§æi míi c¤ng t¸c tuy£n truyÒn cña §¶ng §¸p øng y£u cÇu héi...
TRANSCRIPT
Häc viÖn chÝnh trÞ quèc gia Hå chÝ minh
LÊ MAI TRANG
§æi Míi C¤NG T¸c TUY£N TruyÒn Cña §¶ng
§¸p øng Y£U CÇu Héi NhËp Quèc TÕ
ë ViÖt NAM HiÖn NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62 31 20 01
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ MINH QUÂN
2. TS. ĐOÀN TRƯỜNG THỤ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Mai Trang
Lê Mai Trang
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 7 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 13
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 20
2.1. Những vấn đề lý luận về tuyên truyền và công tác tuyên truyền của Đảng 20
2.2. Những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với công tác tuyên truyền của Đảng 34
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 58
3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 58
3.2. Vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 97
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 102
4.1. Phương hướng đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế 102
4.2. Giải pháp về đổi mới công tác tuyên truyền đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 103
KẾT LUẬN 140 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 145 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 146
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQP : An ninh quốc phòng
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTTT : Công tác tuyên truyền
CU : Liên minh thuế quan
FTA : Khu vực mậu dịch tự do
HNQT : Hội nhập quốc tế
NXB : Nhà xuất bản
PTA : Thỏa thuận thương mại ưu đãi
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tuyên truyền (CTTT), từ góc độ của khoa học chính trị, nhất
là chính trị học, là hình thức hoạt động quan trọng và cần thiết của một đảng
chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước. Đó là do CTTT - một bộ phận cấu thành quan trọng của
công tác tư tưởng - có nhiệm vụ truyền bá hệ tư tưởng và đường lối cách
mạng trong quần chúng; xây dựng thế giới quan, niềm tin chính trị, tập hợp và
cổ vũ quần chúng hoạt động cách mạng. Vai trò của CTTT là làm cho lý luận
thâm nhập sâu vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất giữa tư tưởng và hành
động và thông qua đó biến lý luận thành thực tiễn.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, CTTT của Đảng không chỉ phương
thức truyền bá hệ tư tưởng chính trị, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; mà còn trở
thành phương thức cầm quyền của Đảng - tuyên truyền đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, CTTT của Đảng còn trở thành một nội dung, một
mắt khâu quan trọng của chu trình chính sách công - từ nghị trình chính sách đến
quyết định, thực thi và đánh giá chính sách.
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đây gọi
tắt là Đảng) và dân tộc ta, CTTT trở thành công tác cách mạng và là công tác
cách mạng đầu tiên của của Đảng. CTTT có vai trò hết sức to lớn trong việc
truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các
lực lượng xã hội tiên tiến, khơi dậy tinh thần yêu nước, tính sáng tạo của quần
chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng.
CTTTcủa Đảng đã cổ vũ toàn dân tộc theo Đảng, làm nên Cách mạng Tháng
Tám, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2
Sau khi giành được chính quyền và trở thành đảng cầm quyền, CTTT
trở thành một trong những phương thức cầm quyền của Đảng, đóng góp to
lớn vào việc xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân đáp ứng các
yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, CTTT của Đảng
đã có nhiều đổi mới, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng trong công
tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, góp phần
vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội
nhập quốc tế (HNQT).
Trong mối quan hệ giữa CTTT của Đảng và HNQT, với tính cách là
trường hợp nghiên cứu hay đối tượng nghiên cứu của luận án này, có thể thấy
CTTT của Đảng đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình và HNQT ở
nước ta. CTTT của Đảng về HNQT đã tích lũy được những bài học kinh
nghiệm bước đầu quý báu, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ tuyên truyền đáp ứng yêu cầu của HNQT ở nước ta hiện nay và
những năm tới.
Tuy nhiên, CTTT Đảng trong điều kiện HNQT cũng bộc lộ nhiều hạn
chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, đó là
những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội, điểm xuất phát thấp của đất
nước khi tham gia HNQT, sự biến động phức tạp của tình hình thế giới. Về
chủ quan, CTTT của Đảng về HNQT còn ít sức hấp dẫn, chưa cập nhật, chưa
chủ động. Phương pháp CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT cơ bản vẫn
một chiều, còn biểu hiện chủ quan, giáo điều, hình thức, ít đối thoại, tranh
luận, thảo luận dân chủ. Việc định hướng thông tin còn chậm, để có thông tin
không chính thống, thông tin xấu lan tràn nhanh rộng trong xã hội, tác động
không tốt đến tư tưởng của cán bộ và nhân dân. Việc đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái còn bị động, nội dung chưa sắc bén, chưa kịp thời thu hút
3
được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia. Phạm vi tác động của CTTT
của Đảng còn hạn hẹp, phương tiện thông tin còn thiếu thốn và lạc hậu. Tổ
chức bộ máy CTTT của Đảng chưa tinh gọn, thiếu tính chuyên nghiệp. Đội
ngũ cán bộ làm CTTT của Đảng còn nhiều hạn chế về năng lực và trách
nhiệm, trình độ công nghệ thông tin còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền của Đảng còn những bất cập nhất định như trình
độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng cao; yêu cầu và
mức độ cập nhật thông tin của cán bộ đảng viên và nhân dân ngày càng nhanh
chóng và đa chiều; chủ thể và đối tượng của CTTT của Đảng ngày càng đa
dạng và phức tạp; phạm vi và giới hạn của CTTT của Đảng ngày càng rộng
rãi, không chỉ tuyên truyền ở trong nước mà còn tuyên truyền ra với thế giới.
Thực hiện chủ trương của Đại hội IX về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị (khóa
IX) về hội nhập kinh tế quốc tế; chủ trương của Đại hội X về chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các
lĩnh vực khác và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa X) ngày 05/02/2007 về một
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới; chủ trương của Đại
hội XI về HNQT, Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về
HNQT, đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra đối với quá
trình HNQT, trong đó có CTTT của Đảng.
Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về HNQT xác định:
"Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu
hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ
trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống
nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình
hội nhập quốc tế" [35] là một trong những định hướng chỉ yếu của HNQT ở
nước ta hiện nay. Theo đó, CTTT của Đảng cần phải được đổi mới về vị trí
4
và chức năng, nội dung và hình thức, phương pháp và phương tiện, tổ chức
bộ máy và cán bộ.
Công cuộc đổi mới nói chung, HNQT nói riêng đang đặt ra cho CTTT
của Đảng những yêu cầu mới - dân chủ,khách quan, kịp thời, chủ động, đa
chiều,... CTTT của Đảng không chỉ là sự thuyết phục bằng lý luận mà còn
phải được chứng minh bằng thực tiễn sinh động. Nếu trước kia chỉ cần coi
trọng một mặt “Đảng nói, dân tin”, nhưng ngày nay phải chú trọng hơn mặt
thứ hai “Đảng làm, dân theo”, “Dân nói, Đảng nghe”.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới
công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận án tiến sĩ Chính trị học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về đổi mới CTTT của Đảng. Luận
án phân tích thực trạng và đề xuất nhằm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng được
yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay góp phần cho hội nhập thành công.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan hình hình nghiên cứu có liên quan:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cần thiết, có liên quan về CTTT
của Đảng và CTTT của Đảng trước yêu cầu của HNQT của Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng (kết quả, hạn chế, nguyên nhân, kinh nghiệm và vấn
đề đặt ra) của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
- Đề ra những quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT của Đảng
đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đổi mới CTTT của Đảng nhằm
đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay.
5
Khách thể nghiên cứu của luận án là các văn kiện của Đảng và Nhà
nước có liên quan; các báo cáo thực tế của các cơ quan có liên quan; nghiên
cứu, tham khảo các tài liệu thứ cấp khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về góc độ tiếp cận nghiên cứu, CTTT của Đảng được nghiên cứu
dưới góc độ chính trị học, với tính cách một phương thức lãnh đạo, phương
thức cầm quyền của Đảng ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian luận án nghiên cứu, CTTT của Đảng trong quá trình
HNQT từ năm 2007 (khi Việt Nam gia nhập WTO) cho đến 2015.
- Về không gian, luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu ở Ban Tuyên
giáo Trung ương Đảng, một số bộ, ngành, đoàn thể, báo, đài ở Trung ương;
Ban Tuyên giáo một số tỉnh, thành phố mang tính đại diện cho các vùng, miền
trong cả nước.
- Về nội dung nghiên cứu, luận án nghiên cứu các hoạt động nội dung
của CTTT của Đảng trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
an ninh quốc phòng (ANQP) đối ngoại...
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về CTTT của Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp công cụ cho việc nghiên cứu của luận án là phân
tích, tổng hợp, lịch sử, lô gíc, so sánh và các phương pháp khác.
5. Những đóng góp về khoa học Thứ nhất, bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận về CTTT và đổi
mới CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay từ góc độ
chính trị học.
6
Thứ hai, làm rõ nội hàm của khái niệm CTTT của Đảng với tính cách
một phương thức cầm quyền của Đảng và những đặc điểm của nó.
Thứ ba, làm rõ những yêu cầu của HNQT đối với CTTT của Đảng ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đánh giá thực trạng của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT
ở Việt Nam hiện nay (theo những tiêu chí về chủ thể, khách thể, đối tượng,
phạm vi, mức độ, hiệu quả, v.v.).
Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT
của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho
việc xây dựng chủ trương, chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai CTTT
của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học chính trị, khoa học tuyên truyền
và nhất là chính trị học về những vấn đề của CTTT và CTTT của Đảng trong
điều kiện HNQT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về CTTT nói chung và
CTTT của đảng chính trị nói riêng - từ đảng chính trị nói chung đến đảng lãnh
đạo, đảng cầm quyền với nhiều góc độ (góc độ tiếp cận nghiên cứu) và
phương diện (mặt, khía cạnh, nội dung) khác nhau. Các công trình nghiên cứu
về CTTT của đảng chính trị đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn từ
nội dung đến hình thức và phương pháp của CTTT của đảng, xác định các
quan điểm khoa học - thực tiễn và các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả CTTT của đảng. Tuy nhiên, do yêu cầu và đặc điểm về nội
dung của luận án này, CTTT được nghiên cứu với tính cách một lĩnh vực hoạt
động của Đảng Cộng sản, hơn nữa lại là Đảng Cộng sản cầm quyền, do vậy
phần lớn các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án là của các tác giả
Liên Xô trước đâyvà Trung Quốc cho đếnnay.
1.1.1. Những vấn đề lý luận chung về công tác tuyên truyền của
Đảng Cộng sản Thứ nhất, về mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ của công tác tuyên truyền
của Đảng Cộng sản
Tác phẩm "Làm gì?" của V.I.Lênin [119] đã kế thừa, phát triển một
cách toàn diện những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CTTT. Tác
phẩm đã phân tích, luận giải vị trí, tầm quan trọng của CTTT; khái niệm
tuyên truyền cổ động; lực lượng, đối tượng, phương pháp tuyên truyền của
Đảng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đưa ra những
đánh giá sâu sắc về xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền đến hôm
nay vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hàng tuần nên tổ chức giảng cho họ vài bài
và biết kịp thời điều động họ đến những thành thị khác, nói chung tổ chức cho
những người có khả năng tuyên truyền đi thăm các thị trấn” [119, tr.115].
8
Tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của C.Mác - Ph.Ăngghen [42]
là tác phẩm lý luận đầu tiên đề cập đến CTTT và cổ động của giai cấp vô sản
cách mạng. Tác phẩm này này đã chỉ ra mục đích của CTTT là xóa bỏ chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thành chính quyền” [42, tr.42];
chỉ ra đối tượng tuyên truyền không chỉ là tập hợp quần chúng vô sản mà còn
lôi kéo các tầng lớp khác đi theo giai cấp mình; nêu ra khẩu hiệu hành động
cách mạng: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” [42, tr.75].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô trước
đây, có nhiều công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng, một số đã được
dịch ra tiếng Việt. Khi nghiên cứu về cơ sở của hoạt động tuyên truyền tư
tưởng của Đảng Cộng sản, các nhà khoa học đi sâu phân tích làm rõ các
đặc điểm và những yêu cầu dưới góc độ tâm lý học, giáo dục học đối với
hoạt động này. Tác phẩm "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của
M.I.Calinin [91] đã nêu những nguyên lý cộng sản dưới hình thức đơn
giản nhất: trung thực, có học thức, có lòng yêu Tổ quốc; còn giáo dục và
bồi dưỡng những phẩm chất cao quý là một yếu tố hết sức quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục cộng sản. M.I.Calinin khẳng định: “Cần phải đến
với từng người, đánh giá họ, làm nổi bật những mặt tốt của họ bởi vì
không thể chỉ giáo dục dựa trên mặt tiêu cực” [91]. Nhà giáo dục Xô Viết
V.A.Cruchetxki viết:
Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục cuộc sống là hình thành thế hệ
trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững chắc và hành vi
đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó. Chỉ có thể giải
quyết được nhiệm vụ đó bằng cách dựa trên những trí thức về quy
luật tâm lý của sự hình thành nhân cách tích cực và có mục đích, về
những quy luật phát triển đạo đức của nó cũng như sự hiểu biết đầy
đủ những đặc điểm cá nhân [118].
9
Ở Trung Quốc, trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH,
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rất coi trọng CTTT và xác định rõ nhiệm vụ
cơ bản của CTTT là nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về chủ
nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba
đại diện” quan điểm “phát triển khoa học”, coi “phát triển khoa học” là cơ sở
để xây dựng “xã hội hài hòa”, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tích cực cải tiến
các hình thức tuyên truyền, giáo dục đa dạng và phong phú để nâng cao nhận
thức, làm cho cán bộ và quần chúng giữ vững niềm tin đối với chủ nghĩa Mác
và công cuộc xây dựng CNXH đặc sắc của Trung Quốc.
Về mục đích của CTTT, cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong
thời kỳ mới" của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
[21] chỉ rõ: CTTT tư tưởng phải tạo ra động lực tinh thần to lớn, tạo nên sự
ủng hộ bằng trí tuệ, bảo đảm về tư tưởng và môi trường dư luận lành mạnh
cho công cuộc cải cách, mở cửa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN
một xã hội tiến bộ toàn diện.
Thứ hai, về nội dung và hình thức công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản
Trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi trọng CTTT tư tưởng. Đặc biệt,
cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới" của Trần Khang và
Lê Cự Lộc dịch [71] đã tổng kết một cách có hệ thống những kinh nghiệm cơ
bản trong CTTT tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó chỉ rõ vai
trò đặc biệt quan trọng của CTTT. Trên các mặt trận lãnh đạo của Đảng thì
tuyên truyền tư tưởng là mặt trận hết sức quan trọng. Trong các cơ quan lãnh
đạo các cấp của Đảng thì chính quyền làm CTTT tư tưởng là hết sức quan
trọng, còn trong hàng ngũ cán bộ của Đảng thì những người làm CTTT tư
tưởng là lực lượng hết sức quan trọng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc coi tuyên truyền tư tưởng của Đảng là
phương tiện giáo dục, vận động quần chúng và mang tính chính trị rất cao có
10
đặc điểm là công khai, kịp thời, nhanh nhạy, có thể đưa đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng vào trong quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi và biến
thành hành động thực tế của quần chúng. Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Trung Quốc Giang Trạch Dân chỉ rõ: "Tăng cường và cải tiến công tác chính
trị, tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là một việc lớn của toàn Đảng,
cũng là nhiệm vụ nặng nề về công tác tuyên truyền tư tưởng" [47]. Trong bài
"Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 30 năm cải
cách mở cửa", tác giả Tập Cận Bình đã nêu:
Trước sau như một, Đảng coi việc học tập và vận dụng chủ nghĩa
Mác, đặc biệt là những thành quả mới nhất của sự nghiệp Trung
Quốc hóa chủ nghĩa Mác là nội dung trung tâm giáo dục, bồi dưỡng
cho đảng viên và cán bộ, v.v. ra sức thúc đẩy việc đưa vào giáo
trình, giảng đường, tuyên truyền giáo dục những tư tưởng chói lọi
quan trọng như lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại
diện” và quan điểm phát triển khoa học, để giúp đông đảo cán bộ, đảng
viên xác định chắc chắn thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá
trị chủ nghĩa Mác, tỉnh táo và kiên định chính trị, duy trì và phát triển
tính tiên tiến của người đảng viên cộng sản [trích theo 33, tr.10].
Trong tình hình mới, việc giữ vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác -
Lênin đặc biệt chú ý không ngừng tăng cường sức thuyết phục sức chiến đấu
của Chủ nghĩa Mác. Muốn vậy, phải tăng cường hai mặt: Kịp thời tổng kết
kinh nghiệm, rút ra những nhận thức mới về tư tưởng, lý luận mà đời sống đặt
ra; đồng thời vận dụng quan điểm mác - xít để đấu tranh chống lại các quan
điểm sai lầm, góp phần giữ vững nhận thức.
Thứ ba, về đối tượng và phương pháp công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản
Tác phẩm: "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của M.I.Calinin [91] đã
nhấn mạnh phương pháp CTTT quan trọng là sự đa dạng và phát huy hiệu quả
vai trò của giáo dục với ý thức con người.
11
Ở Trung Quốc, bàn về đối tượng CTTT, trong bài: "Làm thế nào để làm
công tác tư tưởng trong thời kỳ mới" của tác giả Phạm Vân Như và các cộng
sự (Trần Khang, Lê Cự Lộc dịch) [71] cho rằng: đối tượng CTTT là con
người và để làm tốt công tác tư tưởng cho quần chúng cần thích ứng cụ thể
của quần chúng, áp dụng phương pháp khoa học. Theo tác giả Điền Trung
Mẫn, phương châm CTTT là lấy dân làm gốc, bám sát thực tế, bám sát quần
chúng nhân dân, cố gắng vận dụng nhiều hình thức.
1.1.2. Những vấn đề về đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản
Cuốn giáo trình: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới"
của tác giả Bùi Phương Dung [47] đã góp phần bổ sung, làm rõ lý luận về
CTTT; phân tích khái niệm, phương pháp, phương thức tiến hành CTTT, các
loại hình cơ bản của công tác điều tra, nghiên cứu thông tin và xây dựng đội
ngũ những người làm CTTT.
Những yêu cầu đặt ra đối với CTTT cũng được bàn bạc sâu sắc trong
bài: "Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc" của tác
giả B.Mozias [40] đã nhấn mạnh những yêu cầu CTTT của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, trong đó bộ máy tuyên truyền Đảng Cộng sản từng bước “cấy”
những giá trị thị trường mới vào khuôn khổ hệ tư tưởng hiện thời, làm cho
chúng trở nên dễ hiểu và dễ chấp nhận đối với quần chúng nhân dân.
Ở Trung Quốc, các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi đã đi sâu làm
rõ những quan niệm về hiệu quả CTTT và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả -
trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; ý thức, niềm tin cộng sản chủ nghĩa và tính tích cực
xã hội (tiêu chuẩn quyết định công tác tư tưởng, CTTT). Các tác giả cũng chỉ
ra các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để nâng cao hiệu quả CTTT.
Theo đó, điều kiện khách quan là lối sống xã hội, chế độ dân chủ và môi
trường xã hội. Nhân tố chủ quan bao gồm trình độ lãnh đạo của của Đảng đối
12
với CTTT, năng lực của cán bộ tuyên truyền, thường xuyên cải tiến các hình
thức, phương pháp; phát huy vai trò của các cơ quan tuyên truyền và các tổ
chức xã hội [109].
Các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi còn chỉ ra tính tất yếu của
việc đổi mới CTTT của Đảng Cộng sản, các tác giả này xác định rõ sự cần
thiết phải đẩy mạnh công tác tư tưởng và phương hướng đổi mới CTTT. Trên
cơ sở nghiên cứu nguyên nhân khiến Liên Xô, Đông Âu thay đổi chế độ, các
tác giả cho rằng, không được để khoảng trống trên trận địa văn hóa, tư tưởng.
Từ việc nhận thức rõ vai trò của các phương pháp, phương tiện - những binh
chủng của CTTT như báo chí, truyền thông, dư luận xã hội, v.v. các tác giả
còn chỉ rõ vai trò của những phương tiện đó để nâng cao hiệu quả của CTTT -
đó là “xây dựng cơ chế phản hồi nhanh dư luận, tạo ra kênh thông tin thông
suốt cho quyết sách của Đảng và Chính phủ” [109, tr.83].
Có thể nói, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, với sự ra đời và phát triển của các Đảng Cộng sản cầm quyền trên thế
giới, những nghiên cứu về CTTT của Đảng Cộng sản đã được quan tâm
nghiên cứu. Các công trình trên đã góp phần làm rõ lý luận về CTTT như khái
niệm, đặc điểm, phương pháp, phương tiện, nguyên tắc của CTTT; đồng thời
cũng chỉ rõ tính tất yếu khách quan, những giải pháp của việc đổi mới, nâng
cao hiệu quả CTTT trong mỗi giai đoạn lịch sử. Đó là những nguồn tư liệu
quý báu cho CTTT của Đảng ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, với những nét đặc thù về chế độ chính trị - xã hội, truyền
thống văn hóa giàu bản sắc của Việt Nam thì việc làm cần thiết là tiếp tục
nghiên cứu, làm giàu những tri thức xung quanh đề tài này và vận dụng cho
phù hợp với điều kiện nước ta sẽ nâng cao hiệu quả CTTT, góp phần tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa đất nước vững
bước đi lên trên con đường hội nhập và phát triển. CTTT của Đảng trong điều
kiện HNQT và trước yêu cầu HNQT cần thực hiện như thế nào để đạt được
hiệu quả mong muốn là vấn đề cần được làm rõ.
13
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu (hội thảo, đề
tài khoa học, giáo trình, giáo khoa, luận văn, luận án và bài tạp chí khoa học,
v.v.) có liên quan đến lĩnh vực CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng
trong điều kiện HNQT nói riêng từ những khía cạnh khác nhau và thể hiện ở
một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về vị trí và vai trò của CTTT của Đảng nói chung và CTTT
của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như:
Cuốn sách "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền" của tác giả Đào
Duy Tùng [117] đã khẳng định rất cụ thể vị trí, vai trò và nhiệm vụ lớn lao
của CTTT trong tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung và trong công tác
xây dựng Đảng nói riêng; những bài học kinh nghiệm và phương châm chỉ
đạo của CTTT; những nội dung và biện pháp của CTTT nhằm chống lại
những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, phong kiến, nâng cao chất lượng và
hiệu quả của CTTT.
Cuốn sách "Nguyên lý công tác tư tưởng" tác giả Lương Khắc Hiếu
[64] đã đề cập đến những vấn đề chung nhất của CTTT như đối tượng, bản
chất, hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm
hoạt động và vai trò CTTT; những nội dung cơ bản của công tác giáo dục tư
tưởng về thế giới quan, những vấn đề về phương pháp, hình thức, phương tiện
và sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT như hệ thống giáo dục lý luận chính
trị, các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng đội ngũ cán bộ tư
tưởng. Tác giả nêu ra hai nhóm nâng cao hiệu quả CTTT. Nhóm thứ nhất là
thiết lập các điều kiện cho công tác tư tưởng gồm: môi trường sống, điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tồn tại xã hội nói chung. Nhóm thứ
hai là tác động vào các yếu tố công tác tư tưởng gồm: nắm vững đối tượng,
xác định mục đích, nội dung, phương thức phù hợp; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, kiện toàn bộ máy CTTT. Cuốn sách là tài
14
liệu rất cơ bản giúp nghiên cứu sinh làm tài liệu tham khảo và sử dụng để
trình bày những vấn đề lý luận của luận án. Tuy nhiên, nội dung hai cuốn
sách chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về công tác tư tưởng nói
chung, trong đó có CTTT.
Công trình: "Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay" của tác giả Trương Minh Tuấn [116] đã đề cập đến việc
đổi mới CTTT ở Tây Nguyên trong bối cảnh HNQT. Việc nhận thức sâu sắc
về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của CTTT sẽ góp phần ổn định chính trị -
xã hội ở Tây Nguyên, đây là cơ sở để phát triển bền vững một trong những
địa bàn trọng điểm của đất nước trong HNQT hiện nay.
Cuốn sách: "Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới"
của tác giả Phạm Tất Thắng [108] đã đề cập sâu về công tác tư tưởng, lý luận
của Đảng, trong đó đưa ra những biện pháp đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung,
phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng nhằm phát huy sức mạnh của nền dân chủ XHCN, của đại đoàn kết toàn
dân tộc, phấn đấu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế.
Về tuyên truyền thi đua yêu nước, cuốn sách viết: “Đổi mới cách viết, tuyên
truyền gương người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng
thiết thực, không hình thức, không phô trương, lãng phí, phù hợp với điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [108].
Bài viết: "Tạo bước chuyển biến căn bản trong tổ chức hoạt động đối
ngoại" của tác giả Xuân Anh [4] đã chỉ rõ trong bối cảnh nước ta HNQT ngày
càng sâu rộng, CTTT của Đảng có vai trò quan trọng làm cho thế giới hiểu rõ
và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kỷ yếu khoa học: "Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020" của Ban Chỉ đạo Trung
ương [8] đã tập hợp báo cáo của Ban Chỉ đạo và tham luận của các bộ, ngành
15
Trung ương, các tỉnh, thành phố, các huyện, xã và doanh nghiệp tiêu biểu,
đánh giá cao vai trò của CTTT trong xây dựng nông thôn mới và đưa nông
nghiệp, nông dân, nông thôn tham gia có hiệu quả vào quá trình HNQT.
Tham luận của các đại biểu Hà Nội nêu rõ:
Thành phố đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền bằng nhiều hình
thức: tổ chức Lễ phát động "Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới"...
Thông qua các lớp học tập nghị quyết, chuyên đề, lồng ghép công tác chuyên
môn gắn với xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền lưu động, xây dựng phim
tài liệu, phóng sự, tiểu phẩm, thơ ca, tổ chức các cuộc tọa đàm, phát tờ rơi
tuyên truyền, khẩu hiệu, panô, áp phích, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, v.v. [8].
Thứ hai, về thực trạng CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng
trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như:
Cuốn sách: "Giáo trình chuyên ngành công tác tư tưởng" của Ban
Tuyên giáo Trung ương [11]; "Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội
nhập, phát triển của nước ta" của Ban Tuyên giáo Trung ương [13] đã chỉ ra
những nhược điểm, hạn chế của CTTT nói chung và tuyên truyền kinh tế nói
riêng là “chậm đổi mới phương thức hoạt động để phù hợp với tình hình mới
và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước; công tác
tuyên truyền về lĩnh vực kinh tế chưa được chú trọng đúng mức” [13].
Bài viết: "Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác
tuyên giáo" của tác giả Lê Hồng Anh [2] đã chỉ rõ thực trạng CTTT hiện nay.
Bên cạnh kết quả đạt được là cơ bản đã góp phần nâng cao nhận thứ, niềm tin
trong các tầng lớp nhân dân về con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại trong CTTT về nội
dung còn "đơn điệu, nghèo nàn", biện pháp còn "sơ cứng", chưa tạo hiệu quả
sau và rõ nét. Từ đó, tác giả đã đề cập tới một số giải pháp cho là khả thi để
nâng cao hơn hiệu quả CTTT của Đảng.
16
Thứ tư, về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới CTTT của Đảng
nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công
trình nghiên cứu như:
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 -
2010" của Ban Tuyên giáo Trung ương [12] đã đánh giá kết quả và đề ra giải
pháp tuyên truyền sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Cuốn sách: "Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng" của tác giả Hà Học Hợi [69] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT của Đảng trong bối
cảnh của những năm đầu thế kỷ XX, góp phần tạo ra sự thống nhất hơn nữa
trong Đảng và đồng thuận trong xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở làm rõ tiêu chí đánh giá chất
lượng và hiệu quả CTTT, dự báo tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và
nhân dân trong giai đoạn mới, tác giả đã đề xuất các phương pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả là: Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, cổ
động, đảm bảo bộ máy làm CTTT. Cuốn sách đã góp phần triển khai thực
hiện nghị quyết Trung ương lần thứ năm khóa IX (tháng 2/2002) về nhiệm vụ
chủ yếu của CTTT, lý luận trong tình hình mới.
Các cuốn sách chuyên khảo như: "Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo
cán bộ làm công tác tư tưởng" của Trần Thị Anh Đào [59]; "Công tác tư
tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của tác giả Trần Thị
Anh Đào [60] các công trình này đã đề cập khá toàn diện về mặt lý luận của
công tác tư tưởng nói chung và CTTT nói riêng, trong đó có luận giải về
phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, CTTT và
nhất là vấn đề đào tạo cán bộ tư tưởng từ thực tiễn của Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
17
Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Hội nhập
quốc tế - nhìn từ thực tế" của Tỉnh ủy Quảng Ninh [110], trong kỷ yếu này,
tác giả Vũ Văn Phúc cho rằng, Đảng cần đẩy mạnh CTTT, vận động, giáo
dục, thuyết phục, thực hiện công khai, dân chủ trong Đảng và xã hội; tác giả
Lê Hữu Nghĩa với bài viết: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Việt Nam trong điều kiện một Đảng cầm quyền” [110]; tác giả Hà Đăng với
bài: "Đổi mới phương thức công tác tư tưởng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế" [110]; tác giả Trần Khắc Việt với bài: "Phương thức lãnh
đạo của Đảng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế" [110]... đã đánh giá tình hình thực tế CTTT của Đảng và
làm rõ hơn CTTT của Đảng trong điều kiện đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam.
Thứ tư, về giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của CTTT của
Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các
công trình nghiên cứu như:
- "Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quá trình chủ động hội
nhập nền kinh tế thế giới" của Ban Tuyên giáo Trung ương [14] đã đề cập tới
một số nội dung hình thức cho CTTT của Đảng khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thông tin - tuyên truyền
trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân trong tình hình mới" của Ban Đối ngoại
Trung ương Đảng [9] đã đề cập một số nội dung, hình thức thông tin ra nước
ngoài về sự phát triển kinh tế đất nước.
- "Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của các “sản phẩm thông
tin đối ngoại” của tác giả Lê Hồng Anh [1] đã đề cập đến các nội dung của
thông tin đối ngoại trong đó đã nhấn mạnh phải đổi mới nội dung tuyên
truyền cho phù hợp với yêu cầu mới. Theo đó tuyên truyền về chủ trương,
18
đường lối, chính sách của Việt Nam, thành tựu đổi mới, hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam nhằm mục tiêu để bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước
ngoài hiểu biết đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; qua đó huy động được sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng
quốc tế đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trọng tâm
là phản ánh kịp thời, đầy đủ quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất
nước; chủ trương và chính sách của Nhà nước, tiềm năng và cơ hội đầu tư.
Nhận xét chung, các công trình nghiên cứu đã:
Thứ nhất, đã luận bàn một số quan điểm cơ bản về nguyên lý công tác
tuyên truyền, yêu cầu, nội dung, phương thức công tác tuyên truyền của Đảng
và những vấn đề cơ bản của HNQT. Khẳng định CTTT của Đảng trong những
năm qua đã tập trung tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về HNQT, giúp nhân dân định hướng rõ nét hơn con
đường phát triển của Việt Nam trong thời kỳ HNQT, động viên cổ vũ nhân
dân tham gia HNQT, góp phần vào thành công chung của công cuộc đổi mới.
Thứ hai, đã chỉ ra một số kết quả, hạn chế, thách thức và các giải pháp
nhất định nhằm đổi mới CTTT của Đảng góp phần đưa đất nước HNQT thành
công. Đã đề cập đến một số tác động (tích cực và tiêu cực) của HNQT đối với
CTTT của Đảng, xác định việc đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
CTTT của Đảng là việc cần thiết, là nhiệm vụ quan trọng, nhưng khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài và bền bỉ.
Tuy nhiên, xung quanh việc nghiên cứu các đề tài, bài viết và sách đã
nêu còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận về CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT cũng như những vấn đề mà HNQT đặt ra với CTTT như:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã có, mới dừng lại ở vấn đề
chung về lý luận cũng như thực tiễn chung của quốc tế, mà chưa phân tích
một cách kỹ càng, thấu đáo tính đặc thù của Việt Nam khi hội nhập. Các công
trình đã có mới tập trung vào ảnh hưởng CTTT tới sự phát triển kinh tế quốc
19
tế mà chưa bàn sâu đến tác động của CTTT tới các lĩnh vực khác. Việc tìm
hiểu tác động của quá trình HNQT đến CTTT của Đảng chưa nhiều.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về CTTT của Đảng trong điều kiện
HNQT ở góc độ khoa học chính trị nói chung và chính trị học nói riêng còn ít.
Trong khi CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT rất cần được nghiên
cứutheo chiều sâu và nghiên cứu từ góc độ của chính trị. Dưới góc độ chính
trị học, việc tiếp cận CTTT của Đảng đang còn là vấn đề cần được nghiên cứu
nhiều hơn, góp phần nâng cao năng lực trong thực thi quyền lực của hệ thống
chính trị đáp ứng yêu cầu đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu CTTT của Đảng chủ yếu là đề xuất
nâng cao chất lượng CTTT của Đảng trong HNQT mà thiếu đi những bài viết,
những nghiên cứu sâu về các yêu cầu mới của HNQT, các tác động của
HNQT để từ đó đòi hỏi CTTT của Đảng phải nâng cao hơn nữa về chất lượng
như thế nào để đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, “tìm kiếm câu trả lời” cần
thiếtvà có thể cho những vấn đề chưa được làm rõ về CTTT của Đảng và đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT ở Việt Nam hiện nay, luận án
này xác định ba nhóm vấn đề chủ yếu cần nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, CTTT của Đảng xem xét từ góc độ chính trị học là gì? CTTT
của Đảng với tính cách là một phương thức thực thi quyền lực chính trị của
Đảng cầm quyền là gì và có những đặc điểm, yêu cầu gì? HNQT ở Việt Nam
cho đến nay đặt ra yêu cầu gì đối với CTTT của Đảng (với tính cách Đảng
cầm quyền)?
Thứ hai, thực trạng và vấn đề đặt ra của CTTT Đảng trong điều kiện
HNQT ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Nguyên nhân và bài học của CTTT
của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay là gì?
Thứ ba, CTTT của Đảng cần phải đổi mới như thế nào (quan điểm, giải
pháp và kiến nghị đổi mới) để đáp ứng các yêu cầu của HNQT?
20
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN VÀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG
2.1.1. Tuyên truyền và công tác tuyên truyền
2.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đã được nhà thờ
La Mã sử dụng từ gần 400 năm trước, dùng để chỉ hoạt động của các nhà
truyền giáo với mục đích thuyết phục, lôi kéo những người khác đi theo đạo
Ki-tô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền dược sử dụng một cách rộng rãi, để biểu
đạt các hoạt động nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng người khác và định
hướng hành động của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Tiếng La tinh tuyên truyền (prapaganda) có nghĩa là truyền bá, truyền
đạt một quan điểm nào đó. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô, thuật
ngữ tuyên truyền có hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là
sư truyền bá những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học nghệ
thuật, v.v. nhằm phổ biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành
hành động cụ thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là tuyên
truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là hình thành
trong đối tượng tuyên truyền một thế giới quan, một kiểu xã hội nhất định và
cổ vũ tính tích cực xã hội của con người.
Theo Từ điển Hán - Việt, “tuyên” có nghĩa là tản khắp mọi nơi; “truyền”
có nghĩa là đem của người này trao cho người khác [75]. Theo Từ điển Chính
trị, “Tuyên truyền là giải thích phổ biến một tư tưởng, một học thuyết, một lý
luận chính trị nào đó” [41] để thuyết phục, vận động mọi người làm theo.
21
Có thể hiểu: tuyên truyền là phổ biến, giải thích một học thuyết, một tư
tưởng, một quan điểm nào đó nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối tượng
tuyên truyền truyền một thế giới quan, nhân sinh quan, một lý tưởng, một lối
sống,thông qua đó mà ảnh hưởng tới thái độ, tính tích cực của con người
trong thực tiễn xã hội.
2.1.1.2. Khái niệm công tác tuyên truyền
Khi nhận thấy tầm quan trọng của tuyên truyền đối với đời sống xã hội,
con người đã hình thành cho mình một quy trình thực hiện đầy đủ, toàn diện
và hiệu quả hơn việc tuyên truyền và đã hình thành công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền với tư cách là một hành động góp phần thực hiện
nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị; đây là hoạt động đặc thù
bởi nó tác động vào đối tượng vốn rất phức tạp là nhận thức, tư tưởng của con
người. Chính vì thế, CTTT vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, phản ánh một
cách tập trung những cách thức làm thay đổi nhận thức thức, thái độ và hành
vi vốn rất phức tạp của con người.
