lỜi khai thỊ cỦa tĂng

222
1 NAMO SHAKYAMUNI BUDDHA

Upload: httpwwwfacebookcomdjthanhbinh-httpwwwfacebookcomdjthanhbinh

Post on 17-Jan-2015

117 views

Category:

Education


10 download

DESCRIPTION

LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG

TRANSCRIPT

1

NAMO

SHAKYAMUNI

BUDDHA

2

Tôi thường nói: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải

tìm nơi lòng kính sợ. Có một phần cung kính, tiêu một phần

tội nghiệp, thêm một phần phúc tuệ. Có mười phần cung

kính, tiêu mười phần tội nghiệp, thêm mười phần phúc tuệ.

Nếu không mảy may cung kính, thì sự tụng kinh niệm Phật

tuy chẳng phải hoàn toàn không lợi ích, nhưng do tội khinh

lờn ấy, trước phải bị nhiều kiếp đọa vào tam đồ. Đến khi tội

hết, mới nương nơi nhân lành ấy, lại được nghe pháp tu

hành, ăn chay niệm Phật, cầu về Tây Phương để thoát

đường sinh tử.

Nếu hiện đời nầy hết lòng thành kính, thì hiện đời có thể

nương sức từ của Phật đới nghiệp vãng sinh. Và một phen

được vãng sanh, thì vượt phàm vào Thánh, thoát khỏi luân

hồi, hằng xa lìa các sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui.

B. Con người tu phúc và tạo nghiệp, tóm tại chẳng qua ba

nghiệp sáu căn. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm

căn trước thuộc về thân nghiệp, một ý căn sau thuộc về

tâm, tức là ý nghiệp. Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu và ý.

Thân nghiệp có ba: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Ba việc này

tội rất nặng, người học Phật phải để tâm gìn giữ. Về phần

3

sát sinh: phàm là động vật, tất đều biết tham sống sợ chết,

ta không nên giết hại, nếu giết mà ăn thịt thì sẽ kết thành

nghiệp sát, đời sau phải bị nó giết lại. Vậy người Phật tử

nên ăn chay và yêu tiếc sinh mạng. Về phần trộm cắp:

chẳng luận vật lớn nhỏ của người khác, ta không nên lấy

khi người không cho. Trộm vật nhỏ thì mất nhân cách mình,

trộm vật lớn thì hại thân người. Trộm đồ vật người xem

dường như có lợi, nhưng thật ra chính mình bị giảm phúc

thọ, có khi mất tính mạng, so với của trộm được, sự tổn

thất là càng nhiều hơn bội phần. Nếu dùng mưu kế lấy,

hoặc dùng thế lực ép bức lấy, hay thầm lén mà lấy, đều

thuộc về trộm cắp. Người trộm cắp, tất sinh con lưu đãng,

trái lại kẻ liêm khiết thì sinh con hiền lương, đây là nhân

quả nhất định theo lý thiên nhiên vậy.

Về phần tà dâm, nếu chẳng phải thê thiếp của mình, thì

không luận kẻ sang hèn, đều không được cùng nhau làm

điều tà dâm. Tà dâm là việc trái ngược nhân luân, chính là

đem thân người mà làm hạnh súc sanh, hiện đời đã như thế,

kiếp sau khó có khỏi đọa vào súc loại. Người đời cho việc

con gái lang chạ là điều sỉ hổ, nhưng đâu nghĩ rằng con trai

tà dâm nào có khác chi? Kẻ tà dâm tất sinh con không trinh

khiết, có ai lại muốn cho con cái mình không trinh khiết ư?

Vậy cũng bởi chính mình trước đã làm việc đó, con cái thụ

bẩm khí chất của mình, quyết khó được trinh chính. Lại nữa,

4

chẳng những không được dâm theo ngoại sắc, mà vợ

chồng chung chạ với nhau cũng phải có hạn chế; nếu

chẳng hạn chế thì con người dễ bị suy tàn hoặc phải chết

non. Kẻ tham việc phòng thất rất khó sinh con, dù sinh

cũng khó nên người, và dù cho được nên người cũng là kẻ

yếu đuối không thành tựu việc chi. Tình đời cho hành dâm

là vui, đâu biết vui trong giây phút, khổ đến trọn đời, có khi

còn di hại cho con cháu nữa! Ba điều trên đây không làm

thì thân nghiệp lành, làm thì thân nghiệp ác.

Khẩu nghiệp có bốn: nói dối, nói trau truốt, nói đôi chiều,

nói hung ác. Nói dối là nói lời không thành thật, lời đã

không thành thật thì tâm cũng không thành thật, do đó

nhân cách bị tổn thất rất nhiều. Nói trau chuốt là nói lời

phù phiếm hoa tình, khiến cho người sinh ra tâm niệm dâm

đãng. Những thanh thiếu niên còn non dại nghe lời ấy lâu,

nếu không tà dâm cho mất nhân cách, thì cũng làm việc thủ

dâm để hại sắc thân. Kẻ nói lời có hại cho người như thế,

dù không tà dâm cũng bị đọa vào đại địa ngục, từ trong địa

ngục ra, hoặc làm giống cái trong loài súc vật. Nếu sinh

trong loài người, sẽ làm hạng người gái lầu xanh, ban sơ

còn tuổi trẻ sắc đẹp cũng chưa mấy khổ, lần lần nọc độc

phong tình phát ra, sự khổ sở sẽ không cùng. Đã có miệng

khéo nói năng, sao chẳng vì người chỉ đường hạnh phúc,

lại thốt chi những lời tà vạy trau chuốt để gây họa cho

5

chính mình và kẻ khác ư? Nói đôi chiều là nói khiêu khích

thọc mách sự phải quấy của đôi bên, nhỏ thì lầm lạc người,

lớn thì như nhà hại nước. Nói hung ác, là nói lời ác độc như

gươm đao, khiến cho người khó nhẫn chịu sinh ra buồn khổ.

Bốn điều này không làm thì khẩu nghiệp lành, làm thì khẩu

nghiệp ác.

Ý nghiệp có ba: tham dục, giận hờn và ngu si. Tham dục là

đối với tiền tài, ruộng đất, đồ vật, v.v... đều muốn cho về

nơi mình, dù được nhiều vẫn còn thấy ít. Giận hờn là không

luận mình phải hay quấy, nếu có ai không thuận theo bổn

ý, liền phát sinh giận dữ, dù kẻ khác dùng lẽ phải khuyên

bảo cũng chẳng nghe theo. Ngu si là chẳng phải tuyệt

nhiên không biết việc chi. Chính như kẻ đọc hết sách thế

gian, văn từ qua mắt liền thông thuộc, miệng mở thành thi

bài, mà không tin lý nhân quả ba đời cùng sự luân hồi sáu

nẻo, cho rằng người chết thì mất, không có đời sau v.v...

đều gọi là ngu si. Những sự hiểu biết như thế làm cho hư

nước hại dân còn quá hơn nạn nước lụt, thú dữ. Ba điều này

không làm thì ý nghiệp lành, làm thì ý nghiệp ác. Người ba

nghiệp thân khẩu ý đều lành, khi tụng kinh niệm Phật,

công đức lớn hơn kẻ ba nghiệp ác gấp trăm ngàn lần.

C. Người học Phật cần phải giữ lòng tốt, nói lời tốt và làm

việc tốt.

6

Giữ lòng tốt là không nên khởi những tâm niệm ác, trái

chính lý, có hại cho mình và người. Nếu tâm niệm ấy thoạt

nổi lên, phải lập tức sinh lòng hổ thẹn sám hối, khiến cho

nó liền tiêu diệt. Lại phải giữ gìn những tâm niệm: hiếu, đễ,

trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ có lợi vật lợi người. Đối với điều

lành, sức mình có thể làm được việc chi, nên thiết thật mà

làm; nếu không làm được thì cũng nên thường tâm niệm.

Nói lời tốt là nói lời có ích cho người và vật, chớ không phải

nói xu phụ cốt để cho người vui vẻ vừa lòng là lời tốt đâu.

Đây chính là nói những lời răn dạy con cái, khuyên người

làm lành, lánh dữ, giữ trọn nhân luân, gắng tu phúc tuệ.

Làm việc tốt là phải thật hành việc hiếu thảo cha mẹ, cung

kính sư trưởng, hòa thuận anh em, khuyến hóa mọi người.

Và với những việc lễ sám, niệm Phật, tụng kinh, thân tâm

phải chí thành cung kính.

- Không nói dối là bài chú hữu hiệu nhất!

- Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu,

7

không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là

Chánh Pháp đang trụ thế vậy!

- Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu cho quý

vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý vị cũng chỉ phí

thời gian trong Đạo Phật và tạo nghiệp chướng với mỗi

bữa ăn mình thọ dụng.

- "Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa." Nhưng người

ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm

"mật pháp" để tu hành.

- Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,

Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,

Thành thật chân chánh, bị chế diễu,

Gian ngoa xảo trá, được tán dương.

Thế giới Ngũ Trựơc híếm thanh tịnh,

Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,

Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:

Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!

8

Người xuất gia dù ở bất cứ đâu cũng đều phải

giữ vững Giới Luật. Khi chưa dứt được sanh tử,

chưa đoạn được tâm dâm dục, thì chúng ta

không lúc nào được biếng nhác, buông lung,

phóng túng. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng :

"Một ngày đã hết, mạng cũng giảm dần,

Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì ?

Ðại chúng ! Hãy siêng tinh tấn, như cứu đầu cháy,

Nên nhớ vô thường, chớ mặc buông lung !"

Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng giây từng

phút. Hãy nhớ rằng :

Một tấc thời gian : một tấc vàng,

Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.

Thời gian quý báu như thế, cho nên chúng ta không được

lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành, phải tinh

tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành tựu. Phàm là

kẻ dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện

thị phi, chẳng có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm

gián đoạn sự tu hành. Về điểm này. tôi hy vọng mọi người

hãy chú ý.

9

HT.Thích Trí Tịnh nói về ý nghĩa và giá trị của tụng kinh

(PGVN)

Mỗi khi tụng kinh, mình nhớ lại những lời dạy của Phật thì

đó là mình niệm Pháp. Khoảng thời gian mình tụng kinh thì

những niệm phiền não, những niệm xấu, niệm ác bị đè

phục nên không khởi lên; do bị đè phục nên nó yếu đi

Ngoài việc trở thành một dịch giả vĩ đại của kinh điển Đại

thừa, đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đến nay đã có trên

70 năm tụng kinh. Lời khai thị của Hòa thượng dưới đây có

ý nghĩa rất lớn cho người đọc tụng và thọ trì kinh để mở

mang tâm trí và thâm nhập kinh tạng.

10

Bạch Sư ông, tại Việt Nam, có người dùng từ đọc kinh, có

người dùng từ tụng kinh. Ý nghĩa của hai thuật ngữ này thế

nào?

Các huynh đệ nên hiểu “tụng” là học thuộc lòng, những

khi lên chánh điện mặc áo tràng đắp y, thắp nhang lễ Phật,

có chuông có mõ, mở kinh ra rồi cho đó là tụng. Kỳ thật đó

không phải là tụng kinh mà chỉ là đọc kinh. Tụng kinh là

11

phải đọc thuộc lòng kinh. Nên nhớ kỹ điều đó!Khi đã thuộc

lòng rồi, mình tụng mới có lợi ích lớn. Không những lúc mặc

áo tràng đắp y lên điện Phật, mà trong những khi đi đứng

nằm ngồi, thỉnh thoảng những lời kinh do mình thuộc nó

sẽ khởi lên trong tâm.

Như người đời thuộc những bài ca mà họ ưa thích, thì

những khi đi đứng nằm ngồi họ thường khe khẽ cất lên vài

câu, hay trong tâm cũng thường nghĩ nhớ đến những bài ca

bài hát đó. Cũng vậy, nếu mình thường niệm Phật thì nó

khởi lên câu niệm Phật. Còn nếu mình thuộc lòng kinh thì

những lời kinh thường hay khởi lên thì ngay lúc đó là mình

đã tụng kinh rồi.

Sư ông thường dạy rằng lời Phật thật quý báu. Vậy, người

tụng kinh do tôn kính lời Phật sẽ đạt được lợi ích gì?

Mỗi khi tụng kinh, mình nhớ lại những lời dạy của Phật thì

đó là mình niệm Pháp. Khoảng thời gian mình tụng kinh thì

những niệm phiền não, những niệm xấu, niệm ác bị đè

phục nên không khởi lên; do bị đè phục nên nó yếu đi, nó

đã yếu thì lúc có khởi lên cũng khởi yếu. Đây là nói phục,

còn đoạn là khác nữa. Nhưng nhờ cái phục nên nó yếu. Vì

12

yếu nên tội chướng nghiệp chướng cũng yếu dần. Khi bên

tội chướng, nghiệp chướng yếu thì thiện căn công đức sẽ

khởi dậy. Hai cái đó như hai cái giá cân. Nếu bên này nặng

thì bên kia bị nhẹ. Nếu bên này nhẹ thì bên kia nặng, lẽ

đương nhiên là như vậy. Nói cách khác, ngoài phước báu do

tôn kính Phật pháp, người tụng kinh có thể làm tiêu trừ

nghiệp chướng.

Trong đời tu của Sư ông, hẳn nhờ tụng kinh Sư ông ngộ ra

nhiều điều. Xin Sư ông đơn cử một ví dụ về cái ngộ nhờ

tụng kinh?

Nay tôi sẽ nói rõ điều này cho các huynhđệ nghe, vì thông

thường ít ai nghĩ đến. Nhân khi tụng kinh Kim Cang tôi đã

khám phá ra một điều mà từ lâu suy nghĩ không biết vì sao

trong kinh nói một vị Tu đà hoàn dứt trừ được kiến phiền

não, còn tư phiền não thì chậm nhất là trong bảy đời dứt

hết thành A la hán. Vị Tu đà hoàn không có đời thứ tám, chỉ

đến đời thứ bảy là cuối cùng. Trong kinh nói rõ ràng, chứ

không nói việc tu hành gì cả.

13

Tôi thường suy nghĩ việc đó hoài, nghiệm mãi không ra.

Cho đến khi tụng kinh Kim Cang đến đoạn Phật hỏi ngài

Tu Bồ Đề: Vị Tu đà hoàn có tự nói mình là Tu đà hoàn không?

Ngài Tu Bồ Đề đáp là không. Bởi vì Tu đà hoàn gọi là nhập

lưu. Nói nhập mà không chỗ nhập. Không nhập vào sắc,

thanh, hương, vị, xúc, pháp, do đó gọi là Tu đà hoàn. Ngay

đó tôi hoát nhiên phá giải được cái điều mà tốn không biết

bao nhiêu thời gian suy nghĩ vềlý do tại sao mà vị Tu đà

hoàn không có đời thứ tám, chỉ nội trong bảy đời dứt tư

hoặc chứng A la hán.

14

Nghĩa là vị Tu đà hoàn sau khi kiến hoặc đã dứt rồi thì tâm

của vị ấy không còn bị chi phối bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc,

pháp. Do không bị chi phối nên tư hoặc không có dịp phát

khởi. Vì không phát khởi nên lần lần nó mòn yếu đi. Do

mòn yếu nên nó dứt lần lần. Dứt một phần thì thành Tư đà

hàm. Dứt thêm phần nữa thì thành A na hàm. Dứt thêm nữa

cho đến dứt sạch hết thì thành A la hán. Nó dứt từng phần,

dứt lần lần.

Cũng thế, hằng ngày mình có niệm Phật tụng kinh, thì lúc

đó phiền não, nghiệp chướng nó không khởi. Nó không

khởi trong khoảng thời gian mình có niệm Phật, tụng kinh,

chứ không phải nó luôn luôn không khởi. Nhưng có như

vậy thì nó yếu lần đi. Nó yếu lầnđi thì cái lành cái tốt phát

triển lên thì gọi là mình có tu. Phiền não nghiệp chướng bị

dằn bị phục thì thiện căn công đức phát sanh, cho đến lúc

nào đó sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không còn chi phối

nội tâm mình là thành công. Mà cũng không biết đến lúc

nào, bởi vì chủng tử phàm phu trong vòng sanh tử luân hồi

của mình nó nặng nề lắm, phiền não nghiệp chướng nặng

nề lắm. Nhưng nếu hằng ngày mình có phương pháp để

15

dằn để phục, thì nó sẽ yếu lần lần. Bằng không nếu bị sắc,

thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối thì mỗi ngày chẳng

những nó không yếu mà lại mạnh thêm, thì mình càng chui

đầu sâu vào vòng sanh tử luân hồi. Lẽ tất nhiên hai ngả rõ

ràng như vậy. Trên đây chỉ là một ví dụ. Nếu các huynhđệ

mỗi ngày đều tụng kinh thì sẽ tỏ rõ nhiều điều bổ ích. Do

đó, tôi khuyên các huynh đệ siêng năng tụng kinh để thâm

nhập trí Phật.

Tại Việt Nam, khi tụng kinh, các chùa còn niệm Phật. Xin Sư

ông khai thị về phương pháp niệm Phật trong tụng kinh?

Tôi nói rõ để huynh đệ biếtrằng tụng kinh và niệm Phật

đúng cách là thật tu. Khi niệm Phật thì không duyên việc

khác. Không duyên theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chỉ

duyên nơi âm thanh câu niệm Phật. Huân tập mỗi ngày

một mạnh lên nơi hạnh niệm Phật thì những niệm sắc,

thanh, hương, vị, xúc, pháp khác, mỗi ngày một bớt đi, vì

trong khoảng thời gian đó nó không khởi được thì nó phải

giảm bớt. Mà nếu thời gian niệm Phật càng ngày càng

nhiều thì tất nhiên mỗi ngày mình lần lần tiến lên. Cũng

16

như người tu thiền giữ tâm đừng cho khởi vọng, tất nhiên là

làm sao cho nội tâm đừng bị chi phối bởi sắc, thanh, hương,

vị, xúc, pháp. Nó không chi phối thì phiền não nghiệp

chướng không do đâu mà sanh khởi. Phiền não nghiệp

chướng không khởi được thì lần lần nhẹ đi, cho đến lúc

nào đó cũng như cái màn che bị rách, bị tan thì ánh sáng từ

trong nội tâm phát ra, gọi là tỏ ngộ. Hai đường tu dù Thiền

dù Tịnh giống nhau, chứ không chi khác.

Vậy, theo Sư ông tu thật chất là không để tâm dính vào sáu

trần cảnh?

Đúng vậy! Hằng ngày mình bị sắc, thanh, hương, vị, xúc,

pháp chi phối là không có tu. Lúc nào sắc, thanh, hương, vị,

xúc, pháp nó không chi phối nội tâm của mình được, thì

chính lúc đó là lúc mình tu. Nên nhớ kỹ như vậy! Chứ không

phải đợi đến lúc mặc áo, đắp y lên chánh điện. Mặc áo

đắp y lên chánh điện, lễ Phật mà bị cảnh ngoài sắc, thanh,

hương, vị, xúc, pháp nó chi phối thì chưa phải là có tu.

17

Pháp của Phật dạy nói cho rõ là tu tâm. Còn nơi thân và

khẩu chỉ trợ giúp cho nội tâm mà thôi. Nói vậy không phải

phế bỏ những thời khóa tu tập, ban đầu sức tu còn yếu thì

phải nương vào thời khóa, quan trọng ở chỗ là ngoài thời

khóa cũng phải tu. Do đó niệm Phật không luận là lúc đi,

đứng, nằm, ngồi gì, nếu có niệm luôn thì có tu, mà bị gián

đoạn là không có tu. Đó là điểm chánh yếu. Tất cả các

pháp môn khác cũng đều như vậy.

Bạch Sư ông, để thâm nhập kinh tạng khi tụng kinh, người

tụng phải làm gì để đạt được?

Để được như thế, khi tụng kinh phải thuộc lòng kinh.

Chẳng những các thời khóa trong chùa phải thuộc mà các

kinh mình thích cũng phải thuộc. Như tôi cũng vậy, thích

Phổ Môn phải thuộc Phổ Môn, thích Kim Cang phải thuộc

Kim Cang, thích phẩm Phổ Hiền phải thuộc phẩm Phổ

Hiền, cho đến thích Pháp Hoa phải thuộc Pháp Hoa. Lúc

trước mỗi ngày giữ đều đặn như vậy, riêng kinh Pháp Hoa

thì mỗi ngày tụng một biến hoặc hai ngày một biến. Ai làm

được như thế thì thâm nhập kinh tạng không khó.

18

Bạch Sư ông, người bận rộn với nhiều công việc không có

thời gian để tụng nhiều thì làm thế nào có thể hiểu kinh

được?

Người bận rộn có thể chọn các phần kinh quan trọng để

tụng. Tôi đơn cử cách sắp thời gian của tôi trong quá

khứ.Năm 1963 khởi lên việc tranh đấu với ông Diệm và

năm 1964 thành lập GHPGVN Thống Nhất, tôi phải bận

nhiều công việc nên mỗi ngày không có thời gian tụng kinh

Pháp Hoa. Ai cũng biết tụng kinh phải tụng luôn nếu không

lại quên nên không thể tiếp tục việc tụng kinh Pháp Hoa,

mà chỉ giữ lại bài kệ phẩm Phương Tiện làm thời khóa cho

đến bây giờ. Bài kệ phẩm Phương Tiện cũng nhiều lắm,

gần 500 câu chứ đâu phải ít. Khi có thểthu xếp thời gian thì

ta tụng cố định và đều đặn hơn thì mới hiểu kinh thấu đáo

được.

Hiện nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là:

sáng sớm thức dậy tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa

Nghiêm, kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện của kinh

Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh niệm

19

Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng

thầm thì trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi

nên chỉ thực hiện thời khóa bằng cách tụng thầm mà thôi,

chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như

vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình là phải có sự

liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không.

Tụng kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng

sanh Cực Lạc ra, còn có tác dụng hàng phục những phiền

não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức

được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy,

tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần

trên con đường Hiền Thánh giải thoát.

Bạch Sư ông, khi hiểu kinh rồi thì lộ trình tu bao lâu mới đạt

kết quả?

Ngay đức Phật cũng phải trải qua vi trần số kiếp tu tập chứ

không phải con số ức muôn mà mình thường tính toán.

Phải lấy số vi trần để tính số kiếp tu hành. Rõ ràng như vậy,

chính đức Phật nói chứ không ai khác. Như Phẩm Đề Bà

Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa, ngài Trí Tích Bồ tát nói: “Tôi

xem trong cõi Tam thiên Đại thiên nhẫn đến không có chỗ

20

nhỏ bằng hột cải mà không phải là chỗ của Bồ tát (chỉ cho

Phật Thích Ca) bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy

sau mới thành đạo Bồ đề”. Chứ không phải thường

thường như chúng ta, làm được chút ít công đức gì đó mà

đòi thành ông Hiền ông Thánh liền đâu. Trong kinh dạy rất

đầy đủ, nhất là kinh Đại Bửu Tích nói về công hạnh của các

vị Bồ tát rõ ràng lắm. Mọi người nên cố gắng tìm đọc. Tôi

bây giờ phải nhờ người khác đọc để biết được công hạnh

của các ngài quá khứ tu thế nào, hiện tại thành tựu thế nào.

Nói chung, việc dứt trừ nghiệp chướng phiền não để ra

khỏi sanh tử luân hồi không phải là chuyện dễ. Nhưng mình

có tu tập đều đặn là mình có bước đi. Mà đã có bước đi là

có lúc đến. Có bước một bước là có giải thoát một bước,

chứ không phải đợi đến đích rồi mới giải thoát. Thường

nghĩ như vậy lại thấy vui. Bởi vì biết mình mỗi ngày có bước

là mỗi ngày gần thêm bờ giải thoát. Nên nhớ kỹ là vi trần

số kiếp chứ không phải ít đâu. Không phải nghe nói: “Tức

tâm tức Phật” rồi cho rằng thấy tâm là thành Phật. Vì nếu

như vậy là mình hơn Phật Thích Ca xa lắm rồi.

21

Thích Hoằng Trí

Tags:

Truy cập phiên bản mobile tại địa chỉ:

http://m.phatgiao.org.vn/

Ý kiến phản hồi

congaicuaphat

[email protected]

trả lời câu hỏi của bạn thuyphuongoanh

chào ban thuyphuongoanh nếu ngày nào bạn cũng đọc

kinh sám hối vào buổi sáng thì thật tôt, nhưng đã là một

người thuần thành vậy thì tại sao bạn lại không quy y Tam

bảo. Bởi Tam bảo có công đức rất lớn ở đời. Bạn đi chùa

tụng kinh mà không quy y cũng giống như bạn là người dự

vào lớp học dự thính mà thôi, mặc dù bạn cũng học đầy đủ,

nhưng không được thi, cũng như tốt nghiệp vì không có

22

đầy đủ điều kiện. Cũng vậy nếu không quy y Tam bảo thì

bạn chưa được gọi là Phật tử, không thể đi tiếp trên con

đường tu tập. Hơn nữa, bạn không quy y Tam bảo chứng

tỏ lòng tin của bạn đối với Phật, Pháp, Tăng không lớn

mạnh. Nếu tụng pháp mà không có niềm tin với pháp thì

việc hành trì liên tục không có ý nghĩa và lợi ích lớn. Vì thế

mình khuyên bạn hãy quy y Tam Bảo. Chúc bạn tinh tấn.

Phạm Thị Phượng

[email protected]

Xin dược chia sẻ

Tôi chưa quy y Tam Bảo nhưng hàng ngày vẫn đọc nghi

thức sám hối vào buổi sáng sớm có được không

Các Bậc Đại Sư Trả Lời Và Khai Thị Về Pháp Môn Niệm Phật

Ở cõi này, kẻ thượng thọ không quá trăm tuổi, tính lại lúc

thơ ấu dại khờ, khi già cả suy yếu, lúc đau bịnh, khi ngủ

nghỉ, bao nhiêu đó đã chiếm hơn phân nửa đời người;

phương chi bậc Bồ Tát còn mê khi cách ấm, hàng Thanh

Văn còn muội lúc xuất thai, tấc bóng ngàn vàng mười phân

23

hao hết chín, mà tu hành chưa lên ngôi bất thối, thật đáng

kinh lòng! Người ở Tây Phương thọ mạng không lường,

một khi gởi chất nơi hoa sen thì không còn sự khổ sanh già

bịnh chết, tu hành tiếp tục mãi cho đến khi chứng quả Bồ

Ðề

Đạo Xước Đại Sư

* Đại sư bảo: "Người tu tịnh nghiệp khi ngồi nằm không

được xây lưng về hướng Tây, cũng không được hướng về

Tây khạc nhổ cùng đại tiểu tiện. Bởi đã quy y về liên bang,

nên tôn sùng miền kim địa, nếu lòng không trân trọng, đâu

phải là chí nguyện cầu sanh?"

* Hỏi: Niệm hồng danh đức A Di Đà, có thể tiêu trừ nghiệp

vô minh tăm tối và được vãng sanh; sao có người xưng

niệm mà vô minh vẫn còn, lại không mãn nguyện, là duyên

cớ gì?

Đáp:

Do không như thật tu hành, cùng với danh nghĩa không

hợp nhau, ấy bởi chẳng biết Như Lai là thân thật tướng, là

thân vị Phật. Lại có ba thứ không tương ứng, nên không

được vãng sanh.

1. Lòng tin không thuần, khi còn khi mất.

2. Lòng tin không duy nhất thường đổi thay không quyết

định.

24

3. Lòng tin không tương tục, hằng bị tạp niệm làm cho gián

đoạn.

Cho nên khi niệm Phật phải nhiếp tâm đừng cho tán loạn,

nếu niệm được tương tục là tín tâm, là nhất tâm, là thuần

tâm. Niệm như vậy mà không vãnh sanh, ấy là vô lý.

Từ Giác Đại Sư

* Đại sư nói:

- Người mới học đạo, nhẫn lực chưa thuần, nên phải mượn

tịnh duyên để giúp phần tăng tiến. Tại sao thế?

- Bởi ở cõi Ta Bà, Phật Thích Ca đã nhập diệt, đức Di Lặc

chưa giáng sanh; miền Cực Lạc thì từ phụ A Di Đà hiện

đương thuyết pháp. Với đức Quán Âm, Thế Chí, người cõi

Ta Bà luống khát ngưỡng danh lành, nếu về Tịnh Độ thì bậc

thượng thiện nhân như hai ngài ấy, đều là bạn tốt.

- Ta Bà, các loài ma nổi dậy, làm não loạn người tu; trái lại

nơi cõi Cực Lạc trong ánh đại quang minh, đâu còn ma sự?

- Ta Bà dễ bị tiếng tà quầy loạn, sắc đẹp mê tâm; miền Cực

Lạc thì chim nước rừng cây đều tuyên dương diệu pháp,

chánh báo thanh tịnh, đâu có nữ nhơn! Thế thì duyên tu

hành thuận tiện đầy đủ, không đâu hơn cõi Tây Phương,

tiếc cho kẻ nông cạn kém tin, trở lại nghi ngờ hủy báng!

Xin đưa ra đây ít điều để luận:

25

+ Ở cõi này, cảnh nhà thế ồn ào dễ khiến cho người chán,

nên có nhiều kẻ mến cảnh chùa vắng lạnh, bỏ tục xuất gia.

Nhưng nỗi khổ ở Ta Bà đâu phải chỉ có sự phiền phức của

nhà đời, sự vui ở Cực Lạc mầu nhiệm không cùng, đâu phải

chỉ như cảnh chùa thanh tịnh? Biết xuất gia là tốt mà không

chịu cầu vãng sanh đó là điều lầm thứ nhất.

+ Ở cõi này, người tu hành khó nhọc, trải muôn dặm

đường xa đi tìm bậc trí thức để phát minh việc lớn giải

quyết sự sống chết luân hồi? Cõi Cực Lạc, đức Di Đà Thế

Tôn nghiệp sắc tâm đều thắng, nguyện lực rộng sâu, một

khi diễn tiếng viên âm, người nghe đều tỏ ngộ. Nguyện

tham phỏng bậc trí thức mà không muốn thấy Phật là điều

lầm thứ hai. Người tu ở cõi này thấy chùa lớn chúng đông

đều ưa thích muốn ở, những chỗ chúng ít lại không muốn

nương theo. Cõi Cực Lạc, hàng Nhất Sanh Bổ Xứ rất nhiều,

các bậc người thượng thiện đều hội lại một chỗ. Muốn gần

gũi chùa lớn mà không mến hải chúng thanh tịnh ở Tây

Phương, là điều lầm thứ ba.

+ Ở cõi này, kẻ thượng thọ không quá trăm tuổi, tính lại lúc

thơ ấu dại khờ, khi già cả suy yếu, lúc đau bịnh, khi ngủ

nghỉ, bao nhiêu đó đã chiếm hơn phân nửa đời người;

phương chi bậc Bồ Tát còn mê khi cách ấm, hàng Thanh

Văn còn muội lúc xuất thai, tấc bóng ngàn vàng mười phân

hao hết chín, mà tu hành chưa lên ngôi bất thối, thật đáng

kinh lòng! Người ở Tây Phương thọ mạng không lường,

26

một khi gởi chất nơi hoa sen thì không còn sự khổ sanh già

bịnh chết, tu hành tiếp tục mãi cho đến khi chứng quả Bồ

Ðề. Cam chịu luân chuyển ở cảnh Ta Bà ngắn khổ, mà quên

miền Cực Lạc trường xuân, là điều lầm thứ tư.

+ Ở cõi này, như bậc đã chứng quả vô sanh, sống trong dục

trần mà không mê nhiễm mới có thể vận lòng từ bi, trí

phương tiện, cứu độ muôn loài. Còn kẻ trí huệ cạn, mới

tương ưng với đôi chút pháp lành, bèn cho mình là bậc cao

siêu tự tại, chê bai Tịnh Độ, tham luyến Ta Bà, không biết tự

lượng, mong sánh với bậc đại quyền Bồ Tát, để rồi ngày kia

phải bị luân hồi đọa lạc, đó là điều lầm thứ năm. Trong

kinh nói: "Phải nên phát nguyện cầu sanh về cõi kia", mà có

kẻ chẳng tin lời Phật, khinh rẻ sự cầu sanh, há chẳng phải

là mê ư? Than ôi! Người không biết lo xa, ắt có sự buồn gần,

một khi mất thân này, muốn kiếp đành ôm hận, chừng ấy

hồi sao cho kịp!

Hữu Nghiêm Đại Sư

*Đại sư nói:

- Đức Thế Tôn thương xót, dùng nhiều phương tiện để tiếp

độ loài hữu tình. Cho nên người tu hành được vãng sanh

cũng có nhiều cách: hoặc nhờ thiền định, tán thiện hoặc do

Phật lực, Pháp lực, hoặc có người chỉ tu phước rồi mượn

nguyện lực để hồi hướng, hoặc có kẻ lúc lâm chung quá sợ

hãi niệm Phật mà được cứu độ. Những loại như thế số có

đến ngàn muôn, chỉ nương nhờ một phương pháp, tất

27

được vãng sanh. Về định thiện như kẻ tu môn diệu quán,

tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Về Tán Thiện như trong kinh

Vô Lượng Thọ nói: “Dùng mười niệm, niệm Phật cũng

được vãng sanh”. Về Phật Lực là do đại bi nguyện lực của

đức A Di Đà nhiếp thọ, những chúng sanh niệm Phật nương

nhờ đây mà được vãng sanh. Ví như kẻ dung phu nương

theo vua Chuyển Luân, trong một ngày đêm có thể đi khắp

bốn châu thiên hạ, đó không phải là do sức mình, chính

nhờ năng lực của Luân Vương. Về pháp lực là như Phật bảo

Liên Hoa Minh Vương Bồ Tát dùng thần chú quán đảnh gia

trì trong đất cát rải nơi thây hoặc mộ phần người chết,

khiến cho vong giả tuy bị đọa nơi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc

Sanh, nhưng nương nhờ chân ngôn này được về Cực Lạc.

Về sự tu phước hồi hướng như người giữ tâm từ bi không

giết hại, thọ trì các giới, đọc tụng Mật chú, các kinh điển

Ðại Thừa, cùng tu những phước lành, hồi hướng trang

nghiêm thành ra nhân Tịnh Độ. Về việc khi lâm chung sợ hãi

cầu cứu, là người lúc sắp chết, tướng hỏa xa hiện, xưng

hiệu Phật, lửa dữ hóa ra thành gió mát, như trường hợp của

Hùng Tuấn, Trương Thiện Hòa được vãng sanh vậy.

Thiên Như Đại Sư

* Có kẻ hỏi:

- Phương tu viên quán, pháp niệm duy tâm, dường như là

hành môn của bậc thượng căn. Còn mười nguyện trong

kinh Hoa Nghiêm, mười tâm trong kinh Bảo Tích, cũng là

28

công dụng của bậc đại trí. Trên đường tu, nếu căn cơ cùng

giáo pháp không hợp, e cho công hạnh khó thành. Nay tôi

xét lại căn tánh mình, chỉ nên chuyên trì danh hiệu, thêm lễ

Phật sám hối mà thôi, chẳng hay tôn ý thế nào?

Đại sư đáp:

- Tốt lắm! Người biết tự lượng đó! Lời ngươi nói hợp với

thuyết Chuyên Tu Vô Gián của ngài Thiện Đạo. Vô Gián Tu

là thân chuyên lễ Phật A Di Đà không lễ tạp, miệng chuyên

xưng hiệu A Di Đà không xưng tạp, ý chuyên tưởng Phật A

Di Đà không tưởng tạp.

* Niệm Phật, hoặc duyên tưởng 32 tướng, buộc tâm cho

định khi mắt mở nhắm đều thấy Phật. Hoặc có kẻ chuyên

xưng danh hiệu, giữ không tán loạn, trong hiện đời cũng

được thấy. Trong hai điều trên đây, muốn được thấy Phật,

phần nhiều pháp xưng danh hiệu là hơn. Pháp xưng danh,

cần phải buộc lòng đừng cho tán loạn, mỗi niệm nối nhau

duyên theo hiệu Phật, từng câu, từng chữ rõ ràng. Lại xưng

danh hiệu Phật, chớ quản nhiều ít, một tâm một ý, niệm

niệm nối nhau. Như thế mới diệt được tội nặng sanh tử

trong tám mươi ức kiếp, nếu chẳng vậy, rất khó tiêu tội.

* Có kẻ hỏi:

- Một đời tàn ác, khi lâm chung dùng mười niệm cũng được

vãng sanh. Vậy thì bây giờ tôi buông theo duyên đời đợi lúc

sắp chết sẽ niệm Phật, có được chăng?

29

* Đại sư đáp:

- Khổ thay! Lời này đã hại chính mình, lại hại cho hàng tăng,

tục, nam, nữ trong đời nữa! Phải biết kẻ phàm phu nghịch

ác khi lâm chung niệm Phật được là do kiếp trước có căn

lành, khiến cho gặp bậc thiện tri thức chỉ bảo mà được sự

may mắn trong muôn một ấy. Luận Quần Nghi nói:

“Có mười hạng khi lâm chung không niệm Phật được:

1) Khó gặp bạn lành, nên không người khuyên niệm.

2) Bịnh khổ buộc thân, không rỗi rảnh để niệm Phật.

3) Trúng phong cứng họng, nói không ra tiếng.

4) Cuồng loạn mất sự sáng suốt.

5)Thình lình gặp tai nạn nước lửa

6) Thoạt bị hùm sói ăn thịt.

7) Bị bạn ác phá hoại lòng tin.

8) Hôn mê mà chết.

9)Thoạt chết giữa quân trận.

10) Từ nơi chỗ cao té xuống”.

Những việc trên đây ở trong đời thường có, đó là do túc

nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm, bỗng nhiên xảy ra,

không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập,

trong mười việc trên đây, thì làm sao niệm Phật được? Giả

sử không bị những ác duyên như trên, thọ bịnh sơ sài mà

qua đời, e cho lâm chung, khi thân tứ đại sắp ly tán, bị sự

đau đớn dường như dao cắt, như con cua bị rớt vào nước

30

sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoàng ấy,

đâu có rỗi rảnh để niệm Phật? Giả sử không bị bịnh mạng

chung, lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham

sống sợ chết, tấm lòng rối loạn không yên. Thêm vào đó,

việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ con

khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm

sao niệm Phật được? Giả sử lúc chưa chết, thì lại bịnh khổ,

đau đớn rên la, tìm thuốc tìm thầy, lo việc khẩn cầu cúng

tế, tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được? Giả sử trước

khi chưa bịnh, thì lại bi sự già khổ, suy lờ, lụm khụm, buồn

rầu, ảo não, e cho lo những việc cái thân già yếu chưa xong,

đâu rỗi để niệm Phật. Giả sử trước khi chưa già, còn đang

trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt,

việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy thế này

tính thế khác, nghiệp thức mơ màng, cũng không niệm

Phật được! Giả sử kẻ được an nhàn thong thả, có chí tu

hành, nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng,

thân tuy được yên, tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ

muôn duyên, khi gặp việc đến, không thể tự chủ, theo

cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được! Ngươi thử

xét lại, đừng nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã,

nếu có một việc đeo đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật

được thay, huống chi là đợi đến lâm chung? Vậy muốn cho

khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh, thì ngay bây giờ

phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận qua

31

ngày, không còn tham luyến, được rỗi rảnh lúc nào thì niệm

Phật lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ.

Như thế thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không

điều chi chướng ngại.

Diệu Hiệp Đại Sư

*Đại sư dạy:

- Hành giả phát tâm niệm Phật, trước khi vào đạo tràng

phải xét nghĩ ta với chúng sanh thường ở trong biển khổ

sanh tử, nếu không độ cho tất cả đều được thoát ly, sao

gọi là chánh hạnh? Nhân đó, xem người oán kẻ thân đều

bình đẳng, khởi lòng đại bi, như thế quyết không bị tệ ma,

ác đảng làm cho thối chuyển. Sau khi đã lập đại tâm, nên

nghiên cứu những chánh hạnh niệm Phật của người xưa,

lập đạo tràng đúng pháp, khiến cho hết sức trang nghiêm

thanh tịnh. Kế đó, phân ngày đêm sáu thời, đem tâm chí

thành gieo mình quy mạng ngôi Tam bảo, tỏ bày hết tội lỗi,

cầu xin sám hối. Lại quỳ trước Phật, tay cầm hương hoa

cúng dường, vận tâm quán tưởng khắp pháp giới, xét mình

cùng tất cả chúng sanh từ trước đến nay ở trong vòng mê

khổ, rơi lệ cảm thương, cầu Phật gia bị, nguyện độ muôn

loài. Như thế, dùng hết sức mình kham khổ tu hành, nếu

nghiệp chướng sâu, chưa được cảm cách, phải lấy cái chết

làm kỳ hạn, không được giây phút nào nghĩ đến sự vui ngũ

dục của thế gian. Như kẻ căn cơ non kém, không làm được

thắng hạnh trên đây thì cũng ở trong tịnh thất, giữ cho

32

thân tâm nghiêm sạch, tùy ý tu hành. Hoặc định thời lễ

Phật sám hối, nguyện tinh tấn không thối chuyển, hoặc

chuyên niệm hoặc kiêm trì chú, tụng kinh. Nếu được thấy

tướng hảo, thì biết mình được diệt tội, có duyên lành.

* Hỏi: Dụng tâm thế nào mà được không tán loạn?

Đáp:

Nên vận dụng thân miệng mà niệm, không kể đến tánh

hay định, chỉ làm sao cho câu Phật không hở dứt, tự sẽ được

nhất tâm, hoặc cũng có thể gọi chính đó là “nhất tâm”.

Nhưng phải niệm mãi không thôi, trạng như mẹ lạc con

thơ, rồng mất trái châu bổn mạng, thì không còn lo chi tán

loạn, không cầu nhất tâm mà tự được nhất tâm. Chẳng

nên cưỡng ép cho tâm quy nhất, vì dù cưỡng ép cũng

không thể được, thật ra chỉ do người tu siêng săng hay

biếng trễ mà thôi! Nghĩ thương cho người đời nay, phần

nhiều tu hành mà không hiệu nghiệm, ấy cũng bởi lòng tin

cạn cợt, nhân hạnh không chơn. Lắm kẻ chưa từng lập

hạnh, đã muốn cho người biết trước, trong thì tự phụ,

ngoài lại khoe khoang, tỏ ý có chỗ sở đắc để được moi

người cung kính. Thậm chí có kẻ nói dối là mình trông thấy

tịnh cảnh, hoặc thấy được cảnh giới nhỏ, hay những tướng

tốt trong giấc chiêm bao. Thật ra chính họ cũng không

phân biệt cảnh đó là chơn hay vọng, nhưng cũng cứ khoe

khoang bừa ra. Những kẻ tâm hạnh kém ấy, tất là bị ma

33

làm mê hoặc, nguyện hạnh lần lần lui sụt, trôi theo dòng

sanh tử luân hồi. Như thế, há chẳng nên dè dặt ư?

* Người tu hành, đối với một tội dù nhỏ, cũng phải đem

lòng kiêng sợ, sự hiểu nên theo hàng Ðại thừa, việc làm

phải bắt chước kẻ sơ học.

* Người tu hành nếu bị túc nghiệp ngăn che, khiến cho

nghiệp hạnh lui kém, phải nhất tâm trì tụng chú Vãng Sanh.

Chú này gọi là môn đà la ni nhổ trừ tất cả cội gốc nghiệp

chướng, tụng một biến, tiêu diệt hết tội ngũ nghịch thập ác

trong thân, tụng mười muôn biến, được không quên mất

Bồ Ðề tâm, tụng hai mươi muôn biến, liền cảm sanh mầm

mộng Bồ Ðề, tụng ba mươi muôn biến, Phật A Di Đà

thường trụ trên đảnh, quyết định sanh về Tịnh Độ.

Không Cốc Đại Sư

* Đại Sư nói:

- Một môn Niệm Phật là đường lối tu hành thẳng tắt. Hành

giả phải xét rõ thân này giả dối, việc thế như chiêm bao,

duy cõi Tịnh là đáng nương về, câu niệm Phật là có thể nhờ

cậy. Rồi tùy phận mà niệm hoặc mau hoặc chậm, hoặc

tiếng thấp, tiếng cao, đều không câu ngại. Chỉ nên để cho

thân tâm nhàn đạm, thầm nhớ chẳng quên, khi huỡn, gấp,

động, tịnh, vẫn một niệm không khác. Niệm như thế, ngày

kia xúc cảnh chạm duyên, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Chừng ấy

mới biết cõi Tịch Quang Tịnh Độ không rời nơi đây, Phật A

34

Di Đà chẳng ngoài tâm mình. Nếu lập tâm muốn cầu tỏ

ngộ thì trở lại thành chướng ngại, nên chỉ lấy lòng tin làm

căn bản, chẳng tùy theo tạp niệm mà thôi. Hành trì như

thế, dù không tỏ ngộ, khi chết cũng được sanh về Tây

Phương, theo giai cấp mà tiến tu, không còn lo thối chuyển.

* Kinh Đại Tập nói: "Niệm Phật lớn tiếng có mười công đức:

1) Đánh tan hôn trầm mê ngủ. 2) Thiên ma kinh sợ. 3) Tiếng

vang khắp mười phương. 4) Ba đường ác được dứt khổ. 5)

Tiếng bên ngoài không xâm nhập. 6) Niệm tâm không tán

loạn. 7) Mạnh mẽ tinh tấn. 8) Chư Phật vui mừng. 9) Tam

muội hiện tiền. 10) Vãng sanh về Tịnh Độ”.

Tông Bổn Đại Sư

* Đại Sư nói:

- Niệm Phật không luận là hạng người nào, nếu nghĩ mình

thuở bình sanh có nhiều điều ác mà tự bỏ không chịu tu

hành là sai lầm! Niệm Phật không quản là thời gian nào,

nếu cho rằng mình đã già sắp chết mà không chịu tu hành,

là sai lầm! Niệm Phật bất câu là phương pháp nào, nếu lập

ra một quy củ nhất định, bắt mọi người đều tuân theo, khi

ến cho sự tu hành của họ bị chướng ngại, là sai lầm. Nên bi

ết pháp môn Tịnh Đ ộ chẳng lựa trí, ngu, sang, hèn, nghèo,

giàu, chẳng phân nam, nữ, già, trẻ, tă ng, tục, chẳng luận kẻ

huân tập đ ã lâu hay mới tu hành, đ ều có thể niệm Phật.

Hoặc niệm lớn, niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, đ ảnh

lễ mà niệm, tham cứu mà niệm, nhiếp tâm mà niệm, quán

35

tưởng mà niệm, lần chuỗi mà niệm, giữ hiệu Phật liên tục

không dứt như dòng nước chảy mà niệm, cho đ ến đ i

niệm, đ ứng niệm, ngồi niệm, nằm niệm, ngàn muôn niệm

đ ều về một niệm. Niệm theo cách nào cũ ng đ ược, chỉ

cần yếu là giữ cho lâu bền đ ừng lui sụt, và phát lòng tin

quyết đ ịnh, cầu sanh Tây Phương. Nếu quả hành trì đ ược

như thế, cần chi tìm bậc trí thức hỏi đ ường?

Cho nên tu Tịnh Đ ộ có nhiều phương pháp, kết quả ra sao

là do chỗ xu hướng của tâm nguyện. Có thể gọi: "Đ i thuyền

cốt bởi người cầm lái. Hiểu đ ược đ ồng về cõi Tịnh Liên!"

Tử Bá Đ ại Sư

* Đ ại Sư nói:

- Người niệm Phật, tâm chân thiết cùng không, có thể xét

nghiệm trong lúc vui mừng hay phiền não, că n cứ nơi đ ây,

tâm chơn giả hiện ra rõ ràng, có thể suy ra mà biết đ ược.

Đ ại đ ể như người chân tâm niệm Phật, dù ở cảnh phiền

não hay vui mừng, cũ ng giữ câu niệm Phật không gián đ

oạn, cho nên những cảnh ấy không làm lay đ ộng họ đ ược.

Hai đ iều trên đ ã không làm lay đ ộng, thì đ ối với cảnh

sống chết, họ vẫn tự nhiên không sợ hãi. Người niệm Phật

đ ời nay, hơi có chút chi mừng giận, thì gác bỏ câu niệm

Phật ra sau. Như thế làm sao mà niệm Phật đ ược linh

nghiệm? Nên y theo lời ta mà niệm Phật, dù ở cảnh thương

ghét cũ ng đ ừng quên một câu A Di Đ à. Nếu giữ đ úng

như thế mà lúc hiện tiền không đ ược sự công dụng tự tại,

36

khi lâm chung không đ ược vãng sanh Tây Phương, thì

cuống lưỡi của ta phải chịu tan nát. Như làm không đ úng

lời ta, thì niệm Phật không linh nghiệm lỗi ở nơi ngươi, với

ta không can hệ gì!

* Lại hỏi kẻ học giả là Hải Châu rằng: "Ngươi niệm Phật có

gián đ oạn chă ng?" Thưa: "Bình thường tôi đ ều niệm đ

ược, duy có lúc nhắm mắt ngủ là quên". Đ ại sư tác sắc, quở:

"Lúc nhắm mắt ngủ liền quên niệm Phật như thế là một

muôn nă m cũ ng không thành hiệu! Từ đ ây về sau, trong

lúc ngủ nghỉ chiêm bao, ngươi phải giữ cho câu niệm Phật

không gián đ oạn, mới có phần thoát khổ. Nếu trong giấc

ngủ thoạt có quên niệm, khi thức dậy phải thống khóc, đ ế

n trước bàn Phật cúi đ ầu sám hối, rồi quỳ niệm Phật một

ngàn hay một muôn câu, dùng hết sức mình thì thôi. Làm

như thế vài ba phen, dù trong lúc ngủ mê, câu niệm Phật

vẫn hiện ra không gián đ oạn!”

Triệt Lưu Đ ại Sư

* Đ ại Sư nói:

- Phép trì danh quý ở một lòng không loạn, không xen tạp,

chẳng phải niệm mau niệm nhiều là hơn. Chỉ nên trì niệm

nhặt niệm nối nhau, không mau không chậm, khiến cho

hiệu Phật rành rẽ rõ ràng nơi tâm. Khi ă n cơm mặc áo, đ i

đ ứng nằm ngồi, giữ một câu hồng danh nối liền chẳng dứt

cũ ng như hơi thở, không tán loạn, cũ ng không hôn trầm.

37

Trì danh như thế có thể gọi là một lòng tinh tấn trên phận

sự vậy.

* Người tu tịnh nghiệp đ ời nay, trọn ngày niệm Phật, sám

hối, phát nguyện, mà cõi Tây Phương vẫn xa, sự vãng sanh

không đ ảm bảo ra sao? Ấy cũ ng bởi bề ngoài tuy lễ niệm,

phát nguyện, mà trong tâm dây tình còn buộc chặt, gốc ái

còn bám sâu đ ó! Vậy phải xem sự tình ái cõi Ta Bà là vô

thường, giả dối, đ ồng như nhai sáp, dù ở trong cảnh huỡn,

gấp, đ ộng, tịnh, vui, khổ, lo, mừng, cũ ng giữ chắc một câu

hiệu Phật như dựa vào núi Tu Di, tất cả cảnh duyên đ ều

không thể làm lay đ ộng. Nếu lúc nào tự cảm thấy mỏi mệt,

biếng trễ, nghiệp hoặc hiện lên, phải một lòng phấn khởi

mà niệm, như thanh trường kiếm chống trời, khiến cho

quân ma phiền não trốn mất không còn, như lửa đ ỏ ở lò

hồng đ ốt tan tình thức từ vô thỉ. Người nào giữ đ ược như

thế, tuy hiện đ ang ở cõi ngũ trược mà toàn thân đ ã ngồi

nơi thế giới hoa sen, đ ợi chi Phật Di Đ à đ ưa tay, đ ức

Quán Âm dìu dắt, mới tin là mình vãng sanh ư?

Lời phụ: Trong Tịnh Đ ộ thánh hiền lục, đ ề ngài Tỉnh Am là

tổ thứ mười, nhưng sau Ấn Quang Ðại Sư cùng các nhà tu

Tịnh Đ ộ thấy ngài Triệt Lưu thừa giới cao siêu, sự hoằng

hóa rất thạnh, có công đ ức lớn với Liên Tông, mới tôn ngài

lên làm tổ thứ mười, đ ổi ngài Tịnh Am thành Tổ thứ 11.

Nhân tiện xin biện minh ra đ ây đ ể giải thích mối nghi ngờ -

Liên Du (bút danh của HT. Thích Thiền Tâm)

38

Đ ạo Phái Đ ại Sư

* Đ ại Sư dạy:

- Khi niệm Phật, nơi tâm phải thường không rời hai chữ "tin,

nhớ", nơi miệng không rời hai chữ "xưng, kỉnh". Bởi muốn v

ề Tịnh Đ ộ cần phải có lòng tin, ngàn người tin thì ngàn

người sanh, muôn người tin thì muôn người về. Nếu tâm

thường tin nhớ Phật, miệng thường xưng niệm Phật một

cách thiết tha, cung kính, Phật tất cứu đ ộ. Ấy mới gọi là tin

sâu!

* Khi niệm Phật, cần phải mỗi chữ rõ ràng, mỗi câu nối nhau,

bởi không rõ ràng tức là hôn trầm, không nối nhau tức là

tán loạn. Hành trì như thế, một câu niệm Phật thường rành

rõi nơi tâm, lâu ngày tự nhiên thành tựu pháp Niệm Phật

Tam Muội.

Ngộ Khai Đ ại Sư

Đ ại Sư nói:

- Mở mắt niệm Phật, tâm dễ tán đ ộng, nên nhắm mắt mà

niệm. Trước khi niệm phải ngồi yên giây phút, buông bỏ tất

cả, đ ể lòng rỗng không, rồi từ từ tuyên hiệu Phật, vừa niệm

vừa nghe, vừa nghe vừa niệm, mật niệm nối nhau, hành trì

lâu tâm phát ra, mỗi câu tha thiết nhớ mong Tịnh Đ ộ. Có

phương pháp hệ niệm là khi không niệm Phật, đ em tâm

niệm mình buộc đ ể trên thân đ ức A Di Đ à Phật. Làm như

39

thế, tâm đ ược thanh tịnh, không lay đ ộng, chính là chỗ

dụng công đ ắc lực.

Hỏi: Tạp niệm từ đ âu sanh?

