạc dân tộc Nhạc Viện TP. HCM, một số câu lạc bộ âm nhạc truyền thống tại các nhà văn hóa quận, huyện…đại diện cho dòng nhạc bác học kinh

55

DIEÃN ÑAØN

Page 56: Page 4 76 vh12

viện có Nhà hát giao hưởng nhạc vũ kịch, dàn nhạc nhạc viện TP.HCM (Sài gòn Philharmonic) đều hoạt động cầm chừng, dường như là những mảnh đất “bị bỏ quên”. Đối với các nhà đầu tư theo mô hình “xã hội hóa” rõ ràng đây không phải là đối tượng “hái” ra tiền một cách nhanh chóng. Trước tình trạng đó nhà nước chưa có sự đầu tư tập trung, chưa hỗ trợ đủ, tạo hiệu quả để duy trì bền vững và kích thích phát triển cho loại hình âm nhạc này.

- Quan điểm và năng lực của nhà đầu tưDòng nhạc nhẹ, âm nhạc thị trường đúng với thực

chất là loại nhạc “mì ăn liền”, đáp ứng nhanh, hợp thời đối với guồng máy kinh tế thị trường, như dòng người, xe cộ ngày càng tấp nập không ngừng ngược xuôi kiếm sống. Nhu cầu hưởng thụ âm nhạc thiên về khuynh hướng tiết tấu sôi động, tốc độ nhanh, thay đổi ngoại hình thật “bắt mắt”, yếu tố nhìn chi phối mạnh hơn yếu tố nghe (cần lưu ý đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc là nghệ thuật âm thanh nên yếu tố nghe phải được đặt lên hàng đầu) đã thay dần cho khuynh hướng âm nhạc sâu lắng, sáng tạo giai

điệu đẹp, mang tính đặc trưng riêng về phong cách của các tác giả. Sự phát triển thiếu định hướng của dòng nhạc nhẹ thời gian qua còn phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm và năng lực của các ông bầu và nhà đầu tư. Vì thông thường, xu hướng thị hiếu âm nhạc thị trường luôn phản ánh thị hiếu, quan điểm và năng lực chuyên môn của các nhà đầu tư.

Đối với dòng nhạc truyền thống và nhạc cổ điển thính phòng, vẫn còn xa lạ đối với quần chúng, do ít được xuất hiện, ít được nhắc đến, ít được quan tâm quảng bá và hướng dẫn, mặt khác do sự chi phối về thị hiếu và năng lực của các nhà đầu tư, nên vẫn còn bị bỏ ngỏ. Người có năng lực chuyên môn và chuyên tâm đối với các dòng nhạc này lại không đủ nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển.

- Về hệ quả trước mắt và lâu dài:Sự mất cân đối với các dòng nhạc

thị trường và dòng nhạc truyền thống, kinh điển phản ánh quan điểm và khả năng định hướng văn hóa - nghệ thuật của những nhà quản lý, hoạch định chính sách.

Đối với người dân, do thiếu được hướng dẫn, ít được cung cấp thông tin và do cuộc sống tất bật, khiến xu hướng dễ dãi trong cảm thụ âm nhạc ngày càng lấn át. Nguy cơ xuống cấp về chất lượng hoạt động nghệ thuật, sự mai một của các dòng nhạc bác học, dòng nhạc tinh hoa truyền thống là điều rất rõ.

2. Một số giải pháp phát triển âm nhạc truyền thống tại TPHCM

Âm nhạc truyền thống và tinh hoa nghệ thuật âm nhạc của nhiều thế hệ, được sáng tạo, kết tinh và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là tài sản quý của dân tộc. Mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ giữ gìn, bảo tồn và làm giàu, đẹp giá trị của loại hình nghệ thuật này.

Thành Phố Hồ Chí Minh thời gian gần đây đã có nhiều chủ trương thúc đẩy sự phát triển của âm nhạc truyền thống. Dòng nhạc chính thống, nhạc

Một tiết mục của đoàn Ca Múa Nhạc Dân tộc Bông Sen - đại diện chính thức cho dòng nhạc truyền thống tại TP. HCM

56

DIEÃN ÑAØN

Page 57: Page 4 76 vh12

bác học được lãnh đạo thành phố quan tâm, chỉ đạo trực tiếp các ban ngành liên quan hỗ trợ về các thiết chế văn hóa, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, truyền thống…,các chương trình phát sóng, chương trình hoạt động nghệ thuật trong các ngày lễ lớn, các hoạt động tuyên truyền… này càng được quan tâm, chú ý về nội dung và chất lượng nghệ thuật.

Tuy nhiên, có thể tham khảo thêm một số kinh nghiệm và chính sách của các nước phát triển thành công nghệ thuật âm nhạc truyền thống như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia…

2.1 Kinh nghiệm- Kết hợp quảng bá và giới thiệu các loại hình âm

nhạc truyền thống thông qua các hoạt động trong dịch vụ du lịch. Lưu ý để tránh các biến tướng do mục đích trục lợi trong kinh doanh, các hoạt động này cần có sự giám sát và quan tâm về chất lượng chương trình của các đơn vị chủ quản, có trách nhiệm trực tiếp.

- Kết hợp trong giáo dục học đường qua các chương trình giới thiệu âm nhạc truyền thống có hướng dẫn, diễn giải dành cho các trường phổ thông và trường đại học của thành phố.

- Ưu tiên trong các chương trình phát sóng, đồng thời để tạo sự quan tâm, thích thú của công chúng, cần có những đổi mới phù hợp với yêu cầu hiện nay về nội dung, phương pháp và cách thức giới thiệu các loại hình âm nhạc truyền thống trên sóng truyền hình TP. Hồ Chí Minh.

- Cổ vũ sự tham gia của các nhà chuyên môn trên các chuyên mục ngắn về văn hóa, nghệ thuật của các báo in và báo điện tử.

- Bên cạnh các mô hình bảo tồn nguyên gốc các loại hình nghệ thuật truyền thống, cũng cần khuyến khích những hoạt động sáng tạo mới: mang tính kết hợp, phối hợp, cải tiến cái đã có để một phần các nhân tố cổ truyền có thể thích ứng, tồn tại và phát triển tiếp trong đời sống xã hội hiện tại, cũng như có thể đáp ứng nhu cầu thưởng thức của thế hệ trẻ.

2.2 Chính sáchĐể quan tâm đẩy mạnh các hoạt động của âm

nhạc truyền thống tại TP.HCM có thể tham khảo một số chính sách sau của một số quốc gia đã thực hiện thành công:

- Đầu tư xây dựng nhà hát dân tộc chuẩn: do đặc thù của dòng nhạc đờn ca tài tử và các thể âm nhạc truyền thống khu vực phía Nam, việc xây dựng nhà hát không cần quá lớn, cần chú trọng về mặt âm học khi xây dựng.

- Đầu tư đào tạo thế hệ nghệ nhân trẻ.- Có chính sách ưu đãi đặc biệt với các nghệ nhân

nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc truyền thống.- Tạo cơ chế mở nhằm thúc đẩy mô hình “xã hội

hóa” trong hoạt động âm nhạc truyền thống, như: có chính sách ưu tiên; giảm hoặc miễn thuế cho các cá nhân, nhà đầu tư có những hỗ trợ trực tiếp, hiệu quả hoặc là những Mạnh Thường Quân thường xuyên cho các hoạt động âm nhạc truyền thống. n

Một tiết mục của đoàn Ca Múa Nhạc Dân tộc Bông Sen TP. Hồ Chí Minh

57

DIEÃN ÑAØN

Page 58: Page 4 76 vh12

Đã từ lâu, thương hiệu SASCO trở nên quen thuộc với hầu hết khách hàng

trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Không chỉ là các gian hàng miễn thuế, trung tâm thương mại tại một trong những ga hàng không lớn nhất cả nước, SASCO còn mở rộng thị trường ra bên ngoài thông qua các chi nhánh hoạt động kinh doanh trực tiếp của Công ty trên các lĩnh vực: Vận tải phục vụ hành khách - hàng hóa; Quảng cáo; Du lịch - Nhà hàng - Khách sạn; Đầu tư các dự án du lịch, bất động sản và các hoạt động liên doanh, liên kết… Lĩnh vực nào cũng đã và đang mang lại cho SASCO những thành quả nhất định và một chiến lược lâu dài làm tiền đề cho sự phát triển bền vững.

Với hành trình 20 năm của SASCO, không khó nhận ra những

cột mốc lịch sử quan trọng cũng như những cuộc chuyển mình đầy ngoạn mục của một doanh nghiệp nhà nước, sau những biến thiên của lịch sử và những “tất yếu” của một cơ chế thị trường. Với nền tảng của các thế hệ lãnh đạo đi trước, trên hành trình của con thuyền SASCO trong hơn một thập kỷ trở lại đây, không thể không nhắc đến dấu ấn của Ông Nguyễn Quốc Danh - Chủ tịch - Giám đốc Công ty. Hơn 30 năm gắn bó với ngành hàng không đã cho ông một cái nhìn nhanh nhẹn và đầy tính quyết đoán, trong buổi cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế toàn cầu. Điều đó lý giải tại sao, sau khi tách ra và hạch toán độc lập, tính từ năm 2007 đến nay, SASCO luôn là một trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, có uy tín và thương hiệu, đạt hiệu quả kinh doanh cao, đi đầu trong việc đóng góp thuế đầy đủ

cho nhà nước. Những dịch vụ mà SASCO cung cấp tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ngày một chuyên nghiệp và chất lượng không ngừng được nâng cao, phục vụ và đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt, dưới sự dẫn dắt của ông gần 1600 CBCVN SASCO đã có một thu nhập ổn định và chất lượng đời sống ngày càng được nâng cao; bước đầu xây dựng và chuẩn hóa dần đội ngũ nhân sự có chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, cùng với truyền thống của SASCO, ông là người đi đầu trong việc phát triển các tổ chức đoàn thể, khởi xướng và tạo điều kiện xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ ngày một chuyên nghiệp, tạo ra một sân chơi lành mạnh và đầy tính gắn kết, sáng tạo cho CBCNV. Đã từng là một người lính, đã từng được chứng kiến những thời khắc lịch sử của đất nước, ông hiểu hơn ai hết cái nghèo,

l PV

SASCOKhi những dòng sông

đổ về biển lớnChủ tịch - Giám đốc Nguyễn Quốc Danh

CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ HÀNG KHÔNGSÂN BAY TÂN SƠN NHẤT

