môc lôc - tỉnh giấc · web viewkinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy,...
TRANSCRIPT
LUẬN ÁN TIẾN SĨĐỀ TÀI:
Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta -
Đặc điểm và xu hướng phát triển
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................3
Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CNH-HĐH Ở NƯỚC TA.........................8
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI .................................................................................................8
1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ
TRÌNH CNH-HĐH Ở NƯỚC TA.........................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN
NƯỚC TA HIỆN NAY - ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN........................51
2.1. THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN NƯỚC
TA HIỆN NAY......................................................................................................................51
2.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA.........................................79
Chương 3: NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA........................................................................93
3.1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO.........................................................94
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI.............................................................103
3.3. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH TRỊ - VĂN HÓA....................................................123
KẾT LUẬN........................................................................................................................136
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN...........................................................................................................................139
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................140
PHỤ LỤC...........................................................................................................................155
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã bước vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN).
CNH, HĐH là xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới, khi các nước đó
muốn tiến tới một xã hội hiện đại. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta.
CNH, HĐH không chỉ đơn thuần là công cuộc xây dựng kinh tế, mà còn là quá trình biến
đổi cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đảm bảo cho sự nghiệp này
thành công, Đảng ta đã xác định phải: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" [15, tr. 85].
Đây là quan điểm cơ bản chỉ đạo toàn bộ sự phát triển của đất nước. Chăm lo bồi
dưỡng, phát huy nguồn lực con người với chất lượng cao là yếu tố quyết định đối với sự
phát triển của đất nước. Cho nên, Đảng ta đã xem con người không chỉ là mục tiêu, mà còn
là động lực của sự phát triển.
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội (tài nguyên thiên nhiên, vốn; nguồn
nhân lực; khoa học công nghệ...), thì nguồn nhân lực (NNL) giữ vai trò quyết định.
Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Tài nguyên thiên
nhiên đa dạng nhưng khó khai thác, thiếu vốn nghiêm trọng, kỹ thuật còn lạc hậu. Trong bối
cảnh đó, nguồn nhân lực càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nó phải trở thành động lực thực
sự của sự phát triển.
Là một nước kém phát triển về kinh tế, hiện nay ở nước ta có gần 80% dân số và
hơn 70% lao động nước ta còn sống ở nông thôn. Hơn nữa, nguồn nhân lực ở nông thôn
nước ta lại phân bố không đều, chủ yếu tập trung sản xuất nông nghiệp độc canh, thuần
nông. Chỉ có hơn 15% nguồn nhân lực ở nông thôn hoạt động trong lĩnh vực phi nông
nghiệp. Trong khi đó, dân số và lao động hàng năm ngày một gia tăng, đất nông nghiệp
ngày một giảm dần... Đất chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và
đang là một sức Ðp lớn đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, nảy sinh mâu thuẫn gay
gắt giữa cung và cầu lao động, việc làm. Việc giải quyết các mâu thuẫn đó đang trở thành
một vấn đề hết sức bức xúc.
Làm thế nào để giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn đó nhằm phát huy, sử
dụng, phát triển được NNL dồi dào ấy phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước?
3
Thực tiễn ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua và kinh nghiệm của nhiều
nước trên thế giới đã cho thấy có nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn.
Nhưng lùa chọn giải pháp nào? Phương pháp thực hiện từng giải pháp trong mỗi giai đoạn
phát triển ra sao? Nếu lùa chọn và thực hiện có hiệu quả những giải pháp đúng thì với
nguồn nhân lực dồi dào, phong phú ở nông thôn nước ta, chóng ta không những tạo ra động
lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, mà còn giải quyết được những nội dung quan trọng liên
quan tới chính sách xã hội - đó là vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống
nhân dân, góp phần giải quyết những tiêu cực xã hội do tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
và mức sống thấp gây ra.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta hiện nay, nhận diện
đúng những đặc điểm và xu hướng phát triển của nó để tìm ra phương hướng và những giải
pháp hữu hiệu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn phục vụ CNH, HĐH
đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề con người và nguồn lực con người đã từng thu
hót sự quan tâm chú ý của nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận trong và nước ngoài.
Do vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Nổi bật nhất là
Chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" mang mã số KX.07 do GS.TS. Phạm Minh Hạc làm
chủ nhiệm (1991 - 1995). Đây là công trình nghiên cứu sâu sắc, khá toàn diện về yếu tố con
người trong quá trình đổi mới và đưa ra được cái nhìn tổng thể, mang tầm chiến lược về vấn
đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Liên quan tới đề tài luận án còn có một
số đề tài khoa học cấp Bộ: "Xây dựng cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển NNL khoa học
công nghệ" của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường do TS Nguyễn Thị Thu Anh làm
chủ nhiệm, Hà Nội, 7/1997; "Lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xây
dựng chiến lược phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước đến năm 2020" của
Ban Nguồn nhân lực - Viện nghiên cứu chiến lược - Bé Kế hoạch và Đầu tư 1/1998 do TS
Trần Thị Tuyết Mai làm chủ nhiệm.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã đề cập đến vai trò của nhân tố
con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tính tích cực xã hội của con người và
con đường nâng cao vai trò nhân tố con người. Nhìn chung, các tác giả đã tập trung nghiên
cứu vấn đề con người và vai trò của nó trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước ở những góc độ khác nhau, như: "Bàn về chiến lược con người"- Viện Thông
4
tin khoa học - kỹ thuật Trung ương, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990; Đỗ Mười: "Chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh", Tạp chí Thông tin lý luận, số 3, 1993; Nguyễn Văn Sáu: "Phát huy nhân tố con
người trong đổi mới kinh tế", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; Phạm Minh Hạc (chủ
biên và tập thể tác giả): "Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI", Hà Nội,
1995; Nguyễn Trọng Chuẩn: "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước", Tạp chí Triết học, số 3, 1994; Hoàng Chí Bảo: "Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc
phát huy nguồn lực con người", Tạp chí Triết học, số 1, 1993; Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm:
"Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Thế Nghĩa: "Nguồn nhân lực- động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, số 1, 1996; Nguyễn Thị Hằng: "Phát triển nguồn
nhân lực của Việt Nam đến năm 2010", Tạp chí Cộng sản, số 7, 1999...
Thời gian gần đây có một số luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công về đề tài nguồn
nhân lực, như các luận án của Trần Kim Hải: "Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Hà Nội, 1999; của Nguyễn Thị Tó Oanh: "Phát huy
nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay" Hà Nội, 1999; của
Hà Quý Tình: "Vai trò của nhà nước trong việc tạo tiền đề nguồn nhân lực cho CNH,HĐH
ở nước ta", Hà Nội, 1999. Các tác giả nêu trên đã nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực dưới
góc độ kinh tế chính trị và CNXH khoa học.
Trên nền chung của việc nghiên cứu con người và nguồn nhân lực, đã có nhiều tác
giả đi sâu nghiên cứu về nông thôn, nông nghiệp và nguồn lao động ở nông thôn từ những
bình diện khác nhau, như công trình của Trương Việt Vò: "Lao động và việc làm ở nông
thôn" trong cuốn "Kinh tế - xã hội học nông thôn Việt nam hiện nay", Nxb Tư tưởng văn
hóa, Hà Nội, 1991; Nguyễn Thị Hằng: "Định hướng và giải pháp chuyển đổi cơ cấu lao
động nông thôn", Tạp chí Lao động và Xã hội, tháng 9-1993; Hà Quý Tình: "Nguồn nhân
lực nông thôn - Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998; Nguyễn
Văn Trung: "Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để CNH, HĐH nông thôn nông
nghiệp nước ta", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Chu Tuấn Nhạ: "Khoa học, công
nghệ phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, số 2, 1999;
Nguyễn Ngọc Tuân: "Nước ta đi con đường nào để đưa nông nghiệp truyền thống lên nông
nghiệp hiện đại?", Tạp chí Cộng sản, số 14, 1999; Trương Công Hùng: "Kinh tế trang trại
nông nghiệp ở nước ta", Tạp chí Cộng sản số 6, 1999; Trần Đức: "Mấy vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 15, 1999...
5
Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ bàn đến hiệu quả sử dụng lao động, nguồn
nhân lực trên phạm vi toàn xã hội. Một số tác giả tuy có bàn đến vấn đề sử dụng NNL nông
thôn, chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn,... nhưng mới chỉ nêu lên những nét khái quát
như một phác thảo chung, chưa đi sâu nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về những giải pháp
nhằm sử dụng nguồn nhân lực to lớn dồi dào ở nông thôn.
Đề tài: "Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng phát triển" là cố gắng bước đầu của tác giả góp
phần vào việc nghiên cứu nguồn lực con người nông thôn Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận án
Mục đích của luận án
Nghiên cứu cơ sở lý luận và một số vấn đề thực tiễn của nguồn nhân lực ở nông
thôn nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn nước ta phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nhiệm vụ của luận án
+ Làm rõ khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực nông thôn trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay.
+ Nêu lên một bức tranh chân thực về thực trạng của nguồn nhân lực ở nông thôn
nước ta hiện nay, chỉ ra đặc điểm và xu hướng phát triển của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông
thôn trong sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay.
Giới hạn nghiên cứu của luận án
Luận án không đi sâu nghiên cứu toàn bộ vấn đề về nguồn nhân lực nông thôn nói
chung mà chỉ tập trung nghiên cứu những đặc điểm và xu hướng phát triển của nguồn nhân
lực ở nông thôn nước ta hiện nay. Từ đó, dưới góc độ khoa học triết học, luận án góp phần
đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng, phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể
hiện trong văn kiện các Đại hội và các Nghị quyết Trung ương từ 1986 đến nay.
- Luận án được thực hiện bằng việc vận dụng những quan điểm phương pháp luận
chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó, đặc biệt chú
6
ý các phương pháp lịch sử và lôgíc, phương nghiên cứu hệ thống, phương pháp thống kê
kinh tế - xã hội...
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Làm rõ được thực trạng của việc sử dụng, phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn
nước ta từ năm 1986 đến nay.
- Nêu lên được các đặc điểm và xu hướng phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn
nước ta trong thêi kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm sử dụng, phát huy có hiệu
quả và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Làm sâu sắc, phong phú thêm quan điểm về việc khai thác, sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người ở nông thôn thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta. Góp phần bổ sung thêm những nhận thức mới
trong việc thực hiện các giải pháp nhằm sử dụng, phát triển vai trò của nguồn nhân lực ở
nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta.
- Kết quả nghiên cứu luận án có thể được vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn ở các địa
phương nhằm phát triển nông thôn mới và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Kết quả
nghiên cứu luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy các
môn khoa học Mác- Lênin trong các trường đại học, cao đẳng và các trường chính trị ở nước
ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
3 chương, 7 tiết.
7
Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm "nguồn nhân lực" và "phát triển nguồn nhân lực"
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã bàn khá sâu sắc về bản chất con
người, vÒ vai trò của con người, về vai trò của nhân tố con người trong quá trình phát triển
xã hội
Gần đây, trong quá trình vận động của nền kinh tế - xã hội, việc xem xét nhân tố
con người (NTCN) với tư cách là một nguồn lực xã hội của sự phát triển đã dẫn tới sự hình
thành khái niệm mới: Nguồn nhân lực (hay nguồn lực con người).
Qua các công trình nghiên cứu gần đây trên thế giới và trong nước, chúng tôi thấy
quan niệm về NNL được đề cập tới từ các góc độ sau:
- Theo lý thuyết phát triển, NNL theo nghĩa rộng là nguồn lực con người (Human
Resources) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ (vùng, tỉnh), nó là một bộ phận cấu thành
các nguồn lực, có khả năng lao động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế -
xã hội như nguồn lực vật chất (Physical Resources), nguồn lực tài chính (Financial
Resources).
- Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, NNL được đề cập đến với tư cách là một lực
lượng sản xuất chủ yếu, sản xuất ra hàng hóa và dịch vô. Ở đây, con người được xem xét từ
góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp
thời lực lượng lao động (LLLĐ) theo nhu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm
bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ.
- Trong lý luận về vốn người, NNL trước hết như một yếu tố của quá trình sản xuất,
một phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, lý luận về "vốn người" còn xem xét
con người từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực của phát triển. Đầu tư cho con người
được phân tích tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất, có tÝnh đến tổng hiệu quả của
đầu tư này, hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ đầu tư đó. Cách tiếp cận này
được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước hiện nay [79, tr. 138]
8
Theo cách tiếp cận trên, Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn người
(thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây, NNL được coi như là
một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác, như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên... Việc đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi
là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững. Vì vậy NNL là một nguồn vốn đặc biệt.
Dùa trên cách tiếp cận này, Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm NNL và cho rằng:
NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát
triển của đất nước. Đây là yếu tố được coi là quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng xã
hội - kinh tế.
Ở Việt Nam, quan niệm của các nhà khoa học về nguồn nhân lực được thể hiện
trong chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội", mang mã số KX-O7. Theo đó, NNL được hiểu
là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc [19, tr. 328].
- Theo hướng tiếp cận khác, NNL được xem xét trong mối quan hệ với các nguồn
lực khác và nó được xem như nguồn lực cơ bản, quan trọng, làm động lực cho sự phát triển
xã hội: "Thông thường, Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn viết, những nguồn lực làm cơ sở cho
chiến lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên,
vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các giai đoạn trước đó, có
thể là nguồn lực ở bên ngoài tự nhiên như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường,
cũng có thể là nguồn nhân lực..." và "lịch sử cho thấy đây là nguồn lực lâu bền nhất trong
sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay... Cho nên dù có những nguồn lực khác mà
không có những con người tương xứng đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó, đủ trình độ
nắm bắt và làm chủ kỹ thuật và công nghệ hiện đại và hiện đại nhất, nếu không có một môi
trường kinh tế, chính trị xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho con người hoạt động
thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn" [8, tr. 30-32].
Lại có quan niệm cho rằng: "Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực,
cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của
con người" [4].
Tựu chung lại, các cách tiếp cận trên đây thể hiện hai phương diện xem xét khái
niệm nguồn nhân lực. Một cách tiếp cận những mối liên hệ bên ngoài của nguồn lực con
người; còn một cách tiếp cận với NNL từ mối quan hệ và kết cấu nội tại của nã.
Từ mét số cách tiếp cận trên có thể thấy rằng NNL không chỉ đơn thuần là lực
9
lượng lao động đã có và sẽ có, mà nó là cả một tập hợp, một đa phức hợp bao gồm nhiều
yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc...
Trong buổi gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ các tỉnh
thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: "Nguồn lực con người bao gồm
cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống dân tộc ta" [30].
Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan trọng định hướng cho việc nhận thức và
phát huy tiềm năng nhân lực trên đất nước ta.
Con người và nhân tố con người được xem xét bởi hai phương diện: cá nhân và xã
hội. Vì vậy, khi xem xét cấu trúc NNL trước hết phải tính đến phương diện cá thể của NNL,
bao gồm: thể lực, trí lực, đạo đức.... (những yếu tố này cấu thành chất lượng cá thể của NNL
và nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phát triển xã hội của NNL, khi xét trên quy mô xã
hội).
Mặt khác, khi xem xét NNL cũng phải xem xét mặt xã hội và tính chất xã hội hóa
của nó với tư cách là sức mạnh tổng hợp của lực lượng xã hội, những con người tham gia
vào sự phát triển xã hội ở mọi lĩnh vực của đời sống. Đây chính là biểu hiện năng lực xã hội
(là nhân tố nội sinh, nhân tố bên trong của sự phát triển). Có thể nói rằng chất lượng xã hội
của NNL là thước đo chủ yếu của những năng lực xã hội xét trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Tính chất xã hội của nó biểu hiện qua: dân số, chất lượng dân số, chất lượng đời
sống dân cư và chất lượng của lực lượng lao động. Mặt xã hội đó phản ánh trình độ thực tế
của sự phát triển năng lực xã hội, nó cũng cho thấy tiềm năng của sự phát triển đó.
Khi xem xét cấu trúc của NNL, nhất là NNL ở nước ta hiện nay cần phải đặc biệt
chú ý tới mối quan hệ giữa: nguồn lực tiềm tàng và nguồn lực hiện hữu. Do đó, việc quản
lý NNL đòi hái vừa phải đặc biệt quan tâm và chăm sóc đối tượng đang làm việc trực tiếp,
có chiến lược và chính sách đúng đắn nhằm hướng tới chất lượng đang đào tạo, vừa phải có
tầm nhìn triển vọng đối với lực lượng đang lớn lên, đang sinh ra và tiếp tục sinh ra
Từ những điều nêu trên có thể thấy, NNL được đề cập đến như một nguồn lực tổng
hợp với các yếu tố hợp thành: sức lực và trí tuệ, số lượng cùng với các đặc trưng về chất
lượng (như trình độ văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ, phong cách làm
việc...), trong đó, con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực chủ yếu để phát
triển kinh tế - xã hội, là một yếu tố cơ bản của phát triển sản xuất.
Nếu coi NNL là tiềm năng con người nói chung, những tiềm năng mà con người có
thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, thì "sử dụng NNL" chính là khơi dậy và phát
huy những tiềm năng đó. Phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình biến đổi của NNL
10
nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con người. Quá trình sử dụng, phát triển NNL
bao gồm nhiều vấn đề, như giải quyết việc làm, sử dụng và phát triển lực lượng lao động,
phát huy tiềm năng trí tuệ, phát huy tính sáng tạo, yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích
thích và động cơ lao động... Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng lao động chỉ là mét số
nội dung của nó mà thôi.
Để khơi dậy và phát huy những tiềm năng con người, việc sử dụng, phát triển NNL
phải được tiến hành đồng bé - từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn bị cho
người lao động bước vào cuộc đời lao động đến vấn đề tù do lao động và được hưởng thụ
xứng đáng những giá trị mà lao động sáng tạo ra. Nói cách khác, chính sách sử dụng, phát
triển NNL phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục, đào tạo và sử dụng lực lượng lao
động, tạo việc làm và đãi ngộ thỏa đáng cho con người... Trong đó, giáo dục đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng NNL là cơ sở để sử dụng, phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực và để
mở rộng, cải thiện môi trường làm việc.
Để làm rõ hơn quan điểm về NNL, có thể đi sâu phân tích những yếu tố cơ bản nhất
của NNL và việc sử dụng, phát triển các yếu tố đó trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Chóng ta biết rằng: Lao động là cơ sở để hình thành và phát triển con người; người
lao động có vai trò to lớn đối với sự phát triển lịch sử. Do vậy, NNL trước hết được biểu
hiện ra là nguồn lao động.
Nguồn lao động ở đây là toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ
cho xã hội và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. Đó là những người lao động - từ
những người lao động trực tiếp đến các nhà quản lý, các nhà khoa học công nghệ, những
người làm công tác văn phòng, dịch vụ, đến lực lượng lao động dự bị... tất cả đều thuộc về
NNL của một quốc gia. Từ khía cạnh này, chúng ta có thể hiểu: "phát triển NNL" trước hết
là sử dụng, phát triển, phát huy nguồn lao động. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động đã có và sẽ có là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.
Ở nước ta trước đây người ta thường sử dụng khái niệm "các nguồn lao động", bao
gồm toàn bộ những người trong độ tuổi qui định có khả năng lao động để tính toán số lượng
"cung nguồn lao động" và coi đó là "cầu việc làm" mà nền kinh tế phải giải quyết trong việc
lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lao động (với ý nghĩa là một yếu tố đầu vào của
sản xuất - xã hội) là một bộ phận của dân sè, bao gồm những người lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân và đang tìm việc làm. Khái niệm này thống nhất với khái
niệm "Lực lượng lao động" được qui định trong Bộ luật lao động năm 1994: "Lực lượng lao
động bao gồm những người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng
11
lao động" (Điều 6).
Chúng tôi hiểu: Nguồn lao động là bộ phận dân cư của đất nước, có khả năng về
thể chất và tinh thần có thể được sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động hiểu
theo nghĩa đó, trở thành một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm năng phát triển kinh tế đất
nước và nói lên số lượng tối đa của dân cư có khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản
để xếp dân cư vào nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60, nữ
từ 15-55) có khả năng lao động (trừ những người tàn tật, mất sức lao động loại nặng) và
những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi và các em từ 13-15 tuổi) thực tế đang làm
việc. Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động bao gồm những người đang
làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động được quy định bởi
những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Những chỉ tiêu này luôn luôn thay đổi, trong đó
chỉ tiêu quan trọng nhất là số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi
học và đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố lao động theo lĩnh vực, theo
ngành, theo lãnh thổ... Mức độ gia tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến
độ tuổi có khả năng lao động và số dân cư ra khỏi độ tuổi lao động hoặc nghỉ hưu. Trình độ
học vấn, trí tuệ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động biểu hiện rõ về chất của nguồn
lao động.
Để phân biệt người có việc làm với người thất nghiệp và các thành phần khác của lao
động, chúng ta cần làm rõ khái niệm việc làm và thất nghiệp.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp chỉ sự liên kết các quá trình kinh tế - xã hội và
nhân khẩu. Đây là một trong những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội.
Hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều khái niệm về việc làm. Ở các nước khác nhau,
khái niệm này cũng có nội dung khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các tài liệu
đều cho rằng "việc làm" phải là một hoạt động có mang lại thu nhập cho con người (một số
nước qui định mức thu nhập cụ thể). Trước đây ở Philippin, người ta cho rằng mức thu nhập
tương ứng khoảng 80% lương tối thiểu trở lên mới được coi là có việc làm [71].
Khái niệm "việc làm" có liên quan chặt chẽ với khái niệm "lao động", nhưng không
hoàn toàn giống nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc
cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều
kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính trong hoạt động
của con người. Xét dưới góc độ lực lượng sản xuất của xã hội, việc làm thể hiện mối tương
quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong
quá trình sản xuất.
12
Ở nước ta, Bộ luật lao động ban hành năm 1994 đã xác định: "Mọi hoạt động tạo ra
thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Như vậy, để có việc
làm, không nhất thiết phải vào cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước, mà có thể tìm việc làm
trong mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, hoặc do chính bản thân người lao động tự
tạo việc làm để có thu nhập...
Để hiểu rõ hơn về các khía cạnh của "việc làm" - mét vấn đề bức xúc hiện nay ở
nước ta, cần làm rõ hơn khái niệm "việc làm đầy đủ", "việc làm hợp lý".
Việc làm đầy đủ là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho
bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế - xã hội. Nói một cách khác, "việc làm đầy
đủ" là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được
việc làm trong một thời gian tương đối ngắn [22, tr. 23].
Khái niệm "việc làm đầy đủ" mới chỉ chủ yếu nói lên sự cã việc làm về mặt số
lượng. Việc làm hợp lý không những thể hiện nội dung việc làm đầy đủ, mà còn nói lên việc
làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Do vậy, việc làm
hợp lý sẽ tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn việc làm đầy đủ.
Cho nên, trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ nhằm toàn dụng lao động, cần dần dần
thực hiện từng bước "việc làm hợp lý". Tuy nhiên, khái niệm "việc làm đầy đủ" và "việc
làm hợp lý" chỉ mang ý nghĩa tương đối, vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc
làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp [22, tr. 25].
Những nước kinh tế phát triển có điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, nhưng
nguồn lao động tăng chậm, dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, những nước chậm phát
triển, khả năng mở rộng sản xuất có hạn dẫn đến một bộ phận lao động muốn làm việc
nhưng không có việc làm, chưa có việc làm, đang tìm việc làm, nghĩa là thất nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều dạng thÊt nghiệp khác nhau, tùy theo các góc
độ tiếp cận.
— Nếu căn cứ vào nguồn gốc thất nghiệp, ta thấy có những trường hợp sau:
Thất nghiệp tạm thời: Là thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động tạm thời
không có việc làm vì mét lý do nào đó..
Thất nghiệp cơ cấu: Là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu
của một loại công việc nào đó do sù thay đổi của kỹ thuật - công nghệ hay thay đổi cơ cấu
nghề nghiệp gây ra.
Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp khi tăng, khi giảm theo chu kỳ tăng giảm của
nền sản xuất.
13
— Nếu căn cứ vào mức độ thất nghiệp, thì có các loại:
Thất nghiệp hoàn toàn: Là thất nghiệp của một bộ phận người có khả năng lao
động muốn làm việc, nhưng hoàn toàn không có việc làm trong một thời gian dài.
Thất nghiệp bộ phận (thiếu việc làm): Là thất nghiệp của những người chỉ làm
việc một thời gian, phần thời gian còn lại muốn làm việc, nhưng thiếu việc làm.
— Nếu căn cứ vào nhân tố chủ quan của người lao động, thì có
các loại:
Thất nghiệp tự nguyện: Là thất nghiệp của một bộ phận người lao động không
muốn làm việc, do việc làm và mức lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của
mình. Khi mức lương tăng lên họ sẽ có nhu cầu việc làm.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp của những người lao động muốn làm
việc với mức lương hiện hành, nhưng không có việc để làm, do tổng cầu suy giảm hoặc do
sản xuất đình trệ, thua lỗ kéo dài, họ trở nên mất việc làm...
Thực tiễn nền kinh tế thế giới cho thấy, trong kinh tế thị trường, thất nghiệp là một
hiện tượng tất yếu khách quan. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp, chứ không thể
ngay một lúc loại bỏ được nó. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, ngay cả trong
điều kiện nước có công ăn việc làm đạt mức cao nhất, nền kinh tế phát triển năng động nhất,
vẫn có tới 3%-4% lực lượng lao động bị thất nghiệp [22, tr. 29].
Trên đây đã phân tích và chỉ rõ: NNL trước hết là người lao động- đó là những con
người sử dông sức lao động của mình trong quá trình sản xuất, những người lao động đang
có khả năng phục vụ cho xã hội. Xưa nay người ta thường quan niệm nhân tố "sức lao
động" là người lao động. Sức lao động là một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất, nó
có đặc trưng thể hiện khả năng phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội, có tác
dụng quan trọng đối với sự phát triển xã hội.
Sức lao động là năng lực của người lao động, bao gồm toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể một con người đang sống và được người đó đem ra vận
dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Sức lao động như là hàng hóa, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng sức
lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất và trở thành hàng hóa trong điều kiện nhất định.
Là một loại hàng hóa đặc biệt - người lao động với tư cách là một thực thể tự nhiên, đồng
thời là một thực thể xã hội; có ý thức, có lý tính, có quan hệ, có nhu cầu và khả năng sáng
tạo. Là một hàng hóa, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Như
những loại hàng hóa khác, sức lao động cũng bao gồm đủ loại chất lượng theo những trình
14
độ khác nhau - từ lao động giản đơn đến lao động phức tạp, từ lao động chân tay đến lao
động trí tuệ; chúng cũng được lưu thông trên thị trường sức lao động - một thị trường của
các yếu tố sản xuất.
Thị trường lao động có thể được hiểu là nơi diễn ra quá trình tác động lẫn nhau
giữa người mua và người bán sức lao động nhằm xác định giá cả, số lượng hàng hóa đặc
biệt này.
Sự vận động của thị trường lao động tuân theo cơ chế thị trường và ba nhân tố cơ
bản chi phối chúng là cung, cầu và giá cả. Chúng hoạt động theo quy luật vốn có của thị
trường là qui luật giá trị, qui luật cung - cầu và qui luật cạnh tranh.
Trên đây chúng ta đã phân tích các khía cạnh khác nhau có liên quan trực tiếp đến
nguồn lao động như là một yếu tố cơ bản của NNL.
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người chẳng những
sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc. Trình độ của nền sản
xuất càng cao, tiến bộ công nghệ đưa vào sản xuất càng nhiều thì lao động trí óc của con
người trong sản xuất càng tăng lên. Vấn đề này đã được Mác nhiều lần đề cập đến. Chẳng
hạn, khi phân tích ảnh hưởng của tri thức khoa học-sản phẩm của lao động trí tuệ - đối với
sản xuất ở thời đại mình, Mác viết: Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, việc sản
xuất ra của cải hiện thực ngày càng trở nên Ýt phụ thuộc hơn vào thời gian lao động, lực
lượng lao động phải bỏ ra so với các tác nhân hoạt động trong quá trình lao động ngày càng
nhiều.
Vai trò của lao động trí tuệ còn được Mác thể hiện trong dự báo khoa học: đến một
trình độ nào đó, khoa học sẽ biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Quá trình khoa học trở
thành lực lượng sản xuất đang diễn ra dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ
hiện nay đã khẳng định sự chính xác của dự báo này. Chúng ta biết rằng, ngày nay khoa học
đang "thấm sâu" vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất, và trở thành nhân tố quyết định của
sự phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu
của NNL. Với ý nghĩa Êy, khai thác và phát huy tiềm năng trí tuệ của người lao động trở
thành yêu cầu quan trọng nhất của sử dụng, phát triển NNL.
Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng trí tuệ với tư cách là một yếu tố của NNL tự nó
không làm ra của cải vật chất, cũng không phải là những kiến thức trong sách vở, trong
ngân hàng dữ liệu, hay trong chương trình phần mềm máy vi tính. Tri thức chỉ trở thành
nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng. Nói theo cách của C.Mác,
15
nó phải tồn tại trong con người đang sống, đang hoạt động, trong nhân cách sinh động của
con người. Nói cách khác, chỉ những kiến thức nằm trong con người, tồn tại trong vỏ não
con người, được tạo ra, sửa đổi và luôn thực hiện bởi con người, được con người sử dụng
trong hoạt động và truyền đạt lại mới được xem là thành phần (hay giá trị) của NNL.
Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao về
trí tuệ của NNL - những người lao động. Họ không những phải có khả năng tiếp thu được
cái mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất, mà còn phải biết thường xuyên tự đổi mới tri
thức để không bị lạc hậu bởi sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học-công nghệ.
Vì vậy, NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bao gồm những con người
lao động phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức tiếp thu và làm chủ công nghệ mới, có
khả năng làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo; có khả năng sử dụng các công cụ,
phương tiện lao động hiện đại, tiên tiến.
Xuất phát từ yêu cầu đó, để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất thiết phải
nâng cao trình độ học vấn chung cho người lao động. Theo tổng kết của thế giới, trình độ
văn hóa tối thiểu người dân phải có là tiểu học đối với nền văn minh nông nghiệp, trung học
cơ sở đối với văn minh công nghiệp và trung học hoàn chỉnh (xong giáo dục phổ thông 12
năm) ở nền văn minh thông tin.
Bởi vậy, con đường cơ bản nhất để phát huy tiềm năng của nguồn nhân lực là biến
dân tộc đó thành một dân tộc có học vấn, học thức cao. Điều đó giải thích vì sao cuộc chạy
đua về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu là chạy đua về phát triển giáo dục, đào
tạo.
Dùa trên nền tảng mặt bằng dân trí của xã hội, cần xây dựng và phát triển những
nguồn lao động có năng lực cao về trí tuệ. Họ phải có khả năng áp dụng khoa học để sáng
chế kỹ thuật, công nghiệp tiên tiến; có khả năng nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ
được kỹ thuật, công nghệ hiện đại; có kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực, lùa chọn giải pháp
và tổ chức thực hiện, biết quản lý và kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa, cơ
chế thị trường và phân công lao động quốc tế... Đây là những yêu cầu cơ bản về chất lượng
nguồn nhân lực cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở giai đoạn hiện nay.
Cùng với trí tuệ là yếu tè sức khỏe - một yêu cầu không thể thiếu được của NNL.
Sức khỏe là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện chủ yếu để
con người chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất
hiện thực.
16
Với tư cách là một yếu tố của nguồn nhân lực, sức khỏe phải là sự phát triển hài
hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, sức khỏe phải bao gồm cả sức khỏe
cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng thể chất, phát triển cân
đối, hài hòa của các cơ quan cơ thể theo quy luật tạo hóa tự nhiên. Sức khỏe tinh thần là sự
dẻo dai trong hoạt động thần kinh mà biểu hiện cụ thể của nó thông qua sức mạnh, lòng tin,
khát vọng, ý chí và hoài bão.
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu lao động trí
tuệ ngày một cao. Cần phải có những người lao động khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần
mới có thể đáp ứng được, có sức mạnh và niềm tin để phát huy tốt nhất NNL. Với ý nghĩa
đó, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân là một nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất lượng
NNL, khai thác và phát huy tiềm năng con người.
Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ở người lao động hàng loạt phẩm
chất lao động về nghề nghiệp như: Kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên liệu, lương tâm và trách
nhiệm nghề nghiệp, tiết kiệm thời gian, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công
nghiệp... Tất cả những vấn đề đó ngày nay được sử dụng trong một chỉ tiêu tổng hợp là yếu
tố văn hóa trong lao động. Đây là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng NNL nói
chung và NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ngày nay đang đụng chạm đến các vấn đề thuộc về mối quan hệ giữa con
người-thiên nhiên. Nó đòi hỏi nâng cao trình độ văn hóa và hiểu biết sâu sắc của người lao
động về môi trường sinh thái. Đây là vấn đề sống còn không chỉ của mỗi quốc gia, mà còn
đối với nền văn minh nhân loại. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi
trường sinh thái cũng là năng lực và phẩm chất cần thiết của nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa nhằm phát triển bền vững của đất nước.
Một vấn đề quan trọng khác cần xem xét ở NNL là cơ cấu của người lao động,
trong đó quan trọng nhất là cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề. Người lao động phải
được đào tạo, phân bổ, sử dụng và phát triển theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả cao
nhất trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo mà phân bố không hợp lý
giữa các ngành, các vùng và cơ cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì nguồn
lao động ấy không những không trở thành nguồn lực để phát triển, mà nhiều khi còn là gánh
nặng cản trở sự phát triển.
Cuối cùng, khi nói đến NNL của một quốc gia, chóng ta không thể không tính tới
yếu tố tinh thần được hình thành và phát triển trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc. Đây
là nguồn nội lực vô tận, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển. Thực
17
tế cho thấy, truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc góp phần hình thành nhân cách và bản
lĩnh, ý chí, lòng tự hào, tự trọng dân tộc, lối sống và làm việc của dân tộc đó. Nếu phát huy
tốt nó tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, nguồn NNL cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là những công
dân yêu nước, cần cù lao động và lao động sáng tạo, có ý chí vươn lên và lòng tự hào dân
tộc cao. Để có nguồn nhân lực có chất lượng như vậy, cần chú trọng khơi dậy và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng cao nhận thức cho người lao động về
đường lối, quan điểm của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đây là một vấn đề quan trọng nhằm làm cho NTCN Việt Nam không chỉ là chủ thể
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn là những công dân bảo vệ thành quả
cách mạng trong tình hình mới.
Tóm lại, NNL có nội hàm rộng lớn và phong phú, nó không chỉ đơn thuần là nguồn
lao động mà còn bao gồm nhiều yếu tố vật chất và tinh thần khác của con người và cộng
đồng người. Cho nên trong quá trình khai thác, sử dụng, phát triển NNL cần phải chú ý đầy
đủ những yếu tố vật chất và tinh thần ở từng con người cũng như cả cộng đồng xã hội.
Từ mét số cách tiếp cận trên, dưới dạng khái quát, chúng tôi cho rằng: NNL của một
quốc gia (mét vùng lãnh thổ) là tổng thể những tiềm năng lao động của con người có trong
một thời điểm nhất định (trong nền kinh tế - xã hội thường tính cho 1 năm). Tiềm năng đó
bao hàm tổng hòa về thể lực, trí lực, tâm lực (đạo đức, lối sống, nhân cách và tinh thần...)
của người lao động của một quốc gia (mét vùng lãnh thổ), đáp ứng một cơ cấu lao động do
nền kinh tế - xã hội quy định. Nguồn nhân lực là một khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và
chất lượng con người với tất cả đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
Với cách hiểu trên, khái niệm NNL bao quát những mặt cơ bản sau:
Một là, NNL trước hết là người lao động, là lực lượng lao động, là nguồn lao động.
Do vậy, để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã có và sẽ có thì vấn đề tạo việc
làm và khai thác hợp lý nguồn lao động là một yêu cầu của phát triển NNL. Nguồn nhân lực
cũng phản ánh qui mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một quốc
gia trong một thời kỳ nhất định.
Hai là, NNL là khái niệm phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động
trong các ngành, các vùng; cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực
kinh tế; cơ cấu trình độ lao động; cơ cấu tuổi của lực lượng lao động; cơ cấu lao động dự
18
trữ... Cơ cấu lao động theo ngành, thành phần kinh tế... có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng và sức mạnh của NNL.
Ba là, NNL là khái niệm phản ánh chủ yếu phương diện chất lượng dân số, đặc biệt
là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tương lai (dưới dạng tiềm năng) thể
hiện qua hàng loạt các yếu tố: sức khỏe, mức sống, tuổi thọ, trình độ học vấn; trình độ
chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp trình độ trí tuệ; năng lực sáng tạo; khả năng thích nghi,
kỹ năng và văn hóa lao động; các khía cạnh tâm lý, ý thức, lối sống,...; trong đó, thể lực, trí
lực và tâm lực là những yếu tố quan trọng nhất. Nói đến NNL là nói đến sức lao động (thể
lực và trí lực) của con người, là nói đến chất lượng con người (bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc). Đó chính
là tổng hợp của toàn bộ năng lực và phẩm chất sinh lý - tâm lý - xã hội của con người tạo
nên nhân cách mỗi cá nhân.
Bốn là, khái niệm NNL còn chỉ ra rằng con người được xem xét với tư cách là một
nguồn lực - nguồn lực nội tại, trung tâm của hệ thống các nguồn lực. NNL không chỉ là chủ
thể của quá trình vận động và phát triển xã hội, mà còn là khách thể của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, là đối tượng mà chính sự phát triển xã hội phải hướng tới để phục vụ.
Như vậy, khi xem xét NNL và vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội phải xem
xét con người vừa với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là khách thể. Hai tư cách này có
quan hệ biện chứng với nhau. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực hiện
có, đồng thời góp phần tạo ra các nguồn lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Là khách
thể, con người trở thành đối tượng khai thác cả về thể lực, trí lực, tâm lực cho mục tiêu phát
triển xã hội. Ở đây, con người thể hiện vừa là chủ thể, vừa là khách thể đồng thời vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình kinh tế - xã hội.
Sức mạnh của NNL biểu hiện ở sức mạnh của thể lực, trí lực, niềm tin và ý chí,...; ở
sự thống nhất giữa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng trong hiện thực và cả ở dạng tiềm năng. Vì vậy khi xem xét NNL, phải nhìn nhận con
người với tất cả hiện trạng, tiềm năng, đặc biệt và sức mạnh của nó cả ở phương diện là chủ
thể lẫn phương diện là khách thể.
NNL đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
coi là NNL cần thiết cho công nghiệp hóa. Có được NNL phù hợp với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và sử dụng phát triển nó có hiệu quả là nhân tố quyết định sự thành công của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
19
Khi bàn đến NNL, chóng ta không thể không nghiên cứu số lượng NNL và chất
lượng NNL.
Số lượng NNL được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân
bố dân cư theo khu vực và theo lãnh thổ. Đây là lực lượng tiềm tàng của nền kinh tế - xã
hội. Ở nước ta, Bộ luật lao động 1994 qui định người lao động phải "ít nhất đủ 15 tuổi". Cho
nên sự gia tăng dân số sau 15 năm sẽ kéo theo sù gia tăng nguồn nhân lực, vì sự gia tăng
dân số là cơ sở để gia tăng NNL, nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng không làm giảm ngay
lập tức nhịp độ tăng NNL.
Chất lượng NNL nói lên trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là
một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Chất
lượng NNL là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực
tiếp đến hoạt động sản xuất và phát triển con người. Do đó, chất lượng NNL là một khái
niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong
cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL (trạng thái sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu đào tạo, nghề nghiệp, thành phần xã hội... của NNL). Trong
đó, trình độ học vấn là quan trọng nhất vì nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ năng nghề
nghiệp, mà còn là yếu tố hình thành nhân cách, lối sống của mỗi người.
Chất lượng NNL liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực, như đảm bảo dinh dưỡng và
chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm gắn liền với tiến bộ khoa học
- công nghệ, trả công lao động và các quan hệ xã hội khác.
Chất lượng NNL cao có tác động làm tăng năng suất lao động. Trong thời đại tiến bộ
kỹ thuật, một quốc gia cần và có thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước một bước
trình độ phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ
thuật - công nghệ. Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản và các nước NICs châu Á đã chứng
minh sự thành công của biện pháp này trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Mặt khác, cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về NNL thông qua tìm hiểu khái niệm "phát
triển NNL". Trong tiếng Anh thì "phát triển NNL" (hay phát triển nguồn lực con người) đều
là Human Resouce Development (HRD), còn "phát triển người" nói chung là Human
Development (HD). Trong khái niệm "phát triển người" (HD), yếu tố con người được đề
cập như là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, là chỉ tiêu về thành tựu của một dân
tộc. Trong khi đó, "phát triển NNL" (HRD) lại có xu hướng tập trung vào các hoạt động
nhằm nâng cao khả năng thực hiện vai trò sản xuất của con người như trí tuệ, kỹ năng làm
việc, khả năng tổ chức và quản lý sản xuất... Ở đây, khái niệm "phát triển NNL" có nội hàm
20
nhỏ hơn khái niệm "phát triển người".
Con người tồn tại trong xã hội, nhưng nhân tố người, vai trò trung tâm và quyết
định của nó lại không tự nhiên có; mà nó phải được tạo nên, được phát triển. Vì vậy, "phát
triển người" (Human Development- HD) là một khái niệm rộng, nhưng có thể nhận thức
được. Con người luôn luôn là nhân tố hàng đầu trong các nhân tố tham dự vào phát triển. Sự
"phát triển người" trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng để xếp hạng các nước trên thế
giới. Nó là cơ sở để hoạch định, triển khai, quản lý toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội ở
từng nước cũng như từng vùng trên toàn thế giới.
Sự "phát triển người" là: "Sự phát triển về thể xác và tinh thần, tích tụ tiềm năng,
phát triển năng lực, kỹ xảo... " [19]. Nã bao hàm cả sự lùa chọn của con người trong mọi xã
hội ở mọi giai đoạn phát triển. Nó quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế cũng như việc phân
phối thu nhập, những nhu cầu căn bản cũng như đến những khát vọng chung. Nó tạo ra sự
phát triển xoay quanh con người chứ không phải con người xoay quanh sự phát triển. Sự
phát triển người quyết định mọi sự phát triển khác. Theo hướng này, khái niệm "phát triển
người" có thể được trình bày theo quan điểm "hai loại vốn" mà Ngân hàng thế giới đưa ra:
vốn con người và vốn vật chất; trong đó, sù phát triển vốn con người quyết định sự phát
triển mọi vốn khác.
Báo cáo về phát triển con người của UNDP 1994 định nghĩa: "Phát triển người là sự
phát triển của con người, vì con người và do con người (tác giả nhấn mạnh). Sự phát triển
con người có nghĩa là đầu tư vào các khả năng của con người, hoặc vào giáo dục, sức khỏe
hoặc kỹ năng nghề nghiệp, để họ làm việc một cách có hiệu quả và sáng tạo. Sự phát triển vì
con người có nghĩa là đảm bảo chắc chắn rằng, sự tăng trưởng kinh tế mà họ tạo ra được
phân phối rộng rãi và công bằng". Như vậy, khái niệm "phát triển người" bao hàm một nội
dung rất rộng: "Phát triển người là đưa toàn bộ cấu trúc con người dịch chuyển đi lên,
chuyển về chất lượng theo thời gian và không gian, tạo nên sự phát triển cả về số lẫn về chất
của bộ phận quyết định trong lực lượng sản xuất; đưa toàn bộ xã hội, toàn bộ nền kinh tế
luôn luôn chuyển động không ngừng theo hướng phát triển ngày càng tốt đẹp hơn. Đan kết
vào sự chuyển động đó, yếu tố con người ngày càng có thêm cơ hội, có thêm điều kiện phát
triển, luôn luôn mở ra các triển vọng mới" (Đề tài KX 04. 09: Căn cứ lý luận và thực tiễn
của chính sách đối với thanh niên, Hà Nội 12-1994).
Khái niệm này còn có thể được diễn đạt từ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
sự phát triển con người. Tăng trưởng kinh tế là vấn đề sống còn mà về lâu dài không một xã
hội nào có thể được duy trì, nếu không tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh
21
tế phải được chuyển vào việc cải thiện đời sống con người. Tăng trưởng kinh tế không phải
là mục đích cuối cùng của sự phát triển con người, nó chỉ là phương thức tối quan trọng.
Giữa phát triển con người và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết. Con người đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế làm cho cuộc sống con người được cải
thiện tốt hơn.
Trên tạp chí Người đưa tin UNESCO số 9/1994 ông Federico Mayor, Tổng Giám đốc
tổ chức khoa học, văn hóa và giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã đưa ra một khái
quát rất cô đọng rằng: "Một sự phát triển nhân bản bền vững, đó là định nghĩa duy nhất có
thể chấp nhận được đối với mục tiêu chung của chúng ta. Nó phải trước hết cho phép làm
thức dậy toàn bộ tiềm năng của kẻ vừa là vai diễn đầu tiên, vừa là kẻ hưởng thụ cuối cùng
của nó: đó là con người". Do vậy, có thể nói, nội dung, mục tiêu của "phát triển người"
chính là chất lượng phát triển con người. Nói cách khác, chất lượng phát triển con người
chính là nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc, chất lượng cuộc sống của con người đòi hỏi thu
nhập cao, giáo dục tốt, chuẩn cao về sức khỏe và dinh dưỡng, Ýt nghèo khổ, môi trường
trong sạch, bình đẳng hơn về cơ hội, cá nhân tự do hơn, cuộc sống văn hóa phong phú hơn
[19, tr. 60].
Chất lượng phát triển con người, đó là phát triển con người toàn diện, trong sự phát
huy cá nhân con người, trên bình diện tinh thần, đạo đức, vật chất. Quá trình phát triển
người phải quán triệt bản chất và ý nghĩa những giá trị nhân văn, nhân đạo. Nguyên tắc
nhân văn, nhân đạo chỉ đạo các con đường phát triển. Phát triển người tựu trung là gia tăng giá
trị cho con người, giá trị tinh thần, giá trị đạo đức, giá trị thể chất, vật chất". Phát triển người
chính là phát triển đạo đức, phát triển trí tuệ và tay nghề. Đây là những yếu tố của chỉnh thể,
không thể tách rời.
Như vậy, "phát triển người là phát triển toàn bộ nhân cách và từng bộ phận trong
cấu trúc nhân cách, phát triển cả năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày
càng nâng cao, hoàn thiện cả đạo đức và tay nghề, cả tâm hồn và hành vi từ trình độ chất
lượng này lên trình độ chất lượng khác" [51, tr. 156].
Mỗi quốc gia đều có chương trình phát triển con người của riêng mình, nhưng cần
có một nguyên tắc chung là: đặt con người vào trung tâm của sự phát triển và tập trung vào
những nhu cầu và năng lực của con người. Như vậy, "phát triển người" gắn với quan niệm
mới về sự phát triển, không chỉ lấy chỉ số tổng số thu nhập quốc dân trên đầu người mà còn
lấy chỉ số phát triển người (Human Development Index HDI) để đánh giá thực trạng của
22
một quốc gia. Từ 1990, UNDP đưa ra chỉ số phát triển người bao gồm 3 tiêu chí: tuổi thọ,
trình độ học vấn và mức sống.
Cách tính chỉ số phát triển người HDI: (Chỉ số phát triển nhân văn):
=Chỉ số tuổi thọ + chỉ số tri thức + chỉ số thu nhập đã điều chỉnh
3
Giá trị của chỉ số mỗi nước được tính theo thang điểm từ 0 đến 1 và nước nào đạt
điểm 1 có nghĩa là đạt thành tựu tối đa. Quốc gia nào giá trị HDI lớn hơn chứng tỏ sự phát
triển con người cao hơn. Với cách tính này, những nước có thu nhập bình quân đầu người
cao chưa hẳn chỉ số HDI đã cao, nếu chỉ số về tuổi thọ và tri thức không cao tương ứng. Rõ
ràng là HDI phản ánh chất lượng cuộc sống mà sự tăng trưởng kinh tế thuần tóy không tạo ra
được.
Sự phát triển xã hội mà trọng tâm là phát triển con người không chỉ đòi hỏi phải có
những quan điểm đúng, mà còn phải có một hệ thống các chỉ tiêu (indicator), chỉ số (index)
hoặc thước đo (measure) để làm căn cứ cho việc xác định mục tiêu, tổ chức thực hiện và
đánh giá kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội. tùy theo từng nước cụ thể mà hệ thống
chỉ tiêu, chỉ số hoặc thước đo về phát triển xã hội Ýt nhiều được qui định có khác nhau.
Song, các chỉ tiêu quan trọng nhất ngày càng có xu hướng đi tới phù hợp với thông lệ quốc
tế do chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc đề xuất là: thay chỉ tiêu GDP tính bình
quân đầu người bằng chỉ số phát triển con người với ba chỉ tiêu cơ bản: tuổi thọ, trình độ
dân trí và GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP).
Theo báo cáo của UNDP năm 1999, Việt Nam được xếp hàng 110 trong tổng số
174 nước được điều tra về chỉ số phát triển con người với những số liệu cụ thể sau: a)Tuổi
thọ bình quân: 67,4
b)Tỷ lệ người lớn biết chữ: 91,9% (theo số liệu của Việt Nam, tỷ lệ này là 93%)
c)Thu nhập thực tế GDP bình quân đầu người tính theo PPP: 1630 USD.
Với các số liệu kể trên thì tính theo công thức của UNDP, chỉ số phát triển con
người của Việt Nam là 0,664 (UNDP: Human Developmant Report 1999, p. 135-136).
Năm 2000, theo báo cáo phát triển con người của UNDP, HDI của nước ta được
xếp thứ 108/174 nước.
