nhóm 4(.doc

38
Nhóm 4: Thái Thị Mai Anh (Nhóm trưởng) Lưu Thị Huyền Trang Bùi Thị Nguyễn Kiều Cao Thị Hiền Thái Quang Mạnh Nguyễn Văn Nhiên Nguyễn Minh Trí Vũ Phước Thọ Hoàng Nguyễn Thúy Vy Nguyễn Thị Yến 1

Upload: nguyen-van-nhien

Post on 06-Aug-2015

42 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: Nhóm 4(.doc

Nhóm 4:

Thái Thị Mai Anh (Nhóm trưởng)

Lưu Thị Huyền Trang

Bùi Thị Nguyễn Kiều

Cao Thị Hiền

Thái Quang Mạnh

Nguyễn Văn Nhiên

Nguyễn Minh Trí

Vũ Phước Thọ

Hoàng Nguyễn Thúy Vy

Nguyễn Thị Yến

1

Page 2: Nhóm 4(.doc

Lời mở đầu Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới từ những năm 1986, chuyển nền

kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là sự chuyển đổi từ một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, mang nhiều tính tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.

Nhu cầu cần vốn để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi theo đó gia tăng đáng kể và liên tục. Trong hoàn cảnh đó, người dân đã nhận thấy nhu cầu cấp bách cần phải hợp tác, liên kiết lại để tồn tại.

Đảng và Nhà nước đã sớm nhận ra được điều này và đã có chủ trương giúp cho người dân xây dựng các tổ chức tín dụng hợp tác từ năm 1993. Bằng quyết định 390/Ttg ban hành ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức tín dụng hợp tác cần được thí điểm thành lập và tổ chức lại với tên gọi Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Theo đó, Nhà nước có thái độ và chính sách khuyến khích phát triển các QTDND.

Với nhu cầu của người dân xuất phát từ điều kiện thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với thái độ ủng hộ và khuyến khích của Đảng và Nhà nước cũng như với những cơ sở pháp lý nền tảng đã được ban hành thì việc phát triển các QTDND đã thực sự trở thành một tất yếu ở Việt Nam.

Cùng với sự phát triển của QTDND, phải có sự hỗ trợ của các phần mềm để tin học hoá các nghiệp vụ đang ngày càng trở nên phức tạp trong Quỹ. Do vậy, việc phát triển phần mềm cho phù hợp với điều kiện hiện tại của Quỹ là nhu cầu thiết yếu.

2

Page 3: Nhóm 4(.doc

Chương 1: Tổng quan về quỹ tín dụng nhân dân

1.1 Khái quát chung về Quỹ tín dụng nhân dân:

Quỹ tín dụng nhân dân là một đơn vị kinh doanh do ngân hàng lập để cho

người dân vay với lãi suất mà ngân hàng quy định.

Quỹ tín dụng tạo ra để người dân thuận tiện trong việc vay vốn, thường các

quỹ này được thành lập ở các phường, trong một tỉnh thành phố có thể có nhiều

quỹ tín dụng của các ngân hàng khác nhau.

Theo Ngân hàng Nhà nước, trong 4 năm qua, cả nước đã thành lập thêm 90

Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Như vậy, đến nay cả nước có tổng cộng 972

QTDND. Hoạt động của các QTDND cũng phát triển rất mạnh, tổ vốn hoạt

động trong 4 năm qua tăng từ 2.600 tỷ đồng lên 11.500 tỷ đồng (tăng 4,32 lần),

tiền gửi huy động từ 1.700 tỷ đồng tăng lên 8.000 tỷ đồng (tăng 4,7 lần), dư nợ

cho vay tăng từ 2.300 tỷ đồng lên 10.000 tỷ đồng (tăng 4,2 lần). Dư nợ quá hạn

giảm từ 3,42% xuống còn 0,5% trên tổng dư nợ cho vay. Tổng số thành viên

tăng từ 797.000 người lên 1.250.000 người.Hệ thống QTDND thời gian qua đã

góp phần quan trọng vào việc khai thác nguồn vốn tại chỗ, đáp ứng nhu cầu về

vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... cải thiện đời sống của các thành viên,

khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.( số liệu thống kê tính đến hết

ngày 28/12/2007).

Quỹ tín dụng nhân nhân dân được lập ra để thực hiện việc thu hút tiền gửi

và cho vay đối với mọi đối tượng có nhu cầu, kèm theo nhu cầu thế chấp tài sản.

Quỹ hoạt động dưới sự bảo trợ của ngân hàng nhà nước, lãi suất tiền gửi và cho

vay thường là linh hoạt.

Thành viên của quỹ là các cá nhân , các pháp nhân, thực chất là của quỹ là

cùng đóng góp vốn để kinh doanh tiền tệ. Trong điều kiện kinh tế thị trường và

lạm phát cao, hoạt động của quỹ tín dụng rất bấp bênh và rất dễ phá sản.

Trên thế giới, quỹ tín dụng xuất hiện trong khoảng thế kỷ 17-18 dưới nhiều

dạng khác nhau. Đó là các hợp tác xã tín dụng liên kết với những nhà sản xuất

nhỏ nhằm chống lại nạn cho vay nặng lãi.

Ở Việt Nam tính đến năm 1989 cả nước có khoảng 7700 quỹ tín dụng hoạt

động theo mô hình hợp tác xã.

Quỹ tín dụng là công cụ quan trọng để tạo lập một hệ thống kinh doanh tiền

tệ lành mạnh, xóa bỏ nạn cho vay nặng lãi , hình thành thị trường vốn, góp phần

thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển nông thôn.

3

Page 4: Nhóm 4(.doc

Hiện nay ở Việt Nam hiện có rất nhiều các tổ chức tín dụng, các quỹ tín

dụng như: Quỹ tín dụng nhân dân, quỹ tín dụng sinh viên, quỹ tín dụng học

tập...

1.2. Quỹ tín dụng nhân dân trung ương:

1.2.1 Khái niệm và bản chất của quỹ tín dụng nhân dân trung ương:

1.2.1.1 Khái niệm:

Quỹ tín dụng trung ương gọi tắt là QTDTW tên tiếng Anh: Central People’s Credit Fund (viết tắt là CCF) là liên hiệp QTDND cấp quốc gia hoạt động trong lĩnh vực nhân dân. Quỹ tín dụng nhân dân khu vực tự nguyện tham gia góp vốn điều lệ và đại diện phần vốn Nhà nước giao cho Quỹ tín dụng trung ương được thành lập và hoạt động vì mục tiêu tương trợ, an toàn và phát triển của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân.

1.2.1.2 Bản chất:

Quỹ tín dụng trung ương là tổ chức kinh tế, hoạt động theo nguyên tắc hợp tác xã có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có bảng tổng kết tài sản, có con dấu riêng, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh về mọi hoạt động của mình trước pháp luật và thành viên. Quỹ tín dụng trung ương được mở chi nhánh văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài phù hợp với những quy định của pháp luật khi được thống đốc ngân hàng Nhà nước cho phép.

1.2.2 Quá trình hình thành và phát triển của QTDTW :

Thực hiện Quyết định 390/QĐ - TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép triển khai đề án thí điểm thành lập QTDND Việt Nam. Được sự chỉ đạo và chấp thuận của Ban chỉ đạo Trung ương, hệ thống QTDND Việt Nam đã ra đời và đi vào hoạt động từ năm 1993. Cho tới nay, sau hơn 10 năm hoạt động, hệ thống QTDND Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như đã thể hiện được vai trò của mình trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên địa bàn nông thôn nói riêng.

QTDTW được bắt đầu hoạt động theo quyết định số 162/QĐ-NH ngày 8/6/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo quy định của Nghị định 48/CP, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là tổ chức tín dụng hợp tác do các QTDND cơ sở, các tổ chức tín dụng và các đối tượng khác tham gia góp vốn thành lập, được Nhà nước hỗ trợ vốn để hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, nhằm mục đích hỗ trợ và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống QTDND. Theo đó, QTDTW là một ngân hàng đầu mối ở cấp quốc gia của hệ thống QTDND. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của QTDTW

4

Page 5: Nhóm 4(.doc

cũng giống như đối với các QTDND cơ sở. QTDND Trung ương được thành lập và khai trương hoạt động ngày 5/8/1995 với sự hỗ trợ 80 tỷ đồng của Nhà nước và 20 tỉ đồng của 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh.

Thực hiện chỉ thị 57/BCT của Bộ chính trị, năm 2001, QTDTW đã chuyển đổi 21 QTDKV thành các chi nhánh của mình. Hiện nay QTDTW bao gồm 1 trụ sở chính tại Hà Nội và 24 chi nhánh khu vực tại các tỉnh, thành phố, phục vụ toàn bộ các QTDND cơ sở tại 52 tỉnh. Với vai trò đầu mối, đại diện cho toàn hệ thống QTDND ở trong nước và quốc tế, QTD nhân dân TW cũng đã thể hiện bước chuyển mình đáng kể, làm khá tốt vai trò điều hoà vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó, QTDTW cũng không ngừng đẩy mạnh và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối tác ... để phát triển hoạt động, vững bước trên đôi chân của chính mình, khẳng định vị trí một định chế tài chính ngân hàng trong thời kỳ đổi mới.