58

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 59: Page 4 76 vh12

cái đói của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh và những vật lộn đầy thử thách của một thương trường thời hội nhập. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, ông và các đồng nghiệp của mình tại SASCO đã dành một phần doanh thu đáng kể để tham gia các công tác hoạt động từ thiện. Hơn 21 tỉ đồng - một con số không nhỏ của các doanh nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hiện nay, đã được tập thể CBCNV SASCO đóng góp để tham gia thiết thực vào các phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, hỗ trợ các hộ nghèo … Đó không chỉ là truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc ta, mà còn là những nghĩa cử đẹp, đầy tính nhân văn của doanh nghiệp đối với cộng đồng, là nền tảng vững chắc để xây dựng văn hóa doanh nghiệp của SASCO. Ghi nhận những đóng góp tích cực của cá nhân ông Nguyễn Quốc Danh vào sự phát triển của SASCO nói riêng và Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam nói chung, rất nhiều phần thưởng cao quý, có giá trị của Nhà nước và các ban ngành đã trao cho ông, bao gồm: Huân chương Lao động hạng Hai, hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bằng khen của các bộ, ngành …. Nhìn lại chặng đường 20 năm của SASCO, Chủ tịch - Giám đốc Công ty Nguyễn Quốc Danh đã chia sẻ rằng: với sự chỉ đạo sát sao từ Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam, sự quan tâm của các ban ngành chức năng, đặc biệt tinh thần chung sức chung lòng của anh chị em CBCNV Công ty đã giúp ông vững tin và luôn nỗ lực đưa SASCO ngày càng phát triển, nâng cao vị thế và một thương hiệu đầu bảng về dịch vụ hàng không tại Việt Nam và khu vực. n

Một số dịch vụ tiêu biểu của SASCO: phòng khách hạng thương gia, kinh doanh hàng miễn thuế, ...

Hoạt động văn hóa văn nghệ & công tác xã hội từ thiện của SASCO

59

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 60: Page 4 76 vh12

Với hệ thống ATM gần 2.000 máy phân bổ rộng khắp các khu dân cư, trường học, bệnh viện, khách sạn, khu công nghiệp, trung tâm

thương mại,… trên toàn quốc của VietinBank ngày hôm nay, khó có thể tưởng tượng được những ngày mới gia nhập thị trường thẻ nước nhà, ngân hàng chỉ có 25-30 máy ATM. Ấy là vào thời điểm năm 2001, khi VietinBank chính thức tham gia vào một loại hình dịch vụ mới, còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam là thẻ. Đến năm 2003, với mục đích đẩy mạnh hoạt động kinh doanh thẻ, tăng cường tính chuyên môn, chuyên nghiệp hóa đồng thời gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường, Phòng Dịch vụ thẻ đã được ra đời thay thế Tổ Thẻ. Và 5 năm sau, trước nhu cầu phát triển của thực tế đời sống, Trung tâm Thẻ của VietinBank đã ra đời vào tháng 9/2007.

Cũng như VietinBank, các ngân hàng trong nước đều nhận rõ tính lợi ích của việc phát triển thẻ nên các doanh nghiệp đua nhau mở rộng thị phần, thu hút khách hàng sử dụng thẻ. Để gia tăng tính cạnh tranh, trong quá trình phát triển, VietinBank đã luôn nỗ lực, chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đầu tư chiều sâu vào công nghệ ngân hàng, mở rộng mạng lưới hoạt động rộng khắp trên toàn quốc và ra thế giới. Rõ ràng, việc hiện đại hóa công nghệ, dịch vụ ngân hàng với chất lượng phục vụ tốt hơn đã tạo điều kiện cho dịch vụ thẻ phát triển, mang lại sự trưởng thành cho Trung tâm Thẻ. Ông Phạm Văn

Khoa - Giám đốc Trung tâm Thẻ VietinBank cho biết: Song song với việc dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng số lượng máy ATM trong những năm tới, VietinBank sẽ không ngừng đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ thẻ, đáp ứng nhu cầu thị trường thông qua các hoạt động đẩy mạnh hợp tác với các trường học, doanh nghiệp, các đối tác trong và ngoài nước để phát hành thẻ Liên kết, thẻ Bảo hiểm xã hội, thẻ đồng thương hiệu Ngân hàng Chính sách, thẻ taxi để mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng.

Trong những năm qua, VietinBank luôn chú trọng tìm kiếm, đàm phán, hợp tác với các đối tác lớn, các nhà cung cấp, tập đoàn, trung tâm thương mại, siêu thị lớn trong cả nước để mang lại sự thuận tiện tối đa cho khách hàng. Bên cạnh việc không ngừng tăng cường hợp tác với các tổ chức thẻ như MasterCard, Visa, JCB, Diner Club, Cybershot nhằm đa dạng sản phẩm thẻ và công nghệ thanh toán, Ngân hàng còn triển khai hàng loạt dịch vụ và giải pháp thanh toán thẻ cho các Tập đoàn, Tổng Công ty lớn, hệ thống siêu thị, các hãng taxi,.. vừa cung cấp tổng thể đa dạng các sản phẩm ngân hàng nói chung và sản phẩm dịch vụ thẻ nói riêng, vừa góp phần tăng nguồn khách hàng cũng như doanh thu cho VietinBank. Số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ phát triển mạnh với doanh số thanh toán tăng trưởng bình quân hàng năm là 250% đã đưa VietinBank trở thành ngân hàng dẫn đầu về thị phần đơn vị chấp

NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM - TRUNG TÂM THẺ

Cam kết

l BÙI THỌ

GIỮ VỮNG DANH HIỆU “TOP” ĐẦUVới các dòng sản phẩm: thẻ tín dụng quốc tế Cremium Visa, Cremium Mastercard,

Credmium JCB, thẻ ghi nợ nội địa ATM E-Partner, thẻ ghi nợ quốc tế visa debit 1Sky, thẻ trả trước E-fast (mua xăng dầu, tặng quà), thẻ trả trước thanh toán online (E-fast On) và các dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ nội địa và quốc tế, … VietinBank đã và đang trở thành ngân hàng dẫn đầu về thị phần thẻ của thị trường Việt Nam.

60

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 61: Page 4 76 vh12

nhận thanh toán thẻ tại Việt Nam. Được biết, sản phẩm thẻ VietinBank không chỉ được phát hành và phân phối trực tiếp tại hệ thống các chi nhánh trên toàn quốc, phát hành qua kênh online, mà còn được phát hành qua các đối tác, đại lý như: HD Bank, Metro, otofun, Pico, Nguyễn Kim,… thu hút đông đảo khách hàng tham gia mở thẻ và sử dụng dịch vụ thẻ của VietinBank, hưởng thêm các ưu đãi vượt trội.

Ngoài ra, để phát triển số lượng thẻ, VietinBank đã triển khai chiến lược Marketing thẻ một cách rất bài bản với nhiều ưu đãi cho khách hàng. Ngay từ những năm đầu tham gia thị trường thẻ, Ngân hàng đã tiến hành Marketing, góp phần phổ cập dịch vụ và khuyến khích người dân sử dụng thẻ. Đến nay, các chiến dịch Marketing vẫn được triển khai đều đặn, trong đó, nhiều chương trình đã tạo được ấn tượng với khách hàng trên toàn quốc như: chương trình khuyến mãi lớn cho chủ thẻ như giảm 20%, 30%, mỗi ngày 100 triệu khi chi tiêu bằng thẻ JCB, tận hưởng cuối năm với thẻ Visa, chương trình Hot Friday tại hệ thống các siêu thị trên toàn quốc,… Hiện tại, Trung tâm Thẻ của VietinBank vẫn không ngừng khai thác các điểm ưu đãi, giảm giá cho chủ thẻ trên phạm vi toàn quốc nhằm gia tăng giá trị cho chủ thẻ. Và với VietinBank, chủ thẻ thêm một lần nữa được quan tâm, chăm sóc chu đáo và nhận được sự hài lòng khi công tác chăm sóc khách hàng như Tele Sale, email, hỗ trợ online 24/7 luôn sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của người sử dụng thẻ.

Mọi nỗ lực của VietinBank trong việc phát triển thẻ, tạo sự thuận tiện tối ưu cho khách hàng khi thực hiện giao dịch không cần tiền mặt trong thế giới phẳng đã giúp Ngân hàng có được vị thế top đầu trên thị trường với trên 23% thị phần thẻ ghi nợ nội địa; 29,50% thị phần thẻ quốc tế, gần 2.000

máy ATM và trên 30.000 đơn vị chấp nhận thẻ chiếm 29,70% thị phần. Riêng sản phẩm thẻ ATM E-Parner và tín dụng quốc tế Cremium trong năm 2012 đạt 143.000 tỷ đồng tại thị trường Việt Nam, tăng hơn 180% so với năm 2011 và 47 triệu USD tại thị trường nước ngoài, tăng 136% so với năm 2011. Chưa kể lĩnh vực thẻ còn mang lại cho VietinBank không ít giải thưởng: Tin và Dùng 2012, Ngân hàng bán lẻ tiêu biểu 2012, Ngân hàng xuất sắc trong hoạt động kinh doanh thẻ 2011, Ngân hàng đi đầu trong việc phát triển đơn vị chấp nhận thẻ, Ngân hàng dẫn đầu phát triển dịch vụ thanh toán thẻ 2011-2012, Nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam 2013 và mới đây nhất là Thương hiệu nổi tiếng Asean 2013 tại thủ đô Viêng-chăn (Lào).