Còn theo báo cáo của UNDP năm 1999, Việt Nam được xếp hàng thứ 51 trong tổng
số 92 nước đang phát triển được điều tra chỉ số nghèo (HPI); đứng dưới một số nước như
Mêhicô, Côlômbia, Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia,... nhưng lại đứng trên một số
nước như I Rắc, Ai Cập, Ên Độ, Marốc... vốn là những nước có GDP bình quân đầu người
23
cao hơn chúng ta.
Còn về chỉ số phát triển giới (GDI) thì Việt Nam xếp thứ 91 trong tổng số 143 nước
trên thế giới được điều tra. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng dưới
Malayxia, Thái Lan, Philippin, nhưng lại đứng trên Ên Độ, Pakixtan, Bănglađét.
Phát triển nguồn lực con người (hoặc phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát triển tài
nguyên con người) là những khái niệm mới dùa trên quan niệm mới về sự phát triển và về vị
trí của con người trong phát triển.
Con người được xem như một tài nguyên, một nguồn lực, nên phát triển NNL trở
thành một lĩnh vực hết sức cần thiết trong phát triển các loại nguồn lực (vật lực, tài lực,
nhân lực....); trong đó, phát triển NNL giữ vai trò trung tâm nhằm huy động, quản lý NNL
vào quá trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội.
Phát triển NNL là nhân tố chủ yếu để nâng cao trình độ phát triển của một quốc gia
theo chỉ số HDI. Do đó, sự phát triển sẽ là tổng hợp của các mặt:
+ Phát triển kinh tế (lấy tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập bình quân đầu người
làm chỉ số).
+ Phát triển về con người và xã hội.
+ Sù bền vững về chất lượng môi trường sống, tài nguyên thiên nhiên.
Có thể nói, chất lượng phát triển con người là sự thay đổi về chất lượng của nguồn
lực con người, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của họ, là gia tăng giá trị cho con
người (giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, vật chất...). Việc phát huy, phát triển NNL trước
hết phải chăm lo đầy đủ đến con người, nâng cao chất lượng sống cho từng cá nhân và xã hội.
Nhà kinh tế học Mỹ Garibikơ, giải thưởng Noben kinh tế năm 1992, đã kết luận: Không có
đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực.
Theo quan niệm của các tác giả Việt Nam, "phát triển NNL" về cơ bản là quá trình
làm "gia tăng giá trị cho con người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể
lực..., làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực, phẩm chất mới và
cao, đáp ứng yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội" [20, tr. 285].
Từ những vấn đề trình bày ở trên chúng ta thấy "phát triển nguồn nhân lực" chính là sự
biến đổi số lượng và chất lượng nguồn nhân lực về các mặt cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức
và tinh thần... cần thiết cho công việc, nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn định
được công ăn việc làm, nâng cao địa vị kinh tế, xã hội và cuối cùng là đóng góp cho sự phát
triển xã hội.
24
Chúng tôi cho rằng: "Phát triển nguồn nhân lực" là quá trình nâng cao năng lực của
con người về mọi mặt (thể lực, trí lực, tâm lực); đồng thời, phân bổ, sử dụng, khai thác và
phát huy có hiệu quả nhất NNL thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc
làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển NNL ở tầm vĩ mô là các hoạt động nhằm tạo ra NNL có số lượng và chất
lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển.
Phát triển NNL có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sử dụng những tiềm năng con
người và tiến bộ kinh tế xã hội. Theo UNDP, có 5 điểm "Phát sinh năng lượng" của phát
triển NNL là: Giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và tự do chính trị -
kinh tế. Những điểm phát sinh năng lượng đó thâm nhập vào nhau và phụ thuộc lẫn nhau,
giáo dục là cơ sở cho những điểm khác, là nhân tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe và dinh
dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở rộng và cải thiện lao động, để
duy trì sự đáp ứng về kinh tế và chính trị [23, tr. 1].
Theo chúng tôi, vấn đề phát triển NNL trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước phải bao gồm đồng bộ cả ba mặt chủ yếu: giáo dục-đào tạo con người, sử dụng
con người, tạo môi trường việc làm và đãi ngộ thỏa đáng cho con người. Trong đó, giáo
dục- đào tạo được coi là cơ sở sử dụng con người có hiệu quả, mở rộng và cải thiện môi
trường làm việc.
Để hiểu rõ hơn vấn đề NNL, còn phải nắm vững cơ cấu của nó.
Yêu cầu cơ cấu mới của nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa có vai trò định hướng phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt trong lãnh đạo sự phát triển
giáo dục, đào tạo nhằm đảm bảo các loại hình lao động cần thiết. Có ba mặt chuyển dịch lớn
về cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là. Đó là:
- Cơ cấu phân công lao động theo ngành, chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ.
- Cơ cấu trình độ lao động chuyển dịch theo hướng gắn với cơ cấu công nghiệp
mới, đó là cơ cấu công nghiệp nhiều trình độ, nhiều quy mô. Trong đó, phải ưu tiên nhập
các công nghệ tiên tiến, thích hợp. Ở nước ta, trong thời gian tới, do thiếu vốn đầu tư, cần
coi trọng quy mô vừa và nhỏ, những công nghệ đòi hỏi đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo
ra nhiều chỗ làm cho người lao động trực tiếp và ở khâu trung gian.
- Cơ cấu tổ chức lao động chuyển dịch theo hướng hình thành cơ chế vận hành mới
của ba loại tổ chức phổ biến trong xã hội cùng với đội ngò nhân lực thành thạo nghề nghiệp,
đảm bảo hiệu quả của toàn xã hội. Đó là bộ máy nhà nước (hành pháp, lập pháp, tư pháp);
25
các doanh nghiệp (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, các quy mô lớn, vừa, nhỏ, kinh tế hộ
gia đình...); các cơ sở khoa học - giáo dục, ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng đội ngò lao động
quản lý, đội ngò tham mưu, nhà kinh doanh giỏi, nhà khoa học công nghệ thành thạo, công
nhân lành nghề.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Nguồn nhân lực trong quan hệ với các nguồn lực khác
Vai trò quan trọng của NNL đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá
trình CNH, HĐH nói riêng là một vấn đề đã được khẳng định. Những công trình nghiên cứu
gần đây đều đi đến kết luận rằng: Con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố cã
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vì thế, gần đây, khi hoạch định các chính sách phát triển, các nước rất quan tâm và
phân tích kỹ lưỡng vấn đề nguồn lực cũng như mối quan hệ giữa NNL với các nguồn lực
khác trong phát triÓn.
Dưới dạng tổng quát, chúng tôi hiểu "nguồn lực" là toàn bộ những yếu tố và quá
trình đã, đang và sẽ có khả năng tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện
thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Với ý nghĩa đó,
"nguồn lực" là một khái niệm có phạm vi bao quát rất rộng, nó hàm chứa không chỉ những
yếu tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà còn bao hàm cả những yếu tố còn ở dạng
tiềm năng; nó không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh, nơi có
thể cung cấp sức mạnh; nó phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng các yếu tố,
đồng thời, nó nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó.
Khi nói một cách chung nhất, trong quá trình CNH, HĐH, chúng ta có các nguồn lực
thúc đẩy quá trình này là nguồn lực con người (NNL), vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật
chất kỹ thuật và nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ biện chứng với nhau
cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH; nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối
với quá trình CNH, HĐH không giống nhau, trong đó NNL giữ vai trò quyết định.
Trong một thời gian dài ở nước ta, con người với tất cả tiềm năng, hiện trạng và sức
mạnh của nó chưa thực sự được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Do vậy, trên thực tế có lúc con người chưa được coi như là nguồn nội
lực của sự phát triển. Mặt khác, trong quan niệm về con người lại thường nhấn mạnh nhiều
về mặt khai thác, chưa chú ý đầy đủ đến nhu cầu cống hiến và nhu cầu hưởng thụ của con
người; chú ý đến con người xã hội mà chưa thấy được con người cá nhân...
26
Những năm gần đây, do tác động của những đặc điểm mới của thời đại cùng những
bài học được rót ra từ cuộc khủng hoảng của CNXH hiện thực và sự đổ vỡ thể chế XHCN ở
Liên Xô và Đông Âu cũng như từ những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, chúng
ta đã nhận thức đầy đủ hơn quan điểm coi con người là tài sản quý giá nhất, là mục tiêu và
động lực của sự phát triển xã hội, của tiến bộ xã hội.
Để thấy rõ hơn vai trò quyết định của NNL trong quá trình CNH, HĐH, chúng ta
cần phải đặt NNL trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, thấy rõ mức độ chi phối
của nó đến sự thành bại của quá trình CNH, HĐH; đồng thời, phải đặt CNH, HĐH trong bối
cảnh hiện nay - đó là cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, lao
động trí tuệ và xu hướng trí tuệ hóa đang ngày càng gia tăng và trở thành yêu cầu khách
quan, xu thế phổ biến của nhân loại; CNH gắn chặt với HĐH mà cốt lõi là HĐH lực lượng
sản xuất. Từ hướng tiếp cận đã, chóng ta thấy vai trò quyết định của NNL được thể hiện ở
những điểm sau đây:
- So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế
nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt đi trong quá trình khai thác và sử dụng . Việc biến lao
động từ phương tiện trở thành nhu cầu của con người; cải thiện điều kiện lao động, điều
kiện kỹ thuật, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tôn trọng nhân cách người lao động, nâng cao
chất lượng xã hội của lao động, tạo môi trường xã hội lành mạnh để người lao động trở
thành người làm chủ quá trình lao động sản xuất là những vấn đề có tầm chiến lược. Việc
giải quyết tốt quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người sẽ
làm cho nguồn nhân lực trở thành nguồn lực cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.
Do vậy, hầu hết các quốc gia hiện nay đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển
và đề ra các chính sách, biện pháp để khai thác, phát triển nguồn lực quan trọng này.
- Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn tại
ở dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy được tác dụng và có ý nghĩa khi kết hợp được
với nguồn lực con người. Con người là chủ thể biết tư duy, có lý trí, ý thức và trí tuệ, biết
cách khai thác, gắn kết các nguồn lực khác tạo nên sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào
quá trình CNH, HĐH đất nước. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo,
khai thác và do con người tác động và chi phối. Con người là chủ thể sáng tạo, là chủ thể sử
dụng mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Con người chính là yếu tố năng động và quyết định
nhất của lực lượng sản xuất. Khi phân tích lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản, C. Mác
đã chỉ rõ: "Trong tất cả các lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất lớn nhất là bản thân giai
cấp cách mạng" [39, tr. 410].
27
Liên quan đến trình độ học vấn, Lênin viết: "Việc điện khí hóa không thể do những
người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi thì không đủ. Phải hiểu rằng điều
đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và nếu họ không có nền
học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi" [35, tr. 364-365]
Ai cũng biết rằng muốn CNH, HĐH phải có vốn, hơn thế nữa, phải có lượng vốn rất
lớn. Nhưng, vốn chỉ phát huy được tác dụng, khi con người biết sử dụng đúng mục đích và
đầu tư có hiệu quả. Thiếu năng lực và phẩm chất cần thiết của con người với tư cách NNL
thì vốn sẽ không phát huy tác dụng tốt; thậm chí sự yếu kém của con người, của quản lý có
thể gây ra tổn thất to lớn cho tài sản tập thể và quốc gia. Tiếc rằng, hiện tại ở nước ta không
hiếm trường hợp rơi vào tình trạng này. Trong bộ "Tư bản", khi đề cập đến quá trình chuyển
hóa của tiền tệ, C.Mác đã lý giải một cách khoa học rằng, tiền tệ chỉ trở thành tư bản thông
qua sù lao động của người công nhân và nhờ vậy, giá trị mới được tạo ra lớn hơn giá trị ban
đầu. Nói cách khác, vốn chỉ có sức mạnh thông qua trí tuệ và lao động của con người. Sẽ là
sai lầm, nếu như chỉ biết kêu gọi vốn đầu tư mà không quan tâm đào tạo những con người
đủ năng lực tương xứng với nguồn vốn ấy.
Tự nhiên là nơi mà con người và xã hội tồn tại. Giữa tự nhiên và xã hội thường
xuyên diễn ra sù trao đổi vật chất được thực hiện thông qua quá trình lao động sản xuất. Do
vậy, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý của mỗi nước là những nguồn lực tự nhiên quan
trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt nói chung, đến quá trình CNH,
HĐH nói riêng. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của nguồn lực này tùy thuộc vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là khả năng khai thác chúng của con người. Nếu
con người biết cách khai thác thì sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, những ưu thế về vị trí
địa lý sẽ là những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình CNH, HĐH. Ngược lại, nếu như con
người chỉ biết khai thác "theo kiểu tước đoạt tự nhiên", không biết tái tạo tự nhiên thì đến
một lúc nào đó, tự nhiên sẽ "trả thù" lại con người (nói theo Ăngghen). Bởi vì, văn hóa nếu
nó phát triển một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức... thì sẽ để lại
đằng sau nó những bãi hoang mạc... (C.Mác) Ngày nay, với thành tựu to lớn của khoa học-
công nghệ và trí tuệ con người, sự giàu có của mỗi nước không được đo chủ yếu bằng khối
lượng của cải tài nguyên thiên nhiên. Một nước nghèo về tài nguyên vẫn có thể trở thành
một nước giàu mạnh, nếu có chiến lược phát triển đúng đắn và phát triển NNL chất lượng
cao. Các nước châu Á là những chứng cứ xác thực cho điều này. Điều quyết định của quá
trình sản xuất không phải là ở đối tượng lao động mà là ở chỗ: Sản xuất bằng cách nào, với
những tư liệu sản xuất nào như Các Mác đã chỉ ra, nghĩa là nó phụ thuộc vào con người trong
28
quá trình sản xuất ấy.
Hiện nay, trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự hỗ trợ quốc tế được coi là
yếu tố cần thiết cho sự phát triển của các nước. Sự trợ lực này bao hàm phạm vi rộng - từ hỗ
trợ, hoạch định chính sách phát triển đến tài trợ cho dự án phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo
nhân lực, đầu tư trực tiếp, trao đổi thương mại... giữa các quốc gia. Đó là một xu thế tất yếu,
nó tạo ra "cái hích" kinh tế, nhất là các nước có điểm xuất phát thấp như nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh sự trợ giúp về kinh tế của các nước phát triển cho các nước
đang phát triển trong quá trình CNH, đừng bao giờ quên rằng sự trợ giúp ấy luôn có mức độ
và thường kèm theo những sức ép về chính trị, kinh tế. Nói cách khác, sẽ là ảo tưởng và thất
bại, nếu cho rằng nguồn lực từ bên ngoài là yếu tố quyết định quá trình CNH, HĐH, chỉ cần
mở rộng "cửa" là viện trợ nước ngoài sẽ tuôn vào và giúp đỡ cho nền kinh tế có những bước
nhảy "thần kỳ". Thực tế phát triển của Nhật Bản và các nước châu Á (Xingapo, Hồng Kông, Hàn
Quốc, Đài Loan) và các nước Indonexia, Malayxia, Thái Lan cho thấy, viện trợ chỉ là yếu tố
ngoại sinh, còn tiềm lực con người của mỗi quốc gia mới là yếu tố nội sinh và có vai trò đặc
biệt quan trọng.
Ngày nay, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài dưới các hình thức khác nhau đang là
phương thức có tính phổ biến trong hợp tác kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển muốn
thông qua con đường này để thu hót vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Song, mức độ tiếp thu và hiệu quả của nó lại phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của đội ngò
lao động từ trong nước.
Như vậy là, trong khi không xem nhẹ vai trò nguồn lực tự nhiên như tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý hay cơ sở vật chất, kỹ thuật được tạo ra trong các giai đoạn trước đó
hoặc nguồn vốn nước ngoài, thì xưa nay, nguồn lực lâu bền nhất và quan trọng nhất trong sự
phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể là con người, nguồn lực con người: "Xét đến cùng,
thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở lên vô nghĩa,
thậm chí khái niệm "nguồn lực" cũng không còn lý do để tồn tại" [29, tr. 20].
Thực tế lịch sử cho thấy, quốc gia nào tiến hành CNH mà biết cách dùa vào bồi
dưỡng, khai thác và sử dông tiềm năng NTCN thì luôn giữ được tốc độ phát triển nhanh và
ổn định. Ngược lại, những quốc gia chỉ dùa vào điều kiện tự nhiên hoặc vốn từ bên ngoài-
như một số nước Trung Đông, châu Phi hoặc Mỹ la tinh thì tốc độ tăng trưởng và phát triển
không ổn định. Chẳng hạn, Nigiêria – một quốc gia rất giàu có nhờ dầu lửa, vào những năm
70, nhưng do lãng phí nguồn tài nguyên trời cho vào những công trình thế kỷ như xây dựng
những nhà máy sản xuất thép với quy mô đồ sộ và một thủ đô mới... nên ngày nay dân
29
chúng Nigiêria còn nghèo hơn cả lúc mới giành được độc lập năm 1960. Hoặc như Braxin,
vào những năm 60, nền kinh tế nước này tăng trưởng với mức độ thu nhập tăng 6,4% liên
tục từ 1963 đến 1973. Nhưng vào năm 1982, Braxin đã rơi vào khủng hoảng về nợ nước
ngoài; thu nhập bình quân đầu người không hề tăng trong suốt 10 năm liền, lạm phát luôn ở
mức trên 500%/ năm.
Sự phân tích trên cho thấy, để phát triển kinh tế bền vững phải dùa chủ yếu vào
NTCN chứ không thể dùa vào điều kiện tự nhiên hay vốn bên ngoài. Các quốc gia và vùng
lãnh thổ Đông Á chính là những ví dụ tiêu biểu đáng để chúng ta rót kinh nghiệm và học tập
cho mô hình phát triển dùa trên cơ sở bồi dưỡng, khai thác, phát huy nguồn nhân lực.
Quan điểm "Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển" với ý nghĩa "Con
người vừa là mục đích, vừa là tác nhân của sự phát triển" đã được UNESCO chính thức đề
ra trong tài liệu "Hiểu để hành động" xuất bản năm 1977 tại Paris. Tư tưởng này ngày càng
được nhiều nước, nhiều dân tộc thừa nhận và phát triển hết sức phong phó cả về lý luận lẫn
thực tiễn như một quy luật phát triển khách quan của thời đại.
1.1.2.2. Vai trò chủ yếu của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong toàn bộ sự phát triển xã hội, con người luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là
chủ thể, vừa là đối tượng. Là chủ thể, con người quyết định sự phát triển của xã hội mà
trước hết là sự phát triển lực lượng sản xuất; là đối tượng, con người hưởng thụ những thành
quả của sự phát triển. Mọi sự phát triển đều nhằm mục tiêu vì con người, do con người. Với
cách tiếp cận ấy, vai trò của NNL thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
Một là, con người với tư cách nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu, năng động và
quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất
Trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất thì con người lao động là chủ thể
sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Con người là yếu tố quyết
định nhất và năng động nhất trong lực lượng sản xuất. Chỉ có yếu tố con người với trí tuệ
phát triển mới có năng lực tự sinh, tự phát triển và hoàn thiện mình với tư cách là một lực
lượng sản xuất. Con người phát triển lực lượng sản xuất đến đâu thì cũng đồng thời tự nâng
cao năng lực sản xuất của mình đến đó. Trong điều kiện cách mạng khoa học-công nghệ
hiện nay với xu thế trí tuệ hóa sản xuất, vị trí con người với tư cách vừa là chủ thể, vừa là
động lực chủ yếu nhất quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất càng khẳng định.
Khái niệm nguồn nhân lực (nguồn lực con người) không mâu thuẫn mà thống nhất
với khái niệm "con người" trong lực lượng sản xuất. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở phạm
vi xem xét vấn đề mà thôi. Khái niệm nguồn lực con người xem xét yếu tố con người trong
30
phạm vi rộng, bao quát toàn bộ các hoạt động và quá trình phát triển của con người. Còn
khái niệm yếu tố con người trong lực lượng sản xuất chỉ là xem xét con người trong một
loại hình hoạt động-lao động sản xuất.
Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất cũng là một nguồn sức mạnh. Nguồn sức
mạnh ấy có được là nhờ con người là thể thống nhất luôn luôn kết hợp sức mạnh thể lực và
trí lực trong hoạt động sản xuất.
Trong quá trình lao động, con người luôn luôn tìm tòi, suy nghĩ, năng động và sáng
tạo, không chỉ sáng chế ra những tư liệu lao động có năng suất cao mà còn biết kết hợp tư
liệu lao động với đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định.
Nhờ con người mà các tư liệu sản xuất được hoàn thiện từng bước và cũng chỉ thông qua
hoạt động con người mà các tư liệu sản xuất mới phát huy được tác dụng, thúc đẩy lực
lượng sản xuất và nền kinh tế - xã hội phát triển. Đúng như Mác nói: "Những thời đại kinh
tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất như thế nào,
với tư liệu lao động nào"[38, tr. 388].
Ngày nay, tài sản lớn nhất của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, của các dân tộc
không phải là máy móc, công xưởng, tài nguyên mà là con người, là trí tuệ nằm ngay trong
vỏ não của người lao động. Chính chất xám của họ trở thành nguồn lực quan trọng và quyết
định sự phát triển kinh tế - xã hội làm nổi bật vai trò đặc biệt quan trọng của con người
trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Hai là, nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng tiêu dùng luôn là mục đích của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, suy cho cùng, việc sản xuất đều nhằm thỏa
mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, nhu cầu của con người trở thành thị trường sâu rộng,
trở thành tác nhân vô cùng quan trọng kích thích sản xuất phát triển, là "đơn đặt hàng" của
xã hội đối với sản xuất. Đây chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
Nhu cầu của con người rất đa dạng, phức tạp, bao gồm nhiều mức độ khác nhau,
phát triển từ thấp đến cao. Có nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, nhu cầu trước mắt và
nhu cầu lâu dài, nhu cầu cống hiến và nhu cầu hưởng thụ... Các nhu cầu Êy quan hệ chặt
chẽ, chi phối mạnh mẽ các hành vi của con người (trước hết là người lao động) trong quan
hệ với tự nhiên, xã hội và với bản thân mỗi con người.
Đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mục tiêu hàng đầu, số một
của sản xuất là vì sự tiến bộ và phát triển con người. Để phục vụ con người, tất yếu phải
phát triển kinh tế, đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thường xuyên nghiên cứu nhu cầu,
31
sở thích và dự đoán sự thay đổi nhu cầu, phát hiện các nhu cầu mới... Nếu nền kinh tế chậm
phát triển thì ngay cả những nhu cầu tối thiểu của con người cũng không thực hiện được,
chứ chưa nói đến nhu cầu khác, cao hơn.
Ba là, con người với tư cách nguồn nhân lực là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn
thiện quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình lao động, theo C.Mác, con người không chỉ làm biến đổi hình thái
những gì do tự nhiên cung cấp, con người cũng đồng thời thực hiện các mục đích tự giác
của mình. Mục đích Êy quyết định phương thức hành động của họ, giống như một qui luật,
bắt ý chí của họ phải phục tùng nó. Vì vậy trong lao động, con người không chỉ là yếu tố
hàng đầu, năng động của quá trình sản xuất mà còn là chủ thể sáng tạo, đổi mới và hoàn
thiện quá trình ấy.
Xu hướng chung của con người là luôn vươn tới cái tốt đẹp, hoàn thiện bằng lao
động sáng tạo của chính mình. Khả năng ấy phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ thô sơ, mông muội đến văn minh. Sức sáng tạo của con người thật kỳ diệu và vĩ đại
thông qua sự phát triển nhanh chóng của KH-CN. Sự sáng tạo của con người được thể hiện
trên ba mặt: Sáng tạo ra đời sống vật chất, sáng tạo ra đời sống tinh thần và sáng tạo ra
chính bản thân con người cùng với lịch sử của nó. Con người sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra
chính bản thân mình, đưa xã hội từ nền văn minh nông nghiệp tới nền văn minh công nghiệp
và ngày nay là nền văn minh trí tuệ.
Khi quá trình sản xuất mang tính tập thể, xã hội hóa cao, hoạt động quản lý xuất
hiện. Làm chủ trong quản lý, con người phải tạo ra hoàn cảnh và môi trường thích hợp để
mọi người lao động có thể phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình. Lực lượng sản xuất
càng phức tạp, quan hệ quản lý càng quan trọng. Khi có hệ thống quản lý khoa học và dân
chủ, nó sẽ khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát
triển.
Bốn là: Con người với tư cách nguồn nhân lực với việc đảm bảo lợi ích cá nhân
người lao động là động lực to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội.
Con người là một cơ thể sống, vì vậy con người bao giê cũng hoạt động theo các
nhu cầu tự nhiên của mình. Mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn từ nhu cầu; thỏa
mãn các nhu cầu chính là đảm bảo lợi Ých của con người. Vì lợi ích mà con người hoạt
động. Lợi ích của con người bao gồm lợi Ých vật chất, lợi ích tinh thần, trong đó, lợi Ých
vật chất đóng vai trò quan trọng nhất. Theo C.Mác, một khi tư tưởng tách rời lợi Ých thì
nhất định sẽ làm nhục nó. Ăngghen cho rằng: Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất
32
định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích. Người lao động dù làm việc ở đâu,
dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích của mình. Lợi ích càng cao, càng đầy đủ
thì lợi ích càng tạo nên sức hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn, thỏa mãn lợi
ích chính đáng của con người là động lực trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
Khi xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội nói chung, chính sách lao động, quản lý
tiền lương, tiền công, thu nhập nói riêng, Nhà nước cần xuất phát từ lợi ích người lao động,
đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích xã hội, tập thể và lợi ích cá nhân. Có như vậy mới
khơi dậy được tính tích cực, sáng tạo trong mỗi con người, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển.
1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1.2.1. Một số nét khái quát về nguồn nhân lực nông thôn và phát triển nguồn
nhân lực nông thôn
Nông thôn và nông nghiệp
Nông thôn: theo Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1994, thì "Nông thôn là khu vực
dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông". Có thể nói định nghĩa này mới chỉ nêu được một
đặc điểm cơ bản nhất của nông thôn, nó chưa đề cập đến các đặc trưng khác, tiêu biểu cho
nông thôn. Đó là:
- Về mặt địa lý: Nông thôn là một địa bàn rộng lớn bao quanh các thành thị.
- Về mặt kinh tế: Nông thôn là nơi hoạt động của ngành sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp; các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp (khác với đô thị chỉ có
công nghiệp và dịch vụ).
- Về mặt xã hội: Cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu là nông dân nhưng nông thôn
ngày nay không chỉ có nông dân mà còn tương đối đa dạng về thành phần dân cư. Mật độ dân
số ở nông thôn thường thấp hơn ở đô thị.
- Về mặt văn hóa: Nông thôn là kho tàng văn hóa dân tộc; là nơi nghỉ ngơi, du lịch
xanh hấp dẫn cho dân đô thị; là nơi giữ gìn nhiều phong tục, tập quán cổ truyền của dân tộc.
- Về trình độ văn hóa, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc thường
kém hơn đô thị.
Theo Quyết định số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng thì nước ta
có 5 loại đô thị. Trong đó, đô thị loại V là đô thị có lượng dân cư và mật độ dân số thấp (dân
số từ 4.000 đến 30.000 người), mật độ dân cư là 6.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động
ngoài nông nghiệp khoảng 60%. Như vậy, khu vực nông thôn nước ta bao gồm các địa bàn
33
ngoài đô thị loại V và có tỷ lệ lao động nông nghiệp trên 60%.
Nông nghiệp: (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) là một ngành sản xuất vật chất
quan trọng của đất nước. Ngành nông nghiệp có hai nhiệm vụ lớn là trực tiếp bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia và đảm bảo nguyên liệu cho phát triển công nghiệp, có khối lượng
nông sản cho xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế đất nước.
Nông nghiệp và nông thôn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện nay, nông
thôn là địa bàn chủ yếu để phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, nông thôn còn có khái niệm
rộng hơn bởi trong nông thôn, ngoài ngành nông nghiệp ra còn bao gồm các hoạt động của
các ngành sản xuất khác (như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn và các
dịch vụ xã hội khác như y tế, văn hóa, giáo dục, đường xá...).
Nguồn nhân lực nông thôn: là NNL cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn,
đồng thời cung cấp nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung (cung cấp nhân lực
cho khu vực công nghiệp, khu vực đô thị, kể cả lĩnh vực xuất khẩu lao động...).
Nguồn nhân lực nông thôn thống nhất nhưng không đồng nhất với nông dân. Trong
nông thôn, nông dân là lực lượng lao động, là vốn người chủ yếu của NNL nông thôn,
nhưng NNL nông thôn còn bao gồm những bộ phận nhân lực khác không phải là nông dân.
Nông thôn ngày nay không chỉ thuần túy là nông dân, không chỉ thuần túy là lao động nông
nghiệp, mà còn có một bộ phận không nhỏ là cán bộ hưu trí, mất sức, bộ đội phục viên, xuất
ngò, học sinh chuyên nghiệp ra trường chưa có việc làm; những người do tổ chức lại sản
xuất, giảm biên chế ở các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước cũng về sống tại nông thôn. Do tác
động của nền sản xuất hàng hóa, nông thôn xuất hiện ngày càng nhiều tầng líp tiểu thương,
buôn bán nhỏ, chủ trang trại, có người thoát ly hẳn sản xuất nông nghiệp làm nghề buôn bán
thương nghiệp, dịch vụ, giáo viên, cán bộ y tế, văn hóa... Do đó, bức tranh về cơ cấu thành
phần dân cư ở nông thôn nước ta là rất đa dạng.
Nông thôn ngày nay không chỉ thuần túy sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp mà còn
bao hàm các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ, ngành nghề truyền thống...).
Nguồn nhân lực nông thôn là toàn bộ những tiềm năng con người phục vụ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Do vậy, cần phải thấy rằng trong NNL nông thôn,
bên cạnh NNL trực tiếp sống tại nông thôn tạo thành cơ cấu dân cư nông thôn thì nó còn là
NNL gián tiếp phục vụ nông thôn, có thể không sống tại nông thôn nhưng công việc của họ
gián tiếp phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Đó là đội ngò những người
như kỹ sư, cán bộ nghiên cứu khoa học nông nghiệp, cán bộ y tế, văn hóa - xã hội, công
34
nhân các nhà máy phục vụ sản xuất nông nghiệp... Do vậy, NNL nông thôn là nguồn lao
động phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, nã phản ánh qui mô dân
sè thông qua số lượng dân cư và tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn qua các thời kỳ.
NNL nông thôn phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và lao động trong các ngành, các
vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong lực
lượng lao động nông thôn và cơ cấu nguồn lao động dự trữ ở nông thôn, phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội ở nông thôn.
NNL nông thôn là khái niệm phản ánh phương diện chất lượng của LLLĐ ở nông
thôn trong hiện tại và trong tương lai gần thể hiện qua hàng loạt các yếu tố như: sức khỏe cơ
thể và sức khỏe tinh thần; mức sống; trình độ giáo dục, đào tạo về văn hóa và về chuyên
môn nghề nghiệp; năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng và văn hóa lao động, các
khía cạnh tâm lý, đạo đức, lối sống v.v..., trong đó thể lực, trí lực và đạo đức là những yếu
tố quan trọng nhất. Bên cạnh đó, nó cũng nói lên sự biến đổi và xu hướng của sự biến đổi về
số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động ở nông thôn.
Trong NNL nông thôn, thanh niên nông thôn là một lực lượng khá đông đảo, chiếm
trên 30% dân số và trên 50% lực lượng lao động trong nông nghiệp. Đây là một nguồn lực
vô cùng quý giá để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do vậy, phát triển NNL
trẻ, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho thanh niên nông thôn
và giải quyết tốt các vấn đề xã hội ở nông thôn là một nhiệm vụ và yêu cầu cấp thiết trong
quá trình CNH, HĐH. NNL nông thôn còn bao hàm một lực lượng hết sức đông đảo và có
vai trò đặc biệt quan trọng ở nông thôn là phô nữ nông thôn. Phụ nữ nông thôn có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình và đặc biệt là trong xây dựng gia đình văn
hóa mới, trong công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình... Do vậy, trong việc phát triển
NNL nông thôn phải coi trọng việc phát huy, khai thác, tạo điều kiện để đảm bảo sự công
bằng về giới của phụ nữ trong sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tạo điều kiện để họ
phát huy vai trò của mình trong quá trình CNH, HĐH và xây dựng nông thôn mới.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là giải quyết vấn đề phát triển người lao
động nông thôn, phát triển nông dân và cơ cấu xã hội ở nông thôn. Phát triển NNL nông
thôn là sự biến đổi số lượng và chất lượng NNL nông thôn về các mặt: cơ cấu, thể lực, kỹ
năng, kiến thức và tinh thần... cần thiết cho công việc, nhờ vậy mà phát triển được năng lực
của họ, ổn định công ăn việc làm, nâng cao địa vị kinh tế, xã hội và đóng góp cho sự phát
triển xã hội. Phát triển NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH là hoạt động nhằm tạo ra
NNL có số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội của giai đoạn CNH, HĐH
35
đất nước.
Phát triển NNL nông thôn chính là quá trình làm gia tăng giá trị cho con người nông
thôn trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực, làm cho họ trở thành
những người lao động có những năng lực và phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những
yêu cầu to lớn của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ những điều trình bày trên có thể khẳng định rằng phát triển NNL nông thôn là
quá trình nâng cao năng lực của con người nông thôn về mọi mặt; đồng thời, phân bố, sử dụng
và khai thác có hiệu quả nhất NNL nông thôn thông qua hệ thống phân công lao động và
giải quyết việc làm ở nông thôn.
1.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
1.2.2.1. Khái quát chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa là quá trình tất yếu của mỗi dân tộc sớm hay muộn đều phải trải
qua, là một quy luật phổ biến trong tiến trình vận động và phát triển của các nước. Quá trình
công nghiệp hóa trên thế giới mà nước Anh mở đầu đã có lịch sử hơn 200 năm. Ở nước ta,
sự nghiệp công nghiệp hóa được tiến hành từ những năm 60 theo đường lối Đại hội toàn quốc
lần thứ III của Đảng đề ra: "Công nghiệp hóa XHCN". Trong một thời gian dài, "công
nghiệp hóa XHCN" được đặt đối lập với "công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa" và được coi là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với công thức "ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ"... nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Dù nói tới chú trọng
công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, nhưng trên thực tế, công nghiệp nặng mà trọng tâm là
ngành cơ khí chế tạo, được coi như một tiền đề quan trọng. Do chủ quan, duy ý chí mà
đường lối công nghiệp hóa đó đã mắc phải những sai lầm cả về phương thức, nội dung và
cách thức tiến hành. Kết cục là, hiệu quả công nghiệp thấp, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
không phát triển, nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân không được đảm bảo, đời
sống nhân dân khó khăn, nền kinh tế thiếu hụt và mất cân đối lớn, hầu như không có tích lũy
và rơi vào tình trạng khủng hoảng... Bằng thực tiễn của mình, chúng ta phải trả giá cho công
nghiệp hóa kiểu cũ. Nhưng ở đây cần chú ý tới một thực tế là, sự sai lầm về công nghiệp
hóa kiểu cũ làm nhiều người thường dè dặt khi nhắc đến công nghiệp hóa, thậm chí không
nói tới nó mà chỉ dùng thuật ngữ "tăng trưởng", "phát triển", "cất cánh"... Thực ra, những
thuật ngữ này chỉ là những khái niệm phản ánh kết quả của quá trình công nghiệp hóa ở các
giai đoạn khác nhau mà thôi, bản thân chúng không phải là phương thức để phát triển kinh
36
tế - xã hội. Từ bỏ, rút kinh nghiệm về công nghiệp hóa kiểu cũ không có nghĩa là phủ định
tính tất yếu của công nghiệp hóa. Hiện nay, tất cả các lý thuyết phát triển đều không thể bỏ
qua những nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa.
Một điều dễ nhận thấy là trong vòng ba thập kỷ qua, nhiều nước thuộc khối ASEAN
đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế thị trường hỗn hợp, trong đó công nghiệp và dịch vụ có vai trò ngày càng tăng. Nền
kinh tế năng động và phát triển với tốc độ cao, được duy trì trong nhiều năm của các nước
khối ASEAN, Đài Loan, Hàn Quốc được coi là hiện tượng "kinh tế thần kỳ" trong nền kinh
tế thế giới. Mặc dù hiện nay nền kinh tế của nhiều nước ASEAN đang gặp phải khó khăn về
khủng hoảng tài chính, tiền tệ năm 1997, nhưng các nước ASEAN vẫn được đánh giá là khu
vực phát triển năng động trên thế giới. Kết quả đó được nhiều nhà kinh tế trên thế giới và
trong khu vực cho rằng: các nước trong khu vực đã thành công ở những mức độ khác nhau
trong quá trình tiến hành CNH, HĐH đất nước.
Các chuyên gia, học giả, các nhà quản lý cho rằng: Công nghiệp là kết tinh của tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cách mạng công nghiệp; là khởi điểm của công nghiệp hóa; công
nghiệp hóa là xu thế chung, quy luật chung của sự phát triển kinh tế thế giới. Hiện đại hóa
nông nghiệp là xu thế tất yếu của quá trình từ một nước nông nghiệp chuyển sang một nước
công nghiệp.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã diễn ra ở nhiều nước trên thế giới (không chỉ
riêng tại các nước ASEAN), nhưng khái niệm này vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Do
sự khác nhau về vị trí địa lý, vị trí kinh tế, điểm xuất phát của nền kinh tế, thể chế chính trị
và vai trò Nhà nước trong việc quản lý kinh tế..., cho nên các nước khác nhau có những
quan điểm khác nhau về quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là điều
không tránh khỏi. Đối với nước ta, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng nhằm mục
đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phát triển kinh tế
đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, cải thiện vị thế và hình
ảnh của đất nước mình trên trường quốc tế.
Nhìn lại con đường các nước sản xuất nông nghiệp trên thế giới đã thực hiện công
nghiệp hóa thì quá trình công nghiệp hóa thực chất là giải quyết vấn đề nông dân; đó là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch
sức lao động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp, quá trình chuyển dịch nhân khẩu
nông thôn vào thành thị, quá trình chuyển biến từ sản xuất nông nghiệp là chính sang sản
xuất công nghiệp, một bộ phận lớn nông dân chuyển sang công nhân ở nông thôn...
37
Trong cuốn: "Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu
vực" do Nhà xuất bản Thống kê phát hành năm 1995, các tác giả định nghĩa: "Công nghiệp
hóa là quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội
của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công
nghệ ngày càng hiện đại" [28, tr. 54].
Định nghĩa này có phạm vi bao quát khá rộng, bao gồm tất cả những kết quả mà
công nghiệp hóa đưa lại, nhưng lại chưa làm nổi bật những nội dung cơ bản của công
nghiệp hóa.
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) của Đảng đã xác định bản chất của chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước là: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại, dùa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao".
Đây là một quan niệm khá toàn diện và đầy đủ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo quan niệm này, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình sử dụng tiến bộ của
khoa học và kỹ thuật - công nghệ để chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện và triệt để việc
sử dụng lao động có chất lượng nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nã phản ánh được
phạm vi rộng lớn của quá trình công nghiệp hóa, chỉ ra được cốt lõi là cải biến lao động thủ
công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động xã
hội cao, gắn chặt công nghiệp hóa với hiện đại hóa, xác định được vai trò của công nghiệp,
khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ phát triển nhanh và mạnh mẽ, xu
hướng quốc tế hóa kinh tế và nền kinh tế trí tuệ hiện nay thì tất yếu công nghiệp hóa phải đi
đôi với hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ
cấu kinh tế đạt được trình độ tiên tiến của thời đại. Đây là khía cạnh kinh tế- kỹ thuật của hiện
đại hóa. Ngoài ra, hiện đại hóa còn bao hàm cả khía cạnh kinh tế - xã hội, là quá trình cải biến
một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn thể hiện không
38
chỉ ở nền kinh tế phát triển với nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung tính theo đầu người, mà còn
ở đời sống chính trị, văn hóa và tinh thần của xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang đưa tới sự thay đổi triệt để về
chất trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất; không thể công nghiệp hóa xong xuôi nếu chỉ
dùa vào công nghệ lạc hậu mà phải sử dụng ngay tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản
xuất. Với ý nghĩa Êy, công nghiệp hóa trong điều kiện hiện nay phải bao hàm những nội
dung của hiện đại hóa, công nghiệp hóa đi liền với hiện đại hóa. Nếu không kịp thời áp
dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại để mau chóng hiện đại hóa nền kinh tế thì
nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ tăng lên, nhưng nếu dồn tất cả mọi đầu tư cho việc trang bị kỹ
thuật và công nghệ hiện đại thì sẽ có nguy cơ không phù hợp với điều kiện hiện có, gây lãng
phí nhiều tiềm năng và nảy sinh các vấn đề xã hội phức tạp. Vì vậy ở nước ta cần áp dụng
đồng thời nhiều trình độ kỹ thuật và công nghệ ở những thời điểm khác nhau, vừa hiện đại
hóa nền kinh tế vừa phát huy được các nguồn lực và lợi thế của đất nước. Tuy nhiên, đối với
các ngành mòi nhọn, cần áp dụng ngay trình độ hiện đại để tạo ra bước nhảy vọt trong phát
triển lực lượng sản xuất và để chuẩn bị cho những bước phát triển tiếp theo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay được tiến hành trong cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo, nó là sự nghiệp của
toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và
đa dạng hóa, đan xen các loại hình sở hữu, nó được gắn với nền kinh tế mở cả bên trong và
bên ngoài; tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hót vốn, công nghệ và trình độ
quản lý tiên tiến từ bên ngoài, thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu...
Công nghiệp hóa, hiện đại còn có nội dung chính trị - xã hội và những khía cạnh
văn hóa của nó. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thuần túy là một giải pháp kinh tế - kỹ
thuật - công nghệ. Về thực chất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mét chiến lược phát triển toàn
diện kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa. Đó là quy luật và là chiến lược phát triển xã hội ta
hiện nay.
Con đường công nghiệp hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các
nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế
của đất nước, gắn CNH với HĐH trong từng bước, tiếp cận với kinh tế tri thức. Tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông
qua phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ. Phát triển một số ngành công
nghiệp then chốt, đồng thời coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
39
CNH, HĐH đất nước nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trước hết là độc
lập, tự chủ về đường lối chính trị, chính sách, thể chế, mô hình phát triển kinh tế. Đồng thời
có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy khá từ nội bộ nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có sức cạnh tranh, cã năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, giữ vững ổn định
kinh tế - tài chính vĩ mô, có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản cho
phát triển và độc lập, tự chủ về kinh tế như an ninh lương thực, an toàn năng lực, dự trữ
ngoại tệ, an toàn tài chính, an toàn môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại
và một số ngành công nghiệp then chốt... Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ gắn liền với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong chiến lược CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, vấn đÒ công nghiệp hóa nông
nghiệp và nông thôn được đặc biệt coi trọng: "Từ nay tới cuối thập kỷ phải quan tâm đến
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Phát triển đồng bộ nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản" [14].
Việc tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cao, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho nông dân, tạo tiền đề để giải quyết có hiệu quả và vững chắc những vấn đề chính trị
- xã hội của đất nước; đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta tiến lên văn minh, hiện đại.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định lại quan điểm đó và
chỉ rõ rằng: "Đặc biệt chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn", coi
đó là một nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của
thập kỷ 90 và sau đó.
Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn được coi là một đột phá quan
trọng nhằm khai thác và phát huy tiềm năng to lín của nông nghiệp nhiệt đới nước ta, giải
phóng sức lao động của nông dân, tạo tiền đề cho việc đạt được mục tiêu của CNH, HĐH
đất nước.
Trong nhiều năm tới, CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn vẫn là trọng điểm cần
tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết. Tiếp tục phát triển mạnh và đưa nông - lâm -
ngư nghiệp lên một trình độ mới: áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới giống và
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu trên một đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề
tiêu thụ nông sản hàng hóa, đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa. Đầu tư phát
triển mạng lưới công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Phát triển ngành nghề
đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, các loại
40
dịch vụ, chuyển dịch một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang các khu vực công
nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.
1.2.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Vai trò của phát triển NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta thể hiện
ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn sẽ tận dụng được tối đa lực lượng
lao động dồi dào và ngày một gia tăng (cả về số lượng và chất lượng).
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn phải hướng vào khắc phục được tình
trạng thất nghiệp, thiếu việc làm đang diễn ra bức xúc hiện nay ở nông thôn, nhất là vùng
đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Quyền và nghĩa vụ của người lao động
sẽ được thực hiện nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương về lao
động. Người lao động sẽ có điều kiện, cơ hội để phát huy tính năng động, sáng tạo, cống
hiến được nhiều hơn cho xã hội.
Thực tế cho thÊy, ở cùng một trình độ phát triển về khoa học, công nghệ, khi tăng
thêm số lượng người trực tiếp vào sản xuất sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm nhiều hơn, khối
lượng giá trị mới lớn hơn, điều đó ảnh hưởng trở lại với mức tăng năng suất lao động xã hội.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, sử dụng và phát triển NNL hợp lý chắc chắn sẽ
khai thác có hiệu quả những khả năng Êy. Đặc biệt đối với một số ngành ở nông thôn như
khai khoáng (vì đối tượng lao động ở đây không phải là kết quả của lao động quá khứ mà là
những tặng vật của thiên nhiên cho không), chỉ cần tăng thêm lao động sử dụng công cụ, thiết
bị đã có thì cũng đã làm tăng thêm khối lượng và giá trị sản phẩm lên rất nhiều. Điều này
C.Mác đã từng chỉ rõ: ...Với những điều kiện khác không thay đổi, thì khối lượng và giá trị
của sản phẩm tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng [40].
Đối với sản xuất nông nghiệp cũng vậy, nếu số người lao động như cũ nhưng làm
đủ số giê qui định, với cường độ qui định, thì sẽ tăng thêm khối lượng sản phẩm, tăng thêm
hiệu suất canh tác mà không đòi hỏi tăng thêm nhiều công cụ hoặc tư liệu sản xuất khác.
Thực tiễn trong những năm qua đã chứng minh rằng, bất cứ ở đâu, khi nào, nếu các
địa phương có biện pháp tích cực để tận dụng nguồn lao động dư thừa ở nông thôn vào quá
trình sản xuất (như mở mang ngành nghề dịch vụ, đầu tư cho thâm canh tăng năng suất,
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh chăn nuôi, bố trí, sắp xếp con người hợp lý đúng
người, đúng việc...) thì ở đó, GDP (tổng sản phẩm trong nước) sẽ tăng lên, nền kinh tế sẽ
phát triển và địa phương đó, đời sống người lao động được nâng cao lên một bước, bộ mặt
41
nông thôn sẽ không ngừng đổi mới.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực nông thôn sẽ khai thác được tối đa những nguồn
lực quan trọng còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông thôn
Ở nước ta hiện nay, những tiềm năng về nguồn lực ở nông thôn còn rất lớn cả về
nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, đất đai, rừng, biển, cảnh quan địa lý, vốn nhàn rỗi, các
ngành nghề truyền thống... Các tiềm năng Êy vẫn mãi mãi là tiềm năng, nếu con người
không hướng vào khai thác và sử dụng. Vì vậy, sử dụng, phát triển NNL là nhân tố quyết
định để biến những tiềm năng Êy thành hiện thực.
Bằng các chính sách khuyến khích người lao động, nhiều địa phương đã khai thác
được các lợi thế của mình, như tập trung đầu tư, khai thác có hiệu quả toàn bộ đất đai bằng
thâm canh, tăng vụ, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, đầu tư khai hoang, phục hóa,
mở rộng diện tích tại chỗ (các gò bãi, thùng đào, thùng đấu, các ao hồ, các bãi bồi ven sông
biển...), đẩy mạnh phát triển kinh tế vườn, chăn nuôi; phát triển các ngành nghề, đặc biệt là
các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề chế biến nông, lâm, thủy sản, các ngành sản
xuất vật liệu xây dựng và các ngành nghề và dịch vụ sản xuất và đời sống... Khi các lợi thế
được khai thác và sử dụng có hiệu quả thì năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi
sẽ tăng lên, thu nhập và lợi ích của người lao động sẽ được đảm bảo ngày một cao hơn.
Sử dụng, phát triển NNL sẽ đảm bảo cho mọi người có việc làm, thu nhập và đời
sống ổn định hơn, cũng từ đó mọi phong trào khác có cơ sở để phát triển.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy phát triển sản xuất nông
nghiệp và thực hiện được vấn đề cơ bản của nông thôn và nông nghiệp hiện nay là chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
CNH, HĐH tạo ra những điều kiện cần thiết thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn và ngược lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vừa là nội
dung, vừa là mục tiêu của CNH, HĐH, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn nước ta.
Cơ cấu kinh tế nông thôn là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong khu vực
nông thôn. Nó có những mối quan hệ hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt
lượng và liên quan chặt chẽ về chất. Xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn chính là giải quyết
mối tương tác giữa những yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên
với con người trong khu vực nông thôn. Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế nông thôn
phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, của quá trình chuyên môn hóa
và hợp tác hóa, của sự trao đổi lao động lẫn nhau dưới hình thức này hay hình thức khác. Cơ
42
cấu kinh tế nông thôn càng phức tạp cả về chiều rộng và chiều sâu, càng phản ánh trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong khu vực nông thôn. Cơ
cấu kinh tế nông thôn được biểu hiện qua ba mặt chủ yếu: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu lãnh
thổ và cơ cấu thành phần.
