lỜi cẢm Ơn - dzungsrt & associates llc · i lỜi cẢm Ơn khóa luận tốt nghiệp...
TRANSCRIPT
i
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là sản phẩm nghiên cứu khoa học đầu đời của mỗi sinh viên,
cũng là thành quả của quá trình học tập và rèn luyện trong trường đại học. Chính vì thế, việc
hoàn thành khóa luận đòi hỏi rất nhiều công sức, sự chuyên tâm, nhiệt huyết cũng như thời
gian của người viết. Tuy nhiên, một trong những yếu tố không nhỏ tạo nên “sản phẩm trí tuệ”
này là sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô đã giảng dạy cũng như sự
ủng hộ của gia đình và bạn bè.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Lan Anh,
người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn. Không chỉ gợi ý và hướng dẫn
em trong quá trình tìm hiểu, đọc tài liệu và lựa chọn đề tài, cô còn tận tình chỉ bảo em những
kĩ năng phân tích, khai thác tài liệu để có được những lập luận phù hợp với nội dung của
khóa luận. Hơn nữa, cô còn rất nhiệt tình trong việc đốc thúc quá trình viết khóa luận, đọc và
đưa ra những nhận xét, góp ý để em có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, em cũng xin gửi đến các thầy cô giáo đã và đang công tác, giảng dạy tại
khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao lòng biết ơn sâu sắc về những kiến thức và kĩ năng
mà các thầy cô đã truyền đạt cho em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Học viện.
Em xin cám ơn cô Phạm Lan Dung, trưởng khoa luật quốc tế về những lời khuyên răn, chỉ
bảo của cô trong suốt 4 năm học. Em xin cám ơn cô Lý Vân Anh, người đã truyền cho em
cảm hứng nghiên cứu về tư pháp quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Em
cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Đoàn Dũng, cùng tất cả những thầy cô giáo khác trong khoa
Luật quốc tế đã giúp đỡ em rất nhiều về mặt tài liệu cũng như đóng góp những ý kiến cho
việc hoàn thành khóa luận của em.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em cũng rất may mắn nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình từ các cán bộ và các anh chị tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Cám ơn các anh chị đã tạo điều kiện cho em có thể tiếp cận với những vụ việc thực tế và
cung cấp cho em những tài liệu quý báu để phục vụ cho việc viết khóa luận.
Cuối cùng, em xin được gửi đến bố mẹ, gia đình và bạn bè lời cảm ơn và lòng biết ơn
sâu sắc vì những sự động viên, ủng hộ và cổ vũ tinh thần trong suốt quá trình gian nan và vất
vả này.
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... i
MỤC LỤC ...................................................................................................................... ii
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI......................................... 4
1. Thỏa thuận trọng tài là gì? .......................................................................................... 4
1.1. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài ................................................................................................... 5
1.2. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về
thương mại quốc tế (UNCITRAL) ................................................................... 7
1.3. Luật quốc gia .................................................................................................. 10
2. Phân loại thỏa thuận trọng tài .................................................................................. 13
2.1. Điều khoản trọng tài (arbitration clause) ...................................................... 13
2.2. Thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement) ....... 15
3. Tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài ............................................................... 16
3.1. Trong giai đoạn tiền tố tụng ........................................................................... 16
3.2. Trong quá trình tố tụng trọng tài ................................................................... 18
3.3. Trong giai đoạn hậu tố tụng .......................................................................... 19
4. Luật áp dụng ảnh hưởng thế nào đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài? ........... 21
4.1. Năng lực giao kết của chủ thể ....................................................................... 22
4.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài ............................................................... 23
4.4. Vụ việc có khả năng giải quyết bằng trọng tài .............................................. 24
CHƯƠNG II: LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỎA THUẬN TRỌNG TÀI ................................ 26
1. Phân biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật thủ tục trọng tài và luật nội
dung trọng tài ............................................................................................................. 26
1.1. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài ................................................................... 28
1.2. Luật áp dụng để giải quyết nội dung tranh chấp .......................................... 29
iii
1.3. Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài .......................................................... 30
2. Khi nào cần xem xét luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài .................................. 31
2.1. Khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài ........................ 32
2.2. Sau khi phán quyết được đưa ra, một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
hoặc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài .......................... 33
3. Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ................................. 34
3.1. Luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng ............................................................. 35
3.2. Luật của nơi diễn ra trọng tài hay luật nơi phán quyết được tuyên ............ 38
3.3. Luật tại nơi có tòa án đang xem xét tranh chấp liên quan đến luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài ................................................................................. 41
3.4. Luật thủ tục áp dụng cho trọng tài hay bộ quy tắc của trung tâm trọng tài
giải quyết vụ việc ............................................................................................. 43
CHƯƠNG III: VẤN ĐỀ LUẬT ÁP DỤNG CHO THỎA THUẬN TRỌNG TÀI TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................ 46
1. Giới thiệu sơ lược về trọng tài thương mại và các nguồn luật của trọng tài thương
mại tại Việt Nam ........................................................................................................ 47
1.1. Khái quát về lịch sử và sự phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam .
.................................................................................................................... 47
1.2. Các nguồn luật cơ bản của trọng tài thương mại tại Việt Nam ................... 50
1.2.1. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 ............................ 50
1.2.2. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của luật trọng tài thương mại .................................... 51
1.2.3. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 - Phần thứ sáu: Thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân
sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài –
Chương XXVI và XXIX ................................................................. 51
2. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam .................................. 53
2.1. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật ...
.................................................................................................................... 53
iv
2.1.1. Điều khoản liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài ........ 53
2.1.2. Điều khoản liên quan đến luật áp dụng cho trọng tài .................... 54
2.1.3. Điều khoản liên quan đến hủy phán quyết của trọng tài ............... 55
2.1.4. Điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết của
trọng tài nước ngoài ....................................................................... 56
2.2. Thực tiễn việc áp dụng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam . 58
3. Một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài tại Việt Nam .................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ I
1
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh của kinh tế Việt Nam cũng như các
nước trên thế giới, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO), số lượng các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và số lượng các vụ tranh chấp thương
mại cũng nhanh chóng tăng lên theo cấp số nhân.
Tuy nhiên, việc giải quyết các tranh chấp thương mại không phải là một vấn đề
đơn giản do có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau, thuộc
sự điều chỉnh của những hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì thế, việc lựa chọn được một
phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý và hiệu quả là một vấn đề có ý nghĩa quyết định
trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đại đa số các tranh chấp thương mại quốc tế thường
được giải quyết bằng các phương thức ngoài tòa án, trong đó trọng tài được đặc biệt ưa
chuộng, song ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy, số lượng các tranh chấp thương mại quốc tế
được các bên lựa chọn giải quyết bằng phương thức trọng tài còn quá ít ỏi, trong điều kiện
Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, đây là một thực trạng cần phải
được cải thiện.
Mặc dù trọng tài thương mại quốc tế với đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và
được giới kinh doanh quốc tế đặc biệt ưa chuộng do những ưu điểm vượt trội của nó so với
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế khác nhưng phương thức giải
quyết tranh chấp này còn khá mới mẻ ở Việt Nam chưa tạo được lòng tin với các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do pháp luật
nước ta trong lĩnh vực trọng tài chưa thực sự tỏ ra hiệu quả trong việc đáp ứng những yêu cầu
giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế chỉ ra
rằng, không ít quy định của pháp luật nước ta trong lĩnh vực này chưa phù hợp với thực tiễn,
chưa tương thích với pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế. Một trong những vấn đề quan
trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành công của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm cần thiết từ các nhà làm luật, đó là vấn đề luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài. Dù Luật Trọng tài thương mại 2010 đã thực sự nhận thức và
đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài tuy nhiên vẫn xem nhẹ luật áp dụng cho nó.
Đây thực sự là một thiếu sót cần được sửa đổi và bổ sung trong tương lai nhằm hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về trọng tài, tiến lại gần hơn với các chuẩn mực về trọng tài
trên thế giới để từng bước tạo dựng lòng tin trong giới kinh doanh trong và ngoài nước.
2
Những ưu điểm của biện pháp trọng tài chỉ được tận dụng và phát huy nếu như
giữa các bên tồn tại một thỏa thuận thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đồng thời
thỏa thuận đó phải có hiệu lực theo luật áp dụng cho nó. Nhận thức được vai trò của thỏa
thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tầm quan trọng của việc xác
định luật điều chỉnh thỏa thuận đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài: lý luận và thực tiễn”. Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm tổng kết,
đánh giá những lý luận và thực tiễn về vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại trên phạm vi thế giới, từ đó rút ra nhận xét và đánh giá cùng
những gợi ý để hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài Việt Nam trong vấn đề này, giúp việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam trở nên hiệu quả hơn.
Với mục tiêu đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về luật điều chỉnh
thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật quốc tế, nội luật về trọng tài của một số quốc
gia có hệ thống pháp luật phát triển và pháp luật về trọng tài tại Việt Nam và thực tiễn tình
trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài tại một số quốc gia, một số trung tâm trọng tài quốc tế và tại Việt Nam. Đây là một
vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng (cả trong nước và nước ngoài) lại bị giới hạn về nguồn tài
liệu, thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, do đó trong khuôn khổ của một khóa luận tốt
nghiệp đại học, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xin được giới hạn trong việc phân tích
pháp luật và thực trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ở hai văn bản pháp luật
về trọng tài phổ biến nhất đó là: Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế,
cùng thực tiễn và nội luật của một số quốc gia đó là Anh, Mỹ, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan
và Việt Nam. Để nghiên cứu các tài liệu này, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu
luật học cơ bản đó là: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp luận giải và phương pháp so sánh luật học.
Với phạm vi, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu như trên, nội dung
của luận văn sẽ được trình bày thành 3 chương như sau:
• Chương I - Tổng quan về thỏa thuận trọng tài: khái quát những vấn đề cơ
bản nhất về thỏa thuận trọng tài và tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài đối với hiệu lực của thỏa thuận này.
• Chương II - Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: tập trung nghiên cứu các
tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để từ đó rút ra những
3
ưu và nhược điểm của từng tiêu chí, rút ra bài học cho việc lựa chọn luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
• Chương III - Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam:
giới thiệu tổng quan về trọng tài và pháp luật liên quan đến trọng tài tại Việt
Nam, chỉ ra những thiếu sót trong vấn đề liên quan đến luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài và từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện
pháp luật liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam.
Tác giả tin rằng việc thấu hiểu tầm quan trọng của việc xác định luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài và hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này, trọng tài
thương mại sẽ thực sự trở thành một phương pháp giải quyết tranh chấp thân thiện và hiệu
quả tại Việt Nam, nhận được sự công nhận và lòng tin của giới kinh doanh quốc tế đồng thời
thúc đẩy tình hình kinh tế và thương mại tại Việt Nam phát triển ngày một ổn định và mạnh
mẽ hơn.
4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài dựa trên nền tảng cơ bản là sự đồng ý và tự
nguyện của các bên mà trong đó thỏa thuận trọng tài là căn cứ ghi nhận những yếu tố “vô
hình” này. Chính vì thế, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng quan trọng và không
thể thiếu trong tố tụng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chính là nền tảng của tố tụng trọng tài
hay nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không thể có tố tụng trọng tài. Để xác
định được luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thì trước hết phải nắm được những nội
dung cốt lõi, bản chất và những vấn đề cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của chương
này sẽ nhằm khái quát những vấn đề cơ bản nhất của thỏa thuận trọng tài, tầm quan trọng của
nó cũng như mối quan hệ giữa hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài.
1. Thỏa thuận trọng tài là gì?
Mặc dù mới phát triển ở Việt Nam trong thời gian gần đây nhưng hình thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu với một quá trình lịch sử
rất dài. Qua thời gian, các thủ tục tố tụng trọng tài có thể thay đổi với những sự phát triển và
cải tiến mới để phù hợp với các thực tiễn tranh chấp quốc tế tuy nhiên yếu tố thỏa thuận trọng
tài luôn tồn tại với thời gian và là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành công
của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Với sự thừa nhận trọng tài thương mại như là
một hình thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm thời gian và tiền bạc
cho các bên, người ta cũng dần thừa nhận vai trò và ngày càng đánh giá cao thỏa thuận trọng
tài cũng như việc soạn thảo thỏa thuận này. Tuy nhiên, để soạn thảo được một thỏa thuận
trọng tài tốt trước hết ta cần phải nắm được khái niệm thỏa thuận trọng tài là gì?
Nhằm thúc đẩy hoạt động trọng tài quốc tế diễn ra một cách hiệu quả nhất, các quốc
gia đã cùng nhau soạn thảo ra những công ước quốc tế điều chỉnh các vấn đề trọng tài thương
mại quốc tế. Các công ước này có vai trò kết nối các hệ thống pháp luật của các quốc gia
khác nhau thành một thể thống nhất “tuy có khác nhau về mặt ngôn từ nhưng có chung một
mục tiêu thi hành các thỏa thuận và quy định của trọng tài quốc tế”1. Khi nhắc đến các công
ước điều chỉnh trọng tài thương mại quốc tế thì có hai nguồn cơ bản mà không thể không bỏ
qua đó là Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước
1 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 1.213, trang 70.
5
ngoài và Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế được Ủy ban của Liên hợp quốc về
thương mại quốc tế thông qua năm 1985, mặc dù không phải là những điều ước đầu tiên ghi
nhận hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng đây là hai nguồn thường được dẫn
chiếu nhiều nhất trong tất cả các bài viết của các học giả, các bài báo cũng như các giáo trình
về Trọng tài thương mại quốc tế. Chính vì thế, tác giả sẽ ưu tiên tìm hiểu định nghĩa về thỏa
thuận trọng tài trong hai nguồn này trước khi xét đến các điều ước khác về trọng tài cũng như
luật của các quốc gia về vấn đề này.
1.1. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài
Trong quá trình thúc đẩy việc hình thành một hệ thống pháp luật chung điều chỉnh
trọng tài thương mại quốc tế, Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế (ICC) đóng một vai
trò vô cùng tích cực và quan trọng. Chính cơ quan này đã xúc tiến thành công việc hình thành
công ước New York năm 1958 điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài. Đây được coi là một trong những điều ước quan trọng nhất trong lĩnh vực
này, nó đóng một vai trò thiết yếu trong quá trình phát triển của trọng tài thương mại quốc tế.
Bất chấp những khó khăn trong việc thi hành công ước và “tuổi đời” đã khá cao của nó, ngày
nay người ta vẫn viện dẫn nó như một nguồn cơ bản để giải thích một số thuật ngữ liên quan
đến trọng tài.
Liên quan đến vấn đề thỏa thuận trọng tài, trong công ước đã ghi nhận ở Điều II
khoản 1: Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các
bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ
một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối
tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài2. Đây là một sự kế thừa và phát triển quy
định về thỏa thuận trọng tài thừa nhận trong Nghị định thư Geneva 1923 về điều khoản trọng
tài3, ngay tại điều 1 của nghị định thư đã nêu rõ: “Mỗi quốc gia ký kết công nhận tính hợp lệ
của một thỏa thuận dù liên quan đến một mâu thuẫn đang tồn tại hay mâu thuẫn trong tương
2 Nguyên văn bằng tiếng Anh: Each Contracting State shall recognise an agreement in writing under which the
parties undertake to submit to arbitration all or any differences which have arisen or which may arise between
them in respect of a defined legal relationship, whether contractual or not, concerning a subject matter capable
of settlement by arbitration. 3 Nghị định thư Geneva về Điều khoản trọng tài năm 1923, ký tại Geneva ngày 24 tháng 9 năm 1923, có hiệu
lực từ ngày 28 tháng 7 năm 1924, được công bố tại Tuyển tập các điều ước quốc tế của Hội quốc liên số 27
L.N.T. S. 258(1924), no. 678.
6
lai giữa các bên thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo thẩm quyền của các quốc gia
thành viên khác nhau, mà theo đó các bên tham gia hợp đồng đồng ý đưa tranh chấp lên
trọng tài tất cả hoặc bất kì mâu thuẫn nào phát sinh trong mối liên hệ với hợp đồng đó liên
quan đến các vấn đề thương mại hoặc bất kì vấn đề nào khác có khả năng giải quyết bằng
trọng tài cho dù trọng tài có thể diễn ra tại một nước mà không bên nào thuộc thẩm quyền
của nó”4.
Theo đó, cả nghị định thư và công ước đều thừa nhận rằng: để tranh chấp có thể giải
quyết bằng trọng tài thì phải tồn tại một thỏa thuận mà các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra
để trọng tài xét xử, tranh chấp có thể đã phát sinh rồi hoặc sẽ phát sinh trong tương lai nhưng
tranh chấp đó phải có khả năng giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy rằng,
công ước New York 1958 có sự hoàn thiện và phát triển hơn trong quy định về thỏa thuận
trọng tài khi chỉ rõ rằng thỏa thuận phải được lập bằng văn bản đồng thời thừa nhận hai bên
có thể có quan hệ hợp đồng hoặc không có quan hệ hợp đồng nhưng giữa các bên tranh chấp
phải có mối quan hệ xác định. Hơn nữa, công ước New York 1958 cũng không quy định rằng
các bên trong tranh chấp phải “thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo phạm vi thẩm
quyền của quốc gia thành viên”, đây là một sự tiến bộ nhằm hướng đến việc áp dụng công
ước cho các thỏa thuận trọng tài quốc tế chứ không chỉ riêng các thỏa thuận trọng tài mang
tính nội địa.
Trong định nghĩa của công ước quy định rằng: Thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản”
bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài, được kí bởi
các bên hoặc được ghi nhận trong các trao đổi thư tín5. Có lẽ đây là một thiếu sót lớn trong
định nghĩa thỏa thuận trọng tài của Công ước New York 1958, nó thể hiện sự “lỗi thời” của
công ước trong thời đại hiện nay. Với sự bùng nổ của các cuộc cách mạng thông tin, ngày
nay việc kí kết hợp đồng được diễn ra với rất nhiều hình thức khác nhau, có thể bằng điện tín,
telex, fax hay thậm chí là email. Vậy theo định nghĩa này, chắc chắn các hình thức này không
thể được thừa nhận là văn bản, bởi nó không thể có được chữ ký của các bên và cũng không 4 Nguyên văn bằng tiếng Anh: Each of the Contracting States recognises the validity of an agreement whether
relating to existing or future differences between parties, subject respectively to the jurisdiction of different
Contracting States by which the parties to a contract agree to submit to arbitration all or any differences that
may arise in connection with such contract relating to commercial matters or to any other matter capable of
settlement by arbitration, whether or not the arbitration is to take place in aion is to take place in a country to
whose jurisdiction none of the parties is subject. 5 Nguyên văn bằng tiếng Anh: The term "agreement in writing" shall include an arbitral clause in a contact or
an arbitration agreement, signed by the parties or contained in an exchange of letters or telegrams.
7
được coi là các trao đổi thư tín. Thiếu sót thể hiện “tuổi đời già cỗi” này của công ước là một
điểm sẽ cần phải được sửa đổi trong các văn bản quốc tế ra đời sau này.
Tóm lại, ta có thể tóm gọn tinh thần của công ước về khái niệm thỏa thuận trọng tài
như sau: đó là một văn bản ghi nhận sự thống nhất của các bên đưa các tranh chấp đã xảy ra
hoặc có thể xảy ra trong tương lai ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
Trong số các điều ước quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế trong thời kỳ hiện đại,
dù chưa thực sự hoàn thiện nhưng Công ước New York 1958 là văn bản đã cải tiến và tiến bộ
hơn rất nhiều, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của luật trọng tài
thương mại quốc tế. Việc ghi nhận định nghĩa của thỏa thuận trọng tài ngay trong những điều
khoản đầu tiên của công ước cũng thể hiện được ý nghĩa thực tiễn của việc áp dụng công ước
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặc dù sau năm 1958 có một số công ước quốc tế khác
(công ước châu Âu năm 19616, công ước Washington năm 19657) trong lĩnh vực này cũng đã
ra đời nhưng không có công ước nào đạt được tầm ảnh hưởng như công ước New York.
1.2. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp
quốc về thương mại quốc tế8 (UNCITRAL)
Sau sự ra đời của công ước New York 1958, Liên hiệp quốc thúc đẩy hơn nữa việc
cho ra đời một văn bản luật thống nhất để chỉ dẫn cho các quốc gia về việc áp dụng các
nguyên tắc của trọng tài thương mại quốc tế. Với nhiều nỗ lực cố gắng sửa đổi và hoàn thiện,
Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế đã được Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại
quốc tế (UNCITRAL) thông qua tại phiên họp của Ủy ban tại Viên (Áo) tháng 6 năm 1985 và
được Đại hội đồng Liên hợp quốc giới thiệu đến các quốc gia thành viên vào tháng 9 cùng
năm9. Luật Mẫu nhanh chóng được các quốc gia trên thế giới đón nhận rất nhiệt tình vì nó
khá đơn giản, cụ thể mà lại dễ hiểu. Đây được coi là “kim chỉ nam” cho việc hình thành các
văn bản pháp luật về trọng tài ở nhiều quốc gia trên thế giới. Để hoàn thiện và thích nghi với
6 Công ước châu Âu về trọng tài thương mại quốc tế, hoàn thành tại Geneva ngày 21 tháng 4 năm 1961. Các quy
định của công ước này được áp dụng cho các trung tâm trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp giữa các
bên đến từ các nước khác nhau kể cả trong hay ngoài châu Âu. 7 Công ước Washington năm 1965 là cơ sở của việc hình thành ICSID (trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế ICSID). Trung tâm này được thành lập theo Công ước Washington năm 1965 về giải quyết tranh chấp
giữa nhà nước và công dân của nhà nước khác, trong đó có các nhà đầu tư. 8 Có thể được gọi tắt là Luật mẫu hoặc Luật mẫu của UNCITRAL . 9 Thông tin từ trang web của Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế www.uncitral.org
8
sự thay đổi cũng như phát triển của trọng tài cũng như các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, năm 2006 Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại Quốc tế đã chỉnh sửa lại
toàn bộ Luật mẫu và kèm theo giải thích cụ thể từng điều khoản của luật này.
Về khái niệm thỏa thuận trọng tài, tại Điều 7, Luật mẫu về Trọng tài thương mại
quốc tế của UNCITRAL năm 1985 sửa đổi năm 2006 đã ghi nhận hai lựa chọn cho định
nghĩa và hình thức của thỏa thuận trọng tài:
• Lựa chọn thứ nhất: “Thoả thuận trọng tài” là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài
mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về
quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp
đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng
hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng10.
• Lựa chọn thứ hai: “Thỏa thuận trọng tài” là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài
tất cả hoặc một số tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh về quan hệ pháp lý
xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng11.
Hai định nghĩa này về cơ bản là hoàn toàn giống nhau và đều thừa nhận thỏa thuận
trọng tài là văn bản thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa các tranh chấp ra giải quyết bằng
con đường trọng tài dù cho quan hệ giữa hai bên có phải là hợp đồng hay không. Tuy nhiên
trong lựa chọn thứ nhất định nghĩa được mở rộng hơn trong việc phân loại thỏa thuận trọng
tài12. Nhìn chung, Luật mẫu đã một lần nữa nhắc lại định nghĩa về thỏa thuận trọng tài đã
được ghi nhận trong công ước New York 1958 trước đây nhưng tách riêng phần định nghĩa
và yêu cầu về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Trong Luật mẫu hình thức của thỏa thuận
trọng tài được tách riêng và giải thích rõ trong các khoản (2),(3),(4),(5) và (6) của Điều 7.
