nhac co dien
TRANSCRIPT
1
Nhóm thuật ngữ chỉ Loại giọng hát
Về cơ bản giọng hát chia làm 4
giọng chính: Bass, Tenor,
Contralto và Soprano. Đây cũng
chính là 4 bè của một dàn hợp
xướng. Tuy nhiên về sau trong opera do nhu cầu đa dạng hoá các
nhân vật với nhiều tính cách khác nhau nên trong opera giọng hát
được phân chia một cách cụ thể hơn, gồm có 6 giọng: Bass,
Baritone, Tenor, Contralto, Mezzo-soprano và Soprano. Trong mỗi
loại giọng lại chia ra làm nhiều loại tuy theo âm sắc và âm vực.
Loại giọng Âm vực
Phân loại giọng bổ sung (Từ nhẹ
đến nặng)
Soprano (Nữ cao)
Coloratura (Nữ cao màu sắc)
Lyric Soprano (Nữ cao trữ tình)
2
Lirico Spinto (Nữ cao trữ tình kịch
tính)
Dramatic Soprano (Nữ cao kịch tính)
Wagnerian soprano (Nữ cao siêu
kịch tính)
Mezzo Soprano (Nữ trung)
Coloratura mezzo-soprano (Nữ trung
màu sắc)
Dramatic mezzo-soprano (Nữ trung
kịch tính)
Castrato (Nam hoạn)
Alto hay Contralto (Nữ
trầm)
Countertenor (Phản nam
cao)
Tenor (Nam cao)
Tenore Di Forza
Tenore Robusto
Heldentenor (Nam cao siêu kịch
tính)
Baritone (Nam trung)
3
Bass (Nam trầm)
Basso Cantante (Nam trầm trữ tình)
Basso Profundo (Nam trầm đại)
nhaccodien.info biên soạn theo Virginia Tech Multimedia Music Dictionary
Thể loại Biến tấu (Variation)
Biến tấu (Variation) là một hình thức
trong đó các cách trình bày một chủ đề
được biến đổi hoặc đưa ra theo các
cách sắp xếp có sự thay đổi. Trong thế
kỷ 18 và 19 chủ đề thường được trình bày trước, tiếp theo là một số
biến tấu, do đó mà có cách diễn đạt “theme and variations” (chủ đề
và các biến tấu).
Trong thế kỷ 16, các vũ khúc được sử dụng nhiều làm cơ cấu cho
các biến tấu. Nghệ thuật này đạt tới một thời kỳ phát triển cao ở Tây
Ban Nha thế kỷ 16 trong các tác phẩm cho vihuela và đàn phím của
Cabezón và những người khác. Những người chơi đàn virginals (một
nhạc cụ có bàn phím, hình vuông, không có chân) ở nước Anh cuối
4
thế kỷ, đáng chú ý là Bull, Farnaby, Gibbons và Byrd, cũng nổi trội và
ảnh hưởng đến các nhà soạn nhạc lục địa, đặc biệt là Sweelinck và
Scheidt.
Ở nước Ý thế kỷ 17, Frescobaldi, tiếp tục viết các variation - khuôn
khổ truyền thống chẳng hạn như romanesca và folia, có xu hướng
đặt các nốt cơ cấu vào các nhịp mạnh mẽ, thay đổi cơ cấu theo một
cách sắp xếp tuần hoàn. Biến tấu giai điệu về sau (ví dụ như với
Pasquini) trở nên quan trọng hơn, một xu hướng tiếp diễn trong các
biến tấu của G.B. Martini, Platti, Alberti và trên tất cả là J.C. Bach.
Việc lồng một biến tấu nhỏ vào một bộ tác phẩm lớn bắt đầu xuất
hiện khoảng thời gian này.
Ở miền bắc và trung nước Đức, các biến tấu hợp xướng được phát
triển trong thế kỷ 17, đầu tiên bởi Sweelinck và Scheidt và sau là
Weckmann và Tunder, biến đổi mỗi đoạn của hợp xướng organ,
thường bằng những motif có liên quan đến lời ca. Các biến tấu tự do
trở thành nét đặc trưng của cách sử dụng ở miền bắc nước Đức, dẫn
tới thể loại chorale fantasia (khúc phóng túng hợp xướng) khi được
Buxtehude hoàn chỉnh. Ngược lại, ở miền nam nước Đức, cùng với
Pachelbel, các hình thức nghiêm ngặt được ưa chuộng lơn và biến
tấu cuối cùng (final variation) của một bộ tác phẩm thường là fugue.
J. S. Bach đã sử dụng gần như tất cả các kiểu cách: passacaglia và
chaconne trong các tác phẩm cho organ và solo violin; dựa vào một
số chương thanh nhạc, gồm cả “Crucifixus” của Mass giọng si thứ;
chorale partitas cho organ theo kiểu của Böhm và Buxtehude; các
biến tấu luân khúc (canonic variations) cho organ trên chủ đề Vom
5
Himmel hoch. Các biến tấu Goldberg thể hiện sự phát triển cao nhất
về mặt nghệ thuật trong các biến tấu bè trầm.
C.P.E. Bach và Haydn tiếp tục khai thác kiểu biến tấu bè trầm triệt
để, nhưng từ khoảng năm 1770 các biến tấu giai điệu chiếm ưu thế
trong các tác phẩm của họ và những người khác. Haydn đã viết một
số ít bộ biến tấu độc lập nhưng có các chương biến tấu trong một số
tác phẩm thính phòng và cho dàn nhạc, thường biến đối hai chủ đề
luân phiên (chẳng hạn như chương hai của các giao hưởng số 53 và
63, và các biến tấu giọng Pha thứ cho piano). Đôi khi ông kết hợp
các biến tấu với rondo hay hình thức bậc ba. Các bộ biến tấu cho
piano độc lập của Mozart, na ná các ứng tác của ông, rất phổ biến
trong thời ông sống và cả trong thế kỷ 19. Ông cũng sử dụng hình
thức biến tấu trong các divertimento, serenade và concerto, đôi khi
trong các tứ tấu và piano sonata, nhưng chưa bao giờ sử dụng trong
một bản giao hưởng. Hầu như tất cả đều là kiểu biến tấu giai điệu với
hòa âm cố định. Biến tấu Adagio áp chót (thường mang tính tô điểm
cao), một biến tấu giọng thứ tương phản và một biến tấu cuối cùng
tốc độ nhanh (thường ở nhịp 6/8) là các nét đặc trưng. Trong các
biến tấu thời kỳ đầu tiên của mình, ông đã lặp lại cách làm của Bach
bằng việc nhắc lại chủ để ở cuối, nhưng ở thời kỳ sau ông soạn các
biến tấu cuối cùng được phát triển (expanded final variation).
Một “climactic final variation”, thực ra là một coda phát triển, là một
nét đặc trưng trong hầu hết các bộ biến tấu của Beethoven. Các bộ
thời kỳ đầu của ông chủ yếu dựa trên các bài ca và giai điệu opera
phổ biến. Giữa những năm 1800 và 1812 ông thường sử dụng các
6
biến tấu trong khuôn khổ một hình thức tác phẩm lớn hơn (chẳng
hạn như trong chương cuối của Giao hưởng “Eroica” và trong các
chương chậm của giao hưởng số 5 và số 7, tam tấu piano op. 97 và
“Appassionata” Sonata op.57); từ năm 1818 các biến tấu trở thành
tâm điểm tinh thần của một số tác phẩm quan trọng, gồm cả các tứ
tấu đàn dây, các piano sonata và giao hưởng số 9. Các biến tấu
Diabelli là một đại diện thu nhỏ của kiểu cách và kỹ thuật biến tấu
thời kỳ cuối của Beethoven.
Các biến tấu đầu thế kỷ 19 rơi vào hai nhóm: các “biến tấu chính
thức” của kiểu Cổ điển Vienna và các “biến tấu đặc sắc” được định
đoạt bởi những ý tưởng và hình tượng mới mẻ của trường phái Lãng
mạn. Loại thứ nhất do Hummel, Cramer và Spohr đại diện, loại thứ
hai do Weber, Schumann và Mendelssohn. Schubert sử dụng cả hai
loại, Chopin và Liszt đã đem kỹ thuật điêu luyện vào các biến tấu đặc
sắc của họ. Bậc thầy vĩ đại nhất của các biến tấu ở cuối thế kỷ 19 là
Brahms. Các biến tấu Handel cho piano của ông là điển hình của
kiểu cách biến tấu duy trì nghiêm ngặt theo luật với fugue ở cuối ; bè
trầm là yếu tố nâng đỡ, như ở trong các phần final của giao hưởng
số 4 và Các biến tấu St. Antony. Các biến tấu Paganini là các ví dụ
của kiểu cách virtuoso với vai trò là một loạt “etude cho piano”.
Brahms cũng kết hợp các biến tấu với các hình thức khác.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các biến tấu phóng túng
(fantasia variation), kết hợp các chất liệu tự do, được ưu tiên. Các ví
dụ là Các biến tấu trên một chủ đề Rococo cho cello và dàn nhạc của
Tchaikovsky, Các biến tấu giao hưởng của Dvorak và Franck, Don
7
Quixote của R. Strauss. Các biến tấu Enigma của Elgar, trong khi
chứa đựng các yếu tố chương trình, vẫn mang tính thông lệ hơn về
hình thức, song đại diện quan trọng nhất cho các truyền thống lâu
đời hơn là Reger. Ông và Brahms ảnh hưởng tới Schönberg, Berg và
Webern. Schönberg thừa nhận các tiền lệ từ Brahms trong các biến
tấu op. 31 cho dàn nhạc của mình. Cách xử lý các biến tấu của
Webern xứng đáng là các bài luyện đặc biệt và các nhà soạn nhạc
tiếp theo, gồm cả Dallapiccola và Nono, đã sử dụng các kiểu biến tấu
được trường phái 12 âm đưa ra. Các nhà soạn nhạc không thuộc
trường phái 12 âm như Hindemith và Britten đã tạo ra cách sử dụng
đáng chú ý các kỹ thuật biến tấu.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
Thể loại Giao hưởng (Symphony)
I.GIỚI THIỆU
Giao hưởng là một thể loại tác phẩm
quy mô dành cho dàn nhạc (hoặc dàn
nhạc với giọng hát) và thường có
nhiều hơn một chương. Thuật ngữ
“giao hưởng” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “cùng nhau phát
ra âm thanh.” Ý nghĩa này của thuật ngữ “giao hưởng” đã trải qua
nhiều sự thay đổi trong lịch âm nhạc. Ý nghĩa của nó theo cách hiểu
của chúng ta ngày nay đã được định hình từ nền âm nhạc Đức và Áo
trong suốt đầu thế kỷ 18.
8
II. NGUỒN GỐC
Thuật ngữ giao hưởng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1597 với vai
trò là tiêu đề các tác phẩm của nhà soạn nhạc thành Venice Giovanni
Gabrieli, đó là những tác phẩm nhạc lễ cho giọng hát và nhạc cụ, có
tên gọi “Sacrae symphoniae”. Khi đấy, từ “symphoniae” đã được
dùng để chỉ “sự cùng nhau diễn xướng” của các giọng hát và nhạc
cụ. Tuy nhiên, việc Adriano Banchieri cho ra mắt một bản Giao
hưởng nhạc cụ mà không có giọng hát vào năm 1607 đã vạch ra một
xu hướng mới quan trọng trong lịch sử giao hưởng. Năm 1619, nhà
soạn nhạc và lý thuyết âm nhạc người Đức Michael Praetorius đã
viết trong tập tiểu luận của ông về các hình thức âm nhạc đương thời
(Syntagma musicum, Vol. III) rằng, một bản giao hưởng là “một tác
phẩm hòa tấu chỉ của các nhạc cụ mà không có bè giọng hát – loại
tác phẩm này được những người Ý khởi xướng.” Từ giao hưởng
cũng được áp dụng cho phần mở đầu bằng nhạc cụ hoặc phần
ngưng nghỉ trung gian (interlude) trong các hình thức âm nhạc như
cantata, opera và oratorio. Một ví dụ đáng chú ý là “Giao hưởng
Đồng quê” trong tác phẩm Messiah (1742) của George Frideric
Handel.
III. ITALY
Là một phần mở đầu bằng nhạc cụ, sinfonia (tên tiếng Ý của
symphony) đã trở thành một phần quan trọng của nền opera Ý thế kỷ
17, chẳng hạn như “sinfonia avanti l’opera” trong các tác phẩm của
Alessandro Scarlatti. Vào khoảng năm 1700, những overture opera
được gọi là các sinfonia này đã có hình thức cấu trúc ba phần hoặc
9
ba chương. Chương đầu nhanh, chương thứ hai chậm và chương
thứ ba có tính chất nhảy múa - thường là một minuet.
Không chỉ được liên hệ một cách hữu cơ với các opera, các overture
này cũng được trình diễn như các tác phẩm hòa nhạc và các nhà
soạn nhạc Ý như Tomaso Albinoni, Giovanni Battista Sammartini và
Antonio Vivaldi đã bắt đầu viết những sinfonia độc lập cũng theo hình
thức nhanh-chậm-nhanh. Cấu trúc chương thứ nhất của của kiểu
giao hưởng này đã sớm sử dụng hình thức sonata, và những tiền
thân khác nhau của hình thức sonata hoàn chỉnh sau này cũng được
định hình trong sự phát triển của thể loại giao hưởng.
Một ảnh hưởng quan trọng khác đối với nền giao hưởng Ý là
intermezzo, một hình thức âm nhạc được phát triển ở Naples. Các
giai điệu trong các intermezzo bao gồm sự kết hợp của các motif
ngắn gọn, rõ ràng, được đệm bởi các phép hòa thanh đơn giản, trái
ngược với những giai điệu trau chuốt và phép hòa thanh phức tạp
thường thấy trong âm nhạc trước đó. Sự phát triển này đem lại cho
các nhà soạn nhạc những “chất liệu nguyên sơ” – những chủ đề để
họ có thể tái kết hợp, tái hòa thanh và phát triển chúng trong hình
thức sonata.
IV. ĐỨC VÀ ÁO
Đến năm 1740, giao hưởng đã trở thành thể loại trung tâm của âm
nhạc cho dàn nhạc. Những trung tâm lớn cho thể loại này là các
thành phố Mannheim và Berlin của Đức, cùng với thủ đô Vienna của
Áo. Nhà soạn nhạc người Bohemia Johann Stamitz đã mang lại danh
10
tiếng quốc tế cho dàn nhạc ở Mannheim khi để họ trình diễn các giao
hưởng của ông. Stamitz đã là người đầu tiên thêm chương thứ tư
vào một bản giao hưởng, đó là một chương kết nhanh, nối tiếp
chương minuet. Các chủ đề hai trong các chương sonata của ông
cũng thường bộc lộ tính chất tương phản rõ rệt.
Ở Berlin, các nhà soạn nhạc Johann Gottlieb Graun và C.P.E. Bach
(con trai J.S. Bach) cũng đã viết những giao ba chương với những
tương phản chủ đề rõ rệt và nhấn mạnh sự phát triển cũng như sự
biểu lộ cảm xúc.
Các giao hưởng bốn chương đã thống trị ở thành Vienna, với
chương đầu được quan tâm một cách đặc biệt. Các nhà soạn nhạc ở
đây sử dụng nhiều hơn các nhạc cụ hơi và quan tâm đặc biệt tới sự
gắn kết giai điệu; chẳng hạn, phần chuyển tiếp giữa các chủ đề có
thể thể được cấu thành từ các đoạn ngắn của chủ đề chính. Trong số
các nhà soạn nhạc thành Vienna khi ấy có Georg Matthias Monn và
Georg Christoph Wagenseil. Một người con trai khác của J.S. Bach
là J.C. Bach cũng có tầm ảnh hưởng lớn, ông vốn học ở Ý là đến làm
việc ở London, các giao hưởng của ông mang đầy sự sáng sủa của
những giai điệu Ý.
V. HAYDN VÀ MOZART: GIAO HƯỞNG CỔ ĐIỂN
Vienna là nơi mà nền giao hưởng thế kỷ 18 vươn đến đỉnh cao. Đó là
thời điểm cuối thế kỷ 18, với các tuyệt tác của Joseph Haydn,
Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven. Haydn, nhà
giao hưởng Vienna vĩ đại đầu tiên, đã không ngừng thử nghiệm với
11
những kỹ thuật và đạo cụ mới trong sáng tác cho dàn nhạc. Ông đã
sáng tác 104 bản giao hưởng và quá trình đó đã kéo dài và mở rộng
hình thức giao hưởng. Những phần mở đầu chậm thường đi trước
trong các chương một, các chương sonata thường tránh sự tương
phản chủ đề; các chương kết, hình thức sonata hoặc rondo, có sức
sống và sức nặng chưa hề thấy trong các sáng tác của những nhà
soạn nhạc trước đó. Haydn thường sử dụng phép đối âm, gắn kết nó
vào trong phong cách giao hưởng. Những đặc trưng tiêu biểu này
thậm chí vẫn có mặt cả trong những giao hưởng khác thường như
Giao hưởng “Tiễn biệt” (1772) – trong đó các nhạc công dần dần dời
khỏi sân khấu cho đến những phút cuối cùng của tác phẩm.
Mặc dù Haydn thường được gọi là cha đẻ của giao hưởng, nhưng
thể loại này thực ra đã có sự khởi đầu ở Ý và Đức. Haydn đã phát
triển thể loại này dưới dạng bốn chương, đem lại cho nó cái được gọi
là hình thức cổ điển, đưa nó đến một đỉnh cao mới của âm nhạc.
Haydn và người bạn thiên tài của ông – Wolfgang Amadeus Mozart
đã tạo ảnh hưởng lẫn nhau trong kỹ thuật giao hưởng. Mozart, một
trong những bậc thầy giao hưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã
sáng tác 41 bản giao hưởng với tính chất sáng tạo kỳ diệu. Trong
những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông có Giao hưởng Linz
(1783), Prague (1786), Haffner (1782); và ba bản giao hưởng cuối
cùng: Mi giáng trưởng, Son thứ và Jupiter (1788), đưa thể loại giao
hưởng vĩnh viễn trở thành một thể loại lớn với tính chất biểu hiện sâu
sắc.
VI. BEETHOVEN
12
Trong chín bản giao hưởng của mình, Ludwig van Beethoven đã đưa
ra khái niệm về các mối quan hệ chủ đề giữa các chương. Trước
thời Beethoven, các chủ đề trong mỗi chương là độc lập với nhau.
Beethoven đã mở rộng một cách lớn lao và sâu sắc những khả năng
biểu hiện của thể loại giao hưởng và đem lại cho nó khả năng khắc
họa những cảm xúc phong phú và mãnh liệt. Khả năng biểu hiện lớn
này đã có mặt ở mức độ đáng kể trong hai bản giao hưởng đầu tiên
của ông, và nó đã trở nên đặc biệt nổi bật trong Giao hưởng số 3
giọng Mi giáng trưởng (1805), thường được biết đến với cái tên
“Eroica” (“Anh hùng” – đã từng được dự định đề tặng Napoleon).
Tuyệt tác này có một chương đầu cô đọng, tràn đầy sức mạnh sáng
tạo, một chương hai sâu sắc dưới dạng một hành khúc tang lễ, một
chương ba scherzo sôi nổi, và một chương kết dưới dạng các biến
tấu trên một chủ đề. Nếu như trước đó, chương ba thường là một
minuet, thì trong các giao hưởng của Beethoven, chương ba trở
thành một khúc scherzo sống động.
Trong Giao hưởng số 5 giọng Đô thứ (1808) của mình, Beethoven
đã đưa vào một motif nhịp điệu và giai điệu 4-nốt, nó có vai trò thống
nhất các phần tương phản của tác phẩm. Giao hưởng số 6 giọng Fa
trưởng (1808), được biết đến với cái tên “Đồng quê”, đã mô tả những
cảm xúc nảy sinh khi nhà soạn nhạc hồi tưởng lại những cảnh thôn
dã. Nó sử dụng một số kỹ thuật của âm nhạc chương trình, kể một
câu chuyện đơn giản và mô phỏng những âm thanh như tiếng chim
và tiếng sấm sét. Giao hưởng số 9 giọng Rê thứ (1824), được coi
như một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của Beethoven, kết thúc
13
bằng một chương hợp xướng dựa trên bài thơ “An die Freude”
(Hướng tới niềm vui) của nhà thơ Đức Friedrich von Schiller.
VII. THẾ KỶ 19
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lãng mạn trong âm nhạc mang lại hai xu
hướng đối lập nhau trong sáng tác giao hưởng: xu hướng thứ nhất là
sự gắn kết vào giao hưởng những yếu tố của âm nhạc chương trình,
và xu hướng thứ hai là sự cô đọng các ý tưởng của hình thức cổ
điển, với những giai điệu và hòa âm điển hình của thế kỷ 19. Những
minh họa nổi tiếng cho xu hướng thứ nhất là nhà soạn nhạc Pháp
Hertor Berlioz và nhà soạn nhạc Hungary Franz Liszt. Những giao
hưởng của họ dựa trên những ý tưởng văn học (hoặc phi âm nhạc)
nhất định, chúng được gọi là các thơ giao hưởng. Yếu tố giai điệu lặp
đi lặp lại trong Giao hưởng Ảo tưởng (1830) của Berlioz là một thí dụ,
nó diễn tả người phụ nữ đã ám ảnh những giấc mơ của nhà soạn
nhạc. Toàn bộ bản giao hưởng diễn tả sự say đắm đến cuồng dại
của nhà soạn nhạc đối với người phụ nữ này.
Trái lại, nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert, về cơ bản đã sử
dụng lối tiếp cận hình thức cổ điển trong sáng tác giao hưởng, tuy
nhiên, các giai điệu và hòa âm của ông mang tính chất lãng mạn
tuyệt hảo. Những giao hưởng nổi tiếng nhất của ông là Giao hưởng
“Bỏ dở” (1822) và Giao hưởng Lớn (1828). Các giao hưởng của
những nhà soạn nhạc Đức Felix Mendelssohn và Robert Schumann
diễn tả đặc trưng hòa âm phong phú của chủ nghĩa lãng mạn. Những
giao hưởng nổi tiếng nhất của Mendelssohn là Giao hưởng Scotland
(1842), Giao hưởng Ý (1833), và Giao hưởng “Cải cách” (1841),
14
chúng hơi chứa đựng các yếu tố của âm nhạc chương trình thông
qua ý nghĩa của các tiêu đề. Các giao hưởng nổi tiếng của
Schumann, bao gồm “Mùa xuân” (1841) và “Sông Rhein” (1850) yếu
về cấu trúc nhưng lại giàu giai điệu và nhạc tố lãng mạn.
Thành công nhất trong sự kết hợp hình thức cổ điển và phong cách
lãng mạn là bốn bản giao hưởng của Johannes Brahms. Những giao
hưởng này vẫn giữ hình thức cổ điển trong cấu trúc rất chặt chẽ của
chúng, nhưng lại mang tính chất sâu sắc, triết lý trong sự biểu hiện
cảm xúc lãng mạn.
Nhà soạn nhạc Nga Peter Tchaikovsky sáng tác sáu bản giao
hưởng, với tinh thần là âm nhạc chương trình, chúng gắn kết những
cảm xúc mãnh liệt với những chất liệu âm nhạc dân gian Nga, và đặc
biệt là trong ba giao hưởng cuối cùng có một sự phát triển âm nhạc
sâu sắc.
Các nhà soạn nhạc Áo Anton Bruckner và Gustav Mahler chịu ảnh
hưởng lớn của nhà soạn nhạc kịch opera Richard Wagner. Chín giao
hưởng của Bruckner khai thác những hiệu quả dàn nhạc lớn và đạt
được tính thống nhất trong sự tranh đua giữa các mẫu hình nhịp điệu
và giai điệu. Mahler đã mở rộng một cách đặc biệt độ dài của giao
hưởng và thường xuyên thay thế những hình thức của nó bằng
những đoạn thanh nhạc. Mahler đã nhấn mạnh màu sắc, hay âm sắc
của những nhạc cụ riêng lẻ và ông đã thử nghiệm kết thúc một bản
giao hưởng bằng một âm điệu khác với âm điệu mở đầu. Trước đó,
việc mở đầu và kết thúc một bản giao hưởng bằng cùng một âm điệu
15
giúp nó đạt được sự thống nhất hoàn chỉnh. Mahler đã mong ước
rằng các giao hưởng của ông “chứa đựng thế giới”, và ông đã gắn
kết các ý tưởng tôn giáo và triết học về những khát vọng của con
người và sự đấu tranh của loài người chống lại định mệnh. Nhà soạn
nhạc người Czech Antonin Dvorak nổi tiếng với tài năng sử dụng các
giai điệu dân gian, như được thể hiện qua bản giao hưởng có tiêu đề
“Từ Thế giới Mới” (1893) của ông.
Các nhà soạn nhạc Pháp như Vincent d’Indy và Camille Saint-
Saens, các nhà soạn nhạc Nga như Alexander Borodin và Nikolai
Rimsky-Korsakov cũng viết nhiều bản giao hưởng nổi tiếng. Giao
hưởng Rê thứ của nhà soạn nhạc Pháp-Bỉ César Franck cũng là một
ví dụ cho xu hướng “cấu trúc hình trụ” của thế kỷ 19, đó là xu hướng
gắn kết các chương khác nhau bằng sự lặp đi lặp lại các chủ đề và
motif.
VIII. THẾ KỶ 20
Trong suốt thế kỷ 20, một số các nhà soạn nhạc như Charles Ives
(người Mỹ) và Carl Nielsen (người Đan Mạch) đã bám sát hình thức
giao hưởng như những phương thức sáng tạo mang tính cá nhân
cao. Cả hai người đều đã thử nghiệm với những phép đa âm và
nhiều kiểu sáng tác hiện đại khác. Nhà soạn nhạc Phần Lan Jean
Sibelius đã đem lại sinh khí cho giao hưởng với hướng đi ngược lại
với Mahler. Sibelius đã cô đọng một cách chặt chẽ các chất liệu chủ
đề và các quá trình phát triển. Ông đã từng chuyển từ cấu trúc 4
chương truyền thống sang cấu trúc ba chương trong Giao hưởng số
5 (1919) của mình, và cuối cùng là chuyển về một chương trong Giao
16
hưởng số 7 (1924). Trong chín bản giao hưởng của mình, nhà soạn
nhạc Anh Ralph Vaughan Williams đã tiếp tục truyền thống của
Dvorak trong việc đi theo phong cách dân tộc đặc trưng, rút ra từ âm
nhạc dân gian, đặc biệt là trong Giao hưởng số 3 – được gọi là
“Đồng quê” (1921) và Giao hưởng số 5 (1943).
Những nhà soạn nhạc khác, đi theo các ý tưởng của chủ nghĩa tân
cổ điển, đã tránh sự biểu hiện cảm xúc của chủ nghĩa lãng mạn và
sửa đổi hình thức giao hưởng để đưa vào đó những xu hướng hòa
âm, nhịp điệu và kết cấu của thế kỷ 20. Nhà soạn nhạc Nga Sergey
Prokofiev đã viết Giao hưởng số 1 của ông (1916-1917), được gọi là
Giao hưởng “Cổ điển” theo phong cách của Haydn. Những ví dụ
khác của chủ nghĩa tân cổ điển được tìm thấy trong các giao hưởng
của nhà soạn nhạc gốc Nga Igor Stravinsky và những nhà soạn nhạc
Mỹ như Aaron Copland, Roy Harris, Walter Piston và Roger
Sessions. Nhà soạn nhạc Áo Anton von Webern, với kỹ thuật của hệ
12 âm, đã sáng tác một bản giao hưởng sơ lược, có thể được trình
diễn trong 11 phút. Giống như “Kammersymphonie” (“Giao hưởng
Thính phòng”, 1906) của người đồng hương Arnold Schoenberg, nó
diễn tả xu hướng cô đọng của thế kỷ 20 cũng như tính tiết kiệm trong
hình thức và chất liệu.
Các giao hưởng của nhà soạn nhạc Nga Sergey Rachmaninov là
lãng mạn và cổ điển về hình thức. Những tác phẩm có giá trị đặc biệt
thuộc về một nhà soạn nhạc Nga khác là Dmitri Shostakovich, các
giao hưởng của ông thường đồ sộ về quy mô và đôi khi mang tính
chất chương trình. Họ đã nối tiếp truyền thống của Mahler khi đem lại
17
cho giao hưởng sử biểu hiện nội tâm đầy xáo động của chính bản
thân nhà soạn nhạc.
Trong giai đoạn sau Thế Chiến II, nhiều nhà soạn nhạc tiếp tục coi
giao hưởng như một phương tiện cho những tuyên ngôn quan trọng
nhất của họ. Bốn giao hưởng của nhà soạn nhạc Anh Sir Michael
Tippett phản ánh từng thời kỳ khác nhau trong sự phát triển phong
cách của ông, trong khi đó, Giao hưởng Turangalila (1948) của
Olivier Messiaen (Pháp) là một tổ khúc lớn 10 chương xoay quanh
một vài chủ đề trung tâm.
Những người Mỹ viết giao hưởng vào cuối thế kỷ 20 và đầu 21 bao
gồm Philip Glass, John Coregliano và Eileen Taaffe Zwillich. Ở châu
Âu có Sir Peter Maxwell Davies (Anh); Arvo Pärt (Estonia);
Einojuhani Rautavaara (Phần Lan); Hans Werner Henze (Đức); cùng
các nhà soạn nhạc Ba Lan Henryk Górecki, Witold Lutosławski, và
Andrzej Panufnik.
Trần Trung Dũng (nhaccodien.info) dịch
Thể loại Thơ giao hưởng (Symphonic poem)
Một bản thơ giao hưởng hay
một thi phẩm bằng âm thanh
từ nhạc cụ (tone poem) là một
tác phẩm viết cho dàn nhạc, có
18
một chương nhạc, trong đó một chương trình (programme) nào đó
ngoài âm nhạc mang lại cho tác phẩm yếu tố kể chuyện hoặc minh
họa. Chương trình này có thể bắt nguồn từ một bài thơ, một cuốn
tiểu thuyết, một bức họa hay từ một số nguồn khác. Thể loại âm nhạc
dựa trên những nguồn ngoài âm nhạc thường được biết tới với tên
gọi âm nhạc chương trình (programme music), trong khi thể loại âm
nhạc không có những liên tưởng khác được biết tới với tên gọi âm
nhạc thuần túy (pure music) hay âm nhạc tuyệt đối (absolute music).
Một loạt những thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ có thể kết hợp
với nhau trong một tổ khúc (suite), theo nghĩa của thời kỳ Lãng mạn
hơn là nghĩa thời Baroque: "Con thiên Nga vùng Tuonela" (1895) là
một bản thơ giao hưởng rút từ tổ khúc Lemminkäinen của Jean
Sibelius.
Nhà soạn nhạc Franz Liszt đã sáng tạo thể loại thơ giao hưởng trên
quy mô lớn, trong một loạt những tác phẩm âm nhạc một chương
được sáng tác từ những năm 1940 và 1950. Liszt đã viết 13 bản thơ
giao hưởng, trong đó nổi tiếng nhất có lẽ là bản thơ giao hưởng số 3
- Les Préludes (Những khúc dạo đầu) dựa theo thơ của Alphonse de
Lamartine. Bên cạnh những thơ giao hưởng dựa theo những thi
phẩm của các thi hào như Lamartine, Hugo (Ce qu'on entend sur la
montagne - Tiếng nghe trên núi, Mazeppa), Byron (Tasso: lamento e
trionfo- Tasso: Lời than thở và chiến thắng)... Liszt cũng sáng tác thơ
giao hưởng dựa trên kịch (Hamlet của Shakespeare) và dựa trên
nguồn ngoài âm nhạc khác như hội họa (Du berceau jusqu'au
tombeau - Từ chiếc nôi đến nấm mồ). Những tiền thân gần gũi của
những thơ giao hưởng kiểu Liszt là những overture hòa nhạc, những
chương viết cho dàn nhạc dành cho sân khấu, nhiều màu sắc và gợi
19
liên tưởng mà được sáng tác để biểu diễn độc lập trong bất cứ một
vở opera hay tác phẩm sân khấu nào: ví dụ như Fingal’s Cave của
Felix Mendelssohn hay overture Roman Carnival (Ngày hội La Mã)
của Hector Berlioz. Một overture độc lập thời kỳ đầu là Der
Beherrscher der Geister ("The Ruler of the Spirits" – "Người cai trị
những Linh hồn”, 1811) của Carl Maria von Weber, một overture gợi
không khí ở mức độ cao mà không kèm một vở opera. Những tác
phẩm hòa nhạc này đến lượt mình đã xuất hiện từ những overture
của Ludvig van Beethoven chẳng hạn như những overture
“Egmont”, “Coriolan” và “Leonore” No. 3, mà trong nội dung âm nhạc
của chúng tiên liệu câu chuyện của tác phẩm sân khấu mà chúng
giới thiệu (các vở kịch trong trường hợp “Egmont” và “Coriolan”, vở
opera Fidelio trong trường hợp “Leonore”). Thậm chí những tác
phẩm cho dàn nhạc được minh họa bằng những khúc nhạc theo bộ
"cơn bão" mà là một thể loại được thiết lập trở lại với cơn bão mùa
hè trong Bốn mùa của Antonio Vivaldi và một vài entr'acte (khúc
trung gian, chuyển cảnh) buồn bã giữa các cảnh của opera Pháp thời
kỳ Baroque.
Những nhà soạn nhạc đã tiếp tục thể loại thơ giao hưởng: Sergei Rachmaninov - The Isle of the Dead (Hòn đảo của Thần Chết)
Camille Saint-Saëns - Danse macabre (Vũ điệu ma quỷ)
Claude Debussy - Prélude à l'après-midi d'un faune (Khúc dạo đầu
buổi chiều của thần điền dã)
Jean Sibelius - Finlandia (Phần Lan)
Bedřich Smetana - Má Vlast (Tổ quốc tôi)
20
Dvorák - The Golden Spinning Wheel (Quay sợi vàng) và The Wood
Dove (Con bồ câu rừng) trong số những tác phẩm khác.
Modest Mussorgsky - Night on Bald Mountain (Đêm trên núi trọc)
Nikolai Rimsky-Korsakov - Sadko
Pyotr Tchaikovsky - Fatum, Romeo and Juliet (được liệt vào loại
"fantasy-overture"), 1812 Overture
César Franck - Le Chasseur Maudit (Người thợ săn xấu số)
Alexander Borodin - In the Steppes of Central Asia (Trong thảo
nguyên Trung Á)
Paul Dukas - L'apprenti-sorcier (Người học trò phù thuỷ)
Sergei Taneyev - Oresteia (được liệt vào "overture", song thực sự là
một thơ giao hưởng dựa trên những chủ đề từ vở opera cùng tên
của chính tác giả)
Ottorino Respighi - bộ ba thơ giao hưởng La Mã (Những cây thông
La Mã, Những ngọn núi La Mã và Những lễ hội La Mã) và Brazilian
Impressions (Những ấn tượng Brazil)
George Gershwin - An American in Paris (Một người Mĩ ở Paris)
Geirr Tveitt - Nykken
Arnold Bax – Tintagel và The Garden of Fand (Khu vườn của Fand)
Nigel Keay - Ritual Dance of the Unappeasable Shadow
Nick Peros - Northern Lights
Theo danh sách trên ta có thể hiểu rằng tính tự do của thể loại thơ
giao hưởng cho phép những tên gọi khác, chẳng hạn như "tranh âm
nhạc" (musical picture), "overture", "fantasy" ...
Richard Strauss (người thích thuật ngữ "thi phẩm bằng âm thanh từ
nhạc cụ" (tone poem) hơn là "thơ giao hưởng" (symphonic poem) là
21
một trong những nhà soạn nhạc cuối thời kỳ Lãng mạn sáng tác
nhiều ở thể loại này, với những tác phẩm bao gồm Don Juan, Till
Eulenspiegel, Also sprach Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế),
Don Quichote và Ein Heldenleben. Strauss đã đặt tiêu đề phụ cho
Don Quichote là “Introduction, Theme with Variations, and Finale”
(Giới thiệu, Chủ đề với những Biến tấu, và Phần kết) và “Fantastic
Variations for Large Orchestra on a Theme of Knightly Character”
(Những biến tấu phóng túng cho Dàn nhạc lớn trên Chủ đề Nhân vật
hiệp sỹ). Tác phẩm có thể dễ dàng được gọi là một rhapsody với vai
trò một thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ.