Có thể chia quá trình hình thành và phát triển của Hệ thống QTDND thành 3 giai đoạn:

1.2.2.1 Giai đoạn thí điểm (1993 - 1999):

Đây là giai đoạn phát triển nhanh chóng với sự ra đời của các QTDND. Hệ thống QTDND giai đoạn này được tổ chức theo 3 cấp: QTDTW, QTD khu vực, và các QTDND cơ sở. Đến cuối giai đoạn, hệ thống QTDND có 981 QTDND cơ sở, 21 QTD khu vực và 1 QTDTW với gần 704.000 thành viên hoạt động tại 53 trong tổng số 61 tỉnh, thành phố. Sau một thời gian hoạt động, hệ thống đã bộc lộ một số tồn tại, yếu kém: một số QTDND cơ sở cho vay trái quy định dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn; năng lực tài chính yếu, vốn điều lệ thấp và suy giảm; cán bộ thiếu năng lực trong quản trị, điều hành và kiểm soát; thiếu tính liên kết hệ thống...

1.2.2.2 Giai đoạn củng cố, chấn chỉnh (2000 - 2003):

Dưới sự chỉ đạo của NHNN, hệ thống QTDND giai đoạn này được củng cố, chấn chỉnh một cách quyết liệt thông qua một loạt các biện pháp gồm thu hồi giấy phép của các QTDND không đủ điều kiện; củng cố các QTDND yếu kém có nguy cơ mất khả năng thanh toán và thanh khoản; chấn chỉnh về tổ chức và hoạt động; Mô hình chuyển từ 3 cấp sang 2 cấp: Quỹ Tín dụng Trung ương (QTDTW) và QTDND cơ sở. Trong 3 năm thực hiện Chỉ thị 57, hệ thống QTDND đã được tập trung củng cố chấn chỉnh, đặc biệt là những tồn tại trong công tác quản trị, điều hành và kiểm soát. Nhờ vậy, số QTDND hoạt động bình thường đã tăng từ 61,35% lên 97,65% và số QTDND yếu kém giảm xuống còn 2,35%. Tỷ lệ nợ quá hạn của các QTDND cơ sở đã giảm từ 3,72% xuống còn 0,84% tổng dư nợ. Hầu hết cán bộ QTDND có phẩm chất, năng lực yếu bị thay thế. Hơn 2.500 cán bộ, trong đó có trên 1.700 cán bộ chủ chốt của QTDND được đào tạo kiến thức chuyên môn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của

5

Page 6: Nhóm 4(.doc

các QTDND...Đến 31/12/2004, hệ thống QTDND được tổ chức thành QTDTW gồm 1 hội sở chính và 24 chi nhánh và 904 QTDND cơ sở hoạt động trên 53tỉnh, thành phố, thu hót 966.540 thành viên tham gia.

1.2.2.3 Giai đoạn tiếp tục hoàn thiện và phát triển (từ 2004):

Ngày 28/6/2004,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam(NHNN) đã tổ chức Hội nghị sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống Quỹ tín dụng Nhân dân (QTDND). Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phan Văn Khải đã biểu dương vai trò tích cực của hệ thống QTDND trong việc huy động nguồn vốn tại chỗ, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Thủ tướng nhấn mạnh những kết quả đáng khích lệ mà hệ thống QTDND đã đạt được sau 3 năm củng cố. Đó là khối lượng vốn huy động và cho vay tăng nhanh, chất lượng hoạt động được cải thiện, nguyên tắc QTDND là tổ chức tín dụng hợp tác được xác lập, mô hình tổ chức toàn hệ thống được hoàn thiện một bước. Đặc biệt, các điểm nóng đã được xử lý kịp thời, không gây xáo trộn trong đời sống dân cư và trong hoạt động của hệ thống. Hệ thống QTDND ngày càng tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các cấp, ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân.

1.2.3 Cơ cấu tổ chức của Quỹ tín dụng Trung ương:

Từ sau khi hệ thống QTDND chuyển sang mô hình 2 cấp, QTDTW đã có sự sáp nhập các QTDKV thành chi nhánh QTDTW và hiện nay, QTDTW có sơ đồ bộ máy bao gồm Hội sở chính và các chi nhánh với mối liên hệ tương đối chặt chẽ và hợp lý.

Ban kiểm soát và 13 phòng ban nghiệp vụ: phòng tín dụng, phòng giao dịch, phòng quan hệ quốc tế và quản lý dự án, phòng tài chính và quản lý tài sản, phòng tin học, phòng kế toán, phòng thanh toán, văn phòng, phòng ngân quỹ, phòng kiểm tra nội bộ, phòng quản lý và giám sát các chỉ tiêu an toàn, văn phòng và các bàn huy động vốn. Trong đó, mỗi phòng chức năng tại Hội sở đảm nhiệm một vai trò và chức năng riêng biệt nhằm giúp lãnh đạo QTDTW vạch ra các phương hướng hoạt động, các mục tiêu nhiệm vụ trong từng thời kỳ phát triển của QTDTW nói riêng và của toàn hệ thống QTDND nói chung. Bên cạnh đó là các Chi nhánh QTDTW có vai trò trực tiếp điều hoà vốn trong toàn bộ hệ thống vì các chi nhánh QTDTW có mạng lưới hoạt động ngày càng được mở

rộng, hiện nay đã có 24 chi nhánh QTDTW được thành lập trên cả nước. 1.3. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:1.3.1 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở :

1.3.1.1Khái niệm:

6

Page 7: Nhóm 4(.doc

QTDND cơ sở là tổ chức tín dụng hợp tác, do các thành viên trong địa bàn tình nguyện thành lập và hoạt động.ở Việt Nam, theo quy định của nghị định 48/2001/NĐ - CP ngày 13/08/2001 của Chính phủ, QTDND có mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên

QTDND cơ sở Là một pháp nhân, hạch toán độc lập, được xây dựng trên địa bàn xã, phường, thị trấn, liên xã, liên phường, cụm kinh tế có đủ điều kiện, là nơi trực tiếp giao dịch với thành viên và khách hàng. Thành viên tự nguyện góp vốn và gia nhập QTDND cơ sở. Khi QTDND cơ sở góp đủ vốn cổ phần theo quy định được trở thành thành viên của QTDND khu vực, được hưởng mọi quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với QTDND khu vực.

1.3.1.2 Bản chất của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

QTDND cơ sở là một tổ chức tín dụng hợp tác, hoạt động trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, với mục tiêu là tương trợ giữa các thành viên. QTDND cơ sở là một hình thức tổ chức kinh tế, một bộ phận của thành phần kinh tế Tập thể trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế. Nó được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động. Nói cách khác, đó là một tổ chức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực tín dụng.

1.3.1.3 Đặc điểm của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

QTDND cơ sở được xây dựng tại địa bàn xã, phường, liên xã, liên phường, cụm kinh tế có đủ điều kiện, là một tổ chức không chỉ về kinh tế mà còn là tổ chức xã hội gồm những người trên cùng địa bàn, có cùng tập quán, quan hệ làng xóm gần gũi, huyết tộc, dòng họ, tự trọng cao. Mỗi quỹ là một đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, là nơi trực tiếp giao dịch với khách hàng và thành viên.

QTDND cơ sở là loại hình tổ chức tín dụng hợp tác, hoạt động với mục tiêu hỗ trợ thành viên về các dịch vụ tín dụng, ngân hàng. Điều đó được hiểu rằng, QTDND cơ sở không phải là tổ chức hoạt động vì mục đích tương thân, tương ái mà chỉ là phương tiện của các thành viên để hỗ trợ họ trong các lĩnh vực như huy động, cho vay và cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác. Đây là mục tiêu chủ yếu của QTDND cơ sở và là điểm khác biệt nhất giữa QTDND cơ sở dưới tư cách pháp nhân hợp tác xã với các tổ chức tín dụng khác. QTDND cơ sở không theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận như các tổ chức tín dụng khác mà mục tiêu của họ là tối đa hoá lợi ích thành viên. Mặt khác chủ sở hữu, cổ đông hay thành viên của các tổ chức tín dụng hoặc các ngân hàng khác thành lập doanh nghiệp trước tiên là để tìm cách thu về lợi nhuận tối đa cho họ thì QTDND cơ sở được các thành viên xây dựng để trước tiên cung cấp dịch vụ tín dụng, ngân hàng chứ không phải trước tiên là tìm cách thu nhiều cổ tức, mặc dù họ cũng là chủ sở hữu. Điều này thể hiện ở việc thoả mãn đồng thời nhưng trước

7

Page 8: Nhóm 4(.doc

hết là các nhu cầu của thành viên với tư cách là khách hàng, người sử dụng các dịch vụ của QTDND cơ sở và sau đó mới đến nhu cầu của thành viên với tư cách là chủ sở hữu, người góp vốn xây dựng QTDND cơ sở.

QTDND cơ sở, để thực hiện được mục tiêu trên, phải tạo ra được các dịch vụ tín dụng, ngân hàng, đáp ứng được các dịch vụ này cho các thành viên và đảm bảo được hoạt động lâu dài. Muốn thực hiện được điều đó, QTDND cơ sở cần định hướng thực hiện đồng thời ba mục tiêu: hoạt động phải luôn đảm bảo khả năng chi trả, an toàn và phải sinh lời. Các mục tiêu này gắn kết chặt chẽ, có quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau.

Quản lý và điều hành hoạt động của QTDND cơ sở phải tuân theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, các thành viên được tham gia quản lý, dân chủ bàn bạc, đóng góp ý kiến để xác định mục tiêu, phương hướng hoạt động, chiến lược phát triển và các quyết định cụ thể phù hợp với thực tế của đơn vị mình.