Công tác tuyên truyền xuất hiện và tồn tại trong xã hội loài người, là
một hoạt động xã hội, cả chủ thể và khách thể tham gia đều là con người. Đối
tượng tác động của nó là ý thức con người và rộng hơn là ý thức xã hội. Hoạt
động tuyên truyền là hoạt động của con người tác động đến con người. Tuyên
truyền phục vụ nhiệm vụ phát triển xã hội (với nghĩa rộng) và cũng chịu ảnh
hưởng từ môi trường xã hội. Tuyên truyền phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội, khi xã hội phát triển sẽ tạo những điều kiện và yêu cầu mới cho
hoạt động tuyên truyền, làm cho hoạt động tuyên truyền phát triển. Sự hình
thành và phát triển của ngôn ngữ và phương tiện truyền thông từ sơ khai đến
hiện đại (với máy tính, internet, vệ tinh nhân tạo, cáp quang...) tuyên truyền
ngày càng giúp cho con người tiếp cận các nguồn thông tin to lớn và nhanh
chóng hơn.
22
Từ những cách lý giải khắc nhau về thuật ngữ CTTT cho thấy CTTT có
những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, tuyên truyền là phổ biến, giải
thích một tư tưởng, một chủ trương hay một vấn đề nào đó của chủ thể tuyên
truyền với đối tượng tuyên truyền. Thứ hai, tuyên truyền nhằm tác động vào
nhận thức của đối tượng tuyên truyền để củng cố hoặc làm thay đổi. Thứ ba,
tuyên truyền nhằm tác động vào nhận thức của đối tượng tuyên truyền để
củng cố hoặc làm thay đổi nhận thức của đối tượng tuyên truyền, qua đó, xây
dựng thế giới quan nhất định ở đối tượng tuyên truyền phù hợp với lợi ích của
chủ thể tuyên truyền. Thứ tư, tuyên truyền phải đạt tới hiệu quả là kích thích,
cổ vũ đối tượng hành động theo quan điểm, đường lối, mục đích của chủ thể
tuyên truyền.
Có thể hiểu: CTTT là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến
lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù
hợp với lợi ích chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và
cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó [65].
2.1.2. Công tác tuyên truyền của Đảng
2.1.2.1. Khái niệm công tác tuyên truyền của Đảng
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, CTTT của Đảng của giai cấp công nhân
(Đảng Cộng sản) là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác tư
tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược cho
quần chúng xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của
chủ thể, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành
động theo thế giới quan và niềm tin đó.
C.Mác cho rằng, CTTT nói chung và của chính đảng của giai cấp vô
sản nói riêng có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của giai cấp vô sản. Theo C.Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng
23
vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [44]. Vai trò của CTTT là
làm cho “lý luận thâm nhập vào quần chúng” để qua đó trở thành lực lượng
vật chất” [64].
V.I.Lênin cho rằng, CTTT của Đảng của giai cấp công nhân có vị trí và
tầm quan trọng đặc biệt, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền,
mà còn trong công cuộc xây dựng CNXH. Người xác định:
Họ (những người làm CTTT - giải thích của tác giả luận án) đi trước
phong trào tự phát, chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết
trước người khác, tất cả các vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và
các vấn đề tổ chức mà những yếu tố vật chất của phong trào húc
phải một cách tự phát [122].
Trong thời kỳ NEP, V.I.Lêninxác định CTTT của Đảng phải gắn bó
chặt chẽ với thực tiễn cách mạng và do vậy phải không ngừng được đổi mới.
Người cho rằng:
Phương pháp tuyên truyền theo lối cũ thường giải thích thế nào là
chủ nghĩa cộng sản và đưa ra những ví dụ. Nhưng hiện nay, là lúc
phải lấy thực tiễn mà vạch rõ xem nên xây dựng chủ nghĩa xã hội
như thế nào, thì phương pháp tuyên truyền đó đã trở thành hoàn toàn
vô dụng. Mọi công tác tuyên truyền của chúng ta đều phải lấy kinh
nghiệm chính trị trong công cuộc xây dựng kinh tế làm cơ sở. Đó là
nhiệm vụ chủ yếu bậc nhất của chúng ta, và nếu ai muốn hiểu điều
đó theo nghĩa cũ thì người đó sẽ lạc hậu và sẽ không thể tiến hành
được công tác tuyên truyền trong quần chúng công nông [121].
Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền (hay là công tác tuyên truyền
của Đảng - giải thích của tác giả luận án) là đem một việc gì đó cho dân hiểu,
dân nhớ, dân theo, dân làm” [84]. Theo Người, tuyên truyền bao gồm các hoạt
động chính sau: Cung cấp thông tin để “dân biết”; phân tích, làm rõ bản chất
của sự việc, hiện tượng được thông tin, qua tin đó để “dân hiểu” để từ đó “dân
24
tin theo”; liên hệ với thực tiễn, có các hình thức để khắc họa trong ý thức của
người dân để “dân nhớ”; hướng dẫn cách thực hiện vì lợi ích của người dân
để “dân làm”. Khái quát theo Hồ Chí Minh, tuyên truyền có ba nhiệm vụ chủ
yếu là: thông tin (gồm cả định hướng thông tin); giáo dục và vận động quần
chúng; tổ chức quần chúng đi tới hành động. Theo Người, tuyên truyền phải
tôn trọng sự thật, “Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa là bao
giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền củamình
mới có nhiều người nghe” [80].
Theo Hồ Chí Minh, CTTTcủa Đảng bao gồm các hoạt động chính là:
Thứ nhất, cung cấp thông tin để “dân biết”. Thứ hai, phân tích, làm rõ bản
chất của sự việc, hiện tượng được thông tin, qua tin đó để “dân hiểu” để từ đó
“dân tin theo”. Thứ ba, liên hệ với thực tiễn, có các hình thức để khắc họa
trong ý thức của người dân để “dân nhớ”. Thứ tư, hướng dẫn cách thực hiện
vì lợi ích của người dân, để “dân làm”. CTTT của Đảng có ba nhiệm vụ chủ
yếu là thông tin (gồm cả định hướng thông tin), giáo dục và vận động quần
chúng và tổ chức quần chúng đi tới hành động cách mạng. Hơn nữa, CTTT
phải cụ thể, thiết thực để mọi người hiểu đúng chủ trương của Đảng, pháp luật
nhà nước. Khi định nghĩa về tuyên truyền, trong tuyên truyền cán bộ tuyên
truyền cần xác định rõ ràng nội dung, đối tượng, mục đích và phương pháp
như tuyên truyền cái gì, tuyên truyền cho ai và tuyên truyền như thế nào.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, CTTT của Đảng là một trong ba bộ
phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, các quan điểm, tư tưởng
của Đảng đến với quần chúng nhằm tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ, động viên quần chúng thực
hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. CTTT cùng với công tác lý luận
và công tác cổ động là ba hình thái cấu thành công tác tư tưởng của Đảng.
CTTT của Đảng có vai vai trò quan trọng là truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng
25
cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến; khơi
dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng; cổ vũ, động viên quần chúng
tham gia sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng;
chuẩn bị tiền đề tư tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng. Vì
vậy, công tác tuyên truyền trở thành một công tác cách mạng và là công tác
cách mạng đầu tiên của bất kỳ giai cấp và tổ chức cách mạng nào.
Khái quát, theo tác giả luận án này, có thể hiểu: CTTT của Đảng là hoạt
động truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, là hoạt động vận động nhân dân thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, lý
tưởng của Đảng. Trong điều kiện là đảng lãnh đạo, CTTT của Đảng là một
phương thức lãnh đạo của Đảng; trong điều kiện đảng cầm quyền, CTTT của
Đảng là một phương thức cầm quyền của Đảng.
2.1.2.2. Các yếu tố cấu thành của công tác tuyên truyền của Đảng
- Chủ thể của công tác tuyên truyền của Đảng:
Để thực hiện CTTT của Đảng cần xác định đúng các chủ thể tham gia
công tác này là tổ chức đảng, nhất là các tổ chức (cơ quan) chuyên trách về
công tác tư tưởng, CTTT của Đảng và đảng viên. Đảng đề ra chủ trương,
đường lối, nội dung và phương thức của CTTT, trên cơ sở đó các tổ chức
đảng, nhất là các tổ chức (cơ quan) chuyên trách về công tác tư tưởng, CTTT
của Đảng và đảng viên tổ chức thực hiện. Đảng cũng là cơ quan kiểm tra,
đánh giá kết quả của CTTT của Đảng từ đó điều chỉnh đường lối, chủ trương
để phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, Đảng còn lãnh đạo Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội tham gia CTTT của Đảng. Là đảng cầm quyền,
Đảng lãnh đạo Nhà nước trong việc quản lý (quản lý nhà nước) đối với hoạt
động của CTTT của Đảng nói riêng và CTTT nói chung; Đảng lãnh đạo nhân
dân thực hiện CTTT của Đảng. CTTT của Đảng là bộ phận nòng cốt và tiên
phong trong CTTT của toàn bộ hệ thống chính trị. Vấn đề là ở chỗ xác định rõ
26
vị trí, vai trò của từng bộ phận cấu thành nên hệ thống đó, trong đó nhấn
mạnh vị trí lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với CTTT, tránh trùng lặp, mâu
thuẫn, hạn chế sức mạnh tổng hợp của CTTT của các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
Mặt khác, vấn đề ở chỗ Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý CTTT như
thế nào trong điều kiện xã hội dân sự ngày càng phát triển. Những sự kiện có
tính chất lan tỏa rộng lớn đều được các trang thông tin điện tử, trang mạng
điện tử cá nhân chia sẻ nhanh chóng, đem lại hiệu quả rất cao trong việc tuyên
truyền, hoặc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, các hành vi vi phạm
pháp luật, đây có thể là một chủ thể quan trọng trong CTTT hiện nay cần có.
- Khách thể của công tác tuyên truyền của Đảng:
Khách thể đối tượng của CTTT Đảng là những cá nhân và cộng đồng
người (quần chúng nhân dân) thuộc các giai tầng xã hội, các dân tộc (tộc
người), các tôn giáo; là các cộng đồng người thuộc một dân tộc (quốc gia)
sống ở trong hay ngoài nước và những người có liên quan khác. Đó là công
nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ; cựu binh; đồng
bào tôn giáo, dân tộc; người định cư ở nước ngoài và người nước ngoài có
liên quan. Nói cách khác, khách thể của CTTT của Đảng là cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước. Trong điều kiện
HNQT, khách thể của CTTT của Đảng còn là nhân dân, bạn bè, đối tác ở các
nước trên thế giới.
Trong điều kiện HNQT, CTTT của Đảng còn tác động đến nhận thức
của nhân dân thế giới về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
tranh thủ sự ủng hộ của thế giới, thu hút đầu tư, ủng hộ, tôn trọng của Việt
Nam khi giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực. CTTT của Đảng phải làm
cho nhân dân thế giới nhận thức đúng đắn về của Việt Nam, phản bác những
luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. CTTT
của Đảng thúc đẩy việc mở rộng ngoại giao của Việt Nam với các nước.
27
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của CTTT của Đảng
luôn có tính tương đối, ở mối quan hệ này là chủ thể nhưng ở mối quan hệ
khác lại là khách thể của CTTT của Đảng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, đối tượng CTTT cũng có thể là những chủ thể tuyên truyền và cũng là
đối tượng của HNQT. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mối
quan hệ giữa chủ thể và đối tượng của CTTT của Đảng có đặc điểm là: Thứ
nhất, mối quan hệ chi phối, trong đó chủ thể tác động lên đối tượng nhằm làm
thay đổi nhận thức và hành vi của đối tượng theo mục đích của chủ thể; là
mối quan hệ phối hợp, tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng để đạt được
mục đích của chủ thể. CTTT nói chung và của của Đảng nói riêng thực chất là
công việc xử lý mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhằm đạt được mục
đích nhất định. Thứ hai, về lý thuyết chủ thể và đối tượng là hai thành tố kém
khu biệt lẫn nhau, còn trong thực tế sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng chỉ
có tính tương đối. Thứ ba, trong những hoàn cảnh cụ thể một tổ chức, cá nhân
có thể vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của CTTT; người tuyên truyền cũng là
người được hay bị tuyên truyền, thậm chí được hay bị tuyên truyền trước
(Chẳng hạn, về một vấn đề mới (một chủ trương, chính sách mới nhất định),
trước tiên các cấp ủy và đội ngũ cán bộ tuyên truyền phải là đối tượng được
tuyên truyền để hiểu và nắm vững vấn đề, sau đó họ sẽ là người phổ biến, giải
thích những quan điểm đó tới cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mặt khác, trong
quá trình tuyên truyền, những cán bộ tuyên truyền phải cập nhật kiến thức từ
thực tiễn phong phú, lắng nghe ý kiến của đối tượng tuyên truyền, tiếp thu
kinh nghiệm quý trong thực tiễn đời sống sản xuất của nhân dân để bổ sung,
làm giàu thêm nội dung, phương thức tuyên truyền của mình. Đây là vấn đề lý
luận có ý nghĩa thực tiễn để đề ra giải pháp đổi mới công tác tuyên truyền
kinh tế một cách phù hợp, mang tính khả thi). Như vậy, ở một số mặt, mối
quan hệ này cũng có sự đồng tốc nhất định, đó là sự phát triển nhanh của
CTTT giúp cho việc nắm bắt các nội dung của HNQT cập nhật, điều này góp
28
phần cho HNQT thuận lợi hơn. Tuy nhiên, nhiều khi chủ thể tuyên truyền lại
đi sau, không kịp nắm bắt xu hướng, trong khi đó đối tượng tuyên truyền lại
cập nhật nhanh và chính xác thông tin hơn. Vô hình chung điều này đã làm
cản trở sự phát triển và tham gia HNQT của đất nước.
- Nội dung của công tác tuyên truyền của Đảng:
Nội dung của CTTT của Đảng là: Thứ nhất, truyền bá hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, biến hệ
tư tưởng ấy thành hệ tư tưởng thống trị đời sống xã hội. Thứ hai,tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH và
HNQT. Thứ ba, tuyên truyền đấu tranh chống các luận điệu sai trái của các
thế lực thù định.
- Hình thức của công tác tuyên truyền của Đảng:
Các hình thức của CTTT Đảng bao gồm tuyên truyền miệng, tuyên
truyền trực quan, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên
truyền trực tiếp và tuyên truyền gián tiếp. CTTT của Đảng bao gồm tuyên
truyền chính trị, tuyên truyền kinh tế, tuyên truyền văn hóa, tuyên truyền xã
hội, tuyên truyền đối nội, tuyên truyền đối ngoại, tuyên truyền cá biệt (cho
một người), tuyên truyền nhóm (cho một số người) và tuyên truyền đại chúng
(cho đông người).
2.1.2.3. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền của Đảng
Một là, Đảng xác định mục tiêu, phương hướng, kế hoạch tuyên truyền.
Xác định mục tiêu, phương hướng, kế hoạch tuyên truyền là khâu then chốt
thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền. Việc xác
định mục tiêu, phương hướng, kế hoạch tuyên truyền phải căn cứ vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội, Hội nghị Đảng các cấp đề ra;
ngoài ra còn phải căn cứ vào đặc điểm, nhu cầu thông tin của đối tượng; căn
cứ vào tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
29
Hai là, Đảng phối hợp các yếu tố trong và ngoài hệ thống tuyên truyền
trong quá trình tổ chức các hoạt động tuyên truyền. Với phương thức là Đảng
cầm quyền, Đảng đã thực hiện CTTT bằng mục tiêu, pháp lý, khoa học, tiên
tiến. Đảng phải lãnh đạo quá trình tổ chức tuyên truyền trong mối liên hệ qua
lại giữa các yếu tố trong hệ thống tuyên truyền và các điều kiện khách quan
tác động đến hoạt động tuyên truyền. Đảng chỉ đạo, phối hợp hoạt động tuyên
truyền của các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội. Quan tâm chỉ đạo nội dung tuyên truyền chính trị của các binh chủng
tuyên truyền: các cơ quan báo chí, xuất bản, hoạt động của báo cáo viên,
tuyên truyền viên, các hoạt động văn hóa - văn nghệ.
Ba là, Đảng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên truyền. Công tác
tuyên truyền là một loại hình hoạt động xã hội đòi hỏi người cán bộ phải có
trình độ cao và năng lực nghề nghiệp vững vàng. Theo Lênin, những người có
năng khiếu làm công tác này không nhiều và muốn có năng lực thực sự họ
cần phải được học tập nhiều, thu thập kinh nghiệm thường xuyên và phải
được chuyên môn hóa công tác. Do vậy Đảng phải quan tâm lãnh đạo từ khâu
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến khâu sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ cán
bộ tuyên truyền.
2.1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác tuyên truyền của Đảng
- Tính chất của hệ tư tưởng của Đảng:
Tính chất khoa học hay không khoa học, cách mạng hay không cách
mạng của hệ tư tưởng quy định nội dung tuyên truyền, phươngthức tuyên
truyền, tổ chức các hoạt động tuyên truyền của Đảng và trong xã hội. Đồng
thời, ảnh hưởng trực tiếp đến đường lối chính sách của Đảng cầm quyền và sự
phát triển của cách mạng. Đối với CTTT của Đảng Cộng sản, hệ tư tưởng vô
sản có tính chất cách mạng và khoa học làm cho tuyên truyền của Đảng có
tính chiến đấu, lý luận gắn liền với thực tiễn, có tính khoa học, khách quan và
tính nhân dân, dân tộc.
30
- Đường lối, chính sách, trình độ và năng lực của Đảng:
Đường lối, chính sách của Đảng là yếu tố đầu tiên tác động trực tiếp
đến CTTT. Đường lối, chính sách của Đảng quy định nhiệm vụ chính trị; là
nội dung cơ bản, quan trọng của tuyên truyền và nó quy định phương thức
tuyên truyền. Đường lối, chính sách đúng đắn thúc đẩy phong trào cách mạng
tiến lên, giành thắng lợi. Cách mạng thắng lợi sẽ cải thiện đời sống của nhân
dân, vì vậy họ sẽ phấn khởi, tin tưởng vào Đảng và quyết tâm thực hiện nhiệm
vụ do Đảng đề ra. Trình độ, năng lực của Đảng cũng là yếu tố quan trọng, trực
tiếp quyết định mục đích, nội dung và công tác tổ chức tuyên truyền.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền của Đảng:
Đội ngũ cán bộ tuyên truyền là người trực tiếp quyết định kết quả tuyên
truyền. Đội ngũ có trình độ cao, có quan điểm tư tưởng đúng đắn, sáng tạo
sẽtuyên truyền có hiệu quả và ngược lại. Ý thức trách nhiệm, năng lực của
cán bộ tuyên truyền quyết định đến hiệu quả tuyên truyền. Cán bộ tuyên
truyền phải có năng lực và phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định tư tưởng,
tin tưởng vào hệ tư tưởng của Đảng; có bản lĩnh, kinh nghiệm và nhạy bén
chính trị; có trách nhiệm, tâm huyết, đạo đức và có trình độ nghiệp vụ.
- Trình độ và đặc điểm của khách thể tuyên truyền:
Trình độ dân trí, tâm lý, thói quen và con đường tiếp nhận thông tin của
khách thể tuyên truyền ảnh hưởng rất lớn đến CTTT của Đảng. Nếu không
thể tuyên truyền có trình độ và điều kiện giao lưu sẽ thuậnlợi cho tuyên
truyền, giúp họ nhận thức nhanh chóng và sâu sắc những nội dung tuyên
truyền. Dân trí càng cao càng làm cho người dân hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ
của mình, tích cực tham gia vào hoạt động xã hội, giúp họ có nhu cầu và điều
kiện được tiếp thu nội dung tuyên truyền.
- Điều kiện và môi trường xã hội (môi trường tuyên truyền):
Điều kiện và môi trường xã hội trong nước: Nếu chính trị và xã hội ổn
định, nhân dân tin tưởng vào Đảng, đội ngũ cán bộ trách nhiệm cao, thực hiện
31
tốt nhiệm vụ được giao, gương mẫu là điều kiện thuận lợi cho CTTT. Trình
độ và mức độ công khai, dân chủ trong xã hội tạo nên nhiều kênh thông tin,
nội dung thông tin phong phú, đa dạng, sẽ có tác động nhiều đến tư tưởng,
tình cảm, phát huy được tính tích cực của quần chúng. Về kinh tế càng phát
triển càng có điều kiện về tâm lý xã hội thuận lợi và cơ sở vật chất, phương
tiện tốt cho hoạt động tuyên truyền.
Điều kiện và môi trường quốc tế và thời đại: Ngày nay, xu hướng toàn
cầu hóa đang ngày càng thâm nhập sâu rộng vào tất cả các quốc gia. Xu
hướng này lôi kéo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập, tác động
lẫn nhau, không có một quốc gia nào có thể ra khỏi quá trình toàn cầu hóa,
khiến các nước phụ thuộc nhiều vào nhau, xích lại gần nhau, và bắt tay, hợp
tác với nhau trên các lĩnh vực để giải quyết các vấn đề liên quan đến toàn thế
giới. Khi tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa, thì công tác tuyên truyền càng
bị toàn cầu hóa cuốn theo, phải tuân thủ đúng luật chơi và theo chuẩn mực
quốc tế. Do đó, CTTT cần phải có sự đổi mới, bổ sung cho mình nội dung lẫn
các hình thức để phù hợp với xu hướng này. Hơn nữa, cần khai thác truyền
thông, những thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới để thúc đẩy hiệu quả
CTTT trong nước. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay khi ở Việt Nam đã bước
đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về CNXH, chiến lược bảo vệ Tổ quốc
và HNQT. CTTT, công tác giáo dục, lý luận được định hướng với nội dung,
hình thức đa dạng, phong phú hơn. Tuy nhiên, công tác lý luận còn lạc hậu,
tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của
thực tiễn. Nhiều vấn đề nghiên cứu về tình hình thế giới, khu vực và thời đại
chưa sâu sát. Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí
Minh còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao. Chính vì vậy, khi những vấn đề lý
luận trên chưa được giải đáp thì CTTT lại ngày càng khó khăn trong nâng cao
nhận thức góp phần định hướng rõ nét con đường HNQT của Việt Nam. Đó là
chưa kể đến CTTT, giáo dục, bồi dưỡng, bồi dưỡng lý luận hạn chế, CTTT
32
chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ HNQT, đặc biệt điều kiện bùng
nổ thông tin và phát triển mạng thông tin toàn cầu.
2.1.2.5. Công tác tuyên truyền với tính cách một phương thức cầm quyền của Đảng
- Khái niệm CTTT của Đảng với tính cách một phương thức cầm quyền
của Đảng:
Đảng cầm quyền là “đảng nắm chính quyền” bằng những người đại
diện của Đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước bằng
đường lối, công tác kiểm tra, công tác cán bộ; bằng thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra và sự gương mẫu của đảng viên.
Để giữ vững địa vị cầm quyền, đòi hỏi Đảng phải giữ vững địa vị lãnh
đạo, tức là Đảng luôn có vị trí tiên phong trong toàn xã hội, để nhân dân tin
tưởng và đồng tình ủng hộ. Mặt khác, để có và giữ vững vai trò cầm quyền,
thì ngoài việc Đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực, tức nâng cao năng
lực hoạch định đường lối, chính sách đảm bảo đúng đắn, hợp lòng dân; làm
tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền trong nhân dân; tạo sự đồng thuận cao
trong Đảng và toàn xã hội; làm tốt sứ mệnh “người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Để làm được nhiệm vụ này Đảng cần thường xuyên nâng cao năng
lực cầm quyền của mình thông qua vai trò của Đảng tham gia gia vào bộ máy
Nhà nước, công tác này thể hiện ở việc làm tốt CTTT góp phần đảm bảo hiệu
quả cao trong quản lý của Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Từ phân tích trên, theo tác giả của luận án này, có thể hiểu: CTTT của
Đảng với tính cách một phương thứ cầm quyền của Đảng không chỉ là truyền bá chủ trương, đường lối của Đảng mà còn là truyền bá chính sách, pháp luật
của Nhà nước (sự cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước) đến quần chúng nhân dân nhằm
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
33
- Đặc điểm của công tác tuyên truyền của Đảng với tính cách một
phương thức cầm quyền của Đảng, theo tác giả luận án này, là:
Tuyên truyền có tính tiên phong (dẫn dắt, định hướng): Trong điều
Đảng cầm quyền, CTTT của Đảng có tính tiên phong (dẫn dắt, định hướng)
đối với toàn xã hội nói chung và hệ thống tuyên truyền của hệ thống chính trị,
của Nhà nước nói riêng. Tính tiên phong của CTTT của Đảng thể hiện ở: Thứ
nhất, tính khoa học, khách quan, trung thực; Thứ hai, tính chính đáng, tính giá
trị; Thứ ba, tính chủ động, kịp thời, trách nhiệm; Thứ tư, tính dự báo, định
hướng, vượt trước; Thứ năm, tính nhạy bén, năng động, sáng tạo, của CTTT
của Đảng.
Tuyên truyền có tính chính thống: Tính chính thống của CTTT của
Đảng thể hiện ở: Thứ nhất, tính đại diện; Thứ hai, tính hợp pháp; Thứ ba, tính
công khai; Thứ tư, tính trách nhiệm của CTTT; Thứ năm, CTTT của Đảng
được thực hiện không chỉ trong trong khuôn khổ quy định, điều lệ Đảng, mà
còn trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, CTTT của Đảng đa dạng và phức tạp hơn, không chỉ hướng
đến sự giác ngộ, sự đoàn kết, nhất trítrong nội bộ giai cấp cầm quyền,mà còn
hướng tới sự giác ngộ, sự đoàn kết, nhất trí trong toàn xã hội; chủ thể và đối
tượng, phạm vi và mức độ của CTTT của Đảng được mở rộng; nội dung và
hình thức, phương pháp và phương tiện công tác tuyên truyền tuyên truyền
của Đảng phong phú hơn; yêu cầu và chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của
CTTT của Đảng đòi hỏi cao hơn; điều kiện và năng lực, cơ hội và thách thức
đối với CTTT của Đảng lớn hơn.
Tuyên truyền có tính tổng hợp: Khi chưa giành được chính quyền,
CTTT của Đảng tập trung vào việc giành chính quyền, do đó CTTT của các
Đảng còn giới hạn về mục đích, nội dung, hình thức, đối tượng và phạm vi
tuyên truyền. Khi trở thành Đảng cầm quyền (nhất là một Đảng duy nhất cầm
quyền), CTTT của Đảng được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
34
xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến xã hội và hiện nay là cả vấn đề về môi
trường; từ đối nội đến đối ngoại; từ an ninh đến quốc phòng.
Vai trò của công tác tuyên truyền đối với Đảng cầm quyền:
Công tác tuyên truyền của Đảng phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân
dân; tuyên truyền định hướng phát triển kinh tế - xã hội, giúp cho nhân dân
nhận thức và thực hiện tốt các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao
nhận thức, niềm tin vào đường lối của Đảng; giáo dục đạo đức, lối sống; bồi
dưỡng phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái;
xây dựng con người mới.
Công tác tuyên truyền của Đảng là kênh quan trọng để các cấp ủy đảng,
chính quyền tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước;
bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ
máy, phương thức hoạt động; kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện cán bộ,
công chức.
Công tác tuyên truyền của Đảng là công cụ để cho nhân dân tiếp cận
đến các chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, cho người dân tiếp cận
tốt hơn các dịch vụ văn hóa, y tế, giáo dục; bảo tồn, phát triển và khai thác các di
sản văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Công tác tuyên truyền của Đảng là công cụ phục vụ đối ngoại, ở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ
của các nước đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ YÊU CẦU
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG
2.2.1. Hội nhập quốc tế
2.2.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” (tiếng Anh là international integration)
được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc
35
tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ XIX ở Châu Âu trong bối cảnh những người
theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các
cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông
qua việc xây dựng Cộng đồng Châu Âu.
Có nhiều cách tiếp cận “hội nhập quốc tế”, nhưng cách tiếp cận phù
hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn
diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó,
HNQT được hiểu như là một quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng
cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật
chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế (Cho đến nay,
có ba cách tiếp cận “hội nhập quốc tế” chủ yếu là: Cách tiếp cận thứ nhất,
thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng hội nhập là một sản
phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà
nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những
người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và
thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập
trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu
như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa từ đó hình
thành dần các cộng đồng an ninh. Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an
ninh - loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng
an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội
nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng. Cách tiếp cận thứ
ba, xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/ hành vi các nước mở rộng và
làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc
tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi).
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã
hội nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất,
36
phạm vi và hình thức khác nhau. Bản chất của HNQT chính là sự gắn kết
của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó
các thành viên quan hệ với nhau theo các nguyên tắc, quy định chung. Đó
là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định
chế kinh tế - tài chính quốc tế, tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại đầu
tư ở các lĩnh vực.
2.2.1.2. Những nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế
- Hội nhập quốc tế về kinh tế:
Hội nhập quốc tế về kinh tế (hội nhập kinh tế quốc tế) là quá trình gắn
kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua
các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo hình thức khác nhau, từ đơn
phương đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực và toàn cầu. Hội nhập
kinh tế quốc tế diễn ra nhiều mức độ khác nhau (Thỏa thuận thương mại ưu
đãi (PTA) - khu vực mậu dịch tự do (FTA) - liên minh thuế quan (CU) - thị
trường chung (hay thị trường duy nhất)).
- Hội nhập quốc tế về chính trị:
Hội nhập quốc tế về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ
chế quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục
tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị
thể hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau
về các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn
lực và đặc biệt là quyền lực. Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết
giữa các thành viên còn hạn chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền
định đoạt chính sách riêng (ASEAN khi trở thành cộng đồng ASEAN năm
2015. Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính trị
và độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các thành
viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các quyền
lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia. Thông thường hội nhập chính trị là
37
bước đi sau cùng trên cơ sở các nước liên quan đã đạt đến trình độ hội nhập kinh
tế và văn hóa - xã hội rất cao, chẳng hạn, Liên minh Châu Âu (EU)).
- Hội nhập quốc tế về văn hóa- xã hội:
Hội nhập về văn hóa - xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa
với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp
thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn
hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo
dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng
tới xây dựng một cộng đồng văn hóa - xã hội rộng lớn trên phạm vi khu
vực và toàn cầu (Ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Tổ
chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), v.v.;
ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác - phát triển văn
hóa - giáo dục- xã hội với các nước).
- Hội quốc tế nhập về an ninh - quốc phòng:
Hội nhập về an ninh, quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá
trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song
phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia
sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt
động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng (Ví dụ, tham gia Cộng đồng văn
hóa - xã hội ASEAN, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp
quốc (UNESCO), v.v.; ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp
tác - phát triển văn hóa - giáo dục- xã hội với các nước) (Hiệp ước phòng thủ
chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời kỳ Chiến tranh lạnh khi mà
thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi là hệ thống hai cực) giữa
một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo và bên kia là các
nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Đây là phương thức liên kết quân sự
rất cao, đòi hỏi các thành viên phải đồng về ý thức hệ và cùng chia sẻ cao về
38
quan điểm, chính sách an ninh- quốc phòng, chiến lược quân sự và có trình độ
phát triển kỹ thuật quân sự cũng như năng lực tác chiến không quá chênh
lệch. Phương thức liên kết này cũng đòi hỏi các thành viên phải đồng ý về ý
thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an ninh - quốc phòng,
chiến lược quân sự và có trình độ phát triển kỹ thuật quân sự cũng như năng
lực tác chiến không quá chênh lệch. Phương thức liên kết này cũng đòi hỏi
các thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ quyền quốc gia và trao
một phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung siêu quốc gia. Các dàn
xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa trên nguyên tắc các
thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một thành viên vi phạm, sẽ
dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giúp giải quyết xung đột.
Các dàn xếp về an ninh hợp tác: Đây là phương thức liên kết an ninh - quốc
phòng lỏng lẻo hơn cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh vực, từ dễ
đến khó, với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao
phòng ngừa để xây dựng thói quen hợp tác và sự phụ thuộc, rằng buộc lẫn nhau,
từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các thành viên).
2.2.2. Hội nhập quốc tế ở Việt Nam
2.2.2.1. Sự hình thành và phát triển đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, phá được thế bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước
theo con đường đã lựa chọn, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thoát vòng
bao vây cô lập của các thế lực chống đối. Sau Đại hội VI của Đảng (1986),
đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về
chính sách đối ngoại. Cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các nước láng
39
giềng Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định ở khu vực,
thuận lợi cho phát triển đất nước.
Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VII của
Đảng nêu chủ trương chiến lược “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế” [49]. Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình
quốc tế sau sự tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992)
chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Chủ trương chiến lược của Đại hội
VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát
triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển” [50].
Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện hơn tại Đại hội X
của Đảng. Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế
đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định
quan điểm “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội
nêu 5 bài học lớn, trong đóbài học thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế quốc tế
và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ [53]. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc
tế là yêu cầu khách quan; chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững
chắc, không do dự chần chừ, không được nóng vội, giản đơn.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ
trương hội nhập quốc tế với sự khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [56].
40
Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu
ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ
động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà
là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh,bước phát triển này trong
nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết
đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới.
Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng (2015) xác địnhchủ
trương tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế. Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng còn xác định
Phương hướng và Nhiệm vụ của HNQT trong những năm tới. Phương hướng
của HNQT trong những năm tới là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng
có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng
cao đời sống nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhiệm vụ của HNQT những năm tới là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối
ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, v.v.; triển khai
41
mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, v.v.; chủ động, tích cực tham gia các cơ
chế đa phương về quốc phòng, an ninh, v.v.; đẩy mạnh HNQT trong lĩnh vực
văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực
khác; tăng cường nghiên cứu, dự báo về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương
pháp tuyên truyền đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại, v.v.; bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý
tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại, phối hợp chặt chẽ
hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân;
giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa
đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng đã đưa đến việc xác lập
những nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại từ “rộng mở”, “là
bạn” đến “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế” và “sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy”, “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, từng
bước nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, thúc đẩy hội nhập ngày
càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.
2.2.2.2. Nội dung của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về hội nhập quốc tế ở Việt Nam
- Mục tiêu, nguyên tắc của HNQT:
Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản, bao trùm của HNQT là nhằm củng cố
môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát
triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc
lập, chủ quyền và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường
sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp
phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
42
- Quan điểm chỉ đạocủa HNQT:
Thứ nhất, chủ động và tích cực HNQT là định hướng chiến lược lớn
của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, HNQT là sự nghiệp của toàn dân và của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng
sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của
toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt
Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Thứ ba, HNQT trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết
chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng
lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết
giữa các vùng, miền, khu vực trong nước. Thứ tư, hội nhập kinh tế là trọng
tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế
và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an
ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát
triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng
bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù
hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
- Nội dung cơ bản của HNQT:
Thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa phương với các nước
trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, v.v. nhằm đáp ứng lợi ích phát
triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
- Phương châm chủ yếu của HNQT:
Hội nhập quốc tế cần bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ
song phương và đa phương. Theo đó, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích
43
cần có và hợp lý được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý
lợi ích cho các đối tác tùy theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác.
Trong hợp tác, liên kết và HNQT cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa
đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi
ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ
trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng HTQT để can thiệp, áp đặt về
chính trị.