Đ áp: Tâm ta chỉ có một niệm, niệm Phật tức là nó mà tạp

niệm cũ ng là nó. Chỉ nhân ta niệm Phật chưa tinh chuyên,

nên niệm trần còn vơ vẩn thế thôi.

Hỏi: Làm sao trừ đ ược tạp niệm kia?

Đ áp: Không cần phải trừ, chỉ đ em tâm niệm hoàn toàn đ ể

trên hiệu Phật, tạp niệm liền mất.

Hỏi: Nhưng rủi tinh lực yếu kém, suy mỏi, không thể khiến

cho nó tiêu mất, mới làm sao?

Đ áp: Người đ ạo đ ức chưa thuần, nên tán loạn nhiều,

phải cố thâu nhiếp sáu că n lần lần sẽ đ ược thanh tịnh. N

ếu chưa làm đ ược như thế thì mở mắt nhìn chă m chú

tượng Phật mà niệm, tạp niệm sẽ tiêu.

Hỏi: Cách ấy cũ ng hay, nhưng sợ e lần hồi mỏi mệt, tạp

niệm lại nổi lên làm sao?

Đ áp: Trong tâm mờ tối, nên bị ngoại cảnh kéo lôi, niệm

Phật không đ ắc lực, thậm chí vọng niệm dày đ ặc không

tan. Nhưng đ ừng vội vàng nóng nảy, phải lóng đ ịnh tâm

tư, niệm chậm rãi, hiệu Phật ra từ nơi tâm, phát thành tiếng

40

nơi miệng, rồi lại vào nơi tai; tâm nghĩ , miệng niệm, tai

nghe, cứ tuần hoàn như thế, tạp niệm sẽ dứt.

Hỏi: Phương pháp này rất hay, chỉ e người că n tánh quá tối,

không làm đ ược lại phải thế nào?

Đ áp: Nên đ em sáu chữ Nam Mô A Di Đ à Phật mà niệm.

Khi niệm nghi nhớ rành rẽ tiếng thứ nhất là Nam, tiếng

thứ nhì là Mô, như thế cứ đ ủ sáu chữ, liên hoàn không dứt,

thì vọng niệm không còn chỗ xuất sanh.

Diệu Không Đ ại Sư

Đ ại Sư nói:

- Phép quán không dễ thành tựu, giới luật cũ ng chưa dễ

giữ tròn, tu phước chẳng phải hôm sớm có thể thành công,

sự diệu ngộ chẳng phải kẻ đ ộn că n có thể làm đ ược. Còn

đ ại nguyện bền chắc lại càng ít có người! Nếu không do

nơi chỗ chân thật trì danh tìm nẻo thoát ly, tất phải chìm

trong biển khổ, hằng chịu luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũ ng

khó cứu đ ộ! Huống chi, phép trì danh nhiếp cả ba că n,

không có phương tiện nào hay hơn đ ây nữa!

Người niệm Phật thì không đ ược nói chuyện tạp hoặc ngh

ĩ ngợi bông lông. Nếu lỡ có phạm, phải suy xét: ta là

người niệm Phật, không nên như thế, rồi niệm Phật vài tiế

ng đ ể tự cảnh tỉnh mà đ ánh tan đ iều ấy.

Phép "tùy thuận trì danh" là khi hôn trầm thì đ i kinh hành,

lúc tán loạn thì trở lại ngồi, hoặc đ ứng, hoặc nằm, đ ều tùy

41

tiện mà trì niệm, làm sao cho câu niệm Phật đ ừng xa lìa. Đ

ây là yếu thuật đ ể hàng phục tâm ma.

Khi gặp cảnh thuận, nghịch, khổ, vui, thị, phi, đ ắc, thất, dơ,

sạch, tất cả trường hợp, cần phải giữ một câu niệm Phật cho

chắc. Nếu không như thế, tất bị cảnh duyên, hiệu Phật liề

n gián đ oạn, há chẳng phải đ áng tiếc lắm ư?

* Khi đ ối trước tượng Phật, phải xem tượng ấy cũ ng như

Phật thiệt, mắt nhìn tâm niệm, cung kính chí thành. Lúc

không ở trước tượng cũ ng nên thành kính như lúc đ ối

trước Phật tượng. Niệm Phật như thế rất dễ cảm thông,

nghiệp ác cũ ng mau tiêu diệt.

Tất cả người khổ trong đ ời, vì thân tâm không đ ược rỗi

rảnh, nên khó tu hành. Nay ta có phần an nhàn, lại đ ược

nghe pháp môn Niệm Phật, vậy phải cố gắng nhiếp tâm,

mới không uổng ngàn vàng tấc bóng! Nếu tu hành lôi thôi

tất khó có kết quả, như thế là phụ rẫy bốn ân, luống qua

ngày tháng, một mai vô thường chợt đ ến, lấy gì mà chống

đ ối ư?

Người tu nếu vị quả khổ, tất đ ời trước hoặc đ ời nay đ ã

gây nhân xấu. Cho nên chịu một phần khổ tức là trả một

phần ác của mình. Vậy không nên oán trách trời người sao

bất công, buồn thời vận sao đ iên đ ảo, mà chỉ hổ thẹn mình

không sớm tỉnh ngộ tu hành thôi. Mỗi khi nghĩ đ ến đ iề

u ấy, vừa kinh sợ cho ác báo, vừa thương cảm cho phận

42

mình, mỗi câu niệm Phật đ ều từ nơi gan tủy phát ra, như

thế mới là chơn cảnh niệm Phật.

Trước cảnh ngang trái khổ đ au mà không bi thương thì

chẳng phải nhân tình, song nếu chỉ luống bi thương, há lại

là người rõ thông Phật tánh? Cho nên đ ã bi thương thì phải

tìm phương thoát khổ, nghĩ chước cứu đ ộ mình và tất cả

chúng sanh, như thế mới không đ ến nỗi vô ích. Nên biết

sở dĩ Phật đ ược gọi là đ ấng đ ại bi vì Ngài có đ ủ hùng

lực, trí huệ, cứu chúng sanh đ au khổ. Ta dùng bi tâm mà

niệm Phật, cầu lòng bi của Phật cứu khổ cho ta, sự trì niệm

như thế khẩn thiết biết dường bao!

Khi niệm Phật đ ã thuần thục, thì trong sáu trần chỉ có thinh

trần, nă ng dụng của sáu că n đ ều gởi nơi nhĩ că n,

không còn biết thân mình đ ang vi nhiễu, lưỡi mình đ ang

uốn đ ộng, ý có phân biệt hay không, mũ i thở ra hay vào,

mắt mình nhắm hay mở. Khi ấy sự viên thông của đ ức

Quán Âm, Thế Chí chính là một, că n tức là trần, trần tức là

că n, că n trần tức là thức, mười tám giới dung hợp thành

một giới. Khi làm xong một việc, vừa nói xong một lời, chưa

khởi tâm niệm Phật, mà một câu hồng danh cuồn cuộn tuôn

ra, đ ó là triệu chứng tam muội dễ thành tựu vậy.

Tu tịnh nghiệp, cảnh cô tịch chừng nào hay chừng nấy, tiế

ng niệm cao thấp mau chậm tùy nghi, làm sao cho hợp

thành một phiến. Nên biết khi ấy thân tuy đ ơn chiếc mà

43

tâm chẳng lẻ loi, vì tâm của chư Phật cùng đ ức Di Đ à chưa

từng tạm rời ta, ta khởi niệm thì Phật biết, mở miệng thì

Phật nghe, lo gì sự cô tịch?

Bịnh là cái bước đ ến sự chết, chết là cửa ải đ ưa đ ến

cảnh tịnh uế thánh phàm. Trong khi bịnh, phải tưởng là

mình sắp chết, chuyên niệm hiệu Phật, quyết đ ợi lúc

mạng chung, như thế sẽ có quang minh tiếp dẫn mà toại

bổn nguyện vãng sanh của mình. Nếu trong lúc ấy tạm đ

ình câu niệm Phật, thì tâm luyến ái, buồn rầu, sợ hãi, tất cả

tạp niệm đ ều hiện ra, như thế làm sao vượt qua nẻo sanh

tử? Thế nên lúc bịnh nguy phải ghi nhớ bốn chữ A Di Đ à

Phật nơi tâm chớ quên, và những kẻ xung quanh cũ ng phải

niệm bốn chữ ấy đ ể thường thường nhắc nhở người bịnh.

Nên biết tră m kiếp ngàn đ ời, siêu hay đ ọa, toàn do ở

một niệm trong khi ấy. Tại sao thế? Vì sáu nẻo luân hồi đ ề

u do một niệm làm chủ. Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật,

thì hình tuy hoại mà thần không hoại, liền nương theo đ ó

mà vãng sanh. Hỡi người tu tịnh nghiệp! Nên nhớ bốn chữ

A Di Đ à Phật nơi lòng đ ừng quên!

Hỏi: Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát là những vị Bồ Tát

nào?

Ðáp: Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát là tất cả những vị Bồ

Tát trong thế giới Cực Lạc đ ều rất thanh tịnh. Ba chữ Ðại

Hải Chúng ngụ ý các vị Bồ Tát ấy nhiều như nước biển. Sớm

44

muộn gì ta cũ ng sẽ làm bầu bạn với các vị Bồ Tát ấy, vì thế

cần phải niệm niệm lễ bái họ.

Pháp Môn Tịnh Ðộ

Trong kinh đ iển chỉ dạy rất nhiều phương pháp đ ể chúng

ta đ i vào, và những phương pháp như thế, không phải

phương pháp nào cũ ng thích hợp với chúng ta cả.

Muốn tu học, phải biết tự nhận rõ că n tánh của mình, trình

đ ộ lý giải của mình. Nói theo danh từ hiện nay là trình đ ộ

hiểu biết kèm theo khả nă ng trí nhớ. Vì hai yếu tố này có

quan hệ mật thiết với hoàn cảnh sống và việc làm của

chúng ta. Cho nên từ trong rất nhiều những phương pháp

khác nhau, chúng ta phải chọn lấy một phương pháp phù

hợp nhất với đ iều kiện của mình. Có như vậy, việc tu học

mới mong đ ạt đ ược kết quả dễ dàng. Tuy nhiên chúng ta

tự mình rất khó biết phải hạ thủ công phu từ đ âu? Làm

cách nào đ ể có thể lựa chọn phương pháp. Phật nói đ ến

tám vạn bốn ngàn pháp môn, làm sao biết đ ược pháp

môn nào là thích hợp. Một khi lựa chọn không đ úng pháp

môn, chẳng những dụng công nhiều, kết quả lại ít. Sự tu

học khó nhọc ở thế gian này cũ ng chẳng đ ược một phần

công đ ức nào. Ðiều này rất thật, chính bởi tình trạng như

vậy, cho nên đ ức Phật Thế Tôn mới vì chúng sanh thời Mạt

Pháp này chỉ bày ra một con đ ường. Ðó là pháp môn Tịnh

Ðộ, cũ ng là pháp môn của chư Phật giúp chúng ta lựa chọn.

Thế nhưng pháp môn này cũ ng có rất nhiều phương

45

pháp tu học. Tuy nhiên tất cả chư Phật đ ều nhất khẩu đ

ồng thanh chỉ dạy và giúp chúng ta lựa chọn phương pháp

“trì danh niệm Phật”.

Trong Kinh Di Ðà dạy chúng ta trì danh niệm Phật. Kinh Vô

Lượng Thọ cũ ng dạy chúng ta trì danh niệm Phật. Trong

Quán Kinh Vô Lượng Thọ nói nhiều hơn, ngoài trì danh

niệm Phật ra còn có Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng

Niệm Phật. Như vậy chúng ta thấy rõ trong ba bộ Kinh Di Ðà,

Vô Lượng Thọ, Quán Kinh, Phật đ ều khuyên chúng ta giữ

phương pháp chấp trì danh hiệu Phật. Chính vì thế chúng

tôi lựa chọn và đ ề xướng pháp này. Qua phương pháp Trì

Danh Niệm Phật, những người đ ược lợi ích rất nhiều, kết

quả vãng sanh vô số kể. Nếu theo phương pháp này, chân

chính tu hành sẽ rất gần kề với Hoa Nghiêm tam muội, lại

hội đ ủ nguyên tắc hiện thực bách thiên tam muội. Thật là

một pháp môn không thể nghĩ bàn, một pháp môn đ ơn

giản, dễ dàng, chắc chắn, mau chóng. Chỉ cần buông xả vạn

duyên, giữ chặt câu danh hiệu Phật niệm tới cùng. Một số

người niệm Phật, công phu khong đ ược đ ắc lực vì không

buông xả đ ược vạn duyên, tự tạo cho mình một chướng

ngại trầm trọng. Chướng ngại này người khác không thể

nào giúp. Chư Phật, Bồ Tát cũ ng không thể giúp. Nhất quy

ết phải do chính bản thân mình chịu buông xả, bất luận đ i

ều gì cũ ng không nên chấp giữ trong lòng, chỉ giữ một

46

câu A Di Ðà Phật trong tâm, nương theo Phật mà niệm Phật,

hiện tiền, tương lai chắc chắn thấy Phật.

Vãng Sanh Tây Phương

Trong “Vãng Sanh Truyện” chúng ta thấy có rất nhiều

người do công phu niệm Phật đ ược vãng sanh rất tự tại, bi

ết trước giờ giấc ra đ i, không một chút bệnh hoạn, gương

mặt lại tươi đ ẹp hơn lúc bình thường.

Nhiều người không hiểu lại cho rằng: “Niệm Phật mới ba

nă m đ ã vãng sanh” là phải chết, ây da! Tôi sợ lắm, thôi

thôi, đ ừng bảo tôi niệm Phật nữa.

Những người có ý nghĩ như vậy, vì họ không hiểu đ ược ý

nghĩ a, giá trị cao đ ẹp của sự vãng sanh, nên mới bị những

suy nghĩ tham sống sợ chết, luyến tiếc trần cảnh đ ể

phải chịu trôi lă n mãi trong lục đ ạo luân hồi.

Pháp môn Niệm Phật không có sinh tử, vãng sanh không

phải là chết, vãng sanh là sống mà ra đ i. Còn chết là

không thể vãng sanh. Cho nên pháp môn này còn gọi là

pháp môn “không sanh, không diệt”. Vì trong lúc vãng

sanh quý vị rất tỉnh táo và thấy Phật tới rước rồi theo Phật ra

đ i. Lúc đ ó cái xác tạm bợ của thế gian này không còn

dùng nữa. Sau khi lên đ ến cõi Tây Phương Cực Lạc quý vị

sẽ đ ược một thân tướng trang nghiêm đ ẹp đ ẽ y như đ ức

Phật A Di Ðà. Như vậy tuyệt đ ối không phải chết.

Cho nên tôi thường nói với quý vị rằng: “Pháp môn này là

pháp môn không già, không bệnh, không chết”. Quý vị

47

hãy yên tâm, dừng bước, lắng lòng nhất hướng mà chuyên

niệm. Tôi nói đ ây là sự thật, chẳng phải dối gạt quý vị đ ể

làm gì, chỉ cần quý vị chuyên tâm niệm Phật, tới lúc tâm đ

ược thanh tịnh thì tất cả chuyện khổ đ ều không còn nữa,

gương mặt lúc nào cũ ng tự tại vui cười, vì vui tươi nên

không già. Người xưa có câu “ưu tư khiến cho người mau

già”, lo buồn khiến quý vị rất dễ lão hóa.

Hiện giờ chúng ta còn đ ang mang cái nghiệp báo thân này,

sống chết không một chút tự do. Những lúc khổ quá, thọ

mạng chưa hết, muốn chết mà vẫn phải sống, đ ến khi có

phước báo nhiều rồi, muốn sống thêm vài nă m đ ể hưởng

thụ nhưng thọ mạng đ ã dứt, chừng đ ó muốn sống vẫn

phải chết.

Do đ ó, khi quý vị phát tâm niệm Phật hoặc vào Niệm Phật

Ðường niệm Phật, thân tâm, thế giới, vạn duyên bên ngồi,

tất cả đ ều buông xuống hết, chỉ còn câu hồng danh A Di

Ðà Phật với niềm vui đ ạo hạnh tràn ngập trong lòng, đ ó

gọi là pháp hỷ sung mãn. Sự chuyên cần tu tập đ ến lúc

công phu thành khối, quý vị sẽ không còn ràng buộc bởi cái

khổ của bệnh già và chết, chừng đ ó sanh tử tự tại, muốn ra

đ i lúc nào tùy ý, muốn ở lại thế gian sống thêm vài ba nă

m cũ ng đ ược. Lúc này cái sống của quý vị hoàn toàn mang

ý nghĩ a cao đ ẹp và tự biết mình sẽ phải làm những đ iề

u gì.

48

Người đ ạt mức sanh tử tự tại là người hội đ ủ phước báo

lên thế giới Tây Phương Cực Lạc đ ể hưởng thụ. Họ không

ra đ i mà tình nguyện ở lại vì xét thấy còn rất nhiều người

có duyên với mình, mình phải giúp đ ỡ họ, phải đ ộ cho họ,

hy vọng có thể dẫn dắt thêm nhiều người cùng nhau về

Tây Phương.

Lý do sống chính đ áng như thế tuyệt đ ối không phải vì

tham sống sợ chết hay đ ể hưởng thụ ở thế gian này. Thực

ra sự hưởng thụ trên thế gian làm sao sánh bằng thế giới

Cực Lạc ở Tây Phương! Cái nhà mà chúng ta cho là đ ẹp và

sang trọng nhất, đ ối với người cõi Tây phương Cực Lạc họ

không màng đ ến, bởi vì nhà cửa của họ ở là thất bảo cung

đ iện, sàn nhà toàn bằng lưu ly (cẩm thạch), đ ường đ i trải

bằng vàng, thức ă n chỉ cần nghĩ đ ến liền hiện ra, đ ồ

vật mọi thứ đ ều do tâm nghĩ tưởng mà hiện hình.

Do tập khí ở thế gian nên có lúc khởi niệm ă n uống đ ến

khi giác ngộ, thức ă n liền biến mất. Cho nên nhà ở cõi Tây

Phương Cực Lạc trống không, sạch sẽ vô cùng. Và, không

cần có nhà bếp. Quý vị thấy cuộc sống như vậy có sung

sướng không? Còn chúng ta đ ây, đ ồ đ ạc chất chứa đ ầy

nhà, muốn dọn dẹp cho gọn gàng sạch sẽ cũ ng phải mất

nhiều thời giờ và phiền phức vô cùng. Cho nên người

niệm Phật đ ến khi công phu thành tựu rồi, nếu xét thấy

mình không đ ủ duyên hóa đ ộ chúng sanh ở thế gian này

49

họ đ ều mong sớm đ ược lên Tây Phương Cực Lạc đ ể

hưởng phước.

Sau khi lên đ ến thế giới Cực Lạc rồi, mỗi ngày đ ược thấy

Phật, đ ược cúng dường mười vạn ức Phật. Trong kinh Di

Ðà Phật nói mười vạn ức Phật, thực tế quý vị có thể cúng

dường vô lượng hằng hà sa số Phật. Sở dĩ ngài nói ít hơn

như vậy vì Phật rất từ bi, ngài biết sự tỉnh thức của chúng

sanh còn rất hạn chế, lên đ ến đ ó rồi mà đ ôi lúc còn khởi

tâm nghĩ nhớ về ngôi nhà cũ và những người thân còn ở

thế gian. Do đ ó ngài mới phương tiện mà nói cúng dường

con số ít hơn thực tế như vậy và bảo chúng ta còn thể trở

lại thă m thế gian bất cứ lúc nào đ ều có thể đ ược.

Thế giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm đ ẹp đ ẽ như

thế. Ði đ ến đ âu cũ ng có những thành tựu tốt đ ẹp như

thế. Vì sao chúng ta không tranh thủ đ i sớm? Một pháp

môn có thể thành tựu dễ dàng như vậy. Ðối với các vị Bồ Tát

thành tựu ở những pháp môn khác, nếu không nhập vào

cảnh giới này, đ ều cho là một pháp môn khó tin, khó hiểu.

Cũ ng giống như chúng ta nói với mọi người rằng Niệm

Phật Ðường là nơi rất tốt, rất thù thắng đ ể tu tập. Họ nghe

qua dễ gì tin ngay. Nhưng sau vài ngày đ ến đ ây niệm

Phật rồi họ mới chịu tin. Một việc nhỏ ở thế gian này mà

người đ ời còn không hiểu không tin đ ược, nói gì đ ến

cảnh giới thù thắng, viên mãn ở thế giới Tây Phương Cực

Lạc.

50

Từ chuyện nhỏ suy rộng đ ến chuyện lớn. Chúng ta có thể

nhận thức đ ược phần nào đ ể tă ng trưởng thêm niềm tin

và thiện că n của mình hầu đ em hết tâm nguyện của mình

ra niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Chắc chắn sẽ đ ược thành

tựu.

Giữ Chánh Niệm Phục Ma Vương

Ða số chúng ta đ ây đ ều biết, Phật có tướng hảo quang

minh, Ma cũ ng có tướng hảo quang minh. Phước báo của

Phật vô cùng to lớn, phước báo của Ma cũ ng không kém.

Phật có hào quang kim sắc của Phật nhu hòa khiến cho

chúng ta mỗi khi tiếp xúc đ ều có cảm giác nhẹ nhàng

tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Ma cũ ng có hào quang kim

sắc, nhưng dưới ánh sáng chói lọi của Ma, con người sẽ cảm

thấy sợ hãi không yên. Tóm lại, hào quang của Ma so với

hào quang của Phật không có khác, chỉ khác ở chỗ sau khi

con người tiếp xúc rồi có những cảm giác hoàn toàn trái

ngược nhau.

Làm thế nào đ ể tránh khỏi ánh sáng của Ma? Không bị Ma

tổn hại? Ðiều này hết sức quan trọng, quý vị không thể

hiểu rõ. Phương pháp hữu hiệu nhất đ ể đ ối phó:

Quý vị phải luôn giữ Chánh Niệm. Khi giữ đ ược chánh niệm,

chẳng những Ma không thể làm tổn hại, ngược lại sanh

lòng tôn kính và hộ pháp.

Khi xưa, đ ức Phật Thích Ca Mâu Ni khi thị hiện tám tướng

thành đ ạo, Ma Ba Tuần liền đ ến và dùng đ ủ mọi thủ đ

51

oạn uy hiếp cản trở. Ðức Thế Tôn chánh niệm phân minh,

như như bất đ ộng. Sau cùng Ma không còn cách nào đ ể

phá hại nữa, nên sanh lòng tôn kính, bái phục, nguyện làm

hộ pháp cho Ngài. Do đ ó tâm niệm của chúng ta cần phải

tương ưng với Giới - Ðịnh - Huệ, ba môn học, đ ây là

phương thức quan trọng nhất đ ể đ ối trị với sức cản trở, lay

đ ộng của Ma.

Những người nào dễ bị Ma làm tổn thương nhất?

Xã hội ngày nay, những người tu học Phật pháp, đ ặc biệt là

giới thanh niên, bị nhập Ma rất nhiều. Những ai thích có

thần thông, cảm ứng đ ều dễ bị kết duyên với Ma. Ma sẽ

lợi dụng nhược đ iểm đ ó của quý vị đ ến lay đ ộng quấy

phá. Cho nên người tu học Phật pháp trong thời đ ại này

cần phải có cảnh giác cao đ ộ.

Khi niệm Phật phải giữ tâm thật chân thật, không nên mong

cầu cảm ứng. Trong kinh đ iển Phật dạy chúng ta như thế

nào, chúng ta ngoan ngoãn làm theo. Ðiều gì Phật nói

chúng ta không nên làm, chúng ta quyết đ ịnh không làm.

Phật dạy chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì chúng

ta cầu sanh Tịnh Ðộ. Phật bảo chúng ta liễu sanh tử, thoát

khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đ ối không luyến tiếc với lục

đ ạo. Thuận theo lời chỉ dạy của Phật, Ma sẽ không làm gì đ

ược đ ối với chúng ta.

Giới trẻ ngày nay đ a số vì muốn có thần thông, có cảm ứng,

nhưng đ âu ngờ đ ã tự mình làm hư hoại hết cả tương lai

52

tốt đ ẹp của chính mình. Thật là đ iều đ áng tiếc vô cùng!

Quý vị nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh

đ ối với con cháu, bà con quyến thuộc, bởi vì trong lúc quý

vị khởi tâm mong cầu thần thông, cảm ứng, Ma liền có dịp

giả hình dáng Bồ Tát, giả Phật Di Ðà đ ến mê hoặc và lừa

gạt dẫn dắt quý vị đ i theo. Nhiều vị đ ồng tu lo rằng:

“Nhỡ khi lâm chung Ma giả Phật A Di Ðà đ ến rước thì sao?

Nếu chúng ta không phân biệt đ ược giữa Ma với Phật thì

công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ chẳng còn!”

Ðối với đ iều này xin quý vị hãy yên tâm. Ma tuy lừa gạt

người, nhưng nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn

Tôn tức Phật A Di Ðà. Bởi vì Phật có Thần Hộ Pháp. Khi

chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đ ều đ ược các vị

thần Hộ Pháp bảo hộ cho chúng ta, thần Hộ Pháp nhất quy

ết không dung thứ cho các lồi yêu ma quỷ quái giả mạo

Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo sẽ bị tội nặng. Ngược lại

nếu chúng giả dạng các vị Phật khác đ ến gạt quý vị,

chúng không phạm tội. Cho nên quý vị niệm Phật A Di Ðà,

đ ến lúc lâm chung nhất đ ịnh phải chờ Phật A Di Ðà đ ến

tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đ ến

rước đ ó là Ma giả dạng đ ến lừa gạt. Trong tình trạng như

vậy, quý vị phải tập trung tinh thần, nhất hướng chuyên

niệm hồng danh A Di Ðà Phật, và mặc nhiên không thèm đ

ể ý đ ến, tức thời những hình ảnh đ ó sẽ tự biến mất.

Những kiến thức này hết sức quan trọng, quý vị nên lưu ý.

53

Người niệm Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A Di Ðà, như

vậy là công phu niệm Phật đ ược cảm ứng. Nếu thường

xuyên thấy Phật thì phải cẩn thận, coi chừng công phu

không đ úng hoặc có vấn đ ề. Nhiều người hỏi: “Lúc mới

niệm Phật tôi thường mơ thấy Phật A Di Ðà, tới nay, niệm

Phật đ ã nhiều nă m rồi, lại không hề thấy. Như vậy có

phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đ ầu không?” Trả lời:

“Cũ ng có thể thối chuyển”. Nếu không bị thối chuyển c

ũ ng không nên thường xuyên mơ thấy, thường xuyên mơ

thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra

cũ ng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và

vui mừng.

Trong kinh Lă ng Nghiêm, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỉ

dạy cho chúng ta phương pháp đ ối phó với ma cảnh như

sau: “Khi gặp cảnh giới hiện ra, phải giữ tâm không đ ể ý đ

ến, không tìm hiểu sâu vào”. Vì sao? Bởi vì khi Ma hiện ra

có nghĩ a là công phu của quý vị đ ã đ ạt tới mức khả quan,

nếu không Ma cũ ng chẳng thèm tới đ ể làm gì. Mục đ ích

của chúng đ ến đ ể chướng ngại, phá cho tan nát công phu

tu tập và đ ạo tâm của quý vị. Cho nên ý nghĩ a câu hồng

danh A Di Ðà Phật giúp chúng ta giữ tâm như như bất đ

ộng trước Ma cảnh rất quan trọng và rất tương quan mật thi

ết với công phu tu tập của chúng ta.

54

DUYÊN KHỞI

Nhân đ ọc đ ược cuốn sách nhỏ này vào nă m 2002,

chúng tôi thật cảm kích trước tấm lòng ưu thời mẫn thế từ

bi vô lượng của tổ Ấn Quang nên đ ã gắng gượng chuyển

ngữ sang tiếng Việt vào tháng Tư nă m 2003, như một

món quà nhỏ dành riêng cho liên hữu Vạn Từ, ngõ hầu đ áp

tạ những khuyến tấn chí tình của anh dành cho mạt nhân

trên những bước chập chững “uống mật gấu” bon chen

chuyển ngữ những tác phẩm Tịnh Đ ộ vì lòng tham pháp, ti

ếc pháp. Nguyên bản mạt nhân sử dụng khi ấy là ấn bản

của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội. Trong tháng Mười nă m

2006, qua một lần đ iện đ àm cùng pháp sư Ngộ Sanh, sư cô

cho biết pháp sư Ngộ Hạnh đ ang giảng tác phẩm này, và

sư cô có nhã ý muốn in bản dịch này thành sách, đ ồng thời

gởi tặng ấn bản mới nhất do Đ ài Nam Tịnh Tông Học Hội

ấn hành. Nhân đ ó, mạt nhân so sánh hai ấn bản, nhận thấy

tuy hai ấn bản có những chỗ đ ại đ ồng tiểu dị, nhưng lời v

ă n trong bản Đ ài Nam Tịnh Tông Học Hội gọn gàng hơn,

tinh xác hơn, vă n phong cũ ng gần gũ i với cách viết trong

Ấn Quang Vă n Sao hơn, nên mạt nhân đ ã sửa lại bản dịch

cũ cho khớp với bản Đ ài Nam Tịnh Tông Học Hội (với hy

vọng bản dịch này sẽ là phần tham khảo cho bă ng giảng

55

của pháp sư Ngộ Hạnh); đ ồng thời sửa lỗi chánh tả, đ ính

chính những sai sót, cũ ng như “diễn nôm” một số thuật

ngữ Hán Việt không thông dụng và thêm một số chú thích

(theo lời dạy của pháp sư Ngộ Sanh). Một hai đ oạn bị lược

bỏ trong ấn bản của Đ ài Nam Tịnh Tông Học Hội, nhưng

theo ngu ý là rất quan trọng thì chúng tôi vẫn giữ nguyên

theo ấn bản của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội. Chúng tôi cũ

ng tự tiện đ ưa thêm vào phần phụ lục bài vă n khuyên

phóng sanh của đ ại sư trích từ bộ Ấn Quang Tă ng Quảng

Chánh Biên Vă n Sao nhằm bổ sung ý nghĩ a lời giảng của

đ ại sư trong ba ngày đ ầu tiên của pháp hội. Ngưỡng

mong, tập sách dịch vụng về thô thiển này sẽ đ em lại đ ôi

chút lợi ích nhỏ nhoi cho những sơ cơ Tịnh nghiệp hành

nhân như chúng tôi. Trân trọng cảm tạ các đ ạo hữu Minh Ti

ến và Huệ Trang đ ã dành nhiều công sức giảo duyệt bản

dịch này. Nếu việc làm tùy tiện, táo tợn này có chút phần

công đ ức nào, đ ều xin hồi hướng về lịch đ ại phụ mẫu sư

trưởng, hiện tiền phụ mẫu sư trưởng, cừu gia oán đ ối và

các liên hữu cùng pháp giới chúng sanh đ ều đ ược hội

ngộ nơi cõi Cực Lạc thanh lương.

Ngày mồng Một tháng Mười Một nă m 2006,

Bửu Quang Tự đ ệ tử Liên Hương kính ghi

56

LỜI TỰA TỰ Đ Ề

Ấn Quang tôi là một ông Tă ng phàm tục ở Tây Tần1[1]

chỉ biết đ ến cơm cháo, tră m sự không làm đ ược đ iều

gì; túc nghiệp sâu nặng đ ến nỗi trời phải quở trách. Mới

sanh đ ược sáu tháng đ ã mắc bệnh mắt, trong suốt một tr

ă m tám mươi ngày không mở nổi mắt. Ngoại trừ lúc ă n,

ngủ ra, thường khóc suốt ngày đ êm. Nhờ thiện lực xưa,

may còn đ ược thấy ánh mặt trời, cũ ng may mắn lắm! Ðến

tuổi thiếu niên2[2] đ ọc sách, lại bị hãm vào vực xoáy báng

Phật của Trình, Chu, Âu, Hàn3[3]. Từ đ ấy, hằng ngày chuyên

chí bác Phật, nghiệp tướng lại hiện, bệnh tật triền miên.

Tận lực nghĩ ngợi, suy xét cặn kẽ mới biết lỗi đ ó; nă m

hai mươi mốt tuổi, xuất gia làm Tă ng. Nhân thấy Tă ng

chúng có kẻ chẳng như pháp nên phát nguyện chẳng trụ trì

chùa miếu, chẳng thâu đ ồ đ ệ, chẳng hóa duyên4[4],

chẳng cùng ai kết xã lập hội. Hơn nă m mươi nă m chẳng

đ ổi chí ban đ ầu, sống lẩn quất5[5] gần Ngô Môn. Ðầu

1[1] Tổ Ấn Quang quê ở Thiểm Tây. Tỉnh Thiểm Tây thuộc lãnh thổ cũ của đất Tần (thời Xuân

Thu Chiến Quốc) nên Thiểm Tây còn được gọi là Tây Tần.

2[2] Nguyên văn “thành đồng”: Theo tự điển Từ Hải, từ 13 tuổi trở lên, 17 tuổi trở xuống thì

gọi là “thành đồng”.

3[3] Trình, Chu, Âu, Hàn là Trình Y Xuyên, Chu Hy, Âu Dương Tu, Hàn Dũ, những nhà Tống

Nho cực lực bài xích đạo Phật. Người bài bác đạo Phật nặng nề nhất là họ Trình và họ Chu.

4[4] Hóa duyên: Kêu gọi tín đồ đóng góp cúng dường.

5[5] Nguyên văn là “hoạt mai” (chôn sống), ý Tổ nói sống mà ẩn dật như người đã chết rồi. Ở

đây chúng tôi chỉ dịch gọn là lẩn quất.

57

tháng Chín, Lý Sự Trưởng (hội trưởng) hội Phật Giáo Trung

Quốc là pháp sư Viên Anh, các vị lãnh tụ của Bồ Ðề Học Hội

như cư sĩ Khuất Vă n Lục v.v… thấy Quang tuổi cao, ngỡ

tôi có chút tâm đ ắc, nào hay tôi chỉ biết húp cháo nuốt

cơm, họ thỉnh tôi khi pháp hội Tức Tai Hộ Quốc khai mạc, sẽ

đ ến đ ất Hỗ6[6] diễn thuyết. Cố từ chẳng đ ược, chỉ đ ành

đ em đ iều [mình hiểu biết] lầm lạc bù đ ắp sự lầm lạc7[7].

Ðến kỳ , mỗi ngày ông Ðặng Huệ Tải và hai ba vị cư sĩ

ở Vô Tích đ ều dùng máy thu âm [thu lại], nghe bă ng chép

ra, mang đ ến xin tôi giám đ ịnh đ ể ấn hành. Bản sao lục

này [so với lời giảng] có vài đ iểm sai khác đ ôi chút. Nhưng

bản sao của ông Ðặng chép chữ to, nên tôi dựa theo đ ó,

sửa đ ổi, tóm tắt lại. Cảo bản8[8] này bậc thông huệ chẳng

cần xem đ ến, còn ai ngu đ ộn như Ấn Quang tôi mà lại

muốn ngay trong đ ời này kết liễu đ ại sự sanh tử và muốn

trị tâm, trị thân, trị gia, trị quốc, nhưng chẳng biết bắt đ ầu

từ đ âu, xem đ ến cảo bản này, họa chă ng có đ iều bổ ích

vậy.

6[6] Ở vùng Thượng Hải có con sông lớn tên là Hỗ Ðộc giang, nên Tàu hay gọi Thượng Hải là

đất Hỗ.

7[7] Ở đây Ðại Sư ý muốn dùng câu “Tương thác tựu thác” của ông Vô Vi Tử (Tống Dương

Kiệt), ngụ ý: Khi chưa triệt chứng Phật tánh thì cầu sanh Tịnh Ðộ vẫn là lầm lạc, nhưng phải

dùng cái lầm lạc đó để tạo cơ hội dứt trừ cái lầm lạc trong đường sanh tử.

8[8] Cảo bản: Bản nháp, ở đây Tổ dùng với ý nghĩa lời giảng giải của Ngài thô sơ, thiếu sót,

không hoàn chỉnh.

58

Trọng Ðông nă m Bính Tý, Dân Quốc 25 (1936), Thích Ấn

Quang đ ề

LỜI TỰA CHO TÁC PHẨM

ẤN QUANG Đ ẠI SƯ KHAI THỊ LỤC9[9]

Thế gian biến loạn do đ âu? Nói gọn một lời: Do tâm

tham - sân - si của chúng sanh tạo nên mà thôi. Tâm tham

thuận theo sự hưởng thụ vật chất càng tă ng trưởng mãnh

liệt, hễ có chút gì chẳng toại ý liền ganh đ ua ngay. Nếu

vẫn chẳng toại ý liền có công kích, chiếm đ oạt, đ ấu đ á

khiến cho tử vong, tai nạn đ i theo. [Bởi đ ó] dịch lệ đ ói

kém theo đ ó [xảy ra], hết thảy tai họa theo đ ó [phát khởi].

Lửa sân hừng hực, cả thế giới cháy sạch thành tro.

Chỉ mình đ ức Như Lai ta xiển dương sự thật Khổ, Không

đ ể trị lòng tham của chúng sanh, hoằng dương tông chỉ từ

bi đ ể trị lòng sân của chúng sanh. Ngài lại dạy pháp môn

Tịnh Ðộ đ ể chỉ dạy chúng sanh con đ ường lìa khổ hưởng

vui, phương tiện vượt ngang ra khỏi tam giới. Là Phật tử, tin

vào thể tánh bình đ ẳng của pháp giới, hiểu rõ tướng trạng

nhân - quả, khổ - vui, biết công dụng tự - tha (ta - người),

9[9] Đây là lời tựa của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã được in trong ấn bản của Hoa Tạng Tịnh

Tông Học Hội. Lời tựa này không thấy in trong ấn bản của Đài Nam Tịnh Tông Học Hội.

59

cảm - ứng, khởi vô duyên đ ại từ, đ ồng thể đ ại bi, ngày

nào nỗi khổ của chúng sanh chưa trừ thì ngày đ ó trách

nhiệm của kẻ thất phu chưa tận, nên trong ngày ấy, các sự

nghiệp thỉnh pháp, tùy học, sám hối, cúng dường chưa thể

ngưng nghỉ đ ược. Tông chỉ kiến lập pháp hội Hộ Quốc Tức

Tai của Bồ Ðề Học Hội và các hội viên đ ã giống như thế,

mà lão pháp sư Ấn Quang phó hội diễn thuyết cũ ng do

bổn hoài ấy. Ðạo lý Hộ Quốc Tức Tai nào phải cầu nơi khác

đ âu!

Nếu ai nấy chẳng làm các đ iều ác thì những sự tổn hại

chúng sanh đ ều sẽ chẳng ai làm, tham - sân chẳng đ ủ đ ể

tạo thành tai họa vậy! Ai nấy có thể vâng làm các đ iều

thiện thì hết thảy những việc lợi ích chúng sanh không gì là

chẳng làm, quốc gia ắt đ ạt đ ến cảnh bình trị vậy! Ai nấy

có thể tu hạnh Tịnh Ðộ thì sẽ tự tịnh ý mình. Một niệm niệm

Phật thì một niệm tương ứng với bi tâm của đ ức Di Ðà.

Niệm niệm niệm Phật thì niệm niệm tương ứng với bi tâm

của đ ức Di Ðà. Tịnh niệm tiếp nối, tham - sân tự trừ. Nếu

thật sự đ ược như thế thì Sa Bà chính là Tịnh Ðộ, còn lo chi

cõi nước chẳng yên, tai nạn chẳng dứt nữa ư? Yếu nghĩ a

trong những lời khai thị nhiều phen của Ðại Sư chẳng

ngoài đ iểm này. Nguyện ai đ ọc đ ến cuốn Ngữ Lục này sẽ

tin nhận, vâng làm theo. Ðọc rồi mới biết trong đ ạo lý Hộ

Quốc Tức Tai, hễ buông bỏ pháp môn Tịnh Ðộ thì còn pháp

nào thích hợp nữa!

60

Mùa Ðông nă m Bính Tý, Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã kính đ

ề tựa

TRIỆT NGỘ Đ ẠI SƯ KHAI THỊ

Một là tin hễ có sanh ắt có tử, khắp cả thiên hạ từ xưa đ

ến nay chưa hề có ai tránh khỏi.

Hai là tin nhân mạng vô thường, hơi thở ra tuy còn, hơi

hít vào khó giữ, một hơi thở hít chẳng vào thì đ ã thành đ ời

sau.

Ba là tin đ ường luân hồi hiểm trở, một niệm lầm lạc liền

đ ọa nẻo ác. Ðược thân người như đ ất đ ọng trên móng tay,

mất thân người như đ ất trong đ ại đ ịa.

Bốn là tin nẻo khổ dài lâu, một phen chịu báo trong tam

đ ồ là cả nă m ngàn kiếp, biết khi nào mới ló đ ầu ra nổi!

Nă m là tin lời Phật chẳng hư dối, vầng mặt trời, mặt tră

ng đ ây làm cho còn rơi rụng đ ược, núi chúa Diệu Cao còn

làm cho khuynh đ ộng đ ược, chứ lời chư Phật chẳng hề sai

khác.

Sáu là tin thật có Tịnh Ðộ giống hệt như Sa Bà hiện tại,

hiện hữu rành rành.

61

Bảy là tín - nguyện liền sanh, nay mình đ ã nguyện thì

nay mình sẽ sanh. Kinh đ ã giảng rõ, nào dối ta đ âu!

Tám là tin [vãng] sanh rồi sẽ chẳng thoái, cảnh thù thắng,

duyên mạnh mẽ, tâm thoái chuyển chẳng khởi.

Chín là tin một đ ời thành Phật, thọ mạng vô lượng, việc

gì chẳng xong!

Mười là tin pháp vốn duy tâm. Duy tâm có hai nghĩ a: cụ

(có đ ủ tất cả) và tạo (tạo ra tất cả). Các pháp [vừa nói] như

trên tâm ta sẵn đ ủ, đ ều do tâm ta tạo ra.

Do tin lời Phật thì tạo thành bốn pháp sau (tức là từ đ iề

u 5 đ ến đ iều 8); chẳng tin lời Phật chỉ tạo ra bốn đ iều

trước (đ iều 1 đ ến đ iều 4). Vì thế tin sâu lời Phật là tin

sâu tự tâm; tu Tịnh nghiệp, đ ầy đ ủ mười thứ tín tâm này thì

sanh về Lạc Ðộ như đ ưa bằng khoán lấy về vật xưa, nào

khó khă n gì!

Tháng 7 nă m Giáp Tý, Nột Ðường Ðạo Nhân viết.

THƯỢNG HẢI HỘ QUỐC TỨC TAI PHÁP HỘI PHÁP NGỮ

Ấn Quang pháp sư giảng giải,

Đ ặng Huệ Tải thuộc Phật Giáo Nhật Báo ghi chép

62

Ngày thứ nhất: Giảng niệm Phật, ă n chay là

că n bản đ ể hộ quốc tức tai

Ấn Quang vốn là một ông Tă ng vô tri, vô thức, chỉ biết

đ ến cơm cháo, chỉ biết niệm Phật dă m câu, tuy sống

luống uổng hơn bảy mươi nă m, nhưng tuyệt chẳng hề

triệt đ ể nghiên cứu Phật pháp. Pháp hội Hộ Quốc Tức

Tai10[10] lần này, do các vị kèo nài tham gia, vì tình nghĩ a

chẳng thể khước từ đ ược. Vả lại, đ ây là chuyện quan hệ đ

ến phước lợi quốc gia mà cũ ng là trách nhiệm tôi phải tận

lực nên tôi chẳng nề hà mình hiểu biết sơ sài, kém cỏi đ ế

n dự pháp hội này. Nhưng những đ iều tôi giảng hôm nay

trọn chẳng phải là lý luận cao sâu gì, chỉ là trình bày phương

pháp că n bản đ ể “hộ quốc tức tai”. Còn về ý nghĩ a

quan trọng của pháp hội lần này, đ ợi tới ngày mai sẽ bàn đ

ến.

Mục đ ích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai, nhưng

làm sao mới đ ạt đ ược mục đ ích ấy? Tôi cho rằng phương

10[10] Hộ Quốc Tức Tai: Bảo vệ đất nước, chấm dứt tai nạn. Thông thường pháp hội Hộ Quốc

Tức Tai thường bao gồm những khoa nghi cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu siêu cho

những oan hồn uổng tử. Theo truyền thống, trong pháp hội này, đại chúng thường tụng kinh

Nhân Vương Hộ Quốc, Pháp Hoa và Kim Quang Minh, kết thúc bằng nghi thức Diệm Khẩu

hoặc Vô Già Thủy Lục. Đặc biệt trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai này, tổ Ấn Quang đề xướng

dùng Phật Thất để làm Hộ Quốc Tức Tai, mở ra một đường lối Hộ Quốc Tức Tai vừa giản tiện

vừa hiệu quả thiết thực vì đại chúng chuyên tu, dễ nhiếp tâm cầu nguyện thay vì lo tán tụng,

xướng bái quá rềnh rang, dễ sanh ra tâm lý ngại khó, mong làm cho xong.

63

pháp că n bản là Niệm Phật vì sát kiếp và hết thảy tai nạn

đ ều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu ai nấy

đ ều niệm Phật thì sẽ xoay chuyển đ ược nghiệp này. Nếu

chỉ có một ít người niệm Phật thì [nghiệp ấy] cũ ng có thể

giảm nhẹ. Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ,

liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp

chướng của nó quả thật cũ ng cực kỳ lớn lao. Người chân

chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn luân thường, tận

hết bổn phận, ngă n dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đ ừng

làm các đ iều ác, vâng làm các đ iều thiện. Cần nhất là

phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người [hành]. Hiện tại,

các thứ tà thuyết không thánh, không hiếu, khinh miệt đ

ạo, phế luân thường, giết cha, chung vợ v.v… đ ều do

bọn Tống Nho đ ả phá, bài xích nhân quả - luân hồi đ ến

nỗi sanh ra ác quả này. Nếu như ai nấy đ ều hiểu rõ nhân

quả thì quyết chẳng một ai dám xướng lên những thuyết

sai lầm ấy! Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biế

n đ ổi rất ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đ ổi cũ ng rất ít;

đ a số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo

hóa là đ iều khẩn yếu nhất vậy. Khổng Tử nói: “Duy

thượng trí dữ hạ ngu bất di” (Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ

ngu là chẳng thay đ ổi). Chỉ cần ra sức giáo hóa thì sẽ có thể

khiến cho con người đ ổi ác theo lành, buông dao đ ồ tể,

ngay lập tức thành Phật chẳng sót một ai! Chỉ là do nơi con

người tin tưởng, nghĩ nhớ, tận lực mà hành đ ấy thôi. Sở d

64

ĩ xã hội Trung Quốc hiện thời loạn lạc rối ren đ ến mức

như thế này đ ều là do không đ ược giáo hóa; nhưng giáo

hóa phải bắt đ ầu từ lúc còn thơ ấu như thường hay nói:

“Giáo phụ sơ lai, giáo nhi anh hài” (Dạy con từ thuở còn

thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về). Nếu thuở nhỏ chẳng

dạy, đ ến lúc lớn, khó lòng lay chuyển đ ược! Vì sao? Tập

tánh (thói quen) đ ã thành, không cách chi thay đ ổi đ ược.

Vì thế, người niệm Phật cần phải chú ý giáo dục con cái

mình trở thành người tốt, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm

việc tốt. Nếu ai cũ ng làm đ ược như thế thì tai nạn tự tiêu,

đ ất nước cũ ng tự đ ược gìn giữ, bảo vệ!

Chân lý mầu nhiệm că n bản của pháp môn Niệm Phật

nằm trong ba kinh Tịnh Ðộ, nhưng theo như phẩm Phổ Hiề

n Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm đ ã dạy thì [niệm

Phật] lại càng là hạnh nguyện că n bản chẳng thể thiếu

khuyết. Bởi lẽ, Thiện Tài đ ã viên mãn tâm Thập Tín11[11],

11[11] Thập Tín là mười địa vị trong năm mươi hai địa vị tu học của Bồ Tát (không kể địa vị Pháp Vân

Địa), tức là mười tâm ban đầu mà Bồ Tát muốn thành Phật phải tu tập. Trọng tâm của mười tâm này

đặt tại Tín, có công năng thành tựu Tín Hạnh, nên mười địa vị này gọi đầy đủ là Thập Tín Tâm, đôi khi

còn gọi tắt là Thập Tâm. Có nhiều cách giải thích Thập Tín. Theo Hiền Thánh Danh Tự Phẩm của kinh

Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp thì Thập Tín là: Tín tâm (nhất tâm quyết định, ưa muốn được thành tựu),

Niệm tâm (thường tu sáu niệm, tức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm

Thiên), Tinh Tấn tâm, Định tâm, Huệ tâm, Giới tâm (thọ trì luật nghi Bồ Tát Giới thanh tịnh, giữ ba

nghiệp thanh tịnh. Hễ phạm lỗi bèn sám hối thề không tái phạm), Hồi Hướng tâm, Hộ Pháp tâm (bảo

vệ, ngăn ngừa cái tâm, chẳng để nó khởi phiền não), Xả tâm (chẳng tiếc thân mạng, tài sản, bỏ tất cả

những gì đạt được), Nguyện tâm. Theo phẩm Bồ Tát Giáo Hóa trong kinh Nhân Vương Hộ Quốc (bản

dịch của ngài Cưu Ma La Thập) thì Thập Tín là: Tín tâm, Tinh Tấn tâm, Niệm tâm, Huệ tâm, Định tâm,

Thí tâm, Giới tâm, Hộ tâm, Nguyện tâm, Hồi Hướng tâm. Kinh Phạm Võng lại giảng là Xả tâm, Giới

tâm, Nhẫn tâm, Tấn tâm, Định tâm, Huệ tâm, Nguyện tâm, Hộ tâm, Hỷ tâm, Đảnh tâm; và gọi chung

là Thập Phát Thú Tâm thuộc về Kiên Tín Nhẫn. Kinh Lăng Nghiêm giảng là Tín Tâm Trụ, Niệm Tâm Trụ,

Tinh Tấn Tâm Trụ, Huệ Tâm Trụ, Định Tâm Trụ, Bất Thoái Tâm Trụ, Hộ Pháp Tâm Trụ, Hồi Hướng Tâm

65

tham học với tỳ -kheo Ðức Vân, liền đ ược Ngài dạy cho

pháp môn Niệm Phật, nhập vào Sơ Trụ12[12], phần chứng

Pháp Thân. Từ đ ấy, Thiện Tài tham học với hơn nă m mươi

vị thiện tri thức, hễ nghe xong liền chứng, từ Nhị Trụ cho đ

ến Thập Ðịa là bốn mươi đ ịa vị. Tối hậu, ở chỗ Phổ Hiền Bồ

Tát, Thiện Tài đ ược Ngài khai thị, đ ược sức oai thần gia bị,

sở chứng ngang với ngài Phổ Hiền, ngang với chư Phật, liề

n thành Ðẳng Giác Bồ Tát. Sau đ ó, Phổ Hiền Bồ Tát dùng

mười đ ại nguyện vương dẫn dắt quy hướng Cực Lạc, khuy

ến khích, cổ vũ Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng nhất trí

tinh tấn hành trì, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới

nhằm mong viên mãn Phật Quả. Vì thế, biết rằng: Pháp

môn Niệm Phật, tự phàm phu thuở ban đ ầu cũ ng có thể

chứng nhập đ ược, mà rốt cục đ ến bậc Ðẳng Giác cũ ng

chẳng thể vượt ra ngoài nổi. Thật là pháp môn Tổng Trì trên

thành Phật đ ạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ, thành

chung13[13] của mười phương tam thế hết thảy chư Phật.

Trụ, Giới Tâm Trụ, Nguyện Tâm Trụ và gọi chung là Thập Tâm Trụ. Tuy các kinh liệt kê danh tướng

hơi sai khác, nhưng xét về đại thể mười tâm này gần giống nhau.

12[12] Sơ Trụ, gọi đủ là Sơ Phát Tâm Trụ, tức địa vị đầu tiên của Thập Trụ (thuộc giai đoạn thứ

hai sau khi viên mãn Thập Tín), đôi khi còn gọi là Phát Ý Trụ. Theo kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát

trụ địa vị này là người thiện căn bậc thượng dùng phương tiện chân thật phát khởi Thập Tín

Tâm, phụng hành Tam Bảo, thường trụ trong tám vạn bốn ngàn Bát Nhã Ba La Mật, vâng giữ tu

tập hết thảy hạnh, hết thảy pháp môn, thường dấy lên tín tâm, chẳng nẩy sanh tà kiến, mười tội

nặng, ngũ nghịch, tám thứ điên đảo, chẳng sanh vào chỗ tai nạn, thường gặp gỡ Phật pháp, học

rộng, nhiều trí huệ, cầu nhiều phương tiện, trụ nơi địa vị Không Tánh, dùng Không Lý Trí Tâm

để tu tập pháp của chư Phật quá khứ, xuất sanh hết thảy công đức.

13[13] Do thành tựu phàm phu ban đầu nhập đạo nên gọi là “thành thỉ”, đến địa vị cuối cùng là

Đẳng Giác Bồ Tát vẫn phải nhờ vào pháp môn này để viên thành Phật đạo nên gọi là “thành

chung”.

66

Vì thế, [pháp môn này] đ ược chín giới cùng hướng về,

mười phương chung tán thán, ngàn kinh cùng xiển dương,

vạn luận đ ều tuyên thuyết.

Phàm là người học Phật thì có một việc rất nên chú ý là

kiêng ă n mặn vì ă n mặn sẽ tă ng trưởng cơ duyên giết

hại. Con người và hết thảy đ ộng vật cùng sống trong vòng

trời đ ất, tâm tánh vốn bình đ ẳng, chỉ vì nhân duyên ác

nghiệp đ ến nỗi hình thể sai khác quá xa. Nếu đ ời này quý

vị ă n thịt chúng nó, đ ời mai sau chúng nó sẽ ă n thịt quý vị.

Oán hờn báo đ ền mãi, cơ duyên giết chóc đ ời đ ời

chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu như ai nấy đ ều ă n chay

thì sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên

giết hại. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng chỉ lo

sướng miệng, vui bụng, ă n đ ẫy thức tanh hôi, vẫn chưa

thể đ ạt đ ược lợi ích thật sự nhờ học Phật vậy!