Hơn nữa phần lớn thành viên của QTDND cơ sở vừa là người gửi tiền, lại vừa là người đi vay tiền nên việc quyết định về chênh lệch lãi suất cũng phải rất hợp lý, đảm bảo hài hoà lợi ích của thành viên, bù đắp được chi phí và có tích luỹ. Vì vậy các chi phí dịch vụ của QTDND cơ sở tiết kiệm hơn, ít rủi ro hơn.

Cán bộ của QTDND cơ sở là những người ở tại địa phương hoạt động tại chỗ, đã quen với phong tục tập quán, hiểu rõ về khách hàng, thành viên nắm bắt nhanh được chủ trương, chính sách đầu tư phát triển kinh tế tại địa phương đó nên thuận lợi hơn nhiều so với các tổ chức tín dụng khác trên cùng địa bàn.

QTDND cơ sở Là một pháp nhân, hạch toán độc lập, được xây dựng trên địa bàn xã, phường, thị trấn, liên xã, liên phường, cụm kinh tế có đủ điều kiện, là nơi trực tiếp giao dịch với thành viên và khách hàng. Thành viên tự nguyện góp vốn và gia nhập QTDND cơ sở. Khi QTDND cơ sở góp đủ vốn cổ phần theo quy định được trở thành thành viên của QTDND khu vực, được hưởng mọi quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với QTDND khu vực.

1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ của QTDND cơ sở:

QTDND cơ sở có hai chức năng cơ bản:

Một là: Thực hiện chức năng huy động vốn.

Điều 20 chương 1 Luật Các tổ chức tín dụng quy định: Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo luật nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống, khai thác và sử dụng vốn đáp ứng nhu cầu của mọi thành viên.

Huy động vốn của QTDND cơ sở bao gồm:

8

Page 9: Nhóm 4(.doc

Vốn góp của các thành viên

Huy động vốn tiết kiệm, nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể.

Vốn vay từ các dự án: thông qua QTDND Trung ương làm đầu mối để tham gia các dự án đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Nhận vốn điều hoà từ QTDND Trung ương (trước năm 2001 là QTDND khu vực).

Thông qua các chức năng QTDND cơ sở đã góp phần chuyển hóa sử dụng nguồn vốn, đáp ứng sản xuất và lưu thông hàng hoá trong dân cư.

Hai là: Chức năng cho vay.

Sử dụng vốn ở QTDND cơ sở chủ yếu là cho vay thành viên, đây cũng là chức năng cơ bản của QTDND cơ sở. Với vốn huy động được từ các nguồn, QTDND cơ sở cho vay hỗ trợ các thành viên là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, trên địa bàn nhằm góp phần thúc đẩy việc mở rộng, khôi phục ngành nghề, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống, hạn chế cho vay nặng lãi ở vùng nông nghiệp, nông thôn.

Ngoài hai chức năng, nhiệm vụ cơ bản trên, QTDND cơ sở còn thực hiện chức năng tư vấn chăm sóc thành viên.

Phần lớn thành viên QTDND cơ sở là hộ sản xuất, kinh doanh mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ở khu vực nông thôn, có nhiều hạn chế nên ngoài nhiệm vụ huy động vốn và cho vay, thì QTDND cơ sở còn thường xuyên tư vấn cho thành viên như: Phương án, dự án sản xuất kinh doanh để có hiệu quả, số vốn cần đầu tư, thời gian sử dụng vốn … nhằm giúp thành viên phát triển kinh doanh và sử dụng vốn có hiệu quả, hạn chế tối đa nhất rủi ro trong tín dụng.

Mặt khác QTDND cơ sở quan tâm chăm sóc thành viên lúc khó khăn, hoạn nạn, chia sẻ với thành viên lúc thiên tai, dịch bệnh… Vì vậy ngày càng tạo nên sự gắn kết thành viên với QTDND cơ sở và giữa các thành viên với nhau.

1.3.3 Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

1.3.3.1 Mục tiêu hoạt động của QTDND cơ sở:

Mục tiêu hoạt động của QTDND cơ sở chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và của từng thành viên, giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, có nghĩa là QTDND cơ sở thực hiện huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các nguồn vốn khác hoặc của những thành viên có điều kiện kinh tế để hỗ trợ cho những thành viên nghèo, thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, rất kịp thời đáp

9

Page 10: Nhóm 4(.doc

ứng cho mùa vụ, hoặc là những điều kiện sinh hoạt khác tránh được tình trạng phải đi vay nặng lãi. Hoạt động của QTDND cơ sở phải đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ để phát triển.

1.3.3.2 Nguyên tắc hoạt động của QTDND cơ sở:

QTDND cơ sở muốn thực hiện được mục tiêu hỗ trợ thành viên thì phải đảm bảo những nguyên tắc sau:

Thứ nhất: Nguyên tắc tự nguyện gia nhập và rút khỏi QTDND: Đây là nguyên tắc rất cơ bản của hoạt động QTDND cơ sở vì chỉ có những gì thành viên tự nguyện làm mới có cơ sở phát triển và tồn tại lâu dài. Nguyên tắc tự nguyện nói lên thành viên hoàn toàn tự nguyện khi họ thấy có lợi và nhu cầu của họ được thoả mãn mà không phải bị ép buộc, cưỡng chế khi xin gia nhập hay rút khỏi thành viên QTDND cơ sở. Họ là người tự quyết định về việc gia nhập hay rút khỏi QTDND cơ sở. vì chỉ khi tự nguyện hợp tác, tự nguyện tham gia, các thành viên mới quan tâm, nhiệt tình và hết lòng tâm huyết với QTDND cơ sở , và như vậy QTDND cơ sở mới có cơ sở vững chắc để tập hợp được sức mạnh lâu dài về vật chất và tinh thần từ các thành viên cho sự phát triển. Tuy nhiên muốn họ trở thành thành viên của QTDND cơ sở thì nhiệm vụ của các cơ quan chức năng cấp uỷ, chính quyền địa phương, các đoàn thể phải tuyên truyền làm rõ lợi ích thiết thực về mô hình hoạt động của QTDND. Phải tích cực tuyên truyền, thuyết phục để họ hiểu được quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích của họ khi tham gia QTDND cơ sở. Đây cũng chính là thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ hai: Nguyên tắc quản lý dân chủ và bình đẳng; điều này có nghĩa là các thành viên được tự mình toàn quyền quản lý, quyết định các vấn đề của QTDND cơ sở trong khuôn khổ và theo các quy định của pháp luật, mà không chịu bất cứ sự can thiệp, chi phối hay sự chỉ đạo nào từ bên ngoài. Các thành viên tự quản lý thông qua việc tham gia và chỉ có họ duy nhất mới được quyền tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của QTDND cơ sở, đó là Đại hội thành viên hoặc là Đại hội đại biểu thành viên; tại Đại hội, thành viên thể hiện quyền và trách nhiệm của mình để lựa chọn, đề cử, ứng cử, bầu cử đề nghị chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm ban điều hành, ban kiểm soát của QTDND cơ sở nhằm thực hiện quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của QTDND cơ sở. Tự quản lý ở đây được thực hiện trên nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, mọi thành viên của QTDND cơ sở đều có quyền và trách nhiệm tham gia quản lý và quyết định như nhau, không phân biệt giầu nghèo, địa vị xã hội … và đặc biệt là không phân biệt số vốn góp vào QTDND cơ sở. Người góp nhiều cũng như người góp ít đều chỉ có một quyền biểu quyết ngang nhau. Đây

10

Page 11: Nhóm 4(.doc

cũng là điểm khác biệt cơ bản trong quản lý của QTDND cơ sở so với các tổ chức tín dụng khác.

Nguyên tắc tự quản lý dân chủ, bình đẳng đã đề cao sự tham gia, vai trò cá nhân phát huy tinh thần trách nhiệm của tất cả mọi thành viên vào tập thể để tạo sức mạnh chung lớn hơn, giúp họ giải quyết các vấn đề đang vướng mắc. Nguyên tắc tự quản lý, tham gia điều hành và giám sát sẽ góp phần đảm bảo cho QTDND luôn bám sát mục tiêu tương trợ thành viên.

Thứ ba: Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: Điều này thể hiện các chủ sở hữu là thành viên phải đóng góp đủ số vốn cần thiết, tối thiểu phải ở mức vốn theo quy định của Ngân hàng nhà nước, để cho QTDND cơ sở hoạt động, tự chịu trách nhiệm về sự tồn tại, duy trì hoạt động và kết quả hoạt động của mình, đoàn kết thống nhất cao cùng chịu trách nhiệm với mọi hoạt động của Quỹ. Thực hiện nghĩa vụ đối với QTDND cơ sở, sự tự chịu trách nhiệm, không phải là vô hạn mà chỉ tự chịu trách nhiệm bằng số vốn góp vào QTDND cơ sở và các nghĩa vụ thoả thuận đóng góp bổ sung khác nếu được quy định trong điều lệ của từng QTDND cơ sở. Như vậy, nếu QTDND cơ sở nào hoạt động kinh doanh bị thua lỗ thì thành viên không chỉ thiệt thòi trong việc hưởng các dịch vụ ngân hàng mà còn phải chịu thiệt thòi về tài chính như: Lợi tức vốn góp … cũng như đối với chủ sở hữu của bất kỳ loại hình kinh tế nào khác. Chính vì vậy nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi vừa là động lực vừa tạo sức ép đối với các thành viên phải tham gia tích cực vào công tác quản lý và giám sát hoạt động của QTDND.