2.2.3. Ảnh hưởng và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với công tác
tuyên truyền của Đảng
2.2.3.1. Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đối với công tác tuyên
truyền của Đảng
- Hội nhập quốc tế tạo ra thuận lợi và cơ hội phát triển đối với CTTT
của Đảng:
Thứ nhất, HNQT tạo ra những nhu cầu mới cho CTTT của Đảng: Đó
lànhu cầu mới về mở rộng phạm vi và đối tượng tuyên truyền đối với CTTT
của Đảng (không chỉ tuyên truyền trong Đảng, mà còn tuyên truyền trong
nhân dân, không chỉ tuyên truyền trong nước mà còn tuyên truyền quốc tế,
không chỉ tuyên truyền từ trong nước ra với thế giới mà còn tuyên truyền thế
giới với trong nước); nhu cầu mới về mở rộng và làm phong phú, sinh động
nội dung tuyên truyền (không chỉ tuyên truyền về kinh tế - xúc tiến và thu hút
đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao năng lực và hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế, đưa nền kinh tế đất
nước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, mà còn tuyên truyền về chính trị,
chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền về phát triển văn hóa - xã
hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; giao lưu, tiếp biến văn hóa;
không chỉ tuyên truyền về thuận lợi mà còn tuyên truyền về khó khăn, thách
thức, v.v.; không chỉ tuyên truyền nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên
trường quốc tế, mà còn tuyên truyền về xây dựng và duy trì môi trường quốc
44
tế hòa bình, ổn định cho hợp tác và phát triển); nhu cầu về mới hình thức,
phương pháp và phương tiện tuyên truyền (không tuyên truyền qua báo chí
mà còn tuyên truyền qua các hoạt động đối ngoại đảng, đối ngoại nhà nước,
đối ngoại nhân dân; không chỉ bằng lời nói - kể cả chủ trương, chính sách,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động chính sách - chính sách công,
mà còn thực tiễn - kết quả và hạn chế của công cuộc đổi mới, của HNQT);
không chỉ tuyên truyền áp đặt, đơn tuyến (một chiều, từ trên xuống, từ trong
ra - trong Đảng ra ngoài xã hội, trong nước ra ngoài quốc tế) mà còn tuyên
truyền thuyết phục, đa tuyến (không chỉ từ trên xuống mà còn từ dưới lên, từ
ngoài vào, tiếp nhận và xử lý phản hồi); nhu cầu mới về khối lượng tuyên
truyền (ngày càng lớn, đa dạng và phức tạp), chất lượng (ngày càng cao) và
hiệu quả (tiết kiệm thời gian và chi phí cho hoạt động tuyên truyền nhưng lại
mang lại và kết quả tuyên truyền lớn) choCTTT của Đảng; nhu cầu nâng cao
năng lực của đội ngũ cán bộ làm CTTT của Đảng (về chính trị tư tưởng, về
chuyên môn nghiệp vụ, về ngoại ngữ, về kỹ năng - kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
kỹ thuật, nghiệp vụ).
Thứ hai, HNQT tạo ra những cơ hội mới cho CTTT của Đảng: Cơ hội
HNQT của CTTT của Đảng (do sự mở rộng các mối quan hệ của Đảng đối
với các đảng phái chính trị trên thế giới - đến nay Đảng ta đã có mối quan hệ
với hầu hết các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các đảng cầm
quyền trên thế giới, v.v; cơ hội hợp tác, cạnh tranh phát triển với hoạt động
tuyên truyền của các tổ chức khác (nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp) từ trong nước đến các nước trên thế giới, các tổ
chức khu vực và quốc tế; cơ hội về nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm
CTTT của Đảng.
Thứ ba, HNQT tạo ra những điều kiện mới cho CTTT của Đảng:
Những điều kiện mới phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, phát triển
nhân lực, mở rộng dân chủ, giao lưu, hợp tác quốc tế, môi trường xã hội mang
45
lại; điều kiện mới về năng lực, trình độ của cán bộ làm CTTT của Đảng; điều
kiện mới về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho CTTT của Đảng.
- Hội nhập quốc tế gây ra nguy cơ và thách thức cản trở CTTT của
Đảng: Nguy cơ chệch hướng của CTTT của Đảng (đặc biệt là tuyên truyền
chính trị, tư tưởng, hệ tư tưởng, định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước những khó khăn và thách thức của các diễn biến mới,
phức tạp trong nước và thế giới; trong cuộc đấu tranh chống những tư tưởng
sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch); nguy cơ lạc hậu, tụt hậu của
CTTT của Đảng (lạc hậu, tụt hậu về thời gian - tính kịp thời, chất lượng và
hiệu quả thông tin); thách thức về vị trí và vai trò của CTTT của Đảng (trong
mối quan hệ với CTTT của các tổ chức khác, các “binh chủng” làm CTTT
khác); thách thức về giữ vững tính đảng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa,
tính dẫn dắt của CTTT của Đảng trong tuyên truyền; thách thức về năng lực,
chất lượng và hiệu quả của CTTT của Đảng (về khả năng cập nhật, xử lý, phổ
biến, kiểm chứng thông tin); thách thức về phẩm chất và năng lực của đội ngũ
cán bộ làm CTTT của Đảng (dao động, giảm sút niềm tin vào mục đích và nội
dung tuyên truyền của Đảng; thiếu tính tiên phong, gương mẫu và trách
nhiệm của người làm CTTT của Đảng).
2.2.3.2. Những yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với công tác tuyên
truyền của Đảng
- Hội nhập quốc tế đòi hỏi CTTT của Đảng cần phải nâng cao hơn về vị
trí và vai trò trong điều kiện mới.
Công tác tuyên truyền của Đảng, hơn bao giờ hết, cần đứng ở vị trí tiên
phong, vai trò định hướng (định hướng về nội dung, chất lượng thông tin)
trong quá trình tuyên truyền về HNQT, góp phần đổi mới và nâng cao nhận
thức trong toàn Đảng, toàn dân - tạo sự nhất trí cao trong Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân, huy động sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế đối với quá trình HNQT của Việt Nam. HNQT là quá trình mới mẻ và
46
phức tạp, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, do vậy CTTT của Đảng cần có khả
năng dự báo, đi trước một bước, thậm chí “đi tắt đón đầu” trong tuyên truyền.
Hội nhập quốc tế mở ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển của đất
nước,đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất lớn, rất mới đối với độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo
của Đảng, v.v. do vậy CTTT của Đảng phải làm cho toàn Đảng, toàn dân
nhận thức đúng tình hình, thời cơ, thách thức, thuận lợi, khó khăn và quan
điểm, đường lối phát triển đất nước của Đảng ta trong bối cảnh HNQT. Nhận
thức “CTTT phải giữ vị trí tiên phong trong quá trình hội nhập quốc tế” cần
được quán triệt rõ trong tư tưởng của cấp ủy đảng, trong các cơ quan tuyên
truyền và trong cả hệ thống chính trị.
- Các vấn đề diễn ra trong HNQT đòi hỏi CTTT của Đảng phải phản
ánh đầy đủ và rõ nét hơn về nội dung tuyên truyền.
Tuyên truyền về mục tiêu của HNQT là nhằm củng cố môi trường hòa
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản
sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín
quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Tuyên truyền về quan điểm chỉ đạo HNQT là chủ động và tích cực; là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; phát huy tối đa nội lực; hội nhập kinh tế là
trọng tâm; vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ
động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam
kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Tuyên truyền về định hướng HNQT là tuyên truyền sâu rộng trong
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về HNQT; xây dựng và triển khai chiến
47
lược tổng thể về HNQT; xây dựng và hoàn thiện pháp luật, tổ chức bộ máy;
tập trung vào hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ
với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược; xây dựng và triển khai chiến
lược hội nhập quốc phòng, an ninh phù hợp; lồng ghép các hoạt động HNQT
về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và các lĩnh
vực khác [35].
Tuyên truyền về cơ hội của HNQT: Thứ nhất, CTTT hiện nay là cần
làm rõ những thách thức, qua đó để chủ động ứng phó, lường trước các tác
động tiêu cực từ bên ngoài, điều này đòi hỏi CTTT phải xác định biện pháp
hạn chế hữu hiệu. Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập
quốc tế thời kỳ đổi mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một
quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó là cơ sở
quan trọng để CTTT làm tốt vai trò của mình trên đường hội nhập, tận dụng
tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra. Thứ hai, chủ động và tích cực HNQT
trong bối cảnh toàn cầu hóa mở ra khả năng cho nước ta, tham gia nhanh và
hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực
phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, CTTT lúc này cần tăng cường thông tin
về vấn đề toàn cầu hóa, làm rõ và góp phần hữu hiệu vào sự lan tỏa rộng rãi
của các làn sóng tăng trưởng hiện đại. Thứ ba, trên lĩnh vực khác: Về kinh tế,
tiến trình HNQT của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế. Việc tuyên truyền công
khai, minh bạch các thiết chế quản lý sẽ góp phần làm cho môi trường kinh
doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để
CTTT góp phần phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, là
cơ hội để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ
tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng cách phát triển. Ngoài việc
48
CTTT phải góp phần phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư
phát triển thì rất cần làm rõ HNQT về văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật
cũng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho đất nước, tạo ra động lực lớn thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày
càng vững mạnh. Thứ tư, về khách quan, xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện
cho tất cả các nước tham gia vào đời sống quốc tế và là cơ hội thực hiện mục
tiêu chiến lược của mình. Mặt khác, CTTT của Đảng cũng cần để các tầng lớp
nhân dân nhận thức được rằng quá trình HNQT làm cho các nước ngày càng
phụ thuộc lẫn nhau. Phân tích các cơ hội tích cực qua đó từng bước loại bỏ
các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều, chi phối của một số
cường quốc, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới với cơ chế sinh
hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn. Thứ năm, HNQT thúc đẩy
mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hóa, tăng cường sự hiểu biết và tình hữu
nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, các hoạt động thông tin tuyên
truyền còn góp phần làm rõ tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta đã tạo ra cơ
hội thuận lợi để chúng ta chia sẻ lợi ích do hội nhập đưa lại, đồng thời đóng
góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực.
Tuyên truyền về thách thức của HNQT: Thứ nhất, thách thức lớn nhất
và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát triển có
trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân có quy mô hạn chế, sức cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn thấp, hệ thống
chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Chính vì vậy, nước ta sẽ gặp
khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh
tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn,
rộng hơn. Thứ hai, trong quá trình HNQT, nước ta phải chịu sự ràng buộc của
các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư, chủ yếu do các
nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều
49
tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Thứ ba, trên lĩnh vực
văn hóa xã hội, quá trình HNQT trong xu thế toàn cầu hóa đặt ra một thách
thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh
tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bên
cạnh đó, các nguy cơ của các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hóa phương Tây xâm nhập ồ ạt dễ
làm tổn hại bản sắc văn hóa dân tộc và Việt Nam đang đứng trước một nghịch
lý phức tạp hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị
nghèo văn hóa rất nghiêm trọng. Thứ tư, quá trình HNQT đặt ra những vấn đề
mới về bảo vệ an ninh quốc gia. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ
đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm họa mang tính
truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường,
dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp,
hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Thứ
năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang
đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò
của nhà nước. Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để
phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết
chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp
đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa
ra thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. HNQT đối với nước ta rõ ràng
không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực
chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Hơn bao giờ hết, CTTT của Đảng không chỉ tuyên truyền có tính định
hướng và các cơ quan tuyên truyền của Đảng chỉ định hướng tuyên truyền,
mà CTTT của Đảng phải trực tiếp tham gia và tham gia có chất lượng và hiệu
50
quả vào việc tuyên truyền; không chỉ tuyên truyền những thuận lợi, cơ hội và
thành tựu của HNQT mà còn tuyên truyền những khó khăn, thách thức và hạn
chế tồn tại của HNQT. Những người làm CTTT của Đảng cần đến bản lĩnh
chính trị vững vàng, sự mẫn cảm chính trị, năng lực chuyên môn sắc bén để
không chỉ trong tuyên truyền cái hay, cái tốt, điển hình tiên tiến, v.v. mà còn
tuyên truyền về đấu tranh chống cái sai, cái xấu, “điển hình không tiên tiến”,
trong quá trình HNQT.
- Trước yêu cầu hội nhập sâu của HNQT đòi hỏi CTTT phải mở rộng
phạm vi, khách thể và đối tượng CTTTcủa Đảng:
Trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT, CTTT của Đảng cần quan tâm tới
phạm vi và đối tượng tuyên truyền, lấy quần chúng nhân dân là trọng tâm để
nhận thức đúng tình hình quốc tế, từ đó xác định tư tưởng vững vàng trong
hội nhập. Mục tiêu CTTT cũng là vì lợi ích của nhân dân, nhiệm vụ CTTT là
đưa kiến thức, lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đến với
đại đa số người dân. Vì vậy, cần phải tuyên truyền để định hướng tư tưởng,
hướng dẫn hành động của người dân. HNQT tạo nên nhiều kênh thông tin, nội
dung thông tin phong phú, đa dạng, sẽ có tác động đến tư tưởng, tình cảm,
phát huy tính sáng tạo của quần chúng nhân dân tham gia quá trình hội nhập.
Việc mở rộng phạm vi tuyên truyền (không chỉ trong nước mà còn quốc tế),
khách thể tuyên truyền (không chỉ nhân dân ở trong nước mà còn đồng bào ta ở
nước ngoài, không chỉ nhân dân ta mà còn bạn bè và đối tác quốc tế), đối tượng
tuyên truyền (không chỉ tuyên truyền kinh tế mà còn tuyên truyền về các lĩnh
vực khác) ngày càng đặt ra những yêu cầu cao đối với CTTT của Đảng.
- Để nâng cao hơn hiệu quả CTTT trong hội nhập, HNQT đặt ra yêu
cầu là phải đổi mới nội dung và phương pháp của CTTT của Đảng:
Hội nhập quốc tế ngày càng đặt ra yêu cầu phải được đổi mới về cả nội
dung lẫn hình thức và phương pháp tuyên truyền, làm cho CTTT của Đảng
giữ vị trí tiên phong trong quá trình HNQT. CTTT trong HNQT có những vấn
51
đề nan giải, phức tạp gấp nhiều lần so với trước đó là đa trọng tâm, đa tương
tác. Đó là do trong quá trình hội nhập quốc tế, sách báo, phim ảnh, phát thanh,
truyền hình, mạng internet thường xuyên được chuyển tải vào Việt Nam với
khối lượng lớn, thông tin phong phú, nhiều chiều. Người dân có điều kiện tốt
hơn để tiếp cận, khai thác, sử dụng và hưởng thụ văn hóa. Trong bối cảnh ấy
thông tin chính thống của Đảng phải chủ động, kịp thời, khách quan, có sức hấp
dẫn (cuốn hút) và giữ vị trí chủ đạo trong CTTT nói chung. Việc đổi mới mạnh
mẽ nội dung, hình thức, phương tiện và cán bộ tuyên truyền của Đảng là yêu cầu
bức thiết, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu thông trong HNQT.
Yêu cầu mới đặt ra đối với CTTT của Đảng là phải làm chủ thông tin
và định hướng đúng đắn, kịp thời thông tin đối với toàn bộ hệ thống bộ máy
và cán bộ làm CTTT. Thông tin chính thống của Đảng là phải phong phú,
nhanh, nhạy, kịp thời, chính xác có sức thuyết phục mới thu hút được sự quan
tâm theo dõi của nhân dân. CTTT phải vừa đảm bảo phản ánh kịp thời diễn
biến, tình hình trong nước, tình hình quốc tế vừa đảm bảo tính định hướng,
tính dự báo tình hình mới tạo được sức hấp dẫn; làm cho các tầng lớp nhân
dân khi thuận lợi không chủ quan và sẵn sàng đón nhận những khó khăn thử
thách mới. Những người trực tiếp làm CTTT của Đảng phải là những người
có tình cảm, có niềm tin, sau đó mới truyền tình cảm đó, niềm tin đó sâu rộng
trong quần chúng nhân dân. Có như thế mới tạo dựng được niềm tin chính trị
vững chắc trong nhân dân trước mọi biến cố phức tạp của tình hình trong
nước và quốc tế.
Sử dụng các thành quả của công nghệ thông tin hiện đại phục vụ CTTT
của Đảng. Đặc biệt là hệ thống mạng xã hội xuất hiện nhanh chóng thu hút sự
quan tâm của nhiều đối tượng, nhất là giới trí thức và thanh niên. Điện thoại
di động đa tác dụng đã trở thành một phương tiện cá nhân phổ biến, kết nối
mạng internet, chia sẻ thông tin một cách thuận lợi và nhanh nhạy. Sự phát
triển nhanh chóng, đa dạng của các phương tiện, hình thức tuyên truyền tạo
52
thuận lợi cho chủ thể nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn đối với việc sử
dụng một cách hiệu quả nhất các phương tiện, hình thức tuyên truyền đó để
tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn đối tượng tuyên truyền. Mặt khác, nhờ có
phương tiện truyền thông hiện đại, các đối tượng đã tự cập nhật thông tin, do
vậy chủ thể CTTT nếu không tự đổi mới thì thông tin của chủ thể sẽ trở nên
lạc hậu, không đủ sức hấp dẫn, thuyết phục, không cạnh tranh được với thông
tin không chính thống và không đấu tranh với thông tin sai trái thù địch.
Phương pháp tuyên truyền hiệu quả nhất là làm CTTT của Đảng phải
lấy cán bộ, đảng viên giác ngộ cán bộ, đảng viên, lấy quần chúng giác ngộ
quần chúng. CTTT của Đảng và người làm CTTT của Đảng phải làm thế nào
để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân ở trong hay ngoài nước đều là những
nhà tuyên truyền.
- Hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới cũng đặt ra yêu cầu đổi mới tổ
chức bộ máy và cán bộ tuyên truyền của Đảng:
Trong điều kiện HNQT, CTTT đòi hỏi Đảng đòi hỏi phải đổi mới tổ
chức bộ máy và cán bộ làm CTTT một cách kịp thời, ngang tầm thực tiễn của
HNQT. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm CTTT của Đảng là lực lượng hạt nhân
làm CTTT. Không hành chính hóa, “nhà nước hóa”, quan liêu hóa tổ chức bộ
máy và cán bộ làm CTTT của Đảng. CTTT của Đảng không “khoán gọn” cho
các Ban Tuyên giáo Đảng, mà là nhiệm vụ của tất cả các Ban Đảng và nhất là
các Ban thuộc “Khối vận”. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm CTTT của Đảng
chỉ là nòng cốt trọng hệ thống làm CTTT nói chung của hệ thống chính trị,
của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội (đoàn thể nhân
dân) và các tổ chức của xã hội dân sự.
Hội nhập quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ tuyên truyền có phẩm chất
chính trị, năng lực tổ chức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu tình
hình thực tiễn - thực sự là những người tiên phong trong CTTT nói riêng và
công tác tư tưởng nói chung. Cán bộ làm CTTT của Đảng, hơn bao giờ hết,
53
phải là những người tâm huyết, có trách nhiệm và bản lĩnh chính trị tư tưởng
vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả năng sử dụng
thành thạo nhất công nghệ thông tin hiện đại vào CTTT.
2.2.3.3. Yêu cầu của hội nhập quốc tế đặt ra với nội dung và phương
thức tuyên truyền
- Về nội dung: Trước yêu cầu của HNQT ngày càng sâu rộng. Đảng đã
có chủ trương và quan điểm chỉ đạo là tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng,
toàn dân về yêu cầu HNQT, về cơ hội và thách thức, về pháp lý, nhiệm vụ
trọng yếu của HNQT trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận
thức và hành động tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình HNQT. Để làm
được việc này, đòi hỏi nội dung CTTT của Đảng cần tập trung vào các vấn đề
lớn sau:
+ Tuyên truyền giáo dục những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT.
+ Tuyên truyền thành tựu của công cuộc đổi mới HNQT và vị thế Việt Nam.
+ Tuyên truyền về chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào và tinh thần tự tôn
dân tộc trong quá trình HNQT.
+ Tuyên truyền giáo dục truyền thống của dân tộc, giáo dục đạo đức lối
sống, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại
trong quá trình HNQT thông qua các hoạt động kỷ niệm, các lễ hội, các đợt
sinh hoạt chính trị, các giao lưu quốc tế.
+ Tuyên truyền chống quan điểm sai trái chống "Diễn biến hòa bình"
+ Tuyên truyền về thời cơ thách thức của HNQT.
+ Tuyên truyền về lộ trình và bước đi của HNQT ở Việt Nam.
- Về phương thức tuyên truyền: CTTT một mặt phải thực hiện nhiệm
vụ hết sức nặng nề: nâng cao nhận thức và thống nhất hành động của toàn
Đảng, toàn dân nhằm thực hiện đường lối của Đảng về HNQT một cách có
54
hiệu quả. Mặt khác, đòi hỏi CTTT phải nâng tầm nhiệm vụ trong hoàn cảnh
HNQT mới với tri thức khổng lồ tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại
chúng, với tinh hoa văn hóa của nhân loại đang du nhập vào Việt Nam và cả
những âm mưu dẫn tới phản loạn về mặt tư tưởng đối với nhân dân ta. Vì vậy
CTTT của Đảng để đáp ứng yêu cầu HNQT phải tiến hành trên quy mô rộng
lớn với hai hướng chính cả xây và chống. Trong đó, cần xác định rõ xây là
xây dựng, giáo dục, truyền bá các quan điểm, đường lối, chính sách đúng đắn
của Đảng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Chống là chống lại sự
"xâm lăng về văn hóa" chống những quan điểm thù địch sai trái phá hoại về
mặt tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân ta, chống âm mưu "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch. Chính vì vậy đổi mới phương thức tuyên
truyền trước yêu cầu HNQT là điều kiện quan trọng để CTTT của Đảng thực
hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.
Yêu cầu đổi mới phương thức tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu
của HNQT đó là:
Một là, cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; đẩy mạnh hơn nữa
công tác tuyên truyền miệng, phát huy vai trò hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên. Lựa chọn đúng nội dung, hình thức phong phú, hấp
dẫn thiết thực với nhu cầu thông tin ngày một cao của nhân dân, phản ánh
chính xác tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Trước thông tin của thế
giới đang ồ ạt tràn vào Việt Nam và có tác động tới mỗi người dân, CTTT
phải kịp thời nắm bắt diễn biến tình hình tư tưởng, kịp thời tham mưu cho các
cấp ủy Đảng, chính quyền có giải pháp linh hoạt, phù hợp, thông tin kịp thời
các vấn đề, nhất là những vấn đề lớn của đất nước, có tính nhạy cảm, tránh
gây tâm lý, bức xúc hay hoang mang trong nhân dân.
Hai là, tăng cường vai trò lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là
cấp ủy và Ban Tuyên giáo đối với CTTT. Để đảm bảo CTTT hoạt động đúng
hướng, đúng quan điểm, đường lối của Đảng trong HNQT thì cần coi trọng
55
công tác điều tra dư luận xã hội. Đây là phương thức quan trọng để Đảng kịp
thời đề ra đường lối lãnh đạo phù hợp và đúng đắn.
Ba là, để hoạt động tuyên truyền trong HNQT có hiệu quả, trong đó
cần tăng cường vai trò quản lý nhà nước về hoạt động báo chí, xuất bản, văn
hóa, văn nghệ. Chú trọng đề cao sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, trực
tiếp là ngành Tuyên giáo, trách nhiệm quản lý của Bộ Thông tin truyền thông.
Các cơ quan chủ quản báo chí phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan báo chí, xuất bản thuộc
quyền và phải theo đúng các chủ trương, nguyên tắc của Đảng cũng như các
quy định của pháp luật.
Bốn là, trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần chú ý mở rộng và tăng
cường hơn mức độ thông tin tuyên truyền, bởi đây là kênh quan trọng để
Đảng truyền đi các thông điệp chính xác nhằm làm nhân dân thế giới và nhân
dân Việt Nam hiểu ngày càng đúng đường lối hội nhập của Việt Nam qua đó
tạo sự đồng tình, ủng hộ.
Năm là, trước bối cảnh HNQT mới của Việt Nam khi tình hình thế giới
có những diễn biến phức tạp, khó lường. Trình độ nhận thức của nhân dân
ngày một cao thì yêu cầu đổi mới phương pháp tuyên truyền là rất quan trọng
và cần thiết. Điều này cần đảm bảo được sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự
tích cực chủ động của các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh thành trong cả
nước. Có như vậy mới góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp chung trong CTTT
và đáp ứng được yêu cầu của HNQT đặt ra.
Sáu là, quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đảng cần chú ý,
quan tâm về tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất dành cho CTTT. Trước yêu cầu
HNQT ngày một sâu rộng, thì việc đầu tư cho nguồn lực con người kèm theo
các trang thiết bị hiện đại là yêu cầu bắt buộc phải có. Chỉ khi những người
trực tiếp làm CTTT có những trang thiết bị tuyên truyền hiện đại thì CTTT
của Đảng mới có thể đáp ứng được trước yêu cầu HNQT đặt ra với CTTT.
56
Tiểu kết chương 2
Công tác tuyên truyền của Đảng (với nghĩa là lĩnh vực hoạt động, lĩnh
vực công tác do Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thuộc khối các cơ quan
tuyên truyền của Đảng- như là đổi tượng và thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận án này) là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, là hoạt động vận
động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng nhằm
hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong điều kiện là đảng lãnh
đạo, CTTT của Đảng là một phương thức lãnh đạo của Đảng; trong điều kiện
đảng cầm quyền, CTTT của Đảng là một phương thức cầm quyền của Đảng.
Các yếu tố cấu thành của CTTT của Đảng bao gồm chủ thể khách thể, đối
tượng và phương tiện, công cụ tuyên truyền. Những yếu tố ảnh hưởng đến
CTTT của Đảng bao gồm tính chất của hệ tư tưởng, đường lối, chính sách,
trình độ và năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền của Đảng, trình
độ và đặc điểm của khách thể tuyên truyền, điều kiện và môi trường xã hội có
liên quan. CTTT của Đảng với tính cách một phương thức cầm quyền của
Đảng còn có những đặc điểm như tính tiên phong (dẫn dắt, định hướng), tính
chính thống, tính tổng hợp. Vai trò của công tác tuyên truyền đối với Đảng
cầm quyền rất lớn với việc phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là kênh quan trọng
để các cấp ủy đảng, chính quyền tổ chức thực hiện và bổ sung, hoàn thiện cơ
chế, chính sách; xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, phương thức hoạt
động; kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức; là công cụ để
cho nhân dân tiếp cận đến các chính sách, phục vụ đối ngoại, phục vụ HNQT.
Hội nhập quốc tế là quá trình các nước tiến hành các hoạt động gắn
kết,chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lựcvà tuân theo các luật chơi
chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Những nội dung cơ
bản của HNQT bao gồm hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an
ninh - quốc phòng và bảo vệ môi trường. Đường lối, chính sách của Đảng và
57
Nhà nước về HNQT ở Việt Nam hình thành từ khi bước vào thời kỳ đổi mới
(năm 1986) và không ngừng phát triển, hoàn thiện từ đó đến nay, nhất là từ
khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007. Đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT ở Việt Nam bao gồm mục tiêu,
nguyên tắc,quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản, phương châm HNQT; việc
tuyên truyền về HNQT cũng dựa chắc trên cơ sở đường lối, chính sách này và
thực hiện chúng.
Hội nhập quốc tế có ảnh hưởng rất lớn, tạo ra thuận lợi và cơ hội, nguy
cơ và thách thức đối với CTTT của Đảng. HNQT đặt ra những yêu cầu đối
với CTTT của Đảng như yêu cầu nâng cao vị trí và vai trò của CTTT của
Đảng, nắm vững nội dung tuyên truyền về HNQT, mở rộng phạm vi, khách
thể và đối tượng của CTTT của Đảng, đổi mới nội dung và phương pháp của
CTTT của Đảng, đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ tuyên truyền của Đảng. Đặc
biệt, HNQT đòi hỏi đội ngũ cán bộ tuyên truyền có phẩm chất chính trị, năng lực
tổ chức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu tình hình thực tiễn - thực sự
là những người tiên phong trong CTTT. Cán bộ làm CTTT của Đảng, hơn bao
giờ hết, phải là những người tâm huyết, có trách nhiệm và bản lĩnh chính trị tư
tưởng vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả năng sử dụng
thành thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin hiện đại vào CTTT.
58
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
3.1.1. Kết quả và nguyên nhân công tác tuyên truyền của Đảng thời
gian qua
3.1.1.1.Kết quả
- Kết quả về thực hiệnnội dung tuyên truyền:
Tuyên truyền giáo dục nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng
Hồ Chí Minh đã được Đảng quan tâm lãnh đạo chỉ đạo phù hợp với yêu cầu
hội nhập mới của đất nước. Trong đó đã từng bước được đổi mới hệ thống
chương trình, giáo trình đào tạo trong hệ thống giáo dục; nâng cao chất lượng
giáo viên, gắn lý luận với thực tiễn sinh động của hội nhập quốc tế nhằm nâng
cao sự hấp dẫn trong truyền đạt. Ở các cấp học, chương trình đào tạo đã hiểu
được sự trùng lắp, khép kín thiếu liên thông về nội dung giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường khả năng tư duy, độc lập
suy nghĩ và vận dụng kiến thức vào thực tiễn HNQT của đất nước ta hiện nay.
Đặc biệt, bước đầu đã đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo
hướng hiện đại, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách giảng dạy, trau dồi bản lĩnh chính trị của
đội ngũ giáo viên, đây là điều hết sức quan trọng và có ảnh hưởng tới nhận
thức của học viên trong điều kiện HNQT. Công tác tuyên truyền, giáo dục lý
luận chính trị, công tác nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, kết luận của
Đảng đối với đổi mới theo hướng xây dựng kế hoạch, chương trình hành động
thiết thực, sát thực tiễn có tính khả thi.
59
Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT.
Ở khía cạnh này CTTT của Đảng đã cùng với việc tuyên truyền về các sự
kiện chính trị, xã hội quan trọng và các ngày lễ lớn, góp phần tạo sự phấn
khởi, tin tưởng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung; CTTT của Đảng đã ngày càng
hướng vào việc tuyên truyền về HNQT nhằm cung cấp thông tin về hội nhập
nhằm tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong nhận thức và tạo sự thống nhất,
phát huy sức mạnh tổng hợp trong hành động đáp ứng yêu cầu của HNQT.
Bên cạnh đó,CTTT của Đảng (thông qua công tác tuyên giáo, dân vận, báo
chí của Đảng, đối ngoại của Đảng) ngày càng hướng mạnh vào tuyên truyền
mục tiêu, quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp về HNQT được xác
định trong các nghị quyết của Đảng, trong chính sách, pháp luật của Nhà
nước, trong các chương trình hành động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Chẳng hạn, đó là việc tuyên truyền về Chỉ thị 11 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa VII) về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại
trong tình hình mới; Chỉ thị 16-CT/TW ngày 10/9/2008 của Ban Bí thư (Khóa
X) về tiếp tục đổi mới tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình
hình mới; Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (Khóa
XI) về Hội nghị quốc tế; chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn
2011 - 2020 của Chính phủ và chương trình hành động Chính phủ về thông
tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Kết quả của việc tuyên truyền đường
lối, chính sách trên của Đảng đã và đang góp phần tích cực vào quá trình
HNQT của đất nước.
Có thể thấy những nội đã tuyên truyền của CTTT của Đảng về HNQT
theo hướng Việt Nam ra với thế giới như: Tuyên truyền về nền kinh tế thị
trường (định hướng XHCN) nhằm tranh thủ sự thừa nhận của quốc tế đối với
nền kinh tế thị trường của Việt Nam; tuyên truyền về môi trường (môi trường
chính trị - xã hội, pháp lý hòa bình, ổn định; môi trường chính sách “thông
60
thoáng”, ổn định, “có tầm nhìn”, v.v.) của Việt Nam; tuyên truyền về cơ hội
đầu tư, khả năng mang lại lợi nhuận cao cho các đối tác đầu tư, kinh doanh;
tuyên truyền (quảng bá) về đất nước, con người và văn hóa của Việt ra với thế
giới. Tuyên truyền về khả năng và trách nhiệm (thành viên có trách nhiệm)
của Việt Nam trong việc tham gia các lĩnh vực của đời sống quốc tế (từ kinh
tế, văn hóa đến chính trị và an ninh, quốc phòng).
Có thể thấy những nội đã tuyên truyền của CTTT của Đảng về HNQT
theo hướng thế giới đến với Việt Nam như: Tuyên truyền về thị trường các
nước, thị trường thế giới về với Việt Nam; tuyên truyền về các đối tác, nhất là
các đối tác đặc biệt, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam; tuyên
truyền về tình hình chính trị, văn hóa, xã hội của các nước về với Việt Nam;
tuyên truyền về các thể chế, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của
thế giới và các nước về với Việt Nam; tuyên truyền về những có hội hợp tác,
kinh doanh của các nước về với Việt Nam; dự báo tình hình, biến động của
thế giới về với Việt Nam; cảnh báo những khó khăn, thách thức, rủi ro từ các
nước và quốc tế về với Việt Nam.
Tuyên truyền những thành tựu của công cuộc đổi mới, của quá trình
HNQT và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: Sau 30 năm đổi mới, như
các nghị quyết của Đảng đã khẳng định, vị thế, thế và lực của đất nước ta trên
trường quốc tế đã tăng lên rõ rệt, Việt Nam ngày càng trở thành thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Trong thành tựu chung của đất nước có
sự đóng góp tích cực và hiệu quả của CTTT của Đảng. Có thể thấy những
đóng góp của CTTT của Đảng về nội dung này là: Tuyên truyền về những
thành tựu trong đổi mới và phát triển kinhtế - xã hội, ổn định chính trị - xã hội
và giữ vững an ninh - quốc phòng của đất nước; tuyên truyền về tăng trưởng
kinh tế, đạt nước có mức thu nhập trung bình, v.v.; tuyên truyền về xóa đói -
giảm nghèo, an sinh, bình đẳng xã hội, bình đẳng giới, bình đẳng dân tộc, tôn
giáo; thực hiện những mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc. Tuyên
61
truyền về sự đóng góp của Việt Nam trong các nghĩa vụ và trách nhiệm quốc
tế từ tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, chống biến đổi khí hậu đến tham lực lượng giữ gìn hòa bình thế giới.
Tuyên truyền về những đóng góp của Việt Nam vào các sinh hoạt quốc tế, từ
các sáng kiến chính sách đến các khảo đóng góp tài chính đến mức có thể và
có trách nhiệm. Quảng bá hình ảnh mọi mặt của Việt Nam ra với thế giới từ
kinh tế đến văn hóa, xã hội, đất nước, con người.
Tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào và tinh thần tự tôn dân
tộc trong quá trình HNQT: Ở khía cạnh này CTTT của Đảng đã: Đẩy mạnh
tuyên truyền về lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, giữ vững bản
sắc dân tộc, v.v. trong quá trình HNQT; đã hướng vào việc làm cho mỗi
người dân nâng cao ý thức tự giác, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, nâng cao
ý thức trách nhiệm công dân trong quá trình HNQT; tuyên truyền, phổ biến
những bài học, những kinh nghiệm; xây dựng và nhân rộng những điển hình
tiên tiến, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước; góp phần ngăn chặn và khắc
phục những lệch lạc, cách nhìn phiến diện coi trọng lợi ích trước mắt mà xem
nhẹ lợi ích lâu dài, hoặc quá coi trọng đời sống vật chất, mà xem nhẹ đời sống
tinh thần, v.v. trong quá trình HNQT. Các cuộc vận động, phong tràoxã hội
ngày càng đi vào chiều sâu như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, “Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Thanh niên lập
nghiệp”, “Phụ nữ tự vươn lên làm giàu chính đáng”, “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam”, “Xóa đói, giảm nghèo”, v.v. đã và đang khơi dậy lòng
yêu nước, tính thần đoàn kết, cổ vũ khát vọng làm giàu, thực hiện dân chủ,
công bằng, văn minh, v.v. trong quá trình HNQT.
Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, phát huy truyền thống văn
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong quá trình HNQT: Ở khía
cạnh này CTTT của Đảng đã: Tập trung tuyên truyền về giáo dục đạo đức,
nâng cao tinh thần cách mạng, yêu Tổ quốc Việt Nam XHCN, nâng cao tinh
62
thần đoàn kết cộng đồng, chia sẻ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn gian khổ
và có tinh thần quốc tế trong sáng, nhất là nội dung của việc “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; không chỉ coi trọng tuyên truyền về
hội nhập kinh tế,mà còn coi trong tuyên truyền văn hóa trong quá trình
HNQT; xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội khi hội nhập quốc
tế, là động lực trong HNQT.
Tuyên truyền chống các quan điểm sai trái, chống “diễn biến hòa bình
trong quá trình HNQT: Ở khía cạnh này CTTT của Đảng đã: Tiếp tục tuyên
truyền bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
phá hoại của các thế lực thù địch. Thực hiện phương châm:
Để hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập vào nền kinh
tế tri thức, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam phải kiến quyết
đấu tranh chống diễn biến hòa bình, giữ vững trận địa tư tưởng XHCN, bảo vệ
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy
mạnh mẽ phong trào cách mạng của nội dung [49].
Tuyên truyền xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý và tham gia chính trị;
Tuyên truyền về công khai, minh bạch công tác khởi tố, điều tra, xét xử; giáo
dục pháp luật, v.v. trong quá trình HNQT; tuyên truyền đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; thực hành dân chủ, cải cách
hành chính, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN.