Khi nguồn nhân lực nông thôn được khai thác và phát huy tốt thì năng suất lao động
xã hội và trước hết là năng suất lao động trong nông nghiệp sẽ tăng lên. Điều đó dẫn đến
việc lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư tăng lên. Đó là nguồn gốc duy nhất của tích
lũy và cũng là điều kiện để một bộ phận lao động trong nông nghiệp chuyển sang các ngành
nghề khác mà không làm ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm trong nông nghiệp. Điều này
Mác đã khẳng định: Cũng như lao động cá biệt càng có thể cung cấp được nhiều lao động
thặng dư bao nhiều thì thời gian lao động tất yếu của người càng Ýt đi bấy nhiêu, đối với bộ
phận dân cư cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cũng vậy. Bộ phận này càng ít đi bao
nhiêu thì bộ phận dôi ra để dùng cho việc khác càng nhiều bấy nhiêu [38].
Trong điều kiện Êy, một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra sẽ tập trung phát triển
mạnh nông nghiệp sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển các
loại hình công nghiệp và dịch vụ, xây dựng ở nông thôn; áp dụng các thành tựu mới của
khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất... Một bộ phận khác chuyển sang làm các ngành
nghề, dịch vụ như tiểu thủ công nghiệp truyền thống, công nghiệp chế biến nông lâm thủy
sản, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật, thương nghiệp...
Qua đó giải quyết tốt mối quan hệ công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn theo
hướng CNH, HĐH làm chuyển biến căn bản, vững chắc đời sống kinh tế - xã hội nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm
vụ trọng yếu hiện nay. Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã đề
ra chủ trương CNH nông nghiệp và kinh tế nông thôn là "phát triển thủy lợi, đáp ứng cơ bản
về nhu cầu tưới tiêu"; "đưa các công nghệ tiến bộ, đặc biệt là công nghệ sinh học vào sản
xuất nông nghiệp, trước hết là khâu giống. Thực hiện cơ giới hóa từng phần công việc. Mở
rộng điện khí hóa ở các vùng có lưới điện và xây dựng các trạm thủy điện nhỏ, điện chạy
dầu ở nơi chưa có lưới điện.
Phát triển chế biến nông, lâm, thủy sản và các công nghiệp khác, hình thành các
cụm công nghiệp, dịch vụ ở các thị xã, thị trấn, thị tứ. Phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống ở từng vùng, mở thêm những ngành nghề mới, áp dụng công nghệ mới.
Coi trọng việc giải quyết nước sạch, phát triển giao thông nông thôn, lưới điện,
trường học, trạm y tế, bưu điện, truyền thanh truyền hình, nhà văn hóa... các loại hình dịch
43
vụ sản xuất và đời sống, dần dần tạo bộ mặt nông thôn mới khang trang, sạch đẹp, văn
minh" [2].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH nông nghiệp và nông thôn là một nhiệm
vụ trọng yếu của toàn dân, trước hết là của những người lao động ở nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế để trong quá trình thực hiện CNH, nông nghiệp và nông
thôn là một quá trình diễn ra phức tạp nhằm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế nông thôn từ độc
canh cây lúa, từ đơn ngành sang đa ngành, từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế sang
phát triển công nghiệp và dịch vụ chiếm ưu thế. Đó là quá trình biến đổi từ kiểu kinh tế
nông nghiệp và thủ công nghiệp sang kiểu kinh tế công nghiệp và dịch vụ, làm cho tỷ trọng
GDP trong nông nghiệp ngày càng giảm đi và tăng nhanh tỷ trọng GDP trong công nghiệp
và dịch vụ trong tổng số GDP.
Việc đạt mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ngoài sự giúp đỡ của Nhà nước, các ngành
thì con người giữ vai trò quan trọng.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực nông thôn sẽ thúc đẩy quá trình phân công và
hợp tác lao động ngày càng tốt hơn với quy mô lớn hơn.
Chính sự phân công và hợp tác lao động sẽ mang lại năng suất lao động cao hơn và
là một đặc trưng ưu việt của sản xuất lớn so với sản xuất nhỏ. Thực tế đã chứng minh rằng,
ở đâu biết tổ chức tốt việc phân công và hiệp tác lao động thì ở đó tạo ra một năng lực sản
xuất mới với năng suÊt lao động cao. Do vậy, tổ chức tốt sự phân công và hiệp tác lao động
hiện nay ở nông thôn là điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó không những thúc đẩy nhanh
quá trình chuyên môn hóa, hiệp tác hóa lao động ở trình độ cao mà còn tạo điều kiện nâng
cao trình độ mọi mặt của người lao động nhờ sự tăng lên của năng suất lao động. Đúng như
V.I Lê nin đã chỉ rõ: "Nhiệm vụ cơ bản nhất, chủ yếu nhất của chuyên chính vô sản lúc này
là việc giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức xã hội về lao động cao hơn so
với chủ nghĩa tư bản" [41, tr. 124].
Thứ năm, sử dụng hợp lý và phát triển nguồn nhân lực nông thôn sẽ giải quyết được
những vấn đề bức xúc của chính sách xã hội ở nông thôn hiện nay.
Việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và công bằng xã hội... đang là
những vấn đề bức xúc có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định chính trị và an ninh nông thôn. Thực tế
cho thấy tình trạng dôi thừa lao động, thất nghiệp và bán thất nghiệp là một trong những nguyên
nhân gây nên sự bất ổn xã hội.
Ở nông thôn, do năng suất lao động thấp, diện tích đất canh tác ngày càng giảm;
44
điều kiện cấu trúc hạ tầng thấp, nên đời sống dân cư nông thôn nói chung và nông dân nói
riêng còn thấp xa so với khu vực thành thị. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn còn
tiềm tàng ở nông thôn, đặc biệt là vùng chậm phát triển, dẫn đến tình trạng nghèo khổ vẫn
khá phổ biến ở khu vực nông thôn. Do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, một phần
dân cư và lao động đã di chuyển từ nông thôn ra các thành phố để làm thuê, gây sức Ðp rất
lớn đối với khu vực thành thị và nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội Mặt khác, trong
quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, nông thôn hiện nay đang diễn ra tình trạng phổ
biến là bình quân ruộng đất thấp, một bộ phận không nhỏ nông dân không có ruộng đất hoặc
đi làm thuê trên mảnh ruộng trước đây thuộc quyền sở hữu của mình. Trong quá trình tích tụ
đất đai hiện nay xuất hiện nhiều hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất, nhất là ở
đồng bằng sông Cửu Long. Sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn ngày càng diễn ra gay gắt
và bức xúc. Người nông dân Việt Nam đang đứng trước nghịch lý là cần cù, chịu khó làm việc
nhưng vẫn trong tình trạng đói nghèo và lạc hậu. Trình độ dân trí ở nông thôn hiện nay đang
còn quá thấp và bất cập lớn khi tiến hành CNH nông thôn...
Do vậy, việc phát triển NNL nông thôn, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn
không chỉ là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế mà còn là giải pháp kinh tế -
xã hội đem lại sự thay đổi cho số đông dân cư để thu hót họ vào sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ nhằm nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng
NNL.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực nông thôn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn nhân lực nông thôn
nước ta.
Một là, tình hình phát triển dân số, phân bố dân cư và mật độ dân cư.
Sự tăng trưởng dân số: ở tầm quốc gia, sự tăng trưởng dân số chỉ chịu tác động của
hai thành phần chính là chết và sinh (vì di dân quốc tế là không đáng kể). ở cấp vùng, tỉnh...
ngoài các yếu tố sinh, chết còn chịu tác động của tình trạng di dân.
Sù gia tăng dân số quá nhanh làm tăng nhanh số lượng NNL và hạn chế nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
Ở quốc gia nào cũng vậy, sự phân bố dân cư và mật độ dân số của từng vùng, từng
địa phương có ảnh hưởng rất lớn tới số lượng cũng như chất lượng NNL. Ở những nơi mật
độ dân cư quá thấp sẽ hạn chế sự phân công lao động, giảm khả năng chuyên môn hóa và
hợp tác hóa trong tổ chức sản xuất xã hội. Thiếu lao động, mọi quá trình phát triển xã hội sẽ
45
mất đi cả động lực và mục đích của nã. Ở những nơi mật độ dân số quá cao, số lượng dân số
sẽ gia tăng rất lớn, điều đó dẫn đến sự mất cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất, gây ra
những trở ngại cho việc sử dông hợp lý và phát triển các nguồn lực của đất nước. Vì vậy,
mỗi quốc gia trong quá trình phát triển cần phải có sự điều chỉnh, phân bố lại dân số, mật độ
dân số nhằm tạo ra sự phù hợp giữa số lượng lao động với tư liệu sản xuất ở từng vùng
trong từng thời kỳ nhất định.
Sù biến đổi cơ cấu tuổi của dân số sẽ có tác động đến số lượng NNL. Do vậy, điều tiết
quá trình dân số hợp lý sẽ đảm bảo phát triển NNL hợp lý.
Trong phạm vi mét gia đình, số người thích hợp nhất là khi có đủ số con mà họ cho
là có lợi đối với lợi Ých tổng thể của họ khi họ đánh giá được chi phí và lợi Ých do con cái
mang lại một cách thực tế.
Trên phạm vi cả nước, thì thuyết dân số thích hợp cho rằng: Đối với một nước, một
thời điểm nào đó có số người lao động ổn định thì dân chúng có thu nhập theo đầu người
cao nhất. Điều đó có nghĩa là: dân số dưới mốc thích hợp thì thu nhập theo đầu người sẽ
thấp hơn, vì không đủ lao động để sử dụng các nguồn lực phi lao động hiện có một cách
hiệu quả; mặt khác, dân số trên mốc thích hợp thì thu nhập theo đầu người cũng sẽ thấp hơn,
vì có quá nhiều nhân công và tiền kiếm được sẽ giảm dần đi.
Có qui mô dân số thích hợp có nghĩa là phải có một số lượng dân phù hợp với
điều kiện thiên nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu dân số thích hợp nghĩa là phải có một tỷ lệ thích hợp về độ tuổi, đảm bảo
một tỷ lệ cân đối giữa số người trong tuổi lao động, số người quá tuổi và chưa đến tuổi lao
động. Theo các nhà dân số thế giới thì một cơ cấu đảm bảo cho dân số ổn định là: trẻ em
dưới tuổi lao động 26-28%; tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là 60-64%; người già trên tuổi
lao động 10-12%.
Phân bố dân cư hợp lý trên các vùng lãnh thổ nhằm đảm bảo đủ nhân lực khai thác
tài nguyên và phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả. Có thể điều tiết phân bố dân cư thông
qua chính sách dân số và các chính sách kinh tế - xã hội.
Trong những tài liệu phân tích về sự thay đổi dân số và phát triển gần đây, Ngân
hàng thế giới (WB) đã nhận xét:
Sự gia tăng dân số nhanh đã hạn chế việc tích lũy tiết kiệm cá nhân, đòi hỏi phải
mở rộng vốn làm ảnh hưởng tới năng suất lao động và thu nhập theo đầu người.
Sự tăng dân sè sẽ gây ảnh hưởng có hại đến môi trường.
46
Sự tăng dân số còn đẩy nhanh quá trình làm cạn kiện các nguồn tài nguyên không
thể phục hồi lại được.
Sự tăng dân số làm ảnh hưởng đến hiện tượng đô thị hóa, gây ra rất nhiều chi phí
mà xã hội phải gánh vác.
Do vậy, việc điều tiết quá trình dân số thông qua kế hoạch hóa gia đình là một tất
yếu khách quan cần thiết cho sự phát triển NNL nói riêng và sự phát triển chung của mỗi
quốc gia.
Hai là, quá trình du canh, du cư, di dân nông thôn.
Quá trình này dẫn đến sự biến động cơ học về lao động giữa các vùng lãnh thổ, giữa
thành thị và nông thôn. Sự biến động này diễn ra chủ yếu do sự tác động của các yếu tố kinh
tế - xã hội, nó chịu sự chi phối của các qui luật khách quan; sức hót lao động từ nơi có mức
sống thấp về nơi có mức sống cao; từ nơi mật độ dân số cao đến nơi mật độ dân số thấp.
Qua đó cũng từng bước góp phần vào sự cân đối của số lượng NNL với tư liệu sản xuất của
từng vùng lãnh thổ.
Ba là, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của từng vùng lãnh thổ.
Điều này đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến số lượng lực lượng lao động. Thực tế
cho thấy: ở đâu có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi, có đời sống vật chất, tinh thần
khá giả, thì ở đó các ngành sản xuất phát triển, dân số và nguồn lao động tập trung nhiều hơn.
Vì vậy, việc tìm ra và khai thác lợi thế, hỗ trợ các vùng phát triển và đầu tư cho xây dùng cơ sở
hạ tầng nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa là vấn đề cấp bách hiện nay.
Bốn là, qui hoạch xây dựng khu công nghiệp, đô thị, thị trấn, thị tứ...
Đây cũng là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng NNL giữa các vùng. Một
xu hướng tất yếu mà các nước công nghiệp hóa đã trải qua nhằm thu hót lao động từ nông
thôn chuyển sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và xây dựng thông qua việc hình thành
những khu công nghiệp, đô thị, thị trấn, thị tứ. Ở nước ta, nhân tố này đang có tiềm năng rất
lớn, đòi hỏi phải giải quyết kịp thời theo hướng văn minh, hiện đại.
1.2.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực nông thôn
Một là, sức khỏe và dinh dưỡng:
Chất lượng NNL phụ thuộc trước hết vào chất lượng cuộc sống (sù thỏa mãn nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của con người). Đây là yếu tè quan trọng tác động đến chất
lượng dân số và NNL. Nếu chất lượng cuộc sống được đảm bảo thì yếu tố sức khỏe (thể lực,
tầm vóc, tuổi thọ trung bình... của người lao động) và yếu tố văn hóa chuyên môn có điều
kiện phát triển.
47
Mối quan hệ giữa sức khỏe và phát triển là hết sức biện chứng. Bản thân sự phát
triển kinh tế - xã hội có tác động cải thiện điều kiện sức khỏe và, ngược lại, sức khỏe và dinh
dưỡng được cải thiện, nâng cao chất lượng NNL nhằm phát triển kinh tế. Các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khỏe có ý nghĩa vô cùng to lớn đến sức khỏe, việc nuôi dưỡng và chăm sóc tốt
cho trẻ em sẽ là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai. Vì vậy vấn đề đảm bảo
dinh dưỡng, giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng là yêu cầu khẩn cấp nhằm nâng cao thể lực
trẻ em và người lớn hiện nay ở nước ta, nhất là ở nông thôn.
Hai là, giảm sinh đẻ
Là một yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng NNL và dân số nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế.
-Giảm sinh đẻ làm giảm quy mô dân số, giảm khối lượng nhu cầu thiết yếu của mỗi
gia đình và xã hội phải đảm bảo.
-Giảm sinh đẻ tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, tạo
điều kiện cho con người được học tập nhiều hơn.
-Giảm sinh đẻ tạo điều kiện cho phụ nữ nâng cao thể lực, có cơ hội tiếp cận đào tạo
và tham gia hoạt động kinh tế - xã hội tốt hơn.
Ba là, giáo dục, đào tạo và dạy nghề
Đây là nhân tố quan trọng nhất của sự phát triển NNL hiện nay, đặc biệt đối với
nguồn nhân lực nông thôn ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế diễn ra hết sức gay gắt. Để chiến thắng
trong cạnh tranh, các doanh nghiệp, cá nhân phải thường xuyên đổi mới công nghệ sản xuất,
đổi mới thiết bị, áp dụng các thành tựu KH-CN, đổi mới thiết kế sản phẩm... Điều này đặt ra
những yêu cầu mới với việc giáo dục, đào tạo và đào tạo nghề cho người lao động. Nó làm
cho tính chất và nội dung lao động ngày càng mở rộng, nhiều nghề cũ mất đi, nghề mới ra
đời. Do đó, đào tạo và tập huấn tay nghề cho người lao động không chỉ là vấn đề quan tâm
của nhà nước, tập thể, mà còn của từng doanh nghiệp và bản thân người lao động. Đào tạo
lao động không chỉ là đào tạo mới, mà còn bao gồm cả đào tạo lại, bổ sung kiến thức và
nâng cao tay nghề, không chỉ nhằm vào đội ngũ trí thức có trình độ cao, mà phải đào tạo cả
những người lao động bình thường nhất.
Nhật Bản là nước tiên phong trong xu hướng phát triển giáo dục, đào tạo đi trước
phát triển kinh tế và đã thành công trong xu hướng này. Hàn Quốc là một điển hình cho phát
triển theo phương châm: Có một nền giáo dục tốt, một tinh thần tự trọng cao.
Bốn là, văn hóa và truyền thống dân tộc, các mối quan hệ xã hội và gia đình.
48
Nhân tố này có tác động rất lớn đến hành vi ứng xử của con người trong công việc
và cuộc sống. Đây là những kênh tác động hình thành yếu tố tinh thần của người lao động.
Chất lượng văn hóa và xã hội lành mạnh sẽ góp phần quan trọng tạo nên những con người
có tâm hồn trong sáng, nhân cách và tinh thần lành mạnh trong phát triển. Ngược lại, đó là
những yếu tố tiêu cực, tàn phá con người và sự phát triển.
Năm là, việc làm và phân công lao động.
Sù phát triển và biến đổi cơ cấu kinh tế dẫn đến sự phân bổ lao động trong các lĩnh
vực của nền kinh tế cũng là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng NNL. Những việc
làm đòi hỏi kỹ thuật cao và mang lại nhiều lợi ích cho người lao động sẽ có tác động tích
cực nâng cao chất lượng NNL và ngược lại.
Với mức GDP/người cao, cơ cấu kinh tế càng phát triển, chất lượng NNL cao thì số
người làm việc trong nông nghiệp càng giảm, số người làm việc trong công nghiệp và dịch
vụ càng tăng.
Sáu là, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông, điện, nước, thông
tin liên lạc...
Đây không chỉ là yếu tố quyết định của phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, của
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà còn là nhân tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng
NNL nông thôn. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là cơ sở để phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn và nâng cao chất lượng NNL nông thôn.
Ngoài ra, những chính sách quản lý xã hội, quản lý kinh tế, chính sách phân phối,
đặc biệt là chính sách kích thích lợi ích kinh tế và trả công lao động có ảnh hưởng rất lớn
làm kích thích, thúc đẩy hoặc triệt tiêu động lực nâng cao chất lượng NNL nông thôn. Chế
độ phân phối bình quân sẽ hạn chế tính năng động sáng tạo của người lao động.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Con
người với tư cách NNL, là nguồn lực to lớn quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN.
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại một quan niệm khoa
học về bản chất con người và vai trò của con người trong sự phát triển lịch sử. Trên quan
điểm và phương pháp mác - xít, chúng ta nhấn mạnh rằng, con người với tư cách là chủ thể
của lịch sử, là mục tiêu và động lực của quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Thực chất
của luận điểm này là muốn nhấn mạnh đến tiềm năng con người và nhân tè con người trong
sự phát triển.
49
Con người với tư cách là nguồn lực của sự phát triển chính là nguồn lực con người.
NNL được đề cập đến như một nguồn lực tổng hợp với các yếu tố hợp thành: sức lực và trí
tuệ, số lượng cũng như đặc trưng về chất lượng lao động (như trình độ văn hóa, kỹ thuật,
kinh nghiệm, nghề nghiệp, thái độ, phong cách làm việc...). Trong số các nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội, con người được xem là một nguồn lực chủ yếu và là một yếu tố cơ bản
của phát triển sản xuất.
Phát triển NNL là khái niệm dựa trên quan niệm mới về phát triển và về vị trí của
con người trong phát triển. Để phát triển NNL, cần đặc biệt chú trọng: giáo dục và đào tạo,
sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con người; trong đó, giáo
dục, đào tạo là cơ sở của tất cả các yếu tố khác và là cơ sở cho sự phát triển bền vững.
Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta thì CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là cơ
sở, tiền đề, một đột phá hết sức quan trọng nhằm khai thác những tiềm năng to lớn của nông
nghiệp nhiệt đới nước ta, giải phóng sức lao động của nông dân, phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn. NNL nông thôn có vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở
nông thôn, là nơi cung cấp nhân lực cho công nghiệp, đô thị, xuất khẩu lao động. Đây là
nguồn tiềm năng con người to lớn, cần phải được sử dụng, phát triển và phát huy như một
nguồn lực cơ bản trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
50
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN
NƯỚC TA HIỆN NAY - ĐẶC ĐIỂM VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
2.1. THỰC TRẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG
THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1.1. Về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực nông thôn
Tính đến thời điểm điều tra 1-7-1998, dân số nước ta có 77.046.343 người, trong
đó, ở khu vực nông thôn có 60.801.172 người, chiếm 78,92% dân số cả nước. Cũng tại thời
điểm đó, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta có 29,758 triệu người, chiếm 79,55%
trong tổng lực lượng lao động cả nước (khu vực thành thị là7.649 triệu người chiếm
20,43%) [67].
Hàng năm đội ngò lao động ở nước ta được bổ sung từ 1,5 đến 1,7 triệu thanh niên
bước vào độ tuổi lao động, trong khi đó chỉ có 35 vạn người ra khỏi độ tuổi lao động làm
cho sè lao động tăng mỗi năm từ 1,2 đến 1,4 triệu người. Điều đó cho thấy nguồn cung cấp
lao động ở nước ta rất dồi dào. Đây là một lợi thế về tiềm năng để phát triển song cũng là
một sức Ðp rất lớn với xã hội về giải quyết công ăn việc làm, nhất là ở khu vực nông thôn.
So sánh lực lượng lao động ở thành thị và nông thôn từ năm 1996 đến năm 1998 thì
tỷ lệ lao động ở thành thị có xu hướng tăng dần với tỷ lệ tăng hàng năm là 0,7%. Tỷ lệ lao
động ở nông thôn có xu hướng giảm dần với tỷ lệ giảm hàng năm là 0,7%. Năm 1996, lực
lượng lao động ở nông thôn có 29.028 triệu người, chiếm 80,94%; năm 1997 có 28.964 triệu
người chiếm 79,8%, năm 1998 có 29.758 triệu, chiếm 79,55%. Lực lượng lao động ở nước
ta chủ yếu vẫn sống ở nông thôn, nguồn lao động ở nông thôn hiện nay khá đông đảo. Tốc
độ gia tăng dân số ở nông thôn nói chung vẫn còn lớn.
So sánh nhân khẩu nông nghiệp với dân số nông thôn cũng có sự biến động lớn.
Năm 1976, tỷ lệ nhân khẩu nông nghiệp so với dân số nông thôn là 86,4%, năm 1990 là
87,5% và năm 1993 là 88%. Điều đó chứng tỏ những người sinh ra và lớn lên ở nông thôn
chưa được thu hút vào các ngành nghề khác, vẫn tập trung chủ yếu vào sản xuất thuần nông.
Số quân nhân xuất ngò, số giảm biên chế trong khu vực kinh tế quốc doanh, cán bộ nghỉ
hưu, học sinh chuyên nghiệp ra trường chưa có chỗ làm việc trở về nông thôn không ít [67].
Sự phân bố dân cư nước ta diễn ra không đồng đều, có rất nhiều bất hợp lý đã tác
động trực tiếp đến sự phân bố NNL. Theo cơ cấu vùng có tới 80% dân số sống ở đồng bằng,
51
nơi chỉ có 30% diện tích đất đai. Ngược lại vùng trung du, miền núi, nơi có hơn 70% diện
tích đất đai chỉ có 20% dân cư sinh sống. Mật độ dân số vùng đồng bằng là 1.105 người
/km2 nhưng ở Tây Nguyên chỉ có 52 người/km2. Sự phân bố không đồng đều này đã làm nảy
sinh mâu thuẫn giữa lao động và khai thác tiềm năng đất đai. Trong khi NNL tăng nhanh,
sức Ðp việc làm rất lớn thì lại có 3 triệu ha đất nông nghiệp, 10 triệu ha đất trống đồi núi
trọc chưa được khai thác và sử dụng.
Xét theo cơ cấu diện tích đất nông thôn - thành thị, tỷ lệ đó hiện nay là 79,8/20,2.
Diện tích đất nông nghiệp chỉ có khoảng 7 triệu ha, mà có tới trên 24 triệu lao động sống
chủ yếu nhờ vào nông nghiệp. Ngoài ra còn phải giải quyết việc làm cho khoảng trên 70 vạn
lao động tăng thêm hàng năm trong khu vực này. Theo tính toán, nhu cầu tối đa về lao động
nông nghiệp trong điều kiện kỹ thuật công nghệ thô sơ, hạn chế như hiện nay chỉ cần 18-19
triệu lao động. Vì vậy, sức ép về việc làm ở khu vực nông thôn là rất lớn và vô cùng bức
xúc trong thời gian tới
Về cơ cấu tuổi, dân số trẻ làm cho nguồn lao động nước ta có cơ cấu trẻ. Có tới
53,93% tổng LLLĐ ở độ tuổi 15-34, trong đó nhóm 25-34 chiếm tỷ lệ cao nhất 29,08%
(nông thôn: 29,98%; thành thị: 31,16%).
Ở nông thôn, thanh niên có 15,5 triệu người. Sự gia tăng của số lượng thanh niên
trong NNL là một ưu thế cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đây là động lực thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH đất nước, là thế mạnh của NNL nông thôn; bởi nhóm người này có ưu
thế về thể lực, trí lực, có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức khoa học-kỹ thuật, có tính
năng động cao.
Cơ cấu lao động nông thôn còn nhiều bất hợp lý, 90% vẫn là lao động nông nghiệp
thuần nông, chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi.
2.1.2. Về đào tạo, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực nông thôn
Trong số 88% lao động cả nước chưa qua đào tạo thì chủ yếu tập trung vào nông
thôn, trong đó thanh niên chiếm tới 90%. Trình độ học vấn của thanh niên nông thôn phổ
biến là tiểu học và phổ thông cơ sở. Qua khảo sát thanh niên Lâm Đồng cho thấy: Số thanh
niên số không biết chữ 2,7%, sè thanh niên có trình độ tiểu học là 23,9%; số có trình trung
học cơ sở và phổ thông trung học là 73,3%. Không có trường hợp nào có trình độ đại học,
cao đẳng. Mặt khác, thanh niên nông thôn hiện nay đang thiếu kiến thức kinh doanh và quản
lý kinh tế, thiếu kiến thức khoa học- kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp; đời sống văn hóa,
tinh thần rất hạn chế. Đây là một trở ngại lớn của nguồn lực thanh niên nông thôn hiện nay -
nhất là về trí tuệ, trình độ chuyên môn kỹ thuật và đào tạo nghề.
52
Cơ cấu chuyên ngành được đào tạo ở khu vực nông thôn nước ta đang mất cân đối
nghiêm trọng. Cứ 1.000 lao động thì có 57 người được đào tạo các chuyên ngành khác nhau,
trong đó chỉ có 4,4 người được đào tạo về kỹ thuật nông- lâm- ngư nghiệp. Trong 78,08%
lao động nông thôn hoạt động ở ngành nông - lâm - ngư nghiệp, chỉ có 5,06% tổng số người
có trình độ đại học và cao đẳng trở lên được đào tạo chuyên ngành này. Chất lượng thấp
kém của NNL nông thôn nước ta là trở ngại lớn cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lực lượng lao động nông thôn hết sức hạn chế và
mất cân đối lớn so với khu vực thành thị. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật ở khu vực nông thôn thấp hơn 3,3 lần so với thành thị. Ở trình độ càng cao, sự chênh
lệch càng lớn; công nhân kỹ thuật và sơ cấp chênh lệch 5 lần; trung học chuyên nghiệp
chênh lệch 1,4 lần; trình độ đại học, cao đẳng chênh lệch 9,35 lần. Mức chênh lệch về trình
độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ nông thôn có xu hướng ngày càng tăng. Năm 1998, sè
lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn là 2.397,7 ngàn người, chiếm 8,06% so với
tổng lực lượng lao động khu vực nông thôn. Như vậy, lao động ở nông thôn nước ta vẫn chủ
yếu là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, phần lớn chưa được đào
tạo, sản xuất dùa vào kinh nghiệm là chính. Chỉ có 2,25% được đào tạo ở các trường kỹ
thuật; 25% đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp; 0,82% đào tạo ở các trường đại
học, cao đẳng. Số lao động này chủ yếu đảm nhiệm công việc quản lý, lãnh đạo, nên rất
thiếu lao động kỹ thuật [1] (Phụ lục 1: bảng 2 và 3).
Phân bố đội ngò nhân lực được đào tạo ở nước ta cũng còn nhiều bất cập và mất cân
đối. Có tới 94,4% số cán bộ khoa học - công nghệ làm việc tại các cơ quan trung ương, chỉ
có 5,4% làm việc tại cơ quan cấp tỉnh, thành phố ở cấp huyện chỉ có 0,2%. Trong lĩnh vực
nông - lâm - ngư nghiệp, theo số liệu điều tra 1992, có tới 89,3% số cán bộ có trình độ đại
học, cao đẳng trở lên làm việc ở các cơ quan trung ương; 8,9% làm việc ở các cơ quan cÊp
tỉnh, 1,8% làm việc ở các cơ quan cấp huyện; cấp xã hầu như không có ai. Đây là một vấn
đề bất hợp lý lớn trước yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Xét theo vùng lãnh thổ, sự phân bố đội ngò cán bộ KH-CN cũng mất cân đối
nghiêm trọng (Phụ lục 1: bảng 4). Các thành phố lớn do có nhiều viện nghiên cứu, nhiều xí
nghiệp liên doanh với nước ngoài nên thu hót số lượng lớn cán bộ KH-CN có trình độ cao.
Ví dụ, Hà Nội là nơi tập trung 35/102 trường đại học, cao đẳng và 221/282 Viện
hoặc Trung tâm nghiên cứu với 60% số cán bộ có học vị trong cả nước. Cả vùng Tây Bắc
rộng lớn như vậy nhưng không có một trường đại học hoặc Viện nghiên cứu nào. Nếu tính
53
chung số cán bộ có trình độ đại học trở lên thì phân bố như sau: 16,9% làm việc tại Hà Nội,
17,3% làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh; 3,9% làm việc ở Hải Phòng, trong khi đó Cao
Bằng chỉ có 0,7%; Sơn La 0,44%; Lai Châu 0,22%; Bắc Cạn 0,18%; Kiên Giang 0,4%;
Minh Hải 0,47%... Nhìn chung, sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học không mấy người muốn
đến làm việc hoặc công tác tại các tỉnh vùng sâu, vùng nói xa xôi hoặc ở nông thôn xa thành
phố (Phụ lục 1: bảng 4).
Để làm rõ hơn thực trạng NNL nông thôn, cần đi sâu xem xét tình hình sử dụng
NNL ở nông thôn nước ta thời gian qua (tập trung vào giai đoạn từ 1986 đến nay) để thấy
được sự phân công lao động xã hội và việc sử dụng NNL nông thôn rõ nét hơn.
Thời kỳ trước đổi mới
Thời kỳ 1976-1980: Đây là thời kỳ nền nông nghiệp nước ta được thống nhất thành
một mối, tiềm năng và thế mạnh của cả hai miền Nam - Bắc bổ sung cho nhau và cùng nhau
phát triển theo một đường lối chung, đưa nông nghiệp cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH. Song, đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là nông nghiệp hợp tác xã phát triển trong
cả nước với mô hình tập thể hóa, tập trung hóa cao và từng bước chuyên môn hóa.
Mô hình quản lý trên dẫn đến việc sử dụng NNL ở nông thôn có những đặc điểm
sau:
- Lao động lúc này chủ yếu tập trung trong nông nghiệp (chiếm 69% lao động xã
hội).
- NNL chưa được tận dụng có hiệu quả.
- Tính tự giác và sáng tạo của người lao động còn bị kìm hãm lớn, bởi chính sách
phân phối còn mang nặng tính bình quân, bao cấp và công bằng giả tạo.
- NNL trong nông nghiệp được rút sang các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
không đáng kể.
Do NNL nông thôn nước ta chưa được sử dụng hợp lý và hiệu quả nên nhiều mặt
trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn diễn biến xấu, không ổn định và mất cân đối. Vì
vậy, một vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng tìm chọn một hướng đi mới nhằm khai thác, sử
dụng NNL ở nông thôn tốt hơn. Hình thức khoán mới từ chỗ "làm chui" đã ra đời.
Thời kỳ 1981-1985: Từ thực tế "Khoán chui" ở một số HTX sản xuất nông nghiệp
thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Hải Phòng,... Đảng ta đã nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm và xây dựng
cơ chế khoán mới trong nông nghiệp. Ngày 13/1/1981, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành
Chỉ thị 100 CT/TW về "Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các HTX nông nghiệp" (gọi tắt là khoán 100) với mục đích phát triển
54
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, lôi cuốn mọi người hăng hái sản xuất, kích thích tăng
năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu sản xuất hiện có, áp dụng tiến bộ kỹ thuật,
nâng cao thu nhập cho cá nhân.
Thực tiễn cho thấy "khoán 100" tuy chưa phải là mô hình mới về tổ chức sản xuất
và quản lý nông nghiệp, nhưng có nhiều ưu điểm so với việc khoán trước đây; nó là sự đột
phá đầu tiên vào cơ chế tập trung quan liêu, sản xuất tập thể vô chủ "cha chung không ai
khóc", là" chìa khóa vàng" mở ra thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp. Do vậy, tình hình
sử dông NNL nông thôn thời kỳ này có bước phát triển hợp lý hơn. Cụ thể là:
Thứ nhất, quyền tự chủ của các hộ xã viên trong sử dụng ruộng đất và lao động đã
bước đầu được khôi phục, gắn lao động với đất đai, làm cho người lao động quan tâm hơn
tới kết quả cuối cùng.
Theo cơ chế này, hộ xã viên được làm chủ 3 khâu: gieo trồng, chăm sóc và thu
hoạch. 5 khâu còn lại do HTX đảm nhận. Nhờ vậy sức sản xuất của nhóm lao động (thực
chất là hộ nông dân) đã được giải phóng khỏi sù ràng buộc của quan hệ sản xuất tập thể ở một
số khâu, tạo nên động lực kích thích tận dụng mọi thời gian, nguồn vốn, đầu tư thâm canh tăng
năng suất nhằm mục đích tăng thu nhập qua phần vượt khoán. Theo kết quả điều tra của
Tổng cục thống kê sau chỉ thị 100 cho thấy, mỗi vụ có trên 80% số hộ đạt và vượt khoán.
Tỷ lệ vượt khoán về năng suất dao động từ 5-20% [9, tr. 40].
Nhiều hộ xã viên còn tận dụng đất để tăng vụ, mở rộng diện tích vụ đông, nên diện
tích gieo trồng các loại cây đều tăng khá (diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%,
cây công nghiệp lâu năm tăng 13%; sản lượng lợn thịt hơi xuất chuồng tăng 56,5% [10, tr.
32-35]
Thứ hai, các hộ xã viên có điều kiện chủ động trong việc phân công, bố trí lao động
một cách hợp lý và hiệu quả.
Ai làm gì, làm ở đâu, ở khâu nào, thời gian nào...được bố trí hợp lý và được tận
dụng để phát huy đúng người, đúng việc, khắc phục được sự lãng phí nhân công và lao động
trước đây.
Thứ ba, các hộ nông dân đã thu hót và huy động được một số lượng vốn khá lớn và
từ nhiều nguồn
Tình hình trên đã làm cho số vốn đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn tăng lên
nhiều so với thời kỳ 1976-1980. Số vốn tăng lên đã tạo nên những tiền đề vật chất cho việc
sử dụng có hiệu quả hơn NNL và tăng trưởng kinh tế giai đoạn này.
Xu hướng mới, lành mạnh này không thể có được trong thời kỳ 1980 trở về trước.
55
Tuy nhiên, những bước tiến bộ trên không vững chắc. Từ cuối thời kỳ này, tình
trạng trì trệ, chưa hợp lý trong phân công và sử dụng NNL tái diễn trở lại và có mặt giảm
sút. Biểu hiện ở những điểm chủ yếu sau:
- Lao động của người xã viên chưa được giải phóng triệt để.
Hộ gia đình mới được làm chủ ba khâu; còn các khâu khác vẫn do HTX quản lý và
điều hành tập trung. Các khâu chung do HTX điều hành (theo công điểm) về thực chất vẫn
mang tính "vô chủ", "cha chung không ai khóc", chưa gắn lao động với tư liệu sản xuất, với
sản phẩm cuối cùng trong toàn bộ qui trình sản xuất nông nghiệp.
- Người lao động nông thôn vẫn bị quản lý trong một mối quan hệ lao động thiếu
dân chủ, tùy tiện mà cốt lõi của nó là "người quản lý- kẻ chấp hành", "người quản lý" có
trách nhiệm "bao cấp" các điều kiện lao động sản xuất và mọi nhu cầu về đời sống của
người lao động. Quản lý lao động mang nặng tính tùy hứng, thiếu một qui chế lao động cụ
thể. Trong HTX tệ dong công, phóng điểm và chi phí cho bộ máy quản lý quá lớn, dẫn đến
việc một nhóm người tham ô, chiếm dụng vốn, đặc quyền đặc lợi, làm cho giá trị ngày công
và thu nhập của hộ nông dân từ kinh tế tập thể giảm thấp nghiêm trọng. Cho nên nhiều
người đã trả bớt ruộng khoán cho HTX.
- Hiệu quả sử dụng NNL nông thôn còn thấp và lãng phí lớn.
90% là lao động thủ công và công cụ thô sơ; kỹ thuật canh tác vẫn là con trâu và cái
cày. Việc áp dụng các biện pháp khoa học bị hạn chế, năng suất lao động nông nghiệp thấp.
Thực tế lao động nông nghiệp là chia việc ra mà làm, quỹ thời gian lao động trong ngày,
tháng, năm không sử dụng hết (chỉ đạt 4-5 giờ/ngày; 18-20 ngày/tháng và 230-240
ngày/năm. Nếu lấy mức tích cực là 250-270 ngày/1 năm vẫn còn 20-30 ngày chưa được sử
dụng) [7].
- Kinh tế hộ gia đình là tế bào của hoạt động lao động nông thôn và là tổ chức cơ sở
của đời sống nông thôn chưa được coi trọng.
Quyền lao động và sở hữu về vốn của người lao động bị xâm phạm, dẫn đến động
lực lao động vì lợi Ých cá nhân không được khởi động, tâm lý thờ ơ, ỷ lại và chờ đợi lấn át,
trí tuệ và nhân cách không được tự do phát triển cao...
Tất cả những điều đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới quản lý nông nghiệp và kinh tế
nông thôn nhằm sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của đất nước, trước hết là NNL
tiềm tàng ở nông thôn.
56
Thời kỳ đổi mới 1986 đến nay
Thời kỳ 1986-1992
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ VI
của Đảng, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
nông nghiệp.
Nghị quyết 10 đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng và mở ra thời kỳ phát triển mới
đối với nông nghiệp và nông thôn nước ta. Tinh thần Nghị quyết 10 đã sớm đi vào cuộc
sống của hàng chục triệu hộ nông dân, làm thay đổi một cách căn bản hệ thống quan điểm
về lao động, NNL và sử dụng phát triển NNL nông thôn nước ta. Cụ thể là NNL ở nông thôn
đã được giải phóng nhờ chủ trương thay đổi mối quan hệ giữa người lao động và tư liệu sản
xuất. Người lao động nông thôn lúc này thực sự làm chủ ruộng đất, làm chủ quá trình sản xuất
và phân phối sản phẩm, họ được tự chủ quyết định việc chọn hình thức tổ chức lao động, sản
xuất kinh doanh thích hợp với điều kiện của mình [77, tr. 80]. Việc tổ chức, quản lý, sử dụng
NNL nông thôn từ chỗ do HTX, tổ đội sản xuất điều hành nay chủ yếu do hộ nông dân đảm
nhiệm. Thu nhập của người lao động được phân phối theo kết quả lao động, dùa trên kinh tế
thỏa thuận giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất và kinh doanh.
Chấm dứt tình trạng phân phối theo công điểm trước đây. Hộ nào có sức, có tài, có
kinh nghiệm và kiến thức, cần cù chịu khó... thì thu nhập cao hơn. Trong các HTX nông
nghiệp, phần thu nhập của xã viên vượt khoán tăng lên rõ rệt và đạt mục tiêu mà Nghị quyết
10 nêu ra: đảm bảo cho các hộ xã viên nhận khoán thu được trên dưới 40% sản lượng khoán
trở lên.
Tỷ lệ đóng thuế nông nghiệp chiếm 8,04% sản lượng thực tế thu hoạch của hộ xã viên.
Tỷ lệ nép cho tập thể HTX là 16,5%, trong đó, quỹ tập thể là 5,13%; chi phí quản lý 1,7%. Tỷ
lệ phân phối cho người lao động (hộ nhận khoán) là 44,65%, tăng gấp 2 lần so với khoán theo
Chỉ thị 100 [10, tr. 40]. Kết quả phân phối trên đây đã tạo ra sự phấn khởi và tạo động lực to
lớn cho người lao động, nó đã khẳng định sự thành công của cơ chế phân phối mới. Số hộ
làm ăn giỏi, có thu nhập cao tăng nhanh, nhiều gương mặt làm kinh tế nông nghiệp giỏi xuất
hiện. Nếu giai đoạn 1976-1980 tỷ lệ đói nghèo trong nông dân chiếm trên 30% số hộ thì
năm 1990 giảm còn 20% và 1992 còn 15%. Bên cạnh đó, số hộ khá và giàu chiếm tỷ lệ
18,4% (năm 1990). Nhờ thu nhập tăng, đời sống nông dân được cải thiện đáng kể và bộ mặt
kinh tế nông thôn dần dần thay đổi và phát triển [77, tr. 92].
Lao động ở nông thôn ở nhiều vùng đã có sự chuyển hướng từ thuần nông, tự túc,
tự cấp sang sản xuất hàng hóa, hoạt động đa dạng nhiều ngành nghề, dịch vụ, hình thành
57
các nông trại gia đình, ai giỏi nghề nào phát triển nghề ấy.
Sự phân công lao động diễn ra ngay trong từng hộ gia đình nông dân. Trong một hộ,
ngoài những người trồng trọt, chăn nuôi còn có lao động làm nghề tiểu thủ công nghiệp, làm
việc trong các ngành dịch vụ hay các xí nghiệp nhỏ ở nông thôn... Điều đó góp phần tạo
công ăn việc làm, tăng thu nhập. Hiệu quả sử dụng NNL cao. Cho nên, sau Nghị quyết 10,
sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn bước vào thời kỳ phát triển mới, tương đối ổn
định trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, những kết quả nêu trên cũng mới chỉ là bước đầu. Trong quá trình phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, những mâu thuẫn và khó khăn mới về sử dụng NNL
lại nảy sinh.
- Theo cách khoán 10, quỹ đất đai bị chia nhá theo kiểu bình quân, lại phân bố trên
các địa bàn khác nhau, rất khó khăn cho việc tập trung ruộng đất cũng như việc cơ giới
hóa, thủy lợi hóa và chuyên môn hóa để tăng năng suất lao động và chất lượng nông sản.
Những hộ nông dân nghèo, không có vốn, Ýt kinh nghiệm sản xuất và thiếu kiến
thức khoa học- kỹ thuật cũng nhận một xuất ruộng bình quân như các hộ khá, có vốn, có kỹ
thuật. Vì vậy tiềm năng về lao động, vốn, kỹ thuật của các loại hộ đó bị lãng phí.
Mặt khác, do san, tách hộ, quỹ đất nông nghiệp theo hộ ngày càng giảm. Trung bình
mỗi năm cả nước tăng khoảng 10 vạn hộ nông dân. Thực tế cho thấy trong vòng 12 năm
(1981-1992), do san tách hộ, đất lúa, màu vùng đồng bằng sông Hồng giảm là 100 nghìn ha
(16%); đồng bằng sông Cửu Long giảm 18% [10, tr. 41-42].
Trong khi đó, lực lượng lao động (LLLĐ) nông thôn lại tăng nhanh và chủ yếu là bổ
sung vào ngành trồng trọt. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn giữa đất đai- lao động và việc
làm vốn đã căng thẳng lại càng thêm gay gắt hơn. Tình trạng dư thừa lao động, bán thất
nghiệp, thiếu việc làm hết sức căng thẳng ở nông thôn.
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển chậm chạp,
không có khả năng thu hót LLLĐ dư thừa từ nông nghiệp.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn diễn ra quá chậm trễ,
không thuận lợi. Điều đó làm tăng mật độ lao động trên một đơn vị diện tích; mặt khác, gây
khó khăn cho việc chuyển từ lao động thủ công thuần nông sang lao động sử dụng máy
móc, kỹ thuật, làm cho tình trạng thất nghiệp và đói nghèo vẫn còn hết sức căng thẳng, kìm
hãm quá trình CNH nông nghiệp và phát triển sản xuất hàng hóa ở nông thôn.
Thị trường lao động ở nông thôn chưa hình thành rõ nét nên vẫn mang tính tự phát
làm ảnh hưởng tới qui mô phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn.
58
Tóm lại, sau Nghị quyết 10, NNL nông thôn tuy đã được giải phóng nhưng, nhìn
chung, vẫn chưa được phân công, sử dụng và phát triển có hiệu quả. Người lao động vẫn
chủ yếu tập trung trong sản xuất nông nghiệp thuần nông, độc canh lúa. Lao động trong các
ngành nghề và dịch vụ chuyển biến chậm và không đồng đều, tình trạng thiếu việc làm ngày
càng trầm trọng, các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh, hàng loạt vấn đề bức xúc mới trong
nông nghiệp và nông thôn đang đòi hỏi tiếp tục phải giải quyết cả về lý luận và thực tiễn.
Thời kỳ 1993 đến nay
Trước tình hình trên, tháng 6/1993, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 5 (khóa VII) đã họp và ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn". Nghị quyết đã đánh giá thực trạng nông nghiệp và nông thôn nước ta từ khi bắt
đầu công cuộc đổi mới, xác định các mục tiêu quan điểm và phương hướng, giải pháp cụ thể
nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn theo định hướng XHCN, nhằm xây dựng nông thôn
giàu mạnh và văn minh.
Dưới tác động của Nghị quyết 5 và các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước,
tình hình sử dụng và phát triển NNL nông thôn tiếp tục được củng cố và hoàn thiện. Cụ thể
là:
Lao động trong các hộ nông dân (khoảng 12 triệu hộ) đã khắc phục khó khăn do
thiên tai, thời tiết không thuận, tập trung phát triển sản xuất theo chiều sâu, thâm canh tăng
vụ, chuyển vụ và tận dụng tối đa nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, đưa sản xuất nông
nghiệp tiếp tục phát triển cả về chất lượng và số lượng
Lao động độc canh cây lúa ở nhiều vùng nông thôn đã bắt đầu chuyển hướng sang
đa canh các loại cây trồng và vật nuôi. Thời kỳ này đã hình thành và phát triển các vùng
trồng cây tập trung qui mô lớn, sản lượng hàng hóa nhiều, gắn với công nghiệp chế biến và
tiêu thụ như lạc ở Tây Ninh, Nghệ An, Đắc Lắc; mÝa - đường ở Thanh hóa, Quảng Ngãi,
Khánh hòa, Đồng Nai; vải thiều ở Hải Hưng, Hà Bắc, Quảng Ninh; nhãn, xoài, chôm
chôm... ở miệt vườn Nam Bé; rau xanh ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt... Người
lao động nông thôn đã quan tâm nhiều đến thị trường tiêu thụ để có sự đầu tư lao động, bố
trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lấy hiệu quả làm mục tiêu chủ yếu.
Lao động trong các ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn đã có xu
hướng tăng lên
Kết quả điều tra nông thôn và nông nghiệp 1994, cho thấy, khu vực nông thôn có 12
triệu hộ nông dân, trong đó, 9637 nghìn hộ thuần nông (chiếm 80%); số còn lại hơn 2,4 triệu
hộ (chiếm 20%) làm các ngành nghề, dịch vụ phi nông nghiệp, chủ yếu là tiểu - thủ công
59
nghiệp và buôn bán lẻ. Tỷ lệ hộ làm ngành nghề và dịch vô phi nông nghiệp ở nông thôn
tăng lên.
Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ là nơi tỷ trọng hộ phi nông
nghiệp lớn nhất (27,9% và 49%), vì hai khu vực đó có công nghiệp và dịch vụ phát triển, tốc
độ đô thị hóa nhanh nhất. Riêng ở nông thôn ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh có tới
59,3% số hộ phi nông nghiệp, ở Đồng Nai là 46,5%.
Do công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển, nhiều hộ nông dân đã và đang
chuyển từ làm ruộng sang làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hoạt động dịch vụ,
buôn bán để có thu nhập cao hơn. Nó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu phân công lao động theo hướng tiến bộ phù hợp qui luật CNH nông nghiệp và nông
thôn.
Chất lượng NNL nông thôn nhiều vùng tiếp tục được nâng cao so với thời kỳ trước.
Do năng suất lao động tăng, đời sống của nông dân nông thôn đã được cải thiện một
bước đáng kể. Ở nhiều địa phương, việc đầu tư cho con cái học hành và học nghề đã được coi
trọng, chất lượng cuộc sống đã có sự cải thiện đáng kể, cơ sở hạ tầng nông thôn đã có bước phát
triển mới. Sự hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học và tiến bộ kỹ thuật đang tạo ra một lực lượng sản
xuất mới ở nông thôn. Đó là tiếp sức cho người lao động nông thôn làm ăn có hiệu quả hơn.
Nhiều hộ nông dân đã bắt đầu mua sắm máy móc, công cụ phục vô sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản, ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp. Điều kiện sinh hoạt và văn hóa
được cải thiện. Đặc biệt ở nông thôn, tầng líp trung lưu và những "ông chủ" trang trại,
doanh nghiệp mới đang hình thành là những nhân tố mới góp phần thúc đẩy các cộng đồng
dân cư nông thôn, tạo đà cho sự phát triển kinh tế, tạo thêm động lực cho người lao động nông
thôn phấn đấu làm giàu, tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ nêu trên, tình hình sử dụng NNL nông thôn vẫn
còn mét số điểm yếu cần tiếp tục giải quyết.