Hơn nữa, người đ ời nay ưa nói Thiền Tịnh Song Tu. Xét

đ ến cùng cái gọi là Song Tu đ ó chỉ là khán câu “người

niệm Phật là ai?” Ðấy là chú trọng tham cứu, chẳng ă n

nhập gì đ ến việc sanh lòng tin phát nguyện cầu vãng sanh

của Tịnh Ðộ cả, rõ ràng là hai chuyện [khác biệt]! Thêm nữa,

Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành

Phật” là nói đ ến đ ương nhân đ ích thân thấy đ ược Phật

tánh vốn sẵn đ ủ ở ngay trong tâm. Mật Tông nói: “Ngay

thân này thành Phật” (tức thân thành Phật), tức là quan

niệm “hễ giải thoát đ ược sanh tử ở ngay nơi cái thân

67

này” thì [gọi đ ó là] “thành Phật”. Nếu vội hiểu những

lời đ ó có nghĩ a là [ngay chính nơi thân này] có thể thành

tựu đ ược vị Phật vạn đ ức đ ầy đ ủ, phước huệ viên mãn thì

lầm to, lầm to mất rồi!

Bởi lẽ, “kiến tánh thành Phật” của Thiền Gia là [sở

chứng] của đ ịa vị đ ại triệt, đ ại ngộ. Nếu đ oạn đ ược Kiế

n Hoặc và Tư Hoặc14[14] trong tam giới mới có thể liễu

sanh thoát tử. “Tức thân thành Phật” trong Mật Tông

chẳng qua là đ ạt tới đ ịa vị liễu sanh tử đ ầu tiên. Ðịa vị đ ó

là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa đ ã liễu sanh tử. Trong Viên

Giáo thì bậc Sơ Tín đ oạn đ ược Kiến Hoặc, bậc Thất Tín đ

oạn Tư Hoặc rồi mới giải quyết xong sanh tử. Bậc Thất Tín

và A La Hán tuy cùng liễu sanh tử nhưng thần thông, đ ạo

lực khác xa nhau vời vợi. Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín phá đ

14[14] Kiến Hoặc gọi đầy đủ là Kiến Đạo Sở Đoạn Hoặc (Darśana mārga prahātavyānuśaya). Còn gọi

là Kiến Phiền Não, Kiến Chướng, Kiến Nhất Xứ Trụ Địa. Theo Câu Xá Luận, những kiến chấp mê muội

đối với lý Tứ Đế được gọi là Kiến Hoặc; còn mê chấp nơi hiện tượng sự vật thì gọi là Tu Hoặc. Theo

đó, Kiến Hoặc gồm tám mươi tám thứ, gọi chung là Bát Thập Bát Sử. Về căn bản phiền não thì gồm

Ngũ Lợi Sử (Thân Kiến: Chấp trước vào thân; Biên Kiến: Chấp chặt một bên có hay không, đúng hay

sai, không thấy viên dung; Tà Kiến: thấy biết tà vạy; Kiến Thủ Kiến: Chấp chặt vào kiến giải một chiều,

không thể chấp nhận những cách hiểu biết khác; Giới Cấm Kiến: Chấp chặt vào giới điều, giữ những

giới xằng bậy) và Ngũ Độn Sử (tham, sân, si, mạn, nghi). Mười Sử này phối hợp với mỗi Đế trong Tứ

Đế và mỗi Giới trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới), tạo thành tám mươi tám thứ Hoặc

cần phải đoạn.

Theo tông Thiên Thai, mê nơi l{ của tam giới là Kiến Hoặc, mê nơi sự tướng gọi là Tư Hoặc (tức là Tu

Hoặc của Câu Xá Luận). Sách Thiên Thai Tứ Giáo Nghi lại giảng như sau: “Phiền não vốn không có

thực thể, nhưng lại tưởng những pháp hư vọng không hề có thật là thật sự có, nên gọi là Kiến Hoặc.

Tham, sân, si… các phiền não là những sự tướng duyên theo Ngũ Trần, Lục Dục, qua sự suy nghĩ mà

huyễn giả tồn tại trong tâm, vì thế gọi là Tư Hoặc”

68

ược Trần Sa Hoặc15[15], cho đ ến Thập Tín Hậu Tâm phá

một phẩm Vô Minh, chứng một phẩm Tam Ðức bí

tạng16[16], nhập Sơ Trụ, thành bậc Pháp Thân Ðại Sĩ . Trải

qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa, Ðẳng

Giác là bốn mươi mốt đ ịa vị rồi mới chứng nhập đ ịa vị Phật.

Lịch trình còn lâu xa như thế đ ó, làm sao mà một bước liề

n có thể vọt tới nơi ngay cho đ ược? Người tu Tịnh Ðộ đ ã

sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử thì cũ ng là “tức

thân thành Phật”, nhưng Tịnh Tông chẳng nêu cái thuyết

tiếm phận17[17] ấy. Ðem so sánh sự khó - dễ với việc

thuần cậy vào tự lực của nhà Thiền thì thật là sai khác một

trời một vực. Kính mong các vị dự hội hãy suy nghĩ chín

chắn ý chỉ này.

Ngày thứ hai: Bàn về nhân quả báo ứng

và sự giáo dục trong gia đ ình

15[15] Trần Sa Hoặc: Những gì thuộc về Trí nhận biết trên mặt Sự gây chướng ngại Tục Đế

khiến cho sự giáo hóa của Bồ Tát chẳng được tự tại thì gọi là Trần Sa Hoặc. Do chúng nhiều vô

lượng nên kinh luận thường dùng số cát sông Hằng để sánh ví, vì thế gọi là Trần Sa Hoặc.

16[16] Tam đức bí tạng (kho bí mật ba đức), tức Giải Thoát, Bát Nhã và Pháp Thân.

17[17] Tiếm phận: Vượt phận, vượt khỏi địa vị chánh đáng. Mật Tông coi liễu sanh tử là “thành

Phật ngay trong đời này”, chứ chưa phải thật sự là Phật. Do chưa phải là Phật mà đã tự xưng là

Phật nên bị coi là vượt lạm thân phận đáng nên giữ.

69

Ngày hôm qua giảng về pháp môn Tịnh Ðộ, hôm nay

giảng về ý nghĩ a của pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Muốn nói

đ ến “hộ quốc tức tai” thì trước hết phải biết là “hộ

quốc” (giữ gìn đ ất nước) như thế nào? “Tức tai” (dứt

trừ tai nạn) như thế nào? Là vì muốn đ ạt đ ến hạng mục

ấy, có hai biện pháp: Một là lâm thời, hai là bình thời. Nếu

lúc bình thường, ă n chay niệm Phật đ ể cầu hộ quốc tức tai

thì cố nhiên có công đ ức vô hạn; nhưng lúc lâm thời, dốc

lòng thành kính cầu nguyện giữ yên đ ất nước, dứt bặt tai

nạn cũ ng sẽ có hiệu lực tương đ ương; nhưng vẫn chẳng

bằng lúc bình thời mọi người hộ quốc tức tai thì hay hơn.

Bởi lẽ, nếu bình thời mọi người ă n chay niệm Phật, do

nguyện lực tiếp nối nên tà khí tiêu trừ, chánh khí tă ng

trưởng, ai nấy giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt thì tự

nhiên quốc gia đ ược bảo vệ, tai ương tự tiêu vậy.

Sách xưa có ghi: “Thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị

bệnh; bất trị dĩ loạn, trị vị loạn” (Thánh nhân chẳng trị lúc

đ ã bệnh, trị từ lúc chưa bệnh; chẳng trị lúc đ ã loạn, trị từ

lúc chưa loạn). Bởi lẽ, trị khi đ ã loạn thì dễ hiểu, chứ trị từ

lúc chưa loạn thì khó thấy rõ đ ược! Phàm trị quốc cũ ng

giống như trị bịnh, có cách trị nơi ngọn, có cách trị nơi gốc.

Trị bệnh là trị khi đ ã loạn. Nếu cầu lấy hiệu quả nhanh

chóng, tức là đ au đ ầu trị bệnh đ ầu, đ au đ ùi trị bệnh đ ùi,

[tức là] trị cái ngọn vậy. Cái ngọn đ ã lành, sau đ ấy mới lại trị

cái gốc khiến cho khí huyết lưu thông trọn khắp, khỏe

70

khoắn, sảng khoái. Gốc đ ã lành bệnh thì tự nhiên tinh thần

phấn chấn, mới có thể hă ng hái ra sức.

Hiện thời, quốc gia nguy nan đ ã đ ến mức ngàn cân

treo sợi tóc. Tôi cho rằng đ ể trị quốc trong hiện thời thì

phải trị cả ngọn lẫn gốc. Cách kiêm trị không chi tốt bằng

niệm Phật, ă n chay, kiêng giết, phóng sanh và hiểu sâu xa

lý nhân quả trong ba đ ời. Kiếp vận hiện tại của thế giới,

những tai nạn chúng ta phải chịu đ ựng đ ều là do ác

nghiệp trong quá khứ chiêu cảm đ ến nỗi cảm nhận khổ

quả hiện thời. Do đ ó, biết rằng: Những ác nghiệp này là

do ác nhân trong quá khứ tạo thành; muốn tránh khổ quả

phải dứt khổ nhân. Quá khứ đ ã gieo khổ nhân thì niệm Phật,

sám hối mới có thể tiêu trừ đ ược nổi. Hiện tại nếu chẳng

gieo khổ nhân nữa thì tương lai sẽ khỏi phải chịu khổ quả.

Khổ nhân là gì? Là ba đ ộc “tham, sân, si”. Thiện nhân là gì?

Giúp vật, lợi người. Nếu ai nấy hiểu rõ lẽ nhân quả sẽ

chẳng làm các đ iều ác, vâng làm các đ iều lành, tai họa sẽ

chẳng từ đ âu mà khởi lên đ ược nữa! Chỉ vì người đ ời nay

chẳng hiểu lý nhân quả, tư dục đ ầy ắp dạ, không đ iều ác

nào chẳng làm, chỉ biết có chính mình, chẳng biết có ai

khác. Nào biết lợi người chính là lợi mình, hại người còn tệ

hơn hại mình!

Vì thế, hằng ngày, tôi thường bảo: “Nhân quả là cái gốc

lớn lao đ ể thánh nhân trị thiên hạ, đ ể Như Lai đ ộ chúng

sanh. Bỏ nhân quả mà bàn đ ến chuyện trị quốc bình thiên

71

hạ khác gì níu cây tìm cá, tôi chưa từng thấy ai có thể tìm đ

ược cả!” Phật dạy: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ

giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn biế

t nhân đ ời trước, xem quả báo đ ời này. Muốn biết quả

mai sau, xem việc làm đ ời này). Nếu như những đ iều

mình tạo tác đ ời này đ ều là việc ác, đ ời sau chắc chắn bị

quả ác! Nếu những hành vi đ ời này đ ều là việc lành thì đ

ời sau nhất đ ịnh hưởng thiện quả!

Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.

Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện ắt

sự vui có thừa, nhà chất chứa đ iều chẳng lành, tai ương ắt

có thừa). Kinh Thư chép: “Tác thiện, giáng chi bách tường.

Tác bất thiện, giáng chi bách ương” (Làm lành, tră m đ iều

tốt lành giáng xuống. Làm việc chẳng lành, tră m tai ương

đ ổ xuống). Lý ấy hệt như lý nhân quả của đ ức Phật ta đ ã

giảng. Chữ “dư” đ ã nói đ ó chính là tàn dư của chánh

báo, chứ không phải là chánh báo. Chính người ấy trong đ

ời sau tự mình hưởng thụ, nên gọi là “bổn khánh, bổn

ương” (đ iều vui mừng hay tai ương chính), còn dư báo

lan qua con cháu. Dư báo, dư ương đ ều là do tổ phụ tích

chứa mà thành vậy!

Người đ ời chẳng biết nhân quả, thường nói con người

sau khi chết đ i là đ ã giải thoát hoàn toàn, không có quả

báo thiện - ác nữa. Ðây chính là tà kiến sai lầm nhất về đ

ời sau của thiên hạ vậy. Cần biết là: Người đ ã chết đ i rồi,

72

thần thức chẳng bị diệt. Nếu ai nấy đ ều biết thần thức

chẳng diệt, ắt sẽ thích làm lành. Nếu không biết thần thức

chẳng diệt sẽ mặc tình phóng túng, giết cha, giết mẹ, đ ủ

thứ tội ác do đ ấy mà sanh! Những thứ hành vi nghịch ác tột

bậc ấy đ ều là kết quả của tà kiến đ oạn diệt mà ra! Nếu

ai nấy có thể chẳng làm các đ iều ác, vâng giữ các đ iều

lành thì thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc; nhưng đ ấy vẫn

chưa phải là biện pháp rốt ráo. Thế nào mới là biện pháp

rốt ráo? Chính là niệm Phật cầu sanh Tây Phương, liễu sanh

thoát tử, và phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,

ngă n chặn đ iều tà, giữ lòng thành thì sẽ chuyển đ ược

vận nước, tiêu trừ đ ược tai nạn. Bởi lẽ, tai nạn ngày nay đ

ều là do cộng nghiệp của mọi người chiêu cảm.

Nếu ai nấy đ ều niệm Phật, làm lành sẽ chuyển đ ược

cộng nghiệp, tiêu đ ược kiếp vận. Ngay trong lúc chiến

cuộc nổ ra ở đ ất Hỗ vào ngày Hai Mươi Tám tháng

Giêng18[18], những người niệm Phật đ ược linh cảm rất nhi

18[18] Đây là biến cố xảy ra vào năm 1932. Nguyên do là vào ngày Mười Tám tháng Giêng

năm 1932, năm Tăng nhân Nhật Bản xô xát với người Trung Hoa tại Tam Hữu Thực Nghiệp

Xã ở vùng núi Mã Ngọc thuộc tô giới Thượng Hải, khiến cho một người chết, một người bị

trọng thương. Cảnh sát Nhật liền bao vây khu vực, gây ra tình trạng căng thẳng. Đến ngày Hai

Mươi tháng Giêng, năm mươi Nhật kiều lại phóng hỏa đốt trụi Tam Hữu Thực Nghiệp Xã đồng

thời đánh chết ba cảnh sát người Hoa. Kiều dân Nhật lại yêu cầu hải quân Nhật can thiệp, quân

phiệt Nhật liền huy động hải quân, lục quân vây kín Thượng Hải. Chính quyền Trung Hoa Dân

Quốc bắt buộc phải đưa quân đội đến Thượng Hải đối phó. Giao tranh nổ ra khốc liệt giữa hai

bên vào đúng ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm ấy. Cuộc chiến kéo dài mãi đến ngày Ba

tháng Ba năm 1932, quân Nhật chiếm thế thượng phong với quân số áp đảo là bảy vạn quân,

trong khi Trung Hoa Dân Quốc chỉ có năm vạn quân. Đến ngày Năm tháng Năm, qua sự môi

giới của Anh, Mỹ, Pháp, Ý, hiệp định đình chiến Tùng Hỗ được ký kết giữa đôi bên, Trung Hoa

phải chấp nhận nhiều điều kiện thiệt thòi. Tổn thất rất lớn, 19.700 căn nhà bị phá hủy, số

thương vong không thể đếm xiết!

73

ều. Bọn họ chỉ tu một mình mà còn đ ược linh cảm như thế,

huống là ai nấy cùng tu ư? Vì thế, biết rằng: Do đ ại chúng

chí thành khẩn thiết niệm Phật cũ ng có thể vãn hồi đ ược

tai nạn của đ ất nước. Lại như đ ức Quán Thế Âm Bồ Tát

dùng ba mươi hai ứng thân đ ể vào các cõi nước, theo tiế

ng cứu khổ; nếu như chí thành tụng niệm thánh hiệu Quán

Thế Âm thì sẽ tự đ ược cảm ứng. Những chuyện linh cảm

xưa nay thấy ghi chép rất nhiều trong các sách vở, các vị có

thể tự tìm đ ọc lấy. Ngoài những thân đ ã thuật trong phẩm

Phổ Môn “[Bồ Tát] thấy nên dùng thân nào đ ể đ ộ đ ược

thì liền hiện thân đ ó cứu đ ộ” ra, nếu [Bồ Tát thấy] nên

dùng thân núi, sông, đ ại đ ịa, cầu bến, đ ường sá đ ể hóa

đ ộ thì Ngài cũ ng hiện các thân núi, sông, đ ại đ ịa, cầu bế

n, đ ường sá… đ ể cứu đ ộ.

Con người hiện tại, kẻ dấy đ ược lòng tin ít lắm, kẻ không

phát khởi lòng tin rất nhiều. Nếu ai nấy đ ều phát khởi

lòng tin thì có tai vạ nào mà chẳng thể tiêu diệt đ ược?

Nhưng lòng tin của con người cần phải đ ược vun bồi từ

thơ ấu. Phàm là người làm cha mẹ, khi con cái còn thơ ấu,

hãy nên dạy con cái về lý nhân quả báo ứng, đ ạo lý giữ

vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Nếu đ ợi đ ến lúc

trưởng thành, tập tánh đ ã thành, không thể uốn nắn đ ược

nữa! Ðiều quan trọng nhất là “thai giáo” (dạy từ trong

thai). Nếu phụ nữ mang thai có thể ă n chay, niệm Phật,

làm lành, bỏ ác, mắt chẳng nhìn sắc ác, tai chẳng nghe tiế

74

ng ác, thân chẳng làm việc ác, miệng chẳng thốt lời ác, khiế

n cho đ ứa trẻ còn trong thai đ ã đ ược bẩm thọ chánh khí

nên thiên tánh tinh thuần. Sanh ra, lại giáo hóa thêm thì

không đ ứa nào chẳng trở thành thiện nhân!

Xưa kia, các bà Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự của nhà

Châu đ ức hạnh hiền thục, cao đ ẹp, giúp chồng dạy con,

nên tạo thành nền móng cho vương nghiệp nhà Châu suốt

tám tră m nă m. Ấn Quang thường bảo: “Quyền trị quốc,

bình thiên hạ, hàng nữ nhân chiếm hơn quá nửa”. Bởi lẽ,

trong gia đ ình, người chủ trì việc nhà đ a phần là phụ nữ, đ

àn ông thường hay lo việc ngoài. Nếu mẹ hiền thì những

đ iều lọt vào tai, đ ập vào mắt con cái trong nhà đ ều là

những đ iều dạy dỗ của mẹ, chịu ảnh hưởng của mẹ, lợi ích

ấy chẳng nông cạn. Nếu thuở bé bỏ mặc cho tánh chúng

quen thói kiêu că ng, cho chúng nó tự do, trọn chẳng lấy

chuyện hiếu đ ễ, trung tín, nhân quả báo ứng đ ể giáo

huấn thì [đ ến khi] khôn lớn, chúng sẽ trở thành quyến

thuộc của Ma Vương giết cha giết mẹ. Vì thế, cần phải

nuôi dưỡng tâm lành của con cái từ lúc thơ ấu, kềm cặp

nghiêm ngặt.

Phải biết: Hiện thời, bọn sát nhân, phóng hỏa, không đ i

ều ác gì chẳng làm đ a phần là vì cha mẹ chúng nó nuông

chiều quen thói kiêu că ng mà ra! Mạnh Tử dẫu hiền mà c

ũ ng cần phải do bà mẹ ba lần đ ổi chỗ ở, nghiêm ngặt

quản thúc mà thành [hiền nhân], huống hồ những kẻ tầm

75

thường ư? Hiện tại, mọi người đ ề xướng nam nữ bình quy

ền, cho đ ó là nâng cao nhân cách của nữ giới. Chẳng biết

nam nữ thể chất đ ã không giống nhau, mà trách nhiệm mỗi

giới mỗi khác. Thánh nhân cho rằng vị trí chính đ áng của

nam giới là ở ngoài, vị trí chính đ áng của nữ giới là ở bên

trong. “Vị trí chính đ áng ở bên trong” chính là chă m lo

những việc bếp núc, canh cửi, giúp chồng dạy con v.v…

Nay bảo nữ nhân đ ảm nhiệm chuyện của nam giới nên

những chuyện thuộc vị trí chính đ áng của nữ nhân bị bỏ ph

ế. Tuy mang tiếng là nâng cao nhân cách của nữ giới, thật

ra là xô đ ổ nhân cách phụ nữ. Xin những bậc anh hiền của

nữ giới ai nấy nhận thức rõ nhân cách của chính mình ở tại

đ âu, ngõ hầu con cái trong gia đ ình đ ều thành hiền

thiện, thiên hạ lẽ đ âu chẳng thái bình!

Bởi lẽ, đ ạo trọng yếu đ ể trị quốc, bình thiên hạ nằm

trong giáo dục gia đ ình, mà việc giáo dục trong gia đ ình

người mẹ đ ảm nhiệm quá nửa. Bởi lúc trong thai, con cái đ

ã bẩm thụ khí chất của mẹ, lúc sanh ra lại nhìn theo oai nghi

của mẹ, nhận sự dạy ră n của mẹ, nên trở thành hiền thiện.

Ðiều này tuy chẳng hiện hình tích nhưng lại là việc trọng y

ếu đ ể đ ạt đ ến thái bình. Tiếc là vĩ nhân các giới đ a số

chưa thấy rõ đ iều này. Nguyện những bậc anh hiền trong

nữ giới kể từ nay hãy chú ý lời này. Người đ ời đ ều gọi phụ

nữ là Thái Thái. Phải biết ý nghĩ a của hai chữ “thái thái”

rất cao quý, to lớn. Xét ra, cội nguồn sâu thẳm của hai chữ ấy

76

bắt nguồn từ tận đ ời Châu. Do Thái Khương, Thái Nhậm,

Thái Tự đ ều là bậc thánh nhân trong nữ giới, đ ều có thể

giúp chồng dạy con. Bà Thái Khương sanh ra ba vị thánh

nhân là Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Bà Thái Nhậm sanh

Vă n Vương. Bà Thái Tự đ ẻ ra Vũ Vương và Châu Công. Ba

đ ời bà cháu nữ thánh sanh ra ba đ ời ông cháu mấy vị

thánh nhân, tạo thành thời thịnh trị tốt đ ẹp nhất tự ngàn

xưa. Người đ ời sau gọi phụ nữ là “thái thái” tức là muốn

đ em so họ với ba bà Thái. Do đ ấy, hãy ngẫm xem: Thái

Thái là danh hiệu cao quý nhất không gì hơn đ ược nữa đ ể

gọi phụ nữ. Nữ giới cần phải có đ ức hạnh của ba bà Thái thì

mới chẳng phụ bạc sự tôn xưng ấy. Rất mong những vị nữ

anh hiền trong hiện tại hãy thực hiện chuyện giúp chồng

dạy con, khiến cho con cái do mình sanh ra đ ều thành hi

ền thiện ngõ hầu chẳng phụ danh xưng tốt đ ẹp trên đ ây!

Kế đ ấy, cần phải nỗ lực ă n chay. Con người và đ ộng

vật vốn bình đ ẳng, nỡ nào giết hại tánh mạng chúng đ ể

thỏa mãn miệng, bụng mình? Thân ta vừa bị dao cắt phải

một chút liền cảm thấy đ au khổ. Mới nói hoặc nghĩ đ ến

đ ó, tim gan đ au buốt, nỡ nào giết chúng ă n thịt? Huống

chi kẻ sát sanh ă n thịt dễ khởi cơ duyên giết hại. Tai kiếp

đ ao binh trong đ ời này đ ều là do đ ây mà có! Cổ nhân

nói: “Dục tri thế thượng đ ao binh kiếp; đ ản thính đ ồ

môn dạ bán thanh” (Muốn biết đ ao binh trong cõi thế,

hãy nghe tiếng lò mổ giữa đ êm trường). Trong cõi đ ời,

77

khá nhiều kẻ tuy hiểu rõ đ ạo lý Phật pháp mà vẫn thấy

kiêng giết, ă n chay là chuyện khó làm.

Nă m Dân Quốc thứ mười (1921), tôi đ ến Nam Kinh th

ă m một người bạn. Ông ta mời ông Ngụy Mai Tôn đ ến

gặp tôi. Ông Ngụy tin Phật, niệm Phật, nhưng bảo là chưa

thể ă n chay. Tôi dặn ông ta hãy đ ọc kỹ Bài Vă n Kêu Gọi Tu

Bổ Ao Phóng Sanh của chùa Cực Lạc ở Nam Tầm đ ă ng

trong bộ Vă n Sao mấy chục lượt sẽ ă n chay đ ược. Bởi lẽ,

trong bài vă n đ ó, trước hết nói chúng sanh và Phật tâm

tánh chẳng hai. Tiếp đ ó, nói đ ến [ta và các loài vật] bao

kiếp làm cha, mẹ, anh, em, vợ, con, quyến thuộc, sanh ra

lẫn nhau, làm oan gia đ ối đ ầu của nhau, giết chóc lẫn

nhau. Tiếp đ ó, dẫn kinh vă n Phạm Võng, Lă ng Nghiêm, L

ă ng Già làm chứng. Ðọc sâu nghĩ chín, chẳng những

không nỡ ă n mà còn chẳng dám ă n nữa kia! Chưa đ ầy hai

tháng sau, Ngụy cư sĩ liền trọn không ă n thịt nữa.

Lại nữa, bà mẹ của cư sĩ Hoàng Hàm Chi ở Thượng Hải

chưa thể ă n chay, lại còn chẳng tin ă n chay là chuyện

trọng yếu trong việc học Phật. Ông Hoàng Hàm Chi gởi thư

hỏi cách [khuyên cho mẹ tin], tôi bảo ông ta sớm tối thay mẹ

đ ối trước Phật sám hối nghiệp chướng. Do mẹ con thiên

tánh tương quan, nếu thật sự chí thành ắt có cảm ứng.

Hàm Chi làm theo, hơn tháng sau, mẹ ông liền ă n chay

trường. Lúc đ ó bà đ ã tám mươi mốt tuổi, công khóa hằng

ngày là hai vạn câu Phật hiệu, sống đ ến nă m chín mươi

78

ba tuổi mới mất. Tôi mong từ hôm nay trở đ i, hết thảy đ ại

chúng chú ý kiêng giết, ă n chay và khuyên cha mẹ, con cái

và thân hữu của chính mình cùng nhau ă n chay. Phải biết

đ ây cũ ng là phương pháp că n bản đ ể hộ quốc tức tai.

Những đ iều tôi giảng hôm nay là ý nghĩ a của hộ quốc

tức tai, mà phương pháp đ ể thực hành hộ quốc tức tai

chính là niệm Phật, ă n chay; mong quý vị chẳng nghĩ là

thiển cận rồi chẳng thèm đ ể ý.

Ngày thứ ba: Trần thuật nguyên lý nhân quả

và nêu những sự thực đ ể chứng minh

Hai ngày hôm trước, tôi đ ã trình bày sơ lược về đ ạo lý

nhân quả và phương pháp tức tai hộ quốc; hôm nay vốn

chẳng cần phải luận về nhân quả nữa; nhưng vẫn còn có

những đ iểm chẳng thể không trình bày rõ ràng, nên tôi đ

ịnh sẽ giảng sâu hơn ít nữa, giảng rõ nguyên lý nhân quả và

nêu sự thực đ ể làm chứng, ngõ hầu đ ại chúng biết mà

kiêng dè.

Hiện thời, người đ ời chẳng hiểu nguyên lý nhân quả,

cho đ ó là chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũ ng tính

chiếm tiện nghi, chẳng chịu thua thiệt; đ âu biết tiện nghi

chính là chịu thua thiệt, chịu thua thiệt chính là tiện nghi.

79

Như người làm cha mẹ hiện nay phần nhiều nuông chiều

con cái, chẳng kềm cặp nghiêm ngặt đ ến nỗi tạo thành

thói quen ham tiền tài, tham chuộng tiện nghi. Cứ cho là có

như vậy mới giữ gìn đ ược gia sản, chẳng đ ến nỗi bị tổn

thất; nào ngờ kết quả trái ngược: Gây vạ suốt đ ời, lại còn

gián tiếp tạo ảnh hưởng vô hạn cho quốc gia, xã hội.

Nay tôi nêu lên một chuyện đ ể làm ví dụ: Triệu Lương

Tướng ở Ðại Châu đ ời Tùy, giàu nứt đ ố đ ổ vách, có hai đ

ứa con. Ðứa lớn tên Mạnh, đ ứa nhỏ tên Doanh. Doanh

mạnh mẽ, Mạnh yếu đ uối. Lúc người cha sắp mất, chia gia

sản làm hai, Mạnh đ ược nhiều hơn. Tới khi Lương Tướng

mất, Doanh chiếm sạch tài sản của anh, chỉ cho anh một că

n nhà và mảnh vườn. Mạnh phải đ i làm thuê đ ể tự nuôi

thân. Chẳng mấy chốc, Triệu Doanh chết, sanh làm con của

Mạnh, mang tên là Hoàn. Sau đ ấy, Mạnh cũ ng chết, đ ầu

thai vào nhà Doanh, làm cháu nội của Doanh, mang tên là

Tiên. Ðến lớn, nhà Mạnh càng nghèo, nhà Doanh càng giàu.

Triệu Hoàn phải làm tôi tớ cho Triệu Tiên đ ể sống. Ngạn

ngữ có câu: “Thiên đ ạo không công bằng, đ ã giàu càng

giàu thêm”.

Một ngày kia, Hoàn nghe bà mẹ góa bảo: “Triệu Doanh

cướp đ oạt gia sản của mày đ ến nỗi đ ời mày nghèo mạt,

nay đ ến làm tôi tớ cho nó, chẳng nhục hay sao?” Bởi thế,

Hoàn oán hận, muốn giết Triệu Tiên. Nă m Khai Hoàng thứ

nhất (600 Tây lịch), Hoàn theo Tiên đ i triều bái Ngũ Ðài,

80

vào đ ến chốn hang thẳm mấy mươi dặm ở phía Ðông, sâu

hun hút không một bóng người. Hoàn rút dao, bảo Tiên:

“Ông nội mày và bố tao là anh em. Ông mày đ oạt sản

nghiệp của tao. Ðến đ ời tao nghèo túng nay làm đ ầy tớ

cho mày. Mày nỡ lòng làm thế, nay tao giết mày đ ây!”

Tiên liền rảo chạy, Hoàn đ uổi theo chạy vào rừng, thấy có

am tranh liền bước vào. Có một vị lão Tă ng bảo Hoàn:

“Ông đ ịnh làm gì thế?” Hoàn đ áp: “Tôi đ uổi theo kẻ

oán thù!” Vị lão Tă ng cười lớn: “Ông khoan làm thế, tôi

sẽ cho ông tự biết”, rồi trao những món thuốc cho mỗi

người đ ể pha trà. Uống xong, như mộng mới tỉnh, chợt nhớ

việc cũ , cảm thấy thẹn thùng, đ au đ ớn. Lão Tă ng bảo:

“Doanh chính là tiền thân của Hoàn. Cướp đ oạt tài sản

của anh chính là tự bỏ tài sản của mình. Tiên là Mạnh thác

sanh trở lại đ ể hưởng lấy sản nghiệp kiếp trước vì lệnh cha

vẫn còn vậy!” Hai người bèn bỏ nhà tu theo đ ạo Phật, sau

mất tại Di Ðà Am. Xem trong Thanh Lương Sơn Chí19[19].

Nhân quả báo ứng hiển hiện rõ ràng, như âm vang ứng

theo tiếng, như bóng theo hình, chẳng sai mảy may.

Lại như hiện tại còn lưu truyền chuyện cái trống bằng da

người ở Ngũ Ðài Sơn cũ ng là chuyện nhân quả báo ứng

thật rành rẽ đ áng sợ vậy, xin kể rành rẽ. Đ ời Ðường, tại

chùa Hắc Sơn ở mặt sau ngọn Bắc Ðài có nhà sư tên Pháp Ái

19[19] Thanh Lương Sơn Chí: Sách ghi chép về sự tích núi Ngũ Đài. Do núi Ngũ Đài băng

đọng ngàn năm, mùa Hạ vẫn có thể có tuyết rơi, không bao giờ nóng nực, nên được gọi là

Thanh Lương Sơn.

81

làm Giám Tự hai mươi nă m, lấy vật dụng của Chiêu Ðề Tă

ng20[20] tậu nhiều ruộng ở Nam Nguyên, đ ể lại cho đ ồ đ

ệ là Minh Hối. Pháp Ái chết liền sanh làm trâu ở nhà nọ tận

lực một mình kéo cày trong ba mươi nă m. Trâu vừa già vừa

bệnh, chủ trại muốn đ em trâu đ ổi lấy dầu. Ðêm ấy, Minh

Hối mộng thấy vị thầy đ ã chết của mình khóc bảo: “Ta

dùng tài sản của Tă ng chúng đ ể tậu ruộng cho ngươi. Nay

đ ang làm trâu vừa già vừa còm cõi. Xin hãy lột da ta bịt

trống, viết tên họ của ta trên trống. Mỗi khi lễ tụng liền đ

ánh trống thì nỗi khổ của ta mới mong có ngày thoát khỏi. N

ếu không, dù gò Nam Nguyên có biến thành biển xanh, ta

vẫn chưa thể thoát khổ nổi!” Nói xong, phủ phục cả thân

mình xuống. Minh Hối tỉnh giấc, chỉ mới nửa đ êm liền

thỉnh chuông nhóm chúng, kể cặn kẽ chuyện này. Sáng hôm

sau, chủ trại ruộng báo con trâu già đ ã húc đ ầu vào cây mà

chết. Minh Hối y theo lời trước, lột da trâu bịt trống, viết

tên [thầy] lên trên, bán hết ruộng ở Nam Nguyên, đ ược

bao nhiêu tiền đ em đ ãi cơm chư Tă ng Ngũ Ðài hết.

Minh Hối lại bán sạch cả y bát, vì vị thầy đ ã mất mà lễ sám.

Sau đ em trống ấy gởi vào đ iện Vă n Thù ở Ngũ Ðài Sơn.

Lâu ngày, trống hư, chủ chùa đ em trống khác thế vào. [Th

20[20] Chiêu Đề (Catur-diśa): Còn được phiên là Chiêu Đấu Đề Xá, dịch nghĩa là Tứ Phương, hoặc Tứ

Phương Tăng, Tứ Phương Tăng Phòng, có nghĩa là chúng tăng từ bốn phương đều có thể nghỉ lại nhà

khách của chùa. Về sau, chữ này dùng để chỉ tài sản chung của Tăng chúng, mọi người đều có quyền

sử dụng.

82

ế gian] ngoa truyền là trống bịt bằng da người. Xem trong

Thanh Lương Sơn Chí.

Ấy là nhân quả rành rành, không ai có thể trốn khỏi. Hai

người con họ Triệu do đ ời trước có gieo că n lành nên gặp

đ ược cao tă ng, nghiễm nhiên thành đ ạo. Còn như những

kẻ phàm tục há nên tự ỷ y, lại còn bài bác “không có nhân

quả”, tự mình lầm, làm người khác lầm, tự hại, hại người!

Người đ ời nay đ ều chỉ thấy chuyện trước mắt, chẳng đ

oái hoài đ ời sau, thích chiếm tiện nghi, chẳng bằng lòng

chịu thua thiệt. Con cái họ mắt thấy tai nghe, tập riết thành

thói. Phong tục xã hội cũ ng do đ ó mà hiểm ác, tranh đ oạt

khởi lên, đ ại loạn dấy lên lung tung, giết người đ ầy thành,

ngập đ ồng mà mắt chẳng nháy, tâm chẳng áy náy, không

gì chẳng phải là vì lẽ đ ó. Ðã thế, những kẻ giết người tàn

nhẫn, ác đ ộc, chẳng thấy là đ áng buồn, đ áng sợ, ngược

ngạo vênh váo khoe công, lại còn khen ngợi lẫn nhau. Thậm

chí có kẻ giết cả cha mẹ, giết huynh trưởng, ngược ngạo

tự xưng là “đ ại nghĩ a diệt thân” (vì nghĩ a lớn mà giết

người thân)! Ôi! Họa biến đ ến thế, thiên lý tuyệt, nhân đ

ạo diệt, không những đ ạo đ ức bị vùi lấp, mất mát mà chắc

là kiếp nạn lớn lao sẽ liên tiếp xảy ra! Vì thế, trong hiện tại,

muốn cứu vớt, bảo vệ đ ất nước thì phải bắt đ ầu từ că n

bản. Că n bản là gì? Tức là tin tưởng chắc chắn vào nhân

quả. Nếu đ ã thật sự hiểu rõ lý nhân quả rồi lại còn có thể

dốc lòng tin, thực hành thì thế đ ạo, nhân tâm sẽ tự có thể

83

vãn hồi. Tôi cho rằng tất cả triết học, tôn giáo trên thế giới

không gì tinh vi, sâu thẳm, nhưng dễ thực hành bằng Phật

giáo!

Hiện tại, người đ ời sở dĩ chẳng tin nhân quả, phần lớn

là vì chịu ảnh hưởng của Tống Nho. Những nhà Lý học21[21]

thời Tống như Trình Minh Ðạo, [Trình] Y Xuyên, Châu Hối

Am v.v… do xem kinh Ðại Thừa nhà Phật, chỉ lãnh hội sơ

lược ý nghĩ a “toàn sự tức lý” và thân cận tri thức trong

Tông Môn (Thiền Tông), lại biết ý chỉ “bất cứ pháp nào,

chuyện nào cũ ng chẳng ngoài Nhất Tâm”, chứ thực sự

chưa hề xem trọn khắp các kinh luận và tham học với khắp

mọi tri thức các tông, bèn trộm lấy ý nghĩ a của kinh Phật đ

ể tự xưng hùng, dùng đ ó đ ể phát huy sự sâu xa của Nho

giáo. Bọn họ lại sợ người đ ời sau xem kinh Phật sẽ biết đ

ược cái họ đ ạt đ ược [là ă n trộm từ kinh Phật] bèn rắp tâm

mê muội báng Phật. Do chẳng dễ báng bổ những chỗ tinh

diệu, họ liền nhắm vào mặt Sự đ ể bài bác. Họ bảo đ ức

Phật dạy sự -lý “tam thế nhân quả, lục đ ạo luân hồi” đ

ều nhằm phỉnh phờ hạng ngu phu, ngu phụ phụng hành

giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có những chuyện ấy.

21[21] Lý Học là học thuyết giải thích Nho giáo theo quan điểm của Trình Di và Châu Hy. Học thuyết

này cho Lý là nguyên khởi của vũ trụ (do nhìn từ góc độ khác nhau mà có danh xưng khác nhau như

Trời, Thượng Đế, Đạo v.v…), L{ là bản tánh trời sanh của từng cá nhân. Do lòng ham muốn riêng tư

mà con người quên mất Lý này. Vì thế, phải trừ khử dục vọng, trở về với Lý gọi đó là “thiên nhân hợp

nhất” (trời - người hợp nhất). Lý biểu hiện dưới dạng vật chất hữu hình thì gọi là Khí. Như vậy, Lý của

họ chỉ là vay mượn khái niệm Phật Tánh, Như Lai Tánh, Pháp Thân của Phật giáo mà thôi! Hoặc nói

cách khác, Lý - Khí của họ chỉ là cách gọi tên khác của chữ Thể và Dụng trong Phật giáo.

84

Họ còn bảo: Sau khi con người chết đ i, thân đ ã mục nát

thì thần thức cũ ng phiêu tán; dù có bă m, chặt, giã, mài sẽ

thi thố vào đ âu? Hơn nữa, thần thức đ ã tan thì còn ai đ ể

thọ sanh? Do vậy, họ đ ã mở tung đ ầu mối phóng túng,

không kiêng sợ gì cả, thiện không có gì đ ể khuyên, ác

không có gì đ ể trừng phạt, cho rằng “Trời tức là Lý” vậy,

chứ nào có một vị vua đ ội mão22[22] thật sự đ âu! Họ cho

rằng quỷ thần là lương nă ng23[23] của hai Khí, chẳng hạn

như sấm đ ộng là do hai khí Âm, Dương va chạm nhau nổ

thành tiếng.

Họ coi những vấn đ ề Thực Lý, Thực Sự là chuyện bàn

luận xuông, chuyên lấy việc “chánh tâm thành ý” làm cái

gốc đ ể trị quốc, trị dân; chẳng biết chánh tâm thành ý

chính là do “trí tri cách vật” mà ra. Họ bảo “trí tri” là

thúc đ ẩy tri thức (sự hiểu biết) của mình đ ến cùng cực,

“cách vật” là hiểu cùng tận cái lý của mọi sự vật trong

thiên hạ; nào hay “vật” chính là tư dục trong tâm mình.

Do có tư dục nên chướng lấp tự tâm. Bởi thế, tâm vốn sẵn

đ ủ chân tri nhưng không cách nào hiển hiện đ ược. Do

“cách trừ” (thấu hiểu và trừ khử) đ ược tư dục thì chân tri

22[22] Nguyên văn “miện lưu” là một thứ mũ lễ được dùng bởi những bậc quyền qu{. Thường được

gọi là mão “bình thiên”, có hình ống, đỉnh là một tấm phẳng hình chữ nhật (do vậy, gọi là Bình Thiên),

trước và sau tấm bình thiên có đính các sợi tua kết bằng châu ngọc rủ xuống trước trán. Theo phần

Biện Sư trong thiên Hạ Quan sách Châu Lễ, Miện của thiên tử có mười hai tua, chư hầu chín tua,

thượng đại phu bảy tua, hạ đại phu năm tua. Từ đời Tần Thủy Hoàng trở đi, “miện lưu” chỉ dành

riêng cho thiên tử đội, cấm tuyệt chư hầu, quan chức sử dụng.

23[23] Trong Lý Học, “lương năng” là thuật ngữ chỉ tác dụng và biểu hiện của Khí.

85

sẵn có sẽ tự hiển hiện. Hễ chân tri đ ã hiển thì ý sẽ thành,

tâm sẽ chánh! Chánh tâm thành ý thì ngu phu, ngu phụ

chẳng biết một chữ cũ ng vẫn làm đ ược! Còn nếu đ úng

như họ (chỉ các nhà Tống Nho) nói thì thúc đ ẩy tri thức của

ta đ ến cùng cực đ ể hiểu tận cùng cái lý của mọi sự vật

trong thiên hạ, dẫu bậc thánh nhân cũ ng làm không đ ược!

Vì thế, biết rằng: Hễ lầm lạc ở chỗ này thì că n bản đ ể giữ

yên cõi đ ời đ ã mất. Họ lại dùng thuyết “không nhân quả,

luân hồi” đ ể dạy người khác chánh tâm thành ý. Nếu

không có nhân quả, một phen chết đ i là vĩ nh viễn mất h

ết, thiện hay ác đ ều cùng chết sạch; còn ai bận tâm đ ế

n cái tiếng hão mà chánh tâm thành ý cơ chứ?

Hơn nữa, các nhà Lý học cho rằng: “Có làm đ iều gì đ ể

làm lành thì đ ó chính là ác”. Lời này đ úng là phá hoại

thiện pháp thế gian. Vì sao thế? Ông Cừ Bá Ngọc nă m hai

mươi tuổi, biết mười chín nă m trước đ ều sai trái. Ðến n

ă m mươi tuổi, thấy bốn mươi chín nă m trước đ ều sai trái,

muốn bớt lỗi nhưng chưa làm đ ược. Như thế là có làm đ i

ều gì hay là không làm đ iều gì? Khổng Tử coi “đ ức

không tu, học vấn chẳng giảng, nghe đ ạo nghĩ a mà

chẳng thể làm theo, không thể thay đ ổi chuyện chẳng tốt”

là đ iều đ áng lo. Tuổi đ ã bảy mươi, Ngài vẫn mong trời

cho sống thêm mấy nă m nữa đ ể học Dịch hòng khỏi mắc

lỗi lớn. Như vậy thì Ngài có làm đ iều gì hay không làm đ i

ều gì hết vậy?

86

Từ sau thời Trình - Châu, nhà Nho đ ều chẳng dám bàn

đ ến nhân quả vì hễ bàn đ ến sẽ bị người khác công kích,

bảo không phải là thuần Nho, cho là trái nghịch tiên hiền.

Bởi vậy, phàm những kẻ hiểu biết kém cỏi liền hùa giọng

báng Phật; người kiến thức cao minh không ai chẳng lén

lút xem kinh Phật đ ể mong khoe tài, không ai chẳng thống

thiết bài bác Phật pháp, ngõ hầu làm că n cứ đ ể sau này

đ ược thờ trong Hiền Từ (miếu thờ tiên hiền) trong làng

hay đ ược đ ưa vào [thờ trong] Vă n Miếu! Trong thâm

tâm của Trình, Châu khi ấy chỉ mong Nho Giáo hưng thịnh,

chẳng bận tâm Phật giáo sẽ còn hay mất! Cho tới hiện thời,

do chất đ ộc “phá diệt nhân quả, luân hồi” của bọn họ đ

ến nay bộc phát, phế kinh đ iển, phế luân thường, bỏ hiế

u, không biết hổ thẹn, trở thành những thảm kịch như giết

cha, giết mẹ, chẳng đ áng buồn ư?

Hiện tại, chiến sự ở vùng Tuy Viễn rất khẩn cấp, tai họa

cực thảm, những chiến sĩ trung dũ ng và đ ồng bào thân

ái của chúng ta hoặc là máu thịt tung tóe, táng thân, tổn

mạng, hoặc là nhà tan cửa nát, trôi giạt, bơ vơ, không cơm,

không áo, đ ói khát bức bách. Nói, nghĩ đ ến đ iều này,

tim gan đ ều tan nát! Sáng nay, pháp sư Viên Anh kể cho

tôi nghe chuyện này, bảo tôi khuyên mọi người phát tâm

cứu tế, góp gió thành bão24[24], chẳng quản ít nhiều. Có

24[24] Nguyên văn là “tập dịch thành cừu” (góp những miếng da ở dưới nách con cáo may

thành áo cừu).

87

áo giúp áo, có tiền giúp tiền, công đ ức vô lượng, chắc

chắn hưởng thiện quả. Phải biết: Giúp người tức là giúp

mình, cứu người tức là cứu mình. Nhân quả vằng vặc, chẳng

sai sót mảy may. Nếu chính mình gặp tai nạn, không có ai

giúp, nhưng nếu có thể xưng niệm thánh hiệu thì nhất đ

ịnh sẽ đ ược Phật, Bồ Tát thầm gia hộ, bảo vệ. Tôi là một ông

sư nghèo, hoàn toàn chẳng cất chứa thứ gì, hễ đ ệ tử tại gia

có bố thí gì, đ ều dùng đ ể ấn loát kinh sách hết. Nay tôi

xin quyên ra một ngàn đ ồng đ ể xướng suất [cứu trợ vùng]

Tuy Viễn. Giúp người mắc nạn thì mới có thể dứt trừ đ ược

tai nạn cho chính mình.

Hiện tại, có những phụ nữ ham chuộng xa hoa, một bình

nước hoa trị giá từ ba, bốn chục đ ồng đ ến hai, ba tră m đ

ồng. Sao bằng đ em số tiền phung phí đ ó dùng đ ể cứu

trợ Tuy Viễn? Lại còn có hạng người rất chuộng tích cóp của

cải, lúc sống đ ã chẳng muốn dùng, chết đ i còn mong

chôn theo xuống đ ất, muốn đ ược con cái chôn cất ma

chay trọng thể, hoặc đ ể lại cho con cháu dùng. Đ âu có biế

t hiện nay đ ang có nguy cơ đ ào mồ, [những tưởng] tích

chứa [nào ngờ] lại khiến cho [người chết] bị hại. Như hiện

tại ở Thiểm Tây đ ang có cả một tổ chức đ ào mộ chuyên

làm chuyện đ ó. Làm con có hiếu với cha mẹ, nỡ nào vì chữ

Hiếu lại khiến cho mớ xương khô của cha mẹ bị phơi tênh

hênh trên mặt đ ất! Sao bằng đ em khoản tiền lớn lao đ ó

dùng đ ể cứu tế người khác thì tốt hơn! Lại có người nghèo

88

túng, tuy có chí nguyện làm như thế, nhưng sức chẳng

kham nổi, tôi cho rằng hãy nên niệm Phật cho nhiều đ ể

giúp đ ỡ. Đ ã có thể dứt tai nạn cho người, lại còn dứt đ ược

tai nạn cho mình. Vui sướng [như vậy] mà sao không làm?

Lúc chiến cuộc xảy ra tại đ ất Hỗ (Thượng Hải), cháu nội

của cư sĩ Tào Thương Châu ở Tô Châu vâng lời cha từ đ ất

Hỗ xuống Tô Châu đ ón tam thúc tổ (ông chú thứ ba) và các

chú về đ ất Hỗ. Ông chú và các chú đ ều chẳng muốn đ i.

Anh ta bèn lấy châu báu của vợ giắt vào lưng, ngồi tàu thủy

nhỏ về đ ất Hỗ. Chợt có kẻ cướp đ ến, anh ta muốn trốn

lên bờ, liền nhảy xuống nước, vàng ngọc giắt theo có lẽ đ

áng giá hai, ba vạn đ ều đ em cho hết người đ ã đ ổi áo

cho mình, tự xưng là học trò nghèo, làm thầy giáo dạy vỡ

lòng cho trẻ. Nếu bọn giặc cướp biết đ ược, không biết

còn phải tốn tới mấy vạn đ ể chuộc thân nữa. Ðấy có phải là

tiền tài gieo họa cho người hay không? Người ta nay chỉ

tham phần tiện nghi trước mắt, chẳng thể thấy thông suốt,

bị khốn khổ vì tiền tài, những trường hợp như vậy rất nhiề

u, chẳng thể thuật đ ủ! Khi xưa, có một vị cư sĩ nọ hỏi tôi

phương cách vãn hồi kiếp vận, tôi bảo: “Việc này rất dễ!

Hiểu rõ lý nhân quả rồi tận lực thực hành. Phát đ ược tín

tâm ắt có thiện quả. Vả nữa, tâm dối trá đ ã tiêu, trong tâm

rỗng suốt thì tai nạn nào cũ ng đ ều tiêu tan như bă ng tuy

ết vậy!”

89

Trong cơn loạn lạc Hồng Dương25[25], một nhà buôn gỗ

ở Giang Tây là Viên Cung Hoằng bị bọn phỉ bắt đ ược, trói

vào cây cột ở khách sảnh (nhà khách), khóa chặt cửa lại, chờ

đ úng lúc sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ ắt bị chết, bèn thầm

niệm thánh hiệu Quán Âm, hồi lâu ngủ quên đ i, tỉnh dậy

thấy thân mình nằm ngoài đ ồng, ngẩng đ ầu lên thấy hãy

còn sớm liền trốn thoát. Do vậy, tôi rất mong mọi người

phát tín tâm rộng lớn, nương vào đ ức của cha trời, mẹ đ

ất26[26], giữ lòng nhân “coi mọi người và ta là ruột thịt,

xem loài vật cũ ng giống như ta”. Phàm đ ối với [hết thảy

những gì] trong vòng trời đ ất đ ều thương xót, nuôi

dưỡng, bảo vệ. Lại còn đ em lẽ nhân quả báo ứng, đ ạo

niệm Phật cầu sanh Tây Phương đ ể chỉ bảo, khuyến hóa. N

ếu như ai nấy đ ều thực hành thì nước chẳng mong bảo

vệ mà tự đ ược bảo vệ, tai nạn chẳng mong dứt cũ ng tự

dứt vậy!

Ngày thứ tư: Giảng về nhân quả lớn lao đ ể thành Phật và

giải thích đ ại lược những nghĩ a lý trọng yếu của Tứ Liệu

Giản

25[25] Hồng Dương: Loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Tài và Dương Tú Thanh lãnh

đạo, nên còn gọi là loạn Hồng Dương.

26[26] Nguyên văn “Càn vi đại phụ, Khôn vi đại mẫu”.

90

Hai ngày hôm trước, tôi đ ã bàn qua về nhân quả. Hôm

nay tôi vẫn bàn về nhân quả, [quý vị] cần biết là [nhân quả]

đ ã đ ược nói trong hai bữa trước là tiểu nhân, tiểu quả,

[nhân quả] đ ược bàn trong ngày hôm nay là đ ại nhân, đ ại

quả.

Sở dĩ đ ức Phật thành Phật thường hưởng pháp lạc

chân thường, sở dĩ chúng sanh bị đ ọa đ ịa ngục, vĩ nh

viễn chịu khổ luân hồi kịch liệt, [cả hai việc này] đ ều chẳng

ra ngoài nhân quả. Hễ con người muốn trị thân tâm thì trọn

chẳng thể ra ngoài nhân quả đ ược. Con người hiện tại ham

ă n nói lớn lối, chẳng cầu thực tế, bộp chộp bảo nhân quả

là pháp Tiểu Thừa, thật là lầm lẫn lớn. Nào biết Ðại Thừa

hay Tiểu Thừa trọn chẳng ra ngoài hai chữ “nhân quả” đ

ược! Tiểu Thừa là tiểu nhân quả, Ðại Thừa là đ ại nhân quả.

Tiểu nhân (nhân nhỏ bé) là y theo Sanh Diệt Tứ Ðế, biết

Khổ, đ oạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Ðạo; tiểu quả là chứng quả

A La Hán. Ðại nhân (nhân lớn lao) là tu Lục Ðộ vạn hạnh; đ ại

quả là chứng Phật Quả rốt ráo. Trồng dưa đ ược dưa, gieo

đ ậu đ ược đ ậu. Có nhân nào ắt sẽ có quả đ ó, chưa hề sai

sót. Vì vậy, chẳng riêng người thế gian đ ều thuộc trong

nhân quả mà ngay chính Bồ Tát, Phật cũ ng chẳng ra ngoài

nhân quả đ ược! Nếu bảo nhân quả là Tiểu Thừa, hóa ra

Phật, Bồ Tát cũ ng là Tiểu Thừa ư? Ðủ biết lời lẽ ấy ngông

cuồng, trái nghịch đ ến thế nào!

91

Pháp hội này là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Tôi chỉ mới

bàn đ ến việc ngưng dứt tai nạn đ ao binh, nước lửa, vẫn

chưa phải là rốt ráo. Lại cần phải dứt tai nạn phiền não

sanh tử thì mới là biện pháp triệt đ ể. Chúng ta mê muội

Pháp Thân của chính mình, dứt huệ mạng của Phật, đ áng

buồn, đ áng đ au! So với việc sắc thân bị họa, [mê lầm mất

Pháp Thân] nào phải chỉ gấp tră m ngàn vạn lần nặng nề

hơn! Vì thế, phải hộ trì Pháp Thân huệ mạng, đ oạn sanh tử

phiền não mới đ áng kể là biện pháp tức tai (dứt trừ tai

chướng) trọn vẹn.