Trong đó, khoản (2) và (3) nêu rõ rằng: “Thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản. Một thỏa
thuận trọng tài là bằng văn bản nếu nội dung của nó được ghi lại bằng bất kỳ hình thức nào,
10 Nguyên văn bằng tiếng Anh: “Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration
all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal
relationship, whether contractual or not. An arbitration agreement may be in the form of an arbitration clause
in a contract or in the form of a separate agreement. 11 Nguyên văn bằng tiếng Anh: “Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration
all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal
relationship, whether contractual or not. 12 Điều này sẽ được phân tích kĩ hơn trong phần 2 của chương này.
9
bất kể thỏa thuận đó được giao kết bằng miệng, bằng hành động hoặc bằng các hình thức
khác13” và các khoản sau đó tiếp tục giải thích thích các hình thức văn bản được thừa nhận:
4. Yêu cầu thỏa thuận trọng tài bằng văn bản có thể được đáp ứng bởi một thông tin liên
lạc điện tử nếu nội dung thông tin chứa trong đó có thể được truy cập để dùng để
tham khảo sau này; “thông tin liên lạc điện tử” có nghĩa là bất cứ thông tin liên lạc
nào mà các bên đã thực hiện thông qua phương tiện thông điệp dữ liệu; “thông điệp
dữ liệu” được hiểu là những thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và được lưu trữ bằng
phương tiện điện tử, đĩa quang hoặc các phương thức tương tự, bao gồm nhưng
không giới hạn: trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, telex hoặc fax.
5. Hơn nữa, một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản nếu nó chứa những trao đổi về yêu
cầu khởi kiện và tự bảo vệ mà trong đó tồn tại thỏa thuận được đưa ra bởi một bên và
không bị bên kia từ chối.
6. Các tài liệu tham khảo trong một hợp đồng có bất cứ một văn bản nào chứa điều
khoản trọng tài có thể tạo nên một thỏa thuận trọng tài và khiến cho tài liệu tham
khảo đó trở thành một phần của hợp đồng14.
Có thể thấy rằng sự giải thích rõ ràng và cặn kẽ trong Luật mẫu này là một sự tiến bộ
vượt bậc và thích ứng với thời đại so với Công ước New York 1958. Theo đó, yêu cầu về chữ
kí của các bên đã không còn tồn tại nữa, thay vào đó là sự liệt kê đầy đủ và rõ ràng các hình
thức văn bản được thừa nhận, trong đó bao gồm email, điện tín, texlex, fax… Một điểm mới
nữa trong định nghĩa này đó là ở khoản (3), kể cả việc giao kết hợp đồng bằng miệng (bằng
13 Nguyên văn bằng tiếng Anh:
(2) The arbitration agreement shall be in writing.
(3) An arbitration agreement is in writing if its content is recorded in any form, whether or not the arbitration
agreement or contract has been concluded orally, by conduct, or by other means. 14 Nguyên văn bằng tiếng Anh:
(4) The requirement that an arbitration agreement be in writing is met by an electronic communication if the
information contained therein is accessible so as to be useable for subsequent reference; “electronic
communication” means any communication that the parties make by means of data messages; “data message”
means information generated, sent, received or stored by electronic, magnetic, optical or similar means,
including, but not limited to, electronic data interchange (EDI), electronic mail, telegram, telex or telecopy.
(5) Furthermore, an arbitration agreement is in writing if it is contained in an exchange of statements of claim
and defence in which the existence of an agreement is alleged by one party and not denied by the other.
(6) The reference in a contract to any document containing an arbitration clause constitutes an arbitration
agreement in writing, provided that the reference is such as to make that clause part of the contract.
10
lời nói) hoặc các hành động khác thể hiện ý chí giao kết của chủ thể miễn là có thể “ghi lại
được” thì cũng được coi là có giá trị pháp lý.
Tóm lại, theo Luật Mẫu, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận ghi nhận lại ý chí của các
bên đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài mà trong đó hình thức “bằng văn bản”
có thể được thỏa mãn bằng bất cứ hình thức nào miễn là nó “ghi lại được” ý nguyện của các
bên, không phân biệt đó là các hình thức trao đổi thông tin điện tử, lời nói, hành động hay các
hình thức khác. Chính vì thế, theo Sanders trong cuốn Bách khoa toàn thư về Luật so sánh và
quốc tế, quyển XIV thì “Khi một bên tham gia vào một quá trình tố tụng trọng tài mà không
phủ nhận sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, thì một “thỏa thuận trọng tài ngầm” là đủ”15.
Qua đó có thể thấy, tính cho đến thời điểm hiện tại, Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài
thương mại quốc tế là một văn bản mặc dù không có giá trị ràng buộc nhưng lại có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển của trọng tài thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với sự hình
thành các bộ luật về Trọng tài thương mại tại các quốc gia trên thế giới. Từ Luật Mẫu, nhiều
quốc gia đã triển khai, sửa đổi, thậm chí sử dụng nguyên văn bản này để thành nội luật, mục
tiếp theo sẽ phân tích định nghĩa về thỏa thuận trọng tài được thừa nhận trong nội luật của
một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới.
1.3. Luật quốc gia
Ở các quốc gia có hệ thống luật pháp phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ… thì các
quy phạm pháp luật liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế đã có từ rất lâu đời và được
cải thiện dần dần để thích ứng với sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế. Nhìn chung, luật
trọng tài của các nước thường có những định nghĩa tương tự như nhau về thỏa thuận trọng tài,
dù hình thức, câu chữ có thể khác nhau nhưng về tinh thần của điều khoản là giống nhau.
Về hình thức, hầu hết các nước thường quy định một thỏa thuận trọng tài phải được
làm thành văn bản. Ví dụ:
15 Sanders, ‘Arbitration’ in Encyclopaedia of International and Comparative Law, Vol XIV, chương 12, đoạn
106.
11
• Điều 5 luật trọng tài của Anh quy định: Các quy định của phần này chỉ áp được áp
dụng khi thỏa thuận trọng tài bằng văn bản và bất kỳ thỏa thuận nào khác giữa các
bên sẽ có hiệu lực cho mục đích của phần này chỉ khi nó bằng văn bản16.
• Điều 1443 luật trọng tài của Pháp quy định: Một điều khoản trọng tài không có hiệu
lực trừ khi nó được quy định bằng văn bản trong thỏa thuận chính hoặc trong một tài
liệu mà thỏa thuận đó đề cập tới17. Điều 1449 của luật này cũng thừa nhận điều tương
tự rằng thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài phải có thể chứng minh được bằng văn
bản 18.
Tuy nhiên, khái niệm “thỏa thuận bằng văn bản” là một khái niệm được áp dụng và
giải thích khác nhau trong luật pháp của các nước cũng như trong thực tiễn quan hệ thương
mại quốc tế và phán quyết của các tòa án. Chẳng hạn trong vụ Arab African Energy Corp.
Ltd v Olieprodukten Nederland B.V19, hai công ty môi giới ở Paris đã có trao đổi telex với
nhau rằng: “Trọng tài theo luật Anh, nếu có, tại London, theo quy tắc ICC”. Sau khi xảy ra
tranh chấp, tòa án đưa ra phán quyết rằng đây là một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực quy định
rằng tố tụng trọng tài phải diễn ra tại London theo quy tắc tố tụng của ICC và luật áp dụng
cho hợp đồng là luật của Anh. Tất nhiên đây là một hình thức thỏa thuận đầy rủi ro và không
rõ ràng do đó các tòa án và luật pháp các nước không hề khuyến khích hình thức này.
Bên cạnh đó, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” có thể được hiểu là bất cứ hình
thức nào có thể lưu trữ được dữ liệu trong thời gian dài và có thể đem ra để đối chứng, theo
đúng tinh thần của Luật mẫu và trong một số luật thậm chí còn yêu cầu rằng những dữ liệu
này phải có thể in ra thành văn bản được khi cần thiết. Ví dụ, Luật Trọng tài Hà Lan 1986,
Điều 1021 quy định rằng: thỏa thuận trọng tài phải được chứng minh bằng một công cụ dưới
dạng văn bản được các bên chấp nhận một cách rõ ràng hoặc ngụ ý20. Luật Trọng tài Thụy Sỹ
16 Nguyên văn bằng tiếng Anh:The provisions of this Part apply only where the arbitration agreement is in
writing, and any other agreement between the parties as to any matter is effective for the purposes of this Part
only if in writing. 17 Nguyên văn bằng tiếng Anh: An arbitration clause is void unless it is set forth in writing in the main
agreement or in a document to which that agreement refers. 18 Nguyên văn bằng tiếng Anh: A submission agreement shall be evidenced in writing 19Arab African Energy Corp. Ltd v Olieprodukten Nederland B.V [1993] 2 Lloyd’s Rep.419 20 Sanders & Van de Berg (1987), The Netherlands Arbitration Act 1986, Kluwer. Nguyên văn bằng tiếng Anh
của điều khoản: The arbitration agreement must be proven by an instrument in writing. For this purpose an
instrument in writing which provides for arbitration or which refers to standard conditions providing for
12
cũng quy định rằng thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản hoặc bằng các phương tiện liên lạc
có thể chứng minh thỏa thuận được lập bằng văn bản21. Trong khi đó, luật Trọng tài của Anh
1996 lại công nhận cả một thỏa thuận trọng tài bằng lời nói cũng có thể được coi là “thỏa
thuận bằng văn bản” nếu nó được xác lập bằng cách “dẫn chiếu tới những điều khoản có
trong văn bản”22. Tóm lại, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” được giải thích rất khác nhau
trong các hệ thống pháp luật khác nhau cũng như trong phán quyết của các tòa án thuộc các
quốc gia khác nhau, điều này chứng tỏ rằng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu lực và việc công nhận sự tồn tại của thỏa thuận này. Điều này cũng
ảnh hưởng đến việc thi hành và công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại các nước.
Về nội dung, luật các nước đều bắt buộc thỏa thuận trọng tài phải thể hiện ý chí
thống nhất của các bên trong việc đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài23. Thỏa
thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài vấn đề này ra, luật
pháp các nước không có những quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Nội
dung của thỏa thuận trọng tài đều để mở cho các bên có thể tự thỏa thuận và quyết định tuy
nhiên nó phải phù hợp với luật pháp điều chỉnh thỏa thuận trọng tài đó.
Tóm lại, về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, luật pháp của các nước trên thế giới
có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt về vấn đề thế nào là “thỏa thuận bằng văn bản”
tuy nhiên đều mang một điểm chung là đòi hỏi thỏa thuận buộc phải bằng văn bản và phải
chứa nội dung thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa ra trọng tài tranh chấp đã, đang tồn tại
hoặc sẽ phát sinh trong tương lai.
***
Nhìn chung, mặc dù có thể quy định khác nhau về từ ngữ cũng như một số vấn đề về
nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên, cả các điều ước quốc tế (tiêu biểu là Công
ước New York 1958), Luật mẫu và Luật pháp về trọng tài của một số quốc gia có hệ thống
pháp luật phát triển đều thừa nhận những điểm chung như sau:
arbitration is sufficient, provided that this instrument is expressly or impliedly accepted by or on behalf of the
other party. 21 Điều 178 khoản 1 Bộ luật Tư pháp liên bang Thụy Sỹ 1987 (PIL), nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: As to
form, the arbitration agreement shall be valid if it is made in writing, by telegram,telex, telecopier, or any other
means of communication that establishes the terms of the agreement by a text. 22 Điều 5 khoản 3 Luật trọng tài của Anh, nguyên văn bằng tiếng Anh quy định: Where parties agree otherwise
than in writing by reference to terms which are in writing, they make an agreement in writing. 23 Điều 6 Luật Trọng tài Anh 1996; Điều 1442 Luật Trọng tài của Pháp và Điều 1029 Luật Trọng tài của Đức.
13
ü Thỏa thuận trọng tài phải được thiết lập bằng văn bản
ü Thỏa thuận phải thể hiện sự tự nguyện giữa các bên đồng ý đưa tranh chấp ra
giải quyết bằng trọng tài.
ü Mối quan hệ pháp lý ràng buộc các bên
ü Nhằm giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh trong tương
lai.
Trong quá trình nghiên cứu về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, có thể dễ dàng
nhận thấy rằng thỏa thuận trọng tài không phải chỉ có duy nhất một hình thức mà có thể có
những loại khác nhau tùy vào ý định của các bên ký kết thỏa thuận. Phần tiếp theo của mục
này sẽ trả lời câu hỏi: Thỏa thuận trọng tài được chia thành mấy loại? Việc phân loại như vậy
nhằm mục đích gì?
2. Phân loại thỏa thuận trọng tài
Việc phân loại thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định luật áp
dụng cho từng loại thỏa thuận theo mục đích của các bên kí kết. Các công ước quốc tế, Luật
mẫu và luật pháp về trọng tài thương mại quốc tế của các quốc gia đều thừa nhận hai loại
thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý tương đương nhau. Dựa vào thời điểm thỏa thuận trọng
tài được giao kết, người ta có thể chia làm hai loại đó là điều khoản trọng tài (arbitration
clause) và thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement).
2.1. Điều khoản trọng tài (arbitration clause)
Điều khoản trọng tài là điều khoản liên quan đến trọng tài nằm trong một hợp đồng,
trong đó thể hiện ý chí của các bên nhất trí đưa các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai
ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Đây là một loại thỏa thuận trọng tài rất phổ biến, đặc biệt
là trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong thời đại hiện nay. Khi soạn thảo một
hợp đồng, các bên cũng thường lường trước những bất chắc và rủi ro có thể sẽ xảy ra trong
quá trình thực hiện hợp đồng. Chính vì thế lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngay
trong hợp đồng là một giải pháp khôn ngoan để giảm thiểu tối đa rủi ro, tiết kiệm thời gian và
chi phí khi xảy ra tranh chấp.
Về đặc điểm, điều khoản trọng tài thường ngắn gọn, chủ yếu là thống nhất về cơ
quan trọng tài được lựa chọn, luật áp dụng cho tố tụng trọng tài hoặc địa điểm trọng tài và
một số quy định khác tùy thuộc vào ý định của các bên cũng như mối quan hệ pháp lý hay
14
từng loại hợp đồng. Người ta cũng thường gọi điều khoản trọng tài là “điều khoản lúc nửa
đêm” bởi đây thường là điều khoản cuối cùng mà các bên soạn thảo trong hợp đồng, thường
vào lúc nửa đêm hoặc sáng sớm24. Người ta thường ít chú trọng đến việc soạn thảo điều
khoản này bởi việc tưởng tượng một tranh chấp sẽ xảy ra trong tương lai không hề đơn giản
và không ai muốn nghĩ đến điều đó. Và kể cả khi điều khoản đã được soạn thảo thì cũng
không ai mong muốn phải sử dụng đến nó cả. Chính vì thế, các bên thường sử dụng một điều
khoản mẫu ngắn gọn của chính trung tâm trọng tài mà họ lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Thông thường quy trình tố tụng trọng tài được tiến hành nếu trong hợp đồng có điều
khoản trọng tài tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ. Ở một số nước châu Mỹ Latin mà điển
hình là Argentina và Uraguay, một điều khoản trọng tài đưa các tranh chấp sẽ xảy ra trong
tương lai ra giải quyết bằng trọng tài sẽ không được thực hiện cho đến khi có một thỏa thuận
đệ trình tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài (trong tiếng Latin gọi là compromiso) cũng
phải được thiết lập. Một quy định tương tự cũng được thừa nhận ở Brazil với một khác biệt
nhỏ đó là, trong trường hợp điều khoản trọng tài có quy định về cách thức thành lập hội đồng
trọng tài và có dẫn chiếu đến quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài cụ thể. Và trong
nhiều trường hợp, quy tắc tố tụng của ICC vẫn được ưu tiên lựa chọn nhiều nhất bởi nó cung
cấp một điều khoản tương đương với compromiso mà quy tắc của các trung tâm khác thương
không có25.
Không kể đến khó khăn trong việc áp dụng như thực tiễn ở một số quốc gia châu Mỹ
Latin, hình thức thỏa thuận trọng tài này có ưu điểm là dễ dàng thống nhất được ý chí của các
bên. Bởi lẽ, khi tranh chấp chưa thực sự xảy ra, bên nào cũng có tư tưởng rằng có thể tranh
chấp sẽ phát sinh trong tương lai mà mình có thể là người bị thiệt hại, việc lựa chọn một hình
thức giải quyết tranh chấp sẽ bảo vệ được lợi ích của bản thân mình. Chính vì thế, các bên có
thể dễ dàng thống nhất về việc đưa tranh chấp sẽ phát sinh trong tương lai ra giải quyết bằng
trọng tài. Tuy nhiên, điều khoản trọng tài cũng có những nhược điểm riêng. Do nó được đặt
ra để giải quyết một tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai tức là trên thực tế tranh chấp
chưa thực sự phát sinh nên các bên không thể biết được tranh chấp sẽ xảy ra như thế nào, về
lĩnh vực gì, ai sẽ là người bị thiệt hại… việc này khiến cho các bên thường đưa ra một điều
24 Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Soạn thảo điều khoản trọng tài: Những điểm cần lưu ý. 25 Blackaby, Lindsey & Spinillo (2002), International Arbitration in Latin America, Kluwer Law International,
trang 12, 31-32 và 73; Naon (2004) “Arbitration and Latin America: Progress and Setbacks”, Freshfield
Lecture, Kluwer Law Arbitration, đoạn 149-152.
15
khoản miễn cưỡng, không chặt chẽ, đầy đủ và trong nhiều trường hợp dẫn đến việc không thể
áp dụng được.
2.2. Thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission
agreement)
Thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài có thể được coi như một hợp
đồng độc lập trong đó hai bên đồng ý đưa tranh chấp đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại ra
giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Thỏa thuận này thường dài hơn điều khoản trọng tài rất
nhiều và trong đó quy định chi tiết các thủ tục giải quyết tranh chấp từ việc cơ quan trọng tài
nào được lựa chọn để giải quyết tranh chấp, trọng tài sẽ diễn ra ở đâu, chi phí do bên nào
chịu, luật nào được áp dụng, xác định thẩm quyền của trọng tài thậm chí người ta có thể quy
định chi tiết các quy tắc tố tụng cụ thể mà các bên muốn áp dụng. Điều này hoàn toàn có thể
lí giải được bởi lẽ không như việc soạn thảo một điều khoản trọng tài, dự trù các tranh chấp
có thể phát sinh trong tương lai, việc soạn thảo thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài
liên quan đến một tranh chấp đã phát sinh trong thực tế do đó các bên hoàn toàn có thể lựa
chọn các phương án giải quyết phù hợp với vụ việc.
Cũng do hoàn cảnh soạn thảo thỏa thuận này nên nó có ưu điểm là dễ dàng lựa chọn
một “khung pháp lý” phù hợp để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do tranh chấp đã thực
sự xảy ra nên các bên có thể biết được sẽ cần phải giải quyết như thế nào, lựa chọn bao nhiêu
trọng tài viên, giải quyết tranh chấp ở đâu… điều này thuận lợi hơn nhiều so với việc dự báo
về một tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, trái ngược với điều khoản trọng
tài, thỏa thuận đệ trình có một nhược điểm là khó đạt được ý chí chung của hai bên bởi lẽ khi
tranh chấp đã thực sự xảy ra, bên vi phạm thường muốn trốn tránh trách nhiệm của mình, trì
hoãn quá trình giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, mỗi loại thỏa thuận có những đặc điểm và mục đích soạn thảo riêng và
từ đó phát sinh những ưu nhược điểm riêng. Sau khi nắm được đặc điểm cơ bản, mục đích
cũng như ưu nhược điểm của các loại thỏa thuận trọng tài có thể rút ra kết luận rằng dù cho
thỏa thuận trọng tài được lập trước hay sau khi tranh chấp thì thỏa thuận này vẫn luôn mang
tính riêng biệt và độc lập với các phần còn lại của hợp đồng26. Chính vì thể nó đòi hỏi một
26 Tính độc lập về hiệu lực hay tính riêng biệt của điều khoản trọng tài có nghĩa là điều khoản trọng tài trong
một hợp đồng được coi là tách biệt với hợp đồng chính có chưa điều khoản này, và theo đó kể cả hợp đồng
chính vô hiệu hoặc chấm dứt hiệu lực thì điều khoản trọng tài sẽ vẫn có hiệu lực. Đặc tính này được ghi nhận
16
quy chuẩn pháp lý riêng để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến nội dung, hình thức và đặc
biệt quan trọng là hiệu lực của thỏa thuận. Điều này cho thấy, việc xác định luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần được phải lưu tâm đến khi soạn
thảo một điều khoản trọng tài hay một thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
3. Tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài
Như đã từng nhắc đến ở phần trên, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng
quan trọng đối với tố tụng trọng tài. Nó là nền tảng, là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Cũng như tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng trải qua ba
giai đoạn: tiền tố tụng, tố tụng trọng tài và hậu tố tụng. Trong cả ba giai đoạn này, hội đồng
trọng tài đều phải xem xét đến thỏa thuận trọng tài để tìm ra các cơ sở pháp lý cho việc xét
xử. Để cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, phần
sau đây sẽ phân tích vai trò của thỏa thuận trong các giai đoạn tiền tố tụng, tố tụng và hậu tố
tụng của trọng tài.
3.1. Trong giai đoạn tiền tố tụng
Giai đoạn tiền tố tụng là khi hội đồng trọng tài chưa được thành lập mà thông
thường các trung tâm trọng tài (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài quy chế27) hoặc tòa
án (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc28) cần phải xem xét hiệu lực cũng như
nội dung của thỏa thuận trọng tài để thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp.
Câu hỏi đầu tiên mà trung tâm trọng tài hoặc tòa án cần phải tìm được câu trả lời đó
là giữa các bên có thỏa thuận trọng tài hay không? Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì vụ
việc không thể giải quyết bằng trọng tài trừ khi các bên bổ sung thỏa thuận này. Nếu giữa các
bên có tồn tại một thỏa thuận trọng tài đồng thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài
trong Điều 21.2 Quy tắc mẫu về Tố tụng trọng tài của UNCITRAL và điều 16(1) Luật mẫu về trọng tài thương
mại quốc tế của UNCITRAL. 27 Trọng tài quy chế là các bên lựa chọn cách thức tiến hành tố tụng trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng
tài quy chế và với sự giúp đỡ của tổ chức đó. (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) & Trung tâm
thương mại quốc tế (ITC) (2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, trang
89). 28 Trọng tài vụ việc là trọng tài không được tiến hành theo quy tắc của tổ chức trọng tài quy chế mà các bên có
thể tự do quy định quy tắc tố tụng riêng, hay nói cách khác trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it
yourself arbitration) (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) & Trung tâm thương mại quốc tế (ITC)
(2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, trang 99).
17
thì mới có thể xem xét đến các yếu tố khác trong thỏa thuận trọng tài để tiến hành các bước
sau của quy trình tố tụng. Như vậy, ngay từ bước đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, ta có thể nhận thấy rằng sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở để
thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu
giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết trọng chấp, nếu không có
thỏa thuận trọng tài thì chắc chắn tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài.
Tiếp theo, với sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài hoặc tòa án tiếp
tục cần xem xét đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Nếu thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì
quy trình tố tụng bị dừng lại, hội đồng trọng tài không thể được thành lập nếu các bên không
bổ sung thỏa thuận khác có hiệu lực thay thế. Một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực sẽ cung
cấp cơ sở để thành lập hội đồng trọng tài, xác định thẩm quyền của hội đồng, số lượng trọng
tài viên, địa điểm tiến hành trọng tài và ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng trọng tài.