Lạc quan với thị trường thẻ nhưng cũng hiểu rõ sự canh tranh gay gắt giữa các ngân hàng đối với lĩnh vực này, VietinBank thể hiện quyết tâm giữ vững ngôi vị top đầu trên thị trường thẻ bằng cách: tiếp tục chú trọng phát triển các tính năng, tiện ích của sản phẩm, dịch vụ thẻ; đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai các loại hình dịch vụ khác biệt riêng như: thanh toán online, gửi tiết kiệm qua ATM, thanh toán viện phí qua Kiosk Banking, thanh toán hóa dơn tiền điện, viễn thông, nộp thuế, vé tàu, thanh toán cước taxi, thanh toán học phí online,… nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu thanh toán nhanh, hiện đại, chính xác cho các đối tượng khách hàng, giảm thiểu lượng tiền mặt, gia tăng sự an toàn do không phải mang theo tiền mặt. Tin rằng, với những chiến lược phát triển đúng đắn dựa trên cơ sở đáp ứng thực tiễn cuộc sống, Trung tâm Thẻ VietinBank tiếp tục gặt hái được nhiều thành công, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của Ngân hàng và cho sự tiện ích trong sinh hoạt của xã hội. n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam - Trung tâm thẻ tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

61

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 62: Page 4 76 vh12

Với lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính là công nghiệp cao su, doanh

nghiệp đang quản lý và khai thác gần 300.000 ha cao su và sản lượng khai thác mủ một năm đạt trên 300.000 tấn. Theo ông Lê Minh Châu - Phó Tổng Giám đốc Công ty thì từ nay tới năm 2015, quy mô diện tích cao su của VRG sẽ đạt tới con số 500.000 ha vì tập đoàn đang phát triển với các hướng đầu tư mở rộng sang Lào, Campuchia và sắp tới là Myanma, châu Phi. Tương ứng với sự phát triển diện tích cao su này, đến năm 2020, sản lượng mủ của doanh nghiệp sẽ đạt 0,5 triệu tấn, ước tính kim ngạch xuất khẩu là 2 tỷ USD.

Trên 40 năm kinh nghiệm sản xuất kinh doanh đã mang lại cho Tập đoàn số lượng sản phẩm mủ cao su đa dạng và phong phú về chủng loại, bao gồm: cao su có độ nhớt ổn định (SVR CV50, SVR CV60), cao su định chuẩn kỹ thuật (SVR L, SVR 3L, SVR 5, SVR 10, SVR 20). Các sản phẩm cao su của VRG được sản xuất tại hơn 40 nhà máy và xưởng chế biến mủ cao su được trang bị công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến cùng đội ngũ công nhân lành nghề, có khả năng tiếp cận nhanh

chóng những kỹ thuật mới nhất của ngành chế biến - sản xuất cao su thế giới. Do đó, các sản phẩm mang thương hiệu VRG luôn đạt chất lượng cao, sánh ngang với các nước sản xuất cao su tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh hoạt động xuất khẩu mủ cao su, Tập đoàn còn đầu tư nhà máy chế biến gỗ, sản xuất các mặt hàng gia dụng xuất khẩu bằng gỗ cao su và các nguyên liệu khác như: nệm, gối, mút, bóng thể thao,… hoàn toàn từ sản phẩm cao su thiên nhiên nhằm gia tăng giá trị thặng dư từ cây cao su, đem lại nguồn lợi cho Tập đoàn, cho đất nước. Để công tác giao thương thuận lợi, phục vụ cho việc xuất khẩu sản phẩm, nhãn hiệu và logo của doanh nghiệp đã được bảo hộ tại 15 quốc gia và vùng lãnh thổ. Được biết, các sản phẩm chất lượng cao của VRG đã có mặt tại trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Hiện nay, với phương châm “phát triển kinh tế bền vững”, lãnh

đạo Tập đoàn đã dành sự quan tâm đáng kể cho công tác bảo vệ, gìn giữ môi trường. Trong những năm qua, VRG đã đầu tư trên 600 tỷ đồng cho các hệ thống xử lý nước thải với suất đầu tư bình quân hiện nay khoảng 30 triệu đồng/m3 nước thải. Bằng sự chỉ đạo nghiêm túc, sâu sát của cấp trên, các công ty trực thuộc Tập đoàn đã cố gắng tích cực đầu tư, cải tạo và nâng cấp các hệ thống xử lý nước thải cao su theo công nghệ mới, tiến bộ; lắp các hệ thống lọc khí thải tại lò sấy để giảm thiểu ô nhiễm không khí; sử dụng hóa chất khử mùi để giảm thiểu mùi hôi tại nhà máy và hệ thống xử lý nước thải, đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh môi trường tại địa phương đứng chân. Song song với các biện pháp này, tại các đơn vị sản xuất, việc tập trung vào công tác vận hành đúng kỹ thuật và quản lý sử dụng nguyên liệu là công tác đang được chú trọng, nhất là với các hệ thống mới xây dựng và nâng cấp.

l MỘNG HUỆ

TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP CAO SU VIỆT NAM

HƯỚNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG

Là tập đoàn đa sở hữu, hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng đa ngành nghề, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (viết tắt là VRG) hiện đang có trên 130 đơn vị thành viên và công ty liên kết trải dài từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ đến biên giới phía Bắc với doanh thu trên dưới 30.000 tỷ đồng mỗi năm.

62

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 63: Page 4 76 vh12

Ngoài ra, các nhà máy đang từng bước thực hiện công nghệ sản xuất sạch, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu trong sản xuất, tiến tới giảm thiểu nguồn thải gây ô nhiễm môi trường, góp phần bảo vệ môi trường sống ngày một trong lành hơn.

Song song với công tác quản lý môi trường, công tác nghiên cứu và áp dụng công nghệ mởi để xử lý, cải thiện công nghệ xử lí cũng được VRG chú trọng. Gần đây, Tập đoàn đã triển khai các đề tài áp dụng giảm thiểu môi trường như: triển khai mương khử amoniac Spillway để giảm thiểu NH3, giảm H2SO4 trong đánh đông skim; bước đầu áp dụng đề tài công nghệ xử lý nước thải bể kỵ khí kết hợp và hồ tảo cao tải của Viện Nghiên cứu cao su Việt Nam; nghiên cứu thay thế H2SO4 để đánh dông skim bằng hệ thống đánh đông khác ít gây độc hại; nghiên cứu xử lý nước thải cao su bằng công nghệ biogas;… Qua thời gian thử nghiệm, các nghiên cứu này đều cho kết quả khả quan về môi trường.

Tuy nhiên, vẫn còn một tiêu chí được lãnh đạo Tập đoàn đặc biệt quan tâm, góp phần quan trọng vào mục tiêu “phát triển kinh tế bền vững”. Đó là yếu tố con người. Đối với 130 cán bộ công nhân viên đang làm việc tại VRG, doanh nghiệp đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ với thu nhập bình quân 7,2 triệu đồng/người/tháng (số liệu năm 2012). Các phúc lợi khác như: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, để người lao động có sức khỏe tốt, duy trì ổn định bộ máy làm việc của doanh nghiệp, các chế độ: trợ cấp độc hại, ăn giữa ca, bảo hộ

lao động và khen thưởng định kỳ, khen thưởng đột xuất, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích tốt trong lao động hoặc các cuộc thi,…được Tập đoàn thực hiện đều đặn, thường xuyên. Thiết nghĩ, những chế độ này không chỉ thể hiện sự quan tâm chăm lo đến việc cải thiện mức sống cho người lao động; mà còn tạo động lực, khuyến khích các cán bộ công nhân viên cống hiến hết mình cho sự nghiệp phát triển chung. Đối với cộng đồng, việc tham gia các hoạt động từ thiện, giúp đỡ, sẻ chia người có hoàn cảnh bất hạnh trong xã hội là một nét đẹp đặc trưng của Tập đoàn trong quá trình phát triển. Với số tiền đóng góp 45 tỷ đồng năm 2011, 65 tỷ đồng năm 2012, VRG thực sự xứng đáng là một Mạnh Thường Quân của các quỹ từ thiện xã hội. Ngày nay, có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thành công, nhưng trách

nhiệm với xã hội thì vẫn còn thực sự rất khiêm tốn nếu như không nói rằng họ tham gia trên tinh thần “gọi là có”. Mong rằng, sẽ có ngày một nhiều doanh nghiệp như VRG mở rộng vòng tay, giúp đỡ người nghèo vì ngày mai tươi sáng hơn cho tất cả mọi người.

Vừa qua, giải thưởng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” 2013 đã được trao cho Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam. Tin rằng, trên nền tảng bền vững của hơn 40 năm kinh nghiệm, cộng với chủ trương đúng đắn và sáng suốt “phát triển kinh tế bền vững”, trong thời gian tới, VRG sẽ còn gặt hái nhiều thành tích hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Và, sẽ còn nhiều giải thưởng, hình thức khen thưởng đầy vinh dự, tự hào, được bổ sung vào truyền thống vẻ vang của Tập đoàn. n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

63

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 64: Page 4 76 vh12

công nối tiếp thành công, góp phần khẳng định vị thế thương hiệu Yến sào Khánh Hòa trên thị trường trong và ngoài nước.