Một là, sự chuyển biến cơ cấu lao động, phân công lao động ở nông thôn rất chậm
và không đồng đều, năng suất lao động thấp. Ở nông thôn đã xuất hiện loại hộ chuyên đi
làm thuê nông, lâm, thủy sản. Đó là những hộ không có đất hoặc quá Ýt đất nông nghiệp;
nguồn thu nhập chủ yếu là lao động làm thuê trong các ngành nông, lâm, thủy sản. Tình
hình đó đã làm cho thị trường lao động ở nông thôn và vấn đề việc làm, đói nghèo đang đặt
ra gay gắt và bức xúc.
Hai là, lao động ở nông thôn đang bị phân cực giàu nghèo ngày càng rõ nét,
khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn, giữa các vùng của nông thôn và giữa nông thôn với
60
thành thị ngày càng lớn.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 1993 thì khoảng cách giàu nghèo trong
nông thôn đã lên tới 6 lần. Trong nông nghiệp còn hơn 40% số hộ có thu nhập thấp, đời
sống dưới mức trung bình, trong đó có 20% số hộ nghèo. Trong năm 1995, số người ở nông
thôn thu nhập là 1.542 nghìn đồng/năm (128 nghìn đồng/tháng) chỉ bằng 17% so với thành
phố 9.121 nghìn đồng/năm (760 nghìn đồng/tháng) - mức chênh lệch là 5,8 lần. Thu nhập
thấp dẫn tới tiết kiệm, đầu tư và chất lượng cuộc sống thấp. Đó là cái vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói của nông thôn ở các nước đang phát triển trong đó có nước ta. Vì vậy, vấn đề tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn, xóa đói giảm nghèo để tăng chất
lượng NNL đang đặt ra hết sức cấp bách ở nông thôn nước ta.
Ba là, NNL ở nông thôn vẫn tiếp tục bị dôi thừa một lượng lớn và ngày càng gia
tăng, cộng dồn số thất nghiệp do không đầy đủ việc làm tính qui đổi ra lao động hiện nay
rất lớn.
Theo báo cáo số 28/VPTW tháng 12/1997 của Văn phòng Trung ương Đảng năm
1996 có khoảng 25 triệu lao động nông nghiệp, trong đó, số lao động thiếu việc làm bình
quân là 27,6%, có nghĩa là có khoảng 2,2 tỷ ngày công chưa được sử dụng. Cá biệt, một số
nơi tỷ lệ thất nghiệp lên tới 30-52%.
Để làm rõ hơn vấn đề việc làm và bán thất nghiệp ở nông thôn nước ta chóng ta
cần nhận dạng và đánh giá khách quan các đặc điểm việc làm ở nông thôn.
Do chất lượng lao động, trình độ phát triển kinh tế thấp, nên 90% lao động nông
thôn làm việc trong khu vực phi chính thức với đặc điểm là: họ tự tạo việc làm cho mình,
làm thuê không ổn định theo thời vụ, có một số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sử
dụng lao động làm thuê.
Sau Chỉ thị 100/BBT, đặc biệt là sau NQ 10/BCT năm 1988, trạng thái việc làm ở
nông thôn đã mang sắc thái mới. Nếu như trước kia Nhà nước và hợp tác xã có trách nhiệm
chính trong tạo việc làm cho người lao động, thì nay đó là sự nghiệp của toàn dân. Người
dân tự tạo việc làm cho mình là chính, còn Nhà nước hỗ trợ bằng cách tạo môi trường pháp
lý thuận lợi, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ, vốn và các dịch vụ khác. Người dân
đã chủ động tự tìm tòi sáng tạo để tạo việc làm trước hết cho chính mình, gia đình mình và
cho người khác. Tính chủ động, năng động và dân chủ của NNL nông thôn được phát triển
đã góp phần đáng kể vào thành công trong sản xuất nông nghiệp mấy năm qua.
Kết quả điều tra lao động - việc làm năm 1998 (Phụ lục 1: bảng 5) cho thấy, tỷ lệ
thiếu việc làm của lao động nông thôn rất cao và tập trung vào 3 nhóm tuổi chính: nhóm
61
tuổi 15-24 là 30,65%; nhóm 25-34 là 29,68% và tỷ lệ 23,76% ở lứa tuổi 35-44. Vì vậy, thất
nghiệp, thiếu việc làm và hiệu quả ngày công lao động thấp là những vấn đề cần giải quyết
nhằm tăng thêm việc làm, tăng hiệu quả ngày công lao động, tăng thu nhập của người nông
dân.
Đặc điểm nổi bật nhất của việc làm ở nông thôn Việt Nam là về hình thức, tỷ lệ người
có việc làm cao. Nhưng tình trạng thiếu việc làm (bán thất nghiệp) thì phổ biến ở khắp nơi,
tuy rằng mức độ có khác nhau ở từng vùng.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do quan hệ tiến bộ sở hữu về đất đai (Nhà nước
giao quyền sử dụng lâu dài cho nông dân). Mặc dù diện tích đất đai bình quân đầu người
thấp, nhưng hầu hết các hộ nông dân đều có đất canh tác, vì thế họ không coi mình là thất
nghiệp. Do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào về quyền sở hữu đất đều có tác động đến trạng thái
việc làm ở nông thôn.
Mặt khác, do đất Ýt, người đông, các hé gia đình nông dân đều cố gắng làm thêm
một ngành nghề nào đó, ngoài nghề nông là việc làm chính. Có đến 65,2% số hộ nông dân
Việt Nam vừa làm nông nghiệp, vừa làm các ngành nghề khác, chỉ có khoảng 30% số hộ
thuần nông.
Nước ta chưa có trợ cấp thất nghiệp, do vậy mặc dù thiếu việc làm nhưng mọi
người vẫn cố gắng làm một việc gì đó - dù là rất Ýt - để có thu nhập. Do việc làm Ýt, lực
lượng lao động nhiều dẫn đến phải chia khối lượng việc làm hạn chế cho một LLLĐ đông
đảo lại tăng nhanh nhằm đảm bảo cho mọi người đều có việc làm và thu nhập (dù ở mức rất
thấp) khiến cho tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Nếu quy đổi lượng thời gian không
được sử dụng của NNL nông thôn thì sẽ tương đương khoảng 8,5 triệu người thất nghiệp
hoàn toàn. Theo tính toán khối lượng công việc nông thôn hiện nay chỉ cần 2/3 lực lượng
lao động hiện có [69].
Ở những khu vực đông dân, bình quân ruộng đất thấp, thời gian nhàn rỗi và thiếu việc
làm bình quân của một lao động tới 5-6 tháng. Có nơi tới hơn 90% số hộ lao động nhàn rỗi
và thiếu việc làm là 6-8 tháng [43, tr. 23].
Nhận dạng tình trạng bán thất nghiệp ở nông thôn nước ta
Có nhiều cách tiếp cận tình trạng bán thất nghiệp ở nông thôn, mỗi cách tiếp cận
cho ta thấy rõ mức độ khác nhau.
- Tiếp cận theo cách tổng điều tra dân sè 1989. Theo cách này, việc sử dụng lực
lượng lao động được phân ra 4 loại. Bảng dưới đây cho chóng ta thấy 4 loại đó ở khu vực
đồng bằng sông Hồng:
62
Tổng sèTrong đó
Nam Nữ
Tổng số lực lượng lao động 100,00 100,00 100,00
- Làm việc ổn định trên 6 tháng 94,00 93,62 94,30
- Làm việc ổn định dưới 6 tháng 2,13 2,18 2,06
- Làm việc tạm thời dưới 6 tháng 0,82 0,94 0,88
- Không có việc làm 3,05 3,26 2,76
Nguồn: [73].
Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp ở khu vực đồng bằng sông Hồng là
3,87%. Tuy nhiên, tỷ lệ này là thấp hơn thực tế, vì vẫn còn những người bán thất nghiệp
trong nhóm "làm việc ổn định trên 6 tháng".
- Tiếp cận theo tiêu chuẩn thời gian làm việc: Sè liệu điều tra gần đây cho thấy tình
trạng thiếu việc làm (bán thất nghiệp) ở nông thôn là rất trầm trọng (đặc biệt là ở đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long). Riêng vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng,
tình trạng thiếu việc làm diễn ra gay gắt hơn. Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ rất cao.
Tại tháng thời vụ căng thẳng nhất của sản xuất nông nghiệp (tháng 6), nhu cầu lao động cần
94,8% lực lượng lao động trong tuổi quy định làm nông nghiệp ở nông thôn, các tháng 1, 2,
7, 10 sử dụng trên dưới 50-60%; các tháng 3, 4, 5, 11 sử dụng trên 30%; tháng 8, 9, 12 chỉ
sử dụng dưới 25%.
- Tiếp cận theo mức thu nhập: Những người có thu nhập dưới mức tối thiểu có thể
được coi như đang ở tình trạng bán thất nghiệp vì hoặc là họ làm không đủ thời gian nên thu
nhập thấp, hoặc là do năng suất lao động quá thấp không thể coi cái việc họ đang làm là việc
làm thật sự. Tính chung cả nước có tới 45,4% số hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp hơn mức trung bình, tỷ trọng số hộ có mức thu nhập trên trung bình chỉ có 16%.
Điều đó chứng tỏ mức thu nhập qua hiệu quả sử dụng lao động còn thấp ở nông thôn. Theo
quy định của Tổng cục Thống kê, mức tối thiểu cần thiết đối với khu vực nông thôn là
50.000đ/người/tháng (giá thực tế năm 1993).
Như vậy, dù tiếp cận theo hướng nào thì thực trạng bán thất nghiệp ở nông thôn
nước ta cũng hết sức căng thẳng và trầm trọng. Tình trạng thu nhập thấp là phổ biến ở nông
thôn nước ta, nhất là đối với hộ thuần nông. Số liệu điều tra lao động - việc làm 1998 cho
thấy trong 8 vùng lãnh thổ của cả nước, vùng có tỷ lệ thất nghiệp trên 8% là đồng bằng sông
Hồng; Bắc Trung Bộ: trên 7%; các vùng còn lại dao động trên 6% [67, tr. 35].
Ngoài việc làm chính, hầu hết việc làm phụ thêm của người lao động vẫn thuộc
63
nhóm nghề nông, lâm, ngư, vì đây là nhóm nghề dễ làm, không đòi hỏi cao về trí tuệ và kỹ
thuật. Thực tế việc tìm thêm một nghề thứ hai ngoài nghề nông, lâm, ngư ở nông thôn hiện
nay là rất khó.
Nhóm nghề có sức thu hót lao động thứ hai ở nông thôn là công nghiệp và xây
dựng giao thông vận tải (lao động bằng chân tay) chiếm 24,03%. Điều này phù hợp với xu
hướng phát triển công nghiệp và xây dựng nhỏ, giao thông vận tải ở nông thôn cần được
khuyến khích.
Nhóm nghề thương mại, dịch vụ ở nông thôn nước ta còn rất thấp. Khả năng phát triển
nhóm nghề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu do thu nhập thấp; sức mua của
nông dân có hạn, hệ thống chợ còn quá nhỏ bé, khả năng lưu thông giữa các vùng kém, do
cơ sở hạ tầng chưa phát triển.
Tỷ trọng số người làm thuê (trực tiếp bán sức lao động) chiếm khoảng 10% tổng số
lực lượng lao động ở nông thôn. Những người tự tạo việc làm cũng tham gia vào thị trường
lao động, nhưng thời gian làm thuê (khoảng 20 ngày/năm) chiếm 11 % thời gian thực tế làm
việc. Đối với hộ nghèo tỷ lệ này cao hơn khoảng 34,1%. Đây là tỷ lệ làm thuê cao nhất ở
nông thôn là vùng Đông Nam Bé và đồng bằng sông Cửu Long. Nó chứng tỏ ảnh hưởng của
thị trường lao động nông thôn ở hai khu vực này là cao hơn cả, thấp nhất là vùng trung du
miền núi Bắc Bộ [69].
Phân tích tình hình làm thuê và sử dụng lao động nông thôn ta thấy:
- Tỷ lệ hộ thường xuyên thuê lao động (thường là các hộ giàu ở nông thôn) còn
thấp, khoảng 10% tổng số hộ; nhưng có đến 1/2 số hộ ở nông thôn đã thuê mướn lao động
theo thời vụ.
- Mức độ tham gia thị trường lao động của nam cao hơn nữ.
- Trên thị trường lao động nông thôn, việc mua, bán sức lao động chủ yếu cho
những công việc tạm thời mang tính thời vụ, phần lớn người bán sức lao động là người có
việc làm nhưng thiếu việc làm nên họ tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian
nhất định.
- Tiền công trả cho lao động làm thuê thường cao hơn do tự tạo việc làm. Qua khảo
sát ở nông thôn Hưng Yên cho thấy, tiền công trả cho lao động làm thuê lúc thời vụ khoảng
8.000-10.000 đồng/ ngày (trong khi giá trị ngày công thực sự của lao động trong hộ chỉ
khoảng 2.000 đồng/ ngày.
- Quan hệ mua bán sức lao động chỉ tạm thời ngắn hạn và thỏa thuận bằng miệng,
không có văn bản, người mua và bán trực tiếp trao đổi với nhau. Do đó không đề cập đến
64
vấn đề bảo hiểm.
- Sù chênh lệch giữa tiền công, lương của lao động ở khu vực thành thị và nông
thôn do tính chất công việc, do cung- cầu của thị trường lao động mỗi nơi, trong đó, tiền
công lao động làm thuê ở nông thôn thấp hơn khu vực thành thị rất nhiều nên đã tạo ra sức
hót lao động thanh niên nông thôn tham gia lao động đô thị.
Tóm lại, thị trường lao động ở nông thôn Việt Nam nói chung mới chỉ ở trong giai
đoạn hình thành và phát triển một cách tự phát, quy mô còn nhỏ bé và thiếu những thể chế
để điều tiết và quản lý nó; hầu hết ở nông thôn chưa hình thành văn phòng giao dịch dịch vụ
việc làm, chưa có hệ thống thông tin về cung cầu lao động.
Do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, một phần dân cư và lao động đã phải
chuyển từ nông thôn ra các thành phố, các trung tâm công nghiệp lớn - nơi có cơ hội việc
làm và thu nhập cao đã gây sức Ðp đối với khu vực thành thị do sức chứa có hạn, tạo ra
nhiều khó khăn phức tạp; nhất là vấn đề giao thông, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường
và các vấn đề xã hội khác. Hơn nữa, bản thân bộ phận dân cư nông thôn di cư ra thành phố,
nhất là trong lúc thời vụ nông nhàn, với hy vọng kiếm việc làm để có thu nhập đảm bảo
cuộc sống đều là những người nghèo; họ thường làm công việc nặng nhọc, bẩn thỉu, cơ bắp,
tiền công Ýt ỏi, không được bảo hiểm, con cái thất học. Họ hầu như không có đủ điều kiện
để tiếp nhận các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, an ninh... Từ một bộ phận dân nghèo
nông thôn, họ chuyển thành lực lượng dân nghèo thành thị, đời sống rất bấp bênh, hạn chế
mọi mặt.
Do đó, phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở duy nhất để đem lại việc làm cho số đông
người lao động nông thôn, thu hót họ vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại nông
thôn. Thực hiện chủ trương: "ly nông bất ly hương", sử dụng NNL tại chỗ nhằm hạn chế di dân
nông thôn ra thành thị.
Kết quả khảo sát di dân tự do vào Hà Nội năm 1994 cho thấy số di dân theo mùa vụ
chiếm 71,1%; sè di chuyển quanh năm chiếm 28,8%. Điều đó chứng tỏ tính cơ động trong
di chuyển lao động ở đồng bằng sông Hồng ngày càng cao và thời gian nông nhàn ở đồng
bằng sông Hồng ngày càng tăng lên. Đồng bằng sông Hồng là nơi có số người tham gia vào
dòng di dân nông thôn thành thị lớn nhất trong cả nước [73, tr. 85].
Mặt tích cực và tiêu cực của di chuyển dân cư nông thôn-thành thị
Mặt tích cực:
- Tạo cơ hội cho những người di chuyển có việc làm, tạo việc làm có thu nhập, góp
phần giảm đói nghèo ở nông thôn. Theo điều tra năm 1994 của Tổng cục thống kê, người di
65
chuyển tự do vào Hà Nội có thu nhập từ 200-500.000đ/tháng chiếm 78%; từ
500-800.000đ/tháng là 17%, sau khi trừ ăn tiêu và chi phí còn gửi về cho gia đình 100-
300.000đ/tháng, cao hơn thu nhập ở làng quê khoảng từ 2 đến 5 lần.
- Góp phần làm giảm nhẹ sức ép việc làm ở vùng xuất cư, giúp đô thị giải quyết
được nhiều việc làm giản đơn, nặng nhọc cần thiết cho phát triển đô thị.
- Góp phần phát triển quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và điều hòa hợp lý mật
độ dân số các vùng lãnh thổ.
Mặt tiêu cực:
- Làm gia tăng nhanh dân số một cách đột biến cả về tự nhiên và cơ học, dẫn đến
quá tải khả năng phục vụ của cơ sở hạ tầng, nhà ở; làm trầm trọng hơn vệ sinh môi trường
và giảm mỹ quan đô thị...
- Làm tăng sức ép về việc làm vốn đã căng thẳng ở đô thị, tăng tỷ lệ đói nghèo ở đô
thị...
- Làm nảy sinh một số vấn đề xã hội phức tạp: trật tự an ninh và an toàn xã hội,
xung đột xã hội, nạn cờ bạc, mại dâm, ma túy...
2.1.3. Về chất lượng nguồn nhân lực nông thôn
Nói tới chất lượng NNL nông thôn là nói tới một tổng hòa các yếu tố tác động biện
chứng có quan hệ chặt chẽ, chỉnh thể với nhau, trong đó, bao gồm những nét đặc trưng như
trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL; là
nói tới trạng thái sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu đào tạo,
nghề nghiệp, thành phần xã hội của NNL nông thôn. Trong điều kiện cách mạng KH-CN và
xu hướng trí tuệ hóa hiện nay, cùng với những yêu cầu đặt ra của CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn nước ta thì trình độ học vấn là vấn đề quan trọng nhất nhằm tạo ra NNL chất
lượng cao làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Liên quan đến chất lượng NNL nông thôn là sự tác động ảnh hưởng qua lại của các
yếu tố như bảo đảm dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, lao động và
việc làm, chính sách phân phối và trả công lao động, truyền thống văn hóa, các chính sách xã
hội và các quan hệ xã hội khác.
Về thể lực: Thể lực của NNL nông thôn nước ta hiện nay là một vấn đề đáng quan
tâm. Trong những năm gần đây, sức khỏe của người lao động ở nước ta có phần tăng chậm
hơn so với các nước trong khu vực. Ở nông thôn và vùng núi, trọng lượng cơ thể giảm,
người lao động Việt Nam được đánh giá là "thấp, bé, nhẹ cân". Hiện nay, chiều cao trung
bình của thanh niên Việt Nam kém Nhật Bản 10cm đối với nam; 5cm đối với nữ; về cân
66
nặng: kém 10kg. Theo phân loại của tổ chức y tế thế giới (WHO), với những người từ 16
tuổi trở lên, qua đánh giá về dinh dưỡng ở 6 vùng sinh thái (1987-1990) của Viện dinh
dưỡng - Bé Y tế cho thấy:
- Sè người gầy chiếm 48,7% và tăng lên theo lứa tuổi.
- Sè người trung bình 50% và giảm theo lứa tuổi.
- Sè người béo: 1,3% và giảm theo lứa tuổi.
Nguồn: [76].
Trên 80% NNL sống ở nông thôn với phương pháp lao động thủ công cổ truyền,
phân tán là chính, thiếu năng lượng, cơ cấu thuần nông là chủ yếu, đời sống và thu nhập
thấp... đang hạn chế rất lớn đến thể lực và chất lượng NNL nông thôn nước ta.
Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe ở nông thôn còn nhiều hạn chế. Bữa
ăn của người dân Việt Nam vừa thiếu về số lượng, mất cân đối về chất lượng, bữa ăn của
người nông dân chỉ đạt 1940 Kcal/người/ngày (thấp hơn 15% so với quy định cho người châu
Á), ở miền núi thì 21% dân sè sống dưới mức 1800 Kcal/người/ngày. Do ăn uống thiếu dinh
dưỡng nên 50% phô nữ bị thiếu máu và tỷ lệ trẻ em sinh nặng dưới 2.500g chiếm 18-28%.
So với thế giới, khẩu phần ăn của nông dân Việt Nam ở mức thấp nhất [71]
Tình trạng bữa ăn thiếu và mất cân đối về dinh dưỡng kéo dài đã ảnh hưởng không
nhỏ tới thể lực của trẻ em sinh ra và người lao động nông thôn nói chung. Tỷ lệ suy dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi còn ở mức khá cao: 41,8% (1993). Tình trạng suy dinh
dưỡng ở trẻ em là vấn đề rất trầm trọng, nếu để kéo dài, chất lượng NNL sẽ bị ảnh
hưởng cả về thể lực và trí lực và sẽ phải trả giá đắt trong tương lai. Tuy nhiên, trong điều
kiện hiện nay, nền kinh tế đã phát triển, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên
thế giới thì tình trạng dinh dưỡng đã được cải thiện về cơ bản. Song, ở nông thôn, bữa ăn
thực chất vẫn chỉ là "bữa cơm", thực phẩm bảo đảm prôtêin và lipit còn Ýt; vẫn còn nhiều
hộ nông dân đói nghèo, cuộc sống đạm bạc làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng NNL.
Sự phát triển hệ thống y tế, phòng - chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe
Đến năm 1994, cả nước có 12.200 cơ sở y tế, trong đó có 1.883 bệnh viện và phòng
khám khu vực, 10.420 trạm y tế xã, phường. Lực lượng cán bộ, nhân viên y tế cả nước có
175.500 người, trong đó có 23% ở tuyến xã. Y tế cơ sở hiện nay còn quá yếu và mỏng, đặc
biệt là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Mặc dù kinh phí Nhà nước đầu tư cho sự nghiệp y tế
tăng liên tục, đặc biệt từ 1990 đến nay nhưng so với số lượng dân số đông và tăng nhanh thì
không đáng kể, chưa đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nông thôn [70, tr. 35].
67
Ở nông thôn, sự hiểu biết của người dân về chăm sóc sức khỏe còn thấp, đặc biệt
vấn đề vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch và xử lý chất thải các loại. Tình hình đó
đang tác động bất lợi tới sức khỏe người dân ở nông thôn.
Về mặt trí lực: Đây là vấn đề đáng quan tâm nhất, bởi lẽ chất lượng NNL nông thôn
thấp kém là do những hạn chế về trí lực của họ. Hiện nay, thanh niên vẫn đang gặp nhiều
khó khăn trong học tập văn hóa, nghề nghiệp, đặc biệt là thanh niên nông thôn. Chính sách
thu học phí đã làm không Ýt con em các gia đình các hộ công nhân viên nhà nước có mức
lương thấp, con em các hộ nông dân nghèo, đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng có đời sống
khó khăn không thể theo học được. Các hộ nông dân nghèo hiện nay, do đời sống quá khó
khăn, việc học tập của con cái họ đang là vấn đề nan giải. Đa số các em phải bỏ học để kiếm
sống, lo cuộc sống hàng ngày. Ở Tây Nguyên, tỷ lệ mù chữ chiếm 31,4%; Duyên hải miền
Trung: 19,2%, đồng bằng sông Cửu Long 17,5%, miền núi phía Bắc: 16,9% [62, tr. 81].
Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện nay, số người mù chữ ở độ tuổi 15-25 tuổi
khoảng trên 150 ngàn người, trong đó thanh niên ở vùng sâu, vùng xa, miền núi chiếm trên
90%.
Nhìn chung toàn quốc, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn, kỹ thuật chiếm
12,3% so với tổng số LLLĐ. Khu vực nông thôn tỷ lệ này đạt 8,7%, thấp hơn so với tỷ lệ
chung của cả nước 3,6%. Nếu so sánh trình độ giáo dục của Việt Nam với các nước trong
khu vực, có thể thấy nhân lực được đào tạo chuyên môn- kỹ thuật ở nước ta là rất thấp. Đây
thực sự là thách thức lớn của Việt Nam trong việc cung cấp NNL chất lượng cao cho CNH,
HĐH. Mức chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày
một gia tăng.
Ở nông thôn đang thiếu nghiêm trọng kỹ sư thực hành nông, lâm, ngư nghiệp, các
nhà quản lý doanh nghiệp, công nhân và lao động kỹ thuật lành nghề. Trong khi đó, theo kết
quả khảo sát của đề tài KX.07.14 thì chỉ có 40% học sinh tốt nghiệp các ngành nông, lâm,
ngư ở các trường trung học chuyên nghiệp, 20% học sinh tốt nghiệp đại học các khoa này
làm đúng ngành nghề, mà đa số làm ở các trung tâm lớn [18, tr. 94].
Một hạn chế lớn nhất của NNL nông thôn là trình độ tay nghề: 78,7% lao động trẻ tập
trung ở nông thôn nhưng hầu hết là chưa qua đào tạo [62].
Hiện nay ở nước ta có 12 dân tộc chưa có người tốt nghiệp đại học, 42 dân tộc
không có ai có trình độ trên đại học, 5 dân tộc chưa có ai tốt nghiệp phổ thông trung học.
Mét trong những mâu thuẫn gay gắt hiện nay ở nông thôn là mâu thuẫn giữa đòi hỏi
về việc làm và tình trạng không có tay nghề. Phần lớn thanh niên nông thôn không có nghề,
68
chưa được đào tạo nghề, nên không có khả năng tìm việc làm phù hợp và lâu dài và thiếu
kiến thức nghề nghiệp. Điều tra 2000 nam nữ thanh niên ở vùng nông thôn cho thấy học
nghề, được đào tạo nghề, học tập văn hóa và khoa học - kỹ thuật nông nghiệp v.v... là nhu cầu
bức xúc hiện nay, 100% số người được hỏi đều có nhu cầu nguyện vọng như vậy [62. 81].
Trình độ nghề nghiệp, khả năng chuyên môn thấp trở thành lực cản lớn đến việc tự
tạo và tìm kiếm việc làm ở nông thôn, nhất là thanh niên nông thôn. Do vậy, đào tạo nghề,
dạy nghề, chuyển giao công nghệ cho NNL nông thôn trở thành nhiệm vụ có ý nghĩa quyết
định trong phát triển NNL nông thôn hiện nay [62, tr, 81].
Thanh niên là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào nông thôn nhưng qua khảo sát thực tế ta thấy:
+ Chưa biết chữ : 1,5%
+ Biết đọc và biết viết : 4,5%
+ Cấp tiểu học : 10,0%
+ Cấp phổ thông cơ sở : 59,0%
+ Cấp phổ thông trung học : 20,4%
+ Trung cấp, đại học trở lên : 4,3%
+ Không có tay nghề : 63,2%
+ Thiếu kỹ thuật canh tác : 72,0%
+ Chưa được đào tạo nghề : 65,4%
[62, tr. 82]
Chất lượng NNL nông thôn còn được biểu hiện ở văn hóa lao động, đạo đức, lối
sống, lập trường tư tưởng chính trị của người lao động nông thôn.
Chóng ta biết rằng vai trò của nông dân trong lịch sử là vô cùng to lớn. Nguyễn Trãi
đã từng nói: đẩy thuyền là dân, mà lật thuyền cũng là dân. Ở nước ta, cho đến nay,"dân"
trước hết vẫn là nông dân. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
nông dân là lực lượng cách mạng hùng hậu đã góp phần trọng yếu vào sự nghiệp kháng
chiến chống xâm lược, là lực lượng có vai trò quyết định trong việc giữ sự ổn định và phát
triển đất nước trong mọi thời kỳ của cách mạng. Nhận thức được điều đó, Đảng ta luôn luôn
đặt mặt trận nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu, có vai trò trọng yếu trong việc ổn
định đất nước, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn: "Thực tiễn ngày
nay cho chóng ta thấy rõ cả trước mắt và lâu dài, nông nghiệp và kinh tế nông thôn có vai
trò cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển và ổn định kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước. Phát triển nông nghiệp toàn diện, an ninh lương thực đảm bảo...chúng ta mới có
69
đà đi lên và đứng vững trong mọi tình huống" [31].
Người lao động nông thôn cũng mang nhiều những truyền thống tốt đẹp đang ngày
càng bộc lé những ưu điểm mới. Đó là truyền thống yêu nước đã được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm; tinh thần anh dòng trong chiến đấu chống xâm
lược, trong cuộc đấu tranh chống thiên tai. Con người nông dân được hun đúc không chỉ
đức tính cần cù, mà cả tinh thần kiên trì, bền bỉ, dẻo dai và tiết kiệm... Người lao động nông
thôn hiện nay đang dần hình thành những phẩm chất mới, lối sống mới nhưng vẫn mang
theo hành trang của mình truyền thống bốn ngàn năm lịch sử. Ở đây, cần có cái nhìn biện
chứng, tránh cái nhìn một chiều chỉ thấy truyền thống tốt hay chỉ thấy tập quán xấu. Nhận
thức được cả những truyền thống văn hóa tốt đẹp và những tập quán, hủ tục xấu, cả những
ưu điểm và những nhược điểm, hạn chế sẽ giúp chúng ta biết cần phát huy cái gì và hạn chế
cái gì ảnh hưởng đến chất lượng NNL nông thôn.
Hiện nay, đại bộ phận người lao động ở nông thôn nước ta vẫn tiếp tục kế thừa phát
huy truyền thống cách mạng của cha ông, tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng, có tinh thần
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và luôn có khát vọng đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc
hậu. Tuy nhiên, người nông dân Việt Nam còn có nhiều hạn chế do lịch sử để lại. Đó là
những thãi quen lỗi thời hình thành và tồn tại suốt hàng ngàn năm lịch sử, không dễ gì xóa
bỏ ngay được. Tính cộng đồng của công xã nông thôn kiểu phương Đông làm cho con
người nông thôn bị hòa tan vào cộng đồng. Sự phát triển của cá nhân, nhân cách, cá tính, óc
sáng tạo, táo bạo trong sản xuất bị cản trở. Cuộc sống cộng đồng nông thôn trước đây tạo
nên tâm lý bình quân không muốn ai hơn mình, giữ bí quyết gia truyền làm cho nhiều nghề
thủ công không phát triển rộng rãi được, thậm chí bị chôn vùi vì thất truyền. Thãi hẹp hòi,
cục bộ, bản vị tạo cho con người khuynh hướng hướng nội, tư tưởng bảo thủ tâm lý sản xuất
nhỏ của người tiểu nông. Nền sản xuất lạc hậu, trì trệ kéo dài đã ảnh hưởng không nhỏ đến
lối sống, phong cách sinh hoạt, lao động của người nông dân truyền thống. Cơ chế hành
chính, quan liêu bao cấp trước đây kéo dài quá lâu ở nông thôn đã tạo cho con người lao
động tính ỷ lại, thiếu tinh thần chủ động, linh hoạt trong sản xuất; cá nhân ỷ lại vào tập thể,
dưới ỷ lại vào trên, địa phương ỷ lại vào Trung ương... Những tập quán, thói quen ấy ăn sâu
trong tiềm thức của người lao động nông thôn tạo nên một sức ỳ ghê gớm. Có lúc chúng ta
tưởng như một số thãi quen, tập quán nào đó đã được loại trừ, nhưng khi gặp điều kiện thích
hợp, nó lại phục hồi nhanh chóng. Đúng như V.I. Lênin đã nhận xét: những tập quán, thãi
quen xấu của con người là sức mạnh đáng sợ nhất.
70
Thêm vào đó, do sự tác động của cơ chế thị trường và thực tiễn nền kinh tế - xã hội
nông thôn còn nhiều khó khăn, một bộ phận thanh niên nông thôn thiếu ý thức rèn luyện,
non kém về tư tưởng chính trị, chưa nhận thức rõ được tình hình, nhiệm vụ của giai đoạn
mới, có khuynh hướng sống thực dụng, coi thường các giá trị nhân văn, kỷ cương đạo lý,
thiếu ý chí tự lực, tự cường, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, ý chí phấn đấu vươn lên
trong cuộc sống kém. NNL nông thôn nước ta hiện nay còn thiếu những tiêu chuẩn của
phong cách lao động xã hội kiểu công nghiệp, như tính tổ chức, kỷ luật, khả năng hợp tác,
tinh thần trách nhiệm... Đây là một yếu tố bất lợi ảnh hưởng lớn đến chất lượng NNL nông
thôn.
Qua việc phân tích thực trạng NNL nông thôn nước ta hiện nay, đối chiếu với yêu
cầu của phát triển NNL trong quá trình CNH-HĐH, chóng ta thấy có một số vấn đề bức xúc
sau:
Một là, NNL nông thôn nước ta hiện nay đang mất cân đối rất lớn giữa nhu cầu
việc làm và khả năng giải quyết còn nhiều hạn chế
+ NNL nông thôn nước ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa số lượng cung rất lớn về
lao động giản đơn và sức cầu hạn chế trên thực tế về lao động lành nghề trong quá trình
CNH, HĐH.
+ Mất cân đối cung - cầu về lao động trong nông nghiệp, nông thôn là nhân tố chủ
yếu làm căng thẳng quan hệ cung - cầu về lao động ở nước ta hiện nay.
Hai là, chất lượng thấp của nguồn nhân lực nông thôn trước yêu cầu trình độ cao
của NNL cho CNH, HĐH.
+ Thiếu nghiêm trọng lao động có kỹ năng và mất cân đối nghiêm trọng cơ cấu
trình độ nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp.
+ Đội ngò cán bộ quản lý kinh tế không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị
trường và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trình độ về mọi mặt của chủ hộ gia đình ở nông
thôn còn quá thấp. Đây cũng là thực trạng chung của cán bộ quản lý trong nông thôn, nông
nghiệp và chủ hộ gia đình nông thôn.
Xây dựng đội ngò cán bộ quản lý nông thôn hiện nay là rất cần thiết nhằm chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Ba là, tiềm năng nhân lực nông thôn nước ta bị lãng phí và sử dụng không hiệu
quả còn rất lớn.
Bốn là, NNL nông thôn Việt Nam trong bối cảnh thị trường NNL khu vực và thế
giới còn nhiều bất cập và hạn chế về trình độ trí tuệ, trình độ chuyên môn kỹ thuật.
71
Năm là, NNL nông thôn Việt Nam trước yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động theo hướng CNH, HĐH còn nhiều hạn chế về chất lượng, cơ cấu.
Sáu là, NNL nông thôn trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường vận động theo định
hướng XHCN còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
Để phát triển NNL nông thôn, chúng ta cần phải chú ý học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong vùng, trong khu vực và thế giới. Kinh nghiệm phát triển NNL nông thôn trong
quá trình CNH, HĐH của Trung Quốc, Đài Loan, các nước ASEAN là những bài học kinh
nghiệm rất có ý nghĩa đối với phát triển NNL nông thôn nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu
và tham khảo có thể rót ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Các nước đã coi việc sử dụng có hiệu quả nguồn lao động nông thôn là quốc sách
để phát triển kinh tế. Họ đã thực sự đa dạng hóa các loại hình sử dông lao động theo cơ cấu
phát triển kinh tế nông thôn toàn diện ở từng nước nhằm đạt hai mục đích:
- Đem lại lợi Ých kinh tế cao nhất cho đất nước, cho nông thôn, cụ thể là cho đời
sống người lao động ở nông thôn; tiến tới thay đổi lối canh tác nông nghiệp truyền thống và
lối sống tự cấp, tự túc sang một nền sản xuất hàng hóa đa dạng và kỹ thuật cao, từng bước
nâng cao đời sống.
- Sử dụng triệt để sức lao động ở nông thôn, xóa dần tình trạng nông nhàn, sao cho
không để lao động dư thừa và đưa sức lao động này trở thành hàng hóa để có lợi Ých kinh
tế tốt nhất.
Đi đôi với sử dụng lao động nông thôn, các nước trên đã có những biện pháp đúng
và thích hợp để chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp vừa có sản xuất mòi nhọn, vừa có
sản xuất đa ngành đan xen nhau để sử dụng hết lao động nông thôn.
Có những hình thức thích hợp để từng bước công nghiệp hóa nông thôn từ nhỏ
đến lớn, lấy công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ nông thôn là chính để vừa thu hót lao động vừa
nâng cao dần đời sống của người dân nông thôn.
Tôn trọng quyền lợi của người lao động nông nghiệp, khuyến khích lợi Ých vật
chất thông qua các sản phẩm của họ sản xuất ra, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với
những người đầu tư phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn để huy động vốn cho
phát triển kinh tế ở nông thôn.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng chung cho sự phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước, vừa hòa nhập quốc tế
để đảm bảo khuyến khích sản xuất, sử dụng được tối đa lao động nông thôn, hạn chế di dân
từ nông thôn ra thành thị.
72
2.1.4. Đặc điểm của nguồn nhân lực nông thôn nước ta hiện nay
2.1.4.1. Một số nét khái quát về tình hình biến động dân số ở nông thôn nước ta
Số liệu tổng hợp cho thấy trong vòng 23 năm từ 1976 đến 1999 cho thấy, cơ cấu
dân số ở nông thôn nước ta thay đổi chưa đáng kể. Năm 1976, dân số nước ta sống ở nông
thôn là 39,033 triệu người, chiếm 79,4% dân số cả nước. Đến năm 1999 (31/3/1999 thời
điểm tổng điều tra dân số) dân số nông thôn nước ta là: 58,409 triệu người (chiếm 76,5%
dân số cả nước). Như vậy, ở nông thôn, trong vòng 23 năm, dân số đã tăng lên 19,376 triệu
người. Trong khi đó, dân số thành thị chỉ tăng 7,791 triệu người (từ 10,127 triệu lên 17,918
triệu người).
Thực trạng trên phản ánh một xu hướng chung là tốc độ gia tăng dân số ở nông
thôn diễn ra khá nhanh. Sù phát triển của công nghiệp và thành thị vẫn còn thấp, chưa đảm
bảo tạo thêm nhiều việc làm để thu hót dân số và lao động ra khái khu vực nông nghiệp và
nông thôn. Điều này phản ánh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở
nước ta diễn ra tương đối chậm và ngày càng gây sức Ðp lớn về ruộng đất, việc làm và thu
nhập ở nông thôn.
Mặt khác, so sánh giữa nhân khẩu nông nghiệp với dân số nông thôn ta thấy: Năm
1976, tỷ lệ nhân khẩu nông nghiệp so với dân số nông thôn là 86,4%, đến năm 1990 là
87,5%, năm 1993 là 88%. Điều này chứng tỏ những người sinh ra và lớn lên ở nông thôn
chưa được thu hót vào các ngành nghề khác, vẫn tập trung chủ yếu vào sản xuất nông
nghiệp.
Đặc biệt là dân số nước ta phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đông dân nhất cả
nước với 16,1 triệu người (21% dân số cả nước), tiếp theo là đồng bằng sông Hồng (trong
đó có Hà Nội), với 14,8 triệu (19% dân số cả nước). Mật độ dân số tại hai vùng đồng bằng
này là 1.180 người/km2, mật độ chung cả nước là 231 người/km2 [36, tr. 40].
Mặc dù dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng, nhưng tỷ lệ tăng, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong
đã giảm đáng kể trong thập kỷ vừa qua. Trong thập kỷ vừa qua, dân số ở Việt Nam đã tăng từ
64,4 triệu người vào năm 1989 lên 76,3 triệu vào năm 1999. Trong vòng 25 năm tới tỷ lệ tăng
dân số sẽ tiếp tục giảm.
Hơn nữa, tốc độ gia tăng dân số ở các vùng cũng khác nhau. Trong 5 năm từ 1990-
1995, dân số thành thị tăng trung bình 1,5%/năm và dân số nông thôn tăng là 2,6%/năm.
Việc gia tăng dân số ở nông thôn vẫn ở mức cao [24, tr. 40].
73
Từ cách so sánh trên, có thể rót ra một số nhận xét khái quát về dân số ở nông thôn
nước ta như sau:
- Về mặt số lượng tuyệt đối, dân số ở nông thôn vẫn tăng khá nhanh. Theo dự báo,
trong những năm tới, tỷ lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn vẫn còn cao. Như vậy, trong
những năm tới, nếu không đẩy mạnh CNH, HĐH để tạo ra sự chuyển đổi lớn về cơ cấu kinh
tế thì đại bộ phận dân cư vẫn tiếp tục sống ở nông thôn. Quá trình phát triển công nghiệp và
đô thị hóa diễn ra chậm, chưa đủ sức giảm tỷ lệ dân sè ở nông thôn xuống để thu hót họ vào
công nghiệp và dịch vụ.
- Trong nông thôn nước ta, dân số sống dùa vào nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn.
Tuy đã có cố gắng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phát triển ngành nghề và
dịch vụ ở nông thôn để giảm bớt sự phô thuộc vào nông nghiệp, nhưng do nhiều lý do khác
nhau (như ngành nghề phát triển không ổn định, công nghệ sản xuất lạc hậu, thiếu thị trường
tiêu thụ sản phẩm, sức cạnh tranh yếu...), nên người dân buộc phải gắn với sản xuất nông
nghiệp truyền thống, Ýt nhất vì nó đảm bảo được cái ăn chắc chắn hơn và thu nhập tuy thấp
nhưng đều hơn. Tình trạng này kéo dài sẽ cột chặt thêm kinh tế nông nghiệp vào sản xuất
nông nghiệp cổ truyền, dẫn đến tích lũy thấp, tăng trưởng kinh tế chậm và nguy cơ tụt hậu về
kinh tÕ so với các nước là khó tránh khỏi.
- Dân số nước ta phân bố không đều lại gia tăng nhanh đã tạo ra sức Ðp quá lớn
đối với tài nguyên, môi trường, tới việc phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng tới việc cải
thiện chất lượng cuộc sống của mỗi người Việt Nam.
Tóm lại, sự biến động dân số ở nông thôn nước ta hơn 20 năm qua diễn ra khá phức
tạp chưa theo xu hướng tích cực, hợp qui luật của quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, nó đã, đang
và sẽ ảnh hưởng rất lớn tới đặc điểm của NNL nông thôn, cũng như việc sử dụng khai thác
và phát triển NNL nông thôn hiện nay.
2.1.4.2. Đặc điểm của nguồn nhân lực nông thôn nước ta hiện nay
Quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải phân tích, đánh giá đúng và đầy đủ những đặc
điểm của NNL nông thôn. Trên cơ sở phân tích đó, xác định phương hướng và giải pháp
hợp lý, có hiệu quả nhằm sử dụng và phát triển nguồn tiềm năng quan trọng này. Qua việc
phân tích thực trạng NNL nông thôn và những vấn đề đang đặt ra ra đối với NNL nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH. Ta thấy NNL nông thôn nước ta hiện nay có những đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh
Do dân số nước ta phần lớn sống ở nông thôn nên NNL nông thôn hiện nay khá
đông. Theo Tổng Cục Thống kê năm 1996, lực lượng lao động nông thôn có 29.028 triệu
74
người, chiếm 80,94%; năm 1998 có 29.758 triệu người, chiếm 79,55%. Qua hai năm 1996-
1998 tỷ lệ lao động ở nông thôn đã có xu hướng giảm dần nhưng nhìn chung NNL nông
thôn vẫn còn lớn. Dù đoán sau năm 2000, lao động nông thôn nước ta vẫn chiếm tỷ trọng
lớn trong lực lượng lao động xã hội.
Đặc điểm này cho thấy tiềm năng nhân lực ở nông thôn nước ta rất to lớn và dồi
dào. Chỉ tính trong 5 năm (1990-1995) lao động nông thôn đã tăng lên 3,5 triệu người (trong
đó tăng tự nhiên gần 2,2 triệu, tăng do giảm biên chế khu vực Nhà nước, do quân nhân xuất
ngò, hợp tác lao động nước ngoài trở về... khoảng trên 1 triệu người). Đây là lực lượng lao
động trẻ khỏe, có khả năng tiếp thu và nắm bắt kỹ thuật mới nhanh, sử dụng công nghệ mới,
tiếp thu kiến thức kinh doanh tốt, nếu được bồi dưỡng và đào tạo chu đáo.
Tuy nhiên, NNL chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh, cùng với quá trình đô thị hóa và
mất dần đất nông nghiệp (nhất là vùng đồng bằng đông dân và vùng ven đô thị...) diễn ra
tương đối nhanh như hiện nay, trong khi chưa đủ điÒu kiện để chuyển họ sang làm ngành
nghề phi nông nghiệp và dịch vụ sẽ dẫn tới tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm tiềm tàng
ở nông thôn là rất lớn, gây sức Ðp lớn về giải quyết việc làm và thu nhập, xóa đói giảm
nghèo ở nông thôn, làm cho mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế với nhu cầu
giải quyết việc làm quá lớn vốn đã căng thẳng lại càng căng thẳng hơn. Vì vậy vấn đề khắc
phục mất cân đối cung- cầu về lao động ở nước ta phải giải quyết bắt đầu từ nông nghiệp,
nông thôn.
- Nguồn nhân lực nông thôn nước ta phân bố không đều giữa các ngành và các
vùng.
Thực tế cho thấy, cơ cấu NNL nông thôn nước ta hiện nay phân bố chưa hợp lý và
còn lạc hậu. Phân bố lao động theo khu vực năm 1998 như sau (sè trong ngoặc là của năm
1993): Lao động trong nông nghiệp 66% (71%); công nghiệp 13% (12%); dịch vụ 21%
(17%) [36, tr. 46]
Lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp và dịch vụ đã có
những bước phát triển mới nhưng tốc độ phát triển còn chậm. Đây là vấn đề bất lợi, cần tập
trung sức giải quyết nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động trong thời gian tới theo
hướng: giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch
vụ, phù hợp với qui luật của quá trình CNH, HĐH.
Các nước phát triển trên thế giới đã hoàn thành việc giảm lao động trong nông
nghiệp từ lâu và đang giảm lao động trong công nghiệp và tăng lao động trong lĩnh vực dịch
vụ và thông tin.
75
Mặt khác, NNL nông thôn phân bố giữa các vùng lãnh thổ cũng chưa hợp lý, chủ
yếu vẫn ở trạng thái tự nhiên nhiều hơn, các vùng chuyên canh lớn chưa được hình thành và
định hình rõ nét. Sự mất cân đối về lao động ở các vùng biểu hiện ở mật độ dân cư ở đồng
bằng và miền núi, trung du (80% dân cư sống ở đồng bằng; 20% dân cư sinh sống miền
núi), mật độ dân số ở đồng bằng cao gấp nhiều lần so với miền núi.
Các vùng lại có điều kiện tự nhiên, tài nguyên, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất khác nhau. Sự mất cân đối về lao động giữa các vùng tạo ra sự mất
cân đối giữa lao động và tư liệu sản xuất. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đòi
hỏi phải được phân bố một cách hợp lý giữa các vùng nhằm phát huy thế mạnh riêng của
từng vùng. Kết hợp giữa cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp là hết sức cần thiết, nhằm khắc phục tình trạng phát triển không đồng
đều ở nông thôn hiện nay. Giải quyết tốt vấn đề di dân có tổ chức và di dân tự do hiện nay
nhằm điều chỉnh hợp lý sự phân bố lao động giữa các vùng lãnh thổ.
Sau năm 1975, Chính phủ đã thể chế hóa các chính sách dân số dẫn đến di dân trong
nước gần 5 triệu người. Đa số là di chuyển từ vùng đông dân cư như đồng bằng sông Hồng,
tới những vùng thưa dân cư như Tây Nguyên và đồng bằng sông Mê Kông. Di dân từ nông
thôn ra thành thị trở thành xu hướng nổi bật trong thập kỷ 90. Đô thị hóa dân cư đã bắt đầu
tăng tốc tại Việt Nam trong thập kỷ vừa qua và sẽ còn tăng cùng với việc công nghiệp hóa
nền kinh tế. Vì vậy cần có hệ thống thu thập và đưa số liệu di dân vào các mô hình dân số
và phát triển, nhất là phải đảm bảo di dân không gây áp lực quá mức đối với cộng đồng và
môi trường. Công tác quy hoạch đô thị cần được tăng cường nhằm bảo đảm các thành phố
được chuẩn bị tốt để tiếp tục di dân được theo dự kiến.
Sự mất cân đối về lao động giữa các vùng nếu không được giải quyết tốt sẽ làm sâu
sắc thêm khoảng cách và chênh lệch giữa các vùng, giữa nông thôn với thành thị, giữa đồng
bằng - miền núi vùng sâu, vùng xa làm ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
- Nguồn nhân lực nông thôn nước ta còn thu nhập thấp là phổ biến, vấn đề xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn vẫn tiếp tục đặt ra gay gắt.
Lao động ở nông thôn chủ yếu là lao động giản đơn thủ công, cơ bắp v.v... lao động
thặng dư không đáng kể (do trình độ cơ giới hóa thấp, thời gian sử dụng lao động thấp nên
năng suất thấp). Thực tế cho thấy, để sản xuất ra 100kg thóc hiện nay ở nông thôn cần từ
10-20 ngày công lao động, trong khi đó nhiều nước chỉ cần vài giờ, cá biệt có những nước
tính bằng đơn vị phút. Năng suất lao động thấp, thiếu việc làm dẫn đến thu nhập thấp là điều
tất yếu.
76
Hơn nữa, về mức độ thu nhập, thì sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành
thị, giữa công nghiệp và nông nghiệp ngày càng gia tăng. Mặc dù đã đạt được những thành
tựu to lớn trong xóa đói, giảm nghèo, nhưng hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo;
12,5 triệu người (15,7% dân số) còn sống trong nghèo đói, trong đó có 1,5 triệu người thuộc
diện đói kinh niên. Theo định nghĩa rộng hơn về đói nghèo của Ngân hàng thế giới thì
không ít hơn 28 triệu người ở nước ta (chiếm 37,4%) còn sống dưới mức thu nhập tối thiểu.
Nghèo đói vẫn là vấn đề chủ yếu của nông thôn Việt Nam, mặc dù do những cố gắng
trong chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ, tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn đã giảm
từ 66,4% năm 1992-1993 xuống còn 44,9% năm 1997-1998 theo định nghĩa của Ngân hàng
thế giới. Người nghèo ở nông thôn nghèo hơn rất nhiều so với người nghèo ở thành thị, bởi
mức chi tiêu của họ ở dưới mức nghèo rất xa. Tỷ lệ nghèo đói cũng thay đổi giữa các vùng.
năm 1997-1998, ba vùng có tỷ lệ nghèo nhất là vùng núi và trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên
và Bắc Trung Bé. Vùng núi và trung du Bắc Bộ là vùng xa xôi hẻo lánh là vùng nghèo nhất
với hơn một nửa dân số (58,6%) còn sống trong nghèo đói vào thời điểm năm 1997-1998.
Vùng giàu nhất là vùng Đông Nam Bộ, một khu vực công nghiệp lớn của đất nước, với khoảng
8% dân cư được ghi nhận là nghèo. Tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các vùng phản
ánh sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn vì những hộ gia đình sống ở những vùng
nghèo nhất chủ yếu là thu nhập từ hoạt động nông nghiệp. Tình trạng nghèo đói là nghiêm
trọng trong các dân tộc ít người của Việt Nam và sự cách biệt mức sống giữa vùng núi, vùng
sâu, vùng xa với đồng bằng và thành thị (tỷ lệ đói nghèo trong các dân tộc Ýt người 1998 là
75% nhiều gấp 2 lần so với bình quân toàn quốc là 37%), tỷ lệ giảm nghèo rất thấp trong các
dân tộc Ýt người [36, tr. 21].
Người nghèo chủ yếu là những nông dân có trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp
cận các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế. Năm 1998, gần 4/5 số người nghèo
làm việc trong nông nghiệp. Tình trạng hộ nghèo có ít đất hoặc không có đất đang ngày một
phổ biến hơn, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long, các hộ có nhiều con hoặc ít lao động
có tỷ lệ nghèo cao hơn, những người dân nhập cư thành thị nghèo và không có hộ khẩu đang
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công cộng và có thể phải sống bên lề
của xã hội, có quá nhiều trẻ em trong số dân nghèo.
Đặc điểm này cho thấy nếu chỉ sản xuất thuần nông, năng suất thấp thì tình trạng
thiếu việc làm, thu nhập thấp và đói nghèo ở nông thôn sẽ không thể được cải thiện làm ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng NNL nông thôn nước ta. Điều đó cho thấy sự cần thiết và
tính tất yếu của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng
77
CNH, HĐH đang đặt ra bức xúc.
- Chất lượng nguồn nhân lực nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự phát
triển, nhưng cũng còn những hạn chế rất lớn trong quá trình tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
NNL nông thôn nước ta mà chủ yếu là giai cấp nông dân, đó là một cộng đồng dân
cư mang bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo, có truyền thống đoàn kết, yêu nước nồng nàn.
Nông dân nước ta có quá trình gắn bó chặt chẽ với Đảng, có phẩm chất cần cù, chịu khó,
thông minh và sáng tạo. Trong lịch sử, nông dân có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Đó là đội quân chủ lực trong mỗi cuộc cách mạng. Nông thôn nước
ta trước kia cũng như hiện nay, ở mỗi vùng, mỗi địa phương có vị trí, đặc điểm, tiềm năng,
đời sống kinh tế, văn hóa- xã hội khác nhau, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán cũng khác
nhau. Chính điều đó tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc hết sức độc đáo, phong phú và đa dạng
của nông thôn Việt Nam. Quá trình dựng nước và giữ nước đã hun đúc ở người lao động
Việt Nam những truyền thống dân tộc tốt đẹp tạo nên bản sắc dân tộc của người Việt - đó là
tinh thần tự chủ, truyền thống bất khuất và lòng tự hào dân tộc. Đó cũng chính là những lợi
thế quan trọng của nông thôn và người lao động ở nông thôn nước ta để phát triển kinh tế,
xã hội nông thôn và tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động trong nước và
quốc tế.
Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời với hàng ngàn năm lịch sử. Trải qua biết
bao biến cố thăng trầm của đất nước, những yếu tố của nền văn hóa truyền thống đã giúp
chúng ta đứng vững và đi lên, không bị đồng hóa ngay cả khi bị xâm lược và đô hộ. Bởi vậy,
cần phải coi yếu tố tinh thần gắn với truyền thống dân tộc là một nguồn lực quan trọng để
tiến hành CNH, HĐH đất nước. Theo nghĩa rộng hơn, phải coi văn hóa, đặc biệt là văn hóa
tinh thần là một nguồn lực to lớn, vô tận trong các nguồn lực để phát triển.
Mặt khác, với tác động của quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước sau 15 năm gắn
với cơ chế thị trường, ở nông thôn nước ta đang hình thành những người lao động có nhân
cách và lối tư duy mới. Từ những người ỷ lại, kém năng động, ít tháo vát trong sản xuất và
kinh doanh trước đây, đến nay, thanh niên nông thôn đã biết chấp nhận cạnh tranh, dám
phiêu lưu mạo hiểm, biết tự tìm cách khẳng định bản thân để tồn tại mà không bị đào thải,
không bị hòa tan. Cùng với những đổi mới về nhân cách, nhiều định hướng giá trị mới cũng
đang được hình thành. Đó là những mong muốn và nhu cầu cần được làm việc, có thu nhập
cao, nhu cầu học hỏi để vươn lên, sống có trách nhiệm, có tình nghĩa, là những mong muốn
được sống trong hòa bình, ổn định để phát triển...[19, tr. 135].
78
Chính những định hướng giá trị mới vừa mang tính hiện đại, vừa thể hiện tính
truyền thống đó đã góp phần tạo nên những con người có nhận thức cao, có bản lĩnh vững
vàng để đi vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế Êy, như đã trình bày trên, NNL nông thôn nước
ta, còn có những hạn chế và bất cập rất lớn so với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hóa và
CNH, HĐH đất nước. Đó là, hạn chế về sức khỏe với các chỉ tiêu quan trọng nhất như thể
lực, tầm vóc, tuổi thọ trung bình... của người lao động; hạn chế và bất cập về trình độ văn
hóa; yếu kém về trình độ chuyên môn nghề nghiệp và tay nghề. Đa số LLLĐ trẻ nông thôn
nước ta không có nghề, chưa được đào tạo [62, tr. 11].
2.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
Trong quá trình CNH, HĐH, sự tác động của cách mạng KH-CN cùng với đòi hỏi
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đang đặt ra những yêu cầu đối với việc khai thác và
phát huy tiềm năng nhân lực. Ở hầu hết các quốc gia hiện nay đang diễn ra quá trình tìm
kiếm những cách thức và giải pháp nhằm sử dụng tối đa nguồn lực quan trọng này. Do tình
hình kinh tế - xã hội khác nhau nên giải pháp và bước đi của các nước có khác nhau trong
từng thời điểm lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, gắn với diễn biến của cuộc cách mạng KH-CN, xu
thế chung, phổ biến của phát triển NNL trong quá trình CNH, HĐH là:
Thứ nhất, con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh
tế - xã hội.
Thứ hai, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy năng lực sáng tạo trở thành yêu cầu
chủ yếu của phát triển NNL.
Thứ ba, ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục-đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL
đang trở thành xu thế phổ biến của sử dụng, phát triển NNL.
Thứ tư, chuyển hướng sử dụng và phát triển nguồn nhân lực từ sử dụng đại trà sang
sử dụng linh hoạt, mềm dẻo NNL.
Thứ năm, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sử dụng và phát triển nguồn nhân lực trở
thành xu thế phổ biến trong điều kiện hiện nay.
Ngoài các xu hướng nêu trên, theo chúng tôi, tác động của cách mạng KH-CN đã làm
thay đổi về chất lực lượng sản xuất và đã kéo theo sự thay đổi trên nhiều mặt của lĩnh vực lao
động và việc làm, đang đặt ra nhiều vấn đề trong sử dụng, phát triển NNL. Hiện nay, những
tác động và biến đổi ấy là:
+ Cách mạng KH-CN làm thay đổi nội dung và tính chất của lao động.
79
+ Cách mạng KH-CN làm thay đổi diện nghề và cấu trúc của NNL.
+ Cách mạng KH-CN tất yếu dẫn đến việc người lao động phải đổi nghề nhiều hơn
+ Cách mạng KH-CN đang làm thay đổi các giá trị đời sống của
con người.
Đó chính là những biến đổi về tính chất, cơ cấu, yêu cầu về năng lực và trình độ của
NNL dưới tác động của cách mạng KH-CN hiện nay. Những biến đổi quốc tế ấy chi phối xu
hướng phát triển và sử dụng NNL hiện nay. Điều đó không thể không tính đến trong chính
sách phát triển NNL ở nước ta.
Chóng ta tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa nền kinh tế, NNL được
coi là nguồn lực cơ bản để thực hiện mục tiêu đó. Do vậy, quán triệt yêu cầu về NNL trong
điều kiện cách mạng KH-CN hiện nay nhằm vận dụng nó vào hoàn cảnh Việt Nam cho phù
hợp là hết sức cần thiết, nhất là việc phát triển NNL nông thôn. Đó cũng là con đường để rút
ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta và thế giới trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Trước hết, để dự báo được những xu hướng phát triển của NNL nông thôn nước ta
trong quá trình CNH, HĐH đất nước, cần xác định những căn cứ để dự báo xu hướng. Đây
là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc. Dự báo chỉ chính xác (dĩ nhiên là tương
đối), nếu những căn cứ dự báo mang tính khách quan, phù hợp với sự vận động của thực
tiễn, nhận diện đúng thực trạng những vấn đề của thực tiễn và được xem xét, đánh giá trên
những quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận khoa học. Theo quan điểm mác-xít, đánh
giá một vấn đề xã hội phải tuân thủ nguyên tắc: tính khách quan của sự xem xét, tuyệt đối
tránh suy diễn chủ quan, duy ý chí, phải đứng trên những quan điểm thực tiÔn và phương
pháp tư duy biện chứng, có cái nhìn chỉnh thể và toàn diện, bao quát sự vật, đồng thời phải
đứng vững trên quan điểm lịch sử - cô thể và quan điểm phát triển. Dùa trên những nguyên
tắc phương pháp luận khoa học đó của chủ nghĩa Mác-Lênin, những căn cứ để dự báo xu
hướng phát triển của NNL nông thôn ở nước ta trong quá trình CNH, HĐH là:
+ Xuất phát từ thực tiễn quá trình đổi mới, đặc biệt là thực tiễn phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, thực tiễn phát triển của nền kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam.
+ Yêu cầu và đòi hỏi của CNH, HĐH đối với phát triển NNL, bối cảnh của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, xu thế của nền kinh tế thế giới và khu vực, điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
+ Kinh nghiệm của các quốc gia sản xuất nông nghiệp đã tiến hành CNH thành
công ở những mức độ khác nhau.
80
+ Nền kinh tế thị trường và sự giao lưu, hội nhập với các nước khu vực và trên thế
giới.
Những căn cứ chủ yếu trên là xuất phát từ thực tiễn sự vận động phát triển của nền kinh
tế - xã hội nước ta trong bước chuyển sang thế kỷ XXI với bước ngoặt của quá trình CNH,
HĐH. Những căn cứ nêu trên không tách rời, mà gắn bó mật thiết với nhau trong bối cảnh hội
nhập của nước ta với khu vực và quốc tế, với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế
giới và xu hướng phát triển NNL trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, NNL nông thôn nước ta
phát triển dùa trên định hướng XHCN do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và nó được phát
triển trên nền tảng của truyền thống lịch sử, văn hóa vững chắc được hình thành, phát triển
qua hàng ngàn năm lịch sử. Nó đã tạo ra bao giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức, tinh thần, trí
tuệ Việt Nam. Truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc có cả mặt tích cực và hạn chế do
hoàn cảnh lịch sử để lại, nhất là ở nông thôn với người nông dân truyền thống. Vì vậy, trong
quá trình phát triển nguồn nhân lực phải có quan điểm biện chứng. Hệ tư tưởng chỉ đạo và nền
tảng tinh thần của xã hội ta là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là cơ sở
đảm bảo quan trọng cho lãnh đạo định hướng, phát triển và quản lý NNL, làm cho nó phát
triển hợp quy luật, lành mạnh, tích cực, không chệch hướng khỏi quỹ đạo XHCN.
Việc nắm vững những căn cứ trên là cơ sở để dự báo sự phát triển nguồn nhân lực
nông thôn nước ta trong những năm trước mắt. Sau đây là những xu hướng phát triển
NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn ở nước ta sẽ tất yếu diễn ra sự phân
bố lại cơ cấu nguồn nhân lực do tác động của quá trình phân công lại lao động xã hội
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Thực tiễn nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, việc phân công và sử dụng NNL
thực chất là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực lao động, trong đó tất yếu phải tiến hành
phân công lại lao động trong nông nghiệp và nông thôn. Điều này, C.Mác đã từng khẳng
định: trình độ phát triển của phân công lao động phản ánh trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Phân công lao động là điều kiện không thể thiếu được đối với mọi hình thái kinh tế
- xã hội. Nó tồn tại với tư cách là một qui luật khách quan, phổ biến: "Sự tất yếu phải phân
công lao động xã hội theo những tỷ lệ nhất định hoàn toàn không hề bị xóa bỏ bởi một hình
thức nhất định của sản xuất xã hội, mà chỉ có hình thức biểu hiện của nó là có thể thay đổi
mà thôi, điều này tự nó đã rõ ràng. Nói chung không thể xóa bỏ bất cứ một qui luật nào"
[42, tr. 688].
81
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng những bước phát triển
mới của xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đều gắn liền với những bước phát triển mới,
cao hơn về phân công lao động xã hội. Lịch sử các nước công nghiệp phát triển cũng nói lên
rằng, những nước này đã thực hiện một sự thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc trong cơ cấu lao
động, đặc biệt là giữa lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp.
Nhìn lại con đường mà các nước sản xuất nông nghiệp trên thế giới đã thực hiện
CNH thì quá trình CNH, HĐH đặc biệt là CNH, HĐH nông thôn thực chất là quá trình giải
quyết vấn đề nông dân. Đây là quá trình chuyển dịch sức lao động nông nghiệp sang ngành
sản xuất công nghiệp và phi nông nghiệp, quá trình chuyển dịch nhân khẩu nông thôn vào
thành thị, là quá trình gia tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
lao động trong nông nghiệp, là quá trình chuyển biến từ sản xuất nông nghiệp là chính sang
phát triển công nghiệp, một bộ phận lớn người nông dân chuyển sang làm công nhân ở nông
thôn. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu lao động nông thôn theo
hướng CNH, HĐH.
Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới cho thấy, lúc đầu do
kinh tế còn lạc hậu, lao động nông nghiệp còn chiếm đại bộ phận. Đi đôi với quá trình tiến
hành CNH, lao động nông nghiệp sẽ không ngừng giảm xuống (tuyệt đối và tương đối); lao
động trong các ngành công nghiệp không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn. Mặt khác,
CNH đem lại năng suất lao động trong các ngành sản xuất vật chất đạt đến mức cao lại cho
phép tăng tỷ trọng lao động trong các ngành sản xuất vật chất lên nhiều. Điều này VI.Lênin
đã từng nhấn mạnh: Nhân khẩu của một nước mà nền kinh tế hàng hóa Ýt phát triển (hoặc
hoàn toàn không phát triển) thì hầu như toàn chỉ là nhân khẩu nông nghiệp. Có nghĩa là dân
cư làm nghề nông đã tự chế biến lấy nông sản, sù trao đổi và sự phân công hầu như không
có. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa có nghĩa là một bộ phận ngày càng đông trong dân cư
tách khỏi nông nghiệp, nhân khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp
giảm xuống.
Như vậy, lao động trong nông nghiệp giảm, lao động trong các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng lên là xu thế tất yếu và là một quá trình. Đây là một qui luật của quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và CNH, HĐH nói chung.
Quá trình này diễn ra nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào đặc điểm và điều kiện,
hoàn cảnh của từng quốc gia. Chẳng hạn: Anh là một nước mà chủ nghĩa tư bản hình thành
sớm nhất, quá trình giảm tỷ trọng lao động trong sản xuất nông nghiệp từ 70% xuống 37%
đã trải qua 100 năm (khoảng từ 1700-1800). Trung Quốc vào năm 1952, lao động nông
82
nghiệp chiếm 83,5%, sau nhiều năm cải cách, đến năm 1993 vẫn còn 60% lao động nông
nghiệp. Đối với các nước ASEAN, tỷ trọng ấy tuy có ngắn hơn về thời gian, nhưng cũng
phải mất nhiều năm và mức độ giảm không đồng đều. Trong vòng 19 năm, Malaixia giảm
20,8%, Inđônêxia: 17%; Thái Lan: 13,5%; Philippin: 7,6% lao động trong sản xuất nông
nghiệp [56, tr. 123].
Ở nước ta, sau 15 năm đổi mới, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, đáng tự hào. Tuy nhiên, đến nay, về cơ bản, nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp với điểm xuất phát tương đối thấp. Chóng ta tiến hành CNH, HĐH từ một nền
nông nghiệp lạc hậu, thuần nông là chủ yếu, do vậy phải nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng
tạo qui luật về phân công lao động xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Nông nghiệp và
nông thôn nước ta là nơi cung cấp thường xuyên lực lượng lao động cho mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, lương thực thực
phẩm cho đời sống xã hội. Đây chính là thị trường rộng lớn tiêu thụ hàng hóa và sản phẩm
của công nghiệp. Ở nước ta, NNL nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh, vì vậy, vấn
đề phân công lại lao động trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH đặt ra
hết sức quan trọng và cần thiết. Kinh nghiệm thực tiễn ở nước ta và các nước trên thế giới
cho thấy, để phát triển nông nghiệp và nông thôn vững chắc, phải xây dựng cơ sở vật chất,
kỹ thuật và đổi mới công nghệ, đưa công nghệ mới khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào nông
nghiệp và nông thôn. Công nghiệp phải có tác dụng mạnh mẽ và trở thành yếu tố để cải tạo
nông nghiệp, đưa nông nghiệp và nông thôn thoát khỏi tình trạng lạc hậu trì trệ và thuần
nông, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Việc xác lập cơ cấu kinh tÕ nông thôn
hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn lực và giải phóng các nguồn lực
nhằm phục vụ công cuộc tái thiết đất nước nói chung và khu vực kinh tế nông thôn nói
riêng. Suy cho cùng, con người vẫn là nguồn lực cơ bản, quan trọng nhất quyết định sự phát
triển của xã hội. Với ý nghĩa ấy, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bằng việc giải phóng
và phát triển NNL, xây dựng và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là đòi hỏi
tất yếu cả trước mắt và lâu dài. Thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, từng bước chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là nhằm khai thác năng lực tiềm tàng của khu vực này.
Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chủ yếu xuất phát từ:
- Kinh tế nông thôn là nền kinh tế toàn diện. Trước đây, khi đề cập đến nông thôn,
người ta chỉ quan niệm nó gần như trùng hợp với nông nghiệp đơn thuần. Quan niệm nông
thôn chỉ là nông nghiệp và nông nghiệp chỉ là trồng trọt và chăn nuôi. Kinh tế nông thôn
bao gồm mọi hoạt động kinh tế, gồm cả hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ...
83
Cơ cấu mới của kinh tế nông thôn là cơ cấu nông- công nghiệp - dịch vụ hợp lý.
- Thực trạng cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta còn què quặt, tuy nhiên, lại rất nhiều
tiềm năng.
- Đòi hỏi của thị trường, của nền kinh tế thị trường và nhu cầu thị trường. Trong cơ
chế này khi tiến hành sản xuất đều phải trả lời ba vấn đề lớn: Sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và sản xuất cho ai?
Như vậy, xu hướng phân bố lại cơ cấu NNL nông thôn, phân công lại lao động xã
hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là một xu thế tất yếu trong quá trình CNH,
HĐH.
Trong quá trình phân bố lại cơ cấu NNL nông thôn thì: Phân công lại lao động
trong nội bộ ngành nông nghiệp là một xu hướng tất yếu của quá trình chuyển hóa từ sản
xuất nhỏ, tiểu nông lên sản xuất lớn, cũng là qui luật của quá trình CNH, HĐH.
Sự phân công lại lao động diễn ra trong nội bộ ngành nông nghiệp, trước hết là
trong ngành trồng trọt và chăn nuôi; giữa các ngành trồng trọt với chăn nuôi; giữa các vùng;
giảm bớt số lao động trong nông nghiệp, chuyển lao động trong nông nghiệp sang công
nghiệp.
- Giảm lao động trồng cây lương thực sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và
những cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Xu hướng này, một mặt, do nhu cầu của xã hội về sản xuất cây công nghiệp ngày
mét tăng (xuất phát từ nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu, cải tiến
cơ cấu và chất lượng bữa ăn...); mặt khác, do năng suất cây trồng ở một số vùng ngày càng
cao, cơ chế lưu thông điều hòa lương thực tốt hơn; do vậy, cho phép người lao động suy
nghĩ, tính toán, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu lao động, đưa một bộ phận
sang trồng cây công nghiệp và các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao tăng theo từng loại
đất ở từng vùng khác nhau.
Hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong những năm tới sẽ là chuyển sang làm các
loại cây màu lương thực giống mới có năng suất cao: ngô, các loại đậu đỗ, rau cao cấp, từng
bước vươn tới một nền nông nghiệp đa canh, bên cạnh những vùng tập trung chuyên canh
lớn nhằm giải quyết công ăn việc làm tại chỗ. Để hỗ trợ tích cực cho xu hướng này, Nhà
nước cần có chính sách thỏa đáng về đầu tư, tín dụng, thuế, bảo trợ giá, công nghiệp chế biến,
thị trường tiêu thụ sản phẩm và phát triển thị trường nông thôn.
- Giảm lao động trồng trọt và tăng lao động trong chăn nuôi
84
Xu hướng này cũng do đòi hỏi của xã hội đối với sản phẩm chăn nuôi ngày càng tăng.
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta ngành chăn nuôi còn chậm phát triển và chủ yếu dùa vào chăn
nuôi gia đình trong các hộ nông dân và chăn nuôi tập thể theo phương pháp công nghiệp phát
triển chưa đáng kể. Vì vậy, trong những năm tới, tùy từng điều kiện, từng nơi mà phát triển
chăn nuôi đa ngành, nhiều chủng loại, phát triển các loại gia sóc, gia cầm đặc sản và có giá
trị kinh tế cao (dê, hươu, bò sữa, tằm, ong, thó rừng, thủy, hải sản...).
Xu hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi cũng cần được khuyến khích và
ưu đãi. Kết hợp phát triển chăn nuôi giữa các doanh nghiệp hợp tác với các hộ gia đình để
sử dụng tốt NNL và tư liệu sản xuất ở nông thôn. Đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất
chính.
- Giảm tỷ trọng lao động trồng lúa, mầu..., tăng dần tỷ trọng lao động trong lâm
nghiệp và thủy sản.
Xu hướng này là hết sức cần thiết, nó giúp khai thác tốt tiềm năng của mỗi ngành và
đảm bảo phát triển hài hòa, cân đối giữa nông - lâm - thủy sản nhằm phát triển nông thôn toàn
diện, khai thác hết các tiÒm năng ở nông thôn.
Phân công lại lao động theo xu hướng phát triển công nghiệp, các ngành nghề
và dịch vụ ở nông thôn.
Từ thực trạng NNL nông thôn nước ta cho thấy: NNL nông thôn dư thừa rất lớn,
thời gian thiếu việc làm của người lao động nông thôn cao; sản xuất ở nông thôn mang tính
thời vụ. Tình trạng thiếu việc làm, việc làm cầm chõng là phổ biến. Kết hợp phát triển nông
nghiệp toàn diện với mở rộng công nghiệp nông thôn, ngành nghề và dịch vụ nông thôn là
hết sức cần thiết, phù hợp với qui luật của CNH, HĐH nông thôn, nông nghiệp.
Trong nông thôn Việt Nam, hộ nông nghiệp thuần nông (bao gồm cả lâm nghiệp và
ngư nghiệp) chiếm 62,22%; hộ kiêm chiếm 26,49% và hộ chuyên phi nông nghiệp chiếm
11,29%. Tổng số hộ, cơ sở chuyên có khoảng 1.350.000 đơn vị, trong đó, 97% là hộ, còn
3% là doanh nghiệp. Trong số các doanh nghiệp có 14,16% thuộc sở hữu quốc doanh;
5,76% là các hợp tác xã và 80,08% là các doanh nghiệp tư nhân [49, tr. 505].
Thực tiễn phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam cho thấy: Ngành nghề nông
thôn Việt Nam rất đa dạng, có hàng trăm nghề, việc phân loại nhóm nghề thường căn cứ vào
công nghệ đầu vào hoặc công nghệ sản xuất. Có thể chia thành 3 nhóm nghề chính: nhóm
chế biến nông - lâm - thủy sản; nhóm công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng và nhóm dịch
vụ.
Những năm gần đây, việc gia tăng nhanh chóng các hộ, các cơ sở ngành nghề phi
85
nông nghiệp, phát triển các làng nghề thể hiện sự tác động tích cực của các chÝnh sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn theo hướng CNH.
Việc cần nghiên cứu, tiếp tục điều chỉnh các chính sách để duy trì và phát triển ngành nghề
nông thôn theo hướng CNH là hết sức cần thiết nhằm giải quyết việc làm và chuyển đổi cơ
cấu lao động nông thôn.
Các ngành nghề ở nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp và tác động qua
lại biện chứng với nhau thông qua lao động và điều chuyển lao động. Các ngành nghề và
dịch vụ nông thôn có tác dụng rất lớn trong việc sử dụng NNL tại chỗ ở nông thôn, nó giải
quyết được mấy vấn đề sau:
- Giải quyết sự mất cân đối giữa NNL dư thừa ở nông thôn với quỹ đất nông nghiệp
quá Ýt và ngày càng giảm.
- Tận dụng tối đa thời gian nhàn rỗi, tạo điều kiện cho mọi người hoạt động nhiều
ngành nghề và dịch vụ, góp phần cơ bản thay đổi tính chất thuần nông ở nông thôn.
- Mở rộng thị trường, tạo sức hấp dẫn cho cơ hội đầu tư, tạo điều kiện đẩy nhanh
phân công lại lao động ở nông thôn.
Qua thực tế ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng (như Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định,
Hà Nam, Hà Tây...), đồng bằng sông Cửu Long (như Long An, Đồng Tháp, An Giang...) và các
tỉnh Thanh Hóa, Quảng Nam, Tây Ninh... cho thấy đây là một xu hướng thu hót được nhiều
lao động, tăng thu nhập, doanh thu và việc làm cho lao động nông thôn. Xu hướng này cần
được coi trọng, vì nó có tác dụng hơn các nhân tố khác. Vì vậy, xu hướng đẩy mạnh ngành
nghề, tăng qui mô lao động trong các hộ chuyên là một trong những giải pháp quan trọng để
thu hót lao động dư thừa trong nông nghiệp, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp,
hàng xuất khẩu theo hướng CNH.
Ở nhiều vùng nông thôn nước ta hiện nay, cùng với việc khôi phục các làng nghề
truyền thống, thì các điều kiện để xây dựng, phát triển ngành nghề mới, gắn nông nghiệp
với công nghiệp nông thôn, gắn sản xuất với chế biến, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, du lịch
và tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình CNH,
HĐH cũng đang được thiết định.
Xu hướng chung trong những năm sắp tới là tiếp tục đẩy mạnh, khuyến khích các
ngành nghề và dịch vụ nông thôn. Tập trung vào phát triển công nghiệp - dịch vụ tại các
trung tâm thị trấn, thị tứ; khuyến khích phát triển các làng nghề, xã nghề tạo ra mối liên kết
giữa cung ứng - dịch vụ với sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm ngay tại nông thôn.
86
Tóm lại, xu hướng chung của phân bố lại cơ cấu NNL nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta là: chuyển dịch lao động trồng cây lương thực sang trồng cây công
nghiệp, phát triển chăn nuôi, mở mang nghề cá và khai thác nghề rừng, chuyển dần tỷ trọng
lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nông thôn, chuyển lao động giản đơn
thành lao động lành nghề, chuyển lao động từ năng suất thấp lên năng suất cao. Trong đó,
phát triển ngành nghề và dịch vụ nông thôn là một đòi hỏi cấp bách, một xu hướng cơ bản,
một vấn đề mang tính qui luật. Đó là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Sự phân bố lại cơ cấu lao động nông nghiệp tất yếu đòi hỏi nâng cao chất lượng
NNL và nó sẽ tạo ra một bộ phận nhân lực nông thôn được thu hót vào công nghiệp, thương
nghiệp và dịch vụ, tuy sống ở nông thôn nhưng họ là thị dân (do nông thôn đô thị hóa).
Những vùng nông thôn ven đô sẽ biến đổi nhanh theo hình ảnh đô thị (các phố làng, các cửa
hàng, xưởng thợ, công ty sẽ xuất hiện nông dân có thể trở thành chủ doanh nghiệp, thích
ứng dần với cơ chế thị trường và lối sống đô thị).
2.2.2. Nguồn nhân lực nông thôn nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa sẽ tăng nhanh về số lượng, chất lượng và cơ cấu, tính cơ động của việc chuyển đổi
nghề nghiệp sẽ tác động tới sự di chuyển nhân lực lao động giữa các vùng, các miền và
các ngành trong cả nước
Xu hướng này diễn ra như là kết quả của tác động tổng hợp kinh tế - xã hội và yêu
cầu đặt ra trong phát triển NNL giai đoạn CNH, HĐH và sự tác động của nền kinh tế - xã
hội tới tâm lý, ý thức, sự định hướng và lùa chọn giá trị của người lao động. Chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của xu hướng này là NNL thanh niên.
Sự tăng nhanh về số lượng NNL nông thôn nước ta có nguồn gốc từ sự tăng dân số,
tăng số lượng người có khả năng lao động và số người đến tuổi lao động hàng năm bổ sung
vào nguồn lao động. Đặc điểm của NNL nông thôn nước ta là chiếm tỷ trọng lớn và tăng
nhanh do kết quả của tăng dân số ở nông thôn những năm 80. Trong quá trình CNH, HĐH
thì NNL dồi dào ở nông thôn là một tiềm năng lớn. Trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, số
lượng NNL nông thôn vẫn rất lớn. Hiện nay nước ta vẫn đang trong thời kỳ bùng nổ số
người trong độ tuổi lao động do mức sinh cao ở những năm trước và số người ra khái độ
tuổi lao động tương đối ổn định. Vì vậy nếu thỏa mãn được nhu cầu về việc làm bằng lao
động xã hội có Ých cho họ, xã hội sẽ có được bước chuyển từ nguồn lực tiềm tàng sang
nguồn lực thực tế để sử dụng (hiện hữu).
Quá trình CNH, HĐH hiện nay đòi hỏi rất cấp bách về NNL chất lượng cao cùng
với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những nỗ lực của Nhà nước trong giáo dục và đào
87
tạo. Nhờ vậy, chất lượng NNL nông thôn cũng dần được nâng cao, khắc phục được những bất
cập đang đặt ra về chất lượng NNL nông thôn hiện nay. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH, cơ cấu NNL nông thôn sẽ đa dạng và phong phú
hơn, phù hợp với xu hướng của nền sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường ở nông thôn nước
ta. Do việc đẩy mạnh xã hội hóa lao động và chuyên môn hóa nghề nghiệp ngày một cao và
sự kết hợp giữa chuyên ngành và đa ngành trong quá trình CNH, HĐH mà cơ cấu nhân lực sẽ
mang tính đa dạng theo cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế.
Mặt khác, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sử dụng và phát triển NNL đang là xu thế
phổ biến trong điều kiện ngày nay. Việc mở rộng kinh tế đối ngoại, hợp tác song phương và
đa phương ngày càng được đẩy mạnh sẽ làm xuất hiện những sự di chuyển nhân lực thông
qua xuất khẩu lao động ra nước ngoài, đồng thời, có cả hiện tượng nhập khẩu lao động chất
lượng cao, các chuyên gia KH-CN. Hiện nay nước ta cũng phải nhập khẩu nhiều lao động
có tay nghề cao, các chuyên gia giỏi tư vấn cho ta về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, hành
chính, luật pháp... Về lâu dài chúng ta phải tự lực được các chuyên gia giỏi và đội ngò công
nhân lành nghề. Cơ cấu nhân lực: trong tương lai sẽ khắc phục được nhược điểm thiếu cán
bộ KH-CN và chuyên gia giỏi và thiếu công nhân lành nghề từ sự thúc đẩy khách quan của
nền kinh tÕ, sự nỗ lực chủ quan của Nhà nước và các công dân.
Cuộc cách mạng KH-CN hiện nay ngày càng làm cho nền kinh tế ngày càng mang
tính chất một nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, những nội dung tri thức nghề
nghiệp của lao động thường bị lạc hậu rất nhanh. Điều đó đòi hỏi người lao động phải
thường xuyên cập nhật và bổ sung kiến thức nghề nghiệp, sẽ có nhiều lao động không thích
ứng và phải đổi nghề nghiệp, nơi làm việc. Mặt khác, tiến bộ KH-CN hiện nay còn làm cho
cơ cấu sản xuất và cơ cấu nghề nghiệp thay đổi rất nhanh chóng. Xu thế này sẽ làm cho số
người dôi ra và buộc phải đổi nghề nhiều hơn. Như vậy, dưới tác động của cách mạng KH-
CN thì việc lao động phải đổi nghề nhiều hơn là một tất yếu; xu hướng này đòi hỏi người
lao động phải được đào tạo theo diện rộng và nâng cao tính cơ động của người lao động.
Công cuộc đổi mới trên đất nước ta do Đảng ta khởi xướng đã giải phóng mọi tiềm
năng của xã hội. Mọi công dân được phép làm những gì mà luật pháp không cấm. Trong
lĩnh vực lao động, Luật lao động đảm bảo cho mọi công dân quyền có việc làm và tự do lựa
chọn chỗ làm việc. Cơ chế thị trường gắn với động lực của lợi ích, của qui luật giá trị và
quan hệ điều tiết cung- cầu tạo cho người lao động cơ hội bình đẳng trong lùa chọn nghề
nghiệp, di chuyển và không gian hành nghề. Tính di chuyển và tính cơ động nhân lực là một
xu thế trong phát triển NNL nói chung và NNL nông thôn nói riêng ở nước ta trong quá
88
trình CNH, HĐH.
Từ việc nắm bắt xu hướng này, cần có kế hoạch phát triển NNL nông thôn một cách
hợp lý thông qua công tác đào tạo, sử dụng bồi dưỡng và quản lý NNL, giải quyết tốt hơn
quan hệ cơ cấu chất lượng, ngành nghề, lãnh thổ và thành phần kinh tế của NNL. Cần có kế
hoạch khắc phục mất cân đối trong đào tạo hiện nay, nhất là đào tạo nghề nghiệp cho NNL
nông thôn.
2.2.3. Nguồn nhân lực nông thôn nước ta vào đầu thế kỷ sau sẽ vẫn là một
nguồn nhân lực trẻ
Một vấn đề mang tính qui luật là qui mô của NNL phụ thuộc vào qui mô dân số
trước đó 15 năm. Trước năm 1996, tốc độ gia tăng dân số nước ta vẫn trên 2%/năm, nên qui
mô NNL trong vài thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn rất lớn. Trong suốt thời kỳ CNH, HĐH,
NNL nước ta rất dồi dào. Hiện nay chóng ta đã hạ được tỷ lệ tăng dân số xuống 1,76% thì
phải đến sau năm 2010 qui mô NNL ở nước ta mới giảm dần.
Lớp người lao động chủ yếu trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, khi nước ta
đang chuyển sang trình độ một nước công nghiệp, tuyệt đại đa số là sinh ra từ sau năm
1975. Một bộ phận trong NNL ở nước ta khi đó được sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, trong thời kỳ mở cửa. Do vậy, NNL trẻ ở nước ta vẫn chiếm đa số trong lực
lượng lao động. Đây là một thế mạnh to lớn của nước ta trong phát triển. Cần giáo dục, đào
tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ về thể lực, trí lực và đạo đức để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao;
đồng thời, hạn chế những khiếm khuyết, những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường tác động
vào líp trẻ, vào NNL thanh niên của nước ta.
NNL trẻ nông thôn nước ta có những ưu điểm và thế mạnh vượt trội so với líp cha
anh về sức khỏe, học vấn, kỹ thuật, công nghệ và phong cách lao động công nghiệp, lối
sống và cách nghĩ của những người sống trong đổi mới, dân chủ hóa và hiện đại hóa. Tuy
nhiên, có một bộ phận không nhỏ đã tập nhiễm phải những mặt trái của cơ chế thị trường.
Để cho NNL trẻ nông thôn phát triển với tư cách là nguồn lực cơ bản của CNH, HĐH,
chúng ta phải tăng cường giáo dục chính trị, lập trường; giúp họ có kinh nghiệm sống thực
tiễn, trau dồi ý chí và bản lĩnh; có thái độ đạo đức và văn hóa trong cách nhìn, ứng xử với
truyền thống và quá khứ. Giáo dục lối sống, văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức cho họ là
những vấn đề cần thiết. Giúp họ tránh sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường: ích kỷ, cực
đoan, thậm chí tàn nhẫn, tôn thờ đồng tiền, chạy theo lối sống hưởng thụ, phóng túng, buông
thả, đặc biệt là hiểm họa ma túy và các bệnh xã hội HIV/AIDS... Vai trò của giáo dục đối với
tuổi trẻ là hết sức quan trọng trong lập thân và lập nghiệp. Quá trình CNH, HĐH với sự vận
89
động của cơ chế thị trường sẽ sàng lọc, đào thải ngày một nghiệt ngã hơn đối với người lao
động không có sức khỏe, không có chuyên môn giỏi, học vấn và học thức cao. Phát triển
NNL trẻ ở nông thôn sẽ tạo ra động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH.
2.2.4. Nguồn nhân lực nông thôn sẽ tiếp tục chịu tác động của phân hóa giàu
nghèo, vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn sẽ tiếp tục căng thẳng trong thời
gian tới
Xu hướng này bắt nguồn từ thực trạng NNL nông thôn và thực trạng phân hóa giàu
nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay trong nền sản xuất hàng hóa. Trong những năm trước
mắt, phân hóa giàu nghèo ở nông thôn nước ta sẽ diễn ra theo hai hướng:
- Khi nào sản xuất hàng hóa kém phát triển thì khoảng cách giàu nghèo còn ở mức
thấp.
- Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo lại càng xa, mặc dù
đời sống của bộ phận dân nghèo, cũng đã được nâng lên nhiều lần so với trước. Chỉ sau khi
sự phát triển kinh tế - xã hội đạt trình độ nhất định, nhờ sự phối hợp thực hiện chính sách xã
hội khác, sự phân hóa này mới giảm.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa, bên cạnh những tác động tích
cực cũng đã làm cho sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra khá gay gắt ở cả
thành thị và nông thôn.
Trước đổi mới, trong cơ chế bao cấp, khoảng cách giàu nghèo vẫn tồn tại, nhưng
không lớn. Nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường càng phát triển, sự phân hóa giàu nghèo
diễn ra càng mạnh mẽ. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo về thu nhập, mức sống
và tiện nghi sinh hoạt càng lớn. Đó là điểm tất yếu mang tính quy luật của nền kinh tế thị
trường. Đó cũng là khuyết tật của kinh tế thị trường mà chúng ta cần nhận rõ để có cơ chế,
chính sách, biện pháp hạn chế và khắc phục, làm cho phân hóa giàu nghèo không vượt quá
giới hạn cho phép dẫn tới phân hóa giai cấp, làm chệch hướng XHCN của công cuộc đổi
mới.
Cho đến nay, lực lượng lao động chủ yếu ở nước ta vẫn là giai cấp nông dân và
canh tác nông nghiệp với đặc trưng phổ biến là kinh tế thuần nông. Sự phân hóa giàu nghèo
ở nước ta vẫn chủ yếu là ở nông thôn và nông dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
kháng chiến cũ. Chương trình tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước phải
lấy đối tượng và khu vực dân cư này làm trọng điểm.
Mặt khác, đặc điểm nổi bật nhất ở nông thôn là tỷ trọng người có việc làm cao
nhưng tình trạng thiếu việc làm (bán thất nghiệp) phổ biến ở khắp nơi, tuy mức độ và trạng
90
thái có khác nhau ở từng vùng. Trong điều kiện cơ chế thị trường, dù Nhà nước có chính
sách hoàn hảo đến đâu thì xã hội vẫn có thể còn một bộ phận lao động thiếu việc làm hoặc
chưa có việc làm. Vấn đề đặt ra là: Căn cứ vào thực trạng dư thừa lao động và bán thất
nghiệp ở nông thôn, Nhà nước phải có biện pháp kiểm soát được thị trường sức lao động,
bảo vệ người lao động đang làm việc, hỗ trợ người bị thất nghiệp, khống chế tỷ lệ thất
nghiệp ở mức độ có thể kiểm soát được. Quan điểm giải quyết việc làm cơ bản nhất hiện
nay vẫn là tự do hóa lao động, tận dụng và phát huy mọi tiềm năng kinh tế, mọi tầng líp
nhân dân và mọi gia đình (hộ nông dân) trong tạo việc làm. Thực trạng việc làm và thiếu
việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay cho thấy nguy cơ thiếu việc làm và thất nghiệp Ýt có
cơ hội để giải quyết nhanh và trong thời gian ngắn, nó vẫn là vấn đề nan giải ở những thập
kỷ đầu thế kỷ XXI. Do vậy, Nhà nước phải tiếp tục thực hiện tốt các chương trình quốc gia
về tạo việc làm và thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, mặt khác, cần
có những chính sách kiên trì và nhất quán, phát triển toàn diện nông thôn, nông nghiệp và nông
dân.
2.2.5. Xu hướng hình thành thị trường lao động ở nông thôn
Mặc dù mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, với việc công nhận và khuyến
khích kinh tế hộ gia đình, thị trường lao động nông thôn đã từng bước hình thành và phát
triển trên cả nước. Dấu hiệu tồn tại và qui mô của thị trường lao động nông thôn được thể hiện
thông qua số người và thời gian làm thuê. Hiện nay qui mô thị trường lao động nông thôn còn
nhỏ bé, nhưng trong tương lai, khi nền sản xuất hàng hóa phát triển sẽ tạo điều kiện cần thiết
thúc đẩy nó mở rộng. Hiện nay, thị trường lao động nông thôn mới ở trong giai đoạn hình
thành và phát triển tự phát nên qui mô nhỏ bé, thiếu những cơ chế, thể chế để điều tiết nó.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, thị trường sẽ mở rộng về qui mô và
phát triển về chiều sâu.
Sản xuất hàng hóa và thị trường lao động nông thôn là hai mặt gắn bó khăng khít với
nhau để tạo điều kiện thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Do vậy, Nhà nước
cần có những định chế nhằm quản lý thị trường, thúc đẩy sự phát triển chất lượng NNL nông
thôn trong quá trình CNH, HĐH.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Việc làm rõ thực trạng về số lượng và chất lượng NNL nông thôn nước ta trong
những năm gần đây cho thấy nhờ kết quả quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các hộ xã viên
trong sử dụng ruộng đất và lao động đã bước đầu được khôi phục, gắn lao động với đất đai,
làm cho người lao động quan tâm hơn tới kết quả cuối cùng; các hộ xã viên có điều kiện chủ
91
động trong việc phân công, bố trí lao động một cách hợp lý và hiệu quả; các hộ nông dân đã
thu hót và huy động được một số lượng vốn khá lớn và từ nhiều nguồn; lao động trong các
ngành nghề và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn đã có xu hướng tăng lên; chất lượng
NNL nông thôn nhiều vùng tiếp tục được nâng cao so với thời kỳ trước... Tuy nhiên, bên
cạnh những tiến bộ nêu trên, tình hình sử dụng NNL nông thôn vẫn còn một số điểm yếu cần
tiếp tục giải quyết: sự chuyển biến cơ cấu lao động, phân công lao động ở nông thôn rất
chậm và không đồng đều, năng suất lao động thấp; lao động ở nông thôn đang bị phân cực
giàu nghèo ngày càng rõ nét, khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn, giữa các vùng của nông
thôn và giữa nông thôn với thành thị ngày càng lớn; NNL ở nông thôn vẫn tiếp tục bị dôi
thừa một lượng lớn và ngày càng gia tăng, cộng dồn số thất nghiệp do không đầy đủ việc
làm tính qui đổi ra lao động hiện nay rất lớn; trình độ nghề nghiệp, khả năng chuyên môn
thấp; những thãi quen lỗi thời hình thành và tồn tại suốt 4000 năm lịch sử còn nặng nề; thêm
vào đó, do sự tác động của cơ chế thị trường và thực tiễn nền kinh tế - xã hội nông thôn còn
nhiều khó khăn làm xuất hiện nhiều tư tưởng tiêu cực cản trở việc phát huy NNL ở nông
thôn.
Từ thực trạng nêu trên và dùa vào những căn cứ khoa học về dự báo, luận án cho
rằng trong những năm tới, NNL ở nông thôn nước ta sẽ vận động theo xu hướng: tất yếu
diễn ra sự phân bố lại cơ cấu nguồn nhân lực do tác động của quá trình phân công lại lao
động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của quá trình CNH,
HĐH; nguồn nhân lực nông thôn nước ta trong quá trình CNH, HĐH sẽ tăng nhanh về số
lượng, chất lượng và cơ cấu, tính cơ động của việc chuyển đổi nghề nghiệp sẽ tác động tới
sự di chuyển nhân lực lao động giữa các vùng, các miền và các ngành trong cả nước; NNL
nông thôn nước ta vào đầu thế kỷ sau sẽ vẫn là một NNL trẻ; NNL nông thôn sẽ tiếp tục
chịu tác động của phân hóa giàu nghèo, vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn sẽ
tiếp tục căng thẳng trong thời gian tới; xu hướng hình thành thị trường lao động ở nông
thôn.
Việc nắm vững thực trạng, xu hướng của NNL nông thôn sẽ giúp chúng ta tìm ra
những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL nông thôn, phát huy những
yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực để phát triển NNL nông thôn đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH đất nước.
92
Chương 3
NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA
Khi xác định những nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NNL nông thôn nước ta
trong những năm trước mắt, chúng ta cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây của Đảng:
"Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững", "Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội". Các quan điểm cơ bản đó
được cụ thể hóa thành một hệ thống những nguyên tắc sau đây:
- Phải thực sự coi nguồn lực con người là nguồn nội lực, nguồn lực quan trọng nhất
trong tất cả các nguồn lực hiện có để CNH, HĐH đất nước.
- Để phát triển NNL nông thôn, phải đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng sản
xuất, giải phóng và khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, đặc biệt chú trọng vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nhằm cải tạo căn bản nền kinh tế thuần
nông, tạo ra nền sản xuất hàng hóa ở nông thôn, thực hiện CNH nông thôn, một bộ phận
quan trọng của chiến lược CNH, HĐH đất nước.
- Phát triển NNL nông thôn là một nhiệm vụ to lớn của toàn xã hội, phải giải quyết
vấn đề phát triển NNL nông thôn bằng nhiều giải pháp đồng bộ, mang tính xã hội hóa, trong
đó phải dùa trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức.
- Phát triển NNL nông thôn là một phức hợp kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa
mà cốt lõi là giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
thực hiện dân chủ hóa và xây dựng đời sống tinh thần ở nông thôn.
- Phát triển NNL nông thôn phải là một bộ phận hữu cơ của chiến lược con người,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đây là một vấn đề trung tâm
trong quản lý nhà nước, đó là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp.
Phát triển NNL nông thôn theo mục tiêu CNH, HĐH đất nước là một vấn đề hết sức
quan trọng và cấp bách. Song, việc khai thác, phát huy, phát triển NNL nông thôn là cả một
vấn đề phức tạp và không đơn giản. Nó đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ,
trong đó quan trọng nhất là đổi mới hệ thống giáo dục, đào tạo, hướng nghiệp, dạy nghề;
chuyển đổi cơ chế kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nhằm tạo việc làm, tăng thu
nhập, xóa đói giảm nghèo, có chính sách xã hội đúng đắn và xây dựng môi trường văn hóa,
chính trị và đời sống tinh thần ở nông thôn cho người lao động.
93
Dưới đây ta xem xét những giải pháp đó trong hình thức những nhóm giải pháp chủ
yếu.
3.1. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
Đây là nhóm giải pháp quan trọng, cơ bản và lâu dài, là giải pháp then chốt. Nó là một
giải pháp lớn, ở tầm chiến lược phát triển của quốc gia. Giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng nhu
cầu cung cấp NNL cho hiện tại, vừa chuẩn bị NNL cho tương lai. Phát triển và đổi mới giáo
dục, đào tạo nhằm mục tiêu tạo lập NNL chất lượng cao phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của quá
trình CNH, HĐH đất nước là một đòi hỏi tất yếu và bức xúc hiện nay. Mọi giải pháp về giáo
dục, đào tạo của Nhà nước phải tập trung vào giải quyết những bất cập của chất lượng NNL,
nhất là chất lượng NNL nông thôn. Trong giai đoạn hiện nay, để giáo dục - đào tạo góp phần
tích cực vào việc phát triển NNL ở nông thôn, nó cần tập trung giải quyết những vấn đề cấp
bách sau đây:
3.1.1. Tạo ra sự chuyển biến mới trong nhận thức của xã hội về vai trò của giáo
dục, đào tạo đối với việc phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều ý thức rõ rằng để có sự phát triển mạnh mẽ của
đất nước, cần thực hiện chiến lược giáo dục, đào tạo hữu hiệu, khai thác tiềm năng trí tuệ và
năng lực sáng tạo của con người. Nhiều nước phát triển, đặc biệt là Nhật Bản đã coi giáo dục
là cái gốc để dựng nước. Họ đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực con
người, khai thác và sử dụng triệt để mọi tiềm năng trí tuệ và họ đã rất thành công.