Phật giáo, [nói] đ ại cương, chẳng ngoài nă m tông, nă

m tông chính là Luật, Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Luật là că n

bản của Phật pháp, nghiêm trì tịnh giới đ ể mong tam

nghiệp thanh tịnh, nhất tánh viên minh, Ngũ Uẩn đ ều

không, các khổ đ ều đ ộ. Giáo là nương theo giáo pháp mà

tu Quán, rời khỏi “ngón tay [chỉ mặt tră ng] đ ể thấy đ ược

mặt tră ng”, triệt ngộ Phật tánh sẵn có của đ ương nhân, ki

ến tánh thành Phật. Nhưng chữ “thành Phật” đ ó có ngh

ĩ a là thấy đ ược đ ức Phật thiên chân27[27] trong tự tánh

bèn gọi là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành tựu,

chứng đ ược quả Phật nơi Bồ Ðề đ ạo. Mật dùng tam mật

(thân mật, khẩu mật, ý mật) gia trì, chuyển Thức thành Trí,

27[27] “Thiên chân” có nghĩa là chân l{ tự nhiên sẵn có không cần phải tạo tác. Sách Chỉ Quán Phụ

Hành Truyền Hoằng Quyết, quyển 1, giảng: “Lý không phải tạo tác thì gọi là thiên chân”. Như vậy,

“thiên chân Phật” chính là Phật sẵn có trong chân tâm, tức Pháp Thân.

92

gọi là “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân

này). Ðây cũ ng chỉ là coi “liễu sanh thoát tử từ ngay nơi

thân này là thành Phật”, chứ chưa phải là thành đ ức Phật

phước huệ viên mãn! Ba tông này đ ều có thể gộp vào Thi

ền vì khí phận giống nhau. Do vậy, tu trì Phật pháp trọng y

ếu chẳng ngoài hai môn Thiền và Tịnh. Thiền chuyên cậy

tự lực, nếu chẳng phải kẻ túc că n chín muồi thì chẳng thể

đ ược lợi ích thật sự. Tịnh là kiêm nhờ Phật lực, hễ ai đ ầy đ

ủ tín, hạnh, nguyện chân thật thì đ ều có thể đ ới nghiệp

vãng sanh. Sự khó - dễ giữa hai pháp môn này khác nhau

một trời, một vực. Vì thế, đ ầu đ ời Tống, ngài Vĩ nh Minh

Diên Thọ thiền sư dùng thân “cổ Phật” thị hiện sanh

trong thế gian, triệt ngộ nhất tâm, tu trọn vạn hạnh; mỗi

ngày làm một tră m lẻ tám Phật sự, đ êm đ i qua ngọn núi

khác kinh hành niệm Phật. Ngài rất lo cho kẻ học trong đ ời

sau chẳng hiểu rõ tông yếu28[28], nên đ ặc biệt viết một

bài kệ Tứ Liệu Giản ngõ hầu [mọi người] biết chỗ tiến

theo.

Bài kệ ấy như sau:

Hữu Thiền, hữu Tịnh Đ ộ,

Do như đ ới giác hổ,

28[28] Tông yếu: Điều quan trọng mấu chốt trong giáo pháp của các tông. Sách Pháp Hoa Kinh Huyền

Nghĩa quyển 1 giảng: “Tông yếu nghĩa là trọng yếu, tức là nhân quả của chính đức Phật đã hành thì

gọi là Tông. Thế nào là Yếu? Vô lượng các điều thiện, hễ nói là Nhân thì đều bao gồm hết. Vô lượng

sự chứng đắc, hễ nói là Quả thì đều bao gồm hết. Như giở cái lưới lên, không mắt lưới nào chẳng

động. Nắm một góc áo, không sợi vải nào chẳng dính theo, nên gọi là Tông Yếu”.

93

Hiện thế vi nhân sư,

Lai sanh tác Phật, Tổ.

Vô Thiền, hữu Tịnh Đ ộ,

Vạn tu, vạn nhân khứ,

Nhược đ ắc kiến Di Đ à,

Hà sầu bất khai ngộ?

Hữu Thiền, vô Tịnh Đ ộ,

Thập nhân cửu tha lộ,

Ấm cảnh nhược hiện tiền,

Miết nhĩ tùy tha khứ.

Vô Thiền, vô Tịnh Đ ộ,

Thiết sàng tịnh đ ồng trụ,

Vạn kiếp dữ thiên sanh,

Một cá nhân y hỗ

(Có Thiền, có Tịnh Ðộ,

Khác nào hổ thêm sừng,

Hiện tại làm thầy người

Ðời sau làm Phật, Tổ.

Không Thiền, có Tịnh Ðộ,

94

Vạn tu, vạn cùng sanh,

Nếu đ ược thấy Di Ðà,

Lo gì chẳng khai ngộ.

Có Thiền, không Tịnh Ðộ

Mười người, chín chần chừ

Ấm cảnh nếu hiện tiền

Chớp mắt đ i theo nó.

Không Thiền, không Tịnh Ðộ

Giường sắt cùng cột đ ồng

Muôn kiếp với ngàn đ ời

Không một ai nương dựa)

Tám mươi chữ này là cương yếu cả một đ ời giáo hóa

của đ ức Như Lai, là khuôn mẫu huyền diệu đ ể người học

[Phật] liễu thoát ngay trong đ ời này. Người đ ọc trước hết

cần phải hiểu rõ thế nào là Thiền? Thế nào là Tịnh Ðộ? Th

ế nào là có Thiền? Thế nào là có Tịnh Ðộ? Thiền và Tịnh

Ðộ là ước về Lý, ước về Giáo mà nói. “Có Thiền, có Tịnh

Ðộ” là ước về că n cơ, ước về tu mà luận. [Luận theo] Lý -

Giáo, hai pháp [Thiền và Tịnh] trọn chẳng khác gì nhau. Xét

về mặt Cơ - Tu (că n cơ và sự tu hành), hai pháp khác nhau

rất xa. Lời tuy tương tự, ý nghĩ a thật khác biệt, cần phải rất

95

chú ý thì mới chẳng cô phụ tấm lòng đ au đ áu của tổ Vĩ nh

Minh.

Gì là Thiền? Ðấy chính là Chân Như Phật tánh chúng ta

sẵn có, nhà Thiền thường gọi là “bản lai diện mục trước

khi cha mẹ sanh ra”. Tông môn chẳng nói toạc ra đ ể

người ta tự tham cứu, tự lãnh ngộ, nên nói như thế. Thật sự,

nó chính là tâm thể thuần chân ly niệm linh tri, không Nă ng,

không Sở, vừa Tịch vừa Chiếu29[29] vậy (“Ly niệm linh

tri” là trọn không có ý niệm suy lường nhưng hiểu rành rẽ

tất cả cảnh tượng trước mắt). Tịnh Ðộ tức “tín nguyện trì

danh, cầu sanh Tây Phương”, chứ chẳng phải chỉ riêng nói

đ ến “duy tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà”.

“Có Thiền” tức là dốc sức tham cứu đ ến cùng cực,

niệm vắng lặng, tình30[30] mất đ i, thấy thấu suốt diện mục

sẵn có trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh. “Có

Tịnh Ðộ” là chuyện thực sự phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin,

phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu

như tham Thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt đ ể đ ều

chẳng đ ược gọi là “có Thiền”. Nếu như niệm Phật

29[29] Năng: Đối tượng chủ thể, Sở: đối tượng thụ động. Chẳng hạn, chúng ta đọc sách thì

nhãn thức và ý thức là Năng, cuốn sách được đọc là Sở. Tịch và Chiếu là hai mặt của chân tâm,

chân tâm thường hằng bất biến, không bị ngoại duyên nhiễm ô, không bị mất đi dù chúng sanh

luân hồi bao nhiêu kiếp nên gọi là Tịch (vắng lặng). Công dụng chiếu soi (tức nhận hiểu sự vật

vạn pháp) của Tâm được gọi là Chiếu.

30[30] Theo Duy Thức Học, tác dụng của sáu thức dưới ảnh hưởng của mê hoặc, vô minh thì

gọi là Tình, hoặc đôi khi còn gọi là Tình Thức hoặc Tình Tưởng. Chữ Tình này thường được

dùng để chỉ mọi ý niệm phân biệt, chấp trước đối với sự nhận thức của sáu căn.

96

nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín - nguyện, hoặc có

tín - nguyện nhưng chẳng thân thiết đ ều chẳng đ ược

gọi là “có Tịnh Ðộ”. Thậm chí, tuy tu Tịnh Ðộ nhưng tâm

nghĩ đ ến trần lao31[31], hoặc cầu phước báo trời -

người, hoặc cầu đ ời sau xuất gia làm Tă ng, nghe một hiểu

cả ngàn, đ ắc Đ ại Tổng Trì, hoằng dương Phật pháp, giáo

hóa chúng sanh đ ều chẳng đ ược gọi là “người tu Tịnh

Ðộ” vì chẳng chịu theo đ úng kinh giáo Tịnh Ðộ trong Phật

pháp. Nếu lầm lạc lấy giáo nghĩ a thông thường làm

chuẩn [đ ể phê phán, suy luận pháp môn Tịnh Đ ộ] thì trong

đ ời sau, trong cả vạn người, khó có đ ược một, hai kẻ có

thể chẳng mê đ ể đ ược liễu thoát. Bị phước báo mê hoặc,

từ mê vào mê, thật có lắm kẻ! Nếu thật sự hiểu sâu xa ý

nghĩ a này thì mới đ úng là người tu Tịnh Ðộ.

Kẻ có mắt không tròng thường tưởng tham thiền là

“có Thiền”, niệm Phật là “có Tịnh Đ ộ”, tự lầm, lầm

người, há chẳng phải là tai hại cùng cực hay sao? Ở đ ây, tôi

đ ã thuyết minh [thế nào là] có hay không có Thiền, Tịnh;

nay sẽ lại đ em lời kệ, dựa theo từng đ oạn đ ể phân tích

[thì quý vị] mới biết tám mươi chữ này khác nào trời tạo đ

ất dựng, không một chữ nào chẳng xác đ áng, không một

chữ nào có thể thay đ ổi đ ược!

31[31] Trần Lao là tên khác của phiền não, do phiền não khiến cho tâm bị nhiễm ô giống bụi bặm nên

gọi là Trần. Phiền não khiến cho thân tâm nhọc mệt, không an ổn nên gọi là Lao.

97

Bài kệ thứ nhất nói: “Có Thiền, có Tịnh Ðộ, khác nào hổ

thêm sừng, hiện tại làm thầy người, đ ời sau làm Phật, Tổ”,

nghĩ a là: Người đ ã triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến

tánh, lại còn thâm nhập kinh tạng, biết trọn vẹn các pháp

môn Quyền - Thật của Như Lai, nhưng trong các pháp, lại

chỉ chọn lấy một pháp “tín nguyện niệm Phật” đ ể làm đ

ường lối chung cho chánh hạnh tự lợi, lợi tha. Phần nói về

Thượng Phẩm Thượng Sanh trong Quán kinh [có câu]:

“Ðọc tụng Ðại Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩ a” chính là nói v

ề hạng người này. “Khác nào hổ thêm sừng” là người này

song tu Thiền Tịnh, có đ ại trí huệ, có đ ại Thiền Ðịnh, có

đ ại biện tài, tà ma ngoại đ ạo nghe danh vỡ mật, giống như

hổ mọc thêm sừng, oai mãnh khôn sánh. Có kẻ nào đ ến

học hỏi sẽ tùy cơ thuyết pháp. Thấy nên dùng Thiền Tịnh

Song Tu đ ể tiếp đ ộ thì dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp đ ộ.

Nên dùng Chuyên Tu Tịnh Ðộ đ ể tiếp đ ộ thì dùng Chuyên

Tu Tịnh Ðộ tiếp đ ộ. Bất luận là thượng, trung, hạ că n,

không một ai chẳng đ ược lợi lạc. [Người như vậy] há chẳng

phải là “nhân thiên đ ạo sư” ư? Ðến lúc mạng chung, đ

ược Phật tiếp dẫn vãng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng

khảy ngón tay, hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn, thấp

nhất cũ ng là chứng bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Cũ ng có

người đ ốn siêu32[32] đ ịa vị, đ ạt tới Ðẳng Giác. Bậc Sơ Trụ

32[32] Đốn siêu địa vị: Vượt nhanh qua các địa vị, không cần phải tu chứng từ từ theo từng bậc.

Như ngài Quán Thế Âm nghe đức Thế Tịnh Quang Vương Phật nói chú Đại Bi bèn vượt thẳng

từ Sơ Địa lên Thập Địa thì gọi là “đốn siêu địa vị”.

98

trong Viên Giáo đ ã có thể hiện thân làm Phật trong tră m

cõi; huống hồ là những đ ịa vị sau đ ó càng lên cao càng thù

thắng hơn, tính thẳng đ ến đ ịa vị thứ bốn mươi mốt là đ ịa

vị Ðẳng Giác [thì càng thù thắng đ ến mực nào] nữa? Vì th

ế nói: “Lai sanh tác Phật, Tổ” (Đ ời sau làm Phật, Tổ).

Bài kệ thứ hai là: “Không Thiền, có Tịnh Ðộ, vạn tu, vạn

cùng sanh, nếu đ ược thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”.

Do người ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng cứ quyế

t chí cầu sanh Tây Phương. Trong kiếp xưa, Phật từng phát

đ ại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con. N

ếu chúng sanh thật sự như con nhớ mẹ, chí thành niệm

Phật thì cảm ứng đ ạo giao, liền đ ược Phật nhiếp thọ. Kẻ

tận lực tu Ðịnh - Huệ đ ược vãng sanh đ ã đ ành, mà kẻ Ng

ũ Nghịch, Thập Ác lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, phát

tâm hổ thẹn lớn lao, xưng niệm Phật danh hoặc đ ến mười

tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi liền mạng chung, cũ ng đ ề

u đ ược hóa thân của Phật tiếp dẫn vãng sanh. Ðấy chẳng

phải là “vạn tu, vạn người sanh” hay sao? Tuy kẻ ấy niệm

Phật chẳng bao lâu, nhưng do [niệm Phật] cực kỳ mãnh liệt

nên đ ạt hiệu quả lớn lao, chớ nên đ em người niệm Phật

hờ hững, lững lờ đ ể so sánh nhiều - ít! Ðã sanh về Tây

Phương, gặp Phật nghe pháp, tuy có nhanh - chậm khác

nhau, nhưng đ ều đ ã cao dự dòng Thánh, vĩ nh viễn

chẳng lui sụt. Tùy theo că n tánh sâu hay cạn sẽ hoặc dần dà

hoặc nhanh chóng chứng đ ạt các quả vị. Đ ã đ ược chứng

99

quả thì chuyện khai ngộ cần gì phải nói tới nữa, bởi thế

mới bảo: “Nếu đ ược thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”.

Bài kệ thứ ba là: “Có Thiền, không Tịnh Ðộ, mười người,

chín chần chừ. Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đ i theo

nó”. Do người ấy tuy triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến

tánh, nhưng Kiến, Tư phiền não chẳng dễ đ oạn trừ, cần

phải qua bao duyên rèn luyện khiến cho [phiền não bị] đ

oạn trừ sạch không còn sót thì mới có thể xuất ly phần đ

oạn sanh tử33[33] . Còn như kẻ chưa đ oạn đ ược mảy may

nào ta chẳng cần bàn đ ến. Nếu như đ oạn [phiền não]

mà vẫn còn sót chút mảy may nào chưa thể đ oạn sạch thì

sáu nẻo luân hồi vẫn y như cũ , khó bề trốn tránh. Biển sanh

tử sâu thă m thẳm, đ ường Bồ Ðề xa vời vợi, nếu chưa về

đ ến nhà đ ã liền mạng chung thì trong mười người đ ại

ngộ, tám chín người đ ã giống như thế. Vì thế, mới nói:

“Thập nhân cửu tha lộ” (Mười người, chín chần chừ). Chữ

“tha” (蹉) ở đ ây nghĩ a là “tha đ à” (蹉 跎), nếu nói

thông tục là “chần chừ”. “Ấm cảnh” là cảnh tượng của

thân Trung Ấm, tức là các cảnh tượng do nghiệp lực thiện,

ác trong đ ời này và bao kiếp trước cùng hiện ra khi lâm

chung. Khi cảnh này hiện ra, chỉ trong nháy mắt, sẽ theo

nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh mẽ nhất đ i thọ sanh

trong đ ường thiện hay ác, chẳng thể tự làm chủ đ ược mảy

33[33] Phần Đoạn Sanh Tử (còn gọi là Phần Đoạn Tử, hoặc Hữu Vi Sanh Tử) là sanh tử trong

tam giới. Gọi là “phần đoạn” (có giai đoạn, có thời gian) vì do quả báo sai khác mà có hình

dáng, thọ lượng nhất định. Như vậy “xuất ly phần đoạn sanh tử” có nghĩa là thoát khỏi tam giới.

100

may nào, giống như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi

đ i trước. Tâm tình lắm mối, sẽ nghiêng lệch về chỗ nào

tâm mình đ ặt nặng. Ngũ Tổ Giới tái sanh làm Tô Ðông Pha,

Thảo Ðường Thanh lại sanh làm Lỗ Công34[34]. Ðấy vẫn còn

là bực thượng35[35], nên nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền,

chớp mắt đ i theo nó”.

Chữ Ấm (陰) âm đ ọc và ý nghĩ a giống chữ Ấm (蔭), có

nghĩ a là “che đ ậy”. Ý nói: Do nghiệp lực này ngă n che

nên chân tánh chẳng thể hiển hiện. Chữ Miết (瞥) cùng âm

với chữ Phiết (撇), nghĩ a là “chớp mắt”. Có kẻ cho rằng

chữ Tha (蹉) nghĩ a là lầm lạc, “Ấm” là cảnh Ngũ Ấm Ma

thì đ ều là vì chưa hiểu ý nghĩ a chữ Thiền và chữ Có nên

mới hiểu sai lầm như thế. Lẽ đ âu bậc đ ại triệt đ ại ngộ

trong mười vị, hết chín người lầm đ ường, lạc lối, lầm đ i

theo cảnh Ngũ Ấm Ma, bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm kẻ

bị ma dựa phát cuồng chính là hạng tă ng thượng

34[34] Ngũ Tổ là tên núi, đồng thời là tên chùa. Sư Giới thiền sư, người thời Tống, thuộc tông

Vân Môn, nối pháp của ngài Song Tuyền Sư Khoan, trụ trì chùa Ngũ Tổ núi Ngũ Tổ tại Tô

Châu, nên thường gọi là Ngũ Tổ Giới, chấn hưng tông phong mạnh mẽ. Theo Tây Quy Trực

Chỉ, quyển ba: “Thiền sư Thanh Thảo Đường khá có giới hạnh, tuổi ngoài chín mươi, thường

được nhà họ Tăng cúng dường hậu hĩ, bèn hứa thác sanh vào nhà ấy làm con. Sau họ Tăng sinh

được một người con, cho người đến tìm Thảo Đường thì Sư đã tọa hóa”. Theo pháp sư Viên

Anh, Thảo Đường Thanh là người đời Tống, là bậc tông tượng trong nhà Thiền, tuổi già, thấy vị

tể tướng đã cáo lão hồi hương hết sức vinh diệu, chợt khởi tâm niệm hâm mộ, bèn thác sanh vào

nhà ấy. Về sau, trở thành tể tướng Tăng Lỗ Công. Do một tâm niệm tham luyến mà công hạnh

tu Thiền cả đời bị vứt bỏ!

35[35] Gọi là bực thượng vì thân sau còn chưa lâm vào hoàn cảnh tệ hại lắm. Trong Ấn Quang

Văn Sao, có thuật chuyện vị Tăng ở núi Nhạn Đãng thân sau trở thành Tần Cối, một vị Tăng

khác trở thành con gái ông Châu Phòng Ngự. Có nhiều trường hợp còn đọa vào ác đạo nữa!

101

mạn36[36] chẳng hiểu giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện

đ ui. Sao chẳng biết tốt - xấu, lại đ em gán cho bậc đ ại

triệt, đ ại ngộ vậy? Ðiều này quan hệ rất lớn, chẳng thể

không biện bác rõ.

Bài kệ thứ tư là: “Không Thiền, không Tịnh Ðộ, giường

sắt cùng cột đ ồng, muôn kiếp với ngàn đ ời, không một ai

nương dựa”. Có người bảo “không Thiền, không Tịnh

Ðộ” chính là kẻ vùi đ ầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp.

Lầm lẫn lắm thay! Bởi lẽ, pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có

Thiền và Tịnh là phù hợp că n cơ nhất. Kẻ đ ó đ ã chưa triệt

ngộ, lại chẳng cầu vãng sanh, cứ hời hợt, hờ hững tu các

pháp môn khác thì chẳng thể giữ cho Ðịnh, Huệ quân bình,

đ oạn Hoặc, chứng Chân, lại chẳng cậy vào Phật lực đ ể đ ới

nghiệp vãng sanh, dùng công đ ức tu trì cả đ ời đ ể cảm lấy

phước báo trời người trong đ ời sau. Đ ời này đ ã không có

chánh trí, đ ời sau ắt bị phước chuyển, đ ắm say Ngũ Dục,

rộng tạo ác nghiệp. Ðã tạo nghiệp ác sẽ khó tránh khỏi ác

báo. Một hơi thở ra không hít vào đ ược nữa liền đ ọa đ ịa

ngục, rõ ràng là trải qua kiếp dài lâu, nằm lă n giường sắt,

ôm ấp cột đ ồng đ ể đ ền trả các món ác nghiệp tham

thanh sắc, giết sanh mạng v.v… Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ

lòng từ mẫn, nhưng [do kẻ ấy] bị ác nghiệp chướng ngă n

nên cũ ng chẳng đ ược lợi ích gì.

36[36] Tăng thượng mạn (Abhimāna): Đối với giáo lý hoặc cảnh giới, địa vị tu hành chưa hề có

chứng ngộ mà đã khởi tâm kiêu hãnh, ngạo nghễ. Do coi mình cao hơn người khác nên gọi là

“tăng thượng”, cũng như do tự đề cao mình quá phận nên gọi là “tăng thượng”.

102

Thiền sư Triệt Lưu đ ời Thanh bảo: “Người tu hành nế

u không có chánh tín cầu sanh Tây phương, tu lung tung các

đ iều thiện khác thì gọi là oan gia đ ời thứ ba”, chính là nói

về ý này. Bởi lẽ, đ ời này tu hành, đ ời sau hưởng phước;

cậy phước làm ác, ắt bị đ ọa lạc. Vui chỉ tạm hưởng trong đ

ời sau, khổ vĩ nh viễn suốt kiếp. Nếu như nghiệp đ ịa ngục

đ ã tiêu, lại chuyển sanh làm quỷ, súc sanh. Muốn lại đ ược

thân người, khó nhất trong những đ iều khó! Bởi thế, đ ức

Thích Ca dùng tay bốc đ ất, hỏi ngài A Nan rằng: “Ðất trên

tay ta nhiều hay đ ất trên đ ại đ ịa nhiều?” A Nan bạch

Phật: “Ðất trên đ ại đ ịa nhiều”. Phật dạy: “Ðược thân

người như đ ất trên tay; mất thân người như đ ất trên đ ại

đ ịa”. Câu “vạn kiếp và ngàn đ ời, không một ai nương

dựa” vẫn còn là do âm vận bài kệ bó buộc nên chỉ nói thiển

cận như vậy đ ó thôi!

Vĩ nh Minh thiền sư sợ người đ ời chẳng hiểu đ ược

nghĩ a chân thật của Thiền - Tịnh, [chẳng] quán sát rõ ràng,

nên mới viết bài kệ này đ ể giảng rõ. Có thể nói [bài kệ này]

là chiếc bè báu đ ể thoát bến mê, là người dẫn đ ường lìa

nẻo hiểm, công lao rất lớn. Bởi lẽ, hết thảy pháp môn

chuyên cậy vào tự lực, pháp môn Tịnh Ðộ kiêm nhờ Phật lực.

Trong hết thảy pháp môn phải hết sạch Hoặc nghiệp thì

mới có thể liễu sanh tử; pháp môn Tịnh Ðộ đ ới nghiệp vãng

sanh liền dự vào dòng Thánh. Người đ ời chẳng xem xét,

coi Tịnh Ðộ là thừa thãi, vụn vặt, thật đ áng than thở lớn lao!

103

Hiện tại, người ta hay cho rằng khán thoại đ ầu là cách tu

thích hợp nhất, [cứ cho rằng] hễ lâm chung đ ược chết an

lành là liễu thoát. Nào hay lời ấy là lời nói mớ của kẻ chưa

mở Chánh Nhãn. Ở đ ây, tôi dẫn chuyện cũ đ ể làm thí dụ:

Vào khoảng đ ời Càn Long - Gia Khánh nhà Thanh, có ba

vị Thiền tă ng cùng tham thiền với nhau. Chết đ i, một vị

sanh tại Giang Tô, tên là Bành Vă n Chương; một vị sanh ở

Vân Nam, tên là Hà Quế Thanh; một vị sanh ở Thiểm Tây

tên là Trương Phí. Trong ba người, chỉ ông Bành nhớ đ ược

chuyện kiếp trước. Sau lên kinh đ ô thi Hội, gặp hai người

kia liền kể chuyện kiếp trước cùng làm Tă ng. Hai người

kia tuy không nhớ đ ược [việc cũ ], nhưng vừa thấy ông

Bành đ ã như [gặp lại] cố nhân, trở thành bạn thân thiết.

Vào Đ iện Thí (thi Ðình), ông Bành đ ậu Trạng Nguyên, ông

Hà đ ậu Bảng Nhãn, ông Trương trúng Truyền Lô37[37]. Họ

Bành sau từng làm Chủ Khảo, Học Ðài, nhưng khá tham sắc,

sau chết tại nhà. Họ Hà giữ chức Chế Ðài ở Nam Kinh. Giặc

Hồng Dương nổi dậy, Nam Kinh thất thủ, ông bị hoàng

thượng bắt tội chết. Ông Trương từng làm thầy dạy hoàng

37[37] Điện Thí là vào cung vua dự thi dưới sự chứng kiến của vua. Theo thể lệ thời Minh –

Thanh, thi cử gồm ba giai đoạn: Hương Thí, Hội Thí, và Điện Thí. Do thi trong cung vua

(thường là điện Thái Hòa) nên gọi là Điện Thí (hoặc Đình Thí), người Việt thường gọi là thi

Đình. Trong khoa thi này, người đậu đầu gọi là Trạng Nguyên, người thứ hai gọi là Bảng Nhãn,

người thứ ba là Thám Hoa. Ông Trương không dự vào ba hạng này, chỉ đỗ Tiến Sĩ, được vua

cho xướng danh trong sân chầu nên Tổ nói ông đậu Truyền Lô. Truyền Lô gọi đủ là “kim điện

truyền lô” (xướng danh trong điện vàng), tức là hai ngày sau khi yết bảng ghi danh các sĩ tử thi

đậu, các vị tân khoa tiến sĩ sẽ được triệu tập vào điện Thái Hòa, được nội quan xướng danh đến

trước mặt vua lạy tạ và được vua ban thưởng ngự tửu, đãi yến.

104

đ ế Hàm Phong, dân Hồi Hồi38[38] muốn làm phản bèn lừa

giết phă ng ông đ i. Ba vị này chẳng thể coi là Tă ng nhân

bình thường, đ áng tiếc là chẳng biết cầu sanh Tây

Phương, tuy đ ược đ ôi chút phước lớn nhưng hai người

chẳng đ ược chết yên lành. Rốt cuộc, ông Bành tham đ ắm

nữ sắc, e trong đ ời sau sẽ chẳng đ ược như đ ời này!

Lại nữa, tiên sinh Ngô Dẫn Chi ở Tô Châu, đ ậu Thám

Hoa dưới đ ời Thanh. Học vấn, đ ạo đ ức, tướng mạo, đ ều

tốt đ ẹp cả. Nă m Dân Quốc thứ mười (1921), đ i triều bái

Phổ Ðà, gặp tôi, tự bảo kiếp trước ông ta là hòa thượng ở

Vân Nam. Vì khách đ ến dâng hương đ ông đ ảo, chẳng

thể chuyện trò nhiều, cũ ng chưa hỏi tường tận nguyên do.

Nă m [Dân Quốc] thứ mười một (1922), tôi qua Dương

Châu khắc in sách, đ ến ở nhà một người đ ệ tử tại Tô Châu,

liền dò hỏi về việc ấy, nghĩ rằng ông ta chưa quên mất

túc nhân, khi gặp mặt sẽ hỏi chuyện, nhưng rồi hoàn toàn

quên mất. Từ đ ó, chẳng qua lại với nhau nữa. Ðến nă m

[Dân Quốc] thứ 19 (1930), tôi bế quan tại chùa Báo Quốc.

Đ ến tháng Mười Một, ông ta cùng hai tiên sinh Lý Ấn Tuy

ền, Lý Hiệp Hòa đ ến thă m. Tôi hỏi: “Sao ông biết kiếp

trước là nhà sư ở Vân Nam?” Ông ta bảo: “Nă m hai mươi

sáu tuổi, tôi nằm mộng đ ến một ngôi chùa kia, biết là

38[38] Hồi tộc là sắc dân thiểu số của Trung Hoa, sống chủ yếu tại các tỉnh Thanh Hải, Cam

Túc, Hà Nam, Hà Bắc. Thật ra họ gồm nhiều sắc dân khác biệt có nguồn gốc từ Trung Á, Tây Á,

chủ yếu là gốc Ả Rập, di cư đến Trung Hoa. Do họ theo đạo Hồi nên người Hán thường gọi

chung họ là Hồi tộc, hoặc Hồi Hồi.

105

chùa X… ở huyện X… thuộc tỉnh Vân Nam. Trông thấy hình

dạng đ iện đ ường, phòng xá, cây cối đ ều như thường

thấy, cũ ng thấy mình là Tă ng. Tỉnh dậy, nhớ rất rõ, ghi

chép lại từng đ iều. Sau đ ấy, một người bạn đ i làm quan

ở Vân Nam (tiên sinh Trương Trọng Nhân còn biết tên họ

người này), đ em đ ối chiếu những lời ông ta chép thì

không sai lệch mảy may”.

Tôi bảo: “Tiên sinh đ ã tám mươi tuổi, không còn đ ược

bao nhiêu ngày nữa, hãy nên khôi phục sự nghiệp hòa

thượng kiếp trước, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây

Phương thì mới chẳng phụ công khó tu trì đ ời trước!”

Ông ta đ áp: “Niệm Phật có gì là hy hữu, lạ lùng?” Tôi nói:

“Niệm Phật tuy chẳng phải là hy hữu, lạ lùng gì, nhưng th

ế gian chẳng có mấy người niệm. Chuyện chẳng hy hữu,

chẳng lạ lùng nhất là chuyện ă n cơm, cả thế giới không

một ai là chẳng ă n; đ ấy là sự chẳng hy hữu, lạ lùng bậc

nhất, vì sao ông vẫn cứ phải làm?” Ông ta chẳng đ áp đ

ược, nhưng vẫn không chịu niệm. Ông ta hỏi hai vị Lý Tiên

sinh: “Các vị có niệm không?” Họ đ áp: “Niệm chứ!”

Ông ta vẫn không nói gì; đ ến tối ngày Ba Mươi tháng

Chạp, lúc sắp thắp đ èn, qua đ ời, vừa tròn tám mươi tuổi. Vị

này đ ời trước tu trì cũ ng rất khá nên đ ời này mới cảm đ

ược công danh lớn lao, tuổi thọ lâu dài, nhưng đ ời này chỉ

giữ trọn luân thường, chẳng còn tin vào Phật pháp nữa, há

chẳng phải là đ áng xót xa lắm sao?

106

Cả bốn vị trên chưa ai chứng đ ắc, mà dù có sở chứng đ i

nữa, nếu chưa đ oạn hết Phiền Hoặc thì vẫn khó thể lìa

khỏi sanh tử đ ược! Thậm chí như thiền sư Viên Trạch đ ời

Ðường, biết đ ược chuyện quá khứ, vị lai, nhưng vẫn không

thể thoát đ ược, huống hồ là kẻ chỉ đ ược chết an lành lại

có thể giải quyết xong chuyện sanh tử sao? Cha ông Lý

Nguyên đ ời Ðường, trấn thủ Ðông Ðô, bị An Lộc Sơn làm

phản giết chết. Lý Nguyên chẳng muốn làm quan, biến c

ă n nhà mình đ ang sống ở Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm,

thỉnh Viên Trạch làm Hòa Thượng; Lý Nguyên cũ ng tu hành

ở chùa ấy. Mấy nă m sau, Lý Nguyên muốn triều bái Nga

Mi, mời Viên Trạch cùng đ i. Viên Trạch muốn đ i theo đ

ường Thiểm Tây, nhưng Lý Nguyên chẳng muốn đ ến kinh

đ ô nên nhất đ ịnh đ i theo đ ường thủy qua ngã Kinh Châu.

Viên Trạch đ ã tự biết mình chẳng trở về đ ược nên liền

[viết thư] dặn dò hậu sự, mỗi mỗi đ ều rành rẽ, kẹp trong

cuốn kinh nhưng chẳng đ ể lộ ra, theo Lý Nguyên ngồi thuy

ền ra đ i.

Thuyền bơi đ ến miền thượng du Kinh Châu, gần đ ến

Giáp Sơn, vùng đ ất ấy thế nước chảy xiết, chưa đ ến tối

đ ã phải cắm thuyền. Chợt có một người đ àn bà mặc quần

gấm, kéo nước bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy, hai mắt

ứa lệ. Lý Nguyên hỏi nguyên do, Viên Trạch đ áp: “Ta

chẳng chịu đ i theo đ ường này là vì sợ gặp người đ àn bà

này. Bà ta mang thai đ ã ba nă m, chờ ta sanh làm con.

107

Chẳng thấy còn có thể trốn lánh, chứ nay đ ã thấy, không

cách nào chẳng làm con bà ta đ ược! Ông nên tụng chú,

giúp ta mau sanh. Tới ngày thứ ba, hãy đ ến nhà thă m ta.

Ta trông thấy ông, cười một tiếng làm tin. Mười hai nă m

sau, đ êm Rằm tháng Tám, đ ến bên bờ giếng Cát Hồng

tại chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp ta”. Nói xong, Viên

Trạch tọa thoát (ngồi qua đ ời). Bà nọ liền sanh con. Ngày

thứ ba, Lý Nguyên đ ến thă m, đ ứa bé liền cười. Sau đ ấy,

Lý Nguyên quay về chùa Huệ Lâm, thấy trong quyển kinh

đ ã viết sẵn lời dự ngôn về hậu sự, càng thêm tin [sư Viên

Trạch] chẳng phải là kẻ tầm thường. Mười hai nă m sau, Lý

Nguyên đ ến Hàng Châu. Tới đ êm Rằm tháng Tám, ông đ

ến chỗ ước hẹn chờ đ ợi; chợt thấy bên sông có đ ứa bé

trai chă n trâu, ngồi trên lưng trâu, dùng roi gõ sừng trâu,

xướng:

Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,

Thưởng nguyệt, ngâm phong bất yếu luân.

Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng,

Thử thân tuy dị, tánh thường tồn.

(Trên đ á ba sinh39[39], vẫn nguyên hồn

39[39] Theo sách Quần Ngọc Chú, Tỉnh Lang đến vãn cảnh chùa Nam Huệ Lâm, nằm chơi,

chợt ngủ thiếp đi, thấy hồn mình đến Bồng Lai. Nơi đó có một vị Tăng đang tụng kinh, trước

mặt có một nén nhang đang cháy. Hỏi đến nguyên do, vị Tăng cho biết cây nhang ấy do một

người đàn-việt thắp lên để khấn nguyện, cầu phước, nhang chưa cháy hết mà người thắp nhang

đã chuyển kiếp ba lần. Lần thứ nhất làm Đường Huyền Tông, lần thứ hai làm Đường Hiến Tông,

108

Ngâm gió, thưởng tră ng lọ phải bàn

Thẹn thấy người xưa tìm đ ến gặp

Thân này tuy khác, tánh thường còn)

Lý Nguyên nghe xong bèn đ ến chào hỏi. Hàn huyên xong

xuôi, đ ứa bé lại đ ọc:

Thân tiền, thân hậu sự mang mang,

Dục thoại nhân duyên khủng đ oạn trường40[40]

Ngô, Việt giang sơn du dĩ biến

Khước hồi yên trạo thượng Cù Đ ường

(Thân trước, thân sau sự vấn vương

Bàn chuyện nhân duyên luống đ oạn trường

Ngô,Việt giang sơn chơi khắp cả,

Quẩy chèo mây khói, vượt Cù Đ ường41[41])

Rồi ruổi trâu đ i mất. Thân phận như thế còn chưa liễu

thoát đ ược, huống hồ là những kẻ chỉ mới lãnh hội đ ược

lần thứ ba chính là Tỉnh Lang. Do đó, về sau từ ngữ “tam sinh hương hỏa” thường dùng để chỉ

lời nguyền có hiệu lực đến ba đời.

40[40] “Đoạn trường”: Ý nói vô cùng đau xót, như đứt từng khúc ruột. Theo điển tích cổ, vua

Sở đi săn thấy vượn con bị bắn chết, vượn mẹ trông thấy ôm con kêu khóc rồi chết, mổ bụng ra

xem thấy ruột nó đứt thành từng khúc. Do đó cổ văn thường dùng chữ “đoạn trường” để diễn tả

nỗi đau xót.

41[41] Cù Đường (còn gọi là Quỳ Hiệp, tức khe quỷ) là tên một kẽm núi hiểm trở, quanh co

trên sông Dương Tử ở tỉnh Tứ Xuyên. Kẽm núi này dài đến 8 km, từ huyện Phụng Tiết cho đến

thành Bạch Đế. Thế nước chảy xiết, rất nguy hiểm khi phải vượt qua.

109

câu thoại đ ầu, đ ược chết an lành mà coi là đ ã liễu thoát

ư? Cậy vào tự lực đ ể thoát sanh tử khó khă n như thế đ ó;

cậy vào Phật lực đ ể thoát sanh tử dễ dàng như thế đ ó;

vậy mà người đ ời vẫn cứ buông bỏ Phật lực đ ể cậy vào tự

lực, cũ ng là vì chưa hiểu rõ lẽ mầu nhiệm. Nay dùng hai câu

sau đ ây đ ể nói toạc ra: Chỉ là vì tri kiến sai lầm “muốn tỏ

vẻ ta là hạng người bậc thượng, chẳng chịu làm chuyện tầm

thường, không hy hữu, lạ lùng” vậy. Xin hết thảy mọi

người hãy suy nghĩ chín chắn chuyện đ ã qua của nă m

người này rồi tự lợi, lợi tha, sốt sắng tu Tịnh Nghiệp như lo

chôn cất cha mẹ, như cứu đ ầu cháy thì mới khỏi luống

uổng đ ời này và lần gặp gỡ này.

Ngày thứ nă m: Giải thích sơ lược về giáo nghĩ a Lục Tức

của tông Thiên Thai, kiêm giảng về ă n chay, phóng sanh

Pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp khắp ba că n, thâu nhiếp lợi c

ă n lẫn đ ộn că n, khế lý, khế cơ, chí viên, chí đ ốn, đ úng

là pháp môn lợi lạc chúng sanh duy nhất vô thượng. Nhưng

con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đ ại bảo: “Chúng sanh

tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ

thì lại cho rằng: “Ta đ ã là phàm phu khổ não, làm sao có

thể liễu thoát sanh tử, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân

người mà thôi!” Hai hạng người này đ ều vì chẳng hiểu rõ

110

nhân quả mà thành ra như thế ấy. Bởi vậy, hôm nay tôi vẫn

giảng về nhân quả.

Phải biết “chúng sanh tức là Phật” [chỉ cho] cái nhân

chân thật là Phật tánh sẵn có đ ủ. Nếu chẳng tu hạnh Niệm

Phật mầu nhiệm, Phật tánh chẳng do đ âu hiển hiện đ ược

thì làm sao đ ạt đ ược thật quả “giải thoát sanh tử, thành

tựu Phật đ ạo” đ ây? Ví như gương báu đ óng bụi, quang

minh chẳng hiện, chứ thật ra chẳng mất! Nếu chịu ra sức

lau chùi, mài giũ a thì gương sẽ tự có thể chiếu trời soi đ ất.

Nếu nói: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh

Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đ ến thành Phật” thì

lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, tự cam

chịu đ ọa lạc. Vả nữa, người đ ời nay có kẻ đ ánh cờ, xoa

mạt-chược đ ến nỗi mệt quá rồi chết, chẳng biết là bao

nhiêu! Nếu họ có thể vận dụng sự khổ nhọc ấy vào chuyện

tu hành niệm Phật thì lo gì chẳng vãng sanh Tây Phương,

chứng lên đ ến Phật quả ư? Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một

chúng sanh tu trì, chứng đ ắc Phật quả mà thôi.

Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đ ời Tùy soạn cuốn Quán Vô Lượng

Thọ Phật Kinh Sớ, đ ã lập ra giáo nghĩ a Lục Tức Phật đ ể đ

ối trị că n bệnh lớn “cam chịu đ ọa lạc” và bệnh “tự tôn,

tự đ ại sai lầm”. Lục Tức Phật là: một là Lý Tức Phật, hai là

Danh Tự Tức Phật, ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là Tương

Tự Tức Phật, nă m là Phần Chứng Tức Phật, sáu là Cứu Cánh

Tức Phật. “Lục”: Minh thị thứ lớp sâu - cạn, “Tức”: Chỉ rõ

111

ngay nơi Thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể

chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực, khả nă ng khác biệt

rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đ ứa bé con ấy chẳng phải là

người, nhưng cũ ng chẳng thể sai nó gánh vác chuyện của

người đ ã trưởng thành đ ược. Nếu biết rõ “tuy sáu mà

thường tức” thì sẽ chẳng sanh lui sụt. Nếu hiểu “tuy tức

mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tă ng thượng mạn. Từ

đ ó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả,

do Lý Tức Phật mà thành Cứu Cánh Tức Phật vậy.

1. Lý Tức Phật là hết thảy chúng sanh đ ều có Phật Tánh.

Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong

Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng công đ ức của Phật Tánh vẫn tự đ

ầy đ ủ, cho nên gọi là Lý Tức Phật, coi Lý Thể của tâm chính

là Phật vậy. Vô Cơ Tử42[42] làm bài tụng rằng:

Ðộng, tịnh lý toàn thị

Hành, tàng sự tận phi,

Minh minh tùy vật khứ,

Yểu yểu bất tri quy.

(Ðộng, tịnh toàn là lý,

42[42] Vô Cơ Tử là biệt hiệu của sư Phổ Nhuận, cao tăng tông Thiên Thai, sống vào đời Nam Tống.

Ngài họ Quách, pháp tự là Thiên Thụy. Xuất gia năm bảy tuổi với ngài Từ Hạnh Phưởng, chín tuổi

xuống tóc. Năm mười tuổi bắt đầu học giáo nghĩa Thiên Thai với ngài Thông Chiếu. Về sau, trụ trì

chùa Đại Giác ở Tùng Giang, được vua ban hiệu Phổ Nhuận Đại Sư.

112

Hành, tàng chẳng trúng gì,

Tối tă m theo đ uổi vật,

Mờ mịt chẳng biết về)

Do hết thảy chúng sanh chưa nghe Phật pháp, chẳng biết

tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như

Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh toàn là lý”. Do mê

lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng

chẳng trúng gì” (Hành là hoạt đ ộng, tàng là ở yên), vì mọi

việc làm đ ều chẳng tương ứng Phật Tánh. Suốt ngày, suốt

nă m, tối tă m, mờ mịt ruổi theo vật dục (lòng ham muốn

vật chất) phiền não, vọng tưởng, từ sống đ ến chết chẳng

hề biết hồi quang phản chiếu (xoay trở lại xét soi cái tâm),

nên bảo là: “Tối tă m theo đ uổi vật, mờ mịt chẳng biết v

ề”.

2. Danh Tự Tức Phật là hoặc do từ thiện tri thức, hoặc từ

kinh đ iển mà biết rằng tâm vốn sẵn đ ủ Phật Tánh tịch - chi

ếu viên dung, bất sanh, bất diệt. Thông suốt hiểu rõ nơi

danh tự, biết hết thảy pháp đ ều là Phật pháp, hết thảy

chúng sanh đ ều có thể thành Phật. Ðó gọi là “nghe danh

tự Phật tánh liền hiểu rõ, thấu suốt Phật pháp”. Kệ tụng

rằng

Phương thính vô sanh khúc,

113

Thỉ vă n bất tử ca,

Kim tri đ ương thể thị

Phiên hận tự tha đ à.

(Vừa nghe khúc vô sanh,

Mới nghe bài bất tử,

Liền biết ngay đ ương thể,

Tiếc đ ã trót lần khân)

[Ý nói]: Từ trước đ ến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không

lúc nào kết thúc; nay biết Phật Tánh chân thường, bất

sanh, bất diệt, đ ã biết đ ương thể (ngay nơi bản thể) chính

là cái nhân chân chánh đ ể thành Phật liền gấp gáp tu trì,

còn hận từ trước đ ến nay mình bỏ uổng quang âm (thời

gian) đ ến nỗi chưa thể thật sự chứng đ ắc!

3. Quán Hạnh Tức Phật là nương theo Giáo tu Quán, tức là

đ ịa vị Ngoại Phàm43[43] Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ

Phẩm là:

43[43] Ngoại Phàm là địa vị trước khi đạt đến địa vị Kiến Đạo. Ngũ Đình Tâm Trụ, Biệt Tướng Niệm

Trụ, Tương Tục Niệm Trụ của Thanh Văn được gọi là Ngoại Phàm. Ngay cả địa vị Phục Nhẫn trong

Thập Tín trong Đại Thừa vẫn thuộc Ngoại Phàm. Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 17 giảng: “Gọi là

Ngoại Phàm vì họ còn hướng ngoại cầu lý, chưa dứt tướng để hướng vào trong duyên theo chân

tánh. Do chưa đoạn được cái thân phần đoạn trong lục đạo nên gọi là Phàm”. Nói chi tiết hơn, trong

Tạng Giáo thì những địa vị thuộc Hiền Vị như Ngũ Đình Tâm v.v… là Ngoại Phàm, trong Thông Giáo

thì cho đến Càn Huệ Địa đều là Ngoại Phàm, Biệt Giáo coi từ Sơ Quả cho đến Thập Tín đều là Ngoại

114

a. Tùy Hỷ Phẩm: Nghe pháp Thật Tướng, tin hiểu, tùy hỷ.

b. Ðộc Tụng Phẩm: Đ ọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh đ

iển Ðại Thừa đ ể hỗ trợ quán hạnh và sự hiểu biết.

c. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những đ iều mình tự chứng

hiểu (nội giải) đ ể chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho người khác.

c. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ đ ể giúp cho

quán tâm.

e. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Lấy việc hành Lục Ðộ làm hạnh

chánh yếu, tự mình hành, dạy người khác hành, Lý - Sự đ

ầy đ ủ. Quán Hạnh càng thêm thù thắng. Kệ tụng rằng:

Niệm niệm chiếu thường lý

Tâm tâm tức huyễn trần

Biến quán chư pháp tánh

Vô giả diệc vô chân.

(Niệm niệm chiếu thường lý,

Tâm tâm bặt huyễn trần

Quán khắp các pháp tánh,

Không giả cũ ng không chân)

Phàm, còn Viên Giáo coi Quán Hạnh Ngũ Phẩm là Ngoại Phàm. Tổ Ấn Quang đã giải thích chữ Nội

Phàm theo giáo nghĩa Viên Giáo.

115

Ðã viên ngộ (ngộ trọn vẹn) Phật tánh, nương theo Giáo tu

Quán, đ ối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm

chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc,

một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy

các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, hết

thảy chúng sanh đ ều sẽ thành Phật, cho nên nói: “Quán

khắp các pháp tánh, không giả cũ ng không chân”.

4. Tương Tự Tức Phật là tương tự giải phát (gần giống như

đ ã giải ngộ, phát khởi), tức là đ ịa vị Nội Phàm thuộc Thập

Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đ oạn Kiến Hoặc, Thất Tín đ

oạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đ oạn Trần Sa Hoặc. Kệ

tụng rằng:

Tứ Trụ tuy tiên thoát,

Lục trần vị tận không

Nhãn trung do hữu ế

Không lý kiến hoa hồng.

(Trước đ ã thoát Tứ Trụ,

Nhưng sáu trần chửa không,

Mắt vẫn còn màng mộng

Thấy hoa đ ốm trên không)

116

Tứ Trụ là:

a. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam

Giới.

b. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.

c. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.

d. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.

Sơ Tín đ oạn Kiến Hoặc, Thất Tín đ oạn Tư Hoặc nên bảo là:

“Trước đ ã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh,

hương, vị, xúc pháp chưa hết, nên bảo là: “Nhưng sáu trần

chửa không”. Ở đ ây chỉ luận về đ ịa vị Thất Tín, chứ Bát,

Cửu, Thập Tín đ ã phá đ ược Trần Sa Hoặc nên tập khí đ ã

hoàn toàn rỗng không. Tập khí là những dư âm của các

Chánh Hoặc (các phiền não chánh yếu). Giống như cái

mâm đ ựng thịt dù đ ã rửa sạch, vẫn còn có mùi hôi; bình đ

ựng rượu tuy đ ã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn

còn màng mộng, thấy hoa đ ốm trên không” là: Vì chưa

phá Vô Minh nên chưa thể thấy đ ược bản thể của Chân

Không Pháp Giới.

5. Phần Chứng Tức Phật là ở [giai đ oạn] Thập Tín hậu

tâm44[44], phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam

44[44] Đã viên mãn mười Tín tâm thì gọi là Thập Tín hậu tâm, tức là đã chuẩn bị tiến vào địa vị

Sơ Trụ.

117

Ðức, liền bước vào Sơ Trụ, chứng Pháp Thân, là Pháp Thân

Đ ại Sĩ . Từ Sơ Trụ đ ến Đ ẳng Giác, tổng cộng là bốn mươi

mốt đ ịa vị, mỗi đ ịa vị đ ều phá đ ược một phần vô minh,

chứng một phần Tam Đ ức, nên gọi là Phần Chứng Tức Phật.

Do vô minh chia làm bốn mươi hai phẩm, Sơ Trụ phá một

phần, cho đ ến Thập Trụ phá đ ược mười phần. Trải qua

[các đ ịa vị] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đ ế

n Ðẳng Giác [lần lượt] phá đ ược bốn mươi mốt phần. Bậc

Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế giới không có

Phật, lại còn tùy loại hiện thân đ ộ thoát chúng sanh. Thần

thông đ ạo lực của bậc này chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ

là càng lên mỗi đ ịa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là

đ ịa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát ư? Kệ tụng

rằng:

Hoát nhĩ tâm khai ngộ

Trạm nhiên nhất thiết thông

Cùng nguyên do vị tận

Thường kiến nguyệt mông lung.

(Ðột nhiên tâm khai ngộ,

Lặng trong hết thảy thông,

Vẫn chưa thông tận gốc

Tră ng thường thấy mông lung)

118

“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là

nói về cảnh tượng phá đ ược vô minh đ ôi phần, chứng

ngộ đ ôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, tră ng thường

thấy mông lung” ý nói còn có mây vô minh [che lấp] nên

chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần tră ng thiên chân

trong tự tánh.

6. Cứu Cánh Tức Phật là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô

Minh nên [thấu đ ạt] tột cùng Chân Tánh, hết sạch Hoặc,

phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt đ ể Chân Như Phật

Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đ ạt đ ịa vị Diệu Giác,

thành đ ạo Vô Thượng Bồ Ðề. Kệ tụng rằng:

Tùng lai chân thị vọng

Kim nhật vọng giai chân

Ðản phục bản thời tánh

Cánh vô nhất pháp tân.

(Từ trước, chân là vọng

Hôm nay, vọng đ ều chân,

Chỉ khôi phục bản tánh

Có pháp nào mới đ âu?)

119

“Từ trước chân là vọng” là trước khi ngộ thì cũ ng chỉ từ

“Ngũ Uẩn đ ều là không” này mà lầm sanh chấp trước

[khiến cho] Sắc Pháp, Tâm Pháp nương theo nhau thành

lập, khổ ách theo đ ó sanh ra. Sau khi đ ã ngộ rồi, tuy vẫn chỉ

là Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đ ều là một Chân Như,

trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn đ ể đ ược. Vì thế,

bảo là: “Từ trước chân là vọng. Hôm nay, vọng đ ều

chân”. Nhưng cái Chân đ ược chứng ấy nào phải là đ iều

gì mới đ ạt đ ược, chẳng qua là phục hồi lại Chân Như Phật

Tánh sẵn có đ ó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bản tánh,

có pháp nào mới đ âu?”

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết

thảy chúng sanh đ ều là chúng sanh, cho nên hủy báng

Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi; trái lại

còn coi đ ó là vui. Ðức Phật đ ã triệt ngộ cái tâm “tâm, Phật,

chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng

sanh hoàn toàn là Phật. Vì thế đ ều vì kẻ oán, người thân

thuyết pháp khiến cho họ đ ược đ ộ thoát; dẫu là kẻ cực k

ỳ ác nghịch không tin, tâm [Phật] cũ ng không hề có một

niệm buông bỏ vì Phật thấy thấu suốt kẻ đ ó chính là một vị

Phật chưa thành vậy.

Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm Chi bảo tôi rằng: Pháp Sư

Viên Anh nói đ ạo tràng sắp viên mãn; ngày hoàn mãn sẽ cử

hành phóng sanh. Ðến ngày Mười Sáu sẽ nói về Tam Quy,

Ngũ Giới, xin tôi vì đ ại chúng giảng đ ại ý của sự phóng

120

sanh và thọ Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mọi người cùng

phát tâm lợi người, lợi vật. Bởi thế, chẳng thể không tuyên

nói. Pháp hội này nhằm đ ể hộ quốc tức tai. Nếu suy xét đ

ến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì phần nhiều là

vì sát sanh mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát nghiệp, phải

bắt đ ầu từ việc kiêng giết chóc, ă n chay, bảo vệ, tiếc

thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi

người ai nấy phải nên phát tâm bảo vệ, thương tiếc sanh

mạng loài vật. “Muốn biết binh đ ao trong cõi thế, lò mổ

xin nghe tiếng nửa đ êm”. Hãy giữ hai câu ấy làm lời ră n

nhắc, tận lực kiêng dè.