Những năm qua, Công ty luôn có những bước phát triển nhảy vọt về doanh thu, năm 2009 là trên 660.000 triệu đồng, năm 2010 là 1.244.000 triệu đồng, năm 2011 là gần 1.850.000 triệu đồng và năm 2012 là 2.624.000 triệu đồng. Làm nên thành công này, có sự đóng góp của sản phẩm đặc biệt, của thương hiệu lâu đời, nhưng có lẽ hơn tất cả là sự nỗ lực lao động làm việc của tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Năm 2004, trước nhu cầu ngày một lớn của thị trường, ông Lê Hữu Hoàng đã chỉ đạo các cộng sự nghiên cứu và trình bày dự án “Bước đầu nghiên cứu ấp nuôi nhân tạo chim yến hàng Aerodramus Fuciphhgus Amechanus làm cơ sở khoa học cho việc phát triển đàn chim yến trong nhà ở Khánh Hòa” và thực hiện dự án “Thực nghiệm nuôi chim yến trong nhà để lấy tổ”. Thành công của dự án không chỉ gia tăng số lượng sản phẩm tổ yến; mà còn đem lại công ăn việc làm cho người dân, vừa bảo vệ môi trường, vừa tăng thêm nguồn lợi cho địa phương, cho đất nước. Hiện tại, doanh nghiệp đang tiếp tục triển khai dự án “Phục hồi, phát triển, quản lý và bảo vệ quần

thể chim yến hàng (Aerodramus fuciphagus germani) tại các hang đảo vùng ven biển tỉnh Phú Yên”. Được biết, dự án này nhằm khắc phục tình trạng sản lượng yến nuôi không ngừng tăng lên, sản lượng yến tự nhiên dần thấp xuống do khai thác và bảo vệ chưa hợp lý. Dự án được thực hiện từ 2011-2014. Và để phục vụ đắc lực cho công việc khai thác, bảo vệ chim yến, ông Hoàng đã cho triển khai một số đề tài khoa học khác như: làm mái che, thi công đập hướng sóng các hang yến đáy nước, ứng dụng hệ thống camera IP giám sát an ninh trên đảo yến bằng năng lượng xanh với mục tiêu bảo vệ an toàn hiệu quả tổ yến và phát triển đàn chim yến, tổ chức quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 nhằm phát huy hiệu quả quản lý sản xuất kinh doanh sản phẩm xuất khẩu.

Đặc biệt, với quan điểm: phát triển văn hóa cộng đồng chính là trách nhiệm về mặt xã hội của mỗi một doanh nghiệp; nghĩa là, tất cả hoạt động của doanh nghiệp được triển khai thực hiện đều hướng tới mục đích cao cả là vì lợi ích của cộng đồng, trong đó mục đích đầu tiên là bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi để họ được làm việc, được cống hiến và được hưởng thành quả lao động xứng đáng; cao hơn là mục

CÔNG TY TNHH MTV YẾN SÀO KHÁNH HÒA

KHÔNG CHỈ LÀMỘT

Là người có hơn 20 năm đảm nhiệm các vị trí quan trọng tại Công ty TNHH MTV Yến Sào Khánh Hòa; là người lãnh đạo cao nhất, đảm nhiệm quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với doanh thu năm sau luôn cao hơn năm trước; là người coi phát triển văn hóa doanh nghiệp quan trọng tương đương phát triển sản xuất kinh doanh; ông chính là doanh nhân Lê Hữu Hoàng - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty.

l TRẦN THU

Đảm trách vị trí người đứng mũi chịu sào của một doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh yến sào - một mặt hàng đặc biệt, công việc của ông Lê Hữu Hoàng vừa có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn thách thức. Song, với bản chất là một người năng động, nhạy bén, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm, doanh nhân họ Lê đã cùng với Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên Công ty lặng lẽ miệt mài lao động, sáng tạo để gặt hái thành

DOANH NHÂN GIỎI

64

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 65: Page 4 76 vh12

đích gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa doanh nghiệp, chung tay cùng cộng đồng bảo đảm an sinh xã hội, hướng tới sự phát triển bền vững, nên ông Lê Hữu Hoàng nói riêng và Ban Giám đốc nói chung luôn đề cao các chính sách về con người với sự quan tâm đặc biệt. Bởi, như mọi doanh nghiệp khác, con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Ấy là chưa kể đối với một ngành có nhiều đặc trưng như lĩnh vực nuôi trồng, khai thác chim yến.

Tại doanh nghiệp, dưới sự chỉ đạo của ông Lê Hữu Hoàng, đời sống và điều kiện làm việc của người lao động từng bước được cải thiện, nhất là đối với công nhân bảo vệ đảo. Trong các năm qua, Công ty đã đầu tư xây dựng nhiều nhà gác kiên cố trên đảo, đề phòng khi sóng to, gió lớn nguy hiểm. Tiến hành xây lan can, làm đường đi, dây an toàn,… ở những khu vực nguy hiểm, đảm bảo an toàn lao động trong quá trình bảo vệ và khai thác sản phẩm. Ngoài ra, mỗi năm bảo hộ lao động được trang bị đầy đủ và phù hợp với điều kiện làm việc trên đảo. Chính sách tiền lương, phụ cấp, khen thưởng cho người lao động được ban lãnh đạo quan tâm đúng mức, nhằm đem lại mức thu nhập tương xứng với kết quả lao động của người lao động, tạo không khí thoải mái, yên tâm. Đối với những người làm việc ở đảo xa, Công ty xây dựng chính

sách đặc biệt về thu nhập và các chế độ khác, giúp người lao động tập trung vào công việc được giao. Trên thực tế, cùng với doanh thu của doanh nghiệp ngày một tăng, thu nhập của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Theo đó, vào thời điểm hiện tại, trên 4.000 lao động ở đơn vị đã và đang hưởng thu nhập bình quân 7 triệu đồng/người/tháng. Mặt khác, cán bộ công nhân viên được đưa đón đi làm bằng xe ô tô, người không sử dụng xe ô tô thì được hỗ trợ 15-30 lít xăng/tháng, được khám sức khỏe định kỳ, được mua thêm các loại bảo hiểm cần thiết, tặng 1 triệu đồng/người/năm dịp sinh nhật, hỗ trợ vật chất lúc ốm đau hoặc các trường hợp khó khăn, khen thưởng con em người lao động có thành tích học tập tốt, tổ chức tham quan nghỉ mát định kỳ cho những cá nhân có thành tích tốt trong lao động, sản xuất,… Nhờ đó, người lao động luôn nỗ lực làm tốt nhiệm vụ được giao và luôn công tác gắn bó lâu dài với Công ty.

Vẫn với quan điểm chung về tránh nhiệm cộng đồng, về con người, Công ty Yến Sào Khánh Hòa khẳng định: thông qua việc phát huy trách nhiệm doanh nghiệp với xã hội, hình ảnh và thương hiệu của doanh nghiệp sẽ được khẳng định, từ đó nâng cao tính cạnh tranh, mang lại sự thành công chung cho chính doanh

nghiệp đó. Chính vì vậy, từ hàng chục năm nay, tham gia quyên góp từ thiện cho các quỹ đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên nơi đây. Đặc biệt, trong những năm gần đây, sự tích cực của Công ty đã gia tăng cùng với số tiền đóng góp, năm 2009 trên 1,5 tỷ đồng, năm 2010 khoảng 2,1 tỷ đồng, năm 2011 hơn 2,3 tỷ đồng và năm 2012 là gần 2,5 tỷ đồng. Những con số này trên thực tế thể hiện rất rõ sự ý thức của người lãnh đạo tới các hoạt đồng vì cộng đồng. Ở đây, là tinh thần trách nhiệm của ông Lê Huy Hoàng với xã hội nói chung.

Đối với mọi người nói chung, cương vị đảm trách vừa thể hiện năng lực, sự thành công trong sự nghiệp; vừa thể hiện sự đóng góp công sức trí tuệ, sức lực cho sự phát triển của Công ty. Đối với doanh nhân Lê Hữu Hoàng, không chỉ có năng lực trong việc điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh, mà ông còn có cái tâm của một người làm quản lý trách nhiệm đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Nên, tin rằng cùng với những hình thức khen thưởng: Huân chương Lao động hạng Nhì - Ba, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh; giải nhất, nhì Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc, HCB Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc tế tại Hàn Quốc; các giải thưởng: Doanh nhân Tâm - Tài, Doanh nhân tiêu biểu, Doanh nhân Văn hóa, Doanh nhân nhân ái, Doanh nhân ưu tú, Top 20 doanh nhân cống hiến, Nhà kinh tế châu Á, Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới,… doanh nhân Lê Hữu Hoàng còn nhận được sự yêu quí, kính trọng từ các đồng nghiệp, người lao động trong Công ty.n

65

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 66: Page 4 76 vh12

Nói ông Cấn Hồng Lai cả đời song hành với lĩnh vực giao thông vận tải là bởi

sau khi rời quân ngũ, ông trở thành sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải và công tác trong ngành suốt từ đó tới nay. Chẳng biết, nghề chọn ông hay ông chọn nghề nhưng với vị trí đang nắm giữ hiện tại, khẳng định chắc chắn ông có “duyên” với công việc này, với doanh nghiệp này. Chính vì vậy, xấp xỉ 10 năm đảm trách vai trò Phó Tổng Giám đốc (từ 2004-2007) và Tổng Giám đốc ( từ 2007 đến nay) ông đã cùng với Ban Giám đốc và tập thể công nhân viên vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giữ vững thương hiệu của một doanh nghiệp có thâm niên gần nửa thế kỷ hình thành và phát triển.

Là Tổng Công ty TNHH Nhà nước một thành viên, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, Cienco1 có: 06 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 03 chi nhánh và 01 trường Trung cấp nghề. Ngoài

ra, có 12 công ty con có vốn nhà nước chiếm trên 50%; 20 công ty liên kết có vốn nhà nước chiếm dưới 50% và góp vốn bằng thương hiệu; 08 công ty TNHH MTV có chức năng quản lý sửa chữa đường bộ. Qui mô hoạt động rộng khắp toàn quốc, nội lực vững mạnh là những thế mạnh nổ trội của Tổng Công ty trên thị trường xây dựng giao thông vận tải trong nước. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, khi cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế thì không chỉ riêng Cienco1 bị ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh.