Ở nước ta, ngay từ khi mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhắc
nhở và nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục, đến nghĩa vụ và trách nhiệm của thế hệ trẻ đối
với vận mệnh của đất nước thông qua việc học tập. Người đã chỉ ra rằng: Giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm luôn là ba kẻ thù nguy hiểm của dân tộc ta. Cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn quan tâm và đặc biệt coi trọng giáo dục cho con người: "Vì lợi Ých mười năm
phải trồng cây, vì lợi Ých trăm năm thì phải trồng người".
Để cho giáo dục, đào tạo thật sự là phương tiện đắc lực phát triển trí tuệ, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, trang bị chuyên môn nghề nghiệp, tạo ra NNL chất lượng cao,
trước hết cần có quan niệm đúng đắn về vai trò của giáo dục, đào tạo. Phải thấy rằng, giáo
dục - đào tạo là nền tảng của chiến lược con người; mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội sẽ không thể thành công, nếu không thực hiện tốt chiến lược giáo dục, đào tạo. Quan
niệm này ngày càng trở nên cấp thiết khi do CNH, HĐH mà lao động cơ bắp ngày một
giảm, lao động trí tuệ gia tăng, lợi thế so sánh bằng lao động đông và rẻ cũng nhanh chóng
mất tác dụng. Bởi thế, giáo dục - đào tạo thật sự là "quốc sách hàng đầu". Giáo dục, đào tạo
94
đã trở thành bộ phận quan trọng nhất trong chính sách phát triển NNL của hầu hết mọi quốc
gia. Nằm trong xu hướng đó, trong chiến lược phát triển con người, Đảng ta coi đầu tư cho
giáo dục, đào tạo là đầu tư cơ bản cho phát triển, trong đó, đầu tư phát triển NNL là nhiệm
vụ hàng đầu.
Chiến lược giáo dục, đào tạo NNL nông thôn, nhất là thế hệ trẻ ở nông thôn luôn gắn
bó hữu cơ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo ra một đội ngò lao động có hàm
lượng chất xám cao, năng động và sáng tạo, thích ứng với kinh tế thị trường. Đó là con đường để
phát triển nhanh và rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực
và thế giới.
3.1.2. Để có bước chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
nông thôn, phải đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục và quản lý hoạt động giáo
dục, đào tạo
Cùng với việc nhận thức đúng đắn về vị trí của giáo dục, đào tạo, cần đổi mới căn
bản hệ thống giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp
để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và
quốc tế. Mục tiêu tổng quát của giáo dục đào tạo không chỉ là nâng cao dân trí. Điều quan
trọng hơn là phải tạo ra được nền tảng học vấn cần thiết cho mọi công dân, phát hiện, bồi
dưỡng, đào tạo nhân tài, xây dựng đội ngò chuyên gia giỏi về khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, quản lý và kinh doanh đủ sức phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc thiết kế hệ thống kiến thức giáo dục, đào tạo cần thực hiện theo phương châm:
"Cơ bản, hiện đại, thiết thực, bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xu thế của thời
đại". Nã không chỉ bao gồm những kiến thức thuần túy về khoa học, kỹ thuật, công nghệ,
chuyên môn nghề nghiệp mà còn cả những kiến thức về văn hóa, nhân văn; đồng thời, giáo
dục văn hóa lao động công nghiệp, tinh thần lao động, trách nhiệm công dân, ý thức dân tộc;
đem đến cho người học sự hiểu biết về môi trường sinh thái, văn hóa pháp luật và văn hóa
dân chủ; chuẩn bị cho họ tâm lý và thãi quen sống, làm việc trong một xã hội công dân có
kỷ cương, trật tự và luật pháp. Điều đó có nghĩa là, giáo dục - đào tạo phải góp phần hình
thành những con người có nhân cách phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước.
Ngày nay, giáo dục - đào tạo cần thực hiện trên những nguyên tắc mới: Xã hội hóa,
dân chủ hóa và nhân văn hóa. Xã hội hóa giáo dục làm cho giáo dục đáp ứng được những
nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội, của từng ngành, từng địa phương; biến nhà trường
từ một thể chế Nhà nước thành một thể chế "Xã hội - Nhà nước", một hệ thống mở, đa dạng
và mềm dẻo. Dân chủ hóa giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy tính năng động, sáng
95
tạo, tích cực của cả chủ thể và khách thể giáo dục, làm cho chất lượng giáo dục được nâng
lên. Nhân văn hóa giáo dục nhằm hướng tới việc hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách cho học sinh.
Để tăng cường nội lực, tăng cường tính năng động xã hội của giáo dục, trước hết
giáo dục phải được xã hội hóa. Đó là một xu hướng phát triển tất yếu của giáo dục nhằm
hướng tới một nền giáo dục hiện đại của xã hội tương lai với những yêu cầu đổi mới cơ cấu
bên trong của giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là nội dung rộng lớn, về thực chất, đó là quá
trình vận động toàn xã hội, toàn dân tích cực tham gia vào sự nghiệp trồng người. Mặt khác,
xã hội hóa giáo dục đòi hỏi giáo dục phải phục vụ toàn dân, vừa khai thác lại vừa bồi dưỡng
sức dân. Mọi người phải có trách nhiệm đóng góp công sức, tiền của để phát triển giáo dục.
Đó còn là sự kết hợp giữa giáo dục học đường với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội; tăng
cường trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và kinh tế... đối
với sự nghiệp giáo dục NNL nông thôn.
Trong khi xã hội không ngừng mở rộng qui mô đào tạo, đa dạng hóa các phương
thức đào tạo, đào tạo đa ngành, tăng số lượng người học, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng
của xã hội thì vấn đề chất lượng, hiệu quả của giáo dục phải được đặt lên hàng đầu. Quá
trình xã hội hóa giáo dục đòi hỏi phải chú ý đến mối quan hệ giữa quy mô - chất lượng -
hiệu quả. Hiện nay, xu hướng thương mại hóa giáo dục, trước hết là giáo dục đại học và sau
đại học đang là mối nguy cơ phá vỡ chất lượng giáo dục - đào tạo. Tiềm năng trí tuệ của đất
nước không phải chỉ là ở số lượng người học, mà quan trọng hơn cả là chất lượng của đào
tạo. Vì vậy, phải chấn chỉnh lại tình trạng không lành mạnh hiện nay trong việc "đại học
hóa" một cách ào ạt. Công tác đào tạo phải đúng người, đúng việc, có chất lượng phù hợp
với yêu cầu phát triển xã hội, thực hiện công bằng trong giáo dục - đào tạo. Nên xem xét lại
tình trạng mở các líp đại học tại chức tràn lan, kiểm tra chặt chẽ việc tổ chức các líp đại học
tại chức ở các địa phương theo đúng qui chế và tiêu chuẩn chất lượng quốc gia. Chấm dứt
tình trạng "thu lệ phí" ngầm và dạy thêm cưỡng Ðp ngoài qui định. Đối với hệ thống trường
dân lập, tư thục: cần sớm có qui chế rõ ràng, hợp lý, sát thực tế, tuân thủ nghiêm chỉnh các
chủ trương, chính sách giáo dục, đào tạo của Nhà nước. Sự bình đẳng về cơ hội giáo dục
chính là mục tiêu của dân chủ hóa giáo dục. Để tạo quyền bình đẳng trước cơ hội được giáo
dục, nhất là ở nông thôn, Nhà nước cần đầu tư và cần phát triển mạnh hơn công tác giáo dục ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, quan tâm nhiều hơn tới các đối tượng chính sách. Đảm
bảo cho con nhà nghèo, con em nông dân nghèo được đi học bằng cách miễn giảm học phí
hoặc có các chính sách ưu đãi, giành nhiều học bổng cho sinh viên, học sinh nghèo, học sinh
96
người dân tộc thiểu số. Tạo điều kiện cho thanh niên nông thôn nghèo học giỏi được đi học đại
học, học các trường chuyên nghiệp bằng hình thức cho vay vốn với lãi suất thấp và có quy
định thu hồi vốn.
Trong giáo dục, đào tạo hiện nay, cái khó của chúng ta là nguồn tài chính rất hạn
hẹp chưa thể đáp ứng ngay được yêu cầu mở rộng qui mô đào tạo ở mọi cấp học. Theo tính
toán của các chuyên gia kinh tế, dù năm 2000 có nâng mức chi ngân sách cho giáo dục đào
tạo lên 4% GDP (mức đầu tư hiện nay khoảng 1%) cũng khó có thể đảm bảo nâng tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo từ 12% hiện nay lên 20-25%. Vì vậy, ngoài sự đầu tư của Nhà nước,
cần thiết phải tích cực tìm kiếm các nguồn lực bổ sung khác để phát triển giáo dục đào tạo.
Chúng ta hoàn toàn có thể huy động sự đóng góp của gia đình và bản thân người học vào
quá trình đào tạo nếu có cơ chế, chính sách phù hợp với lợi Ých của người học. Về phía các
doanh nghiệp, các chủ sử dụng nhân lực: cần khuyến khích, thậm chí quy định sự đóng góp
về tài chính vào sự nghiệp giáo dục. Việc người học phải đóng học phí, người sử dụng lao
động phải trả tiền đào tạo là tất yếu và hợp lý trong cơ chế thị trường hiện nay. Đa dạng hóa
các nguồn lực để phát triển giáo dục, đào tạo là một định hướng quan trọng nhằm phát triển
giáo dục - đào tạo trong cơ chế thị trường hiện nay.
Cùng với việc huy động các nguồn lực trong nước, cần tích cực khai thác các nguồn
lực bên ngoài nhằm nâng cao năng lực trí tuệ của NNL nói chung NNL nông thôn nói riêng.
Đặc biệt chú trọng việc dùa vào tiềm lực quốc tế để đào tạo nghề và lao động kỹ thuật, đào
tạo đại học và trên đại học. Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy đây là con đường
ngắn nhất để nâng cao chất lượng NNL và tiếp thu tri thức khoa học tiên tiến, hiện đại. Theo
tinh thần này, chúng ta nên tập trung vào hai hướng:
- Khai thác hơn nữa khả năng của các công ty nước ngoài đang hoạt động ở Việt
Nam trong giáo dục, đào tạo đội ngò chuyên viên, cán bộ kỹ thuật của ta.
- Tích cực gửi những sinh viên giỏi, có năng lực sang các nước tiên tiến đào tạo ở
cấp đại học và sau đại học. Đây là lĩnh vực mà ta có thể nhờ vào quốc tế là hơn cả. Bởi vì
nguồn lực cần thiết để đào tạo ở cấp này là rất lớn và các quốc gia tiên tiến hiện nay nhìn
chung là dư thừa năng lực đào tạo ở cấp đại học và sau đại học.
Bên cạnh đó, ta cũng cần chú trọng việc mời các chuyên gia, thuê thày giỏi của các
nước tiên tiến vào dạy; kêu gọi Việt kiều có trình độ chuyên môn cao đóng góp vào đào tạo
trong nước; tổ chức các trung tâm đào tạo quốc tế ở trong nước...
Đối với các nước đang phát triển, chi phí cho giáo dục bao giê cũng là gánh nặng
bởi nó rất tốn kém mà hiệu quả lại không thấy ngay được. Bài toán đặt ra là, phải có sự lùa
97
chọn mục tiêu và chính sách thích hợp, sao cho giáo dục vừa có tính chất thực tế, lại vừa
làm chức năng chuẩn bị NNL chất lượng cao cho CNH, HĐH.
Từ kinh nghiệm của nhiều nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, Malaixia... và
dùa vào tình hình thực tế Việt Nam, Nhà nước cần đầu tư cho giáo dục tiểu học cả về qui
mô và chất lượng, nhất là ở khu vực nông thôn. Bởi vì giáo dục tiểu học chính là tiền đề để
nâng cao chất lượng các bậc tiếp theo, là sự chuẩn bị quan trọng NNL chất lượng cao cho
tương lai. Đối với giáo dục bậc cao cần huy động các nguồn lực xã hội để phát triển. Nhà
nước chỉ ưu tiên cho loại hình này khi bước vào thời kỳ nhảy vọt.
Mét quan niệm mới về học tập cũng phải được quán triệt trong điều kiện hiện nay:
Học là một quá trình liên tục, học suốt cuộc đời của người lao động. Trong xã hội phong kiến,
người ta cho rằng "học để làm quan", trong cơ chế bao cấp, tư tưởng đó mang sắc thái: "học để
thoát ly sản xuất", động cơ học tập ấy dẫn đến quan niệm "học một lần cho cả đời". Tri thức của
nhân loại là vô cùng rộng lớn, luôn luôn đổi mới và phát triển. Trong điều kiện cách mạng
KH-CN hiện nay, tri thức bị lạc hậu rất nhanh chóng. Điều đó đòi hỏi phải coi việc học là
quá trình liên tục, trong suốt cuộc đời. Do đó, quá trình đào tạo cũng cần đổi mới, không chỉ
cung cấp cho người học một khối lượng tri thức đủ để họ sử dụng trong nghề nghiệp, mà
quan trọng hơn là trao cho họ phương pháp truy nhập thế giới tri thức vô tận. Điều đó đòi
hỏi trong quá trình giáo dục, người học không chỉ tham gia với tư cách là người "tiêu thụ tri
thức" một cách máy móc, thụ động mà ngược lại, họ phải phát huy tính chủ động, bồi dưỡng
năng lực tự học, tích cực khám phát, tìm tòi chân lý trong quá trình học tập. Sự phát triển thấp
về nhân lực buộc xã hội phải đương đầu với nhiều hiểm họa do chính mình gây ra: Sự bùng nổ
dân số, sự phá hoại môi trường, sự khai thác bừa bãi, vô ý thức làm cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sự lan tràn các tệ nạn xã hội và các căn bệnh thế kỷ và nhiều hiÓm họa
khác... Hơn bao giê hết, mục tiêu của công tác giáo dục, đào tạo là phải nỗ lực tạo ra bước
chuyển biến về chất lượng NNL, dần dần tạo lập được NNL chất lượng cao cho CNH, HĐH
nhất là ở nông thôn.
3.1.3. Một số biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào
tạo nguồn nhân lực nông thôn trong giai đoạn hiện nay
- Giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn phải lấy việc nâng cao mặt bằng
dân trí tối thiểu làm cơ sở
Nâng cao dân trí là nền tảng để xây dựng và phát triển NNL, nhất là ở nông thôn,
nhằm đáp ứng yêu cầu của CNH nông thôn. Việc phổ cập giáo dục phổ thông là cơ sở để
phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn các nước có tăng trưởng kinh tế cao đã chứng minh
98
điều đó. Tuy nhiên, không phải cứ có trình độ dân trí cao là có ngay NNL chất lượng cao,
mà phải có kế hoạch để đào tạo và phát triển NNL đó, nhất là NNL trẻ của đất nước trong
một cơ cấu đồng bộ. Do vậy, cần phải động viên toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ, hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước cho những đối tượng trong độ tuổi - đặc biệt
ở nông thôn, ở vùng núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Việt Nam có số lượng học sinh tiểu học đông đảo và tỷ lệ biết chữ lên đến 92% dân
số (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1999). Thêm vào đó, mạng lưới nhà trẻ và trường mẫu giáo rộng
khắp, đáp ứng nhu cầu phát triển về thể chất, tâm lý xã hội và tư duy của trẻ em. Tuy nhiên, các
cộng đồng dân cư nghèo và nông thôn hầu như không có điều kiện cho trẻ em đến líp mẫu giáo
mầm non, bởi họ không trang trải được gánh nặng tài chính từ việc gửi con em đến nhà trẻ.
Do đó, một tỷ lệ rất lớn nhà trẻ ở nông thôn phải đóng cửa trong thập kỷ qua. Các vùng sâu,
vùng xa và miền núi, các gia đình thường không có trường lớp mẫu giáo cho con em mình
theo học. Vì vậy, biện pháp tăng cường hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, địa phương và cơ sở
để mở rộng giáo dục mầm non ở nông thôn hiện nay là hết sức quan trọng; giải quyết tốt
vấn đề trẻ em được đến líp ở vùng sâu, vùng xa là một việc làm vừa mang tính kinh tế, vừa
mang tính xã hội, tạo nguồn cho các bậc học tiếp theo.
Nhà nước đặc biệt quan tâm tới công tác giáo dục mầm non và cho rằng, chăm sóc
và giáo dục trẻ em từ lúc lọt lòng đến 6 tuổi có tầm quan trọng hàng đầu. Luật Giáo dục
mới, bắt đầu được thực hiện từ tháng 1 năm 1999, coi giáo dục mầm non là một phần của hệ
thống giáo dục chính qui quốc gia. Luật Giáo dục quy định nội dung cơ bản bắt buộc của
giáo dục mầm non và liệt kê các loại hình giáo dục mầm non được công nhận. Luật giáo dục
1999 qui định giáo dục tiểu học là bắt buộc đối với trẻ em từ 6-14 tuổi. Như vậy, chúng ta
đã đi đúng hướng trên con đường tiến tới thực hiện các mục tiêu giáo dục mầm non và giáo
dục tiểu học. Đó là một cố gắng tích cực của Đảng và Nhà nước ta trong giáo dục, đào tạo.
Nâng cao dần tỷ lệ học đối với trẻ em trong tuổi đi học phổ thông trung học. Mục
tiêu quan trọng của chính sách này là giảm tỷ lệ bỏ học ở cấp II, nâng cao dần tỷ lệ đi học
cấp III ở nông thôn, nâng cao chất lượng dạy - học ở hai cấp học này. Nguyên nhân chính
của tình trạng bỏ học cấp II ở nông thôn chủ yếu là do kinh tế (trẻ em phải làm việc cho gia
đình để cứu sống, những khoản đóng góp quá mức hiện nay ở nhà trường làm cho các gia
đình nghèo khó, đông con không thể đáp ứng được và con em họ buộc phải bỏ học. Ngoài
ra, việc học sinh bỏ học còn có nguyên nhân về tâm lý, về nhận thức, do họ cho rằng dù có
học cũng không có triển vọng có việc làm). Vì vậy, cần có chính sách khuyến học, khuyến
tài đối với các cấp học ở nông thôn, gắn liền với chính sách phát triển kinh tế, xóa đói giảm
99
nghèo, tăng thu nhập.
Tích cực thực hiện việc xóa mù chữ, khắc phục tình trạng tái mù chữ và nâng cao
dần trình độ trí tuệ cho NNL nông thôn thông qua việc giáo dục thường xuyên. Việc xóa mù
chữ cần tập trung vào nhóm dân cư trẻ nhằm đạt mục tiêu 100% người bước vào tuổi lao
động ở nông thôn biết chữ; mở rộng, nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú nhằm
thu hót con em đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa đến trường.
Vấn đề quan trọng là cần tạo ra được cơ chế, chính sách để thu hót giáo viên về
nông thôn, vùng sâu, vùng xa công tác; có chính sách đãi ngộ cụ thể để khắc phục tình trạng
giáo viên bỏ nghề, thiếu giáo viên trầm trọng hiện nay. Để sinh viên ra trường trở về quê
hương công tác, cần tăng cường việc đào tạo theo địa chỉ ở nông thôn nhằm tạo thêm NNL
có tri thức về nông thôn hiện nay. Cụ thể phải nâng dần tỷ lệ biết chữ từ 15 tuổi trở lên từ
89% hiện nay lên 94% vào năm 2000 và 97% vào năm 2020. Vận động thanh niên dưới 23
tuổi đi học từ 47% hiện nay lên 60% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Nâng tỷ lệ học
vấn ứng với số năm đi học trung bình của người lớn từ 5 năm hiện nay lên 9,0 năm vào năm
2020, ngang với mức của Hàn Quốc hiện nay [25, tr. 128].
- Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đội ngò trí thức, tạo điều kiện để
thu hót họ đến công tác tại nông thôn.
Nông thôn và miền núi có một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội ở
nước ta. Tuy vậy, trên thực tế, việc huy động các nguồn lực, trong đó huy động nhân lực đã
qua đào tạo, nhất là đào tạo chuyên ngành nông, lâm, ngư nghiệp và các kỹ sư, bác sĩ, cán
bộ y tế, giáo viên đang gặp nhiều khó khăn. Hiện nay ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo... cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học đang thiếu trầm trọng. Tình trạng này
gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng trong phân bố, sử dụng, phát huy tài năng của trí thức
trẻ, gây sự lãng phí rất lớn về vật chất và trí tuệ, cũng như khó khăn cho vùng nông thôn.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm
khuyến khích sinh viên mới ra trường về công tác và lập nghiệp tại nông thôn, miền núi,
như: được hưởng 100% lương trong thời gian thực tập; tăng các loại phụ cấp để thu nhập
của họ gấp hai lần lương cơ bản; tăng thời gian nghỉ phép gấp đôi và các chế độ đãi ngộ
khác. Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa cải thiện được đáng kể.
Cần có những chính sách nhằm hỗ trợ sinh viên, học sinh để sau khi tốt nghiệp, họ
trở về quê hương làm việc lâu dài. Hỗ trợ và khuyến khích chuyển giao công nghệ ở nông
thôn và nông nghiệp để thu hót lực lượng lao động được đào tạo về nông thôn; phát triển
các trung tâm khoa học - công nghệ, các trạm nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, chuyển
100
giao giống mới cho nông dân nhằm tạo môi trường thuận lợi thu hót đội ngò trí thức về nông
thôn. Thành lập các tổ, đội thanh niên, sinh viên tình nguyện về nông thôn tham gia xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao dân trí... Vấn đề là ở chính sách và cơ chế của Nhà nước đối với sinh
viên tốt nghiệp ra trường.
- Tập trung đào tạo hướng nghiệp cho học sinh một cách thiết thực hơn
Cần phải tổ chức công phu giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề, giáo dục lý tưởng,
tình yêu nghề nghiệp phù hợp với từng đối tượng, từng khu vực ở nông thôn, làm cho thế hệ
trẻ có định hướng đúng trong lùa chọn nghề cho tương lai. Thông qua hướng nghiệp tạo tâm
lý cho người lao động khi bước vào tuổi lao động. Đối với quá trình đào tạo NNL nông
thôn, cần định hướng cho học sinh theo học nghề ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chăn nuôi...
để phục vụ quê hương. Tập trung hướng học sinh vào học trung học nghề và các trường
nghề tại địa phương. Trong những năm tới, cần khắc phục tình trạng dư thừa người có trình
độ đại học, cao đẳng mà thiếu nghiêm trọng công nhân, kỹ thuật viên lành nghề. Cần định
hướng tốt nghề nghiệp để học sinh đăng ký vào trường học nghề phù hợp với khả năng, sở
thích của họ, sau khi tốt nghiệp họ sẽ làm việc tốt. Giáo dục, đào tạo và công tác hướng
nghiệp tốt sẽ góp phần định hướng nhằm giải quyết mất cân đối ngành đào tạo hiện nay ở
nước ta. Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích dạy nghề và hướng nghiệp trong sự kết
hợp chặt chẽ với trường phổ thông trung học. Đảm bảo tỷ lệ ngày càng tăng số thanh niên
không có điều kiện học tiếp cao hơn ở bậc phổ thông được hướng nghiệp, qua các líp tư vấn
về nghề nghiệp, hoặc các líp phổ cập, bồi dưỡng, đào tạo nghề nhằm cung cấp những kiến
thức và kỹ năng cơ bản về nghề nghiệp và việc làm phù hợp với kinh tế thị trường, với yêu
cầu công nghệ hiện nay là cấp bách. Tăng đội ngò lao động kỹ thuật bằng cách tăng đào tạo
công nhân kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp so với đào tạo đại học để tiến tới cơ cấu hợp
lý.
Song song với giáo dục định hướng nghề nghiệp, cần tăng cường mạnh mẽ đầu tư
để phát triển đào tạo nghề. Đào tạo nghề trở thành một mòi nhọn không thể thiếu cho NNL
nông thôn và trong cơ cấu giáo dục, đào tạo ở nước ta. Việc làm và học nghề là hai mặt của
chiến lược phát triển NNL nông thôn. Phổ cập nghề cho lao động nông thôn, nhất là lao
động trẻ trở thành mục tiêu chiến lược của sự nghiệp phát triển NNL nông thôn. Đẩy mạnh
quy mô đào tạo, bồi dưỡng nghề, chú trọng tới NNL chưa qua đào tạo. Các hình thức đào
tạo nghề phải thật đa dạng, rộng rãi trong các loại hình trường, bao gồm trường phổ thông,
trường công nhân kỹ thuật, các trường líp dạy nghề tại cơ sở sản xuất và trường líp dạy nghề
tư nhân, dạy và truyền nghề tại chỗ. Có thể trợ cấp vốn cho các công ty, doanh nghiệp ở
101
nông thôn có khả năng đào tạo tại chỗ và thu hót nhiều lao động, tạo việc làm ổn định, cần
khuyến khích các doanh nghiệp nông thôn mở trường dạy nghề.
Để đảm bảo chất lượng NNL được đào tạo, Nhà nước là người định hướng, tổ chức,
kiểm tra, giám sát, đánh giá, công nhận hay bác bỏ kết quả đào tạo, thực hiện sự quản lý
thống nhất trong giáo dục, đào tạo và dạy nghề. Nhà nước cấp thủ tục về đào tạo dùa trên
nguồn lực giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình và chất lượng đào tạo.
NNL nông thôn chưa qua đào tạo hiện nay rất lớn, nhu cầu đào tạo nghề rất bức
xúc. Những người này rất khó khăn trong duy trì cuộc sống sinh hoạt nên khó có điều kiện
tìm cơ hội học tập để có nghề. Nhà nước có chính sách hỗ trợ giúp đỡ họ bằng tín dụng học
nghề ưu đãi. Nhà nước không thể "cứu tế" bằng cung cấp tư liệu sinh hoạt cho họ mà giúp
họ có nghề, "cho họ cần câu chứ không cho họ con cá" để họ tìm và tự tạo việc làm bằng
chính năng lực của mình. Điều này giúp tăng NNL nông thôn được đào tạo và tăng hiệu quả
lao động. Đó còn là biện pháp chiến lược để xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã
hội.
- Đào tạo các chủ doanh nghiệp và nhà quản lý cho nguồn nhân lực nông thôn -
trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và chủ hộ gia đình
Đây là lĩnh vực đào tạo mới, đang có nhu cầu cao và tăng nhanh. Là kết quả của
công cuộc đổi mới kinh tế nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà nước, trong đó, kinh
tế hộ nông thôn và kinh tế trang trại đang dần khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế
nông nghiệp nước ta. Thực trạng đội ngò cán bộ quản lý ở nông thôn và các chủ hộ gia đình,
các chủ trang trại ở trung du, miền núi đang đòi hỏi được đào tạo về quản lý và những kiến
thức cơ bản về doanh nghiệp và kinh doanh.
+ Chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Đây là tầng lớp mới xuất hiện ở
nông thôn, do kết quả của chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và kinh tế hộ nông
nghiệp. Mặc dù có kinh nghiệm trong kinh doanh, nhưng họ còn thiếu những kiến thức về
quản lý kinh tế. Họ cần được đào tạo về luật pháp, khoa học quản lý, những kiến thức cơ
bản về doanh nghiệp, các loại thuế và luật thuế, công nghệ thông tin và môi trường v.v...
+ Các chủ hộ gia đình, chủ trang trại: Đó là tầng líp dân cư có số lượng lớn, gồm
nông dân, thợ thủ công, các ngành y tế và dịch vụ ở nông thôn... và là những nhà doanh
nghiệp tiềm năng. Đối tượng đào tạo của nhóm dân cư này rất đa dạng - từ chuyển giao
công nghệ đến phổ biến kinh nghiệm, trang bị kỹ thuật nông, lâm, ngư nghiệp, kỹ thuật canh
tác, giống mới đÕn thông tin thị trường, giá cả v.v...
102
+ Đào tạo đội ngò cán bộ quản lý cấp cơ sở ở nông thôn. Đây là một vấn đề rất bức
xúc trong quản lý nông thôn hiện nay. Đội ngò cán bộ, chính quyền và các đoàn thể ở nông
thôn trình độ còn nhiều bất cập, hầu hết họ là chưa qua đào tạo về quản lý hành chính và
quản lý nhà nước; lúng túng trong việc xử lý khi có sự mất ổn định ở nông thôn hoặc trong
quản lý xã hội nông thôn; còn nặng về tư tưởng cục bộ, bè phái, địa phương gây mất dân
chủ ở nông thôn. Việc đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ về mọi mặt cho họ giúp cho việc
xây dựng kinh tế - xã hội nông thôn mới đáp ứng yêu cầu CNH nông thôn có ý nghĩa quyết
định trong việc đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân, thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của Chính phủ. Thực tiễn công tác đảm bảo an ninh nông thôn
thời gian qua chứng minh vai trò to lớn của chính quyền và đoàn thể ở cơ sở trong việc giữ
vững ổn định chính trị ở nông thôn.
- Nâng cao chất lượng đội ngò giáo viên
Ở nông thôn, Nhà nước cần xây dựng chính sách tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng,
tiền vượt giê và đãi ngộ thỏa đáng cho giáo viên, tạo điều kiện cho họ được học tập, nâng
cao trình độ. Chính sách phải thể hiện hơn nữa sự ưu đãi đặc biệt cho đội ngò giáo viên
nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, để họ toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp "trồng người".
Chính sách lương là động lực chính và cơ bản để gắn giáo viên với nghề nghiệp, nâng cao
nghĩa vụ và lương tâm nhà giáo với xã hội. Điều đặc biệt trong giáo dục - đào tạo là điều
chỉnh cơ cấu ngành đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển đại học ngành nông, lâm, ngư
nghiệp, trung học nông, lâm, ngư nghiệp và các trường đào tạo chuyên ngành này ở các
vùng, các địa phương. Khắc phục tình trạng lãng phí kinh phí đào tạo khi một số ngành thừa
và đã bão hòa trong cơ cấu ngành đào tạo ở bậc đại học. Tập trung kinh phí và ngân sách
đào tạo cho các trường đào tạo NNL nông thôn.
Trên đây là một số vấn đề chủ yếu của nhóm giải pháp giáo dục, đào tạo với tư cách
là nhóm giải pháp gốc, cơ bản, lâu dài và quan trọng nhất để phát triển NNL nói chung ở nước
ta và NNL ở nông thôn nói riêng. Nhóm giải pháp này cần đặt trong tổng thể các nhóm giải
pháp khác nhằm tạo lập NNL có chất lượng và số lượng đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH
đất nước.
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
3.2.1. Nhóm giải pháp về kinh tế
Để phát triển NNL nông thôn nhìn từ góc độ kinh tế - xã hội đòi hỏi Nhà nước phải
có các chính sách kinh tế vĩ mô và đồng bộ cho phát triển kinh tế nông thôn, nông nghiệp.
Tập trung vào các chính sách sau:
103
3.2.1.1. Phát triển toàn diện nền nông nghiệp hàng hóa để thu hót lao động, tăng
ngày công, giê công hữu Ých cho các hộ nông dân
Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng trên quỹ đất hiện có.
Thâm canh là con đường đúng đắn, là phương thức canh tác tiên tiến trong sản xuất
nông nghiệp nhằm mục đích tăng sản phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác. Đối với các
nước tiên tiến, quá trình thâm canh đồng thời là quá trình giải phóng lao động nông nghiệp,
do đầu tư kỹ thuật, sử dụng máy móc ở phần lớn công đoạn sản xuất. Còn ở nước ta, quá
trình thâm canh chủ yếu là quá trình thu hót thêm lao động sống, vì hầu hết các khâu cơ bản
trong sản xuất trồng trọt dùa chủ yếu vào lao động thủ công.
Thực tế cho thấy, đầu tư lao động sống cho thâm canh lúa ở nước ta vẫn đang có
hiệu quả. Với cơ chế khoán sản phẩm, người lao động thực hiện phương châm "lấy công
làm lãi" đã đầu tư lao động sống nhiều hơn đã góp phần tăng đáng kể năng suất lao động.
Nhiều vùng đất đai ở nước ta nếu được đầu tư thêm, kể cả đầu tư lao động, năng
suất sẽ được nâng lên. Đặc biệt đối với các hộ nghèo, vùng nghèo, do vốn ít, các khâu khác
trong quy trình kỹ thuật không được thực hiện chặt chẽ, khả năng tăng năng suất lúa còn rất
lớn.
Như vậy, việc đầu tư lao động sống cho đất để tăng thêm khối lượng sản phẩm, tạo
ra địa tô chênh lệch vẫn đang còn khả năng hiện thực ở một số vùng nông thôn. Đây cũng là
một biện pháp nhằm tăng việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nông dân. Xu
hướng này tuy ngược với qui luật phổ biến của các nước nông nghiệp trong quá trình CNH,
HĐH nhưng lại phù hợp với lao động sống dư thừa, giá rẻ trong nông nghiệp và nông thôn
hiện nay. Đây là giải pháp tạm thời, trước mắt nhằm giải quyết tình trạng dư thừa lao động
hiện nay ở nông thôn.
Mở rộng diện tích gieo trồng.
Đây là một hướng quan trọng để tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động
nông nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp này cần vận dụng linh hoạt cho phù hợp với điều kiện tự
nhiên và tập quán canh tác của từng vùng, từng thời kỳ nhất định. Mỗi địa phương trong các
vùng nông thôn, cần từng bước bố trí và sắp xếp lại cơ cấu kinh tế giữa các ngành cho phù hợp.
Trên cơ sở đó ngành nông nghiệp cũng cần bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Những cánh
đồng, lô đất có khả năng tăng vụ cần bố trí lại mùa vụ thích hợp.
Ở những vùng còn đất trống, đồi trọc, cần được khai thác và sử dụng đưa vào sản
xuất nông - lâm nghiệp.
Thực tế cho thấy tiềm năng đất trống, đồi núi trọc có khả năng khai thác để trồng
104
màu và cây công nghiệp ở nước ta còn khá lớn, nếu cải tạo để trồng cao su, cà phê, cây ăn
quả... sẽ giải quyết tốt công ăn việc làm cho hàng triệu lao động nông nghiệp.
Ngoài ra, đất trống, đồi núi trọc cần được xem xét để trồng rừng, phục hồi rừng. tùy
theo điều kiện và khả năng đầu tư mà tiến hành giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân.
"Phấn đấu đến năm 2000 phải bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, tạo thêm 2,5 triệu ha
rừng, trong đó có 1 triệu ha rừng trồng mới, đưa diện tích đất đai được che phủ bằng rừng
và cây lâu năm khác lên 40%, tạo việc làm ổn định cho 2 triệu lao động và 6-7 triệu nhân
khẩu" [15, tr. 177].
Phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn
Đây là biện pháp quan trọng tăng việc làm, thu nhập cho nông dân nói chung. Thực
tế ở nhiều địa phương, nhiều gia đình trong những năm qua, nhờ khai thác hình thức kinh tế
này mà đã tạo ra thu nhập đáng kể, giải quyết được nhiều lao động ở nông thôn.
- Về phát triển chăn nuôi: tùy theo thế mạnh của mỗi vùng sinh thái, mà các địa
phương lùa chọn chăn nuôi các loại gia sóc, gia cầm hợp lý. Phát triển chăn nuôi nằm sử
dụng lao động dư thừa và tận dụng tốt lao động nông nhàn, lao động phụ ở nông thôn.
- Về phát triển kinh tế vườn:
Kinh tế vườn bao gồm VAC (vườn - ao - chuồng) và VACR (vườn - ao - chuồng -
rừng). Thế mạnh của hình thức này là việc tổ chức lao động sản xuất rất tiện lợi về không
gian, thời gian, lao động và nghỉ ngơi. Kinh tế VAC- ngành kinh tế- kỹ thuật gắn liền với
kinh tế gia đình và mọi người trong gia đình đều có thể tham gia, do đó đây là khả năng giải
quyết việc làm tại chỗ cho mọi người trong và ngoài độ tuổi lao động ở nông thôn.
Kinh tế VAC không theo mùa vụ, không có thời gian nông nhàn. Vì vậy xét trên
tầm vĩ mô và cả vi mô, đều phải ghi nhận hình thức kinh tế này để từ đó bố trí, sắp xếp và
giải quyết việc làm ở nông thôn.
Kinh tế VAC mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông dân hơn hẳn nhiều loại
cây trồng khác, thấp là 2-3 lần, trung bình là 4-5 lần, cao là 15-20 lần theo sản phẩm, thời
gian và thị trường tiêu thụ [61, tr. 13-15]
Như vậy, phát triển kinh tế VAC vẫn là một hướng chính để tăng thu nhập và giải
quyết việc làm cho NNL nông thôn.
Khai thác tiềm năng đa dạng ở các vùng nông thôn ven biển để sử dụng, phát triển
NNL tại chỗ.
Thực tế cho thấy, ở các vùng nông thôn ven biển nước ta tiềm năng kinh tế còn rất
lớn. Tài nguyên biển ở nước ta rất phong phú và đa dạng với hơn 2000 loài cá, 300 loài tôm,
105
hơn 1500 loài nhuyễn thể, nhiều loại khoáng sản như dầu khí, muối ăn, các kim loại quí
hiếm. Song, tiềm năng kinh tế của vùng này vẫn chưa được khai thác và sử dụng hợp lý.
Đến nay, về cá, chúng ta mới chỉ khai thác được khoảng 60% trữ lượng cho phép; các loại
đặc sản như ngọc trai, yến sào, bào ngư, tôm, cua và các loại có giá trị cao còng mới chỉ khai
thác được một phần. Đặc biệt, sự lãng phí NNL ở vùng này còn rất lớn. Số người thiếu việc
làm ở khu vực này còn khoảng tương đương 1,5 triệu người (kể cả thiếu việc làm và chưa
sử dụng hết lao động).
Vì vậy, để sử dụng hợp lý và phát triển NNL ở nông thôn ven biển, cần giải quyết
các vấn đề cơ bản sau:
- Đầu tư thêm lao động vào nghề đánh bắt, nuôi trồng hải sản. Trước mắt, cần tổ
chức lại lực lượng đánh bắt trên cơ sở bố trí cơ cấu thuyền và ngành nghề phù hợp với từng
vùng, từng khu vực. Qui hoạch các vùng đầm, rừng ngập mặn để phát triển nuôi trồng hải
sản, chuyển dần từ nuôi quảng canh sang bán thâm canh. Đến năm 2000 có thể khai thác 40
nghìn ha ao đầm còn hoang hóa vào nuôi tôm, chuyển 1/4 diện tích sang nuôi tôm bán thâm
canh [55, tr. 13-14].
Qua đó, cơ cấu lao động sẽ thay đổi theo cơ cấu ngành nghề, tạo điều kiện thúc đẩy
phân công lao động ở các vùng này hợp lý và hiệu quả hơn.
- Tích cực khai hoang, lấn biển.
- Liên doanh, liên kết đầu tư khai thác hải sản và du lịch.
- Đảm bảo ổn định từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa.
- Giải quyết tốt nguồn vốn bằng nhiều cách để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng quan
trọng, như thủy lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, nước sạch...
- Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư và trợ giá cho nông dân
3.2.1.2. Phát triển mạnh các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn, chuyển đổi
nhanh cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm
tỷ trọng trong nông nghiệp
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2000, CNH,
HĐH nông thôn, nông nghiệp được đặc biệt quan tâm, trong đó phát triển ngành nghề nông
thôn bao gồm công nghiệp, dịch vụ nông thôn là một bộ phận quan trọng. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết 4 BCH Trung ương (khóa VIII) đã xác định và
chỉ rõ điều đó.
Khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế để phát triển
ngành nghề nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đáp ứng yêu cầu của thị trường, giải
106
quyết nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Phát triển ngành nghề nông thôn phải liên hệ
chặt chẽ với nông nghiệp, với công nghiệp ở thành thị, với thị trường trong và ngoài nước,
kết hợp hài hòa nhiều qui mô, nhiều loại hình tổ chức, lựa chọn công nghệ và thiết bị thích
hợp, kết hợp công nghệ tiên tiến với công nghệ truyền thống.
Phát triển ngành nghề nông thôn trước hết là phát triển các ngành nghề có nhiều
tiềm năng, có lợi thế so sánh nhằm thu hót nhanh và nhiều lực lượng lao động dư thừa, nâng
cao thu nhập và đời sống nông dân.
Cần tập trung vào các ngành nghề sau:
- Chế biến nông, lâm sản:
- Công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng: Khai thác vật liệu xây dựng, sản xuất
công cụ máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, chế biến nông lâm sản, xây dựng nông
thôn, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ.
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống: Thương mại
cung ứng vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất, tiêu thụ của nông dân, các dịch vụ vận tải,
thông tin liên lạc, cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng và sửa chữa, bảo dưỡng
máy móc, điện nước, các công trình hạ tầng cơ sở và xã hội, các dịch vụ tiếp thị, đào tạo kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ.
Khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển nhanh làng nghề mới, các trung
tâm, các cụm tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; mở ra các thị tứ, thị trấn, tạo cơ sở
kinh tế - xã hội thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn và nối liền với mạng lưới thị trường
trong nước.
- Ở giai đoạn đầu (năm 2000) cần tạo dựng ít nhất 2-3 cụm công nghiệp, thương
mại - dịch vụ nông thôn ở mỗi huyện (hoặc các thị trấn, thị tứ) để thu hót lao động từ các xã
xung quanh phát triển công nghiệp, dịch vụ, kích thích các xã xung quanh phát triển nông
nghiệp hàng hóa, ngành nghề tại chỗ.
- Giai đoạn sau (2001-2010) phát triển mạnh các trung tâm cấp huyện, các cụm
công nghiệp tại xã hoặc liên xã, hình thành mạng lưới công nghiệp nông thôn rộng khắp các
xã, huyện, tỉnh với thị trường trong nước.
Việc phát triển công nghiệp nông thôn của mỗi địa phương phải được đặt trong
chiến lược tổng thể của cả nước. Mỗi địa phương cần căn cứ vào đặc điểm của mình, của
từng thời kỳ để đề ra mục tiêu, giải pháp cụ thể khai thác tốt nhất lợi thế và ưu thế, đặc điểm
riêng của mình.
107
Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, nâng cao tính cạnh tranh
để thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn.
Đây là biện pháp có hiệu quả lớn để đẩy mạnh CNH nông thôn, không cần nhiều
vốn mà giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, tranh thủ nhanh được công nghệ hiện
đại, thích hợp của các nước, tạo điều kiện để các hộ tiểu thủ công nghiệp đăng ký sản xuất
và chuyển đổi thành doanh nghiệp tu nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã...
tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường nông thôn. Điều quan trọng là tạo môi trường bình
đẳng thực sự giữa các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế trong mọi lĩnh vực từ vay
vốn, bảo lãnh tín dụng đến xuất khẩu, đào tạo, chuyển giao công nghệ... Đây là giải pháp vĩ
mô hàng đầu làm cho nền kinh tế năng động, phát huy nội lực và phát triển công nghiệp
nông thôn.
Phát triển làng nghề: Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách để phát triển làng
nghề, khôi phục các làng nghề cũ, giải quyết vấn đề môi trường, công nghệ, thiết bị, bồi
dưỡng nghệ nhân, đào tạo thợ trẻ. Xây dựng và phát triển các làng nghề mới theo quy
hoạch, xác định sản phẩm truyền thống, sản phẩm chính của làng nghề, kết hợp với các
ngành công nghiệp hình thành sự phân công theo chuyên môn hóa, hợp tác hóa.
Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp nông thôn.
Tạo điều kiện cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp được thuận lợi trong việc thu mua
nguyên liệu tiêu thụ sản phẩm, giúp cho tiểu, thủ công nghiệp tiếp cận thị trường trong và ngoài
nước, ưu tiên quảng cáo và triển lãm. Được quyền đăng ký để kinh doanh xuất nhập khẩu trực
tiếp, hạn chế sự lũng đoạn của các đơn vị xuất nhập khẩu trung gian. Xuất nhập khẩu trước hÕt
là hàng mỹ nghệ và sản phẩm chế biến nông sản. Tăng cường sự hoạt động của các cơ quan
thương vụ của ta ở nước ngoài để tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế. Nhà
nước cần hỗ trợ tiến bộ kỹ thuật để nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm.
Cần tiếp tục phát động phong trào "người Việt Nam dùng hàng Việt Nam" với sự tham gia
của mọi ngành, mọi cấp.
Ngoài ra để phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn cần tập trung vào
việc thực hiện đồng bộ các chính sách sau: Chính sách tài chính và tín dụng, chính sách
thuế, chính sách đất đai, chính sách KH-CN và môi trường v.v... đối với nông thôn.
Trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế đất nước, CNH nông thôn có vai trò cực kỳ
quan trọng, trong đó phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn có ý nghĩa chiến lược
trong tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa và đông đảo ở nông thôn, thu hẹp dần
tiến tới xóa bỏ đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ
108
trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
theo hướng "ly nông bất ly hương", hạn chế di dân tự phát ra thành thị, xây dựng đời sống
vật chất, văn hóa đầy đủ ở nông thôn.
Ngoài ra giải pháp về kinh tế nhằm phát triển NNL nông thôn cần tập trung vào:
Phân bố lại lao động, dân cư giữa các vùng.
Thông qua quá trình phân bố lại lao động giữa các vùng, tiến tới hạn chế tình trạng
chênh lệch giữa các vùng, tạo điều kiện để chuyển một phần lao động từ đồng bằng lên
trung du, miền núi, mở rộng diện tích đất đai ở những vùng mới khai thác: đất trống, đồi núi
trọc, đất hoang hóa, ven biển. Hiện nay nước ta còn 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng
khai thác,
9 triệu ha đất rừng và đất trống đồi trọc, 90 vạn ha ao hồ và hàng vạn ha đất ven biển, có thể
tạo việc làm cho khoảng 1 triệu người [11, tr. 20].
Do hậu quả của sự khác nhau về quá trình dân số và nhu cầu lao động ở các vùng,
phải chủ động thúc đẩy di dân phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo
ra cơ cấu NNL phù hợp theo lãnh thổ nhằm giảm tỷ trọng NNL ở đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông Cửu Long, tăng dần tỷ trọng ở các vùng Tây Nguyên, miền núi và trung du
Bắc Bộ.
Thừa nhận sự tự do làm việc theo hợp đồng, thỏa thuận, tự do di chuyển nơi làm
việc khi có điều kiện thuận lợi. Điều này về mặt lý luận là thừa nhận sự tồn tại của thị
trường lao động. Đồng thời, nó cũng tạo ra điều kiện để thị trường lao động hoạt động năng
động hơn. Cách làm này gần giống như việc phân nhóm thị trường lao động để sử dụng có
hiệu quả mà một số nước có kinh tế thị trường phát triển đã áp dụng gần đây [78, tr. 71].
Như vậy, phân bố lại NNL theo lãnh thổ là giải pháp nhằm đảm bảo kịp thời và đầy
đủ lao động cho mọi nhu cầu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở các vùng, qua đó tạo
thêm việc làm, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, tăng năng suất lao động của cả nước và
các vùng, cải thiện cơ cấu dân cư, nâng cao chất lượng NNL ở tất cả các vùng. Thực hiện
chính sách phát triển NNL có phân biệt theo vùng nhằm tiến tới cơ cấu NNL hợp lý trong
các vùng cả nước.
Một biện pháp quan trọng để tạo việc làm, tăng thu nhập, hướng thu hót ngoại tệ
cho đất nước là xuất khẩu lao động. Đây là một hướng tốt nhằm giảm căng thẳng về việc
làm ở nông thôn trong điều kiện sự phân công và hợp tác về lao động quốc tế hiện nay. Qua
xuất khẩu lao động, công nhân của ta học tập được nghề, tác phong lao động công nghiệp,
khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ở các xí nghiệp công nghiệp, xây dựng... Đây là xu
109
hướng tất yếu trong sự phân công hợp tác quốc tế hiện nay.
Trước đây, lao động xuất khẩu của ta phần lớn là lao động không có chuyên môn.
Hiện nay, nhu cầu thị trường xuất khẩu đã thay đổi to lớn, nhập khẩu lao động có nghề và
chuyên môn kỹ thuật. Vì vậy Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tăng cường đào tạo NNL cho hoạt động xuất khẩu lao động: Năm 1993 Việt Nam
đạt xuất khẩu lao động trong đó có 25% có nghề; 1995 đạt 40%; hiện nay đạt 70% lao động
có nghề [16, tr. 21].
Xuất khẩu lao động không có nghề làm giảm sức cạnh tranh của lao động Việt Nam
trên thị trường lao động quốc tế. Vì vậy cần hình thành các Trung tâm đào tạo NNL cho
xuất khẩu, đào tạo nhân lực xuất khẩu phải căn cứ vào địa chỉ và nhu cầu nước đến.
- Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động, tránh tình trạng nhiều
công ty, tổ chức của ta cạnh tranh với nhau về giá nhân công rẻ trong cùng một nước nhập
khẩu (ví dụ, đối với thị trường Hàn Quốc, hai công ty xây dựng Việt Nam cùng cạnh tranh
nhau về giá nhân công).
Để mở rộng thị trường xuất khẩu, Nhà nước cho phép mọi tổ chức kinh tế và cá
nhân được tham gia xuất khẩu lao động. Nhưng phải đặt dưới sự quản lý chặt chẽ và được
thể chế hóa bằng chính sách thống nhất của Nhà nước.
- Tăng cường sự quản lý nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài: Nhà nước
phải quản lý đảm bảo quyền lợi, duy trì lợi Ých của người Việt Nam ở nước ngoài. Ban
hành qui chế lao động xuất khẩu, điều kiện lùa chọn nhân sự, mức đóng góp, quyền lợi được
hưởng cụ thể và rõ ràng. Chú ý hình thức xuất khẩu chuyên gia để học tập công nghệ, quản
lý của nước ngoài. Khuyến khích du học ở nước ngoài. Đây là con đường để ta học hỏi kinh
nghiệm và công nghệ của các nước nhằm khắc phục tình trạng thiếu chuyên gia giỏi ở nước
ta hiện nay.