Thứ tư: Nguyên tắc chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của thành viên và sự phát triển của QTDND cơ sở, có nghĩa là kết thúc năm tài chính, sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế Nhà nước, lãi còn lại được phân phối như thế nào cho hợp lý để vừa tăng tích luỹ mở rộng, và duy trì cho hoạt động vừa đảm bảo lợi ích của thành viên, khuyến khích thành viên tích cực tham gia xây dựng Quỹ. Mặt khác phải đảm bảo đúng theo quy định của bộ tài chính về phân phối lợi nhuận của QTDND cơ sở và được đại hội thành viên quyết định hoặc đại hội đại biểu thành viên.

Thứ năm: Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng: QTDND cơ sở hoạt động và phát triển dựa trên sự tập hợp sức mạnh của các thành viên, tự nguyện cùng nhau góp vốn để thành lập, phát huy sức mạnh nội lực của thành viên với mong muốn là duy trì và ngày càng phát triển của QTDND cơ sở để thành viên thông qua đó nhận được sự hỗ trợ, các dịch vụ tín dụng, Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống một cách nhanh hơn, tốt hơn. Phần lớn thành viên QTDND cơ sở ở nông nghiệp, nông thôn, có nhiều khó khăn trong việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh vì: tài sản

11

Page 12: Nhóm 4(.doc

thế chấp còn khiêm tốn, đi lại xa…, tham gia vào QTDND cơ sở là sự cần thiết và có lợi cho thành viên, nên họ có ý thức hợp tác với nhau, tương trợ lẫn nhau. Như vậy các thành viên QTDND cơ sở sẵn sàng đoàn kết, tương thân, tương ái, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong quỹ và trong cộng đồng xã hội, nhờ đó QTDND đã phát huy được tác dụng tạo ra thế mạnh cho hoạt động của mình phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống QTDND và các nguyên tắc hoạt động trên .

1.3.4 Hoạt động chủ yếu và vai trò của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn:

Những hoạt động chủ yếu của QTDND cơ sở bao gồm như sau:

Thứ nhất, huy động vốn: QTDND cơ sở được huy động vốn góp của thành viên gồm vốn cổ phần xác lập và cổ phần thường xuyên. Đặc điểm của nguồn vốn này là chỉ huy động của thành viên. Đối với nguồn vốn huy động tiết kiệm, QTDND cơ sở được nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn của thành viên và người ngoài thành viên kể cả cá nhân và tổ chức kinh tế kể cả trong địa bàn và ngoài địa bàn.

QTDND cơ sở được vay vốn từ các nguồn vốn dự án của Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, … Thông qua QTDND Trung ương làm đầu mối, được nhận vốn điều hoà từ Quỹ tín dụng Trung ương và được khai thác các nguồn khác như: Vốn tài trợ của các tổ chức ,cá nhân trong nước và nước ngoài, các nguồn vốn uỷ thác cho vay…. theo quy định của ngân hàng Nhà nước.

Thứ hai, cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.

Hoạt động cho vay theo nghĩa phổ biến là quan hệ vay mượn về vốn giữa QTDND cơ sở với các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi.

Cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất của QTDND cơ sở, đem lại nguồn thu nhập chính cho QTDND cơ sở và cũng là hoạt động có rủi ro tiềm ẩn cao nhất. Có thể nói rằng hoạt động thành công của một QTDND cơ sở tuỳ thuộc vào hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay được an toàn sẽ đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín dụng nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Vì vậy QTDND cơ sở nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung khi cho vay luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải đảm bảo an toàn nguồn vốn đồng thời đảm bảo khả năng sinh lời của nguồn vốn đó.

Đối với QTDND cơ sở, đối tượng cho vay phải là thành viên của QTDND cơ sở theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đây là điểm khác biệt nhất so với các tổ chức tín dụng khác.

Thứ ba, chăm sóc thành viên:

12

Page 13: Nhóm 4(.doc

Khác với các tổ chức tín dụng khác, QTDND cơ sở ra đời là do thành viên tự nguyện góp vốn và gia nhập, họ vừa là chủ vừa là khách hàng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nên giữa QTDND cơ sở với thành viên có mối quan hệ rất khăng khít, gần gủi và luôn gắn bó với nhau. Vì vậy, QTDND cơ sở thực hiện tốt công tác chăm sóc thành viên: Thăm hỏi lúc thành viên ốm đau, hoạn nạn, chia sẻ khi thành viên gặp khó khăn, tư vấn về quản lý kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình… Chính vì vậy cán bộ QTDND cơ sở ngoài trình độ về chuyên môn, cần phải có trình độ hiểu biết về kiến thức xã hội và các mặt khác… Đặc biệt là có tâm huyết trong công việc, nhiệt tình, trách nhiệm thì mới đáp ứng được nhu cầu đặt ra.

Thứ tư, phân phối lợi nhuận.

Hàng năm QTDND cơ sở phải tổ chức Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu thành viên (Theo điều lệ QTDND cơ sở) để thực hiện công khai dân chủ về kết quả kinh doanh của năm tài chính. Đại hội quyết định phân phối lợi nhuận, lợi tức vốn góp… trên cơ sở kết quả kinh doanh và pháp luật quy định.

Ngoài những hoạt động trên thì QTDND cơ sở còn tham gia nhiều hoạt động khác tại địa phương như: Tham gia hoạt động từ thiện, tham gia đóng góp vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương…

1.3.5 Vai trò của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh:

Hơn 20 năm đổi mới của đất nước, mô hình hệ thống QTDND nói chung và QTDND cơ sở nói riêng tuy còn rất non trẻ và khó khăn nhưng đã bước đầu thể hiện vai trò của mình trong từng địa phương và cộng đồng xã hội.

Trước hết đối với địa phương QTDND cơ sở ra đời đã góp phần cung cấp các dịch vụ tín dụng, ngân hàng cho thành viên và dân cư trên địa bàn. Bất cứ người dân nào từ 18 tuổi trở lên không vi phạm pháp luật đều được quyền gia nhập QTDND cơ sở và sẽ được hưởng các sản phẩm dịch vụ của QTDND cơ sở. Với tư cách vừa là thành viên, vừa là khách hàng, QTDND cơ sở vừa là người quản lý một phần tài sản của thành viên, vừa là nhà cung cấp vốn cho người dân trên địa bàn nên đảm bảo tính ổn định và lâu dài, mặt khác qua hoạt động của QTDND cơ sở, ý thức tiết kiệm và tích luỹ của người dân, của thành viên được nâng lên, những đồng vốn nhàn rỗi, vốn tiết kiệm được huy động để đưa vào đầu tư phục vụ cho phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, dịch vụ tại các địa phương. Thông qua các hoạt động tư vấn, hỗ trợ cung cấp thông tin của QTDND mà nhận thức của thành viên cũng được nâng lên, các tệ nạn cho vay nặng lãi, hụi họ được hạn chế đến mức tối đa; ý thức sử dụng vốn; kinh doanh; phát triển sản xuất … được cải thiện rõ rệt. Tỉnh Thanh Hoá là một minh chứng hiện nay có 42 QTDND với gần 40.000 thành viên tham gia tương ứng với gần 40.000 hộ

13

Page 14: Nhóm 4(.doc

gia đình, vì thông thường mỗi hộ có một người đại diện chủ hộ tham gia thành viên QTDND cơ sở. Bình quân mỗi QTDND cơ sở trên địa bàn là 883 hộ được hưởng dịch vụ ngân hàng của QTDND cơ sở. Điều đó sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo thêm nguồn lực mạnh mẽ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Đặc biệt góp phần hổ trợ tích cực cho địa phương chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng trong nông nghiệp, nông thôn, góp phần tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo có hiệu quả trên địa bàn.

Điều đáng chú ý là QTDND cơ sở hoạt động với tư cách như là một doanh nghiệp trên địa bàn, nên hàng năm hệ thống QTDND cơ sở đã góp một phần đáng kể các khoản thuế cho ngân sách địa phương, trực tiếp tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở xã, phường, hỗ trợ đắc lực nhất cho các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ là thành viên một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và góp vào tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều năm qua thực tiễn những kết quả đạt được của hệ thống QTDND cơ sở trên địa bàn đã khẳng định vai trò của hệ thống tín dụng hợp tác đối với địa bàn nông nghiệp, nông thôn. QTDND cơ sở là một trong những yếu tố kinh tế quan trọng góp phần nâng cao đời sống, thu nhập của người dân ở vùng nông thôn, tạo công ăn việc làm, đem lại ổn định trật tự chính trị, xã hội trên địa bàn.

Thứ hai, đối với thành viên: Mô hình QTDND cơ sở hình thành và xuất phát hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, là tổ chức liên kết hợp tác của các thành viên, cá nhân, hộ gia đình trên cùng địa bàn, khả năng hợp tác trợ giúp lẫn nhau là rất thuận lợi. Thông qua QTDND cơ sở, các thành viên có thể hỗ trợ và có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ của thị trường tín dụng, ngân hàng phù hợp với khả năng điều kiện kinh tế của thành viên. Mặt khác thành viên của QTDND cơ sở còn được tư vấn, chăm sóc, cung cấp thông tin, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, ngành nghề; và thành viên QTDND cơ sở với tư cách là chủ sở hữu được chia cổ tức, được quyền tham gia biểu quyết bầu ban điều hành và ban kiểm soát của quỹ, tham gia quyết định các chính sách và các phương án phát triển kinh doanh của QTDND cơ sở thông qua đại hội thành viên hoặc đại hội đại biểu thành viên hàng năm.