Cụ thể, trong năm 2012, theo tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với không ít khó khăn. Sản xuất đình trệ. Việc làm không đủ. Thu nhập thất thường. Là người đứng mũi chịu sào, chịu trách nhiệm cao nhất trong Tổng Công ty, doanh nhân Cấn Hồng Lai cùng với Ban lãnh đạo đã lao tâm khổ tứ, đưa

ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo cuộc sống cho hàng nghìn cán bộ, công nhân viên và nhất là mục tiêu hoàn thành kế hoạch năm đầy thách thức. Và, sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên Tổng Công ty đã được đền đáp xứng đáng khi hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm 2012. Theo đó, nhiều công trình trọng điểm cấp Nhà nước và nhiều dự án quốc tế đã hoàn thành, đảm bảo tiến độ, chất lượng, đưa vào sử dụng phục vụ phát triển kinh tế và dân sinh. Năm 2012 vừa qua đã đưa vào sử dụng các công trình với tổng giá trị sản lượng gần 4.000 tỷ đồng, gồm: đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, Nhà máy Xi măng Sơn La, cầu Đầm Cùng (Cà Mau), cầu Rạch Chiếc (TpHCM), cầu Phù Đổng (giai đoạn 2 - Hà Nội),… Bên cạnh đó là những dự án phải hoàn thành cơ bản năm 2012 để bàn giao đưa vào sử dụng đầu năm 2013 và các năm tiếp theo như: cầu Rồng (Đà Nẵng), cầu Đông Trù (Hà Nội),

l THỂ ĐIỆP

TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 1

Chuyện vềmột nhà quản lý xuất sắc

Có thể nói cả cuộc đời, sự nghiệp gắn bó, cống hiến cho ngành xây dựng giao thông vận tải, công lao của ông đã được ghi nhận qua các hình thức khen thưởng: Huân chương Lao động hạng Nhất - Nhì, Huân chương Hữu nghị của Vương quốc Campuchia, cùng nhiều bằng khen, danh hiệu Chiến sỹ Thi đua cấp ngành - cơ sở,… Mới đây nhất, ông được vinh danh qua lễ trao giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” tại thủ đô Viêng Chăn (Lào). Ông chính là doanh nhân Cấn Hồng Lai - Tổng Giám đốc Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (viết tắt là CIENCO1).

66

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 67: Page 4 76 vh12

cầu đường sắt Phả Lại, nút giao Hòa Lạc - Hà Nội,…

Ông Cấn Hồng Lai cho biết, cũng trong năm 2012, toàn doanh nghiệp đã đầu tư gần 200 tỷ đồng cho thiết bị, công nghệ và hàng trăm tỷ đồng vào các dự án: Nhà máy Xi măng Mai Sơn (Sơn La), cầu Cổ Chiêm, cầu Trần Thị Lý,… Dù khó khăn như đã nói ở trên, nhưng để đáp ứng yêu cầu thi công các công trình chất lượng cao, gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, Tổng Công ty đã mạnh dạn mua sắm những thiết bị công nghệ mới có giá trị lớn là: dây chuyền thi công trụ tháp cầu dây văng bằng ván khuôn leo, trạm trộn bê tông asphalt nóng, máy rải thảm, lu các loại, ô tô vận tải, máy khoan, cần cẩu, dây chuyền thi công lớp Novachip chống trơn trượt cho đường cao tốc, dây chuyền công nghệ tái tạo mặt đường cũ Fortress, dây chuyền công nghệ sản xuất dầm thép, chế tạo Long môn di động tự thay đổi chiều cao. Nhờ sự góp sức của thiết bị, công nghệ mới, các dự án do Cienco1 triển khai

đã đạt được những kết quả khả quan, mang lại thành tích đáng nể trong một năm nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, không thể không nói tới một giải pháp quan trọng đóng góp đáng kể vào thành công chung của Cienco1 năm 2012. Đó chính là công tác xây dựng, củng cố tổ chức - một lĩnh vực được lãnh đạo doanh nghiệp đặc biệt quan tâm bởi có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong năm này, gần 100 cán bộ được cử đi học, tuyển dụng thêm 12 cán bộ và tổ chức thi nâng bậc, nâng lương cho hơn 1.650 cán bộ công nhân viên. Đồng thời, tiến hành cổ phần hóa hầu hết các công ty thành viên, tiếp thêm sức mạnh nội lực cho doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Riêng trong năm 2012, Tổng Công ty đã tiếp nhận thêm 08 đơn vị từ Khu quản lý đường bộ 2 với gần 1.500 lao động. Bên cạnh đó, phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được Tổng Công ty coi trọng khuyến khích và duy trì thường xuyên đã tiếp tục có thêm 40 đề tài, làm lợi gần 50 tỷ đồng trong năm 2012.

Sự năng động trong việc mở rộng thị trường, thị phần cùng sự quyết liệt của ban lãnh đạo trong việc thực hiện các giải pháp kinh tế đã giúp Cienco1 giải quyết được công ăn việc làm ổn định cho người lao động. Đáng mừng hơn nữa là thu nhập bình quân tăng 110% so với năm 2011, đạt 4,6 triệu đồng/người/tháng. Chưa kể có tới 25/46 đơn vị có mức thu nhập cao hơn mức thu nhập bình quân của Tổng Công ty. Về phía Tổng Công ty, đã chi phí hơn 3 tỷ đồng cho 4.000 lượt cán bộ công nhân viên đi tham quan nghỉ mát. Đối với hoạt động nhân đạo, Cienco1 vẫn tham gia tích cực khi chi hàng tỷ đồng cho các quỹ từ thiện, trao quà cho học sinh giỏi, trẻ em khuyết tật, tu sửa di tích,…

Trong thử thách, Cienco1 đã chứng minh ý chí quyết tâm và sự đồng lòng nhất chí sẽ làm nên tất cả. Và hơn ai hết, doanh nhân Cấn Hồng Lai càng thêm hiểu rằng, nếu thiếu sự quan tâm giúp đỡ nhiều mặt của các cơ quan thuộc Bộ Giao thông vận tải; sự sát sao của Hội đồng thành viên; sự điều hành quyết liệt, linh hoạt của Ban Giám đốc; sự phối kết hợp chặt chẽ của các tổ chức đoàn thể và các đơn vị thành viên thông qua các phong trào thi đua lao động sản xuất,… thì Tổng Công ty không thể gặt hái được kết quả nói trên trong năm 2013, không thể có được truyền thống tự hào của chặng đường 50 năm khẳng định thương hiệu và không thể hướng tới tương lai bền vững. Do đó, ông tự nhận mình chỉ là người luôn cố gắng làm tốt trách nhiệm của mình cũng như luôn cố gắng hoàn thành tốt các công việc được giao dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Trái) và Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (Phải) trao Giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” cho Đại diện Tổng Công ty Xây dựng Công trình Giao thông 1 tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

67

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 68: Page 4 76 vh12

thác, chế biến khoáng sản các loại; sản xuất công nghiệp chế biến khoáng sản; sản xuất vật liệu xây dựng; dịch vụ sửa chữa cơ khí, Công ty đã đẩy mạnh đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm các trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Từ những dấu hiệu khả quan của lĩnh vực khai thác, chế biến sa khoáng titan, doanh nghiệp đã tiếp tục mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực khai thác, chế biến đá xây dựng. Hiện tại, lĩnh vực này đang mang lại hiệu qủa cao.

Trước những tín hiệu lạc quan của hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian qua, lãnh đạo Công ty đã quyết định đẩy mạnh đầu tư chiều sâu thông qua hoạt động khởi công xây dựng Nhà máy nâng cao chất lượng nghiền Zircon siêu mịn (đã đi vào hoạt động từ giữa năm 2010) và Nhà máy Ilmenite hoàn nguyên (hoàn thành vào quý II năm 2012). Hiện tại, Công ty đang tham gia vào Dự án thăm dò vàng cùng với Công ty cổ phần Axiom Việt Nam.

Tính đến nay, vốn điều lệ của

Công ty đã tăng lên 22 lần so với năm 2007, gấp 4 lần so với năm 2011 và tăng gấp 44 lần so với năm 2000 khi mới tiến hành cổ phần hóa. Tổng doanh thu mỗi năm một tăng, năm 2012 tăng gấp 1,8 lần so với năm 2011 và tăng gấp 8,4 lần so với năm 2007. Giải quyết công ăn việc làm ổn định cho hơn 1.000 lao động địa phương với mức thu nhập bình quân từ 4 - 4,5 triệu đồng/người/tháng. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì thường xuyên vào các dịp lễ tết.

Đi lên không ngừng với những kết quả kinh tế ấn tượng, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của địa phương cũng như của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Công ty cổ phần Khoáng sản Quảng Trị với những nỗ lực không mệt mỏi không chỉ đạt được những chỉ tiêu tăng trưởng theo nghị quyết của Đại hội cổ đông nhiệm kỳ 2007-2012; mà còn được trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba cùng nhiều Bằng khen, danh hiệu, Cờ thi đua khác và được

l THỂ ĐIỆP

CÔNG TY CỔ PHẦN KHOÁNG SẢN QUẢNG TRỊ

SỰ CHỦ ĐỘNGlàm nên thành tích của một DOANH NHÂN

Là đơn vị đầu tiên của tỉnh được tiến hành chuyển đổi hoạt động sang mô hình cổ phần hóa từ doanh nghiệp Nhà nước vào năm 2000, Công ty cổ phần Khoáng sản Quảng Trị đã mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp theo hướng đa ngành nghề. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của ông Lê Vĩnh Thiều - Chủ tịch HĐQT, Giám đốc Công ty - doanh nghiệp đã và đang có những bước phát triển đúng đắn và bền vững.

Với tiền thân là Xí nghiệp Cơ khí Vĩnh Linh được thành lập từ năm 1954,

có thể nói Công ty là một đơn vị có thâm niên hoạt động trên thị trường. Do đó, nếu không có nền tảng vững chắc về kinh tế thì cũng là một doanh nghiệp có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh dạn dày. Chính vì vậy, với mục tiêu phát triển sản xuất theo hướng đa ngành nghề với các lĩnh vực: khai

68

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 69: Page 4 76 vh12

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Trái) và Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (Phải) trao Giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” cho Đại diện Công ty cổ phần Khoáng sản Quảng Trị tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

bầu chọn đứng số 190/500 doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Việt Nam năm 2011-2012.