Ý nghĩ a của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát

tâm bảo vệ mạng sống của chúng sanh. Chính mình phóng

sanh, đ ương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Dẫu chính mình

chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ

nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy bảo vệ, thương tiếc sanh

mạng, chẳng tàn hại nữa sẽ tiêu đ ược sát kiếp, chuyển đ

ược vận nước. Nhưng người đ ời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiề

n phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ă n thịt như thường.

Như vậy, dù có chút công đ ức phóng sanh, làm sao đ ịch

nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! Hiện thời, hội này dự đ ịnh trong

ngày viên mãn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm

thí tiền giúp cho, tự lợi, lợi vật, công đ ức chẳng thể nghĩ

bàn. Còn như [tiền] cúng dường của đ ệ tử quy y lần này,

Ấn Quang quyết đ ịnh dùng hết vào việc cứu trợ tai nạn,

121

trọn chẳng lấy dùng một đ ồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông T

ă ng trơ trọi, đ ã không có chùa miếu, lại cũ ng chẳng có

đ ồ đ ệ, trừ thức ă n, quần áo ra, đ ể dành tiền làm gì? Mai

kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đ em tro rải xuống biển

cả, chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ [hình thức] kỷ

niệm nào!

Ngay cả việc quy y đ ây, tôi vốn chẳng thuận từ đ ầu,

nhưng bởi pháp sư Viên Anh và cư sĩ Khuất Vă n Lục thiết

tha khuyên bảo, viện lẽ những người phát tâm cầu pháp ân

cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, vì tình chẳng thể khước từ,

nên đ ành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng

giống những người khác, mỗi tên đ ệ tử phải xuất tiền

“hương kính”45[45] bao nhiêu đ ó mới chấp thuận cho

quy y. Tôi thì không tiền cũ ng quy y đ ược, chỉ cần người

ấy có tâm thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi

chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao

nhiêu đ ó mới mua đ ược hàng hóa đ áng giá chừng đ ó!

Có như vậy thì mới là tín đ ồ chân thật quy y Phật pháp, mới

có thể đ ạt đ ại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập

thánh.

45[45] Hương kính: Tiền cúng dường khi cầu quy y thọ giới. Gọi là “hương kính” với ngụ ý

cúng cho vị thầy chút tiền để thầy có tiền mua nhang đèn cúng Phật.

122

Ngày thứ sáu: Dùng Chân Ðế và Tục Ðế đ ể phá trừ kiến

chấp

và trần thuật những chuyện linh cảm gần đ ây

Người đ ời chấp Không, chấp Có, lầm lạc sanh khởi những

kiến giải của chính mình nên mê muội chẳng giác ngộ. Đ ức

Thế Tôn lập ra giáo pháp [là vì] muốn cho chúng sanh phá

trừ hai kiến chấp ấy, đ ặc biệt bày ra một pháp môn Niệm

Phật, mong chúng sanh từ Có đ ạt đ ến Không, dẫu đ ắc

Không nhưng chẳng bỏ Có thì hai pháp Có - Không sẽ hỗ

trợ nhau, đ ược lợi ích rất lớn. Huống hồ là cậy vào nguyện

lực của Phật Di Ðà. Vì thế, lực dụng của pháp môn Niệm

Phật vượt trỗi hết thảy pháp môn [khác], làm chỗ quy túc

cho hết thảy các pháp môn.

Trong đ ời có một hạng người tri kiến hèn kém, dạy họ

niệm Phật cầu sanh Tây Phương bèn nói: “Chúng tôi là

hạng nghiệp lực phàm phu, làm sao dám mong mỏi vãng

sanh Tây Phương? Chỉ cầu chẳng mất thân người là đ ủ lắm

rồi”. Thứ tri kiến này là do chẳng biết tâm tánh của chúng

sanh và tâm tánh của chư Phật giống hệt, chẳng hai. Nhưng

chư Phật tu đ ức đ ến cùng cực, tánh đ ức hiển hiện trọn

vẹn, còn chúng sanh dẫu đ ủ tánh đ ức, trọn không tu đ ức,

dẫu có tu tập nhưng lắm kẻ vì tu hành trái nghịch với tánh,

nên đ âm ra càng thêm mê muội, trái nghịch.

123

Lại có một hạng người tri kiến cuồng vọng. Dạy họ niệm

Phật, liền bảo: “Ta đ ã là Phật, cần gì phải niệm Phật? Các

ngươi chẳng biết tự mình chính là Phật thì thường niệm

Phật cũ ng không sao! Ta đ ã tự biết là Phật, cần gì phải

trên đ ầu lại chồng thêm một cái đ ầu!” Thứ tri kiến này là

do chỉ biết đ ến vị Phật thuộc về Phật Tánh sẵn có ngay

trong tâm, chưa biết đ ến vị Phật đ ã đ oạn sạch Phiền

Hoặc, viên mãn phước huệ. Hạng người này nếu đ ã biết

Tánh - Tu, Lý - Sự đ ều chẳng thể thiên chấp, cực lực tu tịnh

hạnh thì sẽ vượt xa hạng người nẩy sanh tri kiến hèn kém.

Nếu chẳng vậy, sẽ tự lầm, lầm người, vĩ nh viễn đ ọa trong

đ ịa ngục A Tỳ , trọn không có kỳ ra. Vì thế, đ ối với những

hiểu biết lầm lạc chấp Không, chấp Có, kiến giải hèn kém

và kiến giải lầm lạc cuồng vọng này, chỉ có riêng pháp Niệm

Phật là dễ đ ối trị nhất. “Tâm này làm Phật, tâm này là

Phật”, nếu chẳng làm Phật thì chẳng phải là Phật đ ược.

Hai câu kinh vă n này chính là Vô Thượng Diệu Pháp đ ể

phá trừ hai thứ kiến chấp hèn kém và cuồng vọng.

Bàn chặt chẽ về ý nghĩ a lớn lao trong Phật pháp thì chẳng

ngoài Chân Ðế và Tục Ðế. Chân Ðế một pháp chẳng lập,

là thực thể đ ược thấy biết bởi Thánh Trí. Tục Ðế phô bày

trọn vẹn vạn hạnh, chính là hành tướng đ ược tu trong pháp

môn (chữ Tục ở đ ây nghĩ a là tạo dựng, kiến lập, chứ đ

ừng hiểu là thế tục, thô tục). Người học Phật phải viên

dung Chân - Tục, một mực cùng hành. Bởi lẽ, vì một pháp

124

chẳng lập thì mới có thể tu đ ạo phô bày trọn vẹn vạn hạnh.

Vạn hạnh đ ược phô bày trọn vẹn thì mới hiển hiện đ ược

bản thể một pháp chẳng lập. Nay đ ể dễ hiểu, tôi nêu riêng

một thí dụ. Bản thể của Chân Như Pháp Tánh ví như tấm

gương quý báu tròn lớn, rỗng rỗng rang rang, trọn không có

một vật, thế mà người Hồ đ ến thì bóng người Hồ hiện,

người Hán đ ến ắt bóng người Hán hiện. Hồ, Hán cùng đ

ến một lúc thì cùng lúc hiện bóng. Ngay đ ang trong lúc

rỗng rang, trống lỗng, trọn không có một vật, chẳng trở ngại

gì chuyện người Hồ đ ến, bóng người Hồ hiện; kẻ Hán đ ế

n, bóng kẻ Hán hiện. Ngay đ ang lúc người Hồ đ ến hiện

bóng người Hồ, người Hán đ ến soi bóng người Hán,

gương vẫn rỗng rang, trống lỗng, trọn không có một vật.

Thiền Tông đ ặt nặng Chân Ðế, tức là ngay chỗ “vạn

hạnh phô bày trọn vẹn” chỉ ra “một pháp chẳng lập”.

Tịnh tông phần nhiều chú trọng Tục Ðế, tức là ngay nơi

“một pháp chẳng lập”, chỉ ra chuyện “vạn hạnh phô bày

trọn vẹn”. Bậc trí hiểu rõ Lý sẽ tự chẳng thiên chấp. Nếu

không, thà chấp Có còn hơn là chấp Không! Vì nếu chấp Có

dẫu chưa ngộ trọn vẹn Phật tánh vẫn còn có công tu trì; chứ

chấp Không sẽ bác không nhân quả, thành ra kiến chấp

Ðoạn Diệt, phá hoại, rối loạn Phật pháp, khiến chúng sanh

nghi ngờ, lầm lạc, họa ấy rất lớn, chẳng thể tuyên nói đ ược!

Chúng ta niệm Phật trước hết phải từ Có Niệm mà khởi.

Niệm đ ến lúc niệm lặng, tình mất, ắt không những đ ã

125

không có Ta là người niệm mà cũ ng không có đ ức Phật đ

ược ta niệm, nhưng từng câu, từng chữ vẫn rành rẽ, phân

minh, chẳng lầm, chẳng loạn, tức là như thường nói:

“Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm” vậy. “Niệm mà vô

niệm, vô niệm mà niệm” nghĩ a là ngay trong lúc đ ang

niệm Phật, trọn chẳng có tình niệm khởi tâm niệm Phật. Tuy

không có tình niệm khởi tâm niệm Phật nhưng lại niệm rành

rẽ, phân minh, liên tục. Nhưng công phu này chẳng phải là

đ iều hạng sơ tâm có thể đ ạt đ ược ngay! Nếu chưa đ ạt

đ ến công phu “vô niệm mà niệm” mà không chú trọng

“có niệm” thì khác nào phá nhà đ ể tìm lấy chỗ trống

không! Cái Không ấy quyết chẳng phải là chỗ đ ể an thân

lập mạng đ ược! Các bậc cổ Thiền đ ức, có nhiều vị lễ bái,

trì tụng chẳng tiếc thân mạng như cứu đ ầu cháy. Vì thế,

thiền sư Vĩ nh Minh Diên Thọ ngày làm một tră m lẻ tám

Phật sự, đ êm qua ngọn núi khác kinh hành niệm Phật;

huống hồ là học nhân đ ời sau chẳng trọng Sự Tu (tu hành v

ề mặt Sự) mà hòng thành tựu đ ạo nghiệp ư? Do đ ại ngộ

lý thể “một pháp chẳng lập”, tận lực tu hành công phu

“vạn pháp viên tu” nơi mặt Sự thì mới là Trung Ðạo

Không Hữu viên dung!

Kẻ [chấp vào] Không Giải Thoát cho rằng chẳng tu một

pháp nào hết mới là “[một pháp] chẳng lập” đ ược chư

Phật gọi là “kẻ đ áng thương xót”. Liên Trì Ðại Sư dạy:

“Chấp sự mà niệm, giữ đ ược liên tục thì sẽ chẳng luống

126

uổng công, đ ược dự vào phẩm vị [vãng sanh]. Chấp lý

nhưng tâm chưa thật sự thông đ ạt, khó thể tránh đ ược cái

họa rớt vào Không. Bởi lẽ, Sự có công nă ng kềm cặp Lý, Lý

chẳng thể tồn tại đ ộc lập”, lý do là như vậy đ ó. Chúng ta

học Phật phải do từ ngay nơi Sự đ ể thành Lý, do chính ngay

nơi Lý đ ể thành Sự. Lý - Sự viên dung, Có - Không chẳng

hai thì mới có thể trọn thành tam-muội, liễu thoát sanh tử. N

ếu tự nói „ta chính là Phật‟, chấp Lý phế Sự, sai lầm rất

nặng! Hãy nên tận lực tu trì, nhất tâm niệm Phật, từ Sự hiển

Lý, dẫu hiển Lý vẫn chú trọng nơi Sự thì mới đ ược lợi ích

thật sự. Ngay như hàng Ðẳng Giác Bồ Tát vẫn còn phải

dùng mười đ ại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây

Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên mãn Phật Quả.

Nay là phàm phu nhưng chẳng biết tự lượng, coi niệm

Phật là Tiểu Thừa chẳng đ áng đ ể tu trì, tương lai quyết đ

ịnh vào đ ịa ngục A Tỳ vậy!

Hơn nữa, người niệm Phật ai nấy phải tận hết bổn phận

của chính mình, chẳng trái nghịch luân lý thế gian, như

thường nói là “giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ng

ă n cấm đ iều tà, giữ lòng thành, đ ừng làm các đ iều ác,

vâng giữ các đ iều lành”. Nếu bất hiếu với cha mẹ,

chẳng dạy dỗ con cái thì là tội nhân trong Phật pháp. [Người]

như vậy mà muốn đ ược Phật cảm ứng gia bị, trọn chẳng có

lẽ ấy! Vì thế, người học Phật phải là cha từ, con hiếu, anh

nhường, em kính, tự lập mình, lại chu toàn cho người, tự lợi,

127

lợi tha. Ai nấy tận hết bổn phận của chính mình, dùng chính

thân mình đ ốc suất người khác, rộng tu Lục Ðộ, vạn hạnh,

đ ể làm gương mẫu cho mọi người. Phải biết rằng hiếu, đ

ễ, trung, tín, lễ, nghĩ a, liêm, sỉ cũ ng thuộc vào Lục Ðộ vạn

hạnh. Trong cõi đ ời, kẻ chẳng tin Phật giống như người đ

eo cặp kính màu xem xét vạn vật, [thấy là] xanh hoặc đ ỏ là

do kính [khác màu] mà ra, chẳng thấy đ ược màu sắc thật sự

của sự vật. Vì thế, sách Đ ại Học có thuyết “cách vật trí

tri”, thật là có lý vậy! Người học Phật chúng ta chớ có lầm

chấp vào kiến giải của chính mình. Nếu lầm chấp vào kiến

giải của chính mình, ngồi đ áy giếng nhìn trời, một khi

Diêm La đ òi mạng mới hay trước đ ây mình đ ã sai lầm, có

hối cũ ng muộn rồi!

Đ ời này bạc ác, xã hội rối loạn, thiên tai, nhân họa liên tiếp

xảy ra. Muốn tính chuyện cứu vãn, ai nấy phải tận lực giữ

vẹn luân thường, tận hết bổn phận, hiếu dưỡng cha mẹ,

thương yêu trẻ nhỏ, yêu người như yêu chính mình, hoàn

toàn vì lẽ công, chẳng tư lợi, thì mới có thể [cứu vãn đ ược]!

Do nhân tâm hòa bình, thế giới tự yên, quốc nạn tự dứt.

Hiện tại, mối họa hoạn lớn nhất là con người ôm lòng riêng

tư. Lòng riêng tư đ ến cùng cực [sẽ chỉ còn biết đ ến

mình], con ruột có thể giết cha mẹ. Người đ ời thường hâm

mộ cảnh thịnh trị rạng ngời, rực rỡ, thiên hạ thái bình thời

128

Ðường - Ngu46[46], cứ than thở thói đ ời hiện tại suy đ ồi,

lòng người hiểm ác, nhưng xét đ ến cùng cực tại sao thành

ra như vậy thì thật sự chẳng ngoài [hai chữ] Công và Tư mà

thôi! Công đ ến cùng cực ắt thế giới đ ại đ ồng, tư đ ến

cùng cực thì con giết cha mẹ. Nếu mọi người phá đ ược ki

ến chấp tư hữu, chẳng tàn hại lẫn nhau thì sẽ lại đ ược thấy

cảnh đ ời Ðường Ngu Tam Ðại47[47] trong ngày nay chẳng

khó khă n gì!

Xưa kia, tại Phổ Ðà có một vị lão Tă ng đ i đ ường, chân

chợt đ ụng phải cái ghế, liền đ ạp đ ổ cái ghế, lại còn

giộng liên tiếp mấy đ ạp nữa. Thứ tri kiến như vậy đ ều là

do mặc tình ngã mạn, tuyệt chẳng phản tỉnh mà ra! Thứ tri

kiến ấy bộc phát lừng lẫy ắt sẽ dẫn đ ến chuyện giết cha

giết mẹ mà vẫn không hổ thẹn; trái lại, còn coi đ ó là công

lao! Hiện tại cơ duyên giết hại càng mạnh mẽ, dụng cụ giế

t người càng thêm khéo léo, tinh vi, đ ại kiếp ngay trước

mặt, ai có thể thoát khỏi đ ược? Chỉ mong đ ại chúng dốc h

ết lòng thành niệm Phật, xót xa cầu Phật lực gia bị. Khi chi

ến cuộc xảy ra ở đ ất Hỗ (Thượng Hải), những nhà cửa ở

vùng Áp Bắc phần nhiều cháy tan ra tro, chỉ còn khu nhà

của một đ ệ tử quy y với tôi là ông Hạ Hinh Bồi chưa bị mắc

46[46] Đường - Ngu là thời Nghiêu - Thuấn. Vua Nghiêu họ là Y (hay Y Kỳ), tên là Phóng

Huân, thuộc thị tộc Đào Đường Thị, sử thường gọi tắt Đường Nghiêu. Vua Thuấn họ Ngu, tên

Trọng Hoa, thuộc thị tộc Ngu Thị, sử gọi là Ngu Thuấn. Đây là thời thạnh trị Tam Hoàng Ngũ

Đế theo truyền thuyết Trung Hoa.

47[47] Tam Đại là ba đời vua thánh theo truyền thuyết Trung Hoa: vua Nghiêu, vua Thuấn, vua

Đại Vũ.

129

họa. Ấy là vì trong lúc chiến sự dữ dội, cả nhà ông ta cùng

niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ðiều kỳ lạ nhất là

bảy ngày sau khi cuộc chiến nổ ra, cả nhà bọn họ mới đ ược

Thập Cửu Lộ Quân48[48] cứu ra; đ ến lúc đ ình chiến trở v

ề nhà, mọi vật trong nhà chẳng mất thứ gì. Nếu Bồ Tát

chẳng gia hộ, che chở thì làm sao mà đ ược như vậy? Ðó là

do ông ta làm việc cho một tòa soạn nhật báo đ ã mấy

mươi nă m, vợ chồng đ ều ă n chay, niệm Phật rất chí

thành. Do vậy biết: Quán Âm Bồ Tát đ ại từ, đ ại bi, nếu

gặp tai nạn, một phen xưng niệm thánh hiệu, chắc chắn đ

ược cứu vớt, che chở.

Nếu nói: “Người đ ời ngàn vạn, tai nạn phát sanh dồn dập,

Quán Âm Bồ Tát chỉ có một mình làm sao có thể cùng lúc đ

ến cứu vớt, che chở từng người đ ược? Dù có cứu giúp,

che chở, cũ ng mệt nhọc khôn xiết!” Nào biết trọn chẳng

phải Quán Âm Bồ Tát đ ến từng chỗ cứu giúp, mà chính là

Quán Âm trong tâm chúng sanh cứu giúp đ ó thôi! Quán

Âm vốn vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính

mình], cho nên có thể „nên dùng thân nào đ ể cứu đ ộ thì

sẽ hiện ngay thân đ ó đ ể thuyết pháp‟. Như vầng tră ng

48[48] Thập Cửu Lộ Quân là một cánh quân của quân đội Trung Hoa Dân Quốc, tương đương với cấp

quân đoàn. Tiền thân mang tên Việt Quân Đệ Nhất Sư (sư đoàn thứ nhất của tỉnh Quảng Đông), năm

1926 đổi tên là Quốc Dân Cách Mạng Quân Đệ Tứ Quân (quân đoàn thứ tư của quân đội cách mạng

Trung Hoa Dân Quốc). Khi quân đội Trung Hoa Dân Quốc tiến hành Bắc Phạt (dẹp tan các tướng lãnh

quân phiệt xưng hùng ở miền Bắc Trung Hoa), Đệ Tứ Quân lập rất nhiều chiến tích. Năm 1930, do

quân số ngày càng lớn mạnh, nhất là sư đoàn thứ mười một của Đệ Tứ Quân đã giúp cho Tưởng Giới

Thạch đánh thắng được Phùng Ngọc Tường và Diêm Tích Sơn nên đã được đổi tên thành Thập Cửu

Lộ Quân, do đích thân Tưởng Giới Thạch chỉ huy.

130

vằng vặc trên không, tất cả mọi chỗ có nước đ ều hiện

bóng tră ng, nước trong ngàn dòng sông có ngàn vầng tră

ng in bóng trên sông. Tră ng ấy là một hay là nhiều? Chẳng

thể nói là một, vì tră ng hiện bóng trong muôn dòng nước;

chẳng thể nói là nhiều vì vầng tră ng trên hư không luôn

chỉ là một. Chư Phật, Bồ Tát cứu đ ộ hữu tình cũ ng giống

như thế. Chẳng đ ược cảm ứng là do chúng sanh còn chưa

dốc lòng thành, chứ chẳng phải Bồ Tát không cứu giúp, che

chở! Như một cái ao nước dơ bẩn, muốn tră ng hiện bóng

trong ấy há có đ ược chă ng? Hiểu rõ lẽ này rồi, đ ại chúng

chúng ta niệm Phật há còn ai chẳng chánh tâm, thành ý,

chân thành, khẩn thiết hay sao? Tôi không tin !

Một đ ệ tử ở huyện Vă n Hỷ, tỉnh Sơn Tây là ông Diệp Tư Sơ,

cưỡi lừa đ i trong vùng núi thẳm, một bên núi cao chót vót,

một bên là khe sâu thă m thẳm. Tuyết đ óng thành bă ng,

con lừa trượt chân, liền rơi xuống khe. Ngang vách núi có

một cái cây to, khéo sao rớt đ úng ngay trên cây ấy, không h

ề hấn gì. Nếu không, sẽ bị tan thân, nát xương. Cây ấy do

đ âu mà có? Ấy là do Quán Âm Bồ Tát thị hiện vậy!

Lại nữa, nă m Dân Quốc mười bảy (1928), ông Thái Nhân Sơ

người huyện Ninh Ba mở cửa hàng Ngũ Kim Pha Lê ở

Thượng Hải. [Ông ta là] người cực thuần hậu, chơi thân với

ông Nhiếp Vân Ðài. Vân Ðài dạy ông Thái thường niệm

Quán Âm, cốt ý đ ể phòng ngừa bị bắt cóc, tống tiền. Nhân

Sơ tin theo. Ngày nọ, sắp ra về, xe của chính ông đ ậu

131

ngoài cửa, bọn cướp cầm súng đ uổi tài xế đ i, rồi bọn cướp

ngồi trên đ ó. Ông Nhân Sơ vừa bước ra liền leo lên xe, xe li

ền chạy đ i, mới biết gặp cướp, liền thầm niệm Quán Âm,

mong cho xe chết máy hòng thoát nạn. Quả thật, xe bị nổ

bánh, xe chạy khật khừ, nhưng vẫn cứ chạy tiếp. Bình xă ng

bị nổ vỡ khiến xe bắt lửa, bọn cướp xuống xe, cáu kỉnh

hướng về phía ông Thái nã liền ba phát súng, nhưng ông

Thái ba lần chạy né đ ược, liền ngồi xe kéo trở về. Tháng

Sáu nă m đ ó, ông và vợ cùng đ ến Phổ Ðà quy y.

Lại nữa, ông Trương Thiếu Liêm, giám đ ốc của một hãng

ngoại quốc nọ, trọn chẳng tin Phật. Một ngày kia, ngồi xe hơi

lái đ ến chỗ thanh vắng, hai tên cướp cầm súng đ uổi

người tài xế đ i. Ông Trương nói: “Các ông lên xe ngồi, sai

hắn lái đ ến chỗ nào là đ ược rồi!” Hai tên cướp cầm súng

chĩ a về phía ông Trương. Ông Trương thầm niệm Quán

Âm, xe lái đ ến chỗ náo nhiệt, chợt có hai người đ ánh lộn,

tuần bộ (cảnh sát) thổi còi, hai tên cướp trèo xuống xe, lủi

mất. Ðấy là vì [ông Trương] niệm Quán Âm nên hai tên

cướp mới lầm tưởng là tuần bộ đ ến bắt chúng. Cậu ông ta

là Chu Vị Thạch đ ã quy y từ trước, một hôm thỉnh tôi đ ến

nhà cụ. Thiếu Liêm cũ ng đ ến quy y.

Lại nữa, con ông Lý Cận Đ an ở Trấn Hải làm nhân viên buôn

bán cho một hãng ngoại quốc, bị bịnh thổ huyết đ ã hai nă

m. Có lúc thổ huyết thình lình, dẫu là lúc không thổ huyết

thì trong đ àm cũ ng thường lẫn máu. Một ngày, anh ta bị

132

bọn cướp bắt. Cận Đ an sợ hãi vô cùng, cả nhà niệm Quán

Âm cầu cứu. Lại thỉnh chư Tă ng chùa Pháp Tạng trợ niệm.

Sau đ ấy, bọn cướp đ òi tiền chuộc nă m mươi vạn đ ồng!

Nhà họ Lý chỉ có nă m vạn. Tên đ ầu sỏ bọn cướp bảo

không đ ủ nă m mươi vạn là không xong; nhưng mỗi khi

hắn đ ề cập đ ến nă m mươi vạn, đ ầu liền bị nhức buốt,

sau đ ành phải chấp thuận nă m vạn tiền chuộc. Từ khi con

ông Cận Đ an đ ược bọn cướp thả về, chẳng những không

bị thổ huyết, mà ngay cả khạc đ àm cũ ng chẳng thấy lẫn

máu nữa! Bệnh dây dưa suốt hai nă m do bị cướp bắt, bệnh

đ ược khỏi hẳn. Những sự tích cảm ứng vừa thuật trên đ ây,

[quý vị] hãy nên tin tưởng sâu xa.

Hiện tại, người học Phật khá nhiều, nhưng người hiểu bi

ết Phật pháp sâu xa quá ít, trái lại, con người phần nhiều

tin vào những lời lẽ của ngoại đ ạo. Miền Giang - Triết

thường đ ồn rằng: “Người niệm Phật chẳng đ ược vào huy

ết phòng (phòng đ àn bà sanh nở) vì một khi bị mùi máu

tanh hôi của bà đ ẻ suông nhằm, bao nhiêu công đ ức niệm

Phật từ trước tiêu mất hết”. Vì thế, [ai nấy] coi là chỗ phải

tránh né, dù là con gái, con dâu của chính mình [sanh nở] đ

ều chẳng dám đ ến gần. Có kẻ còn né sẵn qua nơi khác từ

trước; hơn cả tháng mới dám trở về nhà. Tập tục này phổ bi

ến rất rộng cũ ng đ áng lạ thay! Chẳng biết đ ó chính là tà

thuyết của ngoại đ ạo làm lầm lạc, đ iên đ ảo lòng người,

há nên tin bậy?

133

Nă m Dân Quốc thứ mười hai (1923), con dâu thứ của

ông Viên Hải Quán, tuổi đ ã hơn nă m mươi, có chút học

vấn, có hai trai, hai gái. [Lúc] con dâu trưởng của bà ta sắp

sanh, một vị cư sĩ bảo: “Con dâu sắp sanh, trong vòng

một tháng, không đ ược thờ Phật trong nhà, cũ ng chẳng đ

ược niệm Phật”. Bà ta nghe xong, hồ nghi, vừa may tôi đ ế

n đ ất Hỗ, bèn hỏi ý việc ấy. Tôi nói: “Kẻ mù quáng đ ặt lời

đ ồn thổi! Về bảo con dâu bà thường niệm Quán Âm, lúc

sanh nở cần niệm ra tiếng. Bà và những người să n sóc sản

phụ ai nấy đ ều nên niệm lớn tiếng thì chắc chắn chẳng đ

ến nỗi bị sanh khó và không có những chuyện đ au đ ớn, b

ă ng huyết v.v… Mà sau khi đ ẻ xong cũ ng chẳng bị các đ

iều nguy hiểm”. Bà ta nghe nói, rất mừng. Qua mấy ngày

sau, cháu bé sanh ra, thân rất to, người Hồ Nam sanh con

nhất đ ịnh cân [coi nặng bao nhiêu], đ ứa bé nặng đ ến

chín cân rưỡi, lại là con so, mà [người mẹ] trọn chẳng đ au

đ ớn gì. Vậy mới biết sức đ ại từ, đ ại bi của Quán Âm Bồ

Tát chẳng thể nghĩ bàn. Bình thường niệm Phật, niệm Bồ

Tát, phàm lúc sắp ngủ, lúc rửa chân, tắm gội đ ều nên niệm

thầm. Chỉ có lúc sanh nở chẳng đ ược niệm thầm vì lúc đ

ang sanh phải dùng sức, niệm thầm ắt sẽ bị tức khí thành

bệnh. Phải rất chú ý đ iểm này! Phải biết: Phật lực chẳng

thể nghĩ bàn, Pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh

tâm lực cũ ng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ do con người có

lòng kiền thành hay không mà thôi!

134

Vị cao tă ng đ ời Minh là ngài Thọ Xương Huệ Kinh thiề

n sư lúc sắp đ ược sanh ra khá khó khă n. Ông nội ngài đ

ứng ngoài phòng sanh, vì con cháu niệm kinh Kim Cang đ ể

cầu đ ược dễ sanh. Cụ vừa mới mở miệng niệm xong hai

chữ Kim Cang, [cháu] liền đ ược sanh. Ông nội bèn đ ặt tên

cho cháu là Huệ Kinh. Lớn lên, quy y và xuất gia đ ều chẳng

lấy tên nào khác. Ngài là vị cao tă ng lỗi lạc thời Vạn Lịch

(Minh Thần Tông 1573-1620). Do đ ấy, gẫm xem thì biết là

Phật pháp có ích cho cõi đ ời cũ ng lớn lắm! Niệm Quán Âm

Bồ Tát vào lúc sanh sản có lợi ích như thế đ ó, há nên bị tà

thuyết mê hoặc mà chẳng tín phụng Ngài ư?

Người đ ời ă n thịt đ ã thành thói quen. Hãy nên biết

bất cứ loại thịt nào đ i nữa đ ều có chất đ ộc, vì lúc [con vật]

bị giết, hận tâm, oán khí ngùn ngụt. [Người ă n vào] tuy

chẳng đ ến nỗi mất mạng ngay lập tức, nhưng tích tập lâu

ngày sẽ trở thành ghẻ chốc, tật bệnh. Những phụ nữ trẻ tuổi

nếu vừa nổi nóng xong liền cho con bú sữa mẹ, đ ứa bé

có thể bị chết; là vì sự nóng giận khiến cho sữa bị trở

thành chất đ ộc. Sự nóng giận của con người vào lúc chưa

phải bị đ au khổ trí mạng còn đ ộc đ ến thế, huống là cái

đ au mất mạng của những loài lợn, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v…

há có thể nào thịt chúng nó chẳng đ ộc ư? Hơn mười nă m

về trước, tôi thấy một cuốn sách nói: “Một phụ nữ Âu Tây

tánh tình nóng nảy quá mức, [ngày nọ] vừa nổi nóng xong,

cho con bú, đ ứa bé chết ngay, chẳng biết vì nguyên do gì.

135

Về sau lại sanh đ ứa khác, lại nhân lúc nóng giận xong cho

con bú, [đ ứa bé] chết tươi; bèn đ em sữa đ i xét nghiệm thì

thấy có chất đ ộc, mới biết cả hai đ ứa con đ ều chết vì

bú sữa đ ộc”.

Gần đ ây, có một bà cụ đ ến quy y, tôi bảo cụ ă n chay vì

thịt có chất đ ộc và kể chuyện người phụ nữ Âu Tây do nóng

giận mà sữa hóa thành chất đ ộc làm chết hai đ ứa con đ ể

làm chứng. Bà cụ ấy bảo bà ta cũ ng có hai đ ứa con cũ ng

bị chết giống như vậy, vì ông chồng cụ tánh khí ngang

ngược, man rợ, cứ hễ trái ý liền đ ánh vợ nhừ tử. Con thơ

trông thấy khóc òa lên, liền cho con bú. [Ðứa bé] chết liề

n! Lúc ấy, cụ chẳng biết là chết vì sữa đ ã trở thành chất đ

ộc. Con dâu cụ cũ ng vì cho con bú mà chết mất một đ ứa.

Ðủ thấy con nít trong đ ời bị trúng sữa đ ộc chết chẳng bi

ết là bao nhiêu. Từ người phụ nữ Tây Phương phát giác

trước tiên cho đ ến cụ bà này [xác nhận], mới thấy thật

minh bạch. Vì thế, phụ nữ cho con bú sữa mẹ chớ nên nổi

nóng. Nếu như đ ang giận dữ quá mức thì hôm ấy đ ừng

có cho con bú, cần phải đ ợi đ ến hôm sau, tâm trạng lắng

dịu, lúc hết còn giận hờn thì mới [cho con bú] không ngại

gì. Nếu ngay hôm đ ó cho con bú rất có thể làm chết con.

Nếu không chết ngay, rất có thể là chết dần dần.

Do vậy, biết rằng: Trâu, dê v.v… lúc bị giết tuy chẳng

nói đ ược, nhưng chất đ ộc do lòng oán hận kết lại trong

thịt nơi thân chúng cũ ng chẳng ít ỏi gì! Kẻ biết tự thương

136

mình cố nhiên phải nên kiêng [ă n thịt] vĩ nh viễn đ ể tránh

khỏi các thứ tai họa trong đ ời này, đ ời sau! Chuyện này rất

ít người biết; vì thế, phải nêu rõ ra, mong sao mọi người

lưu ý. Lấy đ ó làm chứng, cần biết rằng: Khi người ta nóng

giận, chẳng những sữa có chất đ ộc mà nước mắt, nước mi

ếng cũ ng đ ều có chất đ ộc. Nếu những thứ này rơi rớt

vào mắt, vào thân trẻ nhỏ cũ ng gây hại chẳng cạn. Có một

vị bác sĩ đ ến quy y, tôi hỏi ông ta: “Trong sách thuốc có

nói đ ến đ iều này hay không?” Ông ta đ áp: “Không bi

ết!” Trong thế gian chuyện vượt ngoài tình lý khá nhiều,

chẳng thể vì chúng không hợp khoa học mà coi thường đ

ược! Chẳng hạn như cách trị bệnh sốt rét thì dùng một tấm

giấy trắng rộng hai tấc, viết ô mai (hai trái), hồng táo (hai

trái), hồ đ ậu (tùy theo bệnh nhân bao nhiêu tuổi, viết bấy

nhiêu hạt. Như mười tuổi, viết mười hạt. Hai mươi tuổi viết

hai mươi hạt) xếp lại. Trước lúc cơn bệnh phát ra khoảng

một tiếng đ ồng hồ, quấn trên bắp tay, nam bên trái nữ bên

phải, thì bệnh sẽ chẳng phát nữa. Tră m lần áp dụng, tră m

lần hiệu nghiệm. Dù bệnh đ ã hai ba nă m chẳng lành, cũ

ng chữa lành đ ược. Chẳng phải bùa, chẳng phải chú, chẳng

phải thuốc mà trị lành đ ược bệnh ngặt, há có thể vận dụng

lý thông thường đ ể giải thích hay chă ng? Sự thể trong th

ế gian đ ều khó thể nghĩ bàn cả! Như mắt thấy, tai nghe

là chuyện cực bình thường, ai ai cũ ng biết cả, nhưng nếu

hỏi vì sao mắt thấy đ ược, vì sao tai nghe đ ược thì những

137

người biết rất ít! Trong Phật pháp cũ ng có những sự

chẳng thể nghĩ bàn nhưng lại nghĩ bàn đ ược, có những

sự có thể nghĩ bàn nhưng lại chẳng thể nghĩ bàn đ ược.

Thần diệu nhưng minh bạch, tồn tại ngay trong con người,

há nên dùng lẽ thường tình đ ể suy lường ư!

Ngày thứ bảy: Giảng về tội đ ại vọng ngữ và những sự như

đ ại hiếu trong nhà Phật, trí tri cách vật, thật thà niệm Phật

v.v…

Ngày hôm nay, pháp hội viên mãn. Thời hạn bảy ngày

chớp mắt đ ã qua. Thế nhưng, pháp hội tuy viên mãn,

chuyện hộ quốc tức tai nên thực hiện cho đ ến khi chấm

dứt báo thân này. Trừ phi ai nấy ă n chay, niệm Phật, vãng

sanh Tây Phương, chẳng thể nói là đ ã viên mãn rốt ráo đ

ược.

Người học Phật hiện tại có lắm kẻ tự bảo ta đ ã khai ngộ,

ta là Bồ Tát, ta đ ã đ ắc thần thông đ ến nỗi gây lầm lạc cho

nhiều người. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc mạng sắp

chấm dứt, khi ấy cầu sống chẳng đ ược, đ au khổ mà chết,

chắc chắn đ ọa đ ịa ngục A Tỳ . Chớ nên nhiễm đ ắm thói ác

của những kẻ ham cao, chuộng xa, dối mình, lừa người ấy; n

ếu có thì phải sửa ngay. Nếu không có thì càng thêm cố

gắng. Hãy kiêng dè, hãy đ ề phòng!

138

Giết, trộm, dâm… cố nhiên là tội nặng, nhưng con người

biết những hành vi ấy chẳng tốt, không đ ến nỗi ai nấy đ

ều bắt chước theo, nên tội ấy vẫn còn nhẹ. Nếu chẳng tự

lượng, phạm tội đ ại vọng ngữ, chưa đ ắc đ ã bảo đ ắc,

chưa chứng đ ã nói chứng đ ể dẫn dắt những hạng vô tri, ai

nấy đ ều bắt chước theo, hoại loạn Phật pháp, làm chúng

sanh bị nghi ngờ, lầm lạc, tội ấy nặng không thể hình dung

đ ược! Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đ ức, phơi bày

tội lỗi. Nếu chuộng phô trương tiếng tă m, oai thế rỗng

tuếch, bày trò giả dối, dù có tu hành cũ ng bị cái tâm dối trá

rỗng tuếch ấy làm hư mất hết! Vì thế, Phật đ ặc biệt coi

tội vọng ngữ là giới că n bản của các giới đ ể ngă n ngừa

tâm hư ngụy, ngõ hầu [người tu học đ ạo Phật] sẽ chân tu,

thực chứng. Người tu hành chẳng đ ược hướng về hết

thảy mọi người khoe khoang công phu của chính mình. Nế

u như vì chính mình chẳng thể hiểu thật rành rẽ, muốn cầu

thiện tri thức khai thị, ấn chứng, thì cứ theo đ úng sự thực

mà trình bày trực tiếp, chớ nên kiêu că ng nói quá lên, cũ

ng chớ nên tự khiêm nói giảm đ i, cứ dựa theo bổn phận

của chính mình mà nói thì mới là đ ệ tử Phật thật sự, mới có

thể mỗi ngày một thấy đ ược lợi ích nhiều hơn. Lục Tổ đ ại

sư nói:

Phật pháp tại thế gian,

Bất ly thế gian giác,

139

Ly thế mịch Bồ Đ ề,

Kháp như cầu thố giác

(Phật pháp tại thế gian,

Chẳng rời thế gian giác

Lìa đ ời tìm Bồ Ðề

Khác nào tìm sừng thỏ).

Vì vậy, biết rằng: Hết thảy mỗi sự mỗi vật trong thế

gian đ ều là Phật pháp. Chúng ta khởi tâm đ ộng niệm đ ề

u phải rành rẽ, minh bạch, chẳng đ ược đ ể vọng niệm làm

mê. Ngay cả những kẻ cực ác, bại hoại nhất trong thế gian

cũ ng như những đ ứa trẻ non nớt nếu có ai nói đ ến

những đ iều bất thiện thì giận, nghe đ iều lành thì vui. Sự

giận dữ đ ối với đ iều bất thiện, vui vẻ đ ối với đ iều thiện

há chẳng phải là Chân Tâm Bản Giác phát hiện ư? Đ iều đ

áng tiếc là chẳng biết tự quay lại đ ể mở rộng [cái tâm

giận đ iều ác, vui đ iều lành] ra, vẫn cứ suốt ngày làm

chuyện chẳng lành, đ ến nỗi trở thành ham danh, ghét thật,

lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh: “Ta

đ ã vui với đ iều thiện thì hãy nên tận lực làm việc lành, tận

lực ngă n ngừa đ iều ác thì gần là mong thành hiền, thành

thánh; xa là liễu sanh thoát tử, thành giác đ ạo của Phật”.

Ðiều quan trọng là tự giác. Hễ giác thì chẳng chịu thuận

theo mê tình, cuối cùng đ ạt đ ến chỗ giác vĩ nh viễn

140

chẳng mê. Nếu chẳng tự giác sẽ hằng ngày muốn người

khác khen ngợi ta là lành, nhưng hằng ngày tận lực làm các

đ iều ác, chẳng đ áng buồn lắm ư? [Sự kiện] con người ai c

ũ ng có ý niệm thích đ ược người khác khen ta là lành đ ủ

chứng tỏ chúng sanh đ ều có Phật tánh, nhưng hành vi

thuận theo tánh hay trái nghịch tánh thì: Một là do mình tự

cố gắng hay tự buông lung, hai là do thiện hay ác tri thức chỉ

bày, dẫn dụ. Đ ời nay, tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là

do con người phần nhiều chẳng chuộng thực tế, ham

chuộng mong mỏi hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch

bản tâm của chính mình mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang

phản chiếu, tỏ rõ Phật tánh vốn sẵn có, chẳng lừa mình, dối

người, biết lễ nghĩ a, biết liêm sỉ thì cái că n bản đ ã lập,

chẳng còn làm chuyện nghịch lý loạn đ ức, ắt tai hoạn sẽ tự

dứt vậy!

Người học Phật quan trọng nhất là ai nấy phải trọn hết

bổn phận. Tròn bổn phận thì sẽ có liêm, có sỉ. [Những hạnh]

như cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính đ ều nên nỗ

lực thực hành. Sách Ðại Học có câu: “Ðại học chi đ ạo, tại

minh Minh Đ ức” (Ðạo đ ại học cốt ở chỗ làm sáng tỏ cái đ

ức sáng). Chữ “minh” thứ nhất là tu đ ức “khắc kỷ49[49],

xét soi, phản tỉnh”. Hai chữ “Minh Đ ức” tiếp đ ó chỉ

tánh đ ức sẵn có trong tự tâm. Muốn làm sáng tỏ Minh Đ ức

49[49] Khắc kỷ: Nghiêm khắc với bản thân, không cho phép bản thân mình dễ dãi với bất cứ

tập quán ươn hèn, sai trái nào.

141

sẵn có trong bản tâm, không tu trì từ việc khắc kỷ, xét soi,

phản tỉnh thì không xong! Tiến lên nữa, mới có thể nói:

“Tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Chữ “thân dân” ở đ

ây hàm ý ai nấy tận hết bổn phận. “Chỉ ư chí thiện” nghĩ

a là khởi tâm, làm chuyện gì, tự hành, dạy người, đ ều

thuận theo lẽ trời, tình người, là Trung Ðạo chẳng lệch,

chẳng cong quẹo. Ðược như vậy thì làm thánh làm hiền là

đ iều có thể đ ạt đ ược!

Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đ ối trị phiền não,

tập khí, nên có Tam Học Giới - Ðịnh - Huệ làm că n bản. Bởi

lẽ, Giới ràng buộc cái thân thì chẳng dám làm đ iều trái đ

ức nghịch lý, chẳng dám thốt lời vô ích có hại. Do Giới sanh

Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ

dần tiêu, những hành vi hồ đ ồ sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát

Huệ nên Chánh Trí mở mang, phát khởi, Phiền Hoặc tiêu

diệt, thực hiện các thiện pháp thế gian hay xuất thế gian

không pháp nào là chẳng phù hợp với Trung Ðạo vậy! Ba

thứ Giới - Ðịnh - Huệ đ ều là Tu Ðức, đ ều là tâm thể do đ

ích thân Chánh Trí thấy đ ược! Ðấy chính là Minh Ðức. Sách

Trung Dung gọi Minh Ðức này là Thành. Thành chỉ cho

“thuần chân chẳng vọng”. Minh Ðức tức là “ly niệm linh

tri”. Thành và Minh Ðức đ ều thuộc về Tánh Ðức. Do có

Tu Đ ức “tu trì khắc kỷ, phản tỉnh, xét soi” thì Tánh Đ ức

mới hiển lộ. Bởi thế, cần chú trọng vào chữ “minh” thứ

142

nhất thì Minh Ðức mới có thể thấy thấu suốt, vĩ nh viễn tỏa

sáng!

Phật pháp và thế gian pháp vốn chẳng phải là hai thứ! N

ếu có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cát ái” (từ biệt cha

mẹ, cắt đ ứt tình yêu thương) là bất hiếu thì đ ó là cái nhìn

hạn cuộc trong đ ời này, là cái nhìn nông cạn chẳng biết tới

quá khứ, vị lai. Chữ Hiếu đ ối với cha mẹ trong nhà Phật

thông cả ba đ ời. Vì thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là

Phật tử thì do Từ tâm sẽ hành nghiệp phóng sanh, coi hết

thảy đ àn ông là cha ta, coi hết thảy đ àn bà là mẹ ta. Ta

trong đ ời đ ời, không lúc nào không do họ sanh ra. Bởi vậy,

chúng sanh trong sáu đ ường đ ều là cha mẹ ta. Giết họ đ

ể ă n tức là giết cha mẹ ta!” Ðối với hết thảy chúng sanh,

Phật đ ều nghĩ thương xót đ ộ thoát, ấy là Hiếu chẳng

phải là vừa rộng lại vừa xa ư? Vả nữa, lòng Hiếu thế gian:

Cha mẹ còn sống thì hầu hạ, phụng dưỡng, cha mẹ đ ã

khuất thì chỉ tới ngày [cha mẹ] mất mới làm cỗ cúng bái đ ể

trọn hết dạ làm con. Nếu như cha mẹ tội lớn, đ ọa trong dị

loại, nào ai có thể biết trong đ ám sinh vật bị giết hại đ ể

ă n ấy, chắc chắn không có ai từng là cha mẹ ta ư? Không

thông hiểu lý ba đ ời vô tận, cậy vào sự hiếu nhỏ nhoi mấy

mươi nă m đ ể trách người, sự thấy biết ấy nhỏ nhoi, nông

cạn, đ áng thương xót thay! Vì thế, Phật dạy người ta kiêng

giết, phóng sanh, ă n chay, niệm Phật, lòng từ bi cứu giúp

cũ ng lớn lao thay!

143

Hoặc lại có kẻ bảo: “Loài lợn, dê, cá, tôm… vốn do trời sanh

đ ể nuôi dưỡng con người, ă n chúng nào có mắc tội gì?”

Ðây là do chưa trải qua cảnh đ ó nên mới nói bừa như thế.

Nếu đ ích thân trải qua cảnh ấy thì mong đ ược cứu còn

không xuể, nào có dịp biện bác. Sách Khuyến Giới Loại Biên

có chép: Ông họ Triệu nọ làm huyện lệnh huyện Bồ Thành,

tỉnh Phước Kiến, ă n chay trường thờ Phật. Vợ ông hoàn

toàn không có lòng tin. Ngày hôm trước bữa sinh nhật, bà

ta mua khá nhiều sanh vật tính giết đ ãi khách. Họ Triệu

bảo: “Bà muốn chúc thọ mà lại làm cho chúng nó bị chết,

nên chă ng?” Vợ bảo: “Ông nói toàn lời vô ích! Nếu theo

như Phật pháp, nam nữ chẳng đ ược ngủ chung, chẳng giế

t sanh mạng, thì hóa ra mấy chục nă m sau, tràn ngập thế

gian toàn là súc sanh!” Ông Triệu cũ ng không có cách gì

khuyên giải đ ược. Đ ến đ êm, người vợ mơ thấy đ i vào

nhà bếp, thấy giết lợn mà chính mình bị biến thành lợn,

bị giết chết rồi vẫn còn biết đ au. Lúc bị cạo lông, phanh

bụng, móc ruột, cắt phổi, đ au khổ không thể chịu đ ược nổi!

Sau đ ấy, giết đ ến gà, vịt v.v… đ ều thấy chính mình là

những con vật bị giết. Ðau quá sức, tỉnh cả ngủ, tim run,

thịt giựt. Từ đ ấy phát tâm thả hết những loài vật mình đ ã

mua, ă n chay trường. Người này đ ời trước có că n lành

lớn nên mới cảm đ ược Phật từ gia bị, khiến cho bà ta đ ích

thân chịu khổ đ ể dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đ ời đ

ời, kiếp kiếp nộp thân cho người ta ă n [đ ể đ ền nợ sát

144

sanh]! Những kẻ giết sanh vật ă n thịt trong cõi đ ời nếu

có thể nghĩ tưởng đ ặt chính mình vào trong hoàn cảnh

[của loài vật] thì khó gì mà chẳng quay đ ầu ngay khi ấy.

Lại có một hạng người nói: “Ta ă n thịt trâu, dê, gà, vịt… là

vì muốn đ ộ thoát chúng nó!” Chẳng những Hiển Giáo

không có thuyết này, ngay trong Mật Giáo cũ ng không có.

Nếu quả thật có thần thông như ngài Tế Ðiên thì còn đ

ược. Chứ nếu không, đ ó chỉ là tà thuyết khiến người lầm

lạc, tự chuốc lấy tội. Hạng hết sức vô liêm sỉ mới dám nói

như thế! Người học Phật phải hiểu rõ ràng khả nă ng của

mình, chớ nên xằng bậy tự khoe khoang lớn lối, mong mỏi

vậy thay!

Thời Lương, tại núi Thanh Thành ở đ ất Thục (Tứ Xuyên),

có vị Tă ng tên là Ðạo Hương có đ ại thần lực, nhưng giấu

kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ hằng nă m mở hội, lúc đ ó

mọi người ă n uống no say, giết hại sanh vật vô số. Ngài

Ðạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng nghe. Nă m ấy,

Ngài đ ào một cái hố to ở ngoài sơn môn, bảo mọi người:

“Các ông đ ã ă n no, xin chia cho tôi một bát canh, có đ

ược không?” Mọi người ưng thuận. Khi đ ó, ngài Ðạo

Hương cũ ng ă n uống thật no say, nhờ người dìu đ ến

trước hố ọe hết ra. Những con vật ngài đ ã ă n vào: Con

nào bay đ ược thì bay lên, con nào chạy thì chạy đ i, tôm, cá,

thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi người kinh sợ, kính phục, liền

vĩ nh viễn kiêng sát sanh. Về sau, ngài Ðạo Hương nghe

145

lời Chí Công liền hóa (tịch diệt) (Có người đ ất Thục yết ki

ến ngài Chí Công ở kinh đ ô. Chí Công hỏi: “Người xứ

nào?” Ðáp: “Tứ Xuyên”. Chí Công bảo: “Hương ở Tứ

Xuyên mắc hay rẻ?” Ðáp: “Rất rẻ”50[50]. Chí Công bảo:

“Đ ã bị người ta coi thường sao chẳng ra đ i?” Người đ ó

trở về núi Thanh Thành, thuật cho Ðạo Hương nghe lời

ngài Chí Công. Ngài Ðạo Hương nghe lời ấy xong liền hóa).

Cần biết rằng: Những người an phận giữ mình trong cõi

đ ời, một khi hiển thị thần thông xong liền thị hiện tịch diệt

lìa đ ời đ ể khỏi bị tă ng thêm phiền não. Nếu không, phải

như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng, không ra trò gì đ ể

người ta nửa tin nửa ngờ, không thể đ oan chắc thì mới đ

ược!

Người học Phật cần phải chă m chú bỏ cái thấy ta - người,

cần phải tự lập, lập người, tự lợi, lợi người. Có vậy mới có

thể nói là “nhập đ ạo”. Tức là như sách Ðại Học chép:

“Cổ chi dục minh Minh Đ ức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc.

Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên

tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục

chánh kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên

trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật” (Người xưa muốn làm sáng tỏ

Minh Đ ức trong thiên hạ thì trước hết phải giữ yên đ ất

50[50] Nguyên văn: “Tứ Xuyên hương quý tiện?” Câu này có thể hiểu hai nghĩa: “Ngài Đạo

Hương ở Tứ Xuyên được quý trọng hay bị coi thường?” Nghĩa thứ hai là “nhang ở Tứ Xuyên

mắc hay rẻ?” Người nghe hiểu theo nghĩa thứ hai nên nói “rất rẻ”.

146

nước. Muốn giữ yên đ ất nước thì trước hết phải giữ yên

gia đ ình. Muốn giữ yên gia đ ình thì trước hết phải sửa đ

ổi thân mình. Muốn sửa đ ổi thân mình thì trước hết cái

tâm phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ta ngay thẳng thì trước

hết phải giữ cho cái ý chân thành. Muốn cho cái ý chân

thành thì trước hết phải đ ạt đ ến chỗ hiểu biết. Ðạt đ ế

n chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục).

Chữ “vật” đ ược nói ở đ ây chỉ lòng tư dục chẳng phù

hợp với thiên lý và tình người. Hễ đ ã có tư dục ắt tri kiến

sẽ lệch lạc, tà vạy, chẳng còn ngay thẳng nữa. Chẳng hạn

như kẻ đ ã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đ ốn, kẻ

đ ó cũ ng chẳng thấy là hư hỏng. Do tư dục yêu thương mê

mệt ngă n lấp lương tri sẵn có, nên trở thành sự thấy biết

xấu ác, lệch lạc, tà vạy, bất chánh. Nếu có thể trừ khử sạch

tâm niệm yêu thương mù quáng thì những chuyện vợ con

đ úng hay sai sẽ thấy rõ ngay lập tức. Vì vậy, biết rằng: Phải

thống thiết giảng [rõ ràng khái niệm] “cách vật” (trừ khử

vật dục), chớ có hiểu lầm “cách vật” nghĩ a là thông suốt

cùng tột lý của mọi sự vật trong thiên hạ. Trừ khử món đ ồ

tư dục trong tự tâm mới chính là că n bản của việc “làm

sáng tỏ Minh Ðức”. Thông đ ạt tận cùng lý tánh của sự vật

trong cõi đ ời chỉ là chuyện cành nhánh nhất trong các

chuyện cành nhánh. Lấy chuyện cành nhánh phụ thuộc nhất

làm gốc thì thiên hạ ắt phải loạn lạc hết thuốc chữa đ ược!

Phật pháp trừ khử tham - sân - si chính là “cách vật”. Tu

147

Giới - Ðịnh - Huệ chính là “trí tri”. Món vật Tham - Sân - Si

chất chứa trong tâm thì cũ ng như đ eo cặp kính màu đ ể

nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy đ ược màu thật của chúng.

Họa hại của vật [dục] chẳng đ áng sợ sao?