Trong các vấn đề này thì thẩm quyền của hội đồng trọng tài là yếu tố đặc biệt quan
trọng, nó có thể ảnh hưởng đến việc phán quyết của trọng tài có được công nhận và thi hành
hay không. Trong đó, nếu điều khoản trọng tài không quy định khái quát một cách tối đa các
tranh chấp, nghĩa là tranh chấp không chỉ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, mà còn cả
những vấn đề về sự tồn tại, hiệu lực của hợp đồng, vi phạm và chấm dứt hợp đồng và các hệ
quả tài chính của hợp đồng thì hiệu lực của trọng tài đôi khi cũng bị ảnh hưởng bởi Hội đồng
trọng tài sẽ không đủ cơ sở để xác định thẩm quyền. Về nguyên tắc, một hội đồng trọng tài
chỉ có quyền hạn mà các bên trao cho nó, cho dù trực tiếp hay là ngầm ý, cùng với những
quyền hạn bổ sung khác được trao cho bởi luật pháp điều chỉnh thủ tục trọng tài29. Theo đó,
các trung tâm trọng tài thường khuyến khích các bên sử dụng điều khoản trọng tài mẫu, quy
định một cách khái quát nhất thẩm quyền của hội đồng trọng tài, chẳng hạn như:
• Điều khoản mẫu của Tòa trọng tài quốc tế London (London Court of
International Arbitration): Bất kỳ tranh chấp nào phát sinh từ hay có liên quan
với hợp đồng này, bao gồm bất kỳ vấn đề liên quan tới sự tồn tại, hiệu lực hay
sự chấm dứt của nó, sẽ được chuyển đến và giải quyết dứt khoát bằng trọng tài
29 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 2.55, trang 106-107.
18
theo các quy tắc của LCIA, các quy tắc được coi là kết hợp chặt chẽ bởi sự liên
quan tới điều khoản này30.
• Điều khoản mẫu của Tòa trọng tài quốc tế (International Court of Arbitration):
Mọi tranh chấp phát sinh từ hay có liên quan với hợp đồng hiện tại sẽ được giải
quyết dứt khoát theo các quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế bởi
một hay nhiều trọng tài viên được chỉ định phù hợp với các quy tắc đã đề cập31.
Nhìn chung, trong giai đoạn tiền tố tụng, thỏa thuận trọng tài chính là cơ sở để thành
lập hội đồng trọng tài đồng thời xác định thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết tranh
chấp. Nếu không có thỏa thuận trọng tài hay thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì không thể giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài và nếu thỏa thuận trọng tài không được soạn thảo một cách
cẩn thận thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng không còn hiệu quả nữa.
3.2. Trong quá trình tố tụng trọng tài
Giai đoạn tố tụng là giai đoạn sau khi hội đồng trọng tài đã được thành lập và tiến
hành các phiên điều trần và ra phán quyết để giải quyết vụ việc. Ở đây, việc tồn tại một thỏa
thuận giữa các bên đồng ý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã khước từ thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của tòa án của bất cứ quốc gia nào. Trong một chừng mực có thể, một thỏa
thuận trọng tài thương mại quốc tế phải có hiệu lực pháp lý trên toàn thế giới và không chỉ ở
nơi thỏa thuận được lập ra. Điều này được thừa nhận trong Nghị định thư Geneva năm 1923
về điều khoản trọng tài32, một trong những công ước quốc tế đa phương đầu tiên về trọng tài.
Điều 4 của Nghị định thư quy định rằng: tòa án của các quốc gia giao kết, khi thụ lý một vụ
tranh chấp mà có tồn tại thỏa thuận trọng tài được điều chỉnh bởi Nghị định thư, thì phải
hướng các bên về việc áp dụng quyết định của trọng tài33. Nói một cách khái quát, một khi đã
có thỏa thuận trọng tài thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án sẽ bị khước từ. Hơn
30 Thông tin từ trang web của Trung tâm trọng tài quốc tế London (LCIA):
http://www.lcia.org//Dispute_Resolution_Services/LCIA_Recommended_Clauses.aspx 31 Thông tin từ trang web của Tòa trọng tài quốc tế (ICA): http://www.iccwbo.org/court/arbitration/ 32 Xem lại Footnote số 3. 33 Nguyên văn bằng tiếng Anh: The tribunals of the Contracting Parties, on being seized of a dispute regarding
a contract made between persons to whom Article 1 applies and including an arbitration agreement whether
referring to present or future differences which is valid in virtue of the said article and capable of being carried
into effect, carried into effect, shall refer the parties on the application of either of them to the decision of the
arbitrators.
19
nữa, trong quá trình giải quyết vụ việc, một khi trọng tài đã thụ lý vụ việc theo thẩm quyền
được quy định trong thỏa thuận trọng tài thì tòa án không có khả năng tham gia vào nữa, trừ
một số trường hợp đặc biệt (các biện pháp khẩn cấp).
Bên cạnh đó, một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài đó là xác định luật áp dụng. Và trong giai đoạn này, thỏa thuận
trọng tài cũng là cơ sở để xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật áp dụng cho tố
tụng trọng tài cũng như luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp tranh chấp. Các loại luật áp
dụng này xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Khi
thực hiện hợp đồng, các bên cần phải biết luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các điều khoản
hợp đồng không phải lúc nào cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các
bên. Và trong quá trình tố tụng, trọng tài viên cũng cần phải xác định luật áp dụng cho nội
dung vụ tranh chấp thì mới có thể giải quyết vụ việc một cách công bằng và hợp lý nhất dựa
trên pháp luật mà các bên đã lựa chọn.
Ngoài ra trong một số trường hợp, người ta cũng dựa vào thỏa thuận trọng tài để xác
định trình tự tiến hành trọng tài. Quá trình tiến hành tố tụng trọng tài quốc tế có thể được tiến
hành theo nhiều cách khác nhau và không có quy định nào về một trình tự cố định. Các quy
định chi tiết về trình tự các thao tác tiến hành trọng tài sẽ được lập ra bởi thỏa thuận của các
bên đương sự hoặc theo sự chỉ dẫn của tòa án hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố trên. Việc
thỏa thuận về trình tự tiến hành tố tụng trọng tài để đáp ứng yêu cầu hợp lý của các bên. Tuy
nhiên việc lựa chọn trình tự tiến hành trọng tài không phải hoàn toàn tự do phụ thuộc vào ý
chí của các bên mà có một số giới hạn nhất định. Chẳng hạn như việc lựa chọn của các bên
phải phù hợp với những yêu cầu về chính sách chung của luật nơi tiến hành trọng tài và tính
đến những điều khoản trong các công ước quốc tế để đảm bảo trình tự được tiến hành một
cách công bằng.
Ở giai đoạn tố tụng trọng tài, thỏa thuận trọng tài đóng vai trò là “bằng chứng” để
khước từ thẩm quyền của tòa án can thiệp vào việc giải quyết tranh chấp đồng thời cũng là
nguồn để xác định luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp và đôi khi còn đóng vai trò là
cơ sở xác định các trình tự tiến hành trọng tài.
3.3. Trong giai đoạn hậu tố tụng
Sau khi phán quyết của trọng tài được quyết định thì quá trình tố tụng trọng tài vẫn
chưa hẳn chấm dứt mà bước vào giai đoạn hậu tố tụng. Ở giai đoạn này, hiệu lực và nội dung
20
của thỏa thuận trọng tài có thể ảnh hưởng tới việc hủy phán quyết của trọng tài tại nơi ban
hành phán quyết hoặc yêu cầu tòa án công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài ở một
quốc gia và xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án.
Theo Điều 34 khoản 2, Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL,
quy định các căn cứ để tòa án có thể hủy phán quyết của trọng tài, trong đó các nhắc đến: Một
quyết định chỉ có thể bị toà án hủy bỏ theo qui định tại điều 6 trong trường hợp:
Bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng:
(i) Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài theo qui định tại điều 7 không
đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị
pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của nước nơi
quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ; hoặc
…
(ii) Quyết định giải quyết tranh chấp không được qui định hoặc không nằm trong
phạm vi các điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hoặc quyết
định này bao gồm những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả
thuận trọng tài giải quyết…; hoặc
(iii) Thành phần của hội đồng trọng tài hoặc tố tụng trọng tài không phù hợp với
thoả thuận giữa các bên…
Theo điều khoản này, nếu như thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý hoặc hội
đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền được quy định trong thỏa thuận trọng tài hoặc thành phần
của hội đồng trọng tài và các thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận trọng tài thì phán
quyết có thể bị một bên yêu cầu tòa án hủy. Qua đó, ta thấy được giá trị pháp lý cũng như nội
dung của thỏa thuận trọng tài đóng vai trò quyết định trong việc một phán quyết có thể bị hủy
hay không. Trường hợp, công nhận và thi hành phán quyết cũng được quy định tương tự, ta
có thể tìm thấy điều này tại Điều 36 khoản 1 điểm a của Luật mẫu về các cơ sở để từ chối
việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài ở nước ngoài và tại Điều 5 Công ước New
York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết các quyết định trọng tài nước ngoài.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn hậu tố tụng, nếu như phán quyết của trọng tài bị hủy vì
lí do liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài mà các bên không có thỏa thuận bổ sung
thì tòa án có thể có quyền giải quyết vụ tranh chấp và phán quyết của tòa án sẽ là phán quyết
cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
21
Như vậy, sau khi phán quyết đã được ra, trước khi khép lại quá trình tố tụng trọng
tài, ở giai đoạn hậu tố tụng, thỏa thuận trọng tài vẫn đóng một vai trò vô cùng quan trọng bởi
nó là căn cứ để xác định phán quyết có thể bị hủy hay không, có thể được công nhận và thi
hành ở nước ngoài hay không và cuối cùng là tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp
hay không.
***
Tóm lại, Tòa trọng tài có thể được coi là một tòa án tư nhân mà trong đó các bên
được quyền “đề ra luật” của mình. Các thủ tục tố tụng trọng tài sẽ được xem như là một biểu
hiện của ý muốn của các bên, trên cơ sở tự chủ của các bên. Các bên tham gia trọng tài chính
là người tạo ra trọng tài mà trong đó thỏa thuận trọng tài là công cụ để các bên thể hiện ý
muốn của mình. Thỏa thuận trọng tài chính là “luật” của các bên đề ra. Các bên có thể được
ví như những người thợ may. Nếu hiểu rõ các nhu cầu của mình, các bên sẽ thiết kế cho mình
chiếc áo vừa vặn, thuận tiện và hợp thời trang nhất34. Để tranh chấp phát sinh được giải quyết
một cách nhanh chóng và hiệu quả thì vai trò của thỏa thuận trọng tài là vô cùng quan trọng
hay nói đúng hơn nó là một yếu tố không thể thiếu được trong việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Việc xác định một cách đúng đắn tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài sẽ
khiến các bên đạt được mong muốn của mình trong việc sử dụng biện pháp trọng tài thương
mại quốc tế như một biện pháp giải quyết tranh chấp.
4. Luật áp dụng ảnh hưởng thế nào đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài?
Như đã phân tích ở trên, thỏa thuận trọng tài có một vai trò vô cùng quan trọng trong
các giai đoạn của tố tụng trọng tài và là nền tàng của tố tụng trọng tài. Có thể thấy rằng, hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài là một vấn đề xuyên suốt mà có thể ảnh hưởng đến sự thành lập
của hội đồng trọng tài cũng như việc công nhận, thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
hay là hủy phán quyết của trọng tài. Tuy nhiên, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài lại bị chi
phối rất nhiều bởi luật áp dụng cho nó. Có thể thỏa thuận trọng tài là vô hiệu theo luật pháp
của nước này vì lí do này nhưng theo một hệ thống pháp luật khác nó vẫn có hiệu lực đầy đủ.
Điều này khẳng định tầm quan trọng của việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài,
có xác định được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài mới có thể xác định rằng thỏa thuận
đó vô hiệu hay là có hiệu lực dưới luật pháp mà điều chỉnh nó. Phần dưới đây sẽ phân tích
34 Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Soạn thảo điều khoản trọng tài: Những điểm cần lưu ý.
22
những yếu tố tạo nên một thỏa thuận trọng tài mà có thể bị chi phối bởi luật áp dụng cho thỏa
thuận đó.
4.1. Năng lực giao kết của chủ thể
Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và năng lực giao kết của chủ thế nhiều khi có
thể không phải cùng một hệ thống luật nhưng chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Một thỏa thuận trọng tài phải hợp pháp theo luật áp dụng cho nó để có hiệu lực đồng thời chủ
thể giao kết thỏa thuận đó cũng phải có đầy đủ năng lực chủ thể để ký kết hợp đồng35.
Trong khi các bên giao kết thỏa thuận trọng tài có thể tự do lựa chọn luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài, họ không có khả năng lựa chọn luật áp dụng cho năng lực giao kết
thỏa thuận của chính mình. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề xác định luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài và luật áp dụng cho năng lực giao kết của chủ thể thường được đặt ra cùng
một lúc nhưng cách lựa chọn pháp luật áp dụng lại khác nhau. Luật điều chỉnh năng lực giao
kết của chủ thể thường được lựa chọn dựa vào quy tắc xung đột của nước có tòa án đang có
thẩm quyền giải quyết vụ việc36. Và theo các quy tắc xung đột pháp luật đó thì hầu hết nó đều
dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của nước mà các bên mang quốc tịch hoặc các bên cư trú đối
với cá nhân và luật quốc tịch đối với pháp nhân. Trong một số trường hợp, luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài và luật điều chỉnh năng lực giao kết của chủ thể có thể là một nếu như
các bên thống nhất lựa chọn luật quốc tịch của một bên làm luật áp dụng cho thỏa thuận trọng
tài. Tuy nhiên, trường hợp này thường ít xảy ra vì sự thống nhất lựa chọn như vậy là rất khó
khăn. Đôi khi, các trọng tài viên khi giải quyết vấn đề năng lực chủ thể ký kết thỏa thuận
trọng tài có thể kết hợp các quy tắc xung đột quốc gia nơi diễn ra trọng tài với các quy tắc
xung đột trong các điều ước quốc tế về trọng tài được thừa nhận rộng rãi trên thế giới để tìm
ra một quy tắc xung đột chung cho việc xác định năng lực chủ thể ký kết thoả thuận trọng
tài37. Quy tắc chung này thường là luật quốc tịch của các bên (đối với cả cá nhân và pháp
nhân).
35 Theo Điều 34 khoản 1 điểm a(i) Luật mẫu về trọng tài quốc tế của UNCITRAL, Điều 36 khoản 1 điểm a(i)
Luật mẫu về trọng tài quốc tế của UNCITRAL và Điều 5 Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài. 36 David st.John sutton Judith Gill (2003), Russell on Arbitration, Sweet and Maxwell, trang 69 37 Okezie Chukwumerije (1994), Choice of law in international commercial arbitration, Quorum Books
Westport, Conecticut law, trang 40.
23
Qua đó, ta có thể thấy rằng, luật áp dụng cho năng lực kí kết của chủ thể và luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài có mối quan hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình
khẳng định hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài.
4.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Như đã phân tích ở trên, hình thức của thỏa thuận trọng tài là một yếu tố bị chi phối
khá nhiều bởi luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài ngay từ đầu có thể giảm bớt cho các bên rủi ro về việc thỏa thuận trọng tài có
thể bị vô hiệu do không thỏa mãn yêu cầu về hình thức đối với luật áp dụng cho nó.
Chẳng hạn như yêu cầu về “thỏa thuận bằng văn bản”, luật pháp của các nước cũng
rất khác nhau38. Theo tinh thần của công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài thì nội hàm của khái niệm này bị bó hẹp hơn với yêu cầu văn
bản buộc phải được kí bởi các bên. Tuy nhiên, các hệ thống pháp luật hiện đại ngày nay, như
Anh, Thụy Sỹ hay Hà Lan thì lại có hướng mở rộng khái niệm này bằng việc thừa nhận
những hình thức văn bản điện tử như thư tín, telex hay email, thậm chí còn công nhận việc
thỏa thuận bằng lời nói miễn là có thể ghi lại được.
Chính vì sự quy định khác nhau này, một thỏa thuận văn bản có thể thỏa mãn yêu
cầu về hình thức theo luật pháp của nước này nhưng lại không thỏa mãn theo luật pháp của
nước khác và do đó có thể trở thành vô hiệu và không thể thực hiện được. Từ đó có thể thấy
việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu lực của thỏa
thuận đó.
4.3. Mối quan hệ pháp lý giữa các bên
Một trong những điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực là phải có mối quan hệ
pháp lý ràng buộc giữa hai bên. Theo Công ước New York 1958 và Luật mẫu về trọng tài
thương mại quốc tế của UNCITRAL, mối quan hệ pháp lý giữa các bên có thể phát sinh từ
hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng39. Nhưng pháp luật của các quốc gia cũng quy định khác nhau
về vấn đề này, một số quốc gia không hề nhắc đến mối quan hệ ngoài hợp đồng, chẳng hạn
38 Xem lại phần 1 về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật quốc tế và luật pháp của
các quốc gia. 39 Điều II khoản 1 Công ước New York và Điều 7 Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL.
24
như Pháp lệnh trọng tài Việt Nam năm 2003, trong phần định nghĩa về thỏa thuận trọng tài
(Điều 2 khoản 2), Pháp lệnh chưa làm rõ được vấn đề tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài
hợp đồng có được giải quyết bằng Trọng tài hay không. Vấn đề này có thể ảnh hưởng đến
thẩm quyền của trọng tài và do đó có thể ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
4.4. Vụ việc có khả năng giải quyết bằng trọng tài
Khả năng giải quyết tranh chấp bàng trọng tài liên quan đến việc quyết định xem
loại tranh chấp nào có thể giải quyết bằng trọng tài và loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền
của tòa án40. Cả Công ước New York 1958 và Luật mẫu đều quy định rằng thỏa thuận trọng
tài chỉ có hiệu lực khi tranh chấp được đưa ra trọng tài có khả năng giải quyết bằng trọng tài.
Vấn đề này cũng được quy định khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ, Điều 2059 Bộ
luật Dân sự Pháp quy định rằng: “Tất cả các bên có thể tham gia vào một thỏa thuận trọng
tài có liên quan đến quyền mà họ có có thể tự do quyết định”. Bên cạnh đó, Điều 2060 của
Bộ luật này lại quy định rằng: “Các bên không thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài trong một số lĩnh vực cụ thể và trong tất cả các vấn đề liên quan đến trật tự công
cộng”41. Tuy nhiên giới hạn này thường được các tòa án ở Pháp giải thích rất hạn hẹp và mơ
hồ. Cũng tương tự, Điều 1030 Bộ luật tố tụng dân sự Đức quy định, các khiếu nại liên quan
đến lợi ích kinh tế có thể giải quyết bằng trọng tài còn những khiếu nại không liên quan đến
lợi ích kinh tế mà các bên có thể tự do quyết định thì không thể đưa ra trọng tài giải quyết.
Qua đó, ta có thể thấy rằng, việc một tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài hay không
thường liên quan đến các chính sách công của nhà nước và do từng quốc gia quyết định. Nếu
như theo pháp luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài mà một tranh chấp không thể giải quyết
theo thủ tục trọng tài thì thỏa thuận trọng tài đó có thể không được công nhận và không được
thực hiện. Mặc dù người ta cũng thường dẫn chiếu các nguồn luật khác (luật quốc tịch của
các bên liên quan, luật của địa điểm tiến hành trọng tài, luật của nơi thi hành phán quyết của
trọng tài) nhưng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vẫn đóng một vai trò quan trọng trong
việc xác định khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Nhìn chung, luật pháp các nước thường có các quy định khác nhau về các yếu tố để
một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và điều này dẫn đến việc thỏa thuận trọng tài có thể vô
40 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 2.112, trang 123. 41 Nguyên văn bằng tiếng Pháp: Plus généralement dans toutes les matières qui interssent l’ordre public
25
hiệu hoặc có hiệu lực pháp lý theo từng hệ thống luật khác nhau. Hay nói cách khác, hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có một mối quan hệ mật thiết
và không thể tách rời. Các bên trong tranh chấp thường quên đi vấn đề luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài khi soạn thảo thỏa thuận này và họ chỉ thực sự nhận ra hậu quả sự thiếu sót
này khi phán quyết của trọng tài bị tòa án hủy hoặc không được công nhận và thi hành tại
nước khác vì lí do thỏa thuận trọng tài không hợp pháp theo luật áp dụng cho nó. Chính vì thế
việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là một vấn đề cần được chú trọng nếu
muốn đạt được tính hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
***
Trên đây là những nội dung cơ bản nhất về thỏa thuận trọng tài, tầm quan trọng của
nó cũng như là mối quan hệ của hiệu lực của thỏa thuận trọng tài với luật áp dụng cho nó.
Sau khi đã nắm được những vấn đề nền tảng như trên, chương tiếp theo sẽ phân tích cụ thể
những tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và những xu hướng thường
được các tòa án và các hội đồng trọng tài lựa chọn trong những tranh chấp thực tế. Qua đó có
thể rút ra được ưu và nhược điểm của từng tiêu chí lựa chọn để có thể đưa ra phương án sửa
đổi thích hợp cho luật pháp về trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam.
26
CHƯƠNG II
LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
Trong khi soạn thảo thỏa thuận trọng tài, người ta thường để ý đến các vấn đề như địa
điểm trọng tài, số lượng trọng tài viên, ngôn ngữ trọng tài… mà thường quên đi một vấn đề
vô cùng quan trọng đó là luật áp dụng. Và trong nhiều trường hợp, mặc dù có chú ý lưu tâm
đến việc lựa chọn luật áp dụng, nhưng các bên kí kết hợp đồng vẫn “bỏ quên” việc lựa chọn
luật áp dụng để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài vì họ không ý thức được tầm quan trọng của
lựa chọn này đối với thỏa thuận trọng tài sau này. Nhưng như đã phân tích ở trên, việc lựa
chọn luật áp dụng cho luật trọng tài có thể ảnh hưởng rất lớn tới hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài đó. Bên cạnh đó, thỏa thuận trọng tài thường được coi là một hợp đồng có tính chất độc
lập và riêng biệt, dù nó ở dưới hình thức điều khoản trọng tài hay là thỏa thuận đưa tranh
chấp ra giải quyết bằng trọng tài, chính vì thế việc xác định luật áp dụng riêng cho nó là điều
cần thiết nếu như không nói là không thể thiếu. Nội dung chương này sẽ đi sâu vào việc phân
biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài với các luật áp dụng khác trong trọng tài đồng thời
phân tích các phương thức lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, thực tiễn về luật
điều chỉnh thỏa thuận trọng tài ở một số quốc gia và cuối cùng là phân tích ưu và nhược điểm
của từng phương thức. Từ đó có thể chứng minh được tầm quan trọng của việc lựa chọn luật
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong tố tụng trọng tài và rút ra bài học để hoàn thiện vấn đề
này trong luật Việt Nam.