Thành tích này, là thành quả chung, là phần thưởng xứng đáng cho Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ công nhân viên đã phấn đấu trong suốt thời gian qua. Song, có phần đóng góp không nhỏ sức lực, trí tuệ của người đứng đầu doanh nghiệp. Đó là ông Lê Vĩnh Thiều.

Là người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, đồng thời phải đảm bảo được nguồn vốn của các cổ đông, tạo được công ăn việc làm, ổn định cuộc sống cho hàng nghìn cán bộ công nhân viên, không chỉ với ông Thiều mà với bất cứ một người lãnh đạo nghiệp nào cũng là một áp lực lớn. Tuy nhiên, không thể phụ niềm tin của lãnh đạo cấp trên, của mọi người giao phó, ông đã vận dụng hết khả năng vốn có cùng kinh nghiệm tích lũy được từ những năm công tác tại Công ty sản xuất vật liệu xây dựng Thừa Thiên Huế, Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu số 7. Bên cạnh đó, là tinh

thần dám nghĩ dám làm đã mang lại cho ông và Ban lãnh đạo Công ty sự chủ động trong công việc. Chủ động mở rộng sản xuất kinh doanh. Chủ động mua sắm máy móc trang thiết bị. Chủ động xây dựng nhà máy đáp ứng nhu cầu thị trường. Chủ động liên kết với đối tác để khai thác thị trường tiềm năng. Hơn nữa, chính doanh nhân lê Vĩnh Thiều đã chủ động cùng với đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề trong Công ty nghiên cứu xây dựng hoàn thiện dây chuyền sản xuất Ilmenite hoàn nguyên, đã đưa vào sản xuất đạt kết quả tốt.

Vẫn với tinh thần chủ động trong công việc, trong giai đoạn khó khăn hiện tại, ông đã cùng với Ban Giám đốc đã đề ra các biện pháp tối ưu hóa hoạt động, tăng cường tiết kiệm, tăng năng suất lao động nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động. Và, để tiếp tục giữ vững đà phát triển, Công ty đã xây dựng quy chế hoạt động và thực hiện nghiêm túc khách quan trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh. Mặt khác, mạnh dạn đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới

công nghệ, đặc biệt là công tác đầu tư chế biến chiều sâu theo định hướng của Chính phủ; quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý đủ năng lực để điều hành hoạt động của Công ty, đáp ứng yêu cầu hoạt động và phát triển lâu dài.

Thực tế trên cho thấy, sự chủ động của lãnh đạo Công ty cổ phần Khoáng sản Quảng Trị đã tạo nên sự tự tin, sức mạnh nội lực cho chính doanh nghiệp trong quá trình tiến lên. Và góp phần tạo nên sức mạnh ấy cho Công ty chính là doanh nhân Lê Vĩnh Thiều - người được các cơ quan ban ngành tặng nhiều phần thưởng cao quý, Bằng khen, Giấy khen. Vào tháng 8/2013 vừa qua, ông là một trong số các doanh nhân vinh dự đạt giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” năm 2013 trao tại đất nước Lào anh em. Hy vọng, giải thưởng sẽ là nguồn động viên, cổ vũ tích cực để ông cùng nhiều doanh nhân khác tiếp tục kiên cường chiến đấu trên mặt trận kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng.n

69

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 70: Page 4 76 vh12

lTRÚC LAM

TỔNG CÔNG TY BẢO ĐẢM AN TOÀN HÀNG HẢI MIỀN BẮC

Chuyện về

MỘT DOANH NHÂN XUẤT SẮC

Gần 30 năm gắn bó với ngành bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam, ông Lưu Văn Quảng - Tổng Giám đốc Công ty Bảo đảm an toàn Hàng hải miền Bắc gần như cống hiến cả cuộc đời cho lĩnh vực biển đảo. Chính vì vậy, dù đã và đang đảm đương cương vị quản lý chủ chốt của Công ty, bận rộn trăm công nghìn việc nhưng hàng năm ông vẫn chủ động sắp xếp thời gian, cùng lãnh đạo chủ chốt Tổng Công ty tổ chức những chuyến công tác, vừa đi thăm anh em công nhân và kiểm tra công việc, vừa để được ra với một vùng biển đảo thân yêu của Tổ quốc.

Ông Quảng cho biết, lãnh đạo Tổng Công ty thường có những chuyến công tác

đi thăm và kiểm tra các trạm quản lý đèn biển và luồng tàu biển trong phạm vi trách nhiệm được giao quản lý từ Quảng Ninh tới Quảng Ngãi, cũng may, kiểm tra điều kiện ăn ở và làm việc của anh em công nhân ngoài hải đảo xa xôi, nơi đầu sóng ngọn gió khó khăn, vất vả. Nhìn anh em, ông lại nhớ tới mình những năm 80, 90 của thế kỉ trước khi bắt đầu về công tác tại ngành với vai trò Phó Giám đốc Xí nghiệp xây dựng công trình hàng hải - Bảo đảm an toàn hàng hải Việt Nam. Ông bảo, nhớ về những ngày gian khó xưa cũ để thương anh em công nhân ngày nay hơn. Dù giờ đây, điều kiện lao động của anh em công nhân đã được cải thiện hơn rất nhiều nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Phải đi để có thực tế, từ đó có những kiến nghị cụ thể, phù hợp lên các Bộ, ngành, bổ sung nhiều chế độ và quyền lợi chính đáng cho người lao động, giúp họ yên tâm làm tốt công việc, thực

sự coi trạm đèn, trạm luồng, con tàu là ngôi nhà thứ hai của mình. Qua câu chuyện, càng hiểu trong mối bận tâm của các nhà quản lý tâm huyết như ông Quảng, có lẽ lớn nhất và đau đáu nhất là vấn đề cải thiện đời sống cho người lao động. Bởi, chỉ khi được đảm bảo đời sống mới hy vọng người lao động thực sự an tâm, gắn bó và cống hiến hết mình cho công việc của Công ty. Do đó, cùng với việc tạo công ăn việc làm đầy đủ, nâng cao mức thu nhập cho người lao động, đơn vị còn dành sự quan tâm đáng kể tới đời sống tinh thần của người lao động duy trì hoạt động thăm hỏi, động viên các gia

đình chính sách vào các ngày lễ tết; trích thưởng cho con em người lao động là học sinh giỏi, tổ chức tết trung thu;…

Là doanh nghiệp chuyên cung ứng dịch vụ vận hành hệ thống báo hiệu đèn biển, hệ thống báo hiệu hàng hải luồng tàu biển; khảo sát, ra thông báo hàng hải; khảo sát và thực hiện thanh thải chướng ngại vật trên các luồng hàng hải, vùng nước cảng biển và các công trình khác; nạo vét, duy tu luồng hàng hải, có thể nói Công ty hoạt động trong hoàn cảnh khó khăn, nơi đầu sóng ngọn gió, thời tiết có nhiều gió bão, thiên tai. Do đó, điều hành quản lý

70

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 71: Page 4 76 vh12

doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ cũng là một công việc đầy phức tạp và thách thức. Cùng với Ban lãnh đạo, ông Quảng luôn sâu sát trong mọi hoạt động sản xuất của Công ty nhằm có được hiệu quả cao nhất. Để sản xuất đạt kết quả cao nhất, một mặt ông bố trí cán bộ ở các đơn vị, phòng ban phù hợp, quan tâm sử dụng cán bộ trẻ, có năng lực; mặt khác, mạnh dạn đặt lòng tin và giao quyền chủ động cho các đồng chí lãnh đạo được phân công công tác, nhiệm vụ quản lý điều hành sản xuất nhằm phát huy năng lực của mỗi người. Tại Tổng Công ty, công tác đào tạo, bồi dưỡng được đặc biệt chú trọng. Cùng với hình thức tự tổ chức đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ và nâng cao tay nghề cho công nhân thi nâng cấp, nâng bậc, doanh nghiệp còn thường xuyên cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo về trình độ lý luận chính trị, kỹ thuật, nghiệp vụ, bồi dưỡng giám sát thi công công trình. Thậm chí hợp tác với các cơ quan chuyên ngành trong nước và quốc tế để đào tạo cho các kỹ sư chuyên ngành… Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu khoa học, áp dụng tiến bộ công nghệ được doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, Công ty đã triển khai dự án lắp đặt hệ thống giám sát, tự động nhận dạng báo hiệu ASI trên các tuyến luồng vào các cảng Đà Nẵng, Cái Lân và Hải Phòng, phục vụ cho công tác quản lý báo hiệu hàng hải dẫn luồng, nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm nặng nhọc cho người lao động, giúp giải quyết kịp thời các sự cố hàng hải; Trang bị nhiều thiết bị hiện đại phục vụ công tác khảo sát như: máy đo sâu hồi âm của Mỹ, máy định vị vệ tinh DGPS của Mỹ với độ chính xác cao, phần mềm khảo sát hàng hải Hypack Max,… nhằm tự động hóa các khâu chủ yếu

của quá trình khảo sát ra Thông báo hàng hải; Sản xuất thành công hải đồ điện tử tại các tuyến luồng thuộc doanh nghiệp; Hệ thống thông tin liên lạc được tăng cường và hoàn thiện;…

Dưới sự lãnh đạo của doanh nhân Lưu Văn Quảng, trong những năm qua, Công ty luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Cụ thể: 42 đèn biển bảo đảm 100% thời gian hoạt động, đạt chất lượng cao; gần 400 báo hiệu nổi dẫn luồng và 63 tiêu trên 25 tuyến luồng tàu biển quốc gia đảm bảo thời gian hoạt động đạt chất lượng yêu cầu; khảo sát ra thông báo hàng hải cho 24 tuyến luồng chính xác, kịp thời; công tác nạo vét, duy tu các tuyến luồng tàu biển đảm bảo cho tàu thuyền hàng hải an toàn khi ra vào làm hàng tại các cảng biển thuộc 25 tuyến luồng quản lý được duy trì thường xuyên. Nhờ đó, các sự cố hàng hải xảy ra trên luồng đều được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, không để xảy ra tình trạng ách tắc giao thông, kịp thời cung cấp cho người đi biển thông tin chính xác, tin cậy. Đặc biệt, tập thể cán bộ công nhân viên Tổng Công ty đã khắc phục khó khăn, vượt lên mọi hoàn cảnh thiếu thốn nơi biển đảo để xây dựng thành công đèn biển Nam Yết và đèn biển Sơn Ca trên quần đảo Trường Sa, góp phần bảo vệ an ninh biển đảo cho Tổ quốc.