William Lloyd Webber, cha của nhà soạn nhạc kiêm nhà tổ chức
biểu diễn Andrew Lloyd Webber, đã sáng tác bản thơ giao hưởng
Aurona, tác phẩm đã trải qua kinh nghiệm hồi sinh tính đại chúng
trong những năm gần đây. Tuy nhiên một số trong mối quan tâm này
có thể bị quy cho sự liên đới của ông với tính đại chúng của những
tác phẩm của con trai ông.
Frank Sinatra đã đặt hàng và chỉ đạo album Frank Sinatra Conducts
Tone Poems of Color năm 1956. Album đã đề cao những thi phẩm
bằng âm thanh từ nhạc cụ được sáng tác bởi tám nhà soạn nhạc
đương đại gồm André Previn, Billy May, Nelson Riddle, Gordon
Jenkins, Victor Young, Jeff Alexander, Alec Wilder và Elmer
Bernstein.
Cũng có một số những tác phẩm một chương không viết cho dàn
nhạc mà cho hòa tấu thính phòng hoặc nhạc cụ độc tấu, dựa trên
22
một vài nguồn ngoài âm nhạc. Do tính chất phi dàn nhạc của chúng,
những tác phẩm đó không được coi là "thơ giao hưởng", mặc dù về
mọi khía cạnh khác ngoài phối khí, chúng tương đồng nhau. Một
trong những tác phẩm nối tiếng nhất như vậy là Verklärte Nacht
(Đêm rạng rỡ) của Arnold Schoenberg, dựa trên một bài thơ, vốn
được viết cho lục tấu đàn dây (mặc dù về sau được chuyển soạn cho
hòa tấu quy mô lớn hơn).
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Tổ khúc (Suite)
Tổ khúc (Suite) là một bộ các tác phẩm khí nhạc
được sắp xếp theo thứ tự nhằm để biểu diễn
riêng một mạch. Trong thời kỳ Baroque, tổ khúc
là một thể loại khí nhạc bao gồm một số chương
có cùng điệu thức, một vài hay tất cả dựa trên các hình thức và
phong cách vũ khúc (các thuật ngữ khác dành cho nhóm các vũ khúc
thời Baroque gồm có Partita, Overture, Ordre và Sonata da camera).
Việc ghép đôi các vũ khúc ít nhất cũng đã có từ thế kỷ 14 nhưng các
nhóm tác phẩm được gọi là tổ khúc được biết đến sớm nhất là
suyttes de bransles của Estienne du Tertre (1557). Tuy nhiên chúng
chỉ tạo thành chất liệu thô cho một chuỗi các vũ khúc hơn là một
23
chuỗi thực sự được chơi trên thực tế. Phần lớn các nhóm vũ khúc từ
những năm 1840 tới cuối thế kỷ đó đều là những cặp tác phẩm, một
điệu pavan hay passamezzo đi cùng một điệu galliard hay saltarello.
Sự thôi thúc ghép nhóm kiểu tổ khúc có vẻ như bắt nguồn từ nước
Anh tại thời điểm bước ngoặt thế kỷ, với William Brade và Giovanni
Coprario, nhưng xuất bản phẩm đầu tiên của nhóm các tác phẩm
kiểu tổ khúc với tư cách là các tác phẩm được ghép lại một cách
đồng bộ là Newe Padouan, Intrada, Däntz und Galliarda (1611) của
Peuerl mà bốn vũ khúc trên tiêu đề trở đi trở lại trong mười “suite”
được thống nhất bằng điệu thức và chất liệu chủ đề. Banchetto
musicale (1617) của Schein bao gồm 20 chuỗi paduana, gagliarda,
courente, allmande và tripla được thống nhất một cách tương tự.
Sự phát triển của tổ khúc “cổ điển”, gồm có allemande, courante,
sarabande và gigue theo trình tự đó (A-C-S-G), diễn ra trong hai giai
đoạn. Giai đoạn đấu đối với nhóm A-C-S có lẽ được thực hiện bởi
những người chơi đàn lute ở Paris hay những bậc thầy nhạc vũ khúc
ở triều đình Pháp, những nhóm đầu tiên mà có thể xác định ngày
tháng một cách chắc chắn kiểu như thế xuất hiện trong Tablature de
mandore de la composition du Sieur Chancy (1629). Vũ khúc gigue
chỉ được chấp nhận một cách thưa thớt khi nó bắt đầu xuất hiện
trong những cách sắp xếp tổ khúc sau năm 1650 và ban đầu nó hiếm
khi có được vị trí cuối cùng cổ điển. Froberger chỉ để lại duy nhất một
tổ khúc A-C-S-G thật sự; cấu trúc A-G-C-S thông thường của ông
được các nhà xuất bản đầu tiên của ông thay đổi trong các năm 1697
-98 cùng thời gian mà quy tắc được Buxtehude, Böhm và Kuhnau
xây dựng cho các nhà soạn nhạc Đức. Ở nước Anh, tổ khúc với vũ
24
khúc gigue rất hiếm (chẳng hạn như vũ khúc gigue không xuất hiện
trong các tổ khúc của Purcell) và ở nước Pháp trong thời trị vì của
Louis XIV, thường thì các tổ khúc cho đàn viol và harpsichord đi theo
nhóm A-C-S-G cùng các vũ khúc khác. Các đặc trưng trong tổ khúc
cho đàn harpsichord của L. Couperin, D'Angelbert và các nhà soạn
nhạc khác bao gồm Prélude không nhịp và xu hướng xếp các tác
phẩm đã có với nhau (đôi khi do các nhà soạn nhạc khác nhau viết).
Chỉ có năm tổ khúc cổ điển hoặc ít hơn thế trong số 27 ordres của
François Couperin – trong mỗi ordre số 1, 2, 3, 5 và 8 bao gồm năm
hoặc mười khúc nhạc. Các ordre khác gồm các nhóm liên kết theo
chương trình và pha tạp.
Người Pháp cũng sử dụng tổ khúc cho hòa tấu và dàn nhạc. Tổ
khúc cho dàn nhạc thường được tạo bởi một nhóm tác phẩm từ các
nguồn thể loại khác (đặc biệt là các opera và ballet của Lully). Nhiều
tổ khúc bắt đầu bằng một overture và “overture-suite” (tổ khúc
overture) được các nhà soạn nhạc Đức như J.S. Kusser, J.C.F.
Fischer và Georg Muffat tiếp quản một cách hăng hái. Telemann
khẳng định đã sáng tác không ít hơn 200 tổ khúc, nhưng bốn tổ khúc
cho dàn nhạc của Bach và các tác phẩm “Nhạc nước” và “Âm nhạc
dành cho các lễ hội pháo hoa hoàng gia” của Handel tỏ ra là minh
chứng hay nhất của thể loại này.
Trong các tổ khúc khác của mình, cả Bach và Handel thường theo
mô hình Prelude-A-C-S-X-G (trong đó X là một hay nhiều vũ khúc
hoặc cặp vũ khúc thêm vào). Các tổ khúc cho đàn phím của Handel,
lên tới khoảng 22 tổ khúc, phần lớn được soạn từ các tác phẩm đã
25
có. Bach tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến thể loại này, với 6 tổ khúc
cho cello, 3 partita cho violin solo và các bộ 6 tổ khúc Anh, tổ khúc
Pháp và partita cho harpsichord. Bach sử dụng tổ khúc như một khối
kiến trúc theo một tổng thể lớn hơn, sắp xếp từng tổ khúc để tạo ra
khác biệt nào đó - hoặc tạo ra cùng loại tổ khúc nhưng theo một cách
khác - vì thế bộ tác phẩm là một kiểu liệt kê tổ khúc dành cho
phương tiện diễn đạt cụ thể đó.
Sau năm 1750, các thể loại sonata, giao hưởng và concerto bắt đầu
lất át các chức năng của tổ khúc. Việc viết một tổ khúc trở thành một
bài luyện tập cổ xưa, như các tổ khúc K399/385i của Mozart và các
tổ khúc à l'antique mãi về sau của Ravel, Debussy, Strauss,
Hindemith và Schönberg. Trong thế kỷ 19 tiêu đề ‘tổ khúc” ngày càng
được sử dụng nhiều hoặc là đối với một bộ tuyển chọn cho dàn nhạc
từ một tác phẩm lớn (đặc biệt là ballet và opera) hoặc là đối với một
chuỗi các khúc nhạc kết nối với nhau một cách lỏng lẻo bằng một
chương trình mang tính mô tả (ví dụ như tổ khúc “Những hành tinh”
của Holst) hay bằng một chương trình ngoại lai hoặc mang tính dân
tộc chủ nghĩa (như trong một số tổ khúc của Grieg, Sibelius,
Tchaikovsky và Rimsky-Korsakov).
Sự độc lập đối với các hình thức vũ khúc có nghĩa là thể loại này có
thể được cho là bao gồm các tác phẩm không được gắn tiêu đề “tổ
khúc”, kể cả các bộ liên khúc cho piano của Schumann, “Năm tác
phẩm cho dàn nhạc” của Schönberg và Momente của Stockhausen.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
26
Thể loại Tứ tấu đàn dây (String quartet)
Tứ tấu đàn dây là một thể loại sáng
tác cho bốn nhạc cụ dây solo, thường
là hai violin, một viola và một cello. Thể
loại này không được định hình một
cách vững chắc cho mãi đến thời kỳ
của Haydn mặc dù khởi nguyên của nó có thể được xác định trong
các tác phẩm riêng lẻ cuối thời kỳ Baroque. Bằng Tứ tấu đàn dây Op.
9 (1769-70) của Haydn, mẫu hình bốn chương được thiết lập cùng
với kết cấu bốn bè được phân bố rõ ràng. Trong các Tứ tấu đàn dây
Op. 33 (1781) mà Haydn đã đưa phần skezzo vào thể loại, ông đã
đạt tới một sự rõ ràng về kết cấu và sự cân bằng của các bè (mặc dù
cách viết nổi bật cho cây violin thứ nhất vẫn luôn là một phần trong
phong cách của Haydn). Trong Op. 76 một phong cách thực nghiệm
mới xuất hiện với những đặc trưng có trước thời Beethoven.
Không một nhà soạn nhạc cùng thời nào với Haydn ngoài Mozart
đạt tới mức độ mà Haydn đã duy trì được trong cách thức diễn đạt
này nhưng nhiều nhà soạn nhạc khác, trong số đó có Vanhal,
Boccherini (khoảng 100 tứ tấu mỗi người) và Ordonez (hơn 30 tứ
tấu), đã khiến việc viết tứ tấu trở thành một mối bận tâm lớn. Các tứ
tấu của Mozart chịu ảnh hưởng từ phong cách Milan của các tứ tấu
do G.B. Sammartini viết với các phần allegro mang tính ca xướng mà
violin thứ nhất chiếm ưu thế và không phải chỉ đến khi ông viết bộ tứ
27
tấu đề tặng Haydn (1782-85), Mozart mới đạt tới một phong cách tứ
tấu hài hòa hoàn toàn. Các nhà soạn nhạc Ý, gồm Cambini và
Boccherini, đã phát triển một phong cách trữ tình hơn, thường dành
cho violin thứ nhất kỹ thuật điêu luyện. Phong cách này được
Gossec, Viotti và các nhà soạn nhạc khác ở Pháp, Spohr ở Đức tiếp
tục. Không được nhầm lẫn giữa thể loại tứ tấu (quartet) và thể loại
Concertant bốn đàn (Quatuor concertant) mà trong đó cả 4 nhạc cụ
có cùng tầm quan trọng.
Vienna vẫn là một trung tâm quan trọng đối với thể loại tứ tấu trong
một phần tư đầu tiên của thể kỷ 19 và đã nuôi dưỡng cho những
phát triển quan trọng của thể loại diễn đạt này. Các tứ tấu Op. 18 của
Beethoven được viết một cách phóng khoáng trong khuôn khổ một
thông lệ đã được thiết lập nhưng tứ tấu số 1 giọng Pha đã có những
dấu hiệu mở rộng quy mô mà đánh dấu bằng các tứ tấu
“Razumovsky” Op. 59 thuộc thời kỳ sáng tác hậu “Eroica”. Với Op. 59
sự đối âm đã có được một hiệu quả kịch tính và các chương chậm
của các tứ tấu thời kỳ giữa được viết để có thể nghe rõ những thanh
âm phong phú và kết cấu trau chuốt. Những tứ tấu cuối cùng vẫn thể
hiện sự quan tâm lớn hơn về đối âm và đa dạng về kết cấu ; mức độ
sáng tạo của Beethoven vượt xa các nhà soạn nhạc cùng thời ở mọi
khía cạnh và các tứ tấu riêng lẻ có thể bao gồm cả tính chất nghiêm
trang sâu sắc lẫn sự vui vẻ thư thái mà không có gì phi lý cả.
Những nhà Lãng mạn thời kỳ đầu, trong đó có Schubert và
Mendelssohn là các tác giả tứ tấu nổi bật, lấy các tứ tấu thời kỳ giữa
hơn là các tứ tấu thời kỳ cuối của Beethoven làm xuất phát điểm. Họ
28
cũng mượn những đặc trưng (bao gồm cả kỹ thuật tremolo được sử
dụng nhiều trong ba kiệt tác Schubert sáng tác khoảng năm 1824 -
26) từ cách viết cho dàn nhạc và piano. Các hình mẫu kiểu piano
đóng một vai trò thậm chí còn lớn hơn trong các tứ tấu của
Schumann. Nhiều nhà soạn nhạc ít tên tuổi hơn ở Đức chọn cách đi
theo hình mẫu của Spohr, viết biến tấu trên các giai điệu phổ biến,
các khúc đoạn và các quatuor brillant. Ở Pháp chỉ một số ít nhà soạn
nhạc đã thoát khỏi sự thống trị của thể loại quatuor brillant mặc dù
các tứ tấu của M.A. Guénin và Cherubini đã tiến lên trên mức trung
bình; Berlioz (giống như các nhà soạn nhạc “chương trình” khác như
Liszt và Wagner) không viết tứ tấu nào. Thời kỳ này nước Ý có rất ít
tứ tấu trước khi Verdi sáng tác tứ tấu giọng Mi thứ năm 1873.
Tứ tấu đàn dây dường như tỏ ra ít triển vọng đối với các nhà soạn
nhạc thế kỷ 19 vốn bận tâm với các ý đồ quy mô lớn như giao hưởng
và thơ giao hưởng ; Tứ tấu giọng Mi thứ của Smetana From my Life
(1876) là một ví dụ hiếm hoi của tứ tấu mang tính chương trình. Thể
loại này đã tìm thấy những người trung thành mạnh mẽ hơn trong số
những nhà soạn nhạc như Brahms và Reger, những người vẫn tiếp
tục truyền thống Cổ điển. Tuy nhiên nó cũng thu hút được sự chú ý
của Dvorak và các nhà soạn nhạc thuộc trường phái dân tộc Nga. Cả
Borodin và Tchaikovky đều đưa các giai điệu dân gian vào trong các
tứ tấu của mình.
Sự phục hưng âm nhạc thính phòng ở Pháp nhờ một phần lớn ở
nhà soạn nhạc César Franck, người có tứ tấu giọng Rê trưởng
(1889) sử dụng “thể thức chu kỳ”. Nó được tiếp nối bằng các tứ tấu
29
của Debussy và Ravel (cũng với các yếu tố mang tính chu kỳ),
Fauré, Milhaud và các nhà soạn nhạc khác. Thể loại này đã hấp thu
các cách diễn đạt của các trường phái tân cổ điển, vô điệu thức, âm
nhạc theo chuỗi, dân tộc chủ nghĩa và các trường phái khác của thế
kỷ 20, trải qua vô số cấu trúc thử nghiệm nhưng rất ít nhà soạn nhạc
lớn lấy thể loại này làm trọng tâm sáng tác. Có lẽ Bartók là một ngoại
lệ, ông đã viết sáu tứ tấu được ghi nhận rộng rãi là các kế vị thực sự
của các tứ tấu thời kỳ cuối của Beethoven theo nghĩa rằng chúng mở
rộng phạm vi diễn đạt của thể loại và có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn.
15 tứ tấu của Shostakovich cũng đem lại đóng góp quan trọng cho
thể loại. Hầu hết các nhà soạn nhạc danh tiếng quốc tế đều bằng
lòng với việc viết rất ít hoặc thậm chí viết một tác phẩm riêng lẻ thuộc
thể loại này. Trong số đó có thể kể đến các tứ tấu của các tên tuổi
như Bloch, Ives, Hindemith, Schönberg, Webern, Berg, Britten,
Tippett, Lutoslawski và Carter.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
Thể loại Serenade
Trong âm nhạc, một serenade (hay đôi
khi là serenata) với ý nghĩa phổ biến
nhất của nó là một tác phẩm âm nhạc
hoặc là một buổi biểu diễn âm nhạc để
thể hiện sự kính trọng, tôn vinh ai đó.
Có ba loại serenade trong lịch sử âm nhạc.
30
1/ Trong cách dùng cổ nhất, tồn tại ở hình thức không chính thức,
một serenade là một tác phẩm được biểu diễn cho một người được
yêu chuộng, người bạn hay một người nào đấy được tôn vinh, với
thời gian đặc trưng là vào chiều tối và thường ở dưới cửa sổ nhà
người đó. Phong tục chơi serenade theo kiểu này bắt đầu từ thời
Trung cổ hoặc Phục hưng và từ "serenade" với cách dùng thông
thường nhất trong ngôn ngữ hiện hành liên quan đến phong tục này.
Âm nhạc được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào,
ngoại trừ nó được một người hát tự đệm đàn bằng nhạc cụ có thể
mang theo được, chẳng hạn như flute hoặc guitar. Những tác phẩm
thuộc dạng này cũng xuất hiện ở những thời đại về sau, nhưng
thường là trong tình huống có liên quan một cách đặc biệt đến thời
trước, chẳng hạn như một aria trong một vở opera (một ví dụ nổi
tiếng là trong opera Don Giovanni của Mozart).
2/ Trong thời Baroque, và thường được gọi là một serenata (từ tiếng
Ý của serenade - vì hình thức này xuất hiện thường xuyên nhất ở Ý),
một serenade là một loại cantatađược biểu diễn ngoài trời, vào chiều
tối với những nhóm nhạc khí và giọng hát. Một vài nhà soạn nhạc
của loại serenade này là Alessandro Stradella, Alessandro Scarlatti,
Johann Joseph Fux, Johann Mattheson và Antonio Caldara. Thường
thì có những tác phẩm quy mô lớn được biểu diễn với sự dàn dựng
tối thiểu, chen giữa một cantata và một vở opera. Theo một số nhà
chú giải, sự khác nhau chủ yếu giữa một cantata và một serenata,
vào khoảng năm 1700, là serenata được biểu diễn ngoài trời và vì
31
vậy có thể sử dụng những nhạc cụ tạo âm thanh quá to nếu ở trong
một khán phòng nhỏ - ví dụ như trumpet, horn và trống.
3/ Loại serenade quan trọng nhất và thịnh hành nhất trong lịch sử âm
nhạc là một tác phẩm viết cho hòa tấu khí nhạc quy mô lớn ở nhiều
chương, có liên quan đến divertimento và chủ yếu được soạn ở
những thời kì Cổ điển và Lãng mạn, mặc dù một ít hình mẫu tồn tại
từ thế kỉ 20. Thông thường thì tính chất của tác phẩm nhẹ nhàng
thanh thoát hơn các tác phẩm nhiều chương khác viết cho hòa tấu
lớn (ví dụ như giao hưởng), với tính chất du dương quan trọng hơn
việc phát triển chủ đề hay sức mạnh kịch tính. Phần lớn các tác
phẩm này xuất xứ từ Ý, Đức, Áo và Bohemia. Những ví dụ nổi tiếng
nhất của thể loại serenade từ thế kỉ 18 chắc chắn là những serenade
của Mozart, là những tác phẩm có hơn 4 chương nhạc và đôi khi lên
đến 10 chương. Hòa tấu điển hình nhất cho một serenade là một hòa
tấu nhạc cụ hơi cùng với bass và viola: các nhạc công có thể đứng,
bởi vì tác phẩm thường biểu diễn ngoài trời. Những serenade
thường bắt đầu và kết thúc bằng những chương nhạc mang tính chất
hành khúc – vì các nhạc công thường phải diễu hành đến và rời khỏi
nơi biểu diễn. Những serenade nổi tiếng của Mozart bao gồm Haffner
Serenade (mà về sau ông soạn lại thành Haffner Symphony No. 35)
và một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Eine Kleine
Nachtmusik, mà chỉ viết cho những nhạc cụ dây một cách không theo
thông lệ.
Đến thế kỉ 19, serenade đã chuyển thành tác phẩm hòa nhạc, ít liên
quan đến việc biểu diễn ngoài trời trong những dịp lễ lạt tôn vinh, và
32
các nhà soạn nhạc bắt đầu viết những serenade cho hòa tấu khác.
Hai serenade của Brahms khá giống những bản giao hưởng nhỏ, trừ
việc chúng sử dụng một dạng hòa tấu mà Mozart đã thừa nhận: một
dàn nhạc nhỏ không có violin. Dvořák, Tchaikovsky, Josef Suk và
những nhà soạn nhạc khác đã viết serenade chỉ cho đàn dây, Hugo
Wolf cũng vậy, ông đã viết một tứ tấu đàn dây (Italian Serenade).
Những nhà soạn nhạc khác viết serenade theo phong cách Lãng
mạn bao gồm Richard Strauss, Max Reger, Edward Elgar và Jean
Sibelius.
Một số ví dụ về serenade thế kỉ 20 bao gồm Serenade cho Tenor,
Horn và đàn dây của Benjamin Britten, Serenade cho piano của
Stravinsky, Serenade cho baritone và bẩy nhạc cụ Op. 24 của Arnold
Schoenberg và chương nhạc có tiêu đề "Serenade" trong tứ tấu dây
cuối cùng No. 15 (1974) của Shostakovich. Một ví dụ về serenade
thế kỉ 21 là Serenade cho đàn dây được Nigel Keay sáng tác vào
năm 2002.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
Romance
Thuật ngữ romance (tiếng Tây Ban
Nha: romance/romanza, tiếng Ý:
romanza, tiếng Đức Romanze, tiếng
33
Pháp: romance, tiếng Nga: романс) có một lịch sử dài hàng thế kỉ.
Bắt đầu là những ballad mang tính kể chuyện ở Tây Ban Nha, đến
thế kỉ 18 nó đã được áp dụng đối với những tác phẩm trữ tình không
chỉ viết cho giọng hát mà còn cho nhạc cụ. Romance, với hàm ý
“lãng mạn, thơ mộng” (theo từ điển Grove Music), có thể là một tác
phẩm viết cho giọng hát và phần đệm khí nhạc, đôi khi áp dụng cho
những tác phẩm khí nhạc, thậm chí cho một chương của một tác
phẩm lớn (ví dụ như chương hai violin concerto của Ludvig van
Beethoven, chương hai piano concerto No. 20 giọng Rê thứ (K.466)
của Wolgang Amadeus Mozart...)
Romance cho giọng hát solo và phần đệm khí nhạc là một thể loại
thơ-nhạc có khuôn khổ vừa phải. Xuất hiện vào giữa thế kỉ 18 đặc
biệt là ở Pháp và Ý, nó thường đề cập đến các chủ đề tình yêu bằng
âm nhạc ở hình thức đơn giản, thường là hai hay ba đoạn đơn. Tuy
nhiên, cũng có khi còn gặp những romance có cấu trúc phức tạp hơn
như ở hình thức rondo chẳng hạn.
Vai trò phần đệm của nhạc khí trong romance rất quan trọng. Nó góp
phần để diễn tả rõ hơn hình tượng của giai điệu, tạo màu sắc cho
giai điệu, ví dụ như romance "Chim sơn ca" của Mikhail Glinka có
phần đệm hoạ lại tiếng chim hót. Romance "Người thợ xay và dòng
suối" và "Con cá hồi" của Franz Schubert có phần đệm như hoạ lại
tiếng róc rách của nước chảy. Nhạc cụ đệm được đưa vào romance
thường là clavecin, harp và nhất là piano. Tuy nhiên các cấu trúc
khác có thể là giọng hát với phần đệm của một tam tấu hay tứ tấu
đàn dây, một dàn nhạc thính phòng thậm chí cả một dàn nhạc đầy
34
đủ. Trong những trường hợp khác, một nhạc cụ khác (bắt buộc)
được dự định tạo ra một màu sắc đặc biệt cho tác phẩm (nó có thể
cần đến flute, violin, horn...)
Thể loại romance cho giọng hát solo và phần đệm khí nhạc đạt đến
thời kỳ hoàng kim của mình trong thời Cách mạng Pháp và Đế chế
Napoleon, rồi dần suy tàn dưới thời Trung hưng. Tuy nhiên nó cũng
đạt tới thành công đủ tầm cỡ nhất là trong các salon và cả trong các
buổi hòa nhạc. Romance cũng xuất hiện trong các phóng tác của thể
loại trong các tác phẩm khác, đặc biệt là trong opera nhưng cũng cả
trong âm nhạc tôn giáo nữa. Ta có thể thấy một romance ở cảnh 4
màn II vở hài kịch Mariage de Figaro ou la Folle journée (Ngày điên
rồ hay Đám cưới Figaro) của Beaumarchais. Nó được lấy cảm hứng
từ phong cách thời Trung cổ. Bản romance là một bài thơ dưới hình
thức bài ca, toàn bộ dựa trên giai điệu của Marlbrough s'en va-t-en
guerre (một bài ca cổ của Pháp mà phần lời lời được cho là của
Madame de Sévigné) được dự tính để quyến rũ bà bá tước. Aria "Je
crois entendre encore" trích trong opera Les pêcheurs de perles
(Những người mò ngọc trai) của Georges Bizet cũng được liệt vào
thể loại romance trong tổng phổ.
Thể loại romance cho giọng hát solo và phần đệm khí nhạc sau đó
nhường chỗ cho thể loại mélodie ở Pháp nhưng đặc biệt là được
thay thế bằng thể loại lied có nguồn gốc Đức. Trong thế kỉ 18 và 19
các nhà soạn nhạc Nga đã phát triển nhiều loại romance Pháp thành
thể loại romance tình cảm của Nga.
35
Romance khí nhạc thường được viết cho một nhạc cụ chính (violin,
flute...) kèm theo với phần đệm piano hay dàn nhạc. Chẳng hạn như
hai romance cho violin và dàn nhạc (no. 1 G-dur, Op. 40 và no. 2 in
F-dur, Op. 50) của Beethoven; Romance giọng Pha thứ, Op. 11, cho
violin và piano của Antonin Dvorak; Drei Romanze cho violin và piano
của Clara Schumann... Ngoài ra cũng có các romance cho các nhạc
cụ solo như piano, guitar... Robert Schumann đặc biệt ưa chuộng
tiêu đề romance cho các tác phẩm piano của mình song ông cũng có
romance cho nhạc cụ khác như 3 Romance cho oboe và piano bốn
tay Op. 94 năm 1849.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
Âm nhạc chương trình (Program Music)
I. Giới thiệu
Âm nhạc chương trình là âm nhạc mô
tả một chủ đề ngoài âm nhạc, chẳng
hạn một câu chuyện, một đối tượng
hay một quang cảnh, bằng cách sử
dụng những hiệu quả của âm nhạc. Những nỗ lực sử dụng âm nhạc
vào mục đích mô tả có lẽ cũng xưa như chính âm nhạc vậy. Câu hỏi
liệu rằng chỉ riêng âm nhạc có khả năng mô tả bất cứ chủ đề nào hay
không là một câu hỏi cũ và thật sự chưa bao giờ có câu trả lời.
Người ta nghi ngờ rằng liệu thính giả có nhận ra cái gì đang được
36
miêu tả bằng âm nhạc không nếu không có sự trợ giúp của các tiêu
đề, các phần tóm lược hay các chú thích chương trình, các trích dẫn
văn học hay các trích dẫn từ những giai điệu nổi tiếng có mối liên hệ
đặc biệt, chẳng hạn như những hành khúc quân đội, thánh ca, tình
ca truyền thống, bài hát đi săn hay bài ca ái quốc...
Những mô phỏng âm thanh thực tế hiển nhiên, chẳng hạn như hiệu
ứng tiếng sấm trên trống định âm hay âm thanh gần giống tiếng chim
từ flute, có thể thực hiện được và đã được các nhà soạn nhạc sử
dụng từ nhiều thế kỉ. Người nghe có thể nhận ra mà không cần phải
được cắt nghĩa đối với tác phẩm cho đàn phím La poule (Con gà
mái, 1706) của nhà soạn nhạc Pháp Jean Philippe Rameau. Nghệ sĩ
violin bậc thầy Nicolo Paganini có thể tái tạo trên cây đàn của mình
những âm thanh mà người nghe ngay lập tức nhận ra là âm thanh
của một sân nuôi gà vịt hay tiếng chuông nhà thờ. Tuy vậy, ngoài
những khả năng thuộc về chữ nghĩa hay mang tính biểu diễn để thu
hút sự chú ý của việc mô tả bằng âm nhạc, yếu tố tưởng tượng là
cần thiết đối với thính giả cho dù nhà soạn nhạc đã đưa ra thêm
những giảng giải bên cạnh âm nhạc. Trong một vài trường hợp,
chẳng hạn như chủ đề được gọi là “Định mệnh” mở đầu bản giao
hưởng số 5 của nhà soạn nhạc người Đức Ludwig van Beethoven,
công chúng đã được cung cấp ý nghĩa của âm nhạc mà nhà soạn
nhạc đã không thông báo, ít nhất là bằng từ ngữ.
II. Những tác phẩm trước thời kỳ Lãng mạn
Những nhà soạn nhạc viết cho đàn phím và đàn dây thời kỳ đầu
thường sáng tác những tác phẩm mang tính miêu tả, chẳng hạn như
37
ở thế kỷ 16 nhà soạn nhạc người Anh William Byrd đã miêu tả lại một
trận đánh trong tác phẩm Mr. Byrd's Battell viết cho đàn phím. Những
miêu tả như vậy được tiếp tục sáng tác trong thế kỷ 17 và 18. Một số
tác phẩm tiêu biểu là Musical Representations of Various Biblical
Stories, một bộ 6 sonata cho harpsichord của nhà soạn nhạc kiêm
nghệ sĩ organ Đức Johann Kuhnau và The Four Seasons, một bộ 4
concerto grosso của nhà soạn nhạc Ý Antonio Vivaldi.
Trong thời kỳ Cổ điển (khoảng 1750 – 1820) mục tiêu thẩm mỹ của
âm nhạc không khuyến khích việc miêu tả những chủ đề ngoài âm
nhạc; thay vào đó là tập trung vào việc phối hợp những yếu tố âm
nhạc theo quy luật âm nhạc thuần túy. Nếu các tác phẩm khí nhạc
của thời kỳ này chứa đựng sự miêu tả thì các yếu tố ngoài âm nhạc
thường được làm cho phù hợp trong phạm vi một sự phối hợp các
mối liên hệ bằng âm nhạc thuần túy. Một ví dụ cho cách tiếp cận này
là bản Giao hưởng “Đồng quê” (1808) của Beethoven. Âm nhạc
chương trình thực sự được tiếp tục vào cuối thế kỷ 19, khi những
nhà soạn nhạc để cho chương trình quyết định hình thức toàn thể
của một tác phẩm cũng như những mối liên hệ nội tại của nó.
III. Thế kỷ 19
Đầu thế kỷ 19, nền âm nhạc chịu ảnh hưởng lớn lao từ một trào lưu
văn học được biết đến dưới cái tên Chủ nghĩa lãng mạn. Nhà soạn
nhạc Pháp Hector Berlioz và nhà soạn nhạc Đức Franz Liszt là
những người dẫn đầu trong việc phát triển âm nhạc chương trình, vì
khi đó nó bắt đầu được biết đến. Họ đã sáng tác những tác phẩm âm
nhạc dựa trên hoặc lấy cảm hứng từ những đề tài văn học, hội họa
38
và những đề tài khác. Chẳng hạn như trong Symphonie fantastique
(Giao hưởng Ảo tưởng, 1830), Berlioz đã lặp lại một giai điệu để diễn
tả sự hiện diện của một người phụ nữ ám ảnh trong giấc mơ của
người nghệ sĩ. Trong những tác phẩm hay nhất của Berlioz, một số
được lấy đề tài từ tác phẩm của William Shakespeare và Virgil. Sự
ngưỡng mộ nhân vật lãng mạn phổ biến trong thời kỳ này tạo cảm
hứng cho các tác phẩm giao hưởng mang đầy bầu không khí. Như
Berlioz với bản giao hưởng Harold in Italy (1834) được dựa trên anh
hùng ca của nhà thơ người Anh George Gordon, Lord Byron; Franz
Liszt với Faust Symphony (1857) và Dante Symphony (1857) cũng
dựa trên những tác phẩm văn chương lớn. Trong những bản giao
hưởng trên cũng như trong các tác phẩm như Les préludes (1854)
mà Liszt đã nghĩ ra thuật ngữ thơ giao hưởng (symphonic poem),
Liszt đã sử dụng chủ đề quán xuyến, các tiết nhạc dùng giai điệu đặc
biệt để định dạng những nhân vật, những hành động hay biểu tượng,
một sự cách tân được con rể ông là nhà soạn nhạc Richard Wagner
phát triển trong các tác phẩm nhạc kịch của mình.
Trong hành trình thế kỷ 19, sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc được
phản ánh trong các tác phẩm như Má vlast (Tổ quốc tôi, 1874-1879),
một liên khúc thơ giao hưởng miêu tả các khía cạnh của đất nước
quê hương tác giả - Bedřich Smetana và Finlandia (1900), một bản
thơ giao hưởng tha thiết của Jean Sibelius ngợi ca đất nước Phần
Lan của ông. Âm nhạc chương trình có lẽ đạt tới hình thức phức tạp
nhất trong những tác phẩm thơ giao hưởng của nhà soạn nhạc
người Đức Richard Strauss, người đã dùng mọi tài nguyên của dàn
nhạc hiện đại thời bấy giờ để diễn tả những nhân vật và sự kiện lãng
39
mạn, như trong tác phẩm Don Quixote (1898) dựa theo tiểu thuyết
cùng tên của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra.
Trong tác phẩm này, ông dùng cello solo để miêu tả nhân vật Don
Quixote và viola solo để miêu tả người hầu cận trung thành của Don
Quixote, trong khi toàn bộ dàn nhạc được dùng để bình luận, minh
họa cho những cuộc phiêu lưu của họ.
IV. Những hướng phát triển khác
Những kiểu âm nhạc chương trình khác có thể kể đến như La danse
macabre (1874) (Vũ điệu ma quỷ) - một bài tập kỳ cục của nhà soạn
nhạc Pháp Camille Saint-Saëns; Những biến tấu Enigma (1899) -
những bức chân dung bằng âm nhạc mô tả một nhóm bạn của nhà
soạn nhạc Anh Edward Elgar; Prélude à l'après-midi d'un faune
(Prelude Buổi chiều của thần điền dã, 1894) - một gợi tả bằng âm
nhạc của Claude Debussy theo thi phẩm cùng tên của nhà thơ Pháp
Stéphane Mallarmé và Music for a Great City (1964) - một tác phẩm
cho dàn nhạc miêu tả cuộc sống ở thành phố New York của nhà
soạn nhạc Mỹ Aaron Copland.
Âm nhạc chương trình cũng đã được sử dụng để tuyên truyền chính
trị, chẳng hạn như trong bản giao hưởng số 3 (May Day,
1931)củanhà soạn nhạc Nga Dmitri Shostakovich, một tác phẩm biểu
dương ngày quốc tế lao động.