1.3.6 Cho vay tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn tỉnh:

1.3.6.1 Hình thức cho vay tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

Cho vay là hoạt động quan trọng của QTDND cơ sở, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, đem lại nguồn thu chính cho QTDND cơ sở và cũng là hoạt động có tiềm ẩn rủi ro cao nhất, có thể nói thành công hay thất bại của QTDND cơ sở tuỳ thuộc chủ yếu vào chức năng cho vay.

14

Page 15: Nhóm 4(.doc

Cho vay có nghĩa là quan hệ vay mượn về vốn giữa QTDND cơ sở với các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp là thành viên QTDND cơ sở theo nguyên tắc có hoàn trả (cả vốn và lãi).

Nội dung cơ bản của khái niệm cho vay là quan hệ vay mượn về vốn giữa hai đối tác, một đối tác là chủ thể cho vay, còn đối tác khác là người đi vay và có thể hoán đổi vị trí cho nhau theo từng trường hợp cụ thể. Sự chuyển dịch vốn giữa hai đối tác là sự chuyển dịch quyền sử dụng vốn tạm thời được xác định bởi thời hạn do hai bên thoả thuận, hết thời hạn, vốn được hoàn trả lại kèm theo lãi cho đối tác sở hữu vốn đó và quan hệ giữa các bên vay và cho vay đều bị ràng buộc bởi pháp luật hiện hành .

1.3.6.2 Hình thức cho vay ở Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

Thứ nhất, cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Đối với QTDND cơ sở, hình thức cho vay không có đảm bảo là chủ yếu vì đối tượng vay vốn là thành viên của QTDND cơ sở, thường cho vay những món nhỏ và là những thành viên có uy tín, có quan hệ sòng phằng về tài chính.

Thứ hai, cho vay có đảm bảo: là loại hình cho vay khi QTDND cơ sở cho vay đòi hỏi người vay (thành viên) phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, điểm khác với các tổ chức tín dụng khác là: dù người vay có tài sản cầm cố thế chấp nhưng quy định bắt buộc người vay đó phải là thành viên của QTDND cơ sở thì mới được vay vốn.

Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn của thành viên, QTDND cơ sở cho vay theo thời hạn như sau:

Thứ nhất, cho vay ngắn hạn: bao gồm các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn hạn của thành viên.

Thứ hai, cho vay trung hạn: bao gồm các khoản cho vay có thời gian từ trên 12 tháng đến 60 tháng, nhằm đáp ứng nhu cầu của thành viên để mua sắm tài sản cố định, cải tiến thiết bị, những dự án đầu tư sản xuất như là xây dựng trang trại, vườn đồi…

Thứ ba, cho vay dài hạn: bao gồm các khoản cho vay có thời gian trên 60 tháng, nhằm đáp ứng nhu cầu của thành viên và có thời hạn thu hồi vốn chậm hơn.

Hiện nay ở QTDND cơ sở hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu vì: ở khu vực nông nghiệp nông thôn phần lớn nhu cầu vay vốn của thành viên là phát triển sản xuất chăn nuôi theo tính chất mùa vụ. Còn nhu cầu của một số thành viên đầu tư cho các dự án, hoặc đầu tư vào tài sản cố định tỉ lệ chưa nhiều. Đặc biệt là cho vay dài hạn ở QTDND cơ sở còn quá ít. Mặt khác QTDND cơ sở

15

Page 16: Nhóm 4(.doc

chưa khai thác được nguồn vốn để đáp ứng đủ nhu cầu vốn trung và dài hạn đối với thành viên.

1.3.6.3 Ưu nhược điểm của cho vay tín dụng tại quỹ tín dụng nhân dân cơ sở:

1.3.6.3.1 Hoạt động cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở có những ưu điểm như sau:

Thứ nhất, quy trình thẩm định cho vay nhanh, thủ tục đơn giản hơn đáp ứng rất nhanh nhu cầu vay vốn của thành viên: QTDND cơ sở địa bàn hoạt động gần và sát thành viên, đã cùng sinh hoạt với thành viên nên trên cơ sở đó nắm chắc về tình hình khách hàng (thành viên), năng lực tài chính, tư cách, mục đích vay vốn, số vốn cần thiết để đầu tư có hiệu quả, thời gian thu hồi vốn…

Thứ hai, nguồn vốn tín dụng tại QTDND cơ sở đầu tư cho vay thành viên hiệu quả sử dụng vốn cao vì: phần lớn là thành viên vay vốn tại QTDND cơ sở những món vay nhỏ mục đích chủ yếu là phát triển sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh nhỏ ở địa bàn nông thôn, mà tính chất của QTDND cơ sở đáp ứng nguồn vốn nhanh nên thành viên đầu tư ngay rất kịp thời với tính chất mùa vụ, đảm bảo tăng năng suất vật nuôi, cây trồng hoặc sử dụng vốn cho nhu cầu phát triển khác đem lại hiệu quả cao.

Thứ ba, cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở ít rủi ro hơn, tỷ lệ nợ xấu rất thấp mặc dù thực tế tỷ lệ cho vay không có đảm bảo cao hơn. Điều đó do:

Công tác thẩm định rất thuận lợi (như đã nêu ở trên phần trên)

Các món vay thường phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn và mục đích sử dụng vốn nên phát huy được hiệu quả.

QTDND cơ sở nắm chắc thời gian thu hồi vốn, cơ bản là mùa vụ thu hoạch sản phẩm cây trồng, vật nuôi, vòng quay vốn kinh doanh….

Mặc dù phần lớn QTDND cơ sở cho vay bằng hình thức tín chấp tức là chỉ dựa vào phương án sản xuất kinh doanh và uy tín của bản thân thành viên mà tỉ lệ nợ quá hạn thấp vì: ngoài khái niệm vay, trả thì họ còn đảm bảo bằng tư cách thành viên của mình, ý thức trách nhiệm về xây dựng QTDND cơ sở; thực hiện quyền và nghĩa vụ của thành viên. đây cũng là tính chất ưu việt trong hoạt động tín dụng tại QTDND cơ sở.

Thứ tư, nguồn vốn tín dụng ở QTDND cơ sở trên địa bàn xã, liên xã, phường, liên phường tuy chưa nhiều nhưng đã góp phần tạo được công ăn việc làm, đặc biệt khu vực nông nghiệp, nông thôn, hạn chế nạn cho vay nặng lãi góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn.

1.3.6.3.2 Nhược điểm của cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở:

16

Page 17: Nhóm 4(.doc

Thứ nhất, công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay còn quá đơn giản, công tác kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, tin tưởng thành viên là chính, nhiều món vay QTDND cơ sở không đi thẩm định thực tế.

Thứ hai, một số QTDND cơ sở còn chưa thực hiện đúng nguyên tắc cho vay vì: xuất phát từ thực tế cán bộ tại QTDND cơ sở mới được đào tạo ngắn ngày, kinh nghiệm còn ít, trình độ một số cán bộ còn khiêm tốn nên chưa nắm chắc chế độ, nguyên tắc, hoặc là còn nể nang “Tình làng nghĩa xóm” nên đã dẫn đến một số sai phạm khác nhau trong công tác cho vay tại QTDND cơ sở.

Thứ ba, cho vay các món vay nhỏ, lẻ nhiều, chi phí quản lý tăng, …

1.3.7 Những thuận lợi và khó khăn trong cho vay tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở

1.3.7.1 Thuận lợi trong cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở:

Thứ nhất, QTDND cơ sở chỉ cho vay đối tượng là thành viên nên rất hiểu rõ khách hàng, rất thuận lợi trong công tác thẩm định xét duyệt cho vay.

Thứ hai, QTDND cơ sở thường đóng trên địa bàn xã, phường, tổ chức hoạt động với mục tiêu chính tương trợ thành viên. Vì vậy tính chất cộng đồng rất lớn, cùng nhau hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ đời sống của thành viên, góp phần xây dựng địa phương phát triển được đảng uỷ, các cấp chính quyền địa phương nhiệt tình ủng hộ, đặc biệt là tuyên truyền đảng viên hội viên tham gia và hỗ trợ trong công tác thu nợ, chỉ trường hợp cá biệt phải hỗ trợ bằng biện pháp hành chính.

Thứ ba, đối với thành viên khi tham gia QTDND cơ sở họ cũng đã hiểu đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên, họ có ý thức trong việc vay và trả nợ cho QTDND cơ sở nên công tác cho vay đối với QTDND cơ sở có những đặc thù riêng và thuận lợi trong công tác tín dụng.

1.3.7.2 Những khó khăn trong cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở:

Thứ nhất, QTDND cơ sở chủ yếu cho vay các món nhỏ để thành viên phát triển sản xuất chăn nuôi theo mùa vụ, còn tỉ lệ cho vay dùng vào mục đích kinh doanh dịch vụ chưa nhiều. Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra… hơn nữa về năng lực tài chính của thành viên là hộ nông dân còn nhiều khó khăn nên việc cho vay tại QTDND cơ sở nhiều lúc gặp không ít khó khăn.

Thứ hai, đối với những dự án đầu tư có tính chất quy mô lớn hơn thì việc cho vay tín dụng tại QTDND cơ sở cũng chưa thuận lợi vì:

Nguồn vốn của QTDND cơ sở còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được nhu cầu, kể cả về thời gian và nguồn vốn.