Là doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích, đóng trên địa bàn thành phố Hải Phòng, nên ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, ông Quảng cùng Ban Giám đốc còn chỉ đạo cán bộ công nhân viên thực hiện tốt công tác duy tu, nạo vét tuyến luồng vào cảng Hải Phòng, đồng thời đầu tư những thiết bị công nghệ tiên tiến nhất cho hệ thống phao tiêu báo hiệu, đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho những chuyến

tàu ra vào cảng làm hàng được an toàn, góp phần quan trọng tăng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng ở khu vực Hải Phòng.

Không chỉ làm tốt nhiệm vụ bảo đảm an toàn hàng hải, Tổng Công ty còn tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện của địa phương và Trung ương. Trong thời gian qua, mỗi năm doanh nghiệp đã trích từ quỹ phúc lợi hàng trăm triệu đồng để ủng hộ Quỹ trẻ thơ, Nạn nhân chất độc da cam, tặng quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn huyện Nam Đàn (Nghệ An), tặng quà cho các gia đình chính sách ngành hàng hải, tặng áo phao cho học sinh sinh sống trên các bè cá tại huyện Cát Hải (Hải Phòng), xây nhà đại đoàn kết, tặng xe máy cho hộ nghèo đặc biệt, trao tặng quần áo ấm, tặng quà cho bộ đội biên phòng, bộ đội Trường Sa,… Với ông Quảng nói riêng và với Tổng Công ty nói chung, tham gia các hoạt động từ thiện xã hội là việc làm thiết thực nhất trong việc giảm gánh nặng cho xã hội, giúp người có hoàn cảnh khó khăn vươn lên, tự làm chủ cuộc sống của chính mình.

Gần 30 năm cống hiến cho ngành hàng hải, doanh nhân Lưu Văn Quảng đã vinh dự nhận được nhiều phần thưởng cao quí của Đảng và Nhà nước như: Huân chương Lao động hạng Ba, danh hiệu Chiến sỹ thi đua ngành Giao thông vận tải, Chiến sỹ thi đua toàn quốc, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cùng các giải thưởng: Doanh nhân tiêu biểu khu vực duyên hải phía Bắc, Trí thức tiêu biểu Việt Nam trên mặt trận kinh tế,... Vừa qua, một giải thưởng mới đã được bổ sung vào bảng tích mới của ông. Đó là giải thưởng Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới năm 2013. n

71

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 72: Page 4 76 vh12

Là một trường Công lập trực thuộc Bộ Công thương, Trường Đại học Sao Đỏ có

qui mô đào tạo đạt 15.500 học sinh, sinh viên, hiện đang đào tạo các hệ: Đại học 17 ngành, Cao đẳng 16 ngành, Trung học chuyên nghiệp 10 ngành, cao đẳng nghề và trung cấp nghề 16 ngành. Ngoài ra, Trường còn có chương trình đào tạo hệ liên thông từ Trung cấp chuyên nghiệp - Cao đẳng, từ Trung cấp chuyên nghiệp - Đại học và từ Cao đẳng - Đại học. Trong những năm qua, để đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển, Nhà trường đã thực hiện chiến lược đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đào tạo đa cấp, đa ngành, đa lĩnh vực. Bên cạnh đó, chương trình các ngành học, học phần hàng năm được xem xét, cải tiến phù hợp với sự phát triển của xã hội cũng như vòng đời phát triển ngành học/học phần. Ông Vũ Thanh Chương - Hiệu trưởng Nhà trường cho biết: Các bậc học của Trường không quá 3 năm. Trong đó, 100% các học phần đào tạo bậc đại học có đề cương chi tiết được phê duyệt trước khi giảng. 100% giảng viên của trường đăng ký khai thác

sử dụng phương tiện thiết bị đồ dùng dạy học và đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy học sinh, sinh viên làm trung tâm. 45% giảng viên của Trường tham gia nghiên cứu khoa học và làm mô hình cải tiến. Đảm bảo 98% học sinh, sinh viên không vi phạm nội quy quy định của Nhà trường và quy chế thi. 90% các yêu cầu của học sinh, sinh viên được giải quyết theo cơ chế một cửa và đúng hạn. 80% cán bộ công nhân viên và học sinh, sinh viên hài lòng về các hoạt động của các đơn vị trong Trường. Từ năm học 2010-2011 tổ chức đào tạo đại học theo học chế tín chỉ. Và, đạt tỷ lệ 100% học sinh tốt nghiệp sau 1 năm có việc làm.

Để đảm bảo chất lượng dạy và học, đồng thời để liên tục được

Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND tỉnh Hải Dương công nhận là trường tiên tiến xuất sắc, Đại học Sao Đỏ đã chú trọng rất nhiều khâu, đặc biệt là về nguồn nhân lực. Theo đó, nhằm đảm bảo chất lượng giáo viên đáp ứng nhu cầu lâu dài, Nhà trường chỉ nhận hồ sơ tuyển dụng của những sinh viên tốt nghiệp hạng khá trở lên của các trường: Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại ngữ, Đại học Sư phạm I, Đại học Ngoại thương, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính,… Sau khi duyệt sơ tuyển sẽ được phân loại để chuẩn bị bài giảng vòng sơ tuyển. Nếu đạt, chuyển về khoa chuyên môn chuẩn bị bài giảng trong vòng 1 tháng và giảng báo cáo. Cuối cùng, Hội đồng xét

l QUANG HÒA

Trường Đại học Sao Đỏ

Chất lượng đào tạo khẳng định thương hiệu

Hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Sao Đỏ đã đào tạo và cung cấp cho xã hội trên 80 nghìn lao động chất lượng cao, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, Nhà trường còn đạt được nhiều phần thưởng cao quý, bao gồm 21 Huân chương các loại. Thiết nghĩ, chất lượng đào tạo chính là nền tảng cơ bản kiến tạo nên những thành quả đáng tự hào nói trên của Trường Đại học Sao Đỏ.

72

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 73: Page 4 76 vh12

tuyển sẽ thống nhất ra quyết định tuyển chọn. Đối với công tác đào tạo cán bộ, nhân viên, hàng năm Nhà trường mở lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả giảng viên, giáo viên; mở lớp học nghiệp vụ sư phạm cho các giáo viên mới; bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kỹ thuật kinh tế công nghiệp, công nhân kỹ thuật bậc cao đạt tiêu chuẩn của Nhà nước; tổ chức tham quan, học tập tại các cơ quan, viện nghiên cứu,… Và để khuyến khích các cán bộ, giảng viên tham gia học tập, nâng cao trình độ, học cao học, nghiên cứu sinh,… Trường triển khai chế độ hỗ trợ 100% kinh phí cho giảng viên, giáo viên học cao học; nghiên cứu sinh ngành kỹ thuật được tạo điều kiện trả lương hàng tháng và được hỗ trợ 60 triệu đồng sau khi tốt nghiệp; với nghiên cứu sinh ngành khoa học, được trả lương hàng tháng và hỗ trợ 40 triệu sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra, Nhà trường luôn chăm lo đến đời sống của cán bộ công nhân viên, các chế độ phúc lợi được thực hiện đầy đủ theo quy định của Nhà nước. Tính tới thời điểm hiện tại, trình độ của đội ngũ cán bộ, giảng viên giáo viên của Nhà trường gồm: Phó GS, Tiến sỹ 38 người; thạc sỹ 342 người. Hầu hết đều sử dụng thành thạo máy tính, có trình độ ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga,… từ trình độ B trở lên.

Thực hiện kế hoạch phát triển của Nhà trường trong những năm tới, tập thể cán bộ, giảng viên, giáo

viên, công nhân viên cùng đồng lòng nhất trí xây dựng Trường Đại học Sao Đỏ trở thành cơ sở đào tạo mở và linh hoạt, có định hướng thị trường, hướng tới người học và các bên quan tâm nhằm đào tạo tốt hơn nữa nguồn nhân lực, đóng góp nhân tài cho nền kinh tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dựa trên những thế mạnh vốn là nền tảng sẵn có về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, Nhà trường đã triển khai triết lý chất lượng toàn diện TQM tới toàn thể cán bộ viên chức và học sinh sinh viên trong toàn trường với nội dung: Áp dụng hiệu quả hệ thống quản lý ISO 9000:2000, ESQM-TQM, tập trung vào chất lượng và hướng tới người học và các bên liên quan, bình đẳng, công khai, minh bạch.Theo ông Vũ Thanh Chương: Đối với một cơ sở đào tạo, chất lượng đào tạo sẽ nói lên tất cả. Chất lượng đào tạo chính là yếu tố quan trọng để khẳng định thương hiệu,

uy tín của Nhà trường.Trước thềm năm học mới

2013-2014, một niềm vui đã đến với Trường Đạo học Sao Đỏ khi là một trong số những đơn vị được vinh danh với giải thưởng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” 2013 tại Thủ đô Viêng-chăn (Lào). Giải thưởng này góp phần kéo dài bảng thành tích vẻ vang mà Nhà trường đã đạt được trong những năm qua như: Huân chương Lao động hạng Nhất - Nhì - Ba, Huân chương Chiến công hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Nhì - Ba, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba, cùng nhiều Cờ thi đua xuất sắc trong phong trào dạy tốt học tốt, Bằng khen và các giải thưởng: Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam, Chất lượng thực hành xuất sắc Châu Á, Cúp vàng ISO, Cúp vàng Nguồn nhân lực Việt Nam lần thứ nhất, Siêu cúp thương hiệu mạnh và phát triển bền vững, Cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng”, “Quả Cầu Vàng”,… n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Trường Đại Học Sao đỏ tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

73

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 74: Page 4 76 vh12

Miền Tây Nam Bộ với các điều kiện tự nhiên đặc trưng là nơi hội tụ của những con kênh, rạch, sông ngòi chằng chịt. Gắn bó mật

thiết với môi trường sông nước ấy chính là những chiếc ghe, xuồng đã trở thành một biểu tượng không thể thiếu trong đời sống của người dân nơi đây.