Một số nhà soạn nhạc gần đây hơn, đặc biệt là những người sử
dụng hệ thống 12 âm, đã có xu hướng nhấn mạnh tính trừu tượng
của âm nhạc. Và nếu họ sử dụng các tiêu đề thì đều chọn tiêu đề vì
40
nhưng ý nghĩa chung chung hơn là vì những ý nghĩa cụ thể, như
trong tác phẩm Differences (1959) của nhà soạn nhạc Ý Luciano
Berio và Moments (1965) của nhà soạn nhạc Đức Karlheinz
Stockhausen. Âm nhạc được tạo ra từ nhạc cụ điện từ hay thiết bị
điện tử có thể được coi là đi ngược lại với những nguyên tắc truyền
thống trong việc mô tả bằng âm nhạc, vì nó hoạt động bằng những
âm thanh từ nhiều nguồn ngoài âm nhạc có thể nhận ra được và
bằng cách hòa lẫn, pha trộn hay bóp méo âm để lấy ra cái cụ thể
trong lĩnh vực của cái trừu tượng. Nhiều tác phẩm âm nhạc kiểu này
đã được dùng để để mô tả những khía cạnh kỳ lạ và khôi hài của
cuộc sống, như trong tác phẩm Silver Apples of the Moon (1967) của
Morton Subotnick. Nhà soạn nhạc Mỹ John Adams đã đưa những
yếu tố chương trình vào tác phẩm của mình như tác phẩm viết cho
dàn nhạc My Father Knew Charles Ives (2003) mà ông mô tả như
“một tác phẩm tự truyện bằng âm nhạc”.
Nguyễn Võ Lâm dịch
Thể loại Prelude
1/ Giới thiệu chung: Prelude (khúc dạo đầu) là một khúc
nhạc ngắn, thường không có hình thức
nội tại đặc biệt, có thể đóng vai trò là
41
một sự giới thiệu cho những chương nhạc tiếp theo của một tác
phẩm mà thường dài và phức tạp hơn. Nhiều prelude có một ostinato
(một motif hay một câu nhạc được lặp đi lặp lại nhiều lần với cùng
một giọng) tiếp diễn suốt từ đầu đến cuối, thường là ở nhiều nhịp và
giai điệu khác nhau. Chúng cũng có tính ngẫu hứng ở một mức độ
nào đó trong phong cách. Prelude có thể liên quan đến overture, đặc
biệt là những prelude trong một vở opera hay một oratorio.
2/ Lịch sử: Những prelude sớm nhất là những sáng tác cho đàn lute của thời
Phục hưng. Chúng là những khúc ứng tác tự do và được dùng như
những đoạn giới thiệu ngắn cho một đoạn nhạc lớn hơn; những
người chơi đàn lute cũng dùng chúng để kiểm tra nhạc cụ hoặc độ
vang âm của căn phòng trước buổi biểu diễn. Những prelude cho
đàn phím bắt đầu xuất hiện vào thế kỉ 17 ở Pháp: Những prelude
không nhịp, mà trong đó độ dài của mỗi nốt tùy thuộc vào người biểu
diễn, được sử dụng như là những chương mở đầu trong những tổ
khúc cho đàn harpsichord. Louis Couperin (1626 - 1661) là nhà soạn
nhạc đầu tiên đã đi theo thể loại này. Những prelude cho đàn
harpsichord được đông đảo các nhà soạn nhạc sử dụng cho đến tận
nửa đầu của thế kỉ 18 trong đó có Jean-Henri d'Anglebert (1629 -
1691), Élisabeth Jacquet de la Guerre (1665 - 1729), François
Couperin (1668 - 1733) và Jean-Philippe Rameau (1683 - 1764),
người mà những khúc nhạc đầu tiên được xuất bản (1706) là ở thể
loại này. Những prelude không nhịp cho harpsichord cuối cùng đã lỗi
thời từ những năm 1710.
42
Sự phát triển của prelude ở Đức vào thế kỉ 17 dẫn đến một hình
thức cấu thành tương tự như đối với các toccata cho đàn phím do
Johann Jakob Froberger hay Girolamo Frescobaldi sáng tác. Những
prelude do các nhà soạn nhạc Đức ở miền Bắc như Dieterich
Buxtehude (1637 - 1707) và Nikolaus Bruhns (1665 - 1697) bao gồm
những đoạn ứng tác tự do cùng những phần được viết theo lối đối
âm nghiêm ngặt (thường là những fugue ngắn). Ngoài nước Đức,
Abraham van den Kerckhoven (1618 - 1701), một trong những nhà
soạn nhạc Hà Lan quan trọng nhất của thời kỳ này, đã sử dụng mẫu
hình này cho một số prelude của ông. Những nhà soạn nhạc miền
Nam và Trung nước Đức đã không theo hình mẫu cấu thành này và
các prelude của họ vẫn mang tính ứng tác về tính chất với rất ít hoặc
không có đối âm nghiêm ngặt.
Trong nửa cuối thế kỉ 17, những nhà soạn nhạc Đức bắt đầu ghép
cặp những prelude (đôi khi là những toccata) với những fugue theo
cùng một điệu thức. Johann Pachelbel (1653 - 1706) là một trong
những người đầu tiên làm như vậy (những prelude của ông không ít
thì nhiều tương tự như các toccata của ông), mặc dù các khúc
"prelude và fugue" của Johann Sebastian Bach (1685 - 1750) nhiều
hơn và ngày nay nổi tiếng hơn. Những prelude cho organ của Bach
hoàn toàn thay đổi, dẫn tới những ảnh hưởng cả ở miền Nam và
miền Bắc nước Đức.
Johann Caspar Ferdinand Fischer (mất năm 1746) là một trong
những nhà soạn nhạc Đức đầu tiên mang phong cách Pháp cuối thế
kỉ 17 tới âm nhạc cho đàn harpsichord, thay thế overture tiêu chuẩn
43
Pháp bằng một prelude không nhịp. Ariadne musica của Fischer là
một tập nhạc cho đàn phím bao gồm những cặp prelude và fugue;
những prelude hoàn toàn đa dạng và không thích ứng với bất kỳ hình
mẫu đặc biệt nào. Ariadne musica đóng vai trò như một tiền thân của
Well-Tempered Clavier của Bach, hai tập gồm 24 prelude và fugue
theo từng cặp đôi. Những prelude của Bach cũng đa dạng, một số na
ná những vũ khúc thời Baroque, một số khác là những tác phẩm đối
âm hai-và-ba bè, không giống như tập tác phẩm Inventions and
Sinfonias (BWV 772 - 801) của ông.
Well-Tempered Clavier của Bach đã ảnh hưởng đến hầu hết những
nhà soạn nhạc lớn của những thế kỉ tiếp theo và nhiều người thường
viết những prelude thành bộ gồm 12 hay 24 bản, đôi khi với dự định
sử dụng cả 24 điệu trưởng và thứ như Bach đã làm. Frédéric Chopin
(1810 - 1849) đã viết một bộ 24 prelude, Op. 28, giải phóng prelude
ra khỏi mục đích mang tính giới thiệu ban đầu của nó. Nhiều nhà
soạn nhạc sau ông đã viết những prelude đóng vai trò như những tác
phẩm độc lập: đặc biệt quan trọng trong số đó là hai tập prelude cho
piano trường phái Ấn tượng của Claude Debussy (1862 - 1918), tác
phẩm đã ảnh hưởng đến nhiều nhà soạn nhạc về sau.
Prelude cũng được một số nhà soạn nhạc thế kỉ 20 sử dụng khi viết
những tổ khúc lấy cảm hứng Baroque. Những tác phẩm như vậy
gồm cả Le Tombeau de Couperin (Ngôi mộ của Couperin (1914/17)
của Ravel và Tổ khúc cho piano, Op. 25 (1921/23) của Schoenberg,
cả hai tác phẩm đều bắt đầu bằng một prelude mang tính giới thiệu.
44
3/ Những tập prelude trứ danh: - Ariadne musica (1702), của J.C.F. Fischer, bao gồm 20 prelude và
fugue ở 19 điệu thức khác nhau.
- Johann Sebastian Bach đã viết hai tập Well-Tempered Clavier
(1722). Mỗi tập bao gồm 24 prelude, từng bản trong mỗi tập lần lượt
ở những điệu thức trưởng và điệu thức thứ, với mỗi prelude được
tiếp theo bằng một fugue ở cùng điệu thức. Những prelude được
đánh số lẻ là ở những điệu thức trưởng, bắt đầu bằng Đô trưởng và
mỗi bản được tiếp theo bằng một prelude ở điệu thức thứ tương
ứng. Những prelude được đánh số lẻ tiến lên từng nửa cung (ví dụ :
No.1 Đô trưởng, No.2 Đô thứ, No.3 Đô thăng trưởng...)
- Ludwig van Beethoven đã viết hai prelude, Op. 39; mỗi một bản
quay vòng qua tất cả những điệu thức trưởng của đàn piano.
- Frédéric Chopin đã viết 24 Prelude, Op. 28 quay vòng qua tất cả
những điệu thức trưởng và điệu thức thứ. Những prelude được đánh
số lẻ là ở những điệu thức trưởng, bắt đầu bằng Đô trưởng và mỗi
bản được tiếp theo bằng một prelude ở điệu thức thứ tương ứng.
Những prelude tiến lên qua dấu thăng tăng dần và dấu giáng giảm
dần (ví dụ: No.1 Đô trưởng, No.2 La thứ, No.3 Son trưởng…)
- Claude Debussy đã viết hai tập 12 prelude. Tập 1 (1910) và tập 2
(1913), tổng cộng là 24 prelude. Tên của prelude được đề ở cuối mỗi
khúc, trong khi số La Mã đóng vai trò như tiêu đề.
- Sergei Rachmaninov đã viết 1 prelude, Op. 3 No. 2; 10 Prelude, Op.
23 và 13 Prelude, Op. 32, tổng cộng là 24 Prelude.
- Alexander Scriabin đã viết 24 Prelude, Op. 11, và nhiều bộ prelude
ngắn hơn. Ông đã theo mô hình như những prelude của Chopin (Đô
trưởng, La thứ, Son trưởng, Mi thứ, Rê trưởng...)
45
- Paul Hindemith đã viết Ludus Tonalis (Trò chơi của các nốt nhạc,
1940), 1 prelude, 11 interlude và một postlude, tất cả tách biệt thành
12 fugue.
- Alberto Ginastera đã viết một bộ gồm 12 prelude Mĩ ((Doce
Preludios Americanos) (1946)
- Dmitri Shostakovich đã viết một bộ gồm 24 Prelude và Fugue vào
năm 1951, cũng như là một bộ 24 Prelude cho piano thời kỳ trước
đó.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Overture
Overture (tiếng Pháp: ouverture; tiếng
Đức: Ouvertüre; tiếng Ý: sinfonia) là
một khúc nhạc có độ dài trung bình,
hoặc để giới thiệu một tác phẩm mang
tính kịch hoặc được dự tính cho biểu
diễn hòa nhạc.
1.Các định nghĩa
Từ “overture”, bắt nguồn từ “ouverture” trong tiếng Pháp, có nghĩa là
tác phẩm gồm hai hoặc nhiều đoạn tạo thành một sự giới thiệu gây
ấn tượng cho một vở ballet, opera hay oratorio ở thế kỉ 17. (Đôi khi
nó được áp dụng, nhất là Bach, cho một tổ khúc gồm một nhóm
chương vũ khúc.) Theo cách sử dụng ở thế kỉ 18, nó được mở rộng
tới các tác phẩm kiểu giao hưởng, cho dù nó có phải là các khúc mở
màn cho các tác phẩm nhạc kịch hay không; các thuật ngữ thường
46
được sử dụng có thể hoán đổi cho nhau. Do đó trong những năm
1790, các bản giao hưởng Luân Đôn của Haydn đôi khi lại được đề
là “overtures”.
Trong cách sử dụng hiện đại, thứ nhất, từ này có nghĩa là một khúc
nhạc quan trọng viết cho dàn nhạc được dự tính để trình diễn trước
một tác phẩm mang tính kịch (vì thế nó gồm cả overture Ý mà thực tế
có thể được gọi là ‘sinfonia’). Nó có thể được viết thành một hay
nhiều đoạn và có thể kết thúc hoàn toàn hoặc không trước khi
chuyện kịch bắt đầu (overture cho Die Entführung aus dem Serail của
Mozart là ví dụ cho trường hợp không kết thúc hoàn toàn). Thông
thường thì nó kết thúc với một đoạn nhạc nhanh có phần chói sáng.
Nếu không thì nhiều khả năng nó được gọi là một ‘prelude’ (Wagner
thường gọi là ‘Vorspiel’), như trường hợp vở Tristan und Isolde hay
một ‘introduction’ như trường hợp vở Swan Lake.
Từ này cũng được mở rộng tới tác phẩm có quy mô tương đương
được dự tính dành cho biểu diễn độc lập trong một buổi hòa nhạc.
Một overture hòa nhạc (concert overture) thường, chứ không phải
luôn luôn, có một tiêu đề hoặc là gợi ra một nội dung mang tính văn
chương hay hình tượng (như The Hebrides của Mendelssohn) hoặc
là đồng nhất với sự kiện mà vì nó tác phẩm được viết ra (như Die
Weihe des Hauses của Beethoven hay Akademische Festouvertüre
của Brahms). Nó gần như tương đương với chương thứ nhất của
một bản giao hưởng và bị hạn chế hơn so với một bản thơ giao
hưởng.
47
2. Overture mang tính kịch
Những buổi biểu diễn của triều đình thời Phục hưng thường bắt đầu
bằng một hồi kèn trumpet theo phong cách vẫn tồn tại đến ngày nay
như Orfeo (1607) của Monteverdi. Một ‘sinfonia’ ở thời đại ban đầu
này là bất cứ chương nhạc nào trong tiến trình của một vở opera;
thường thì chúng được chơi trước mỗi hồi hoặc phần của tác phẩm
lớn. Sinfonia ở đầu Il Sant'Alessio (1631 hoặc 1632) của Landi diễn
ra theo ba đoạn, nhanh - chậm - nhanh, nhưng cách sắp đặt này đã
có từ lâu trước bất cứ áp dụng có hệ thống nào kiểu như vậy. Các
opera Venetian của những năm 1640 và 1650 nói chung bắt đầu
bằng một chương nhạc cùng chủ điệu viết cho các đàn dây solo và
chạy liền (continuo), ở ba tiết nhạc ngắn, chậm. Trong một vài trường
hợp nó đóng vai trò như đoạn điệp khúc (ritornello) của phần thanh
nhạc đầu tiên. Trong La Dori (1657) của Cesti nó được sử dụng hai
lần: ở giọng Rê trước prologue (phần mở đầu) và ở giọng Đô trước
hồi thứ nhất. Về sau ‘sinfonia’ này được mở rộng tới hai hay nhiều
chương với các nhịp và tiết tấu khác nhau và tới khi trong mô hình
thông dụng nhất trở thành nhịp đôi chậm được tiếp theo bằng nhịp
ba nhanh không giống như một cặp vũ khúc (Scipione affricano của
Cavalli chẳng hạn).
Một hình thức tương tự được sử dụng trong ballet de cour (ballet
triều đình) Pháp được gọi là ‘overture’ ít ra là từ năm 1640 (trong
Ballet de Mademoiselle, xuất bản ở Prunières). Lully đã mở rộng nó
và bắt đầu phát triển sự tương phản đặc trưng giữa hai đoạn. Đoạn
đầu trở nên giống hành khúc với các nhịp điểm vào một cách khoa
48
trương mang vẻ uy nghiêm quân chủ chuyên chế. Về đặc trưng, nó
sẽ kết thúc bằng một “half-cadence” và sẽ được lặp lại. Đoạn thứ hai
thường ở nhịp ba hoặc nhịp phức và giống canzona trong cách sử
dụng mô phỏng; nói chung thì cả nó cũng sẽ được lặp lại. Thường có
một đoạn ngắn quay lại nhịp và tiết tấu của đoạn đầu ở phần kết.
Overture đặc trưng hoàn chỉnh đầu tiên là overture trong ballet
Alcidiane (1658) của Lully. Trong tragédie lyrique (bi kịch trữ tình) từ
Lully tới Rameau, nó thường gồm một cặp overture, một ở trước
prologue và một để giới thiệu chính vở opera. Tổng phổ chủ yếu là
viết cho oboe, dàn dây năm bè và chạy liền (continuo). Overture kiểu
Pháp được mô phỏng theo ở Đức, Anh và đôi khi ngay cả ở Ý.
Handel ưa sử dụng nó một cách tự do hơn và thường với một sự đa
dạng các chương thêm vào và đôi khi được kết nối với diễn biến tiếp
theo của chuyện kịch. Ở nước Anh overture kiểu Pháp có thể được
sử dụng như prelude cho một vở kịch nói, như trong The Beggar's
Opera và cũng trở nên phổ biến ở một phiên bản đàn phím (Pont).
Overture Ý (sinfonia avanti l'opera), xuất phát từ những khởi nguyên
mô phỏng tương tự, bắt đầu phát triển một mô hình chuẩn mực ở
Naples cuối thể kỉ 17. Về đặc trưng nó có ba đoạn ngắn, đơn giản
được sắp xếp theo trình tự nhanh - chậm - nhanh. Alessandro
Scarlatti đã sử dụng loại hình này trong Tutto il mal non vien per
nuocere (1681) và với một số quy tắc sau năm 1965. Trong tổng phổ
của ông thường có một hoặc hai trumpet tham gia vào hai chương
vòng ngoài, chơi các đoạn chói sáng được violin (cũng có thể là hòa
âm flute và oboe trong Eraclea, 1700) lặp lại. Thực tế thì overture Ý
từ giai đoạn này đôi khi không thể phân biệt được với một trumpet
49
concerto, đương nhiên là ở giọng Rê trưởng (một ví dụ hay là
sinfonia trong serenata Il giardino di amore, c1700–05, của Scarlatti).
Đoạn giữa chậm chỉ có các đàn dây thường mau chóng chuyển sang
các giọng thứ tương ứng và đoạn cuối cùng là một chương vũ khúc
nhịp đôi phức. Các oratorio kiểu Ý trong thời kỳ này có thể tương tự
các sonata nhà thờ hoặc theo hình thức overture kiểu Pháp hoặc
kiểu Ý.
Trong các opera đầu thế kỉ 18, overture Ý dần dần lan truyền đến
bắc Alps. Croesus (1711) của Keiser ban đầu có một overture Pháp
nhưng khi ông chỉnh sửa nó vào năm 1730 ông đã thay bằng một
overture mới theo phong cách Ý. Ở Pháp, overture đã phần nào gây
ra những cuộc tranh cãi công khai kéo dài trong đề tài các phong
cách Ý chống lại các phong cách Pháp. Hơn nữa các chương vòng
ngoài bắt đầu giống với các đề cương hình thức sonata mà không có
những phần phát triển. Có hai phân nhánh : overture ‘điệp khúc’
trong đó đoạn thứ ba dùng chất liệu y hệt đoạn mở đầu (có thể thấy
ngay từ Don Chisciotte của Caldara năm 1727) và loại overture hai
chương trong đó tiết mục xướng âm mở đầu đóng vai trò như phần
kết của overture (Fux, Elisa, 1719).
Cả ba loại hình đều còn tồn lại sau năm 1760, đến lúc đó overture Ý
đã trở thành tiêu chuẩn cho các vở opera khắp châu Âu. Tuy nhiên
hình thức vẫn đang phát triển theo những lối song song gần gũi với
sự cải biến của aria da capo (aria có tái hiện) và khiến nó dần dần
tách ra khỏi giao hưởng đích thực. Loại hình ba chương dần biến
mất : overture cuối cùng của Mozart đề năm 1775, của Haydn đề
50
năm 1779. Overture điệp khúc tồn tại ít nhất cho đến Socrate
immaginario (1775) của Paisiello và Die Entführung (1782) của
Mozart, trong đó nó dẫn vào một aria được dựa trên đoạn chậm. Loại
hình hai chương cũng tiếp tục hưng thịnh trong một thời gian, như
trong Philemon und Baucis (1773) của Haydn. Nhưng đến năm 1790,
hình thức được thiết lập chỉ có một chương độc lập, thường với một
introduction chậm. Nó rất giống với chương mở đầu của giao hưởng
đương thời ngoại trừ sự vắng bóng của một phần phát triển trọng
yếu.
Một phần quan trọng trong cải cách opera seria là nỗ lực kết nối
overture một cách xúc cảm và kịch tính với vở opera sắp diễn : điều
này đã được tuyên bố rõ ràng trong lời tựa cho Alceste (1767) của
Gluck, vở opera mà overture thể hiện tâm trạng bi thương là đặc
trưng của hồi thứ nhất. Các vở opera có tính thời sự không phải mới
hoàn toàn : bối cảnh “bão tố” có thể thấy từ L'albero del ramo d'oro
(1681) của Draghi và chính Gluck cũng đã thử viết một overture
“Trung Hoa” cho vở Le cinesi (1754) và một overture “Thổ Nhĩ Kì”
cho opera La rencontre imprévue (1764). Idomeneo, Die Entführung
vàLe nozze di Figaro của Mozart bắt đầu giới thiệu với khán giả diễn
biến kịch sắp xảy ra theo các cách khác nhau. Trong Don Giovanni,
Così fan tutte, Die Zauberflöte thì overture trích các ý đồ âm nhạc
quan trọng từ vở opera, một cách làm đã được Rameau thiết lập
trong các tác phẩm thời kỳ cuối của ông và thực tế là đã được
Pepusch tiến hành trong The Beggar's Opera. Overture “hỗn hợp”
triệt để hơn, ghép chuỗi một số giai điệu được sử dụng trong vở
opera, hình như là một sáng kiến của người Anh, có thể tìm thấy ví
51
dụ trong The Touchstone (1779) của Dibdin. Tạp chí The Times, phê
bình The Lad of the Hills vào ngày 11/4/1796, đã trách cứ rằng khúc
overture rất chi là là lá la, gồm những giai điệu tỉnh lẻ cũ kĩ được
được ráp với nhau một cách tồi tệ, những giai điệu mà về sau được
hát lên theo những lời ca được viết mới trong tiến trình của vở opera.
Vì thế, mọi chất liệu chính của overture nhạc kịch thế kỉ 19 đã có một
vị trí thích đáng trước năm 1800. Trong khi những tác phẩm thời kỳ
đầu của Rossini sử dụng kiểu mẫu một chương rập khuôn chương
nhạc hình thức sonata thiếu phần phát triển, nhưng bằng một
introduction chậm độc lập, Spontini, Méhul và những nhà Lãng mạn
Đức thời kỳ đầu lại có xu hướng phát triển ý đồ viết overture cho
opera theo tâm trạng và chủ đề. Beethoven sử dụng các motif tính
kịch mạnh mẽ trong ba overture Leonore của mình, trong khi Weber
trong Der Freischütz và Euryanthe lại mở rộng phương pháp nhắm
tới một điểm nơi mà hầu hết mọi chủ đề, cả trong những đoạn nhanh
và chậm, đều tái xuất hiện tại một điểm quan trọng trong truyện kịch.
Nhưng cấu trúc chính thức ít thay đổi. Các tác giả grand opéra Pháp
từ vở Guillaume Tell trở đi có xu hướng mở rộng overture truyền
thống bằng một đoạn trữ tình chậm đi trước phần kết luận nhanh và
kịch kiệt. Họ thường đem vào các chủ đề quan trọng và mang tính
biểu tượng từ vở opera, ví dụ như phần chorale ‘Ein’ feste Burg’
trong Les Huguenots của Meyerbeer. Wagner trong những vở opera
thời kỳ đầu của mình đã mô phỏng phong cách này, nhưng trong bộ
4 opera “Der Ring des Nibelungen” ông lại ưa thích một ‘prelude’
được hoàn toàn hòa nhập trong nhạc kịch. Tannhäuser (1845) là một
trong những opera seria quan trọng cuối cùng được dẫn đầu bằng
52
môt overture độc lập, quan trọng trong ý đồ. Với Bellini, Donizetti và
Verdi thì prelude luôn là khả năng lựa chọn và nó trở nên thông dụng
trong opera Ý từ giữa thế kỉ, mặc dù La forza del destino (1862) có
một overture được mở rộng. Với Verdi, prelude cho hồi thứ nhất có
thể không dài hơn prelude cho các hồi khác. Ở vở Aida (1871), ông
đã thử nghiệm bằng một overture quy mô trọn vẹn nhưng lại chọn
một prelude ban đầu được dự tính như một entr’acte. Otello không
có cả overture lẫn prelude. Một số opera ‘dân tộc chủ nghĩa’, chẳng
hạn như Prince Igor, có một chương hình thức sonata trọn vẹn với
phần introduction chậm.
Trong các opera comic và operetta, overture độc lập kéo dài hơn và
ở đây cấu trúc được dựa trên những chủ đề từ truyện kịch chỉ trở
thành một hỗn hợp các giai điệu có thể với một đoạn ngắn cuối cùng
ở hình thức sonata như là một kết nối với hình thức truyền thống.
Overture kiểu chắp nhặt này là mô hình thường được Auber,
Gounod, Thomas, Offenbach, Johann Strauss II và Sullivan lựa chọn;
nó có thể vẫn còn dấu vết trong các overture nhạc kịch hài (musical
comedy) thời hiện tại.
Các overture của oratorio có xu hướng bảo thủ. Một ngoại lệ là
“Representation of Chaos” (Cảnh hỗn loạn) giới thiệu cho The
Creation (Đấng Sáng thế, 1798) của Haydn, một thắng lợi hình dung
duy nhất trong đó prelude khí nhạc được đem làm tiết đoạn thứ nhất
của chính truyện kịch. Trong khía cạnh này nó đi trước các phương
pháp của Wagner đến hơn 50 năm. Overture Pháp chưa bao giờ
biến mất hoàn toàn trong oratorio và trong thế kỉ 19 nó nhận được
53
một sự thúc đẩy lịch sử chủ nghĩa. Nghiên cứu của Smither đưa ra
các danh sách khoảng 40 oratorio Đức và Pháp mở đầu bằng
overture Pháp, chủ yếu là theo hình mẫu của Handel. Các nhà soạn
nhạc thường cảm thấy miễn cưỡng khi viết các fugue quan trọng
trong ý đồ như Spohr làm trong Des Heilands letzte Stunden và
Mendelssohn trong Elijah. Nhưng Liszt, cho mỗi oratorio trong 2 tác
phẩm thể loại này của mình, đã viết một overture là một rhapsody tự
do trên một giai điệu thánh ca cổ.
2. Overture hòa nhạc
Không hề có thời kỳ nào mà overture hòa nhạc lại hoàn toàn khác
biệt với overture nhạc kịch cả. Chỉ như một số giao hưởng thời kỳ
đầu của Haydn và Mozart được sử dụng để giới thiệu các tác phẩm
sân khấu, nên những overture về sau của họ đôi khi tách khỏi các
opera và được chơi như các tác phẩm hòa nhạc. Một số phần kết đã
được thêm vào overture Don Giovanni để mang lại cho nó một kết
thúc trọn vẹn khi sử dụng làm hòa nhạc, version phần kết đầu tiên là
của chính nhà soạn nhạc. Giống như một số overture của Handel,
nhiều overture của Mozart, Cherubini và Beethoven nằm trong danh
mục hòa nhạc một thời gian dài sau khi các tác phẩm sân khấu mà
chúng vốn thuộc về đã bị quên lãng. Điều này đặc biệt giống chuyện
đã xảy ra với các overture cho các vở kịch, những khúc nhạc mà còn
xa mới quan trọng hơn bất cứ khúc nhạc nào được sử dụng trong vở
kịch. Overture của Beethoven cho vở kịch Coriolan của Collin được
chơi trong hòa nhạc thậm chí từ trước buổi công diễn lần đầu tác
phẩm sân khấu.
54
Từ đây chỉ còn một bước nhỏ để tiến đến việc sáng tác một oveture
như một tác phẩm độc lập. Một overture có thể được đưa vào phần
đầu của tác phẩm sân khấu hoặc dành cho kỉ niệm quốc lễ: một số
overture của Beethoven đã được viết cho những mục đích như vậy
và rồi mau chóng trở thanh các tác phẩm hòa nhạc chuẩn mực. Giữa
năm 1805 và 1820 nhiều nhà soạn nhạc Đức đã viết các overture ở
hình thức một chương nhạc theo mô hình kiểu Mozart mà không có
tiêu đề hay bằng một tiêu đề chỉ nói nên dịp mà chúng được biểu
diễn. Trong số đó có Hoffmann, A.J. Romberg, Weber và Winter.
Schubert đã sáng tác một vài overture, một trong số đó, bản “Theo
phong cách Ý”, về sau đã được sửa chữa và sử dụng trong overture
cho Rosamunde. Die Weihe des Hauses của Beethoven là một
overture hòa nhạc “trừu tượng” theo truyền thống này. Nó có một cấu
trúc không bình thường, bao gồm một số đoạn không thể đoán trước
được nối tiếp bằng một fugue dài và náo nhiệt. Các overture hòa
nhạc không có tiêu đề về sau được Spohr, Wagner, Bruckner và
những người khác sáng tác; Kalliwoda đã viết đến 15 bản.
Nhưng overture hòa nhạc Lãng mạn điển hình, mặc dù vẫn còn có
thể nhận diện theo hình thức cổ điển, đã có một tiêu đề mang tính
lịch sử, thơ ca hay hình ảnh mà nhà soạn nhạc đã đặt cho để giải
thích âm nhạc của mình, theo cách phổ biến. Có lẽ ví dụ thực sự đầu
tiên là Der Beherrscher der Geister (1811) của Weber. Mặc dầu nó
chỉ là một phiên bản được sửa chữa từ overture cho một vở opera
chưa hoàn thành, Rübezahl (1804–5), tiêu đề của nó đơn thuần
mang tính diễn tả, không có liên quan gì đến bất cứ tác phẩm mang
55
tính kịch nào. Nó được viết theo hình thức chương nhạc thể sonata
mà không có introduction. Tuy nhiên Botstiber đã xem Mendelssohn
như một nhà soạn nhạc đích thực của các overture hòa nhạc.
Overture cho vở A Midsummer Night’s Dream (Giấc mộng đêm hè)
được viết như một piano duet (1826) và được công diễn lần đầu như
một tác phẩm hòa nhạc : âm nhạc bổ trợ cho vở kịch không được
thêm vào mãi cho đến nhiều năm sau đó. Meeresstille und glückliche
Fahrt của ông được lấy cảm hứng khi ông đọc cuốn sách cùng tên
của Goethe, trong khi The Hebrides, ban đầu được gọi là Die
einsame Insel và về sau là The Isles of Fingal, được gợi ý từ chuyến
tới thăm những hòn đảo Scotland. Trong trường hợp Melusine, tác
nhân kích thích lại là một lần nghe vở opera bị bác bỏ của Kreutzer:
Mendelssohn không thích bản overture đến nỗi ông quyết định viết
một bản khác, thể hiện điều ông cảm thấy là ý nghĩa thực sự của câu
chuyện thần tiên của Schiller.
Trong những tác phẩm đó, Mendenlshohn đã sử dụng một hình thức
nổi tiếng và được hiểu như một phương tiện thiết lập không khí của
một vở opera và biến đổi nó đi mà không thay đổi một cách triệt để,
để hiện thân cho sự đáp lại của cá nhân đối với một tác phẩm nghệ
thuật hay tác phẩm thiên nhiên cụ thể. Một chương trình chi tiết gần
như là không thể nếu hình thức được duy trì : kết quả là một tác
phẩm mang tính tâm trạng, không phải là tường thuật bằng âm nhạc.
Các overture hòa nhạc của Mendelssohn có lẽ là những ví dụ hoàn
hảo nhất của thể loại này. Dĩ nhiên là không có một nhà soạn nhạc
lớn nào khác mà các overture lại góp một phần quan trọng đến thế
trong danh tiếng của mình.
56
Nhiều nhà soạn nhạc đã đi theo sự dẫn dắt của ông. Gần như đồng
thời, Berlioz đã bắt đầu viết các overture trên các chủ đề văn học,
như King Lear và The Corsair. Mặc dầu được dánh dấu trong chủ đề,
chúng còn khá gần với kiểu mẫu cổ truyền về hình thức. Sterndale
Bennett đã hơn một lần thành công trong việc nắm bắt tính hấp dẫn
thi ca của hình thức Mendelsshohn. Phần lớn overture của
Schumann ban đầu có liên hệ với tác phẩm kịch hay tác phẩm âm
nhạc khác, nhưng một số đã trở thành tác phẩm hòa nhạc tách riêng
ra. Trong đó overture Rheinweinlied (1853) rất thú vị vì một cách tân
: sử dụng hình thức rondo. Overture, Scherzo và Finale op.52 (1841–
5) của ông kết hợp một overture ở hình thức chuẩn mực với hai
chương nhạc khác, không hoàn toàn thêm vào thành một giao
hưởng.
Những nhà soạn nhạc dân tộc chủ nghĩa thường thấy overture hòa
nhạc phù hợp với nhu cầu của họ: Glinka, Rimsky-Korsakov,
Glazunov, Smetana, Dvořák, Grieg và Elgar đều đóng góp những tác
phẩm quan trọng. Overture hỗn hợp của opera comic có bản tương
tự cho overture hòa nhạc dựa trên một hay nhiều giai điệu dân tộc
nổi tiếng, như overture trong Rule Britannia của Wagner, overture
trong Quốc ca Đan Mạch của Tchaikovsky, overture “trên các chủ đề
từ l’Eglise russe” của Rimsky-Korsakov và overture Akademische
Festouvertüre dựa trên những bài ca sinh viên của Brahms. Một ví dụ
muộn là Children’s Overture của Quilter dựa trên những vần điệu trẻ
em. Một thử nghiệm thú vị của Dvořák kết nối ba overture độc lập lại,
‘Nature’, ‘Life’ và ‘Love’ trong một tác phẩm liên hoàn mang tên
57
Carnaval (1891): một motif “thiên nhiên” có ở cả ba overture. Một loại
hình khác, được dựng lên nhằm đạt hiệu quả dàn nhạc ngoạn mục
có điển hình là “Overture 1812” của Tchaikovsky. Nó tiếp tục truyền
thống xưa của các tác phẩm chiến trận xuất hiện trong cái vỏ những
thể loại âm nhạc.
Sự suy thoái của overture hòa nhạc bắt đầu vào những năm 1850
với việc sáng tạo ra thể loại thơ giao hưởng của Liszt. Một số tác
phẩm ông gọi bằng cái tên này ban đầu chỉ là các overture mang tính
kịch. Trong Prometheus (1850, sửa chữa năm 1855) và Hamlet
(1858), đặc điểm chính của hình thức cũ vẫn có thể được nhận thấy.
Theo Raff, Liszt gần như đã quyết định gọi chúng là các overture hòa
nhạc. Tuy nhiên những overture khác có cấu trúc chương trình một
cách tự do, trong đó âm nhạc đi theo đề cương của một câu chuyện
(Mazeppa) hay cố gắng mô tả chủ đề của một bức tranh
(Hunnenschlacht) hoặc phác họa tính cách một nhân vật (Tasso).
Việc tự do đúc nên một hình thức âm nhạc theo những đòi hỏi bên
ngoài âm nhạc, mặc dầu điều đó từng rất viển vông, lại là nét khác
biệt chính giữa hai thể loại âm nhạc và nó cho phép một “chương
trình” chi tiết hơn nhiều so với thể loại nghiêm ngặt hơn có thể cho
phép. Thơ giao hưởng đương nhiên là hấp dẫn nhà tiên phong, trong
khi những nhà soạn nhạc bảo thủ hơn vẫn trung thành với overture
và giữ gìn ít ra là tinh thần hình thức truyền thống của nó. Vì thế có
những thơ giao hưởng của Franck, Richard Strauss, Scriabin và
Schoenberg; những overture của Rubinstein, Tchaikovsky, Brahms
và Sullivan. “Tragic Overture” (1880) của Brahms là một trong những
ví dụ quan trọng cuối cùng. Nó thiếu một sự liên hệ với bên ngoài
58
nhưng không bao giờ xa rời tâm trạng mà tiêu đề của nó vạch ra; nó
là một chương nhạc ở hình thức sonata nghiêm ngặt, với phần phát
triển chủ đề triệt để vốn tiêu biểu ở các giao hưởng hơn là ở các
overture. Loại hình overture “giao hưởng” này được Karl Goldmark
tiếp tục, ông đã mở rộng hình thức rất nhiều mà không vượt qua ranh
giới để tiến vào thể loại thơ giao hưởng “tự do”.
Nói chung, sau năm 1900, overture hiếm khi liên quan đến những gì
đang diễn ra trong âm nhạc Âu châu. Tiêu đề vẫn là một trong số
những lựa chọn để miêu tả kiểu tác phẩm cho dàn nhạc có một
chương với độ dài trung bình; nó thường được chọn cho âm nhạc
được viết cho những dịp hội hè. Một trong những tác phẩm cuối cùng
vẫn thể hiện một số kết nối với truyền thống là Overture op.96 (1954)
của Shostakovich, tác phẩm có hai đoạn kết hợp với nhau: Allegretto
và Presto.
Ngọc Anh & Lê Thanh Huyền (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Oratorio (Thanh xướng kịch)
Oratorio là một thể loại âm nhạc cổ
điển quy mô lớn viết cho dàn nhạc giao
hưởng, ca sĩ solo và dàn hợp xướng.
Oratorio thường dùng để miêu tả một
câu chuyện kịch nhưng khác với một
vở opera là nó không có các hành động kịch, không dùng phục trang
59
biểu diễn và trang trí sân khấu. Oratorio là kịch bằng âm nhạc, dùng
hát có nhạc đệm để kể lại những câu chuyện. Oratorio hầu như xuất
hiện cùng một lúc với cantata và opera vào thế kỷ XVI, XVII. Cấu trúc
giữa các thể loại này có nhiều điểm tương đồng, cũng sử dụng aria,
hát nói, dàn nhạc... So với cantata, khuôn khổ của oratorio lớn hơn,
tính kịch và chủ đề được phát triển rộng hơn. So với opera, ngoài nội
dung tôn giáo, oratorio có lời ca mang tính suy tư và tường thuật hơn
và đặc biệt là có sự nhấn mạnh vào các hợp xướng.
Oratorio được phát triển từ lauda (Lauda-tiếng Ý và Laudo-tiếng Tây
Ban Nha, là những chính ca trữ tình, những lời khuyên răn, giáo dục
phát triển trên giai điệu phổ biến. Lauda một giọng và nhiều giọng
được phát triển rộng rãi ở Ý vào thế kỷ XVIII, XIX, dùng để hát trong
sinh hoạt hàng ngày, trong những buổi hội họp) của những người
biểu diễn kịch ở Rome thế kỷ XVI trong các oratorio ("Oratorio" –
nghĩa là "nhà nguyện" trong tiếng Latin, là ngôi nhà, căn phòng đặc
biệt trong nhà thờ, nơi ấy tập trung các tín đồ để nghe đọc và giảng
giải kinh thánh, những cuộc toạ đàm "cứu thế tâm hồn"... từ đó mà
"Oratorio" trở thành tên gọi cho thể loại này.
Người ta chỉ ra rằng hình thức oratorio được sử dụng lần đầu tiên ở
một tác phẩm âm nhạc được đề ngày tháng sáng tác trong năm
1640, khi Pietro Della Valle, người La Mã viết rằng ông đã sáng tác
một ‘Oratorio della Purificatione’ cho Nhà nguyện La Mã
Congregazione dell’Oratorio. Tác phẩm ngắn này (thời lượng khoảng
12 phút) gồm có vai Poeta, đối thoại với ba nhân vật và một kết thúc
bằng hợp xướng. Tuy nhiên hai mươi năm trước đã có những tác
60
phẩm tương tự tác phẩm của Della Valle về lời ca, âm nhạc và chức
năng xã hội như ở Teatro armonico spirituale di madrigal (Rome,
1619) của G. F. Anerio. Cũng được sáng tác cho Nhà nguyện La Mã,
tác phẩm Rappresentatione di Anima, et di Corpo (Sự trình diễn của
tâm hồn và thể xác) của Emilio de’ Cavalieri trình diễn năm 1600 ở
Rome, hình như lần đầu tiên được Charles Burney (1726-1814,nhà
âm nhạc học người Anh) gọi là một oratorio trong cuốn General
History của mình, có lẽ bởi vì nó có lời kinh thánh mang tính kịch và
là âm nhạc dành cho một nhà nguyện.
Đến giữa thế kỉ XVII hai kiểu oratorio đã phát triển. Kiểu oratorio thứ
nhất hát bằng tiếng Ý, oratorio volgare, như trong các tác phẩm
Daniele của Carissimi, S Tomaso của Marazzoli và các tác phẩm
tương tự được cho là của Foggia và Luigi Rossi. Kéo dài khoảng 30
đến 60 phút, chúng được trình diễn làm hai phần, ngăn cách bằng
một bài thuyết pháp; âm nhạc của chúng tương tự với âm nhạc của
những vở opera và cantata thính phòng cùng thời. Kiểu oratorio thứ
hai hát bằng tiếng Latin, oratorio latino, ban đầu được phát triển tại
Nhà nguyện Oratorio del Ss Crocifisso, có liên kết với nhà thờ San
Marcello ở Rome. Carissimi là nhà soạn nhạc quan trọng nhất của
kiểu oratorio này. Ông là người đã viết tác phẩm Jephte được xem là
kiệt tác đầu tiên của thể loại. Giống như hầu hết những oratorio tiếng
Latin của thời kỳ này, Jephte chỉ có một phần.
Đến những năm 1660 thể loại oratorio được chính thức hóa trong
nhà thờ và đến khoảng năm 1720 thì các oratorio tôn giáo hưng thịnh
cùng các kiểu oratorio thế tục xung quanh. La resurrezione (1708)
61
của Handel được trình diễn tại dinh thự Ruspoli ở Rome và các
oratorio của Alessandro Scarlatti, Caldara và nhiều người khác được
trình diễn ở các nơi tương tự. Các trung tâm khác là Bologna,
Modena, Florence và Venice; những nhà soạn nhạc viết oratorio gồm
có F. Gasparini, Vivaldi cùng nhiều nhà soạn nhạc sáng tác opera
hàng đầu. Các oratorio của họ phần lớn có hai phần, kéo dài khoảng
90 đến 120 phút với các libretto chủ yếu dựa trên kinh thánh, tiểu sử
các thánh và ngụ ngôn đạo đức. Phong cách âm nhạc na ná âm
nhạc của opera với những hợp xướng và nhiều aria da capo (một
loại aria có tái hiện).
Bên ngoài nước Ý, oratorio tiếng Ý chủ yếu là một thay thế chay tịnh
cho một vở opera tại các triều đình theo Cơ đốc giáo La Mã ở trung
tâm châu Âu, đáng chú ý nhất là Vienna, nơi mà các oratorio được
trình diễn tại một nhà nguyện trong suốt các nghi lễ. Một thể loại có
liên quan là sepolcro một phần, trong đó câu chuyện khổ hình của
Chúa Jesus được thuật lại trong một nhà nguyện vào lễ Phục sinh
với cảnh trí, phục trang và hành động kịch. Nhà soạn nhạc hàng đầu
sáng tác các oratorio và sepolcri ở Vienna là Antonio Draghi; một
người khác là Caldara, người đã viết các oratorio mà phần lời do các
nhà thơ của triều đình là Zeno và Metastasio viết.
Chỉ đến đầu thế kỉ thứ 18, thể loại 'Oratorium' với lời bằng tiếng Đức
mới được định hình rõ ràng, được chấp nhận trong đời sống hòa
nhạc Đức và các nghi lễ giáo hội Luther. Một cội rễ của nó là thể loại
historia, chẳng hạn như những sáng tác của Schulz thuật chuyện
Giáng sinh, Khổ hình, Phục sinh. Từ giữa thế kỉ thứ XVII, các nhà
62
soạn nhạc mới bắt đầu kết hợp âm nhạc với những lời ca phi kinh
thánh ; điều này dẫn đến sự ra đời của thể loại 'oratorio Passion', một
thể loại lên đến cực thịnh trong các Passions của Bach. Những tiền
thân khác của oratorio Đức là đối thoại kịch tôn giáo, mà đôi khi đuợc
dùng như một motet (bài thánh ca ngắn) của giáo hội Luther, và các
tác phẩm kiểu oratorio như Abendmusik được trình diễn ở Lübeck
dưới quyền Buxtehude. Hamburg là trung tâm lớn của oratorio Đức
trong thế kỉ 18 mặc dù đối thủ tác phẩm của Keiser là Der blutige und
sterbende Jesus (1704) của Hunold. Một kế vị trực tiếp là oratorio
Passion của Brockes, được Handel, Keiser, Telemann, Mattheson và
những người khác viết. Những nhà soạn nhạc đó đã khiến việc sử
dụng hợp xướng trở nên nổi bật hơn là những nhà soạn nhạc Ý đã
làm và họ cũng đưa vào các hợp xướng thánh ca. Các tác phẩm mà
Bach gọi là 'Oratorium' đứng bên ngoài truyền thống oratorio đích
thực.
Mặc dù có tiền lệ trong tác phẩm đối thoại tôn giáo, oratorio Anh về
cơ bản là sáng tạo của Handel - một sự tổng hợp của các yếu tố từ
masque (ca vũ nhạc kịch) và thánh ca, kịch cổ điển Pháp, opera seria
và oratorio volgare Ý cùng oratorio Tin Lành Đức. Với Handel,
"oratorio" thường có nghĩa là tác phẩm ba hồi trên một chủ đề kinh
thánh, với việc sử dụng hợp xướng nổi bật, được trình diễn như một
buổi hòa nhạc ở nhà hát. Nó khởi nguồn một cách ngẫu nhiên, khi
vào năm 1732 dự định của Handel là cho trình diễn một phiên bản
sân khấu đã sửa chữa của Esther được viết trước đó bị lệnh cấm
của giám mục Luân Đôn ngáng trở. Thành công trong phiên bản hòa
nhạc của nó đã thúc đẩy Handel viết thêm hai vở nữa vào năm 1733
63
và những oratorio tiếng Anh khác của ông được tiếp nối ra đời vào
các năm 1738-52. Trong số đó Messiah (1742) là nổi tiếng nhất, mặc
dù là một sáng tác từ lời kinh thánh thuần túy, không có tính kịch
nhưng nó không phải là điển hình của oratorio kiểu Handel. Không có
nhiều người Anh cố gắng cạnh tranh với sự thành thạo về oratorio
của Handel, mặc dù cũng có các tác phẩm của Greene, Arne và
Stanley.
Charpentier, người học với Carissimi ở Rome, hiện ra như là nhà
soạn nhạc Pháp đầu tiên của thể loại oratorio; ông thích dùng các
thuật ngữ 'historia', 'canticum', 'dialogue' hay 'motet' cho các tác
phẩm kiểu oratorio bề ngoài được trình diễn như các thánh ca kéo
dài trong suốt các đám lễ hội, tại các buổi hòa nhạc nhà thờ và các
cuộc hội họp tuần chay riêng tư. Hợp xướng là bộ phận quan trọng
như người kể chuyện, đám đông, người bình luận. Rất ít oratorio
được sáng tác ở Pháp trong suốt năm mươi năm sau cái chết của
Charpentier vào năm 1704.
Ở Ý và Vienna, oratorio volgare chiếm chiếm ưu thế vào cuối thế kỉ
18, với sự nhấn mạnh vào lối hát độc xướng. Triều đình Dresden đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố oratorio Tiền cổ điển
và Cổ điển. Oratorio giáo hội Luther tiếp tục thực hiện theo nghi lễ và
trong các buổi hòa nhạc công cộng tại Hamburg (dưới quyền của
Telemann và Carl Philipp Emanuel Bach), Berlin (nơi Der Tod Jesu
của Graun được biểu diễn hầu như hàng năm) và Lübeck. Âm nhạc
của các oratorio thời kỳ cuối của Haydn, The Creation (Đấng sáng
64
thế) và The Seasons (Các mùa) phản ánh kinh nghiệm của ông đối
với thể loại oratorio kiểu Handel ở Luân Đôn.
Sau năm 1800 càng có ít hơn các nhà soạn nhạc dành tiềm năng
lớn cho oratorio nhưng thể loại này tiếp tục chiếm một vị trí trung
tâm, đặc biệt là ở Anh và Đức, với sự nhấn mạnh vào biểu diễn quy
mô lớn tại các liên hoan âm nhạc. Các oratorio của Spohr and
Mendelssohn giữ vị trí của mình bên cạnh các oratorio của Handel và
Haydn trong vốn tiết mục của những đoàn hợp xướng lớn nhưng sau
Mendelssohn, lịch sử âm nhạc của thể loại oratorio ngày càng trở
thành một bản kê các kiệt tác cá nhân, trong số đó L'enfance du
Christ (1854) của Berlioz, Christus (1853-66) của Liszt, The Dream of
Gerontius (1900) của Elgar, Die Jakobsleiter (1917-22) của
Schönberg, Le roi David (1923) của Honegger và Belshazzar's
Feast(1931) của Walton là đặc biệt quan trọng. Opera-oratorio
Oedipus rex (1926-7) của Stravinsky là tác phẩm thành công nhất
trong những nỗ lực áp dụng những đặc trưng nhất định của thể loại
oratorio ở mảng thế tục thời hiện đại.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch
Thể loại Operetta
65
Operetta (tiếng Pháp : opérette; Đức : operette; Tây Ban Nha :
opereta) là từ giảm nhẹ của từ “opera” trong tiếng Ý.
Operetta là một dạng opera nhẹ với những đoạn thoại nói, những ca
khúc và những vũ điệu. Nhấn mạnh vào âm nhạc giàu tính giai điệu
và dựa vào các phong cách opera thế kỉ 19, thể loại này nở rộ suốt
nửa cuối thế kỉ 19 và nửa đầu thế kỉ 20. Trong suốt thế kỉ 20,
operetta phát triển và phần lớn dần bị thể loại Musical thế chỗ. Thuật
ngữ “operetta” cũng đã được áp dụng chung để chỉ những tác phẩm
ngắn, hay nói cách khác là ít tham vọng hơn, những phát sinh từ thể
loại opera.
1. Bản chất và sự phát triển
Là một loại hình nghệ thuật đặc thù, những gì mà bây giờ chúng ta
gọi là operetta đã phát triển ở Paris như một phương thuốc cứu nguy
cho công chúng trước những kỳ vọng ngày càng nghiêm túc và đầy
tham vọng của thể loại opéra comique và vaudeville (kịch vui). Để lấp
đầy khoảng cách này, nhiều nỗ lực được thực hiện nhằm tìm kiếm
một không gian cho các tác phẩm ngắn, vui, mang phong cách
opera. Jacques Offenbach và đoàn kịch của ông tại nhà hát Théâtre
des Bouffes-Parisiens với việc đưa ra các chương trình diễn 2 hoặc 3
vở ca kịch châm biếm một màn đã giành được thành công lớn. Chính
điều này đã mở đầu cho việc nhân rộng việc dàn dựng các vở diễn
kéo dài suốt buổi tối và thiết lập thể loại opéra bouffe – opera châm
biếm, với vai trò một thể loại hoàn toàn có thể phân biệt được với các
hình thức giải trí thời lượng dài khác.
66
Các tác phẩm của Offenbach không chỉ thành công trong phạm vi
nước Pháp mà trên thực tế còn được ưa chuộng ở nhiều nước khác
và từ đó mở đường cho sự phát triển của các phong cách dân tộc.
Theo các tư liệu lịch sử, thuật ngữ opérette chỉ được Offenbach sử
dụng để gọi các tác phẩm 1 màn của mình, còn các vở dài thì theo
thông lệ là opéra bouffe. Chính cùng sự phát triển của opérette tại
Vienna vào những năm 70 của thế kỷ 19 mà thuật ngữ này lần đầu
tiên đã được dùng để gọi các vở dài. Khi các tác phẩm viết bằng
tiếng Anh xuất hiện, các thuật ngữ thường được sử dụng là “comic
opera” hay “comedy opera” – tạm dịch là “opera hài” ; việc thuật ngữ
“operetta” được áp dụng cho mọi trường phái dân tộc chỉ còn là một
điều trong quá khứ.
Tại Áo, việc đưa ông vua nhạc waltz Johann Strauss từ phòng khiêu
vũ vào nhà hát đã đem đến cho thể loại operetta của Vienna một nhà
soạn nhạc cạnh tranh với Offenbach. Strauss cũng gây dựng một
phong cách Áo riêng biệt – lãng mạn nhiều hơn là trào phúng và
mang đậm âm hưởng các điệu nhảy, đặc biệt là điệu waltz. Trong khi
đó tại Tây Ban Nha một phiên bản tương tự đã xuất hiện với sự phục
hưng của thể loại Zarzuela, ban đầu với nhiều ảnh hưởng từ những
đặc điểm truyền thống của thể loại Opera Ý tại nước này, nhưng sau
đó thì phát triển một phong cách Tây Ban Nha rất riêng. Phiên bản
bằng tiếng Anh, đáng chú ý nhất là những vở opera hài của Gilbert
và Sullivan, mang đậm đặc điểm truyền thống của nghệ thuật sân
khấu Anh, đặc biệt là ở thể loại opera ballad và hài kịch bình dân
(burlesque), thậm chí còn chịu một chút ảnh hưởng của truyền thống
hợp xướng thời Nữ hoàng Victoria.
67
Là một loại hình giải trí bình dân, operetta phản ánh thị hiếu đương
thời thể hiện trong cốt truyện, quan điểm đạo đức cũng như các sự
kiện được nhiều người quan tâm. Giữ vị trí thống trị trên sân khấu ca
kịch bình dân vào thời đó, operetta thu hút nhiều nhà soạn nhạc,
librettist, diễn viên, quản lý, đạo diễn cũng như các nhà thiết kế. Chú
trọng nhiều vào lời thoại, loại hình ca kịch này thậm chí phụ thuộc
nhiều hơn opera vào một bản lời (libretto) có sức hút. Một vài thành
công lớn của nó phải kể đến những nhà viết kịch tên tuổi như Henri
Meilhac và Ludovic Halévy tại Pháp, W. S. Gilbert ở Anh. Rất nhiều
operetta Vienna thành công nhất và được biểu diễn lâu dài cũng có
libretto chuyển thể từ các tác phẩm gốc của Pháp, cũng thường do
Meilhac và Halévy viết. Diễn viên giỏi phải là những người có thể kết
hợp khả năng ca hát với diễn xuất (hay có thể là nhảy múa). Mặc dù
các nhà soạn nhạc như Bizet, Chabrier và Delibes cũng đã thử sức
với operetta giai đoạn đầu, nhưng nhìn chung thành công hơn cả ở
thể loại này vẫn là những tác giả chuyên sáng tác theo một phong
cách nhẹ nhàng hơn.
Đến những năm 1880 và 1890, sự lớn mạnh của thể loại này với
xuất phát điểm là những vở 1 màn đã đem lại cho nó vị trí thống trị
như opéra comique của 40, 50 năm trở về trước. Trải qua nhiều
chuyên gia của thể loại và sự tìm kiếm thay đổi mang tính giai đoạn
tiêu biểu cho loại hình sân khấu ca kịch bình dân, những năm 90
chứng kiến mối quan tâm của các nhà hoạt động biểu diễn nhằm
đưa loại hình này trở nên hợp thời hơn. Những yếu tố đa dạng của
sân khấu thời bấy giờ ngày càng được kết hợp chặt chẽ hơn. Đó là
68
một xu hướng đặc biệt phát triển ở London với tên gọi “musical
comedy” hay “musical play” và ở Berlin dưới hình thức “revue-
operetta” (operetta thời sự đả kích). Nơi mà trước đây sự phát triển
mang tính logic của câu chuyện là đặc biệt quan trọng, thì tầm quan
trọng của việc phô bày sự quyến rũ nữ tính, trang phục hợp thời và
thông lệ sân khấu công phu trở lên lớn hơn. Cùng lúc đó, sân khấu
Tây Ban Nha lại tìm một lối đi mang phong cách riêng với sự phát
triển của género chico, phù hợp với đời sống dân nghèo Madrid.
Ít ra là đến tận thế chiến thứ nhất, operetta cùng với các thể loại ca
hài kịch thời kỳ đầu vẫn giữ được nhiều nền móng truyền thống của
các phong cách opera nhẹ của thế kỷ 19. Thực tế là nó còn trải qua
một thời phục hưng mạnh mẽ với tư cách là một trường phái âm
nhạc mới với những vở operetta Vienna thích mắt hơn, nổi bật là Die
lustige Witwe (Bà quả phụ vui tính, 1905) của Lehár, đem đến thành
công quốc tế rực rỡ nhất cho thể loại nhạc kịch này. Lehár, được đào
tạo về nhạc cổ điển Âu châu, tiếp tục duy trì những chuẩn mực cao
của âm nhạc, để từ đó có thể thực hiện ước mơ sáng tác cho các
nhà hát opera trong khi Puccini (trong La rondine – Chim én) lại
muốn viết operetta theo phong cách của Lehár.
Các tác phẩm của Messager, Hahn và Lehár dễ dàng nhận thấy là
có sự cố gắng duy trì những chuẩn mực operetta cổ điển. Tuy nhiên
sau thế chiến I, đặc biệt là những năm 1920, những tác phẩm này lại
trở thành ngoại lệ trên sân khấu bình dân ngày càng bị thống trị bởi
ca vũ nhạc kịch hài dựa trên hài kịch của Mỹ và phong cách của các
bài hát viết cho đội nhảy, phải viện đến operetta lãng mạn, thoát ly
69
khỏi hiện thực với các vai công tước và công chúa. Khi các vở nhạc
kịch Mỹ ngày càng trở nên hợp thời với sự thức dậy của Show Boat
(1927), chúng cũng đã tiếp thu nhiều đặc điểm âm nhạc truyền thống
của operetta, nhưng bản chất cốt truyện và sự kết hợp lời với nhạc
thì rất khác. Cuối cùng thì kỷ nguyên của operetta cổ điển cũng kết
thúc trước thế chiến II, mặc dù tại châu Âu, thuật ngữ này vẫn được
sử dụng gắn liền với các tác phẩm gợi lên truyền thống châu Âu.
Vẫn không có định nghĩa rõ ràng cũng như sự đồng thuận trên toàn
thế giới để phân chia ranh giới giữa operetta và musical và sự phân
chia này phụ thuộc nhiều vào từng quốc gia, định kiến và sở thích
mang tính cá nhân. Những tác phẩm như South Pacific, My Fair
Lady, West Side Story, Fiddler on the Roof và Sweeney Todd được
coi như là bước tiếp nối hiện đại của operetta (Bordman, 1981). Tuy
nhiên, dù mang nhiều đặc điểm rõ nét của operetta thì những tác
phẩm này vẫn đúng là musical hơn, với cấu trúc, kỹ thuật dàn dựng
và đối tượng khán giả khác biệt nhiều so với operetta cổ điển.
2. Pháp
Mặc dù không phải đến tận giữa những năm 50 của thế kỷ 19,
những tác phẩm mà ngày nay chúng ta gọi là operetta mới bắt đầu
nổi lên như một thể loại độc lập, trước đó cũng đã có những tác
phẩm được xếp loại như vậy. Le chalet (1834) và La poupée de
Nuremberg (1852) của Adolphe Adam, Les noces de Jeannette
(1853) của Massé và Pepito (1853) của Offenbach có tổng phổ mang
tính opera trong hình thức hơn so với tập hợp những bài hát dùng
70
trong vaudeville, tuy nhiên vẫn còn nhẹ hơn và khiêm tốn hơn các tác
phẩm ngày càng được nhà hát Théâtre de l’Opéra-Comique chấp
nhận.
Chính Adam cũng đã mở Nhà hát Opera quốc gia vào 1847, mặc dù
cũng không hoạt động được lâu dài. Nhà hát thành công hơn là
Théâtre des Folies-Nouvelles của Hervérsquo, mở vào năm 1854
dưới cái tên Théâtre des Folies-Concertantes. Tuy nhiên chỉ với sự
mở cửa của nhà hát Théâtre des Bouffes-Parisiens của Offenbach
vào năm 1855, năm Triển lãm Paris, thì những nhà hát kia mới thực
sự có vị trí vững chắc. Các tác phẩm trong kịch mục của Offenbach
ban đầu cũng chỉ là những bức chân dung châm biếm cay độc với
một chút yếu tố âm nhạc, ví như trong vở Les deux aveugles (1855).
Tuy nhiên, những cốt truyện đâu đâu và sự dí dỏm và xuất sắc trong
sản xuất, không chỉ ở các tác phẩm của Offenbach mà còn của
những nghệ sỹ như Adam, Emile Jonas và Delibes, đã giúp họ nổi
đình nổi đám tại Paris. Chỉ trong vòng vài năm, Oifenbach không chỉ
đi lưu diễn trong nước mà còn mang gánh diễn của mình ra nước
ngoài.
Với một nhà hát nhỏ ban đầu chỉ có 3, 4 diễn viên, opéras bouffes
hay opérettes của Offenbach đôi khi cần phải phải là những vở
ngắn, 1 màn và khiêm tốn, giọng điệu châm biếm hài hước, sử dụng
tới 8 tiết mục âm nhạc (solos, duets, trios and quartets) và được đệm
bởi một dàn nhạc lên tới 16 nhạc công. Sự nới lỏng hạn chế diễn
viên đã cho phép ông vào năm 1858 cho ra mắt vở opéra bouffe 2
màn đầu tiên của mình, tác phẩm châm biếm mang tính thần thoại
71
Orphée aux enfers, vở diễn đã giúp nâng danh tiếng của ông tại quê
nhà cũng như nước ngoài và tạo ra cho thể loại operetta một kiệt tác
lâu bền đầu tiên.
Mặc dù Offenbach tiếp tục với những tác phẩm 1 màn, hình mẫu cho
tương lai lại được thiết lập với một loạt các vở diễn dài hơn trong đó
nổi bật nhất là La belle Hélène (1864), Barbe-bleue (1866), La vie
parisienne (1866), La Grande-Duchesse de Gérolstein (1867) và La
Périchole (1868). Tất cả các tác phẩm này đều có kịch bản vui vẻ, dí
dỏm do Meilhac và Halévy thực hiện, châm biếm xã hội Paris thời
Napoleon III. Chúng yêu cầu một sự phân vai đầy đủ, có dàn hợp
xướng, dàn nhạc lên tới 30 nhạc công, tổng phổ có khoảng 20 – 30
tiết mục âm nhạc gồm các tiết mục mở màn và đóng màn được phát
triển đầy đủ. Đến cuối những năm 1860, opéra bouffe Pháp đã lớn
mạnh thành một thể loại thực sự trưởng thành với những đặc điểm
không chỉ khác biệt với vaudeville đương thời mà còn khác với opéra
comique thể hiện trong giọng điệu bình dân, trào phúng châm biếm.
Sau nội chiến 1869-70 và sự kết thúc của đế chế thứ hai, công
chúng Pháp bắt đầu không còn ưa chuộng Offenbach mà chuyển
sang thích loại hình giải trí lãng mạn hơn và họ tìm thấy điều này
trong các tác phẩm như La fille de Madame Angot (1872) của
Charles Lecocq ; Les cloches de Corneville (1877) của Robert
Planquette ; Les mousquetaires au couvent (1880) của Louis Varney
và La mascotte (1880) của Edmond Audran. Những nhà soạn nhạc
thành công khác thời bấy giờ phải kể đến Léon Vasseur, Paul
Lacome và Gaston Serpette, trong khi đó, Hervé, vốn là đối thủ cạnh
72
tranh lớn của Offenbach vào những năm 1860 cuối cùng cũng đã đạt
được thành công lâu bền nhất của mình với Mam’zelle Nitouche
(1883).
Xu hướng về một thể loại musical nhẹ nhàng hơn đã được cụ thể
hóa với thể loại opérettes-vaudevilles của Victor Roger, ví như vở
Les vingt-huit jours de Clairette (1892). Sự quý phái và thuần khiết
gắn liền với các tiêu chuẩn của nhạc vũ kịch cổ điển đã được Andre
Messager đưa vào operetta Pháp. Vở Veronique (1898) của ông,
cùng với vở Les saltimbanques (1899) sôi nổi của Louis Ganne đã
khẳng định rằng vào khoảng thời gian chuyển giao giữa hai thế kỷ,
operetta Pháp được đánh giá là thể loại kế tục xứng đáng cho opéra
comique truyền thống.
Thế kỷ 20, operetta Pháp dần dần mất đi vị thế của mình trên thế
giới do ảnh hưởng một mặt của những vở ca kịch Anh-Mỹ, mặt khác
của operetta Vienna. Messager tiếp tục duy trì những tiêu chuẩn của
ca vũ kịch Pháp cho đến tận năm 1928 với vở Coups de roulis. Và
một nhà soạn nhạc tài năng khác, người đã kết hợp những chuẩn
mực của opéra comique truyền thống với một phong cách hiện đại
hơn là Reynaldo Hahn trong vở Ciboulette (1923). Tuy nhiên,
operetta Pháp có thể ngày càng điển hình với các tác phẩm như Phi-
Phi (1918) của Henri Christiné và Ta bouche (1922) của Maurice
Yvain, chúng nhờ ở thể loại chanson của nhà hát ca múa nhạc Pháp
hơn là những truyền thống opera. Từ thế chiến II, cái tên operetta đã
được cứu sống bằng thể loại opérette à grand spectacle, với các tác
phẩm Violettes impériales (1948) của Vincent Scotto và một loạt các
73
vở diễn của Francis Lopez, mở đầu với La belle de Cadix (1945).
Những vở này đã giữ được đặc điểm của operetta với cốt truyện
hoang đường mơ tưởng, địa điểm lạ lẫm, sân khấu và các hiệu ứng.
Tuy nhiên, sự giao thoa đáng kể với thể loại opera của operetta cổ
điển thì hầu như không còn thấy.
3. Trung Âu
Từ cuối những năm 1850, các nhà hát tại Vienna đã bắt đầu cho
diễn các tác phẩm opéras bouffes của Offenbach, đôi khi dưới hình
thức lậu, nhưng thường thì do chính tác giả chỉ đạo. Đến lượt mình,
những vở này khơi nguồn cảm hứng cho các nhà soạn nhạc hoạt
động ở Vienna dựng những operetta châm biếm một màn với phong
cách tương tự. Trong số các nhà soạn nhạc đó nổi bật nhất có Franz
von Suppé, tác giả của Das Pensionat (1860), vở diễn được coi là
operetta Vienna đầu tiên. Đồng thời vở Die schöne Galathee (1865)
thần thoại châm biếm của ông cũng được coi là một trong những tiếp
nối thành công nhất của thể loại 1 màn tại Vienna.
Sự độc quyền của Offenbach về những vở quy mô lớn dường như
không có đối thủ tại Vienna cho đến khi Johann Strauss từ nhạc nhảy
chuyển sang sáng tác nhạc kịch. Năm 1874, nhà hát Theater an der
Wien công diễn vở operetta đầu tiên của ông: vở Indigo und die
vierzig Räuber 3 màn, vở diễn đã giới thiệu một phong cách operetta
rất riêng của Vienna với nhiều yếu tố dàn dựng rất lạ, đẹp, nội dung
lãng mạn nhiều hơn là đả kích châm biếm, âm nhạc được viết dựa
trên các điệu nhảy, đặc biệt là điệu waltz. Vở Die Fledermaus (1874)
74
của Strauss, dựa trên một vở kịch của Meilhac và Halevy, đã trở
thành vở được công diễn rộng rãi nhất của thể loại operetta. Tài
năng của ông về giai điệu và lối viết gợi lên không khí cũng được thể
hiện trong vở Nacht in Venedig (1883), mặc dù ở ông thiếu sự tinh ý
về thẩm mỹ sân khấu của Suppé và Carl Millocker. Thành công nổi
bật nhất của Suppé với các tác phẩm dài phải kể đến Fatinitza (1876)
và Boccaccio (1879). Còn Millocker thành danh với Der Bettel-
student (1882) và Gasparone (1884). Libretto của cả 5 vở thành công
này trong giai đoạn 1877–84 đều do F. Zell và Richard Genee viết,
một vài vở dựa theo các tác phẩm Pháp.
Sau đó Johann Strauss có tham vọng chuyển sang opera quy mô
trọn vẹn, đáng kể nhất là Der Zigeunerbaron (1885). Thành công lớn
nhất của thể loại operetta trong những năm 1890 đến từ những nhà
soạn nhạc ưa chuộng phong cách nhẹ nhàng hơn, thư giãn hơn,
duyên dáng và khéo léo hơn, đặc biệt là Carl Zeller với Der
Vogelhändler (1891) và Der Obersteiger (1894) hay Richard
Heuberger với Der Opernball (1898). Đầu thế kỷ 20, thị hiếu của
Vienna có dấu hiệu chuộng phong cách musical-comedy. Tuy nhiên,
operetta cổ điển vẫn tìm được chỗ đứng khi Franz Lehár hoàn thiện
phong cách chắc chắn về kỹ thuật và quyến rũ về thị giác của mình
trong vở Die lustige Witwe (Bà quả phụ vui tính, 1905). Nó đã đạt
được thành công lớn nhất trong tất cả các tác phẩm operetta đương
thời. Tiếp nối theo đó là một loạt các tác phẩm tương tự, bao gồm cả
những vở của chính Lehár như Der Graf con Luxemburg (1909).
Ngoài ra còn có Ein vWalzertraaum (1907) của Oscar Strauss và Die
Dollarprinzessin (1907) của Leo Fall.
75
Trước thế chiến thứ nhất, sự thịnh hành quốc tế của operetta trung
Âu tạm thời bị hạn chế. Ba nhà soạn nhạc đó đã đi tiên phong trong
trường phái Vienna do Emmerich Kálmán sáng lập, người đã phối
hợp phong cách waltz Vienna với giai điệu nhịp nhàng đậm chất
Hungary, nổi bật nhất trong tác phẩm Die Csárdásfürstin (1915).
Đóng góp của Kálmán đã làm dấy lên việc mở rộng biểu diễn
operetta, bởi lẽ ông đã khởi đầu sự nghiệp của mình trong một
trường phái operetta Hungary mới chớm nở mà chủ yếu gồm những
tác phẩm mang đậm phong cách dân tộc Hungary như Janos vitez
(1940) của Pongrac Kacsoh cũng như những tác phẩm mang phong
cách Vienna như Sybill (1914) của Viktor Jacobi. Phong cách của
Lehár được ưa chuộng đặc biệt tại Ý và sau đó đã là nguồn cảm
hứng cho nhiều tác phẩm tại quốc gia này như I paesi dei campanelli
(1923) của Virgilio Ranzato.
Sau chiến tranh, Vienna chứng kiến sự nổi bật của nhiều vở lần đầu
công diễn trong đó có Gräfn Mariza (1924) của Kálmán hay Die
gold’ne Meisterin (1927) của Eysler. Tuy nhiên do những nguyên
nhân chính trị và sự cân bằng với nhạc kịch bình dân, lúc này trung
tâm của operetta của Đức đã chuyển về Berlin.
Từ những năm 1860, tại Đức đã bắt đầu xuất hiện những tác giả
operetta của chính mình với những tên tuổi như August Conradi,
Rudolf Dellinger và Herman Zumpe nhưng phải đến những tác phẩm
như vở Frau Luna (1899), một vở operetta fantasy trào phúng một
màn xuất sắc thì một trường phái operetta khác biệt của Berlin mới
76
nổi lên. Đầu thế kỷ 20, operetta thời sự đả kích tiếp tục nở rộ qua các
tác phẩm của Lincke, Victor Holländer và Walter Kollo. Die keusche
Susanne (1910) của Jean Gilbert thích ứng hơn với phong cách
‘musical play’ phổ biến hiện nay, trong khi Schwarzwaldmädel (1917)
của Léon Jessel có tổng phổ khá chất lượng và yêu cầu tuân theo
những chuẩn mực operretta cổ hơn.
Thành công đáng kể trên phạm vi quốc tế của Der Vetter aus
Dingsda (1921) đã giúp khẳng định tên tuổi của Eduard Künneke như
một nhà soạn nhạc hàng đầu của Đức những năm 1920 và 1930. Sự
dịch chuyển trung tâm của những tác phẩm operetta ngôn ngữ Đức
trong những năm 1920 cũng khiến Berlin chứng kiến những buổi
công diễn lần đầu tác phẩm của các nhà soạn nhạc Vienna, như
Madame Pompadour (1922) của Fall, một thành công lớn cho
soprano Áo Fritzi Massary, và Der Zarewitsch (1927) và Das Land
des Lächelns (1929) của Lehár, cùng với tenor Áo Richard Tauber.
Đến lúc này thể thức operetta Đức ít đưa ra một bộ các nhân vật hòa
hợp hơn mà thay vào đó là một loạt những tiết mục solo và duet theo
phong cách opera dành cho tenor và soprano hàng đầu, rải rác có
các duet hài hước cho các buffo (diễn viên hài) và vai hầu, có sự phụ
trợ của dàn hợp xướng. Hơn nữa, trong các tác phẩm của Lehár
những câu chuyện anh hề khờ khạo thường gặp trong 50, 60 năm
trước đôi khi được thay bằng các câu chuyện kết thúc không có hậu.
Nếu những đặc điểm trên là khởi đầu cho sự đi xuống của operetta
cổ điển, ở Berlin cũng đã có những dấu hiệu đưa giai điệu của những
tác gia cổ điển bậc thầy vào các tác phẩm “mới” như trường hợp của
77
Johann Strauss với Casanova (1982) và Carl Millöcker với Die
Dubarry (1931). Cùng lúc đó những nhà soạn nhạc khác như Nico
Dostal và Rudolf Kattnigg đang tìm cách duy trì công thức của Lehár,
trong khi những tác phẩm như Viktoria und ihr Husar của Paul
Abraham và Im weissen Rössl của Ralph Benatzky (cả hai đều viết
năm 1930) lại tìm cách kết hợp romance truyền thống của operetta
với những câu chuyện hiện đại và các phong cách vũ điệu. Những
yếu tố của musical comedy còn chi phối nhiều hơn trong các tác
phẩm như Hochzeitsnacht im Paradies (1942) của Schröder và
Feuerwerk (1949) của Paul Burkhard.
4. Anh và Mỹ
Cũng tại London, những phiên bản opéras bouffes bằng tiếng Anh
của Offenbach cũng bắt đầu xuất hiện vào những năm 1860 và
Arthur Sullivan viết Cox and Box (1866) chịu ảnh hưởng trực tiếp của
vở Les deux aveugles của nhà soạn nhạc người Pháp này. Một loạt
các tác phẩm do Sullivan phối hợp với W.S.Gilbert viết trong khoảng
thời gian từ 1871 đến 1896, bao gồm HMS Pinafore (1878), The
Mikado (1885), The Yeomen of the Guard (1888) và The Gondoliers
(1889), đã làm mưa gió trên sân khấu các nước nói tiếng Anh, mặc
dù thành công của các bản dịch có hạn chế do sự khác biệt của
phong cách Anh về cả tính hài hước lẫn âm nhạc. Những đại diện
của Anh khác là Frederic Clay, Alfred Cellier, Edward Solomon và
nghệ sỹ nhập cư Edward Jakobowski. Jakobowski với Erminie (1885)
đã thành công vang dội tại Mỹ trong khi vở Dorothy (1886) của Celier
78
lại được diễn ở London lâu hơn bất kỳ tác phẩm nào của Gilbert và
Sullivan.
Đặc biệt chính tại London, vào những năm 1890, môt xu hướng nổi
lên có một ý nghĩa căn bản đối với sự phát triển của operetta và sân
khấu ca kịch bình dân. Khi những vở operetta Pháp và comic opera
trong nước của Gilbert và Sullivan đang mất dần đi thành công
nhanh chóng có được của mình thì công chúng London lại chuyển
sang yêu thích phong cách của những vở diễn được gọi là ‘musical
comedy’ hay ‘musical play’. Trong khi về cơ bản vẫn duy trì những
đặc điểm chính của operetta, những vở diễn này không còn quan
tâm nhiều đến sự hoàn chỉnh của lời nhạc kịch mà quan tâm nhiều
hơn đến thành công tức thì, với điểm nhấn là thị hiếu đương thời, với
những đoạn hợp xướng quyến rũ cho giọng nam và nữ, những tiết
mục lôi cuốn ngẫu hứng đặc biệt là những tiết mục hát – múa dành
riêng cho sân khấu.
Những yếu tố này đặc biệt dễ nhận thấy trong một loạt các sô diễn
với tiêu đề có chữ “girl” như The Shop Girl (1894), do Ivan Caryll viết
nhạc và Lionel Monckton viết những tiết mục phụ. Dù có ý nghĩa lịch
sử là những vở hài nhạc kịch ‘musical comedies’ đầu tiên, phần nhạc
của những tác phẩm này vẫn giống với comic opera thế kỷ 19 hơn là
những vở hài nhạc kịch hát múa (the song-and-dance musical
comedies) của những năm 1920. Đặc biệt, The Geisha (1896) của
Sidney Jones giữ được rất nhiều đặc điểm truyền thống opera comic
của Sullivan và gặt hái được thành công vang dội thời bấy giờ không
79
chỉ ở Vương quốc Anh và còn trên toàn thế giới, được biểu diễn
nhiều lần tại Đức hơn bất kỳ tác phẩm Anh nào khác cùng thời.
Vào cuối thế kỷ, thị hiếu chuộng musical comedy hay musical play
đã được khẳng định qua thành công to lớn của các tác phẩm khác
như Florodora (1899) của Leslie Stuart. Đây chỉ là một tác phẩm để
được chào đón tại Mỹ, nơi mà yếu tố chính của những tác phẩm bản
địa cũng đã bắt đầu nổi lên vào những năm 1890. Trong số vở trung
thành với hình mẫu của Gilbert và Sullivan có Robin Hood (1890) của
Reginald De Koven và El capitan (1896) của John Phillip Sousa ;
trong khi The Fortune Teller (1898) và The Belle of New York (1897)
của Gustave Kerker lại có giai điệu nghiêng theo xu hướng những
tác phẩm nhằm thu hút công chúng.
Người tiếp bước Sullivan trong thể loại comic opera là Edward
German, với Merrie England (1902) và Tom Jones (19070). Tuy
nhiên, xét trên phương diện thương mại, chính musical play theo
phong cách Edward lại được công chúng chuộng hơn với các màn
múa và các bài hát nhẹ nhàng, những màn trình diễn hợp xướng
công phu và trang phục hợp thời. Nhờ chúng mà các tác phẩm sân
khấu ca kịch Anh, trong nhiều năm từ đầu thế kỷ, là trường phái
operetta dễ dàng được truyền ra nước ngoài nhất.
Musical play của theo phong cách Edward đạt đến thời cực thịnh với
những tác phẩm như Miss Hook of Holland (1907) của Paul Rubens,
The Arcadians (1909) của Howard Talbot và The Quaker Girl (1910)
của Monckton. Sau đó thể loại này đã nhanh chóng bị mai một, thứ
80
nhất là do ảnh hưởng của những vở operetta Vienna của Lehár,
Strauss và Fall, và sau đó là ảnh hưởng của musical comedy Mỹ với
những với những màn hát múa và các vở diễn châm biếm, đả kích
lấy cảm hứng từ nhạc ragtime của người da đen. Chỉ trong điều kiện
đặc biệt của thời chiến mà nhạc kịch quyến rũ theo phong cách
Edward lại được hồi sinh trong một khoảng thời gian không lâu trong
vở The Maid of the Mountains (1916), nhạc do Harold Fraser-Simson
và tiết mục phụ họa do James W. Tate và vở nhạc kịch xuất sắc lấy
cảm hứng từ một tích truyện phương đông Chu Chin Chow (1916),
nhạc do Frederic Norton viết. Sau đó một vài nỗ lực đơn lẻ nhằm vào
opera nhẹ như một sự đối lập với ‘musical comedy’ hay ‘musical play’
đã được Montague Phillips và Walter Leigh thực hiện trong các vở
The Rebel Maid (1921) và The Pride of the Regiment (1932).
Trong những năm 1920, thị hiếu của công chúng Anh dễ dàng đi
theo musical comedy Mỹ, nhưng sự ưa chuộng các tác phẩm
operetta truyền thống châu Âu có từ trước đó rơi rớt ít nhiều tại Mỹ
trong các tác phẩm như The Student Prince in Heidelberg (1924) của
Sigmund Romberg và Rose-Marie (1924) của Rudolf Friml và Herbert
Stothart, cũng như tại Anh trong Bitter Sweet (1929) của Noël
Coward, Balalaïka (1936) của George Posford và Bernard Grun, The
Dancing Years (1939) của Ivor Novello và Bless the Bride (1947) của
Vivian Ellis.
5. Hiện nay
81
Từ thế chiến thứ 2, sự giảm sút về giá trị của operetta như một hiện
tượng đương thời vẫn tiếp diễn. Đến năm 1964 buổi công diễn lần
đầu Frühjahrsparade của Robert Stolz tại Volksoper, Vienna đã là
một việc hồi tưởng thời xưa, là làm lại theo cách hoài cổ một bộ phim
âm nhạc thời trước chiến tranh. Ngày nay operetta hiếm thấy xuất
hiện trong các nhà hát thương mại. Ngoài một số vở được xếp cùng
danh mục với các tác phẩm opera, operetta ngày càng trở thành mối
quan tâm chỉ của khán giả chuyên biệt. Cho đến những năm 1960,
trong khi các đài phát thanh Pháp và Áo vẫn phát những vở operetta
chuẩn mực quy mô trọn vẹn thì việc quảng bá này không còn được
lặp lại trong thời đại truyền hình.
Việc phục hưng operetta cổ điển đã gặp phải nhiều khó khăn. Đối
với người nghe nhạc phổ thông, libretto có lẽ cần phải được hiện đại
hóa, loại bỏ những điển tích khó hiểu với công chúng nghe nhạc
ngày nay. Tuy nhiên đối với những khán giả hiểu biết hơn, chính
những điển tích mang tính thời đại đó lại chiếm một phần rất quan
trọng trong giá trị của tác phẩm. Việc xếp operetta vào danh mục
opera cũng làm nảy sinh những vấn đề về phong cách, vì biểu diễn
operetta đòi hỏi người nghệ sỹ có những tài năng mà một nghệ sỹ
opera điển hình không có, trong đó có khả năng chuyển đổi từ ngữ
dưới cả hình thức hát lẫn thoại nói và giảm bớt kiểu nhả chữ grand-
opera.
Việc sẵn có tài liệu cũng là một yếu tố quan trong quyết định sẽ phục
hồi cái gì. Rất nhiều tài liệu gốc đã bị mất. Thường thì chính bằng
những phiên bản viết lại vào thời kỳ giữa các cuộc chiến mà các vở
82
như Eine Nacht in Venedig của Johann Strauss và Gasparone của
Millöcker đã được phục hồi, mặc dù khó thấy được tính xác đáng của
việc duy trì một quan điểm về tác phẩm vào những năm 1920 hay
1930.
Việc trung thành với các bản gốc cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
khác, nhất là khao khát về thách thức thanh nhạc cùng các hợp đồng
thanh nhạc lớn hơn của các ca sỹ opera, điều này đã ảnh hưởng đến
quan niệm của công chúng về các giọng dành cho các vai đã được
định hình. Bằng cách đẩy lên một giọng hát được đào tạo ở âm vực
thấp có thể đạt được những hiệu quả tốt hơn là trong trường hợp
dùng nhạc viết cho âm vực còn hạn chế hơn thế. Điều này dẫn đến
thị hiếu giao những vai diễn hầu gái cho một giọng mezzo-soprano
hay giao những vai tenor buffo cho một giọng baritone. Sự ưu ái các
ca sĩ độc đáo đã làm nảy sinh vấn đề. Điểm nhấn chói lọi được tạo ra
bằng việc chỉ quan tâm đến ba trong số nhiều bài ca lâu bền viết cho
các bè là do ca sĩ tenor người Vienna Alexander Girardi: ‘Ach wie so
herrlich zu schau’n’ (Caramello trong Eine Nacht in Venedig của
Johann Strauss), ‘Ja das Schreiben und das Lesen’ (Zsupán trong
Der Zigeunerbaron của Strauss) và ‘Sei nicht bös’ (Martin trong Der
Obersteiger của Zelle). Ngày nay chúng được kết hợp với một phạm
vi các giọng từ soprano tới bass-baritone.
Nếu việc phá vỡ sự cân bằng giữa tính xác thực và truyền thống
như thế đặt ra vấn đề cá biệt, thì operetta vẫn có một vị trí thích hợp
khiêm tốn trong trong lòng các nhà chuyên môn. Tại Đức, Áo và
những nước trung Âu khác, operetta cổ điển vẫn tiếp tục được trình
83
diễn trên các sân khấu chuyên nghiệp với giá vé thấp hơn trong danh
mục biểu diễn của các đoàn opera được bao cấp. Trong số tất cả
nhà hát, Volksoper tại Vienna nổi lên như lá cờ đầu của operetta cổ
điển Vienna, với một danh mục operetta phụ thu với giá xem opera rẻ
hơn. Việc biểu diễn operetta vào dịp những festival mùa hè tại các thị
trấn có suối nước khoáng như Bad Ischl hay Baden bei wien giúp
duy trì truyền thống. Cũng như vậy, tại Pháp, các tác phẩm operetta
cổ điển Pháp cũng như nước ngoài được trình diễn vào các buổi cuối
tuần tại các thị trấn lớn, cũng như ở festival mùa hè tại thị trấn nước
khoáng Lamalou-les-Bains.
Việc tại các nước nói tiếng Anh, tình hình khác căn bản với các
nước trung Âu là do hai nhân tố chính. Thứ nhất là thành công lẫy
lừng của các vở opera Savoy (là phong cách opera comic phát triển
ở nước Anh thời Victoria cuối thế kỉ 19, thuật ngữ lấy theo tên nhà
hát Savoy) từ lâu đã che khuất các tác phẩm khác kể từ trước thế
chiến I. Những tác phẩm như The Arcadians và The Quaker Girl của
Monckton ít nhất cũng đã có những lần dàn dựng không chuyên.
Nhưng The Geisha của Jones hầu như đã biến mất trên sân khấu
Anh mặc dù nó vẫn có mặt trong danh mục operetta thời hiện đại ở
các quốc gia lục địa. Nhân tố thứ hai là sự lớn mạnh của những kế
tục ngôn ngữ Anh theo phong cách musical Mỹ, thể loại đã làm mai
một rất nhiều các đặc điểm truyền thống trước đó. Đoàn opera
D’Oyly Carte trong một thời gian rất dài đã có thể lưu diễn liên tục
một danh mục đơn điệu tác phẩm của Gilbert và Sullivan, mà rốt
cuộc cũng bị loại khỏi một danh mục bất biến, giảm sút khán giả,
84
tăng giá vé, mặc dù từ đó vẫn được tái dựng trong một số mùa diễn
hạn chế với sự tài trợ mang tính thương mại.
Dần dần, sự tồn tại trên toàn thế giới của những vở operetta quan
trọng đã đạt được nhờ việc giành cho nó một vị trí trong danh mục
biểu diễn của các đoàn opera, một truyền thống có từ sau khi dàn
dựng vở Die Fledermaus dưới sự chỉ huy của Mahler tại Hamburg
vào năm 1894. Tại Anh, một nỗ lực tái khám phá đã được nhà hát
Opera Wells của Sadler tiến hành. Ngoài ra, sự phục hưng quan
trọng nhất các vở operetta cổ điển lại do những đoàn diễn sinh viên
và Hiệp hội âm nhạc tư nhân John Lewis. Tại đây bao quát các vở
operetta của Chabrier, Lecocq, Messager, Planquette, Suppé và
Millöcker. Trong khi đó, tại Mỹ, việc dàn dựng những tác phẩm của
Herbert, Lehár và Romberg tại nhà hát Opera NYC đã được bổ sung
một cách tùy nghi bằng việc tái dựng các tác phẩm của Sousa,
Lecocq, Offenbach, Kálmán và Johann Strauss tại các festival ở
Wooster, Ohio và một số nơi khác.
Vì vậy có thể nói operetta không có một vị trí thực sự cụ thể trong
danh mục musical hiện đại, với một sự cân bằng không chắc chắn
giữa truyền thống và tính xác thực cùng một sự phụ thuộc vào cách
dàn dựng kiểu opera, điều đảm bảo chất lượng cao của nghệ thuật
ca hát nhưng không đảm bảo tính nhẹ nhàng cần thiết của việc tiếp
cận mà đây mới là bản chất của thể loại.
Văn Phương (nhaccodien.info) dịch
85
Thể loại Opera (phần 1)
A/ Khái quát về Opera:
Opera tiếng Latin là số nhiều của từ
opus (tác phẩm). Opera là một loại
hình nghệ thuật tổng hợp. Trong opera
có sự kết hợp giữa sân khấu và âm nhạc; sự tham gia của các ca sỹ
độc tấu, hợp xướng, dàn nhạc cùng với những loại hình nghệ thuật
vô cùng đa dạng khác như ballet, mĩ thuật, diễn xuất của những diễn
viên…
Tchaikovsky đã từng nhận xét: “opera có sức hấp dẫn mãnh liệt là
bởi vì chỉ có opera mới cho ta có cơ hội được tiếp xúc với đông đảo
khán, thính giả”.
Opera mang dấu ấn của thời đại, opera phơi bày hiện thực xã hội, là
tiếng thét của nhân dân lao động, là sự vùng lên của những số phận
bị đè nén, là niềm khát khao tự do cháy bỏng. Bên cạnh đó opera
còn thể hiện được những gì chân thành nhất, sâu thẳm nhất của tình
yêu lứa đôi, tình bạn bè thắm thiết, tình mẫu tử bao la và tình yêu
quê hương, đất nước.
Opera ra đời tại Florence, Ý vào cuối thế kỉ 16, thời buổi giao thời
giữa thời kì Phục hưng và thời kì Baroque. Sự ra đời của opera
86
không chỉ có ý nghĩa tăng thêm một thể loại mới cho nghệ thuật âm
nhạc, quan trọng hơn opera đã trở thành nhân tố thôi thúc, phát triển
và hoàn thiện hệ thống mới và các thể loại mới trong thời kì Baroque.
Thể loại giao hưởng bắt nguồn từ những đoạn dạo đầu trong các vở
opera (tiếng Ý là sinfonia) hay những đoạn cadenza cho những nghệ
sĩ piano hay violin thể hiện kĩ thuật thì xuất phát từ những đoạn hát
khoe kĩ xảo của những ca sĩ opera.
Opera là một thể loại kịch trong đó tất cả hoặc hầu hết các nhân vật
đều hát và cùng với dàn nhạc tạo nên một thể thống nhất. Một trong
những định nghĩa về opera là dramma per musica (kịch thông qua
âm nhạc). Có một vài từ gần đồng nghĩa với Opera như music -
drama hay music - theatre.
Opera là một tác phẩm có cốt truyện có thể gồm 1 hoặc nhiều màn,
trong 1 màn có thể có 1 hoặc nhiều cảnh. Operetta là một biến thể
của opera với qui mô nhỏ hơn và nội dung có tính chất nhẹ nhàng,
vui vẻ.
Opera gồm có 2 phần chính: phần nhạc (music) và phần lời (libretto).
Thường khi các nhạc sĩ sáng tác opera, họ thường nhờ các nhà văn,
nhà viết kịch sáng tác phần lời trước rồi sau đó mới dựa vào đó để
viết nhạc. Chỉ có rất ít các nhạc sĩ tự viết lời cho opera của mình như
Wagner, Mussorgsky, Leoncavallo…
Opera là một thể loại mới mang tính sáng tạo thực sự. Cho dù có
tính kế thừa, song opera đã chứa trong mình linh hồn tư tưởng nhân
87
văn. Chủ nghĩa nhân văn thẩm thấu trong đề tài, chủ đề, nhân vật, ca
từ và âm nhạc của opera. Mặt khác opera chú trọng sự biểu hiện,
truyền đạt chân thật những tình cảm, tư tưởng con người, khắc họa
hình tượng âm nhạc có cá tính, tình tiết xung đột mang tính kịch
mạnh mẽ. Một loại hình nghệ thuật như vậy rõ ràng là một sự kiện
sáng tạo mang tính khởi xướng trong lịch sử âm nhạc thế giới.
B/ Sự ra đời, hình thành và phát triển của opera qua các thời kì: I/ Thời kì Phục hưng và Baroque: 1/ Opera ra đời và phát triển ở Ý: Opera ra đời là do nhu cầu giải trí của giới quý tộc Ý thời kỳ cuối thế
kỷ 16. Tại thành phố Florence, những nhà quí tộc như bá tước
Giovanni de Bardi hay Jacopo Corci đứng ra thành lập các “nhóm
hàn lâm” (Academia) vì sùng bái triết gia Hi Lạp cổ Platon với mục
đích phục hồi âm nhạc Hi Lạp cổ. Những nhóm này được người dân
Ý gọi là Camerata (hiệp hội) cho rằng âm nhạc Hi Lạp cổ có sức
truyền cảm vì đó là âm nhạc đơn điệu (monody), phổ nhạc trên cơ sở
thanh điệu, tiết tấu của thi ca. Do đó âm nhạc truyền đạt được nội
dung tư tưởng của ca từ, khiến ca từ thêm sinh động, truyền cảm và
có sức hấp dẫn. Và từ lối tư duy đó, một người trong số họ, ca sĩ –
nhạc sĩ Jacopo Peri (1561 - 1633) đã sáng ra vở opera Dafne vào
năm 1597 với phần lời của nhà thơ Ottavio Rinuccini - được coi là vở
opera đầu tiên trong lịch sử âm nhạc. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại
phần ca từ của vở opera này. Vào năm 1600, Peri và Rinuccini lại
cùng nhau sáng tác Euridice, vở opera này còn được lưu giữ đến
ngày này. Từ đó Florence trở thành nơi tập trung của những nhà
soạn nhạc opera, ngoài Peri, ta còn có thể kể đến một số nhạc sĩ
88
khác như Giulio Caccini, Pietro Strozzi, Marco da Gagliano hay
Vincenzo Galilei (cha của Galileo Galilei). Những vở opera trong thời
kì sơ khai này chú trọng ca từ và coi phần nhạc chỉ là vai phụ cho ca
từ. Họ chú trọng đến âm nhạc đơn điệu (monody) và lên án âm nhạc
phức điệu (polyphony) làm méo mó ca từ. Chính họ cũng là người đã
sáng tạo ra phong cách recitativo (hát nói) rất phổ biến sau này.
Opera đã tỏ ra rất phù hợp giới quí tộc Ý. Và không chỉ ở Florence,
nghệ thuật opera đã bắt đầu lan tỏa ra những thành phố khác. Đầu
tiên là tại Rome, một số thành viên trong nhóm Camarata đã chuyển
đến Rome sinh sống và sáng tác. Nổi tiếng nhất trong số này là nhạc
sĩ Stefano Landi (1587 - 1639) với vở opera Sant'Alessio (1632) Đặc
điểm của opera Rome là chủ yếu mang đề tài tôn giáo, thần thoại và
tính chất âm nhạc giữa aria và recitativo khác nhau khá rõ ràng.
Sau Rome là Venice, tại đây lần đầu tiên opera được công diễn bán
vé để mọi tầng lớp có thể vào xem. Venice cũng là nơi đầu tiên trên
thế giới xuất hiện nhà hát công cộng - nhà hát Teatro San Cassiano
(1637). Và như vậy, opera không còn là trò giải trí của riêng giới quí
tộc nữa. Chính điều này đã khiến opera trở nên phổ cập và giúp cho
số lượng các vở opera được sáng tác tăng vọt. Tại đây đã xuất hiện
một trong những nhà cải cách opera vĩ đại trong lịch sử. Claudio
Monteverdi (1567 - 1643) là cây cầu nối giữa thời kỳ Phục hưng và
Baroque. Chịu ảnh hưởng từ Peri và cũng là một đại diện của giới
nghệ thuật Florence như Peri, nhưng không như Peri là một ca sĩ –
nhạc sĩ, Monteverdi là một nhạc sĩ chuyên nghiệp. Năm 1607 ông
sáng tác vở opera Orfeo, cũng lấy cảm hứng từ câu chuyện
89
“Orpheus và Euridice” trong thần thoại Hi Lạp. So với Euridice của
Peri, thì vở opera của Monterverdi có những thay đổi mang tính lịch
sử. Thay vì sử dụng những cây đàn lute, Monterverdi đã mạnh dạn
sử dụng đàn dây, harpsichord, organ, trumpet, recorder và một vài
nhạc cụ khác nữa. Biên chế dàn nhạc được mở rộng khiến cho âm
nhạc của vở opera trở nên giàu màu sắc và có tính tương phản rõ
nét. Monterverdi cũng mở đầu opera bằng một đoạn nhạc ngắn, tiền
thân của overture sau này. Ông cũng tạo cho những nhân vật sự
khác biệt bằng những nét nhạc đặc thù. Recitativo trong vở opera
này không chỉ đơn thuần là truyền tải nội dung ca từ mà còn phải thể
hiện ý nghĩa của ca từ, khắc họa diễn biến nội tâm sâu sắc của nhân
vật. Cho đến tận ngày nay, nhiều vở opera của Monterverdi như Il
ritorno d'Ulisse in patria (1641) hay L'incoronazione di Poppea (1642)
vẫn còn được trình diễn. Monterverdi được coi là một trong những
nhạc sĩ có ảnh hưởng nhất đối với những thế hệ đi sau. Những nhạc
sĩ khác thuộc trường phái này là Pietro Francesco Cavalli (1602 -
1676) và Antonio Cesti (1623 - 1669).
Đến cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18, trung tâm opera của nước Ý chuyển
từ Venice sang Naples. Đặc điểm nổi bật nhất của những vở
Neapolitan opera này là sự hài hước nhẹ nhàng (mở đầu cho những
vở opera buffa (opera hài hước) sau này). Nhạc sĩ nổi tiếng nhất thời
kì này là Alessandro Scarlatti (1660 - 1725). Đóng góp đáng kể
nhất của Scarlatti là phát triển da capo aria (hình thức aria ba đoạn
ABA’ trong đó phần A được nối tiếp bằng phần B mang tính tương
phản và chủ yếu viết ở giọng thứ rồi được quay trở lại phần đầu) để
thể hiện diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật và là kiểu mẫu để
90
những nhạc sĩ sau này noi theo. Scarlatti cũng là người đầu tiên định
hình Overture kiểu Ý theo hình thức nhanh – chậm – nhanh là tiền đề
cho sự ra đời của giao hưởng sau này. Scarlatti viết tất cả 88 vở
opera (tùy theo tài liệu con số này có thể lên đến hơn 100) nhưng
hầu hết đều bị thất lạc. Có một số vở opera của Scarlatti lấy đề tài
thần thoại hoặc anh hùng ca là tiền đề cho những vở opera seria
(opera nghiêm túc) sau này. Neapolitan opera có một vai trò đặc biệt
quan trọng trong lịch sử phát triển opera và ảnh hưởng tới toàn bộ
nền âm nhạc châu Âu thế kỉ 18.
2/ Sự phát triển opera tại các nước Pháp, Đức và Anh: Pháp: Năm 1647, lần đầu tiên người dân Pháp tiếp cận thể loại
opera khi vở Orfeo của Luigi Rossi được công diễn tại Paris, tiếp
theo đó là những vở opera của Pietro Francesco Cavalli. Trước thời
điểm này thì ở Pháp loại hình sân khấu chiếm vị trí chủ đạo là ballet.
Chỉ đến khi có sự xuất hiện của Jean-Baptiste Lully (1632 - 1687)
thì mới có sự ra đời của nền opera Pháp. Lully sinh ra tại Florence và
đến năm 1661, ông mới nhập quốc tịch Pháp. Là một người rất tài
năng, ban đầu Lully được đích thân Louis XIV mời làm vũ công ballet
và sau đó là nhạc sĩ sáng tác âm nhạc cho các vở ballet và biên đạo
múa. Ông tập trung vào nghiên cứu và sáng tác opera từ năm 1672.
Lully gọi những vở opera của mình là tragédies lyriques (bi kịch trữ
tình). Những đặc điểm chính trong các vở opera của Lully: sử dụng
rất nhiều những vũ điệu, đưa ballet trở thành một nhân tố tích cực
trong opera; sáng tạo ra Overture theo kiểu Pháp gồm 2 phần chậm
– nhanh và đặc biệt trong opera của Lully sử dụng rất nhiều và hiệu
quả hợp xướng - điều trước đây hầu như chưa thấy xuất hiện trong
91
opera Ý. Những vở opera đáng chú ý của Lully là Alceste (1674),
Atys (1676) và Armide et Rénaud (1686).
Tiếp nối Lully, Jean Philippe Rameau (1683 - 1764) cũng là một tác
giả rất quan trọng. Những nhạc sĩ sau này như Berlioz, Debussy đều
đánh giá rất cao Rameau. Cũng là một nhà phê bình âm nhạc hết
sức xuất sắc, Rameau đã xây dựng được một tư duy hòa thanh mới
vì vậy phần khí nhạc trong opera của ông vô cùng hiệu quả và độc
đáo. Ông đã rất thành công trong việc đưa phức điệu vào trong
những vở opera của mình. Những vở opera của Lully và Rameau
còn được gọi là opera – ballet.
Đức: Người sáng tác ra vở opera đầu tiên của nước Đức – vở Dafne
(1627) là nhạc sỹ Heinrich Schütz (1582 - 1672). Âm nhạc của vở
opera này nói riêng và toàn bộ tác phẩm của Schütz nói chung chịu
ảnh hưởng từ 2 nhạc sỹ người Ý: Giovanni Gabrieli (thầy dạy của
ông ở Venice từ năm 1609 đến 1613) và Monteverdi. Nhiều nhà hát
opera được xây dựng tại Munich, Dresden và đặc biệt là Hamburg.
Tại Hamburg, sau khi Schütz qua đời nổi lên nhạc sĩ Reinhard
Keiser (1674 - 1739). Chính Handel và Mozart sau này cũng thừa
nhận trong sáng tác opera, họ chịu khá nhiều ảnh hưởng từ Keiser.
Nhạc sĩ Handel trẻ tuổi cũng sáng tác một số vở opera trong thời
gian ông sống tại đây nhưng không mấy thành công. Georg Philipp Telemann (1681 - 1767) là người cùng thời với Johann Sebastian
Bach và là bạn thân của Handel. Ông đã sáng tác khoảng 40 vở
opera và được người đương thời đánh giá thậm chí còn cao hơn
92
Bach và Handel. Sau khi Telemann qua đời, nền opera Đức lại bị
nước Ý thao túng.
Anh: Nước Anh luôn háo hức đón chào và tiếp nhận nghệ thuật
nước ngoài. Trước khi xuất hiện opera, ở nước Anh vào cuối thế kỉ
16 thịnh hành kịch mặt nạ (masque), chỉ đến khi một người xuất hiện
thì nền opera Anh mới thực bắt đầu. Người đó chính là Henry Purcell (1659 - 1695). Ông chính là người đã khai sinh ra nền opera
Anh với vở Dido and Aeneas (1689). Nhà hát Opera đầu tiên ở
London xuất hiện năm 1671 là để trình diễn các tác phẩm của
Purcell. Purcell đã biết tiếp thu tinh hoa của 2 nền opera Ý và Pháp
thời bấy giờ với overture theo kiểu Pháp nhưng recitativo và aria thì
theo kiểu Ý. Purcell đã rất khéo léo trong việc lồng âm nhạc vào tiếng
Anh để đem lại sự hài lòng cho khán, thính giả. Ngoài Dido and
Aeneas, Oedipus cũng là một vở opera rất thành công. Ngày nay,
những tác phẩm của Purcell vẫn được công diễn.
Sau khi Purcell qua đời, bẵng đi một thời gian dài nền opera Anh
không có những tác phẩm nào đáng kể. Chỉ đến khi có sự xuất hiện
của nhà soạn nhạc vĩ đại George Frideric Handel (1685 - 1759) thì
nền opera Anh mới khôi phục được vị thế của mình. Nhạc sĩ người
Đức Handel từng là nghệ sĩ violin tại nhà hát Hamburg dưới thời
Keiser làm giám đốc và bắt đầu sáng tác opera. Từ năm 1706 đến
năm 1710 ông sống tại một số thành phố của Ý như Rome, Florence
và Naples. Chính tại Naples, ông đã chịu ảnh hưởng từ A. Scarlatti
và Neapolitan Opera. Những vở opera được Handel sáng tác trong
thời gian này như Rodrigo (1707) và Agrippina (1709) đã giành được
93
tiếng vang lớn và thu hút được sự chú ý của nhà hát Opera London.
Handel được mời sang London và ngay lập tức bằng vở opera mang
phong cách Ý Rinaldo (1711), ông đã được nhà hát mời cộng tác lâu
dài. Năm 1719, hoàng gia Anh cho xây dựng Nhạc viện Hoàng gia và
Handel được đảm nhận trọng trách giám đốc nhạc viện và nhạc
trưởng chính của nhà hát opera London. Trong thời gian này ông đã
sáng tác những vở opera hay nhất của mình như Giulio Cesare
(1724), Tamerlano (1724), Rodelinda (1725). Trong những năm
1730, do một bộ phận giới quý tộc ở Anh không hài lòng với nguồn
gốc Đức của ông (dù Handel đã nhập quốc tịch Anh năm 1727) nên
ông phải nhường lại quyền điều hành nhà hát cho Nicola Porpora –
một nhạc sĩ người Ý. Những năm cuối đời, nhạc sĩ ít viết opera hơn
mà tập trung chủ yếu vào oratorio cũng như các thể loại khác nhưng
những vở opera được sáng tác trong thời gian này như Orlando
(1733) Alcina (1735) hay Serse (1738) đều được đánh giá rất cao và
được coi là đã vượt ra ngoài phạm vi ảnh hưởng của opera Ý. Các
vở opera của Handel phần lớn đều được coi là opera seria.
II/ Thời kì Cổ điển:
Trong thời kì này, opera chủ yếu phát triển tại Đức và Áo hay thậm
chí là cả Pháp. Còn opera Ý đã bị mất vị thế bá chủ và rơi vào giai
đoạn khủng hoảng dù rằng các vở opera bằng tiếng Ý vẫn được
sáng tác đều đặn. Đây cũng là thời kì nền opera châu Âu chia làm 2
thể loại chính: opera seria và opera buffa.
Opera seria phát triển từ Neapolitan opera với cốt truyện lấy từ đề tài
lịch sử hoặc thần thoại với âm nhạc mang tính chất trang trọng và rất
94
phổ biến trong thời kì Baroque. Tuy nhiên đến đầu thế kỉ 18, do kết
cấu của opera seria trở nên quá nhàm chán, các aria và recitativo
luân phiên nhau xuất hiện. Nhà thơ người Ý Metastasio trong thời
gian này đã viết tới 30 kịch bản để các nhạc sĩ sáng tác opera. Điều
này khiến opera seria đâm vào ngõ cụt, khán giả quay lưng lại. Hơn
nữa sân khấu opera giờ đây chỉ là nơi để các ca sĩ castrato (ca sĩ bị
hoạn) khoe giọng. Các castrato này thỏa sức hát những gì họ thích,
không hề quan tâm đến nội dung các vở opera cũng như yêu cầu
của nhạc sĩ. Chính vì vậy sân khấu opera châu Âu vào đầu thế kỉ 18
cần có một sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Trong bối cảnh đó
opera buffa lên ngôi và trở thành phong cách opera chủ đạo của thời
kì Cổ điển.
1/ Sự lên ngôi của opera buffa và sự hình thành opera-comique và singspiel: Cũng khởi nguồn từ Neapolitan opera, opera buffa đã trở thành đối
trọng của opera seria. Đặc điểm của opera buffa là phong cách dí
dỏm, nhẹ nhàng lấy bối cảnh từ chính cuộc sống thường nhật của
người dân, châm chọc những người thuộc tầng lớp trên nên dễ được
quần chúng đón nhận. Về mặt âm nhạc, opera buffa sử dụng nhiều
các duet (khác với opera seria hay dùng aria) và coi trọng giọng
bass, điều gần như không xuất hiện trong opera seria. Opera buffa
đã thật sự khẳng định được vị thế của mình vào đầu thế kỉ 19. Trước
đây, opera buffa chỉ được biểu diễn với tư cách là 1 intermezzo
(khoảng nghỉ) giữa hai màn của 1 vở opera seria. Nhạc sĩ tiêu biểu
trong thời kì này là Giovanni Battista Pergolesi (1710 - 1736). Ông
sáng tác cả opera seria và opera buffa trong đó vở opera buffa La
95
serva padrona (1733) là vở opera buffa đầu tiên tách được mình ra
khỏi 1 vở opera seria để công diễn 1 cách độc lập (ban đầu La serva
padrona cũng chỉ được sáng tác như là 1 intermezzo của vở opera
seria Il prigioniero superbo). Pergolesi được coi là nhạc sĩ lớn đầu
tiên sáng tác opera buffa. Sau Pergolesi, còn nhiều nhạc sĩ sáng tác
opera buffa nổi tiếng khác như Nicolò Piccinni (1728 - 1800),
Giovanni Paisiello (1740 - 1816) hay Domenico Cimarosa (1749 -
1801).
Song song với sự phát triển opera buffa tại Ý, tại Pháp và Đức opera
cũng có những cải cách đáng kể theo hướng độc lập và có xu hướng
ngày càng ít chịu ảnh hưởng từ opera Ý. Tại Pháp, opera hài hước
được gọi là opera-comique, thuật ngữ này lần đầu xuất hiện vào
khoảng năm 1716. Opera-comique đã tiếp thu và phát triển từ các vở
opera buffa của Ý nhưng có thay đổi đáng kể nhất là không sử dụng
recitativo và thay vào đó là hình thức đối thoại. Paris cho xây dựng
nhà hát Opéra-Comique để biểu diễn những vở opera này. Tác giả
sáng tác opera-comique đáng chú ý trong thế kỉ 18 là nhạc sĩ người
Bỉ sống tại Pháp từ năm 1767 André Modeste Grétry (1741 - 1813)
với vở Richard Coeur-de-lion (1875). Grétry cũng được coi là người
đầu tiên đặt nền móng cho opéra grande. Tuy nhiên sau cuộc cách
mạng năm 1789, tính hài hước trong opera-comique ngày một ít đi,
thậm chí bị triệt tiêu. Tại Đức, từ giữa thế kỉ thứ 18 hình thành thể
loại singspiel (hát – diễn). So sánh với opera buffa hay opera-
comique thì singspiel đối thoại nhiều hơn và mang nhiều âm hưởng
của các bài hát Đức (lied) và ảnh hưởng từ hài kịch dân gian Đức.
Johann Adam Hiller (1728 - 1804) được coi là người sáng lập ra
96
singspiel. Những vở opera bằng tiếng Đức của Mozart, Beethoven
hay Weber sau này đã đưa singspiel lên đỉnh cao.
Những năm cuối của thế kỉ 18 được đánh dấu bằng cuộc cách mạng
Tư sản Pháp 1789, điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới quan niệm
sáng tác của giới văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực âm nhạc.
Các vở opera mang tính thời sự hơn, kêu gọi sự tự do, bình đẳng và
đề cao tính anh hùng. Đã xuất hiện một dòng opera được sáng tác
theo nội dung này và được gọi là rescue opera (opera giải cứu).
Những vở opera tiêu biểu thuộc trào lưu này là Médée (1797) và Les
deux journées (1800) của Luigi Cherubini (1760 - 1842) và La vestale
(1807) của Gaspare Spontini (1774 - 1851).
2/ Christoph Willibald Gluck và sự cải cách vĩ đại: Nhạc sĩ người Đức Christoph Willibald Gluck (1714 - 1787) là một
nhà cải cách opera vĩ đại. Thời gian đầu ông sống ở Milan và đã
sáng tác khá nhiều vở opera tại đây. Những vở opera này đã đem lại
danh tiếng cho ông và năm 1745, ông lên đường sang London và
gặp gỡ Handel. Tuy nhiên, Handel tỏ ra không quan tâm đến opera
của Gluck. Thất bại, Gluck buồn chán rời nước Anh đi nghiên cứu
âm nhạc của hầu hết các nước châu Âu và rồi định cư tại Vienna từ
năm 1750. Chính trong quãng thời gian này, Gluck đã tiếp thu tư
tưởng của phong trào Khai sáng và từ đó ông nung nấu ý định cải
cách opera vì Gluck nhận thấy rằng trong thời kì này, các vở opera
đã trở nên rập khuôn và thiếu sâu sắc. Năm 1761, Gluck đã may
mắn có dịp gặp gỡ và làm quen với nhà thơ Ranicro Calzabigi và 2
người bạn tâm đầu ý hợp này đã cùng nhau viết vở opera Orfeo ed
97
Euridice. Năm 1762, vở opera được công diễn lần đầu tại Vienna.
Đây đã trở thành cột mốc quan trọng đánh dấu một bước tiến mới
trong việc cải cách opera. Orfeo ed Euridice có những điểm khác biệt
cơ bản với những vở opera trước đó, Orfeo ed Euridice là một lời
tuyên chiến quyết liệt với sự hào nhoáng bề ngoài và xu hướng mua
vui của giới quý tộc. Gluck đã phát triển opera theo hướng biểu lộ
nhiều cảm xúc trong ca từ và âm nhạc nhưng nghiêm cấm lối hát hoa
mĩ, lợi dụng kĩ xảo của các ca sĩ thời kì đó. Ông bắt các ca sĩ phải
hát đúng như yêu cầu trong tổng phổ. Quan niệm sáng tác của Gluck
là hướng đến những gì chân thật nhất, tự nhiên nhất như chính
những gì mà cuộc sống vốn có. Trong các tác phẩm của mình, Gluck
chuyên tâm vào thế giới nội tâm của nhân vật và âm nhạc phụ thuộc
vào tính kịch. Gluck cũng là người đầu tiên đưa một số giai điệu của
opera vào trong phần overture, điều này giúp cho overture trở thành
phần dự báo và giúp cho thính giả nắm được chủ đề cơ bản của vở
opera. Gluck có ảnh hưởng rõ rệt với Mozart, Weber, Berlioz và
Wagner sau này. Sau sự thành công của Orfeo ed Euridice, Gluck
tiếp tục sáng tác nhiều vở opera khác như Alceste (1767) hay
Iphigénie en Aulide (1774)” nhưng bị những người theo phe bảo thủ
phản ứng dữ dội khiến nhạc sĩ bị tổn thương và sau năm 1780,
Gluck hoàn toàn không sáng tác opera nữa. Tuy nhiên tinh thần vĩ
đại của Gluck được nhiều nhạc sĩ sau này tiếp thu và vai trò lịch sử
của ông đã được chính thức thừa nhận.
3/ Wolfgang Amadeus Mozart:
Nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart (1756 - 1791) là tác giả của hơn 20 vở opera trong đó có nhiều vở đã
98
trở thành những kiệt tác. Với tư cách một nghệ sĩ piano thần đồng,
thuở nhỏ Mozart đã đi biểu diễn tại rất nhiều nơi và tiếp thu được tinh
hoa của nhiều loại hình âm nhạc như những bài hát Neapolitan, thủ
pháp đối vị của Đức và các bản giao hưởng của Haydn. Chính điều
này giúp cho trong các vở opera của Mozart có được sự cân bằng
giữa các nghệ sĩ đơn ca và hợp xướng, giữa ca sĩ và dàn nhạc. Là
người người đương thời và chịu ảnh hưởng từ quan điểm sáng tác
của Gluck, tuy nhiên Mozart lại quan niệm: “lời thoại trong opera phải
là cô gái biết nghe lời âm nhạc”. Âm nhạc của Mozart trong các tác
phẩm nói chung và opera nói riêng trong sáng, tinh tế, thánh thiện và
đẹp một cách diệu kì. Trong bộ 3 opera Mozart kết hợp với nhà
chuyên viết lời cho các vở opera Lorenzo da Ponte là Le nozze di
Figaro (1786), Don Giovanni (1787) và Così fan tutte (1790) thì ngoài
Così fan tutte là viết theo đơn đặt hàng nên có chất lượng nghệ thuật
không cao còn 2 tác phẩm kia đều là những tuyệt tác. Âm nhạc đầy
chất thơ, kết hợp hài hòa giữa hát và hát nói. Đặc biệt là việc phát
huy vai trò của duet, lấy duet làm trung tâm cho sự phát triển kịch
tính của opera. Hơn nữa, trong các vở opera này, Mozart đã sử dụng
rất thành thạo các hợp ca từ terzet đến septet, điều gần như không
xuất hiện trong các vở opera trước đó của ông. Trong Don Giovanni,
lần đầu tiên kèn trombone có mặt trong biên chế dàn nhạc và âm
nhạc của màn cuối được vang lên ngay trong phần overture, điều
này cho thấy ảnh hưởng của Gluck đối với Mozart. Với Die
entführung aus dem Serail (1782) và đặc biệt là Die Zauberflöte
(1791) – vở opera cuối cùng của Mozart, singspiel đã đạt đến đỉnh
cao chưa từng thấy. Trong Die Zauberflöte, sự trộn lẫn của triết học,
tính ẩn dụ, chất lãng mạn, màu sắc huyền bí, hóm hỉnh khiến cho vở
99
opera không chỉ đạt được thành công to lớn ngay sau khi mới ra đời
mà còn trở thành một trong những tác phẩm được ưa thích nhất hiện
nay. Chính những vở singspiel này đã mở ra con đường phát triển
cho opera lãng mạn Đức sau này.
4/ Ludwig van Beethoven và Fidelio:
Fidelio (1814) là vở opera duy nhất của Ludwig van Beethoven (1770
- 1827) và cũng là tác phẩm khiến Beethoven tốn nhiều công sức
nhất. Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1804 (bản tiếng Ý) nhưng bản
tiếng Đức như ngày nay chúng ta thưởng thức thì được biểu diễn lần
đầu tiên vào năm 1814. Fidelio là vở opera có hình thức singspiel với
nội dung thuộc trào lưu rescue opera. Tuy nhiên, ban đầu Beethoven
không có ý định sáng tác opera mà Fidelio ra đời là do bực mình về
sự không chung thuỷ trong Così fan tutte và lòng nhiệt tình bắt nguồn
từ cuộc Cách mạng Pháp 1789, chính vì vậy Fidelio còn được gọi là
“Người con gái của Cách mạng Pháp 1789”. Các aria và recitativo có
kĩ xảo khó nhưng điểm nổi bật nhất của vở opera là vai trò của dàn
nhạc. Có thể nói, Beethoven là một trong những người tiên phong
trong việc “giao hưởng hóa” opera, mà sau này Wagner là người ưu
tú nhất. Âm nhạc của Fidelio gần với Gluck và Handel – người mà
Beethoven rất kính trọng nhưng mang chất lãng mạn rất cao. Chính
vì vậy, có thể coi “Fidelio” là viên gạch đầu tiên của opera Lãng mạn
Đức thế kỉ 19.
Thể loại Opera (phần 2)
100
Thể loại Opera (phần 1)
III/ Thời kì Lãng mạn: Thế kỷ 19, thời kì Lãng mạn là thời kỳ
mà chủ nghĩa dân tộc lên cao nhất.
Tính dân tộc được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết. Cùng với sự phát
triển của văn học, hội hoạ, âm nhạc cổ điển nói chung và opera nói
riêng có sự thay đổi rất rõ rệt. Thời kì này cũng chứng kiến sự hồi
sinh ngoạn mục của opera Ý sau một thời gian dài khủng hoảng
nhưng các nước khác như Đức, Pháp, Nga, Czech... cũng có được
những vở opera đỉnh cao mang tính thời đại. Hơn nữa các qui tắc
cũng dần dần bị phá bỏ tạo nên sự đa phong cách trong âm nhạc,
qui mô và nội dung tác phẩm. Đề tài thần thoại và anh hùng ca phổ
biến trong thời kì Baroque và Cổ điển dần dần được thay thế bởi các
câu truyện đời thường và những sự kiện xã hội. Các nhạc sĩ đã trở
thành những nhà soạn nhạc tự do, không phải lệ thuộc vào những
nhà qúy tộc nên họ hoàn toàn tự do trong công việc sáng tác của
mình.
1/ Opera Lãng mạn Ý:
a) Bel canto: Đầu thế kỷ 19, tại Ý sự xuất hiện của 3 nhạc sỹ: Rossini, Donizetti và
Bellini với các vở opera mang đậm phong cách bel canto đã để lại
cho chúng ta một kho tàng vô giá các tuyệt tác.
101
Bel canto (hát đẹp) là một nghệ thuật hát có tại nước Ý từ thế kỷ 17
nhưng được phát triển mạnh nhất trong những thập niên đầu tiên của
thế kỷ 19. Ba nhạc sĩ trên là những nhà soạn nhạc trung thành với
trường phái này và cũng là những người đưa bel canto đến đỉnh cao
nhất. Tên gọi của 3 nhạc sĩ cũng đồng nghĩa với bel canto, họ được
coi là những người khổng lồ của bel canto.
Đặc điểm chính của opera bel canto là sự chú trọng đến kỹ thuật và
vẻ đẹp của giọng hát. Các vở opera sáng tác sao cho các ca sỹ có
thể phô diễn được tối đa giọng hát của mình. Trong các vở opera
thời kỳ này vai chính thường được dành cho các giọng nam cao và
nữ cao (đặc biệt là giọng Soprano coloratura). Toàn bộ âm vực (chủ
yếu ở âm vực cao) và kỹ thuật Staccato được khai thác triệt để.
Thời kì này xuất hiện thêm một thuật ngữ: opera semiseria (opera
nửa nghiêm). Opera semiseria gần giống với opera buffa, có nhiều
yếu tố hài hước nhưng nội dung cảm động, có bối cảnh ở vùng đồng
quê. Vở opera nổi tiếng nhất thuộc thể loại này là Linda di
Chamounix của Donizetti. Ngoài ra, La sonnambula của Bellini cũng
có thể liệt vào thể loại này.
Các vở opera buffa của Gioacchino Rossini (1792 - 1868) là những
mẫu mực cho thể loại này, đặc biệt là trong giai đoạn 1813 - 1817 với
L'Italiana in Algeri (1813), Il Turco in Italia (1814), Il Barbiere di
Siviglia (1816) và La Cenerentola (1817). Trong đó Il Barbiere di
Siviglia đã trở thành một tuyệt tác, sự kết hợp hài hoà và vẻ đẹp
tuyệt với của các aria, recitativo, dàn nhạc và hợp xướng là những gì
102
mà ta có thể thấy được trong vở opera này. Bên cạnh đó Rossini
cũng viết opera seria như các vở Tancredi (1813) và Otello (1816).
Có một thời gian dài Rossini ở Paris và các vở opera cuối cùng của
ông ra đời ở đây như Le Comte Ory (1828) và Guillaume Tell (1829)
trong đó Guillaume Tell là tiền đề cho sự ra đời cho các vở opéra
grande của Pháp sau này. Đóng góp cơ bản nhất của Rossini là loại
bỏ revitativo secco (recitativo không nhạc đệm), tăng sức biểu cảm
của dàn nhạc, đồng thời Rossini đã khai thác được tối đa ưu thế của
từng giọng hát nhờ vào khả năng am tường kĩ thuật hát bel canto
truyền thống. Sau một thời gian dài opera Ý chìm khuất sau opera
của Gluck và Mozart, chính Rossini là khiến opera Ý trở lại với vị trí
vốn có của nó.
Phong cách sáng tác của Rossini là mạnh mẽ, sôi nổi và dân dã
trong khi nhạc sỹ cùng thời với ông, Vincenzo Bellini (1801 - 1835)
lại có cái gì đó rất quí phái và yếu đuối. Trong các vở opera của
Bellini, các nhân vật luôn mang một chút gì hơi u sầu, phiền muộn.
Bellini viết các vở opera của mình cho các ca sỹ hàng đầu thời bấy
giờ, chính vì vậy độ khó của tác phẩm là rất lớn và đòi hỏi phải là
những giọng hát xuất sắc nhất mới có thể trình diễn được. Trong
cuộc đời ngắn ngủi của mình, Bellini đã để lại 11 vở opera trong đó
tuyệt vời nhất là bộ 3 nổi tiếng: La Sonnambula (1831); Norma (1831)
và I Puritani (1835). Bellini qua đời ở độ tuổi 34, đúng lúc tài năng
đang độ sung sức nhất.
Trung dung giữa Rossini và Bellini đồng thời cũng có số lượng các
vở nhiều nhất là Gaetano Donizetti (1797 - 1848). Donizetti sáng tác
gần 70 vở opera. Không tạo được sự duyên dáng như Bellini, không
103
có được sự sôi nổi như Rossini nhưng Donizetti là người tạo được
sự cân bằng giữa chất trữ tình và sự kịch tính trong các vở opera của
mình. Donizetti chính là người có ảnh hưởng lớn đến Verdi sau này.
Tài năng của Donizetti được thừa nhận khá muộn, đến vở opera thứ
33 của mình Anna Bolena (1830) thì ông mới được biết đến và từ đó
thì ông trở nên rất nổi tiếng. Donizetti sáng tác opera chủ yếu bằng
tiếng Ý và đôi khi bằng tiếng Pháp. Vở opera tiếng Pháp nổi tiếng
nhất của ông là La fille du regiment (1840). Tuy nhiên đỉnh cao nhất
của opera là các vở L'elisir d'amore (1832) và Lucia di Lammermoor
(1835).
b) Giuseppe Verdi: Rossini, Donizetti và Bellini vẫn là những nhạc sỹ chịu ảnh hưởng
của opera thế kỷ 18 và các tác phẩm của họ thể hiện chủ nghĩa lãng
mạn qua ca từ nhiều hơn là âm nhạc. Chủ nghĩa dân tộc đã xuất hiện
nhưng vẫn chưa được bộc lộ rõ rệt và chưa thể thoát khỏi cái bóng
của nước Áo (khi đó đang xâm lược và chiếm đóng nước Ý). Chỉ đến
khi một nhân vật vĩ đại xuất hiện thì nước Ý mới có một biểu tượng
thật sự để chống lại sự lấn át của người áo. Con người vĩ đại đã
giương cao 2 lá cờ: chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa lãng mạn chính
là Giuseppe Verdi.
Giuseppe Verdi (1813 - 1901) là một nhạc sỹ thiên tài, người đã nói
lên tiếng nói của nhân dân, người đã cùng với những người con yêu
nước đã chiến đấu để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với
quân Áo vào năm 1848.
104
Là người đã bị nhạc viện Milano từ chối nhận vào học năm 1832
nhưng chỉ 10 sau, với sự ra mắt vở opera Nabucco (1842) tại La
Scala, Verdi đã trở thành biểu tượng không chỉ của thành phố Milano
mà còn của cả nước Ý. Tiếp theo thành công của Nabucco là sự xuất
hiện của các vở I Lombardi (1843), Ernani (1844), Macbeth (1847) và
Luisa Miller (1849). Tuy nhiên tên tuổi của Verdi thực sự được lưu
danh trong lịch sử opera khi có sự xuất hiện của 3 vở opera:
Rigoletto (1851), La Traviata (1853) và Il Trovatore (1853). Đây là
những kiệt tác trong kho tàng opera của nhân loại và đến tận bây giờ
các nhà phê bình vẫn chưa thể thống nhất được với nhau đâu là vở
xuất sắc hơn. Vẻ đẹp trong giai điệu, sức mạnh của dàn hợp xướng
và sự lộng lẫy của dàn nhạc đã tạo cho bộ 3 trên một sức hấp dẫn kỳ
diệu.
Trong các năm tiếp theo, Verdi hướng đến các vở opera có qui mô
đồ sộ hơn như Don Carlo (1867) và đặc biệt là Aida (1871) - vở
opera sáng tác theo đơn đặt hàng của hoàng gia Ai Cập nhân dịp
khánh thành kênh đào Suez.
Khi đã ở tuổi ngoài 70, Verdi sáng tác một trong những vở xuất sắc
nhất của mình: Otello (1887) theo lời đề nghị của Arrigo Boito (1842 -
1918) - một người bạn, tác giả vở opera “Mefistofele”. Boito cũng
chính là người khuyên Verdi sáng tác vở opera cuối cùng và cũng là
vở opera hài mang phong cách opera buffa nổi tiếng duy nhất của
ông: Falstaff (1893).
105
Nhìn một cách tổng thể, âm nhạc của Verdi đã làm thay đổi opera Ý.
Không bị quá câu nệ vào ca từ, các giai điệu vụn vặt và sự phô
trương quá đáng của giọng hát, opera của Verdi đã dung hoà được
giữa âm nhạc, lời hát và tính kịch tạo nên vẻ đẹp hài hoà nhưng vẫn
làm nổi bật lên tính dân tộc và sự lãng mạn. Đặc biệt các trích đoạn
hợp xướng trong opera của Verdi thực sự là những lời kêu gọi lòng
yêu nước, là tiếng thét bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Ý, rất phù hợp
với bối cảnh nước Ý thời bấy giờ.
c) Verismo:
Là một trường phái opera của Ý ra đời khi sự nghiệp của Verdi đã
gần đi vào giai đoạn cuối. Verismo (chân thực) là trường phái bao
trùm lên nước Ý vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với
mục đích phơi bày hiện thực trần trụi của xã hội đương thời nhằm
phản đối và đả kích những vở opera mang màu sắc thần thoại của
Wagner. Có rất nhiều nhạc sỹ nổi tiếng thuộc trường phái Verismo
như Pietro Mascagni (1863 - 1945) với Cavalleria rusticana (1890),
Ruggero Leoncavallo (1858 - 1919) với Pagliacci (1892), Umberto
Giordano (1867 - 1948) với Andrea Chenier (1896). Tuy nhiên nhạc
sỹ nổi tiếng nhất phải kể đến Giacomo Puccini (1858 - 1924). Là tác
giả của nhiều vở opera nổi tiếng như: La Bohème (1897); Tosca
(1900); Madama Butterfly (1904) và Turandot (1824) (Puccini qua đời
khi chưa viết xong 2 cảnh cuối và vở opera được Franco Alfano hoàn
thành vào năm 1926) Puccini đã đóng góp vào kho tàng opera thế
giới những vở opera tràn đầy những cảm xúc mạnh mẽ với giai điệu
đẹp thể hiện mọi cung bậc của tâm hồn. Không có những hợp xướng
hào hùng và hoành tráng như trong Verdi, cũng không có các
106
overture tuyệt diệu và thủ pháp sử dụng dàn nhạc một cách tinh tế
như trong nhạc kịch của Rossini, tâm điểm trong các opera của
Puccini luôn là các aria hay duet đẹp một cách diệu kỳ. Nhiều nhà
phê bình đã nhận xét rằng trong opera Ý, sau các tên tuổi Rossini và
Verdi phải nói đến Puccini.
2/ Opera Lãng mạn Đức: Sau sự tiên phong của Beethoven, opera Lãng mạn Đức được nối
tiếp bằng Weber và đặc biệt là Wagner
Carl Maria von Weber (1786 - 1826) chính là người đưa opera lãng
mạn Đức lên đỉnh cao. Xuất phát điểm là một nghệ sỹ Piano tài năng
và trong các chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu của mình, bị cuốn
hút bởi các vở opera của Mozart và Rossini nên đã bắt tay vào sáng
tác opera. Và thế là vào năm 1821 Der Freischütz - vở opera Lãng
mạn thực sự đầu tiên của Đức ra đời. Thường xuyên sử dụng
recitativo và có kết cấu theo kiểu cổ điển Der Freischütz đã trở thành
đỉnh cao của Singspiel. Sau này Weber có sáng tác thêm nhiều vở
opera khác như Euryanthe (1823) hay Oberon (1826) nhưng không
một vở nào có thể vượt qua được Der Freischütz. Weber có ảnh
hưởng rất to lớn đến Wagner sau này. Có người thậm chí còn nhận
xét, nếu như không có Weber thì cũng chưa chắc đã có Wagner.
Là một hiện tượng vô cùng đặc biệt trong nền âm nhạc cổ điển thế
giới, sự xuất hiện của Richard Wagner (1813 - 1883) đã gây nên rất
nhiều sự tranh cãi trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài cho đến tận bây
giờ và không biết bao giờ mới chấm dứt. Người gọi Wagner là thiên
tài, kẻ lại dè bỉu gọi ông là thằng điên nhưng qua năm tháng thời gian
107
các vở opera dần dần chiếm lĩnh các nhà hát nổi tiếng và có một điều
không có gì phải bàn cãi là rất nhiều các nhạc sỹ sau này lại chịu ảnh
hưởng từ ông. Ông chính là người đưa opera Đức lên đến đỉnh cao
nhất và là bậc thầy trong việc "giao hưởng hóa opera". Luôn viết lời
cho các opera của mình, quan điểm sáng tác vĩ đại nhất của ông là
thay vì tất cả mọi thứ trong vở opera như kịch bản, lời thoại, các yếu
tố sân khấu sinh ra chỉ để phục vụ âm nhạc thì riêng đối với Wagner
lại ngược hẳn lại tất cả mọi thứ từ âm nhạc, lời ca chỉ để phục vụ cho
một kịch bản có sẵn mà thôi. Hay nói một cách ngắn gọn, trong opera
của Wagner âm nhạc phục vụ tính kịch thay vì tính kịch phục vụ âm
nhạc như những gì mà opera vốn có kể từ thời Mozart hay thậm chí
là trước cả Mozart cho đến nay. Thực ra âm nhạc phục vụ tính kịch
vốn là quan điểm của Gluck và đã được Berlioz kế tục nhưng người
đưa nó lên mức đỉnh cao và coi đó là chân lý thì chính là Wagner.
Một trong những cải cách quan trọng mang tính thời đại của Wagner
là sử dụng leitmotif (motif chủ đạo). Đây là một câu nhạc ngắn xuyên
suốt vở opera chủ yếu nhằm đại diện cho tính cách, tâm tư tình cảm
của nhân vật. Khi leitmotif xuất hiện thì đồng nghĩa với việc nhân vật
đó sẽ xuất hiện trên sân khấu. Điều quan trọng là mỗi khi phát triển
tình huống kịch, thể hiện sâu hơn về tư tưởng, tình cảm nhân vật, dự
báo sự biến hóa hay ẩn dụ một sự kiện, liên hệ hay nói rõ mối quan
hệ giữa các đối tượng, tăng cường sự phát triển hay phong phú thêm
nội hàm của nhân vật, khi đó xuất hiện leitmotif. Wagner cũng là
người xóa nhòa đi ranh giới giữa aria và recitativo. Bên cạnh đó,
Wagner sử dụng khá nhiều hòa thanh nửa cung (cromatic), dự báo
cho những cách tân âm nhạc trong thế kỉ 20.
108
Vở opera thành công đầu tiên của Wagner là Rienzi (1842), tuy nhiên
vở này vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng từ opéra grande của Pháp. Vở
opera đầu tiên mà Wagner gây dựng được phong cách đặc trưng
của mình là Der fliegende Holländer (1843). Tuy nhiên vở này vẫn
còn hơi hướng của phong cách opera Ý qua cách sử dụng aria và
chorus. Chỉ đến khi xuất hiện Tannhäuser (1845) và Lohengrin
(1850) thì thực sự tên tuổi Wagner mới được cả châu Âu biết đến.
Rất may mắn cho Wagner là ông được Franz Liszt - người sau này
trở thành bố vợ ông ủng hộ và đích thân Liszt đã nhiều lần chỉ huy
các vở opera của Wagner.
Trong giai đoạn từ 1852 đến cuối đời là thời kỳ sáng tác đỉnh cao của
Wagner. Lúc này thay vì dùng từ opera các vở nhạc kịch của Wagner
được gọi là music - drama. Đã có một thời gian dài Wagner phải
sống lưu vong tại Thụy Sỹ do hậu quả từ cuộc cách mạng năm 1848.
Trong thời gian này Wagner đã nảy ra ý tưởng sáng tác “Der Ring
des Nibelungen” mà sau này không chỉ trở thành công trình đồ sộ
nhất của ông mà còn của cả nền opera cổ điển châu Âu. Sau năm
1860 là thời kỳ thăng hoa trong sự nghiệp sáng tác của ông, hàng
loạt các vở opera nổi tiếng ra đời trong thời gian này: Tristan und
Isolde (1865), Die Meistersinger von Nürnberg (1868) và 2 phần đầu
của “Der Ring des Nibelungen” là Das Rheingold (1869) và Die
Walküre (1870). Tất cả các vở này đều được trình diễn tại Munich vì
vua Ludwig II của xứ Bavarian là người rất hâm mộ Wagner, thậm
chí nhà vua còn cho xây dựng nhà hát Bayreuth Festspielhaus vào
năm 1876 để chuyên trình diễn các opera của Wagner. Hai phần sau
của “Der Ring des Nibelungen” là Siegfried (1876) và
109
Götterdämmerung (1876) cũng được trình diễn tại đây. Vở opera
cuối cùng của Wagner là Parsifal (1882).
3/ Opera Lãng mạn Pháp: Opera Lãng mạn Pháp có thể chia ra làm 3 dòng chính: opéra
grande; opéra comique và operetta.
a) Opéra grande: Bắt nguồn từ Guillaume Tell của Rossini, opéra grande là những vở
opera đồ sộ thường có độ dài từ 4 - 5 tiếng và thường là 5 màn,
trong đó hoàn toàn là hát không sử dụng recitativo cũng như hội
thoại. Trong opéra grande thường xuyên sử dụng incidental music và
ballet. Các tác giả tiêu biểu cho trường phái này là Meyerbeer và
Berlioz.
Giacomo Meyerbeer (1791 - 1864) tuy là người Đức nhưng sống tại
Venice từ năm 1815 vì ngưỡng mộ Rossini. Trong thời gian ở đây,
Meyerbeer đã sáng tác được 6 vở opera bằng tiếng Ý nhưng đều
không nổi tiếng. Thất vọng, Meyerbeer chuyển đến Paris, tạm thời
không sáng tác nữa và lao vào nghiên cứu opera Pháp. Đến khi tìm
lại được cảm hứng sáng tác, Meyerbeer viết 6 vở opera bằng tiếng
Pháp và đã tạo lập được một trường phái riêng đồng thời gây dựng
được uy tín trên khắp châu Âu. Vở opera xuất sắc nhất của
Meyerbeer là Les Huguenots (1836), ngoài ra vở L'Africaine (1865)
được hoàn thiện sau khi ông mất cũng khá nổi tiếng.
Hector Berlioz (1803 - 1869) cũng là một hiện tượng khá kỳ lạ trong
nền âm nhạc cổ điển châu Âu. “Người nhạc sỹ duy nhất không biết
110
chơi piano” này say mê Gluck và tôn thờ quan điểm sáng tác âm
nhạc phục vụ tính kịch của Gluck. Trong 2 vở opera “Benvenuto
Cellini” (1838) và “Les Troyens” (1858) Berlioz triệt để tuân thủ qui
tắc này. Berlioz tỏ ra rất tâm đắc với “Les Troyens”, ông coi đó là “tác
phẩm đã toả ra ánh sáng bất diệt của chủ nghĩa lãng mạn đồng thời
kết hợp hài hoà với quan điểm sáng tác của Gluck”.
Ngoài hai nhạc sỹ trên còn có một số các nhạc sỹ khác cũng có
những vở opéra grande nổi tiếng, trong đó tiêu biểu là Jacques Halevy (1799 - 1862) với La Juive (1835). Cả hai nhạc sỹ Meyerbeer
và Berlioz đều có ảnh hưởng đến Wagner sau này.
b) Opéra comique:
Là thể loại opera phổ biến nhất của Pháp trong thế kỷ 19 và không
hề có chút gì hài hước ở trong thể loại này mặc dù có tên là comique.
Trong opéra comique hoàn toàn không sử dụng recitativo mà thay
vào đó là hội thoại.
Đỉnh cao của opéra comique chính là Carmen (1875) của Georges
Bizet (1838 - 1875). Là học trò tại Nhạc viện Paris của Halevy, Bizet
đã có những vở opera khá nổi tiếng như Les pêcheurs de perles
(1863) hay La jolie fille de Perth (1867) nhưng phải đến khi Carmen
xuất hiện thì Bizet mới thực sự trở thành tên tuổi sáng chói trong nền
âm nhạc lãng mạn Pháp. Dựa trên truyên ngắn cùng tên của nhà văn
Pháp Prosper Merimee hình tượng cô gái Digan Carmen xinh đẹp đã
đi vào lịch sử âm nhạc thế giới như là một biểu tượng của khát vọng
tự do và làm say mê biết bao người yêu nhạc trên toàn thế giới. Tuy
111
nhiên trong thời gian đầu khi trình diễn, Carmen đã bị các nhà phê
bình chỉ trích rất nhiều vì họ cho rằng ca ngợi một cô gái Digan bỏ
anh này yêu anh kia như thế là quá lố bịch. Qua năm tháng, những
lời dị nghị đã bị xua tan và ngày nay Carmen đã trở thành một trong
vở opera được trình diễn nhiều nhất và tất nhiên được yêu thích
nhất.
Bên cạnh Bizet, một người học trò khác của Halevy là Charles Gounod (1818 - 1893) cũng là tác giả của nhiều vở opera xuất sắc.
Trong số hơn 10 vở opera của mình, các vở Mireille (1864), Roméo
et Juliette (1867) và đặc biệt là Faust (1859) dựa trên trường ca cùng
tên của Goethe là những tác phẩm thường xuyên được biểu diễn
nhất.
Jules Massenet (1842 - 1912) cũng là tác giả của nhiều opéra
comique nổi tiếng như Manon (1884), (1885), Werther (1892), Thaïs
(1894) và Don Quichotte (1910). Là tác giả của nhiều bản giao
hưởng, concerto nổi tiếng, Camille Saint-Saëns (1835 - 1921) còn
được biết đến với vở opera Samson et Dalila (1877) dựa trên một
câu chuyện quen thuộc trong Kinh thánh. Ngoài ra ta còn có thể kể
đến Ambroise Thomas (1811 - 1896) với Mignon (1866) và Hamlet
(1868) trong đó Hamlet là vở opera đầu tiên có sử dụng saxophone
hay Léo Delibes (1836 - 1891) với Lakmé (1883).
c) Operetta: Nguồn gốc của operetta là các vở opera ngắn của thế kỷ 18. Đến thế
kỷ 19, operetta được dùng làm tên gọi chung để chỉ các vở opera có
nội dung nhẹ nhàng, hài hước. Ban đầu operetta chỉ có một màn sau
112
này phát triển thành 2 hoặc thậm chí 3 màn. Operetta phát triển
mạnh nhất ở Pháp, sau đó ở Áo và một số nước khác tại châu Âu.
Jacques Offenbach (1819 - 1880) nhà soạn nhạc người Pháp có
nguồn gốc Đức là tác giả của hơn 90 vở operetta trong đó có những
tác phẩm rất nổi tiếng như “Orphée aux enfers (1858), La vie
Parisienne (1866) hay Les contes d’Hoffmann (1880). Do có nội dung
nhẹ nhàng, ngắn gọn, dễ hiểu nên operetta được rất đông đảo nhân
dân lao động Pháp thời kỳ đó yêu thích.
Sự ra đời của operetta tại nước Áo được giải thích là sự kết hợp
giữa singspiel và các vở hài kịch thời kỳ đó. Người đi tiên phong
trong lĩnh vực này là Franz von Suppe (1819 - 1895). Ông là tác giả
của các vở operetta như Dichter und Bauer (1846), Leichte
Cavallerie (1866), Boccaccio (1879). Với sự xuất hiện của Johann Strauss II (1825 - 1899) operetta Áo đã được cả châu Âu biết đến.
Bên cạnh những bản waltz, polka tuyệt vời, Strauss II cũng là tác giả
của nhiều vở operetta trong đó được biết đến nhiều nhất là vở Die
Fledermaus (1874).
4) Opera Lãng mạn Nga và Czech: Nền Opera lãng mạn Nga phát triển muộn hơn đôi chút so với các
nước Ý, Đức hay Pháp, tuy nhiên chính vì sự chậm trễ này mà nước
Nga lại được thừa hưởng những tinh hoa của các nước kia. Các vở
opera của Nga luôn mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa dân tộc không
chỉ vì nội dung các vở opera đều lấy từ các tác phẩm văn học Nga
mà còn vì chính quan điểm sáng tác của các nhạc sỹ. Từ Glinka,
113
Tchaikovsky đến nhóm “Hùng mạnh” đều có khát khao cháy bỏng tạo
dựng một nền âm nhạc cổ điển Nga hùng mạnh.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng sức mạnh từ những trang viết của đại
thi hào Pushkin không chỉ tạo ảnh hưởng đến “Thời đại vàng” của
văn học Nga mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhạc sỹ
Nga sáng tác nên các vở opera của mình.