Tuyên truyền về thời cơ và thách thức trong quá trình HNQT. Về thời
cơ: Đã tuyên truyền về xu thế lớn - hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế
giới; tuyên truyền về những mặt tích cực của toàn cầu hóa - xu thế hợp tác và
đấu tranh trong quan hệ quốc tế; về thách thức: Tuyên truyền về những thách
thức, nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
đe dọa con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; làm thất bại
63
những âm mưu lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền
quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm
phạm toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu
Nhà nước, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ
quốc tế, đưa ra thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Tuyên truyền về
cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch;
Tuyên truyền về cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; chống nguy cơ “tư diễn biến”
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; chống hiện tượng và tác hại của tình
trạng “lợi ích nhóm”, v.v. trong đổi mới đất nước nói chung và HNQT nói
riêng. Chẳng hạn, đó là việc thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009
của Ban Bí thư về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu hoạt động “diễn
biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương 4 (Khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay,
Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) và Nghị quyết Đại hội XI về chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuyên truyền về thực hiện dân chủ ở cơ
sở, phát hiện, quản lý và xử lý các tình huống, “điểm nóng” chính trị - xã hội
phụ vụ yêu cầu của HNQT.
Tuyên truyền về lộ trình, bước đi của quá trình HNQT: CTTT của
Đảng, cùng với CTTT của Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, đã từng
bước và ở mức độ nhất định tuyên truyền về lộ trình, bước đi của quá trình
HNQT (theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước): Tuyên truyền về
quan điểm lớn xem HNQT là một quá trình - từ chỗ Việt Nam mong muốn
làm bạn với các nước đến Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước và Việt
Nam mong muốn và sẵn sàng trở thành thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế; tuyên truyền về quá trình từ bình thường hóa quan hệ đến phát
triển các mối quan hệ với các đối tác là các nước lớn, các khu vực, các cộng
đồng và các tổ chức quốc tế quan trọng (từ quan hệ hữu nghị đặc biệt đến đối
64
tác toàn diện, đối tác chiến lược, v.v.); tuyên truyền từ hội nhập kinh tế quốc
tế đến HNQT một cách toàn diện.
- Kết quả về đổi mớiphương thức tuyên truyền:
Đã đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền đẩy mạnh công tác tuyên
truyền miệng, phát huy vai trò hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên:
Các hình thức tuyên truyền nói chung và tuyên truyền HNQT nói riêng của hệ
thống báo chí của Đảng đã có nhiều đổi mới, phản ánh có nhiều đổi mới, hấp
dẫn sinh động, phong phú, nhanh chóng và kịp thời thời. Bức tranh hiện thực
khách quan, chân thật của đất nước đổi mới và thế giới biến động được phản
ánh khá đầy đủ và toàn diện, nhanh chóng trên báo chí, truyền thông của
Đảng với nhiều hình thức khác nhau (trực tiếp, trực tuyết, gián tiếp, hình ảnh,
âm thanh cập nhật). Nhờ vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng hiểu
biết nhiều và nhanh hơn, có chất lượng hơn tình hình trong nước,thế giới để
mở rộng giao lưu, hội nhập; bạn bè quốc tế cũng hiểu nhiều hơn và đúng hơn
đất nước và con người Việt Nam để thúc đẩy hợp tác, đầu tư với Việt Nam.
Các hình thức tương tác giữa chủ thể và đối tượng tuyên truyền diễn ra phong
phú và sôi động và phù hợp hơn. Hình thức tuyên truyền ngày càng linh hoạt,
sáng tạo, phù hợp với phong tục, tập quán từng vùng, từng địa phương. Bên
cạnh đó CTTT miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên phù hợp hơn với yêu cầu, nhiệm vụ của HNQT. Đội ngũ báo cáo viên
ngày càng biết tiếp thu, kế thừa và vận dụng cách tuyên truyền truyền của cha
ông trong lịch sử và trong các cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây để linh
hoạt, chủ động thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền tới cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư (Khóa IV) về
xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng; Thông báo số
71-TB/TW của Thường vụ Bộ Chính trị (Khóa VIII) về tăng cường lãnh đạo
công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới; Chỉ thị số 17-CT/TW ngày
15/11/2007 của Ban Bí thư (Khóa X) về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
65
lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới; v.v. đến nay
vai trò quan trọng của các báo cáo viên, tuyên truyền viên trong công tác
thông tin, tuyên truyền của Đảng ngày càng được xác định rõ hơn.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các báo cáo viên ngày càng nắm
vững những vấn đề cần tuyên truyền, nắm bắt đối tượng tuyên truyền; xử lý
thông tin và lựa chọn các thông tin cần thiết; sử dụng ngôn ngữ phù hợp; có
thái độ đúng mực khi trình bày, nói chuyện tạo hiệu quả trong tuyên truyền;
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã có sự trưởng thành lớn về số lượng
và chất lượng. Đến 2013, đã có 375 báo cáo viên cấp Trung ương, 4.627 báo
cáo viên cấp tỉnh và tương đương, 1.098 báo cáo viên cấp huyện và tương
đương, mỗi xã và tương đương có 01 báo cáo viên; số lượng tuyên truyền
viên trong cả nước đã có có hơn 65.000 người [117].
Các báo cáo viên, tuyên truyền viên đã được tập huấn thường xuyên,
cung cấp các thông tin và tài liệu cần thiết phục vụ cho công việc. Đặc biệt
các tài liệu thông tin đến định hướng thông tin được Ban Tuyên giáo Trung
ương định hướng và gửi xuống kịp thời thông qua Tạp chí báo cáo viên hàng
tháng, các file tư liệu, đĩa CD. Đây là những cơ sở, điều kiện cần thiết giúp
các báo cáo viên nâng cao trình độ năng lực của mình và góp phần đưa công
tác chính trị tư tưởng đến với nhân dân, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và vận
động nhân dân thực hiện, đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về HNQT. Nhờ có hoạt động của đội ngũ này mà các vấn đề liên quan đến đời
sống xã hội, đến sự phát triển của đất nước và HNQT, bao gồm cả những
thông tin không được phép phổ biến công khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng đã đến tới đông đảo người dân theo hướng khách quan - kịp thời -
bảo đảm tính giáo dục. Từ Trung ương tới địa phương đều duy trì tốt hội nghị
báo cáo viên, hội nghị thông tin thời sự hàng tháng, hàng quý nhằm cung cấp
các thông tin kịp thời tới cán bộ tuyên truyền.
66
Đã coi trọng công tác điều tra dư luận xã hội, tìm hiểu tâm trạng, tư
tưởng xã hội cũng như thực trạng công tác tư tưởng để phục vụ cho việc xác
định nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền. Các đợt điều tra dư luận
xã hội được tiến hành ở các đối tượng khác, đã góp phần cho Đảng đánh giá
sát hơn tình hình. Giữ vững và tăng cường việc định hướng dư luận xã hội,
cung cấp thông tin đầy đủ, khách quan trước các vấn đề bức xúc trong nhân
dân, trong HNQT được chú trọng thông qua hoạt động của các cơ quan báo
chí, của Ban Tuyên giáo các cấp, qua kênh các báo cáo viên, tuyên truyền
viên trong toàn quốc đã đem lại hiệu quả bước đầu trong tạo sự đồng thuận
trong các tầng lớp nhân dân, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới và
HNQT. Lấy tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết, chính sách và pháp luật của
Đảng và Nhà nước về các định hướng và chiến lược HNQT, v.v. làm định
hướng dư luận xã hội phục vụ HNQT.
Chú trọng tăng cường công tác xuất bản, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
phục vụ HNQT, thực hiện Nghị quyết 09 - NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa
VII) về 6 định hướng lớn cho công tác tư tưởng, cũng như các nghị quyết
khác có liên quan sau này, đã từng bước đổi mới và hoàn thiện tổ chức và
hoạt động xuất bản; tổ chức lại hệ thống trường Đảng, thành lập các trung tâm
bồi dưỡng chính trị cấp huyện, v.v. đáp ứng ở mức độ nhất định và có thể cho
CTTT của Đảng về HNQT.
Quan tâm tới việc mở rộng phạm vi và tăng cường mức độ tuyên truyền:
Về mở rộng phạm vi tuyên truyền: CTTT của Đảng đã bao phủ, mở
rộng đến tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước và cả kiều bào ta
ở nước ngoài, trong đó đã chú trọng tới từng loại đối tượng khác nhau để có cách
tuyên truyền khác nhau; để tuyên truyền về quá trình tham gia HNQT của Việt
Nam. Các sản phẩm, ấn phẩm tuyên truyền của Đảng, nhất là sản phẩm, ấn
phẩm điện tử và bằng tiếng nước ngoài của Đảng đã đến với đông đảo bạn đọc
trên thế giới; nhiều chương trình tuyên truyền của Đảng hoặc do Đảng lãnh đạo,
67
chỉ đạo thông qua các đài phát thanh, truyền hình ngày càng mở rộng đối tượng.
Chính vì vậy CTTT của Đảng và kết quả đạt được đã đến với bạn bè, chính phủ
và nhân dân nhiều nước trên khắp các châu lục trên thế giới.
Thông qua các kênh tuyên truyền này, đã cung cấp kịp thời cung cấp
các vấn đề có liên quan đến Việt Nam, định hướng để kiều bào ta ở nước
ngoài và nhân dân thế giới hiểu đúng, hiểu rõ, đồng thuận, ủng hộ và giúp đỡ
Việt Nam trong quá trình HNQT. Truyền đi những thông điệp chính xác để
cộng đồng quốc tế hiểu đúng và ủng hộ đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về HNQT.
Về tăng cường mức độ tuyên truyền: Đã tăng cường số lượng và chất
lượng thông tin (tin, bài, hình ảnh, âm thanh, v.v.); tăng cường thông tin trực
tuyến, giao lưu trực tuyến với mức độ thông tin ngày càng lớn, thông tin
“nóng”, thông tin mới được cập nhật kịp thời. Thông qua các hoạt động tuyên
truyền đã tạo ra được nhận thức đúng đắn, thống nhất trong toàn Đảng, toàn
dân những vấn đề liên quan đến HNQT; góp phần động viên các tầng lớp
nhân dân, các doanh nghiệp, từ đảng viên đến nhân dân, từ cán bộ lãnh đạo
quản lý tới công chức viên chức, từ người lao động đến chủ doanh nghiệp, từ
doanh nghiệp trong nước đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Mức
độ bao phủ của CTTT của Đảng trong HNQT được tiến hành thông qua việc
thông tin, quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trên cơ sở đó, nâng cao
nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện chính sách của Đảng.
- Kết quả về đổi mới phương pháp tuyên truyền:
Đó là sự chủ động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị làm CTTT của
Đảng và giữa cơ quan, đơn vị làm CTTT của Đảng với các cơ quan, đơn vị
làm CTTT của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên
truyền về HNQT. Chẳng hạn, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, một
số Ban Đảng, Ban Cán sự Đảng các Bộ, ngành đã chủ động xây dựng kế
68
hoạch tuyên truyền về mục tiêu, quan điểm và định hướng HNQT của đất
nước nói chung và của Bộ, Ngành mình nói riêng. Nội dung tuyên truyền
được gắn với cũng như xác định trách nhiệm của đơn vị, ngành trong triển
khai thực hiện. Ban Cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
tham mưu và tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới trong HNQT; Ban Cán
sự Đảng Bộ Công thương đã tham mưu phát động Cuộc vận động người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; Ban Cán sự Đảng Hội Nông dân Việt Nam
đã hàng năm chủ trì hội nghị tuyên dương nông dân điển hình làm kinh tế
giỏi; Ban Cán sự Đảng Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức tuyên truyền về Việt
Nam HNQT và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung
ương đã chủ trì tham mưu tổ chức sâu rộng trong toàn Đảng về "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"...
Đó cũng là việc tạo ra sức mạnh tổng hợp trong hoạt động tuyên truyền
của Đảng và của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc tuyên truyền về HNQT.
Chẳng hạn, trước tác động của HNQT, để tập trung phát huy tính tích cực của
hội nhập và hạn chế tác động tiêu cực của hội nhập, ngày 27/4/2009 Ban Bí
thư Trung ương Đảng (Khóa X) đã ra Quyết định số 221-QĐ/TW ban hành
quy chế phối hợp giữa Ban tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết
các vấn đề bức xúc của nhân dân. Đây là văn bản chỉ đạo kịp thời, tiếp tục,
khẳng định vai trò quan trọng của công tác thông tin tuyên truyền đối với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Qua
8 năm triển khai thực hiện, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ký kết nhiều
chương trình phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương với các Bộ, ngành,
địa phương về CTTT các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong HNQT của Việt
Nam và đã mang lại hiệu quả thiết thực, rộng khắp.
Vì đối tượng của hoạt động tuyên truyền chủ yếu là quần chúng nhân
dân, do đó để đạt hiệu quả trong CTTT, Đảng đã sử dụng nhiều nhóm phương
69
pháp tuyên truyền khác nhau. Đã sử dụng các nhóm phương pháp tuyên
truyền như: Nhóm phương pháp báo cáo, thuyết trình, tọa đàm; nhóm phương
pháp tham quan, học tập, hoạt động phong trào thực tiễn; nhóm phương pháp
trực quan (trang ảnh, pa-nô, áp phích, v.v.); nhóm phương pháp thuyết phục,
tranh luận, thảo luận; nhóm phương pháp thi tìm hiểu, hoạt động văn hóa, văn
nghệ; nhóm phương pháp thi đua, sinh hoạt chính trị, sinh hoạt Đảng.
Đảng đã chú ý kết hợp giữa cung cấp thông tin và định hướng cho
nhân dân một cách kịp thời chú trọngthông tin thời sự, chính trị trong nước
với quốc tế. Việc trao đổi, đối thoại, tiếp thu ý kiến, kiến nghị, đề xuất của
nhân dân đã tạo ra tính hấp dẫn trong CTTT của Đảng. Chú trọng đẩy
mạnh công tác thông tin hai chiều là phương pháp mới và có hiệu quả của
Đảng, phương pháp này đã khắc phục được cách tuyên truyền là chỉ chú
trọng định hướng từ trên xuống, chủ yếu là độc thoại, áp đặt chủ quan
thông tin đến đối tượng.
Cùng với đó,việc phổ biến tuyên truyền các nghị quyết Đảng, các cuộc
vận động, các phong trào thi đua được triển khai đồng bộ, CTTT của Đảng đã
tác động đến lý trí, tình cảm của các tầng lớp nhân dân, qua đó làm dân hiểu,
đã nghe và đã theo. Nội dung thiết thực, toàn diện, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tình hình hiện nay. Song
song với việc nâng cao nhận thức, hành động cho nhân dân, kết quả của công
tác tuyên truyền đã thể hiện rõ: giữ được ổn định chính trị; lòng yêu nước,
tinh thần đoàn kết, tính năng động, sáng tạo của con người Việt Nam được
phát huy và nâng cao; người dân ngày càng được biết nhiều hơn do bộ máy
tuyên truyền hoạt động đều tay, tích cực.
Thông qua các phương pháp đã sử dụng, CTTT của Đảng từng bước
được đổi mới mạnh mẽ theo hướng hiện đại, dân chủ và hấp dẫn. Nâng cao
tính thuyết phục, khai mở nhận thức, cung cấp tri thức mới, v.v. đây là những
yếu tố giữ vai trò vai trò quyết định chất lượng tuyên truyền.
70
Kết quả về tăng cường tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CTTT của Đảng:
Hệ thống báo chí, xuất bản của Đảng cũng ngày càng phát triển cả về
số lượng và chất lượng trong xu thế phát triển chung của báo chí Việt Nam.
Theo báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2015 của Bộ Thông tin và
Truyền thông, toàn quốc có 857 cơ quan báo chí,trong đó có 199 cơ quan báo
chí in (Trung ương có 86 báo, địa phương có 113 báo), 658 tạp chí; (521 tạp
chí Trung ương, 137 Tạp chí địa phương). Về báo chí điện tử: Hiện cả nước
có 105 báo, tạp chí điện tử trong đó có 83 báo, tạp chí điện tử của cơ quan báo
chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập. Mạng lưới phát thanh, truyền hình có
67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có 03 đài
phủ sóng mặt đất toàn quốc - Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt
Nam và Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC; 64 đài phát thanh, truyền hình địa
phương. Hiện tại, Việt Nam có 01 hãng thông tấn nhà nước là Thông tấn xã
Việt Nam. 178 kênh chương trình phát thanh và truyền hình quốc gia và một
số chương trình phát thanh, truyền hình quảng bá khác được phát sóng trên
mạng internet đến các khu vực và các nước trên thế giới phục vụ thông tin đối
ngoại. Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền
tiếp tục được đầu tư, phát triển. Riêng 04 cơ quan báo hình lớn nhất của Việt
Nam (Đài truyền hình Việt Nam, Đài truyền hình kỹ thuật số VTC, Đài phát
thanh - truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh) đã sản
xuất 73 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ thống truyền hình trả tiền
hiện có 75 kênh truyền hình nước ngoài phục vụ 4,4 triệu thuê bao toàn quốc.
Ngoài ra, do sự phát triển của công nghệ thông tin đang thúc đẩy sự ra đời của
những loại hình và sản phẩm truyền thông mới trong đó có các kênh truyền
thông sử dụng công nghệ online như mobile, truyền hình internet. Tính đến
tháng 12/2013, tại Hà Nội, Hội nghị báo chí toàn quốc được tổ chức đầu năm
2014 đã thống kê: Số bản báo phát hàng năm 2013 là 863 triệu bản; Tạp chí
71
phát hành khoảng 340 triệu bản; Cả nước có khoảng 813 tờ báo và tạp chí với
974 ấn phẩm [39].
Cùng với sự phát triển của báo chí cả nước, đến nay báo chí của Đảng
đã có bước phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực vào CTTT của Đảng về
HNQT. Các cơ quan thông tin đại chúng đã đưa nhiều tin bài có chất lượng,
nội dung cập nhật phong phú trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng
được nhu cầu tìm kiếm thông tin của nhân dân. Nhiều ấn phẩm có chất lượng
vừa có giá trị định hướng, vừa gắn với thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả
tuyên truyền của Đảng, nhưBáo nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật; các tạp
chí của các cơ quan (cán Ban) như Tạp chí Lý luận chính trị (Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chi Minh), Tạp chí Tuyên giáo (Ban Tuyên giáo Trung ương),
Tạp chí Thông tin đối ngoại (Ban Tuyên giáo Trung ương), Tạp chí Dân vận
(Ban Dân vận Trung ương), Tạp chí Xây dựng Đảng (Ban Tổ chức Trung
ương), v.v.bằng tạp chí in, tạp chí điện tử, tiếng Việt và nhiều thứ tiếng trên
thế giới thu hút sự chú ý của được bạn đọc trong và ngoài nước; các Báo của
các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương [39].
Thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25/3/2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa 9) khẳng định: Sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động
tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là một bộ phận quan trọng
của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thời gian qua ngành
xuất bản đang cố gắng thực hiện: các nhà xuất bản là những cơ quan làm nhiệm
vụ tư tưởng - văn hóa, với các ấn phẩm tốt, định hướng cho bạn đọc và xã hội
phát triển đúng đắn, góp phần giữ vững ổn định chính trị tư tưởng, góp phần bảo
vệ các giá trị truyền thống của dân tộc và cổ vũ động viên các cấp, các ngành,
các địa phương tham gia tích cực hội nhập khu vực và quốc tế.
Để khắc phục từng bước tình trạng cơ sở vật chất của CTTT không đáp
ứng yêu cầu HNQT, Đảng đã ban hành Quyết định 100 nhằm tạo điều kiện
72
thuận lợi cho các cơ quan tuyên truyền hoạt động. Từ 2007 đến nay, nhiều nơi
đã tăng cường một bước cơ sở vật chất và phương tiện cho CTTT của Đảng
như trang bị máy thu hình, thu thanh, ghi âm, projector, máy tính xách tay cho
cán bộ tuyên giáo; nhiều nơi được trang bị máy fax, máy photocopy.
Hệ thống báo chí, xuất bản trong địa bàn cả nước đã phát triển nhanh cả
về số lượng, hình thức và nội dung đáp ứng yêu cầu thông tin phong phú,
nhanh, nhạy của nhân dân. Tại nhiều công sở, cơ quan tuyên truyền đều đã
được lắp đặt wifi phục vụ nhu cầu cập nhật và đưa thông tin kịp thời hơn. Phát
hành các tài liệu tuyên truyền, hoạt động thông tin tuyên truyền của các báo cáo
viên, tuyên truyền viên đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ âm
mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đồng thời chủ động trong HNQT.
Tổ chức bộ máy làm CTTT của Đảng được chú trọng, đầu tư và từng
bước đáp ứng yêu cầu của NHQT. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập, tình hình quốc tế có nhiều diễn biến, khó lường, đời sống
tư tưởng thế giới tiếp tục ngày càng phức tạp trước sự hiện diện, cạnh tranh
giữa nhiều khuynh hướng tư tưởng khác đã ảnh hưởng tới sự phát triển của
đất nước. Trước điều kiện mới của HNQT này, bộ máy làm CTTT của Đảng
càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất về tư tưởng hành
động và sức mạnh tổng hợp cho thành công của HNQT của Việt Nam.
Chẳng hạn, Ban Tuyên giáo với chức năng tham mưu cho cấp ủy về
công tác tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc đánh giá
hoạt động của công tác tuyên truyền để báo cáo cấp ủy. Đã chủ động xây
dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền đồng thời chú trọng bồi dưỡng
nghiệp vụ cho Ban Tuyên giáo cấp dưới. Với vai trò là nòng cốt trong CTTT,
Ban Tuyên giáo các cấp đã làm tốt chức năng thông tin tuyên truyền các chỉ thị,
nghị quyết tới đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hoạt động tuyên truyền chú
trọng từ tuyên truyền trực quan đến nắm và định hướng dư luận xã hội. Đã kịp
thời tham mưu cho Đảng nghiên cứu và phát triển lý luận cũng như tổng kết thực
73
tiễn trong từng giai đoạn của HNQT. Hệ thống tuyên giáo các cấp được xây
dựng và kiện toàn theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo số lượng.
Hoạt động tuyên truyền của báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng.
Đội ngũ báo cáo viên được kiện toàn về tổ chức, bộ máy, được cung cấp tài
liệu và đảm bảo các điều kiện thông tin để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Họ đã
góp phần quan trọng vào việc đưa đường lối, chính sách của đảng đến với
quần chúng, góp phần nắm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Hàng năm
Ban Tuyên giáo Trung ương mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ tuyên
giáo các tỉnh thành, ngành và đoàn thể; thường xuyên bồi dưỡng, cung cấp
thông tin cho đội ngũ báo cáo viên cũng như nâng cao chất lượng hoạt động
của Trung tâm thông tin công tác tư tưởng.
Các hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền, thông tin, cổ động,
báo chí, xuất bản, tuyên truyền miệng, diễn ra thường xuyên và có kết quả
hơn. Ngày càng có nhiều hơn, chất lượng hoạt động chuyên nghiệp hơn các
cơ quan đại diện và phóng viên của các cơ quan thông tin, tuyên truyền của
Đảng ở các nước và các tổ chức quốc tế.
Đến nay bộ máy trực tiếp làm công tác tuyên truyền của Đảng ở Trung
ương gồm có hơn 300 người; trong đó: giáo sư, phó giáo sư 4,6%; tiến sỹ, thạc sỹ
26%; đại học, cao đẳng 55%; trình độ lý luận cử nhân và cao cấp 40,8% [128].
Ban Tuyên giáo cấp tỉnh, thành phố có từ 20 - 25 cán bộ. Các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có trung bình khoảng 45 - 50 người gồm từ 5 - 7
phòng chuyên môn. Trưởng ban Tuyên giáo là ủy viên thường vụ tỉnh, thành ủy.
Trung tâm thông tin công tác tư tưởng cấp tỉnh có biên chế từ 5 - 7 người. Các
đơn vị còn lại giao cho phòng tuyên truyền, riêng khối các cơ quan Trung ương,
Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương đã thành lập Trung tâm bồi dưỡng
chính trị. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh có khoảng 70% có trình độ đại học
trở lên, còn lại là cao đẳng. Trình độ lý luận chính trị cử nhân và cao cấp chiếm
52,36% [15]. Ban Tuyên giáo cấp huyện có từ 3 - 6 cán bộ, Trưởng Ban Tuyên
74
giáo là ủy viên thường vụ cấp huyện. Về trình độ học vấn tiến sỹ, thạc sĩ 3,42%.
Đại học 76,02%, cao đẳng 5,7%. Các đồng chí công tác tại Ban Tuyên giáo cấp
huyện có trình độ lý luận từ cao cấp trở lên chiếm 52,91% [15].
Đến nay đã có gần 6000 cán bộ tuyên giáo chuyên trách cấp xã, còn lại
là kiêm nhiệm. Đây cũng là sự quyết tâm rất lớn của các cấp ủy Đảng địa
phương tới bộ máy tuyên giáo cấp xã, nơi trực tiếp đưa Nghị quyết chủ
trương của Đảng và Nhà nước tới người dân. Mặc dù Trung ương chưa có
quy định chính thức về bộ máy, tổ chức và cán bộ đối với mô hình Ban tuyên
giáo cấp xã nhưng xuất phát từ tình hình thực tế của CTTT của Đảng, cần
thiết phải tăng cường cán bộ tuyên truyền cho Đảng tại địa bàn và quan trọng
để tạo hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền, nên những tỉnh thành đã chủ
động bố trí sắp xếp bộ máy và xây dựng cơ chế hoạt động cho đội ngũ này.
Đến nay, mô hình Ban tuyên giáo cấp xã hoạt động bước đầu có kết quả và
khẳng định vai trò cần thiết phải có Ban tuyên giáo cấp xã, làm cho CTTT của
Đảng đến tận các tổ dân phố, cụm dân cư, ấp, bản làng.
Phần lớn cán bộ hệ thống tuyên giáo từ Trung ương tới địa phương có
trình độ và được đào tạo từ chuyên môn khác nhau, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề nghiệp. Các cấp ủy Đảng đã
chú trọng quan tâm từ khâu tuyển chọn, đến bồi dưỡng đào tạo, qua đó đã góp
phần nâng cao chất lượng, đảm bảo số lượng nhiều cán bộ tuyên giáo có trình
độ cao, cán bộ được rèn luyện trong thực tiễn công tác tuyên giáo và bồi
dưỡng nghiệp vụ thường xuyên.
- Từ sự phân tích trên đây đã cho thấy ở những giai đoạn này của
HNQT, CTTT của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng mà tổng
quan lại đó là:
+ Về chất lượng tuyên truyền:
Thực tiễn cho thấy, CTTT của Đảng thời gian qua đã ngày càng chủ
động, sáng tạo, nhận thức rõ các yêu cầu đổi mới để hoàn thành mục tiêu đề
75
ra.Nói đến CTTT của Đảng, trước hết là nhiệm vụ tiến hành nghiên cứu và
phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp cho được những câu hỏi do
HNQT đặt ra. CTTT của Đảng đã từng bước hoàn thiện và phát triển hệ tư
tưởng, góp phần xây dựng đường lối chiến lược, đề ra các biện pháp sách
lược cho công cuộc HNQT. Xây dựng và bổ sung những chuẩn mực và thang
bậc giá trị, đạo đức qua từng giai đoạn hội nhập.
Công tác tuyên truyền của Đảng đã thực hiện việc truyền bá lý luận và
tuyên truyền, cổ động ngày càng có tính thuyết phục, đi vào lòng người, củng
cố lòng tin và thống nhất hành động. Phương pháp và hình thức tuyên truyền
từng bước đáp ứng và phù hợp với điều kiện khách quan của hội nhập, đặc
điểm tâm lý và trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.
Trong cuộc đấu tranh với âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch, CTTT của Đảng đã đấu tranh kiên quyết với các tư tưởng
đối lập, lạc hậu và thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng trên mọi cấp độ và
phương diện, từng bước làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chúng.
Công tác tuyên truyền là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính
trị. Tuy nhiên, do đặc điểm của CTTT cần thiết phải có lực lượng chuyên
môn, những người làm CTTT. Việc tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ được
Đảng quan tâm, từng bước kiện toàn, tạo điều kiện đội ngũ này đáp ứng yêu
cầu CTTT trong từng giai đoạn cách mạng, chính điều này có ý nghĩa quan
trọng đến nâng cao hiệu quả CTTT của Đảng trước yêu cầu HNQT.
+ Về hiệu quả tuyên truyền:
Thứ nhất, CTTT của Đảng đã và đang tranh thủ, tận dụng thời cơ, đổi
mới và đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, xây dựng chiến lược
phát triển CTTT phù hợp với tình hình mới. CTTT của Đảng đã góp phần tạo
thế và lực cho Việt Nam trong HNQT.
Những năm qua việc thực hiện chủ trương chủ động HNQT của Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát
76
triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm
tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới
ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn
hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống
pháp luật ngày càng được hoàn thiện; năng lực cạnh tranh quốc gia và của các
doanh nghiệp được nâng lên; đội ngũ doanh nhân nước ta đã có bước trưởng
thành đã tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các
nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh HNQT. Năng lực của đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa
phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà
nước về hội nhập quốc tế và các hoạt động đối ngoại khác được quan tâm
củng cố.
Công tác tuyên truyền của Đảng đã giữ vai trò quan trọng trong giữ gìn
sự ổn định chính trị - xã hội; góp phần đảm bảo cho hệ thống chính trị vận
hành tốt, quyền lực chính trị và quyền lực Nhà nước được thực thi trên thực
tế. Đảng đã tập trung tuyên truyền xây dựng nền dân chủ XHCN; phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Bằng việc mở các lớp, các
Hội nghị quán triệt, thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tấn báo chí
về mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp đổi mới, về con đường
đi lên CNXH của Việt Nam hay cập nhật những kết quả đạt được trong quá
trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới, những bất cập, băn khoăn, tâm
77
tư nguyện vọng của nhân dân được phản ánh kịp thời đã giúp nhân dân tuyên
truyền ngấm sâu vào các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Thứ hai, CTTT của Đảng đã tập trung động viên các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tích cực các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng lối sống văn
hóa lành mạnh cho nhân dân góp phần xây dựng đối với phát triển toàn diện.
Trong những năm qua, việc tuyên truyền đạo đức cách mạng, lối sống
văn hóa cho nhân dân được chú trọng. Các nội dung tư tưởng được tiến hành
ở khắp các lĩnh vực. CTTT của Đảng đã tập trung tuyên truyền người dân
sống có đạo đức cách mạng, yêu Tổ quốc Việt Nam XHCN, đoàn kết cộng
đồng, giúp nhau vượt qua khó khăn gian khổ, có tinh thần quốc tế trong sáng.
Đặc biệt, CTTT của Đảng đóng góp vào những kết quả HNQT của Việt
Nam cho đến nay:
Trên lĩnh vực kinh tế: Đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các
tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, bình thường hóa quan hệ với
nhiều thể chế tài chính khu vực và quốc tế. Khái quát: Tháng 1/1995 gửi đơn
gia nhập và tiến hành đàm phán với WTO; tháng 6/1995 gia nhập ASEAN;
tháng 3/1996 trở thành sáng lập viên ASEM; tháng 11/1998 trở thành thành
viên APEC; tháng 1/2006 tham gia AFTA; tháng 11/2006 tham gia WTO,
tháng1/2007 là thành viên chính thức WTO; thiết lập quan hệ thương mại với
các thể chế tài chính, tiền tệ quốc tế IMF, WB, ADB, v.v.; có quan hệ ngoại
giao với 181 nước; quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước và vùng
lãnh thổ; nhận đầu tư từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch
ngoại thương đã vượt hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm trong nước. Cũng
với các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU,
Hoa Kỳ, Nga Australia, hàng hóa Việt Nam đã vươn ra nhiều thị trường lớn
khác như Trung Đông, Mỹ Latinh và Châu Phi. Đặc biệt, tháng 10/2015 chính
thức thông qua Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)
với sự tham gia của 12 nước xuyên Thái Bình Dương và dự kiến ký kết chính
78
thức vào tháng 2/2016 (Ngày 05/10/2015, sau hơn 5 năm đàm phán, Hiệp
định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính thức được
thông qua tại Atlanta (Hoa Kỳ), với sự tham gia của 12 nước Australia, Bru-
nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru,
Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam. Hiệp định TPP được xem là hình mẫu cho
hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Hiệp định TPP
(gồm 30 chương) đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận
lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Lễ ký kết chính thức Hiệp định TPP được nhất trí diễn ra ngày
04/02/2016 tại New Zealand) [58].
Trên lĩnh vực chính trị: Đưa đất nước thoát khỏi cô lập về chính trị,
nâng cao vị thế và uy tín chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Khái
quát: Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung; tháng 7/1995 bình thường hóa
quan hệ Việt - Mỹ; tháng 6/1995, trở thành thành viên của ASEAN, xây dựng
Cộng đồng ASEAN (dựa trên 3 trụ cột là cộng đồng kinh tế, cộng đồng chính
trị - an ninh, cộng đồng văn hóa - xã hội); tháng 3/1996 tham gia ASEM cả
trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao; năm 2001 xác lập mối quan hệ đối tác
chiến lược với Nga. Tháng 7/2007 ký tuyên bố chung về đối tác chiến lược
mới với Ấn Độ; tháng 10/2007 trở thành Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc; củng cố và phát triển quan hệ ba nước Đông
Dương; thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản; ký nhiều hiệp
định với hầu hết các nước EU; tham gia hầu hết các tổ chức, diễn đàn quan
trọng trên thế giới [58].
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Văn hóa, xã hội của các nước ngày càng
tác động và du nhập vào Việt Nam và văn hóa, hội của Việt Nam cũng ngày
càng ra với thế giới. Khái quát: Đa dạng hóa các hình thức giao lưu văn hóa
với thế giới (festival, du lịch, lễ hội, hội thi; liên hoan nghệ thuật, điện ảnh,
79
sân khấu; hội thảo, triển lãm; lễ hội văn hóa, tôn giáo; công nhận di sản thế
giới; hợp tác trên các lĩnh vực y tế (phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức
khỏe, v.v.; phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, v.v.; tham gia nhiều tổ
chức quốc tế về văn hóa, xã hội.
Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Mở rộng hợp tác với các nước, giữ
vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình, ổn định
cho phát triển kinh tế - xã hội. Khái quát: Hoàn thành phân định biên giới trên
bộ với các nước láng giềng, tiến hành cắm mốc biên giới, phân định ranh giới
lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan; tham
gia nhiều cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh của khu vực và thế giới (Hội
nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN; diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF); tổ chức Cảnh sát quốc tế (INTERPOL) [58].
Khái quát, CTTT của Đảng đã có những đóng góp vào việc thực
hiệnnhững bước đi thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước xây
dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách HNQT một cách phù hợp.
3.1.1.2. Nguyên nhân của những kết quả
- Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất nước trong 30 năm đổi mới và
hộinhập quốc tế vừa qua là thực tiễn sinh động làm căn cứ, cơ sở thuyết phục
cho CTTT của Đảng.
Thứ hai, những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công
nghệ thông tin, sự phát triển của các giao lưu quốc tế và hợp tác quốc tế; nội
dung thông tin ngày càng đa dạng, phong phú, v.v. đã giúp cho CTTT của
Đảng có nhiều thuận lợi, nhanh chóng và kịp thời hơn.
- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, đó là sự quan tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy
Đảng đối với CTTT. Đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về công
80
tác tư tưởng, trong đó có công tác tuyên truyền, đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trong tình hình mới.
Đã chú trọng ban hành một số chủ trương, quan điểm của Đảng về lĩnh vực
tuyên truyền.
Thứ hai, sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ giữa các nội dung và
hình thức của công tác tuyên truyền ngày càng có hiệu quả, như: tuyên truyền
miệng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin đối ngoại.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trên tất cả các lĩnh
vực: báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin, cổ động, v.v. được rèn
luyện và trưởng thành hơn trong thực tiễn cuộc sống, được kế thừa truyền
thống cách mạng, truyền thống anh hùng của Đảng và dân tộc. Phần lớn có
bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng với sự nghiệp đổi mới.
Đồng thời với việc phát huy sức mạnh của các binh chủng làm công tác tư
tưởng, cán bộ, các ngành, các cấp và toàn dân tham gia làm công tác tuyên
truyền thì đội ngũ cán bộ chuyên trách của ban tuyên giáo luôn giữ vai trò
nòng cốt.
Thứ tư, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ CTTT của Đảng được bổ
sung, nâng cấp, từng bước như các trạm tin, điểm xây dựng pa-nô tấm lớn,
bảng tin điện tử, phương tiện cho cán bộ tuyên truyền.
3.1.2. Hạn chế của công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu
cầu của hội nhập quốc tế ở Việt Nam và nguyên nhân
3.1.2.1. Hạn chế của công tác tuyên truyền
- Hạn chế về nội dung tuyên truyền:
Hạn chế lớn nhất của nội dung tuyên truyền là việc thể hiện tính lý luận
của CTTT còn nhiều lạc hậu. Thông thường, CTTT thường tiến hành tuyên
truyền những chủ trương, đường lối mang tính chất lý luận của Đảng. Tuy
nhiên, bản thân CTTT cũng còn chưa bắt kịp và nắm hết được những nội
dung để tuyên truyền. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng mới được đưa
81
ra, nhưng cán bộ tuyên truyền chưa cập nhật, dẫn đến nhiều nội dung phải mất
thời gian dài mới được tiếp cận được và tuyên truyền cho nhân dân. Chính vì
vậy, CTTT làm cho lý luận bị lạc hậu so với thực tiễn.