Hình ảnh thân thương của ghe xuồng ấy đã được phản ánh khá sâu đậm trong văn hóa dân gian miền Tây Nam Bộ

1.Trong dân ca Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại

hò dưới nước như: hò đối đáp trên sông, hò chèo ghe, hò chèo thuyền ban đêm, chèo thuyền ban ngày, hò mái đoản (hò mái cụt), hò mái trường (hò mái dài). Nội dung hò trên sông cũng giống hò trên cạn, chỉ khác nhau ở chỗ thời gian gặp gỡ ngắn hơn nên không đối đáp giờ này qua giờ nọ và bắt đầu bằng những câu chào.

Hò chèo ghe là một biểu hiện khác của nền văn hóa dân gian gắn với sông nước. Ghe chở gạo, ghe chở cá, ghe bán buôn, ghe chở người đi làm thuê… đều trở thành ghe hò. Hầu hết các địa phương của vùng Đồng bằng sông Cửu Long đều có hò chèo

l PHẠM TẤN THIÊN

TRONGVĂN HOÁ

DÂN GIAN MIỀN TÂY

NAM BỘ

Hình tượng Ghe, Xuồng Sông nước miền Tây. Ảnh SGpt

74

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 75: Page 4 76 vh12

ghe. Nó đặc biệt phát triển ở Minh Hải, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long.

Khi lúa chín, hàng chục xuồng lớn nhỏ, mỗi xuồng năm ba nhân công nối đuôi nhau hết toán này đến toán khác, từ Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc xuống Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng mở đầu từ tháng 10 nông lịch đến gần cuối tháng giêng, nhiều khu vực ngã năm (Rạch Giá cũ), ngã bảy (Phụng Hiệp, Cần Thơ cũ) rộn ràng quán bánh tét, bánh lá dừa, hủ tiếu mở cửa ngày đêm, chưa kể những xuồng nhỏ bơi tới bơi lui bán chè, cháo.

Lưu hành nhiều loại hò của cả vùng Đồng bằng Sông Cửu Long như hò Sông Hậu, hò Bến Tre, hò Trà Vinh, hò Vĩnh Long, nhưng mỗi loại hò khi được sử dụng đều có pha trộn, giao thoa tiết tấu hay giai điệu để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế.

Kênh rạch đi vào tận trước cửa mỗi nhà. Mùa lũ và những đợt triều cường càng khó khăn cho người dân đi lại. Người dân vùng Đồng Tháp Mười còn nhớ câu hò quen thuộc:

“Dẫu xuồng ba lá lênh đênh

Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó điAnh ơi chớ ngại ngần chiNgồi xuồng ba lá giữa kỳ nước lên”.Ngoài ra, ghe bầu từ Phú Yên, Bình Định vào

Đồng bằng Sông Cửu Long cũng mang theo những câu hò, điệu lý mới lạ từ miền Trung.

Gắn với ghe, xuồng còn có nhiều bài vè mô tả lại các hoạt động sản xuất, mua bán: Vè đánh lưới, Vè đi biển, Vè lái rỗi, Vè đường sông Lục Tỉnh, Vè thương hồ…

2. Trong ca dao Sông nước cũng là nơi chứng kiến những biệt

ly đổ vỡ, những đợi chờ thất vọng, những đổi thay giữa bến và thuyền:

“Mồ cha đứa đốn cây bần,Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm” Hay:“Ghe lui khỏi bến còn dầm,Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây” Chiếc ghe cũng là hình ảnh của cuộc sống

thương hồ, trên đó có chức năng như một ngôi nhà di động. Phía sau là cuộc sống sinh hoạt của cả gia đình. Phía trước là dùng để chất hàng hóa bán. Cứ thế, chiếc ghe vào từng con kênh, con rạch, hết nơi này đến nơi khác. Hết hàng thì quay ra chợ bổ hàng rồi đi bán tiếp. Con người cũng

sống trôi nổi cùng chiếc ghe. Hình ảnh chiếc ghe, xuồng còn được người dân

nơi đây dùng để tỏ bày tình cảm của mình: “Anh thương em thì thương cho chắc,Có bỏ thì bỏ cho luôn.Đừng làm theo lối ghe buôn,Nay đi, mai ở thêm buồn dạ em.” Hoặc:“Nhớ chiếc xuồng xưa năm nào trên bến cũThương lắm câu hò kêu gọi khách sang sôngÁo trắng xuồng đưa mắt cười em khẽ gọiNgười thương ơi em vẫn đợi chờ”Hình ảnh sông nước giống như cái khung ảnh làm

tôn thêm vẻ đẹp cho những bức tranh về hạnh phúc lứa đôi, làm nhân chứng cho các cuộc thề bồi hẹn ước, đóng vai trò “gạch nối” giữa những mối tình.

3. Trong lễ hội Đua ghe là hoạt động thường diễn ra vào dịp Tết,

dịp lễ, cúng đình… Người ta thường tổ chức đua ghe giữa các thôn ấp với nhau. Ghe đua của người Việt là loại ghe Be, ghe Trảng Lườn. Trong khi đó ghe đua của người Khơme lại là ghe Ngo.

Sông nước miền Tây. Ảnh SGpt

75

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 76: Page 4 76 vh12

Hội đua ghe Ngo được tổ chức hàng năm ở Thành phố Sóc Trăng, những năm gần đây có nhiều địa phương đến tham gia như Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, thậm chí còn có đội ghe Ngo đến từ nước bạn Campuchia. Điều này chứng tỏ lễ hội gắn liền với môn thể thao truyền thống này đang phát triển mạnh mẽ, trở thành sự kiện văn hóa truyền thống lớn ở Việt Nam.

Một khía cạnh văn hóa liên quan đến ghe, xuồng đó là tín ngưỡng xung quanh loại phương tiện giao thông đường thủy đặc biệt này. Người đóng ghe thì có lễ cúng Ghim Lô, cúng Khai Nhãn, cúng Hạ Thuỷ, đại khái cầu cho mọi việc được hanh thông. Người sử dụng ghe thì cúng ở đầu mũi ghe cầu cho mua may bán đắt (dân thương hồ), đánh bắt được nhiều cá tôm (nghề hạ bạc), chở khách được an toàn (dân tàu đò)…

4. Trong đời sống tâm linh (tục vẽ mắt thuyền)Ghe, xuồng còn có một đặc điểm, trên mũi thường

có vẽ “mắt”, như một dấu hiệu cho biết nơi xuất xứ của chiếc ghe, xuồng đó do “lò” của ông chủ nào đóng, giống như “thương hiệu” của sản phẩm. “Mắt” ghe, xuồng mỗi vùng cũng mỗi khác, có “mắt” nhìn rất hiền, có “mắt” dữ tợn, có “mắt” nheo lại như cười vui, “mắt” khác lại cụp mi xuống vẻ e thẹn... Nhìn “mắt” ghe, xuồng cũng đã thấy như một khám phá thú vị ở miền sông nước Tây Nam Bộ.

Cư dân vùng sông nước xem con thuyền của mình như một “vật linh”, một sinh vật có hồn. Họ quan niệm con thuyền cũng như con người, do đó cần phải có mắt. Lễ mở mắt là một nghi thức khai tâm, một nghi thức thụ pháp.

Tục vẽ mắt cho ghe cũng xuất phát từ tâm tư tình cảm của con người sông nước. Họ tin rằng cặp mắt sẽ giúp cho thuyền tránh quái vật, thuồng luồng làm hại, giúp ngư dân tìm được nơi cá tôm.

Mắt ghe từ TP.Hồ Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng, mạn ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng chạy xung quanh Điều này khác với cách vẽ mắt thuyền ở các tỉnh vùng Trung Bộ và Nam Trung Bộ: thường có hình dẹt, dài và trông dữ tợn hơn.. Nhìn chung, sự khác biệt về hình dáng, màu sắc, đường nét của các con mắt ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, trình độ tay nghề ,quy định của từng nơi. Ghe ở Cà Mau nhãn và tròng hình thoi dẹp, đầu mắt nhọn, thường được vẽ hơn là chạm gỗ, một số mắt có tròng gần như hình tam giác đều có góc tròn, nhất là ở những chiếc vỏ lãi bằng nhựa composit.

Ghe của vùng Trà Vinh mắt có độ lớn vừa phải, tròng đen với hình ôval nằm ngay tâm mắt. Mắt ghe vùng An Giang có hình elip, tròng rất nhỏ, nằm gần về đầu mắt, mang ghe sơn màu xanh dương.

Ghe vùng Rạch Giá, Phú Quốc (Kiên Giang), vịnh Thái Lan thường có mắt tròn, sơn đen và đỏ trên nền xanh, nhưng lại nhìn cúi xuống như ghe câu Phú Quốc chẳng hạn.

Các loại ghe hàng, thường gọi là “Ghe Kiên Gi-ang” gốc Rạch Giá, hoạt động từ Rạch Giá đến Vũng Tàu, mắt tròn lớn và gần nhau. Ghe cửa miền Tây có mũi nhọn, mắt tròn to, có ghe vẽ hình âm dương nơi vị trí mắt thuyền. Ghe vùng Mỹ Tho (Tiền Giang) hai con mắt chạy sát về trước mũi thuyền.n

Bến sông. Ảnh SGpt

76

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA