maket mới - hội các phòng thử nghiệm việt nam ...trình bày bởi các nhà khoa học,...

32
Nghiên cứu giải thích các tác nhân ảnh hưởng tới thời điểm bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm Quản lý ngân sách phòng thí nghiệm để nâng cao hiệu quả Bộ xét nghiệm nước phát hiện vi khuẩn E.coli SỐ 23 - THÁNG 12/2016

Upload: others

Post on 15-Jan-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

Nghiên cứu giải thích các tác nhân ảnh hưởng tới thời điểm bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm

Quản lý ngân sách phòng thí nghiệm để nâng cao hiệu quả

Bộ xét nghiệm nước phát hiện vi khuẩn E.coli

SỐ 23 - THÁNG 12/2016

Page 2: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

Trong tay Bạn là Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 23. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm ngày nay

3(3) Analytica Vietnam 2017 - Thông Cáo Báo Chí(6) Đã có cách xóa bỏ tất cả các loại dị ứng thực phẩm(7) Bộ xét nghiệm nước phát hiện vi khuẩn E.coli

9(9) Công nghệ mới đấu tranh vì thực phẩm sạch(13) Chuẩn hóa phương pháp thử nghiệm cần sa (16) Nghiên cứu giải thích các tác nhân ảnh hưởng tới thời điểm bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm

18(18) NPS - Đối tác chiến lược của các phòng thí nghiệm

20(20) Lãnh đạo phòng thử nghiệm theo khoa học (Kỳ 9)(23) Quản lý ngân sách phòng thí nghiệm để nâng cao hiệu quả (26) Phòng tránh các hiểm họa phổ biến nhất tại phòng thử nghiệm(28) Phương pháp làm mát mới cho các siêu máy tính

Page 3: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

3

Analytica Vietnam 2017 Thông Cáo Báo Chíanalytica Vietnam lần thứ 5, một trong các triển lãm thuộc chuỗi triển lãm analytica tại Munich, sẽ được tổ chức tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế (I.C.E.) tại Hà Nội từ ngày 29-31/03/2017. Các đơn vị có thể đăng ký tham gia, tham quan analytica Vietnam ngay từ bây giờ.

Analytica Vietnam là sự kiện được tổ chức hai năm một lần do Công ty Dịch vụ Hội

chợ và Triển lãm Quốc tế (IMAG), thành viên Tập đoàn Triển lãm Quốc tế Munich, CHLB Đức cùng với các đối tác Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), Hội các Phòng Thử nghiệm Việt Nam (VINALAB) tổ chức.

Analytica Vietnam 2017 bao gồm các chuyên ngành chính sau: - Thiết bị và Hoá chất Phân tích- Đo lường & Thử nghiệm/ Quản lý chất lượng- Công nghệ Thí nghiệm- Hoá chất xét nghiệm- Công nghệ Thực phẩm/Hoá học/Dược phẩm- Khoa học sự sống, Công nghệ Sinh học và Chẩn đoán

Khá đông các đơn vị đầu ngành đã và sẽ

tiếp tục tham gia analytica Vietnam, trong đó phải kể đến: Shimadzu, Thermo Fisher, Waters, ESCO, Netzsch, Perkin Elmer..v.v...và các khu gian hàng quốc gia Pháp, Đức, Singapore, Trung Quốc...

Triển lãm năm 2017 sẽ có thêm nhiều hoạt động mới nhằm thu hút sự quan tâm của đơn vị trưng bày và khách tham quan như: Lab Tour, B2B, Live Lab, các hội nghị, hội thảo chuyên ngành, cuộc thi ảnh đẹp dành cho phòng thí nghiệm...

Sau 8 năm vắng bóng, triển lãm lần này sẽ diễn ra tại Hà Nội, trung tâm chính trị của cả nước và đồng thời là nơi đặt trụ sở của các trường đại học lớn, sẽ tạo nên một sự kết nối chặt chẽ hơn nữa giữa đơn vị tham gia và các Bộ, Ngành, Viện liên quan của Chính phủ.

Nhằm giúp các đơn vị trưng bày có được

Page 4: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

4

cái nhìn thực tế về hiện trạng các phòng thí nghiệm trọng điểm tại Hà Nội, chương trình Lab Tour sẽ được tổ chức 2 ngày trước ngày khai mạc triển lãm. Các đơn vị trưng bày đăng ký sớm sẽ có cơ hội tham quan một số phòng thí nghiệm trọng điểm.

Đặc biệt, trong khuôn khổ analytica Vietnam 2017, ban tổ chức sẽ sắp xếp chương trình kết nối doanh nghiệp (B2B Matching) giữa các đơn vị tham gia, những công ty hàng đầu trong ngành, với các khách mua hàng tiềm năng.

Ngoài ra, tại triển lãm năm nay, các đơn vị tham gia và khách thăm quan sẽ có cơ hội được tham dự một mô hình tiền thân của Live Lab do Asecos tổ chức.

Bên cạnh các khu vực trưng bày của triển lãm, analytica Vietnam 2017 cũng mang đến các chương trình hội nghị cấp cao, hội thảo, các buổi hướng dẫn thực hành được trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội thảo xoay quanh những vấn đề nóng về thực phẩm, dược phẩm, môi trường,… tại Việt Nam nói riêng cũng như những vấn đề trong ngành phân tích thí nghiệm toàn cầu nói chung.

Từ phía Ban tổ chức, triển lãm diễn ra ở Hà Nội giúp cho chúng tôi và các khách hàng của mình đến gần hơn với các tổ chức nghiên cứu quan trọng nhất của quốc gia và hơn thế nữa là gần với các cơ quan chính phủ liên quan. Đó là điều kiện tiên quyết quan trọng để xúc tiến thương mại và trao đổi cấp quốc tế. Thực tế là thị trường phân tích, công nghệ sinh học và công nghệ thí nghiệm Việt Nam chủ yếu dựa vào sự ủng hộ chính trị. Theo Hội các Phòng Thử nghiệm Việt Nam (VINALAB), chính phủ đầu tư 65% vốn đầu tư của toàn ngành.

Vốn là một thị trường đang phát triển nhanh chóng, bên cạnh đó Việt Nam cũng là một trong những nước xuất khẩu thực phẩm, nông sản lớn nhất, dẫn đầu về xuất khẩu cà phê, hồ tiêu và hạt điều. Do đó việc phân tích và thử nghiệm sản phẩm cũng được chú trọng trong tất cả các ngành, đặc biệt là trong công

nghiệp may mặc, dệt may, đồ gỗ nội thất. Điều này dẫn đến giá trị nhập khẩu các thiết bị thí nghiệm và phân tích chất lượng cao nhằm đảm bảo và tối ưu hóa chất lượng sản phẩm, là những thiết bị mà hiện tại Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, là vô cùng khẩn thiết hiện nay. Trong năm 2014, giá trị nhập khẩu các thiết bị nói trên đã tăng đến 400 triệu USD, so với chỉ 250 triệu USD năm 2009.

Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ nói trên, các nhà cung cấp thiết bị phân tích và thiết bị thí nghiệm sẽ có được các cơ hội thương mại vô cùng triển vọng. analytica Vietnam sẽ góp phần thỏa mãn các nhu cầu của Việt Nam đối với các sản phẩm cũng như nguồn cung cấp quốc tế. Đây là triển lãm duy nhất tại Việt Nam bao gồm tất cả các phân khúc của ngành phân tích, công nghệ sinh học và công nghệ thí nghiệm.

Rất mong Triển lãm analytica Vietnam 2017 luôn nhận được sự hưởng ứng từ phía Quý Khách hàng!

_ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ __ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _ _

Thông tin liên hệ: CÔNG TY CP TRIỂN LÃM CÔNG NGHỆ

VÀ SỰ KIỆN QUỐC TẾ - ITECĐại diện chính thức của IMAG tại Việt Nam

Số 06, ngõ 107, Trần Duy Hưng, Hà NộiMs. Đỗ Dung - Project Manager

Tel: 84 - 4 3556 2292HP: 0973 583 572

Email: [email protected]

[email protected] Website:

www.analyticavietnam.comFanpage:

https://www.facebook.com/analyticavietnam

Analytica Vietnam

Page 5: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY5

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Page 6: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

6

Liệu pháp điều trị này dựa trên việc kích hoạt sản xuất các tế bào tua mới (dendritic cell

hay tế bào DC) – các tế bào có nhiệm vụ phát tín hiệu để các tế bào miễn dịch loại bỏ đáp ứng siêu miễn dịch. Từ đó nó sẽ giúp ngăn chặn phản ứng quá mẫn – một trong những loại phản ứng dị ứng xảy ra nhanh và mang tính đe dọa nhất.

“Nếu chúng ta có thể loại bỏ tình trạng dị ứng thực phẩm, hoặc những tình trạng liên quan như suyễn hoặc bệnh tự miễn dịch như đa xơ cứng bằng liệu pháp mới này, cuộc sống của các bệnh nhân bị ảnh hưởng sẽ được thay đổi", Nhà khoa học John Gordon, dẫn đầu nhóm nghiên cứu tại Đại học Saskatchewan, Canada cho biết.

Tế bào tua xuất hiện tự nhiên trong các mô có tiếp xúc với môi trường ngoài, ví dụ như lớp ngoài của da, lớp niêm mạc mũi, phổi, dạ dày và ruột.

Gordon và đội nghiên cứu đã trích xuất một số tế bào tua của chuột, sau đó cho các tế bào này tiếp xúc với một hỗn hợp được pha trộn giữa protein, vitamin A axit có trong ruột người và một chất gây dị ứng, ví dụ như lạc hoặc lòng trắng trứng.

Sau đó nhóm nghiên cứu sẽ đưa ngược

các tế bào tua này vào trong cơ thể chuột thì thấy rằng các phản ứng dị ứng của chúng gần như đã bị loại bỏ. Lúc này, các tế bào miễn dịch nhạy cảm với dị ứng đã phản ứng bình thường như trong cơ thể người khỏe mạnh, không bị dị ứng.

Hiện tại, liệu pháp này chỉ mới được thử nghiệm ở chuột, các nhà khoa học hy vọng có thể tiến hành thử nghiệm ở người vào năm sau.

“Chúng tôi đã có nhiều người dị ứng tình nguyện cho tế bào để sử dụng thử nghiệm trong phòng thí nghiệm nhằm đưa nghiên cứu này đi xa hơn", Gordon chia sẻ.

Phương pháp điều trị dị ứng hiệu quả có thể thay đổi cuộc sống của hàng triệu người. Chỉ riêng tại Mỹ, ước tính dị ứng thực phẩm ảnh hưởng đến 15 triệu người. Cứ trong số 13 trẻ em ở đây thì có 1 trẻ sẽ bị dị ứng thực phẩm.

Nhóm nghiên cứu cho rằng các nghiên cứu cũng có thể được áp dụng cho các bệnh khác liên quan đến hệ miễn dịch, ví dụ như bệnh đa xơ cứng. “Chỉ cần một ít nỗ lực nữa là có thể áp dụng liệu pháp này để điều trị các bệnh tự miễn dịch", Gordon chia sẻ.

Nghiên cứu này đã được công bố trên Tạp chí Journal of Allergy and Clinical Immunology.

Theo www.khoahoc.tv

Đã có cách xóa bỏ tất cả các loại dị ứng thực phẩm

Mới đây, các nhà khoa học đã phát triển một liệu pháp miễn dịch mới có thể đảo ngược các phản ứng dị ứng ở chuột và họ cho rằng liệu pháp này có thể áp dụng để điều trị dị ứng ở người.

Các loại hạt là một trong những thực phẩm dễ gây dị ứng nhất

Page 7: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

7

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Bộ xét nghiệm nước phát hiện vi khuẩn E.coli

Một nhân viên phòng thí nghiệm tìm kiếm vi khuẩn E.coli trong các tế bào thực vật

Page 8: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

8

Tổ chức Y tế Thế giới ước tính hơn 840 ngàn người chết mỗi năm vì bệnh tiêu

chảy vốn có thể phòng ngừa được. Phần nhiều trong số đó là do thực phẩm và nước bị nhiễm vi khuẩn E.coli. Giờ đây, một công ty của Canada đã tạo ra bộ dụng cụ phát hiện E.coli cho phép người sử dụng phát hiện căn bệnh chết người này một cách nhanh chóng, ngay trong nguồn nước.

Bộ xét nghiệm nước di động đã được thử nghiệm trên thực địa ở New Delhi, nơi ô nhiễm nước là vấn đề phổ biến.

Nhóm nghiên cứu cho biết, thử nghiệm thực tế chứng minh rằng bộ dụng cụ có hiệu quả và bất cứ ai cũng có thể sử dụng.

Nhà nghiên cứu Sushanta Mitra cho biết:“Hiện nay không có công nghệ nào khác trên thị trường có thể phát hiện vi khuẩn E.coli trong khoảng từ 2 phút đến 1 giờ, vì thế đây là thiết bị cho kết quả nhanh. Thứ hai, không cần phải đào tạo mới có thể sử dụng. Có thể thử nghiệm nước ngay tại nguồn, vì thế không phải lo về việc vận chuyển mẫu thử nghiệm”.

Bộ dụng cụ này hoạt động bằng cách cho nước tiếp xúc với vật liệu hydrogel đặc biệt. Trong vòng 1 giờ, nước nhiễm khuẩn thay đổi màu sắc.

Khi có kết quả, nhóm nghiên cứu phát triển một ứng dụng có thể truyền tải những kết quả đó lên trang web.

Với những thử nghiệm thực tế thành công, nhóm nghiên cứu cho biết họ sẵn sàng bắt đầu bán sản phẩm với giá khoảng 2-3 đôla.

Nhà nghiên cứu Mitra nói: “Chúng tôi tin chúng tôi đi đúng hướng, vì thế trong một năm, Glacierclean Technologies sẽ đưa bộ thử nghiệm nước di động lên các kệ hàng ở siêu thị”.

Bước tiếp theo của nhóm nghiên cứu là một phiên bản nâng cấp sản phẩm giúp tẩy trùng nước nhiễm khuẩn.

Theo VietnamPlus

Page 9: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

9

Công nghệ mới đấu tranh vì thực phẩm sạch

Các công nghệ mới đưa ra những giải pháp mới để đối phó với ô nhiễm thực phẩm và thực phẩm giả

Hãy tưởng tượng bình sữa trong tủ lạnh nhà bạn chuyển màu đỏ khi bị hỏng hoặc bao

bì sản xuất thể hiện biểu tượng cảnh báo khi hạn sử dụng đã hết – những tiến bộ này trong công nghệ an toàn thực phẩm sắp xuất hiện.

Một trong những vấn đề lớn về an toàn thực phẩm đó là hiểm họa các bệnh từ thực phẩm. CDC dự báo rằng cứ 6 người thì có 1 người Mỹ sẽ bị ốm hàng năm do bệnh từ thực phẩm, và 128,000 người sẽ nhập viện. Vi khuẩn nguy hiểm cũng đang ngày càng gây ôm nhiễm hàng loạt các loại thực phẩm. Ví dụ, vi khuẩn Listeria, thường có trong phô-mai, hiện đang gây ra các vụ thu hồi rau quả đông lạnh và salad đóng hộp. Các sản phẩm và thực phẩm khác tiếp xúc với một loạt vi khuẩn và chất ô nhiễm tại rất nhiều điểm dừng trong chuỗi cung ứng thực phẩm, khiến việc đảm bảo an toàn cho những sản phẩm này ngày càng khó khăn.

Một hạn chế đối với các phương pháp thử nghiệm an toàn thực phẩm hiện nay đó là có thể mất đến 1 tuần lễ để một công ty sản xuất biết được một lô hàng đã bị ô nhiễm. Hiện tại, nghiên cứu từ UC Davis đang tìm kiếm sự thay đổi đáng kể trong khoảng thời gian đó.

Jeremy Warren, cựu nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại UC Davis về bệnh học thực vật, và

là người sáng lập và Giám đốc điều hành của Astrona Biotechnologies, đang phát triển một công nghệ làm giảm thời gian kiểm tra xuống chỉ một giờ. Nhóm nghiên cứu của ông đã bắt đầu thử nghiệm công nghệ này tại UC Davis, và sáng kiến đã phát triển thành một công ty.

Theo Warren, các công ty sản xuất dành 4.5 tỉ đô-la mỗi năm để đảm bảo an toàn cho sản phẩm của mình, nhưng vẫn có người bị ốm vì sản phẩm đó. Warren chỉ ra một nguyên nhân đó là khoảng thời gian cần có để kiểm tra mầm bệnh. Hiện nay, các công ty lấy mẫu và chuyển sang một phòng thử nghiệm bên thứ 3 mà vi khuẩn được nuôi cấy tại đó, việc này có thể mất đến 24 tiếng. Khi công ty nhận được kết quả thử nghiệm thì vài ngày hoặc một tuần đã trôi qua, và trong khoảng thời gian đó, sản phẩm ô nhiễm tiềm tàng có thể đã được đưa tới các cửa hàng, dẫn đến việc thu hồi.

Nền tảng phát hiện dựa trên RNA của Astrona có thể xác định sự hiện diện của mầm bệnh ở bất kỳ thời điểm nào trong chuỗi cung ứng và cung cấp kết quả trong 1 giờ. Như Warren giải thích, việc này được thực hiện thông qua bốn bước: lưu giữ, rửa, khuếch đại và phát hiện. Một miếng gạc mẫu được cô lập để giải phóng RNA của vi khuẩn. Warren cho

Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay của ngành công nghiệp thực phẩm đó là đưa các công nghệ mới nhất từ chuỗi sản xuất tới người tiêu dùng.

Page 10: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

10

biết việc sử dụng RNA kết hợp với protein độc quyền của nền tảng và nhãn trình tự cụ thể giúp loại bỏ nhu cầu nuôi cấy tế bào và cung cấp kết quả gần như ngay lập tức. Mầm bệnh RNA mà các nhà nghiên cứu muốn kiểm tra được tách ra, và mọi thứ khác được rửa sạch. Nhóm nghiên cứu cũng phát triển một thiết bị khuếch đại đẳng nhiệt độc quyền để tạo ra tín hiệu từ RNA và khuyếch đại nó để xác định thông qua việc đọc màu sắc nếu mẫu bị ô nhiễm.

Sản phẩm hiện tại của công nghệ này là một bộ sản phẩm dùng 1 lần có giá 50 đô-la. Mỗi bộ có thể phát hiện 1 mầm bệnh – salmonella, E.coli, Listeria – với độ nhạy đạt hướng dẫn của USDA.

Phiên bản tương lai sẽ là một máy tự động với phần mềm theo dõi dữ liệu. Phát kiến này mang lại cơ hội tìm kiếm các giải pháp trong công nghệ sinh học nông nghiệp, năng lượng tái tạo, vật liệu bền vững và các lĩnh vực khác.Thiết bị, bao bì thông minh

Hội nghị & Triển lãm diễn ra vào tháng 7 hàng năm của Viện các Nhà Công nghệ Thực phẩm (IFT) đã có sự góp mặt của hơn 20,000 chuyên gia thực phẩm từ các ngành công nghiệp, chính phủ và học viện để làm nổi bật các xu hướng và tiến bộ mới nhất trong an toàn thực phẩm, cũng như giải quyết các thách thức trong lĩnh vực này.

Một trong những chủ đề bao trùm hội nghị năm nay đó là xác định cách đưa một số công nghệ mới nhất đang được sử dụng trong chuỗi cung ứng thực phẩm xuống mức độ tiêu dùng. Người tiêu dùng mong muốn được biết thông tin giống như các nhà sản xuất và bán lẻ đang có, nên mục tiêu đó là cung cấp cho mỗi hộ gia đình các sản phẩm có thể thay thế được ngày hết hạn hoặc ngày “tốt nhất nên sử dụng trước” không đáng tin cậy, và thay vào đó cung cấp thông tin thời gian thực để ngăn chặn lãng phí thức ăn và rủi ro về sức khỏe.

Claire Sand, Giáo sư hỗ trợ về bao bì tại Đại học bang Michigan đã chia sẻ những hiểu biết của bà về sự phát triển của “bao bì thông

minh” trong hội nghị chuyên đề tại IFT mang tên “Khi khoa học nuôi dưỡng phát kiến”.

TTI, một trong những chỉ số thời gian nhiệt độ, đã trở thành một tiêu chuẩn trong ngành công nghiệp thực phẩm và hiện được các nhà bán lẻ yêu cầu. Chúng có thể được đặt vào một khay thực phẩm và kết nối với các chip RFID để hiển thị thông tin từ smartphone hoặc thiết bị khác. Như cái tên đã thể hiện, TTI giúp nhà bán lẻ và nhà sản xuất biết một sản phẩm cụ thể đã tiếp xúc một mức nhiệt độ nhất định bao lâu, điều này cung cấp thông tin về việc sản phẩm đã bị hỏng chưa hay tính toán nguy cơ vi khuẩn sinh sôi. Chỉ số cũng có thể tham khảo để biết một sản phẩm sẽ tồn tại được trên kệ hàng bao lâu.

Việc thực phẩm bị hỏng thường dựa vào thời gian và nhiệt độ vì sự hư hại thường xảy ra khi sản phẩm để lâu và nhiệt độ tăng. “Quá trình oxy hóa, hóa nâu do enzym, hóa nâu không do enzym và sự sinh sôi của vi sinh vật tăng lên khi nhiệt độ và thời gian tăng”, Sand viết trong một báo cáo gần đây của bà. Nhưng bà đã giải thích rằng, giai đoạn tiếp theo của phát kiến an toàn thực phẩm này đó là phát triển vượt xa TTI và đưa công nghệ đến mức độ tiêu dùng. “Có công nghệ đây rồi, chúng ta chỉ cần mở rộng nó”, bà nói.

Có một phương pháp đó là thông qua cảm biến suy giảm, cảm biến này có thể phân tích lượng vi khuẩn đang có mặt. Tổ chức Quốc tế Cảm biến Chất lượng Thực phẩm đã phát triển một sản phẩm như vậy với SensorQ. Nhãn cảm biến thông minh nằm trong bao bì của thịt hoặc gia cầm sống và có thể xác định sự thối rữa bằng cách đo mức độ biến động ni-tơ cơ bản. Khi nhãn màu vàng, thịt còn tươi, nhưng nếu nhãn chuyển màu nâu rám, nghĩa là vi khuẩn bên trong sản phẩm đã đạt đến độ tới hạn và đã làm hư sản phẩm. Những loại cảm biến và nhãn mác thông minh này đã dần được giới thiệu trong những năm qua, nhưng chúng chưa được sử dụng rộng khắp trong ngành công nghiệp.

Page 11: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY11

Những thách thứcMột thách thức quan trọng trong việc đưa

những loại công nghệ này tới mức độ tiêu dùng đó là mài giũa cách làm TTI và các cảm biến khác, cũng như “bao bì thông minh” để có thể tùy biến cho nhiều loại thực phẩm khác nhau.

Ví dụ, Sand chỉ ra rằng thời hạn sử dụng của các sản phẩm khác nhau theo mùa và điều kiện canh tác của chúng, nên các chỉ số và bao bì thông minh cần được sửa đổi cho phù hợp với sản phẩm dựa trên các yếu tố này. Sand nói do sự biến đổi nông nghiệp theo vùng, sản phẩm là con đường khó khăn hơn đối với bao bì thông minh. Sản phẩm cá cũng được chứng minh là đa dạng hơn so với nhận định trước đây.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng các vi sinh vật rất đa dạng dựa trên nguồn nước của chúng, do đó một con cá hồi bắt tại một nơi có thể chứa những vi sinh vật khác hẳn so với những con bắt được ở một vùng khác trên thế giới. Nơi rửa và chế biến cá cũng đóng vai trò quan trọng do nguồn nước sử dụng, từ đó một lần nữa làm lây lan các loại vi khuẩn khác nhau dựa vào yếu tố địa điểm.

Đây là nơi mà TTI hiện tại có thể cung cấp kết quả sai, và báo nhầm cho người tiêu dùng rằng thực phẩm bị hỏng trước khi nó thực sự xảy ra. Công nghệ này chỉ dựa trên đọc nhiệt độ và thời gian tiếp xúc, và không tính đến các yếu tố khác. May thay, năng lực được nâng cao của cảm biến suy giảm có thể đem lại chất lượng và độ an toàn chính xác của thực phẩm trong tủ lạnh của người tiêu dùng.

Một trở ngại khác đối với các nhà khoa học thực phẩm đó là cải thiện bao bì và các chỉ số hiện tại chưa được biến chuyển của “nhãn mác sạch”. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến việc mua các thực phẩm không có chất bảo quản giúp hạn sử dụng dài hơn. Khi không có chất bảo quản và các nguyên liệu phụ gia khác, sẽ cần phải đóng gói tốt hơn để cạnh tranh với sản phẩm có hạn sử dụng dài hơn mà trước đây chúng ta đã quen có. Sand hiện đang hỗ trợ các khách hàng

trong ngành bánh kẹo để phát triển một chất chống mốc và bà cũng đang phát triển một thiết bị khác cho khách hàng trong ngành sản xuất thịt để có thể đo độ phân rã vi khuẩn.Phòng ngừa lây nhiễm chéo

Các cơ sở sản xuất thực phẩm có các giao thức làm sạch và vệ sinh nghiêm ngặt để ngăn chặn lây nhiễm, nhưng bất cứ vật nào, từ tay nắm cửa, mặt bàn bếp, dụng cụ chứa sản phẩm và các thiết bị khác được vận chuyển ra vào khu vực có thể trở thành nguồn lây nhiễm vi khuẩn.

“Có nhiều cơ hội để cải thiện tính an toàn, chất lượng và bền vững của nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta thông qua thiết kế của những vật liệu mới và sự điều chỉnh các vật liệu hiện có”, Julie Goddard, Giáo sư tại Khoa Khoa học Thực phẩm thuộc Đại học Cornell, chia sẻ. Nhóm nghiên cứu của Goddard đang phát triển một lớp phủ polymer nâng cao cho các thiết bị sản xuất để giảm thiểu khả năng lây nhiễm chéo. Bà đã giới thiệu phát kiến này tại Hội nghị IFT.

Lớp phủ polymer hoạt động bằng cách kết hợp hai nhóm chức năng để vô hiệu hóa vi khuẩn. Khi lớp phủ gắn với bề mặt, một nhóm chức năng có thể liên kết với cholorine, là một cách để vô hiệu vi khuẩn. Lớp phủ cũng có các nhóm chức năng gọi là “amin dạng cation” – một cách hiệu quả khác để vô hiệu hóa vi khuẩn.

“Do các nhóm chức năng chống vi khuẩn này gắn với cấu trúc polymer, từ đó gắn với bề mặt đang được phủ, chúng không bong ra khỏi lớp phủ. Do đó nó rất bền và khó có thể dính từ lớp phủ sang thực phẩm”, Goddard giải thích. Lớp phủ của Goddard có thể được áp dụng cho bàn làm việc bằng thép không rỉ, dây chuyền bằng nhựa hoặc các vật liệu tiếp xúc với thực phẩm khác, và giảm lượng vi sinh vật có tiềm năng dính trên bề mặt gây ra rủi ro lây nhiễm chéo. Lớp phủ được chứng minh có thể vô hiệu hóa hơn 99.99% Listeria monocytogenes, tuy nhiên để được thương mại hóa thì vẫn còn mất vài năm nữa, Goddard cho biết. Hiện đang có nghiên cứu bổ sung về hiệu suất trong điều kiện hoạt động thực tế. “Mục tiêu của lớp phủ

Page 12: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

12

này không phải để thay thế sự cần thiết lau rửa và vệ sinh, mà để bổ sung một lớp “tăng cường” nhẹ để các vật liệu chứa thức ăn có thể chống ô nhiễm giữa các lần vệ sinh”, Goddard nói.Gian lận thực phẩm

Việc làm giả và các chiêu trò gian lận thực phẩm khác cũng ngày càng trở thành mối quan ngại trong ngành công nghiệp. Vụ việc sữa Trung Quốc năm 2008 khi công thức sữa bị làm giả với melamine, và gần đây là một vụ tại Anh khi sản phẩm thịt bò chứa thịt ngựa, chỉ là vài ví dụ về các vụ gian lận thực phẩm gây chú ý trên toàn thế giới. Nhưng do gian lận thực phẩm rất khó để phát hiện và các nguyên liệu có thể bị biến đổi tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình sản xuất, các vụ việc có thể không được phát hiện. Mặc dù vụ thịt ngựa đã thu hút sự chú ý tầm quốc tế, các thử nghiệm tại Anh sau đó đã tiết lộ rằng 40% suất thịt cừu mang về vẫn chứa loại thịt lạ, và hơn 60% pizza pho-mát giăm bông được kiểm tra không hề chứa giăm bông hay pho-mát.

Hiện nay, thử nghiệm tính xác thực của các sản phẩm thực phẩm có thể bao gồm kỹ thuật khối phổ sắc ký lỏng và sắc ký khí (LCMS và GCMS), quang phổ cộng hưởng từ hạt nhân hoặc phản ứng chuỗi polymerase (PCR). Tuy nhiên, các phương pháp hiện có thường chỉ tìm kiếm được một chuỗi trình tự DNA dài

để phân tích, mà có thể bị vỡ trong quá trình chế biến thức ăn và dẫn đến kết quả sai lệch.

MD. Eaqub Ali tại Đại học Malaysia và các cộng sự muốn phát triển một cách tiếp cận thay thế đáng tin cậy hơn kĩ thuật PCR trong việc phát hiện thực phẩm giả trong sản phẩm thịt chế biến.

Theo Ali, nhóm nghiên cứu hiện đang tiếp tục thử nghiệm các sản phẩm khác như gelatin trong sữa chua, bánh kẹo, sản phẩm làm đẹp và thuốc con nhộng. Nhưng phạm vi còn rộng hơn nữa. “Cách tiếp cận này có thể sử dụng trong việc phát triển các phương pháp cải tiến đối với chẩn đoán bệnh, khám nghiệm pháp y và các xét nghiệm sàng lọc di truyền khác trong thực phẩm, dược phẩm và nông nghiệp”, Ali nói.

Các nguyên liệu bổ sung hoặc biến đổi trong thực phẩm không chỉ liên quan tới vấn đề an toàn, mà còn gây ra tình huống văn hóa khó xử nếu một người tiêu dùng vô tình ăn phải một sản phẩm thịt vi phạm chế độ ăn kiêng tôn giáo của họ. Hầu hết bất kỳ loại thực phẩm nào có thể là mục tiêu gian lận, nhưng chủ yếu là thực phẩm chế biến kĩ, vì dễ giấu các nguyên liệu bất thường trong sản phẩm. Mặt khác, các sản phẩm tinh chế và đắt tiền cũng có thể là nạn nhân. Ví dụ, dầu olive thượng hạng rất khó để phát hiện, và một loại dầu rẻ hơn có thể dễ dàng pha vào sản phẩm, nhưng vẫn được bán với giá cao.

Mật ong cũng là một mục tiêu thường gặp vì rất khó để phân biệt bằng mắt thường giữa sản phẩm thật và sản phẩm giả. Si-rô ngô có độ đường fructose cao trông giống độ “chảy” của mật ong, và cấu trúc đường gần như y hệt, cần có phương pháp thử chính xác và độ nhạy cao.

Do đó, cần thiết phải phát triển các kĩ thuật phân tích cao cấp, ví dụ như phân tích đồng vị, sinh học phân tử và một loạt các phương pháp lý học, hóa học và sinh học truyền thống để thử nghiệm tính xác thực của thực phẩm và phát hiện các sản phẩm không tuân thủ.

Theo www.digital.laboratoryequipment.com

Page 13: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY13

Chuẩn hóa phương pháp thử nghiệm cần sa

Việc chuẩn hóa các phương pháp sẽ cải thiện sản phẩm cho các ứng dụng giải trí và dược phẩm.

Vào ngày 20/05/2016, trong Tạp chí Phân tích Dược phẩm và Y sinh, Giuseppe

Cannazza - Trợ lý Giáo sư khoa Khoa học Đời sống tại Đại học Modena và Reggio Emilia Via Campi (Modena, Italia) và đồng sự của ông đã viết: “Trong những năm gần đây, đã có sự gia tăng sử dụng các chiết xuất có nguồn gốc cần sa cho mục đích y học” và họ bổ sung rằng “quy trình chuẩn bị chưa được chuẩn hóa mà được quyết định bởi cá nhân dược sĩ”.

Do các sản phẩm nguồn gốc cần sa được chấp nhận nhiều hơn khi sử dụng cho mục đích giải trí và y tế, các phương pháp phân tích chuẩn hóa phải được phát triển, kiểm chứng, và hài hòa hóa. Với hi vọng phát triển theo hướng đó, Cannazza và đồng sự đã phát triển một phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) dựa trên phát hiện UV. Phương pháp HPLC-UV này có thể được sử dụng để định lượng các giống cần sa chính: CBD-A, CBD, CBN, THC, và THC-A.

Sự phức tạp của cần sa đã tạo ra nhu cầu phân tích tiến bộ cho thành phần của sản phẩm này. Như Kymron DeCesare - Giám đốc Nghiên cứu tại phòng thử nghiệm Steep Hill (Berkeley, CA), nói: “Có rất nhiều thách thức về phân tích ứng dụng cần sa trong y học”. Ông nói thêm, “Hiện chưa có quy định liên bang nào, và điều đó khiến các phòng thử nghiệm phải tự mình xử lý”.

Phân tích hiệu năng caoKhi được hỏi tại sao cần có phương pháp mới

để phân tích cần sa, Cannazza nói: “Do chưa có chuyên khảo Dược Điển hoặc giao thức chuẩn hóa cho chiết xuất cần sa, một Nghị định luật của Italia gần đây đã áp đặt việc xác định định lượng của các giống cần sa chính trong mỗi lần chuẩn bị lượng dược nguồn gốc cần sa”.

Nghị định này và các nhân tố luật pháp và kinh tế khác đã thúc đẩy các nhà khoa học tìm các cách dễ dàng và giá cả phải chăng hơn để phân tích cần sa. Cannazza giải thích rằng: “Do máy dò khối phổ khá đắt cho một tiệm thuốc, mục tiêu chính của công trình nghiên cứu của chúng tôi là phát triển một phương pháp phân tích thay thế - đơn giản và hiệu quả về chi phí – mà vẫn đủ chi tiết và nhạy bén để có thể thực hiện dễ dàng bởi một dược sĩ”.

Sắc ký đồ 3D HPLC-QTOF của một chiết xuất cần sa ethanol cho thấy sự phức tạp hóa chất.

(Ảnh: Giuseppe Cannazza)

Page 14: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

14

Đây không phải là một quy trình đơn giản, vì các sản phẩm y học làm từ dạng tự nhiên của cần sa có hơn 400 hợp chất gồm: cannabinoids, terpenoids, alkaloids, flavonoids, axit béo, v.v.. Do đó, Cannazza nói: “Chúng tôi đã phát triển một phương pháp sắc ký hiệu quả về chi phí đi cùng với một máy dò UV (HPLC-UV) và so sánh các kết quả định tính và định lượng với những kết quả thu được từ máy khối phổ độ phân giải cao đắt tiền – HPLC-QTOF”. Ông cũng nói rằng “các kết quả thu được cho thấy rằng phương pháp HPLC-UV đủ độ nhạy và chọn lọc để xác định các giống cần sa chính trong chuẩn bị lượng dược, và có thể sử dụng được tại hiệu thuốc do tính đơn giản và rẻ tiền của nó”.

Chiết xuất siêu âmĐể phân tích mẫu thường

yêu cầu chiết xuất. “Trong phân tích và kiểm soát chất lượng, hàm lượng THC được phân tích để kiểm soát chất lượng của các sản phẩm THC giải trí, để xác định chất lượng của các sản phẩm dược THC, hoặc để phân biệt là thuốc cây gai dầu hay sợi cây gai dầu”, Kathrin Hielscher - Quản lý Marketing tại Hielscher Ultrasonics (Teltow, Đức) giải thích. “Chuẩn bị mẫu siêu âm được sử dụng để phát tán các chất mục tiêu trước khi sắc ký”. Theo truyền

thống, phân tích bao gồm sắc ký lớp mỏng (TLC), sắc ký khí (GC), hoặc HPLC.

Phương pháp chuẩn bị siêu âm có một vài lợi ích. “Sonication (kỹ thuật dùng sóng siêu âm để nghiền nhỏ) áp dụng lực cắt mãnh liệt và áp lực vào môi trường cấy và do đó, phát tán ra lượng chiết xuất lớn trong một thời gian rất ngắn”, Hielscher giải thích. “Điều này có nghĩa rằng quá trình chiết xuất của các hoạt chất, ví dụ như cannabinoids và terpenes từ cây cần sa sẽ tăng lên đáng kể”. Vì vậy phương pháp chiết xuất này nhanh và hiệu quả. Nó cũng thu thập được nhiều chất hơn trong dạng tự nhiên của chúng. “Do phương pháp chiết xuất không dùng nhiệt, kỹ thuật sonication nhẹ nhàng nên chiết xuất không bị phân hủy hoặc hư hại”, Hielscher nói.

Dạng chiết xuất này có thể tùy chỉnh bằng cách sử dụng nhiều loại dung môi khác nhau, bao gồm gốc dầu và gốc nước, cũng như các loại khác. Ứng dụng cuối cùng của sản phẩm có thể xác định dung môi tốt nhất để sử dụng trong chiết xuất. Ví dụ, nếu một sản phẩm có nguồn gốc cần sa sẽ được hút vào, một số dung môi phổ biến nhất là butan, carbon dioxide, và propan; trong việc chuẩn bị một sản phẩm để ăn, dung môi điển hình gồm dầu dừa, cyclohexane, ethanol, isopropanol, và dầu ô liu.

Công nghệ này có thế phối hợp ở nhiều mức độ trong nghiên cứu và phát triển, cũng như sản xuất. Sonication “có thể dễ dàng được tích hợp trong thiết lập chiết xuất hiện tại để cải thiện lượng và tỷ lệ thu được”, Hielscher nói. Công ty của bà cũng cung cấp “thiết bị chiết xuất phù hợp cho chiết xuất, thử nghiệm cỡ vừa hoặc nhỏ, hoặc một hệ thống công nghiệp”.

Ủng hộ quy địnhDo cần sa đã được sử

dụng trong ngành công nghiệp y học và giải trí hợp pháp, khách hàng cần nhiều đảm bảo hơn về thứ họ nhận được và sử dụng. Ví dụ, “thực hiện thử nghiệm sinh học để tránh nhiễm nấm mốc là cực kỳ quan trọng”, DeCesare nói.

Cần sa chứa một lượng lớn các chất hóa học có thể rất khó để định lượng (Ảnh: Cơ quan Phòng chống

Ma túy Hoa Kỳ)

Page 15: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY15

Ngoài việc biết rằng một sản phẩm an toàn, sản phẩm đó còn cần được phân tích để biết thành phần bên trong. “Thị trường thuốc cần phải thử nghiệm tất cả các chất phân tích”, DeCesare nói, “không chỉ THC, mà cả các chất khác”. Ông nói thêm: “Cần phải có nhiều hạn chế hơn về những gì được phép cho vào sản phẩm”.

Để ngăn ngừa nhiễm nấm mốc, DeCesare cho biết, “Nhà chế biến phải thực hiện kiểm tra độ ẩm, để họ có thể kiểm soát được độ ẩm và nấm mốc”. Dùng QuantaCann2 của Steep Hill, máy sử dụng quang phổ cận hồng ngoại, chỉ mất hơn 1 phút để kiểm tra độ ẩm.

Hiện tại, khách hàng không thể dựa vào các quy định chính phủ để đảm bảo rằng phân tích cần thiết được thực hiện đối với sản phẩm nguồn gốc cần sa. Sự phối hợp giữa kiến thức của khách hàng và phương pháp phân tích hiện đại sẽ tăng độ an toàn cho sản phẩm của ngành công nghiệp này. Lượng người sử dụng nhiều hơn yêu cầu sự đảm bảo đó.

Lịch sử của cần sa2900 Trước công nguyên: Hoàng đế

Trung Hoa Phục Hy, một hoàng đế giả tưởng mà người Trung Quốc coi như người đưa văn minh tới Trung Quốc, đã nhắc đến cần sa, là một loại thuốc phổ biến, hòa hợp âm dương.

1611-1762: Những người khai hoang Jamestown đã mang cây cần sa, thường gọi là cây gai dầu, đến Bắc Mỹ vào năm 1611. Trong suốt thời kỳ thuộc địa, sợi cây gai dầu là mặt hàng xuất khẩu quan trọng.

1850: Tới năm 1850, cần sa đã có mặt trong Dược điển Hoa Kỳ, liệt kê nó như là một phương pháp điều trị cho rất nhiều bệnh, gồm đau thần kinh, uốn ván, sốt phát ban, bệnh tả, bệnh dại, kiết lỵ và nhiều bệnh khác.

1936: Reefer Madness, lúc đầu là một bộ phim được tài trợ bởi một nhóm nhà thờ nhỏ với nhan đề Tell Your Children, đã được tạo ra. Ban đầu mục tiêu là chiếu cho các phụ huynh xem dưới hình thức mẩu chuyện đạo đức về những nguy hiểm khi sử dụng cần sa, bộ phim

đã được nhà sản xuất Dwain Esper chọn và cắt lại để phân phối khai thác phim thương mại.

1942: Giữa lúc các bộ luật và chính sách đang được thi hành chống lại việc trồng và sử dụng cần sa trong những năm 1900, Hiệp ước Dược Điển Hoa Kỳ đã loại bỏ cần sa khỏi Dược điển.

1990: Miles Herkenham, điều tra viên cấp cao tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, và nhóm nghiên cứu của của ông đã phát hiện ra hệ thống thụ thể cannabinoid vào năm 1990. Phát hiện này giúp các nhà khoa học hiểu được dược tính của cannabinoids xảy ra khi THC trong cần sa kết hợp với thụ thể cannabinoid trong não bộ.

Ngày 5 tháng 11, 1996: Bang California thông qua Dự Luật 215 về cần sa y tế tiểu bang. Dự luật này cho phép bệnh nhân và người chăm sóc chính của họ, với sự chỉ định của bác sĩ, được phép sở hữu và trồng cần sa để chữa trị bệnh AIDS, ung thư, co thắt cơ bắp, đau nửa đầu, và một số bệnh khác.

Ngày 6 tháng 11, 2012: Luật sửa đổi Colorado 64 và Chỉ thị Washington 502 được thông qua, trở thành các bang đầu tiên hợp pháp hóa cần sa cho sử dụng cá nhân, sản xuất thương mại, và bán tương tự như rượu.

Ngày 22 tháng 6, 2015: Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ loại bỏ quy trình đánh giá sức khỏe cộng đồng, một trở ngại quan liêu lâu dài để tài trợ tư nhân cho nghiên cứu cần sa y tế. Khi làm như vậy, quá trình nộp đơn xét duyệt cho nghiên cứu cần sa trở nên chính thống hơn.

Ngày 11 tháng 8, 2016: DEA phủ quyết hai kiến nghị cho phép cần sa dưới Đạo luật Kiểm soát Vật chất, nhưng thông báo một sự thay đổi chính sách để mở rộng số lượng các nhà sản xuất cần sa đăng ký với DEA. Điều này giúp các nhà nghiên cứu có nguồn cung cấp cần sa đa dạng và mạnh mẽ hơn.

Theo www.labmanager.com

Page 16: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

16

Nghiên cứu giải thích các tác nhân ảnh hưởng tới thời điểm bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm

Thời gian trì hoãn giữa thời điểm bệnh dịch bùng phát và khi nó thực sự xảy ra phụ thuộc chủ yếu vào việc dân số tiếp xúc với sự truyền nhiễm thường xuyên như thế nào, và số lượng ca nhiễm gây ra do một cá nhân tăng nhanh đến đâu, theo một nghiên cứu mới từ Đại học Georgia.

Kết quả nghiên cứu vừa được công bố trên Tạp chí Royel Society đã đặt ra một nền

tảng lý thuyết cho hệ thống dự báo bệnh dịch có thể giúp các nhân viên y tế cộng đồng có thời gian chuẩn bị hoặc thậm chí có thể ngăn chặn các đợt bùng phát dịch bệnh trong tương lai.

Bệnh truyền nhiễm tạo ra một mối hiểm họa nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, ví dụ như đợt bùng phát của các căn bệnh mới nổi như Zika và sự quay lại của loại bệnh như sởi. Một hệ thống cảnh báo sớm cho các căn bệnh truyền nhiễm có thể không chỉ cứu nhiều tính mạng mà còn cho phép sử dụng các nguồn lực y tế cộng đồng hiệu quả và năng suất hơn. Phát triển một hệ thống như thế là mục tiêu của Dự án AERO, một dự án phối hợp nghiên cứu dẫn

dắt bởi ngài John M. Drake - Giáo sư Trường Sinh thái học Odum UGA, Giám đốc Trung tâm Sinh thái học về các bệnh truyền nhiễm, tác giả chính của nghiên cứu. Báo cáo vừa qua là một trong số những thành quả đầu tiên của dự án.

Dự án AERO áp dụng lý thuyết về “làm chậm tới hạn” cho bệnh truyền nhiễm. Làm chậm tới hạn là ý tưởng về hệ thống phức tạp tiếp cận điểm tới hạn – một ngưỡng vượt quá mà hệ thống bị tổn thương và sụp đổ - hệ thống gồm các hình mẫu dễ nhận diện có thể cảnh báo người quan sát rằng điểm tới hạn sắp đến.

Trong trường hợp hệ thống bệnh truyền nhiễm, các hình mẫu xuất hiện trong các báo cáo sức khỏe cộng đồng và điểm tới hạn là điểm mà mỗi cá nhân nhiễm bệnh thường truyền bệnh cho nhiều hơn một người. Khi

Giáo sư Sinh thái học John Drake. Ảnh: UGA

Page 17: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY17

điều đó xảy ra, cư dân có nguy cơ đối mặt với dịch bệnh bùng phát.

“Nhưng trong hầu hết trường hợp, các đợt bùng phát dịch lớn không xảy ra ngay khi chúng có thể xuất hiện theo lí thuyết”, theo Christopher J. Dibble - Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Trường Odum, người dẫn dắt dự án nghiên cứu.

“Chúng tôi biết rằng sẽ có một khoảng thời gian trì hoãn giữa điểm tới hạn theo lí thuyết và đợt bùng phát dịch lớn đầu tiên, và dự án nỗ lực nhắm đến một phần là tìm ra một vài yếu tố then chốt có thể đối với thời gian chờ đó, và một phần là phân biệt những gì thúc đẩy chúng”, Dibble nói.

Cùng với các cộng sự, Dibble đã phát triển một mô hình toán đại diện cho dân số gồm những người nhạy cảm với một căn bệnh, những người hiện đang mắc căn bệnh đó, và những người đã khỏi bệnh nên có thể đề kháng được. Họ kết hợp các thông số như tỉ lệ sinh và tử, tỉ lệ truyền bệnh, tỉ lệ khỏi bệnh, quy mô dân số và tỉ lệ nhiễm bệnh từ nguồn bên ngoài.

Các nhà nghiên cứu sau đó chạy một mô hình mô phỏng dựa trên các hệ thống của các loại bệnh khác nhau.

Họ tìm ra 2 yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến thời gian giữa điểm tới hạn và sự bùng phát. Yếu tố đầu tiên đó là tốc độ mà tỷ lệ sinh cơ bản của mầm bệnh tăng lên khi điểm tới hạn gần kề.

“Tiếp cận sự truyền bệnh càng nhanh, thời gian chờ càng giảm”, Dibble nói. “Đó là một trong những điểm bổ sung vào công trình lý thuyết hiện tại mà nghiên cứu này đang giải quyết”.

Yếu tố chủ chốt còn lại đó là tỉ lệ sự truyền nhiễm tiếp xúc với dân số từ bên ngoài: Tiếp xúc với sự truyền nhiễm càng nhiều, khoảng thời gian trì hoãn trước đợt bùng phát càng ngắn.

Theo Dibble, các kết quả nghiên cứu này sẽ giúp các chuyên gia y tế cộng đồng có cái nhìn sâu hơn về các tác nhân thúc đẩy sự bùng phát và dịch.

“Một khi chúng ta hiểu được khoảng thời gian chờ này, chúng ta có thể nghiên cứu từ

các dịch bùng phát trước đây”, Dibble nói. “Sử dụng một số cách tiếp cận mô hình mà chúng tôi đã dùng ở đây, chúng tôi có thể suy luận ngược về. Nếu ví dụ chúng ta có một trận dịch vào tháng 3, thật dễ dàng khi cho rằng điều gì đó chắc hẳn đã xảy ra vào tháng 2 và tháng 1 khiến dân số thay đổi để xảy ra đợt bùng phát này. Nhưng vấn đề là sự thay đổi quan trọng đó có thể đã xảy ra rất lâu trước khi đó. Nếu chúng ta không tính đến khoảng thời gian trì hoãn giữa đợt bùng phát thật sự và thời điểm nó có thể xảy ra theo lí thuyết, chúng ta có thể đã tìm yếu tố thúc đẩy ở sai chỗ”.

Việc cung cấp dự báo về những sự trì hoãn có thể giữa điểm tới hạn và đợt bùng phát dịch lớn đối với một hệ thống dịch bệnh cho trước và dân số cũng quan trọng không kém.

“Mục tiêu của Dự án AERO không cho chúng ta biết quá nhiều về cách kiềm chế một đợt bùng phát dịch một khi nó bắt đầu, mà để chúng ta có nhiều thời gian chờ hơn đối với một dịch bệnh sắp xảy ra”, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Eamon B. O’Dea, một trong những đồng tác giả của nghiên cứu, nói. “Phụ thuộc vào căn bệnh, các nhân viên có thể dùng khoảng thời gian để tìm cách làm tăng thêm các nguồn lực cho phương pháp chữa trị, khởi động một chiến dịch tiêm chủng tiên phong, hay thực hiện những gì họ cho rằng sẽ giảm thiểu nguy cơ”, ông nói.

Dibble nói rằng nhóm nghiên cứu hi vọng cuối cùng sẽ phát triển được một hệ thống cảnh báo có thể dự đoán được cả thời điểm xảy ra sự bùng phát dịch và độ dài của thời gian trì hoãn cho tới khi đợt bùng phát lớn đầu tiên có thể xuất hiện.

“Rất tiếc khoảng thời gian đó sẽ không bao giờ rõ ràng, ví dụ như bạn phải chờ 6 tháng chẳng hạn”, Dibble nói. “Nhưng chúng tôi hi vọng có thể đưa ra một khoảng các giá trị có thể. Tôi muốn thấy mô hình được áp dụng thực tế. Chúng tôi còn rất nhiều việc cần làm để đạt đến mức đó, nhưng đây là bước tiến lớn đầu tiên”.

Theo www.laboratoryequipment.com

Page 18: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

18

NPS - Đối tác chiến lược của các phòng thí nghiệmVới 12 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cung cấp thiết bị phòng thí nghiệm, đội ngũ nhân viên đều đã được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình, năng lực chuyên môn cao,... là những điều kiện cơ bản để Công ty TNHH Thiết bị Khoa học Nghi Phú (NPS) không ngừng phấn đấu, nâng cao chất lượng phục vụ đối tác, đem lại các giải pháp tối ưu, kết quả phân tích chính xác cho các phòng thí nghiệm.

Chặng đường phát triểnThành lập ngày 29/01/2004

(trụ sở chính tại 561/2A Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.26, Q. Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh), đến tháng 1/2005, NPS đã trở thành Đại lý độc quyền tại Việt Nam của hãng Vicam (Boston, USA) - chuyên về các giải pháp phân tích độc tố nấm (mycotoxins) trong thực phẩm và nước giải khát, sản phẩm nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi.

Từ năm 2005 đến 2015, NPS đã có chặng đường phát triển liên tục và mạnh mẽ khi lần lượt trở thành Đại lý độc quyền tại Việt Nam của nhiều nhà sản xuất thiết bị và sinh phẩm nổi tiếng trên thế giới.

Cụ thể, tháng 7/2011, NPS đã chính thức trở thành Đại lý ủy quyền của tổ chức Fera-Fapas (thuộc Vương quốc Anh) - Tổ chức có bề dày hoạt động hơn 100 năm có uy tín nhất trên thế giới về các chương trình Thử nghiệm Thành thạo cho tất cả các phòng thí nghiệm (thực phẩm, vi sinh, GMO, môi trường).

Đến tháng 9/2012, NPS tiếp tục trở thành Đại lý độc quyền của Hygiena (California, United States) - Nhà sản xuất thiết bị và sinh phẩm đo chỉ số ATP (độ sạch bề mặt vật liệu), chỉ tiêu vi sinh. Ứng dụng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, bệnh viện.

Tháng 10/2012, NPS trở thành Đại lý độc quyền của hãng Clovertek (USA) - Nhà sản xuất các sinh phẩm (Elisa kits) phân tích các chỉ tiêu vi sinh, dư lượng thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc kháng sinh trong thịt và thủy sản, độc tố nấm (mycotoxins) trong thực phẩm, sản phẩm nông nghiệp.

Giai đoạn từ năm 2012 đến nay đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công ty khi chính thức trở thành đại lý ủy quyền của các nhà sản xuất trang thiết bị phòng thí nghiệm, nhà sản xuất sinh phẩm có uy tín trên thế giới như: Alpha Resources, Cape, Dexil, Dragon Lab, Hettic, Interscience, Megazyme,

Presens, Sporicidin... Đối tác chiến lược của các phòng thí nghiệm

Góp phần mang lại các giải pháp tối ưu, kết quả phân tích chính xác cho các phòng thí nghiệm là mục tiêu hoạt động của công ty. Điều này được khẳng định bởi khả năng cung cấp các sản phẩm/ thiết bị phòng thí nghiệm chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh... nâng tầm Nghi Phú trở thành đối tác chiến lược của các phòng thí nghiệm.

Để làm được điều này, NPS đã trở thành đại diện cho một số nhà sản xuất có uy tín trên thế giới, cung ứng cho các phòng thử nghiệm trên cả nước các thiết bị tiên tiến, hiện đại của các hãng: Aura Industries (Mỹ) - Phụ kiện cho máy sắc ký, máy UV tăng cường tín hiệu phát hiện Aflatoxins, Amino Acids, Pesticides, Peptides …; Barnstead INT’L (Mỹ) - Thiết bị thông dụng trong phòng thí nghiệm; Biosil (Nhật) - Cột HPLC; CANBERRA (Mỹ) -

Page 19: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

19BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

Hệ thống đo hoạt độ phóng xạ; ERICHSEN (Đức) - Thiết bị /Dụng cụ thử màng sơn; Hettich (Đức) - Máy li tâm thông thường, li tâm lạnh; VICAM (Mỹ) - Cột ái lực miễn dịch phân tích độc tố nấm trong thực phẩm & thức ăn gia súc...

Cùng với cung cấp trang thiết bị, NPS còn cung ứng cho các phòng thử nghiệm/ thí nghiệm các mẫu tham chiếu (Reference Material) và các mẫu chuẩn (Quality Control Material); cung cấp chất chuẩn độc tố nấm được sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và tiêu chuẩn Q7A của FDA, chất chuẩn phân tích Aflatoxin, Ochratoxin, Patulin... của hãng Vicam và Fermentek. Đồng thời, tư vấn cho các phòng thí nghiệm về chương trình thử nghiệm thành thạo (Proficiency Testing Program) do tổ chức FAPAS thực hiện với các chủ đề: Thử nghiệm hóa thực phẩm, thử nghiệm vi sinh thực phẩm, thử nghiệm biến đổi gen, chương trình thử nghiệm nước và môi trường...

Với vị thế là Hội viên Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam (VinaLAB); là đối tác chiến lược của FAPAS – thành viên của Cục Nghiên cứu Thực phẩm và Môi trường (Food and Enviroment Research Agency - FERA) trực thuộc Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn (Department of Enviroment, Food and Rural Affairs – DEFRA) của chính phủ Anh Quốc (FAPAS được thế giới công nhận là tổ chức chuyên cung cấp các chương trình thử nghiệm thành thạo cho tất cả các phòng thí nghiệm về lĩnh vực hóa học, vi sinh, thực phẩm, sinh vật biến đổi gen, nước và môi trường), nên các chương trình thử nghiệm thành thạo do NPS phối hợp với VinaLAB cũng như phối hợp với FAPAS tổ chức về các lĩnh vực hóa, vi sinh... nhận được sự quan tâm và tham gia của nhiều phòng thí nghiệm trong nước.

Cụ thể như: Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ chất lượng của thực phẩm dành cho con người và thức ăn gia súc, từ năm 2003, các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) đã thống nhất và giới thiệu Luật Kiểm soát việc sử dụng các sinh vật biến đổi gen (GMO)

trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi.Đây là vấn đề khiến các phòng thí nghiệm

trong nước chịu nhiều áp lực đối với việc đảm bảo kết quả phân tích của mình một cách chính xác và đáng tin cậy, đồng thời tuân thủ đúng luật đối với chất lượng các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc sử dụng các sinh vật biến đổi gen.

Giải bài toán này, Nghi Phú đã phối hợp với FEPAS tư vấn để tổ chức chương trình thử nghiệm thành thạo về chủ đề phân tích vật liệu biến đổi gen (Gemma), cung cấp những dữ liệu cần thiết theo từng thời điểm, giúp các phòng thí nghiệm xây dựng được quy trình kiểm định chất lượng có giá trị.

Nắm bắt nhu cầu ngày càng cấp thiết trong việc định lượng độc tố nấm trong các sản phẩm thực phẩm, đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe về dư lượng độc tố trong ngũ cốc, thực phẩm, thức ăn gia súc, Nghi Phú đã mạnh dạn đón đầu và đưa vào khai thác dịch vụ Mycotoxin Rapid Test 24.

Ưu điểm của dịch vụ này là thời gian trả kết quả nhanh, phương pháp thực hiện đã được tổ chức AOAC công nhận là phương pháp chính thức (sử dụng cột ái lực miễn dịch để định lượng độc tố nấm). Do đó, việc định lượng độc tố nấm không còn là vấn đề nan giải của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tiết kiệm thời gian và chi phí.

Cùng với thực hiện mục tiêu trở thành một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp hệ thống thiết bị phòng thí nghiệm tại Việt Nam, tập thể nhân viên và Ban lãnh đạo công ty TNHH thiết bị Khoa học Công nghệ Nghi Phú đã và đang nỗ lực không ngừng nhằm thực hiện chiến lược mở rộng kinh doanh vào thị trường nước ngoài. “Là đối tác chiến lược của các Phòng Thí nghiệm nhờ vào khả năng cung cấp hàng hoá chất lượng tốt với giá cả cạnh tranh và khả năng chăm sóc khách hàng tốt” là mục tiêu xuyên suốt của công ty.

VinaLAB

Page 20: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

20

Kỳ 9: Giải quyết xung đột trong phòng thử nghiệm

Lãnh đạo phòng thử nghiệm

theo khoa học

Xung đột có thể xảy ra ở bất kỳ trường hợp nào tồn tại những mối quan tâm hoặc

những ham muốn khác nhau. Trong phòng thí nghiệm, các cuộc xung đột thường phát sinh về "tranh chấp vị trí", khi hai cá nhân quan tâm đến cùng dự án giống nhau. Bằng việc nắm bắt được công việc đang làm của mỗi thành viên trong phòng thí nghiệm, bạn thường có thể phát hiện các vấn đề tiềm ẩn và đối phó trước khi chúng trở nên quá nghiêm trọng.

Hầu hết mọi người có xu hướng tránh xung đột. Nhưng chúng ta nên coi xung đột như một phần sáng tạo của cuộc sống. Xung đột có khả

năng tạo cả tác động tích cực và tiêu cực. Tùy thuộc vào cách giải quyết, xung đột có thể mang tính xây dựng hoặc phá hoại, tính khích lệ hoặc làm suy sụp, tạo ra kết quả chất lượng cao hơn hoặc bóp nghẹt một dự án, dẫn đến tư duy độc đáo hoặc gây cuộc chiến tranh giành quyền lực.

Kenneth W. Thomas và Ralph H. Kilmann cung cấp một mô hình hữu ích để đánh giá hành vi của một cá nhân trong các tình huống xung đột. Mẫu đánh giá xung đột của Thomas-Kilmann mô tả hành vi của một người trong một tình huống xung đột xuyên suốt theo hai khía cạnh cơ bản: sự

Page 21: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY21

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

quả quyết (mức độ mà một cá nhân nỗ lực để đáp ứng mối quan tâm của riêng mình) và sự hợp tác (mức độ mà một cá nhân nỗ lực để đáp ứng mối quan tâm của người khác).

Hai khía cạnh cơ bản của hành vi có thể được sử dụng nhằm xác định 05 hình thức cụ thể giải quyết các cuộc xung đột mà mọi người đều có khả năng áp dụng.

Cạnh tranh: Hình thức giải quyết xung đột này là bảo thủ và bất hợp tác. Những người cạnh tranh thường theo đuổi mối quan tâm của bản thân mình. Họ dường như sử dụng bất cứ quyền hạn nào thích hợp để giành vị trí của họ, bao gồm cả khả năng hoặc cấp bậc của mình để tranh luận. Hình thức giải quyết xung đột này hiệu quả khi bạn đang đối mặt với một vấn đề quan trọng, quyết định không thông thường, hoặc phải đưa ra một quyết định cần hành động nhanh chóng. Tuy nhiên, mặc dù đôi khi hình thức có vẻ hợp lý, nhưng sai lầm mà nhiều nhà khoa học mắc phải là giải quyết mang tính cá nhân, sử dụng hình thức này mọi tình huống. Ví dụ, nếu người đứng đầu phòng thí nghiệm khác yêu cầu bạn chia sẻ một thuốc thử mà bạn chưa đưa vào tài liệu công khai và thử nghiệm viên của bạn đang sử dụng cho dự án của họ, bạn có thể từ chối chia sẻ thuốc thử đó cho đến khi thử nghiệm viên của bạn đã đưa ra một ấn phẩm khoa học đề cập đến nó. Quyết định này có thể sẽ làm các PI khác không ưa bạn, nhưng bạn bảo vệ được lợi ích của phòng thử nghiệm.

Ôn hòa: Hình thức này là không bảo thủ và hợp tác, nói cách khác, nó đối lập với hình thức cạnh tranh. Những người ôn hòa thường bỏ qua mối quan tâm riêng của họ để đáp ứng mối quan tâm của người khác. Những tình huống mà hình thức ôn hòa thích hợp là khi bạn muốn thiết lập mối quan hệ hòa hảo hoặc tạo thiện chí, và nó được áp dụng với các vấn đề không mấy quan trọng. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng hình thức ôn hòa có thể là một vấn đề nếu bạn giữ quan điểm và mong rằng người khác sẽ nhượng bộ trong thời gian tới. Ví dụ, bạn và đồng nghiệp

của bạn đang sử dụng chung một phần thiết bị bị hư hỏng. Anh ta quả quyết rằng bạn phải thanh toán cho việc sửa chữa từ khi phòng thí nghiệm của bạn sử dụng nó nhiều hơn. Bạn không đồng ý, nhưng bạn sẽ chi trả cho lần này bởi vì bạn biết rằng phòng thí nghiệm của anh ta sử dụng tất cả các thiết bị chung khác nhiều hơn như vậy thời gian tới sẽ đến lượt anh ta phải chi trả tiền sửa chữa những thiết bị đó.

Lảng tránh: Những người lảng tránh là không bảo thủ và không hợp tác. Họ không ngay lập tức theo đuổi mối quan tâm riêng của mình hoặc của những người khác. Cuộc xung đột không bao giờ được giải quyết bởi những người lảng tránh. Nhiều lần họ sẽ tránh được xung đột do sợ bị tham gia vào một bất đồng hoặc vì họ không có niềm tin vào kỹ năng giải quyết xung đột của mình. Tuy nhiên, lảng tránh có thể là một hình thức hiệu quả trong trường hợp người mà bạn đang xung đột có quyền lực hơn so với bạn hoặc khi vấn đề không quan trọng. Nó cũng là một hình thức tốt khi bạn cần thêm thời gian. Ví dụ về cách thực hiện hình thức này, bạn có thể nói: "Đây là những thay đổi nghiêm trọng. Tôi cần thêm thời gian để suy nghĩ".

Phối hợp: Hình thức giải quyết xung đột này là vừa bảo thủ vừa hợp tác, đối lập với hình thức lảng tránh. Những người theo hình thức này cố gắng để làm việc với những người khác nhằm tìm một số giải pháp đáp ứng đầy đủ mối quan tâm của cả hai người. Họ đào sâu một vấn đề để xác định các mối quan tâm cơ bản của các cá nhân xung đột và cố gắng tìm một sự thay thế đáp ứng được mối quan tâm của các bên. Với kết quả tích cực như vậy, một số người sẽ cho rằng hình thức phối hợp luôn luôn là hình thức tốt nhất để áp dụng. Tuy nhiên, sự phối hợp mất rất nhiều thời gian và công sức; do đó, chỉ nên sử dụng khi cuộc xung đột bảo đảm hai mặt này. Ví dụ, nếu hai nghiên cứu sinh đang tranh luận về "quyền hạn", bạn có thể muốn dành thời gian cần thiết để cẩn thận thực hiện các dự án khác nhau theo cách sẽ đáp ứng cả hai người này. Mặt

Page 22: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

22

khác, nếu xảy ra xung đột về thời điểm để tổ chức một cuộc họp trong phòng thí nghiệm, thời gian và công sức bỏ ra để phối hợp giải quyết xung đột này có thể không hiệu quả.

Thảo hiệp: Hình thức này có thể coi là trung gian giữa sự bảo thủ và sự hợp tác. Mục tiêu của người thoả hiệp là để tìm một giải pháp hai bên chấp và thỏa mãn cả hai bên. Người thoả hiệp từ bỏ nhiều hơn người cạnh tranh, nhưng ít hơn so với người ôn hòa. Anh ta hoặc cô ta giải quyết vấn đề trực tiếp hơn so với người lảng tránh, nhưng không tìm hiểu sâu hoặc chi tiết như những người theo hình thức phối hợp. Hình thức giải quyết xung đột này hữu ích đối với các quyết định quan trọng vừa phải, giữa những người có quyền lực tương đương, hoặc khi bạn đang phải đối mặt với một vấn đề cần được giải quyết một cách nhanh chóng. Nói chung, các học giả có xu hướng ít sử dụng hình thức giải quyết xung đột này.

Mỗi hình thức giải quyết xung đột đều có giá trị; không hẳn được coi là tốt, xấu, hoặc thích hợp trong mọi tình huống. Là một PI, mục tiêu cần thiết là ứng phó nhanh nhạy với xung đột, với sự sử dụng linh hoạt các hình thức khác nhau trong những tình huống khác nhau và theo những cách thích hợp.

Những người làm việc cho bạn trong phòng thí nghiệm của bạn cũng sẽ có xu hướng áp dụng các hình thức giải quyết xung đột trên một cách khác nhau. Giải quyết xung đột giữa các thành viên trong phòng thí nghiệm

Khi xung đột xảy ra giữa hai hoặc nhiều thành viên của phòng thí nghiệm, xác định xem bạn có cần thiết can thiệp vào và đưa ra một giải pháp hay không. Thông thường, hầu hết mọi người sẽ có thể giải quyết xung đột của mình, nhưng phải chắc chắn rằng cuộc xung đột đó không nghiêm trọng đến mức mà nó ảnh hưởng đến tinh thần và không khí làm việc trong phòng thí nghiệm.

Sau đây là một vài cách hàng đầu để giải quyết xung đột trong phòng thí nghiệm:

• Khuyến khích môi trường chấp nhận xung đột, miễn là những người liên quan đối mặt với vấn đề một cách cởi mở và trung thực. PI có thể chủ động củng cố sự cởi mở của các thành viên trong phòng thí nghiệm, đặc biệt là những người liên quan tới xung đột.

• Giúp các cá nhân có liên quan tới cuộc xung đột đồng bộ hóa thời gian, sự tập trung, và mức độ đàm phán và phản ứng của họ. Ví dụ, PI có thể mời những người liên quan tới cuộc xung đột tới văn phòng tại một thời điểm xác định để thảo luận về các vấn đề một cách cởi mở và trung thực và đưa đến giải pháp. Hãy chắc chắn rằng mỗi người hiểu quan điểm của người khác. PI có thể thực hiện điều này bằng cách tổng kết, làm rõ các câu hỏi trọng tâm và khuyến khích từng người lắng nghe.Giải quyết mâu thuẫn giữa bạn và những người khác trong phòng thí nghiệm

Cũng có trường hợp xảy ra mâu thuẫn giữa các PI và các thành viên trong phòng thí nghiệm. Xung đột như vậy mang tính chất quan trọng và có ảnh hưởng trong việc phát triển tương lai của các phòng thí nghiệm, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Điều quan trọng là các nhà lãnh đạo chứng tỏ sự quan tâm trong việc tiếp nhận và hiểu được thông tin phản hồi tích cực và cho thấy sự sẵn sàng học hỏi từ nó, khi thích hợp. Đồng thời cũng rất quan trọng đối với các nhà lãnh đạo để tránh cạm bẫy về việc lãnh đạo chối bỏ các trách nhiệm của mình và ứng phó với thách thức bằng cách coi mình chỉ như một thành viên trong phòng thí nghiệm giống những người khác. Nói cách khác, là một PI, bạn không bao giờ chỉ vì lợi ích của bạn mà nên vì lợi ích của toàn bộ phòng thí nghiệm.

Nguồn: Quỹ Burroughs Wellcome và Viện y khoa Howard Hughes

(Bản quyền được bảo hộ)

Kỳ sau: Phụ lục 1

Page 23: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

23

Quản lý ngân sách phòng thí nghiệm

để nâng cao hiệu quảThường thì các phòng thí nghiệm chất lượng đã đủ độ tiềm năng sẽ phải đối mặt với bức tường năng suất được xây dựng bởi một ngân sách thắt chặt. Trong khi dự báo vốn tài trợ có thể không lạc quan lắm, những quyết định ngân sách chiến lược sẽ giúp tạo thêm khoảng trống cho chi tiêu cân nhắc dự phòng hoặc trường hợp thâm hụt ngân sách bất ngờ. Nhân sự, trang thiết bị, vật tư phòng thí nghiệm vẫn là 3 hố đen tiêu tốn phần lớn ngân sách của một phòng thí nghiệm (PTN). Không mục nào trong số này có thể loại bỏ đối với bất kỳ PTN nào, nhưng chúng có thể được quản lý chiến lược để nâng cao hiệu quả và năng suất.

Nhân sựGiống như bất cứ công việc

kinh doanh nào, đội ngũ thực hiện là yếu tố để thành công. Từ lựa chọn để thúc đẩy làm việc nhóm hiệu quả, khía cạnh quản lý nhân sự của quản trị PTN có thể cực kỳ tốn kém, nhưng nó là tài sản lớn nhất của bất kỳ PTN nào. Với chi phí tăng chóng mặt cho phúc lợi nhân viên và lạm phát lương bổng, quá trình lựa chọn chưa bao giờ quan trọng

hơn thế. Trong khi mỗi PTN có tiêu chí tuyển dụng riêng và thường chủ yếu dựa vào bằng cấp, thêm một chút tính chất cá nhân vào quá trình lựa chọn sẽ rất có lợi. Việc hỏi mức độ tự nguyện giáo dục thường xuyên của mỗi ứng viên có thể là một nhân tố quyết định đem lại lợi ích trong việc lựa chọn. Ví dụ, hầu hết các nhà nghiên cứu đều hào hứng muốn tiếp tục nghiên cứu mới nhất nằm trong lĩnh

vực của họ và thường sẽ tham dự các hội nghị hàng năm cho giáo dục thường xuyên. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu nào có hứng thú với việc chủ động đi lại trong hội trường triển lãm để học hỏi về những công nghệ mới nhất có lợi cho PTN của họ, đồng thời liên hệ với các chuyên gia đại diện của các doanh nghiệp triển lãm để áp dụng nghiên cứu của họ, sẽ là kiểu thành viên trở thành một tài sản đặc biệt

Page 24: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

24

cho bất kỳ PTN nào. Trường hợp này giúp nhà quản lý PTN tham khảo một cách tốt hơn ý kiến từ đội nghiên cứu am hiểu trong giai đoạn mua sắm thiết bị để chắc chắn rằng ngân sách được tận dụng hiệu quả, từ đó đem lại mối quan hệ công việc gần gũi hơn, tôn trọng lẫn nhau hơn trong PTN.

Việc có được những nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm thành thạo tất cả khía cạnh của ngành công nghiệp và quen thuộc với các thiết bị cao cấp phức tạp sẽ rất tốn kém và khó khăn. May mắn thay, có một làn sóng mới các nhà nghiên cứu mong muốn được để lại dấu ấn trong ngành. Một số người đến từ một nền tảng linh hoạt và mong muốn lấy kinh nghiệm từ mọi con đường để loại bỏ một số chi phí trước đây được cho là cố định. Nhiều PTN có hợp đồng bảo trì/sửa chữa và thuê hàng tháng với nhiều công ty và nhà thầu khác nhau để đảm bảo rằng thiết bị của họ hoạt động trơn tru. Tuy nhiên, thuê hoặc đào tạo nhân sự để biết cách thực hiện bảo trì và sửa chữa cơ bản cho thiết bị có thể tiết kiệm một khoản lớn chi phí đó. Các nhà sản xuất thiết bị PTN chất lượng thường mở khóa đào tạo bảo trì mà không thu phí cho bất cứ ai muốn học, từ đó loại bỏ nhu cầu thuê nhà thầu bên ngoài.

Trong một số trường hợp, các nhà thầu bên ngoài có thể giúp cắt giảm chi phí.

Kĩ thuật viên PTN, ứng viên nghiên cứu sinh tiến sĩ, sinh viên cao học và đại học sẽ luôn là xương sống của mỗi PTN, nhưng có một xu hướng đang lên do việc chi phí lao động tăng đó là sử dụng nhà nghiên cứu hợp đồng. Họ có thể cung cấp các lợi ích định hướng kết quả đối với một PTN và có thể mang lại nguồn năng lượng mới mẻ mà không tốn chi phí nhân viên dài hạn.Trang thiết bị

Ngoài một số công nghệ, trang thiết bị cần phải mua mới hoặc cập nhật thường xuyên, thì phần lớn các lần mua sắm là không cần thiết, ví dụ như các vật dụng đang nổi hoặc vật dụng thí nghiệm đơn lẻ. Đánh giá các thiết bị PTN hiện có và so sánh chúng với mục tiêu và việc sử dụng hàng ngày của PTN có thể giúp ích rất nhiều trong việc đảm bảo mua được thiết bị bền và tốt, vốn là yếu tố quan trọng trong phân bổ chi phí. Chi tiêu thông thái cho những sản phẩm chất lượng và đắt hơn một chút sẽ đem lại lợi ích nhiều lần, so với việc chọn một sản phẩm kém chất lượng hay hàng nhái mà không được thiết kế thông minh bởi một nhà sản xuất hiểu biết. Những sản phẩm đó thường vốn dĩ đã khiếm khuyết và được sản xuất hay sao chép với mục đích duy nhất là kiếm lời từ các PTN đang cố gắng co kéo ngân sách trong thời gian ngắn.

Với một chút đầu tư trả

trước thêm, các sản phẩm bền được thiết kế để sử dụng nhiều lần mà không cần bảo trì quá nhiều có thể giảm đáng kể chi phí bảo trì và loại bỏ nhu cầu mua lại thiết bị cho các thí nghiệm trong tương lai. Các nhà sản xuất uy tín sẽ hỗ trợ cho sản phẩm của họ và luôn sẵn sàng trả lời các câu hỏi, vì họ muốn thấy khách hàng của mình thành công và nổi trội. Những nhà sản xuất là những người ủng hộ lớn nhất cho sự thành công của các phòng thử nghiệm. Xác định một nhà sản xuất có uy tín liên quan đến việc xác nhận một danh sách các tính chất: dễ dàng truy cập một đại diện dịch vụ trực tuyến; sự hiểu biết và sẵn sàng chia sẻ giá trị, kiến thức kỹ thuật không độc quyền; danh tiếng được tôn trọng trong ngành công nghiệp và chức năng cung cấp đầy đủ dịch vụ có sẵn cho khách hàng. Mua thiết bị được sản xuất bởi các nhà sản xuất uy tín có thể giảm bớt một gánh nặng rất lớn, không chỉ bằng cách tránh sự thất vọng khi bị mắc kẹt với một trong nhiều sản phẩm kém trên thị trường và phải mua lại thiết bị không cần thiết, mà còn được cung cấp dịch vụ xử lý sự cố dễ dàng và miễn phí với các câu hỏi kỹ thuật hiếm và tiết kiệm đáng kể cho một đầu tư một lần.

Khi mua thiết bị chuyên dụng, mua từ một đại lý lớn có thể là con đường dễ dàng hơn, nhưng thường tốn kém

Page 25: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY25

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

hơn. Luôn chắc chắn rằng đại diện bán thiết bị có kiến thức kỹ thuật cần thiết và/hoặc dễ dàng cung cấp liên hệ trực tiếp với người hiểu rõ mặt hàng được bán. Thường thì các phòng thí nghiệm đều không hài lòng với việc mua hàng của họ bởi đại diện bán hàng thực ra là một cựu nhân viên bán bất động sản sử dụng các kỹ năng bán hàng của mình để thúc đẩy doanh số sản phẩm, trái ngược với một người tích hợp hệ thống kiến thức hiểu biết có thể giúp thiết lập một hệ thống chức năng miễn phí. Lựa chọn thứ hai sẽ giúp phòng thử nghiệm tránh mua phải thiết bị có ít hoặc không có lợi ích thực tế và có thể không tích hợp tốt với các thiết bị hiện có. Phát triển một mối quan hệ tốt với các đại diện có trình độ thường có lợi ích lớn hơn về tài chính thông qua giảm giá, đào tạo miễn phí, cài đặt và dịch vụ, v.v.