Cán bộ tuyên truyền trình độ chưa cao và đồng đều, chưa năng động,
kịp thời nắm bắt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chưa có sự bổ
sung, cập nhật thường xuyên vào nội dung tuyên truyền, nên CTTT vẫn có
nhiều vấn đề trùng lặp, hoặc không có hiệu quả, thậm chí sai luật, sai đường
lối. Việc cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục, còn hạn chế dẫn đến
CTTT kém hiệu quả. Khả năng, trình độ nhận thức và vận dụng lý luận vào
thực tiễn của cán bộ tuyên truyền còn kém, dẫn đến không chính xác, hoặc
không bắt kịp với thực tiễn, làm cho nội dung của CTTT thường bị lặp đi lặp
lại, mang tính hình thức, rập khuôn, máy móc, không tạo ra sự hứng thú cho
người được tuyên truyền. Từ việc, không có sự đổi mới về mặt nội dung, cho
nên ảnh hưởng kéo theo đến việc sử dụng phương pháp, phương tiện thông
tin, hiệu quả của CTTT kém, chưa đạt được yêu cầu mong muốn.
Nội dung tuyên truyền về HNQT, cung cấp tình hình các bước đi của
hội nhập cho công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, xí nghiệp liên
doanh còn bất cập, rất khó khăn và hầu như chưa thực hiện được nhiều vì yếu
tố thời gian chủ yếu là lao động sản xuất, không còn thời gian để tiếp nhận
các thông tin, hoặc chủ doanh nghiệp không quan tâm tới vấn đề này.
Việc nghiên cứu, lựa chọn nội dung thông tin để cung cấp cho cán bộ,
đảng viên trong sinh hoạt Đảng chưa thực sự được coi trọng, còn khá nhiều
các chi bộ không thường xuyên thực hiện cung cấp thông tin về HNQT tại
buổi sinh hoạt chi bộ. Có tới 95% các chi bộ không có hoặc có ít các tài liệu
liên quan tới HNQT.
Do cập nhật thông tin chậm, nội dung cố định, máy móc dẫn đến có
nhiều nơi che giấu thông tin. Đây là một trong những hạn chế nguy hiểm đối
với CTTT. Thông tin với mục đích là hướng đến cho người dân biết và nắm
82
được; nhưng nếu thông tin bị che giấu, sẽ là nguy cơ mất ổn định lớn trong xã
hội. Bởi thông tin bị bưng bít hoặc lảng tránh các vấn đề nhân dân tìm hiểu sẽ
khiến cho người dân hiểu không đúng về đường lối, tình hình gây nghi ngờ,
phân tâm của người dân vào các cơ quan Đảng, chính quyền. Điều này sẽ tạo
điều kiện cho những thế lực thù địch xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, nói xấu chính
quyền và toàn Đảng, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Chẳng hạn, con đường đi lên CNXH ở nước ta là như thế nào, nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ra sao trong bối cảnh HNQT ngày càng rộng
rãi và sâu sắc. Trong sự lạc hậu của lý luận, có trách nhiệm lớn của CTTT,
trong đó những vấn đề do thực tiễn đề ra như các nguy cơ chưa bị đẩy lùi, suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng
viên, sự xuống cấp đạo đức trong xã hội, sự suy giảm lòng tin của nhân dân với
Đảng, v.v. đã không được CTTT phản ánh một cách đầy đủ chân thực. Nhiều
thông tin bị che giấu vì cho rằng nếu biết, sẽ gây dư luận không tốt ảnh hưởng
tới nhận thức niềm tin của nhân dân vào Đảng; hoặc nhiều thông tin định hướng
đến với nhân dân còn chậm, qua nhiều cơ quan bộ phận kiểm duyệt rồi mới đến
với nhân dân. Đó là chưa kể những tin đồn lan tràn trong nhân dân và không
được quan tâm làm rõ, kịp thời đã gây những hoài nghi, nghi ngờ.
Sự vào cuộc chưa chủ động, lúng túng trong việc tham mưu của cơ
quan tuyên truyền với các cơ quan có trách nhiệm trong xử lý thông tin đã gây
ra nhiều bức xúc không đáng có của nhân dân về quan điểm, thái độ và cách
xử lý của các cơ quan hữu quan trước những vấn đề này.Nếu những vấn đề
này không được giải quyết triệt để sẽ không những không đạt được kết quả
tuyên truyền, thậm chí còn làm tăng nguy cơ gây mất ổn định chính trị, hậu
quả càng nặng nề hơn. Có thể thấy điều đó qua dẫn chứng như vấn đề mở
rộng địa giới hành chính Hà Nội; vấn đề cắm mốc biên giới Việt - Trung; vấn
đề bô-xít ở Tây Nguyên; vấn đề thái độ và cách làm của Việt Nam trước hành
động ngang ngược của Trung Quốc tại Biển Đông; các vụ lộn xộn, phá phách
83
của phần tử xấu ở các khu công nghiệp ở Hà Tĩnh, Bình Dương khi Tàu
khoan 981 của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam.
Thứ hai, CTTT thiếu chủ động, sắc bén trong xử lý với việc xâm nhập
của các quan điểm thù địch sai trái đang lan truyền trong xã hội. Lợi dụng chủ
trương mở cửa hội nhập, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội, bằng
các phương tiện hiện đại, chúng truyền bá, tán phát một khối lượng khổng lồ
những tài liệu phản động, phá hoại về mặt tư tưởng trong Đảng và nhân dân.
Theo số liệu thống kê của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2013, chúng tung
vào Việt Nam 18.321 tài liệu, năm 2014 chúng tung vào Việt Nam 29.098 tài
liệu, quý I năm 2015 chúng tung vào Việt Nam 8060 tài liệu để chống phá ta.
Trong khi đó, chúng ta chưa có chiến lược công tác tư tưởng dài hạn. Mặc dù
bộ Thông tin truyền thông mà trực tiếp là Cục An toàn thông tin các doanh
nghiệp cùng các dịch vụ viễn thông đã có các biện pháp kiểm tra, xử lý tình
trạng này vẫn còn nhiều bởi phức tạp. Người dân vẫn có thể dễ dàng đọc được
các thông tin sai phạm trên internet và việc quản lý này vẫn còn khó khăn.
Cuộc thăm dò dư luận năm 2014, do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội
Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện cho thấy 45% nhân dân cho rằng hoạt
động phá hoại tư tưởng của kẻ thù tác động đến sự phai nhạc lý tưởng cách
mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong xã hội. Gần đây, chúng trắng trợn dựng
đứng các sự kiện không có thật để xuyên tạc lịch sử, vu cáo Đảng và Nhà
nước, chia rẽ nội bộ, gây nghi ngờ với lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Chúng
moi móc những kiến nghị trong các cán bộ, lão thành, những thư từ, phát biểu
trong các hội thảo của những người có uy tín để rồi bình luận, cắt xén và
xuyên tạc, làm cho công tác tư tưởng thực sự khó khăn, thậm chí lúng túng và
bị động. Biện pháp hiện nay chúng ta có thể chỉ sử dụng được đó là: Kêu gọi
cộng đồng tẩy chay những thông tin bịa đặt; trong điều kiện bùng nổ thông tin
hiện nay, mọi người cần tỉnh táo, xem xét để không mắc phải âm mưu của các
thế lực và phần tử xấu [20].
84
Thứ ba, nhiều nội dung thông tin chưa cập nhật, nhất là những vấn đề
nhạy cảm, dân sinh bức xúc như giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, trật tự
xây dựng, vấn đề quy hoạch. Nhiều thông tin ca ngợi, tô hồng một chiều,
trong khi những vấn đề ảnh hưởng tiêu cực do HNQT đưa đến chưa được
công khai đến công luận.
- Hạn chế về hình thức tuyên truyền:
Hình thức tuyên truyền vẫn còn những cách làm máy móc, dập
khuôn; địa bàn tuyên truyền chưa rộng khắp và chưa đáp ứng yêu cầu đề ra,
nhất là khi tình hình trong nước và quốc tế diễn ra nhanh và đa chiều. Cụ
thể, tuyên truyền trực quan chủ yếu là băng zôn, cờ đuôi nheo, v.v. về hình
thức không bắt mắt và hạn chế tuyên truyền về nội dung. Hình thức này
chủ yếu mới thực hiện được ở các kỳ cuộc lớn. Ngoài ra, các tuyên truyền
có tính thường xuyên bắt mắt người dân như: báo điện tử, biển lật ở các vị
trí trung tâm đều dành cho tuyên truyền quảng cáo thương mại. Đây là bất
cập lớn và làm hạn chế CTTT của Đảng. Đó là chưa kể đến việc quy hoạch
có tính chất tổng thể các vị trí tuyên truyền, quảng cáo hầu như các tỉnh,
thành phố chưa thực hiện được, dẫn tới việc tuyên truyền chắp vá, manh
mún và tự phát.
Nhiều hình thức tuyên truyền chưa đạt hiệu quả mong muốn. Các tài
liệu tuyên truyền do Đảng phát hành, nội dung chưa phong phú, hình thức vẫn
còn kém hấp dẫn người xem, người đọc, người nghe. Việc phát hành tài liệu
“có thông tin” chủ yếu trong các cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước, chậm
tớiđông đảo đảng viên và nhân dân, làm giảm hiệu quả CTTT của Đảng.
- Hạn chế về mở rộng phạm vi và mức độ tuyên truyền:
Hội nhập quốc tế bao hàm các lĩnh vực cả về chính trị, kinh tế, văn hóa,
an ninh quốc phòng, đối ngoại. Tuy nhiên thời gian qua, CTTT Đảng mới tập
trung nhiều vào mục đích tuyên truyền phát triển và hội nhập kinh tế, làm
không ít người hiểu HNQT chỉ đơn thuần là hội nhập về kinh tế.
85
Có thể thấy mức độ bao phủ của CTTT của Đảng trong HNQT chưa
đáp ứng yêu cầu về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cơ chế nắm và cung cấp
thông tin chưa được coi trọng đúng mức, việc tăng cường thông tin hai chiều
còn chưa tốt. CTTT còn thiếu tính sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; đổi mới
CTTT còn chậm; việc bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội còn biểu hiện hình thức.
Ở mỗi lĩnh vực tuyên truyền Đảng đều có chỉ thị, nghị quyết nghị quyết
để triển khai thực hiện nhằm tạo sự chỉ đạo, lãnh đạo thống nhất đồng bộ ở tất cả
các ngành, địa phương đơn vị trong cả nước về HNQT. Tuy nhiên, những năm
qua việc triển khai nghị quyết vẫn còn biểu hiện hình thức, hiệu quả chưa cao.
- Hạn chế về phương pháp, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CTTT của Đảng:
Phương pháp của CTTT của Đảng là gắn tuyên truyền, giải thích thông
qua lý luận với việc minh họa những ví dụ trong thực tiễn. Tuy nhiên, trong
thực tế hiện nay lý thuyết lô gíc, chặt chẽ, nhưng thực tiễn còn không ít những
tiêu cực, bức xúc gây tâm lý thiếu tin tưởng trong nhân dân. Chất lượng công
tác tuyên truyền miệng còn hạn chế, chưa đáp ứng tốt nhu cầu của cán bộ,
đảng viên và nhân dân có trình độ ngày càng cao và có nhiều nguồn thông tin;
tính thuyết phục, tính hấp dẫn chưa cao, gần đây có biểu hiện né tránh, chưa
tập trung làm rõ, nhiều vấn đề bức xúc mà dư luận quan tâm - chẳng hạn các
vụ việc Vinashin, bô-xít Tây Nguyên, đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông
(Hà Nội), v.v. và hậu quả của nó. Phương thức hoạt động còn nặng về tuyên
truyền một chiều từ trên xuống, chưa chú trọng trao đổi, đối thoại trực tiếp
với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên
đông nhưng chưa mạnh, ở nhiều khu vực (nhất là ở khu vực nông thôn) và ở
một số lĩnh vực (kinh tế, giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, v.v.). Bên cạnh
đó, hệ thống này chưa đủ sức giải đáp có thuyết phục những vướng mắc do
thực tiễn HNQT đặt ra. Nội dung tuyên truyền có lúc, có nơi xa rời thực tiễn,
dẫn đến tư tưởng nhân dân hoài nghi, dao động, thiếu bền vững (ví dụ tuyên
86
truyền về các biện pháp phòng chống lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội theo
tinh thần Nghị quyết XI của Đảng hay tuyên truyền các biện pháp phòng
chống những lãng phí). Tuyên truyền, đúng như cách nói của V.I.Lênin, phải
tôn trọng sự thật, không che giấu sự thật. “...trong khi cổ động và tuyên truyền
chúng ta không nên che giấu” [123]. Do tính chất và yêu cầu của HNQT đặt
ra và đòi hỏi ngày càng cao đối với các lực lượng làm CTTT, mà trực tiếp là
cán bộ tuyên giáo các cấp, nhưng trong thực tế số cán bộ Tuyên giáo nói
được, viết được, thuyết phục được, v.v. hiện nay không nhiều.
Quá trình HNQT là quá trình đòi hỏi phải thực hiện lâu dài, bền bỉ,
trong đó xác định nhân tố con người là quan trọng. Tuy nhiên, phương pháp
tuyên truyền còn biểu hiện của tính áp đặt, chưa chú ý đến lắng nghe và đối
thoại; nói không đi đôi với làm, nói những điều mà chính người đi tuyên
truyền còn chưa “thông”. Nhiều cán bộ tuyên truyền còn thiếu gương mẫu.
Bởi “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một
mớ cắt rời” “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Như vậy, “thì không thể lãnh
đạo quần chúng, không thể làm cách mạng” [80].
Về cơ sở vật chất - kỹ thuật của CTTT, phương tiện hoạt động của cán
bộ tuyên giáo, của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn lạc hậu và
thiếu thốn. Ở các Ban Tuyên giáo các tỉnh thành, cơ quan chỉ đạo tuyên
truyền hệ thống máy vi tính vẫn chưa đủ, chưa hiện đại. Các phương tiện
phục vụ cho tuyên truyền như máy ảnh, máy ghi âm, camera, laptop được coi
là xa xỉ đối với cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh, thành phố tới cơ sở, kể cả các
đồng chí Trưởng ban tuyên giáo là Thường vụ quận, huyện ủy ở những nơi
chưa được trang bị máy tính xách tay hay Ipad. Đó là chưa kể tới kỹ năng sử
dụng công nghệ thông tin của cán bộ ban tuyên giáo còn kém hơn cán bộ khối
nhà nước.
Về kinh phí cho công tác tuyên truyền cũng còn hạn chế, so với yêu cầu
đặt ra còn quá thấp. Nguồn kinh phí này, chủ yếu khai thác từ ngân sách của
87
chính quyền. Hầu như các cấp ủy không lấy nguồn ngân sách đảng chi cho
hoạt động này. Trung bình một năm có khoảng 90 sự kiện chính trị quan
trọng, nguồn kinh phí cho công tác này mới đạt 50% yêu cầu đề ra. Đó là
chưa kể các nguồn chi khác như bồi dưỡng viết bài, đi kiểm tra, tổ chức hội
nghị, v.v. hầu như không có [20].
Về tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền còn thiếu. Hiện nay mới có
các tài liệu như Tài liệu sinh hoạt chi bộ, Bản tin đặc biệt (01 số/tháng), các
báo ngày, tuần của Trung ương và địa phương phục vụ công tác tuyên truyền.
Một số tỉnh thành đã chủ động biên soạn tài liệu tuyên truyền phục vụ cho
công tác lãnh đạo của cấp ủy (một quý một số). Tuy nhiên, do điều kiện kinh
phí khó khăn nên đối tượng được nhận tài liệu còn hạn chế, bó hẹp. Có tài liệu
này lẽ ra phải cấp phát tới đảng viên và nhân dân thì mới dừng lại ở đồng chí
Bí thư chi bộ hoặc Tổ trưởng dân phố. Số lượng các sự kiện chính trị, xã hội
hàng năm diễn ra trên địa bàn các tỉnh, thành phố rất lớn, trình độ dân trí
không đồng đều hiện nay thì các tờ rơi, pa nô, áp phích phát miễn phí hầu như
quá ít so với các yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Hạn chế về chất lượng và hiệu quả tuyên truyền:
Chất lượng thẩm định thông tin trên báo, đài, tạp chí hàng ngày chưa
cao, vẫn còn bỏ sót một số sự kiện, vấn đề phức tạp, nhạy cảm, quan trọng
của đất nước, địa phương; nhiều báo mạng, báo giấy do chạy theo lợi nhuận,
hoặc phản ánh dưới dạng thổi phồng sai sự thật gây tâm lý bất ổn, băn khoăn,
hoài nghi trong nhân dân, làm phản tác dụng của CTTT qua phương tiện
thông tin báo chí.
Trong thời đại phát triển của phương tiện truyền thông, đặc biệt là
internet, CTTT của Đảng còn nặng nề bề nổi, thiếu đầu tư chiều sâu. Nội
dung thông tin tuyên truyền có ít về số lượng, chưa kịp thời, sắc bén, và linh
hoạt trong điều kiện tình hình trong nước và thế giới khi đất nước đang hội
nhập sâu rộng với thế giới.
88
Các đài phát thanh, truyền hình địa phương còn phân tán, lãng phí.
Năng lực sản xuất chương trình của các đài địa phương chỉ đáp ứng 40-60%
công suất hiện có. Nhiều đài khai thác và đưa lên sóng quá nhiều phim ảnh,
chương trình có chất lượng thấp, đặc biệt trong thời gian gần đây là chương
trình phim Hàn Quốc, Trung Quốc vẫn chiếu khá nhiều. Thậm chí có phim
hàng nghìn tập, chiếu vào giờ vàng, thời gian kéo dài gây ra sự tập trung vào
những phim này, nhân dân không quan tâm tới các thông tin thời sự chính trị
khác. Báo in còn tình trạng nội dung thông tin trên nhiều ấn phẩm báo chí
trùng lặp, hiệu quả thông tin thấp, gây lãng phí cho xã hội; một số ấn phẩm có
chất lượng thông tin thấp, xu hướng “thương mại hóa” báo chí chậm được
khắc phục.
Về việc triển khai nghị quyết càng xuống cấp dưới thì thời gian triển
khai càng ngắn. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra là phải quán triệt sâu, rõ các nội
dung của nghị quyết nhất là những vấn đề về tư tưởng, lý luận và thực tế mới
nảy sinh, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cơ sở nhằm làm sinh động và cụ
thể thêm tính thuyết phục của Nghị quyết. Nhưng hiện nay, tình trạng tương
đối phổ biến là triển khai nghị quyết “qua loa”, đại khái, truyền đạt chưa đầy
đủ các nội dung, cắt xén vì cho rằng thời gian không đủ và nội dung nhiều
nên phải chọn lọc. Đây là nguyên nhân dẫn đến cán bộ đảng viên được học
tập nghị quyết nhưng không biết hết nội dung nghị quyết là gì. Bên cạnh đó
khá nhiều báo cáo viên của cơ sở khi tham gia truyền đạt tại cơ sở cũng không
có nhiều kinh nghiệm, kỹ năng thuyết trình; khối lượng, nội dung tiếp thu ở
cấp trên không hết; khả năng tổng hợp, tư duy hạn chế, v.v. đa số chỉ đọc tài
liệu, ít mở rộng thêm. Chính những điều này đã làm giảm sự hấp dẫn, thu hút
người nghe kèm theo là ảnh hưởng tới chất lượng tuyên truyền nghị quyết.
Hiệu quả tuyên truyền còn có mặt hạn chế, hiệu quả công tác tuyên
truyền cũng chưa đạt được những mong đợi của Đảng và nhân dân. Hiệu quả
thực sự của CTTT cần phải được đánh giá trên khía cạnh từ phía người dân đã
89
nắm bắt đến đâu của CTTT. Đây mới thực sự là tiêu chí đánh giá chất lượng
và hiệu quả của CTTT của Đảng hiện nay, từ đó mới có cơ sở để giúp cho
Đảng đổi mới, hoàn thiện CTTT của mình.
Về nhận thức, hiện nay bất cứ một thông tin nào, CTTT đều có thể
phản ánh kịp thời, nhanh chóng, đảm bảo tính chính xác, và thỏa mãn nhu cầu
tìm hiểu nhận thức đa dạng và phong phú của nhân dân. Với những thông tin
đa dạng này, một mặt sẽ giúp nâng cao nhận thức của người dân, làm chuyển
biến căn bản các hoạt động của bản thân để đạt được sự chuẩn mực xã hội.
Tuy nhiên, chính sự tràn lan các thông tin cũng sẽ là một hạn chế tới nhận
thức của nhân dân. Nhiều thông tin sai sự thật, không chính xác dẫn đến hiện
tượng nhiễu thông tin, gây hoang mang trong nhân dân. Trong bối cảnh đa
dạng các thông tin đó, hiện nay chúng ta chưa xây dựng được kênh giao tiếp
trực tuyến với cán bộ Đảng, Nhà nước, đâycũng là một yếu kém và hạn chế
trong CTTT. Người dân chưa biết đến các cổng thông tin trực tuyến để có thể
trao đổi, đóng góp cho Đảng và Nhà nước, hoặc không biết phản ánh lên các
cơ quan chức năng ban ngành nào đã làm giảm đi tính dân chủ trong đời sống
xã hội. Chính vì vậy, CTTT nhiều nơi còn chưa kịp thời phản ánh những
vướng mắc của người dân về đường lối, chủ trương, thậm chí chưa phát hiện
kịp thời những biểu hiện tiêu cực của cán bộ, sự thái hóa xuống cấp đạo đức,
những hành vi vi phạm pháp luật, v.v. nên hiện tượng này đang ngày càng trở
nên phổ biến.
- Hạn chế về tổ chức bộ máy và cán bộ tuyên truyền:
Về tổ chức bộ máy, hiện nay ở các tỉnh, thành phố số lượng cán bộ
tuyên truyền của Đảng còn quá ít, trung bình từ 15 đến 20 người. Với số
lượng này đã không đáp ứng được khối lượng công việc đặt ra, đa số mỗi cán
bộ đều phải kiêm nhiệm từ 2-3 “mảng” công tác. Chưa có sự phối hợp chặt
chẽ giữa Ban Tuyên giáo với các đơn vị làm công tác thông tin tuyên truyền,
giữa thông tin đối ngoại và thông tin đối nội, đặc biệt là các vấn đề nhạy cảm.
90
Cơ chế còn nhiều bất cập, thiếu chiến lược, định hướng và kế hoạch dài hạn
cho chiến lược tuyên truyền đối ngoại [20].
Về cán bộ tuyên truyền, cán bộ tuyên giáo hầu hết được điều động từ
nhiều nguồn khác nhau, chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp. Có nhiều
Bộ, Ngành có trường đào tạo cán bộ như Học viện Thanh thiếu niên, Trường
cán bộ Phụ nữ, Trường cán bộ Hội Nông dân, Trường cán bộ Công đoàn,
Trường cán bộ Thanh tra, v.v. nhưng chưa có trường đào tạo cán bộ tuyên
giáo. Trên thực tế, có Học viện báo chí và Tuyên truyền, nhưng công tác đào
tạo lại độc lập, chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn đào tạo bồi dưỡng cán bộ
của hệ thống tuyên giáo của Đảng. Vì vậy, sinh viên tốt nghiệp Học viện về
công tác tại cơ quan tuyên giáo cũng khó tiếp cận ngay với công việc.
Mặt khác, cán bộ ở các Ban Tuyên giáo có thực tiễn thì lại thiếu phần
cơ sở lý luận. Thực trạng đó làm cho cán bộ tuyên giáo tác nghiệp rất khó
khăn, trừ một số ít vừa được đào tạo chuyên môn, vừa có năng khiếu làm
công tác tuyên giáo. Không những thế, việc thu hút cán bộ có trình độ, chuyên
môn, nghiệp vụ cao về công tác tại cơ quan tuyên giáo gặp rất nhiều khó
khăn, do không có chế độ chính sách đãi ngộ. Thông thường, việc tuyển chọn
cán bộ tuyên giáo cần rất nhiều yếu tố, như có khả năng tư duy tổng hợp, viết
được, có năng khiếu nói, phẩm chất đạo đức tốt, bản thân gia đình phải gương
mẫu, có hình thức phù hợp, v.v. nhưng lại chưa có chế độ, chính sách đãi ngộ
thỏa đáng.
Đội ngũ cán bộ Ban Tuyên giáo các cấp trình độ học vấn còn hạn chế:
tiến sỹ 1,27%; thạc sỹ: 32,76%; đại học, cao đẳng 60%. Đáng chú ý trình độ
lý luận chính trị từ cao cấp trở lên thấp, đạt 31%. Đây là đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu cho Đảng về công tác tư tưởng cho Đảng và trực tiếp
truyền bá tư tưởng của Đảng, lẽ ra phải được đào tạo đảm bảo cơ bản có trình
độ lý luận chính trị từ cao cấp trở lên, nhưng con số này quả thật là quá thấp
so với yêu cầu. Số còn lại là cán bộ chưa được đào tạo trình độ lý luận từ cao
91
cấp đã, đang và sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác, khó có thể tuyên truyền
một cách thuyết phục [20].
3.1.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, những hạn chế, bất cập trong quản lý điều hành kinh tế - xã
hội của chính quyền các cấp; sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên
gây khó khăn cho CTTT của Đảng.
Thứ hai, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới kéo dài trong nhiều
năm đã ảnh hưởng tới đời sống nhân dân cả nước. Thị trường xuất khẩu thu
hẹp, đầu tư vào Việt Nam giảm, nhiều doanh nghiệp giải thể hoặc tạm ngừng
sản xuất, vì vậy nhiều người mất việc làm, thu nhập nhấp, đời sống nhân dân
gặp khó khăn, v.v. đã có tác động không nhỏ tới tâm lý, tâm tư và niềm tin
của nhân dân vào Đảng và vào chế độ.
Thứ ba, xu hướng thương mại hóa đời sống xã hội, du nhập lối sống
phương Tây, phá vỡ văn hóa truyền thống dân tộc, v.v. chi phối trực tiếp tới
các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu là thế hệ trẻ.
Thứ tư, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị lợi dụng một số sơ
hở, yếu kém của ta tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam hòng xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN; sử dụng các phương tiện thông
tin, truyền thông hiện đại nhằm làm lệch hướng của HNQT của Việt Nam.
- Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp
về vai trò vị trí của CTTT còn hạn chế, chưa thấy hết được vị trí đi đầu và sức
mạnh của CTTT của Đảng. Chưa lường hết những tác động phức tạp của
HNQT, nên khi phải đối mặt với những thách thức hay những tác động bất lợi
từ bên ngoài thì dễ lâm vào tình thế bị động, lúng túng, nhất là trước những
vấn đề phức tạp, mới nảy sinh trong quá trình HNQT. Việc nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn CTTT của Đảng chưa được chú trọng.
92
Thứ hai, tổ chức bộ máy còn bất cập, nhiều kiến nghị đề xuất về tổ
chức bộ máy từ thực tiễn chưa được nghiên cứu và giải quyết; một số cán bộ
ở cơ quan thông tấn báo chí, đảng viên không tích cực thực hiện nhiệm vụ
tuyên truyền, thụ động.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ tuyên truyền chưa am hiểu sâu sắc quan
điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trình độ lý
luận chính trị hạn chế; trình độ, năng lực cán bộ tuyên truyền chưa đáp ứng
được yêu cầu của HNQT; còn giáo điều, thiếu kiến thức thực tế; phương pháp
tuyên truyền chậm được đổi mới. Trong CTTT, “lợi ích nhóm” hiện đang là
lực cản lớn, gây khó khăn trong định hướng, nâng cao nhận thức trách nhiệm
cho cán bộ đảng viên là một trong những nguyên nhân làm giảm niềm tin của
quần chúng nhân dân dẫn đến hiệu quả tuyên truyền thấp.
Thứ tư, CTTT của Đảng chưa định hướng kịp thời chính xác thông tin
cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các thời điểm nhạy cảm mà quần chúng
quan tâm; chưa quản lý được các phương tiện tuyên truyền như internet, mạng
xã hội, blog, v.v. làm tăng tâm lý hoang mang, hoài nghi trong xã hội.
Thứ năm, chưa đầu tư thỏa đáng nguồn lực cho CTTT của Đảng.
Phương tiện, điều kiện vật chất về cơ bản vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được
yêu cầu tuyên truyền trước yêu cầu HNQT.
3.1.3. Một số bài học kinh nghiệm công tác tuyên truyền của Đảng
đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Một là, công tác tuyên truyền của Đảng phải nắm chắc đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; bám sát thực tiễn; chủ động và sáng tạo trong
mọi tình huống; vững vàng và nhạy bén trước mọi biến cố phức tạp.
Đây là bài học kinh nghiệm rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa trong
những năm qua mà còn mang ý nghĩa lâu dài và cấp thiết đối với công tác
tuyên truyền. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tình hình trong nước và quốc
tế luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, khó lường, tác động nhanh và rộng
93
đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Công tác tuyên
truyền có bám sát tình hình kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của đất nước, nắm
vững tư tưởng nhân dân mới kịp thời giải thích những chủ trương, quan điểm
của Đảng, Nhà nước, góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nảy sinh trong
cuộc sống, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân.
Hơn nữa, công tác tuyên truyền của Đảng cần phải chủ động và đi trước
một bước trong việc định hướng thông tin, định hướng “chương trình nghị sự”
của quá trình tuyên truyền của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự chủ động, sáng tạo
và nhạy bén của công tác tuyên truyền của Đảng trở thành một yêu cầu, một nội
dung của quá trình chủ động hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Hai là, công tác tuyên truyền từ Trung ương đến cơ sở cần tranh thủ sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng; chủ động
xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền lâu dài và đột xuất; triển khai
tuyên truyền đồng bộ và toàn diện trong các cấp, các ngành; xác định đây là
nhiệm vụ thường xuyên và trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện.
Công tác tuyên truyền luôn giữ vị trí đi trước trong mọi hoạt động lãnh
đạo của Đảng. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước có đi vào cuộc
sống hay không, trước tiên phải bắt đầu bằng công tác tuyên truyền. Ban
tuyên giáo các cấp cần chủ động đề xuất nội dung, chương trình công tác với
các cấp ủy đảng. Tham mưu, đề xuất cấp ủy quan tâm chỉ đạo, kịp thời ban
hành chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo công tác tuyên truyền, nhất là trong những
tình huống phức tạp, trước những biến cố khó lường. Ban hành quy chế, quy
định phối hợp triển khai công tác tuyên truyền giữa các cấp, các ngành.
Ba là, đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền, kết
hợp định hướng, chỉ đạo với xử lý thông tin phản hồi; hướng mạnh về cơ sở,
tập trung cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Hội nhập quốc tế đưa lại những nhân tố tác động rất mới đối với công
tác tuyên truyền, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nội
94
dung và phương thức tuyên truyền. Những đổi mới trong thời gian qua đã
đem lại hiệu quả tích cực và là những kinh nghiệm quý cho công tác tuyên
truyền, nhất là trong việc triển khai chủ trương, chính sách mới và giải quyết
bức xúc của nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa chỉ đạo, định hướng thông tin
với lắng nghe, trao đổi, xử lý thông tin và tiếp nhận những sáng kiến, đề xuất,
đánh giá từ cơ sở là rất cần thiết. Gắn bó với cơ sở, nhất là những vùng có khó
khăn, vùng sâu, vùng xa phát hiện kịp thời những vấn đề vướng mắc để đổi
mới nội dung, phương thức tuyên truyền phù hợp với các địa phương này là
điều kiện đảm bảo cho công tác tuyên truyền có sức thuyết phục, hiệu quả.
Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác tuyên
truyền của Đảng không chỉ dừng lại một chiều là cung cấp thông tin, thậm chí
áp đặt thông tin cho quần chúng, cho xã hội, mà còn phải tạo điều kiện để có
được thông tin phản hồi, tiếp nhận thông tin phản hồi và xử lý nó với thái độ
tận tụy, cầu thị và có trách nhiệm.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn ngành tuyên giáo, của toàn bộ
hệ thống chính trị và của các tầng lớp nhân dân trong công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền là của toàn Đảng, toàn dân như Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chẳng những các người phụ trách tuyên truyền, những người
viết báo, viết sách, những người nghệ sĩ là người tuyên truyền, mà tất cả cán
bộ tất cả đảng viên, hễ những người có tiếp xúc với dân chúng đều là người
tuyên truyền của Đảng” [66]. Luận điểm này, chẳng những được thực tiễn
công tác tuyên truyền của Đảng chứng minh trong hơn 79 năm qua, mà còn
tiếp tục soi sáng trong giai đoạn hội nhập sâu và toàn diện tới đây. Quần
chúng nhân dân là chủ thể của hội nhập quốc tế, vì thế, chủ trương hội nhập
của Đảng, Nhà nước có trở thành hiện thực hay không phụ thuộc vào chính sự
tham gia hưởng ứng của nhân dân. Quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự hướng dẫn trực tiếp của ngành tuyên giáo sẽ tạo nên sức mạnh
tổng hợp trong tuyên truyền.
95
Những năm qua, nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác
tuyên truyền, các ban, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị đã quan tâm xây
dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền. Thường xuyên phối
hợp chặt chẽ với ban tuyên giáo các cấp triển khai chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước; xây dựng chương trình phối hợp tuyên truyền triển khai
nhiệm vụ của các ngành, các cấp. Do đó, công tác tuyên truyền của Đảng
được triển khai sâu rộng với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Đặc biệt,
vào dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và trước những sự kiện chính
trị, văn hóa, xã hội lớn của quốc tế tổ chức tại Việt Nam, công tác tuyên
truyền đã tạo được dấu ấn sâu đậm, tác động sâu sắc đến đông đảo nhân dân
trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Đây là bài học
quý để tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền của Đảng trong bối cảnh hội
nhập quốc tế.
Trước yêu cầu của HNQT hơn lúc nào hết, công tác tuyên truyền của
Đảng cần được xác định là công việc của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân. Ngành tuyên giáo và những người làm công tác
tuyên truyền của Đảng giữ vị trí nòng cột, là hạt nhân, là người hướng dẫn, tổ
chức, còn lực lượng tuyên truyền chính là toàn dân, toàn xã hội, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Năm là, thường xuyên chăm lo xây dựng củng cố tổ chức và phát triển
đội ngũ cán bộ tuyên truyền; đổi mới cơ chế, chính sách, đầu tư cơ sở vật chất
đối với công tác tuyên truyền của Đảng.
Tổ chức và cán bộ luôn là những khâu quan trọng và quyết định chất
lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền của Đảng. Thực tiễn vừa qua cho thấy,
ở đâu cấp ủy quan tầm chỉ đạo, ban tuyên giáo chủ động đề xuất, trên tinh
thần khách quan, khoa học, thì nơi đó có bộ máy, cán bộ tốt, có điều kiện cơ
sở vật chất để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nơi nào thiếu quan tâm, chỉ
96
đạo thì bộ máy bất cập, cán bộ hẫng hụt, cơ sở vật chất lạc hậu, thiếu thốn.
Trước yêu cầu ngày càng cao đối với công tác tuyên truyền trong bối cảnh hội
nhập, bộ máy, cán bộ cần phải được quan tâm đúng mức, tương xứng với vai
trò vị trí “đi trước, mở đường” của nó. Cần có chế độ chính sách đãi ngộ đối
với công tác tuyên truyền với tính chất “đặc biệt” của nó. Có cơ chế chính
sách đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại cho công tác
tuyên truyền thì mới đảm bảo đủ sức mạnh cho công tác tuyên truyền của
Đảng thắng lợi trong bối cảnh đầy khó khăn phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng
trước yêu cầu HNQT. Những kinh nghiệm mà các nhà tư tưởng của chủ nghĩa
đế quốc đã tổng kết “Một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất
nước”, “Một đôla chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với năm đôla chi
cho quốc phòng” rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Sáu là, tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra của ban tuyên giáo các
cấp; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn công tác tuyên truyền
của Đảng.
Ban tuyên giáo các cấp cần tăng cường công tác chỉ đạo kết hợp với
thường xuyên kiểm tra, phát hiện kịp thời những vướng mắc nảy sinh từ cơ
sở. Đồng thời kiểm tra phát hiện những mô hình mới, điển hình tiên tiến để cổ
vũ, biểu dương, nhân rộng. Kiểm tra, nắm vững tình hình tư tưởng nhân dân,
việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước để tham mưu đề
xuất với cấp ủy và kịp thời định hướng tuyên truyền. Cần chủ động xây dựng
chương trình, kế hoạch nghiên cứu, lý luận và tổng kết thực tiễn công tác
tuyên truyền. Trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đã, đang và
sẽ tác động nhanh, mạnh đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và
tác động trực tiếp đến công tác tuyên truyền nói nói riêng, đòi hỏi Đảng ta cần
có tổng kết thực tiễn, xây dựng chủ trương, quyết sách cho công tác tuyên
truyền trước yêu cầu mới.
97
3.2. VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Vấn đề đặt ra về nội dung và hình thức tuyên truyền
3.2.1.1. Vấn đề đặt ra về nội dung tuyên truyền Đó là sự phong phú và đa dạng của các nội dung tuyên truyền của Đảng
trước yêu cầu HNQT; vấn đề lồng ghép các nội dung (kinh tế, chính trị văn
hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng) như thế nào cho nhuần nhuyễn trước
HNQT đặt ra. Hay việc nâng cao giá trị, chất lượng, tính cập nhật trong các
nội dung thông tin tuyên truyền của Đảng; vấn đề kết hợp giữa tuyên truyền
kinh tế với tuyên truyền các lĩnh vực khác để đáp ứng yêu cầu của HNQT;
vấn đề nâng cao tính chiến đấu, sắc bén, hấp dẫn trong tuyên truyền.
3.2.1.2. Vấn đề đặt ra về hình thức tuyên truyền Đó là việc đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền về HNQT (kết hợp
các hình thức truyền thống với các hình thức mới, hiện đại); vấn đề tìm kiếm
(xác định, lựa chọn) các hình thức tuyên truyền mới (từ thực tiễn và kinh
nghiệm tuyên truyền của Đảng và các loại hình tuyên truyền khác từ trong và
ngoài nước).
3.2.2. Vấn đề đặt ra về phạm vi và khách thể tuyên truyền
3.2.2.1. Về phạm vi tuyên truyền Tập trung vào việc mở rộng phạm vi (thời gian, không gian tuyên
truyền; thông tin về các lĩnh vực tuyên truyền); mở rộng đối tượng tuyên
truyền (đối tượng tuyên truyền đối với các nước, các quốc gia, các vùng lãnh
thổ - các đối tác mới); vấn đề “mở rộng” và “nâng cấp” tuyên truyền khi
chúng ta mở rộng hay nâng cấp các mối quan hệ với các nước, các quốc gia,
vùng lãnh thổ; đó cũng là những vấn đề mức độ tuyên truyền (mối quan hệ
giữa công khai, minh bạch thông tin với giữ gìn bí mật quốc gia).
3.2.2.2. Về khách thể tuyên truyền Đó là vấn đề mở rộng và “phức tạp hóa” khách thể CTTT của Đảng bởi
đối tượng của CTTT của Đảng giờ đây không chỉ dừng lại ở cán bộ, đảng
98
viên và người lao động mà còn mở rộng đến giới doanh nhân, doanh nghiệp,
người sử dụng lao động (giới chủ); ngoài cán bộ, đảng viên và nhân dân ở
trong nước mà còn những người sống, học tập và công tác ở ngoài nước; bên
cạnh đó, đối tượng CTTT của Đảng giờ đây không chỉ đối với cán bộ và nhân
dân mình, mà còn đối với chính phủ và nhân dân các nước; chính những yếu
tố trên đặt ra CTTT của Đảng vấn đề tuyên truyền với đối tác, tuyên truyền
với đối thủ sẽ như thế nào?
3.2.3. Vấn đề đặt ra về phương pháp và phương tiện tuyên truyền
3.2.3.1. Về phương pháp tuyên truyền
Phương pháp tuyên truyền về HNQT và đáp ứng các yêu cầu của
HNQT đang đặt ra những vấn đề mới đó là: Kết hợp phương pháp tuyên
truyền truyền thống với phương pháp tuyên truyền hiện đại; cách tiếp cận và
sử dụng các phương pháp tuyên truyền hiện đại; vấn đề xây dựng và hoàn
thiện mô hình tuyên truyền; v.v. như thế nào?
3.2.3.2. Về phương tiện tuyên truyền
Trên thực tế cho thấy, vấn đề trang cấp và khai thác trang thiết bị tuyên
truyền cho CTTT của Đảng đang đặt ra; tính hai mặt (lợi hại) của việc sử
dụng phương tiện kỹ thuật tuyên truyền hiện đại; việc huy động (ngân sách và
xã hội hóa) các nguồn kinh phí phục vụ cho CTTT của Đảng và công tác lãnh
đạo, chỉ đạo và quản lý các cơ quan, phương tiện truyền thông rất cần được
quan tâm cụ thể.
3.2.3. Vấn đề đặt ra về chất lượng và hiệu quả tuyên truyền
3.2.3.1. Về chất lượng tuyên truyền
Hiện nay quan niệm như thế nào là chất lượng CTTT (phải chăng, chất
lượng (Chất lượng là sự phù hợp, sự thoả mãn một nhu cầu, một đặc tính nhất
định, là mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính nhất định.
Chất lượng được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu thì luôn biến đổi
do vậy chất lượng cũng luôn biến đổi (theo thời gian, không gian, điều kiện
99
sử dụng). Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu
chuẩn hoặc sự cảm nhận trong quá trình sử dụng. Chất lượng không chỉ là
thuộc tính của sản phẩm, mà còn là thuộc tính của quá trình) của CTTT của
Đảng trước yêu cầu HNQT cần được hiểu là sự phù hợp, sự thỏa mãnnhững
yêu cầu, đòi hỏi của HNQT; là mức độ đáp ứng các yêu cầu của HNQT với
đầy đủ nội hàm của khái niệm này); bên cạnh đó, vấn đề chất lượng CTTT
của Đảng phải không ngừng tăng lên (bởi chất lượng CTTT phải được đo
bằng sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu thì luôn biến đổi do vậy chất lượng
cũng luôn biến đổi). Chất lượng này cũng cần phải được thể hiện thành các
qui định, định mức, tiêu chuẩn nhất định và cả sự cảm nhận, ghi nhận bằng
những kết quả, hiệu quả cụ thể, thiết thực trong quá trình không chỉ trước mắt
mà còn lâu dài của HNQT.
3.2.3.2. Về hiệu quả tuyên truyền
Đó là việc đánh giá và đánh giá đúng hiệu quả (Hiệu quả là quan hệ
giữa kết quả đạt được và nguồn lực được sử dụng, là đạt được một kết quả
giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất) CTTT
của Đảng - quan hệ giữa kết quả đạt được của CTTT của Đảng và nguồn lực
phải sử dụng cho CTTT của Đảng hay việc đạt được kết quả tuyên truyền với
việc sử dụng ít nhất thời gian, công sức và nguồn lực.
Tiểu kết chương 3
Sau 30 năm đổi mới, 20 năm bắt đầu HNQT và 10 năm (từ khi chính
thức tham gia WTO (năm 2007) hội nhập sâu rộng với quốc tế, CTTT của
Đảng đã đạt được nhiều kết quả, nhưng cũng còn nhiều hạn chế và nhất là
xuất hiện những vấn đề mới cần phải giải quyết.
1. Kết quả, về nội dung tuyên truyền, CTTT của Đảng đã tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT (theo cả hai hướng
Việt Nam ra với thế giới và thế giới đến với Việt Nam); thành tựu của công
cuộc đổi mới, của quá trình; chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào và tinh thần tự
100
tôn dân tộc; văn hóa, đạo đức, lối sốngtrong quá trình hội nhập; đấu tranh
chống các quan điểm sai trái, chống “diễn biến hòa bình”; thời cơ và thách
thức; lộ trình, bước đi của quá trình HNQT. Về hình thức tuyên truyền, CTTT
của Đảng đã đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền; đẩy mạnh CTTT miệng
và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; coi trọng điều tra
và xử lý dư luận xã hội; tăng cường công tác xuất bản, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; mở rộng phạm vi và mức độ tuyên truyền. Về phương pháp, tổ chức bộ
máy và cán bộ, CTTT của Đảng đã có những đổi mới nhất định về phương pháp
tuyên truyền; tăng cường tổ chức bộ máy, cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CTTT.CTTT của Đảng đã có những đóng góp tích cực vào những kết quả
HNQT của đất nước trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hóa - xã hội,
quốc phòng - an ninh. Trong số các nguyên nhân, nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan có ý nghĩa ngang nhau trong việc tạo nên những kết quả
cho CTTT của Đảng trước yêu cầu của quá trình HNQT ở Việt Nam.
2. Hạn chế, về nội dung tuyên truyền, là việc thể hiện tính lý luận của
CTTT còn hạn chế; chủ yếu là thông tin “ca ngợi một chiều”, trong khi những
vấn đề ảnh hưởng tiêu cực do HNQT đưa đến chưa được công khai kịp thời
đến công luận; còn thiếu chủ động, sắc bén trong việc đấu tranh chống các
quan điểm sai trái; hình thức tuyên truyền, hình thức tuyên truyền của Đảng
về cơ bản vẫn theo cách làm cũ, mang tính “bao cấp” về thông tin; CTTT của
Đảng có biểu hiện đi sau và đi chậm hơn so với quá trình HNQT; quy hoạch
tổng thể CTTT của Đảng còn chậm, chấp vá và manh mún; CTTT của Đảng
chủ yếu dừng ở tuyên truyền hội nhập kinh tế; cơ chế quản lý thông tin tuyên
truyền còn bất cập; thông tin hai chiều thực hiện chưa tốt, tính thuyết phục
chưa cao; việc bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội còn biểu hiện hình thức; việc triển khai các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về CTTT còn chậm. Về phương pháp, CTTT của Đảng vẫn chủ yếu
bằng lý luận mà ít có thực tiễn minh họa;tuyên truyền một chiều, vẫn còn biểu
101
hiện áp đặt, ít trao đổi, đối thoại; sự phối kết hợp giữa các lực lượng làm
CTTTchưa chặt chẽ. Còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh
phí và phương tiện tuyên truyền; chất lượng và hiệu quả tuyên truyền chưa
cao; còn biểu hiện chưa kịp thời, chưa linh hoạt; còn phân tán, lãng phí, trùng
lặp thông tin. Tổ chức bộ máy, cơ chế, chính sách và cán bộ tuyên truyền còn
nhiều bất cập, còn hạn chế về tầm nhìn chiến lược, định hướng và kế hoạch
dài hạn cho CTTT của Đảng trong mối quan hệ với HNQT. Có nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế của CTTT của Đảng trước
yêu cầu của HNQT, nhưng nguyên nhân chủ quan - sự thiếu chủ động, nỗ lực
của các cơ quan, đơn vị và cán bộ làm CTTT của Đảng - vẫn là nguyên nhân
cơ bản.
3. Một số bài học kinh nghiệm trong CTTT của Đảng sau những năm
đẩy mạnh HNQT vừa qua làkiên định sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng;
nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT; thống nhất
tính khoa học với tính cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn trong CTTT; chú
trọng tuyên truyền về cơ sở và tăng cường xử lý thông tin phản hồi; phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị làm CTTT của Đảng, giữa các cấp, các
ngành trong CTTT về HNQT; thường xuyên củng cố và kiện toàn tổ chức bộ
máy, cán bộvà cơ sở vật chất cho CTTT của Đảng; chủ động, “đi tắt, đón
đầu” trong CTTT của Đảng về HNQT.
Thực tiễn HNQT ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới
đối với CTTT của Đảng về nhận thức, về thể chế, về cán bộ và cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho CTTT của Đảng; đó là những đòi hỏi nâng cao CTTT của Đảng
lên ngang tầm nhiệm vụ - nhiệm vụ đi tiên phong trong việc thực hiện một
trong những định hướng chiến lược của sự phát triển đất nước trong thời kỳ
đổi mới - định hướng chiến lược đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam.
102
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA
ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới đã đề ra
những quan điểm chỉ đạo lớn: Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành
đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, thể hiện vai trò đi
trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác tư
tưởng phải đong vai trò quan trọng trọng bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng. Công tác tư
tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, mà trực tiếp là đồng chí bí thư
cấp ủy. Công tác tư tưởng là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp bởi đó là công
tác đối với con người.
Từ những định hướng chung đó, công tác tuyên truyền để đáp ứng yêu
cầu HNQT thực hiện theo các phương hướng sau:
Một là, khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của công tác tuyên truyền
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng; tiếp tục coi công tác tuyên truyền là
nhiệm vụ của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị, nhằm xây dựng Đảng
vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, lãnh đạo thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Cổ
vũ động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực tham gia sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của đồng bào Việt
Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế.
Hai là, công tác tuyên truyền phải chủ động đi trước một bước, dự báo
đúng tình hình, kịp thời định hướng tư tưởng, làm chủ dư luận xã hội trước
103
những biến động phức tạp, đan xen giữa những yếu tố tích cực và tiêu cực của
tình hình trong nước và quốc tế. Chủ động tiến công, đấu tranh làm thất bại
âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ của các thế hệ thù địch và
cơ hội chính trị ở trong nước và ngoài nước.
Ba là, công tác tuyên truyền phải đổi mới toàn diện, mạnh mẽ về nội
dung và phương thức, không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng và hiệu quả,
nhằm khơi dậy ý chí tự cường, tự tôn dân tộc; góp phần làm cho mặt tích cực
trở thành xu hướng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao ý chí vươn lên của các tầng lớp nhân
dân, tạo sự đoàn kết sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận lớn trong
xã hội để xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4.2. GIẢI PHÁP VỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp về nâng cao hơn nhận thức vị trí vai trò
củacông tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
4.2.1.1. Nâng cao hơn nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền
và cán bộ, đảng viên
Trước hết, cần tiếp tục nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và
đảng viên về các nội dung mới của HNQT sâu rộng nhằm tạo tiền đề cho yêu
cầu đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT trong điều kiện hiện
nay. Tổ chức đảng và đảng viên cần nhận thức sâu sắc rằng, đổi mới CTTT
của Đảng là một nội dung quan trọng và cần thiết hàng đầu trong việc đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu mới của HNQT. Do đó, tổ chức đảng và
đảng viên cần tiếp tục quán triệt sâu rộng hơn nữa về sự cần thiết và tầm quan
trọng HNQT cũng như các vấn đề đặt ra. Làm cho mỗi một người, trên cương
vị của mình nhận thức rõ được trách nhiệm, tự giác và tích cực tham gia
HNQT ở các ngành, lĩnh vực của mình. Trong sự tham gia cần chú ý là tham
gia cả vào công tác tuyên truyền của Đảng. Chú trọng đổi mới tư duy của cán
104
bộ, đảng viên về HNQT, xây dựng thế giới quan khoa học, làm thay đổi cách
nhìn nhận về khách quan của HNQT thời gian qua của Việt Nam, những bước
đi trong thời gian tới để nhân dân tin tưởng và đồng thuận trong thực hiện chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về HNQT. Đặc biệt cần nắm
bắt và dự báo được những bất lợi, và tác động bên ngoài của HNQT và Việt
Nam qua đó tạo sự chủ động từ tư duy đến hành động. Thực hiện đổi mới
CTTT của Đảng cần trở thành một trong những nội dung sinh hoạt của các tổ
chức đảng và các cấp ủy đảng một cách thường xuyên.
Thứ hai, với chính quyền cũng rất cần làm rõ hơn về việc phải đổi mới
CTTT của Đảng, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu của HNQT đặt ra. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, mọi lĩnh vực công tác của Đảng, trong đó có
CTTT của Đảng, muốn phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao đều phải thông
qua vai trò của chính quyền. Do vậy, phải nâng cao nhận thức của các cấp
chính quyền về đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT trở nên
rất quan trọng và cần thiết. Điều đó thể hiện ở chỗ, chính quyền và cán bộ,
công chức chính quyền cũng là đối tượng của CTTT của Đảng. CTTT của
chính quyền, của cán bộ, công chức chính quyền, đến lượt mình, cũng là đối
tượng của CTTT của Đảng. CTTT của chính quyền là sự tiếp nối của CTTT
của Đảng. Chính vì vậy, đổi mới CTTT của Đảng, cũng là trách nhiệm của
chính quyền, của cán bộ, công chức chính quyền.
Thứ ba, cần nâng cao nhận thức của các tổ chức chính trị - xã hội về
đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT. Trong điều kiện Đảng
cầm quyền, mọi lĩnh vực công tác của Đảng, trong đó có CTTT của Đảng đã
và đang phát huy tác dụng. Tuy nhiên, muốn phát huy tác dụng và đạt hiệu
quả cao hơn, nhất thiết cần có sự tham gia tích cực hơn của các tổ chức chính
trị - xã hội. Do vậy, nâng cao nhận thức của các tổ chức chính trị - xã hội về
đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT cũng trở nên rất quan
trọng và cần thiết. Cụ thể ở chỗ: Các tổ chức chính trị - xã hội cũng đang là
105
đối tượng của CTTT của Đảng; CTTT của các tổ chức chính trị - xã hội, của
hội viên, đoàn viên, cũng chính là đối tượng CTTT của Đảng; CTTT của các
tổ chức chính trị - xã hội là sự tiếp nối của CTTT của Đảng; do vậy, đổi mới
CTTT của Đảng là trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, của hội
viên, đoàn viên.
Cuối cùng, cần quan tâm tới việc xây dựng môi trường dân chủ đi đôi
với nêu cao trách nhiệm chính trị của tổ chức và cá nhân hoạt động lý luận.
Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận về HNQT và tổng kết thực tiễn của
HNQT thời gian qua. Nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, định hướng
nghiên cứu CTTT trong thời kỳ mới để đáp ứng được yêu cầu HNQT đặt ra.
4.2.1.2. Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ
tuyên truyền về yêu cầu đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế
Thứ nhất, cán bộ tuyên truyền của Đảng, tuy đã có nhận thức đúng,
nhận thức rõ về CTTT của Đảng trong HNQT: Tuy nhiên, trước tình hình
mới, đòi hỏi mọi cán bộ tuyên truyền phải, nhận thức kịp thời, có niềm tin và
quyết tâm chính trị thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách HNQT của
Đảng và Nhà nước là yêu cầu quan trọng. Cán bộ tuyên truyền phải nhận
thức đầy đủ nội dung tuyên truyền thì mới tuyên truyền được HNQT cho
người khác. Bởi, xét trong quá trình công tác tư tưởng, tuyên truyền là giai
đoạn tiếp nối của công tác nghiên cứu lý luận nhằm mục đích hướng dẫn
nhân dân hành động. Sự tác động của thực tiễn HNQT thời gian tới đây là
kênh phản ánh trực diện những vấn đề của cuộc sống vào công tác lý luận.
Với các đường lối, chủ trương, chính sách liên quan đến HNQT thì cần
tăng cường truyền bá, giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người hiểu,
ủng hộ và làm theo. Bởi “tuyên truyền là đem việc gì đó nói cho dân hiểu,
dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó thì tuyên
truyền thất bại” [84].
106
Có thể thấy, thời gian tới HNQT đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp
trên nhiều phương diện và qua từng giai đoạn khác nhau. Vì vậy cán bộ tuyên
truyền của Đảng cần chủ động và biết tuyên truyền kết quả qua từng thời
gian, của từng ngành, địa phương, đơn vị như thế nào, từ đó củng cố niềm tin
vững chắc của nhân dân về HNQT. Cần chú ý phải giáo dục lòng yêu nước,
tinh thần tự hào dân tộc cổ vũ, động viên và thôi thúc mọi người dân phấn
khởi trước thành công hội nhập ban đầu đặc biệt trong những năm từ khi Việt
Nam tham gia hội nhập với quốc tế hiện nay và xác định chặng đường sắp tới
để tích cực xây dựng đất nước.
Thứ hai, do HNQT diễn ra đa chiều nên cán bộ tuyên truyền của Đảng
phải thường xuyên bám sát thực tiễn HNQT, thường xuyên tự tổng kết và
tham gia tổng kết thực tiễn HNQT. Cán bộ tuyên truyền phải thường xuyên
bám sát thực tiễn HNQT (HNQT của cả nước nói chung, của từng ngành, địa
phương, đơn vị trong từng thời gian, giai đoạn cụ thể), thường xuyên tự tổng
kết và tham gia tổng kết thực tiễn HNQT, có khả năng khái quát thực tiễn
thành lý luận, xác định đúng và trúng nội dung, phương thức tuyên truyền phù
hợp với tình hình thực tiễn mới của HNQT. Có như vậy, cán bộ tuyên truyền
phải có khả năng lý giải được được những vấn đề lý luận và thực tiễn - nhất là
những vấn đề bức thiết, bức xúc của quá trình HNQT đặt ra.
Cán bộ tuyên truyền của Đảng phải nhận thức rõ việc tuyên truyền các
điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước trong hội nhập trên
các lĩnh vực. Kinh nghiệm cho thấy, nhất là ở thời kỳ HNQT nếu xây dựng
được các điển hình và tuyên truyền điển hình thật tích cực tiêu biểu trong tiến
trình tham gia HNQT của các ngành, địa phương đơn vị, sẽ là động lực để cán
bộ, đảng viên và nhân dân tham gia sâu rộng hơn các phong trào thi đua, qua
đó có tác dụng thúc đẩy HNQT được nhanh và toàn diện hơn.
Điểm mới cần đặc biệt quan tâm, chú ý trong tuyên truyền ở thời kỳ
HNQT mới đó là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn độc lập dân tộc
107
với chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới - bối cảnh hội nhập toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh - quốc phòng, HNQT toàn diện
trên các lĩnh vực sẽ đặt ra những yêu cầu rất mới cho công tác tuyên truyền.
Khác với các nước, Việt Nam HNQT do Đảng Cộng sản Việt Nam với tính
cách là Đảng cầm quyền đồng thời là lãnh đạo đất nước phát triển theo định
hướng XHCN. Quá trình hội nhập sẽ tạo ra cho các thế lực thù địch cơ hội
mới để tăng cường âm mưu và hoạt động chống phá nhằm xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng Việt Nam phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, công tác tuyên truyền cần chủ động về nội
dung và hình thức phải làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhận thức sâu
sắc về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đồng thời khơi dậy
tiềm năng và sự sáng tạo của nhân dân, tìm ra những giải pháp và bước đi phù
hợp, chắc chắn và đúng hướng trên con đường hội nhập.
Do thời gian tới, Việt Nam tiếp tục HNQT sâu hơn và toàn diện trên
các lĩnh vực có thể dẫn đến quyền lực chính trị của Đảng thay đổi, có lợi hoặc
không có lợi. Một mặt, quyền hạn của Nhà nước thu hẹp do một số quyền lực
quan trọng phải chuyển giao cho thị trường và xã hội. Hoạt động lãnh đạo của
Đảng và chính quyền phải tiếp tục chịu sự theo dõi, giám sát, phản biện và áp
lực ngày càng tăng từ phía người dân. Mặt khác, yêu cầu dân chủ hóa xã hội,
bao gồm cả dân chủ hóa hoạt động của Đảng và chính quyền tăng lên. Người
dân được tiếp thu những ảnh hưởng của nền dân chủ tiến bộ nên ngày càng
nhận thức và lĩnh hội các kỹ năng thực thi quyền công dân, quyền con người,
từ đó gia tăng nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị. Thực tiễn đó yêu
cầu đặt ra càng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, củng cố và tăng cường niềm
tin trong nhân dân. Như vậy, CTTT trong giai đoạn mới này còn phải tập
trung chú trọng vào đối tượng cán bộ, đảng viên, nâng cao ý thức trách nhiệm
và trình độ năng lực lãnh đạo từ mỗi đảng viên. Có như thế thì CTTT mới có
thể đáp ứng được yêu cầu do hội nhập quốc tế.
108
Thứ ba, cán bộ tuyên truyền của Đảng cần nhận thức rõ yêu cầu đổi
mới nội dung và hình thức tuyên truyền nhằm đáp ứng yêu cầu của HNQT và
phù hợp với điều kiện HNQT. Đổi mới việc quán triệt quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT để từ đó xem xét, đánh giá cụ
thể tình hình của Việt Nam nói chung, từng địa phương, từng ngành nói riêng,
xác định trách nhiệm biện pháp của các cấp, các ngành, vai trò của từng tập
thể cá nhân trong tổ chức thực hiện HNQT. Đổi mới nội dung và hình thức tổ
chức học tập, quán triệt Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trong bối cảnh HNQT.
Cán bộ tuyên truyền của Đảng rất cần phải biết lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng, biết phát hiện sáng kiến của người dân, của doanh nghiệp trong
điều kiện HNQT mới và nhận biết những vấn đề mà thực tiễn HNQT sẽ đặt
ra. Cán bộ tuyên truyền của Đảng phải biết phòng ngừa và khắc phục cách
tuyên truyền theo lối giáo điều, chủ quan, duy ý chí, gây tâm lý phản ứng tiêu
cực, cản trở tiến trình HNQT. Cán bộ tuyên truyền của Đảng phải biết phải
biết chủ động, kịp thời và cập nhật thông tin về tiến trình, tiến độ HNQT của
đất nước; ngăn chặn và đẩy lùi ngay các loại thông tin tiêu cực, nhiễu loạn,
độc hại gây tâm lý bất ổn trong nhân dân.
4.2.1.3. Tiếp tục nâng cao nhận thức của người dân, của doanh
nghiệp về công tác tuyên truyền của Đảng và đổi mới công tác tuyên truyền
của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế
Người dân và doanh nghiệp, doanh nhân, xét đến cùng luôn là chủ thể
chủ yếu nhất và quan trọng hàng đầu của quá trình HNQT; do vậy, việc nâng
cao hơn nhận thức của họ đối với tiến trình HNQT cũng như yêu cầu đổi mới
CTTT của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. CTTT của Đảng cần
phải trở thành “kênh”, “địa chỉ” thông tin chủ đạo và đáng tin cậy đối với
người dân và doanh nghiệp. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
HNQT chỉ có thể tìm thấy “mảnh đất sống” của mình trong ý chí và tình cảm
109
của mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp. CTTT của Đảng không chỉ định hướng
được, mà còn phải giải đáp được những khó khăn, vướng mắc của người dân
và doanh nghiệp trong quá trình HNQT.
Công tác tuyên truyền của Đảng phải thường xuyên cung cấp thông tin
chính thống, chính xác, kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận, nhận thức cho
mọi người dân về HNQT. Đổi mới CTTT giáo dục chính trị tư tưởng về
HNQT; tăng cường các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng về HNQT; đổi mới, mở rộng các hình thức, biện pháp tuyên truyền
về HNQT, v.v. nhằm đưa tinh thần “quốc gia khởi nghiệp” đến với mỗi người
dân, doanh nghiệp, doanh nhân trong quá trình HNQT.
Công tác tuyên truyền của Đảng cần tập trung cao hơn cho việc tuyên
truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân theo các hình thức khác nhau, ở các tổ
chức khác nhau sẽ tạo ra kết quả đồng bộ trong nhận thức của mỗi người dân,
mỗi doanh nghiệp về HNQT. Cần thường xuyên rút kinh nghiệm và chú ý tới
việc tuyên truyền vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong lãnh đạo
NHQT, yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của HNQT. Trước yếu cầu
mới, mặc dù còn có những điều kiện, bối cảnh mới chúng ta vừa làm vừa định
hình và rút kinh nghiệm, CTTT của Đảng phải tiếp tục vừa bám sát đường lối
chính trị của Đảng vừa phải phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại. Lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở quan trọng cho mọi
hoạt động tuyên truyền. Trong điều kiện HNQT hiện nay, để CTTT của Đảng
nhanh chóng thấm sâu vào và trở thành nhận thức của các tầng lớp nhân dân,
điều quan trọng là phải lựa chọn đúng nội dung và hình thức tuyên truyền phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của HNQT.
Do đối tượng của CTTT của Đảng là cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân với trình độ, nhận thức, tư tưởng, quan điểm chính trị, điều kiện và
mức độ nhu cầu tâm lý rất khác nhau giữa nông thôn - thành thị, miền núi
đồng bằng. Vì vậy, về hình thức cần chú trọng lựa chọn các nhóm đối tượng
110
cụ thể phù hợp để tuyên truyền các nội dung về HNQT tránh việc tuyên
truyền dàn trải, giống nhau ở các đối tượng, sẽ dễ gây ra sự nhàm chán, dập
khuôn, máy móc. Việc lựa chọn nội dung CTTT cần kết hợp chặt chẽ giữa
yêu cầu, nhiệm vụ CTTT với lợi ích, nguyện vọng trình độ của cán bộ, đảng
viên và nhân dân; cần chú ý bám sát thực tiễn HNQT, tuyên truyền định
hướng trước những vấn đề đặt ra của cuộc sống để cổ vũ hành động cách
mạng, vận động các tổ chức, cá nhân tích cực chủ động tham gia HNQT.
Có thể nói, trước yêu cầu HNQT hiện nay, CTTT của Đảng phải luôn
đổi mới nhằm phản ánh đúng thực tại khách quan, thể hiện tính chân thực,
trung thực trong tuyên truyền; phải phổ thông hóa những nội dung CTTT phù
hợp với trình độ, phong tục, tập quán của nhân dân Việt Nam; thường xuyên
thổi “hồn sinh khí” mới của đời sống hội nhập vào nội dung, hình thức và
phương pháp của CTTT của Đảng.
4.2.2. Nhóm giải pháp về thể chế nhằm đổi mới nhận thức về công
tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
4.2.2.1. Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước về hội nhập quốc tế trong điều kiện mới từ đó xác
định đúng đắn và kịp thời định hướng đổi mới về nội dung và phương thức
tuyên truyền về hội nhập quốc tế
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về HNQT
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT thời gian qua
có một quá trình hình thành và phát triển với những kết quả nhất định, định
hướng (với nghĩa rộng) đối với toàn bộ quá trình HNQT của đất nước. Tuy
nhiên, trước yêu cầu HNQT ngày một sâu rộng đòi hỏi đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước về HNQTcần phải được tiếp tục phát triển và hoàn
thiện. Nội hàm của các khái niệm có liên quan trong quá trình HNQT, của các
mối quan hệ quốc tế, của các mối quan hệ hợp tác, đối tác với các nước - từ
111
quan hệ láng giềng hữu nghị, quan hệ bạn bè đến đến quan hệ hữu nghị đặc
biệt, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện, từ
hợp tác khu vực, liên khu vực đến hợp tác quốc tế, cần được làm rõ hơn, cụ
thể hơn, định lượng hơn, làm cơ sở cho CTTT của Đảng về HNQT. Đặc biệt,
cần cụ thể hơn những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với CTTT của Đảng
đối với HNQT.
Thứ hai, xác định đúng đắn và kịp thời định hướng đổi mới về các nội
dung tuyên truyền:
Đối với nội dung tuyên truyền về kinh tế trong HNQT (hội nhập kinh tế
quốc tế): Trong bối cảnh hiện nay, đổi mới nội dung tuyên truyền về kinh tế
tức là tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế cần làm rõ các mục tiêu phát
triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam thời
gian tới như thế nào. Chính vì vậy, cần tập trung làm rõ, tạo nhất trí cao về
quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân. Bởi kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới chúng
ta đang vừa làm, vừa nghiên cứu, vừa học hỏi rút kinh nghiệm để tìm ra
hướng đi đúng đắn, phù hợp của đất nước.
Từ thực tiễn, điều kiện hiện nay của đất nước (cả chủ quan và khách
quan) CTTT cần chú trọng cổ vũ động viên nhân dân tin tưởng vào sự phát
triển và hướng đi của nền KTTT ở nước ta hiện nay để chủ động tham gia
phát triển kinh tế dưới nhiều góc độ, góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam
độc lập, tự chủ trong hội nhập và phát triển theo hướng bền vững. Quá trình
tuyên truyền cần chú ý thông tin đầy đủ và kịp thời ở các bộ, ngành địa
phương xây dựng kế hoạch và tham gia phát triển nền KTTT định hướng
XHCN. Đồng thời phê phán các đơn vị làm chưa tốt đã gây ảnh hưởng tới quá
trình chung của đất nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. CTTT
của Đảng cần mạnh dạn, thẳng thắn phân tích những vấn đề còn tồn tại, yếu
112
kém mà quá trình hội nhập chúng ta chưa đạt đượcnhư mục tiêu đề ra đồng
thời làm rõ nguyên nhân của hạn chế (do ảnh hưởng của HNQT, do khủng
hoảng kinh tế thế giới suy thoái hoặc do một số biện pháp của Việt Nam đề ra
chưa phù hợp). Điều này sẽ giúp nhân dân tin hơn vào sự lãnh đạo của Đảng,
Đảng nhận biết và chủ động biện pháp khắc phục, phát hiện và uốn nắn kịp
thời tâm lý, tư tưởng lo ngại, thiếu tin tưởng trong nhân dân về HNQT.
Đổi mới nội dung tuyên truyền trước yêu cầu HNQT cũng đặt ra yêu
cầu phải làm cho nhân dân cả nước hiểu rõ được những lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài của hội nhập kinh tế quốc tế, mà kết quả thực hiện cuối cùng là
nhân dân là người được hưởng lợi. Song, cần tăng cường tuyên truyền các
mục tiêu lớn của HNQT để nhân dân hiểu và tích cực tham gia thực hiện mục
tiêu đã đề ra; thậm chí chấp nhận các thiệt thòi riêng tư để góp phần cho sự
phát triển chung đó. Xuất phát từ thực tế này CTTT cần phân tích, đánh giá
đúng tình hình, thuận lợi, khó khăn của quá trình hội nhập kinh tế, xác định
được những giải pháp tích cực nhằm động viên nhân dân vững tin, vượt qua
thách thức, thực hiện thành công lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế (Thực tế
cho thấy, từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO (đầu năm năm 2007), thời gian
đầu tư tưởng của nhân dân phấn khởi, tràn đầy niềm tin, hi vọng vào những
cơ hội, những chuyển biến tích cực, đột phá. Nhưng ngay sau đó, từ năm 2008
đến nay, chúng ta đã phải gánh chịu những tác động tiêu cực từ cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới kéo dài. Nhiều doanh nghiệp phá sản hoặc hoạt động
cầm chừng đời sống bị ảnh hưởng giá cả tăng cao. Điều này đã tác động đến
tâm lý nhân dân, gây hụt hẫng, mất lòng tin, thậm chí có tư tưởng lo lắng, dao
động về đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam).
Đối với nội dung tuyên truyền về chính trị trong HNQT: Cần làm
cho các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn yêu cầu khách quan về hội
nhập, thấy rõ cơ hội và thách thức của hội nhập. Phải làm cho toàn Đảng,
toàn dân ý thức rõ rằng, HNQT của chúng ta khi sự phát triển của thời đại
113
là trong xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ. CTTT cũng cần làm rõ trong
điều kiện của nước ta, hội nhập quốc tế không chỉ là quá trình diễn ra dưới
sức ép của xu hướng tất yếu của thời đại, mà điều quan trọng hơn, đây còn
là một quá trình mang tính chủ động, đáp ứng lợi ích nhu cầu phát triển nội
tại của đất nước. Sự chủ động này xuất phát không chỉ từ việc thừa nhận lợi
ích to lớn do hội nhập đem lại, mà còn tự ý thức về những thách thức gay
gắt phát sinh do hội nhập. Chủ động HNQT là chủ trương rất đúng đắn, kịp
thời của Đảng, Nhà nước. Việt Nam không thể CNH, HĐH, nếu đứng
ngoài, biệt lập với thế giới, càng không thể đi lên CNXH mà không hội
nhập với thế giới.
Trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, khi tham gia hội nhập sâu rộng, CTTT
càng phải cần đượcđầu tư, đổi mới hơn, phải được triển khai đúng tầm nhiệm
vụ trung tâm đó và hơn thế phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các cấp
ủy Đảng. Mọi chủ trương, chính sách có thành hiện thực hay không phải bắt
đầu từ sự thống nhất nhận thức trong Đảng, trong xã hội về thuận lợi cũng
như khó khăn của HNQT.
Những năm trước đây, khi Việt Nam xúc tiến các bước tiếp theo của
quá trình hội nhập cũng là lúc thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ
trầm trọng, suy thoái kinh tế thế giới càng làm nổi lên mặt trái những tác động
tiêu cực của toàn cầu hóa. Từ thực tiễn trên, CTTT cần tiếp tục đi trước một
bước, kịp thời định hướng tư tưởng tiếp tục củng cố niềm tin, bản lĩnh và
quyết tâm cao trong cả nước để xây dựng tầm nhìn chiến lược, không nản
lỏng, không khép mình lại để tự vệ.
Có thể thấy, thời gian qua, CTTT trong HNQT vừa có những thuận lợi,
thời cơ lớn vừa phải đối mặt với thách thức khó khăn không nhỏ CTTT cần đi
trước một bước, cũng có nghĩa là tăng cường tuyên truyền để các tầng lớp
nhân dân nhận thức sâu sắc thực tế này là điều không tránh khỏi, và là khách
quan. Tuyên truyền ở thời kỳ này cần định hướng tư tưởng để các cấp, các
114
ngành hiểu rằng HNQT không chỉ toàn “được” mà không có “thiệt”, không có
sự trả giá; cần nhìn nhận một cách biện chứng đối với quá trình HNQT.
Đổi mới CTTT về chính trị còn bao hàm phương diện quan trọng nữa là
đổi mới về quan niệm an ninh quốc gia, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
cho phù hợp tình hình mới của thế giới. Tạo dựng niềm tin và ý chí bảo vệ
chủ quyền là nhiệm vụ cần thiết trong thực hiện tuyên truyền ở thời kỳ
HNQT. Trên cơ sở nhận thức rõ các nguy cơ không chỉ xuất hiện từ diễn biến
tình hình thế giới mà còn nảy sinh chính từ quá trình phát triển của đất nước.
CTTT cần linh hoạt hơn trong tuyên truyền khả năng thực thi quyền hạn sắp
xếp đượcmở rộng nhờ hợp tác quốc tế. Đảng cần đặc biệt lưu ý làm rõ và định
hướng thông tin một cách kịp thời với những thông tin bịa đặt về tình hình nội
bộ, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mà cụ thể gần đây nhất làcác thông tin
xấu, thông tin nhiễu loạn trước thềm Đại hội XII của Đảng. Việc ứng phó
trước những loại thông tin này rất cần CTTT vào cuộc. Rất nên có bộ phận
chuyên theo dõi thông tin trên mạng xã hội mỗi ngày. Việc giao ban báo chí
hàng tuần cũng nên dành thời gian để xử lý làm rõ và định hướng đầy đủ các
thông tin mạng đề cập đến. Bên cạnh đó, CTTT cần để người dân nhận thức
được các thông tin, tự phòng vệ từ các luồng thông tin tiếp nhận, nhận biết
được đâu là thông tin độc hại và đâu là thông tin có ích. Đồng thời, kịp thời
đấu tranh phản bác ngay lại những thông tin sai lệch; không để thông tin lan
truyền rộng rãi mới xử lý. Điều này dễ gây tâm lý hoang mang cho nhân dân.
Qua 30 năm đổi mới, những thành công và tồn tại, cũng như những vấn
đề đã và đang nảy sinh liên quan đến vai trò chính trị trong quá trình HNQT
của Việt Nam đều gắn với tư duy, nhận thức của Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền, các doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Do vậy, một trong những
nhiệm vụ chủ yếu nhằm phát huy vai trò chính trị trong HNQT ở nước ta là
phải đổi mới CTTT về tư duy chính trị (chính sách) cho phù hợp với tiến trình
NHQT của Việt Nam hiện nay.
115
Đối với nội dung tuyên truyền về văn hóa trong HNQT: Xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập với sự phát triển khoa học công nghệ đã phá vỡ mọi ngăn
cách giữa cái mới thể hiện qua sự xâm nhập. Một cuộc xâm nhập sâu rộng về
văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều hình thức thông qua báo
chí, văn học, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, hội thảo, v.v. đã và
đang tác động mạnh mẽ vào tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen của nhân
dân. Tiếp biến văn hóa, xâm lăng văn hóa, bổ sung văn hóa, đa dạng các nền
văn hóa, v.v. là vấn đề hiện hữu hàng ngày trên mọi lĩnh vực đời sống chính
trị, kinh tế - xã hội. Trong tình hình đó, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trở thành vấn đề quan trọng trong lãnh đạo của Đảng trước yêu
cầu HNQT.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn của HNQT, với thực tế hiện nay và trước
tính chất phức tạp của văn hóa thế giới du nhập vào Việt Nam, đã xuất hiện
hai khuynh hướng: khuynh hướng dè dặt, bảo thủ, khép kín trước thực tế của
hội nhập đã tạo nên sự trì trệ trong đời sống. Khuynh hướng thứ hai là chạy
theo văn hóa phương Tây, quay lưng với văn hóa dân tộc, cho rằng bản sắc
văn hóa truyền thống dân tộc cản trở sự hội nhập do đó coi nhẹ nguyên tắc cốt
yếu trong văn hóa là bổ sung chứ không phải thay thế.
Đổi mới nội dung tuyên truyền về phát triển văn hóa với tư cách nền
tảng tinh thần của xã hội cần được gắn kết chặt chẽ với tuyên truyền và nhiệm
vụ phát triển kinh tế, an ninh - quốc phòng và xây dựng Đảng. Bởi văn hóa
không đứng ngoài các lĩnh vực, không thể phát triển kinh tế bền vững không
đảm bảo an ninh - quốc phòng nếu văn hóa - xã hội không ổn định. Từ nhận
thức đó, CTTT cần tập trung làm rõ văn hóa không chỉ là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế, mà còn là “hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế bền vững”.
Tuyên truyền văn hóa cần tiếp tục tập trung tuyên truyền xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những đặc tính của con người
Việt Nam, những đặc trưng của văn hóa truyền thống, hình thành từ ngàn
116
năm. Đặc biệt những nét văn hóa mới xuất hiện trong thời kỳ HNQT như giao
tiếp, ứng xử văn hóa, lịch sự và mến khách của Việt Nam. Trong tuyên truyền
cần chú ý yếu tố cổ vũ, động viên nhân dân thực hiện phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và đặc biệt kiên quyết chống xu hướng
thương mại hóa trong hoạt động văn hóa. Chú trọng tuyên truyền các điển
hình văn hóa (làng văn hóa, cơ quan văn hóa, đình chùa văn hóa, văn hóa
công sở, v.v.) trong nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân. Tích cực lên án,
phê bình và bài trừ những hiện tượng, hành vi lai căng, phản văn hóa.
Bên cạnh đó những giá trị văn hóa truyền thống, của nhân loại cũng có
sức sống mạnh mẽ trong nhân dân. Vì vậy, quá trình thực hiện CTTT cần có
sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, nhưng là sự tiếp thu có chọn lọc
để làm phong phú củng cố thêm nền văn hóa dân tộc. Vấn đề đặt ra ở đây, để
văn hóa trở thành động lực, nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thì CTTT cần
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, khẳng định mạnh mẽ, thuyết phục về con
đường HNQT không ngoài mục đích góp phần làm cho nhân dân có đời sống
văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh và tích cực hơn.
Trước yêu cầu của HNQT hiện nay, vấn đề bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc là việc sống còn, là đảm bảo cho sự phát triển văn hóa trong tương lai.
Hơn lúc nào hết, CTTT của Đảng cần xác định rõ trách nhiệm của mình về
vấn đề này; từ xây dựng nội dung, hình thức tuyên truyền tới tăng cường huy
động các nguồn lực cho phát triển văn hóa. Đây cũng chính là một trong
những biện pháp CTTT cần tập trung trước yêu cầu HNQT.
Trong bối cảnh HNQT của Việt Nam hiện nay, Đảng chủ trương thúc
đẩy hội nhập văn hóa quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh thần nền
văn minh nhân loại, đồng thời giới thiệu, quảng bá những nét đẹp của văn hóa
Việt Nam ra thế giới. Bởi vậy, CTTT phải tuyên truyền có tính định hướng,
có chọn lọc nhiều giá trị văn hóa phù hợp, nhiều kinh nghiệm hay trong xây
dựng nền văn hóa dân tộc hiện đại. CTTT cần nắm lấy những cơ hội này để
117
thông qua tuyên truyền giao lưu kinh tế, văn hóa mà tạo nên sức cộng hưởng,
thúc đẩy phát triển, khẳng định những giá trị tinh thần văn hóa của Việt Nam.
Các giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc phải được giữ gìn và phát huy.
Tuyên truyền về văn hóa dân tộc, phải đặc biệt chú trọng nâng cao nhận
thức toàn dân, nhất là tầng lớp doanh nhân và thanh niên về lịch sử dựng nước
và giữ nước hào hùng của cha ông, tình yêu nước và chí phục hưng dân tộc.
Trong hệ thống những giá trị văn hóa giữ nước Việt Nam thì lòng yêu nước là
giá trị tiêu biểu nhất chi phối và định hướng các giá trị khác.
Do quá trình hội nhập đã dần xóa bỏ rào cản để các nước thành viên
giao lưu văn hóa mạnh hơn. Đã đến lúc cần đẩy mạnh tuyên truyền về giao
lưu và tiếp biến văn hóa. Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa là góp phần thực hiện
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. CTTT của Đảng cần chủ động
đón nhận các cơ hội để tuyên truyền, góp phần xây dựng bản lĩnh vượt qua
các thử thách để giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, góp phần làm phong
phú thêm biểu tượng văn hóa thế giới. Cần chú ý tuyên truyền theo hướng vừa
ngăn chặn, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa đối
với nước ta, vừa phải dung nạp tinh hoa văn hóa tiến bộ để làm cho văn hóa
dân tộc thêm phong phú.
Đối với nội dung tuyên truyền về quốc phòng - an ninh trong HNQT:
Đại hội XI của Đảng chủ trương “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực
HNQT” [56]. Đại hội xác định một trong tám mối quan hệ cần tập trung
giải quyết là mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với HNQT. Việc tuyên
truyền, phản ánh những hoạt động của độc lập tự chủ và HNQT là quan
trọng, nhưng cần thiết hơn nữa là phải góp phần nâng cao nhận thức và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với HNQT đấy là vấn đề
thời sự nóng bỏng, liên quan trực tiếp đến sự phát triển của nhiều nước
trong đó có Việt Nam.
118
Trong tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, Việt Nam
đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai
trò của Nhà nước. Chính vì vậy, CTTT của Đảng trong thời gian tới cần vận
dụng một cách nhuần nhuyễn nội dung, phương thức tuyên truyền để tuyên
truyền sâu rộng, đường lối đối ngoại trong giai đoạn mới, tuyên truyền những
chủ trương, đường lốicủa Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực
hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như
con đường tiến lên CNXH của Việt Nam. Hơn nữa, trước yêu cầu HNQT
ngày càng sâu rộng hiện nay, tuyên truyền là để nâng cao nhận thức nhân dân
cần tránh hai quan điểm lệch lạc: Một là, cho rằng độc lập, tự chủ là hằng số
bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương ứng với HNQT, xem
thế giới như mộtthể thống nhất. Hai là, cho rằng thời đại toàn cầu hóa và
HNQT, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự chủ, chủ
quyền quốc gia. Quá trình HNQT, cần chú trọng thông tin đầy đủ về truyền
thống vẻ vang của quân đội nhân dân, công an nhân dân gắn với trách nhiệm
xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Trong tình hình hiện nay, CTTT cần làm sáng tỏ một số vấn đề nhân
dân quan tâm như mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới và
với một số nước láng giềng như Trung Quốc. Ngoài tuyên truyền về mối quan
hệ tình cảm hữu nghị vốn có từ lâu đời của hai nước, cũng cần nâng cao tinh
thần cảnh giác của các tầng lớp nhân dân trước những nguy cơ tiềm ẩn, những
khó khăn mà Trung Quốc gây ra cho Việt Nam, trên tinh thần không làm ảnh
hưởng tới quan hệ ngoại giao giữa hai nước, giữ vững môi trường hòa bình,
hữu nghị, hợp tác để phát triển. Hoặc với mối quan hệ với Mỹ, gần đây xuất
hiện tư tưởng tôn sùng, đề cao Mỹ và lãng quên quá khứ, thậm chí muốn Việt
Nam “đi theo Mỹ”. Đã xuất hiện những hành động “yêu nước quá khích” của
một số thành phần diễn ra ở Đại sứ quán Trung Quốc và một số đường phố
119
Thủ đô trong phản đối Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, v.v. gây tâm lý bất
ổn trong nhân dân. Vì vậy, CTTT của Đảng cần làmcho mọi người, nhất là
thế hệ trẻ nhận rõ bản chất đối tượng, đối tác trong quan hệ với một số nước
trong thời gian gần đây; thống nhất cao với các biện pháp xử lý linh hoạt,
mềm dẻo mà Việt Nam đang thực hiện để tin tưởng và cùng thực hiện nhằm
không gây bất ổn định tình hình trong nước.
Thực tiễn đang cho thấy xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng
thì sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng tăng. Do vậy,
CTTT phải tập trung vào vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia là mục tiêu cơ bản,
lâu dài nhằm làm chuyển biến mạnh về nhận thức của nhân dân trong giữ
vững độc lập, tự chủ về an ninh quốc gia trong HNQT.
Hội nhập quốc tế đã và đang tạo cơ hội cho một số thế lực chính trị bên
ngoài nhân danh “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do tôn giáo” để can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam. Do đó, ở nội dung này CTTT nhất thiết phải
chú trọng tuyên truyền tới người dân để nhân dân nhận thức kịp thời, chính
xác các “can thiệp” của các thế lực thù địch từ đó luôn đề cao cảnh giác với
các âm mưu này. Tuy nhiên, việc đổi mới này cần chú ý không quá dàn trải về
nội dung; bởi các lượng thông tin nếu tới dồn dập, nhiều, rất dễ dẫn tới việc
nhân dân hoang mang trước lượng thông tin được cung cấp.
Đối với nội dung tuyên truyền về đối ngoại trong HNQT: Hiện nay,
Việt Nam đã bước vào một giai đoạn HNQT sâu sắc và toàn diện hơn bao
giờ hết. Nếu như ở năm 1954 chúng ta chỉ có quan hệ với 11 nước thì đến
nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước; thúc đẩy quan
hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 224 thị trường tại tất cả châu lục
[56]. Trong bối cảnh này, những năm qua CTTT của Đảng đã làm tốt vai
trò thông tin, tuyên truyền về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam với nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại - từ
“bình thường hóa”, “mở rộng”, “mong muốn là bạn” đến “đa dạng hóa, đa
120
phương hóavà sẵn sàng là bạn”, “sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy”, của các
nước trên thế giới.
Trước xu hướng biến đổi phức tạp của tình hình thế giới và khu vực
thời gian qua và sắp tới sẽ tạo cho Việt Nam vị thế mới, với những cơ hội lớn
nhưng cũng phải đối mặt những khó khăn, thách thức gay gắt trong việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ trong thời kỳ chiến lược mới. Từ tình hình này, cũng sẽ có sự tác động
nhiều chiều đến triển vọng quan hệ hợp tác của Việt Nam đến năm 2020 vì
vậy, CTTT của Đảng cần tập trung làm rõ cục diện quốc tế đã khác, và càng
phức tạp. Hợp tác và phát triển thành xu thế khách quan, nhưng bên cạnh đó
chạy đua vũ trang có chiều hướng gia tăng. Việt Nam đang ở trong thời điểm
cạnh tranh kinh tế ngày một khốc liệt. Tranh chấp chủ quyền biển đông trở
nên căng thẳng và lôi kéo nhiều nước có quyền lợi liên quan tham gia. Trong
khi quân sự còn đang được kiềm chế, chính trị, kinh tế là công cụ chủ yếu thì
đối ngoại là biện pháp hết sức quan trọng. Đây là quan điểm rất quan trọng
của Đảng trong phương thức thực hiện đường lối ngoại giao với các nước trên
thế giới rất cần CTTT tập trung phản ánh đậm nét. Cần làm rõ việc Đảng luôn
xác định trong thời đại ngày nay Việt Nam luôn coi sức mạnh công lý là trong
luật pháp quốc tế. Do quá trình đấu tranh vì một trật tự quốc tế dân chủ, công
bằng hơn, nhiều định chế, luật quốc tế quan trọng được thiết lập. CTTT của
Đảng cần nắm vững, khai thác, vận dụng để tuyên truyền các vấn đề trên một
cách sắc bén nhằm làm rõ đường lối của Đảng về đối ngoại trước yêu cầu
HNQT hiện nay.
Cần chú ý trước yêu cầu của HNQT, đổi mới CTTT của Đảng theo
hướng tăng cường thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, tình hình đất nước, quan điểm và thái độ của Việt Nam với các vấn
đề quốc tế và khu vực ra nước ngoài, chú ý đến các đối tượng, vùng trọng
tâm, trọng điểm để tuyên truyền cho phù hợp.
121
Mục tiêu CTTT của Đảng về đối ngoại trong thời gian tới cần nâng cao
nhận thức và sự tham gia của mọi người, mọi ngành, mọi cấp về đối ngoại.
Bên cạnh đó, đối tượng, địa bàn cần được mở rộng hơn: Không chỉ nhân dân
trong nước mà còn mở ra đối tượng đồng bào ta ở nước ngoài cũng như nhân
dân các nước trên thế giới. Phải khẳng định rằng, đối tượng hướng đến của
công tác thông tin tuyên truyền của Đảng trong hội nhập là đa dạng và phức
tạp. Vì vậy, CTTT của Đảng cần xác định rõ đối tượng tuyên truyền đối ngoại
có thể có những khác biệt về chí hướng, phong tục tập quán, truyền thống văn
hóa và cả tư duy, nếp suy nghĩ. Bên cạnh đó, địa bàn để tuyên truyền không
bó hẹp ở nước lân cận mà phải trải rộng khắp cả khu vực khác trên thế giới.
CTTT của Đảng do yêu cầu của chính sách đối ngoại phải đi trước một bước.
Cần chú ý đa dạng hóa các hoạt động thông tin đối ngoại, đặc biệt là những
vấn đề chính trị nhạy cảm hiện đã và đang xuất hiện như: dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo. Trên cơ sở những nguyên tắc của CTTT của Đảng,
tuyên truyền đối ngoại luôn luôn linh hoạt, kịp thời thích ứng với biến đổi của
tình hình trong nước và quốc tế.
Thứ ba, xác định đúng đắn và kịp thời định hướng đổi mới về phương
thức tuyên truyền về HNQT:
Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (Khóa X) về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới và các nghị quyết của
Đảng về HNQT. Theo đó cần cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các loại hình tuyên truyền, đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền
miệng phù hợp với trình độ, nhu cầu từng đối tượng. Yêu cầu đặt ra lúc này
là nâng cao chất lượng thông tin, nhất là thông tin “đầu vào” từ cấp Trung
ương, vừa có những báo cáo mang tính thời sự quan trọng, vừa có những
chuyên đề, đi sâu vào những vấn đề lý luận cơ bản, những vấn đề mới đang
đặt ra trong cuộc sống có liên quan đến các quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về HNQT hiện nay và những
122
năm sắp tới. Cần tập trung và tăng cường cho công tác tuyên truyền miệng,
tuyên truyền trực tuyến.
Coi trọng định hướng đúng đắn và kịp thời những thông tin quan trọng
về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tình hình quốc
tế đồng thời mở rộng thêm các nội dung khác, đáp ứng với yêu cầu phong
phú, đa dạng, phù hợp với từng loại khách thể và đối tượng tuyên truyền khác
nhau. Mặc dù củng cố và duy trì đều đặn chế độ thông tin định kỳ hàng tháng
đã trở thành nền nếp cho báo cáo viên các cơ quan Trung ương và tỉnh, thành
phố trong cả nước nhưng cần kết hợp tổ chức hội nghị ở các địa phương đơn
vị. Chú trọng hơn nữa các địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa bởi
đây là địa bàn ít được quan tâm trong thời gian qua. Mặt khác CTTT cần tập
trung làm thật tốt tuyên truyền miệng đối với các bộ phận dân cư, do những
hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau tiếp tục đứng ngoài sự tác động
trực tiếpcủa công tác tư tưởng, như: người lao động làm việc trong các công
ty tư nhân, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất; người lao động hành nghề tự do; sinh viên ngoại trú và
du học tự túc. Tập trung trên các địa bàn quan trọng như Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh và các khu kinh tế, các “điểm nóng”, những nơi tiềm ẩn nguy cơ
mất ổn định về chính trị - xã hội.
Đẩy mạnh thông tin hai chiều theo hướng dân chủ hóa và tăng cường
đối thoại trước yêu cầu HNQT, đây là vấn đề hết sức quan trọng để thông tin
“thông suốt”. Cần coi trọng cả hai khâu: báo cáo, truyền đạt với nội dung phù
hợp, ngắn gọn, súc tích, thể hiện tính thuyết phục cao với những vấn đề do
HNQT đặt ra. Mặt khác cũng cần dành thời gian để nghe phản ánh tình hình,
giải đáp thắc mắc, trả lời và đối thoại trực tiếp với người nghe. Quan tâm
nhiều hơn nữa đến chất lượng và phương pháp để thông tin khách quan, tình
hình hội nhập trong nước và xu hướng hội nhập thế giới. Thông qua nhiều
kênh, nhiều tổ chức, nhiều hình thức để tiến hành đưa thông tin HNQT trực
123
tiếp tới các đối tượng khác nhau, các đoàn thể, các hội quần chúng, các tổ
chức chính trị - xã hội, các câu lạc bộ. Chú trọng hơn nữa các đối tượng trí
thức, thanh niên, sinh viên, cựu chiến binh, những cán bộ đã nghỉ hưu. Tăng
cường và mở rộng hệ thống mạng lưới thông tin tuyên truyền miệng từ trung
ương đến cơ sở. Cung cấp và sử dụng nhiều tài liệu, tư liệu, ghi âm, ghi hình,
v.v. giúp cho người nói, người nghe có nhanh và nhiều ấn phẩm thông tin với
nội dung đa dạng, phong phú và hấp dẫn.
Báo cáo viên, tuyên truyền viên cần được xây dựng có hệ thống từ
Trung ương đến các tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường và các đảng bộ,
chi bộ cơ sở. Cần phải tổ chức xây dựng và củng cố lại đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên trên cơ sở lựa chọn những người có đủ phẩm chất và năng
lực, kiên quyết thay thế những người không đủ tiêu chuẩn và thực sự không
hoạt động. Ở Trung ương chú trọng xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các
đồng chí lãnh đạo, các chuyên gia giỏi, đầu ngành, vừa có uy tín, phẩm chất
vừa có trình độ chuyên môn cao để tham gia hoạt độngbáo cáo viên. Ở cơ sở
cần tranh thủ và có chính sách động viên các cán bộ đã nghỉ hưu và cựu chiến
binh có nhiệt tình, uy tín và kinh nghiệm để tham gia. Thực hiện Chỉ thị 17-
CT/TW, cần chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức và hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên từ Trung ương đến các tổ chức cơ sở đảng, việc đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo
cáo viên, kết hợp hài hòa giữa đội ngũ báo cáo viên lâu năm, có kinh nghiệm
với đội ngũ cán bộ trẻ, kế cận, từng bước nâng cao trình độ chuyên nghiệp
của báo cáo viên ở tỉnh, thành phố và Trung ương. Phấn đấu cấp nào, ngành
nào, tổ chức đoàn thể nào cũng có đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
tinh nhuệ.
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ về CTTT miệng. Hàng năm tổ chức kiểm tra, tổng kết
rút kinh nghiệm, mở các hội thi báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi để nhân
124
rộng và khen thưởng kịp thời. Phấn đấu để ngày càng có nhiều cán bộ tuyên
truyền miệng vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, tuyên truyền có sức thuyết
phục, cổ vũ mạnh mẽ đối với mọi đối tượng.
Bám sát thực tiễn HNQT, kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng, dự báo
chiều hướng phát triển để tuyên truyền đúng và kịp thời. HNQT hiện nay
cũng được coi là cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các thế lực thù địch, là sự
nỗ lực vượt bậc trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó không thể
diễn ra bình lặng, thẳng tắp mà luôn quanh co, khúc khuỷu, có những bước
ngoặt, biến động phức tạp kèm theo những tác động về tư tưởng tới mọi
người. Bởi vậy, CTTT cần định hướng đúng đắn và kịp thời thì thống nhất
được tư tưởng và hành động, phát huy được các nhân tố tích cực, hạn chế các
tác động tiêu cực góp phần cho hội nhập thành công.
Công tác tuyên truyền của Đảng cần hướng dẫn tuyên truyền hành động
cho nhân dân, đấu tranh chống luận điệu thù địch, tư tưởng, quan điểm sai
trái. Do vậy, công tác tuyên truyền phải giữ vững và phát huy thế chủ động,
không thể thụ động, né tránh, bỏ trống trận địa tư tưởng. Phải bám sát thực
tiễn hội nhập, có sự phân tích lý luận chính trị chính xác, dự đoán được tình
hình của hội nhập trong thời gian tới; biến động tình hình chính trị, tư tưởng ở
từng giai đoạn, để đề ra phương hướng công tác thông tin phù hợp đúng đắn,
dân chủ, đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu thù địch. Nâng
cao tính thuyết phục, mở rộng đối thoại trong đấu tranh tư tưởng đối với
những người có quan điểm sai trái.
Lựa chọn hình thức, phương pháp, phương tiện tuyên truyền phù hợp
với đặc điểm của các khách thể và đối tượng tuyên truyền. Phương pháp
tuyên truyền rất cần chú ý kết hợp định hướng tư tưởng với nhu cầu cung cấp
thông tin, chú ý đến các đặc điểm liên quan đến HNQT của các đối tượng
tuyên truyền mà lựa chọn nội dung, hình thức, phương tiện tuyên truyền cho
phù hợp. Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng thu hút được sự chú ý
125
của đông đảo các đối tượng nhân dân, chiếm hơn 80% lượng thông tin trong
xã hội, đồng thời là kênh chủ yếu chuyển tải đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước tới nhân dân. Vì vậy, cần phải đặc biệt quan tâm phát triển các
phương tiện này. Cần có sự kiểm soát chặt chẽ, kết hợp tốt giữa tự do thông
tin với định hướng thông tin của Đảng.
Phát hiện kịp thời các nhân tố mới trong CTTT của Đảng. Việc định
hướng, phát hiện các nhân tố sáng tạo và nêu lên bài học kinh nghiệm của các
điển hình tiên tiến trong HNQT là rất quan trọng. Đây là hình thức hiệu quả
trong cổ vũ, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân học tập và làm theo. Bằng cách
thông qua các kênh truyền thông, tác động tới người dân sẽ góp phần thôi
thúc nhiều càng làm hay và sáng tạo trong quần chúng, thúc đẩy HNQT thành
công hơn. Thông qua điển hình tiên tiến, công tác tuyên truyền còn hướng dẫn
việc tổng kết đánh giá thực tiễn HNQT qua từng thời kỳ. Thông qua đó phát
hiện ra vấn đề của hội nhập để giải quyết có hiệu quả hơn. Cần lãnh đạo, quản
lý các lực lượng làm CTTT là những người có năng lực, bản lĩnh chính trị,
nhiệt tình. Luôn đi trước một bước, có khả năng nắm bắt tình hình và nắm
được yêu cầu của CTTT và nguyện vọng quần chúng nhân dân nhằm phục vụ
tốt cho hoạt động tuyên truyền.
Để đáp ứng yêu cầu HNQT, CTTT của Đảng cần tập trung:
Một là, các sản phẩm thông tin, tuyên truyền hiện nay đang có cần nâng
cao hơn về chất lượng và hình thức. Nội dung tuyên truyền phải cập nhật,
phong phú. Tuy nhiên không vì thế mà lẫn lộn giữa thông tin đối ngoại và
thông tin đối nội ở các vấn đề, đặc biệt là nội dung tuyên truyền, về nguồn tin
tuyên truyền. Trong điều kiện HNQT hiện nay các nội dung tuyên truyền cả
đối ngoại và đối nội đều cần phải phát triển mạnh mẽ và có sự phối hợp, tổ
chức, phân công lực lượng và nội dung tuyên truyền hợp lý, tránh tình trạng
mâu thuẫn, hoặc không trùng khớp giữa các nội dung.
126
Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các loại hình báo chí. Đối
với báo chí, một lực lượng đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tham gia hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Vì vậy, trước yêu cầu HNQT hiện nay, nhiệm vụ định hướng và tạo
điều kiện cho báo chí phát triển đang được đặt ra. Theo Luật Báo chí hiện
hành (có 4 loại hình báo chí - báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử) [103],
báo chí là công cụ truyền bá thông tin cho công chúng rộng rãi, công cụ dự
báo, công cụ truyền bá và sáng tạo ra văn hóa, thỏa mãn nhu cầu giải trí
của xã hội. Báo chí là lực lượng quan trọng trong hệ thống chính trị, là
công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Trong thời gian tới, báo chí cần phát huy những thành tích đã đạt được,
khắc phục triệt để những tồn tại yếu kém để thực hiện tốt vai trò tuyên
truyền của mình, tập trung vào 2 nhiệm vụ chính là: thông tin nhanh nhạy
đầy đủ, đúng định hướng mọi diễn biến của quá trình hội nhập trong nước
và tình hình thế giới; đấu tranh, phản bác có hiệu quả những quan điểm sai
trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; phòng ngừa biểu hiện
thương mại hóa các báo chí của Đảng.
Ba là, tăng cường sử dụng các loạihình văn hóa - văn nghệ trong CTTT
của Đảng. Có nhiều phương thức tuyên truyền, nhưng có thể nói, văn hóa -
văn nghệ giữ vị trí hàng đầu, bởi lẽ, mục tiêu của tuyên truyền là chuyển tải
được chủ trương, đường lốicủa Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đến
với người dân. Hiện nay chúng ta có một hệ thống thiết chế văn hóa - văn
nghệ rất lớn bao gồm các cơ quan báo chí - xuất bản, nhà bảo tàng, triển lãm,
đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, thư viện, phòng đọc, trung tâm văn hóa thông
tin, cơ sở in và đơn vị phát hành sách nhà nước. Những thiết chế văn hóa -
văn nghệ đó cùng với đội ngũ văn nghệ sĩ đã góp phần đưa thông tin về hội
nhập đến người dân một cách nhanh chóng, hấp dẫn, tác động trực diện tâm
tư tình cảm trách nhiệm của nhân dân tham gia HNQT.
127
Trong công tác tuyên truyền, cần phát huy triệt để vai trò của các loại
hình văn hóa - văn nghệ sau (văn chương); loại hình thông tin (triển lãm,
quảng cáo, thông tin cổ động); loại hình báo chí (báo in, báo nói, báo hình,
báo điện tử); loại hình xuất bản (sách viết, sách điện tử, băng đĩa, tranh ảnh,
lịch, in, phát hành); loại hình văn hóa (bảo tồn, bảo tàng, thư viện, nhà truyền
thống, tín ngưỡng, phong tục, tập quán); loại hình nghệ thuật biểu diễn (kịch,
tuồng, chèo, ca múa nhạc, văn nghệ quần chúng, lễ hội, nhiếp ảnh). Đây là
những loại hình đã góp phần không nhỏ vào quảng bá hình ảnh đất nước trong
thời kỳ hội nhập. Cần chú ý công tác thông tin tuyên truyền qua báo viết, báo
mạng, phát thanh, truyền hình; qua các đoàn khách quốc tế đến làm việc và
tham quan du lịch, các nhà đầu tư, thông tấn báo chí, các đoàn đi nước ngoài
học tập, công tác và kinh doanh.
Bốn là, đổi mới tư duy, chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong CTTT của
Đảng trước yêu cầu HNQT. Điều này đòi hỏi phải có cách làm mới kể cả về
quy mô và nghệ thuật tuyên truyền. Phải hết sức sáng tạo trên một tư duy mới.
Không thể thụ động hay đưa ra những tuyên truyền cổ động cho công tác
tuyên truyền thiếu thẩm mỹ, không cập nhật nội dung. Trong thời đại công
nghệ thông tin, sự phát triển mạnh của các loại hình báo chí, nhất là báo mạng
và truyền hình, công tác thông tin cổ động cũng phải thích ứng, sáng tạo mới
có thể đáp ứng yêu cầu của công tác tuyên truyền trong tình hình hiện nay.
Thông tin cổ động trực quan là rất cần thiết và rất sinh động nhưng người làm
tuyên truyền nếu không nhận thức đúng, không đổi mới cách làm thì hiệu quả
không những không cao mà còn có tác động tiêu cực. Hơn ai hết, các cơ quan
truyền thông văn hóa cần phải có kế sách để nâng cao chất lượng tuyên truyền
cổ động trực quan nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày một mở rộng và
phát triển như hiện nay.
Năm là, xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát CTTT. Xây
dựng và thực hiện cơ chế kinh tế giám sát CTTT là nhiệm vụ thường xuyên
128
của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy
CTTT phải được kiểm tra và giám sát: Giám sát mở rộng, kiểm tra phải có
trọng tâm, trọng điểm; kịp thời phát huy ưu điểm, nhân tố mới trong CTTT.
Khắc phục thiếu sót, hạn chế của công tác này.
Tập trung kiểm tra, giám sát việc thông tin tuyên truyền các chủ trương
Nghị quyết của Đảng được triển khai trong các tầng lớp nhân dân, hình thức,
phương thức tuyên truyền ở từng giai đoạn của HNQT. Trước yêu cầu của
HNQT, tình hình thế giới và Việt Nam vẫn có nhiều biến động phức tạp,
nhanh chóng, khó lường. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, bên cạnh thắng
lợi là cơ bản đã và đang nảy sinh nhiều nguy cơ, xuất hiện tâm lý hóa nguyên
mục tiêu của Đảng; “Diễn biến hòa bình”, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”
trong Đảng, sự tác động này đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hội nhập
của nước ta. Chính vì vậy rất cần một cơ chế giám sát, kiểm tra thường xuyên
tới CTTT nhằm đảm bảo điều kiện cho công tác này đạt hiệu quả và yêu cầu
đề ra. Qua kiểm tra, giám sát để xác định, điều chỉnh, bổ sung cho nhân dân,
phương thức tuyên truyền phù hợp hơn đồng thời hai gõ nhỏ cho tuyên truyền
hiện nay cả về cơ chế, chính sách và nguồn lực con người. Điều này có vai trò
quan trọng với CTTT trước yêu cầu HNQT đang đặt ra.
4.2.2.2. Xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác tuyên
truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế
Thứ nhất, cần xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ
chức làm CTTT của Đảng về HNQT. Chú trọng xây dựng tổ chức và cán bộ
làm CTTT của Đảng. Trước yêu cầu của HNQT, Đảng cần đặc biệt quan tâm
tới tổ chức, bộ máy và đội ngũ làm công tác tư tưởng, tuyên giáo vì đây là lực
lượng nòng cốt trong việc bảo vệ vững chắc trận địa chính trị - tư tưởng của
Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc xung quanh Đảng.
Đổi mới về CTTT của Đảng theo phương châm chủ động - linh hoạt -
sáng tạo - thuyết phục. Các cơ quan, tổ chức làm CTTT của Đảng cần không
129
ngừng đổi mới lề lối, tác phong làm việc, bám sát cơ sở, kịp thời phát hiện
những vấn đề mới nảy sinh, nắm bắt tư tưởng, tâm lý xã hội;tranh thủ sự lãnh
đạo, quản lý và tham gia của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; phối kết hợp giữa các “binh chủng” làm
CTTT nói chung và CTTT của Đảng nói riêng, để CTTT “có mặt” ở mọi nơi,
mọi lúc.
Đánh giá đúng khách thể, đối tượng tuyên truyền, lựa chọn nội dung tác
động phù hợp và tạo niềm tin, tính sáng tạo và tự giác tham gia, hiện thực hóa
các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo. Nội
dung CTTT là nội dung các hoạt động mà các cơ quan, tổ chức làm CTTT
tiến hành nhằm thực hiện mục đích đặt ra trong giai đoạn cách mạng cụ thể. Ở
nội dung tuyên truyền nào thì những cơ quan, tổ chức, cá nhân làm CTTT
cũng cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cơ bản của mình trong bối cảnh
HNQT là nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân; tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng với CTTT qua đó tạo sự đồng thuận, quyết tâm chính trị cao
của cán bộ và nhân dân trong quá trình HNQT.
Thứ hai, cần kiện toàn tổ chức bộ máy làm CTTT của Đảng theo hướng
tin gọn - chất lượng - hiệu quả, giữ vai trò hạt nhân (dẫn dắt, định hướng)
trong hệ thống thống nhất - kết nối các cơ quan, tổ chức làm CTTT. Đảng xác
định CTTT về HNQT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị
nhưng lực lượng nòng cốt vẫn là đội ngũ và lực lượng chuyên trách, chuyên
môn tuyên truyền của các cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội. Việc tổ chức bộ máy và các lực lượng làm CTTT cần xây dựng với mô
hình thống nhất và kết nối, có phân công, phân nhiệm cụ thể như: Về hệ thống
tuyên truyền của Đảng, bao gồm các cấp ủy đảng (với vai trò là người lãnh
đạo, chỉ đạo và trực tiếp làm công tác tuyên truyền); hệ thống ban tuyên giáo
của các cấp ủy (là cơ quan chuyên môn tham mưu); và đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên của các cấp ủy; hệ thống tuyên truyền của Nhà nước; Hệ
130
thống tuyên truyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội; hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên của các ngành kinh tế - xã
hội, các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp; hệ thống báo cáo viên, tuyên
truyền viên của các lực lượng vũ trang; hệ thống các cơ quan thông tin đại
chúng, báo chí, xuất bản; hệ thống các hội, các đơn vị sáng tạo và hoạt động
văn học - nghệ thuật; hệ thống các cơ quan chuyên ngành thực hiện tuyên
truyền đối ngoại.