1. Phân biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật thủ tục trọng tài và
luật nội dung trọng tài
Trên thực tế, có những tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài mà không hề dẫn
chiếu đến một hệ thống pháp luật nào. Các trọng tài viên hoàn toàn dựa vào hợp đồng và
những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là trường hợp thường xảy ra đối với
các hợp đồng kinh tế dài hàng trăm trang quy định đầy đủ và cụ thể những điều các bên được
phép làm hay không được phép làm... Tuy nhiên, những tranh chấp có thể xảy ra ở bất cứ một
thời điểm nào về bất cứ một vấn đề gì mà ngay cả những luật sư giỏi nhất, những chuyên gia
kinh tế hàng đầu đôi khi cũng không thể lường trước được. Chính vì thế, việc xác định luật áp
dụng trong hợp đồng là một việc nên làm và không bao giờ là thừa. Thẩm phán McNair,
nguyên chủ tịch của Tòa án công lý quốc tế ICJ đã thừa nhận: “Người ta thường cho rằng
các bên trong hợp đồng thường tạo ra luật riêng của họ và đương nhiên rằng miễn rằng luật
đó phải phù hợp với các chính sách công (còn gọi là ordre public theo tiếng Pháp), các bên
27
có quyền tự do thỏa thuận về những điều khoản mà họ có thể lựa chọn. Tuy nhiên, các thỏa
thuận được dự kiến có hiệu lực pháp luật sẽ tạo ra những quyền và nghĩa vụ pháp luật, và
các quyền và nghĩa vụ pháp luật đó không thể tồn tại trong một môi trường không có pháp
luật (lỗ hổng pháp luật) mà phải có một vị trí trong một hệ thống pháp luật mà luôn sẵn sàng
giải quyết các vấn đề như hiệu lực, việc áp dụng và giải thích hợp đồng và nhìn chung là để
bổ sung những điều khoản được quy định rõ ràng”42.
Qua đó ta có thể thấy rằng, mặc dù các bên được tự do quy định về quyền và nghĩa vụ
của mình nhằm tạo ra một “luật riêng” điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa họ trong hợp
đồng, tuy nhiên, việc xác định luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn được
coi là một vấn đề vô cùng quan trọng và không thể bỏ qua. Nhiều người thường xem nhẹ việc
lựa chọn luật áp dụng và không ghi rõ điều khoản lựa chọn luật áp dụng trong hợp đồng cũng
như trong thỏa thuận trọng tài. Điều này dẫn đến việc tranh chấp trở nên phức tạp hơn vì hội
đồng trọng tài lại phải đi xem xét xem luật nào được áp dụng, khiến cho quá trình giải quyết
tranh chấp kéo dài, gây tốn kém chi phí.
Tuy nhiên, khi nhận thức được tầm quan trọng của luật áp dụng, còn một điều cũng
quan trọng không kém đó là phải lựa chọn cho đúng luật cần chọn. Nếu như trọng tài trong
nước thường chỉ bị chi phối bởi hệ thống pháp luật của chính quốc gia đó thì trọng tài thương
mại quốc tế lại phức tạp hơn nhiều. Bởi các bên đến từ nhiều quốc gia khác nhau, hợp đồng
cũng được kí kết và thực hiện ở nhiều địa điểm, hơn nữa trọng tài có thể được tổ chức ở một
địa điểm trung gian và không liên quan đến bất cứ bên nào. Trong thực tế, việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài có thể bị ảnh hưởng bởi ít nhất năm hệ thống pháp luật khác nhau
như sau43: Luật điều chỉnh năng lực giao kết của chủ thể44; Luật điều chỉnh thỏa thuận trọng
tài; Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài; Luật điều chỉnh nội dung của vụ tranh chấp và Luật
điều chỉnh về việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài.
Trong đó, có 3 loại luật quan trọng nhất nhưng lại thường bị nhầm lẫn với nhau đó là
Luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (luật hình thức) và luật
điều chỉnh nội dung của vụ tranh chấp (luật nội dung). Ba loại luật này thường có mối quan
hệ phức tạp, nó chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau. Và tùy theo pháp luật của từng quốc gia, một
42Oxford University Press (1957) , “The General Principles of Law Recognised by Civilised Nations”, Bristish
Yearbook of International Law (33), 1 trang 7. 43 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 3.07, trang 165. 44 Đã phân tích ở chương I
28
vấn đề có thể được quy là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, luật hình thức hay luật nội
dung. Tuy nhiên, theo hệ thống pháp luật của một số quốc gia phát triển, người ta cũng thừa
nhận những vấn đề nhất định được điều chỉnh bởi loại luật nào.
Nhìn chung, các bên cần phải phân biệt được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài,
luật thủ tục trọng tài và luật áp dụng giải quyết nội dung vụ tranh chấp. Phần này sẽ chú trọng
phân biệt giữa 3 loại luật áp dụng khác nhau như trên trong đó đi sâu phân tích và giải thích
thế nào là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và luật này sẽ điều chỉnh những vấn đề gì?
1.1. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài
Luật hình thức hay luật điều chỉnh tố tụng trọng tài là một nhóm quy tắc thiết lập các
tiêu chuẩn về hình thức của trọng tài đồng thời thể hiện mong muốn của các bên về quy trình
tiến hành trọng tài và các vấn đề khác liên quan. Thẩm phán Justice Steyn, tòa thương mại
Queen’s bench Division45, trong vụ Paul Smith Ltd v H&S International Holding Inc đã thừa
nhận luật điều chỉnh tố tụng trọng tài “...là một bộ quy tắc đặt ra chuẩn mực về cách thức
tiến hành tố tụng trọng tài mà nằm ngoài phạm vi của điều khoản trọng tài và mong muốn
của các bên. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài bao gồm các quy tắc điều chỉnh các biện pháp
tạm thời (ví dụ, tòa án ra lệnh bảo quản và lưu kho hàng hóa), các quy tắc cho phép Tòa án
thực thi các biện pháp hỗ trợ nhằm giúp đỡ trọng tài khi khó khăn (ví dụ, bổ sung vị trí còn
khuyết trong hội đồng trọng tài nếu không có cơ chế nào khác) và các quy tắc quy định Tòa
án có thẩm quyền giám sát đối với trọng tài (ví dụ thay trọng tài viên có hành vi sai trái”46.
Theo đó, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài có ảnh hướng đáng kể đến quá trình tố
tụng trọng tài. Đặc biệt, luật này có thể yêu cầu một số thủ tục trọng tài cần phải được áp
dụng hoặc ngăn cản các trọng tài viên sử dụng các quy trình tố tụng khác. Luật tố tụng trọng
tài có thể trực tiếp chi phối về các vấn đề khác nhau phát sinh trong quá trình tố tụng trọng
tài. Các vấn đề được điều chỉnh bởi luật tố tụng trọng tài có thể rất khác nhau tùy theo các
quốc gia cũng như quy chế của các trung tâm trọng tài khác nhau. Nhìn chung, các vấn đề có
thể được điều chỉnh bởi luật tố tụng trọng tài bao gồm:
- Quyền tự quyết của các bên về các vấn đề nội dung và hình thức trong trọng tài.
45 Là tòa án cấp cao trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ailen có thẩm quyền trong một số lĩnh vực. Đây là
một trong những tòa án cổ của các nước thuộc Khối thịnh vượng chung (Common Wealth), hiện nay nó là một
bộ phận của Tòa án tư pháp tối cao của Anh và xứ Wales. 46 Phán quyết của Queen's Bench Division (Tòa thương mại) thẩm phán Justice Steyn, Paul Smith Ltd. v. H&S
International Holding Inc, trang 130.
29
- Trách nhiệm, tiêu chuẩn đạo đức, tiêu chuẩn chỉ định và khước từ trọng tài viên
- Mức độ giám sát hoặc can thiệp của tòa án vào thủ tục tố tụng trọng tài
- Quyền của luật sư xuất hiện tại tòa trọng tài và các nghĩa vụ đạo đức của họ.
- Các nguyên tắc bào chữa
- Các nguyên tắc về chứng cứ
- Lời tuyên thệ trước tòa trọng tài
- Cách tiến hành phiên điều trần
- Quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của trọng tài viên bao gồm cả
các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Hình thức và sự ban hành phán quyết
Việc xác định luật thủ tục thường được tiến hành ngay sau khi tranh chấp được đưa
ra giải quyết bằng trọng tài. Điều này cũng có ảnh hưởng đến việc công nhận và thi hành
phán quyết của trọng tài sau này.
1.2. Luật áp dụng để giải quyết nội dung tranh chấp
Sau khi vấn đề về thủ tục đã được giải quyết, hội đồng trọng tài bắt đầu xem xét các
sự việc liên quan để giải quyết vụ tranh chấp. Việc này được thực hiện thông qua việc kiểm
tra thỏa thuận trong hợp đồng giữa các bên về quyền và nghĩa vụ của từng bên cũng như rà
soát các tài liệu có liên quan khác (chứng từ, biên lai...). Tuy nhiên, như đã được phân tích ở
phần trên, hợp đồng giữa các bên luôn tồn tại trong một môi trường pháp luật và nó phải
được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật nào đó bởi lẽ đôi khi chỉ hợp đồng không thể quy
định đầy đủ tất cả về nội dung vụ tranh chấp, những “lỗ hổng” nhất định cần phải được lấp
bằng các quy phạm pháp luật của một hệ thống luật cụ thể, người ta gọi đó là “luật áp dụng
để giải quyết tranh chấp”, “luật điều chỉnh nội dung vụ tranh chấp” hay gọi tắt là “luật nội
dung” (để phân biệt với luật hình thức).
Do đó, phần việc quan trọng tiếp theo của hội đồng trọng tài là xác định luật điều
chỉnh nội dung vụ tranh chấp để trực tiếp giải quyết tranh chấp. Luật điều chỉnh nội dung vụ
tranh chấp là hệ thống pháp luật hoặc nguyên tắc pháp luật được áp dụng để giải quyết thực
chất nội dung vụ tranh chấp. Trong vụ Compagnie d'Armement Maritime S.A. v Compagnie
Tunisienne de Navigation S.A., thẩm phán Diplock đã thừa nhận rằng: luật áp dụng cho nội
30
dung vụ tranh chấp “... là hệ thống pháp luật điều chỉnh việc giải thích và hiệu lực của hợp
đồng, phương thức thực hiện hợp đồng và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng”47. Đối với
trọng tài trong nước, việc xác định luật nội dung là vô cùng đơn giản, bởi chắc chắn hợp đồng
sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp của chính quốc gia đó. Nhưng như đã phân tích ở trên, chính
bởi yếu tố “quốc tế” mà luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp trong trọng tài thương mại
quốc tế là vô cùng phức tạp. Hầu như lúc nào cũng có nhiều hơn hai hệ thống pháp luật có thể
điều chỉnh nội dung của tranh chấp trong trọng tài thương mại quốc tế nếu như các bên không
bày tỏ ý định lựa chọn luật nội dung ngay từ đầu. Mà ngay bản thân các hệ thống luật này
nhiều lúc còn mâu thuẫn lẫn nhau trong lĩnh vực đang tranh chấp, điều này càng khiến cho
việc xác định luật áp dụng cho nội dung của trọng tài viên trở nên khó khăn hơn.
Việc xác định luật nội dung có thể được thực hiện bằng việc xem xét thỏa thuận giữa
hai bên hoặc các văn bản có liên quan khác. Trong trường hợp nếu không có các văn bản xác
định được luật nội dung thì trọng tài viên có thể xác định luật nội dung áp dụng dựa trên một
số nguyên tắc nhất định. Sau đó, bản án mới được đưa ra dựa trên các sự thật, bằng chứng
được tìm ra nhờ luật áp dụng đó.
1.3. Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Đây là loại luật áp dụng thường ít được chú ý và ít được quy định nhất trong việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế. Như đã bàn ở phần trên, dù thỏa
thuận trọng tài được lập dưới hình thức nào, là điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh
chấp ra giải quyết bằng trọng tài, thì nó cũng có tính độc lập với phần còn lại của hợp đồng.
Chính vì thế, thỏa thuận trọng tài có thể được coi như một hợp đồng độc lập và do đó nó cần
có một hệ thống pháp luật điều chỉnh nó. Vì thỏa thuận trọng tài có thể ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu lực của phán quyết trọng tài sau này nên việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận
trọng tài là việc làm quan trọng và cần thiết để thỏa thuận trọng tài luôn có hiệu lực đầy đủ,
rõ ràng và không thể tranh cãi.
Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài là luật được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề
liên quan tới thoả thuận trọng tài như hình thức của thỏa thuận trọng tài, tính hợp pháp, hiệu
lực, phạm vi, và huỷ bỏ thoả thuận trọng tài. Nó thường giải quyết các câu hỏi liên quan tới
các điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài, khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng
47 Thẩm phán Diplock, Compagnie d'Armement Maritime S.A. v Compagnie Tunisienne de Navigation S.A.,
House of Lords, [1970] 3 W.L.R. 389, đoạn 603.
31
tài của các vấn đề liên quan, sự tự nguyện trong mối quan hệ hợp đồng chứa đựng điều khoản
trọng tài đó, khả năng của trọng tài viên được quyết định về thẩm quyền của chính họ... Bên
cạnh đó, với các trường hợp như ở các nước Mỹ Latin đã phân tích ở trên thì luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài còn xem xét liệu có cần thiết có thêm một thỏa thuận đồng ý đưa tranh
chấp lên giải quyết bằng trọng tài bổ sung cho điều khoản trọng tài có sẵn trong hợp đồng hay
không?
***
Các tiểu mục trên đã cho ta thấy một cái nhìn tổng quan về từng loại luật, tầm quan
trọng của việc lựa chọn chúng cũng như các vấn đề mà từng loại luật điều chỉnh. Mặc dù luật
pháp của các quốc gia có thể có những quy định khác nhau về việc vấn đề nào được luật nào
điều chỉnh nhưng nhìn chung, không khó để có thể phân biệt 3 loại luật này. Có thể tóm gọn
nội dung của các loại luật như sau:
• Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài (luật điều chỉnh tố tụng trọng tài, luật hình
thức): thường điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thủ tục trong quá trình tiến
hành tố tụng trọng tài.
• Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp (luật điều chỉnh nội dung tranh chấp,
luật nội dung): điều chỉnh các vấn đề thực chấp của tranh chấp, là cơ sở để trọng
tài đi đến phán quyết cuối cùng.
• Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài (luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài): điều
chỉnh các vấn đề liên quan đến hình thức, hiệu lực, việc thực hiện và hủy bỏ thỏa
thuận trọng tài.
2. Khi nào cần xem xét luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Vì luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài điều chỉnh các vấn đề cơ bản liên quan đến
việc giải thích, tính hợp pháp, hiệu lực, phạm vi và việc hủy bỏ thỏa thuận nên việc xác định
luật áp dụng này có thể đặt ra trong bất cứ giai đoạn nào của tranh chấp. Trước khi thành lập
hội đồng trọng tài hay kể cả khi hội đồng trọng tài đang giải quyết tranh chấp và chưa đưa ra
phán quyết cuối cùng, một bên có quyền phản đối thẩm quyền của trọng tài thì người ta cũng
phải xem xét đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để xem thỏa thuận đó có hiệu lực hay
không. Đồng thời, khi phán quyết đã được đưa ra, các bên muốn công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài tại nước ngoài, khi đó tòa án cũng cần xem xét hiệu lực của thỏa thuận
32
trọng tài để xét công nhận hay không công nhận phán quyết của trọng tài. Phần này sẽ phân
tích hai trường hợp đặt ra yêu cầu xác định luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài.
2.1. Khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài
Như đã phân tích ở trên, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để hội đồng trọng tài xác định
thẩm quyền của mình, do đó khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài, họ
thường viện dẫn lí do thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực. Khi đó, hội đồng trọng tài sẽ
phải xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để xem thỏa thuận đó có hiệu lực đối với
luật áp dụng cho nó hay không. Trong trường hợp này, có thể chia thành hai trường hợp nhỏ
hơn đó là: khi hội đồng trọng tài chưa được thành lập, một bên (thường là bị đơn) có thể gửi
yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài cùng với các văn bản và tài liệu có liên quan tới
trung tâm trọng tài giải quyết vụ việc (trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài quy chế)
hoặc tới tòa án (trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài vụ việc). Việc này đồng nghĩa
với việc không thừa nhận việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thứ hai, khi hội đồng
trọng tài đã được thành lập và đang trong quá trình giải quyết tranh chấp nhưng chưa đưa ra
phán quyết cuối cùng, các bên có thể đưa ra phản đối thẩm quyền của trọng tài bất cứ lúc nào.
Trong cả hai trường hợp nhỏ này, dù hội đồng trọng tài đã được thành lập hay chưa thì họ
vẫn có quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến thẩm quyền của chính mình (theo
nguyên tắc competence-competence, thẩm quyền về thẩm quyền được thừa nhận bởi phần lớn
các quốc gia văn minh có hệ thống pháp luật phát triển48).
Việc phản đối thẩm quyền của hội đồng trọng tài hay phản đối hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài rất đa dạng, đó có thể là sự viện dẫn sự không rõ ràng trong lựa chọn tòa án
hay trọng tài trong thỏa thuận trong tài hay lựa chọn một tổ chức trọng tài không có thực...
Và lúc này việc thiết yếu là phải dựa vào thỏa thuận trọng tài và xác định hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài dựa trên luật áp dụng cho nó. Nếu thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực thì
48 Competence de la competence (competence of competence hay competence-competence hoặc kompetenz-
kompetenz) là nguyên tắc thẩm quyền về thẩm quyền. Thẩm quyền của một trọng tài viên tự quyết định thẩm
quyền của mình. Trọng tài viên có quyền quyết định tạm thời bằng thẩm quyền của mình ngay cả khi một bên
tham gia trọng tài khiếu nại về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài hoặc vi phạm điều khoản trọng tài. Nếu trọng tài
viên cho rằng mình có thẩm quyền thì cứ tiếp tục tiến hành thủ tục trọng tài và ra quyết định giải quyết tranh
chấp. Nguyên tắc này giúp cho trọng tài viên tiếp tục thực thi nhiệm vụ đến cùng theo các bên đã thỏa thuận mà
không có sự gián đoạn và làm mất thì giờ. Xem thêm Từ điển thuật ngữ Trọng tài thương mại – Phòng thương
mại và công nghiệp Việt Nam VCCI, trang 44.
33
đương nhiên việc phản đối thẩm quyền sẽ bị bác bỏ và trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp
theo thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
2.2. Sau khi phán quyết được đưa ra, một bên yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài hoặc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
Sau khi trọng tài đã ra phán quyết cuối cùng để giải quyết vụ tranh chấp, bên thua
kiện thường có xu hướng muốn từ chối phán quyết. Trong trường hợp này, họ thường có hai
lựa chọn, đầu tiên là yêu cầu hủy phán quyết trọng tại tại tòa án nơi phán quyết được tuyên,
nếu như việc này thất bại, bên thua vẫn còn một phương án là yêu cầu không công nhận phán
quyết tại tòa án nơi phán quyết có thể được thi hành. Dù là thủ tục hủy phán quyết trọng tài
hay công nhận và thi hành phán quyết ở nước ngoài, tòa án phải xem xét xem liệu thỏa thuận
trọng tài giữa các bên có giá trị pháp lý không? Thông thường theo luật pháp của nhiều
nước49, việc thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật áp dụng cho nó sẽ dẫn đến
việc hủy phán quyết trọng tài tại nơi phán quyết được tuyên hoặc phán quyết không được
công nhận và thi hành ở nước ngoài. Chính vì thế, việc dẫn chiếu đến luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài trong giai đoạn này là việc không thể tránh khỏi.
***
Nhìn chung, thông thường có hai trường hợp người ta thường đặt ra câu hỏi về luật
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó là khi một bên phản đối thẩm quyền của trọng tài hoặc
phản đối hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trước hoặc trong khi trọng tài giải quyết vụ tranh
chấp nhưng chưa đưa ra phán quyết cuối cùng; thứ hai là khi một bên yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài hoặc yêu cầu không công nhận phán quyết ở nước ngoài nơi phán quyết có thể được
thi hành. Việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có giá trị quan trọng bởi nó
quyết định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và của phán quyết trọng tài. Việc không lựa chọn
luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu của các bên sẽ dẫn đến sự phức tạp, tốn
kém về thời gian, tiền bạc đồng thời có thể gây ra hậu quả là mục đích của việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài sẽ không thành công bởi phán quyết có thể bị hủy hoặc không được
công nhận. Điều này sẽ được phân tích kĩ hơn ở phần sau đây.
49 Sẽ được phân tích kĩ hơn ở phần sau.
34
3. Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Người ta vẫn thường ngộ nhận rằng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài sẽ là luật
áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hay. Tuy nhiên, sự suy diễn này không hề an toàn, bởi thỏa
thuận trọng tài, dù là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng
biệt thì cũng đều có tính riêng biệt và độc lập với hợp đồng chính50 nên có thể nó được điều
chỉnh bởi một pháp luật riêng biệt hoàn toàn không liên quan đến hợp đồng chính.
Về mặt lý thuyết, pháp luật quốc tế về trọng tài và luật pháp của các nước đều thừa
nhận quyền được lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài của các bên, đây là trường
hợp mà các bên thống nhất chọn một luật áp dụng riêng cho thỏa thuận trọng tài và có nêu
rõ trong hợp đồng. Nếu như các bên đã thể hiện rõ sự lựa chọn của mình thì đương nhiên đây
sẽ là luật được các trọng tài viên áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hiệu lực,
hình thức và việc thực hiện thỏa thuận trọng tài. Tiêu chí này được ghi nhận cụ thể trong các
văn bản pháp luật quốc tế về thỏa thuận trọng tài. Trong Điều 34 khoản 2 (a) (i) Luật mẫu về
Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL có thừa nhận rằng: “Một quyết định chỉ có thể
bị tòa án… hủy trong trường hợp… thỏa thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà
các bên đã chọn để áp dụng…”51. Theo quy định này thì luật do các bên lựa chọn luôn luôn
được trọng tài viên tôn trọng áp dụng và kể cả tòa án khi xem xét việc hủy phán quyết hay
công nhận và thi hành phán quyết cũng ưu tiên xét đến luật của các bên lựa chọn trước khi
xem xét các luật khác có thể áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chỉ khi nào các bên không lựa
chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài thì luật khác mới có thể được áp dụng. Tuy nhiên
trường hợp này không phổ biến lắm vì các bên kí kết vẫn thường xem nhẹ việc lựa chọn luật
áp dụng riêng cho thỏa thuận trọng tài mà chỉ thường chú trọng đến luật áp dụng cho toàn bộ
hợp đồng và luật áp dụng cho thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Điều này cho thấy rằng, các nhà làm luật khuyến khích các bên lựa chọn luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài và thường để mở cho các bên sự lựa chọn này. Việc các bên
50 Footnote số 21 51 Một quy định tương tự cũng được thừa nhận trong Điều 36 Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của
UNCITRAL liên quan đến các trường hợp không công nhận phán quyết của trọng tài: “Việc công nhận hay thi
hành quyết định trọng tài… chỉ có thể bị từ chối trong trường hợp:(a) Theo yêu cầu của bên phải thi hành, nếu
bên đó cung cấp được cho toà án có thẩm quyền nơi công nhận hay thi hành quyết định bằng chứng khẳng định
rằng: (i)… thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng…”. Điều V
Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài cũng ghi nhận điều
này.