Thực hiện đồng bộ các chính sách là một nhân tố quan trọng để phát triển nhân lực
lao động. Theo đó, cần phải chú ý tới:
Chính sách ruộng đất.
Cần tiếp tục phối hợp với các ngành có liên quan (Tổng cục Địa chính, các địa
phương) để đo đạc, khảo sát, lập bản đồ xúc tiến nhanh việc giao đất, giao rừng và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông, lâm nghiệp cho hé gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
và lâu dài vào các mục đích sản xuất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP và 02/CP đã được
bổ sung và sửa đổi. Hiện nay đất nông nghiệp mới cấp chứng nhận quyền sử dụng đất được
70%; đất lâm nghiệp 10%. Thực hiện chính sách giao và thuê đất ổn định, lâu dài cho kinh
110
tế trang trại, hộ gia đình.
Thực hiện các biện pháp hữu hiệu bảo đảm 5 quyền của người dân theo luật đất đai
(quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, quyền cho thuê, quyền thừa kế, quyền thế chấp).
Cần có chính sách hạn điền thích hợp cho mỗi hộ nông dân, chính sách về tích tụ ruộng đất
và giải pháp về nông dân không có đất sản xuất, chính sách cho phép điều tiết quá trình tích
tụ và tập trung ruộng đất, hình thành kinh tế trang trại qui mô vừa, lín thích hợp với từng
vùng. Chính sách cho thuê đất, vấn đề đất đai với đồng bào di cư.
Chính sách thuế.
Nhằm khuyến khích và thu hót đại bộ phận lao động vào sản xuất, kinh doanh, các
chính sách thuế ở nông thôn cần phải được bổ sung, hoàn thiện theo các hướng như sau:
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế theo quan điểm giảm nhẹ các khoản chi phí
cho nông dân, hỗ trợ các mặt để nông dân, nông thôn vươn lên vượt qua đói nghèo, lạc hậu.
Nghiên cứu để xác định cơ sở tính thuế sử dụng đất nông nghiệp theo giá đất và theo thuế
xuất thay cho cách tính thuế theo hạng đất và theo giá thóc như hiện nay.
Bổ sung, sửa đổi qui định về tăng thuế đối với các trường hợp đất trồng cây hàng
năm chuyển sang cây lâu năm thích hợp hoặc chuyển sang làm thủy sản, lâm nghiệp có mức
sinh lời cao hơn.
Bổ sung chế độ miễn hoặc giảm thuế đối với những hộ tự bỏ vốn cải tạo và xây
dựng đồng ruộng, mức giảm và miễn thuế bằng mức giá trị vốn mà họ bỏ ra để đầu tư xây
dựng đồng ruộng của họ [6, tr. 299].
Tiếp tục giảm mức thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế công
thương nghiệp nông thôn... để kích thích sản xuất phát triển. Các khoản thu thuế sử dụng đất
nông nghiệp nên để lại 100% cho ngân sách địa phương, để địa phương chủ động đầu tư cơ
sở hạ tầng, nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới [53, tr. 137].
Khẩn trương xem xét lại các khoản thu dưới dạng phí và lệ phí như: thủy lợi phí, bãi
bỏ các khoản thu, đóng góp bất hợp lý của dân theo tinh thần Nghị định về dân chủ ở cơ sở
của Chính phủ.
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Về giao thông: Chú trọng phát triển giao thông nông thôn, mở đường ô tô đến tất
cả các cụm xã, nâng cấp mạng lưới đường giao thông nông thôn từ huyện đến các xã trước
tiên cho đồng bằng sông Cửu Long và miền núi.
- Về thủy lợi: Sửa chữa nâng cấp các công trình thủy lợi đã có và xây dựng thêm
một số công trình mới, phục vụ tưới tiêu chủ động cho lúa, cây công nghiệp và cây ăn quả.
111
- Mạng lưới điện và thông tin liên lạc: Tiếp tục phát triển mạng lưới điện nông thôn
đưa điện về các xã vùng đồng bằng và các huyện miền núi. Phát triển mạng lưới bưu chính
viễn thông, các dịch vụ bưu điện, phủ sóng phát thanh và truyền hình đến tất cả các vùng
nông thôn.
- Tiếp tục đẩy mạnh chương trình nước sạch nông thôn, đẩy mạnh chương trình hỗ
trợ 1.715 xã nghèo, 1000 xã nghèo nhất của Chính phủ cho 6 loại công trình hạ tầng (trạm y
tế, trường tiểu học, chợ, trạm điện và hệ thống thủy lợi nhỏ và đường giao thông tới trung
tâm cụm xã).
Chính sách tạo vốn cho sản xuất ở nông thôn.
Vốn là một trong ba yếu tố tạo ra của cải vật chất (lao động, vốn, tư liệu sản xuất), đây
cũng là khâu then chốt trong xây dựng và phát triển nông thôn và phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa. Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giai đoạn 2001-
2010, bình quân mỗi năm cần khoảng 1,3- 1,5 tỷ USD, giai đoạn 2011-2020 cần khoảng 2,5-3
tỷ USD/năm.
Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn gồm vốn ngân sách Nhà nước, vốn tù
có của dân và vốn tín dụng, trong đó vốn tín dụng (vốn vay) giữ vai trò quan trọng nhất.
Nguồn vốn ngân sách chủ yếu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng. Hiện nay lượng vốn này
ở mức khoảng 200 triệu USD/năm, chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong những năm tới cần
tăng mạnh nguồn vốn đầu tư này đạt khoảng 500 triệu USD/năm [74, tr. 67].
Chính sách phát triển thị trường cho kinh tế nông thôn.
Thị trường nông thôn có vai trò rất quan trọng mở ra khả năng to lớn cho phép khai
thác và sử dụng các nguồn lực ở nông thôn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm và là cơ sở để
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động ở nông thôn, tạo nhu cầu đưa
tiến bộ khoa học công nghệ vào nông thôn. Vì vậy cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
Tập trung phát triển và hoàn thiện thể chế cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại ở
nông thôn.
Với thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay, việc nghiên
cứu tìm kiếm các mô hình sản xuất nông nghiệp tạo ra động lực mới cho CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn có ý nghĩa quan trọng. Kinh tế trang trại đang có xu hướng phát triển
mạnh ở một số địa phương trong cả nước. Đây là mô hình còn gây nhiều tranh cãi, do đó, mô
hình này cần được nghiên cứu, tổng kÕt tìm ra lời giải đáp đúng để chỉ đạo thực tiễn. Từ thực
tiễn khảo sát sự phát triển kinh tế trang trại nước ta, qua các số liệu thống kê thì nhìn chung
hình thức chủ yếu của kinh tế trang trại nước ta vẫn là trang trại hộ gia đình. Kết quả bước
112
đầu của kinh tế trang trại nước ta có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Tuy nhiên, cần thống
nhất quan điểm rằng trang trại chỉ là một hình thức tổ chức kinh tế chứ không phải là
một thành phần kinh tế. Hình thức tổ chức kinh tế trang trại cùng với các hình thức khác
thuộc kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước đang hình thành trong sản xuất nông nghiệp nước
ta là tiền đề quan trọng để đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn, đạt trình độ chuyên
môn hóa và tập trung hóa cao hơn [26, tr. 42].
Xét dưới góc độ sử dụng lao động, việc làm và xóa đói giảm nghèo nông thôn thì
kinh tế trang trại có vai trò rất to lớn: thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, xóa bỏ lối sản
xuất manh mún, tự cấp, tự túc. Hiệu quả sản xuất và năng suất lao động trong trang trại cao,
có điều kiện để cơ giới hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động, hình
thành các vùng cung cấp nguyên liệu lớn cho công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến
nông sản.
Tạo thêm việc làm, giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, thúc đẩy chuyên môn
hóa lao động trong nông nghiệp, thúc đẩy phân bố dân cư, tăng độ che phủ của rừng, khai
thác được nhiều tiềm năng của miền núi, trung du, ven biển...
Tuy nhiên, kinh tế trang trại cũng có những mặt tồn tại như: Sự hình thành và phát
triển kinh tế trang trại ở nước ta diễn ra quá nhanh, so sánh về qui mô tích tụ ruộng đất với
các nước khu vực thì có những dấu hiệu không bình thường. Về đất đai, chủ yếu là đất lâm
trường, đất do Nhà nước quản lý và do chủ trang trại bằng nhiều hình thức có được trong
quá trình tích tụ ruộng đất. Chỉ có 0,1% đất trang trại là do từ khai phá, mở rộng; có tình
trạng "thâu đoạt đất đai" bằng các thủ đoạn vay nặng lãi, lừa gạt dưới hình thức "sang
nhượng, tạm giao". Tích tụ ruộng đất gây ra tình trạng một số lượng lớn nông dân mất đất,
phải làm thuê và bị bần cùng hóa; có nơi, có lúc đã dẫn đến căng thẳng về mặt xã hội.
Vì vậy, cần sớm tổng kết thực tiễn để có quan điểm chỉ đạo đúng đắn về kinh tế
trang trại. Cần tăng cường quản lý Nhà nước và xem xét điều chỉnh lại chính sách giao đất,
giao rừng, có chính sách hỗ trợ vốn bằng tín dụng ưu đãi, có chính sách kinh tế đối với các
trang trại có mức chiếm dụng đất lớn, hàng trăm ha trở lên.
3.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách xã hội
Để phát triển NNL cho CNH, HĐH đất nước ở nông thôn, bên cạnh nhóm giải pháp
về giáo dục, đào tạo và nhóm giải pháp về kinh tế thì nhóm giải pháp về xã hội có vai trò
cực kỳ quan trọng. Chính sách xã hội là một trong những công cụ quản lý xã hội quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta, là tư tưởng, quan điểm và đường lối của chủ thể lãnh đạo được cụ
thể hóa thành chính sách và thể chế hóa thành luật để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề
113
xã hội đang đặt ra đối với con người. Như vậy, chính sách xã hội nằm trong hệ thống tổ
chức hoạt động xã hội. Nó bao gồm hệ thống các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã
hội liên quan đến cuộc sống của con người và của cộng đồng nhằm phát triển con người
toàn diện, làm cho cá nhân con người ngày càng được khẳng định, kết hợp hài hòa lợi Ých
cá nhân và lợi Ých xã hội.
Các chính sách xã hội nhằm phát triển NNL nông thôn hết sức phong phú và đa
dạng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng NNL. Đó là các chính sách về giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế, chính sách triển khai chương
trình dân số kế hoạch hóa gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, chính sách phóc lợi xã hội,
ưu đãi, kích thích thu nhập, tiền lương v.v... Để thực hiện được những chính sách này phải
có tiềm lực kinh tế. Vì vậy chính sách xã hội phải gắn bó chặt chẽ với chính sách kinh tế,
lấy chính sách kinh tế làm cơ sở, nền tảng, kết hợp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển. Các chính sách xã
hội ở nông thôn phải bao chứa toàn diện các đối tượng, các tầng líp dân cư ở nông thôn,
nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ...
Các chính sách xã hội nhằm phát triển NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH
ở nước ta tập trung vào một số nội dung chính sau đây:
- Đảm bảo việc làm và điều kiện làm việc cho NNL nông thôn
Có thể nói đảm bảo việc làm, tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn là một
vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp, chứ không chỉ là vấn đề kinh tế hoặc xã hội đơn thuần.
Đây là một vấn đề cấp bách, vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó chính là cơ sở để tạo lập các giá trị vật chất và tinh thần
trong xã hội, đồng thời nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của
người lao động nông thôn.
Tiếp tục xây dựng các chương trình giải quyết việc làm ở nông thôn một cách toàn
diện, đồng bộ và mang tính xã hội sâu sắc, mang tính chiến lược tầm quốc gia:
Hàng năm Nhà nước Việt Nam đã dành một tỷ lệ nhất định vốn từ ngân sách để hỗ
trợ cho nhân dân nông thôn giải quyết việc làm. Hiện nay, Chính phủ đang trực tiếp thực
hiện hoặc điều phối hàng loạt chương trình tạo việc làm ở nông thôn. Có thể liệt kê một số
chương trình chủ yếu sau:
- Chương trình tạo việc làm thông qua quỹ giải quyết việc làm quốc gia hình thành
theo chỉ thị sè 120 của Thủ tướng Chính phủ (quỹ giải quyết việc làm từ ngân sách Nhà nước
được Quốc hội thông qua và bổ sung hàng năm).
114
- Chương trình "Phủ xanh đất trống đồi trọc" theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
số 327 (gọi tắt là chương trình 327).
- Chương trình tín dụng nông thôn của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
- Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Chương trình của các tổ chức quần chúng và phi chính phủ thực hiện với nguồn
vốn tự có hoặc với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho
các thành viên của mình.
- Chương trình hỗ trợ trồng rừng của Chương trình lương thực thế giới (WFP)
- Chương trình tái hòa nhập người tỵ nạn do EU tài trợ trên địa bàn 21 tỉnh với tổng
số vốn trên 30 triệu USD.
- Chương trình hỗ trợ tín dụng và tạo việc làm cho những người lao động ở Tiệp
Khắc và CHLB Đức trở về do chính phủ của những nước trên tài trợ...
Như vậy, có tương đối nhiều chương trình tạo việc làm ở nông thôn và hầu hết đem
lại kết quả tốt. Tuy nhiên, chúng còn chồng chéo và rời rạc, chưa có sự liên kết với nhau và
thiếu sự điều hành thống nhất. Vì vậy Nhà nước cần có một chương trình tổng hợp, liên
ngành, đồng bộ, nhằm vạch ra mục tiêu chiến lược lâu dài và phối hợp điều hành các tiểu
chương trình và dự án. Có thể coi chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn là một
chương trình như vậy và chương trình tạo việc làm là một bộ phận cấu thành của nó. Sự kết
hợp như vậy không chỉ chủ động huy động thêm được nhiều nguồn lực và nâng cao hiệu
quả hoạt động của chương trình tạo việc làm mà còn hướng nó theo đúng quỹ đạo đổi mới
cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn cho CNH, HĐH đất nước.
Mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ từ nay đến năm 2010 bao gồm thu hẹp tỷ
trọng lao động ở nông thôn từ 80% hiện nay xuống còn 60% và giảm tỷ trọng tương ứng lao
động trong nông nghiệp xuống còn 40%. Ngay cả khi mà vai trò của việc làm phi nông
nghiệp được coi trọng hơn thì khu vực nông thôn vẫn cần phải tạo ra 70% số việc làm mới.
Các doanh nghiệp phi nông nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng
trong tạo việc làm. Điều cấp bách trước tiên hiện nay là phải tạo ra một môi trường thuận lợi
ở cấp vĩ mô cho tất cả các khu vực chủ yếu của nền kinh tế nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng
của các khu vực sử dụng nhiều lao động. Một khuôn khổ như vậy cần:
- Một hệ thống chính sách và luật rõ ràng nhằm củng cố và hỗ trợ kinh tế hộ gia
đình.
- Tăng đầu tư của Chính phủ cho cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội nông thôn.
115
- Tăng việc cung cấp tín dụng nhỏ cho nông dân và các doanh nghiệp phi nông
nghiệp ở nông thôn.
Một công cụ quan trọng mà Chính phủ có thể sử dụng trong giải quyết việc làm
chính là hệ thống quốc gia với 143 Trung tâm xúc tiến việc làm của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và một số cơ sở khác của Tổng liên đoàn Lao động và Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam... cần sử dụng như những thể chế quan trọng để thị trường lao động vận hành có
hiệu quả.
Tăng cường vai trò của các đoàn thể quần chúng, các hội nghề nghiệp trong tạo
việc làm cho các đoàn viên, hội viên bằng các nguồn vốn tự đóng góp của các tổ chức đó
như Quỹ phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, Quỹ thanh niên lập nghiệp... Trong khi khai thác
đến mức tối đa khả năng tạo việc làm bằng các nguồn lực trong nước (vốn, đất đai, kỹ thuật,
kiến thức, kinh nghiệm....), cần tiếp tục tranh thủ sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên
ngoài vào các chương trình và dự án giải quyết việc làm có mục tiêu.
NNL nông thôn, nhất là NNL thanh niên nông thôn là động lực của sự phát triển xã
hội. Môi trường làm việc, điều kiện kinh tế chính là cái nôi nuôi dưỡng và có tác dụng rất
lớn đối với sự phát triển của thanh niên. Vì vậy, phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi
mới, cải thiện điều kiện làm việc, điều kiện sống, từng bước nâng cao mức sống là một vấn
đề có ý nghĩa to lớn. Muốn xã hội phát triển, phải đầu tư cho con người nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống. Nói cách khác, phải "nhân đạo hóa" hoàn cảnh, sao cho quá trình lao động
thực sự là quá trình thể hiện năng lực bản chất của con người. Cần xây dựng môi trường
kinh tế lành mạnh, đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của thị trường nông thôn, tạo ra
môi trường dân chủ, môi trường pháp luật tốt cho sự cống hiến và hưởng thụ của con người
ở nông thôn. Thiếu dân chủ, dân chủ bị vi phạm sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại năng lực và
nhân phẩm của con người.
Liên quan đến vấn đề việc làm của NNL nông thôn, một vấn đề rất nhạy cảm là lợi
ích cá nhân của người lao động, trước hết là các lợi Ých kinh tế. Đây chính là động lực
kích thích trực tiếp tính tích cực, năng động và sáng tạo của người lao động nông thôn, nhất
là thanh niên. Do vậy, việc tạo ra các cơ chế, chính sách cụ thể để kích thích lợi ích của
người nông dân là một vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành công của chiến lược xây dựng
phát triển NNL nông thôn.
Để phát triển nguồn lực con người ở nông thôn, cần quan tâm đến lợi ích, nhu cầu
chính đáng của người lao động nông thôn. C.Mác đã chỉ rõ: "Tất cả những gì con người đấu
tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi Ých của họ" [19, tr. 57].
116
Lợi ích của con người có nhiều loại, tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà hình thành
những quan niệm về lợi Ých khác nhau. Song, xét đến cùng, lợi Ých cá nhân bao giê cũng
là động lực trực tiếp nhất hình thành động cơ tư tưởng thôi thúc con người hành động để
vươn tới, vượt lên chính mình. Quá trình hiện thực hóa tư tưởng cũng chính là quá trình con
người đấu tranh đòi thỏa mãn những nhu cầu, lợi Ých chân chính. Giải pháp về kinh tế là
điều quyết định trước tiên và cơ bản nhất của giải pháp con người. Coi trọng lợi Ých cá
nhân, đặc biệt là lợi ích kinh tế, là động lực thúc đẩy người lao động nông thôn. Song điều
quan trọng hơn là phải biết kích thích lợi Ých cá nhân một cách hợp lý, có cơ chế xử lý thỏa
đáng, sao cho việc thực hiện lợi Ých cá nhân không làm tổn hại đến lợi Ých người khác,
nhất là không tổn hại đến lợi Ých tập thể và toàn xã hội. Vì vậy, phải coi tiền lương, tiền
công là giá cả của hàng hóa sức lao động, nó phải tuân theo quy luật giá trị và qui luật tái
sản xuất sức lao động. Cần sớm đề ra quy chế và kiểm soát chặt chẽ việc thi hành các chế độ
trong việc sử dụng lao động, khuyến khích trả lương theo việc làm, xóa bỏ hình thức trả
công theo kiểu bình quân, cào bằng trước đây. Có cơ chế, chính sách làm giảm bớt sự chênh
lệch quá mức về thu nhập giữa nông thôn, thành thị và sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn,
giữa các vùng ở nông thôn.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở nông
thôn nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn
Đói, nghèo là một vấn đề xã hội. Nó là một trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội mà không một quốc gia nào không phải quan tâm giải quyết. Kinh tế thị trường đã
đem lại sự phát triển năng động trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và trong nhiều lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Song kinh tế thị trường, cơ chế thị trường cũng đang bộc lé những
mặt trái, mặt tiêu cực của nó. Đó là phân hóa giàu nghèo, đói nghèo của một bộ phận dân
cư, kéo theo các tệ nạn xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác xóa đói giảm nghèo
là một công tác lớn và quan trọng, vừa bức xóc, gay gắt, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, nhất
là đối với nông dân ở nông thôn.
Từ hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đến Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII
của Đảng luôn nhấn mạnh và đặc biệt đề cao công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đó là vấn đề
quan trọng cần giải quyết của quốc gia.
Cơ sở phương pháp luận của xóa đói, giảm nghèo ở nước ta là dùa trên sự thống nhất
biện chứng giữa kinh tế với chính trị và xã hội, là quan điểm thực tiễn, quan điểm hệ thống
(toàn diện, đồng bộ) và quan điểm phát triển.
117
Vấn đề đặt ra là giải pháp kinh tế xã hội và các giải pháp của Nhà nước điều tiết,
điều chỉnh tương ứng để phân hóa giàu nghèo không vượt quá giới hạn (ngưỡng) cho phép,
không dẫn tới tình trạng bần cùng hóa, kiệt quệ, chuyển thành phân cực xã hội, phân hóa
giai cấp. Đặc biệt là tình trạng nông dân mất ruộng đất, không còn tư liệu sản xuất để sinh
sống. Cùng với đói nghèo là sự lây lan các tệ nạn xã hội. Đói nghèo trong lĩnh vực kinh tế
làm tích tụ những sự phức tạp, căng thẳng của mất ổn định xã hội.
Như vậy, để giải quyết xóa đói, giảm nghèo không phải thuần túy là chính sách kinh tế
mà phải là liên kết giữa chính sách kết kinh tế và chính sách xã hội. xóa đói, giảm nghèo không
phải thụ động bằng biện pháp nhất thời hay thuần túy cứu trợ. Về cơ bản, phương hướng xóa
đói, giảm nghèo phải tìm thấy ở sản xuất, phát triển sản xuất là gốc rễ, là cơ sở. Vì vậy,
nhiệm vụ của xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn cần tập trung vào mấy điểm chủ yếu sau:
- Tiếp tục làm chuyển biến trong toàn Đảng, toàn dân về chủ trương xóa đói, giảm
nghèo.
- Phát triển tổng hợp các nguồn lực ở nông thôn để xóa đói, giảm nghèo
- Thực hiện những ưu tiên về xã hội cần thiết cho việc xóa đói giảm nghèo ở các
vùng khó khăn đặc biệt, với đối tượng đặc biệt.
- Đi đôi với sự hỗ trợ trực tiếp cho hộ đói nghèo, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện chính sách, cơ chế, khuyến khích làm giàu hợp pháp, coi một bộ phận dân cư
giàu lên là cần thiết cho sự phát triển chung.
- Thực hiện lồng ghép các chương trình xóa đói, giảm nghèo với các chương trình
kinh tế - xã hội khác.
Từ nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo trên, hệ quan điểm chỉ đạo của xóa đói giảm
nghèo ở nông thôn hiện nay là:
+ Xóa đói, giảm nghèo gắn liền với phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị.
+ Xóa đói, giảm nghèo phải đảm bảo sự kết hợp thống nhất giữa kinh tế và xã hội
giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
+ Xóa đói, giảm nghèo phải là sự quan tâm và trách nhiệm của toàn Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội.
+ Xóa đói, giảm nghèo nhằm phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên vượt qua đói
nghèo của người nghèo, hộ nghèo.
+ Phải xuất phát từ mục tiêu phát triển vì con người.
+ Thông qua sự hợp tác quốc tế, khai thác có hiệu quả các nguồn trợ giúp quốc tế.
118
Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta cần tập trung vào
các giải pháp chính như sau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn; hoàn
thiện và có cơ chế, chính sách hợp lý, có các giải pháp về đất đai và tư liệu sản xuất cho các
hộ nghèo; thực hiện tốt các chính sách cho người nghèo vay vốn các loại để sản xuất; chính
sách đào tạo và chuyển giao công nghệ cho người nghèo; chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng
cho các xã nghèo nông thôn; các chính sách nhằm khuyến khích sản xuất cho người nghèo;
thực hiện tốt chính sách về y tế và giáo dục cho vùng nghèo; các giải pháp về xã hội (dân
số, kế hoạch hóa gia đình, bài trừ tệ nạn xã hội v.v.); phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng,
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể.
Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân và người lao động
nông thôn
Sức khỏe là vốn quý của mỗi người và của toàn xã hội, là yếu tố rất quan trọng
trong cấu trúc của NNL (thể chất), là cơ sở để phát huy nhân tố con người với tư cách là
NNL. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến chăm lo sức khỏe của toàn dân. Người
nói: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe
mới thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe
mạnh tức là cả nước khỏe mạnh" [45, tr. 212].
Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta nhiều lần
khẳng định: chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân là một nội dung
không thể tách rời của chiến lược dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, trau dồi
nhân cách nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo vô tận của nguồn lực con người Việt Nam, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Để thực hiện mục tiêu và quan điểm của Đảng và Nhà nước, công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe ở nông thôn cần áp dụng những biện pháp chủ yếu sau:
- Thùc hiện tốt chương trình dinh dưỡng quốc gia nhằm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 30%. Tiếp tục triển khai tiêm chủng mở rộng để thanh
toán bệnh bại liệt, sởi, viêm não ở trẻ em. Chú trọng khống chế và dập tắt các bệnh tả, sốt
rét, lao, thương hàn... Có chính sách tích cực hạn chế ngăn chặn nhiễm HIV/AIDS và điều
trị cho những người đã mắc.
- Chấn chỉnh và củng cố hệ thống tổ chức y tế từ trung ương đến các địa phương,
đầu tư hơn nữa cho y tế cơ sở; phấn đấu các trạm xá có y sĩ sản, nhi hoặc nữ hộ sinh, các
bản làng đều có y tá. Tất cả các huyện đều có trung tâm y tế đủ sức làm nhiệm vụ của tuyến
hỗ trợ thứ nhất. Tất cả các tỉnh đều có trung tâm y tế đủ mạnh về thiết bị và nhân lực để làm
119
nhiệm vụ của tuyến hỗ trợ thứ hai.
- Tiếp tục nâng cấp và xây dựng hai trung tâm y tế chuyên sâu tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phát triển mạnh và quản lý tốt các dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe
ban đầu.
- Cải thiện chính sách và chế độ đãi ngộ để thu hót cán bộ y tế về nông thôn, vùng sâu,
vùng xa và nhất là cán bộ y tế cơ sở ở nông thôn, miền núi.
- Xây dựng chính sách về quản lý và phát triển công nghệ dược và thiết bị y tế.
Nghiêm trị bọn sản xuất tân dược giả, kết hợp tốt y học cổ truyền và y học hiện đại trong
khám chữa bệnh, mở rộng công tác y tế dự phòng ở nông thôn. Thực hiện tốt việc đảm bảo
vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch và vệ sinh thực phẩm.
- Phát triển phong trào thể dục thể thao, nâng cao chất lượng bữa ăn đảm bảo dinh
dưỡng, tăng cường công tác giáo dục sức khỏe cộng đồng, tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở nông thôn
Trong những năm qua, nhờ thực hiện chương trình dân số- kế hoạch hóa gia đình, tỷ
lệ tăng dân số ở nước ta đã giảm dần. Khác với các nước láng giềng Đông Nam Á, Việt
Nam đã đạt được những kết quả về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình một cách nhanh
chóng mặc dù trình độ phát triển của nền kinh tế còn tương đối thấp. Tỷ lệ tăng dân số đã
giảm xuống còn 1,76% so với 2,1% trong thập kỷ trước. Trong vòng 25 năm tới, dự kiến
dân số tăng tự nhiên sẽ tiếp tục giảm.
Cùng với việc thực hiện đổi mới về kinh tế và xã hội, chương trình dân số và kế
hoạch hóa gia đình đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Hội nghị lần thứ tư BCH
TW (khóa VII) đã đề ra Nghị quyết về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình để đến năm
2015 giải quyết căn bản vấn đề quy mô dân số ở nước ta.
Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở
tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, tạo ra sức ép rất lớn cho nhiệm vụ giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, phát triển giáo dục, bài trừ các tệ nạn xã hội...
Ở nông thôn, công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đã đạt được thành tựu đáng kể,
tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề về dân số, kế hoạch hóa gia đình cần được giải
quyết - nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc Ýt người.
Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình vẫn chưa ổn định và bền vững, nhất là ở
nông thôn và vùng núi:
120
- Quy mô dân số lớn và cơ cấu dân số trẻ vẫn đang là áp lực gay gắt với sự phát
triển kinh tế, xã hội ở nông thôn.
- Kết quả của việc chấp nhận thực hiện qui mô gia đình nhỏ ở nông thôn vẫn chưa
thật sự vững chắc, còn nhiều khó khăn phức tạp; đồng thời, vẫn chứa đựng yếu tố bùng nổ,
đó là tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm rất chậm, mức giảm sinh chưa đồng đều giữa các tỉnh, các
vùng, đặc biệt là ở 19 tỉnh miền núi, tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn ở mức trên 25%; tỷ lệ sử dụng
các biện pháp tránh thai trung bình là 55,8%, chưa đảm bảo để giữ tỷ lệ sinh ở mức hiện tại
[59, tr. 35].
- Nhận thức và sự quán triệt về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình có nơi, có
lúc còn chưa đúng mức, chưa đồng đều. Hiện đã có những biểu hiện chủ quan với những kết
quả đạt được.
- Năng lực quản lý và việc tổ chức thực hiện các giải pháp về dân số, kế hoạch hóa
gia đình còn nhiều điểm bất cập.
- Đặc biệt việc thực hiện chính sách dân số mới đang tập trung vào mục tiêu số
lượng mà chưa chú ý đến chất lượng con người.
- Chưa hình thành được chính sách toàn diện về dân số.
Kết quả các điều tra xã hội học gần đây về dân số ở nước ta cho thấy: tâm lý các cặp
vợ chồng vẫn muốn có đủ con trai, con gái, nhất là con trai để nối dõi tông đường còn khá
nặng nề ở nông thôn, vùng núi, vùng dân tộc. Nhu cầu có thêm lao động trong các hộ sản
xuất nông nghiệp; ở miền núi, các gia đình đông con, nhiều cháu vẫn được xem là một ưu
thế trong cộng đồng, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh còn cao, người già không nơi nương tựa, không
có con cháu nhờ cậy vẫn chưa có cuộc sống đảm bảo... Vì vậy, để thực hiện chương trình
dân số nông thôn nhằm tạo ra sự phù hợp giữa phát triển dân số và phát triển kinh tế - xã hội
phải bổ sung, hoàn thiện hàng loạt chính sách và biện pháp đồng bộ, cả về kinh tế, văn hóa
và xã hội. Trong đó, giải pháp có ý nghĩa nhất là tạo ra yêu cầu tự giác, tự nguyện thực hiện
chương trình dân số ở mọi gia đình, địa phương của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, huy động toàn xã hội tham gia vào chương trình xã hội hóa triệt để công tác
dân số nhằm đạt mục tiêu ổn định và vững chắc. Tăng cường công tác đảm bảo chất lượng
dân số và NNL nông thôn.
Đẩy lùi các tệ nạn xã hội và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác nhằm phát huy,
sử dụng, phát triển NNL nông thôn
Dưới góc độ Xã hội học và Luật học, tệ nạn xã hội là những hành vi phạm pháp
hoặc những hành vi trái với các giá trị và chuẩn mực xã hội được thừa nhận phổ biến, gây
121
thiệt hại và ảnh hưởng đến môi trường kinh tế, xã hội và văn hóa.
Ở nước ta hiện nay, có những loại tệ nạn xã hội nguy hiểm đang lan tràn như trộm
cướp, cờ bạc, mua bán dâm, nghiện ma túy, tham nhòng, hiểm họa tiêm chích ma túy gắn
với hiểm họa HIV/AIDS đang là nguy cơ đe dọa sự sinh tồn nòi giống của dân tộc.
Tình trạng mua bán dâm chủ yếu là tập trung ở thành phố, thị xã, khu du lịch và hiện
đang có xu hướng lan về nông thôn, vùng biên giới. Nhiều tệ nạn xã hội đã lan tràn về nông
thôn phá vỡ sự bình yên của nông thôn.
Đáng chó ý là nạn ma túy, nghiện hót đã phát triển khá nhanh trong thời gian qua và
đã xâm nhập vào nông thôn và cả học đường.
Nạn tham nhòng xảy ra ở hầu hết các cấp, các ngành, tập trung vào một số ngành
trọng điểm: ngân hàng, kho bạc, thương mại, xuất nhập khẩu, xây dựng, quản lý nhà đất... ở
nông thôn, tình trạng tham nhòng của đội ngò cán bộ cơ sở đã ảnh hưởng to lớn đến sự ổn
định chính trị ở nông thôn trong thời gian qua, vi phạm nghiêm trọng dân chủ ở nông thôn.
Nông thôn nước ta trước đây được coi là vùng yên bình về an ninh, trật tự, không xảy ra vấn
đề gì lớn. Nhưng gần đây, do ảnh hưởng của cơ chế thị trường nên nông thôn cũng phát sinh
những vấn đề nghiêm trọng về trật tự xã hội. Theo thống kê của Bộ Công An, cả nước từ
1988- 1997 xảy ra 643.103 vụ phạm pháp hình sự thì khu vực nông thôn xảy ra 257.241 vụ,
chiếm 40% tổng số vụ phạm pháp hình sự. Đáng chú ý là một số tội danh trước đây không
thấy xuất hiện ở nông thôn như giết người, hiếp dâm mà nghiêm trọng là hiếp dâm trẻ vị
thành niên. Tệ ma túy, mại dâm trước kia ở nông thôn bị lên án nghiêm khắc và gay gắt thì
nay đang diễn ra công khai ở nhiều nơi nhất là trên các tuyến giao thông qua các vùng nông
thôn. Nạn số đề, cờ bạc đã và đang hoành hành ở nông thôn,. Nhiều gia đình khuynh gia bại
sản vì nạn này. Mê tín dị đoan tưởng một thời đã qua nhưng hiện nay lại trỗi dậy và gia tăng
ở nông thôn. Hiện tượng các thầy cúng, thầy đồng cốt, tướng số làm ảnh hưởng tới pháp luật
và làm mất an ninh nông thôn gia tăng. Đặc biệt là có nơi, có lúc vấn đề khiếu kiện đông
người ở nông thôn đòi đất đai, chống tham nhòng... đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
ổn định chính trị ở nông thôn. Vì vậy, phát triển NNL nông thôn cần phải tập trung vào giải
quyết tốt vấn đề ảnh hưởng đến môi trường, điều kiện sinh sống của dân cư nông thôn, hạn
chế các tệ nạn xã hội ở nông thôn.
Việc thực hiện các chính sách chống những tệ nạn xã hội ở nông thôn cần tập trung
vào các biện pháp sau:
- Xây dựng chương trình tổng thể của quốc gia phòng chống tệ nạn xã hội, kết hợp với
các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm...
122
- Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, tăng cường công tác truyền thông, giáo dục
pháp luật và giúp nông dân hiểu rõ tác hại của tệ nạn xã hội.
- Nâng cao hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp luật, kỷ cương kết hợp với xử lý
hành chính đối với các tệ nạn xã hội.
- Hết sức quan tâm xây dựng gia đình văn hóa mới ở nông thôn, nâng cao trách
nhiệm của các bậc cha mẹ. Coi công tác đấu tranh chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm chung
của các cấp, các ngành và của toàn xã hội.
Ngoài những vấn đề đã nêu trên, chính sách xã hội nhằm phát triển NNL nông thôn
cho CNH, HĐH đất nước cần tập trung làm tốt một số vấn đề như: Thực hiện tốt chính sách
trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất, nâng cao hơn nữa tính cộng đồng, tình làng nghĩa
xóm ở nông thôn; thực hiện tốt chính sách bảo đảm xã hội như bảo trợ, ưu đãi, cứu trợ đối
với các đối tượng xã hội ở nông thôn; thực hiện tốt các chính sách nhằm nâng cao dân trí và
bảo vệ dân sinh, bảo vệ môi trường ở nông thôn.
3.3. NHÓM GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH TRỊ - VĂN HÓA
3.3.1. Nhóm giải pháp về chính trị
Trước hết, phải hết sức chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục lý tưởng
cho nông dân, nhất là thanh niên nông thôn
Giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục lý tưởng để nâng cao ý thức, lập trường
chính trị cho người lao động nông thôn là một giải pháp quan trọng nhằm phát huy NNL
nông thôn. Giáo dục tư tưởng chính trị bao gồm giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; giáo dục đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; giáo
dục truyền thống dân tộc và cách mạng để khơi dậy sự quan tâm của người lao động nông
thôn đối với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp CNH, HĐH của dân tộc do Đảng ta đề xướng
và lãnh đạo. Nó giúp cho người dân nông thôn nhận thức rõ hơn bản chất ưu việt của xã hội
ta. Giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục lý tưởng nhằm phát triển con người toàn diện ở
nông thôn, hình thành tình cảm, nhận thức và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước; hiểu rõ được ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của người công dân
đối với đất nước. Từ đó, tạo nên sức mạnh và nguồn lực tinh thần to lớn thúc đẩy người lao
động nông thôn tích cực, sáng tạo, tự giác trong lao động, học tập và xây dựng đất nước.
Giáo dục tư tưởng chính trị là một trong ba bộ phận cơ bản của công tác tư tưởng:
Nghiên cứu lý luận, giáo dục tư tưởng chính trị và cổ động, lôi cuốn con người vào hành
động cách mạng.
123
Nhiệm vô quan trọng của giáo dục tư tưởng chính trị là phải giáo dục niềm tin, tình
cảm chính trị cho người lao động nông thôn. Thực tế hiện nay, người lao động nông thôn nói
chung hiểu biết về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa nhiều, đôi khi còn phiến
diện, lệch lạc. Họ mới biết đến tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua tìm hiểu đạo đức và tác
phong của Người. Họ đã quan tâm đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nhưng quan tâm ấy trước hết là phục vô cho hoạt động của bản thân, nên nhiều khi
hiểu biết của họ còn mang tính phiến diện, chủ quan.
Niềm tin của người lao động nông thôn vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, của sự
nghiệp xây dựng CNXH, xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH đã hình thành
nhưng chưa được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học về chính trị. Ngay cả một bộ phận
cán bộ, đảng viên cũng dao động, giảm lòng tin đối với chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh được biểu hiện qua NNL trẻ nông thôn.
Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục lý tưởng cho
người lao động nông thôn trong giai đoạn CNH, HĐH hiện nay phải đổi mới cả nội dung và
phương thức giáo dục theo hướng: Làm cho người lao động nông thôn nhận thức sâu sắc về
thành tựu của cách mạng, của công cuộc đổi mới, của đường lối XHCN và sự cần thiết của
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta; tăng cường và đổi mới công tác giáo dục
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho
thanh niên nông thôn; tuyên truyền, phổ biến và giáo dục đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; tăng cường giáo dục truyền thống dân tộc và truyền thống cách
mạng.
Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay, giáo dục chính trị tư tưởng phải chú trọng đổi
mới về phương pháp theo những quan điểm sau đây:
- Tăng cường tính phê phán trong giáo dục tư tưởng chính trị. Bên cạnh việc bảo vệ
và phát triển những tư tưởng tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
con người cần kiên quyết đấu tranh chống lại những tiêu cực, với sự gia tăng các phản giá
trị.
- Giáo dục tư tưởng chính trị phải gắn liền với thực tiễn phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội. Đây là quan điểm rót ra từ phương châm gắn lý luận với thực tiễn.
- Giáo dục chính trị tư tưởng phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục văn hóa, khoa học
kỹ thuật, giáo dục lao động, đạo đức và lối sống. Đây là cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả
của giáo dục pháp luật.
Việc giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục lý tưởng cần huy động mọi tiềm lực
124
khoa học, tư tưởng và lý luận của xã hội, sử dụng các phương tiện tuyên truyền, thông tin
đại chúng, các loại hình văn hóa - nghệ thuật... phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm
tâm lý nông dân và điều kiện nông thôn Việt Nam.
Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị và cơ chế, chính sách ở nông thôn. Thực hiện
mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nông thôn nhằm phát triển
NNL nông thôn.
Các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm: Nhà nước, các đảng chính trị - xã hội
hợp pháp khác được liên kết với nhau thành một hình thể nhằm tác động vào các quá trình
của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì, phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với lợi
Ých của chủ thể cầm quyền. Chỉnh thể đó là hệ thống chính trị [51, tr. 273].
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội và mối
quan hệ giữa chúng với nhau hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ xã hội. Trong xã hội
XHCN, phải hình thành một hệ thống chính trị mới thể hiện lợi Ých căn bản của nhân dân
lao động, đảm bảo quản lý có hiệu quả các công việc xã hội, đảm bảo sự tham gia tích cực
của nhân dân lao động và hoạt động của Nhà nước, quản lý xã hội, kết hợp quyền tự do
công dân với nghĩa vụ, trách nhiệm của họ trước xã hội [27, tr. 36-43]
Trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị bao gồm
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác của nhân dân.
Trong quá trình đổi mới toàn diện theo định hướng XHCN ở nước ta, cùng với đổi
mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, hệ thống chính trị ở nước ta đang ngày
càng được đổi mới. Đây là vấn đề chiến lược cấp bách của xã hội ta, bắt nguồn từ nhu cầu
thực tiễn và những mục tiêu mà xã hội ta hướng tới. Đổi mới hệ thống chính trị một cách
căn bản và đồng bộ theo hướng dân chủ, làm cho nó thực sự đảm bảo quyền lực của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị
là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người lao động
nông thôn, tạo ra bầu không khí và môi trường xã hội tích cực, lành mạnh để định hướng giá
trị và điều chỉnh việc lùa chọn giá trị của người lao động nông thôn.
Vì vậy, nâng cao vai trò sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là điều kiện
quan trọng của đổi mới hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta.
Tổ chức Đảng giữ vai trò lãnh đạo xã hội. Sự phát triển của nông thôn có vai trò
quyết định của tổ chức Đảng. Nơi nào tổ chức Đảng đoàn kết, thống nhất thực hiện nhiệm
vụ chính trị, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì nơi
125
đó kinh tế - xã hội phát triển, ngược lại nơi nào tổ chức Đảng mất đoàn kết, nội bộ lục đục,
bè phái thì tình hình kinh tế - xã hội thấp kém và dân chí chậm phát triển.
Sự phát triển của xã hội nông thôn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lãnh đạo của
cán bộ chủ chốt ở nông thôn (thường gọi là Bộ tứ: Bí thư, Chủ tịch UBND, Chủ tịch
HĐND, Phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, chủ nhiệm HTX nông nghiệp). Nơi nào cán
bộ năng lực tốt, có trình độ, chịu khó học hỏi kinh nghiệm, phát huy dân chủ tốt thì nơi đó
đời sống kinh tế xã hội phát triển và ngược lại.
Thực tiễn xây dựng chính quyền cấp xã cho thấy vai trò quan trọng của cấp xã trong
hệ thống chính trị của Nhà nước ta. Cấp xã (cơ sở) là cấp gần dân, gắn với dân, triển khai
thực hiện toàn bộ chủ trương, chính sách của Đảng, và Nhà nước đến với dân. Thắng lợi
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta không tách rời với sự đóng góp quan trọng của hệ
thống chính quyền cấp xã.
Hiện nay, cùng với cơ chế thị trường và khi chuyển sang hình thức khoán hộ trong
nông nghiệp, tình hình nông thôn đã có sự chuyển biến sâu sắc. Cán bộ cấp xã nhìn chung
năng lực và trình độ còn thấp, còn mang nặng tính kinh nghiệm, cục bộ địa phương. Phần
lớn các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch xã chưa qua đào tạo về quản lý hành chính,
chuyên môn và còn nhiều bất cập lớn về trình độ trí tuệ, năng lực quản lý và điều hành ở cơ
sở, nhất là cán bộ xã ở vùng núi, vùng dân tộc Ýt người.
Hệ thống chính trị ở nông thôn hiện nay ngoài tổ chức Đảng, Chính quyền còn có
các tổ chức đoàn thể xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên CSHCM,
Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân... Các tổ chức này có vai trò quan trọng ở nông thôn,
chính họ là người tổ chức, cuốn hót nông dân tham gia các chương trình phát triển kinh tế,
xã hội nông thôn. Trong thời gian qua, do tác động của cơ chế thị trường và lối sống thực
dụng, hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội này rất khó khăn, không Ýt nơi lúng túng
trong công tác vận động quần chúng, cá biệt có nơi, có lúc còn bị tê liệt, kém hiệu quả.
Một vấn đề nhức nhối là ở cấp cơ sở, đội ngò cán bộ cơ sở do trình độ và năng lực
yếu kém, tha hóa về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, Chính quyền cấp cơ sở đã liên tiếp phạm sai lầm từ quản lý,
lãnh đạo đến xử lý các vụ việc và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Các đoàn thể quần
chúng, nhất là Đoàn thanh niên lúng túng, hoạt động kém hiệu quả, một bộ phận đoàn viên phai
nhạt lý tưởng, chạy theo cơ chế thị trường, lối sống thực dụng, không được định hướng. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, quan liêu, tham nhòng, cửa quyền, ức hiếp nhân
dân ở nông thôn - đó là một thực tế. Điển hình là 62 xã của Thái Bình qua kiểm tra đã có kết
126
luận thì nhiều cán bộ chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch, Cán bộ địa chính, tài chính, chủ nhiệm, kế
toán hợp tác xã, trưởng thôn, xóm đều tham nhòng. Cơ chế: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" chưa được thể chế hóa [72, tr. 98].
Thực tế trên cho thấy, đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nông thôn là một
vấn đề cấp bách hiện nay nhằm phát triển nông thôn về mọi mặt khi đi vào quá trình CNH,
HĐH đất nước. Nó là cơ sở quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước ở nông thôn, thực hiện dân chủ ở nông thôn.
Mặt khác, thực tế trên cũng cho thấy, Đảng và Nhà nước cần phải xây dựng và hoàn
thiện các chính sách đối với nông thôn và nông dân. Tăng cường xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.
Cần đổi mới tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở nông thôn, cần phải
đổi mới đồng bộ từ hệ thống tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động và công tác cán bộ.
Đây là vấn đề cần đặc biệt quan tâm ở nông thôn hiện nay.
Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội nông thôn, quan trọng nhất
là dân chủ về kinh tế nhằm phát triển NNL nông thôn.
Dân chủ hóa là sự vận động của xã hội đến dân chủ. Đó là quá trình hiện thực hóa
tư tưởng, đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống. Đồng thời là quá trình phát huy quyền làm
chủ của con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hóa ở nước ta có
nội dung toàn diện và phát triển cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước.
Đổi mới về kinh tế phải đồng thời đi liền với dân chủ hóa về kinh tế và dân chủ hóa
về chính trị, nhằm phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của đông đảo nhân dân trong
đời sống chính trị - xã hội. Dân chủ hóa trên lĩnh vực văn hóa - tinh thần nhằm thực hiện tự
do tư tưởng và tự do sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội.
Như vậy, dân chủ hóa chính là quá trình đưa các giá trị dân chủ vào kinh tế, chính
trị và văn hóa- tinh thần trong cuộc sống của nhân dân nhằm tạo điều kiện, môi trường phát
triển chất lượng con người, chất lượng NNL nông thôn. ĐÈy mạnh dân chủ hóa các lĩnh vực
của đời sống xã hội nông thôn nhằm góp phần hình thành ý thức dân chủ và những năng lực
thực hành dân chủ của người lao động nông thôn. Trong đó, công bằng xã hội, trước hết và chủ
yếu là công bằng về lợi ích, là trung tâm của các chính sách xã hội nông thôn- đó là sự công
bằng giữa nghĩa vụ và quyền lợi của nông dân.
Nghị định số 29 của Chính phủ tháng 5-1998 về Dân chủ ở cơ sở là một bước tiến
quan trọng tạo nên sự điều hành của Nhà nước tốt hơn ở cấp cơ sở. Nghị định về dân chủ ở
cơ sở là một bước tiến quan trọng cho phép người dân được tham gia trực tiếp vào quá trình
127
ra quyết định tại cơ sở cũng như nâng cao tính minh bạch, tính trách nhiệm cao ở xã nhằm
giám sát các chương trình, dự án của địa phương. Nghị định này đặt trọng tâm vào bốn mục
tiêu có sự tham gia của nhân dân: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Để phát triển
NNL nông thôn hiện nay việc thực hiện Nghị định này cần phải được tiến hành và thực hiện
nghiêm túc ở nông thôn nước ta.
3.3.2. Nhóm giải pháp về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho
phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Ngày nay, văn hóa được coi là động lực và mục tiêu quan trọng của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng khóa VII đã chỉ rõ: Văn hóa
là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, một
lần nữa Đảng ta khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [15, tr. 111].
Hoạt động văn hóa có vị trí rất quan trọng trong việc nâng cao trình độ văn hóa,
nâng cao thể lực, hình thành nhân cách, tạo nên những quan hệ xã hội tốt đẹp. Văn hóa có
ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống của con người, nó có
vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển NNL.