17

Page 18: Nhóm 4(.doc

Trình độ thẩm định, phân tích đầu tư dự án để đầu tư có hiệu quả đối với cán bộ QTDND cơ sở thực tế là còn nhiều bất cập.

Sự am hiểu pháp luật kinh tế và các chính sách liên quan của thành viên QTDND cơ sở và đội ngũ cán bộ quản lý QTDND cơ sở trên các địa bàn còn hạn chế.

1.3.8 Tác động tích cực của huy động vốn và cho vay tín dụng tại quỹ tín dụng toàn dân cơ sở đối với việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh:

Một là, khai thác và lấp đầy khoảng trống thị trường cho vay. Các QTDNN cơ sở được hình thành từ nhu cầu của người dân tức là ở những nơi có nhu cầu thị trường vốn còn bị bỏ ngỏ, chưa được khai thác lấp đầy, nơi người dân có những khoản tiền nhỏ, khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phải cất giữ trong nhà hoặc phải đi đến ngân hàng thương mại cách xa, lãi tiền gửi không đủ bù chi phí…Những nơi người dân muốn vay vốn nhưng khó có khả năng tiếp cận với các Ngân hàng thương mại để được vay, do các Ngân hàng này chưa hoạt động trên địa bàn hoặc có thể họ chưa có uy tín đối với Ngân hàng, chưa hội tụ đủ điều kiện vay vốn của Ngân hàng, hoặc chưa phải là đối tượng phục vụ của Ngân hàng do quy mô quá nhỏ. Chính tại đó QTDND cơ sở ra đời, ngay tại chỗ và hoạt động khai thác nguồn vốn và cho vay phục vụ nhu cầu của chính người dân (thành viên) để phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ đời sống. Phát huy nội lực, QTDND cơ sở huy động nguồn vốn tại chỗ là chủ yếu để cho vay các dự án nhỏ có tính khả thi của thành viên, nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế phục vụ trở lại cho địa phương, nâng cao đời sống dân cư ở nông thôn trên địa bàn.

Hai là, khuyến khích cạnh tranh tạo động lực cho sự phát triển; QTDND cơ sở ra đời, hoạt động với tư cách là một tổ chức kinh tế nên cũng là một thành viên tham gia vào thị trường, được bình đẳng như các tổ chức kinh tế khác và phải cạnh tranh trên thị trường, cũng muốn chiếm lĩnh thị trường, muốn phục vụ đáp ứng được nhiều hơn cho nhu cầu thành viên và người dân trên địa bàn. Vì vậy QTDND cơ sở tham gia tạo động lực thúc đẩy phát triển, người hưởng lợi cuối cùng chính là người dân với tư cách thành viên QTDND cơ sở và cộng đồng xã hội trên địa bàn đó.

Ba là, tạo và cung cấp việc làm trực tiếp trên địa bàn. QTDND cơ sở đã tạo ra một kênh dẫn vốn nhằm hỗ trợ cho thành viên phát triển sản xuất kinh doanh, giúp thành viên có công ăn việc làm. Thành viên mở rộng sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều việc làm mới cho người dân trên địa bàn. Mặt khác QTDND cơ sở là một doanh nghiệp nên với tư cách là người sử dụng lao động, nó trực tiếp tạo ra và cung cấp việc làm tại địa phương. Tổng quát nhất, QTDND cơ sở đã trực tiếp và gián tiếp thông qua cung cấp tín dụng cho thành viên đã tạo ra công ăn

18

Page 19: Nhóm 4(.doc

việc làm cho địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Bốn là, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi trên địa bàn, đưa hoạt động cho vay phi chính thức vào quản lý theo pháp luật. ở đâu có QTDND cơ sở hoạt động thì ở đó nạn cho vay nặng lãi sẽ bị hạn chế tối đa và lập tức bị đầy lùi.

QTDND cơ sở ra đời hỗ trợ thành viên trong việc tiếp cận với vốn vay một cách kịp thời, thuận tiện, với mức lãi suất hợp lý. Ngoài ra QTDND cơ sở hoạt động theo luật, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, nên các hoạt động phi chính thức không chịu sự kiểm soát, quản lý trước đây của các kiểu “hội, hụi” đến nay được đưa vào quản lý theo pháp luật, chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của nhà nước đối với hoạt động cho vay trên địa bàn.

1.3.9 Hạn chế của quỹ tín dụng toàn dân cơ sở đối với phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là khu vực nông nghiệp, nông thôn:

Trong thời gian qua hoạt động của QTDND cơ sở đối với phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả khả quan, đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động của QTDND cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế như sau:

Quy mô nguồn vốn còn nhỏ, vốn điều lệ thấp, tỉ lệ tăng hàng năm chậm, tốc độ huy động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ vốn cho thành viên, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu mùa vụ. Một số QTDND cơ sở trên địa bàn tỉnh, quy mô hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng. Nhu cầu của những thành viên có quy mô sản xuất lớn, cần nguồn vốn lớn, thời gian sử dụng vốn dài hơn... thì QTDND cơ sở chưa đáp ứng được, là điều bất lợi cho thành viên trong việc phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn.

Trình độ cán bộ QTDND cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, năng lực tài chính còn khiêm tốn, chất lượng hoạt động của QTDND cơ sở chưa thực sự bền vững.

Quy mô cho vay nhỏ, chủ yếu là ngắn hạn, tỷ lệ cho vay trung dài hạn còn thấp, đối tượng dịch vụ còn bó hẹp trong các thành viên, hình thức cho vay chưa đa dạng, phong phú… nên phần nào ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế trên địa bàn nói chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng.

19

Page 20: Nhóm 4(.doc

Chương 2 : Thực trạng hoạt động của hệ thống QTDND ở Việt Nam

2.1. Những đóng góp của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)

2.1.1 Đối với QTDND cơ sở:

Sau 15 năm thành lập đến tháng 12/2008 cả nước đã có 1.015 QTDND cơ sở trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố, tổng nguồn vốn đạt 16.674 tỷ đồng, gấp hơn 200 lần, vốn điều lệ đạt 779 tỷ đồng, gấp 70,81 lần, đạt gần 800 triệu đồng, vốn huy động tại chỗ đạt 12.329 tỷ đồng, gấp 224 lần, vốn đi vay đạt 2.365 tỷ đồng, trong đó vay của Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương (QTDTW) là 2.238 tỷ đồng, chiếm 94,6% tổng số vốn vay; tổng dư nợ cho vay đạt 14.142 tỷ đồng, gấp 196 lần, trong đó cho vay thành viên là 14.141 tỷ đồng chiếm 99,98%, dư nợ cho vay sản xuất nông nghiệp chiếm 56,7%, ngành nghề chiếm 28,5%, cho vay sinh hoạt chiếm tỷ lệ 7,9%; nợ xấu chiếm tỷ lệ 0,53% so với tổng dư nợ; hàng năm số hộ gia đình được vay vốn ngày càng tăng: năm 2005 là 671 ngàn lượt thành viên được vay vốn, năm 2006 là 733 ngàn, năm 2007 là 786 ngàn, năm 2008 là 785.698 lượt vay vốn, nhờ đó số cá nhân, hộ gia đình gia nhập QTDND ngày càng tăng, đến cuối năm 2008 đã có 1.349.804 thành viên gia nhập, tức là chiếm gần 1/10 số hộ gia đình hiện có. Đến nay, số thành viên đã gấp 27,20 lần so với năm 1994; số vốn cho vay bình quân là 13 triệu đồng/1 món vay; do nguồn vốn huy động hầu hết là ngắn hạn nên QTDND chỉ tập trung cho vay ngắn hạn, nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như ADB và các tổ chức quốc tế khác tài trợ vốn trung và dài hạn cho hệ thống QTDND thông qua QTDTW, đến cuối năm 2008, đạt 1,422 tỷ đồng chiếm 10,1% tổng dư nợ;

Vốn khả dụng đạt 11,3% tổng nguồn vốn, trong giai đoạn khó khăn do thặt chặt chính sách tiền tệ và sự cạnh tranh quyết liệt về lãi suất với các tổ chức tín dụng khác nhưng hoạt động của các QTDND vẫn đảm bảo an toàn, không có quỹ nào rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Lợi nhuận năm 2008 đạt 183 tỷ đồng, tăng so với năm 2007 là 164 tỷ đồng.