35
không lựa chọn luật áp dụng này mà là bỏ qua một cơ hội của mình và khiến quá trình giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như quá trình công nhận phán quyết trở nên phức tạp và
mất thời gian hơn. Đồng thời, việc này “đẩy” cho trọng tài viên một “sứ mệnh” khó khăn
trong việc quyết định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Trong trường hợp, các bên không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
ngay từ đầu hoặc không thỏa thuận được luật áp dụng cho thỏa thuận đó thì công việc này sẽ
thuộc về thẩm quyền của trọng tài, các nguyên tắc và luật pháp về trọng tài thường cho phép
họ có quyền làm theo ý mình trong vấn đề này52. Và việc lựa chọn luật áp dụng này không
phải là đơn giản vì trên thực tế bởi không có một văn bản nào hay nguyên tắc nào hướng dẫn
việc này mà trọng tài thường dựa vào những thực tiễn trước đó để áp dụng. Hơn nữa, thực
tiễn trọng tài trong việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài khi không có luật áp
dụng do các bên lựa chọn thường đi theo nhiều hướng khác nhau53. Thông thường, các trọng
tài viên thường lựa chọn dựa trên các nguyên tắc xung đột pháp luật hoặc áp dụng trực tiếp
pháp luật mà họ thấy hợp lý. Việc áp dụng này đã tạo thành một số thực tiễn trong các vụ
việc mà từ đó, các hội đồng trọng tài sau này có thể dựa vào đó để tham khảo và đưa ra quyết
định của mình.
Có rất nhiều tiêu chí để lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên,
phần này sẽ tập trung vào một số tiêu chí phổ biến và thường được áp dụng nhất thông qua
việc phân tích một số vụ việc cụ thể. Từ đó đưa ra những nhận định về ưu, nhược điểm của
từng tiêu chí lựa chọn để có thể đưa ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề liên quan đến luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài trong luật Việt Nam.
3.1. Luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng
Khi các bên không lựa chọn được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài thì như đã
nhắc đến trên đây, trọng tài có quyền lựa chọn pháp luật mà họ thấy là “phù hợp”54. Một
trong những phương án được các trọng tài lựa chọn nhiều nhất đó là sử dụng chính luật áp
dụng cho toàn bộ hợp đồng hay có thể gọi là luật áp dụng để giải quyết nội dung vụ tranh
52 Margaret L. Moses (2008), The Principles and Practice of International Commercial Arbitration, Cambridge
University Press, New York, trang 79. 53 Okezie Chukwumerije (1994), Choice of law in international commercial arbitration, Quorum Books
Westport, Conecticut Law, trang 36. 54 Theo Điều 35 khoản 1 Quy tắc mẫu của UNCITRAL: “Hội đồng trọng tài có thể áp dụng các luật hoặc
nguyên tắc về luật mà họ thấy là hợp lý”. Nguyên tắc này cũng được thừa nhận trong Quy tắc tố tụng của rất
nhiều trung tâm trọng tài khác.
36
chấp. Giáo sư Jullian D.M. Lew, một học giả nổi tiếng chuyên về lĩnh vực trọng tài thương
mại quốc tế55, đã cho rằng: “Có một giả định mạnh mẽ ủng hộ quan điểm rằng luật điều
chỉnh thỏa thuận về nội dung trong đó có bao gồm điều khoản trọng tài cũng sẽ điều chỉnh cả
thỏa thuận trọng tài. Nguyên tắc này đã được tuân theo trong rất nhiều vụ việc. Thậm chí đó
còn được coi là một sự ngầm định về luật áp dụng cho điều khoản trọng tài”56. Một học giả
nổi tiếng người Pháp khác cũng lập luận rằng: “Tính riêng biệt của điều khoản trọng tài đối
với hợp đồng chính không có nghĩa rằng chúng hoàn toàn độc lập với nhau, điều này được
chứng minh bằng thực tế rằng việc chấp nhận hợp đồng chính dẫn đến sự chấp nhận điều
khoản trọng tài mà không cần thêm bất cứ thủ tục nào khác”57. Theo những lập luận này, thì
điều khoản trọng tài trong một hợp đồng chính cũng được hiểu là một quyền và nghĩa vụ mà
các bên quy định trong hợp đồng, do đó nó đương nhiên được điều chỉnh bởi luật áp dụng
cho chính hợp đồng đó. Và các bên cũng sẽ khó chấp nhận nếu như họ đã lựa chọn một luật
áp dụng cho nội dung của toàn hợp đồng mà trọng tài viên lại áp dụng một luật khác mà họ
không lựa chọn cho một điều khoản riêng biệt trong hợp đồng đó, chỉ vì đó là điều khoản
trọng tài. Bởi các lí do trên nên các trọng tài viên, các học giả và các bên cũng dễ dàng chấp
nhận việc lựa chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
hiệu lực, hình thức và việc thực hiện thỏa thuận trọng tài.
Những lập luận này được củng cố bởi rất nhiều những vụ việc được xét xử bởi các
tòa án và các hội đồng trọng tài ở nhiều nơi trên thế giới. Trong vụ Union of India v.
McDonell Douglas Corp58, bằng văn bản đề ngày 30 tháng 7 năm 1987, công ty Union of
India ký kết hợp đồng với công ty McDonell Doulglas rằng công ty McDonnel Douglas sẽ
thực hiện dịch vụ với công ty Union of Ấn Độ về việc ra mắt một vệ tinh trong không gian.
Điều 11 của hợp đồng quy định rằng hợp đồng sẽ được điều chỉnh, giải thích và hiểu theo 55 Julian Lew có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế với tư cách là luật sư và
trọng tài viên. Nghiệp vụ chuyên môn của ông bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông đã tư vấn cho các bên
trong tranh chấp với cả tư cách luật sư và trọng tài viên trong rất nhiều vụ việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài tại các trung tâm trọng tài nổi tiếng trên thế giới như: Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư – Phòng thương
mại quốc tế, Tòa án trọng tài quốc tế London, Trung tâm trọng tài Stockholm, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới…
ông còn tham gia một số vụ việc giải quyết bằng trọng tài ad-hoc theo Quy tắc mẫu của UNCITRAL và Quy tắc
trọng tài Thụy Sỹ. Ngoài ra, ông cũng viết rất nhiều cuốn sách liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế được
sử dụng làm giáo trình ở nhiều trường đại học lớn trên thế giới. 56 Lew (1998), “The Law applicable to the form and substance of the arbitration clause”, International Council
for Commercial Arbitration Congress Series (No. 14), Paris, đoạn 136 57 Derains, The ICC International Court of Arbitration Bulletin, Vol 6 (No 1), trang 16-17 58 Union of India v. McDonell Douglas Corp [1993] 3 Lloyd’s Rep.48
37
luật của Ấn Độ. Hợp đồng cũng bao gồm một điều khoản trọng tài (Điều 8) có quy định:
“Trong trường hợp có tranh chấp hoặc sự khác biệt phát sinh từ hoặc có liên quan tới hợp
đồng này, mà không thể giải quyết được bằng biện pháp hòa giải, tranh chấp đó sẽ được giải
quyết bằng một Hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên... Trọng tài sẽ được tiến hành theo thủ
tục quy định trong Đạo luật trọng tài của Ấn Độ năm 1940 hoặc các sửa đổi của đạo luật này
sau này. Trọng tài sẽ được tiến hành bằng tiếng Anh. Phán quyết của các trọng tài viên sẽ
được đưa ra theo nguyên tắc đa số, sẽ là chung thẩm và ràng buộc các bên. Nơi tiến hành
trọng tài sẽ là London, Vương quốc Anh”. Sau khi tranh chấp nảy sinh, các bên đồng thuận
đưa tranh chấp ra Tòa án với câu hỏi rằng luật nào sẽ được áp dụng cho quá trình giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Và trong phán quyết của mình tòa án đã cho rằng: “Một điều khoản
trọng tài trong một hợp đồng thương mại như hợp đồng đang xem xét là một sự thỏa thuận
nằm trong một thỏa thuận… Các bên có thể đưa ra lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh giao
kèo thương mại và sự lựa chọn đó cũng có thể là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Trong
trương hợp đang xem xét, theo quan điểm của tôi, theo Điều 11 mà các bên đã lựa chọn luật
Ấn Độ không chỉ để điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao kèo thương mại mà
còn điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận trọng tài. Nói một cách pháp
lý, theo đó, luật nội dung của cả giao kèo thương mại và thỏa thuận trọng tài đều là luật của
Ấn Độ”. Qua đó, ta có thể thấy rằng, mặc dù nơi diễn ra trọng tài là ở London, Vương Quốc
Anh nhưng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vẫn là luật Ấn Độ, là luật mà các bên đã lựa
chọn để điều chỉnh hợp đồng chính. Nhận định này cũng được lặp lại trong Phán quyết ngày
5/9/1977 của Hội đồng trọng tài thuộc Hiệp hội buôn bán dầu, chất béo và hạt chứa dầu Hà
Lan, hội đồng trọng tài đã quyết định rằng “… luật áp dụng đối với nội dung tranh chấp cũng
được áp dụng đối với việc xem xét hiệu lực của điều khoản trọng tài.”59.
Tóm lại, qua lập luận của một số học giả và phán quyết của tòa án cũng như hội
đồng trọng tài trong hai vụ việc được trích dẫn trên đây, có thể nhận thấy được một điều rằng
việc lựa chọn luật áp dụng cho nội dung của vụ tranh chấp cũng đồng thời là luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài là một sự lựa chọn được cho là khá dễ dàng và hợp lý trong trường hợp
thỏa thuận trọng tài ở dưới hình thức là một điều khoản trọng tài nằm trong một hợp đồng
chính. Bởi lẽ mặc dù có tính hiệu lực riêng biệt, có nghĩa là trong trường hợp hợp đồng chính
vô hiệu, điều khoản trọng tài để giải quyết tranh chấp vẫn có hiệu lực, nhưng điều khoản
trọng tài vẫn nằm trong hợp đồng chính, nó cũng là một điều khoản quy định về quyền và
59 ThS Trần Minh Ngọc (2009), “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 11/2009).
38
nghĩa vụ của các bên, thật khó chấp nhận khi tách riêng điều khoản này ra và áp dụng cho nó
một luật riêng. Tuy nhiên, điều này sẽ là không đúng trong trường hợp thỏa thuận trọng tài
không nằm trong hợp đồng chính mà là một thỏa thuận riêng trong đó hai bên đồng thuận để
đưa tranh chấp lên giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Trong trường hợp này, rõ ràng thỏa thuận
trọng tài là một hợp đồng độc lập với hợp đồng chính nên việc suy diễn luật áp dụng cho hợp
đồng chính cũng áp dụng cho thỏa thuận này lại không hề an toàn và hợp lý. Chính vì vậy,
trọng tài còn có thể có một số lựa chọn khác mà sẽ được phân tích ở phần tiếp theo.
3.2. Luật của nơi diễn ra trọng tài hay luật nơi phán quyết được tuyên
Như ta đã thấy ở phần trên, luật của toàn bộ hợp đồng chỉ trở thành luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài “một cách an toàn” khi đó là một điều khoản trọng tài nằm trong một hợp
đồng chính. Bên cạnh đó, có một phương án khác được các điều ước quốc tế về trọng tài
thương mại ghi nhận đồng thời cũng được các tòa án, hội đồng trọng tài và luật pháp quốc gia
thừa nhận, đó là luật tại địa điểm diễn ra trọng tài hay có thể gọi là luật nơi phán quyết được
tuyên. Gary Born60, một học giả nổi tiếng của Mỹ cho rằng: “Sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, việc
lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài của các bên trong hợp đồng (trong trường hợp
không thỏa thuận rõ ràng) thông thường là sự lựa chọn một trong hai khả năng – luật điều
chỉnh hợp đồng hoặc luật của địa điểm tiến hành trọng tài”61. Bên cạnh đó, Công ước New
York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài và Luật mẫu của
UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế cũng có điều khoản khẳng định rằng: “Phán
quyết của trọng tài có thể bị từ chối công nhận và thi hành… nếu thỏa thuận trọng tài không
hợp pháp… theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”62. Đồng thời nguyên tắc này
60 Gary B.Born là một học giả và một luật sư quốc tế. Ông là một luật sư, một trọng tài viên nổi tiếng đồng thời
cũng là tác giả của rất nhiều bài bình luận, sách và các bài báo trong vấn đề trọng tài và tranh chấp quốc tế.
Những công trình của Born đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của lĩnh vực trọng tài quốc tế cũng như tranh
chấp quốc tế. Ông từng tham gia hơn 550 vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng tài với tư cách trọng tài viên.
Trong những nằm gần đây ông nhận được rất nhiều giải thưởng được bình chọn bởi các đồng nghiệp trong lĩnh
vực như “Nhà giải quyết tranh chấp quốc tế tốt nhất thế giới” (2006), “Luật sư của năm” (2011) và “Luật sư
trọng tài của năm” (2012). 61 Gary B.Born (2001), International Commercial Arbitration, Transnational Publishers and Kluwer Law
International, trang 111 62 Điều V Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài và Điều 36
khoản 1 (a) (i) Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL. Điều 34 khoản 2 (a) (i) về hủy quyết
39
cũng được nhiều quốc gia chuyển hóa vào trong nội luật trong các bộ luật về trọng tài thương
mại quốc tế, ví dụ như:
- Khoản 1 điều 54 Luật Trọng tài Thụy Điển 1999 quy định: “Phán quyết trọng tài
nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành ở Thuỵ Điển nếu bên bị chống
lại quyền lợi chứng minh được rằng… thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo
luật của nước mà các bên đã chọn, nếu họ không đạt được thoả thuận như vậy,
theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”
- Khoản II điều 38 Luật Trọng tài Brazil cũng ghi nhận rằng “… phán quyết trọng
tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành nếu bị đơn chứng minh
được rằng thoả thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật của nước mà các bên
đã chọn, nếu thiếu điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được
tuyên”
- Nội dung tương tự cũng được ghi nhận tại điều 103(2)(b) Luật Trọng tài Anh
1996: “Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu bị đơn
chứng minh được rằng, thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước
các bên đã chấp thuận nó, nếu không có điều này, theo luật của nước nơi phán
quyết trọng tài được tuyên”.
Nếu như nguyên tắc luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài có thể là luật áp dụng cho
toàn bộ hợp đồng là một nguyên tắc có vẻ như là ngầm định thì việc luật tại địa điểm diễn ra
trọng tài điều chỉnh thỏa thuận trọng tài lại được thừa nhận bởi rất nhiều các văn bản pháp
luật cả quốc tế và trong nước như đã liệt kê ở trên. Điều này dẫn đến những thực tiễn rằng các
tòa án quốc gia và các hội đồng trọng tài áp dụng nguyên tắc này trong rất nhiều trường hợp.
Có thể trích dẫn một vài vụ việc điển hình như sau:
Thứ nhất, phán quyết năm 1990 của Tòa trọng tài quốc tế của ICC (vụ việc số
616263) liên quan đến nguyên đơn người Pháp và bị đơn người Ai Cập (một cơ quan chức
trách địa phương của Ai Cập). Hợp đồng chính giữa hai bên ghi nhận một điều khoản trọng
tài rằng trọng tài sẽ được tổ chức tại Geneva theo quy tắc của ICC. Hợp đồng cũng quy định
rằng: “Luật của Ai Cập sẽ được áp dụng”. Bị đơn cho rằng trọng tài viên không có thẩm
định của trọng tài cũng thừa nhận rằng thỏa thuận trọng tài phải có giá trị pháp lý theo luật nơi phán quyết được
tuyên. 63 ICC case number 6162, Lew (1998), “The Law applicable to the form and substance of the arbitration clause”,
International Council for Commercial Arbitration Congress Series (No. 14), Paris, đoạn 116.
40
quyền bởi theo luật của Ai Cập, các bên chỉ đệ trình tranh chấp lên trọng tài giải quyết nếu có
một quy định pháp lý rõ ràng cho phép họ nhờ đến trọng tài. Đồng thời họ cũng cho rằng vì
các trọng tài viên không được chỉ định rõ bởi điều khoản trọng tài hay một thỏa thuận riêng
rẽ nên điều khoản trọng tài không có hiệu lực theo Điều 502 (3) của Luật tố tụng thương mại
và dân sự của Ai Cập. Tuy nhiên, hội đồng trọng tài cho rằng luật của Thụy Sỹ, địa điểm nơi
tiến hành trọng tài mới là luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài chứ không phải là luật các
bên đã lựa chọn để áp dụng cho toàn bộ hợp đồng. Do đó, tố tụng trọng tài vẫn được tiếp tục
bởi theo luật của Thụy Sỹ thỏa thuận trọng tài giữa hai bên là hợp pháp và trọng tài hoàn toàn
có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
Thứ hai là một vụ việc được giải quyết tại tòa án Tối cao của Thụy Điển64, Ngân
hàng Ngoại thương Bulgari (Bulbank) đã kí hợp đồng với một ngân hàng của Áo (Al Trade
Finance Inc). Trong hợp đồng có quy định một điều khoản trọng tài lựa chọn luật của Áo là
luật áp dụng cho hợp đồng. Khi tranh chấp phát sinh, các bên đưa tranh chấp ra giải quyết
bằng trọng tài theo quy tắc của UN/ECE65, địa điểm tố tụng trọng tài là Stockholm. Sau khi
trọng tài đưa ra phán quyết, Bulbank đã yêu cầu tòa án tối cao Thụy Điển hủy phán quyết với
lí do rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Và Tòa án tối cao Thụy Điển đã đưa ra phán quyết
rằng: “… không có một quy định cụ thể nào liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng
tài được đưa ra bởi các bên. Trong trường hợp này, vấn đề hiệu lực của điều khoản trọng tài
nên được xác định theo luật của quốc gia nơi tiến hành tố tụng trọng tài đó là luật Thụy
Điển”. Tòa án Thụy Điển đã bỏ qua việc luật của Áo được áp dụng cho hợp đồng mà chỉ áp
dụng luật của Thụy Điển đối với vấn đề liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tòa
án cũng lưu ý rằng các bên cần lựa chọn rõ ràng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài chứ
không chỉ là luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng.
Những kết luận tương tự cũng được tòa án các quốc gia khác ghi nhận trong các
phán quyết của mình như trong vụ XL Insurance Ltd v Owens Corning66 được xét xử tại tòa
án của Mỹ, vụ Tamil Nadu Electricity Board v. ST-CMS Electric company private67 xét xử tại
64 Bulgarian Foreign Trade Bank Ltd v Al Trade Finance Inc, Tòa án tối cao Thụy Điển 27/10/2000, Vụ kiên số
T1881-99, Niên giám ICCA XXVI (2001) trang 219. 65 UN/ECE (United Nations Economic Commission for Europe) là ủy ban kinh tế châu Âu của Liên hợp quốc 66 XL Insurance Ltd v Owens Corning [2000] 2 Lloyd’s Rep.500. 67 Tamil Nadu Electricity Board v. ST-CMS Electric company private [2007] EWHC 1713 (Comm).
41
tòa án của Anh, vụ Matermaco v PPM Cranes68 xét xử tại Hội đồng trọng tài thương mại tại
Brussel cùng rất nhiều những vụ việc khác69. Có thể thấy rằng, việc lựa chọn luật tại địa điểm
diễn ra trọng tài (hay nơi phán quyết trọng tài được tuyên) làm luật áp dụng cho thỏa thuận
trọng tài là một suy luận và viện dẫn hợp lý bởi lẽ “thỏa thuận trọng tài thường có mối liên
hệ mật thiết với quốc gia nơi tiến hành trọng tài hơn là bất kì quốc gia nào khác”70. Lựa
chọn này có thể áp dụng cho mọi thỏa thuận trọng tài bất kể dưới hình thức điều khoản trọng
tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Là tiêu chí lựa chọn luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trọng tài quốc tế
cũng như nhiều luật trọng tài quốc gia, đây là phương án được lựa chọn và sử dụng nhiều
nhất bởi cả tòa án và các hội đồng trọng tài tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Cũng
liên quan đến luật tại nơi tiến hành trọng tài, luật trọng tài của Mỹ lại có cách tiếp cận có
phần “chặt chẽ và khắt khe” hơn, điều này sẽ được phân tích trong một số trường hợp cụ thể
ngay sau đây.
3.3. Luật tại nơi có tòa án đang xem xét tranh chấp liên quan đến luật
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Mặc dù nguyên tắc này chỉ được áp dụng tại Mỹ nhưng nó cũng đã tạo ra một thực
tiễn và tiền lệ trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tại Mỹ, Luật trọng
tài của Liên bang71 được coi là có hiệu lực tối cao nhằm tránh những sự mâu thuẫn trong
pháp luật giữa các bang. Trong một số vụ kiện tại nước này, Luật trọng tài Liên bang được ưu
tiên áp dụng ngay cả khi có sự lựa chọn rõ ràng của các bên về luật áp dụng cho thỏa thuận
trọng tài hay cho hợp đồng chính. Chẳng hạn như trong vụ Pedcor Mgt Inc Welfare Benefit
Plan v N Am Indemnity72, thỏa thuận trọng tài chỉ rõ việc lựa chọn luật Texas tuy nhiên Tòa
án lại cho rằng: “… Luật trọng tài của liên bang (FAA) sẽ được ưu tiên áp dụng so với luật
của bang mà mâu thuẫn với mục đích của FAA trong việc ‘đòi hỏi việc giải quyết các khiếu
nại của các bên bằng tòa án trong khi các bên đã đồng ý giải quyết bằng trọng tài”. Trong
68 Matermaco v PPM Cranes; Legris Industries SA, 20/09/1999, Hội đồng trọng tài thương mại, Brussel, niên
giám ICCA XXV (2000). 69 Có thể xem thêm các vụ C v D [2007] EWHC 1541 (Comm), A v B [2007] 1 Lloyd’s Rep 358. 70 Dicey & Morris (2000), Conflict of Laws, 13th Ed, Sweet and Maxwell, trang 598. 71 FAA (Federal Arbitration Act 1925) điều chỉnh các vấn đề về tố tụng trọng tài liên quan đến các giao dịch
thương mại và hàng hải giữa các bang tại Mỹ hay với nước ngoài. 72 Pedcor Mgt Inc Welfare Benefit Plan v N Am Indemnity, 343 F 3d 355 (5th Cir 2003)
42
vụ Milos Sovak v Chugai Parmaceutical Co73, bên thua kiện đã viện dẫn luật của bang
Illinois là luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài và cho rằng thỏa thuận vô hiệu tuy nhiên, Tòa
án Phúc thẩm Mỹ tại Quản hạt 9 cũng đi đến kết luận rằng luật của Liên bang FAA phải được
áp dụng chứ không phải luật của tiểu bang.
Trong một vụ khác, Chloe Z Fishing v Odyssey Re74 liên quan đến việc lựa chọn luật
nước ngoài và địa điểm trọng tài cũng ở nước ngoài nhưng Tòa án tại California vẫn ưu tiên
áp dụng luật của Liên bang FAA. Nguyên đơn là một công ty đánh bắt cá thương mại của Mỹ
đã kí kết một hợp đồng bảo hiểm hàng hải với công ty Odyssey Re, trong hợp đồng này có
một điều khoản trọng tài quy định rằng các tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại
London theo luật của Anh. Khi tranh chấp phát sinh, nguyên đơn đã kiện bị đơn tại tòa án của
California nhưng bị đơn yêu cầu tòa án đình chỉ thủ tục tố tụng và yêu cầu phải quyết bằng
trọng tài theo như điều khoản trọng tài giữa các bên. Sau đó, tòa án đã chuyển vụ việc tới hội
đồng trọng tài tại London với lí do rằng thỏa thuận trọng tài có hiệu lực theo luật của Liên
bang FAA và theo tinh thần của công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài.