Một yếu tố quan trọng khác trong việc mua sắm thiết bị là tính linh hoạt trong một cơ sở đa người dùng. Cho dù một phòng thí nghiệm được thiết kế để sử dụng bởi nhiều nhóm nghiên cứu khác nhau hoặc được trang bị duy nhất cho một mục tiêu, cấu hình thử nghiệm khác nhau là một yếu tố trong thiết bị đa năng. Giảm bớt nhu cầu cho một số sản phẩm xu hướng đối với mỗi ứng dụng trong phòng thí nghiệm là một cách tuyệt vời để tinh giản việc sử dụng và chi phí thiết bị phòng thí nghiệm.Vật tư PTN

Không phải lúc nào cũng có khoảng trống trong mục này, vì một nguồn cung cấp vật tư liên tục là cần thiết để duy trì PTN trên cơ sở lâu dài. Các vật tư, môi trường nuôi cấy, hóa chất, dụng cụ, văn phòng phẩm, thiết bị an toàn, đồ thủy tinh, đồ nhựa, khí gas, và thậm chí vật tư cho phòng nghỉ là một phần của hoạt động hàng ngày của PTN. Tuy nhiên có một số cách khác nhau để cắt giảm chi phí vật tư phòng thí nghiệm. Nhiều tổ chức và doanh nghiệp có hợp đồng với các nhà cung cấp vật tư phòng thí nghiệm để đàm phán giảm giá khi mua số lượng lớn. Mô hình này rất hiệu quả nếu thương lượng được khoản giảm giá

đáng kể và mục tiêu là mua số lượng lớn.Mua số lượng lớn sẽ luôn là nhân tố đàm

phán lớn nhất để giảm giá khi mua, nhưng đây không phải là lựa chọn duy nhất. Một cách có thể thay thế cho mô hình này đó là xu hướng ngày càng tăng của các đơn hàng đặt hàng tháng. Ngày càng có nhiều nhà cung cấp muốn thiết lập đơn đặt hàng hàng tháng tuy sẽ tốn ít chi phí hơn mua số lượng lớn, với ít tiền thêm để quản lý tồn kho hơn, đổi lại là các đơn hàng tin cậy và liên tục.

Tiếc thay, chi phí sản xuất trong nền kinh tế hiện nay đã tăng lên cùng với chi phí nhân sự, và đổi lại, có ít biên độ giảm giá hơn để đại lý bán lẻ đề nghị. Trong một số trường hợp, đến gặp nhà sản xuất nguồn hàng là cách tốt nhất để giảm tổng chi phí vật tư PTN. Trong trường hợp ngân sách là một nhân tố lớn hơn sự thuận tiện, việc loại bỏ các đại lý bán lẻ và đàm phán trực tiếp với nhà sản xuất có thể đem lại lợi nhuận lớn hơn, đặc biệt là khi bên mua rất khôn ngoan với cách mua sắm đặc biệt. Tinh giản hàng loạt các món hàng thường dự trữ cũng sẽ giúp trong việc đàm phán một hợp đồng chi tiết hơn và ít lãng phí hơn với nhà cung cấp.

Việc dễ dàng chi so với ngân sách, chi tiêu tuyến tính thực sự là lý tưởng, nhưng đây không phải là thực tế trong PTN. Thiết lập những nhu yếu phẩm cần thiết và tỉ lệ tiêu tốn của vật tư PTN và chi phí nhân sự sẽ giúp xác định được chi phí cố định lớn nhất; nhưng một mô hình tài chính khác phải được sử dụng để mua sắm trang thiết bị. Mua thiết bị bền, đa năng, thiết kế tốt, và được hỗ trợ nhiều bởi bên bán và/hoặc nhà sản xuất hiểu biết sẽ tiết kiệm thời gian, tiền bạc, và cả sự khó chịu cho tất cả thành viên trong PTN. Lập ngân sách sẽ luôn là vấn đề đau đầu khi quản lý một PTN, nhưng phát triển một chiến lược sáng tạo thông qua quản lý hợp tác và mua sắm có tính toán có thể giúp PTN phát triển và thành công.

Theo www.labmanager.com

Page 26: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

26

Phòng tránh các hiểm họa phổ biến nhất tại phòng thử nghiệmCũng quan trọng như văn hóa an toàn, thực hành công việc và kiểm soát kỹ thuật là giải pháp kỹ thuật phù hợp trong việc ngăn ngừa các tai nạn tiềm ẩn trong phòng thử nghiệm, việc mặc trang thiết bị bảo hộ cá nhân thích hợp (PPE) cũng là một thành phần thiết yếu. Bằng việc sử dụng trang thiết bị bảo hộ phù hợp, chấn thương nặng thường có thể tránh được hoặc giảm thiểu.

Trong phòng thí nghiệm, trang bị bảo hộ có thể bao gồm kính an toàn hoặc kính bảo

hộ, mặt nạ thở, găng tay, áo khoác phòng thí nghiệm và các trang bị khác. Để xác định trang thiết bị PPE thích hợp cho công việc, các chuyên gia an toàn phải đánh giá các mối nguy hiểm có trong phòng thí nghiệm cụ thể của họ, theo yêu cầu của OSHA 1910.132 - tiêu chuẩn về yêu cầu thiết bị bảo vệ nói chung. Tiêu chuẩn này hướng dẫn chủ lao

Mark SanerPR Technical ManagerWorkrite Uniform Co.www.workrite.com

Page 27: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY27

động cung cấp và chi trả cho trang thiết bị bảo hộ cho các tình huống mà "các hiểm họa từ các quá trình hoặc môi trường, hiểm họa hóa chất, nguy cơ phóng xạ, hoặc các chất kích ứng cơ học gặp phải theo một cách có khả năng gây tổn thương hoặc suy giảm".

Để nâng cao nhận thức và đề nghị các biện pháp bảo hộ an toàn lao động, sau đây là “5 hiểm họa” thường gặp nhất tại phòng thử nghiệm.1. Cháy/Nổ

Tiêu chuẩn OSHA 1910.1450 viết: "Lửa là mối nguy hiểm thường gặp nhất và ng-hiêm trọng nhất phải đối mặt trong một phòng thí nghiệm điển hình". Tiêu chuẩn tiếp tục nhận định, "cần mặc quần áo và trang thiết bị bảo hộ cá nhân phù hợp".

Trong phòng thí nghiệm, tất cả các hóa chất và chất lỏng nên được coi như mạnh ngang bằng xăng. Hơi có thể đi rất xa và có thể bốc cháy nếu gặp được một ngọn lửa hoặc tia lửa. Hãy chắc chắn có một bình chữa cháy ngay gần đó và đảm bảo mỗi cá nhân trong phòng thí nghiệm biết vị trí chính xác của nó để ngăn chặn đám cháy lan rộng. Theo tiêu chuẩn, nên luôn luôn mặc trang bị bảo hộ thích hợp, ví dụ như một áo khoác phòng thí nghiệm chống cháy (FR), chẳng hạn như làm bằng polyester hoặc polycotton, quần áo chống cháy có thể làm giảm đáng kể chấn thương và cung cấp cho người mặc thời gian thoát hiểm vừa đủ để tránh một nguy cơ tai nạn.2. Bỏng nhiệt và hóa chất

Nhiều hóa chất có thể gây cháy và/hoặc ăn mòn da và mắt. Nên thận trọng với các hóa chất để ngăn chặn sự cố tràn và bắn. Ngoài ra, phải luôn mặc trang bị bảo hộ phù hợp, chẳng hạn như áo khoác phòng thí nghiệm có cả tính chất chống cháy và bảo vệ khỏi chất hóa học bắn phải (CP).3. Da hấp thụ các chất hóa học

Ngăn hóa chất tiếp xúc trực tiếp với da là điều cơ bản trong an toàn phòng thí nghiệm. Ngay cả đối với các hóa chất không ăn mòn, tiếp xúc có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề

khác nếu hấp thụ qua da. Hãy nhớ rằng găng tay có thể bị thấm qua bởi một số chất phản ứng hóa học nào đó - thậm chí không có sự hư hỏng rõ ràng - vì vậy hãy chắc chắn cẩn thận đổi bất cứ đôi găng tay nào đã tiếp xúc với hóa chất như vậy sang một đôi mới ngay lập tức. Không bao giờ chạm lên mặt hay mắt của bạn cho đến khi tay bạn đã được rửa sạch sẽ khỏi tất cả các hóa chất và dung môi. Để phòng ngừa thêm, hãy mặc một chiếc áo khoác phòng thí nghiệm chống hóa chất bắn phải để ngăn chặn nhiều hóa chất ngấm qua vải vào người mặc.4. Hít phải khói độc

Nhiều dung môi phổ biến vô cùng độc hại nếu hít phải, và việc hít phải hóa chất nhất định có thể gây kích ứng nghiêm trọng niêm mạc trong mắt, mũi, họng và phổi. Để giảm bớt rủi ro này, không bao giờ để bay hơi dung môi quá mức. Nhân viên phòng thí nghiệm cũng nên duy trì một khoảng cách an toàn khi đổ hóa chất và chắc chắn có biện pháp thông gió thích hợp trong phòng thí nghiệm.5. Cắt vào da

Vết cắt trên da là loại hình tai nạn phòng thử nghiệm thường gặp nhất. Trong trường hợp nghiêm trọng, dây thần kinh và gân có thể bị tổn hại. Thông thường, những chấn thương này xảy ra do cố gắng buộc một nút chai hay nút cao su vào một mảnh ống kính, nhiệt kế hoặc bình chưng cất. Để ngăn chặn tai nạn này xảy ra, nhân viên nên tạo một lỗ đúng kích cỡ, bôi trơn nút chai hoặc nút chặn, và sử dụng áp lực nhẹ nhàng với xoay vòng trên phần kính.

Để đối phó với các mối nguy hiểm trong phòng thí nghiệm, điều quan trọng là phải nhận thức, thực hiện đánh giá rủi ro, giữ khu vực làm việc sạch sẽ, tiến hành kiểm tra thường xuyên và đảm bảo rằng các nhân viên luôn mặc trang bị bảo hộ thích hợp.

Theo www.digital.laboratoryequipment.com

Page 28: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

28

Phương pháp

làm mát mới cho các siêu

máy tínhHiện nay ở nhiều nơi trên thế giới đang thử nghiệm việc tái chế nước xám và thu hồi nước mưa để làm mát các trung tâm dữ liệu lớn nhằm tiết kiệm hàng triệu gallon nước ngầm. Nhà nghiên cứu David J. Martinez thuộc Sandia National Laboratories cho biết câu trả lời đơn giản đó là sử dụng chất lỏng làm lạnh.

Theo các nhà nghiên cứu, hệ thống làm mát thử

nghiệm dành cho các trung tâm dữ liệu siêu máy tính sẽ tiết kiệm hàng trăm triệu lít nước nếu được áp dụng rộng rãi.

Dựa trên nguyên tắc đó, Martinez - phụ trách kỹ thuật về các dịch vụ máy tính tại

Page 29: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY29

Sandia đang thiết kế và giám sát hệ thống làm mát dự kiến rằng, mỗi năm New Mexico có thể sẽ tiết kiệm từ 4-5 tỉ gallon nước nếu hệ thống được lắp đặt vào năm tới tại trung tâm máy tính Sandia, và nếu phương pháp được áp dụng rộng rãi có thể tiết kiệm hàng trăm triệu gallon nước mỗi năm. Hiện nay phương pháp này đang được thử nghiệm tại Phòng thí nghiệm Năng lượng tái tạo Quốc gia ở Colorado, và hy vọng mỗi năm sẽ tiết kiệm được một triệu gallon nước.

Hệ thống này được xây dựng bởi Johnson Controls và được gọi là Hệ thống làm mát lai Thermosyphon, nó làm mát giống như chiếc tủ lạnh mà không cần trả phí và nhu cầu năng lượng chỉ bằng một chiếc máy nén.

Hiện nay, nhiều trung tâm dữ liệu sử dụng nước để loại bỏ nhiệt thải từ các máy chủ. Nước ấm được dẫn tới các tháp làm mát, tại đó nước chuyển thành sương và bốc hơi vào khí quyển. Cũng giống như mồ hôi bốc hơi khỏi cơ thể, quá trình loại bỏ nhiệt khỏi nước trong ống và quay trở lại làm mát thiết bị. Tuy nhiên, cách này cần phải bổ sung một lượng lớn nước đã bị bốc hơi để tiếp tục quá trình. Do đó, cần sử dụng rất nhiều nước để làm bay hơi lượng nhiệt ngày càng tăng tại các trung tâm dữ liệu trên toàn thế giới. Phương pháp

thử nghiệm sử dụng chất lỏng làm lạnh thay cho nước để mang nhiệt đi. Hệ thống hoạt động như sau: nước được làm nóng bởi trung tâm máy tính được bơm vào hệ thống khép kín gần với một hệ thống khác có chứa chất làm lạnh. Chất lỏng làm lạnh sẽ hấp thụ nhiệt từ nước, và có thể lưu thông để làm mát một lần nữa. Khi đó chất làm mát bị hâm nóng sẽ bay hơi trong hệ thống khép kín để trao đổi nhiệt với khí quyển. Khi nhiệt được loại bỏ khỏi chất làm mát, nó ngưng tụ và chìm xuống để hấp thụ nhiều nhiệt hơn, và chu kỳ lại lặp đi lặp lại.

Martinez cho biết, sẽ không xảy ra có tình trạng mất nước giống như trong tháp làm mát do quá trình bốc hơi, không cần thêm các hóa chất như chất diệt khuẩn và các chi phí khác. Hệ thống này không sử dụng máy nén khí, nên không phải chịu chi phí cao hơn. Hệ thống sử dụng chất làm lạnh thay đổi theo giai đoạn và yêu cầu không khí bên ngoài mát mẻ, đủ để hấp thụ nhiệt.