Những đóng góp của hệ thống QTDND cho công cuộc xóa đói giảm nghèo

Với những đồng vốn vay của QTDND mặc dù còn ít ỏi nhưng cũng đã giúp cho nhiều hộ nông dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống và thoát nghèo; tại Diễn đàn doanh nghiệp vi mô Việt Nam lần thứ nhất – 2007 đã trao giải thưởng “Doanh nhân vi mô Citi Việt Nam 2007” cho 60 doanh nhân vi mô, 30 cán bộ tín dụng xuất sắc và 11 tổ chức tín dụng vi mô đoạt giải. Điều làm cho nhiều người ngạc nhiên và khâm phục là các doanh nhân vi mô điển hình như ông Nguyễn Hải Bình ở xã miền biển Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá khi 10 năm trước đây không có ruộng đất, ngư cụ nhưng được vay 300 ngàn đồng từ

20

Page 21: Nhóm 4(.doc

QTDND Hải Bình đến nay ông Bình đã là chủ nhân của một cơ sở cung cấp hải sản cho các đại lý cung ứng cho thị trường trong nước và Trung Quốc với doanh thu 5 tỷ đồng hàng năm, thu hút hơn 100 lao động; chị Phan Thị Lương ở xã Tuân Châu, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã vượt qua khó khăn, đói nghèo, chồng chết nhưng sau 10 năm với số tiền 10 triệu đồng được QTDND xã cho vay, chị đã trở thành chủ trang trại nuôi cá với doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm, thu hút hàng ngàn lao động ở địa phương. Phát biểu tại cuộc trao giải ông Charly Madan Tổng Giám đốc Citi Bank tại Việt Nam cho rằng: “Tôi đã xem hồ sơ của những cá nhân đoạt giải, những câu chuyện của chị Hồng ở Sơn La, chị Sự ở Đồng Nai, chị Lương ở Vĩnh Phúc mỗi người một vẻ, nhưng họ có điểm chung là nỗ lực cao nhất cho việc kinh doanh để gia đình thoát nghèo và trở thành gương sáng cho mọi người xung quanh” (2), những điển hình thoát nghèo nêu trên phần lớn đều từ đồng vốn vay của các QTDND. Nhưng theo đánh giá của WB, khoảng 70-80% số dân nghèo ở Việt Nam đã tiếp cận được nguồn tín dụng vi mô (TDVM); tuy nhiên về chất lượng và phạm vi hoạt động TDVM chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xoá đói, giảm nghèo; vẫn còn tình trạng khi gặp khó khăn họ phải đi vay “nóng” với lãi suất cao hoặc hụi họ khi bị chụp giật không ai bảo vệ.

2.1.2 Đối với QTDTW:

Được thành lập theo Quyết định số 162/QĐ-NH5 của Thống đốc NHNN QTDTW khai trương hoạt động ngày 5/8/1995 với chức năng huy động vốn, đại diện cho hệ thống tiếp nhận vốn của Chính phủ, các tổ chức tài chính, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế tài trợ cho chương trình tín dụng phát triển nông nghiệp - nông thôn, điều hoà vốn và cung cấp các dịch vụ cho toàn hệ thống. Đến nay, đang ở tuổi 14 mới là vị thành niên nhưng QTDTW đã trưởng thành vượt bậc: từ khi chỉ có Trụ sở chính ở Thủ đô Hà Nội, nay đã có 24 Chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực tiếp cung cấp vốn và điều hòa vốn cho các QTDND thành viên, năm 1995 tổng nguồn vốn mới đạt 121 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 103 tỷ đồng, vốn huy động là 11 tỷ đồng, dư nợ chủ yếu là cho vay trong hệ thống là 64 tỷ đồng, thì đến cuối tháng 12/2008, QTDTW đã đạt mức tăng trưởng rất ngoạn mục, tổng nguồn vốn đạt 6.352 tỷ đồng, tăng 52 lần, trong đó vốn điều lệ đạt 612 tỷ đồng, vốn huy động 3.985 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 67,2% tổng nguồn vốn, vốn vay các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế đạt 1.101 tỷ đồng; dư nợ cho vay trong và ngoài hệ thống đạt 5.066 tỷ đồng, tăng gấp 79 lần, trong đó cho vay trong hệ thống 2.238 tỷ đồng, chiềm 44,2% tổng dư nợ, nợ xấu là 154.843 triệu đồng chiếm 3,1% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu toàn hệ thống là 10 tỷ đồng, chiếm 0,4% dư nợ cho vay, kết quả kinh doanh đạt xấp xỉ 23 tỷ đồng.

21

Page 22: Nhóm 4(.doc

Mặc dù trải qua những thăng trầm, sau 9 năm củng cố, chấn chỉnh đến nay, hệ thống QTDND đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng trực tiếp huy động vốn và cho vay các hộ nông dân để sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi ngành nghề, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phục vụ có hiệu quả cho “tam nông”, QTDTW đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho hệ thống QTDND và phát triển kinh tế HTX tạo tiền để cho phát triển nông nghiệp nông thôn và xóa đói giảm nghèo, cụ thể:

Đảm bảo an toàn hoạt động và khả năng thanh khoản cho QTDND

Từ những năm 1998, thực hiện Chỉ thị số 05/1998/CT-NHNN về áp dụng các biện pháp khẩn cấp để củng cố, chấn chỉnh hoạt động QTDND, chấp hành chỉ đạo của Ban Lãnh đạo NHNN, QTDTW đã ứng hàng tỷ đồng để giúp một số QTDND vượt qua khó khăn. Tiếp đến giai đoạn củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND từ năm 2001 theo Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị và Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg ngày 28/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ đồng thời phối hợp với Bảo hiểm tiền gửi để kịp thời chi trả cho người gửi tiền nhờ đó đã không xảy ra tình trạng mất trật tự an ninh, xã hội ở các địa phương và đảm bảo an toàn cho hệ thống. Năm 2008, hầu hết các ngân hàng có quy mô nhỏ và các QTDND đều gặp khó khăn thanh khoản, nhưng QTDTW đã hỗ trợ kịp thời vốn cho các đơn vị trong hệ thống nên không có quỹ nào mất khả năng chi trả, vẫn hoạt động an toàn và ngày càng phát triển.

Hỗ trợ tư vấn, đào tạo và cung cấp các phần mềm về công nghệ thông tin cho các QTDND thành viên, thông qua hoạt động tín dụng, đã tư vấn về quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro về vốn, rủi ro thanh khoản…, đồng thời, kết hợp với Hiệp hội QTDND tổ chức các lớp tập huấn nâng cao trình độ quản trị cho Ban lãnh đạo và cán bộ tác nghiệp QTDND thành viên.

Đóng góp thúc đẩy kinh tế hợp tác xã phát triển

Tại Quyết định số 272/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch phát triền kinh tế tập thể giai đoạn 2006-2010, đối với hệ thống QTDND, đã chỉ rõ “Xây dựng và phát triển hệ thống QTDND từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh theo hướng liên kết chặt chẽ, tiến tới xây dựng ngân hàng hợp tác xã, gắn chặt hệ thống QTDND với các HTX khác; đảm bảo hệ thống QTDND phát triển ổn định; vững chắc và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống”, và việc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung vốn điều lệ cho QTDTW tại văn bản số 3583/VPCP-KTTH ngày 7/7/2006 theo tờ trình của NHNN cho thấy Chính phủ đang từng bước chỉ đạo các cấp, các ngành xây dựng QTDTW trở thành ngân hàng hợp tác xã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế HTX phát triển.

22

Page 23: Nhóm 4(.doc

2.1.3 Hệ thống QTDND ngày càng hoàn thiện:

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục hoàn thiện hệ thống QTDND, trong đó chuyển mô hình từ 3 cấp gồm QTDND cơ sở, QTDND khu vực và QTDTW thành hệ thống 2 cấp chỉ còn lại QTDND cơ sở và QTDTW; thiết lập mối liên kết về tổ chức và liên kết về vốn cho toàn hệ thống:

Việc chuyển đổi mô hình từ 3 cấp sang 2 cấp đã được NHNN chỉ đạo QTDTW xây dựng đề án sáp nhập QTDND khu vực vào QTDTW, sau hơn 1 năm triển khai, năm 2002 đã hoàn tất việc sáp nhập, các QTDND khu vực đã trở thành các chi nhánh của QTDTW, đến nay đã có 24 chi nhánh ở các tỉnh làm nhiệm vụ điều hòa vốn trong hệ thống, cho vay các QTDND cơ sở trên địa bàn, đồng thời, đảm bảo khả năng chi trả cho các QTDND găp khó khăn, với những dự án vốn vay trung và dài hạn của các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp, QTDTW đã phổ biến và triển khai đến các QTDND có nhu cầu và đáp ứng các điều kiện cần thiết.

Dưới sự chỉ đạo của NHNN, cuối năm 2005 đã thành lập Hiệp hội QTDND, đến nay hầu hết 1.015 quỹ đã gia nhập Hiệp hội, nhằm thực hiện vai trò đại diện vào bảo vệ thành viên trước pháp luật, tham gia với các cơ quan nhà nước về các chính sách đối với hệ thống, tổ chức đào tạo cán bộ, tư vấn về luật pháp, cơ chế chính sách, trợ giúp về nâng cao trình độ và ứng dụng công nghệ thông tin cho các hội viên; trong thời gian qua Hiệp hội đã phối hợp với Học viện Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo trình độ trung cấp cho cán bộ của hội viên và con em họ muốn học tập để có đội ngũ kế cận, tổ chức tập huấn nâng cao trình độ cho cán bộ hội viên, cung cấp thông tin và phản ảnh hoạt động của hệ thống thông qua trang điện tử của Hiệp hội… Những việc làm đó đã không ngừng nâng cao vị thế của Hiệp hội trước cơ quan nhà nước và công chúng.

Hiệp hội QTDND đang thực hiện việc mở rộng thí điểm thành lập Quỹ an toàn hệ thống nhằm xây dựng các cơ chế và nguồn vốn để hỗ trợ cho các QTDND cơ sở khi gặp khó khăn về khả năng chi trả hoặc khả năng thanh toán hoặc phục hồi hoạt động sau khi bị NHNN đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, hiện Đề án này đã thí điểm ở tỉnh Thái Bình và đang triển khai mở rộng thí điểm ở 2 tỉnh khác.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức QTDND, Hiệp hội cũng đang xúc tiến thiết lập đề án Tổ chức kiểm toán độc lập phù hợp với khả năng và trình độ phát triển của hệ thống QTDND nhằm tổ chức giám sát an toàn hoạt động của từng quỹ và cả hệ thống, quản lý và sử dụng quỹ an toàn hệ thống theo quy chế của Hiệp hội.