Qua đó ta có thấy rằng, trong những trường hợp mà luật của các tiểu bang hoặc của
nước khác có mục đích mâu thuẫn với Luật trọng tài của liên bang (FAA) hoặc những trường
hợp xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài tại tòa án của Mỹ thì luật của liên bang luôn được ưu
tiên áp dụng bất kể là các bên có lựa chọn luật áp dụng khác hay không. Đây có thể là một
lựa chọn hơi “cứng nhắc” tuy nhiên trong một đất nước theo thể chế liên bang như Mỹ, việc
này đảm bảo hệ thống pháp luật luôn được thống nhất từ trên xuống dưới, giảm thiểu sự mâu
thuẫn trong việc áp dụng pháp luật giữa pháp luật liên bang và pháp luật tiểu bang. Có thể
nhận thấy rằng, việc áp dụng này thường được đưa ra bởi tòa án chứ không phải hội đồng
trọng tài và theo đó nó có vẻ như là luật tại nơi có tòa án (lex fori) chứ không phải luật tại nơi
diễn ra trọng tài. Quy tắc này chỉ được áp dụng tại Mỹ và khó áp dụng cho các quốc gia khác
có thể chế chính trị khác với Mỹ.
73 Milos Sovak v Chugai Parmaceutical Co, 289 F 3d 615 (9th Cir 2002) 74 Chloe Z Fishing v Odyssey Re, 109 F Supp 2d 1236 (SD Cal 2000)
43
3.4. Luật thủ tục áp dụng cho trọng tài hay bộ quy tắc của trung tâm
trọng tài giải quyết vụ việc
Trong trường hợp các bên cũng không quy định cả luật áp dụng cho hợp đồng, hoặc
đối với thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài mà không có luật áp dụng cho
thỏa thuận đó, người ta có thể sử dụng luật áp dụng cho tố tụng trọng tài để điều chỉnh những
vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài. Lựa chọn này thường được áp dụng trong các vụ
được giải quyết bằng trọng tài quy chế, khi các bên đã lựa chọn một tổ chức trọng tài có uy
tín đồng thời lựa chọn bộ quy tắc của trung tâm này là luật điều chỉnh quá trình giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Vụ việc số 5486 năm 198975 do Tòa án trọng tài của ICC giải quyết
là một tranh chấp phát sinh về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài phát sinh giữa các bên liên
doanh: một bên là công ty Bỉ và phía bên kia là công ty Tây Ban Nha. Khi xét đến luật điều
chỉnh vấn đề hiệu lực của thòa thuận trọng tài giữa các bên, Toà án trọng tài của ICC đã ra
phán quyết như sau: “Vì mục đích của tố tụng trọng tài, các bên đã thoả thuận áp dụng các
quy tắc trọng tài ICC… và việc làm như vậy, biến các quy tắc của một tổ chức trọng tài quốc
tế thành nguồn lật điều chỉnh thoả thuận trọng tài… do đó, hiệu lực của điều khoản trọng tài
phải được xác định dựa vào các quy tắc trọng tài ICC”. Tiêu chí này thường chỉ được lựa
chọn bởi các trung tâm trọng tài lớn và có uy tín trên thế giới, các trung tâm này thường có
một bộ quy tắc rất hoàn chỉnh và do đó họ đề cao việc áp dụng bộ quy tắc của mình trong
việc giải quyết tranh chấp. Cũng có một cách tiếp cận khác, đó chính là việc người ta coi
chính địa điểm có trụ sở của trung tâm trọng tài là địa điểm diễn ra trọng tài, đồng thời áp
dụng chính quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó là luật của nơi diễn ra trọng tài. Điều
này thường được áp dụng tại một số trung tâm trọng tài như Trung tâm trọng tài quốc tế
Hongkong (HKIAC)76 hay trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) và nhiều nhất là Tòa
án Trọng tài của Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế (ICC). Tuy nhiên lựa chọn này ít
được áp dụng hơn so với việc lựa chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hay luật tại địa
điểm tiến hành trọng tài, có lẽ bởi bộ quy tắc của một số trung tâm trọng tài không thể bao
quát hết được những vấn đề liên quan đến thỏa thuận trọng tài do đó người ta thường chọn
75 ThS Trần Minh Ngọc (2009), “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 11/2009). 76 Lê Nết, Kinh nghiệm và thực tiễn trọng tài tại Việt Nam – quan điểm của một trọng tài viên VIAC, phát biểu
tại hội thảo về Trọng tài quóc tế được tổ chức bởi Phòng thương mại công nghiệp quốc tế ICC và Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC, Hà Nội, 23/4/2012.
44
một hệ thống pháp luật đầy đủ hơn để áp dụng một cách “an toàn” hơn, tránh việc phán quyết
bị hủy hoặc không được công nhận bởi tòa án.
***
Trên đây là một số tiêu chí được đưa ra trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài. Có thể thấy rằng, lựa chọn an toàn và hợp lý nhất bao giờ cũng là luật do các
bên lựa chọn. Không phải tự nhiên mà pháp luật các nước đều để ngỏ cho các bên việc lựa
chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp đặc biệt theo FAA của Mỹ), việc
các bên lựa chọn luật áp dụng ngay từ đầu hoặc thống nhất được luật áp dụng trong quá trình
giải quyết tranh chấp sẽ khiến cho thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản hơn rất nhiều, tiết kiệm
được nhiều chi phí và thời gian của hội đồng trọng tài cũng như của các bên trong tranh chấp.
Bên cạnh đó, trong trường hợp các bên không lựa chọn luật áp dụng hoặc không thể
thống nhất được luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, các trọng tài viên thường có hai “giải
pháp an toàn” khác đó là luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp và luật nơi tiến hành trọng
tài (luật nơi phán quyết trọng tài được tuyên). Hai giải pháp này có những ưu - nhược điểm
nhất định và việc lựa chọn chúng cũng còn tùy thuộc vào quan điểm của từng trọng tài viên.
Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp thường chỉ thích hợp trong các vụ kiện mà thỏa
thuận trọng tài ở dạng điều khoản trọng tài trong hợp đồng chính, theo đó nó sẽ được điều
chỉnh bởi chính luật điều chỉnh hợp đồng chính. Còn trong trường hợp thỏa thuận trọng tài là
một văn bản riêng biệt, việc lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng chính để điều chỉnh thỏa
thuận trọng tài sẽ có phần hơi gượng ép và kém thuyết phục. Trong trường hợp này, người ta
thường viện dẫn đến luật của địa điểm tiến hành trọng tài vì cho rằng đây là luật có quan hệ
mật thiết nhất với thỏa thuận trọng tài. Luật này có thể áp dụng được đối với cả điều khoản
trọng tài và thỏa thuận đưa tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài. Đây có thể coi là một
phương án an toàn nhất và được sử dụng nhiều nhất bởi nó được thừa nhận bởi rất nhiều công
ước quốc tế về trọng tài, Luật mẫu của UNCITRAL cũng như là luật pháp quốc gia của nhiều
nước. Luật của tòa án đang xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chỉ được lựa chọn đối
với các tòa án tại Mỹ, điều này đề cao tính tối cao của luật pháp Mỹ so với luật của các nước
khác và nhằm thống nhất hệ thống luật pháp trong một nước có thể chế liên bang như Mỹ.
Cuối cùng là phương án lựa chọn bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đang giải quyết
vụ việc làm luật điều chỉnh cho thỏa thuận trọng tài. Nguyên tắc này thường chỉ được áp
dụng tại các trung tâm trọng tài lớn và uy tín trên thế giới và số vụ mà các trọng tài viên sử
dụng phương án này cũng không phải là nhiều bởi nó thường “kém an toàn” hơn các tiêu chí
khác và phán quyết của hội đồng trọng tài cũng dễ bị hủy hoặc không công nhận hơn. Hơn
45
nữa, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp trọng tài quy chế và là “vô hiệu”
nếu các bạn lựa chọn trọng tài vụ việc.
Nhìn chung, ta có thể thấy rằng, việc xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
phụ thuộc khá nhiều vào việc thỏa thuận trọng tài được lập dưới hình thức nào (điều khoản
trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài) nhưng có một
điểm chung rằng luật pháp của các quốc gia và các quy tắc trọng tài đều “để ngỏ” cho các bên
có quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Không có một quy tắc áp đặt nào
buộc phải áp dụng luật nào cho thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp tại các Tòa án Mỹ đã
phân tích ở trên). Như vậy, việc quan tâm đến lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
có thể giúp cho các bên giảm thiểu được chi phí, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp. Bên
cạnh đó, việc các quốc gia quy định rõ về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong trường
hợp thiếu vắng đi việc lựa chọn của các bên cũng khiến cho “gánh nặng” đối với hội đồng
trọng tài được giảm đi đáng kể khiến cho vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn, việc
công nhận và thi hành phán quyết trọng tài cũng dễ dàng được thực hiện hơn. Đây thực sự là
vấn đề đáng để cân nhắc và suy nghĩ đối với các bên trong tranh chấp cũng như đối với các
nhà làm luật nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, giảm
thiểu những gánh nặng cho tòa án. Vấn đề này ở Việt Nam thực sự vẫn còn là một câu hỏi
lớn, điều này sẽ được phân tích ở chương tiếp theo.
46
CHƯƠNG III
VẤN ĐỀ LUẬT ÁP DỤNG CHO THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
TẠI VIỆT NAM
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ngày càng nhanh và mạnh, điều này dẫn đến
một hệ quả tất yếu đó là sự ra đời của một loạt các công ty với đủ loại quy mô và hình thức
khác nhau. Sự phát triển này cũng đồng nghĩa với việc số lượng các hợp đồng kinh doanh
quốc tế được kí kết cũng tăng lên đáng kể và đồng thời số lượng các vụ tranh chấp xảy ra
cũng tỷ lệ thuận với số lượng các hợp đồng được giao kết. Sự ra đời và phát triển của trọng
tài thương mại quốc tế tại Việt Nam trong khoảng gần nửa thế kỉ gần đây đã cho thấy những
dấu hiệu đáng mừng trong việc giải quyết các tranh chấp trong nước cũng như tranh chấp
mang tính quốc tế. Mặc dù còn non trẻ và ra đời chậm hơn so với các nước phát triển trên thế
giới, trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị trí của
mình trong việc giúp đỡ tòa án giải quyết các tranh chấp trong thương mại và đầu tư. Tuy
nhiên, sự phát triển này cũng dẫn đến một nhu cầu cấp bách là cần phải hoàn thiện các nguồn
luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam để việc giải quyết các tranh chấp có tính chất quốc tế
trở nên đơn giản hơn và số lượng các phán quyết được thi hành trong nước cũng như công
nhận và thi hành ở nước ngoài ngày một nhiều lên, tạo lòng tin với các doanh nghiệp trong
nước, doanh nghiêp nước ngoài và đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài với việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ở Việt Nam. Điều này sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho các tòa án tại
Việt Nam đồng thời tăng tính hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp.
Hai chương trước đã tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thỏa
thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trên thế giới, trong các điều ước quốc
tế về trọng tài thương mại quốc tế và trong luật pháp của một số quốc gia phát triển. Với
những cơ sở và nền tảng đã được phân tích ở các chương trước, chương này sẽ tập trung vào
việc khái quát một số thông tin về trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam và đưa ra một số
gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
trong hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam.
47
1. Giới thiệu sơ lược về trọng tài thương mại và các nguồn luật của trọng
tài thương mại tại Việt Nam
1.1. Khái quát về lịch sử và sự phát triển của trọng tài thương mại tại
Việt Nam
Trọng tài được coi là phương thức giải quyết tranh chấp lâu đời nhất trong lịch sử,
thậm chí nó còn được coi là tiền thân của các tòa án quốc gia sau này. Xuất hiện từ thời cổ
đại, phương thức trọng tài thường được sử dụng bởi các lái buôn nhằm giải quyết những bất
đồng và mâu thuẫn trong quá trình trao đổi và mua bán hàng hóa. Càng ngày phương thức
này càng trở nên phổ biến và phát triển rộng rãi khắp châu Âu. Những bộ luật về trọng tài bắt
đầu xuất hiện tại các nước phát triển nhằm khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
và tránh những thủ tục rườm rà và phức tạp của tòa án. Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế
thế giới, các tranh chấp trong thương mại ngày một nhiều lên và các trung tâm trọng tài quốc
tế dần hình thành để đáp ứng nhu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng
thương mại mang tính chất quốc tế. Những quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển cũng
sửa đổi nội luật để phù hợp với các công ước cũng như Luật mẫu về trọng tài thương mại
quốc tế. Có thể nói, trên quy mô thế giới, trọng tài đang trở thành một phương thức tranh
chấp được rất nhiều doanh nghiệp cũng như các quốc gia ưa thích và lựa chọn, vai trò của nó
đang ngày được nâng cao, cùng với tòa án, trọng tài thương mại quốc tế đã thúc đẩy nền kinh
tế toàn cầu phát triển ngày một mạnh mẽ hơn.
Mặc dù trọng tài thương mại quốc tế có một bề dày lịch sử rất lâu đời nhưng phải
đến khoảng gần nửa thế kỉ trở lại đây, hình thức giải quyết tranh chấp này mới được hình
thành và phát triển tại Việt Nam. Đi lên cùng công cuộc cải tổ và hướng lên chủ nghĩa xã hội
của đất nước, qua từng bước thăng trầm của lịch sử, trọng tài thương mại đang dần khẳng
định được vị trí của mình bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống là tòa án.
Sau đây là một vài nét cơ bản trên con đường phát triển của phương thức giải quyết tranh
chấp lựa chọn này tại Việt Nam.
Hình thức trọng tài kinh tế xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1960 với sự ra đời
của chế độ hợp đồng kinh tế77. Trọng tài trong giai đoạn này tồn tại dưới hình thức là một cơ
quan hành chính nhà nước được tổ chức ở cấp Trung ương, khu, thành phố, tỉnh và bộ với
chức năng xử lý các tranh chấp trong các hợp đồng kinh tế của các cơ quan nhà nước. Đến
77 Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 ban hành Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh tế. Sau đó là Nghị định số
20/TTg về Tổ chức Trọng tài kinh tế nhà nước.
48
giữa thập niên 70, trọng tài kinh tế lại đóng vai trò quản lý các hợp đồng kinh tế 78. Khoảng
20 năm sau đó, cho đến những năm 90 của thế kỉ XX, nhà nước ta liên tiếp ban hành rất
nhiều văn bản pháp luật về trọng tài kinh tế đặc biệt là Pháp lệnh về trọng tài kinh tế quy định
về tổ chức, phân cấp thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế. Tuy
nhiên, từ khi ra đời cho đến thời điểm này, Trọng tài kinh tế vẫn chỉ là một cơ quan nhà nước,
mang tính chất quản lý nhà nước và thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp, xử lý các vi
phạm hợp đồng kinh tế đồng thời quản lý công tác hợp đồng kinh tế và không mang ý nghĩa
của trọng tài thương mại theo đúng tính chất của nó.
Sau khi quản lý cơ chế bao cấp, sản xuất kế hoạch hóa tập trung tỏ ra kém hiệu quả
và được bãi bỏ, đất nước chuyển mình và bước sang một giai đoạn mới, sự phát triển ngày
một nhanh và mạnh của nền kinh tế đòi hỏi một cơ chế giải quyết tranh chấp mới cũng cần
phải thay đổi. Năm 1993, đánh dấu một “điểm đen” trong quá trình phát triển của trọng tài
thương mại tại Việt Nam khi chế độ trọng tài bị bãi bỏ cũng với sự ra đời của Tòa Kinh tế
chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân nhằm giải quyết các tranh chấp về mặt kinh tế.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng, hình thái trọng tài kinh tế tồn tại trong những giai đoạn
trước đó với tính chất là một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhiều hơn là thật sự giải
quyết tranh chấp đã tỏ ra không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại nữa, việc chế độ
trọng tài đó bị bãi bỏ là điều tất yếu và đó là một bước đệm cho một hệ thống trọng tài thực
thụ theo đúng nghĩa của nó sẽ ra đời trong tương lai.
Để đáp ứng nhu cầu khách quan về việc đa dạng hóa các phương thức giải quyết
tranh chấp trong thương mại đồng thời để bắt kịp sự phát triển của cơ chế thị trường và phù
hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, năm 1994, với sự ban hành của Nghị định số 116-
CP về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài kinh tế của chính phủ, Trọng tài
kinh tế chính thức được xác định là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, là tổ chức phi chính
phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn biệt lập với chức
năng quản lý nhà nước như trước đây. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát
triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam. Mặc dù vậy, vào thời điểm này trọng tài chưa
thực sự phát huy được vai trò của mình với chức năng là một cơ quan tài phán hỗ trợ cho Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp.
Để tăng tính hiệu quả đồng thời khắc phục những nhược điểm và hạn chế còn tồn tại
trong lĩnh vực trọng tài, ngày 25 tháng 2 năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành
78 Theo Nghị định số 75-CP ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài kinh tế.
49
Pháp lệnh trọng tài số 08/2003/PL-UBTVQH79, góp phần nâng cao vị thế của trọng tài và đưa
phương thức giải quyết tranh chấp này vào hoạt động một cách quy củ hơn. Pháp lệnh đã mở
rộng thẩm quyền của trọng tài, quy định chi tiết và rõ ràng hơn những vấn đề liên quan đến
thỏa thuận trọng tài; nâng cao vị thế của trọng tài bằng việc ghi nhận tính cưỡng chế thi hành
của các phán quyết trọng tài đồng thời tăng cường tính quản lý với sự thành lập và hoạt động
của các trung tâm trọng tài. Những quy định mới này đã góp phần tạo nên cơ sở cho sự phát
triển của trọng tài tại Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các doanh nghiệp trong nước và quốc
tế đồng thời gây dựng uy tín với các quốc gia khác về nền kinh tế thị trường đang ngày càng
hội nhập và phát triển của nước ta.
Về cơ bản, Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết về một văn
bản pháp luật chính thức quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến Trọng tài thương mại.
Tuy nhiên nó vẫn chưa thực sự hoàn thiện và chưa đủ khả năng tạo ra những cơ sở pháp lý
vững chắc để thể hiện chủ trương của nhà nước cũng như góp phần khuyến khích các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài sử dụng phương án giải quyết tranh chấp lựa chọn này,
nhằm giảm bớt gánh nặng cho tòa án80. Và năm 2010, một lần nữa được coi là năm đánh dấu
son trong sự phát triển của trọng tài thương mại của Việt Nam. Để thể chế hóa các đường lối
và chính sách của Đảng, thích ứng với sự phát triển của đất nước trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, khuyến khích việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
và các quan hệ dân sự khác đồng thời khắc phục những hạn chế và điểm yếu trong Pháp lệnh
về Trọng tài năm 2003, Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu
lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Văn bản pháp luật này thực sự là bước phát triển vượt bậc
của hệ thống pháp luật về trọng tài tại Việt Nam. Được coi là theo khá sát Luật mẫu của
UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế, Luật trọng tài thương mại năm 2010 được các
luật sư và các trung tâm trọng tài trong nước cũng như quốc tế đón nhận khá nhiệt tình và hứa
hẹn sẽ tạo nên thay đổi lớn trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam.
***
Như vậy, thuật ngữ “trọng tài” thật sự được biết đến tại Việt Nam từ những năm
1960 với sự xuất hiện của chế độ hợp đồng kinh tế trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa dưới
hình thức “trọng tài kinh tế”. Tuy nhiên cho đến 40 năm sau, trọng tài kinh tế vẫn chỉ là một
cơ quan nhà nước, mang tính chất quản lý chứ chưa thực sự là trọng tài theo đúng nghĩa của
79 Sau đây gọi tắt là pháp lệnh trọng tài 2003 80 Đề cương giới thiệu Luật trọng tài thương mại năm 2010
50
nó. Với sự hội nhập kinh tế và phát triển cơ chế thị trường, trọng tài chỉ thực sự “đâm chồi
nảy lộc” bắt đầu từ những năm 1990 trở đi với sự ban hành của các văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh vấn đề này. Có thể nhận thấy rằng, với sự hỗ trợ từ nhà nước, phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang trở nên ngày càng phổ biến và phát triển mạnh mẽ,
vững chắc tại Việt Nam.
1.2. Các nguồn luật cơ bản của trọng tài thương mại tại Việt Nam
Dưới góc độ luật học, luật pháp là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung,
do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế81. Như ta đã thấy
ở phần trên, sự ra đời các của các văn bản pháp luật trong từng thời kì đánh dấu một bước
phát triển của trọng tài tại Việt Nam. Nhờ có các nguồn luật cơ bản đó mà thủ tục giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được cụ thể hóa, đi vào quy củ và hoạt động một cách có
hệ thống và hiệu quả hơn. Trước khi đi vào vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại
Việt Nam, điều quan trọng là chúng ta cần phải biết được các văn bản pháp luật hiện hành
nào điều chỉnh vấn đề này? Và nội dung khái quát của các nguồn luật đó như thế nào? Nội
dung của phần này sẽ nhằm giới thiệu các nguồn luật cơ bản điều chỉnh vấn đề trọng tài
thương mại tại Việt Nam nhằm phục vụ cho việc đi sâu vào phân tích vấn đề luật điều chỉnh
thỏa thuận trọng tài được quy định như thế nào trong luật Việt Nam.
1.2.1. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010
Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ
7 thông qua vào ngày 17 tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Sự
phát triển với tốc độ ngày càng cao và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế đòi hỏi
sự hoàn thiện về hệ thống pháp luật liên quan đến trọng tài, nhằm khuyến khích các bên sử
dụng hình thức giải quyết tranh chấp này, giảm nhẹ gánh nặng cho hoạt động xét xử của tòa
án. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010 ra đời đã khắc phục những hạn chế còn tồn tại
của Pháp lệnh trọng tài 2003 đồng thời bổ sung thêm những thiếu sót thích ứng với xu hướng
pháp luật về trọng tài thương mại của các nước phát triển trên thế giới. Luật trọng tài thương
mại năm 2010 gồm 13 Chương và 82 điều có hiệu lực từ ngày ngày đầu tiên của năm 2011
đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh trọng tài năm 2010. Sự ra đời của luật này đã
81 Định nghĩa pháp luật theo Wikipedia tiếng Việt
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_ph%C3%A1p#Tham_kh.E1.BA.A3o
51
đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp luật về trọng tài
thương mại của Việt Nam. Mặc dù được đánh giá là có nhiều tiến bộ, phù hợp với pháp luật
và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, đặc biệt là Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại quốc tế của Ủy ban liên hợp quốc về pháp luật thương mại quốc tế nhưng Luật
trọng tài thương mại 2010 vẫn chưa thực sự hoàn thiện, còn nhiều thiếu sót và vẫn cần được
sửa đổi bổ sung để nâng cao tính hiệu quả của biện pháp giải quyết tranh chấp này.
1.2.2. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của luật trọng tài thương mại
Nghị định 63/2011/NĐ-CP do chính phủ ban hành, quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại về quản lý nhà nước về trọng tài; thủ tục
đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt
động của Trung tâm trọng tài, Chi nhánh Trung tâm trọng tài; thủ tục thành lập, đăng ký hoạt
động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Chi
nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài. Với tốc độ phát triển và gia
tăng của các trung tâm trọng tài cả trong nước và ngoài nước, nghị định 63 đã góp phần nâng
cao việc quản lý của nhà nước với sự hoạt động của các tổ chức trọng tài nhằm hướng tới
việc đảm bảo sự công bằng, minh bạch đối với việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức
trọng tài.