Người niệm Phật cũ ng đ ừng ỷ mình thông minh, trí huệ,

mà cần phải vứt bỏ [những đ iều ấy] ra tận ngoài biển

Ðông. Nếu không, e rằng sẽ bị chúng gây lầm lạc, tự chuốc

buồn khổ. Bởi lẽ, do thấy biết nhiều nhưng không chuyên

nhất, đ âm ra chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm

Phật, chánh tâm, thành ý đ ược hưởng ích lợi rất nhiều. Vì

thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học theo ngu phu,

ngu phụ, [lấy việc] thật thà tu trì làm chánh yếu. Tục ngữ có

câu: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh

đ âm ra lại bị lầm lạc vì thông minh), chẳng đ áng sợ sao?

Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần, một đ ệ tử quy y của

tôi ở huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam, ă n chay trường niệm

Phật nhiều nă m. Người con trưởng tên Huệ Hồng đ ã chế

t vào nă m trước. Bà mẹ do thương con quá nên uống thuốc

đ ộc, trọn không có tướng trạng khổ sở, ngồi ngay ngắn

niệm Phật qua đ ời. Hơn nữa, chết rồi sắc mặt sáng nhuận,

kinh đ ộng cả một phương. Ông Bá Thuần là bậc lão nho đ

ề xướng [niệm Phật], người tin theo rất ít, nhưng do cái ch

ết của vợ con ông, mười người đ ã hết tám, chín người tin

theo. Phàm ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đ ời, dẫu không

bịnh mà thác cũ ng đ ã khó có; huống chi uống thuốc đ ộc

148

chết mà còn hiện đ ược tướng đ ó, nếu chẳng phải là đ ã

đ ắc Tam Muội nên chất đ ộc chẳng thể làm hại đ ược thì

làm sao hiện đ ược tướng như vậy? Ông Dương Kiệt51[51]

đ ời Tống, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học với thiề

n sư Thiên Y [Nghĩ a] Hoài, đ ại ngộ. Sau do cư tang mẹ, đ

ọc Ðại Tạng, hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ

nên tận lực tự hành, dạy người hành. Lâm chung nói kệ

rằng:

Sanh diệc vô khả luyến

Tử diệc vô khả xả,

Thái hư không trung chi hồ giả dã,

Tương thác tựu thác: Tây Phương Cực Lạc.

(Sanh thì cũ ng chẳng tiếc gì,

Chết rồi cũ ng chẳng bỏ đ i đ âu nào,

Hư không hư huyễn sá chi,

Ðem lầm đ áp lẫn đ ể về Tây Phương)

51[51] Dương Kiệt là người huyện Vô Vi (tỉnh An Huy), nên lấy hiệu Vô Vi Tử, có tài văn chương lỗi

lạc, đỗ đạt ngay trong tuổi thiếu niên. Thích học Thiền, đã tham học khắp các vị tôn túc đương thời.

Khi yết kiến Thiên Y Nghĩa Hoài, Sư đã đem những câu chuyển ngữ của Bàng cư sĩ ra gạn hỏi. Một

hôm đến núi Thái, thấy mặt trời to như cái mâm đang mọc bèn đại ngộ. Trình kiến giải lên Nghĩa

Hoài được hứa khả. Sau ông lại gặp ngài Phù Dung Đạo Giai thưa hỏi lẽ Thiền. Dưới đời Tống Thần

Tông, ông xin cáo quan về làng phụng dưỡng mẹ, ẩn cư đọc hết Đại Tạng Kinh, bèn liễu giải, quy tâm

Tịnh Độ. Từ đấy chuyên tu Tịnh nghiệp, từng vẽ một bức tượng Di Đà cao đến một trượng sáu để lễ

bái, quán tưởng. Lâm chung cảm Phật đến rước, ngồi ngay ngắn, an nhiên qua đời. Ông trước tác các

bộ Thích Thị Biệt Tập, Phụ Đạo Tập v.v…

149

Ông Dương Kiệt sau khi đ ại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực

đ ề xướng; đ ến lúc lâm chung nói: Trong chân tánh thì

sanh tử như hoa đ ốm trong hư không, nhưng do chưa

chứng đ ược chân tánh thì chẳng thể không chú trọng cầu

vãng sanh Tây Phương. “Ðem lầm đ áp lẫn” nghĩ a là nế

u đ ã triệt chứng chân tánh thì chẳng cần phải cầu sanh Tây

Phương nữa vì cầu đ ược vãng sanh vẫn còn là lầm lạc!

Chưa chứng ngộ chân tánh thì phải nên cầu vãng sanh Tây

Phương, cho nên mới nói: “Ðem lầm đ áp lẫn đ ể về Tây

Phương”. Trong tác phẩm Vãng Sanh Tập, cuối truyện ông

Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đ ã viết bài tán như sau: “Tôi

mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đ ều có

thể thành tựu loại lầm lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự đ ại

thông minh mà chẳng bị thông minh làm lầm lạc vậy”.

Như ông Tô Ðông Pha đ ời Tống, tuy là hậu thân của thiền

sư Ngũ Tổ Giới, luôn mang một bức tranh Phật A Di Ðà

theo bên mình, bảo: “Ðây là công cứ Tây Phương của cả đ

ời ta”. Nhưng đ ến lúc lâm chung, trưởng lão Duy Lâm ở

Kính Sơn khuyên nhủ đ ừng quên Tây Phương, Ðông Pha

nói: “Dù Tây Phương chẳng phải là không có, nhưng chẳng

thể dốc sức vào đ ấy đ ược!” Môn nhân là Tiền Thế Hùng

thưa: “Ðấy chính là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên

dốc sức”. Ðông Pha đ áp: “Hễ dốc sức vào thì là sai rồi!”

Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng chứng hùng hồn của

150

chuyện tự lầm lạc bởi thông minh vậy. Mong quý vị ai nấy đ

ều chú ý.

Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành

công dễ dàng, như đ ã că ng buồm thuận gió lại còn thuận

nước vì nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng sức nhiều

mà thành công khó khă n giống như con kiến bò lên núi

cao vì hoàn toàn cậy vào tự lực. Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu

viên mãn Phật Quả còn phải cầu vãng sanh Tây Phương,

huống hồ là bọn phàm phu chúng ta nghiệp că n sâu nặng,

sao chẳng dốc sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm

lạc cùng cực thay!

Hơn nữa, hiện thời những dụng cụ giết người trong cõi đ

ời mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi

cơ, đ ại bác, hơi đ ộc, tia sáng chết chóc v.v… Núi, sông

chẳng thể ngă n trở nổi, vật cứng không chống ngă n đ

ược, cái thân máu thịt của chúng ta làm sao đ ương cự đ

ược nổi? Mạng người như giọt sương buổi sớm, vô thường

một khi xảy đ ến, muôn sự đ ều thôi. Bởi thế, muốn cầu

lìa khổ đ ược vui thì phải nên kịp thời nỗ lực niệm Phật, cầu

Phật gia bị lâm chung vãng sanh. Một phen đ ạt lên cõi kia,

vĩ nh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở thấy Phật, chứng đ

ược Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện đ ược nghe pháp

này mà tin nhận vậy. Kính mong đ ại chúng tinh tấn hành trì,

đ ấy là đ iều tôi rất mong mỏi.

151

Ngày thứ tám: Pháp hội đ ã viên mãn,

giảng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện

và các nghĩ a lý trọng yếu dành cho người niệm Phật

Hôm nay là ngày quý vị quy y. Quý vị đ ã quy y thì nên hiểu

rõ đ ạo lý quy y, nay tôi trình bày cùng quý vị. Vì sao quý vị

quy y? Tôi nghĩ nói chung là chẳng ngoài việc muốn cầu

sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử mà thôi! Như thế nào

mới đ ạt đ ược những mục tiêu này? Tức là phải quy y Tam

Bảo, nghĩ a là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tă ng. Có quy y

Tam Bảo, tu trì chân thật thì mới đ ược liễu thoát sanh tử,

vãng sanh Tây Phương. Vả nữa, Tam Bảo vừa nói đ ó có hai

loại là Tự Tánh [Tam Bảo] và Trụ Trì [Tam Bảo].

Tự Tánh Tam Bảo:

* Phật nghĩ a là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật chính là Chân Như

Phật Tánh ly niệm linh tri sẵn có trong tự tâm.

* Pháp nghĩ a là quỹ phạm (khuôn phép). Tự Tánh Pháp

chính là khuôn mẫu đ ạo đ ức, nhân nghĩ a cao quý sẵn có

trong tâm.

* Tă ng nghĩ a là Thanh Tịnh. Tự Tánh Tă ng chính là tịnh

hạnh thanh tịnh vô nhiễm sẵn có trong tâm.

Trụ Trì Tam Bảo:

152

* Lúc đ ức Phật Thích Ca còn tại thế thì Ngài là Phật Bảo.

Sau khi Phật diệt đ ộ, tất cả các tượng Phật bằng vàng, bằng

đ ất, gỗ chạm, tranh vẽ đ ều là Phật Bảo.

* Các pháp ly dục thanh tịnh Phật đ ã giảng, và các kinh đ

iển sách vàng, trục đ ỏ đ ều là Pháp Bảo.

* Người xuất gia áo thâm, tu các hạnh thanh tịnh đ ều là T

ă ng Bảo.

Quy là quay về, đ ổ vào, như nước đ ổ vào biển, như dân

hướng về vua. Y là nương gởi, như con nương vào mẹ, như

vượt [sông, biển] nương nhờ thuyền. Con người giữa biển

cả sanh tử nếu chẳng quay về nương nhờ Tự Tánh Tam

Bảo và Trụ Trì Tam Bảo thì không cách gì thoát ra đ ược! N

ếu chịu phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, tu hành đ úng

như pháp thì liền ra khỏi biển khổ sanh tử, liễu sanh thoát

tử. Như người lỡ chân rớt xuống biển cả, sóng dữ bủa cuồn

cuộn, lo bị ngập mất đ ầu. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc,

sanh tử tồn vong ấy, chợt có con thuyền đ i đ ến, liền đ

uổi theo, trèo lên. Ðấy là nghĩ a “quay về, gieo vào” vậy.

Do biết Tự Tánh Tam Bảo, từ đ ấy khắc kỷ, phản tỉnh, xem

xét, kiêng dè, gắng sức, lại cầu nơi Trụ Trì Tam Bảo và mười

phương tam thế hết thảy Tam Bảo thì tiêu trừ đ ược ác

nghiệp, tă ng trưởng thiện că n, thành tựu đ ạo nghiệp

ngay trong đ ời này, vĩ nh viễn thoát khỏi sanh tử, luân hồi.

Giống như đ ược cứu, leo lên thuyền, ngồi yên đ ến bờ.

153

Hung hiểm lúc ấy đ ã qua, hiện tại mừng đ ược sống sót.

Bởi đ ó đ ược vô hạn lợi ích. Ðấy chính là ý nghĩ a “nương,

gởi” vậy. Việc đ ời rối ren, phiền não đ au khổ, sống trong

biển cả sanh tử này, hãy nên lấy Tam Bảo làm thuyền.

Chúng sanh đ ược quy y, đ ẩy chèo, giương buồm, chẳng

lười nhác, chẳng lui sụt, tự lên đ ược bờ kia!

* Ðã quy y Phật hãy nên thờ Phật làm thầy; bắt đ ầu từ nay

cho đ ến hết đ ời, dốc lòng chân thành lễ kính, chẳng chịu

lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở. Lại chẳng đ ược quy y

thiên ma, ngoại đ ạo, tà quỷ, tà thần.

* Ðã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ nay cho đ ến h

ết đ ời, chẳng quy y kinh đ iển ngoại đ ạo nữa.

* Đ ã quy y Tă ng nên lấy Tă ng làm thầy, bắt đ ầu từ nay

cho đ ến hết đ ời, chẳng còn quy y đ ồ chúng ngoại đ ạo

nữa.

Nếu đ ã quy y Tam Bảo mà còn tin tưởng ngoại đ ạo, tôn

thờ tà ma, quỷ thần thì tuy hằng ngày niệm Phật, tu trì, cũ

ng khó lòng đ ược lợi ích chân thật, vì tà - chánh chẳng

phân, chắc chắn chẳng có hy vọng liễu thoát sanh tử. Ai nấy

nên nghiêm chỉnh vâng giữ như thế (hai chữ Quy Y giảng

xong).

Ðã giảng về ý nghĩ a Tam Quy rồi, lại nói đ ến ý nghĩ a

Ngũ Giới. Ngũ Giới vừa đ ược nói đ ó, chính là: Một là

154

chẳng sát sanh, hai là chẳng trộm cắp, ba là chẳng tà dâm,

bốn là chẳng nói dối, nă m là chẳng uống rượu.

* Chẳng sát sanh là vì ta cùng loài vật đ ều ham sống, sợ

chết giống hệt như nhau. Ta đ ã ham sống, há loài vật

muốn chết? Nói, nghĩ đ ến đ iều đ ó, nỡ lòng nào giết

hại? Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh vốn cùng ngang hàng, luân

hồi trong lục đ ạo, tùy theo nghiệp thiện - ác mà hình thể bi

ến đ ổi, thă ng, giáng, siêu thoát, chìm đ ắm, trọn chẳng

lúc nào hết. Ta cùng bọn chúng trong nhiều kiếp lần lượt

làm cha, mẹ, lần lượt làm con cái. Suy nghĩ như vậy, há còn

dám sát sanh? Hết thảy chúng sanh đ ều có Phật tánh,

quả thực chẳng hai, chẳng khác với tam thế chư Phật.

Trong đ ời vị lai, đ ều có thể thành Phật, chỉ vì sức ác

nghiệp đ ời trước ngă n lấp khiến cho Phật Tánh mầu

nhiệm sáng suốt chẳng thể hiển hiện đ ược, chìm đ ắm

trong dị loại. [Chúng ta] phải nên dùng lòng thương xót,

lòng từ bi đ ể cứu vớt, nỡ nào cắt xẻ thân thể chúng đ ể no

bụng ta? Ðời này, bọn ta đ ã đ ược làm người chính là do

thiện quả đ ời trước, phải nên giữ gìn thiện quả này khiến

cho nó đ ược tỏa rạng rộng lớn, duy trì vĩ nh cửu, hãy nên

kiêng giết chóc sanh mạng! Nếu như rộng tạo sát nghiệp

ắt sẽ đ ọa ác đ ạo, đ ền trả nợ cũ , xoay vần giết hại nhau,

đ ây chìm, kia nổi, chẳng có lúc hết. Muốn cầu sanh Tây

Phương đ ể tránh khỏi nỗi khổ luân hồi, sao còn dám tạo sát

155

nghiệp ư? Vì thế, đ iều đ ầu tiên cần chú trọng là kiêng gi

ết.

* Chẳng trộm cắp là khi có đ ược vật gì phải xét xem nó

có hợp đ ạo nghĩ a hay không52[52], nếu chẳng cho thì

chẳng lấy. Việc này những ai biết chút liêm sỉ sẽ đ ều có

thể chẳng phạm, nhưng con người chẳng phải là hiền

thánh, ai có thể chưa hề phạm? Bởi lẽ, nếu tư dục dấy lên

sẽ dễ bị vật chất lung lạc. Nếu đ ối với mối lợi lớn ở ngay

trước mắt mà có thể né tránh giống như gấp gáp tránh rắn,

rết, hoặc kẻ chạy cuồng đ i vội thì [người như vậy] chẳng

luôn luôn gặp gỡ đ ược! Nói “trộm cắp” đ ó chẳng phải

chỉ có nghĩ a là trộm cắp tài vật của người khác, mà là ngay

trong lúc khởi tâm, làm việc có khi giống như trộm cắp thì c

ũ ng gọi là trộm cắp vậy. Chẳng hạn, lấy công giúp tư, tổn

người lợi mình, cậy thế lấy của, dùng mưu đ oạt vật, ganh

tỵ sự phú quý của người khác, mong người ta nghèo hèn đ i

v.v… đ ều là trộm cắp cả! Lại như làm lành phô trương đ ể

cầu danh. Nếu gặp các việc lành, tâm chẳng tích cực, công

chuyện phần nhiều làm quấy quá. Chẳng hạn như lập

trường nghĩ a học53[53] nhưng chẳng chọn thầy nghiêm

khắc khiến cho con em người khác bị lầm lạc; thí thuốc

men chẳng phân biệt thật - giả, khiến tánh mạng người

52[52] Nguyên văn là “kiến đắc tư nghĩa”. Chúng tôi dịch theo cách diễn giải của Tứ Thư

Bạch Thoại Giải. Khổng Tử còn nói thêm: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo” (quân tử [tuy]

chuộng của cải, nhưng lấy [của cải phải] đúng với đạo nghĩa).

53[53] Trường nghĩa học: Trường miễn phí mở ra để dạy dỗ con cái người nghèo, hoặc côi cút.

156

khác bị hại. Phàm thấy nạn gấp, dụ dự chẳng cứu cho nhanh,

lần chần, dùng dằng đ ến nỗi lỡ việc. Chỉ luôn lằng nhằng,

thiếu trách nhiệm, chẳng quan tâm đ ến lợi - hại của

người khác. Những đ iều giống như thế đ ều gọi là trộm

cắp! Lòng mang cái tâm trộm cắp, làm chuyện trộm cắp thì

xã hội sẽ vì đ ó mà rối beng, thiên hạ cũ ng chẳng thái bình.

Vì vậy, cần phải chú trọng kiêng dè trộm cắp.

* Chẳng tà dâm: Âm - dương thu hút nhau, muôn vật nhờ

đ ó mà sanh. Nam nữ lập gia đ ình là giềng mối lớn lao của

con người. Sanh con đ ẻ cái, nuôi dạy nên người, trên liên

quan đ ến phong hóa, dưới liên quan đ ến tiếp nối dòng

dõi; cho nên chẳng cấm. Nếu chẳng phải với người vợ hay

chồng chánh thức lại chung chạ bừa bãi, đ ấy là tà dâm.

Như vậy là trái nghịch lẽ trời, rối loạn luân thường của con

người, sống làm cầm thú đ ội mũ mặc áo, chết đ ọa tam đ

ồ ác đ ạo ngàn vạn ức kiếp chẳng thể thoát khỏi. Nhưng

con người do dâm dục sanh ra nên dâm tâm khó chế ngự

nhất. Đ ức Như Lai dạy người tham dục nặng nề tu Bất Tịnh

Quán, quán lâu ngày sẽ thấy sắc đ âm chán. Lại nếu có thể

tưởng hết thảy nữ nhân mình trông thấy đ ều là mẹ, con

gái, chị, em, sanh tâm hiếu thuận, tâm cung kính thì ác

niệm dâm dục không do đ âu phát sanh đ ược! Ðấy chính là

đ oạn trừ cội gốc của sanh tử luân hồi, là cơ sở, là bậc thềm

đ ể siêu phàm nhập thánh, hãy nên thường kiêng dè. Còn

như vợ chồng ân ái với nhau vốn chẳng bị cấm đ oán,

157

nhưng cũ ng cần phải “tương kính như tân” (kính trọng

nhau như khách), nhằm tiếp nối dòng dõi đ ể thờ phụng tổ

tiên, phải nên giữ chừng mực, chớ nên chỉ tham cầu khoái

lạc đ ến nỗi chôn vùi thân mạng! Tuy là với người phối

ngẫu của mình, hễ tham khoái lạc thì cũ ng là phạm giới!

Chẳng qua tội ấy so ra nhẹ hơn [tội tà dâm] thôi! Vì thế, cần

phải đ ặt nặng chuyện giới dâm.

* Chẳng nói dối là lời lẽ phải đ áng tin, chẳng dối trá thốt

ra. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy, lấy hư

làm thật, lấy có làm không; phàm hết thảy những chuyện

tâm - miệng chẳng xứng nhau, muốn lừa dối người thì đ ều

là “nói dối” cả. Lại nếu tự mình chưa đ oạn Hoặc mà bảo

đ ã đ oạn Hoặc, tự mình chưa đ ắc đ ạo mà bảo đ ã đ ắc đ

ạo thì là đ ại vọng ngữ. Tội ấy rất nặng vì hoại loạn Phật

pháp, khiến cho chúng sanh ngờ vực, lầm lạc, chắc chắn đ

ọa đ ịa ngục A Tỳ , vĩ nh viễn không có ngày ra. Vì thế, cần

phải chú trọng giới vọng ngữ.

Bốn đ iều kể trên gọi là Tánh Giới vì do thể tánh của

chúng đ áng kiêng giữ. Chẳng luận là xuất gia hay tại gia,

thọ giới hay không, hễ phạm phải đ ều có tội lỗi. Kẻ chưa

thọ giới, că n cứ trên sự mà luận tội. Người đ ã thọ giới,

ngoài việc că n cứ trên Sự đ ể luận tội ra, còn kèm thêm tội

phạm giới. Vì thế, bốn đ iều sát sanh, trộm cắp, tà dâm, đ

ại vọng ngữ này, hết thảy mọi người đ ều chẳng nên

158

phạm. Hễ phạm đ ều có tội! Ðã thọ giới mà còn phạm sẽ

mắc cả hai trọng tội.

* Chẳng uống rượu là vì rượu có thể làm mê loạn lòng

người, hư hoại dòng giống trí huệ. Uống vào, rượu làm cho

con người đ iên đ ảo, hôn mê, cuồng dại, làm càn những

chuyện không biết hổ thẹn. Phàm là người tu hành trọn

chẳng cho phép uống. Cần biết rằng: Hết thảy vọng niệm,

tà hạnh phần nhiều là do uống rượu mà nẩy sanh! Vì thế,

cần phải chú trọng thêm chuyện kiêng rượu! Ðây là Già Giới

(giới ngă n ngừa), chỉ người thọ giới mắc tội phạm giới.

Người chưa thọ giới thì uống vào không bị tội! Nhưng

không uống thì tốt hơn, bởi nó là că n bản có thể sanh ra

các thứ tội lỗi.

Còn về Thập Thiện cũ ng phải nên tuân thủ. Thập Thiện

là chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm; đ ấy là ba

nghiệp của thân. Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng

nói đ ôi chiều, chẳng ác khẩu là bốn nghiệp của miệng.

Chẳng keo tham, chẳng nóng giận, chẳng tà kiến là ba

nghiệp của ý. Nếu giữ đ ược chẳng phạm thì gọi là Thập

Thiện. Nếu phạm chẳng giữ thì gọi là Thập Ác. Thập Ác chia

ra làm thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba ác đ ạo:

đ ịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thập Thiện cũ ng chia thành

thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba đ ường lành:

trời, người, A-tu-la. Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm

quả ác, quyết đ ịnh không nghi, không hề sai sót! Mười đ i

159

ều lành này bao gồm hết thảy thiện pháp. Nếu có thể

tuân hành thì không đ iều ác nào chẳng đ oạn, không đ iề

u thiện nào chẳng tu. Các vị đ ã quy y, thọ giới, hãy nên tuân

thủ trọn vẹn. Lại còn phải nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây

Phương, chớ nên coi thường. Nếu chẳng đ ể ý, đ ến khi

lâm chung mới cảm thấy là trọng yếu thì gió nghiệp đ ã

thổi, chẳng thể tự chủ, hối cũ ng chẳng kịp!

Người học Phật đ ã hiểu rõ các ý nghĩ a Tam Quy, Ngũ

Giới, Thập Thiện rồi thì hãy dốc hết sức giữ vẹn luân

thường, trọn hết bổn phận, ngă n lòng tà, giữ lòng thành,

đ ừng làm các đ iều ác, vâng làm các đ iều lành. Ðiều cần

phải chú ý nhất là làm bất cứ việc gì, đ ều phải dựa vào

thiên lý, lương tâm. Như người làm nghề Y mà có lương

tâm, cứu người [trong cơn] nguy cấp sẽ tích lũ y âm công

(âm đ ức) lớn lao. Kẻ không có lương tâm có thể sẽ làm cho

người bệnh nhẹ chuyển thành nặng, thừa nước đ ục thả câu,

táng tận lương tâm, nhất đ ịnh lãnh ác quả.

Hiếu liêm Tào Cẩm Ðào ở Tô Châu đ ời Thanh giỏi y

thuật,54[54] bất cứ bệnh ngặt nghèo nào, gặp tay ông đ ề

54[54] Nguyên văn: “tinh ư Kỳ Hoàng”. Kỳ là Kỳ Bá, Hoàng là Hoàng Đế. Kỳ Bá là một y sư

trứ danh theo truyền thuyết, ông rất tinh thông y thuật nên được Hoàng Đế thờ làm thầy. Hoàng

Đế chính là một trong ba vị thánh đế vương thời cổ (Tam Hoàng là Phục Hy, Thần Nông và

Hoàng Đế). Hoàng Đế cũng tinh thông y thuật. Thần Nông được coi là tổ nghề thuốc, còn Kỳ

Bá được coi là tổ nghề Y. Tác phẩm căn bản của y học cổ truyền Trung Hoa là bộ Hoàng Đế

Nội Kinh ghi chép những đối đáp về y lý giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá. Ngoài ra, theo thư tịch cổ

Trung Hoa, những lời dạy khác về y học của họ còn được chép trong những bộ sách nay đã thất

truyền như Kỳ Bá Hoàng Đế Án Ma, Kỳ Bá Kinh, Kỳ Bá Cứu Kinh, Kỳ Bá Châm Kinh, Hoàng

Đế Kỳ Bá Luận, Kỳ Bá Ngũ Tạng Luận v.v…

160

u khỏi. Một bữa, lúc ông sắp ra khỏi cửa, chợt có một người

đ àn bà nghèo quỳ ngoài cửa, khóc lóc xin ông chữa bệnh

cho mẹ chồng, than: “Gia cảnh nghèo túng, nghe ngài sẵn

lòng từ bi, nhất đ ịnh sẽ đ oái hoài đ ến trị”. Ông Tào liền

đ ến trị. Ðến lúc ông ra về, dưới chiếc gối của mẹ chồng

người đ àn bà nghèo có nă m lạng bạc trắng, chẳng biết

đ i đ âu mất, tưởng ông Tào trộm đ i, người đ àn bà bèn đ

ến nhà hỏi. Ông Tào bèn cứ đ úng số đ ưa cho. Người đ àn

bà nghèo về đ ến nhà, [thì ra] mẹ chồng đ ã lấy bạc ra.

Người đ àn bà hổ thẹn vô cùng, lại đ em bạc đ ến trả lại, tạ

tội, hỏi ông: “Sao ngài lại tự đ ổ hô mình trộm bạc?” Ông

Tào bảo: “Tôi chỉ muốn mẹ chồng bà chóng khỏi bệnh! Nế

u tôi chẳng nhận, mẹ chồng bà ắt sẽ thêm lo lắng bệnh

nặng hơn, hoặc đ ến nỗi khó lành bệnh đ ược! Vì thế, chỉ

mong mẹ chồng bà lành bệnh, chẳng sợ người ta bảo tôi

trộm bạc”. Tấm lòng ông trung hậu, có thể nói là đ ến

cùng cực, không ai hơn đ ược! Bởi thế, ông sanh đ ược ba

người con: Con trưởng làm Ngự Y, thọ hơn tám mươi tuổi,

nhà giàu to; con thứ làm Hàn Lâm, làm quan đ ến chức

Phiên Ðài; con thứ ba cũ ng làm Hàn Lâm, làu thông kinh sử,

chuyên chí trước tác. Cháu chắt đ ông đ ảo, nhiều người

hiển đ ạt. Còn những kẻ chỉ mưu kiếm lợi bằng nghề Y, n

ếu chẳng tan nhà nát cửa, dòng dõi tuyệt diệt thì đ ã hiếm

hoi lại càng hiếm hoi hơn!

161

Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh.

Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện, ni

ềm vui có thừa; nhà tích ác, ương họa có thừa), ý nói: Dư

khánh, dư ương báo ứng vào con cháu. Còn bổn khánh, bổn

ương vận vào chính thân mình. Dư khánh, dư ương người

khác thấy đ ược, còn bổn khánh, bổn ương thì chính mình

ngay trong đ ời này hay trong đ ời kế tiếp, hoặc đ ời sau

phải hứng chịu, người đ ời chẳng thể thấy đ ược. Thiên, đ ịa,

quỷ thần, Phật, Bồ Tát đ ều thấy biết từng sự rõ ràng. Hãy

nên biết rằng: Bổn khánh, bổn ương so với dư khánh, dư

ương lớn hơn gấp tră m, ngàn, vạn lần. Vì thế, xin người đ

ời hãy nỗ lực tu trì, ngõ hầu đ ược vui mừng, trừ ương họa

vậy. Ông Tào cam chịu tiếng “trộm cắp” đ ể cứu tánh

mạng người khác, thiện báo ứng vào con cháu. Nếu chính

mình có thể thay cho con cháu niệm Phật, cầu Tam Bảo gia

bị, dạy con cháu ai nấy cũ ng ă n chay, niệm Phật thì thiện

báo sẽ ở tại Tây Phương!

Các vị đ ã quy y thì phải nên cung kính thọ Tam Quy đ ể

làm cái gốc nhằm bỏ tà theo chánh, giữ Ngũ Giới cẩn thận

đ ể làm cái nguồn nhằm đ oạn ác, tu thiện. Phụng hành

Thập Thiện đ ể làm cái gốc nhằm thanh tịnh ba nghiệp Thân,

Khẩu, Ý. Từ đ ó, đ ừng làm các đ iều ác, vâng giữ các đ iều

lành. Tam nghiệp đ ã tịnh, rồi có thể tuân tu đ ạo phẩm, liễu

sanh thoát tử, đ ược dự vào hội tốt lành nơi Cực Lạc. Thiện -

ác, nhân - quả như bóng theo hình, chẳng hề sai lầm. Thật

162

sự làm như vậy sẽ đ ược lợi ích thật sự. Nếu mua danh

chuốc tiếng, thích nói cuồng vọng, lừa mình, dối người, tự

bảo đ ã đ ắc Phật đ ạo thì là đ ại vọng ngữ, ắt sẽ mắc ác

báo. Người tu hành tâm đ ịa phải quang minh, ba nghiệp

thanh tịnh, công đ ức vô lượng. Quán kinh dạy: “Hiếu

dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu

Thập Thiện nghiệp là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế

chư Phật”. Buông dao đ ồ tể xuống, thành Phật ở chính

ngay nơi ấy, đ ã có người làm đ ược như thế. Xin ai nấy hãy

gắng lên.

PHỤ LỤC

I. Pháp ngữ khai thị khi từ Thượng Hải về đ ến Linh

Nham55[55]

55[55] Ở Trung Hoa có hai chùa mang tên Linh Nham, một ở huyện Trường Thanh tỉnh Sơn

Đông, còn một là ở tại Ngô Huyện, Tô Châu. Chùa Linh Nham nói ở đây gọi tên đầy đủ là Linh

Nham Sơn Tự, thuộc Tô Châu. Khởi đầu từ Tư Không Lục Ngoạn biến nhà riêng thành chùa,

nhưng rất nhỏ. Đến niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời Lương Vũ Đế, chùa mới được mở

rộng và mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), đây chính là

đạo tràng ứng hóa của Trí Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755) đời Đường Huyền Tông,

tổ trung hưng tông Thiên Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tam-muội tại chùa này. Đầu

đời Tống, chùa trở thành viện học giới luật của Luật Tông. Vào thời Nguyên Phong

(1078-1085), chùa trở thành thiền viện. Chùa bị cháy rụi chỉ còn lại một cái tháp đá vào năm

Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông. Sau khi được trùng tu, vào đời Thanh, chùa lại bị

loạn quân Thái Bình Thiên Quốc đốt phá một lần nữa. Mãi đến năm Tuyên Thống thứ ba

(1911), hòa thượng Chân Đạt trùng tu. Kể từ năm 1931 trở đi, dưới ảnh hưởng của tổ Ấn Quang,

chùa trở thành đạo tràng Tịnh Độ nổi tiếng nhất Trung Hoa. Năm Dân Quốc 29 (1940), tổ Ấn

Quang thị tịch tại chùa này. Hiện chùa còn tháp thờ ngũ sắc xá-lợi của Tổ Ấn Quang và Ấn

Công Kỷ Niệm Đường.

163

(giảng vào buổi chiều ngày 17 tháng 10 nă m Dân Quốc 25

(1936))

Linh Nham chính là cuộc đ ất thánh đ ạo tràng trời tạo đ ất

dựng. Ngô vương Phù Sai thiếu đ ức, chẳng tuân theo đ

ạo “chánh tâm thành ý, siêng nă ng chă m lo việc nước,

yêu dân” của các vị tổ là Thái Vương, Thái Bá, Trọng

Ung56[56], chỉ chuộng dâm lạc, bèn dựng cung Quán

Oa57[57] nơi này, mắc tội với trời đ ất và tổ tông cũ ng lớn

lắm! Cung đ iện xây xong đ ược mấy nă m, nước mất, thân

chết, chẳng đ áng buồn ư? Đ ến đ ời Tấn, Tư Không58[58]

Lục Ngoạn xây nhà trên đ ó, về sau nghe Phật pháp bèn bi

ến nhà thành chùa ; đ ấy chính là duyên khởi khai sơn đ ầu

tiên của Linh Nham vậy. Đ ến đ ời Lương, do ngài Bảo Chí

56[56] Theo sách Hoài Nam Tử, Thái Vương là ông nội của Châu Văn Vương có ba người con:

Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch (cha của Châu Văn Vương). Vì muốn nhường ngôi cho Quý

Lịch, Thái Bá và Trọng Ung liền giả vờ đi hái thuốc rồi trốn xuống miền Nam sông Dương Tử,

lập ra nước Ngô. Nước Ngô bị Câu Tiễn nước Việt thôn tính và diệt vong dưới thời Phù Sai.

57[57] Sau khi Câu Tiễn (vua nước Việt) bị Phù Sai đánh bại nhằm trả thù mối nhục giết cha là

Hạp Lư, theo mưu kế của Phạm Lãi, Câu Tiễn đã dâng mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai. Phù Sai

bèn xây cung Quán Oa cho nàng Tây Thi ở. Cô Tô Đài cũng thuộc quần thể cung điện này. Khi

Câu Tiễn phục quốc, đánh bại Phù Sai, diệt nước Ngô, đã cho phóng hỏa đốt trụi cung Quán Oa.

Chùa Linh Nham được xây ngay trên nền cũ cung Quán Oa.

58[58] Tư Không là một chức quan được lập ra từ thời Tây Châu, là một trong ngũ quan (Tư Mã, Tư

Khấu, Tư Sĩ, Tư Đồ). Chức quan này chuyên trông nom về việc thủy lợi, xây dựng. Từ sau thời Hán trở

đi, chức quan này không còn tồn tại và được thay thế bằng danh từ Công bộ thượng thư. Lục Ngoạn

(278-342), tự là Sĩ Dao, người Ngô Huyện (nay là Tô Châu, tỉnh Giang Tô), tên thụy là Khang, được

phong tới tước Hung Bình Bá, chức Thị Trung Tư Không. Thích văn chương, nổi tiếng với tài thư pháp.

Nét bút của ông được ca ngợi là mạnh mẽ, cứng cỏi, phóng khoáng, nhưng có phong thái tiêu dao

thoát tục, bay bướm nhưng mực thước, không phóng túng, ngông cuồng.

164

Công59[59] cầu đ ảo cho Vũ Đ ế, chùa lại đ ược trùng

hưng. Trí Tích Bồ Tát60[60] nhiều lượt hiện thân tượng vẽ,

hiển thị đ ạo nhiệm mầu, dẫn dắt những kẻ tục còn đ ang

mê. Đ ến đ ời Đ ường, em trai tể tướng Lục Tượng Tiên

(người Tô Châu), mắc bệnh ở kinh đ ô, ngự y bó tay. Một vị

Tă ng xin gặp, nói có thể trị đ ược bệnh, bảo lấy một chén

nước sạch, hướng vào đ ó niệm chú mấy câu, ngậm nước

phun ra, [em trai tể tướng Lục Tượng Tiên] lập tức khỏi hẳn

bệnh. Đ em mọi vật đ áp tạ Sư đ ều không nhận, nói: “Tôi

tên là Trí Tích. Sau này ông trở về Tô Châu, hãy nên đ ến

núi Linh Nham gặp tôi”. Về sau, người ấy đ ến núi hỏi th

ă m, không có ai tên là Trí Tích cả, tâm rất buồn bã, xem

khắp các đ iện đ ường, thấy hình vẽ trên vách chính là vị Tă

ng đ ã trị bệnh cho mình. Vì thế, đ ặc biệt dựng đ iện Trí

59[59] Ngài Bảo Chí (418-514), thường được xưng là Bảo Công, hoặc Chí Công Hòa Thượng,

nên thường được gọi là Bảo Chí Công, người xứ Kim Thành (nay là Nam Trịnh tỉnh Thiểm

Tây). Có thuyết nói Ngài là người huyện Cú Dung tỉnh Giang Tô, xuất gia từ nhỏ. Sư theo học

với ngài Đạo Lâm Tăng Kiệm tu tập Thiền Định. Trong niên hiệu Thái Thủy (466-471), Sư

thường lang thang khắp nơi, không ở chỗ nào nhất định, thường đọc thơ, phảng phất giống sấm

ký, người ta thường kéo nhau đến hỏi chuyện tương lai. Tề Vũ Đế bèn tống giam Sư trong ngục,

nhưng người ta vẫn thấy Sư lang thang ngoài chợ, nhìn vào ngục thì vẫn thấy Sư nằm khểnh

trong đó. Vua chịu thua, đón Sư vào ở trong vườn Thượng Uyển để ngăn Sư đi khắp nơi. Tuy

các nội thị canh gác Sư nghiêm mật, dân chúng vẫn thấy Sư la cà các chùa Long Quang, Kế Tân,

Hưng Hoàng, Tịnh Danh v.v… Đến khi Lương Vũ Đế lên ngôi, bèn bãi bỏ lệnh cấm, học đạo

với Sư, hết sức kính phục Ngài. Khi Sư mất, vua phong tặng thụy hiệu Quảng Tế đại sư, rồi các

đời lần lượt phong tặng Diệu Giác đại sư, Đạo Lâm Chân Giác Bồ Tát, Từ Ứng Huệ Cảm đại sư,

Phổ Tế Thánh Sư Bồ Tát. Phật môn Trung Hoa thường coi Ngài là hóa thân của Quán Thế Âm

Bồ Tát.

60[60] Trí Tích Bồ Tát nói ở đây là một vị cao tăng Ấn Độ. Theo Linh Nham Ký Lược, Sư từ

Ấn Độ sang Trung Hoa vào cuối đời Tấn, trùng hưng chùa Linh Nham tại Tô Châu, rất nổi

tiếng về tài đức. Theo truyền thuyết có một bà lão nghèo không có gì cúng dường, đem một

miếng sơn (nhựa của cây sơn) dâng cho Sư, Sư vẫn vui vẻ nhận lấy, nhờ đó bà được khai ngộ.

Do vậy, sau này mỗi năm vào ngày sinh nhật Sư, chùa vẫn cử hành lễ kỷ niệm, gọi là Giác Tất

Hội. Cũng theo truyện ký của chùa, đại sư nhiều lần thị hiện hóa độ Tăng - Tục rất đông.

165

Tích, chùa lại đ ược hưng khởi. Từ đ ời Tấn đ ến đ ời Đ

ường, [danh tánh] tất cả các vị Trụ Trì đ ều chẳng thể tra

cứu đ ược.

Đ ến đ ời Tống, phàm những ai là trụ trì của núi này đ ề

u là bậc đ ại lão lỗi lạc trong Tông môn; đ ạo tràng Linh

Nham bèn trở thành đ ứng đ ầu xứ Giang Tô. Do đ ất

thiêng nên mới có người tài giỏi, do người tài giỏi nên đ ất

mới thiêng. Cuối đ ời Minh, đ ầu đ ời Thanh, chùa lại đ ược

hưng khởi mạnh mẽ, hai đ ời vua Thánh Tổ (Khang Hy) và

Cao Tông (Càn Long), mấy lần tuần du phương Nam đ ều

nghỉ lại tại hành cung61[61] trên núi. Trong cơn loạn Hồng

Dương62[62], chùa bị đ ốt cháy gần như hết sạch. Về sau,

đ ại sư Niệm Thành trụ trong lòng tháp63[63], nhằm đ úng

khi ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân đ i chơi núi, gặp gỡ, bèn

kiểm sổ bộ, đ òi lại hơn sáu tră m mẫu ruộng đ ất cho chùa,

dựng mười mấy gian đ iện đ ường, nhà cửa.

Đ ến nă m Tuyên Thống thứ ba (1911), Trụ Trì là Đ ạo

Minh vốn là quân nhân xuất gia, tánh tình thô bạo, do mất y

[ca-sa] mà đ ánh đ ập người khác quá đ áng, người dưới

61[61] Hành cung: Cung điện dành cho vua ở tại các địa phương.

62[62] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc. Do lãnh tụ của Thái Bình Thiên Quốc là Hồng Tú Toàn

và Dương Tú Thanh lãnh đạo nên Sử thường gọi là loạn Hồng Dương. Hồng Tú Toàn tự xưng

là em trai của Jesus, dấy loạn, chủ trương biến Trung Hoa thành một nước Thiên Chúa theo

kiểu riêng của hắn, cấm ngặt tam giáo, cấm thờ phụng tổ tiên v.v… hạ lệnh đốt phá đình chùa,

miếu mạo rất dữ dội.

63[63] Chùa bị quân Thái Bình Thiên Quốc đốt sạch, chỉ còn sót lại một cái tháp đá nên sư

Niệm Thành phải ở tạm trong đó.

166

núi vùng lên đ ánh đ uổi, Đ ạo Minh bỏ trốn. Đ ồ đ ạc trong

chùa đ ều bị khuân sạch, trở thành một ngôi chùa không ai

ở. Đ ây chính là cơ hội đ ể đ ạo tràng Linh Nham đ ược phục

hưng. Nếu không, giả như ông ta tận lực vâng giữ Thanh

Quy, chắc chắn chùa chẳng thể trở thành đ ạo tràng Tịnh

Nghiệp duy nhất trong cả nước đ ược! Họa - phước dựa

dẫm lẫn nhau, chỉ do con người khéo dụng tâm hay không

mà thôi. Bắt nguồn từ việc vị thân sĩ vùng Mộc Đ ộc là ông

Nghiêm Lương Xán cậy nhà sư chùa Bảo Tạng là Minh Hú

thỉnh thầy của vị sư ấy là hòa thượng Chân Đ ạt tiếp nhận

trông nom chùa. Ngài Chân Đ ạt bèn phái người đ ến tiếp

nhận, lại sai Minh Hú đ ứng trông nom tạm thời, ý muốn có

người thích hợp sẽ biến chùa thành đ ạo tràng thập

phương chuyên tu Tịnh Đ ộ. Nă m Dân Quốc mười lă m

(1926), pháp sư Giới Trần64[64] đ ến đ ây, bèn giao cho

Ngài làm Trụ Trì. Tă ng chúng thường trụ lấy hai mươi

người làm hạn, trừ số tiền huê lợi mấy tră m đ ồng ra, hễ

[chi tiêu] không đ ủ thì ngài Chân Đ ạt bèn bù cho. Chẳng

quyên mộ, chẳng làm pháp hội, chẳng truyền pháp, chẳng

64[64] Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự là Địch Ngô,

xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi Chung Nam, toàn tâm toàn ý tu

Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu

pháp Ban Châu Niệm Phật. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến Hàng Châu, mở trường Hoa

Nghiêm Đại Học. Về sau, Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm

Dân Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm Đại Học tại chùa

Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ Trì chùa Linh Nham một thời gian. Sư thị tịch vào năm

Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm

Hoa Nghiêm Nhất Trích, Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội Đồ, Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ

v.v…

167

thâu đ ồ đ ệ, chẳng giảng kinh, chẳng truyền giới, chẳng

làm chuyện kinh sám thù tạc65[65], chuyên nhất niệm Phật.

Khóa tụng mỗi ngày đ ều giống như trong khi tiến hành

Phật thất thông thường66[66]. Trụ Trì bất luận thuộc tông

Thiên Thai, Hiền Thủ, Tào Đ ộng, hay Lâm Tế đ ều đ ược,

chỉ quan tâm đ ến thứ tự, không quan tâm đ ến thế hệ

truyền thừa67[67], chỉ cần là người giới hạnh tinh ròng,

[giữ giới] nghiêm ngặt, thông hiểu giáo lý, tin sâu Tịnh Đ ộ là

đ ược. Nếu những mặt khác đ ều khá nhưng chẳng

chuyên chú Tịnh Đ ộ thì quyết chẳng đ ược mời [làm Trụ

Trì].

Từ đ ấy trở đ i, người đ ến ở ngày càng nhiều, phòng

ốc chẳng đ ủ. Trong nă m Dân Quốc 21 (1932), trước hết

dựng Niệm Phật Đ ường, bốn nă m nă m qua, liên tục xây

cất. Nay đ iện Đ ại Hùng đ ã khánh thành, chỉ còn thiếu đ

iện Thiên Vương chưa xây, nhưng cũ ng chẳng quan trọng

chi lắm. Tháng Hai nă m Dân Quốc 19 (1930), Quang đ ến

65[65] Tức là không làm các pháp sự cầu an, cầu siêu, giải hạn, đảo bệnh, cầu phước, cúng sao,

chúc thọ v.v… như các đạo tràng khác.

66[66] Tức Phổ Thông Phật Thất: Mỗi ngày niệm Phật sáu thời. Gọi là Phổ Thông Phật Thất để

phân biệt với Tinh Tấn Phật Thất (niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ).

67[67] Nguyên văn “chỉ luận thứ số, bất luận đại số”: Quan tâm đến thứ tự (tức tuổi tác, mức

độ tu chứng, trì giới), chứ không quan tâm đến thế hệ truyền thừa. Tức là Tăng chúng trong

chùa được xếp bậc theo người tu hành lâu năm, giới hạnh tinh nghiêm, chứ không vì người ấy

thuộc thế hệ trước hay sau mà coi trọng. Trong các đạo tràng khác, thứ tự truyền thừa rất được

coi trọng. Chẳng hạn, một vị Tăng có thể mới xuất gia chưa lâu nhưng vì là đệ tử của một vị

ngang vai với thầy của vị Trụ trì hay người thuộc thế hệ cao hơn, nên được coi là sư thúc, sư bá,

thái sư thúc. Các vị Tăng khác dù cao tuổi hơn, giới lạp cao hơn nhưng thuộc vai vế thấp hơn,

vẫn phải lễ kính vị Tăng trẻ tuổi này.

168

đ ây; tháng Tư liền bế quan, đ ã hơn sáu nă m rồi. Do già

cả, bất tài, chỉ muốn chết già trong nơi bế quan. Vì các vị

trong hội Phật giáo mời mọc, xin Quang mỗi ngày giảng

khai thị một lần trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai, chỉ rõ lý

“nhân quả ba đ ời, luân hồi lục đ ạo”, đ ề xướng pháp

“tín nguyện niệm Phật, liễu thoát ngay trong đ ời này” đ

ể cứu vãn thế đ ạo lòng người. Cố sức từ chối chẳng đ ược,

bèn vào ngày mồng Sáu tháng này ra khỏi chỗ bế quan đ

ến đ ất Hỗ (Thượng Hải), nhằm trọn nghĩ a vụ hộ quốc của

tôi. Ngày Mười Lă m viên mãn, ngày Mười Sáu vì họ nói

Tam Quy - Ngũ Giới. Sáng nay từ đ ất Hỗ trở về đ ây,

nhưng các vị như cư sĩ Quý Thánh Nhất v.v… ở thành Tô

Châu đ ã đ ến trước rồi. Lên núi, trông thấy đ iện vũ nguy

nga, Tă ng chúng thanh tịnh, hòa thuận, khôn ngă n hoan

hỷ tột bậc. Nhân đ ó, đ ược Giám Viện là đ ại sư Diệu Chân

mời vào trong pháp đ ường, vì các vị diễn nói pháp yế

u68[68] Tịnh Đ ộ. Nếu chỉ nói pháp yếu, chẳng nêu lai lịch

và các nhân duyên hiện thời thì kẻ ở người tới đ ều chẳng

biết duyên do, rất có thể sẽ coi đ ạo tràng này giống hệt

như các đ ạo tràng khác! Đ ối với người thông suốt rộng lớn

thì không có gì là chẳng đ ược, nhưng với kẻ ngu đ ộn như

Quang, lại muốn thoát khỏi ba cõi ngay trong đ ời này, lên

chín phẩm sen cõi kia thì chưa biết hướng về đ âu. Do vậy,

trước hết phải thuật bày duyên khởi vậy (đ oạn này người

68[68] Pháp yếu: Những chỗ quan trọng, cốt lõi của một pháp môn.

169

ghi chép không sao lục lại, do chính lão nhân chép thêm vào,

cho nên toàn viết bằng thể vă n Vă n Ngôn).

Pháp môn Tịnh Đ ộ chúng ta đ ang tu trì đ ây là pháp thù

thắng, trỗi vượt nhất, mọi người chớ nên xem thường. Vì

sao vậy? Vì các pháp môn do đ ức Phật đ ã nói không gì

chẳng phải là xét theo că n cơ đ ể nói, giống như dựa trên

chứng bệnh mà cho thuốc vậy. Nếu như că n cơ của chính

mình chẳng tương ứng với pháp môn ấy mà cứ tu tập thì rất

khó đ ược lợi ích. Hết thảy pháp môn đ ều cậy vào Tự Lực

đ ể tu Giới - Đ ịnh - Huệ, đ oạn tham - sân - si, ắt phải đ oạn

sạch Hoặc nghiệp mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu như

phiền não còn sót mảy may nào chưa đ oạn sạch thì vẫn

chẳng thể tránh khỏi sanh tử, huống chi là kẻ hoàn toàn

chưa đ oạn ư? Đ iều này cần phải dùng sức của chính mình

thực hiện triệt đ ể thì mới đ ược.

Chỉ có một pháp Niệm Phật là do đ ức Như Lai ứng theo

mọi că n cơ mà nói, cũ ng là do đ ại bi nguyện lực của A Di

Đ à Phật thành tựu. Bất luận thượng trung hạ că n đ ều có

thể tu học. Dẫu phàm phu hoàn toàn chưa đ oạn đ ược mảy

may phiền não Hoặc nghiệp nào đ i nữa, chỉ cần đ ầy đ ủ

lòng tin chân thật, nguyện thiết tha rồi thực hành niệm

Phật cầu sanh Tây Phương thì cũ ng có thể đ ược Phật tiếp

dẫn, đ ới nghiệp vãng sanh. Hễ đ ược vãng sanh liền có thể

liễu thoát sanh tử; vì thế, nói [pháp môn này] là thù thắng

nhất!

170

Khi đ ức Phật còn tại thế, mười người tu hành có đ ến

chín người có thể thành đ ạo, vì con người lúc đ ó thiên

tánh thuần hậu, că n cơ rất lanh lẹ, bén nhạy. Về sau này,

chúng sanh nghiệp chướng ngày càng tă ng thêm, că n cơ

cũ ng dần dần hèn kém hẳn đ i; nếu muốn giống như trước

thì không thể đ ược! Nhưng vào thời Tấn, thời Đ ường, vẫn

có những người có thể cậy vào tự lực đ ể liễu thoát sanh tử,

nhưng đ ã ngày càng giảm ít, càng về sau càng ít. Cho đ ế

n hiện tại, đ ã không còn có người giống như vậy nữa! Xét

theo đ ó, sẽ hiểu cậy vào sức của chính mình đ ể đ oạn phi

ền não hòng liễu sanh tử là một chuyện rất khó. Lúc này, n

ếu vẫn chẳng biết tự lượng sức, muốn ă n nói lớn lối, coi

nhẹ pháp môn Niệm Phật hoành siêu này, đ i tu các pháp

môn khác thì e rằng muốn liễu sanh tử còn khó hơn lên trời!

Tôi hoàn toàn chẳng nói các pháp môn khác không hay,

nhưng thật ra là do các pháp môn có pháp khế lý nhưng

không khế cơ, có pháp khế cơ nhưng không khế lý. Chỉ

có pháp môn Niệm Phật này thích hợp khắp ba că n, gồm

thâu lợi că n, đ ộn că n, lý lẫn cơ đ ều phù hợp chẳng thể

nghĩ bàn! Nhất là trong đ ời Mạt Pháp này, nó lại càng

thích hợp với că n tánh chúng sanh. Do vậy, kinh Đ ại Tập

dạy: “Đ ời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm một ai đ

ắc đ ạo. Chỉ nương theo pháp Niệm Phật là đ ược thoát khỏi

sanh tử”.

171

Vì sao niệm Phật cầu sanh Tây Phương lại gọi là pháp

môn Hoành Siêu? Cổ nhân có lấy một thí dụ đ ể giải thích,

tức là đ em bọn phàm phu đ ầy đ ủ Hoặc nghiệp chúng ta ví

với một con sâu sống trong lóng thấp nhất của một cây tre,

cây tre ấy ví cho tam giới. Con sâu ấy muốn thoát ra chỉ có

hai cách: Một là Thụ Xuất (thoát ra theo chiều dọc), hai là

Hoành Siêu (vượt ra theo chiều ngang). Thụ Xuất chính là

từ thấp lên cao, lần lượt đ ục thủng từng lóng một, đ ến khi

đ ục thủng đ ược lóng cao nhất thì mới thoát ra đ ược. Đ ây

là ví cho việc tu hành các pháp môn khác, chắc chắn phải đ

oạn sạch Kiến Tư phiền não thì mới thoát khỏi tam giới. Ki

ến Hoặc gồm tám mươi tám Sử69[69], Tư Hoặc gồm tám

mươi mốt phẩm, phẩm lượng nhiều như vậy ví như số lóng

của một cây tre. Con sâu ấy đ ục hướng lên trên đ ể thoát ra

thì gọi là Thụ Xuất. Chẳng hạn như bậc thánh nhân Sơ Quả

đ oạn Kiến Hoặc, phải trải qua bảy lần sanh lên cõi trời, bảy

lần sanh trong cõi người, tu tập trong thời gian kiếp số lâu

dài mới có thể chứng đ ược quả A La Hán, liễu sanh tử. Nhị

Quả cũ ng phải một lần sanh lên trời, một lần trở xuống cõi

69[69] Sử: Tên gọi khác của phiền não, gọi đầy đủ là Chánh Sử. Do phiền não sai khiến chúng ta luân

hồi trong sanh tử nên phiền não được gọi là Sử (sai khiến). Chúng còn được gọi bằng một danh từ

khác là Tùy Miên. Sử nói chung gồm mười thứ, chia làm hai nhóm lớn:

1) Nhóm thứ nhất gồm Thân Kiến, Biên Chấp Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến. Do

tánh chất của chúng khá mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự chấp trước, vọng tưởng nên gọi là Ngũ

Lợi Sử (năm Sử nhạy bén).