Sau thành công ban đầu của A Life for the Tsar (1836), Mikhail Glinka (1804 - 1857) bắt tay vào viết vở opera thứ hai của mình
Russlan and Ludmilla (1842) dựa theo trường ca của Pushkin -
người bạn thân thiết của ông. Đây được coi là vở opera xuất sắc đầu
tiên của nền âm nhạc cổ điển Nga. Tuy mang nhiều yếu tố thần thoại
và khá dài (gồm 5 màn) nhưng tác phẩm đã gây được tiếng vang rất
lớn ra khỏi biên giới nước Nga và được các khán giả ở Đức, Ý, Pháp
... rất yêu thích, đặc biệt là phần overture.
Cũng là người vô cùng ngưỡng mộ Pushkin, trong số hơn 10 vở
opera của mình Peter Ilyich Tchaikovsky (1840 - 1893) thì có đến 3
vở là có nội dung từ các tác phẩm của Pushkin. Đó là các vở
“Eugene Onegin” (1879), Mazeppa (1883) và The Queen of Spades
(1890). Đây đều là các vở opera rất nổi tiếng nhưng trong đó tuyệt
vời nhất phải kể đến Eugene Onegin. Là tác phẩm phản ánh trung
thực đời sống nước Nga thế kỷ 19, Eugene Onegin của Tchaikovsky
đã vượt ra khỏi các bóng Eugene Onegin của Pushkin để tạo nên
một hiện tượng thực sự. Những bữa tiệc vui vẻ, những vũ hội sang
trọng của giới thượng lưu cho đến niềm vui của những người nông
dân sau một vụ mùa bội thu là những gì đã trở nên quá quen thuộc
114
với ông và Tchaikovsky đã sáng tác với một sự hứng thú khôn xiết.
Tchaikovsky quan niệm rằng mình là người Nga tại sao lại phải quan
tâm đến những chuyện xa lạ ở tận Ai Cập, Ba Tư? Mình không hiểu
được những suy nghĩ của họ, thì làm sao mà miêu tả họ chính xác
được? Quan niệm này của Tchaikovsky được giới văn nghệ sỹ nước
Nga thời đó chia sẻ và đồng tình. Có thể quan niệm này có nhiều hạn
chế nhưng dù sao thì cũng phải công nhận rằng chính lòng tự tôn
dân tộc đã khiến cho Eugene Onegin trở thành một tuyệt tác. Biết
bao người dân Nga say mê “Eugene Onegin thậm chí đốí với họ
không đọc Eugene Onegin của Pushkin và không xem Eugene
Onegin của Tchaikovsky thì không phải là người Nga.
Là một thành viên của nhóm “Hùng mạnh”, Modest Mussorgsky
(1839 - 1881) là tác giả của hai vở opera lớn mang tính chất sử thi:
Boris Godunov và Khovanshchina, trong đó tác phẩm đầu là dựa
theo vở kịch cùng tên của Pushkin. Được hoàn thành năm 1868
nhưng được biểu diễn lần đầu tiên năm 1874 sau khi đã có sự sửa
chữa, Boris Godunov được các nhà phê bình đánh giá rất cao coi đó
là một công trình bất hủ, sự kết hợp tuyệt vời giữa âm nhạc và tính
kịch, thể hiện được sâu sắc thế giới nội tâm của nhân vật và làm nổi
bật lên hình ảnh của nhân dân Nga. Cái chết đã ngăn cản
Mussorgsky hoàn thành Khovanshchina cũng như không cho
Alexander Borodin (1833 - 1887) - một thành viên khác của nhóm
“Hùng mạnh” viết nốt kiệt tác của mình: vở opera Prince Igor. Tuy
nhiên bằng tài năng cũng như sự am hiểu sâu sắc ý đồ sáng tác của
những người bạn của mình, Nikolai Rimsky-Korsakov (1844 -
1908) - cũng là một thành viên trong nhóm đã hoàn thiện các tác
115
phẩm này như ngày nay chúng ta đang thưởng thức. Không chỉ có
vậy, Rimsky-Korsakov cũng là tác giả của nhiều vở opera xuất sắc
như Snow Maiden (1882) hay The Golden Cockerel (1908).
Bên cạnh các nước Ý, Đức, Pháp, Nga, thời kì Lãng mạn còn chứng
kiến sự thành tựu trong các sáng tác nói chung và opera nói riêng
của những nhạc sĩ người Czech. Bedrich Smetana (1842 - 1884) là
người sáng lập trường phái âm nhạc Czech. Trong bối cảnh Czech
đang bị nước Áo chiếm đóng, những sáng tác trong thời gian đầu
của Smetana thể hiện sự vùng dậy đấu tranh, phản kháng, thể hiện
tinh thần yêu nước. Ông đã từng phải sống lưu vong tại Thụy Sĩ.
Năm 1861, ông quay trở về Czech và lao vào xây dựng nền âm nhạc
dân tộc và một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: vở
opera The Bartered Bride (1866) ra đời trong thời kì này. Đây là vở
opera viết theo phong cách opera buffa nhưng mang những đặc
trưng rất rõ nét của âm nhạc dân gian vùng Bohémia. Đó là sử dụng
rất nhiều vũ khúc Polka. Nối tiếp thành công của Smetana, Antonín Dvorak (1841 - 1904) là người đưa âm nhạc Czech lên đến đỉnh cao.
Thành tựu chủ yếu của Dvorak là những bản giao hưởng và concerto
nhưng trong lĩnh vực opera, Dvorak cũng để lại một tác phẩm rất
đáng chú ý, đó là vở Rusalka (1901). Trong vở opera này Dvorak cho
thấy ông chịu ảnh hưởng từ Wagner khi sử dụng leitmotif.
IV/ Thời kì Hiện đại: Thời kì Lãng mạn chấm dứt cũng gần với mốc xảy ra cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), thời kì đề cao những cảm
xúc đã cho thấy dấu hiệu suy tàn, những mô hình sáng tác opera
116
kiểu cũ đã không còn được mến mộ, mở ra một thời kì mới vẫn còn
trong giai đoạn tìm tòi và thử nghiệm. Lúc này, opera không còn là
sản phẩm của riêng châu Âu mà đã có những nhạc sĩ sáng tác opera
người Mĩ. Những khuôn mẫu cũ kĩ đã bị phá bỏ nhường chỗ cho
những sự phá cách.
Vở opera đi tiên phong cho sự phá cách chính là Pelléas et
Mélisande (1902) của Claude Debussy (1862 - 1918), vở opera duy
nhất của Debussy này được sáng tác sau khi nhà soạn nhạc thử
nghiệm một sự gắn kết giữa âm nhạc và kịch bản theo kiểu mà
Wagner đã làm với Tristan und Isolde. Tuy nhiên, Debussy đã đi theo
một phong cách trái ngược với Wagner. Trong khi ở “Tristan und
Isolde” tràn trề tính anh hùng ca và sử dụng nhiều chromatic thì với
Pelléas et Mélisande, âm nhạc trở nên thanh nhã với nhịp điệu tự
nhiên dựa trên những hòa thanh mới lạ, đúng với trường phái “Ấn
tượng” mà Debussy là người khai sáng. Trong số những nhạc sĩ
người Pháp, Francis Poulenc (1899 - 1963) rất đáng chú ý với
Dialogues des Carmélites (1953). Đây là vở opera viết theo phong
cách lãng mạn với giai điệu đẹp, tinh tế.
Trong những năm đầu tiên của thế kỉ 20, sự xuất hiện của nhạc sĩ
người Đức Richard Strauss (1864 - 1949) được coi như sự nối
nghiệp của Wagner. Thành công đầu tiên mà Strauss gặt hái được là
với 2 vở opera một màn Salome (1905) và Elektra (1909). Trong
những vở opera này, những hòa âm nghịch tai ban đầu đã khiến
khán giả rất khó chịu nhưng sau đó, những hòa âm này trở nên phổ
thông trong các sáng tác của các nhạc sĩ khác sau đó. Đây cũng là
117
những vở opera mà Strauss trong đó có sử dụng atonal (âm nhạc vô
điệu tính), một sự cách tân vô cùng táo bạo. Bên cạnh đó, Strauss
cũng sáng tác những vở opera mang tính chất trữ tình, lãng mạn
theo khuynh hướng truyền thống, tiêu biểu cho phong cách này là vở
opera Der Rosenkavalier (1911). Ngoài ra Strauss còn sáng tác
nhiều vở opera nổi tiếng khác như: Ariadne auf Naxos (1916), Die
Frau ohne Schatten (1919), Intermezzo (1924), Arabella (1933),
Daphne (1938) và Capriccio (1942).
Wagner còn có ảnh hưởng những nhạc sĩ thuộc trường phái Vienna
mới là Schoenberg, Webern và Berg. Trong đó, người có thành tựu
lớn về opera nhất là nhạc sĩ người Áo Alban Berg (1885 - 1935).
Những vở opera của Berg cho thấy một sự cách tân triệt để thông
qua sự chối bỏ có suy nghĩ những hòa thanh phổ thông để hướng tới
những âm thanh gay gắt –điểm nổi bật của khuynh hướng chủ nghĩa
biểu hiện. Wozzeck (1925) và đặc biệt là Lulu (1935) – được một
người bạn hoàn thiện sau khi Berg qua đời, vở opera được hoàn
toàn sáng tác theo ngôn ngữ dodecaphony (hệ 12 âm) là những vở
opera khắc họa những con người cô độc hoảng loạn, căng thẳng và
đau khổ, mang tính hiện đại rất cao.
Ngoài những tìm tòi, khám phá mới, nhiều nhạc sĩ vẫn duy trì phong
cách sáng tác opera theo khuynh hướng dân tộc dù cho cũng có
những sự cách tân nhất định. Ta có thể kể đến nhạc sĩ Franz Lehár (1870 - 1948). Nhà soạn nhạc người Hungary gốc Áo Lehár được
Dvorak khuyến khích sáng tác và ông nổi tiếng với những vở
operetta. Với vở operetta Die lustige witwe (1905) được công diễn,
118
ông đã trở nên nổi tiếng và được gọi là “Johann Strauss tái thế”. Ông
cũng là tác giả của những vở operetta đáng chú ý như: Der graf von
Luxemburg (1909), Das land des lächelns (1928). Nhà soạn nhạc
Belá Bartok (1881 - 1945) được coi là một trong những nhạc sĩ vĩ
đại nhất của thế kỉ 20. Được biết đến như là một trong những người
vô cùng say mê âm nhạc dân gian, ngoài những thành tựu đáng kinh
ngạc về khí nhạc, Bartok còn sáng tác vở opera duy nhất
Bluebeard's Castle (1911) mang tính ngụ ngôn rất cao.
Tiếp bước Smetana và Dvorak, nhạc sĩ người Czech Leos Janácek
(1854 - 1928) đã sáng tác nhiều vở opera nổi tiếng trong thế kỉ 20
như Jenufa (1904), Kát'a Kabanová (1921) hay The cunning little
vixen (1924). Đặc điểm của những vở opera này là nhạc sĩ đã khai
thác tinh hoa âm nhạc dân gian Czech và vận dụng hợp lí ngôn ngữ
Czech vào giai điệu của vở opera và Janácek sáng tác opera luôn
dựa trên kịch bản từ những tác phẩm văn xuôi. Vở opera cuối cùng
của ông là From the house of the dead (1928) dựa theo tiểu thuyết
“Bút kí ngôi nhà chết” của đại văn hào người Nga Dostoyevsky.
Nước Nga thời kì đầu thế kỉ 20 xảy ra nhiều biến động, sự thành
công của cuộc cách mạng tháng 10 đã khiến nền âm nhạc Nga trở
thành nền âm nhạc Xôviết với tư tưởng tiến bộ, giàu lòng yêu nước,
tràn đầy khí thế cách mạng. Trong thời kì giao thời, 2 nhạc sĩ Sergei Rachmaninov (1873 - 1943) và Igor Stravinsky (1882 - 1971) đã để
lại nhiều vở opera có giá trị. Với Rachmaninov là những vở opera
như The miserly knight (1905) và Francesca da Rimini (1905) mang
phong cách lãng mạn, trữ tình, với âm hưởng âm nhạc Nga rõ rệt
119
gần với những tác phẩm khí nhạc của ông. Còn Stravinsky là nhạc sĩ
tham dự vào hầu hết những khuynh hướng âm nhạc quan trọng của
thế kỉ 20. Những vở opera của ông như Oedipus rex (1927), The
Rake's Progress (1951) là những vở opera gần với oratorio nên có
thuật ngữ opera – oratorio để chỉ những vở opera này. Âm nhạc của
những tác phẩm này mang phong cách Neo-classicism (tân cổ điển)
với tiết tấu, hòa thanh rất độc đáo. Và dù rằng vẫn sử dụng aria,
duet, terzet, recitativo nhưng khác xa với phong cách truyền thống
của opera Ý.
Rachmaninov và Stravinsky là những nhạc sĩ lưu vong, còn Prokofiev
và Shostakovich là những người sống tại đất nước Xôviết. Sergei Prokofiev (1881 - 1953) thời trẻ sống chủ yếu tại nước ngoài và
trong thời kì này, ông sáng tác khá nhiều nhưng các tác phẩm của
ông quá thấm đẫm phong cách âm nhạc dân tộc Nga nên không
được thính giả phương Tây chấp nhận, điển hình là vở opera The
love for three oranges (1919). Thời kì hoàng kim trong sáng tác
opera của Prokofiev đến sau khi ông quay trở về đất nước Xôviết.
Đỉnh cao của ông trong thời kì này chính là vở opera hoành tráng
mang đầy tính sử thi War and Peace (1952) dựa theo bộ tiểu thuyết
cùng tên của Lev Tolstoi. Tác phẩm đã kế thừa truyền thống của
Mussorgsky, tràn đầy sự kịch tính, âm nhạc mang tính giao hưởng
rất cao. Nhà soạn nhạc Xôviết Dmitri Shostakovich (1906 - 1975) là
tác giả của vở opera Lady Macbeth of Mtsensk (1934) bị chính quyền
Xô viết, đứng đầu là Stalin phê phán nhưng hiện nay, vở opera được
coi là một trong những vở opera xuất sắc nhất của thế kỉ 20.
120
Nền opera Anh từ sau sự xuất hiện của Purcell và Handel đã bị trầm
luân trong hơn 200 năm cho đến khi xuất hiện Benjamin Britten
(1913 - 1976) thì mới khởi sắc trở lại. Được coi là nhà soạn nhạc
hiện đại xuất sắc nhất nước Anh, ông là tác giả của nhiều vở opera
nổi tiếng, ngày nay được biểu diễn thường xuyên như: Peter Grimes
(1945), Billy Budd (1951) A Midsummer Night's Dream (1960), Death
in Venice (1973).
Trong phần cuối này, xin nói qua một chút về opera Mĩ - một nền
opera còn rất non trẻ. Từ cuối thế kỉ 19, đã có một số nhạc sĩ châu
Âu sang làm việc tại Mĩ, mở đầu là Dvorak. Trong những cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất và đặc biệt là thứ 2, rất nhiều những nhạc sĩ
chọn nước Mĩ là nơi sinh sống của mình như Schoenberg,
Stravinsky, Bartok, Hindemith. Đây là điều rất tuyệt vời cho những
nhạc sĩ bản xứ. Họ có cơ hội được tiếp thu những tinh hoa của âm
nhạc cổ điển châu Âu, đồng thời sự kết hợp với kho tàng âm nhạc
dân gian vô cùng phong phú của người da đỏ, da đen đã khiến
những sáng tác của họ trở nên mới lạ, độc đáo, không bị rập khuôn
trở thành bản sao mờ nhạt của những nhạc sĩ đến từ Cựu lục địa.
Mở đầu cho trào lưu này là vở The pipe of desire (1910) của
Frederick Converse (1871 - 1940) – vở opera đầu tiên của một nhạc
sĩ Mĩ được biểu diễn tại Metropolitan Opera. Nhạc sĩ Samuel Barber
(1910 - 1981) cũng sáng tác 2 vở opera cho Metropolitan Opera là
Vanessa (1958) và Antony and Cleopatra (1966). Tuy nhiên 2 nhạc sĩ
đáng kể nhất của Mĩ trong thế kỉ 20 phải kể đến Copland và
Gershwin. Nhạc sĩ Aaron Copland (1900 – 1990) – được suy tôn là
“đỉnh cao của những nhà soạn nhạc Mĩ”. Vở opera The tender land
121
(1954) của ông là một tác phẩm tràn đấy sức sống, màu sắc âm nhạc
phong phú, đa dạng. Porgy and Bess (1935) của George Gershwin
(1898 - 1937) là vở opera của Mĩ gây được tiếng vang nhất tại châu
Âu khi được công diễn tại Milan, Ý vào năm 1955. Đây là vở opera
kết hợp rất thành công giữa nhạc cổ điển và nhạc jazz cũng như âm
nhạc dân gian châu Mĩ, chủ yếu là nhạc của người da đen. Khi công
diễn lần đầu tiên, toàn bộ diễn viên là do người da đen đảm nhiệm,
điều chưa từng có trong tiền lệ Lịch sử opera.
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Nocturne
Nocturne: Dạ khúc: 1. (tiếng Ý
notturno): thế kỉ 18, một tác
phẩm dành cho một vài nhạc cụ
thường gồm nhiều chương.
2. một tiểu phẩm trữ tình nhỏ
thường dành cho piano độc tấu
do nhà soạn nhạc người Ireland
John Field sáng tạo ra vào đầu thế kỉ 19 và được Frederic Chopin kế
thừa và đưa lên đỉnh cao.
Cái tên nocturne lần đầu xuất hiện vào thế kỉ 18 để chỉ một tác phẩm
viết cho dàn nhạc thính phòng gồm nhiều chương, thường xuyên
122
được biểu diễn trong các bữa tiệc về đêm và chủ yếu lấy cảm hứng
từ đêm hoặc gợi lên không khí của đêm. Tác phẩm nổi tiếng nhất là
Notturno cho đàn dây và kèn horn giọng Rê trưởng K. 286 và
Serenata Notturna, K. 239 của Wolfgang Amadeus Mozart.
Tuy nhiên nocturne được dùng với ý nghĩa phổ thông hơn là để chỉ
tác phẩm có 1 chương duy nhất, chủ yếu dành cho đàn piano độc tấu
vào đầu thế kỉ 19. Người sáng tác nên những bản nocturne đầu tiên
theo khái niệm này là nhạc sĩ người Ireland John Field - ông được
coi là cha đẻ của nocturne Lãng mạn. Đặc điểm riêng biệt của những
bản nocturne của Field là giai điệu có thể hát lên được (cantabile) và
sử dụng nhiều hợp âm rải. Tuy nhiên nhân vật tiêu biểu cho thể loại
này là nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan Frederic Chopin. Ông đã
viết tất cả 21 nocturne và hầu hết đều là những bản nhạc tuyệt vời.
Những nhạc sĩ sau này cũng viết nocturne có thể kể đến Gabriel
Fauré, Alexander Scriabin và Erik Satie.
Ta còn bắt gặp nocturne như là một chương ở trong những tác
phẩm lớn dành cho dàn nhạc. Ví dụ như nocturne trích trong Giấc
mộng đêm hè của Felix Mendelssohn hay chương 1 trong Violin
Concerto số 1 của Dmitri Shostakovich cũng có tên là nocturne. Nhạc
sĩ Claude Debussy cũng có một tác phẩm tên là Nocturne gồm 3
chương viết cho dàn nhạc và hợp xướng nữ.
Cobeo (nhaccodien.info) dịch
123
Thể loại Mélodie
Từ "mélodie" tiếng Pháp có nghĩa là giai điệu nhưng trong âm nhạc
cổ điển méodie là một thuật ngữ chỉ một thể loại thanh nhạc của
Pháp tương đương với thể loại lied trong thanh nhạc Đức. Mélodie
được soạn cho một ca sĩ solo cùng phần đệm piano (hoặc một vài
nhạc cụ khác), dựa trên những lời thơ Pháp vốn cũng rất giàu nhạc
tính.
Biểu diễn mélodie đúng cách có xu hướng đòi hỏi mức độ thể hiện
xúc cảm và “diễn xuất” ít hơn nhiều so với biểu diễn lied. Theo Pierre
Bernac (1899 -1979, ca sĩ baritone nổi tiếng với vai trò người trình
diễn mélodie và giảng viên thanh nhạc, thầy dạy của Gerard Souzay,
Elly Ameling và Jessye Norman) thì “nghệ thuật của những nhà soạn
nhạc Pháp vĩ đại nhất là một nghệ thuật gợi tả” hơn là sự bày tỏ cảm
xúc trực tiếp.
Các mélodie cũng đặc biệt được chú ý đến vì mỗi quan hệ gần gũi
và có chủ ý giữa lời ca và giai điệu. Để soạn các mélodie có thể trình
diễn được, người ta phải có một kiến thức tinh nhạy về ngôn ngữ
Phá, thi ca Pháp và cách phát âm đầy chất thơ của thứ ngôn ngữ
này. Có rất nhiều cuốn sách viết một cách chi tiết về cách phát âm
ngôn ngữ Pháp đặc biệt dành cho các ca sĩ hát mélodie, thường mô
tả những nét nổi bật theo phiên âm Alphabet đặc trưng của những
bài ca với những chú thích sâu hơn về đặc trưng ngôn ngữ Pháp
như cách nối âm và nuốt âm.
124
Thể loại mélodie chỉ nổi lên trước giữa thế kỉ 19 ở Pháp. Mặc dù thể
loại lied đã đạt tới đỉnh cao vào những năm 1890, thể loại mélodie đã
phát triển một cách hoàn toàn độc lập với truyền thống lied. Thay vào
đó, nó phát triển một cách khá trực tiếp từ một thể loại ca khúc nghệ
thuật Pháp có trước đó là romance. Những bài ca này, trong khi bề
ngoài khá giống với mélodie nhưng rồi lại tỏ ra là một thể loại nhẹ
nhàng hơn và ít nét đặc trưng hơn. Lời ca của mélodie thường được
lấy từ thi ca nghiêm túc đương thời và âm nhạc nói chung cũng sâu
sắc hơn. Hơn nữa, trong khi phần lớn những nhà soạn nhạc của thể
loại này thuộc thời kì Lãng mạn, ít ra là theo bảng niên đại, thì những
đặc trưng nhất định của mélodie khiến nhiều người xem chúng không
phải hoàn toàn thuộc trường phái Lãng mạn.
Có lẽ những mélodie đầu tiên là những mélodie của nhà soạn nhạc
Hector Berlioz. Ông chắc chắn là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
này cho các sáng tác của mình và tập liên khúc Les Nuits d'Été
(Những đêm hè, 1841) vẫn được xem là một hình mẫu của thể loại.
Dù Berlioz có xuất hiện trước trong bảng niên đại thì Charles Gounod
vẫn thường được xem là nhà soạn nhạc chuyên biệt đầu tiên của thể
loại mélodie. Phong cách sáng tác của Gounod tiến triển từ thể loại
romance đến mélodie một cách khó nhận thấy và mang tính minh
họa. Ông đã viết hơn 200 bài theo lời thơ của những thi sĩ như Victor
Hugo và Alphonse de Lamartine. Maid of Athens (Trinh nữ thành
Athens) của ông phổ từ thơ của Lord Byron bằng ngôn ngữ Anh là
một minh chứng hoàn hảo cho việc phong cách romance đã trở
thành mélodie.
125
Mặc dầu nhiều nhà soạn nhạc khác, như Jules Massenet chẳng hạn,
đã viết các mélodie trong suốt thời Gounod, nhưng một tên tuổi
không thể bỏ qua là Gabriel Fauré. Ông đã viết hơn 100 mélodie và
được coi là Shumann của Pháp. Mặc dù phong cách và bản chất âm
nhạc của họ rất khác biệt. Fauré được nhớ đến nhiều nhất với bộ tác
phẩm phổ thơ Paul Verlaine (Mélodies de Vénise).
Một người cùng thời với Fauré mà tên tuổi đã trở nên đồng nghĩa
với thể loại mélodie mặc dù ông chỉ để lại một số ít tác phẩm thể loại
này là Henri Duparc.
Claude Debussy và Maurice Ravel ngày nay được công chúng biết
tới nhiều nhất với các tác phẩm khí nhạc. Mặc dù vậy, cả hai đã viết
hàng chục mélodie hiện nay vẫn còn được nghiên cứu kĩ càng và
biểu diễn thường xuyên. Debussy nổi tiếng vì tài năng đặc biệt trong
việc hôn phối giữa lời và nhạc, trong khi Ravel dựa trên một số khúc
ca dân gian, mâu thuẫn trực tiếp với cách làm thông thường của thể
loại mélodie, đã làm tôn lên vẻ đẹp của cả hai thể loại này.
Những người cùng thời với Ravel nổi tiếng với thể loại mélodie bao
gồm Albert Roussel, Reynaldo Hahn và André Caplet.
Ngày nay mélodie vẫn tiếp tục được sáng tác, mặc dù có lẽ nhà
soạn nhạc lớn cuối cùng của thể loại là Francis Poulenc đã qua đời
vào năm 1963. Ông đã viết gần 150 mélodie.
126
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
loại Hành khúc (March)
Hành khúc, ở vai trò một thể loại âm
nhạc, là một khúc nhạc đặc trưng với
nhịp điệu đều đặn, mạnh mẽ. Hành
khúc có nguồn gốc từ quân đội. Ban
đầu, hành khúc chỉ được soạn riêng cho việc hành quân và thường
được trình diễn bởi một đội quân nhạc.
Cho đến cuối thế kỷ 16, các bản hành khúc vẫn chưa được ghi chép
lại bằng các nốt nhạc. Đến lúc bấy giờ, nhịp điệu của các bản hành
khúc được giữ bởi bộ gõ và thường kết hợp với sự phụ hoạ ngẫu
hứng của fife. Những hành khúc nhà binh xuất hiện sớm nhất hiện
vẫn tồn tại là những hành khúc của hai soạn nhạc người Pháp phục
vụ trong triều vua Louis XIV là Jean-Baptiste Lully (1632 - 1687) và
André Philidor Lớn (1647 - 1730) viết cho đội nhạc của nhà vua.
Nhiều hành khúc nhà binh thời kỳ đầu đã được sửa lại cho phù hợp
từ các giai điệu phổ biến. Các cuộc chiến tranh thời Napoleon và
Cách mạng Pháp đã thúc đẩy sự phát triển của thể loại này. Tiết tấu
hành khúc đã được Napoleon Bonaparte sửa lại cho phù hợp để
quân Napoleon có thể di chuyển nhanh hơn. Napoleon đã lên kế
hoạch chiếm cứ những lãnh thổ ông chinh phục được nên lính tráng
127
thay vì phải mang theo mọi đồ dự trữ, họ có thể rời căn cứ và hành
quân nhanh hơn. Các hành khúc dành cho các đội quân và trung
đoàn đặc biệt được Luigi Cherubini (1760 - 1842), Hummel, Ludwig
van Beethoven và những nhà soạn nhạc khác sáng tác. Phần lớn
các hành khúc nhà binh hiện nay nằm trong danh mục biểu diễn của
các đội quân nhạc được viết khoảng từ năm 1880 đến 1914, trong đó
các tác phẩm độc đáo và lâu bền nhất là của John Philip Sousa (nhà
soạn nhạc và nhạc trưởng người Mĩ, 1854 - 1932) và Kenneth
Joseph Alford (nhà soạn nhạc người Anh, 1881 - 1945).
Hành khúc có thể được viết ở bất kỳ nhịp nào, nhưng nhịp phổ biến
nhất là 4/4, 2/2 hoặc là 6/8. Tuy nhiên, những hành khúc hiện đại lại
được viết ở nhịp 2/4 (mặc dù nhịp này không được xem là chuẩn
mực). Hành khúc hầu như luôn được viết ở điệu trưởng trừ phi có sự
chuyển điệu trong tác phẩm hoặc đó không phải là hành khúc thực
sự. Nhịp hành khúc hiện đại thường vào khoảng 120 nhịp 1 phút
(nhịp hành khúc chuẩn Napoleon). Tuy nhiên, nhiều hành khúc tang
lễ thường được soạn theo chuẩn Roman, 60 nhịp 1 phút.
Ngoài đặc trưng về nhịp độ và tiết tấu, thể loại hành khúc còn có
những đặc trưng khác (mặc dù vẫn tồn tại những ngoại lệ). Hành
khúc thường gồm một số đoạn nhạc hay khúc nhạc, thường có độ
dài 16 hay 32 ô nhịp và thường được lặp lại ít nhất một lần trong cả
bản nhạc. Hành khúc thường có nhịp bộ gõ mạnh mẽ và đều đặn,
gợi nhớ tiếng trống trận. Hành khúc thường có một lần chuyển giọng
từ chủ âm sang hạ át âm (và đôi khi trở lại giọng chủ âm ban đầu).
Hoặc, nếu bắt đầu bằng một giọng thứ, nó sẽ chuyển sang giọng
128
trưởng. Các giai điệu được trình bày trong phần nhắc lại thường đối
nghịch với giai điệu chính. Hành khúc thường có một đoạn áp chót
được viết theo lối đối đáp nhau bởi hai nhóm nhạc cụ (cao/ trầm, kèn
gỗ/ kèn đồng…)
Những nhạc cụ quan trọng nhất cho một đội nhạc biểu diễn hành
khúc là các loại trống (đặc biệt là loại trống có dây căng mặt dưới để
tăng âm), horn, fife hay bộ kèn gỗ và bộ kèn đồng. Đặc biệt trong thế
kỷ 19, với sự phát triển mạnh mẽ của bộ kèn đồng, hành khúc trở
nên phổ biến hơn và thường được hòa âm một cách kĩ lưỡng.
Hành khúc thâm nhập vào nghệ thuật âm nhạc lần đầu tiên qua
những vở opera và ballet của Lully. Về âm điệu, các hành khúc đi từ
hành khúc chết chóc bi thương trong opera Götterdämmerung
(Hoàng hôn của những vị thần) của Richard Wagner tới các hành
khúc nhà binh sôi nổi của John Philip Sousa và các khúc tráng ca
trong thế kỉ 19. Minh họa về việc sử dụng đa dạng thể loại hành khúc
có thể tìm thấy ở Giao hưởng “Eroica” của Ludwig van Beethoven, ở
các hành khúc nhà binh của Franz Schubert, ở hành khúc tang lễ
trong Sonata giọng Si giáng thứ của Frédéric Chopin và ở “Hành
khúc thần Chết” trong oratorio Saul của George Frideric Handel…
Âm nhạc hành khúc cho đàn phím ít nhất có thể được lần ngược về
tới Battell của William Byrd (nhà soạn nhạc người Anh thời kỳ Phục
hưng, 1540 – 1623). Các bản nhạc cho piano được xuất bản của thế
kỉ 19 gồm nhiều hành khúc Schubert, Robert Schumann và Chopin.
Các hành khúc mở đầu và kết thúc trong nhiều tác phẩm thể loại
129
serenade thể kỉ 18, là lời tuyên bố tiến vào và khởi hành của những
người biểu diễn. Joseph Haydn đã viết một bản hành khúc làm
chương chậm trong Giao hưởng Nhà binh No. 100 của mình ;
chương 4 giao hưởng “Fantastique” của Hector Berlioz là “Marche au
supplice” (Hành khúc tới pháp trường) và các hành khúc tang lễ có
trong Giao hưởng số 3 ‘Eroica’ của Beethoven, Giao hưởng số 1 của
Gustav Mahler. Các hành khúc cho dàn nhạc với ý định làm tác
phẩm hòa nhạc độc lập gồm Hành khúc Rakoczy của Franz Lizst và
5 hành khúc Pomp and Circumstance của Edward Elgar.
noname (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Hát ru (Lullaby)
Lullaby (bài hát ru) là một thể loại nhỏ
nhưng quan trọng trong thanh nhạc, thường
được hát cho trẻ em nghe trước khi chúng
ngủ. Quan niệm ở đây là bài ca được hát
bằng một giọng hay và thân thuộc với bé sẽ
ru bé đi vào giấc ngủ. Những bài hát ru do
các nhà soạn nhạc cổ điển viết thường được đặt cái tên hình thức là
berceuse, một từ tiếng Pháp có nghĩa là "bài hát ru" hoặc cradle song
(bài hát bên nôi).
130
Về cơ bản, một bài hát ru thường được viết ở nhịp phân 3 đơn hoặc
phức (3/4 hoặc 6/8). Về giọng, đa số các bài hát ru đơn giản, thường
chỉ luân phiên những hòa âm chủ và hòa âm âm át, vì hiệu quả dự
kiến là để đưa đứa trẻ vào giấc ngủ nên người ta không hay sử dụng
quãng bán cung phóng túng (wild chromaticism). Một nét đặc trưng
khác của bài hát ru – không vì lí do nào khác ngoài lệ thường – là xu
hướng viết ở giọng "giáng trưởng", ví dụ như những bài hát ru do
Chopin, Liszt và Balakirev viết đều ở giọng Rê giáng trưởng.
Có lẽ “Wiegenlied” Op. 49 No. 4 (Wiegenlied tiếng Đức nghĩa bài hát
bên nôi) của nhà soạn nhạc Johannes Brahms là bài hát ru nổi tiếng
nhất trong tất cả – bài hát ru của Brahms. Ban đầu Brahms viết bài
hát ru này cho cô ca sĩ trẻ Bertha Faber mà ông quen biết nhân dịp
cô sinh cậu con trai thứ hai. Lời bài hát bằng tiếng Anh cũng đồng
nghĩa với lời bài hát gốc bằng tiếng Đức. Trong một cuộc khảo cứu,
những trẻ sinh thiếu tháng được cho nghe bài hát ru này 5 phút, 6 lần
mỗi ngày thì rõ ràng là lớn nhanh hơn những trẻ tương tự mà không
được nghe (theo Chapman, 1975).
Opus 57 của Frédéric Chopin là một khúc hát ru viết cho piano độc
tấu ở giọng Rê giáng trưởng. Những ví dụ nổi tiếng khác là các tác
phẩm Berceuse sur le nom de Gabriel Fauré cho violin và piano của
Maurice Ravel, Berceuse élégiaque của Ferruccio Busoni, Berceuse
của Igor Stravinsky nổi bật trong vở ballet Fire bird (Chim lửa) và
khúc hát ru cho tứ tấu đàn dây của George Gershwin. Một bài hát ru
nổi tiếng khác của George Gershwin là “Summertime” trích từ opera
131
Porgy and Bess (Porgy và Bess) năm 1935. Đôi khi nó được nhắc
đến như là "Bài hát ru của Gershwin". Mặc dù nhiều ứng tác Jazz
của bài hát này có những quãng bán cung phóng túng (wild
chromaticism), nguyên bản của nó khá là êm dịu và phần nào buồn
bã u sầu, ở điệu thứ tự nhiên. Trong bản phối khí cho dàn dây,
những đoạn chuyển hoà âm từ La thứ (với bậc sáu) [A6] và Mi
trưởng (với bậc bảy) [E7] nhẹ nhàng và luân chuyển, vừa trầm buồn,
vừa như dỗ dành, an ủi. Hơn nữa nhiều bậc cha mẹ đã hát bài hát
này (không có nhạc đệm) cho con nghe vào giờ đi ngủ.
Dòng nhạc pop cũng có những bài hát ru nổi tiếng như "Good night"
của The Beatles và "Lullaby (Good Night My Angel)" của Billy Joel.