1.2.3. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 - Phần thứ sáu:
Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của
trọng tài nước ngoài – Chương XXVI và XXIX
Luật tố tụng là lĩnh vực của luật pháp điều chỉnh quy trình tiến hành vụ việc pháp lý.
Nó bao gồm các quy trình như ai có thể có quyền đệ đơn tới tòa, đệ đơn ra tòa như thế nào,
cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh tụng. Luật tố tụng thường được coi
như là luật "bổ trợ" do nó là các bộ luật liên quan đến việc các bộ luật khác được áp dụng như
52
thế nào82. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 do Quốc hội khóa XI, kì họp thứ 5
thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực từ năm 2005, bộ luật này đã được sửa đổi
bổ sung năm 2011 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2012. Trong đó, phần thứ sáu của bộ
luật quy định về các nguyên tắc, trình tự và thủ tục để công nhận và cho thi hành quyết định
của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam và thẩm quyền của Tòa án Việt Nam cũng như quyền
lợi của các bên trong vấn đề này. Chương XXVI là những nguyên tắc chung về công nhận và
thi hành của bản án của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài và Chương
XXIX quy định cụ thể riêng về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
tại Việt Nam.
***
Trên đây là những văn bản pháp luật cơ bản điều chỉnh về trọng thương mại tại Việt
Nam. Thông qua nội dung khái quát của từng văn bản đã được đề cập ở trên, có thể nhận thấy
một điều rằng, những quy phạm pháp luật về trọng tài ở Việt Nam được quy định rải rác và
chưa thực sự tập trung, điều này gây khó khăn cho người nghiên cứu, cho những doanh
nghiệp trong quá trình thực thi và khó khăn cho cả các trọng tài viên, các trung tâm trọng tài
trong việc áp dụng. Đặc biệt, rất nhiều luật sư và các nhà nghiên cứu pháp luật cùng các
doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn đang chờ đợi một văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện
Luật trọng tài năm 2010 vì mặc dù là một văn bản chính thức và có nhiều điểm tiến bộ nhưng
nhiều chỗ còn mập mờ, chưa được giải thích một cách cụ thể trong việc áp dụng83. Bên cạnh
đó, việc quy định riêng về Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài trong Bộ Luật Tố tụng
dân sự mà không đưa vào Luật Trọng tài năm 2010 có lẽ là một sự thiếu sót và “hơi chệch”
so với Luật mẫu, điều này gây khó khăn cho việc nghiên cứu và áp dụng đồng thời làm giảm
“tính hoàn thiện” của văn bản có giá trị cao nhất và tập trung nhất về trọng tài. Nhìn chung,
dù chưa thực sự hoàn hảo nhưng những nguồn cơ bản trên đây đóng vai trò quan trọng trong
việc nghiên cứu và phân tích vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam sẽ
được tập trung làm rõ trong phần tiếp sau đây. 82 Định nghĩa Luật tố tụng theo Wikipedia tiếng Việt
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_ph%C3%A1p#Lu.E1.BA.ADt_t.E1.BB.91_t.E1.BB.A5ng 83 Phát biểu của luật sư Đặng Xuân Hợp trong Hội thảo về Trọng tài quốc tế do Trung tâm Trọng tài quốc tế
Việt Nam (VIAC) và Phòng thương mại quốc tế (ICC). Tiến sĩ Đặng Xuân Hợp là luật sư thành viên công ty
Allens Arthur Robinson tại Hà Nội. Ông đã giảng dạy và xuất bản nhiều ấn phẩm về trọng tài thương mại quốc
tế và các vấn đề liên quan tại các trường đại học ở Việt Nam, Singapore và nhiều nước khác. Ông đồng thời là
người tham gia ban biên tập, hỗ trợ ban soạn thảo Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010.
53
2. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
2.1. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong các văn bản
pháp luật
Việc nắm vững các văn bản pháp luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
trọng tài thương mại quốc tế đã cho ta một cái nhìn tổng quát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam. Trước hết, thông qua
việc nghiên cứu các văn bản pháp luật cơ bản như đã phân tích ở trên, có một điều được
khẳng định rằng: không có một điều khoản nào có nội dung tập trung vào vấn đề luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là pháp luật Việt Nam không có
quy định về vấn đề này. Phần này sẽ khảo sát qua một số điều khoản có liên quan để tìm ra
những quy định về luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong các điều khoản đó.
2.1.1. Điều khoản liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thông qua chương I chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của luật áp dụng đối với
thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế trên phạm vi thế giới. Ngược lại, mục
này sẽ nhằm phân tích điều khoản quy định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong luật
Việt Nam xem liệu luật Việt Nam đã thực sự quan tâm đến vấn đề này hay chưa?
Theo Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các
trường hợp:
1) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
2) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền
3) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
4) Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
5) Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Mặc dù chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể việc giải thích các điều khoản
của Luật này, tuy nhiên ta có thể hiểu đơn giản điều khoản này dựa trên từ ngữ của nó. Trong
Điều 18 này không có khoản nào nhắc đến cụ thể luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chỉ
có khoản 6 “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”có vẻ liên quan đến vấn
54
đề đang xem xét. Nhưng do không có sự giải thích cụ thể nên điều này còn rất mập mờ,
chẳng hạn như những điều cấm của pháp luật là gì? Pháp luật ở đây là pháp luật nào? Là pháp
luật nơi thỏa thuận trọng tài được kí kết? Pháp luật Việt Nam? Hay là luật pháp áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài đó? Bên cạnh đó, việc không nhắc đến bất kì luật áp dụng nào cho thỏa
thuận trọng tài mà trực tiếp quy định những lí do khiến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, điều
khoản này mở ra một cách giải thích khác, đó là: tất cả các thỏa thuận trọng tài buộc phải
tuân theo các quy định này tức là buộc phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Hay nói cách
khác, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi nó phù hợp với pháp luật Việt Nam, hay luật Việt
Nam chính là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, đây không thực sự là một sự
suy luận an toàn và rõ ràng, chính vì thế, yêu cầu ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật
trọng tài thương mại năm 2010 là thực sự cần thiết.
Tóm lại, liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, luật pháp Việt Nam chưa
quy định cụ thể và khẳng định vai trò của luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đối với thỏa
thuận đó.
2.1.2. Điều khoản liên quan đến luật áp dụng cho trọng tài
Như đã khẳng định ở phần giới thiệu, trong Luật trọng tài năm 2010 không có điều
khoản nào dành riêng cho quy định vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên,
liên quan đến vấn đề luật áp dụng nói chung, Điều 14 của Luật trọng tài năm 2010 quy định:
1) Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng
pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2) Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì
Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là
phù hợp nhất.
3) Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy
định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp
dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu
quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam.
55
Khác với Điều 28 trong Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế
quy định cụ thể là nguyên tắc áp dụng pháp luật cho nội dung của vụ tranh chấp, Điều 14
Luật trọng tài thương mại 2010 chỉ có tiêu đề là Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp, do đó
ta có thể hiểu rằng nguyên tắc này có thể áp dụng đối với bất cứ luật nào trong quá trình giải
quyết tranh chấp, bất kể là luật hình thức, luật nội dung hay luật áp dụng cho thỏa thuận trọng
tài. Và qua tinh thần của điều khoản này, có thể thấy rằng luật do các bên lựa chọn luôn được
ưu tiên áp dụng, đây là một khẳng định phù hợp với những điều đã được phân tích ở chương
II. Bên cạnh đó, điều khoản này cũng ghi nhận thẩm quyền của trọng tài viên trong việc lựa
chọn luật áp dụng, trọng tài viên hoàn toàn được phép lựa chọn pháp luật mà “hội đồng trọng
tài cho là phù hợp nhất”. Nếu như trong Luật mẫu quy định rằng, trọng tài chỉ có thẩm quyền
“áp dụng luật được xác định bởi các nguyên tắc xung đột luật mà hội đồng trọng tài thấy là
thích hợp”, Luật Việt Nam lại cho phép trọng tài viên có thể có một thẩm quyền quá rộng,
lựa chọn trực tiếp luật pháp áp dụng chứ không cần thông qua quy tắc xung đột pháp luật,
điều này có thể gây ra những tranh chấp và khó khăn trong việc yêu cầu công nhận và thi
hành phán quyết ở nước ngoài sẽ được phân tích ở phần sau.
Nhìn chung, mặc dù không quy định cụ thể, nhưng những quy tắc của Điều 14 có
thể được áp dụng để xác định luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, có vẻ như đây
chưa thực sự là một điều khoản chặt chẽ, còn khá mập mờ và có thể dẫn đến những tranh
chấp không đáng có và có nguy cơ khiến cho mục đích của việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài không đạt được (phán quyết bị hủy hoặc không được công nhận và thi hành tại nước
ngoài).
2.1.3. Điều khoản liên quan đến hủy phán quyết của trọng tài
Theo tinh thần của Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng như được thừa nhận
trên toàn thế giới, chỉ có tòa án tại nơi phán quyết được tuyên mới có thẩm quyền hủy phán
quyết trọng tài dựa trên những căn cứ được quy định trong luật pháp của nước đó về vấn đề
này. Liên quan đến các căn cứ để hủy quyết định của trọng tài, Luật trọng tài thương mại năm
2010 ghi nhận các căn cứ sau:
1) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
2) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với
thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
56
3) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp
phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài thì nội dung đó bị huỷ;
4) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra
phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng
của phán quyết trọng tài;
5) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo điều khoản này, việc một thỏa thuận trọng tài không phù hợp với luật áp dụng
cho nó không trở thành một căn cứ để hủy phán quyết trọng tài. Mặc dù, thỏa thuận trọng tài
vô hiệu có thể là cơ sở để hủy phán quyết trọng tài, và như đã phân tích ở phần trên84, liên
quan đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Luật Việt Nam cũng “mập mờ” thừa nhận tầm quan
trọng của pháp luật áp dụng cho thỏa thuận đó, nhưng những quy định mang tính chung
chung, không rõ ràng này rất khó áp dụng và rất dễ gây ra tranh chấp. Việc không đề cập đến
luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong căn cứ hủy phán quyết là một thiếu sót lớn của
luật Việt Nam so với Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại. Sự phức tạp và tốn
kém gây ra bởi sự thiếu sót này sẽ được phân tích trong thực tiễn ở phần sau.
2.1.4. Điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài
Điều đầu tiên cần chú ý trong phần này đó là, điều khoản liên quan đến công nhận
và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài không nằm trong Luật thương mại Việt Nam
năm 2010 mà lại là một phần thuộc Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm
2011). Đây là một điểm bất cập trong pháp luật của Việt Nam về trọng tài thương mại quốc
tế, thể hiện sự thiếu đồng bộ, thống nhất trong một văn bản luật pháp chuyên ngành.
Liên quan đến các căn cứ để từ chối việc công nhận phán quyết của trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam, điều 370 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 ghi nhận:
1) Quyết định của Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
84 Phần liên quan đến điều khoản về hiệu lực của trọng tài trong luật Việt Nam.
57
a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận
đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
b) Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà
các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định
đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận
đó;
c) Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và
hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh
chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà
không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;
d) Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp
không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên
ký kết thoả thuận trọng tài.
đ) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của
Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với
pháp luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên,
nếu thoả thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
e) Quyết định của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên;
f) Quyết định của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước
nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp
dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2) Quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể
thức trọng tài;
b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Đây là một điều khoản quy định khá đầy đủ và chi tiết, phù hợp với tầm cỡ của một
bộ luật lớn như Bộ luật tố tụng dân sự. Trong đó, chỉ có một khoản nhỏ cần quan tâm có liên
quan đến chủ đề đang nghiên cứu. Đó là khoản 1 (b): Thoả thuận trọng tài không có giá trị
58
pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của
nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả
thuận đó; điều khoản này đã kế thừa và ghi nhận cả Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại quốc tế và công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của
trọng tài nước ngoài85. Ở đây thừa nhận về q uyền lựa chọn luật áp dụng của thỏa thuận trọng
tài của các bên đồng thời ưu tiên áp dụng sự lựa chọn này. Trong trường hợp các bên không
có sự lựa chọn, bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định pháp luật của nước nơi quyết định
được tuyên sẽ là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Có thể nói rằng, trong tất cả các văn
bản pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam, đây là điều khoản duy nhất có nhắc đến trực
tiếp luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đồng thời quy định cụ thể tiêu chí để xác định luật
này. Mặc dù vậy, quy định này vẫn có thể gây ra những tranh cãi và khó khăn cho việc công
nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Phần ngay sau đây sẽ phân tích những
khó khăn trong thực tiễn có thể gây ra bởi sự thiếu sót và những quy định mập mờ trong pháp
luật Việt Nam về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
2.2. Thực tiễn việc áp dụng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài tại
Việt Nam
Qua phần trên đây có thể thấy rằng, vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài
trong pháp luật Việt Nam được quy định rất mập mờ, không rõ ràng và thiếu tính hệ thống.
Có vẻ như các nhà làm luật chưa thực sự quan tâm đến tầm quan trọng của loại luật này bên
cạnh luật nội dung và luật hình thức trong tố tụng trọng tài. Điều này có thể lí giải tại sao các
doanh nghiệp Việt Nam không coi trọng việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
Trong khi pháp luật Việt Nam “mở đường” cho việc lựa chọn của các bên và tôn trọng ý chí
thống nhất của các bên nhưng các bên trong tranh chấp đã bỏ lỡ mất cơ hội này của mình,
dẫn đến việc họ phải trao vào tay trọng tài viên một công việc không hề đơn giản. Và hội
đồng trọng tài cũng cần thêm thời gian để giải quyết thêm vấn đề này trước khi có thể giải
quyết thực chất vụ tranh chấp dẫn đến quá trình tố tụng trọng tài bị kéo dài, các bên mất thêm
nhiều thời gian để chờ đợi vụ việc được giải quyết một cách dứt điểm. Đó mới chỉ là vấn đề
về thời gian và chi phí, nó có thể gây trở ngại và kéo dài quá trình tố tụng trọng tài, nhưng
nếu phán quyết được công nhận và thi hành thì việc tốn kém đó cũng “có thể chấp nhận
được”.
85 Điều V của Công ước New York 1958 và Điều 36 Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế.
59
Bên cạnh đó, việc quy định mập mờ và không thống nhất trong pháp luật Việt Nam
về vấn đề luật áp dụng nói chung và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nói riêng còn có thể
dẫn đến một hậu quả “tai hại” hơn đó là phán quyết có thể bị tòa án nơi phán quyết được
tuyên hủy hoặc không được tòa án nước ngoài công nhận và cho thi hành bản án. Điều này
dẫn đến việc là mục đích của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không được đáp ứng,
các bên vừa mất tiền, mất thời gian mà “tật thì vẫn mang”. Ta có thể hiểu rõ được hậu quả
này thông qua ví dụ sau đây. Giả sử rằng, các bên kí kết một thỏa thuận trọng tài (không cần
quan tâm đến hình thức của thỏa thuận là điều khoản trọng tài hay thỏa thuận đưa tranh chấp
lên giải quyết bằng trọng tài) và không lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài đó. Địa
điểm diễn ra trọng tài là nước A và Hội đồng trọng tài quyết định lựa chọn “luật mà họ thấy
phù hợp” là luật nước B để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Theo luật của nước B, thỏa thuận
trọng tài có hiệu lực. Nhưng theo luật nước A thỏa thuận trọng tài lại vô hiệu. Sau khi hội
đồng trọng tài ra phán quyết, bên thắng kiện đem phán quyết đến Việt Nam yêu cầu tòa án
công nhận và thi hành phán quyết tại Việt Nam. Và theo Điều 370 khoản 1(b) Bộ luật Tố
tụng dân sự Việt Nam năm 2004 về các trường hợp không công nhận phán quyết của trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam, phán quyết này không được công nhận do thỏa thuận trọng tài
không có hiệu lực theo luật ở nơi phán quyết được tuyên. Như vậy, mặc dù phán quyết của
trọng tài đã được tuyên nhưng không thể được thi hành bởi thỏa thuận trọng tài giữa hai bên
không phù hợp với pháp luật của nơi phán quyết được lập. Trong trường hợp này, chính các
trung tâm trọng tài hay hội đồng trọng tài đã ra phán quyết cũng “bó tay” và không thể can
thiệp được, việc giải quyết tranh chấp có thể coi như là quay lại từ đầu.
Thực tiễn cho thấy rằng, các vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài tại Việt
Nam hiện nay còn rất ít và chủ yếu tập trung tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC.
Mà ngay cả tại VIAC, số vụ việc được giải quyết hàng năm cũng chưa bao giờ vượt quá con
số 100 vụ86. Một phần lí do mà trọng tài Việt Nam chưa được các doanh nghiệp trong nước,
doanh nghiệp nước ngoài cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng là do việc giải quyết
tranh chấp chưa thực sự hiệu quả và chưa đạt được mục đích cuối cùng là phán quyết trọng
tài được thi hành và công nhận. Tại Việt Nam, chỉ có các tòa án tại các thành phố lớn (cụ thể
là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và gần đây là Đà Nẵng) mới có thái độ tích cực đối với
trọng tài, còn tại các tòa án địa phương nhỏ, các thẩm phán vẫn chưa thực sự đánh giá đúng
86 Số liệu tại trang web của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam: www.viac.org.vn
60
vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nên các phán quyết có
khả năng bị hủy rất cao87.
Đối với các vấn đề liên quan đến trọng tài, các trọng tài viên Việt Nam thường tập
trung vào giải quyết các quy định mập mờ, không rõ ràng trong thỏa thuận lựa chọn trọng tài
để giải quyết tranh chấp mà hầu như không phải xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng
tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là khi các bên tranh chấp không nhắc đến luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài88. Có phải chăng các trọng tài viên cũng “ngại” động chạm đến vấn
đề này vì, như đã phân tích ở trên, luật pháp Việt Nam chưa thực sự quy định rõ ràng và cụ
thể về vấn đề này đồng thời cũng không có một phương pháp nào để xác định luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài một cách thống nhất trong luật Việt Nam. Do đó, các hội đồng trọng
tài trong từng vụ việc thường giải quyết theo cách riêng của mình, cố gắng “lảng tránh” vấn
đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Điều này tạo nên một thực tiễn xét xử tùy tiện trong
trọng tài, gây khó khăn trong việc thi hành phán quyết tại Việt Nam và cả việc được công
nhận và thi hành phán quyết ở nước ngoài. Đây có thể được coi là một bất lợi của các trung
tâm trọng tài Việt Nam so với các trung tâm trọng tài uy tín khác trên thế giới và khu vực, nơi
luật pháp về trọng tài được quy định một cách cụ thể và các hội đồng trọng tài áp dụng luật
pháp một cách thống nhất hơn.
***
Toàn bộ phần trên đây cho thấy một bức tranh toàn cảnh về thực trạng pháp luật
Việt Nam trong vấn đề luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài cũng như thực tiễn vấn đề này
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam. Có thể thấy rằng, việc thiếu sót một
quy định hoặc phương pháp lựa chọn cụ thể liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng
tài trong các văn bản chuyên ngành là một bất lợi lớn cho sự phát triển của trọng tài tại Việt
Nam, nhất là trong điều kiện thị trường trọng tài ở Việt Nam còn rất nhỏ bé, chưa nhận được
nhiều sự quan tâm của giới kinh doanh trong và ngoài nước. Trong cả hệ thống pháp luật
trọng tài, chỉ có một điều khoản duy nhất trong bộ luật Tố tụng dân sự nhắc đến khái niệm
“luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài”, qua đó có thể thấy các nhà làm luật chưa thực sự
quan tâm và đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề này. Để thúc đẩy sự phát triển của
phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam đồng thời gây dựng lòng tin 87 LS Vũ Ánh Dương – Tổng thư kí Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) phát biểu tại Hội nghị kỉ
niệm 20 năm ngày thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, ngày 20/4/2012. 88 ThS Trần Minh Ngọc (2009), “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 11/2009).
61
của các doanh nghiệp đối với các trung tâm trọng tài tại Việt Nam, điều thiết yếu là cần phải
sửa đổi và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về trọng tài nhằm tạo một cơ sở pháp lý vững
chắc giúp thị trường trọng tài Việt Nam tiếp tục tiến lên để bắt kịp với các nước trong khu
vực và sau này là trên toàn thế giới.
3. Một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
Quốc hội đã mất khá nhiều thời gian để chuẩn bị cho sự ra đời của Luật trọng tài
Việt Nam năm 2010. Và thực sự luật này đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của trọng tài
tại Việt Nam. Mặc dù còn “non trẻ” nhưng thị trường trọng tài tại Việt Nam ít nhiều cũng dần
đi vào ổn định, phù hợp với các quy định trong các điều ước quốc tế và các tập quán thương
mại quốc tế. Tuy thời gian ban hành và có hiệu lực chưa lâu (tính đến nay, Luật trọng tài
thương mại mới có hiệu lực được 1 năm 4 tháng) nhưng nó cũng đóng góp đáng kể cho sự
phát triển của thương mại Việt Nam nói chung và trọng tài thương mại tại Việt Nam nói
riêng. Mặc dù vậy nhưng Luật trọng tài Việt Nam 2010 vẫn chưa thực sự hoàn hảo và còn
nhiều thiếu sót, trong một số điều khoản còn chưa theo được sự tiến bộ của Luật mẫu của
UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế. Tất nhiên, công việc sửa đổi luật không phải là
một việc một sớm một chiều có thể làm ngay được, nhưng đây là một vấn đề thật sự cần thiết
và cần được cân nhắc trong tương lai. Nội dung của phần này sẽ nhằm đưa ra một số gợi ý
cho việc sửa đổi hoặc bổ sung Luật trọng tài Việt Nam năm 2010, đặc biệt trong vấn đề luật
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nhằm hoàn thiện hơn các quy định của luật này nói riêng và
của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Trước hết, một công việc cần thiết và có thể làm ngay trong tương lai gần là cơ
quan lập pháp nên ban hành ngay văn bản hướng dẫn thi hành Luật trọng tài năm 2010 bởi lẽ
trong luật còn quá nhiều những chỗ quy định mập mờ, không rõ ràng, cần được giải thích một
cách cụ thể để việc áp dụng được thống nhất, tránh việc các tòa án hoặc các trọng tài viên giải
thích luật một cách tùy tiện. Đây là hi vọng và mong mỏi của rất nhiều các luật sư, các trọng
tài viên và các bên tham gia giao dịch thương mại có nguyện vọng giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài. Liên quan đến vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, Điều 18 khoản 6, cần
được giải thích một cách cụ thể những điều cấm của pháp luật bao gồm những gì? Pháp luật ở
đây là pháp luật của nước nào? Là pháp luật nơi thỏa thuận trọng tài được kí kết? Pháp luật
Việt Nam? Pháp luật nơi diễn ra trọng tài hay là luật pháp áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
62
đó? Kể cả trong trường hợp như giả định đã nêu ở trên89, nếu mục đích của Luật trọng tài
thương mại Việt Nam là buộc các thỏa thuận trọng tài phải tuân theo pháp luật Việt Nam thì
điều này cũng cần được giải thích cụ thể và quy định rõ ràng. Theo ý kiến của cá nhân tác
giả, cần thiết đưa vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài vào ngay điều khoản này. Điều
này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, những người soạn thảo thỏa thuận
trọng tài về tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa thuận của họ, giảm thiếu những khó
khăn và tranh chấp về sau này.