Văn hóa là nhân tố không thể thiếu trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách
của người lao động. Trong quá trình Êy, văn hóa đã tham dự và để lại những dấu Ên quan trọng
trên diện mạo nhân cách của mỗi cá nhân, nó là cơ sở để phát huy tính năng động, tích cực và
sáng tạo của người lao động. Với vai trò và ý nghĩa nhân văn sâu sắc, văn hóa đã khơi dậy
những tiềm năng trí tuệ to lớn và khả năng sáng tạo của người lao động trong hành động và tư
duy, trong điều chỉnh và hình thành nhân cách. "Nhân cách của một người như thế nào, điều
đó tùy thuộc vào khả năng và mức độ mà người đó tiếp nhận những tác động văn hóa của xã
hội thông qua sự luyện tập văn hóa của cá nhân trong lao động, học tập và trong giao tiếp xã
hội" [5, tr. 3-5]
Với tư cách là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, văn hóa
lại tác động trực tiếp tới sự phát triển, hoàn thiện con người. Văn hóa đưa giá trị con người
lên vị trí cao nhất trong hệ giá trị của xã hội, con người là giá trị của mọi giá trị. Chính nhờ
có văn hóa mà con người trở thành những "sinh vật văn hóa", nhân bản, có lý tính và biết
vượt lên những ràng buộc của hoàn cảnh và bản thân để phát triển.
Môi trường xã hội- văn hóa lành mạnh sẽ chắp cánh cho sự sáng tạo, ngược lại sự
thiếu hụt văn hóa, hoặc sự cằn cỗi, nghèo nàn về văn hóa tinh thần sẽ làm thui chột, méo mó
128
con người, thậm chí làm biến dạng nó trong lèi sống, hành vi, tính cách, tâm hồn như là
những phản văn hóa.
Những hiện tượng sa sút đạo đức và kỷ cương, sự lãng phí tài nguyên và tàn phá môi
trường, sự lạc hậu, mê tín dị đoan... đều có nguyên nhân từ sự yếu kém văn hóa. Thiếu văn hóa,
con người sẽ không xét đoán được giá trị và không thực hiện được giá trị nào cả. Trong tiềm
năng sáng tạo của con người đều có ý nghĩa văn hóa, văn hóa trong trí tuệ, đạo đức, lối sống
của mỗi cá nhân và cộng đồng. Mặt khác, văn hóa nằm chính trong lòng sự phát triển. Nó là
dòng chảy liên tục, luôn được bồi đắp bằng sinh khí của thời đại, bằng kinh nghiệm sống và
sức sáng tạo của các thế hệ, mà trong đó, nông thôn đóng một phần không nhỏ, làm phong
phú thêm sự giàu có của văn hóa.
Vấn đề đặt ra hiện nay, trong thời đại ngày nay, nhất là trong bối cảnh nước ta, một
nước chậm phát triển đang phấn đấu xây dựng xã hội có văn hóa cao theo định hướng
XHCN, làm cho quan điểm xem văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát triển thấm dần
từng bước vào đời sống của mọi người, mọi ngành, mọi địa phương. Cần phải hiểu rằng ở
đâu có yêu cầu phát triển thì ở đó có yêu cầu văn hóa. Chỉ có văn hóa mới tạo ra nhận thức
đúng đắn cho sự phát triển, mới giúp cho phát triển những nền nếp, kỷ cương và quan hệ
ứng xử đúng đắn giữa người với người, người với thiên nhiên, môi trường, và cuối cùng, tạo
ra những hiệu quả đích thực cho phát triển. Phát triển văn hóa ở nông thôn phải đặc biệt chú
ý đến vấn đề tạo ra môi trường văn hóa cho người lao động. Môi trường văn hóa và con
người văn hóa là hai nhân tố tác động biện chứng với nhau. Suy cho cùng: con người là sản
phẩm của môi trường văn hóa, môi trường văn hóa sáng tạo ra con người trong chõng mực con
người sáng tạo ra môi trường văn hóa. Vì vậy phải làm cho văn hóa thâm nhập vào con người
nông thôn, nhất là thanh niên. Nhân cách người lao động ở nông thôn được hình thành trên
cơ sở hoạt động thực tiễn xây dựng nông thôn mới và là kết quả của giáo dục văn hóa.
Nhiều học giả đã dự đoán rằng: Trong tương lai, nhân loại sẽ không thể duy trì và
tiếp tục tăng trưởng nếu không lấy văn hóa làm động lực. Tương lai, tính ưu việt trong sự
phát triển xã hội sẽ thuộc về văn hóa. Hạnh phóc của con người chủ yếu sẽ do văn hóa
mang lại.
Mọi sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật không song hành với phát triển văn hóa
sẽ tạo ra những con người phiến diện, thực dụng. Con người thờ ơ, vô cảm, phi nhân tính
trong cuộc sống xã hội. Nói cách khác: thời kỳ con người đi tìm động lực trong kỹ thuật đã
đi qua. Đến nay, chính con người và sự sáng tạo văn hóa của nó mới là nguồn nội lực vô
tận của phát triển bền vững.
129
Vậy là, trong điều kiện hiện nay, văn hóa giúp cho người lao động thoát khỏi tệ nạn
xã hội, lập lại sự cân bằng sinh thái, góp phần tạo ra nhân cách văn hóa hiện đại. Nếu thiếu
văn hóa, đánh mất bản sắc dân tộc, hoặc chỉ biết hưởng thụ mà không sáng tạo văn hóa,
cuộc sống sẽ trở lên vô nghĩa. Văn hóa không chỉ biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của một
dân tộc mà còn nói lên trình độ người của một xã hội, thời đại và mỗi cá nhân cụ thể. "Tất
cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp đến con người" là văn
hóa [17, tr. 13].
Trong thời đại ngày nay, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển theo yêu cầu và mục
tiêu của đất nước mình, đều phải có ý thức bảo tồn và phát triển nền văn hóa riêng của dân
tộc mình. Khi nói đến 4 mục tiêu chính của "Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa", UNESCO
cũng đề ra mét trong bốn mục tiêu là khẳng định và đề cao các bản sắc văn hóa, khuyến
khích tài năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa. Điều đó cho thấy việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc có thể xem là xu thế tất yếu của sự phát triển.
CNH, HĐH ở nước ta không chỉ đề cao yếu tố trí tuệ, mà còn hết sức coi trọng các
nhân tố đạo đức- cái tâm của con người, một trong những giá trị cốt lõi của văn hóa. Vì vậy,
đạo đức là cái gốc, là nền tảng cho sự phát triển nhân cách người lao động nông thôn.
Sức mạnh của con người Việt Nam khi bước vào CNH, HĐH là sức mạnh của tinh
thần dân tộc cùng với tri thức về khoa học công nghệ tiên tiến. Vấn đề đặt ra cho quá trình
phát triển NNL nông thôn là phải tạo ra những con người lao động mới trong đó kết hợp
giữa sức mạnh tổng hòa của con người và nền văn hóa truyền thống dân tộc. Nâng cao chất
lượng NNL nông thôn ngoài việc phát triển trí tuệ, dân trí còn phải chú trọng xây dựng thế
hệ con người văn hóa, mang đậm nét bản sắc dân tộc.
Những truyền thống tốt đẹp của con người, của dân tộc và của nông thôn Việt Nam
cần phải được phát huy trong thời đại ngày nay, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý
chí tự lực tự cường, lao động thông minh sáng tạo... là những vấn đề có ý nghĩa tạo nên sức
mạnh nội lực. Chúng ta phải biết khơi dậy những truyền thống tốt đẹp đó, kết hợp với
những giá trị hiện đại để tạo nên nhân cách con người nông thôn Việt Nam đi vào CNH,
HĐH. Phải làm cho bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa thấm đượm trong
mỗi con người, có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam.
Quán triệt quan điểm trên, quá trình phát triển NNL nông thôn phải hướng tới mục tiêu hình
thành con người mới với những nét đặc trưng sau:
- Có niềm tin vững chắc, quyết tâm hoàn thành CNH, HĐH để thoát ra khỏi nghèo
nàn, lạc hậu bằng ý chí và tài năng sáng tạo.
130
- Có tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự
cường, tinh thần hòa hợp, hòa bình, hữu nghị.
- Con người có bản chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ giữa người và
người, con người có ý thức cộng đồng, ý thức trách nhiệm cao với đất nước, gia đình, bản
thân, có quan hệ tình nghĩa, trọng chữ tín.
- Con người khoa học - công nghệ, phát triển cao về trí tuệ, ham học hỏi tinh hoa
của văn hóa nhân loại, có tư duy tổng hợp, linh hoạt, sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có
tính thích ứng cao, ý thức tiết kiệm, làm giàu cho bản thân và xã hội.
- Có tinh thần công dân, hiểu biết và tự giác chấp hành pháp luật, tinh thần cộng
đồng vì dân chủ, tự do, về quyền con người...[20, tr. 158].
Ở nông thôn nước ta hiện nay, đời sống văn hóa còn hết sức nghèo nàn, nhất là việc
thỏa mãn những nhu cầu văn hóa cho thanh niên. Văn hóa ngày càng trở thành nhu cầu
không thể thiếu được với thanh niên nông thôn nhất là trong điều kiện sự giao lưu văn hóa
ngày càng phát triển. Ngoài những nhu cầu văn hóa bình thường, thanh niên nông thôn còn
có nguyện vọng và mong muốn hưởng thụ những thành tựu cao của văn hóa và tham gia
vào các hoạt động văn hóa.
Trong điều kiện giao lưu văn hóa hiện nay, NNL nông thôn - nhất là thanh niên
nông thôn nước ta phải chịu đựng nhiều thiệt thòi về sự thiếu thốn đời sống văn hóa, tinh
thần. Họ không có báo đọc, Ýt được xem phim, Ýt có điều kiện hưởng thụ các giá trị văn
hóa nghệ thuật, không có câu lạc bộ để sinh hoạt, không có địa điểm vui chơi giải trí, nhiều
nơi không có nhà văn hóa cho thanh niên. Họ thiếu hẳn những điều kiện, thông tin để học
hỏi mở mang kiến thức, thiếu môi trường văn hóa. Điều này đặc biệt khó khăn ở các vùng
sâu, vùng xa, miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình trạng đời sống khó khăn, thiếu thốn, không có điều kiện học tập, phát triển
nghề nghiệp, đời sống tinh thần lại quá yếu đã làm cho một bộ phận không nhỏ chán nản, bế
tắc, muốn rời bỏ làng quê ra đi kiếm sống, lập nghiệp. Vì vậy, hơn lúc nào hết, một vấn đề
được hết sức quan tâm là phải phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho thanh niên và NNL
nông thôn.
Chính quyền và các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý nông thôn phải có ý thức và sự
quan tâm đặc biệt đến tuổi trẻ ở nông thôn, tạo môi trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng như hội diễn văn nghệ, thi
sáng tác thơ ca, tổ chức các lễ hội. Hình thành các đội văn nghệ quần chúng, nghiệp dư ở
nông thôn.
131
- Tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, tham quan học tập kinh nghiệm, thi đấu
thể thao giao hữu, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao nhằm tạo không khí vui tươi,
lành mạnh, khai thác các vốn văn hóa dân tộc.
- Tổ chức các hình thức câu lạc bộ: Câu lạc bộ gia đình trẻ, câu lạc bộ sản xuất kinh
doanh giỏi, câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình...
- Xây dựng các tụ điểm và trung tâm văn hóa địa phương. Nhiều nơi tổ chức thực
hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm đã huy động được sức lao động và đóng
góp vật chất của dân...
- Mở rộng và nâng cao cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa", "Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa", phong trào "Người tốt, việc tốt"
làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người ở nông thôn, hình
thành hệ giá trị mới cho con người nông thôn, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo ra sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại.
Nâng cao tính văn hóa của các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân
nông thôn.
- Chó trọng giữ gìn và phát triển các di sản văn hóa phi vật thể ở nông thôn, đồng
thời tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử ở nông thôn. Phát
triển mạnh mạng lưới thư viện, hiện đại hóa công tác thư viện ở các xã, nhất là vùng sâu,
vùng xa, miền núi. Xây dựng nhanh các công trình văn hóa, các khu vui chơi công cộng ở
nông thôn.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, nâng cao chất lượng các dịch vụ phát thanh, truyền hình ở nông thôn. Đến năm
2010, phấn đấu hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến
mỗi gia đình, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Phát triển các
điểm văn hóa kết hợp với hệ thống bưu cục khắp các xã trong cả nước. Thực hiện các
chương trình tiếng nói, chữ viết qua sách báo và phát thanh, truyền hình.
- Đẩy mạnh các hoạt động thể dục, thể thao, nâng cao thể trạng và tầm vóc của
người lao động nông thôn, phát động các phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở nông
thôn.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động văn hóa, thể thao; khuyến khích nhân dân và các tổ chức ở nông thôn tham gia tích
cực và có hiệu quả vào các hoạt động này.
132
- Tăng ngân sách cho văn hóa nông thôn tương ứng với đà tăng trưởng kinh tế ở
nông thôn.
Các giải pháp về văn hóa và xây dựng đời sống tinh thần cho NNL nông thôn phải
được kết hợp một cách đồng bộ, phải được sự quan tâm thích đáng cả về vật chất và tinh
thần của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội, phải tạo ra để người lao động nông thôn
thừa hưởng được các giá trị, để văn hóa thấm sâu vào hoạt động của người lao động. Muốn
vậy, Nhà nước phải có chính sách văn hóa đủ mạnh, đúng hướng, cần có cơ chế hoạt động
văn hóa ở nông thôn. Có như vậy, nền văn hóa dân tộc, truyền thống mới phát huy được các
giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn mà nổi bật là đạo lý và tâm hồn, nhân cách của con
người lao động nông thôn vừa hiện đại vừa thấm đượm truyền thống, vươn tới chân- thiện-
mỹ. Đó là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được giữ gìn và bồi đắp từ
NNL nông thôn có văn hóa, hiện đại.
Ngoài những nhóm giải pháp trên thì một vấn đề bức xúc hiện nay trong phát triển
NNL nông thôn nước ta là: Đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa NNL nông thôn.
Có thể nói rằng mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế - xã hội là phát triển NNL.
Đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa NNL nhằm phát triển NNL đòi hỏi nhiều giải pháp
đồng bộ vừa tạo điều kiện môi trường thuận lợi để NNL phát triển, vừa tạo ra động lực bên
trong NNL- con người- tự chứa trong mình nó nhân tố chủ động, sáng tạo ra sự phát triển.
Do đó việc đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa NNL cần tập trung vào những vấn đề
chủ yếu sau:
- Thay đổi quan niệm cũ của các nhà kế hoạch, hoạch định chính sách và quản lý
thường quen vận dụng trong nền kế hoạch hóa tập trung trước đây, coi NNL như là một yếu
tố bị động, có thể phân phối sắp đặt theo ý muốn thành quan niệm coi NNL là nhân tố chủ
động, sáng tạo, linh hoạt trong nền kinh tế thường xuyên biến động và phụ thuộc đòi hỏi
khắt khe của thị trường. Từ đó, việc quản lý, kế hoạch hóa không phải là sự ra lệnh, điều
khiển trực tiếp mà là định hướng, tạo điều kiện và môi trường để con người chủ động, sáng
tạo phát huy mọi năng lực của bản thân nhằm làm giàu chính đáng cho mình, cho gia đình
và xã hội.
- Vận dụng lồng ghép vấn đề dân số và NNL trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực
hiện kế hoạch hóa phát triển NNL: trong đó đặc biệt coi trọng chỉ tiêu chất lượng NNL.
Vai trò của kế hoạch hóa phát triển NNL là phải đưa ra được những dự báo ngay từ
đầu để cho nền kinh tế có đủ thời gian điều chỉnh. Kế hoạch hóa phát triển NNL là một kế
hoạch chỉ dẫn, nó cung cấp những định hướng và được thực hiện thông qua việc đào tạo và
133
những chính sách hạn chế, hay khuyến khích thích hợp.
- Cải tiến và tăng cường công tác thống kê và xử lý thông tin, thu thập về dân số,
NNL và việc làm trong đó vận dụng các khái niệm và chỉ tiêu mới (như NNL, việc làm,
người lao động, thất nghiệp, phân loại NNL...) nhằm phản ánh trung thực hơn thực tế khách
quan nền kinh tế thị trường, để có được cơ sở dữ liệu đáng tin cậy phục vụ việc kế hoạch
hóa phát triển kinh tế - xã hội, phát triển NNL và điều tiết thị trường lao động.
- Cần xây dựng chiến lược phát triển NNL đến năm 2010 và 2020 mét cách toàn diện
và đồng bộ của các ngành, các cấp phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và KH-
CN trong quá trình CNH, HĐH, làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược và kế hoạch phát
triển các ngành có liên quan.
- Thu hót sự tham gia của cả cộng đồng vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch
phát triển NNL.
Tổ chức quản lý vĩ mô NNL là một vấn đề cấp bách hiện nay. Trước hết đó là phải
kết hợp thống nhất giữa đào tạo, sử dụng và việc làm trong điều kiện có thị trường lao
động. Để phát huy có hiệu quả NNL nông thôn cần phải đảm bảo sự thống nhất của cả ba
mặt: đào tạo, sử dụng, việc làm. Trong những năm qua, do thiếu sự quản lý có tính đồng bộ
và hệ thống của Nhà nước nên cả 3 mặt đều kém hiệu quả, kết quả là vừa lãng phí công sức
đào tạo, vừa không phát huy được hiệu quả NNL. Ở đây vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước
là đặc biệt quan trọng. Trong lĩnh vực đào tạo và sử dụng NNL cũng vậy, có thể thấy rõ
điều này trên thực tế hiện nay: cơ cấu, chất lượng NNL được đào tạo không đảm bảo sự phù
hợp với nhu cầu sử dụng của nền kinh tế - xã hội. Tính thực dụng của người học làm cho
qui mô đào tạo không tương xứng làm mất cân đối lớn trong cơ cấu đào tạo, nhiều ngành
không có lao động chuyên môn kỹ thuật nhưng nhiều sinh viên tốt nghiệp không có việc
làm.
Gắn đào tạo với sử dụng trong một cơ cấu thống nhất đòi hỏi trước hết phải xác
định được nhu cầu về việc làm, về sử dụng nhân lực đã qua đào tạo để từ đó mà xác định
qui mô đào tạo phù hợp. Muốn vậy phải có những nghiên cứu đầy đủ về thực trạng thị
trường lao động, dự báo xu hướng vận động trong quá trình CNH, HĐH. Bởi vậy "cần thành
lập mét ban chỉ đạo đào tạo, sử dụng, việc làm đặt dưới sự điều khiển của một phó Thủ
tướng phụ trách NNL, có sự tham gia của đại diện các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội" [20, tr. 294].
Từ đây sẽ triển khai chương trình đào tạo lại, đào tạo mới, đưa ra các chính sách vĩ
mô tạo ra việc làm, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, cơ cấu lao động, chính sách khoa học công
134
nghệ, các chính sách lao động, chính sách tiền lương, nói cụ thể hơn, chính sách tuyển dụng
và sử dụng lao động, chính sách cán bộ [51, tr. 186].
Chính sách lao động, tiền lương, khen thưởng làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên
tắc lợi Ých là một động lực quan trọng nhất của phát triển NNL. Đó là vấn đề tạo động lực
kích thích tính tích cực lao động, tính tích cực xã hội của người lao động, làm cho họ năng
động, cầu tiến, thiện chí... từ đó đi đến sáng tạo là một vấn đề quan trọng trong quản lý vĩ
mô cũng như vi mô NNL.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Phát triển NNL nông thôn là một vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa cấp bách
cũng như lâu dài trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Sự nghiệp CNH, HĐH có thành
công hay không, phần lớn phụ thuộc vào việc sử dụng, bồi dưỡng và phát triển NNL. Muốn
vậy, phải hình thành một hệ thống tổ chức với chính sách và cơ chế hợp lý nhằm sử dụng,
phát triển NNL nông thôn. Phải không ngõng tìm tòi, sáng tạo các phương thức tác động,
tạo ra các điều kiện thuận lợi, làm bộc lé khả năng và năng lực sáng tạo của người nông dân,
nhất là thanh niên, đảm bảo cho họ tìm thấy triển vọng và lợi Ých cá nhân trong triển vọng
và lợi Ých chung của dân tộc.
Sự khẳng định tính chất quan trọng của NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH
chỉ có ý nghĩa, khi có được hệ thống các giải pháp đồng bộ và đúng đắn, có khả năng đi vào
cuộc sống. Trong các nhóm giải pháp nhằm phát triển NNL nông thôn nước ta hiện nay thì
giáo dục, đào tạo là một trong những nội dung và giải pháp quan trọng nằm trong chiến lược
phát triển NNL cho tương lai, giúp cho NNL nông thôn có được những kỹ năng, kiến thức
và phẩm chất cần thiết cho công việc. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống
vật chất đi đôi với hưởng thụ văn hóa tinh thần, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển
NNL nông thôn là một ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Các quan điểm và giải
pháp phát triển NNL nông thôn chỉ có thể đạt được trên thực tế, khi tiến hành đồng bé trên
tất cả các mặt, vì giữa các nhóm giải pháp có quan hệ qua lại và tác động biện chứng với nhau,
trong một chỉnh thể. Các nhóm giải pháp trên chỉ có thể đạt kết quả trên cơ sở thực hiện tốt dân
chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Quan tâm, giải quyết
tốt các giải pháp phát triển NNL nông thôn không những có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo mà
còn là có ý nghĩa to lớn về kinh tế, chính trị, quyết định sự ổn định chính trị ở nông thôn, tạo
tiền đề để NNL nông thôn nước ta có đủ khả năng và điều kiện đi vào thế kỷ XXI với tư
cách là chủ thể của quá trình CNH, HĐH.
135
KẾT LUẬN
1. Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng
chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người. Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn
cảnh cụ thể nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. So sánh các nguồn lực
với tư cách là điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành CNH, HĐH thì NNL có
ưu thế hơn cả. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, NNL phải chiếm vị trí trung tâm và
đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Khai
thác, sử dụng và phát triển NNL là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành công quá
trình CNH, HĐH đất nước.
Chóng ta tiến hành CNH gắn liền với HĐH. Đây là yêu cầu khách quan để khắc
phục sự tụt hậu của nền kinh tế và sự lạc hậu của phát triển xã hội nói chung nhằm đưa nước
ta tiến tới trình độ văn minh, hiện đại. Quá trình sử dụng, phát triển NNL cần gắn với định
hướng mang tính chiến lược đó. Vì vậy, phải đào tạo, tổ chức quản lý và phát triển NNL
theo những yêu cầu mang tính qui luật của việc phát triển NNL trong quá trình CNH, gắn
với diễn biến của cuộc cách mạng KH-CN hiện nay.
Thực chất của việc phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay là nâng cao chất lượng con
người và phát huy vai trò của nã, đặc biệt là đối với NNL nông thôn. Đây chính là tài sản
quý giá cho hôm nay và mai sau. Chất lượng NNL nông thôn bao hàm chất lượng cá thể
người (thể lực, trí lực, đạo đức...), và chất lượng của cả cộng đồng xã hội (nhóm, cộng đồng,
tập thể, xã hội). Đó vừa là nguồn lực hiện hữu, vừa là nguồn lực dự trữ tiềm tàng đang định
hình, lớn lên, đang được xã hội đầu tư cho phát triển. Việc phát triển NNL nông thôn trước
hết phải nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn, phát triển tiềm năng sáng tạo của họ.
Chất lượng phát triển NNL nông thôn chính là điều kiện để phát huy vai trò năng động, sáng
tạo của người lao động nông thôn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tiềm năng nhân lực ở nông thôn nước ta không phải là nhỏ- nếu không muốn nói là
khá lớn. Đó là thế mạnh về qui mô NNL, là ưu thế về tiềm năng trí tuệ; tiềm năng "chất
xám" rất đa dạng, phong phú của thanh niên nông thôn, là truyền thống văn hóa mang nặng
những giá trị cổ truyền của nền văn hóa phương Đông như hiếu học, trọng người tài, trọng
tri thức khoa học.... Tuy nhiên cho đến nay, NNL nông thôn nước ta còn hạn chế và bất cập
về nhiều mặt, nhất là về chất lượng NNL. Việc khai thác sử dụng và phát triển nguồn tiềm
năng to lớn này vẫn chưa có hiệu quả, chưa được khai thác đầy đủ. Tình hình đó đặt ra
những yêu cầu vừa cơ bản, vừa bức xúc trong việc phát triển NNL nông thôn nước ta là: sử
136
dụng có hiệu quả lực lượng lao động nông thôn, khai thác tiềm năng trí tuệ, năng lực sáng
tạo, phát huy những yếu tố tinh thần gắn với truyền thống dân tộc.
Thực hiện những yêu cầu trên, vấn đề cơ bản là phải khơi dậy, khai thác và phát huy
được tính sáng tạo, tích cực của người lao động nông thôn, hướng nó vào mục tiêu CNH,
HĐH.
2. Để đạt được yêu cầu tạo ra NNL chất lượng cao ở nông thôn đáp ứng yêu cầu của
CNH, HĐH cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết là nhận thức trong Đảng và Nhà
nước về ý nghĩa, tầm quan trọng của NNL nông thôn, vai trò và ý nghĩa của nó trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Phải hình thành một hệ thống tổ chức với chính
sách và cơ chế hợp lý nhằm phát triển NNL nông thôn, nhất là thanh niên nông thôn. Đồng
thời phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các nhóm giải pháp nhằm phát triển NNL nông
thôn trong quá trình CNH, HĐH. Đó là:
- Nhóm giải pháp về giáo dục - đào tạo
- Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội
- Nhóm giải pháp về chính trị, văn hóa và xây dựng đời sống tinh thần.
Đây là những nhóm giải pháp vừa then chốt, vừa cã ý nghĩa cơ bản, lâu dài và mang
tính bức xúc trước mắt. Trong đó, nhóm giải pháp về giáo dục, đào tạo là nhóm giải pháp
mang tính chiến lược, cơ bản và hàng đầu. Bên cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động nông thôn nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc về việc làm, thu nhập và đời
sống người lao động nông thôn cũng là giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa lớn
trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
Ba nhóm giải pháp cho phát triển NNL nông thôn được đề cập trong luận án không
biệt lập nhau mà là một hệ thống chính thể, đồng bộ, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, một
chỉnh thể thể chế- cơ chế quản lý cùng hướng vào phát triển NNL nông thôn, phát huy nội
lực cho quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
3. Phát triển NNL nông thôn trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một vấn đề có
nội dung rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ
luận án, tác giả không thể trình bày hết cả về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề. Những
khía cạnh được đề cập ở đây mới chỉ là nghiên cứu bước đầu của tác giả. Những vấn đề
như: thu nhập, đời sống, nghề nghiệp, quản lý và sử dụng NNL nông thôn... đang là những
vấn đề thời sự cấp bách, vừa là những vấn đề cơ bản, lâu dài đòi hỏi phải có sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, cũng như sự quan tâm của các nhà khoa học trong việc
xây dựng một hệ thống chính sách sử dụng, phát triển NNL nông thôn hướng tới sự phát
137
triển bền vững của đất nước.
Tiềm năng trong mỗi con người và của cả cộng đồng là rất lớn, nếu không muốn nói
là vô tận. Quá trình tìm kiếm những mô hình, giải pháp nhằm phát triển NNL nông thôn vẫn
đang tiếp tục bằng sự nỗ lực của cả dân tộc nói chung, của giới lý luận nói riêng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tác giả hy vọng rằng đây là một hướng nghiên cứu có thể và cần phải
đặt ra tiếp theo sau công trình luận án, những vấn đề được trình bày trong luận án là sự đóng
góp rất nhỏ vào quá trình tìm kiếm đó.
138
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Ngọc Sơn (1999), "Vai trò của vấn đề an ninh nông thôn trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay", Tập san Khoa học của Trường Đại học Phòng cháy
chữa cháy, Bộ Công an, (3-4-5).
2. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), "Chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho lực lượng
phòng cháy chữa cháy trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tập san
Khoa học của Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy – Bộ Công an, (4-5-6).
3. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), "Vai trò của phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Nông thôn mới, (7).
4. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), "Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Nông thôn
mới, (10).
5. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), "Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ", Triết học, (5).
6. Nguyễn Ngọc Sơn (2000-2001), "Trường đại học Phòng cháy chữa cháy với việc đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác phòng cháy chữa cháy giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tập san Khoa học của Trường Đại học Phòng cháy
chữa cháy, Bộ Công an, (1).
7. Nguyễn Ngọc Sơn (1999), "Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực làm công tác phòng cháy
chữa cháy trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Đề tài khoa học cấp
Bộ, nghiệm thu tháng 8 (là thành viên tham gia nghiên cứu đề tài).
8. Nguyễn Ngọc Sơn (2000), "Nguồn nhân lực trong công tác phòng cháy chữa cháy giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Thực trạng và giải pháp", Đề tài khoa học cấp
Bộ, nghiệm thu tháng 8 (Chủ nhiệm đề tài).
139
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Kinh tế Trung ương (1997), Báo cáo tổng kết tình hình kinh tế hợp tác và thực hiện
liên minh công nông về kinh tế, Hà Nội.
2. Báo Nhân Dân, ngày 12-8-1994.
3. Báo Nhân Dân, ngày 30-9-1997.
4. Hoàng Chí Bảo (1993), "Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con
người", Triết học, (1).
5. Hoàng Chí Bảo (1997), "Văn hóa và sự phát triển nhân cách thanh niên", Nghiên cứu lý
luận, (1).
6. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với
sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bé Lao động - Thương binh và xã hội (1990), Thị trường lao động việc làm, Thông tin
chuyên đề, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (cùng tập thể tác giả) (1991), Tiến bé khoa học kỹ thuật và công
cuộc đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm (1995), Đầu tư trong nông nghiệp - thực trạng và
triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Sinh Các (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945-1995, Nxb Thống kê, Hà Nội.
11. Nguyễn Hữu Dũng (1994), "Tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm đói nghèo ở nông thôn" ,
Thông tin lý luận (4).
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (1993) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương
(khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương
(khóa VII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998) Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
tư (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Hà Đăng (1995), "Văn hóa và đổi mới với thực tiễn văn hóa", Công tác tư tưởng văn
140
hóa, (2).
18. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng đào tạo lại đội ngò nhân lực trong tình hình
mới, Đề tài KX.07.14, Hà Nội.
19. Phạm Minh Hạc (1994), Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
20. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
21. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đến năm 2010", Tạp
chí Cộng sản, (7).
22. Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm
ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Jacqnes Hallak (1990), Đầu tư vào tương lai (bản dịch) IIEF, Paris, UNESCO.
24. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Nông thôn Việt Nam sau 10 năm đổi
mới.
25. Lê Mạnh Hùng (chủ biên) (1996), Kinh tế - xã hội Việt Nam - tình trạng, xu hướng và
giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội.
26. Trương Công Hùng (1999), "Kinh tế trang trại nông nghiệp ở nước ta", Tạp chí Cộng
sản, (6).
27. Ianốpsky. R (1986), "Sù tham gia của những người lao động vào việc quản lý xã hội
XHCN", Giáo dục lý luận, (9).
28. Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan (1995), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam và các nước khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội.
29. Đoàn Văn Khái (1995), "Nguồn lực con người, yếu tố quyết định sù nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước", Triết học, (4).
30. Phan Văn Khải (11/1/1998), "Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà
khoa học công nghệ và các cơ quan chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế", Báo Nhân Dân.
31. Phan Văn Khải (30/9/1998), "Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về HĐND và UBND" ,
Báo Nhân dân.
32. Nguyễn Vi Khải (chủ biên) (1992), Dân sè lao động, việc làm - Vấn đề và giải pháp,
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
33. Hồ Quang Khánh (1999), "Vài nét về vấn đề lao động thiếu việc làm ở khu vực nông
thôn", Thị trường lao động, (6).
141
34. Nguyễn Khang (1993), "Về giải quyết việc làm ở nông thôn từ 1994, 1995 đến năm
2000", Lao động và Xã hội.
35. VI. Lênin (1997), Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva.
36. Liên hiệp quốc tại Việt Nam (1999), Hướng tới tương lai. Báo cáo đánh giá chung về
tình hình Việt Nam, Hà Nội.
37. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. C. Mác, Ph Ăngghen, VI. Lênin (1977), Bàn về tổ chức lao động xã hội, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
42. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Phan Sĩ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay",
Nghiên cứu kinh tế, (225).
44. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Sự thật, Hà Nội.
47. Đỗ Mười (12-8-1994), Báo Nhân Dân.
48. Leonand Nadler (1980), Phát triển nguồn nhân lực trong một tập thể- một công cụ quản
lý, New-York.
49. Ngành nghề nông thôn Việt Nam (1998), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
50. Nguyễn Thế Nghĩa (1997), Hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Nhâm (chủ biên) (1997), Có một Việt Nam như thế - Đổi mới và phát triển, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nhóm chuyên gia Chính phủ, Nhà tài trợ, Tổ chức phi Chính phủ (12/1999), Việt Nam
tấn công đói nghèo, Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000.
53. Lương Xuân Quỳ (chủ biên) (1996), Những biện pháp kinh tế, tổ chức và quản lý để
phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa nông thôn Bắc Bộ, Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội.
54. Nguyễn Sinh (1998), "Kinh tế Việt Nam 12 năm đổi mới (1986- 1997)", Tạp chí Cộng
sản, (6).
55. Phan Thanh (1995), "Sử dụng hợp lý nguồn lao động để phát triển kinh tế vùng ven biển
142
và hải đảo", Kinh tế và dự báo, (4).
56. Lê Văn Toàn, Trần Hoàng Kim (1992), Kinh tế các nước ASEAN và khả năng hòa nhập
của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
57. A. Toffer (phần 1: 1991; phần 2: 1992), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội.
58. Lê Danh Tèn (1997), "Khoa học, công nghệ Việt Nam trước yêu cầu sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa", Thông tin lý luận, (4)
59. Phương Trang, Quỳnh Anh (1999), "Chương trình dân số- kế hoạch hóa gia đình Việt
Nam- Thành công và những thách thức trong giai đoạn mới", Tạp chí Cộng sản,
(19).
60. Nguyễn Thị Ngọc Trầm (1993), "Trí tuệ nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội", Triết
học, (1).
61. Nguyễn Ngọc Trìu (1995), "Kinh tế VAC với việc làm ở nông thôn", Nghiên cứu kinh
tế, (5) (13-15).
62. Nguyễn Văn Trung (chủ biên) (1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
63. Đỗ Thế Tùng (1996), Vấn đề lao động việc làm - Đại hội VIII những tìm tòi đổi mới,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
64. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và
thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. "Thực trạng đội ngò cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở các cơ quan Trung ương" (1997),
Nghiên cứu kinh tế, (12).
66. Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam 1997 (1998), Nxb Thống kê, Hà Nội.
67. Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam 1998 (1999), Nxb Thống kê, Hà Nội.
68. Ủy ban Dân số và kế hoạch hóa gia đình (4/1993), Điều tra biến đổi dân số và kế hoạch
hóa gia đình, Hà Nội.
69. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (9/1994), Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam 1992- 1993,
Hà Nội.
70. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (1994), Kinh tế Việt Nam 1991-1995, Hà Nội,
71. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước (10/1998), "Kế hoạch hóa và các chính sách về lao động",
Kế hoạch hóa.
72. Viện Chiến lược công an nhân dân - Bé Công an, Đề tài khoa học cấp Bộ (1998), An
143
ninh nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta - thực trạng và
giải pháp, Hà Nội.
73. Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban nguồn nhân lực và xã hội, đề tài
khoa học cấp Bộ (1995), Giải quyết việc làm và hạn chế di dân nông thôn thành
thị ở đồng bằng sông Hồng đến năm 2010, do Tiến sĩ Trần Thị Tuyết Mai chủ
nhiệm đề tài.
74. Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban Nông nghiệp và nông thôn, Đề
tài khoa học cấp Bộ (1999), Khái quát con đường và mô hình hiện đại hóa nông
nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam đến năm 2010 và 2020, Hà Nội.
75. Viện Chiến lược phát triển quốc tế Harvard (1994), Việt Nam cải cách kinh tế theo
hướng rồng bay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Viện Dinh Dưỡng - Bé Y tế (1990), Dinh dưỡng con người Việt Nam- Đề tài 64D.
01.01, Hà Nội.
77. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1994), Đổi mới kinh tế ở Việt Nam -
Thành tựu và triển vọng, Hà Nội.
78. Viện Thông tin khoa học xã hội (1992), Những vấn đề kinh tế học hiện đại, Tập III, Hà
Nội.
79. Viện Thông tin khoa học xã hội (1995), Con người và nguồn lực con người trong phát
triển, Hà Nội.
144
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Bảng 1: Cơ cấu tuổi của dân số và nguồn nhân lực
Nhóm tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ %
0-14 25.464.158 33,65
15-24 13.941.319 18,43
35-44 10.030.042 13,26
45-54 5.431.319 7,19
55 413.754 6,55
56-59 1.675.668 2,21
60 533.257 0,7
Trên 60 6.380.924 8,42
Tổng sè 75.664.692 100
Nguồn [66].
Bảng 2: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình
độ học vấn khu vực nông thôn
Đơn vị tính: ngàn người
Chưa
biết chữ
Chưa TN
cấp I
Đã TN
cấp I
Đã TN
cấp II
Đã TN
cấp III
Tổng sè 29.757 1.333 6.046 9.213 9.899 3.267
Tỷ lệ 100% 4,48% 20,32% 30,96% 33,26% 10,98%
Nữ 14.988 834 3.404 4.594 4.796 1.361
Tỷ lệ 100% 5,56% 22,71% 30,65% 32,00% 9,08%
Nguồn [33, tr. 17].
145
Bảng 3: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình
độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) ở khu vực nông thôn
Đơn vị tính: ngàn người
Không
có
CMKT
Sơ cấp
CN kỹ
thuật
có
bằng
CN KT
không
có
bằng
THCN
CĐ và
Đại
học
Trên
đại học
Tổng số 29.758 27.360 364 323 456 865 382 8
Tỷ lệ 100% 91,94% 1,22% 1,69% 1,53% 2,91% 1,28% 0,03%
Nữ 14.988 14.044 176 35 132 431 166 3
Tỷ lệ 100% 93,7% 1,18% 0,23% 0,88% 2,88% 1,11% 0,02%
Nguồn [33, tr. 17].
Bảng 4: Phân bổ LLLĐ có trình độ chuyên môn kỹ thuật
Vùng lãnh thổ
CNKT THCN CĐ, ĐH và trên
ĐH
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Miền núi và trung du 312.267 14,62 287.120 20,80 107.461 11,58
Đồng bằng sông Hồng 560.442 26,23 378.474 27.42 293.635 31,65
Bắc Trung bé 210.828 9,78 187.605 13,59 83.461 9,00
Duyên hải miền Trung 233.390 10,92 119.883 8,69 96.455 10,4
Tây Nguyên 75.720 3,54 46.719 3,39 26.465 2,85
Đông Nam Bé 426.185 19,95 172.480 12,50 27.542 23,45
Đồng bằng S. Cửu
Long
317.764 14,87 187.829 13,61 102.693 11,07
Tổng số: 2.136.59
6
100 1.380.11
0
100 917.712 100
Nguồn [66].
146
Bảng 5: Số người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên thiếu việc làm
trong 12 tháng qua chia theo nhóm tuổi ở khu vực nông thôn
Đơn vị tính: ngàn người
15-24 25-34 35-44 45-54 55-59 > = 60
Tổng sè 8.219 2.519 2.440 1.953 905 222 180
Tỷ lệ 100% 30,65% 29,68% 23,76% 11,01% 2,70% 2,19%
Nữ 3.826 1.209 1.114 914 422 99 68
Tỷ lệ 100% 31,6% 29,11% 23,89% 11,02% 2,60% 1,78%
Nguồn [67].
Bảng 6: Số người trong độ tuổi lao động
Đơn vị: ngàn người, %.
Dân sè trong
tuổi lao động
% so với tổng
dân số
Mức tăng
bình quân
/năm
Tốc độ tăng
bình quân
/năm
1990 33.728 50,8 845,6 3,55
1995 38.955 52,6 1.045,4 2,92
2000 46.076 59,1 1.404,4 3,40
2005 52.100 62,5 1.240,0 2,55
2010 56.780 64,1 970,0 1,80
2015 60.259 64,5 647,2 1,10
2020 62.590 64,0 466,4 0,75
Nguồn: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước Viện nghiên cứu chiến lược phát
triển – Bộ Kế hoạch Đầu tư: "Cơ sở khoa học của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam 2000-2020", Hà Nội, 2000.
147
Bảng 7: Dân số trong tuổi lao động trong thời kỳ 2000-2020
Đơn vị nghìn người
2000 2005 2010 2020
Mức gia tăng
2001-
2005
2006-
2010
Cả nước 46.076 52.099 56.781 62.590 6.023 4.682
1. Đông Bắc 6.371 7.330 8.057 9.061 959 727
2. Tây Bắc 1.268 1.508 1.687 1.942 240 179
3. ĐB sông Hồng 8.973 10.020 10.731 11.393 1.047 711
4. Bắc Trung Bộ 5.642 6.524 7.250 8.427 882 1.608
5. D.hải Trung Bộ 3.772 4.273 4.769 5.478 501 496
6. Tây Nguyên 1.779 2.107 2.376 2.620 328 269
7. Đông Nam Bộ 7.952 8.867 9.530 10.155 915 663
8. ĐBSC Long 9.810 11.089 12.113 13.575 1.279 1.024
Nguồn: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước Viện nghiên cứu chiến lược phát
triển - Bé Kế hoạch Đầu tư: "Cơ sở khoa học của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam 2000-2020", Hà Nội, 2000.
148
Bảng 8: Một số thông tin tổng hợp về ngành nghề
ở nông thôn qua kết quả điều tra năm 1997
Cơ cấu Cả nước Phía Bắc Phía Nam
1. Loại hộ gia đình (%)
- Hé Nông nghiệp thuần 62,22 37,78 59,06
- Hé kiêm 26,49 23,91 27,95
- Hé chuyên ngành nghề 11,29 8,31 12,09
2. Lao động (%)
Hộ nông nghiệp thuần 56,89 63,36 53,29
Hộ kiêm 29,78 26,11 32,13
Trong đó: riêng ngành nghề 16,12 13,95 17,55
Hộ chuyên ngành nghề 13,13 10,53 14,58
Sản xuất nông nghiệp 70,55 75,52 67,87
Hoạt động phi nông nghiệp 49,45 24,48 32,13
3. Vốn đầu tư (%)
Hộ nông nghiệp thuần 45,47 51,85 42,33
Hộ kiêm 31,85 25,56 34,93
Trong đó: riêng ngành nghề 23,07 19,58 24,79
Hộ chuyên ngành nghề 22,68 22,59 22,73
Sản xuất nông nghiệp 54,25 57,83 52,48
Hoạt động phi nông nghiệp 29,45 42,17 47,52
4. Giá trị tăng thêm (%)
Hộ nông nghiệp thuần 51,30 59,63 47,29
Hộ kiêm 30,63 26,42 32,86
Trong đó: riêng ngành nghề 17,57 10,92 18,66
Hộ chuyên ngành nghề 18,07 13,94 19,84
Sản xuất nông nghiệp 64,36 75,13 61,49
Hoạt động phi nông nghiệp 35,64 24,87 38,51
5. Thu nhập (%)
Hộ nông nghiệp thuần 51,95 62,07 46,66
Hộ kiêm 31,22 26,44 33,80
Trong đó: riêng ngành nghề 18,36 15,15 20,10
149
Hộ chuyên ngành nghề 16,83 11,49 19,54
Sản xuất nông nghiệp 64,81 73,36 60,36
Hoạt động phi nông nghiệp 35,19 26,64 39,64
Nguồn: [74].
Phụ lục 2
Quản lý nguồn nhân lực
Phát triển NNL Sử dụng NNL Môi trường NNL
Dinh dưỡng và sức khỏe Tuyển dụng Mở rộng chủng loại việc làm
Giáo dục - đào tạo Sàng lọc Mở rộng qui mô việc làm
Dân số, kế hoạch hóa gia đình Bố trí Phát triển tổ chức
Văn hóa, truyền thống dân tộc Đánh giá
Việc làm và phân phối thu nhập Đãi ngộ
Kế hoạch hóa sức lao động
Nguồn [48, tr. 2].
150
Phụ lục 3
Mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thời kỳ 1995 - 2020
Cơ cấu 1995 2000 2010 2020
1. Học sinh tiểu học (triệu người) 10,05 11,72 12,3 14,25
- Tỷ lệ học sinh đi học (%) 106 103 100 100
2. Học sinh trung học cơ sở (triệu người) 3,68 4,91 7,44 10,94
- Tỷ lệ học sinh đi học (%) 50 60 78 95
3. Học sinh trung học chuyên ban và sau trung học cơ sở
(triệu người)
0,9 1,59 2,76 4,26
- Tỷ lệ học sinh đi học (%) 19 30 45 60
4. Sinh viên đại học, sau trung học chuyên ban (triệu người) 0,368 0,544 1,335 2,575
- Tỷ lệ học sinh đại học (%) 5,3 7 15 25
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo: Mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020.
151
Phụ lục 4
1. Tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm
(% tăng trưởng hàng năm)
NămToàn bộ nền KT Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
GDP LĐ GDP LĐ GDP LĐ GDP LĐ
1991 5,96 2,27 2,17 2,68 9,04 0,06 8,26 2,07
1992 8,65 2,72 7,08 3,22 14,03 1,65 6,98 1,38
1993 8,07 2,84 3,82 2,96 13,13 2,08 9,19 2,65
1994 8,84 2,84 3,92 2,56 14,02 2,33 10,2 2,87
1995 9,54 2,97 4,95 -1,59 13,3 2,70 10,03 8,52
1996 9,34 3,47 4,40 2,7 13,85 1,06 9,29 8,54
1997 8,8 3,35 4,45 2,7 13,07 0,08 8,29 6,73
Nguồn: Niên giám thống kê 1991 - 1997
2. Mức tăng dân số trong tuổi lao động
Đơn vị: Ngàn người
Thời kỳVào tuổi lao động Ra tuổi lao động Tăng thêm
Tổng sè BQ năm Tổng sè BQ năm Tổng sè BQ năm
1991 - 1995 7.543 1.510 1.888 378 5.655 1.131
1996 - 2000 8.570 1.715 1.780 356 6.790 1.358
2001 - 2005 8.800 1.760 1.954 390 6.846 1.369
2006 - 2010 8.300 1.660 2.500 500 5.800 1.160
Nguồn: Viện Nghiên cứu chiến lược phát triển - Bé Kế hoạch và Đầu tư
152
3. Mức độ phù hợp của công việc với ngành nghề được đào tạo
(kết quả khảo sát của đề tài KX.07.14)
Mức độ phù hợp Số người lựa chọn Tỷ lệ %
1. Phù hợp 2.391 48,8
2. Tương đối phù hợp 633 12,9
3. Ýt phù hợp 218 4,5
4. Không phù hợp 125 2,6
5. Không có ý kiến 1.531 31,2
Tổng cộng 4.898 100
Nguồn: Nguyễn Minh Đường (chủ biên), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong
điều kiện mới, H.1996, tr.109.
4. Một số thay đổi về nhận thức của con người Việt Nam trong đổi mới mở cửa
Các ý kiến Số người lùa chọn %
- Tù nhận thức rằng mình phải đào tạo lại mới thích
nghi với đổi mới, mở cửa.
79,2
- Phải thay đổi về cách nghĩ, nếp sống của mình mới
thích nghi được với đổi mới, mở cửa.
71,1
- Thấy khó khăn vì thiếu ngoại ngữ. 67,1
- Lo lắng về tinh hoa truyền thống bị xói mòn. 55,0
- Cảm thấy lo ngại, khó bắt kịp, hòa nhập với sự phát
triển của khu vực và thế giới.
54,2
- Vẫn cảm thấy luyến tiếc thời bao cấp. 10,6
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của đề tài KX 07.12
153
5. Những định hướng lựa chọn giá trị nhân cách của con người Việt Nam trong thời
đổi mới mở cửa
Định hướng giá trị nhân cách Số người lựa chọn (%)
1. Có trình độ học vấn rộng 75,7
2. Sống có tình nghĩa 52,7
3. Có khả năng tổ chức quản lý công việc 51,9
4. Làm việc tận tâm, có trách nhiệm, kỷ luật 51,3
5. Sáng tạo trong học tập, lao động, công tác. 50,3
6. Biết nhiều nghề, thạo một nghề 50,2
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học của đề tài KX 07.04
6. Hướng lựa chọn giá trị nghề nghiệp
của con người Việt Nam trong đổi mới, mở cửa
Các ý kiến lùa chọn Số người lùa chọn (%)
1. Nghề có thu nhập cao 70,0
2. Nghề phù hợp với sức khỏe và trình độ cá nhân 67,2
3. Nghề phù hợp hứng thú, sở thích cá nhân 66,3
4. NghÒ phù hợp với điều kiện chăm lo gia đình 64,3
5. Nghề có điều kiện phát triển năng lực 62,8
6. Nghề được xã hội coi trọng 62,7
7. Nghề được đảm bảo yên tâm suốt đời 60,0
8. Nghề có thể giúp ích được mọi người 57,8
9. Nghề có điều kiện tiếp tục học thêm 56,8
Nguồn: Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH, Nxb
CTQG, H. 1996, tr.136.
154
7. Những yếu tố tác động đến động cơ, thái độ làm việc
Đơn vị: %
Điều gì khiến anh (chị)
làm việc hăng say nhấtĐịa điểm điều tra Tổng số
TP.HC
MHà Nội
Hải
Phòng
Thu nhập 46,9 70,5 60,2 59,2
Quan hệ bạn bè đồng nghiệp thân ái 39,4 65,4 54,5 53,1
Được mọi người tín nhiệm 26,0 56,4 52,6 45,0
Nội dung công việc hấp dẫn 34,6 51,6 45,1 44,1
Có điều kiện nâng cao tay nghề 37,4 45,0 42,5 41,6
Được cấp trên và bạn bè thông cảm 19,7 51,8 47,8 39,8
Cách phân phối phúc lợi công bằng 10,2 28,6 27,7 22,2
Được đề bạt 8,15 4,4 14,0 8,8
Đạt các danh hiệu vẻ vang 3,5 7,5 14,8 8,6
Lý do khác 4,1 0,7 5,5 3,6
Nguồn: Số liệu điều tra xã hội học của đề tài KX 07.13
155