Tại New Mexico, vào mùa xuân, mùa thu và mùa đông có thể tiết kiệm được hàng triệu gallon nước. Vào mùa hè, nhiệt độ môi trường xung quanh cao, có thể sử dụng một tháp làm mát hoặc một số phương pháp bay hơi. Tuy nhiên, nếu các máy chủ hoạt động với công suất cao hơn, có thể làm tăng nhiệt độ ở mức có thể chấp nhận thì việc

sử dụng các tháp làm mát cũng ít hơn.

Đối với làm mát không khí một cách gián tiếp tại một cơ sở, việc thiết kế đưa đúng lượng nước làm mát cần thiết đến đúng vị trí, cho phép nhiệt độ hoạt động tăng lên và các chu trình làm mát được sử dụng nhiều hơn trong năm. Tại Sandia, quá trình làm mát ở nhiệt độ 45 độ F. Hiện nay quá trình này ở nhiệt độ 65 đến 78 độ F. Không khí trong hệ thống được lưu thông tốt hơn thay vì vòng xoắn bị bỏ qua khi vận hành trong không gian mở. Nhóm nghiên cứu đã làm việc với các kiến trúc sư và các nhà sản xuất siêu máy tính về việc làm mát các thiết bị để họ thiết kế những thiết bị điều chỉnh luồng khí hiệu quả hơn. Ngoài ra, các quạt nhạy cảm với nhiệt độ phòng cũng được lắp đặt, vì vậy quá trình làm mát sẽ chậm lại khi mức độ sử dụng máy tính giảm và nó sẽ hoạt động nhanh hơn khi nhu cầu sử dụng máy tính tăng lên. Đây là giải pháp kinh tế và hiệu quả hơn giúp lưu thông không khí ở trung tâm dữ liệu.

Martinez cho biết: "Nâng cao hiệu quả bên trong hệ thống sẽ làm tăng hiệu quả của toàn bộ hệ thống. Giải pháp này tiết kiệm được nước bằng cách cho phép sử dụng hệ thống làm mát tiết kiệm hơn nhiều".

Theo Sciencedaily

Page 30: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

TT Mã số Tên chương trình Chỉ tiêuLoại

chương trình

Thời gian dự kiến

Phí tham dự

CHƯƠNG TRÌNH QUÝ 4Lĩnh vực Hóa học

1 VPT.1.5.16.98 Phân tích các anion trong mẫu nước

N_NO3-, N_NO2

-, Cl-, SO42-, F-,

P_PO43- Định lượng Tháng 10 2.500.000

2 VPT.1.5.16.99 Phân tích ô nhiễm thuốc BVTV trong nước Endosulfan, Aldrin, Lindane Định lượng Tháng 10 2.500.000

3 VPT.1.5.16.100Phân tích dư lượng thuốc

BVTV trong nước và nước thải

Chlorpyrifos, Diazinon Định lượng Tháng 10 2.000.000

4 VPT.1.5.16.101Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

phân bón

Ẩm, N tổng số, P2O5 tổng số, P2O5 hữu hiệu, K2O hữu hiệu,

S tổng sốĐịnh lượng Tháng 10 2.500.000

5 VPT.1.5.16.102Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

phân hữu cơ

N tổng, P hữu hiệu, Acid Humic,Acid Fulvic, TO, Ẩm Định lượng Tháng 10 2.500.000

6 VPT.1.5.16.103Phân tích kháng sinh

họ Fluroquinolone trong thủy sản

Ciprofloxacin Định lượng Tháng 10 2.000.000

7 VPT.1.5.16.104 Phân tích Cloramphenicol trong thủy sản Chloramphenicol Định lượng Tháng 10 2.000.000

8 VPT.1.5.16.105 Phân tích các chỉ tiêu trong thịt và thực phẩm Đạm, Ẩm, Béo, P, Tro tổng, NaCl Định lượng Tháng 10 2.500.000

9 VPT.1.5.16.106 Phân tích kim loại trong thịt và thực phẩm

Ca, Na, K, Fe, Cu, Zn, Cd, Pb, Hg, As Định lượng Tháng 10 2.500.000

10 VPT.1.5.16.107 Phân tích kim loại nặng trong đất Cd, Pb, Hg, As, Fe, Cu, Zn Định lượng Tháng 10 2.000.000

11 VPT.1.5.16.109Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

nước uống

Màu sắc, Độ đục, pH, Độ kiềm tổng, Độ cứng tổng, Độ cứng Ca,

TDS, TSSĐịnh lượng Tháng 11 2.500.000

12 VPT.1.5.16.110Phân tích các chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm

nước thải

COD, BOD5, N_NH4+, Tổng N, Tổng P, TSS Định lượng Tháng 11 2.500.000

13 VPT.1.5.16.111 Phân tích chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm nước thải

N_NH4+, Tổng N, Tổng P,

N_NO3-, P_PO4

3-, Tổng dầu mỡ Định lượng Tháng 11 2.500.000

14 VPT.1.5.16.112Phân tích Malachite

green, leuco Malachite Green trong thủy sản

Malachite green, Leuco Malachite Green Định lượng Tháng 11 2.500.000

15 VPT.1.5.16.113 Phân tích Trifluraline trong thủy sản Trifluraline Định lượng Tháng 11 2.000.000

16 VPT.1.5.16.114 Phân tích chất tăng trọng trong thịt Salbutaomol, Clenbuterol Định lượng Tháng 11 2.500.000

17 VPT.1.5.16.115Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng

nước chấm

N tổng,N_axit amin, N_formol,NaCl, N_NH4

+ Định lượng Tháng 11 2.500.000

18 VPT.1.5.16.116 Phân tích kim loại trong nước mắm As, Cd, Pb, Hg Định lượng Tháng 11 2.500.000

Page 31: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

Lĩnh vực Sinh học

37 VPT.1.6.16.108Định tính Salmonella và Listeria monocytogene

trong sữa

Salmonella, Listeria monocytogene Định tính Tháng 10 3.000.000

38 VPT.1.6.16.120 Phân tích Vi sinh trong nước uống

Coliforms tổng số, E.coli tổng số, Pseudomonas aeruginosa,

Sulfite reducing clostridia, Fecal streptococci

Định lượng Tháng 11 3.000.000

19 VPT.1.5.16.117Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng ngũ cốc

Đạm, Đường, Tinh bột, Tro tổng số Định lượng Tháng 11 2.500.000

20 VPT.1.5.16.118Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng mì ăn liền

Đạm, Béo, Xơ, Muối, Carbohydrate, Tro tổng số, Tro

không tan, Chỉ số peroxitĐịnh lượng Tháng 11 2.500.000

21 VPT.1.5.16.119 Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đất

Độ ẩm, K tổng số, K dễ tiêu, P tổng số, P dễ tiêu, N tổng số,

Tổng Carbon hữu cơĐịnh lượng Tháng 11 2.500.000

22 VPT.1.5.16.121 Phân tích kim loại trong nước và nước thải Fe, Cu, Zn, Mn, Cr, Ni, Na, K Định lượng Tháng 12 2.500.000

23 VPT.1.5.16.122 Phân tích kim loại nặng trong nước và nước thải Cd, Pb, Hg, As Định lượng Tháng 12 2.500.000

24 VPT.1.5.16.123Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng thức ăn chăn nuôi

Ẩm, Đạm, Béo, Tro tổng số, Xơ, P Định lượng Tháng 12 2.500.000

25 VPT.1.5.16.124 Phân tích Nitrofuran trong thủy sản Nitrofuran (AOZ, AMOZ) Định lượng Tháng 12 2.000.000

26 VPT.1.5.16.125 Phân tích Ethoxyquine trong thủy sản Ethoxyquine Định lượng Tháng 12 2.000.000

27 VPT.1.5.16.126Phân tích các chỉ tiêu

đánh giá chất lượng sữa bột

Ẩm, Béo, Đạm, Đường, Ca, P, Tạp chất Định lượng Tháng 12 2.500.000

28 VPT.1.5.16.127 Phân tích Ochratoxin trong cà phê rang Ochratoxin Định lượng Tháng 12 1.500.000

29 VPT.2.5.16.15 Chỉ tiêu chất lượng trong sữa bột

Hàm lượng protein, Hàm lượng chất béo, Hàm lượng tro tổng số, Độ ẩm, Độ axit, Photpho, Canxi

Định lượng Tháng 12 4.500.000

30 VPT.2.5.16.56Chất kích thích tăng trưởng trong thức ăn

chăn nuôi

Ractopamine, Salbutamol, Clebuterol Định lượng Tháng 12 5.000.000

31 VPT.2.5.16.86 Kim loại trong mẫu thức ăn bổ sung

Sắt, Đồng, Mangan, Kẽm, Selen, Chì, Cadimi, Asen, Thủy ngân Định lượng Tháng 12 5.000.000

32 VPT.2.5.16.87 Vitamin trong mẫu thức ăn bổ sung

Vitamin A, Vitamin B1, Vitamin B2, Vitamin B3, Vitamin B12,

Vitamin C, Vitamin D, Vitamin E, Vitamin PP

Định lượng Tháng 12 5.000.000

33 VPT.2.5.16.88 Kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi Chloramphenicol Định lượng Tháng 12 5.000.000

34 VPT.2.5.16.91 Kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi Furazolidone Định lượng Tháng 12 5.000.000

35 VPT.2.5.16.92 Kim loại trong phân bónAsen, Cadimi, Chì, Thủy ngân, Magie, Sắt, Canxi, Kẽm, Đồng,

Mangan, SilicĐịnh lượng Tháng 12 5.000.000

Page 32: Maket mới - Hội các Phòng thử nghiệm Việt Nam ...trình bày bởi các nhà khoa học, các diễn giả có uy tín. Chủ đề của các buổi hội nghị, hội

39 VPT.1.6.16.128 Phân tích Vi sinh trong nước thải Coliforms, E.coli, Fecal Coliforms Định lượng Tháng 12 3.000.000

40 VPT.2.6.16.07* Vi sinh trong sản phẩm động vật E.coli Định lượng 10 3.000.000

41 VPT.2.6.16.08* Vi sinh trong sản phẩm động vật Salmonella Định tính 10 3.000.000

42 VPT.2.6.16.12 Vi sinh trong sản phẩm động vật Staphylococcus aureus Định lượng 10 3.000.000

43 VPT.2.6.16.19 Vi sinh vật trong thủy sản V.parahaemoliticus Định tính 10 3.000.000

44 VPT.2.6.16.21* Vi sinh trong sữa bột E.coli Định lượng 10 3.000.000

45 VPT.2.6.16.23 Vi sinh vật trong sữa bột Staphylococcus aureus Định tính 10 3.000.000

46 VPT.2.6.16.36 Vi sinh vật trong thực phẩm (ngũ cốc) Bacillus cereus giả định Định lượng 10 3.000.000

47 VPT.2.6.16.04*

Xét nghiệm bệnh cúm gia cầm trong sản phẩm động vật bằng phương

pháp PCR

H5N1 Định lượng/ Định tính 11 5.500.000

48 VPT.2.6.16.18 Vi sinh vật trong thủy sản V.cholera Định tính 11 3.000.000

49 VPT.2.6.16.06 Vi sinh trong phân bónVi sinh vật cố định Nitơ, Vi sinh

vật phân giải Phospho, Vi sinh vật Phân giải Xenlulo

Định lượng 12 4.000.000

50 VPT.2.6.16.22* Vi sinh trong sữa bột Salmonella Định tính 12 3.000.000

51 VPT.2.6.16.31 Vi sinh vật trong thực phẩm Staphylococci dương tính với coagulase Định tính 12 3.000.000

52 VPT.2.6.16.32 Vi sinh vật trong sữa Enterobacteriaceae Định lượng (CFU & MPN) 12 3.000.000

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

SỐ 23 - THÁNG 12/2016

Lĩnh vực Vật liệu Xây dựng

53 VPT.2.8.16.01 Tính chất cơ lý mẫu xi măng

Khối lượng riêng, Độ bền, Thời gian đông kết, Độ mịn Định lượng 11 4.000.000

54 VPT.2.8.16.07 Thử nghiệm thành thạo mẫu thép thanh vằn

Giới hạn chảy, Giới hạn bền, Độ giãn dài Định lượng 11 4.000.000

55 VPT.2.8.16.02 Thử nghiệm thành thạo mẫu xi măng pooclang

Hàm lượng mất khi nung, Hàm lượng SiO2; Hàm lượng Fe2O3, Hàm lượng Al2O3, Hàm lượng CaO,Hàm lượng MgO, Hàm lượng Na2O,Hàm lượng K2O,Hàm lượng CaO,Hàm

lượng cặn không tan

Định lượng 12 4.000.000

56 VPT.2.8.16.05 Thử nghiệm thành thạo mẫu gạch chịu lửa

Cường độ nén, Độ hút nước, Khối lượng riêng, Khối lượng thể tích Định lượng 12 4.000.000

57 VPT.2.8.16.08 Thành phần hóa học mẫu thép hợp kim thấp

Hàm lượng cacbon, Hàm lượng mangan, Hàm lượng Silic, Hàm lượng Phospho, Hàm lượng lưu huỳnh, Hàm lượng Crom, Hàm

lượng Niken, Hàm lượng Molipden, Hàm lượng cặn không tan

Định lượng 12 5.000.000