Thứ hai, việc sửa đổi và hoàn thiện Luật trọng tài năm 2010 cũng cần được tính
đến trong tương lai không xa, nhằm bắt kịp xu thế của toàn cầu và đáp ứng sự phát triển trong
công cuộc hội nhập kinh tế của Việt Nam. Những điều khoản liên quan đến luật áp dụng một
cách chung chung cần phải được làm rõ và sửa đổi theo tinh thần của Luật mẫu của
UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế. Cụ thể hơn, cần phải có những quy định riêng
biệt đối với luật áp dụng cho thủ tục tố tụng trọng tài, luật áp dụng cho nội dung vụ tranh
chấp và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Pháp luật trọng tài Việt Nam đặc biệt đề cao
tính độc lập và tự quyết của các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, tuy
nhiên, các bên thường bỏ qua cơ hội “được tự quyết” này của mình và thường dành lại phần
việc khó khăn đó cho hội đồng trọng tài. Do dó, hội đồng trọng tài cần có được những định
hướng về phương án lựa chọn pháp luật một cách thống nhất và cụ thể để có thể chấm dứt
thực trạng các hội đồng trọng tài hành xử theo cách riêng của mình trong mỗi vụ việc.
Đặc biệt trong vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, Việt Nam có thể tham
khảo các tiêu chí lựa chọn như đã được phân tích ở chương II để đưa vào thành quy định
hướng dẫn cho các trọng tài viên trong việc đưa ra quyết định về luật áp dụng này. Dù trong
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam đã có một thừa nhận rằng “thỏa thuận trọng tài phải tuân
theo luật do các bên lựa chọn hoặc luật tại nơi phán quyết được ban hành trong trường hợp
các bên không có sự lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài” tuy nhiên quy định này
chưa thực sự ưu việt bởi trong trường hợp như ví dụ ở phần trên, khả năng phán quyết của
trọng tài không được công nhận vẫn còn khá cao. Như đã phân tích ở chương II90, luật nội
dung giải quyết vụ tranh chấp chỉ phù hợp để trở thành luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài
trong trường hợp thỏa thuận trọng tài được thành lập ở hình thức điều khoản trọng tài. Trong
89 Xem lại mục 2.1.1 của chương III liên quan đến Điều khoản về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong Luật
trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam 90 Xem lại phần 3 chương II: Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và tổng kết chương II,
trang 32-43.
63
khi đó, luật tại nơi phán quyết được ban hành có thể áp dụng cho cả điều khoản trọng tài và
thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài. Đồng thời, luật Việt Nam cũng luôn ủng hộ quyền tự
quyết của các bên trong việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Như vậy, để tối
đa hóa khả năng có hiệu lực của trọng tài nhằm gia tăng số lượng phán quyết của trọng tài
được tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, luật trọng tài Việt Nam nên đưa thêm
vào điều khoản về luật điều chỉnh cho thỏa thuận trọng tài chẳng hạn như: “Thỏa thuận trọng
tài sẽ có hiệu lực nếu nó phù hợp với luật pháp được lựa chọn bởi các bên hoặc với luật pháp
điều chỉnh nội dung của tranh chấp hoặc phù hợp với luật nơi diễn ra trọng tài”.
Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng có thể tham khảo luật trọng tài của một số
nước có hệ thống luật pháp phát triển để có thể lựa chọn phương án hợp lý và phù hợp nhất
với hoàn cảnh của Việt Nam. Một trong những hướng tiếp cận rất tiến bộ đã được thừa nhận
trong Bộ luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sỹ đó là tổng hợp các tiêu chí lựa chọn
vào trong một điều khoản quy định về luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài. Theo Điều
178 khoản 2 Bộ luật Tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sỹ: “Liên quan đến vấn đề nội
dung, thỏa thuận trọng tài sẽ có hiệu lực nếu có phù hợp với luật được lựa chọn của các bên,
hoặc với luật điều chỉnh vấn đề đang tranh chấp, hay cụ thể là luật điều chỉnh hợp đồng
chính hoặc phù hợp với luật Thụy Sỹ”91. Quy định này đã tối đa hóa khả năng có hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài trong các vấn đề liên quan đến luật áp dụng dành cho nó92 hơn nữa vẫn
đề cao được vai trò của luật quốc gia. Theo khuôn mẫu của điều khoản này, ta có thể đưa vào
luật Việt Nam điều khoản về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận
trọng tài sẽ có hiệu lực nếu nó phù hợp với luật pháp được lựa chọn bởi các bên hoặc với
luật pháp điều chỉnh nội dung của tranh chấp hoặc với luật nơi diễn ra trọng tài hoặc phù
hợp với luật Việt Nam”. Phương án này đã bao gồm những tiêu chí luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài ưu việt và an toàn nhất, nó cũng tương đối phù hợp với các văn bản pháp luật
quốc tế về trọng tài, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các trung tâm trọng tài lớn, các tòa án
quốc gia trên thế giới và phù hợp với tinh thần của Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm
201093. Dù có lựa chọn phương án hay tiêu chí nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải thừa
91 Nguyên văn bằng tiếng Anh: “As regards its substance, the arbitration agreement shall be valid if it conforms
either to the law chosen by the parties, or to the law governing the subject-matter of the dispute, in particular
the law governing the main contract, or if it conforms to Swiss law”. 92 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 3.33, trang 173. 93 Xem lại phần 3 chương II: Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, trang 32-42 và phần
2.1.1 chương III: Điều khoản liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, trang 51-52.
64
nhận rằng, càng quy định cụ thể và nhiều lựa chọn bao nhiêu thì khả năng có hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài càng cao lên bấy nhiêu và do đó, loại trừ bớt khả năng phán quyết không
được công nhận do không phù hợp với luật áp dụng cho nó.
Mặt khác, cần thúc đẩy việc tập hợp các quy định về trọng tài vào một văn bản
chuyên ngành thống nhất, mà cụ thể là chuyển phần các quy định về việc công nhận và thi
hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam và của trọng tài Việt Nam tại nước
ngoài vào Luật về trọng tài thương mại. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi,
nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật của các đối tượng có liên quan. Trong trường hợp có
một quy định cụ thể về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài như vừa phân tích ở trên, việc
sửa đổi những cơ sở để tòa án Việt Nam hủy những phán quyết được tuyên tại Việt Nam hoặc
công nhận những phán quyết của trọng tài nước ngoài để thi hành tại Việt Nam cũng cần
được thay đổi để phù hợp với các tiêu chí được đề cập như trên, tránh trường hợp pháp luật
mâu thuẫn lẫn nhau và hệ quả cực xấu là các quyết định của trọng tài liên tiếp bị hủy hoặc
không được công nhận và thi hành, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thất bại.
Tóm lại, về lâu về dài, những khiếm khuyết và hạn chế trong pháp luật Việt Nam
về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài cần phải được khắc phục, sửa đổi và hoàn thiện hơn.
Tất nhiên việc sửa đổi này cũng cần thời gian và cần những chuyên gia nghiên cứu pháp luật
các nước phát triển, tìm ra hướng thay đổi tích cực và phù hợp nhất với thể chế chính trị cũng
như hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cũng cần phải chú ý rằng, với sự phát triển của cơ chế
thị trường tại Việt Nam và trên thế giới, các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp nước
ngoài không chỉ đơn giản chờ đợi sự phát triển của trọng tài ở Việt Nam. Các nhà đầu tư cá
nhân cũng như các quốc gia đều đã tiến hành những cuộc đối thoại với chính phủ Việt Nam
về hi vọng vào sự sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế
thậm chí còn khuyến khích và giúp đỡ cho công cuộc này bằng rất nhiều phương thức khác
nhau chẳng hạn như việc cung cấp và hỗ trợ các chuyên gia pháp lý, các nhà tư vấn hoặc tập
trung vào việc tổ chức những cuộc hội thảo, chương trình để đào tạo các thẩm phán, luật sư,
các trọng tài viên đồng thời trao đổi các chuyên gia nhằm hỗ trợ cho việc phát triển và hoàn
thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực trọng tài thương
mại nói riêng. Khi hệ thống luật pháp về trọng tài được hoàn thiện, điều này sẽ tạo điều kiện
cho trọng tài phát triển sánh ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Và một điều cuối cùng cần lưu ý rằng, trong bất kỳ bối cảnh nào và trong bất kì
pháp luật nước nào, thỏa thuận trọng tài cũng sẽ có hiệu lực nếu phù hợp với luật pháp mà
các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Chính vì thế, để giảm thiểu các rắc rối có thể xảy ra trong
65
quá trình trọng tài, giúp cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đạt đến mục đích cuối
cùng một cách thành công nhất, các bên cần dành thời gian để thỏa thuận kỹ lưỡng về thỏa
thuận trọng tài và đặc biệt không nên bỏ qua quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận
trọng tài của mình. Việc lựa chọn này của các bên có thể ảnh hưởng không nhỏ đến phán
quyết của trọng tài sau này, đồng thời nó cũng giúp các bên tiết kiệm được chi phí và thời
gian giải quyết tranh chấp, tạo điều kiện cho các trọng tài viên tập trung vào giải quyết vấn đề
nội dung mà không phải quan tâm đến các vấn đề “ngoài lề” nữa. Đây là yếu tố quyết định sự
thành bại của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Trong tương lai, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chắc chắn sẽ đóng một
vai trò quan trọng trong các phương thức giải quyết tranh chấp tại Việt Nam và những gợi ý
cho việc sửa đổi như trên đây hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển nhanh và
mạnh của ngành này tại Việt Nam.
66
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh thế giới đang ngày một “phẳng” ra, một quốc gia muốn tồn tại và phát
triển thì không thể bó hẹp mình trong đường biên giới, mà bắt buộc phải hội nhập với khu
vực cũng như toàn thế giới. Toàn cầu hóa đang trở thành một xu thế tất yếu và Việt Nam
cũng không thể nằm ngoài xu thế đó.
Gia nhập vào sân chơi chung của khu vực và quốc tế, đặc biệt là trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và
nước ngoài có thể trao đổi hàng hóa qua các thị trường của nhau, đồng thời có thể tiếp cận
được các nguồn vốn lớn và tiếp cận được nhanh chóng với những công nghệ tiên tiến trên thế
giới để mở rộng qui mô sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Song, đối với Việt Nam, hội
nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế thị trường còn rất non trẻ, đặc biệt
là đối với các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và quốc tế.
Sau hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam không những tăng
nhanh về số lượng, lớn mạnh về quy mô mà còn vươn tầm hoạt động ngày càng sâu rộng hơn
trên thị trường quốc tế. Điều đó dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp gặp phải ngày một nhiều
hơn các tranh chấp trên thị trường quốc tế và phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài đang ngày được các doanh nghiệp quan tâm hơn.
Trọng tài tốt hay không thể hiện ở việc phán quyết trọng tài có khả năng thi hành
hay không hay chỉ mãi mãi nằm trên văn bản. Trên thực tế, Việt Nam đang không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật về trọng tài để hỗ trợ cho việc thực thi phán quyết trọng tài
được nhanh chóng, hiệu quả và chính xác hơn. Trong đó, một trong những việc cấp thiết cần
quan tâm đó là vấn đề luật áp dụng với thỏa thuận trọng tài. Vì vậy, khóa luận đi sâu vào việc
nghiên cứu pháp luật về việc lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại một số quốc
gia trên thế giới để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam, đây là một việc thực sự cần thiết. Sau
thời gian nghiên cứu, tác giả có thể đưa ra một số kết luận như sau:
1. Thỏa thuận trọng tài nói chung và luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài nói riêng là
một vấn đề được đánh giá cao trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo
các văn bản pháp luật quốc tế về trọng tài cũng như luật quốc gia của một số nước,
luật pháp điều chỉnh thỏa thuận trọng tài là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc đến việc công
nhận và thi hành bản án của trọng tài.
2. Trong bất cứ trường hợp nào, hội đồng trọng tài và tòa án luôn phải tôn trọng và ưu
tiên luật được lựa chọn bởi các bên do đó, luật quốc tế cũng như luật pháp các nước
đều để ngỏ cho các bên quyền lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Chính
67
vì thế, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong các hợp đồng được khuyến khích lựa
chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ngay từ đầu nhằm tiết kiệm thời gian và chi
phí trong quá trình giải quyết tranh chấp.
3. Việc suy diễn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp chính là luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài không phải là một sự suy luận an toàn. Mặc dù rất nhiều tòa án cũng
như hội đồng trọng tài lựa chọn phương án này nhưng đây không phải phương án duy
nhất và an toàn nhất cho việc lựa chọn luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài. Ngoài luật
áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp, trọng tài viên có thể lựa chọn luật tại nơi diễn ra
trọng tài, luật hình thức điều chỉnh thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay
luật của tòa án nơi đang giải quyết tranh chấp liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài làm luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, tiêu chí được thừa nhận
rộng rãi, được lựa chọn nhiều nhất và an toàn nhất là luật tại nơi trọng tài diễn ra hay
còn gọi là luật nơi phán quyết được tuyên.
4. Mặc dù Luật trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 có nhiều điểm tiến bộ và đã
nhận thức được tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên Luật này nói riêng
và pháp luật Việt Nam nói chung vẫn chưa thực sự đánh giá được đúng tầm quan
trọng của luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài và thường coi nhẹ vấn đề này. Việc
làm cấp thiết trong thời gian tới nhằm sửa đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài
về Việt Nam đó là:
o Thứ nhất, xây dựng, sửa đổi và bổ sung điều khoản về luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài căn cứ vào tình hình thực tiễn cũng như tham khảo
luật pháp của một số nước phát triển trên thế giới.
o Thứ hai, đưa điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán
quyết trọng tài nước ngoài trong Bộ luật tố tụng dân sự vào Luật trọng
tài thương mại nhằm đưa Luật trọng tài thương mại trở thành một văn
bản thống nhất và hoàn thiện nhất về trọng tài.
Cuối cùng, tác giả hi vọng rằng khóa luận sẽ góp một phần nhỏ vào việc thúc đẩy việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về trọng tài ở Việt Nam, tiến lại gần hơn với các quy chuẩn
quốc tế. Với “tuổi đời non trẻ”, chặng đường phía trước của trọng tài thương mại quốc tế tại
Việt Nam còn rất dài, tuy nhiên với từng bước tiến và hội nhập vững vàng, trọng tài thương
mại quốc tế tại Việt Nam nói riêng và hệ thống thương mại quốc tế tại Việt Nam nói chung sẽ
ngày càng phát triển hơn và sánh ngang với các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế
giới.
I
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
I. Văn bản pháp luật quốc tế
1. Nghị định thư Geneva 1923 về Điều khoản trọng tài
2. Nghị định thư Geneva 1927 về Thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
3. Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài
4. Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về thương
mại quốc tế (UNCITRAL) 1985, sửa đổi bổ sung năm 2006
II. Luật trọng tài của một số nước
1. Luật trọng tài liên bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1925
2. Luật trọng tài Hà Lan 1986
3. Bộ luật tư pháp quốc tế của Liên bang Thụy Sỹ 1987
4. Luật trọng tài Anh 1996
5. Luật trọng tài Brazil 1996
6. Luật trọng tài Đức 1998
7. Luật trọng tài Thụy Điển 1999
8. Luật trọng tài Pháp sửa đổi năm 2011 nằm trong Bộ luật tố tụng dân sự Pháp
III. Văn bản pháp luật Việt Nam
1. Pháp lệnh trọng tài số 08/2003/PL-UBTVQH ngày 25/02/2003
2. Bộ Luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004
3. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010
4. Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 ban hành Điều lệ tạm thời về Hợp đồng
kinh tế
II
5. Nghị định số 20/TTg ngày 14/11/1960 về Tổ chức Trọng tài kinh tế nhà nước
6. Nghị định số 54-CP ngày 10/03/1975 về chế độ Hợp đồng kinh tế
7. Nghị định số 116-CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của các Trung
tâm Trọng tài kinh tế
8. Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh trọng tài thương mại
9. Nghị định 63/2011/NĐ-CP ngày 28/07/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của luật trọng tài thương mại
VỤ VIỆC PHÁP LÝ
1. A v B [2007] 1 Lloyd’s Rep 358.
2. Arab African Energy Corp. Ltd v Olieprodukten Nederland B.V [1993] 2
Lloyd’s Rep.419
3. Bulgarian Foreign Trade Bank Ltd v Al Trade Finance Inc
4. C v D [2007] EWHC 1541 (Comm)
5. Chloe Z Fishing v Odyssey Re, 109 F Supp 2d 1236 (SD Cal 2000)
6. Compagnie d'Armement Maritime S.A. v Compagnie Tunisienne de Navigation
S.A., House of Lords, [1970] 3 W.L.R. 389
7. ICC case number 6162
8. Matermaco v PPM Cranes; Legris Industries SA, 20/09/1999, Hội đồng trọng
tài thương mại, Brussel, niên giám ICCA XXV (2000).
9. Milos Sovak v Chugai Parmaceutical Co, 289 F 3d 615 (9th Cir 2002)
10. Paul Smith Ltd. v. H&S International Holding Inc
11. Pedcor Mgt Inc Welfare Benefit Plan v N Am Indemnity, 343 F 3d 355 (5th Cir
2003)
12. Tamil Nadu Electricity Board v. ST-CMS Electric company private [2007]
EWHC 1713 (Comm).
13. Union of India v. McDonell Douglas Corp [1993] 3 Lloyd’s Rep.48
III
14. XL Insurance Ltd v Owens Corning [2000] 2 Lloyd’s Rep.500.
SÁCH
I. Sách tiếng Anh
1. Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009),
International Arbitration, 5th ed, Oxford University Press.
2. Albert Jan van der Berg (1981), The New York Arbitration Convention 1958,
Kluwer Law International.
3. Andreas Bucher & Pierre-Yves Tschanz (1989), International Arbitration in
Switzerland, Helbing & Lichtenhahn.
4. Bertold H.Hoeniger (1990), Commercial Arbitration Handbook, Parker-Griffin
Pub. Co.
5. Blackaby, Lindsey & Spinillo (2002), International Arbitration in Latin
America, Kluwer Law International.
6. David st.John sutton Judith Gill (2003), Russell on Arbitration, Sweet and
Maxwell.
7. Dicey & Morris (2000), Conflict of Laws, 13th Ed, Sweet and Maxwell.
8. Gary B.Born (1994), International Commercial Arbitration in the United States:
commentary and materials, Kluwer Law and Taxation Publishers.
9. Gary B.Born (2001), International Commercial Arbitration, Transnational
Publishers and Kluwer Law International.
10. Julian D.M. Lew (1978), Applicable Law in International Commercial
Arbitration: a study in commercial arbitration awards, Oceana Publications.
11. Julian D.M. Lew, Loukas A. Mistelis & Stefan Kröll (2003), Comparative
International Commercial Arbitration, Kluwer Law International.
12. Margaret L. Moses (2008), The Principles and Practice of International
Commercial Arbitration, Cambridge University Press, New York.
13. Mark Huleatt, James & Nicholas Gould (1996), International Commercial
Arbitration: A handbook, LLP London – NewYork – Hongkong.
IV
14. Okezie Chukwumerije (1994), Choice of law in international commercial
arbitration, Quorum Books Westport, Conecticut Law.
15. Sanders & Van de Berg (1987), The Netherlands Arbitration Act 1986, Kluwer.
16. Sanders, Encyclopaedia of International and Comparative Law, Vol XIV.
II. Sách tiếng Việt:
1. Dương Văn Hậu (1999), Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi
mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
2. Hội đồng Trọng tài Quốc tế (2010), Trọng tài Quốc tế và tòa án Quốc gia: câu
chuyện không hồi kết (trích dịch), Nhà Xuất bản Lao động, Hà Nội.
3. Nhà Pháp luật Việt – Pháp (1995), Trọng tài Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia
4. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI (2010), Từ điển Thuật ngữ
Trọng tài Thương mại, Hà Nội.
5. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) & Trung tâm thương mại quốc tế
(ITC) (2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà
Nội.
6. Tuyển tập các Công ước về Giải quyết các Tranh chấp Thương mại Quốc tế
(2009), Nhà Xuất bản Lao động, Hà Nội.
BÁO, TẠP CHÍ và BÀI VIẾT KHÁC
I. Tiếng Anh
1. Croff (1982) “The Applicable Law in International Commercial Arbitration: Is
it still a conflict of laws problem?”, 16 INT’L LAW, 613.
2. Danielowicz (1986), “The Choice of Applicable Law in International
Arbitration”, 9 HASTINGS INT’L & COMP.L.REV.235.
3. Delaume (1982), “International Arbitration Under French Law”, 37 ARB.J.335.
4. Derains, The ICC International Court of Arbitration Bulletin, Vol 6 (No. 1).
V
5. Julian D.M.Lew (1998), “The Law applicable to the form and substance of the
arbitration clause”, International Council for Commercial Arbitration Congress
Series (No. 14), Paris.
6. Naon (2004) “Arbitration and Latin America: Progress and Setbacks”,
Freshfield Lecture, Kluwer Law Arbitration.
7. Oxford University Press (1957), “The General Principles of Law Recognised by
Civilised Nations”, Bristish Yearbook of International Law (33).
8. Wilner (1965), “Determining the Law Governing Performance in International
Commercial Arbitration: A Comparative Study”, 19 RUTGERS L. REV.646.
II. Tiếng Việt
1. Bộ Tài chính & Bộ Tư pháp (2010), Đề cương giới thiệu Luật trọng tài thương
mại 2010.
2. TS Đỗ Văn Đại (2007), “Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở
Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý (số 06/2007).
3. Hội luật gia Việt Nam (2009), Giới thiệu tóm tắt Luật trọng tài của một số nước
trên thế giới, Hội Luật gia Việt Nam trình Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 30/4/2009.
4. TS Đặng Xuân Hợp (2012), Sự phát triển của trọng tài quốc tế tại Việt Nam,
phát biểu tại hội thảo về Trọng tài quóc tế được tổ chức bởi Phòng thương mại
công nghiệp quốc tế ICC và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC, Hà
Nội, 23/4/2012.
5. LS Trần Hữu Huỳnh (2000), “Một số vấn đề cơ bản về thoả thuận trọng tài
trong thương mại quốc tế”, Tạp chí Luật học (số 1/2000).
6. Lê Nết, Kinh nghiệm và thực tiễn trọng tài tại Việt Nam – quan điểm của một
trọng tài viên VIAC, phát biểu tại hội thảo về Trọng tài quóc tế được tổ chức bởi
Phòng thương mại công nghiệp quốc tế ICC và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam VIAC, Hà Nội, 23/4/2012.
VI
7. Thạc sỹ Trần Minh Ngọc (2009), “Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài
trong trọng tài thương mại quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số
11/2009).
8. Nguyễn Thái Phúc (2003,) “Một số ý kiến về pháp lệnh trọng tài thương mại”,
Tạp chí khoa học pháp lý (số 2/2003).
9. Trương Hồng Quang (2010), Lịch sử hình thành chế định trọng tài, truy cập
online tại http://hongtquang.wordpress.com/2010/11/07/l%E1%BB%8Bch-
s%E1%BB%AD-hinh-thanh-ch%E1%BA%BF-d%E1%BB%8Bnh-
tr%E1%BB%8Dng-tai/
10. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Soạn thảo điều khoản trọng tài: Những
điểm cần lưu ý.
CÁC TRANG WEB
1. www.uncitral.org
2. www.viac.org.vn
3. http://www.trans-lex.org
4. www.books.google.com
5. http://www.questia.com
6. http://www.iccwbo.org/court/
7. http://www.moit.gov.vn/web/guest/vanban
8. http://vbqppl.moj.gov.vn/pages/vbpq.aspx
9. http://vi.wikipedia.org/
10. http://www.lcia.org/Default.asp