23

Page 24: Nhóm 4(.doc

2.2. Những tồn tại và yếu kém của QTDND hiện nay

2.2.1 Năng lực tài chính và thị phần tín dụng còn hạn chế:

Vốn điều lệ của các QTDND còn thấp nên mức huy động vốn và cho vay bị hạn chế. Theo báo cáo thường niên của NHNN, tỷ trọng huy động vốn chỉ đạt 1%, tỷ trọng cho vay đạt 1,4% so với tổng số các tổ chức tín dụng; cho vay, rủi ro tín dụng cao do thiên tai, dịch bệnh, rớt giá. Số tiền vốn cho vay bình quân mới đạt 13 triệu đồng/1 món vay, chỉ đủ chi phí cho sản xuất nhỏ, lẻ của hộ gia đình, nếu thực hiện Nghị quyết lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về tích tụ ruộng đất theo hướng trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp đòi hỏi nguồn vốn lớn hơn trong lúc đó năng lực tài chính của hệ thống QTDND còn hạn hẹp. Trong bối cảnh lạm phát tăng, lãi suất tín dụng trên thị trường tăng cao QTDND khó cạnh tranh, vì vậy phần lớn QTDND đều thiếu vốn, (mới chỉ có 227 quỹ tự cân đối được vốn chiếm 1/5 số quỹ), nên phải dựa vào nguồn vốn vay của QTDTW hoặc các tổ chức tín dụng khác.

2.2.2 Hệ thống QTDND phát triển chưa đồng đều:

Thị trường tín dụng ở nông thôn đang có nguy cơ bị bỏ trống. Số lượng QTDND còn rất hạn chế, mới chỉ có 1/10 số xã, thuộc 56/63 tỉnh, thành phố, còn 7 tỉnh, thành phố chưa có QTDND, nhất là các tỉnh miền núi, trung du như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn…; số lượng QTDND ở nhiều tỉnh, thành phố còn ít như Cần Thơ có 3, Hậu Giang 1, Bến Tre có 3, các tỉnh miền núi như Lào Cai, Đắc Nông, Bình Phước chỉ có từ 1 đến 2 quỹ v.v. chưa đáp ứng nhu cầu huy động và vay vốn của người dân; mặt khác, lâu nay chúng ta mới chú ý thành lập QTDND ở nông thôn còn ở đô thị phần lớn còn ít, một bộ phận người lao động, dân nghèo ở đô thị chưa tiếp cận với tổ chức này, khi có nhu cầu phải đi vay nặng lãi, tham gia hụi họ gây thiệt hại về tài chính, đó là sự bất bình đẳng về sự thụ hưởng dịch vụ đối với một bộ phận dân cư.

2.2.3 Trình độ công nghệ còn lạc hậu:

Tuy đến nay hầu hết QTDND đã có máy vi tính để phục vụ công tác kế toán, quản lý nợ vay nhưng giao dịch chưa liên thông giữa QTDTW với các QTDND cơ sở, nên chu chuyển vốn trong hệ thống chưa kịp thời, chưa phát triển được dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong hệ thống, mọi giao dịch phải trực tiếp thực hiện tại các chi nhánh đóng ở tỉnh, thành phố, trình độ vận hành và quản lý công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu, một phần mạng thông tin liên lạc cấp quốc gia chưa phủ rộng khắp nhất là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.

24

Page 25: Nhóm 4(.doc

2.2.4 Dịch vụ ngân hàng bán lẻ còn nghèo nàn:

Đến nay, hầu hết các QTDND chỉ mới cung cấp ra thị trường dịch vụ huy động vốn và cho vay, chỉ một số ít quỹ đã thực hiện dịch vụ chuyển tiền trong nội bộ hệ thống, hoặc làm đại lý chi trả tiền kiều hối còn dịch vụ ngân hàng bán lẻ khác hầu như chưa có.

2.2.5 Cản trở về tâm lý đối với QTDND:

Những mặc cảm của người dân, chính quyền, cấp uỷ các địa phương đối với phong trào HTXTD trong những năm 1989-1991 còn khá nặng nề; mặt khác, do số lượng cán bộ NHNN tỉnh, thành phố có hạn, giao thông, liên lạc khó khăn nên công tác quản lý gặp khó khăn, không khỏi phát sinh tâm lý e ngại khi phát triển thêm QTDND, những lý do trên đang là rào cản trong việc phát triển hệ thống QTDND.

25

Page 26: Nhóm 4(.doc

Chương 3: Giải pháp Định hướng phát triển của quỹ tín dụng nhân dân trong tương lai:

Thành công của hệ thống QTDND có vai trò hết sức quan trọng của Quỹ tín dụng trung ương. Trong mô hình tổ chức của hệ thống ba cấp (trước đây) và hai cấp hiện nay thì Quỹ tín dụng trung ương đóng vai trò là tổ chức đầu mối về vốn, hỗ trợ triển khai các sản phẩm, dịch vụ cho QTDND cơ sở. Đây là mối liên kết có tính quyết định bảo đảm cho toàn hệ thống phát triển an toàn, bền vững; bởi vì, trong khi các QTDND cơ sở là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay nếu không có một tổ chức đầu mối liên kết kinh tế dưới hình thức Liên hiệp HTX cấp quốc gia thì khi gặp khó khăn về khả năng chi trả, thanh toán thì từng QTDND cơ sở dễ lâm vào khó khăn, mất khả năng thanh khoản, dẫn đến mất kiểm soát, sụp đổ, gây nên hệ quả dây chuyền lớn trong hệ thống. Quỹ tín dụng trung ương với chức năng đầu mối chính là tổ chức thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ này, đồng thời trong điều kiện bình thường cũng thường xuyên tổ chức điều hòa vốn trong nội bộ, bảo đảm dòng chảy thông suốt, hài hòa về vốn trong toàn hệ thống. Không chỉ là đầu mối về vốn Quỹ tín dụng trung ương còn thực hiện hỗ trợ các QTDND triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng, các dự án của tổ chức trong nước và ngoài nước, tư vấn, phối hợp xây dựng cơ chế, cung cấp thông tin...

Để khai thác tốt hơn nữa tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư, phát huy vai trò của hệ thống QTDND cần nhanh chóng tập trung giải quyết tốt một số nội dung có tính cấp thiết sau:

Một là, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để chuyển đổi và xây dựng Quỹ tín dụng trung ương thành Ngân hàng Hợp tác vững mạnh về tài chính, công nghệ; tạo điều kiện về vốn và hành lang pháp lý cho Quỹ tín dụng trung ương chuyển đổi thành Ngân hàng Hợp tác với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của một ngân hàng đầu mối, hỗ trợ hệ thống QTDND nói riêng, thành phần kinh tế hợp tác nói chung.

Hai là, quan tâm đúng mức, tạo hành lang pháp lý để hệ thống QTDND và Quỹ tín dụng trung ương phát triển thuận lợi, nhằm tạo điều kiện cho hệ thống ổn định hoạt động sau củng cố, chấn chỉnh, có điều kiện để tăng cường nguồn lực tài chính, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ... tạo nền tảng chuẩn bị cho giai đoạn phát triển. Vì vậy, cần sớm ban hành những cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hệ thống QTDND.

26

Page 27: Nhóm 4(.doc

Ba là, từng bước triển khai mở rộng các hình thức dịch vụ ngân hàng trong hệ thống như: Bảo lãnh, cho vay hợp vốn, liên kết huy động, điều hòa hỗ trợ công nghệ thông tin; đồng thời từng bước hội nhập tham gia thị trường thẻ, công ty mua bán nợ, công ty chứng khoán... với các ngân hàng thương mại Nhà nước tạo tiền đề xây dựng và trực tiếp triển khai các dịch vụ này trong hệ thống QTDND, trước mắt sẽ tập trung triển khai những nội dung này ở Quỹ tín dụng trung ương là đơn vị đầu mối.

Bốn là, cần nhanh chóng hình thành các thiết chế hỗ trợ chung mà trọng tâm là thành lập được Quỹ an toàn hệ thống, Quỹ dự phòng thanh toán chi trả để thực hiện nhiệm vụ ứng cứu tài chính cho các trường hợp, sự cố xảy ra trong hệ thống; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Hiệp hội QTDND Việt Nam sớm ổn định cơ chế đại diện, điều phối các hoạt động trên phạm vi cả nước.

Năm là, nâng cao hiệu quả, năng lực hoạt động và quản lý của các QTDND cơ sở đồng thời sắp xếp lại các QTDND hoạt động yếu kém, thua lỗ kéo dài; xử lý dứt điểm những tồn đọng trong giai đoạn thí điểm, đưa hệ thống vào hoạt động ổn định, lành mạnh, đồng thời tiếp tục thành lập mới các QTDND cơ sở ở những vùng, địa bàn có đủ điều kiện phát huy thế mạnh của tổ chức tín dụng vi mô, phấn đấu đến năm 2020 có 1.700 QTDND cơ sở với tổng nguồn vốn hoạt động 120.000 tỷ đồng, Quỹ tín dụng trung ương với khoảng 40 chi nhánh hoạt động tại tất cả các tỉnh, thành phố với tổng nguồn vốn hoạt động khoảng 90.000 tỷ đồng.

27