Châu Á cũng có nhưng phiên bản hát ru của mình. Trong tiếng Tamil
(một ngôn ngữ ở miền nam Ấn Độ, một bài hát ru được gọi là một
thaalattu (thal có nghĩa là "cái lưỡi"). Đó là một âm thanh du dương
được tạo bởi chuyển động nhịp nhàng của lưỡi vào lúc bắt đầu bài
hát, do đó mà có tên trên. Nhưng đáng chú ý nhất là việc sử dụng
oyayi ở Philippines, còn gọi là huluna ở Batangas. Trong thực tế, việc
sử dụng một bài hát để đưa đứa trẻ vào giấc ngủ phổ biến đến nỗi
người ta cho rằng hầu hết mọi bà mẹ ở các địa phương đều đã sáng
tác ít nhất một bài hát ru cho những đứa con của mình.
Từ xa xưa ở Việt Nam, phần lớn các câu trong bài hát ru con lấy từ
ca dao, đồng dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò dân gian được
truyền miệng từ bà xuống mẹ, thế hệ trước sang thế hệ sau. Do đó,
những bài hát này rất đa dạng, mang tính chất địa phương, gần như
mỗi gia đình có một cách hát riêng biệt. Trong hát ru thường chỉ chú
132
ý đến lời (ca từ) còn giai điệu (nhạc lý) thì mỗi bà mẹ có một giọng
trữ tình riêng nhưng vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong suốt cả cuộc
đời người con. Những bài hát ru do các nhạc sĩ Việt Nam sáng tác
sau này là những bài có nhịp độ chậm, vừa phải. Giai điệu được tiến
hành liền bậc không dùng những quãng nhảy liên tục, những nốt
biến âm đột ngột, tiết tấu nhịp nhàng uyển chuyển có tính chu kỳ
hoặc tự do. Có thể kể ra đây những bài thuộc dạng này như: "Mẹ yêu
con" của Nguyễn Văn Tý; "Từ trên đỉnh núi" của Nguyên Nhung;
"Mùa hoa sữa" của Huy Thục...
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp Thể loại Lied
1/ Giới thiệu chung:
Lied (số nhiều là Lieder) là một từ tiếng Đức với
nghĩa đen là "bài ca". Tuy nhiên nó được sử
dụng chủ yếu như một thuật ngữ cho những ca khúc thuộc dòng
nhạc cổ điển châu Âu, còn được biết đến như những ca khúc nghệ
thuật. Về đặc thù, các Lied thường được soạn cho một ca sĩ solo và
piano. Đôi khi các Lied được tập hợp thành một Liederkreis hay "liên
khúc" - một loạt những ca khúc kết nối với nhau bằng một chuyện kể
hay chủ đề riêng. Những nhà soạn nhạc Franz Schubert và Robert
Schumann gần gũi nhất với thể loại này. Bởi vì từ Lied tiếng Đức
thường chỉ có nghĩa là "bài ca" nên người Đức sử dụng thuật ngữ
đặc biệt Kunstlied (Ca khúc nghệ thuật) để chỉ thể loại này.
133
2/ Lịch sử: Với những người nói tiếng Đức, thuật ngữ Lied có một lịch sử trải
dài từ những bài ca của người hát rong thế kỉ XII (Minnesang),
những bài hát dân gian qua đường (Volkslieder) và những bài thánh
ca nhà thờ. Ở Đức, thời kỳ phát triển nhất của lied là vào thế kỷ XIX.
Những nhà soạn nhạc Đức và Áo đã viết âm nhạc cho giọng hát
cùng với đàn phím trước thời gian này, nhưng cùng với sự nở rộ của
văn học Đức trong những kỷ nguyên Cổ điển và Lãng mạn thì những
nhà soạn nhạc mới tìm thấy cảm hứng lớn lao trong thi ca mà đã làm
khuấy động thể loại được biết đến là Lied. Những khởi đầu của
truyền thống này được thấy rõ trong những lied của Mozart và
Beethoven, nhưng chính với Schubert thì người ta mới thấy rõ một
sự cân xứng giữa phần lời và phần nhạc, một sự cuốn hút mới mẻ
vào âm nhạc của ý nghĩa lời thơ. Schubert đã viết khoảng 800 lied,
một số được sắp xếp theo những chuỗi hay liên khúc thuật lại một
câu chuyện - cuộc phiêu lưu của tâm hồn hơn là thể xác. Truyền
thống này được tiếp tục bởi Schumann, Brahms và Hugo Wolf, và
bởi R. Strauss và Mahler ở thế kỉ XX. Một lượng lớn tác phẩm được
sáng tác trong truyền thống Lied, giống như truyền thống của khúc
Madrigal Ý ba thế kỉ trước, miêu tả một trong những thành quả phong
phú nhất của cảm giác con người.
3/ Những truyền thống dân tộc khác: Truyền thống Lied được kết nối gần gũi với âm giọng thực tế của
ngôn ngữ Đức. Nhưng có sự tương đồng đáng chú ý như ở Pháp với
những mélodies của những nhà soạn nhạc như Gabriel Fauré,
134
Claude Debussy và Francis Poulenc và ở Nga đặc biệt là
với những bài ca của Mussorgsky. Nước Anh cũng có một
sự nở rộ của bài ca vào thế kỷ XX mà đại diện là Ralph
Vaughan Williams và Benjamin Britten.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) tổng hợp
Thể loại Etude
Etude hay Study (tiếng Pháp: étude; tiếng Đức: etüde,studie; tiếng
Ý: studio) là một đoạn khí nhạc, thường có một độ khó nào đó và
thường hay dành cho một nhạc cụ dây có bàn phím, với mục đích
chính là để khai thác và hoàn thiện một mặt nào đó của kỹ thuật biểu
diễn nhưng cũng vẫn có được sự hứng thú về âm nhạc. Mặc dù
etude một thời được coi như một bài tập (Pháp: exercice; Đức:
Übung; Ý: essercizio), thuật ngữ về sau này thường chỉ một ô nhịp
hay đoạn ngắn được lặp lại một cách tự do, có thể được thay đổi trên
các thang âm khác hoặc trên các giọng khác nhau. Sự khác biệt
được minh họa bằng Studien op.3 (1832) của Schumann, tác phẩm
được mở đầu bằng Übungen ngắn, dựa trên những độ khó về kỹ
thuật có trong chính các etude.
Trước thế kỷ 19, các thuật ngữ được sử dụng một cách tự do hơn.
Vì vậy các ‘studies’ trong Sonate per cembalo divisi in studii e
135
divertimenti (1737) của Francesco Durante là các đoạn đối âm không
được liên kết với các vấn đề của kỹ thuật bàn phím, trong khi đó 30
bản Essercizi per gravicembalo (1738) của Domenico Scarlatti lại
không khác biệt về tầm vóc so với 525 bản sonata khác của ông. Bốn
phần của bộ Clavier-Übung (1731–41) của J.S.Bach không chỉ chứa
rất nhiều các kiệt tác cho đàn harpsichord (ví dụ như bản Italian
Concerto, French Overture, sáu partita và các biến tấu Goldberg bất
hủ) mà còn có một số tác phẩm quy mô lớn cho đàn organ.
Mặc dù tiêu đề ‘study’ hiếm khi xuất hiện trong âm nhạc cho đàn
phím thời gian đầu, nhiều danh mục thể loại này có mục đích giáo
khoa một cách công khai. Vì thế rất nhiều tác phẩm có tên khác nhau
trong các chuyên luận khí nhạc và giáo trình hướng dẫn có thể được
coi là những etude, bao gồm cả các toccata trong Il transilvano
(1593) của Diruta, các bài học (vũ khúc hay air) trong Melothesia
(1673) của Locke, các prelude trong L’art de toucher le clavecin
(1716) của Couperin, Probestücke trong Versuch über die wahre Art
das Clavier zu spielen (1753) của C.P.E. Bach và Handstücke trong
Clavierschule (1789) của Turk. Những tác phẩm có ít nhất một phần
ý định dành cho mục đích giảng dạy cũng có thể kể vào đây, ngay cả
khi chúng không nhất thiết nhằm phát triển một kỹ năng nào cả. Ví dụ
như Il primo libro di capricci, canzon francese, e recercari (1626) của
Frescobaldi mở đầu bằng lời tựa dành cho ‘gli studiosi dell’opera’
(các học viên của tác phẩm), trong khi đó 11 preludes Das
wohltemperirte Clavier của J.S.Bach cũng như các phiên bản trước
đó của tất cả các sáng tác cho đàn phím và sinfonia của ông ban đầu
136
đều nằm trong bộ Clavier-Büchlein vor Wilhelm Friedemann Bach
(1720), một bản thảo được soạn chỉ để dạy người con trai nhỏ.
Từ những năm đầu của thế kỷ 19, sự phổ biến ngày càng tăng của
piano đã đem lại một lượng ồ ạt các tài liệu giảng dạy nhằm đến
những người chơi đàn nghiệp dư và các nghệ sĩ mới vào nghề, bao
gồm rất nhiều sáng tác của các học viên có hạng mà sự hữu ích về
kỹ thuật thường vượt trội giá trị âm nhạc của tác phẩm. Tiêu biểu cho
những ấn phẩm này là các etude được J.B.Cramer xuất bản vào
giữa những năm 1804 – 1810, các phần đầu bộ Gradus ad
Parnassum (1817–26) của Clementi, Studien op.70 (1825–6) của
Moscheles và rất nhiều tuyển tập của Czerny. Các etude về sau
trong Gradus có hứng thú về âm nhạc lớn hơn, một số tỏ ra có
phong cách đặc biệt cũng như các vấn đề kỹ thuật (ví dụ như ‘le style
élégant’ và ‘le style sévère’) và Charakteristische Studien op.95
(1836–7) của Moscheles được dự tính cho cả mục đích biểu diễn
cũng như giảng dạy một cách rõ ràng. Thực tế thì tác phẩm sau là
các ví dụ đơn giản của một thể loại mới được phát triển, thể loại
concert etude (etude hòa nhạc).
Concert etude cố gắng kết hợp việc sử dụng các bài tập kỹ thuật với
sáng tạo âm nhạc tương đương với các thể loại khác trong danh mục
hòa nhạc. Sự giằng co tất yếu giữa hai yếu tố này không được giải
quyết triệt để cho tới những etude của Chopin, 12 Grandes études
op.10 (1833) và 12 Etudes op.25 (1837) của ông là những tác phẩm
đầu tiên giữ được vị trí chắc chắn trong danh mục hòa nhạc. Mặc dù
nhiều etude của Chopin tập trung vào một vấn đề kỹ thuật nào đó
137
theo trường phái của Czerny, Charles Mayer và Henri Bertini (ví dụ
như các hợp âm rải được mở rộng trong no.1, op. 10), chất tinh tế về
hòa âm lớn hơn của ông khiến cho các tác phẩm vẫn là các bài học
nhưng đồng thời còn mang giá trị âm nhạc. Sự mới lạ trong hòa âm
của Chopin mà đôi khi buộc các hình âm bình thường phải được
thực hiện trong các thế tay đặc biệt chưa được biết đến bao giờ, đã
làm kinh ngạc những người đương thời lớn tuổi hơn như Moscheles,
người đã tìm ra rất nhiều bài tập cực kỳ khó. Quả thực, với sự thừa
nhận của chính Chopin, nghệ sĩ đầu tiên hoàn toàn chinh phục được
các vấn đề kỹ thuật là Liszt, cũng chính là người mà ông đã đặc biệt
đề tặng các etude op.10. Tuy nhiên về mặt cấu trúc, các etude không
phức tạp: hầu hết đều ở dạng ba đoạn ngắn, mặc dù tác phẩm no.7,
op.25 mang tính trữ tình có dạng hơi giống một phần chậm của hình
thức sonata.
Các concert etude của chính Liszt lại có quy mô lớn hơn nhiều so
với của Chopin. Sự hình thành các Transcendental Studies của ông
phản ánh sự phát triển của thể loại trong thế kỷ 19 nói chung. Chúng
dựa trên 12 etude (được xuất bản với tên gọi Etude en douze
exercises) có mức độ giáo khoa khiêm tốn của các bài tập của thầy
giáo ông Czerny. Liszt viết lại chúng vào năm 1837 dưới tên gọi
Grandes études, biến đổi chúng một cách hiệu quả thành các sáng
tác cá nhân với độ khó thật sự cho đến tận ngày nay. Ba trong số các
sáng tác mới đó ở hình thức sonata (Đô thứ, Pha thứ và Rê giáng
trưởng), các tác phẩm còn lại được cấu trúc với sự khéo léo khác
thường. Vào năm 1852, một bản sửa chữa cuối cùng đã được hoàn
thành với tên gọi là Etudes d’exécution transcendante. Trong đó Liszt
138
bớt đi một số trong bố cục, đáp lại phần nào sự phát triển của piano,
ông cũng làm chặt chẽ thêm cấu trúc của một vài etude còn lỏng lẻo.
Làm gần hơn sự tương đồng với các tác phẩm mang tính chương
trình, hầu hết các etude giờ đây đã được đặt tên, ví dụ như Feux
follets hay Harmonies du soir, và yếu tố giáo khoa của các tác phẩm
(ngoại trừ độ khó về kỹ thuật) gần như hoàn toàn biến mất. Trong khi
có thể sử dụng nhiều etude riêng lẻ của Chopin như các bài luyện
tập cho một kỹ thuật đặc biệt nào đó, các yêu cầu về kỹ thuật trong
phần lớn tác phẩm của Liszt biến đổi rất nhiều từ phần này sang
phần khác để đem lại một sự thực hiện triệt để bất kỳ một vấn đề đặc
biệt nào.
Tương tự như vậy với các etude của Alkan, mà hầu hết được xuất
bản trong hai tập: Douze études dans les tons majeurs op.35 (1848)
và Douze études dans les tons mineurs op.39 (1857). Các etude của
Alkan về quy mô thậm chí còn lớn hơn các etude của Liszt và một số
etude, như L’incendie du village voisin (trong op.35) còn mang tính
chương trình rõ ràng hơn - thậm chí là theo cách chất phác. Với
op.39, nguồn cảm hứng của Alkan dường như là Clavier-Übung của
Bach vì một tập hợp gồm một overture, một bộ các biến tấu, một giao
hưởng 4 chương và một concerto 3 chương ; trong hai tác phẩm
sau, một etude tách biệt ở một điệu thức khác được sử dụng làm mỗi
chương riêng lẻ. Các sáng tác cho đàn phím của Alkan thể hiện hình
dung rằng mỗi nghệ sỹ piano đều có kỹ thuật tương đương như
Liszt. Hai bản đầu tiên trong Trois grandes études (c1838) là những
ví dụ sớm nhất của những sáng tác hoàn toàn dành riêng cho tay
phải hoặc tay trái, mặc dù phần mở đầu của etude giọng son Son
139
giáng thứ của Liszt, phiên bản năm 1837, là chỉ dành cho tay trái.
Kiểu concert etude này ít được thử sức về sau, có lẽ những ví dụ
được biết đến nhiều nhất là của Skryabin và Felix Blumenfeld.
Mặc dù hầu hết tất cả các nhà soạn nhạc, đồng thời là nghệ sĩ piano
thế kỷ 19 đều viết etude, khá ít trong số đó giữ được vị trí trong danh
mục tác phẩm. Symphonische Etüden op.13 bậc thầy của Schumann
(một tập các biến tấu với một chương cuối mở rộng) được sáng tác
vào những năm 1834-1837 là một trong những tác phẩm được trình
diễn nhiều nhất của ông, trong khi đó các etude Paganini (op.3 và 10)
của ông lại hoàn toàn không được chú ý đến khi bị so sánh với các
tác phẩm xuất sắc hơn của Liszt và các biến tấu trên một chủ đề
Paganini op.35 của Brahms. Brahms cũng sáng tác 5 etude với hình
thức chuyển soạn các tác phẩm của Bach, Weber và Chopin, bao
gồm cả một phiên bản chỉ cho tay trái của Chaconne trong Partita
giọng Rê thứ cho violin BWV1004 của Bach. Đáng chú ý nhất trong
đội ngũ lớn các etude concert được sáng tác sau đó là các tác phẩm
của Scriabin, Rachmaninov (Etudes-tableaux, opp.33 và 39),
Debussy, Bartók và Messiaen.
Các etude cho nhiều nhạc cụ khác cũng bắt đầu được sáng tác từ
đầu thế kỷ 19. Số lượng những tác phẩm liên quan đến các vấn đề
kỹ thuật lớn hơn nhiều so với các tác phẩm có giá trị âm nhạc, điều
đó có thể thấy từ các tập tác phẩm cho violin của Fiorillo, Rodolphe,
Kreutzer, Rode, Baillot và Bériot, cho cello của Dotzauer và
Grutzmacher. Nổi bật nhất là 24 Caprices op.1 được xuất bản năm
1820 của Paganini cho violin solo, vừa là những etude concert cực
140
kỳ xuất sắc, vừa đủ hứng thú âm nhạc để kích thích những chuyển
soạn cho piano của Liszt và Schumann nói ở trên, và chủ đề của một
trong số đó, tác phẩm số 24 giọng La thứ, ấn tượng một cách súc
tích đến mức mà nó là cảm hứng cho nhiều bộ các biến tấu của
Brahms (op.35), Rachmaninov (cho piano và dàn nhạc, năm 1934),
Lutoslawsky (cho piano đôi, năm 1941), Boris Blacher (cho dàn nhạc,
năm 1947)…
Từ tiếng Pháp ‘étude’ (có nghĩa như ‘study’ trong tiếng
Anh) đã được sử dụng như tiêu đề cho nhiều sáng tác vào
thế kỷ 20, một số đòi hỏi kỹ thuật đơn giản một cách khác
thường hoặc khai thác những mặt đặc biệt trong sự khéo
léo của các nhà soạn nhạc. Ví dụ như Quatre études pour
orchestre (1928–9) của Stravinsky, Sinfonische Etüden
(1956) của Henze và Etudes pour orchestre à cordes (1956) của
Frank Martin, Symphonic Studies (1938) của Rawsthorne và ba cuốn
Etudes cho piano của Ligeti (1985-95).
Quỳnh Hương (nhaccodien.info) dịch
Thể loại Concerto
1/ Giới thiệu chung: Concerto là một thể loại âm nhạc với đặc trưng gồm có 3 chương,
cho 1 hay nhiều loại nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc. Cái tên
141
“Concerto” lần đầu tiên được sử dụng ở Ý vào cuối thế kỷ 16 nhưng
mãi đến khoảng năm 1600 vào đầu thời kì Baroque ở Ý, nó mới trở
nên phổ biến. Đầu tiên Concerto và Concertato là sự pha trộn của
các loại nhạc cụ giàu màu sắc hoặc các giọng hát hoặc cả hai được
áp dung rộng rãi ở những bản nhạc mang màu sắc thần thánh hoặc
trần tục, đuợc gọi là một nhóm các nhạc cụ hoặc ca sỹ kết hợp với
nhau hoặc cả hai. Một nhóm có thể được xem như một thể thống
nhất nhưng pha trộn toàn bộ những âm thanh tương phản nhau
được đặt ở vị trí này hoặc ở vị trí khác. “Phong cách Concerto” này
được phát triển bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio Monteverdi
(1567 - 1643), đặc biệt trong tập thứ 5 của 8 tập nhạc Madrigal (1605
- 1638). Chịu ảnh hưởng một phần từ Monteverdi, nhà soạn nhạc
người Đức Heirich Schülz cũng áp dụng phong cách mới này cho
các tác phẩm nhạc tôn giáo Đức. Ý nghĩa của Concerto được tiếp tục
sử dụng vào thế kỷ 18 khi nhiều bản cantata tôn giáo của Johann
Sebastian Bach cũng được đề là Concerto.
2/ Concerto Grosso và các chi nhánh của nó: Thể loại Concerto được hồi sinh lần đầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ
thứ 17. Arcangelo Corelli (1653 - 1713), nghệ sỹ violin chính và là
nhạc sỹ của trường dạy violin nổi tiếng miền bắc nước Ý đã sử dụng
tên gọi mới Concerto Grosso cho 12 bản nhạc trong Opus 6 của ông
(có lẽ được viết vào khoảng 1680 – 1685 và được xuất bản sau khi
ông mất vào năm 1714). Những sáng tác này sử dụng dàn dây - goi
là Concerto Grosso hay Ripieno (đầy đủ) hoặc Tutti (tất cả) - được
chơi với một nhóm độc tấu nhỏ, goi là Concertino, ở đó trong các bản
nhạc của Corelli gồm chỉ có 3 người chơi. Các bản Concerto của ông
142
bao gồm một chuỗi các bản nhạc ngắn tương phản nhau về nhịp và
tốc độ, gần giống với phong cách và hình thức của thể loại âm nhạc
chủ đạo thời đó là Trio Sonata. Loại Concerto Grosso mới đó đã
được viết nên bởi nhiều nhà soạn nhạc khác như nhạc sỹ người Ý
Giuseppe Torelli (1658 - 1709) và không lâu sau đó nó phát triển và
có phong cách đặc trưng riêng bởi sự quyết định chủ đề của nó dựa
trên những hợp âm rải chạy đuổi nhau, những nhịp điệu lặp đi lặp lại
và phong cách hoà âm điển hình quy định âm chủ đạo. Nó tiếp tục
phổ biến suốt thời kỳ Baroque, đặc biệt nhất là bản Concerto
Brandenburg số 6 của Bach. Tính đặc trưng riêng biệt đó vẫn còn
được sử dụng cho dàn dây khi phân loại nhạc cụ độc tấu - bộ dây,
bộ hơi và hỗn hợp.
Một Concerto Grosso có một tiểu mục, một đoạn độc tấu trong đó 1
Concertino được thay thế bằng một đoạn độc tấu của một nhạc cụ do
đó làm tăng sự đối thoại của nhạc cụ độc tấu với dàn nhạc. Các
Concerto đầu tiên dành cho nhạc cụ độc tấu là của các nhạc sỹ Ý
như Torelli và Tomaso Albinoni (1671 - 1750) viết cho violin, trumpet
hoặc oboe. Chẳng bao lâu sau họ đã soạn cho nhiều nhạc cụ độc tấu
hơn, trong số đó đáng lưu ý nhất là những bản Concerto độc tấu của
nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ý Antonio Vivaldi (1678 - 1741). Một
số lượng lớn các nghệ sỹ độc tấu có trình độ bậc thầy đặc biệt là các
nghệ sỹ Violin đã khai thác các Concerto độc tấu như là một công cụ
để thể hiện khả năng của mình, cả ở trong nhà thờ lẫn các buổi biểu
diễn cá nhân hoặc bán công cộng
Những tác phẩm đầu tiên đã thiết lập nên một khối lượng quy định
143
lớn làm tiêu chuẩn cho các bản Concerto độc tấu sau này cho đến
tận những năm 1900. Một chuỗi gồm 3 chương: nhanh - chậm -
nhanh với chương giữa là một chủ âm khác với chủ âm của phần
đầu và phần cuối. Trong những phần nhanh, một đoạn độc tấu sẽ
được phát triển thành một phần dài thường trội hơn bởi sự trang trí
bằng các hình tượng nhanh, những phần này được đan xen nhau
giữa 4 hoặc 5 phần lặp đi lặp lại dành cho đầy đủ cả dàn nhạc được
goi là Ritonello (sự kết hợp các phần với nhau được goi là Ritonello).
Trước khi kết thúc phần Ritonello ở cuối mỗi đoạn, nghệ sỹ độc tấu
sẽ phô diễn kỹ thuật và kỹ năng chơi nhạc ngẫu hững bằng một đoạn
nhạc gọi là Cadenza. Mỗi đoạn Cadenza vẫn nằm trong bản
Concerto chính suốt cả thời Cổ điển và Lãng mạn sau này mặc dù
các nhà soạn nhạc thường viết nó ra ngoài bản Concerto dựa vào sự
cảm nhận và khả năng riêng của từng người trình diễn.
3/ Thời kỳ Cổ điển:
Sự thay đổi của nền âm nhạc vào giữa thế kỷ thứ 18, chuyển từ
phong cách Baroque sang Cổ điển không thể không ảnh hưởng đến
thể loại Concerto. Bên cạnh thời hoàng kim ngắn ngủi của nhánh âm
nhạc Pháp được goi là thể loại Concertante Symphonie, thể loại
Concerto Grosso bị diệt vong đã tạo thuận lợi cho thể loại Giao
hưởng - đã hấp thu được rất nhiều nét đặc trưng của nó. Tuy nhiên
Concerto vẫn là một thể loại đòi hỏi kỹ thuật cao không thể bỏ qua
đặc biệt đối với các nhà soạn nhạc và nghệ sỹ biểu diễn. Sự nổi lên
của cây đàn Piano đầy mới mẻ đã thay thế cây đàn Violin truyền
thống làm nhạc cụ độc tấu. Đây là một nhạc cụ yêu thích của cả
Wolfgang Amadeus Mozart (1756 - 1791) (người đã viết rất nhiều
144
bản Concerto vĩ đại - chủ yếu dành cho đàn Piano) và Ludwig van
Beethoven (1770 - 1827) (người viết 5 bản Concerto cho Piano và 1
bản Piano Concerto cho Violin (1801 - 1811)) đã đưa thể loại này đạt
tới đỉnh cao của nó.
Suốt thời kỳ Cổ điển, một Concerto đã dài hơn trước. Hình thức của
nó thể hiện sự dung hoà giữa thể loại Ritonello truyền thống (đòi hỏi
trình độ biểu diễn bậc thầy) và phong cách mới thiên về giao hưởng.
Những phần đầu khác với hình thức Ritonello trong đó cách trình
diễn cả đoạn Ritonello thứ nhất và phần độc tấu đầu tiên giống như
phần đầu trong bản giao hưởng, phần còn lại cũng tương tự thế
nhưng nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc cùng chơi hoặc chơi luân phiên
nhau. Đoạn kết thúc luôn là một Rondo mà nhạc cụ độc tấu chơi một
đoạn điệp khúc lặp đi lặp lại. Các phần chậm vẫn còn sót lại một ít
các qui định ngặt nghèo trong dạng thức. Giống như các bản giao
hưởng, các Concerto đã trở nên lớn hơn, có những tác phẩm đặc
biệt dành để trình diễn trong phòng hoà nhạc trước một lượng lớn
khán giả.
4/ Thời kỳ Lãng mạn: Sau năm 1820 có một vài nhà soạn nhạc đã viết hơn 2 hoặc 3 bản
Concerto mà mỗi bản đặc biệt dành riêng cho một nghệ sỹ bậc thầy
trình diễn. Khả năng chơi Violin siêu phàm của Nicolo Paganini (1782
-1820) đã sớm được nối tiếp bằng Franz Liszt (1811 - 1886) - nhà
soạn nhạc, nghệ sỹ Piano bậc thầy người Hungary. Ông đã tạo nên
một bức màn bí ẩn về một thiên tài âm nhạc. Hầu hết các Concerto
quan trọng được viết cho Piano và Violin, được ra đời bởi Liszt và
145
các nhà soạn nhạc người Đức như: Carl Maria von Weber, Felix
Mendelssohn, Robert Schumann và Johannes Brahms; nhà soạn
nhạc Ba Lan Frederic Chopin và nhạc sỹ người Nga Peter Ilyich
Tchaikovsky. Họ có những thử nghiệm ở cả thể loại lớn với 3
chương và cả thể loại của riêng họ. Tuy nhiên các tác phẩm vẫn giữ
được nền tảng giao hưởng như ban đầu. Các nhạc cụ độc tấu và
dàn nhạc thì luôn luôn đối thoại với nhau trong sự đối lập đầy tính
kịch nhưng lại thường dẫn đến một sự thống nhất ngẫu nhiên.
5/ Thế kỷ 20: Về căn bản, phương thức của âm nhạc hiện đại đầu thế kỷ 20 gây
được hứng thú là giao hưởng. Một Concerto dường như không còn
phù hợp với nhiều nhà soạn nhạc, mặc dù vậy các nghệ sỹ độc tấu
tài năng (thường là nghệ sỹ Piano hoặc Violin) vẫn tiếp tục truyền
cảm hứng cho các nhà soạn nhạc. Ví dụ như Arnold Shoenberg,
Alban Berg, Anton Webern - người Áo; Paul Hindemith - người Đức;
Bela Bartok - người Hungary và Igor Stravinsky - người Nga. Tuy
nhiên mỗi bản nhạc lại dường như ảnh hưởng bởi phong cách của
các nhà soạn nhạc thời trước nhưng hiếm khi bị chi phối bởi chúng.
Một sự thay thế mới mẻ trong cảm nhận âm nhạc rất rõ ràng, các âm
thanh tương phản cùng kết cấu đối âm dẫn tới sự phục hồi của thể
loại Concerto Grosso cũ. Những nhà soạn nhạc này đã viết được
một số lượng đồ sộ các tác phẩm, sử dụng rất nhiều các âm sắc
tương phản ở cả giao hưởng và thính phòng.
Lê Thanh Huyền (nhaccodien.info) dịch
146
Các thể loại Nhạc thính phòng (Chamber music)
Nhạc thính phòng là nhạc viết cho nhạc cụ hòa
tấu, thường dao động từ 2 đến 10 người chơi,
mỗi người chơi một bè và mọi bè đều có tầm
quan trọng ngang bằng. Nhạc thính phòng từ khoảng năm 1750 phần
lớn dành cho tứ tấu đàn dây (2 violin, viola và cello), mặc dù các ngũ
tấu đàn dây cũng như các tam tấu và các ngũ tấu cho 4 đàn dây
cùng với 1 piano hay 1 nhạc cụ hơi cũng đã phổ biến. Gọi là nhạc
thính phòng là bởi vì ban đầu nó ngụ ý là nhạc dành cho biểu diễn
riêng, điển hình là trong một sảnh nhỏ hoặc các phòng riêng của cá
nhân. Các buổi hòa nhạc các tác phẩm thính phòng trước công
chúng chỉ bắt đầu vào thế kỉ 19.
Nhạc thế tục ở thời Trung cổ và Phục hưng (khoảng năm 1450 đến
khoảng năm 1600) được soạn với đặc thù dành cho hòa tấu khí nhạc
và thanh nhạc. Hầu hết sáng tác là các tác phẩm thanh nhạc có 3, 4
và 5 bè. Những nhóm khí nhạc chơi loại nhạc thính phòng này một
cách đơn giản, sử dụng bất cứ loại nhạc cụ nào họ muốn hay sẵn có
vào thời kỳ đó.
Vào thời Baroque (khoảng năm 1600 đến khoảng năm 1750), cấu
trúc âm nhạc có mặt khắp nơi là cấu trúc có những tuyến giai điệu bè
cao được bè giai điệu trầm phụ trợ - basso continuo – do cello hay
147
bassoon, với những hòa âm do lute, harpsichord hoặc organ lấp đầy.
Hai thể loại khí nhạc trở nên quan trọng trong thời kỳ này là sonata
da chiesa hay sonata nhà thờ và sonata da camera hay sonata thính
phòng. Mặc dù sonata da chiesa không thể được xem là nhạc thính
phòng theo nghĩa chặt chẽ nhất của nó, nhưng từ khi nó được dự
tính để biểu diễn trước công chúng, từ khoảng năm 1700, sự khác
biệt giữa sonata da chiesa và sonata da camera đã bị lu mờ vì nhiều
tác phẩm của mỗi thể loại đó đều được chơi trước công chúng lẫn
biểu diễn riêng tư. Những thể loại nhạc thính phòng cơ bản là trio
sonata - các bản sonata da chiesa hay da camera được viết cho hai
nhạc cụ chơi giai điệu (thường do violin, flute hay oboe đảm nhiệm)
và bè continuo -và solo sonata, thường cho violin và bè continuo. Tuy
nhiên nếu muốn, các trio sonata cũng có thể được chơi bằng các
nhóm hòa tấu lớn hơn gồm 6 hay 8 nhạc cụ. Thêm vào đó, người ta
cũng viết các cantata thính phòng dành cho giọng hát solo cùng bè
continuo cũng như cho duet hai giọng hát cùng bè continuo mà thực
tế đã tạo hình mẫu cho trio sonata.
Những nhà soạn nhạc nổi bật nhất của thể loại trio và solo sonata
trong thế kỉ 17 là nhà soạn nhạc Ý Arcangelo Corelli, người mà các
tác phẩm ảnh hưởng đến nhạc thính phòng của nhà soạn nhạc Anh
Henry Purcell và về sau là nhạc thính phòng của nhà soạn nhạc
Pháp François Couperin, nhà soạn nhạc Đức - Anh George Frideric
Handel và nhà soạn nhạc Đức Johann Sebastian Bach.
Trong kỷ nguyên Cổ điển (khoảng năm 1750 đến khoảng năm
1820), nhà soạn nhạc Áo Josept Haydn đã phát triển nhạc thính
148
phòng thành một phong cách khác biệt với nhạc hòa tấu khác. Quan
trọng ngang với những tiền thân của phong cách mới là các thể loại
nhạc nhẹ Vienna, chẳng hạn như divertimento và serenade. Được
các nhóm đàn dây và nhạc cụ hơi chơi ngoài trời, những sáng tác
này loại đi bè continuo, sử dụng những nhạc cụ giọng trung để điền
đầy hòa âm. Haydn đã thiết lập tứ tấu đàn dây thành thể loại hòa tấu
thính phòng thông dụng nhất. Những tứ tấu của ông thường được
viết theo cấu trúc sonata 4 chương (1 chương nhanh, 1 chương
chậm, 1 minuet và 1 chương nhanh khác), một hình thức chiếm ưu
thế trong kỉ nguyên Cổ điển. Nhạc thính phòng trong thời Cổ điển,
như Haydn và đồng hương của ông là Mozart đã phát triển, cũng đã
được phân biệt bằng cách viết tinh tế, tác động phức tạp và gần gũi
giữa 4 nhạc cụ. Nhà soạn nhạc Đức Ludwig van Beethoven đã mở
rộng tầm cỡ của các tứ tấu đàn dây trong khi vẫn duy trì đặc tính
riêng của nó.
Nhạc thính phòng trong kỉ nguyên Lãng mạn (khoảng năm 1820 đến
khoảng năm 1900) có xu hướng tuân theo các truyền thống cổ điển.
Các nhà soạn nhạc thường sử dụng cấu trúc sonata 4 chương và tứ
tấu đàn dây tiếp tục là một lối kết hợp nhạc cụ được ưa thích. Khi
các nhà soạn nhạc tìm cách thể hiện cảm xúc mãnh liệt trong tác
phẩm của mình, các tác phẩm đề cao piano, chẳng hạn như Trout
Quintet (1819) của nhà soạn nhạc Áo Franz Schubert và Ngũ tấu
Piano giọng Pha thứ (1864) của nhà soạn nhạc Đức Johannes
Brahms, trở nên phổ biến. Bởi vì piano sở hữu một phạm vi cường
độ và sắc thái lớn hơn các nhạc cụ thính phòng khác. Những buổi
biểu diễn nhạc thính phòng trước công chúng cũng trở nên phổ biến
149
và các nhà soạn nhạc thường sáng tác nhạc thính phòng với dự tính
để biểu diễn trước công chúng, vì vậy làm thay đổi chức năng ban
đầu của nhạc thính phòng.
Một số xu hướng đã xuất hiện trong nhạc thính phòng thế kỉ 20. Các
thể loại cổ điển như tứ tấu đàn dây được truyền thêm các cách biểu
đạt và kỹ thuật đương đại trong các tác phẩm của các nhà soạn nhạc
Pháp Claude Debussy và Maurice Ravel, nhà soạn nhạc Hungary
Béla Bartók, các nhà soạn nhạc Áo Arnold Schoenberg và Anton
Webern, nhà soạn nhạc Nga Dmitri Shostakovich và nhà soạn nhạc
Mỹ Elliott Carter. Hòa tấu thính phòng rất đa dạng trong sáng tác -
thường gồm các giọng hát, đàn harp, guitar và các nhạc cụ bộ hơi,
bộ gõ - trở thành phương tiện chủ yếu cho âm nhạc mới của các nhà
soạn nhạc như Schoenberg, Webern, nhà soạn nhạc Mỹ gốc Nga
Igor Stravinsky và nhà soạn nhạc Pháp Pierre Boulez. Nhạc thính
phòng, từng thuộc phạm vi của những người nghiệp dư và được
chơi theo sở thích của họ, đã trở nên ngày càng phổ biến với các
thính giả của phòng hòa nhạc. Nhiều nhóm hòa tấu thính phòng
chuyên nghiệp nở rộ ở Mỹ và nhiều nơi khác.
Ngọc Anh (nhaccodien.info) dịch