2) Nhóm thứ hai gồm tham, sân, si, mạn, nghi. Xét về tánh chất, những thứ này có tác dụng yếu hơn

nên gọi là Ngũ Độn Sử (năm Sử chậm lụt).

172

người mới có thể chứng đ ược Tứ Quả. Tam Quả tuy đ ã đ

oạn sạch Tư Hoặc thuộc Dục Giới, nhưng vẫn phải ở trong

Ngũ Bất Hoàn Thiên70[70], tu tập dần dần theo thứ tự, mới

có thể đ oạn sạch Tư Hoặc, chứng Tứ Quả. Đ ây là thoát

khỏi tam giới tính theo bậc Vô Học thánh nhân71[71]. Nếu

như là bậc Tam Quả đ ộn că n, phải sanh lên Tứ Không

Thiên, từ Không Vô Biên Xứ Thiên cho đ ến Phi Phi Tưởng

Xứ Thiên, mới chứng đ ược Tứ Quả. Cách Thụ Xuất gian nan

lâu lắc như vậy đ ấy!

Còn Hoành Siêu là như con sâu ấy chẳng hướng lên trên

đ ục thủng từng lóng từng lóng một mà chỉ cắn thủng một

lỗ bên hông [lóng tre] liền thoát ra đ ược. Cách này so với

Thụ Xuất bớt đ ược nhiều công sức lắm. Người niệm Phật c

70[70] Ngũ Bất Hoàn Thiên, còn gọi là Tịnh Cư Thiên (Śuddhāvāsa), Ngũ Tịnh Cư Xứ, Ngũ Na Hàm

Thiên, là nơi bậc thánh nhân Tam Quả Thanh Văn sống, bao gồm các cõi trời:

1. Vô Phiền Thiên (Avrha): Cõi trời này không còn khổ vui, không còn hết thảy phiền não xen tạp.

2. Vô Nhiệt Thiên (Atapa): Không còn hết thảy nhiệt não.

3. Thiện Kiến Thiên (Sudrśa): Do Định Huệ thấy mười phương đều trong lặng, không còn đắm trước

vào trần cảnh.

4. Thiện Hiện Thiên (Sudarśana): Sự thấy biết rõ ràng tinh diệu hiện tiền, thấy hết thảy sắc tướng là

không, chẳng bị chướng ngại.

5. Sắc Cứu Cánh Thiên (Akanistha): Lìa bỏ hết thảy các sắc cực kz nhỏ nhiệm, là chỗ thù thắng nhất

trong Sắc Giới.

Tuy cùng sống trong các tầng trời này, nhưng chư Thiên chẳng thấy được các vị thánh nhân. Do các

vị thánh nhân sống trong cõi này không còn đọa xuống nhân gian nữa nên gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên.

71[71] Vô Học (Aśaiksa). Bậc thánh nhân tuy đã hiểu rõ chân lý Phật giáo nhưng chưa đoạn được mê

hoặc, còn phải học hỏi thì gọi là Hữu Học. Bậc Vô Học thánh nhân đã thấu hiểu Phật pháp đến chỗ

cùng cực, không còn mê hoặc để đoạn nữa, không cần phải học cách đoạn trừ mê hoặc, nên gọi là Vô

Học. Như vậy, Vô Học thánh nhân là danh xưng khác của A La Hán.

173

ũ ng giống như thế, tuy chưa đ oạn trừ Kiến Tư phiền

não, chỉ cần có thể đ ầy đ ủ ba món tư lương Tịnh Đ ộ là Tín

- Nguyện - Hạnh, lâm chung liền có thể cảm đ ộng A Di Đ à

Phật đ ến tiếp dẫn người ấy sanh về Tây Phương Cực Lạc

thế giới. Đ ến đ ược cõi nước thanh tịnh đ ó rồi, Kiến Tư

phiền não chẳng đ oạn mà tự đ oạn. Vì sao vậy? Do Tịnh Đ

ộ cảnh thù thắng, duyên mạnh mẽ, không có những cảnh

duyên khiến cho con người nẩy sanh phiền não! Vì vậy liề

n đ ạt đ ược ba thứ Bất Thoái Chuyển, thẳng mãi đ ến khi

phá Trần Sa Vô Minh, thành tựu Vô Thượng Bồ Đ ề, có gì

thẳng chóng, giản dị đ ược bằng! Vì thế, cổ nhân nói:

“Học đ ạo nơi các môn khác giống như con kiến bò lên núi

cao. Niệm Phật vãng sanh giống như buồm că ng gió lại đ

ược thuận nước”. Nay tôi lấy một chuyện đ ể chứng minh

đ ạo lý “Thụ Xuất gian nan”, mọi người hãy lắng lòng

nghe lấy!

Trong niên hiệu Đ ại Lịch (766-779) đ ời Đ ường Đ ại Tông,

có một ẩn sĩ tên là Lý Nguyên, biến nhà thành chùa Huệ

Lâm, thỉnh thiền sư Viên Trạch làm Trụ Trì. Về sau, Lý

Nguyên muốn đ i Tứ Xuyên triều bái núi Nga My; do vậy,

bèn ước hẹn Viên Trạch cùng đ i. Viên Trạch muốn theo đ

ường Trường An đ i qua Tà Cốc, đ i theo đ ường bộ; Lý

Nguyên muốn từ Kinh Châu vào Giáp Sơn, đ i theo đ ường

thủy. Hai người ý kiến bất đ ồng đ ều là vì có nguyên do.

Lý Nguyên không biết chuyện của Viên Trạch, nhưng Viên

174

Trạch hiểu rõ tâm của Lý Nguyên: Sợ đ ến Trường An rất có

thể bị người ta ngờ vực ông ta muốn làm quan, nên Sư đ i

theo đ ường Kinh Châu.

Một ngày nọ thuyền bơi đ ến vùng Nam Phố, do nước

sông chảy xiết nguy hiểm, trời chưa tối đ ã cắm thuyền.

Lúc ấy, có một người đ àn bà mặc áo chẽn bằng gấm, đ ội

vò đ i lấy nước. Viên Trạch vừa trông thấy bà ta, liền gục đ

ầu, hai mắt ứa lệ. Lý Nguyên hỏi han: “Từ Kinh Châu đ ến

đ ây, phụ nữ giống như thế này chẳng biết là bao nhiêu, vì

sao thầy lại nẩy sanh bi cảm như thế?” Viên Trạch nói:

“Ta chẳng muốn đ i theo đ ường này tới đ ây chính là vì sợ

gặp phải bà này. Do bà ta mang thai đ ã ba nă m vẫn chưa

sanh nở vì đ ợi ta đ ến đ ầu thai. Nay đ ã thấy rồi, không

còn cách nào đ ể trốn tránh đ ược nữa. Xin ông ở lại mấy

ngày, giúp cho tôi mau sanh và chôn tôi trong hang núi. Ba

ngày sau xin đ ến gặp tôi. Trước mặt ông, tôi sẽ cười một ti

ếng đ ể làm tin. Mười hai nă m sau, đ êm Rằm Trung Thu,

đ ến ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp tôi”.

Nói xong bèn thay áo, tắm gội, ngồi qua đ ời. Lý Nguyên có

hối hận cũ ng không kịp, chỉ đ ành mai táng Viên Trạch. Ba

ngày sau, đ ến nhà nọ đ ể xem, quả nhiên, người đ àn bà

sanh đ ược một đ ứa con trai. Nhân đ ó, đ em chuyện ấy kể

cặn kẽ với người ta, xin gặp mặt đ ứa bé, quả nhiên nó cười

một tiếng làm tin. Do vậy, Lý Nguyên không còn muốn đ ế

n Tứ Xuyên nữa, quay về Lạc Kinh (Lạc Dương), về tới chùa

175

Huệ Lâm, mới biết trước lúc Viên Trạch lên đ ường đ ã dặn

dò hậu sự cặn kẽ; vì thế, càng thêm biết Ngài chẳng phải

là người tầm thường! Mười hai nă m sau, Lý Nguyên theo

đ úng ước hẹn đ ến Hàng Châu, tới đ êm Rằm Trung Thu,

đ ợi ở ngoài chùa Thiên Trúc. Quả nhiên, ánh tră ng vừa rọi,

chợt nghe bên bờ giếng Cát Hồng có đ ứa bé chă n trâu

cỡi trâu, ca lên:

Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn,

Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân,

Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng,

Thử thân tuy dị, tánh thường tồn.

(Trên đ á ba sinh, vẫn nguyên hồn

Ngâm gió, thưởng tră ng lọ phải bàn

Thẹn thấy người xưa tìm đ ến gặp

Thân này tuy khác, tánh thường còn).

Lý Nguyên liền biết nó chính là thân đ ời sau của Viên

Trạch, liền bước đ ến thă m hỏi: “Ngài Viên Trạch mạnh

giỏi hay chă ng?” Đ ứa bé chă n trâu đ áp: “Ông Lý quả

thật là người đ áng tin tưởng!” Nói chuyện sơ sài mấy câu

xong, lại xướng rằng:

Thân tiền thân hậu sự mang mang,

176

Dục thoại nhân duyên khủng đ oạn trường.

Ngô Việt giang sơn du dĩ biến,

Khước hồi yên trạo, thượng Cù Đ ường.

(Thân trước, thân sau sự vấn vương

Bàn chuyện nhân duyên luống đ oạn trường

Ngô,Việt giang sơn chơi khắp cả,

Gác chèo mây khói, vượt Cù Đ ường)

Rồi cưỡi trâu đ i mất. Như vậy, thấy đ ược rằng: Viên

Trạch có bản lãnh biết chuyện quá khứ, vị lai và “ngồi mất,

đ ứng thác”, nhưng vẫn chưa thể liễu thoát sanh tử, trốn

tránh bào thai; huống gì bọn phàm phu đ ầy dẫy triền

phược chúng ta, một chút bản lãnh cũ ng không có ư? Nếu

chẳng niệm Phật cầu sanh Tây Phương mà muốn liễu sanh

tử thì có nằm mộng cũ ng mộng chẳng đ ược!

Có kẻ nói: “Đ ạo lý minh tâm kiến tánh, kiến tánh

thành Phật trong Thiền Tông chẳng phải là rất hay ư?”

Trọn chẳng biết “kiến tánh thành Phật” chính là thấy đ

ược vị Phật thiên chân trong Tự Tánh thì gọi là “thành

Phật”, hoàn toàn chẳng phải là trở thành vị Phật rốt ráo

viên mãn phước huệ! Vì sao vậy? Là vì người trong Tông

Môn (Thiền Tông) khi công phu đ ạt đ ến mức khai ngộ li

ền biết chân tánh của chính mình lẫn người khác vốn

177

giống hệt như Phật, vì thế gọi là “kiến tánh thành Phật”.

Nhưng những phiền não thô - tế72[72] của người ấy còn

chưa đ oạn mảy may nào, bất quá, có thể thường tự giác

chiếu73[73], chế ngự phiền não, xử sự gần giống với bậc

thánh nhân. Nếu đ ánh mất công phu giác chiếu, không

chế ngự đ ược phiền não, bèn tạo nghiệp so với người

khác lại càng dữ dội hơn, vì trong phiền não của kẻ ấy có

chen lẫn sức mạnh khai ngộ, biến thành cuồng huệ. Bởi đ ó,

nă ng lực tạo nghiệp cũ ng mạnh mẽ dị thường! Như vậy

thì không những chẳng có hy vọng thành Phật, mà còn phải

đ ọa lạc trong ba đ ường ác. Vì thế, người đ ã khai ngộ

càng phải ra sức tấn tu, luôn luôn giác chiếu. Đ ến khi đ

oạn sạch Kiến Tư phiền não mới là lúc liễu sanh thoát tử,

hoàn toàn chẳng phải là hễ ngộ liền liễu! Giống như thiền

sư Ngũ Tổ Giới và Thảo Đ ường Thanh thuở trước, do ngộ

rồi nhưng chưa chứng, vẫn không tránh khỏi nỗi khổ luân

hồi. Vết xe đ ổ rành rành, chẳng thể không biết! Nếu nói

là “thật sự thành Phật” thì lại càng sai rất xa!

Làm sao mới trở thành đ ức Phật rốt ráo phước huệ viên

mãn? Nói theo tông Thiên Thai, một vị Bồ Tát thuộc đ ịa vị

Thất Tín trong Viên Giáo đ ã đ oạn sạch Kiến Tư Hoặc, khi

tu đ ến đ ịa vị Thập Tín mới phá hết Trần Sa. Lại phải tu lần

72[72] Thô tế: Những phiền não dễ thấy dễ nhận biết như nóng giận, tham lam thì gọi là Thô,

còn những phiền não khó nhận biết thì gọi là Tế.

73[73] Giác chiếu: Quán sát cái tâm, khi vọng niệm khởi lên liền nhận biết ngay và tìm cách

chế ngự, khuất phục nó.

178

lượt Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Đ ịa, Đ

ẳng Giác, bốn mươi mốt đ ịa vị, mỗi [đ ịa vị] phá một phẩm

vô minh bèn tiến lên một đ ịa vị [cao hơn], đ ược một phần

Tam Đ ức bí tạng. Theo thứ tự như thế, đ ến đ ịa vị cuối

cùng là Đ ẳng Giác mới đ oạn sạch bốn mươi mốt phẩm vô

minh, lại đ oạn một phẩm vô minh, tiến lên một đ ịa vị nữa,

mới có thể thành tựu quả Phật rốt ráo phước huệ viên mãn.

Như vậy, quả thật chẳng phải là chuyện dễ dàng. Mọi người

hiểu đ ược đ ạo lý này thì mới chẳng hiểu lầm!

Lại có người nói: “Tự Tánh của mỗi người chúng ta vốn là

chẳng nhiễm mảy trần, thanh tịnh trong lặng, đ ấy chính là

Tịnh Đ ộ. Tự Tánh vốn chẳng sanh, chẳng diệt, xưa nay

thường hằng, chẳng dời, chẳng biến, chính là Vô Lượng

Thọ. Tự Tánh vốn sẵn đ ủ đ ại trí huệ quang minh, chiếu

trời, soi đ ất, chính là Vô Lượng Quang. Nếu như lìa khỏi Tự

Tánh sẵn có ấy, muốn có riêng một cõi Tịnh Đ ộ đ ể sanh, [có

một vị] Phật Di Đ à đ ể thấy, đ ấy chính là trên đ ầu chồng

thêm một cái đ ầu nữa, không có lẽ nào!” Nếu tưởng như

thế chính là đ ạo lý Thiền Tịnh Song Tu thì cũ ng là lầm lẫn

rồi! Nếu nói như vậy thì hoàn toàn là thiên về Thiền Tông,

hoàn toàn chẳng thích hợp cho Tịnh Tông. Vì sao biết đ

ược [như vậy]? Là vì Thiền Tông chẳng dạy người ta sanh

lòng tin phát nguyện, cũ ng chẳng dạy người ta niệm Phật,

179

chỉ dạy người ta tham cứu thoại đ ầu74[74] nhằm cầu minh

tâm kiến tánh. Đ ấy chính là nói: “Lìa ngoài tự tánh chẳng

có Tịnh Đ ộ đ ể có thể sanh, [chẳng có] Di Đ à đ ể thấy!”

Nói tuy không sai, nhưng rốt cuộc vẫn thiên về kiến giải

thuộc lý tánh, chẳng thể dung thông với sự tướng mà cũ ng

cách biệt với sự lý vô ngại của Tịnh tông, nên nói “không

phải là Thiền Tịnh Song Tu!” Người tu Tịnh Đ ộ chuyên lấy

ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, mọi người phải hiểu

rõ ràng!

Lại có thuyết “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay

trong thân này) của Mật Tông. Nếu mới nghe qua, chuyện

như thế khiến con người rúng đ ộng; nhưng trên mặt sự

thật, trọn chẳng thể nhanh chóng, thuận tiện như vậy. Ý ngh

ĩ a của “tức thân thành Phật” là nói công phu của Mật

Tông khi tu đ ến thành công thì có thể thành đ ạo ngay

trong thân này; nhưng sự thành đ ạo như vậy chẳng qua là

liễu sanh tử mà thôi! Miễn cưỡng nói là “thành Phật” thì

còn có thể miễn cưỡng chấp nhận đ ược! Nếu coi là thật

sự thành đ ược vị Phật đ oạn rốt ráo Ngũ Trụ75[75], vĩ nh

74[74] Thoại đầu là một câu nói do các thiền sư dạy thiền sinh tham cứu hòng ngộ được chân

tâm. Chẳng hạn như câu thoại đầu “thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?”

75[75] Ngũ Trụ: Còn gọi là Ngũ Trụ Địa Hoặc, tức Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Phiền Hoặc gộp thành

một trụ, bốn trụ kia là Dục Ái Trụ Địa, Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ Địa, Vô Minh Trụ Địa. Do hết thảy

phiền não đều nương vào năm thứ này nên chúng được gọi là Trụ (nương ở, nắm giữ). Do chúng

phát sanh ra các phiền não nên gọi là Trụ Địa. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 5, giảng:

1. Kiến Nhất Thiết Xứ Trụ Địa: Chính là Kiến Hoặc gồm Thân Kiến v.v… trong tam giới.

180

viễn hết hai loại chết (phần đ oạn và biến dị sanh tử) thì

lầm lạc quá đ ỗi! Ví như một đ ứa bé con, cạo trọc đ ầu đ i,

ai nấy đ ều gọi nó là Hòa Thượng76[76]; hay là vị tỳ -kheo

đ ã thọ Tam Đ àn Đ ại Giới77[77] cũ ng đ ược gọi là Hòa

Thượng; hay là vị Phương Trượng đ ứng đ ầu chốn tùng

2. Dục Ái Trụ Địa: Gồm phiền não trong Dục Giới, ngoại trừ vô minh và Kiến Hoặc, chấp vào Ngũ Dục

bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp).

3. Sắc Ái Trụ Địa: Phiền não trong Sắc Giới, không tính Kiến Hoặc, Vô Minh, không chấp vào Ngũ Dục

bên ngoài, nhưng chấp vào sắc thân.

4. Hữu Ái Trụ Địa: Phiền não trong Vô Sắc Giới, không bao gồm Kiến, Vô Minh, đã bỏ lìa

chấp trước tham Sắc, nhưng vẫn còn yêu mến cái thân của chính mình.

5. Vô Minh Trụ Địa: Tức hết thảy vô minh trong tam giới. Vô minh là cái tâm si ám, là cội gốc của hết

thảy phiền não.

Duy Thức Tông chủ trương bốn món Trụ đầu là chủng tử của Phiền Não Chướng, món cuối là

chủng tử của Sở Tri Chướng. Tông Thiên Thai gọi món đầu tiên là Kiến Hoặc, ba món giữa là

Tư Hoặc, món cuối là Vô Minh Hoặc. Họ gọi chung Kiến Tư Hoặc là Giới Nội Hoặc (phiền

hoặc trong tam giới), còn Vô Minh Hoặc là Giới Ngoại Hoặc.

76[76] Hòa thượng (Upâdhyâya): còn được phiên âm là Hòa Xà, Hòa Xã, Cốt Xã, Ô Xã, dịch nghĩa là

Thân Giáo Sư, Lực Sanh, Cận Tụng, Y Học, Đại Chúng Sư. Những từ ngữ này đều hàm nghĩa là vị thầy

dạy thân thiết, có công năng tăng trưởng huệ mạng Pháp Thân cho đồ đệ, là bậc đức cao giới hạnh

tinh nghiêm đáng làm bậc thầy gương mẫu cho mọi người.

Theo Tứ Phần Luật, Hòa Thượng phải là một vị tz-kheo hội tụ đủ năm đức: 1) Giữ vững tịnh giới 2)

Đủ mười tuổi hạ 3) Thông hiểu tạng Luật 4) Thông đạt Thiền tư 5) Có trí huệ sâu xa.

Theo các nhà nghiên cứu, từ ngữ Upâdhyâya bị biến âm sang tiếng Kuche (Cưu Ty, hoặc Quy Tư) là

Pwâjjhaw. Từ ngữ này lại bị biến âm lần nữa qua cách đọc của người Khotan (Vu Điền) thành Khosha,

rồi lại bị người Hán đọc trại âm một lần nữa thành Hòa Thượng (He Shang). Về sau, chữ Hòa Thượng

được dùng như danh xưng tỏ vẻ tôn trọng với Tăng sĩ; nhưng người bình dân Trung Hoa thường gọi

những chú tiểu là Tiểu Hòa Thượng.

77[77] Tam Đàn Đại Giới: Quy củ truyền thọ giới pháp, chia làm ba giai đoạn: Sơ đàn, Nhị đàn

và Tam đàn. Sơ đàn truyền Sa Di, Sa Di Ni giới, Nhị đàn truyền Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni giới,

Tam đàn truyền Bồ Tát giới. Khi Sơ Đàn và Nhị Đàn đã xong, Phật tử tại gia mới được dự Tam

Đàn cùng với chúng xuất gia thọ Bồ Tát Giới. Truyền Tam Đàn Đại Giới phải hội đủ Tam Sư

(Đắc Giới Hòa Thượng, Yết Ma A Xà Lê, Giáo Thọ) và bảy vị tôn chứng A Xà Lê đóng vai trò

chứng minh. Thông thường đàn truyền giới được cử hành trong ba ngày liên tiếp

181

lâm78[78] cũ ng gọi là Hòa Thượng. [Những loại] Hòa

Thượng như trên, miễn cưỡng gọi thì cũ ng đ ược. Nếu coi

[những người ấy] thật sự là Hòa Thượng thì cũ ng không đ

úng. Nói đ úng sự thực thì phải [là người] có đ ạo đ ức, học

vấn, có sức làm cho người khác sanh trưởng Pháp Thân huệ

mạng thì mới đ úng là Hòa Thượng danh phù hợp với sự

thực.

Phải biết thế giới này của chúng ta, trong Phật pháp của đ

ức Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ có một mình đ ức Thích Ca

Mâu Ni Phật là thành Phật ngay trong thân này. Lại phải đ

ến khi đ ức Di Lặc Phật hạ sanh thì mới có thể tính là có

một vị Phật nữa thành Phật ngay trong thân này. Trong

khoảng thời gian sau khi đ ức Thích Ca diệt đ ộ và ngài Di

Lặc chưa giáng sanh, muốn tìm lấy một người thành Phật

ngay trong thân này thì bất luận ra sao cũ ng không thể có

đ ược! Dẫu chính Phật Thích Ca ứng hiện trong thế gian

lần nữa, cũ ng không thị hiện đ ạo lý “thành Phật ngay

trong thân” này!

78[78] Phương Trượng là cái thất vuông vức mỗi bề vừa đúng một trượng, là chỗ ở của vị trụ trì

trong Thiền Tông, nên vị Trụ Trì thường được gọi là Phương Trượng, U Trượng, Chánh Đường,

hay Đường Đầu. Chữ “tùng lâm” chỉ chùa miếu nơi Tăng chúng tụ tập cùng ở, thường dùng để

chỉ chùa Thiền Tông. Thoạt đầu, tại Ấn Độ, trong những khu rừng cây thanh tịnh ở ngoài thành

thị thường lập tinh xá cho Tăng chúng ở; danh từ Tùng Lâm (rừng rậm) phát xuất từ đó. Sách

Đại Trí Độ Luận lại giảng là vì Tăng chúng tụ tập như rừng nên gọi là Tùng Lâm. Về sau, chữ

“tùng lâm” dùng để gọi chung các chùa miếu lớn, còn tùng lâm của Thiền Tông thường gọi là

Thiền Lâm.

182

Vào đ ời nhà Thanh trước kia, trong khoảng từ niên hiệu

Khang Hy đ ến niên hiệu Càn Long, Phật Sống79[79] Tây

Tạng đ ến khi lâm chung biết chết rồi sẽ phải đ i đ ầu

thai trong nhà nào, dặn lũ đ ệ tử đ ến lúc ấy đ i rước ông

ta. Khi đ ẻ ra, cũ ng nói đ ược ông ta là Phật Sống ở chỗ nào

đ ó. Tuy có bản lãnh như vậy, cũ ng vẫn chưa phải là thành

Phật ngay trong thân này! Vì sao biết đ ược? Vì nếu quả

thật là thành Phật ngay trong thân này, tự nhiên sẽ giống

như Phật Thích Ca, nói đ ược các thứ phương ngôn (ngôn

ngữ riêng của từng đ ịa phương), dùng một tiếng thuyết

pháp cũ ng có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đ ều

hiểu đ ược. Cớ sao Phật Sống Tây Tạng, [đ ối với] ngôn ngữ

Trung Quốc lại không biết? Một chuyện nhỏ như vậy đ ủ đ

ể chứng minh ông ta không phải là thành Phật ngay trong

một đ ời. Huống chi sau này Phật Sống khi chết đ i chẳng

đ ể lại lời gì? Lúc sống cũ ng chẳng có biểu hiện gì, đ ều là

79[79] Phật Sống (Hoạt Phật): Tiếng Tây Tạng là Hpbrulsku, người Mông Cổ gọi là Khutuktu

hay Khutukutu (thường phiên âm là Hô Đồ Khắc Đồ, nghĩa là tự tại chuyển sanh). Chữ

hpbrulsku (thường được viết theo cách phát âm là Tulku) có nghĩa là hóa thân, chuyển sanh, là

một cơ cấu truyền thừa riêng của Phật Giáo Tây tạng, nhằm giữ vững ngôi vị lãnh đạo và thích

ứng với tình trạng độc thân của người đứng đầu một dòng tu. Theo đó, một vị lạt-ma cao cấp

chết đi, sẽ tái sanh trở lại trong nhân gian hầu tiếp tục tu hành, thống lãnh dòng tu và thực hiện

bi nguyện cứu độ chúng sanh. Trước khi chết, người ấy thường để lại di ngôn hay sấm ngữ bí

hiểm để các môn đệ đi tìm xem người ấy thác sanh vào chỗ nào, rước về nuôi dạy, đào tạo trở

thành người lãnh đạo tông phái. Những vị Tăng chưởng quản một phái tu, một dòng tu, thậm

chí một tu viện Tây Tạng thường tự xưng là hóa thân của Phật, Bồ Tát hay Tổ Sư nào đó, chẳng

hạn Đại Lai Lạt Ma là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A

Di Đà Phật, trưởng dòng tu Sakyapa là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, Tai Situpa là hóa thân của

Di Lặc Bồ Tát. Có lẽ vì thế người Hoa gọi họ bằng danh xưng Hoạt Phật.

183

do người khác xếp đ ặt, bốc thă m đ ể quyết đ ịnh80[80],

vậy thì chẳng cần phải nói gì nữa!

Hơn nữa, công phu tu Mật Tông muốn thành công cũ ng rất

khó khă n. Nếu chuyên cầu mau đ ạt đ ược thần thông,

chẳng khéo dụng tâm, lại còn bị nguy hiểm gặp phải ma sự,

vẫn chẳng ổn thỏa, thích đ áng bằng Niệm Phật. Nă m Dân

Quốc mười bảy (1928), ở Thượng Hải có một người đ ệ tử

quy y mời tôi đ ến nhà ông ta dùng cơm chay và nói trong

gia đ ình ông ta có một người thân thích là một nữ cư sĩ

học Phật đ ã nhiều nă m, học vấn cũ ng rất khá, đ ã hơn n

ă m mươi tuổi, gọi bà ta đ ến trò chuyện có đ ược hay

không? Tôi nói: “Đ ược chớ!” Ông bèn kêu bà ta đ ến. Đ

ến khi gặp mặt, tôi bảo bà ta: “Tuổi đ ã cao rồi! Hãy nên

mau niệm Phật cầu sanh Tây Phương”. Bà ta đ áp: “Tôi

chẳng cầu sanh Tây Phương, tôi muốn sanh trong thế giới

Sa Bà!” Tôi liền trả lời bà ta: “Chí hướng của bà hèn kém

quá!” Bà ta lại nói: “Tôi muốn thành Phật ngay nơi thân

này”. Tôi lại đ áp lời bà ta: “Chí hướng của bà cao xa quá!

Sao không chịu vãng sanh thế giới thanh tịnh kia, cứ muốn

sanh trong thế giới trược ác này? Phải biết rằng: Đ ạo lý

80[80] Vào thời vua Càn Long, trong năm 1807, khi các phe phái tranh chấp nhau về chuyện

quyết định đứa bé nào mới là hậu thân thật sự của Đại Lai Lạt Ma đời thứ tám, vua Càn Long đã

gởi đến Lhasa một chiếc bình vàng, ra lệnh bỏ hai lá thăm ghi tên từng đứa bé vào, rồi bốc thăm

quyết định. Khi có những tranh chấp về hậu thân của một vị Tulku, cũng thường có chuyện bốc

thăm để quyết định như vậy. Đôi khi không giải quyết được mâu thuẫn, mỗi phe sẽ công nhận

riêng một vị Hoạt Phật chuyển thế. Như gần đây, sau khi Đại Bảo Pháp Vương (Gyalwa

Karmapa) đời thứ 16 là Rangjung Rigpe Dorje chết đi, các tín đồ tranh chấp, không phe nào

nhường phe nào, cuối cùng có hai Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 17 được công nhận là Ogyen

Trinley Dorje (của phe lạt-ma Taisitu) và Trinley Thaye Dorje (của phe lạt-ma Sharmapa).

184

„thành Phật ngay nơi thân này‟ là có, thế nhưng hiện

thời không có ai đ ược như vậy cả, mà cũ ng chẳng phải là

chuyện bà hay tôi có thể làm đ ược!” Người không thông

hiểu đ ạo lý như vị nữ cư sĩ ấy, hoàn toàn không có chút gì

biết tự lượng sức, ă n nói lớn lối, quả thật là tự lầm, lầm

người vậy!

Lại có hai người cầu sanh trong thế giới Hoa Tạng. Có một

ngày, người kia mắc bệnh, người này bèn đ ến thă m. Sau

đ ấy, do thấy người kia bệnh tình không xong, liền gấp rút

bảo người kia niệm “Nam Mô Đ ại Phương Quảng Phật

Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Tạng Hải Hội Phật Bồ Tát”, mọi

người cũ ng ở bên cạnh trợ niệm cho ông ta. Sau một khắc

bèn hỏi ông ta có thấy cảnh giới gì hay không? Ông ta đ áp:

“Không có!” Hỏi như vậy hai ba lần đ ều nói “không

có!” Đ ến lần cuối cùng, ông ta bèn nói: “Mẹ đ ã đ ến

rồi!” Ôi chao! Có hỏi ông ta như vậy mới biết bọn họ [tu]

như thế không thể nào chắc ă n đ ược! Là vì trong tâm bọn

họ, do niệm Phật hiệu như thế và mong mỏi như thế, lẽ ra

phải trông thấy thế giới Hoa Tạng mới đ úng, sao lại đ âm

ra thấy cảnh giới thọ Ấm trong thai mẹ? Từ đ ấy về sau,

ông ta mới quay đ ầu tu pháp môn Tịnh Đ ộ.

Quý vị phải hiểu rằng: Phải là bậc Pháp Thân Đ ại Sĩ phá

đ ược mấy phần vô minh thì mới có thể thấy đ ược thế giới

Hoa Tạng, sanh [về đ ó] đ ược! Ngoài ra, [dẫu là] bậc Bồ

Tát đ oạn sạch Trần Sa Hoặc cũ ng chưa có phần, huống hồ

185

phàm phu đ ầy dẫy triền phược ư? Trong hội Hoa Nghiêm,

Thiện Tài đ ồng tử đ ã chứng Đ ẳng Giác mà Phổ Hiền Bồ

Tát vẫn dạy Ngài và Hoa Tạng hải chúng dùng mười đ ại

nguyện vương hồi hướng Cực Lạc đ ể mong viên mãn Phật

Quả. Đ ủ biết pháp môn Tịnh Đ ộ không că n cơ nào chẳng

gồm thâu. Vì thế, tôi thường nói: “Chúng sanh trong chín

giới bỏ pháp môn Niệm Phật thì trên là không thể do đ âu

viên thành Phật đ ạo đ ược; mười phương chư Phật bỏ pháp

môn Niệm Phật thì dưới là không do đ âu đ ộ khắp quần

manh”, chính là vì duyên cớ này đ ấy! Ví như người trong

thiên hạ, ai nấy đ ều phải ă n cơm thì ai nấy cũ ng đ ều

phải niệm Phật.

Kính khuyên các vị, chớ nên không tự lượng sức, vọng

tưởng làm hạng phi thường. Nói chung là phải chất phác

niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng cô phụ đ ức

Như Lai đ ã nói pháp môn tổng trì “trên thành Phật đ ạo,

dưới hóa đ ộ chúng sanh, thành thỉ thành chung” này và

chẳng đ ến nỗi uổng phí nhân duyên thù thắng mười

phương tụ hội tại đ ạo tràng Linh Nham thanh tịnh này.

Mong mọi người hãy trân trọng!

186

II. Một lá thư gởi khắp

(lời lẽ tuy vụng về chất phác, nhưng nghĩ a vốn lấy từ kinh

Phật. Nếu chịu hành theo, lợi lạc vô cùng. Nă m Dân Quốc

21 (1932))

Pháp môn Tịnh Đ ộ đ ộ khắp ba că n, lợi - đ ộn trọn thâu,

chính là đ ại pháp đ ể đ ức Như Lai phổ đ ộ hết thảy

thượng thánh hạ phàm khiến cho họ liễu sanh tử ngay

trong một đ ời này. Đ ối với pháp này chẳng tin, chẳng tu,

chẳng đ áng buồn ư? Pháp môn này lấy ba pháp Tín -

Nguyện - Hạnh làm tông81[81]. Tín là tin thế giới chúng ta

đ ây là khổ, tin thế giới Cực Lạc là vui. Tin ta là nghiệp lực

phàm phu, quyết đ ịnh chẳng thể cậy vào Tự Lực đ ể đ oạn

Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh thoát tử. Tin A Di Đ à Phật

có đ ại thệ nguyện; nếu có chúng sanh niệm danh hiệu

Phật, cầu sanh cõi Phật, lúc người ấy mạng chung, Phật ắt rủ

lòng từ tiếp dẫn sanh về Tây Phương. Nguyện là nguyện

mau thoát lìa thế giới khổ sở này, nguyện mau vãng sanh

thế giới Cực Lạc kia. Hạnh là chí thành khẩn thiết, thường

81[81] Tông: Tông ở đây là ý nghĩa chủ yếu của một bộ kinh, hay chủ trương, giáo nghĩa chánh

yếu được xiển dương bởi một bộ kinh. Hiểu theo nghĩa rộng, tông là giáo nghĩa căn bản, chủ

đạo của một pháp môn. Theo Thiên Thai Tông, Tông chính là nội dung nhất quán của một bộ

kinh hay một pháp môn.

187

niệm Nam Mô (âm đ ọc là Nạp-mạc82[82]) A Di Đ à Phật,

thời thời khắc khắc chớ đ ể tạm quên. Sáng tối đ ối trước

Phật lễ bái, trì tụng, tùy theo bản thân rảnh rỗi hay bận bịu

mà lập một khóa trình83[83]. Ngoài ra, [trong lúc] đ i - đ

ứng - ngồi - nằm và những chuyện chẳng phải dùng đ ến

tâm thì đ ều khéo niệm. Lúc ngủ nên thầm niệm, chẳng

nên niệm ra tiếng.

Chỉ nên niệm bốn chữ A Di Đ à Phật đ ể khỏi bị nhiều

chữ khó niệm. Nếu áo mũ không chỉnh tề, hoặc đ ang lúc

rửa ráy, đ ại tiểu tiện, hoặc đ ến chỗ không sạch sẽ đ ều

nên niệm thầm. Niệm thầm có cùng một công đ ức [như

niệm ra tiếng], niệm ra tiếng không hợp lễ. Bất luận niệm

lớn tiếng hay niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang (niệm có tiế

ng nhưng người bên cạnh không nghe đ ược), niệm thầm

trong tâm, đ ều phải niệm cho rõ ràng rành rẽ trong tâm,

niệm cho rõ ràng rành rẽ nơi niệm, tai nghe cho rõ ràng

rành rẽ. Như thế thì tâm chẳng rong ruổi theo bên ngoài,

vọng tưởng dần dần dứt, Phật niệm dần dần thuần, công đ

ức rất lớn!

Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư

trưởng (tức thầy dạy ta và những vị có đ ạo đ ức), từ bi

82[82] Do chữ Nam Mô 南無 nếu đọc theo giọng Quan Thoại thông thường sẽ thành Nán-wú

nên ở đây Tổ ghi âm bằng chữ Nạp-mạc 納莫 (âm Quan Thoại là Nà-mó) để chỉ cách đọc mô

phỏng âm Namo trong tiếng Phạn.

83[83] Khóa trình: Thời gian tu tập nhất định trong một ngày, thường dùng để chỉ một thời tụng

kinh, niệm Phật hay tọa thiền.

188

không giết (nên ă n chay trường, hoặc ă n chay kỳ . Nếu

chưa dứt đ ược ă n mặn thì đ ừng đ ích thân giết), tu Thập

Thiện nghiệp (tức là thân chẳng làm chuyện sát sanh, trộm

cắp, tà dâm; miệng chẳng nói dối, thêu dệt, nói đ ôi chiều,

nói lời ác; tâm chẳng khởi niệm tham dục, nóng giận, ngu si).

Lại còn phải cha nhân từ, con hiếu thuận, anh nhường, em

kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, tận

hết bổn phận của chính mình. Chẳng cần biết người khác

có trọn hết bổn phận đ ối với ta hay không, ta phải luôn

trọn hết phận ta. Nếu có thể đ ối với gia đ ình và xã hội tận

tình, tận hết bổn phận thì gọi là thiện nhân. Thiện nhân

niệm Phật cầu sanh Tây Phương chắc chắn khi lâm chung li

ền đ ược vãng sanh bởi tâm hợp với Phật, nên cảm đ ược

Phật từ tiếp dẫn. Nếu tuy thường niệm Phật, nhưng tâm

chẳng nương theo đ ạo, hoặc đ ối với cha mẹ, anh em, thê

thiếp, con cái, bạn bè, xóm làng chẳng thể tận hết bổn

phận thì tâm đ ã trái nghịch Phật, khó thể vãng sanh! Do tự

tâm phát sanh chướng ngại, Phật cũ ng không có cách nào

rủ lòng từ tiếp dẫn đ ược!

Lại phải nên khuyên cha mẹ, anh em, chị em, thê thiếp,

con cái, xóm làng, thân hữu đ ều cùng thường niệm

“nam-mô A Di Đ à Phật” và “nam-mô Quán Thế Âm Bồ

Tát” (mỗi ngày nếu niệm một vạn câu Phật hiệu thì niệm n

ă m ngàn câu Quán Âm, nhiều hay ít chiếu theo đ ây mà

gia giảm). Bởi chuyện này lợi ích rất lớn, nỡ nào đ ể người

189

sanh ra ta và quyến thuộc của ta cũ ng như thân hữu chẳng

đ ược hưởng lợi ích này hay sao? Huống chi hiện tại đ ang

là lúc cõi đ ời hoạn nạn lớn lao, tai họa xảy đ ến không

cách gì đ ối phó đ ược. Nếu thường niệm Phật và niệm

Quán Âm, nhất đ ịnh đ ược Phật từ che chở, gặp chuyện dữ

hóa lành. Dẫu không tai nạn cũ ng đ ược túc nghiệp tiêu, trí

rạng, chướng tận, phước tă ng. Huống chi khuyên người

niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là thành tựu cho kẻ

phàm phu thành Phật, công đ ức rất lớn. Dùng công đ ức

này hồi hướng vãng sanh, ắt đ ược mãn nguyện.

Phàm tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối và cứu tai nạn,

giúp kẻ nghèo, mọi thứ công đ ức từ thiện đ ều phải hồi

hướng vãng sanh Tây Phương, chớ nên cầu phước báo

nhân thiên trong đ ời sau. Nếu có tâm ấy sẽ chẳng có phần

vãng sanh! Hễ sanh tử chưa giải quyết xong, phước càng

lớn ắt nghiệp càng nặng. Hễ sanh lần nữa, khó khỏi đ ọa

trong ba đ ường ác đ ịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu

muốn lại đ ược thân người, lại đ ược gặp pháp môn Tịnh Đ

ộ liễu thoát ngay trong một đ ời, thật khó như lên trời vậy!

Phật dạy người niệm Phật cầu sanh Tây Phương là nhằm đ

ể con người liễu thoát sanh tử ngay trong đ ời này. Nếu

cầu phước báo nhân thiên đ ời sau thì là trái nghịch lời Phật

dạy, giống như đ em một viên bảo châu vô giá trong khắp

cõi đ ời đ ổi lấy một thẻ đ ường đ ể ă n, chẳng đ áng tiếc

190

ư? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây Phương, cầu

phước báo nhân thiên đ ời sau cũ ng chẳng khác gì!

Người niệm Phật chẳng đ ược lạm tu con đ ường tham

cứu của nhà Thiền, bởi người tham cứu chẳng chú trọng

nơi tín nguyện cầu sanh; dẫu có niệm Phật cũ ng chỉ chú

trọng khán câu “người niệm Phật là ai?” đ ể cầu khai ngộ

mà thôi! Nếu sanh Tây Phương thì không có ai chẳng khai

ngộ! Nếu khai ngộ mà Hoặc nghiệp hết sạch thì có thể liễu

sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết sẽ chẳng thể cậy vào

Tự Lực đ ể liễu sanh tử. Lại do không có tín nguyện nên

chẳng thể cậy vào Phật Lực đ ể liễu sanh tử. Tự Lực lẫn Phật

Lực đ ều không nhờ cậy đ ược, muốn thoát luân hồi há có

đ ược chă ng? Phải biết: Pháp Thân Bồ Tát lúc chưa thành

Phật còn đ ều phải cậy vào oai lực của Phật, huống chi

nghiệp lực phàm phu phí công bàn chuyện Tự Lực, chẳng

cậy Phật Lực ư! Lời lẽ tuy cao siêu, nhưng hạnh thật hèn tệ.

Phật Lực, Tự Lực lớn - nhỏ, nào phải chỉ khác biệt như trời

với vực! Nguyện đ ồng nhân84[84] đ ều hiểu nghĩ a này.

Người niệm Phật chớ nên bắt chước kẻ ngu, làm những

“Phật sự” như hoàn thọ sanh85[85], gởi kho v.v… bởi

84[84] Đồng nhân: Những người có cùng căn cơ với ta.

85[85] Đây là một quan điểm mê tín của người dân Trung Hoa thời xưa. Họ tin rằng khi sanh

làm người, ai nấy đều bị thiếu nợ một khoản tiền dưới âm phủ, nếu không đốt tiền giấy van vái

trả nợ dần dần sẽ bị tổn phước giảm thọ, gặp nhiều tai nạn, ác mộng, ba hồn bảy phách bị suy

bại nên chết yểu. Khoản tiền giấy vàng bạc đốt để trả nợ gọi là Hoàn Thọ Sanh (quan điểm này

được đề cao qua ngụy kinh Thọ Sanh). “Gởi kho” là đốt tiền giấy, vàng bạc để tích trữ sẵn dưới

âm ty như một hình thức gởi tiền tiết kiệm để dùng sau khi chết.

191

chuyện “hoàn thọ sanh” chẳng phát xuất từ kinh Phật, mà

do người đ ời sau ngụy tạo. Gởi kho là nguyện chết đ i làm

quỷ, chuẩn bị sẵn tiền tiêu dùng trong quỷ đ ạo. Đ ã có tâm

nguyện làm quỷ sẽ khó thể vãng sanh. Nếu chưa làm hãy

chớ có làm. Nếu trót đ ã làm hãy bẩm rõ cùng Phật: “Đ ệ

tử tên là… chỉ cầu vãng sanh, tiền trước kia gởi kho nơi cõi

âm, đ ều dùng chẩn tế cô hồn hết” thì mới chẳng gây

chướng ngại cho việc vãng sanh. Phàm những kinh như Thọ

Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo

Vương, Thai Cốt, Phân Châu, Diệu Sa86[86] v.v… đ ều do

86[86] Thọ Sanh Kinh là một kinh do Đạo giáo ngụy tạo. Nội dung kinh nói năm Trinh Quán thứ 13

đời Đường, ngài Huyền Trang duyệt Đại Tạng Kinh, thấy nói rõ mỗi người khi được đầu thai làm

người đều thiếu một khoản nợ lớn tại âm phủ, vị quan chủ mạng của âm phủ sẽ truy tìm người ấy

trong nhân gian để đòi nợ. Người nào không chịu trả khoản nợ ấy bằng cách đốt tiền giấy, vàng mã

trả nợ cho âm phủ, đêm ngủ sẽ gặp nhiều ác mộng, ba hồn bảy phách vất vưởng, suy bại, sẽ bị mười

tám thứ tai ương như đi đường bị trộm cắp, sanh nở khó khăn, chết bất đắc kz tử, bị trúng phong

mà chết, bị chết vì dịch tật, tai nạn xe cộ, bị vu cáo, bắt bớ, giam cầm, tàn tật v.v… Nếu người nào

siêng năng trả tiền nợ thọ sanh sẽ được đủ mọi sung sướng, không tai dịch, không bị sao xấu chiếu,

ba đời giàu sang, không bao giờ bị nghèo khổ, khẩu thiệt v.v…

Kinh Huyết Bồn (tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Đại Tạng Chánh Giáo Huyết Bồn Kinh) nói

ngài Mục Kiền Liên đến huyện Truy Dương ở Vũ Châu thấy một địa ngục có hình dáng một cái

chậu máu lớn rộng đến tám vạn bốn ngàn do-tuần, đủ mọi khí cụ hành hình. Trong ngục có

nhiều nữ nhân tóc tai rũ rượi, bị ngục tốt bắt uống máu mỗi ngày ba lần. Nếu không chịu uống

sẽ bị quỷ sứ dùng gậy sắt đánh đập tàn nhẫn. Hỏi đến nguyên cớ, quỷ sứ đáp: “Do người nữ lúc

sanh nở hoặc khi có kinh, máu dơ thấm đất, xúc phạm thần đất. Hoặc tắm gội khiến nước sông,

nước suối bị nhiễm máu dơ. Người khác không biết dùng nước ấy đem nấu trà cúng thánh hiền,

Thiên đại tướng quân bèn ghi tội kẻ ấy. Sau khi chết bèn đọa ngục này. Muốn cứu giúp vong

linh của mẹ thì phải tụng kinh này ba năm, lập Huyết Bồn thắng hội, thỉnh Tăng chúng tụng

kinh này, hồn mẹ sẽ được giải thoát!”

Kinh Thái Dương (tên gọi đầy đủ là Thái Dương Tinh Quân Bảo Cáo), có nội dung tán tụng

thần mặt trời, xin trích một đoạn như: “Đỗng dương chí thánh, viêm minh thượng chân, chủ

Nam cực chi dương khuyết, chưởng nhân thân chi hồn phách, quang huy thạnh đại, hành vi vạn

tượng chi tôn đức cao minh, chủ thế chiếu chúng sanh chi mạng, chiếu hồi thiên địa thần quang

trú dạ tuần hành, khu nữu âm dương, viêm phách oai thí hách liệt, phàm mông quang chiếu,

thật lại sanh thành, đại bi, đại nguyện, đại thánh đại từ Nhật Cung Thái Dương Ân Quang Phổ

Chiếu Thiên Tôn” (tạm dịch: Đức Nhật Cung Thái Dương Ân Quang Phổ Chiếu Thiên Tôn đại

bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ, là bậc chí thánh, dương khí thông suốt, là bậc chân thật tột bậc

192

về mặt nóng sáng, làm chủ cửa Dương nơi mặt cực Nam, nắm giữ hồn phách của con người, rực

rỡ vô cùng, có đức cao vời hơn mọi vật, chủ trì việc chiếu soi sanh mạng của chúng sanh, ngày

đêm đi tuần hành chiếu soi trời đất, duy trì âm dương. Ngài có bản chất ấm nóng, oai dũng ban

bố sự chói ngời, phàm những gì được chiếu soi đều nhờ Ngài mà sanh thành). Tiếp đó là bài kệ

thần Thái Dương tự khoe công đức: “Trên trời không ta không ngày đêm, dưới đất không ta

chẳng tăng trưởng, thần nào cũng có người tôn kính, chẳng ai kính ta thần Thái Dương! Mười

chín tháng Giêng Thái Dương sanh. Nhà nhà niệm Phật thắp đèn hồng, ai truyền được kinh

Thái Dương này, cả nhà già trẻ không bị sao hạn. Ai không truyền tụng kinh Thái Dương, địa

ngục cửa mở ngay trước mắt….”

Kinh Thái Âm có tên gọi đầy đủ là Thái Âm Tinh Quân Thánh Kinh, câu cú lủng củng, lộn xộn, có toàn

văn như sau: “Thái Âm Bồ Tát đi về phương Đông, mười tầng địa ngục chín tầng mở, mười vạn tám

ngàn chư Bồ Tát, chư Phật, Bồ Tát xếp hàng hai bên, chư tôn Phật kính trọng, đất không mây, hoa

sen vọt khỏi mặt nước nở đầy đất, đầu đội tháp châu báu bảy tầng, Sa Bà thế giới nhãn quang minh,

một Phật báo trọn ân thiên địa, hai Phật báo đáp ân phụ mẫu, cha mẹ còn sống tăng phước thọ, cha

mẹ đã mất sớm siêu thăng. Nam-ma Phật, nam-ma Pháp, nam-ma A Di Đà Phật, thiên la thần, địa la

thần, người lìa nạn, nạn lìa thân, hết thảy tai ương hóa thành bụi. Có ai niệm được bảy biến kinh

Thái Âm, sống chết chẳng đến cửa địa ngục”.

Kinh Nhãn Quang rất ngắn, chỉ gồm mấy câu như sau: “Phật nói kinh Nhãn Quang, mắt sáng là đèn

tâm, hai bên tháp xá-lợi, hằng sa hậu thế Đại Tạng kinh. Ngàn mắt ngàn tay tỏ rõ trong đời. Đại Trí

Bồ Tát phóng hào quang, Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi voi chúa. La Hán đầy khắp hư

không đại địa, sương mù che phủ mắt bị quét sạch ngay!”

Nội dung kinh Táo Vương (dân gian thường gọi là kinh Ông Táo) như sau: Kinh này do chính

đức Phật nói ra ở Ấn Độ, được các vị Tam Tạng pháp sư truyền qua Trung Hoa, ông Táo có

danh xưng là Đông Trù Tư Mạng, theo dõi hành vi của mọi người trong gia đình, ngày Ba Mươi

mỗi tháng tấu lên thiên đình, tùy theo hành vi thiện ác, trời sẽ giáng phước hay ban họa. Sinh

nhật của ông Táo là ngày mồng Ba tháng Tám, gia chủ phải thắp hương, đốt đèn cúng tế mới

được phước thọ, tụng niệm kinh này thì học trò sẽ đỗ đạt, người buôn bán hưng vượng v.v…

Cầu đảo ông Táo chí thành sẽ thọ đến chín mươi tuổi. Kinh cũng khuyên phải giữ bếp cho sạch

sẽ, không được khua khoắng nồi xoong trong bếp, không được cởi trần trước bếp, không được

khạc nhổ, không được mắng chửi trong bếp, không đem dép dính phân súc vật vào bếp, không

đem vỏ tỏi, lông xương gà vịt vào bếp v.v…

Thai Cốt Kinh là kinh nói về sự hình thành con người trong thai mẹ, bắt chước thô thiển vụng

về kinh Báo Ân nhà Phật. Xin trích một đoạn: “Tháng thứ tư, thai tăng trưởng, tứ chi đã định,

sanh chân trước, sau sanh tay, thu hạ xuân đông, sanh hai tay, khi sanh hai tay, rút rỉa huyết

mạch của mẹ. Khi sanh hai chân, thấu đến huyệt Huyền Quan, mạch máu nhảy mạnh, [người

mẹ] đi trên đất bằng như trèo núi cao, đầu gối đau nhức”…

Kinh Diệu Sa rất ngắn, kinh văn lộn xộn, câu cú không hoàn chỉnh, nội dung như sau: “Diệu Sa

Quán Thế Âm ngồi thuyền qua biển cả, thuyền chở ngập sâu năm trăm (không rõ năm trăm cái

gì? Năm trăm tấc chăng?), biển cả dậy sóng gió, thỉnh được kinh Diệu Sa. Phật, Phật, Phật, ba

mươi sáu vạn ức Phật, hai mươi chín ngàn vô số Phật, năm trăm tạng hằng hà sa số Phật, tám

vạn thông minh trí huệ Phật, niệm đức Đương Lai Di Lặc Phật, hết thảy các Phật trong Tinh Tú

thiên cung, Phật nhiều như những hạt bụi nhỏ nhặt trên mặt đất, Phật nhiều như những hạt

mưa li ti trong bảy ngày bảy đêm, Phật nhiều như số cát đọng hai bên bờ sông, Phật nhiều như

số lá trong vườn thiên hạ, cành cành lá lá quang minh Phật, đức Phật Thế Tôn trong pháp hội

Linh Sơn, ông bà cha mẹ bảy đời Phật, hết thảy Phật trong ba đời, có ai trì niệm kinh Diệu Sa,

193

những kẻ lầm lạc ngụy tạo, chớ nên niệm. Kẻ ngu chẳng bi

ết niệm kinh Đ ại Thừa (tức là các kinh A Di Đ à Kinh, Vô

Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, Tâm Kinh,

Kim Cang, Dược Sư, Pháp Hoa, Lă ng Nghiêm, Hoa Nghiêm,

Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) Tin vào các thứ ngụy

kinh ngụy tạo mù quáng ấy, ắt phải làm những chuyện hoàn

thọ sanh, phá đ ịa ngục, phá huyết hồ mới an tâm đ ược!

Có người hiểu lý nói những kinh ấy là ngụy tạo, cũ ng chẳng

chịu tin. Phải biết: Làm Phật sự thì chỉ có niệm Phật là công

đ ức lớn nhất. Nên dùng tiền làm chuyện hoàn thọ sanh,

phá đ ịa ngục, phá huyết hồ87[87] đ ể thỉnh vị Tă ng có

chánh niệm niệm Phật thì lợi ích lớn lắm.

Người niệm Phật nên ă n chay trường. Nếu như chưa

thể thì nên giữ Lục Trai, hoặc Thập Trai (mồng 8, 14, 15, 23,

29, 30 là Lục Trai. Thêm vào ngày mồng Một, 18, 24, 28 thì

thành Thập Trai. Gặp tháng thiếu thì ă n lên trước đ ó một

ngày. Lại còn tháng Giêng, tháng Nă m, tháng Chín là ba

tháng chay, nên ă n chay trường, làm các công đ ức). Từ

giảm dần đ ến vĩ nh viễn dứt ă n mặn thì mới hợp lý. Tuy

chưa dứt đ ược ă n mặn, hãy nên mua thịt làm sẵn, chớ có

hiềm rằng trên cầu thấy phân minh! Bốn quyển Diệu Sa là một tạng, thiên hạ quỷ thần chẳng

dám xâm phạm, Di Đà đồng tử cầm chuông vàng, lắc liền mấy tiếng địa ngục trống rỗng, Diêm

La thiên tử được thành Phật, hết thảy chúng sanh lìa địa ngục”. Chúng tôi không tìm được tài

liệu về bản kinh Phân Châu.

87[87] Phá địa ngục, phá huyết hồ là những lễ lạc do tà sư Trung Hoa bày ra. Tăng chúng làm

những mô hình địa ngục, hồ máu bằng giấy, tăng chúng đọc kinh, vẽ bùa, đốt bùa, chạy quanh

đàn tràng, hô hoán điều động quỷ thần, dùng tích trượng đục thủng địa ngục, hồ máu, cho rằng

làm như thế sẽ cứu được vong linh ra khỏi địa ngục.

194

sát sanh trong nhà. Do trong nhà thường nguyện cát tường

(tốt lành, may mắn), nếu hằng ngày sát sanh thì nhà ấy liền

trở thành nơi giết chóc. Nơi giết chóc chính là chỗ oán quỷ

tụ hội, chẳng tốt lành, [đ iều này] quan trọng lắm! Do vậy

phải kiêng sát sanh trong nhà.

Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh

Tây Phương, nhưng muốn cho cha mẹ lúc lâm chung quyết

đ ịnh vãng sanh Tây Phương mà không nói sẵn cho quyến

thuộc biết về việc trợ niệm lâm chung, và lợi - hại của việc

phô trương phù quáng và khóc lóc sẽ chẳng thể đ ược! Vì

vậy, muốn cho cha mẹ lâm chung đ ược hưởng sự lợi ích do

quyến thuộc trợ niệm, chẳng bị mắc hại phá hoại chánh

niệm mà lúc thường ngày không nói cho họ biết sự lợi ích

của việc niệm Phật, khiến cho ai nấy đ ều thường niệm sẽ

không thể đ ược! Như thế chẳng những có ích cho cha mẹ

mà thật sự còn có ích cho những quyến thuộc hiện đ ời,

con cháu đ ời sau. Lâm chung trợ niệm bất luận già trẻ đ ề

u nên như vậy, xem cuốn Sức Chung Tân Lương88[88] sẽ tự

88[88] Sức Chung Tân Lương là một tác phẩm do ông Lý Viên Tịnh soạn với nội dung hướng dẫn cách

thức chuẩn bị cho thời khắc lâm chung và phương pháp trợ niệm nhằm đảm bảo người tu Tịnh

nghiệp lúc lâm chung không bị phá hoại chánh niệm. Sách này chia làm bốn phần:

1. Sức Chung Chương Trình: người tu Tịnh Độ phải dặn dò gia đình, bạn bè cách xử trí như thế nào

khi người ấy để lâm chung, cách thức trợ niệm, an táng sao cho người chết giữ được chánh niệm.

2. Sức Chung Ngôn Luận: Tập hợp những lời dạy về chuẩn bị lâm chung của các cổ đức.

3. Dự Tri Lợi Hại: những phân tích về lẽ lợi hại khi lâm chung như không nên khóc lóc, sát sanh, bày

vẽ phô trương như buộc người chết ngồi xếp bằng, thay áo, tắm rửa trong khi người sắp chết còn

đang thở hắt ra.

195

biết (Thượng Hải Phật Học Thư Cục, chùa Báo Quốc ở Tô

Châu đ ều có bán cuốn ấy).

Nữ nhân khi sanh nở thường đ au đ ớn chẳng kham nổi,

mấy ngày chưa sanh rất có thể bị mất mạng. Lại có người

sanh xong bị bă ng huyết, đ ủ mọi nỗi nguy hiểm, và con

cái mắc chứng kinh phong chậm hay gấp, đ ủ mọi nỗi nguy

hiểm. Nếu nhằm lúc sắp sanh, hãy chí thành khẩn thiết

niệm ra tiếng rõ ràng “nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”,

chớ đ ừng niệm thầm trong tâm, bởi niệm thầm sức nhỏ,

nên cảm ứng cũ ng nhỏ. Lại do lúc ấy dùng sức đ ẩy đ ứa

con ra, nếu thầm niệm thì rất có thể do bế khí mà thành

bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết niệm chắc chắn chẳng bị

đ au đ ớn, khó sanh và bă ng huyết sau khi sanh, con mắc

các chứng kinh phong v.v… Dẫu cho khó sanh đ ến tột bậc,

người đ ã sắp chết, hãy nên dạy sản phụ ấy và những

người chă m sóc chung quanh đ ều cùng niệm Quán Thế

Âm ra tiếng, người nhà dẫu ở phòng khác cũ ng đ ều có

thể niệm, chắc chắn công phu chưa đ ến một khắc liền đ

ược an nhiên sanh nở. Ngoại đ ạo chẳng hiểu lý, chấp chết

vào một pháp cung kính, chẳng biết că n cứ vào sự đ ể

luận lý, đ ến nỗi những bà cụ niệm Phật coi sanh nở là

chuyện đ áng sợ, dẫu là con gái ruột, con dâu cũ ng chẳng

dám nhìn đ ến, huống chi là dám dạy họ niệm Quán Âm ư?

Phải biết Bồ Tát mang tâm cứu khổ, lúc sắp sanh lõa lồ, bất

4. Sức Chung Thật Hiệu: Những bằng chứng vãng sanh do dự bị chu đáo cho phút lâm chung.

196

tịnh, là chuyện không thể nào tránh đ ược, chứ không phải

là do cố ý luông tuồng, chẳng những [niệm Quán Âm khi ấy]

không có tội lỗi gì, mà lại còn gieo đ ược đ ại thiện că n cho

cả mẹ lẫn con. Nghĩ a này đ ức Phật dạy trong kinh Dược

Sư, chứ không phải là ý kiến ức đ oán của tôi, chẳng qua

tôi chỉ đ ề xướng mà thôi! (Kinh Dược Sư nói về thệ

nguyện công đ ức Phật Dược Sư, cho nên dạy niệm Phật

Dược Sư. Nhưng danh hiệu Quán Âm ai nấy đ ều biết cho

nên bất tất phải niệm Phật Dược Sư, cứ niệm Quán Âm cũ

ng đ ược).

Nữ nhân từ mười hai, mười ba tuổi cho đ ến bốn mươi

tám, bốn mươi chín tuổi đ ều có kinh nguyệt. Có kẻ nói

trong lúc có kinh không đ ược lễ bái, trì tụng. Lời ấy chẳng

thông tình lý. Người có kinh ngắn ngày thì hai ba ngày là h

ết, có người kéo dài đ ến nă m sáu ngày mới hết. Người

tu trì ắt phải niệm niệm không gián đ oạn, lẽ đ âu vì một tật

nhỏ trời sanh ấy đ ể rồi bỏ phế việc tu trì ư? Nay tôi nói:

Trong lúc có kinh, chỉ nên lễ bái ít hơn (nên ít lễ bái, chứ

không phải là tuyệt đ ối chẳng đ ược làm lễ), niệm Phật,

tụng kinh đ ều theo như lệ thường. Nên thường thay vải

dơ (bă ng vệ sinh). Nếu tay sờ vào vải dơ, hãy nên rửa sạch,

chớ dùng tay đ ã chạm đ ồ dơ đ ể lật kinh và thắp hương.

Phật pháp pháp nào cũ ng viên dung, ngoại đ ạo chỉ chấp

vào lý ngoài rìa. Người đ ời đ a phần chỉ tin lời ngoại đ ạo,

chẳng biết đ ến chánh lý trong Phật pháp. Vì thế, khiến

197

cho hết thảy đ ồng nhân chẳng thể đ ược nhuần thấm lợi

ích nơi pháp.

Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, theo tiếng

cứu khổ. Nếu gặp phải những hoạn nạn như đ ao binh,

nước, lửa, đ ói kém, sâu rầy, châu chấu, ôn dịch, hạn hán, lụt

lội, giặc cướp, oan gia, ác thú, rắn đ ộc, ác quỷ, yêu mị, bệnh

tật do oán nghiệp, tiểu nhân hãm hại… . mà có thể phát tâm

sửa lỗi hướng thiện, tự lợi lợi người, chí thành khẩn thiết

niệm Quán Thế Âm, niệm niệm không gián đ oạn, chắc

chắn sẽ đ ược Ngài từ bi che chở, chẳng bị nguy hiểm gì. N

ếu vẫn giữ tấm lòng chẳng lành, dẫu có xưng niệm, chẳng

qua chỉ tạm gieo că n lành cho vị lai, chẳng đ ược cảm ứng

trong hiện thời. Bởi lẽ Phật, Bồ Tát đ ều là thành tựu thiện

niệm cho người, trọn chẳng thành tựu ác niệm cho người. N

ếu chẳng phát tâm sửa lỗi hướng thiện, lầm lạc muốn niệm

danh hiệu Phật, Bồ Tát đ ể mong thành tựu ác sự cho mình

thì quyết đ ịnh không đ ược cảm ứng, chớ có dấy lên cái

tâm đ iên đ ảo ấy!

Niệm Phật khẩn yếu nhất là giữ vẹn luân thường, trọn h

ết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đ ừng làm các đ i

ều ác, vâng làm các đ iều thiện, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt

lành, làm chuyện tốt. Có sức làm đ ược thì tích cực làm,

chẳng thể làm đ ược thì cũ ng phải phát thiện tâm ấy, hoặc

khuyên người có sức làm, hoặc thấy người khác làm bèn

phát tâm hoan hỷ, thốt lời khen ngợi thì cũ ng là thuộc về

198

công đ ức nơi tâm và miệng. Nếu chẳng thể tự làm đ ược,

thấy người khác làm bèn sanh ganh ghét, liền thành ra tâm

hạnh tiểu nhân gian ác, chắc chắn bị tổn phước, giảm thọ,

chẳng đ ược kết quả tốt lành, hãy nên thống thiết ră n dè.

Chẳng đ ược làm chuyện giả dối đ ể đ ược tiếng, buôn

danh chuốc dự, tâm hạnh ấy quả thật bị thiên đ ịa quỷ thần

đ ều cùng ghét. Nếu có thì phải sửa đ ổi, nếu không thì

càng thêm cố gắng.

Trong đ ời có kẻ nữ, chẳng hiểu chí lý (lý tột cùng), hoặc

chẳng hiếu đ ối với cha mẹ chồng, lừa dối, khinh miệt

chồng, nuông chiều con cái mù quáng, ngược đ ãi tôi tớ,

hoặc là mẹ kế ngược đ ãi con cái đ ời vợ trước, chẳng biết

hiếu dưỡng cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy con cái,

rộng rãi với tôi tớ, nuôi dạy, chă m sóc con cái vợ trước,

[chẳng biết những đ iều ấy] quả thật là đ ạo thánh hiền

trong thế gian, mà cũ ng là pháp vun bồi cái gốc trong nhà

Phật. Đ ầy đ ủ công đ ức này, do tu tập Tịnh nghiệp chắc

chắn danh dự ngày càng cao, phước tă ng, tuổi thọ lâu dài,

lâm chung đ ược Phật tiếp dẫn lên thẳng chín phẩm sen.

Phải biết: Có nhân ắt chắc chắn có quả. Nếu mình đ ã gieo

cái nhân hiếu kính từ ái, sẽ tự hưởng cái quả hiếu kính từ

ái. Vì người chính là vì mình, hại người còn tệ hơn tự hại

mình. Vì thế phải tận hết chức phận của chính mình đ ể

mong Phật trời cùng soi xét.

199

Trẻ nhỏ từ lúc có sự hiểu biết, liền dạy cho chúng đ ạo

hiếu, đ ễ, trung, tín, lễ, nghĩ a, liêm, sỉ, và những sự nhân

quả ba đ ời, luân hồi lục đ ạo khiến cho chúng biết tâm

của chính chúng nó trong từng hơi thở đ ều thông với tâm

của trời, đ ất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát. Khởi lên một niệm bất

chánh, làm một chuyện bất chánh đ ã sớm bị trời, đ ất, quỷ

thần, Phật, Bồ Tát thấy biết tường tận, như đ ối trước

gương sáng đ ều hiện ra hình bóng xấu không thể trốn

tránh đ ược, ngõ hầu chúng nó biết kiêng sợ, gắng làm

người lương thiện. Bất luận là ai, dẫu là tôi tớ, trẻ nhỏ cũ ng

chẳng đ ược phép đ ánh chửi. Dạy chúng tôn kính bậc tôn

trưởng, giữ phận người dưới. Phải chú trọng dạy chúng nó

kính tiếc giấy có viết chữ, yêu tiếc ngũ cốc, y phục, đ ồ đ

ạc, thương tiếc che chở trùng kiến, cấm ngặt ă n vặt đ ể

khỏi bị bệnh. Dạy đ ược như thế thì phần đ ông chắc chắn

trở thành người hiền thiện. Nếu lúc nhỏ đ ể mặc theo thói

quen, đ iều gì cũ ng chẳng giáo huấn, lớn lên không thành

hạng tầm thường cũ ng thành phường trộm cướp. Lúc ấy

có hối cũ ng chẳng có ích gì! Cổ nhân nói: “Dạy vợ từ thuở

mới về, dạy con từ tấm bé”, bởi lẽ do huân tập sẽ trở

thành bản tánh nên phải cẩn thận ngay từ đ ầu. Thiên hạ

yên hay loạn đ ều bắt nguồn từ đ ây; chớ nghĩ lão tă ng

nói chuyện viễn vông, không quan hệ, khẩn yếu chi!

Quang đ ã già rồi, tinh thần ngày càng suy, không có sức

trả lời thư gởi đ ến. Chỉ vì đ ường bưu đ iện thuận tiện khi

200

ến cho xa gần nghe lầm hư danh, thường gởi thư đ ến hỏi

mãi. Nếu nhất loạt chẳng phúc đ áp cũ ng cảm thấy phụ

lòng người hỏi đ ến. Nếu phúc đ áp từng thư một, thật

chẳng có đ ủ tinh thần làm như vậy. Vì thế, cho in bức thư

dài này, phàm những gì liên quan đ ến chuyện tu trì và lập

thân, xử thế, thờ cha mẹ, dạy con, đ ều nói đ ại lược. Sau

này có ai gởi thư đ ến, dùng thư này gởi lại. Nếu có một

hai chuyện chi đ ặc biệt liền phê vào thư gởi đ ến mấy

chữ đ ể đ ôi bên thấu hiểu tình nhau, không đ ến nỗi nhọc

nhằn quá đ áng. Nếu muốn thông hiểu sâu xa kinh giáo,

xin hãy thỉnh giáo nơi những bậc pháp sư thông hiểu sâu xa

dựng cao tràng pháp. Nên biết rằng: Người thông hiểu sâu

xa kinh giáo chưa chắc đ ã liễu sanh tử ngay trong đ ời này.

Nếu muốn liễu sanh tử ngay trong đ ời này, hãy nên chú

trọng nơi tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương.

III. Ba đ iều quan trọng nhất lúc lâm chung (Lâm chung tam

đ ại yếu)

Ðiều bi thảm nhất trong thế gian thật không chi bằng

cái chết, nhưng khắp cả người đ ời, có ai may mắn thoát đ

ược nổi? Vì vậy, người có tâm muốn lợi mình lợi người thì

chẳng thể không sớm lo liệu. Thật ra, một chữ CHẾT vốn chỉ

là giả danh. Do kỳ hạn của quả báo chiêu cảm từ [các nhân]

201

đ ời trước đ ã tận nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái thân

khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp thì đ úng là không tìm

đ ược cách gì, chỉ đ ành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay

đ ã đ ược nghe pháp môn Tịnh Ðộ phổ đ ộ chúng sanh của

đ ức Như Lai thì phải nên tín nguyện niệm Phật, sắp sẵn tư

lương vãng sanh, hầu mong thoát đ ược cái nỗi khổ luân hồi

sanh tử giả huyễn, chứng sự vui chân thật Niết Bàn thường

trụ.

Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc

phải bệnh nặng, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì nên

phát tâm hiếu thuận, từ bi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh

Tây phương và trợ niệm cho họ đ ể mong người bị bệnh

nhờ đ ó sau khi chết liền đ ược sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi

ích như thế kể sao cho xiết? Nay tôi nêu lên ba đ iều

trọng yếu đ ể làm că n cứ hòng thành tựu sự vãng sanh

cho người lâm chung; lời lẽ tuy thô vụng nhưng ý vốn lấy từ

kinh Phật. Gặp đ ược nhân duyên này đ ều nên làm theo.

Ba đ iều trọng yếu là:

* Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất] sanh

chánh tín.

* Hai là mọi người thay phiên niệm Phật đ ể giúp tịnh

niệm [cho người sắp mất].

* Ba là hết sức tránh dời đ ộng, khóc lóc, kẻo làm hỏng

việc.

202

Nếu có thể tuân theo ba pháp này thì quyết đ ịnh sẽ tiêu

trừ đ ược túc nghiệp, tă ng trưởng Tịnh nhân (cái nhân đ ể

vãng sanh Tịnh Đ ộ), đ ược Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây

phương. Một phen đ ã đ ược vãng sanh thì sẽ siêu phàm

nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dần dần tấn tu ắt sẽ đ ạt tới

viên thành Phật quả mới thôi. Sự lợi ích như vậy hoàn toàn

nhờ vào sức trợ niệm của quyến thuộc. Có thể làm đ ược

như thế mới là chân hiếu đ ối với cha mẹ, mới thật là chân

đ ễ89[89] đ ối với anh em trai, chị em gái, mới thật là chân

từ đ ối với con cái, mới thật là chân nghĩ a, chân huệ đ ối

với bằng hữu và đ ối với mọi người; dùng những đ iều ấy

đ ể vun bồi thêm cái nhân Tịnh Ðộ của chính mình. Khơi gợi

lòng tin tưởng của những đ ồng nhân, lâu ngày chày tháng

nào có khó gì mà chẳng tập thành lề thói đ ược. Nay tôi sẽ

trình bày từng đ iều một đ ể chẳng đ ến nỗi lâm chung có

những đ iều không thích đ áng, không đ úng lý vậy.

a. Ðiều thứ nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến cho [người

sắp mất] sanh chánh tín:

Thiết tha khuyên người bịnh buông xuống hết thảy, chỉ

nhất tâm niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó việc gì thì

phải mau giao phó. Giao phó xong thì chẳng đ ếm xỉa đ ế

89[89] Chân Đễ: Tình thương yêu, hòa thuận đối với anh em.

203

n nữa, chỉ nghĩ ta nay theo Phật vãng sanh cõi Phật; tất cả

sự giàu vui, quyến thuộc thế gian, các thứ trần cảnh đ ều

là chướng ngại, thậm chí khiến ta mắc hại. Vì thế, chẳng

nên sanh một niệm quyến luyến, vướng mắc. Phải biết:

Một niệm chân tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Cái

chết vừa nói đ ó chỉ là xả thân này đ ể lại thọ cái thân khác

mà thôi. Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận theo

nghiệp lực thiện, ác đ ể lại thọ sanh trong nẻo lành, đ ường

dữ (Đ ường lành là trời - người. Đ ường ác là súc sanh, ngạ

quỷ, đ ịa ngục. A Tu La vừa gọi là đ ường lành vừa gọi là đ

ường ác vì họ tu nhân cảm quả đ ều là thiện ác xen lẫn). N

ếu như trong lúc lâm chung, nhất tâm niệm Nam Mô A Di

Ðà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành, ắt quyết đ ịnh cảm

đ ược Phật dấy lòng đ ại từ bi, đ ích thân tiếp dẫn khiến

cho ta đ ược vãng sanh.

Ðừng nghi rằng: Ta là nghiệp lực phàm phu, làm sao chỉ

do niệm Phật trong một thời gian ngắn lại có thể thoát khỏi

sanh tử, vãng sanh Tây phương? Nên biết rằng: Vì đ ức

Phật đ ại từ bi nên dẫu là kẻ tội nhân Thập Ác, Ngũ Nghịch

rất nặng, lúc lâm chung tướng đ ịa ngục hiện ra, mà nếu có

thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn hoặc niệm mười tiếng

hoặc chỉ một tiếng thì cũ ng đ ược Phật tiếp dẫn, vãng

sanh Tây phương. Hạng người ấy chỉ niệm mấy câu còn đ

ược vãng sanh, há nên cho rằng ta nghiệp lực nặng, niệm

Phật ít ỏi mà sanh lòng nghi nữa ư? Phải biết: Chúng ta vốn

204

có chân tánh, chân tánh của ta và chân tánh của Phật chẳng

hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp còn sâu nặng nên chẳng thọ dụng

đ ược! Nay đ ã quy mạng nơi Phật như con nương về với

cha, chính là trở về với quê nhà ta vốn sẵn có, chứ nào có

phải là đ iều gì bên ngoài đ âu! Hơn nữa, xưa kia, đ ức Phật

đ ã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của

ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng đ

ược vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết

thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm

Phật cầu sanh về Tây phương thì không một ai là chẳng đ

ược Ngài rủ lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng đ ược

hoài nghi nữa! Hoài nghi chính là tự mình lầm lạc, họa ấy

chẳng nhỏ.

Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này sanh về thế

giới vui vẻ kia là chuyện hết sức sung sướng, cho nên phải

sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần chẳng đ ược sợ chết.

Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đ âm ra

mất phần vãng sanh Tây phương nữa vì tâm mình trái với

tâm Phật vậy! Dẫu Phật sẵn lòng đ ại từ bi cũ ng không làm

thế nào đ ược đ ối với chúng sanh chẳng nương theo lời

dạy của Phật! Vạn đ ức hồng danh của Phật A Di Ðà giống

như lò luyện lớn lao; tội nghiệp trong nhiều kiếp của

chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp lực

phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt,

205

giống như mảnh tuyết gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết

chẳng còn gì nữa.

Vả lại, huống chi nghiệp lực đ ã tiêu thì bao nhiêu thiện c

ă n sẽ tự nhiên tă ng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ

chẳng đ ược vãng sanh và Phật chẳng đ ến tiếp dẫn nữa

ư? Ðấy chính là những đ iều chỉ dạy cho người bệnh. Còn

như những việc chí thành, tận hiếu mà ta phải nên làm thì c

ũ ng chỉ chú trọng ở những đ iểm ấy; chớ nên thuận theo

thói tục van cầu thần thánh, tìm thầy chạy thuốc. Mạng lớn

đ ã sắp hết thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho người

ấy khỏi chết đ ược! Nếu đ ã nhọc lòng vì những sự vô ích

như thế thì đ ối với một sự niệm Phật lòng thành khẩn bị

xen tạp, không cách gì cảm thông [đ ức Phật] đ ược! Nhiều

kẻ lúc cha mẹ lâm chung chẳng tiếc tiền của, mời nhiều

thầy thuốc đ ến khám. Ðấy là mua tiếng hiếu, muốn đ

ược người đ ời khen ta tận hiếu đ ối với cha mẹ; nào hay

trời đ ất, quỷ thần xét soi tường tận nỗi lòng. Vì vậy, đ ối với

những sự tống táng cha mẹ mà quá sức phô trương thì nếu

chẳng mắc thiên tai ắt cũ ng bị vạ người. Kẻ làm con chỉ nên

chú trọng những gì thần thức của cha mẹ sẽ đ ạt đ ược. Lời

xưng tụng của thế nhân chẳng đ áng cho kẻ sáng mắt nhế

ch mép cười, lẽ đ âu lại dốc lòng mong mỏi, thật chỉ khiến

cho ta phải mắc vào cái lỗi bất hiếu to lớn mà thôi!

206

b. Thứ hai là mọi người thay phiên niệm Phật đ ể giúp tịnh

niệm [cho người chết].

Trước đ ó, đ ã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh

chánh tín; nhưng vì người bịnh ấy tâm lực yếu ớt, đ ừng

nói chi hạng người lúc còn khỏe mạnh chưa bao giờ niệm

Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài đ ược, ngay cả người

chuyên trọng niệm Phật thì cũ ng hoàn toàn nhờ vào người

khác trợ niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy, quyến thuộc

trong nhà nên cùng phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì người ấy

trợ niệm Phật hiệu. Nếu bệnh tình còn chưa đ ến nỗi sắp

chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Nên

chia thành ba ban, mỗi ban hạn đ ịnh mấy người. Ban đ ầu

tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm.

Niệm một tiếng đ ồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp; ban

thứ nhất, ban thứ ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì

nên lo liệu trong lúc niệm thầm; còn trong lúc trực ban trọn

chẳng nên bỏ đ i. Ban thứ hai niệm xong, ban thứ ba niệm ti

ếp. Xong rồi lại trở lại từ đ ầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai ti

ếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đ êm thì cũ ng không

mệt nhọc lắm.

Phải biết: Chịu giúp người đ ạt đ ược Tịnh niệm vãng

sanh thì cũ ng sẽ đ ược hưởng báo có người trợ niệm. Chớ

có nói là chỉ vì cha mẹ nên mới phải tận hiếu như vậy, mà

207

đ ối với người dưng cũ ng nên vun bồi ruộng phước của

chính mình, trưởng dưỡng thiện că n của chính mình thì

mới đ úng là cái đ ạo tự lợi, chứ chẳng phải chỉ vì người

khác mà thôi! Thành tựu một người đ ược vãng sanh Tịnh

Ðộ chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật. Công đ ức

như thế há thể nghĩ lường đ ược ư!

Ba ban liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức

bệnh nhân niệm đ ược thì nương theo đ ó niệm nho nhỏ

theo. Chẳng thể niệm nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có

niệm gì khác thì tự có thể tương ứng với Phật vậy. Tiếng

niệm Phật chẳng nên quá to; to thì tốn hơi, khó niệm lâu đ

ược; cũ ng chẳng thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân chẳng

nghe rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũ ng chẳng nên quá

chậm. Quá mau bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có

nghe cũ ng chẳng rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên

cũ ng khó có ích. Nên niệm chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiế

ng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp; từng chữ phân minh, từng

câu rành mạch khiến cho từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ

bịnh nhân; như vậy thì dễ có sức. Về pháp khí dùng cho

việc niệm Phật, chỉ nên dùng dẫn khánh, hết thảy các thứ

khác đ ều chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo

khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đ

ục chẳng thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung. Lại nữa,

nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đ ầu thì niệm vài

câu sáu chữ; rồi sau đ ó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật,

208

chẳng niệm Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ

niệm theo đ ược hoặc nhiếp tâm lắng nghe, đ ều đ ỡ tốn

tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh

thiện hữu ở ngoài đ ến thì cũ ng niệm như vậy. Dù nhiều

người hay ít người đ ều phải niệm như thế, chẳng nên

niệm một chốc, lại ngưng nghỉ rồi lại niệm khiến cho bịnh

nhân niệm Phật gián đ oạn. Nếu ă n cơm thì nên ă n vào

lúc thay phiên, đ ừng ngớt tiếng niệm. Nếu như lúc bịnh

nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng niệm cho đ ến tận

sau khi đ ã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba ti

ếng đ ồng hồ nữa (Trong sách Sức Chung Tân Lương,

nguyên vă n ở chỗ này ghi “thời gian niệm càng nhiều

càng hay”, các đ ại đ ức cận đ ại đ ề xướng tiếp tục niệm

tám tiếng đ ồng hồ đ ến hai mươi bốn tiếng đ ồng hồ.

Người soạn bản in mới kính cẩn ghi chú). Sau đ ấy, mới

ngưng niệm đ ể lo liệu, sắp đ ặt mọi việc. Trong lúc niệm

Phật, chẳng đ ể cho bè bạn đ ến trước bệnh nhân thă m

hỏi, vỗ về. Ðã có lòng đ ến thă m thì hãy cùng đ ại chúng

niệm Phật mấy thời. Ấy mới là tấm lòng yêu mến chơn thật,

có ích cho bịnh nhân. Còn nếu cứ theo thói tục thường tình

thì chính là đ ã xô người xuống biển. Tình ấy tuy đ áng cảm,

nhưng [đ ể xảy ra] sự ấy thật đ áng đ au đ ớn. Toàn là cậy

vào người chủ chốt hiểu rõ đ ạo lý, bảo trước với người [đ

ến thă m] đ ể khỏi tổn thương tình cảm, lại khỏi gây hại

cho bệnh nhân bị phân tâm chẳng đ ược vãng sanh vậy.

209

c. Thứ ba là kiêng dè xáo đ ộng, khóc lóc đ ể khỏi làm hỏng

đ ại sự

Lúc người sắp chết chính là lúc phân biệt giữa thánh,

phàm, người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đ

ầu sợi tóc; hết sức quan trọng, chỉ nên dùng Phật hiệu đ ể

chỉ dạy thần thức người ấy, trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo,

hoặc dời chỗ nằm. [Người ấy] nằm như thế nào, cứ đ ể yên

người đ ó trong tư thế ấy, chẳng nên dời đ ộng chút nào. C

ũ ng chẳng nên đ ối trước [người ấy] mà lộ vẻ buồng bã,

thương xót, hoặc đ ến nỗi khóc lóc. Vì khi đ ó [người chết]

thân chẳng tự chủ đ ược; hễ lay đ ộng là toàn thân lẫn chân

tay đ ều bị đ au đ ớn như bị cắt, chặt, giằng xé. Hễ đ au đ

ớn thì sanh tâm sân hận nên tâm niệm Phật bị ngưng dứt.

Mang tâm sân hận ra đ i, phần nhiều bị đ ọa vào đ ộc loại

(những loài vật hung dữ, đ ộc đ ịa như rắn, bò cạp, rết… ),

đ áng sợ hãi thay. Nếu [người chết] thấy [thân quyến] đ

au đ ớn, khóc lóc thì tâm mến luyến phát sanh nên tâm

niệm Phật cũ ng bị ngừng nghỉ. Vì mang tâm ái luyến mà ra

đ i nên đ ến nỗi đ ời đ ời, kiếp kiếp chẳng đ ược giải

thoát.

Lúc ấy, có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật;

đ iều gây hại nhất không chi bằng vọng đ ộng, khóc than.

210

Nếu như vọng đ ộng, khóc than đ ến nỗi [người chết]

sanh lòng sân hận hay mến luyến thì có muốn sanh Tây

phương, cả vạn trường hợp cũ ng chẳng đ ược một.

Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới lên trên

là tướng siêu thă ng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới

là tướng đ ọa lạc. Vì vậy, có thuyết:

Ðảnh thánh, nhãn thiên sanh

Nhân tâm, ngạ quỷ phúc

Súc sanh tất cái ly,

Ðịa ngục cước phản xuất

Nhưng nếu cả nhà chí thành trợ niệm thì [người chết]

ắt tự có thể sanh thẳng về Tây phương; chẳng nên thă m

dò nhiều lượt khiến cho khi thần thức [người chết] chưa

rời [khỏi xác], nhân đ ấy bị đ au đ ớn, tâm sanh phiền đ au

nên chẳng đ ược vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật là vô lượng vô

biên. Xin các thân hữu ai nấy đ ều khẩn thiết niệm Phật,

chẳng cần thă m dò hơi nóng cuối cùng bị lạnh đ i ở chỗ

nào. Làm con nên lưu tâm đ iều này mới là hiếu thật sự. N

ếu cứ thuận theo các tình cảm thế gian thì chính là xô

người thân xuống biển khổ chẳng thương xót, mong một lũ

vô tri vô thức xúm lại khen ta đ ã tận hiếu! Hiếu như vậy

thì có khác chi là tình yêu của La Sát Nữ! Kinh dạy: “La Sát

Nữ ă n thịt người, bảo: „Vì ta yêu ngươi nên ă n thịt

211

ngươi‟. Kẻ vô tri hành hiếu khiến cho người thân mất vui

bị khổ, há chẳng phải là giống hệt cái tình yêu người của La

Sát Nữ hay sao? Tôi nói ra lời này, chẳng phải là không đ ế

m xỉa đ ến tình người, chỉ là muốn cho ai nấy đ ều xét rõ

sự thực, ắt mong cho người chết vãng sanh, kẻ sống đ ược

phước, đ ể thỏa tấm lòng thành sắt son của con hiền, cháu

thảo thương yêu người thân, chẳng ngờ lời lẽ dường như

quá khích. Người thương yêu cha mẹ thật sự ắt sẽ lượng

thứ cho.

Thuyết: Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là nói về khi

người đ ã tắt hơi, toàn thân đ ã lạnh, chỉ còn đ ảnh đ ầu ấm

thì ắt là siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhãn

sanh thiên là nếu mắt và trán còn nóng thì sanh trong thiên

đ ạo. Chỗ ngực còn ấm thì sanh nhân đ ạo. Riêng bụng còn

nóng thì sanh trong ngạ quỷ đ ạo. Riêng đ ầu gối còn nóng

thì sanh trong súc sanh đ ạo. Riêng bàn chân còn nóng thì

sanh đ ịa ngục đ ạo. Ðấy là do hai nghiệp thiện, ác đ ã tạo

của người ấy lúc còn sống đ ến giờ đ ây cảm hiện như thế,

chứ chẳng thể dựa vào thế lực nào đ ể làm giả ra như vậy

đ ược. Khi đ ó, nếu bệnh nhân có thể chí thành niệm Phật,

lại thêm sức của quyến thuộc và bạn lành trợ niệm chắc

chắn có thể đ ới nghiệp vãng sanh, siêu phàm nhập thánh

vậy. Chẳng cần phải đ ể ý thử sờ xét nghiệm, đ ến nỗi làm

hỏng việc. Mong mỏi lắm thay!

212

IV. Sớ trùng tu ao phóng sanh chùa Cực Lạc ở Nam

Tầm90[90]

Kiêng giết phóng sanh về mặt Sự thì nông cạn, dễ thấy;

nhưng về mặt Lý lại sâu xa, khó hiểu rõ. Nếu chẳng hiểu rõ

Lý, dù có làm chuyện này, trong tâm chắc chắn chẳng chí

thành, thương xót thiết tha, phước đ iền lợi ích cũ ng do

tâm lượng mà trở thành nhỏ nhoi, nông cạn. Nếu gặp phải

kẻ vô tri ngă n trở, phỉ báng, [người phóng sanh] sẽ bị kẻ đ

ó xoay chuyển, khiến cho một dạ thiện tâm vì đ ó bị tiêu

diệt chẳng còn. Do vậy, chẳng ngại lắm lời giãi bày ý nghĩ a,

đ ể những loài vật đ ều đ ược gội từ ân, loài người đ ều

đ ược vun bồi nền phước, ngõ hầu khẩn thiết đ ộng đ ến

lòng nhân sâu xa, diệt đ ược sát báo cho ta lẫn người, cùng

đ ều đ ược về cõi thọ, cùng vui tuổi trời. Lại nguyện đ em

công đ ức này hồi hướng Tây Phương đ ể vĩ nh viễn thoát

khỏi luân hồi, vượt thoát tam giới, làm đ ệ tử Phật Di Đ à,

làm bạn tốt trong hải chúng. May ra sẽ đ ược người đ ọc

chú ý vậy!

Nhất niệm tâm tánh của chúng sanh sống trên đ ất hay

dưới nước, vốn quả thật chẳng hai, chẳng khác gì với tam th

ế chư Phật; nhưng vì sức ác nghiệp đ ời trước chướng lấp

nên diệu minh chẳng thể hiển hiện, trầm luân trong dị loại,

90[90] Thị trấn Nam Tầm thuộc thành phố Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang.

213

đ ến nỗi sự hay biết hèn kém, ngoại trừ chuyện tìm cái ă n,

tránh cái chết ra, trọn chẳng biết đ ến đ iều chi khác nữa!

Ví như tấm gương đ ồng quý báu lớn, trải bao kiếp bị bụi

lấp, chẳng những không có mảy may quang minh nào, ngay

cả chất đ ồng của gương cũ ng chẳng thể hiển hiện đ ược,

khác gì phế vật (vật hư nát, vô ích)! Chợt gặp đ ược người

trí, biết là gương báu sẵn có đ ủ vô biên quang minh chiếu

trời soi đ ất, bèn ngày ngày chă m chú giồi mài. Thoạt đ ầu

bèn lộ chút chất gương, dần dần tỏa ra ánh sáng. Mài đ ến

cùng cực thì ánh sáng chiếu trời soi đ ất bèn hiển hiện toàn

thể; người vô trí mới bèn quý trọng, xem là vật quý báu

nhất.

Phải biết: Ánh sáng ấy gương vốn sẵn tự có, nào phải do

mài mà có! Tuy là tự sẵn có, nhưng nếu không có duyên

giồi mài thì từ kiếp này sang kiếp khác cũ ng chẳng có

ngày tỏa ra quang minh. Tâm tánh của hết thảy trời - người

chúng sanh lục đ ạo đ ều giống như vậy. Do Hoặc nghiệp

từ vô thỉ đ ến nay che lấp nên chẳng thể tỏ lộ diệu minh

sẵn có, mê trái chân tánh, tạo nghiệp sanh tử. Đ ức Đ ại Giác

Thế Tôn biết nhất niệm tâm tánh của các chúng sanh bằng

với chư Phật; do vậy, đ ủ mọi phương tiện tùy cơ thuyết

pháp, khiến cho khắp mọi loài đ ều tu đ ạo Giới - Đ ịnh -

Huệ, ngõ hầu đ oạn Hoặc chứng Chân, khôi phục cái mình

sẵn có, trọn vẹn phước - huệ đ ể chứng Pháp Thân.

214

Lại dạy người đ ời phát tâm từ bi, kiêng giết, phóng

sanh; ấy là vì ta và hết thảy chúng sanh đ ều ở trong luân

hồi, từ vô thỉ đ ến nay lần lượt sanh ra nhau, xoay vần giết

lẫn nhau. Bọn họ cố nhiên là cha mẹ, anh em trai, chị em gái,

con cái của ta, mà ta cũ ng là cha mẹ, anh em trai, chị em gái,

con cái của mỗi một người trong bọn họ. Bọn họ nhiều

phen do ác nghiệp lực mà sanh trong loài người hoặc sanh

trong dị loại91[91], bị ta giết chóc; ta cũ ng nhiều phen do

ác nghiệp lực mà sanh trong loài người hoặc sanh trong dị

loại, bị họ giết chóc. Trải bao kiếp lâu xa, sanh ra nhau, gi

ết lẫn nhau, trọn không ngơi ngớt! Phàm phu không biết,

Như Lai thấy thấu suốt. Hễ không nghĩ thì thôi, nếu nghĩ

đ ến ắt khôn ngă n hổ thẹn, thương xót! Nay ta may nhờ

phước thiện đ ời trước, sanh trong loài người, cố nhiên nên

cởi gỡ mối oán kết, kiêng giết, phóng sanh, khiến cho hế

t thảy những loài có sanh mạng đ ều đ ược yên ổn; lại vì họ

niệm Phật hồi hướng Tịnh Đ ộ, khiến cho họ đ ược đ ộ

thoát. Nếu họ nghiệp nặng chưa thể vãng sanh ngay, ta

bèn nhờ vào công đ ức từ thiện này, quyết cầu lâm chung

vãng sanh Tây Phương. Đ ã vãng sanh ắt sẽ siêu phàm nhập

thánh, liễu sanh thoát tử, vĩ nh viễn thoát khỏi luân hồi, dần

dần chứng đ ược Phật quả.

91[91] Dị loại: Khác chủng loại. Do loài vật không thuộc loài người nên thường được gọi là Dị

Loại.

215

Vả nữa, yêu thương loài vật, phóng sanh thì bậc cổ thánh

tiên hiền đ ều làm chuyện này. Vì thế, kinh Thư có đ oạn

vă n chim, thú, cá, ba ba đ ều đ ược sống yên vui92[92], V

ă n Vương ân trạch thấm đ ến xương khô, huống chi loài

vật có tri giác. Như Giản Tử thả chim cưu, Tử Sản93[93] nuôi

cá, Tùy Hầu giúp rắn94[94], Dương Bảo cứu chim sẻ95[95].

Đ ấy là tâm thánh hiền cùng dùng lòng nhân đ ối đ ãi với

loài vật, dẫu họ không biết đ ến những nghĩ a lý:

“Những loài có tri giác, có cử đ ộng đ ều có Phật tánh, lần

lượt thă ng lên, đ ọa xuống, làm kẻ oán người thân lẫn nhau,

92[92] Nguyên văn: “Điểu, thú, ngư, miết hàm nhược”. Trong bài tựa cho cuốn Vệ Sinh Tập,

Tổ đã giải thích: “Nhược là thuận. Hàm Nhược có nghĩa là đều được thuận theo thiên tánh,

chẳng vướng mắc nỗi khổ bị sát hại”. Ở đây, chúng tôi chỉ dịch tóm gọn là “chim, thú, cá, ba

ba đều được sống yên vui”.

93[93] Tử Sản (không rõ năm sinh – mất năm 522 trước Công nguyên), tên thật là Công Tôn Kiều, tự

Tử Sản, hiệu là Tử Khương, sống vào thời Xuân Thu, người nước Trịnh. Ông chính là dòng dõi của

Trịnh Mục Công, nổi tiếng thông minh từ nhỏ, rất giỏi về cai trị, làm chức Khanh đời Trịnh Giản Công,

chấp chính suốt hai mươi ba năm, rất nhân từ. Ông tiến hành nhiều cải cách quan trọng, chỉnh đốn

quyền tư hữu ruộng đất của quý tộc để nông dân có ruộng làm, định lại sắc thuế cho hợp l{ hơn.

Ông là người đầu tiên cho biên soạn hình luật và cho khắc tân luật lên một cái đỉnh to đặt trong cung

vua để mọi người đều được biết luật. Ông chủ trương thuyết Nhân Bản, và cũng được coi là một

trong những Nho Gia điển hình trước thời Khổng Tử. Không rõ chuyện nuôi cá của ông ta được trích

từ điển tích nào.

94[94] Đời Xuân Thu, Tùy Hầu (vua nước Tùy) đi ra ngoài chơi thấy một con rắn bị người ta

đánh gần chết, vứt trên vệ đường, động lòng thương xót, liền sai tùy tùng đem thuốc cứu rắn,

rồi đem thả đi. Ít lâu sau, rắn từ sông ngoi lên, nhả tặng vua một viên minh châu để báo ân cứu

mạng. Do vậy, viên ngọc ấy thường được gọi là Tùy Hầu Châu, hoặc Linh Xà Châu. Sách Sưu

Thần Ký mô tả viên ngọc ấy như sau: “Kích thước tròn trặn chừng một tấc, trắng muốt, ban

đêm tỏa ánh sáng, có thể soi sáng cả gian phòng”.

95[95] Có lần Dương Bảo vào Hoa Sơn thấy con chim sẻ bị thương rơi xuống đất, máu me bê bết,

cảm thương ông liền đem về băng bó, chăm sóc, khi chim lành bèn thả đi. Chim tha đến bốn cái chén

ngọc, lại nói: “Mong con cháu ông sẽ trắng trong, tinh thuần như bạch ngọc”. Đêm ấy, ông mộng

thấy một vị trời mặc áo vàng đến bảo: “Tôi là con chim sẻ vàng được ông cứu mạng. Tôi vốn là sứ giả

của Tây Vương Mẫu, bị thương giữa đường. May được ông cứu giúp, nay được trở về Nam Hải nên

đến đáp tạ”. Về sau, con cháu ông đều nổi tiếng đức hạnh, hiển đạt.

216

và tương lai quyết đ ịnh thành Phật”. Đ ến khi đ ại giáo

truyền sang Đ ông, thì nhân quả ba đ ời và lý “chúng sanh,

Phật, tâm, ba thứ bình đ ẳng không hai” sáng lòa trong th

ế gian. Phàm là bậc đ ại thánh đ ại hiền, không ai chẳng

kiêng giết, phóng sanh, nhằm vãn hồi sát kiếp đ ể vun bồi

quả phước, làm nền tảng đ ể dứt nạn binh đ ao, vui hưởng

tuổi trời. Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng đ ao binh kiếp,

tu thính đ ồ môn bán dạ thanh” (tạm dịch: “Muốn biết đ

ao binh trong cõi thế, hãy nghe lò mổ giữa đ êm thanh”).

Lại nói: “Muốn cho thế gian không còn nạn đ ao binh thì

trừ phi chúng sanh không ă n thịt”. Do vậy, biết rằng:

Kiêng giết, phóng sanh chính là khuôn mẫu tốt đ ẹp đ ể

nhổ rễ lấp nguồn [tai nạn], cứu đ ời.

Vì thế, Trí Giả đ ại sư đ ời Trần mua hơn sáu mươi chỗ ở

Lâm Hải, Giang, Hỗ, Khê, Lương, cả hơn bốn tră m dặm làm

ao phóng sanh, xin sắc chỉ lập bia cấm ngặt đ ánh cá. Kẻ

nào bắt trộm làm càn sẽ bị mắc vạ. Đ ến niên hiệu Trinh

Quán đ ời Đ ường (triều vua Đ ường Thái Tông) vẫn còn

như thế. Đ ến nă m Càn Nguyên thứ hai đ ời Đ ường Túc

Tông (759), vua hạ chiếu truyền các châu trong thiên hạ

lập ao phóng sanh, sai Nhan Chân Khanh96[96] soạn bài vă

96[96] Nhan Chân Khanh (707-784), tự Thanh Thần, thường được gọi là Lỗ Công (vì ông được

phong chức Lỗ Quận Khai Quốc Công), là một thư pháp gia nổi tiếng thời Đường. Tuy cũng là

thi nhân, thơ ông không nổi tiếng như các nhà thơ khác thời Thịnh Đường. Tài thư pháp của

ông được người đương thời bình luận: “Phóng khoáng nhưng không buông tuồng, dễ dãi

nhưng không vụng về, đặt bút viết xuống là được ngay”. Lối viết Khải Thư của ông được coi là

mẫu mực cho mọi hành giả viết chữ Khải Thư về sau. Ông còn được coi là truyền nhân của

Trương Húc về lối chữ Thảo.

217

n bia và viết bằng bút son; trong ấy có câu: “Đ ức vua ta

lấy cả thiên hạ làm ao, hết thảy [các loài] trong toàn cõi đ

ều nhờ phước, nương sức Đ à La Ni gia trì, cạn bờ mé phiề

n não sanh tử; suy đ ến tận ngàn xưa, chưa hề phảng phất

giống đ ược như vậy”. Nă m Thiên Hỷ nguyên niên (1017)

đ ời Tống Chân Tông, hạ chiếu truyền thiên hạ lập ao

phóng sanh, Tây Hồ ở Hàng Châu cũ ng trở thành ao phóng

sanh của vua Tống. Đ ời Minh, đ ại sư Liên Trì lập ao phóng

sanh ở hai nơi là Thượng Phương và Trường Thọ. Bài Giới

Sát Phóng Sanh Vă n của ngài lưu truyền khắp thiên hạ.

Cho đ ến nay đ ã hơn ba tră m nă m, những người thông

hiểu trong hàng Tă ng - tục đ ều ngưỡng mộ cao phong,

từ bi cứu tế loài vật không thể tính kể. Nếu như có kẻ nói:

- Người quan quả cô đ ộc97[97], bần cùng, hoạn nạn, đ

âu đ âu cũ ng có, sao không châu cấp, lại gấp rút lo lắng

cho loài dị loại chẳng liên quan gì đ ến ta? Đ ấy chẳng phải

là đ iên đ ảo nơi chuyện thong thả - gấp rút, nặng - nhẹ đ ó

ư?

Đ áp:

- Ông chưa biết nguyên do đ ức Như Lai dạy người

kiêng giết, phóng sanh. Tuy người và vật khác nhau, nhưng

Phật tánh vốn đ ồng. Do ác nghiệp nên chúng bị trầm luân

97[97] Quan quả cô độc: Quan là góa vợ, quả là góa chồng, cô là mất cha mẹ, độc là không con

cái.

218

trong dị loại, ta do thiện nghiệp may đ ược thân người. Nế

u chẳng xót thương, giúp đ ỡ, cứ mặc tình giết hại, ă n

nuốt, thì một mai kia nếu phước ta hết rồi, tội của chúng đ

ã trả xong, khó tránh khỏi phải đ ền trả từ đ ầu, [đ em thân

mình] thỏa miệng bụng của chúng. Phải biết đ ao binh đ ại

kiếp đ ều do sát nghiệp đ ời trước cảm thành. Nếu

không có sát nghiệp, dẫu thân gặp phải giặc cướp, chúng c

ũ ng sẽ khởi lòng lành, chẳng giết hại mình. Huống chi

những tai nạn bất ngờ như ôn dịch, nước, lửa thì người

kiêng giết, phóng sanh rất ít gặp phải. Do vậy, biết rằng:

Che chở loài vật chính là tự che chở mình. Kiêng giết sẽ

khỏi bị trời giết, quỷ thần giết, trộm cướp giết, [khỏi bị]

oán - thân giết nhau báo thù trong tương lai. Những kẻ

quan quả cô đ ộc, bần cùng, hoạn nạn cũ ng nên tùy phần

tùy lực châu cấp cho họ, chứ nào phải người kiêng giết

phóng sanh hoàn toàn chẳng hành những đ iều công đ ức

ấy! Tuy người quan quả cô đ ộc rất đ áng thương, nhưng họ

chưa đ ến nỗi lâm vào tử đ ịa, còn loài vật nếu không bỏ ti

ền chuộc mạng, sẽ lập tức phải lên chảo, thớt đ ể thỏa

bụng miệng con người!

Lại có kẻ nói:

- Loài vật vô tận, phóng sanh đ ược mấy?

Đ áp rằng:

219

- Phải biết chuyện phóng sanh thật ra nhằm đ ể phát

khởi thiện tâm tối thắng “bảo vệ sanh mạng mọi loài vật”

của mọi người, ngõ hầu lãnh hội đ ược ý nghĩ a của chữ

“Phóng” (thả), trong tâm đ ã đ ộng lòng trắc ẩn, ắt chẳng

nỡ ă n nuốt. Đ ã không có người ă n nuốt thì người đ ánh

bắt sẽ phải thôi, khiến cho hết thảy loài vật dưới nước,

trên mặt đ ất, trên hư không đ ều tự tại bay, chạy, bơi lội

trong nơi sinh sống của chúng. Như vậy, thành ra không

phóng sanh mà hóa ra là phóng sanh khắp tất cả. Đ ấy

chẳng phải là “cả thiên hạ biến thành một cái ao” ư? Dẫu

không phải ai cũ ng đ ều như vậy cả, nhưng một người

chẳng nỡ ă n thịt thì vô lượng sanh mạng trên đ ất liền,

dưới nước khỏi bị giết chóc; huống chi nào phải chỉ có một

người! Lại vì hiện tại, vị lai hết thảy đ ồng nhân đ oạn trừ

cái nhân của quan quả cô đ ộc, hoạn nạn, bần cùng, tạo cái

duyên trường thọ, không bệnh, phú quý, an lạc, cha con đ

oàn viên, vợ chồng giai lão98[98] cho họ. Đ ấy chính là làm

chuyện châu cấp, cứu tế sẵn đ ể đ ời đ ời kiếp kiếp trong

vị lai mãi mãi chẳng bị những nỗi khổ quan quả cô đ ộc v.v…

hưởng thụ dài lâu những niềm vui sống lâu, giàu sang v.v…

Đ ấy chẳng phải là “toàn nước đ ược hưởng phước” ư? Há

có nên coi thường gác bỏ? Ông hãy nghĩ kỹ đ i, kiêng giết,

phóng sanh rốt ráo là khă ng khă ng vì con người hay là kh

98[98] Vợ chồng sống hạnh phúc đến già với nhau.

220

ă ng khă ng vì loài vật, đ iên đ ảo nơi chuyện thong thả -

gấp rút, nhẹ - nặng vậy?

Phía ngoài chùa Cực Lạc ở Nam Tầm từ trước đ ã có ao

phóng sanh, nhưng do bờ vách chưa xây nên bị sụp lở, lại

thêm nhiều nă m chưa đ ược khơi vét, bùn lầy đ ầy ứ.

Thường có những người lành phải ra sông phóng sanh, dù

phát thiện tâm nhưng sanh vật khó đ ược hưởng lợi ích.

Sáng vừa đ ược thả, chiều lại bị bắt, quá nửa là như vậy. N

ếu gần sông to thì dĩ nhiên nên thả xuống sông, nơi sông

nhỏ trọn chớ nên thả xuống. Viên Lâm đ ại sư lòng bất nhẫn,

muốn đ ào sâu ao đ ó, phía ngoài đ ắp tường vây bọc bảo

vệ đ ể có chỗ phóng sanh mà kẻ bắt cá trộm cũ ng không

làm gì đ ược! Ý ấy cũ ng rất tốt lành, nhưng chưa tiến hành,

đ ến khi Giác Tam đ ại sư từ Phổ Đ à đ ến đ ó, vừa trông

thấy liền hợp ý, trở về chùa bàn bạc chuyện ấy, nhưng tôi

đ ã buông xuống vạn duyên, chuyên tu Tịnh nghiệp rồi [nên

không thể cáng đ áng việc ấy]. Thầy Giác Tam kế thừa đ ầu

mối cũ , muốn sự ấy chóng thành, nhưng công trình rộng

lớn, sức một mình Sư khó thể thành tựu, tính quyên mộ

thiện tín toàn trấn cùng giúp cho việc thù thắng, xin tôi viết

lời tựa (phần sau lược đ i).

THƯỢNG HẢI HỘ QUỐC TỨC TAI PHÁP HỘI PHÁP NGỮ H

ẾT

221

222

KHI BẠN NHÌN THẤY HOA NÀY MỌI ƯU PHIỀN BIẾN MẤT

HOA VÔ ƯU