Các hệ thống cơ quan, lực lượng tuyên truyền trên cần được kiện toàn,
củng cố từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt coi trọng việc kiện toàn, củng cố ở
cấp cơ sở là cấp bách, mà cụ thể là hoàn thiện, thống nhất mô hình hệ thống
ban tuyên giáo phường (xã), thị trấn đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng đáp
ứng yêu cầu công tác tư tưởng đặt ra.
Đối với cấp ủy đảng, cần xác định rõ hơn vai trò trực tiếp làm công tác
tuyên truyền. Từ đó, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lựa chọn những người am
hiểu chuyên môn, nghiệp vụ tuyên truyền, có trình độ lý luận, phẩm chất chính
trị và có khả năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục để đưa vào làm CTTT.
Đối với Ban Tuyên giáo các cấp, bộ phận tham mưu và trực tiếp triển
khai công tác tuyên truyền ở cấp Trung ương là Vụ Tuyên truyền (Ban Tuyên
giáo Trung ương), ở cấp tỉnh có phòng tuyên truyền. Cấp huyện, biên chế ít
nên không có phòng chuyên môn mà có cán bộ phụ trách CTTT. Đây là
những đơn vị chuyên môn có vai trò rất quan trọng trong việc tham mưu về
công tác tuyên truyền, cần được quan tâm bố trí đủ cán bộ, có trình độ, năng
lực, đảm bảo tiêu chuẩn, kinh nghiệm, có đủ sức gánh vác công việc và phải
là những người được đào tạo chuyên nghiệp, bài bản trong lĩnh vực công tác
tư tưởng. Kiện toàn các Ban Tuyên giáo cấp xã, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác tuyên truyền đến sâu, rộng với cơ sở và nhân dân.
Thứ ba, các cơ quan tuyên truyền của Đảng cần tập trung nghiên cứu,
và dự báo tình hình HNQT. Nắm bắt kịp thời các diễn biến có thể xảy ra trong
131
thời gian tới. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng để Đảng đề ra đường
lối chủ trương lãnh đạo đúng đắn phù hợp trong từng giai đoạn và khắc phục
được tồn tại yếu kém về tính dự báo thấp cũng như một số biện pháp lãnh đạo
không phù hợp như hiện nay. Cần đầu tư nghiên cứu những trào lưu tư tưởng
mới, của ngành học thuyết mới, lý thuyết mới để có các luận cứ khoa học làm
cơ sở cho nên Đảng hoạch định đường lối, quan điểm về các yêu cầu HNQT
đặt ra. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là các
chuyên gia lý luận đầu đàn ở các lĩnh vực để kịp thời tham mưu định hướng
cho Đảng những vấn đề về nghiên cứu lý luận nhằm đáp ứng tốt yêu cầu HNQT
đặt ra. Cần chủ động tham mưu đề xuất, xây dựng thực hiện mô hình tổ chức, bộ
máy của Ban Tuyên giáo từ Trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn và của cán
bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội. Cần nghiên cứu xác định rõ mô hình cán bộ
công tác cấp xã, phường, thị trấn, đặc biệt quan tâm tới phương thức riêng, phù
hợp với đặc trưng nghề nghiệp cán bộ tuyên giáo để chủ động tạo điều kiện
người cán bộ Tuyên giáo trong tình trạng chắp vá như hiện nay.
4.2.2.3. Thực hiện đúng lộ trình, bước đi đối với công tác tuyên
truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế
Tiếp tục những kinh nghiệm trong CTTT của Đảng những năm qua -
nhưđã từng bước và ở mức độ nhất định tuyên truyền về lộ trình, bước đi của
quá trình HNQT - từ tuyên truyền Việt Nam mong muốn làm bạn với các
nước đến Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước và Việt Nam mong muốn
và sẵn sàng trở thành thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; tuyên
truyền về quá trình từ bình thường hóa quan hệ đến phát triển các mối quan hệ
với các đối tác là các nước lớn, các khu vực, các cộng đồng và các tổ chức
quốc tế quan trọng (từ quan hệ hữu nghị đặc biệt đến đối tác toàn diện, đối tác
chiến lược).
Công tác tuyên truyền của Đảng hiện nay cần đẩy mạnh tuyên truyền từ
hội nhập kinh tế quốc tế đến HNQT một cách toàn diện; tuyên truyền về HNQT
132
nói chung đến HNQT sâu từng lĩnh vực nói riêng; tuyên truyền từ việc chuẩn bị,
đàm phán, ký kết đến triển khai các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
tham gia; tuyên truyền về thế giới, thị trường thế giới nói chung đến từng quốc
gia, khu vực, từng thị trường nói riêng; tuyên truyền có chọn lọc về nội dung và
hình thức thông tin đến từng đối tác cụ thể, phù hợp; tuyên truyền từ HNQT từ
trong nước đến HNQT với thế giới; tuyên truyền từ chủ trương, chính sách đến
thực tiễn HNQT; thực hiện đúng thứ tự ưu tiên của các nội dung thông tin.
4.2.3. Nhóm giải pháp về cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm đổi
mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
4.2.3.1. Tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền của
Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng tuyển dụng, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ làm CTTT của Đảng:
Về tiêu chuẩn cán bộ tuyên truyền của Đảng, CTTT là một hoạt động
xã hội đặc biệt, bởi đối tượng tác động ở đây là ý thức con người. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, ý thức con người phải chịu tác động của rất
nhiều luồng tư tưởng khác nhau, rất nhiều thông tin vừa đa dạng phong phú
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vừa biến động khôn lường. Cán bộ làm
CTTT, cũng như cán bộ làm công tác tham mưu ở các ban Đảng cần phải có
những tiêu chuẩn đó là có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, gương
mẫu. Nếu không có phẩm chất đạo đức trong sáng thì làm tuyên truyền khó có
sức thuyết phục, thậm chí còn phản tuyên truyền. Nắm vững nguyên lý tuyên
truyền, nhạy bén chính trị, tư duy mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, nói lưu loát, có
sức truyền cảm. Đây là những tiêu chuẩn rất cần thiết của người làm tuyên
truyền, vì nhiệm vụ của công tác tuyên truyền là nói để người ta hiểu và làm
theo. Nếu người đi tuyên truyền mà không thể nói cho người ta hiểu được,
hoặc người nghe “hiểu” nhưng nhìn thấy chính người đi tuyên truyền không
thực hiện thì không thể làm cho họ “làm theo” được.
133
Người làm CTTT của Đảng, trước hết phải hiểu, tin và làm theo chính
điều mình cần phải tuyên truyền thì người nghe mới tin và làm theo. Nhưng
hiện nay, đã xuất hiện tình trạng “nói không đi đôi với làm”, “nói một đằng,
làm một nẻo” hoặc người tuyên truyền phải tuyên truyền những điều mà
chính mình còn hoài nghi. Nếu không khắc phục tình trạng này thì hiệu quả
công tác tuyên truyền sẽ giảm sút. Cần thường xuyên rà soát, củng cố đội ngũ
này. Kiên quyết hạn chế những người không đủ điều kiện tự chủ đề ra. Cụ thể
hơn, cán bộ làm CTTT của Đảng cần đáp ứng những tiêu chuẩn đó là: có
phẩm chất, bản lĩnh chính trị, tư tưởng chính trị đúng đắn, vững vàng; có
phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, trung thực; có trình độ chuyên
môn (có tri thức về lý thuyết và kỹ năng công tác, am hiểu lý luận và thực
tiễn) cao; có trình độ tin học và ngoại ngữ đáp ứng tốt yêu cầu công tác; tâm
huyết với CTTT của Đảng, gắn bó với nhân dân, với cơ sở, với thực tiễn;
Về đào tạo cán bộ tuyên truyền của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương
cần phối hợp với các cơ sở đào tạo, nhất là Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) có kế hoạch đào tạo sinh viên
chuyên ngành công tác tuyên truyền. Cần có chỉ tiêu cụ thể cho mỗi khóa đào
tạo, trong đó chia làm hai nhóm đối tượng: Nhóm đối tượng dự thi theo kế
hoạch tuyển sinh chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo; nhóm đối tượng đào tạo
theo cử tuyển của hệ thống tuyên giáo các cấp. Đối tượng này đảm bảo ba tiêu
chí cử tuyển là - có khả năng nói và viết tốt - ưu tiên vùng sâu, vùng xa và con
em dân tộc thiểu số - sau khi ra trường được nhận về công tác tại hệ thống
tuyên giáo các cấp.
Tham khảo và học tập những điểm tiến bộ trong công tác đào tạo người
truyền giáo của các tổ chức tôn giáo. Người làm CTTT rất cần được bồi
dưỡng tính sáng tạo, nâng cao tính nghệ thuật, phục vụ cho nhiệm vụ tuyên
truyền của Đảng trong HNQT. Sự sáng tạo là đặc điểm của công tác tuyên
truyền, người tuyên truyền có tư duy lý luận và am hiểu thực tiễn, vì tuyên
134
truyền tác động đến con người có trình độ, đặc điếm khác nhau mà đòi hỏi
người tuyên truyền phải biết cách tác động cho phù hợp với đối tượng, tác
động biết vận dụng quy luật tâm lý, tâm thế, giao tiếp vào tuyên truyền.
Về bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền của Đảng, cán bộ làm công tác tuyên
truyền nhất thiết phải được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên
truyền. Ban Tuyên giáo Trung ương cần phối hợp với các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng có liên quan, nhất là Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh) có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ trực
tiếp và chuyên trách làm công tác tuyên truyền và cán bộ làm công tác tuyên
giáo nói chung, cần có chương trình bồi dưỡng riêng cho từng đối tượng khác
nhau gắn với từng giai đoạn phát triển của HNQT. Phân rõ các đối tượng cần
đào tạo: cấp lãnh đạo, cấp chuyên viên, người đã công tác lâu năm trong ngành,
người mới vào ngành. Mỗi đối tượng cần có nội dung đào tạo riêng, phù hợp,
nhất là việc cung cấp kỹ năng tuyên truyền trong điều kiện HNQT cho phù hợp.
Lâu nay, Ban tuyên giáo Trung ương có tổ chức một số lớp tập huấn nghiệp vụ,
nhưng chưa phân rõ đối tượng. Cách làm này cần được cải tiến, nội dung tập huấn
phải phù hợp với từng loại đối tượng, hiệu quả mới cao. Một cán bộ mới được
điều động về làm trưởng ban tuyên giáo cấp tỉnh, thì nhu cầu tập huấn chuyên
môn, nghiệp vụ sẽ rất khác với một cán bộ đã làm từ một nhiệm kỳ trở lên.
Về tuyển dụng cán bộ tuyên truyền của Đảng, hiện nay, hầu hết cán bộ
làm CTTT được đào tạo từ rất nhiều chuyên ngành, kể cả khoa học xã hội -
nhân văn và khoa học tự nhiên, mà không hoặc ít được đào tạo chuyên sâu về
chuyên ngành công tác tuyên truyền. Để khắc phục, cần có kế hoạch tuyển
dụng cán bộ về làm công tác tuyên truyền từ hai nguồn tuyển dụng sinh viên
tốt nghiệp chuyên ngành công tác tuyên truyền của Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Đối tượng này nếu tuyển dụng vào Ban Tuyên giáo các cấp thì
cần được đưa đi đào tạo ở cấp dưới, thời gian đi đào tạo từ 2-3 năm. Việc này
liên quan đến nhiều cấp, nên Ban Tuyên giáo Trung ương nên có quy chế
135
chung, áp dụng trong toàn quốc, công khai rộng rãi. Bên cạnh đó, trong thực
tiễn sẽcó một số cán bộ có năng lực nên điều động về làm công tác tuyên
truyền tại ban tuyên giáo các cấp. Tuy số này không được đào tạo chuyên
ngành CTTT, nhưng nhờ có khả năng thiên bẩm, được rèn luyện qua thực tiễn
nên có thể làm công tác tuyên truyền có sức thuyết phục tốt. Tuy nhiên, cần
bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền cho đối tượng này kết hợp với khả năng
thực tiễn và năng khiếu thiên bẩm, họ sẽ trở thành những cán bộ tuyên truyền
xuất sắc. Ban Tuyên giáo Trung ương cần phối hợp với các cơ sở đào tạo có
liên quan có kế hoạch và chương trình đào tạo thường xuyên những cán bộ
mới được điều động về cơ quan tuyên giáo.
Công tác tuyển dụng cán bộ cần có chế độ chính sách ưu đãi cán bộ
tuyên truyền mới thu hút được cán bộ tốt về công tác tại ngành. Nếu so sánh
trong các ban đảng, cán bộ ủy ban kiểm tra có phụ cấp riêng, trong khi ban
tuyên giáo không có phụ cấp riêng; về quy hoạch, đào tạo trong khi phó ban
tổ chức, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra thường được cơ cấu cứng tham gia
cấp ủy, còn phó ban tuyên giáo thì không thuộc cơ cấu cứng. Do đó, vừa khó
khăn trong công tác chỉ đạo tuyên truyền, vừa không có cơ hội phát triển lên
vị trí cao hơn. Vì vậy, Đảng cần có chủ trương chung, cơ cấu phó ban tuyên
giáo phụ trách tuyên truyền tham gia cấp ủy và có chính sách đãi ngộ, coi
công tác tuyên truyền là một nghề “đặc biệt” và có chính sách ưu đãi, phụ cấp
nghề nghiệp bằng hoặc cao hơn nghề dạy học. Có như vậy mới khuyến khích
được người tài về lĩnh vực công tác “đặc biệt” này.
Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cập nhật các tình hình trong và ngoài nước. Hàng năm
tổ chức kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm, mở các hội thi báo cáo viên, tuyên
truyền viên giỏi để khen thưởng động viên kịp thời. Phấn đấu để ngày càng có
nhiều cán bộ tuyên truyền miệng vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, tuyên
truyền có sức thuyết phục, cổ vũ mạnh mẽ đối với mọi đối tượng.
136
Về sử dụng cán bộ tuyên truyền của Đảng, để tạo điều kiện thuận lợi
cho lực lượng tuyên truyền và phát huy khả năng của họ, nâng cao hiệu quả
công tác, Đảng cần có cơ chế bố trí tạo điều kiện cho lực lượng tuyên truyền
hoạt động. Chẳng hạn, ưu tiên bố trí và sử dụng những cán bộ tuyên truyền có
bản lĩnh chính trị, trong sáng, lành mạnh, có tri thức chính trị, sáng tạo, nhiệt
tình và say mê am hiểu công việc, có năng lực phân tích, dự báo tình hình tư
tưởng, có khả năng tham mưu và đặc biệt khả năng nói và viết để tuyên truyền
trong nhân dân. Riêng với cán bộ lãnh đạo còn cần có khả năng tổ chức, đề xuất,
phát hiện vấn đề, tập hợp và phát huy được sức mạnh của tập thể.
Để thu hút những người tài, từ đó đảm bảo công tác này có hiệu quả
hơn, Đảng cần quan tâm tạo điều kiện, phương tiện làm việc cho đội ngũ cán
bộ này nhất là trong bối cảnh HNQT hiện nay, rất cần có các phương tiện làm
việc tối thiểu như Ipad, máy tính xách tay. Bên cạnh đó cũng cần có cơ chế,
chính sách hỗ trợ cụ thể cho các hoạt động mang tính chất trí tuệ của những
cán bộ hay đi giảng Nghị quyết, lên lớp, nói chuyện chuyên đề.
Thứ hai, cần tăng cường lãnh đạo, quản lý cán bộ tuyên truyền của Đảng:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, CTTT có nhiều lực lượng tham gia như
ban tuyên giáo các cấp, báo cáo viên, tuyên truyền viên, cơ quan truyền thông
đại chúng. Để đảm bảo hoạt động của đội ngũ này có hiệu quả trước yêu cầu
HNQT, Đảng cần tập trung quản lý tuyên truyền thông qua các nội dung
tuyên truyền bao gồm: Triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Quản lý thông
qua quy chế, quy định đối với tuyên truyền như ngày kỷ niệm ngày lễ lớn của
Đảng, của dân tộc. Cần chú trọng tuyên truyền thêm các vấn đề do HNQT đặt ra
như an sinh xã hội, môi trường sống, dịch bệnh, vũ khí hủy diệt, công nghệ mới
là rất quan trọng. Khi HNQT, những yếu tố này đã phát sinh và rất dễ chi phối
và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển đất nước cũng như tâm trạng của nhân
dân. Xác định và áp dụng hệ thống những tiêu chí đánh giá và phương pháp
đánh giáhiện đại, lượng hóa kết quả CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT.
137
4.2.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm đổi mới công tác
tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Tăng cường các phương tiện tuyên truyền hiện đại trong bối cảnh
HNQT hiện nay là yêu cầu cần thiết để nâng cao hiệu quả CTTT của Đảng,
đáp ứng yêu cầu thông tin ngày càng cao của HNQT. Hiện nay điều kiện vật
chất, trang thiết bị của cán bộ làm CTTT của Đảng còn thiếu đồng bộ,
nhiềuphương tiện tuyên truyền của Đảng đã lạc hậu và kém hiệu quả.
Để đảm bảo cho hoạt động của CTTT của Đảng có hiệu quả, tính đồng
bộ từ yêu cầu HNQT hiện nay, Đảng và Nhà nước cần quan tâm đúng mức,
tạo điều kiện trang bị các phương tiện hiện đại cho cán bộ tuyên truyền, phù
hợp với điều kiện phát triển của công nghệ thông tin như máy tính, ipad, máy
ghi âm, tivi, radio máy ảnh. Có như vậy, CTTT mới tiến hành hiệu quả phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu HNQT đặt ra.
Tiểu kết chương 4
1. Để đáp ứng các yêu cầu của HNQT, cần xác định những quan điểm
(có thể nêu thành các nhóm quan điểm) về đổi mới CTTT của Đảng, bao
gồm: Nhóm quan điểm thứ nhất là nhận thức và xác định rõ tính bức thiết của
đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Theo đó, một
là, cần đánh giá đúng kết quả và nhất là những hạn chế (đội ngũ đông mà
chưa mạnh, sự phối hợp lực giữa các lực lượng chưa chặt chẽ), tổ chức bộ
máy chậm đổi mới, đội ngũ cán bộ chưa thực sự mạnh về năng lực, trình độ;
hai là, cần nhận diện đúng những thời cơ và thách thức (vấn đề đặt ra) đối với
CTTT của Đảng, cần thấy rõ đổi mới CTTT của Đảng là nhiệm vụ quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải quyết về mặt lý luận những vấn đề
của đổi mới và phát triển trong thời kỳ HNQT; đổi mới CTTT của Đảng
không phải là phủ nhận thành tựu và cách làm trước đây, mà là tiếp tục khẳng
định những tư duy và hành động đúng, bổ sung nhận thức và xác định cách
138
làm mới đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới. Nhóm quan điểm thứ hai
là xác định và thực hiện đúng phương hướng và nhiệm vụ của đổi mới
CTTTcủa Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT. Theo đó, cần xác định và thực
hiện đúng vị trí, vai trò và chức năng của CTTT của Đảng - dẫn dắt, định
hướng CTTT của Nhà nước và hệ thống chính trị nói chung đáp ứng các yêu
cầu của HNQT. Xác định và thực hiện yêu cầu và nhiệm vụ của đổi mới
CTTT của Đảng là gắn kết CTTT của Đảng với thực tiễn HNQT, định hướng
cả nhận thức và hành động, kết hợp học tập quán triệt với việc xây dựng và
triển khai nghị quyết, phát huy sức mạnh tổng hợp CTTT, bảo đảm tính khoa
học, tính chiến đấu và tính thuyết phục trong tuyên truyền, bảo đảm tổ chức
bộ máy cần có cơ cấu hợp lý, ổn định, tinh gọn và hiệu quả, đội ngũ cán bộ có
phẩm chất và năng lực. Thường xuyên tổng kết CTTT, đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự tham gia đội ngũ cán bộ tuyên truyền
trong hệ thống chính trị, tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên. Nhóm quan
điểm thứ ba là xác định và thực hiện đúng nguyên tắc và phương châm đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT. Theo đó cần xác định và
thực hiện đúng nguyên tắc đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của
HNQT (giữ vững mục tiêu, quan điểm và định hướng tuyên truyền của Đảng,
thực hiện tốt các nhiệm vụ của công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu
cầu của HNQT, chủ động về nội dung và định hướng tuyên truyền, v.v.). Xác
định và thực hiện đúng phương châm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu
cầu của HNQT (đa dạng hóa, phong phú hóa các hình thức tuyên truyền, linh
hoạt hóa, sáng tạo hóa phương pháp tuyên truyền, v.v).
2. Cần xác định đúng và thực hiện có kết quả các giải pháp (có thể nêu
nhóm giải pháp) về nhận thức, thể chế và nguồn lực nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Theo
đó: Thứ nhất, nhóm giải pháp về nhận thức, bao gồm: Nâng cao nhận thức
của các cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên về đổi mới CTTT của
139
Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT; Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ
tuyên truyền về đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT; Nâng
cao nhận thức của người dân, của doanh nghiệp về CTTT của Đảng và đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT; Thứ hai, nhóm giải pháp
về thể chế, bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về HNQT, xác định đúng đắn và kịp thời định hướng đổi mới về
nội dung và phương thức tuyên truyền về HNQT; xây dựng và hoàn thiện tổ
chức bộ máy làm CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT (xác định
đúng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức làm CTTT của Đảng về
HNQT; kiện toàn tổ chức bộ máy làm CTTT của Đảng theo hướng tin gọn -
chất lượng - hiệu quả, giữ vai trò hạt nhân (dẫn dắt, định hướng) trong hệ
thống thống nhất - kết nối các cơ quan, tổ chức làm CTTT; các cơ quan tuyên
truyền của Đảng cần tập trung nghiên cứu, và dự báo tình hình sát thực tiễn
HNQT; thực hiện đúng lộ trình tuyên truyền về HNQT; Thứ ba, nhóm giải
pháp về về cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật bao gồm: Tăng cường đội ngũ
cán bộ làm CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế (đổi mới và
nâng cao chất lượng tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ làm CTTT của Đảng; tăng cường lãnh đạo, quản lý cán bộ tuyên
truyền của Đảng; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm đổi mới CTTT
của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
140
KẾT LUẬN
1. Công tác tuyên truyền tư tưởng của Đảng là hoạt động truyền bá hệ
tư tưởng của Đảng, là hoạt động vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng của
Đảng. Trong điều kiện là đảng lãnh đạo, CTTT của Đảng là một phương thức
lãnh đạo của Đảng; trong điều kiện đảng cầm quyền, CTTT của Đảng là một
phương thức cầm quyền của Đảng. CTTT của Đảng bao gồm chủ thể khách
thể, đối tượng và phương tiện, công cụ tuyên truyền. Những yếu tố ảnh hưởng
đến CTTT của Đảng bao gồm tính chất của hệ tư tưởng, đường lối, chính
sách, trình độ và năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền của Đảng,
trình độ và đặc điểm của khách thể tuyên truyền, điều kiện và môi trường xã
hội có liên quan. CTTT của Đảng với tính cách một phương thức cầm quyền
của Đảng còn có những đặc điểm như tính tiên phong, tính chính thống, tính
tổng hợp. Vai trò của CTTT đối với Đảng cầm quyền rất lớn với việc phổ
biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; là kênh quan trọng để các cấp ủy đảng, chính quyền tổ
chức thực hiện và bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; xây dựng và hoàn
thiện tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động; kiểm tra, giám sát, giáo dục,
rèn luyện cán bộ, công chức; là công cụ để cho nhân dân tiếp cận đến các
chính sách, phục vụ đối ngoại, phục vụ HNQT.
Hội nhập quốc tế có thể hiểu là quá trình các nước tiến hành các hoạt
động gắn kết, chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực và tuân theo các
luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Những
nội dung cơ bản của HNQT bao gồm hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội, an ninh - quốc phòng và bảo vệ môi trường. Đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về HNQT ở Việt Nam hình thành từ khi bước vào thời kỳ
đổi mới (năm 1986) đến nay, đã xác định mục tiêu, nguyên tắc, quan điểm chỉ
141
đạo, nội dung cơ bản, phương châm HNQT; việc tuyên truyền về HNQT cũng
dựa chắc trên cơ sở đường lối, chính sách này.
Hội nhập quốc tế có ảnh hưởng rất lớn, tạo ra thuận lợi và cơ hội, nguy
cơ và thách thức đối với CTTT của Đảng. HNQT đặt ra những yêu cầu đối
với CTTT của Đảng như yêu cầu nâng cao vị trí và vai trò của CTTT của
Đảng, nắm vững nội dung tuyên truyền về HNQT, mở rộng phạm vi, khách
thểvà đối tượng của CTTT của Đảng, đổi mới nội dung và phương pháp, tổ
chức bộ máy và cán bộ tuyên truyền của Đảng. HNQT đòi hỏi đội ngũ cán bộ
tuyên truyền có phẩm chất chính trị, năng lực tổ chức, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, am hiểu tình hình thực tiễn - thực sự là những người tiên phong
trong CTTT. Cán bộ làm CTTT của Đảng cần phải là những người tâm huyết,
trách nhiệm và bản lĩnh, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả năng
sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học hiện đại vào CTTT.
2. Công tác tuyên truyền của Đảng về HNQT những năm qua đã tuyên
truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT; thành tựu của
công cuộc đổi mới, của quá trình; lòng yêu nước, tự hào và tự tôn dân tộc; văn
hóa, đạo đức, lối sống trong quá trình hội nhập; đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, chống “diễn biến hòa bình”; thời cơ và thách thức; lộ trình, bước
đi của quá trình HNQT. CTTT của Đảng đã đa dạng hóa các hình thức tuyên
truyền; đẩy mạnh hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; coi
trọng điều tra và xử lý dư luận xã hội; tăng cường công tác xuất bản, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; mở rộng phạm vi và mức độ tuyên truyền. CTTT của Đảng
đã có một số đổi mới về phương pháp, tổ chức bộ máy, cán bộ và cơ sở vật
chất - kỹ thuật. CTTT của Đảng đã có những đóng góp tích cực vào những kết
quả HNQT của đất nước trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hóa -
xã hội, quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, CTTT vẫn còn những hạn chế, còn thiếu chủ động, sắc bén;
Hình thức tuyên truyền của Đảng về cơ bản vẫn theo cách làm cũ, mang tính
142
“bao cấp”; đi sau và đi chậm hơn so với quá trình HNQT; quy hoạch tổng thể
CTTT của Đảng còn chậm, chấp vá và manh mún; cơ chế quản lý thông,
thông tin hai chiều chưa tốt, tính thuyết phục chưa cao; việc bồi dưỡng lòng
yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH còn biểu hiện hình thức; việc
triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về CTTT còn chậm; ít có thực tiễn
minh họa, một chiều, vẫn còn biểu hiện áp đặt, ít trao đổi, đối thoại; sự phối
kết hợp giữa các lực lượng làm CTTT chưa chặt chẽ; cơ sở vật chất - kỹ thuật,
kinh phí, phương tiện, chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa kịp thời, linh
hoạt, phân tán, lãng phí, trùng lặp; tổ chức bộ máy, cơ chế, chính sách và cán
bộ tuyên truyền còn nhiều bất cập; còn hạn chế về tầm nhìn chiến lược, định
hướng và kế hoạch dài.
Những bài học kinh nghiệm đã tích lũy được trong CTTT của Đảng có
là kiên định sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng; nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT; thống nhất tính khoa học với
tính cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn trong CTTT; chú trọng tuyên truyền
về cơ sở và tăng cường xử lý thông tin phản hồi; phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan, đơn vị làm CTTT của Đảng, giữa các cấp, các ngành trong CTTT về
HNQT; kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và cơ sở vật chất cho CTTT của
Đảng; chủ động, “đi tắt, đón đầu” trong CTTT của Đảng về HNQT. HNQT ở
Việt Nam hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới đối với CTTT của Đảng về
nhận thức, về thể chế, về cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật, đòi hỏi nâng
CTTT của Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ.
3. Cần xác định những quan điểm (có thể nêu thành các nhóm quan
điểm) về đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT, bao gồm:
Nhóm quan điểm thứ nhất là nhận thức và xác định rõ tính bức thiết của đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Theo đó, một là,
cần đánh giá đúng kết quả và nhất là những hạn chế (đội ngũ đông mà chưa
mạnh, sự phối hợp lực giữa các lực lượng chưa chặt chẽ), tổ chức bộ máy
143
chậm đổi mới, đội ngũ cán bộ chưa thực sự mạnh về năng lực, trình độ; hai
là, cần nhận diện đúng những thời cơ và thách thức (vấn đề đặt ra) đối với
CTTT của Đảng, cần thấy rõ đổi mới CTTT của Đảng là nhiệm vụ quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải quyết về mặt lý luận những vấn đề
của đổi mới và phát triển trong thời kỳ HNQT; đổi mới CTTT của Đảng
không phải là phủ nhận thành tựu và cách làm trước đây, mà là tiếp tục khẳng
định những tư duy và hành động đúng, bổ sung nhận thức và xác định cách
làm mới đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới. Nhóm quan điểm thứ hai
là xác định và thực hiện đúng phương hướng và nhiệm vụ của đổi mới
CTTTcủa Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT. Theo đó, cần xác định và thực
hiện đúng vị trí, vai trò và chức năng của CTTT của Đảng - dẫn dắt, định
hướng CTTT của Nhà nước và hệ thống chính trị nói chung đáp ứng các yêu
cầu của HNQT. Xác định và thực hiện yêu cầu và nhiệm vụ của đổi mới
CTTT của Đảng là gắn kết CTTT của Đảng với thực tiễn HNQT, định hướng
cả nhận thức và hành động, kết hợp học tập quán triệt với việc xây dựng và
triển khainghị quyết, phát huy sức mạnh tổng hợp CTTT, bảo đảmtính khoa
học, tính chiến đấu và tính thuyết phục trong tuyên truyền, bảo đảm tổ chức
bộ máy cần có cơ cấu hợp lý, ổn định, tinh gọn và hiệu quả, đội ngũ cán bộ có
phẩm chất và năng lực. Thường xuyên tổng kết CTTT, đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự tham gia đội ngũ cán bộ tuyên truyền
trong hệ thống chính trị, tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên. Nhóm quan
điểm thứ ba là xác định và thực hiện đúng nguyên tắc và phương châm đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT. Theo đó cần xác định và
thực hiện đúng nguyên tắc đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của
HNQT (giữ vững mục tiêu, quan điểm và định hướng tuyên truyền của Đảng,
thực hiện tốt các nhiệm vụ của công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu
cầu của hội nhập quốc tế, chủ động về nội dung và định hướng tuyên truyền).
Xác định và thực hiện đúng phương châm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng
144
yêu cầu của HNQT (đa dạng hóa, phong phú hóa các hình thức tuyên truyền,
linh hoạt hóa, sáng tạo hóa phương pháp tuyên truyền).
Cần xác định đúng và thực hiện có kết quả các giải pháp (nhóm giải
pháp) về nhận thức, thể chế và nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Theo đó:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về nhận thức, bao gồm: Nâng cao nhận thức
của các cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên về đổi mới CTTT của
Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT; nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ
tuyên truyền về đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT; Nâng
cao nhận thức của người dân, của doanh nghiệp về CTTT của Đảng và đổi
mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT.
Thứ hai, nhóm giải pháp về thể chế, bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về HNQT, xác định đúng đắn và
kịp thời định hướng đổi mới về nội dung và phương thức tuyên truyền về
HNQT; xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy làm CTTT của Đảng đáp ứng
yêu cầu của HNQT (xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ
chức làm CTTT của Đảng về HNQT; kiện toàn tổ chức bộ máy làm CTTT của
Đảng theo hướng tin gọn - chất lượng - hiệu quả, giữ vai trò hạt nhân (dẫn dắt,
định hướng) trong hệ thống thống nhất - kết nối các cơ quan, tổ chức làm CTTT;
các cơ quan tuyên truyền của Đảng cần tập trung nghiên cứu, và dự báo tình
hình sát thực tiễn HNQT; thực hiện đúng lộ trình tuyên truyền về HNQT.
Thứ ba, nhóm giải pháp về về cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật bao
gồm: Tăng cường đội ngũ cán bộ làm CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế (đổi mới và nâng cao chất lượng tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng và sử dụng cán bộ làm CTTT của Đảng; tăng cường lãnh đạo, quản
lý cán bộ tuyên truyền của Đảng; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm
đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT./.
145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Mai Trang (2011), "Công tác tuyên truyền của Đảng - Vấn đề và giải
pháp", Bản tin Thông tin Chính trị học, (4).
2. Lê Mai Trang (2011), "Giải phóng mặt bằng đường vành đai ba, quận
Thanh Xuân: Tám năm dồn lại…mười ngày", Tạp chí Cộng sản, (53).
3. Lê Mai Trang (2011), "Quận Thanh Xuân đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (11).
4. Lê Mai Trang (2014), Công tác tuyên truyền của Đảng bộ Hà Nội trong
xu thế hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Tạp chí Cộng
sản và Tỉnh ủy Quảng Ninh chủ trì.
5. Lê Mai Trang (2015), "Một số vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam", Tạp chí Giáo dục lý luận, (223+224).
6. Lê Mai Trang (2015), "Đổi mới công tác tuyên truyền trong hội nhập
quốc tế ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (99).
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hồng Anh (2012), "Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của các
“sản phẩm thông tin đối ngoại”", Tạp chí Thông tin đối ngoại, (3).
2. Lê Hồng Anh (2014), "Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng
công tác tuyên giáo", Tạp chí Tuyên giáo, (2).
3. Trần Thị Anh (2009), Phải làm tốt giáo dục các tầng lớp nhân dân nhận
thức sâu sắc rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng
giao lưu quốc tế, phải luôn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
4. Xuân Anh (2012), "Tạo bước chuyển biến căn bản trong tổ chức hoạt
động đối ngoại", Tạp chí Thông tin đối ngoại, (3).
5. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội đại
biểu lần thứ XV, NXB Hà Nội, Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng
- văn hóa của Trung ương (2003), Chống âm mưu “diễn biến hòa
bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, Hà Nội.
7. Ban Chỉ đạo Trung ương (2010), Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 -
2020, Hà Nội.
8. Ban Chỉ đạo Trung ương (2014), Sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010-2020, Hà Nội.
9. Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (2008), Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác thông tin - tuyên truyền trong lĩnh vực đối ngoại nhân
dân trong tình hình mới, Hà Nội.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2002), Nguyên lý tuyên truyền, Hà Nội.
11. Ban Tuyên giáo Trung ương (2002), Giáo trình chuyên ngành công tác
tư tưởng (Thông tin cổ động), Hà Nội.
147
12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2004), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2010, Hà Nội.
13. Ban Tuyên giáo Trung ương (2004), Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta, Hà Nội.
14. Ban Tuyên giáo Trung ương (2004), Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quá trình chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới, Hà Nội.
15. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tiếp tục đổi mới, nâng cao tính chiến đấu, sự sắc bén, chất lượng và hiệu quả công tác tuyên giáo, Hà Nội.
16. Ban Tuyên giáo Trung ương (2009), Sổ tay báo cáo viên năm 2009, Hà Nội. 17. Ban Tuyên giáo Trung ương (2009), Tập trung trí tuệ, tâm huyết, phát
huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện có hiệu quả công tác tuyên giáo, Hà Nội.
18. Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), Sổ tay báo cáo viên năm 2010, Hà Nội. 19. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Sổ tay báo cáo viên năm 2011, Hà Nội. 20. Ban Tuyên giáo Trung ương (2015), Báo cáo tổng kết năm 2010-2015,
Hà Nội. 21. Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Công
tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới, Trung Quốc. 22. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), 70 năm công tác tư tưởng -
văn hóa của Đảng truyền thống vẻ vang, trách nhiệm to lớn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà báo Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong giai đoạn mới, Hà Nội.
148
25. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Báo cáo điều tra phục vụ cho công tác sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa XI) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
26. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hình thức, phương pháp tuyên truyền giáo dục, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, Hà Nội.
27. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (1955 - 1975), Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (1955 - 1975), Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (1955 - 1975), Tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Báo cáo điều tra phục vụ cho công tác sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa XI) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Hà Nội.
32. Hoàng Chí Bảo (2010), Tổng thuật các quan điểm nghiên cứu và các kiến nghị về đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Chương trình Khoa học - Công nghệ cấp nhà nước, Hà Nội.
33. Tập Cận Bình (2008), "Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 30 năm cải cách mở cửa", Thông tin Những vấn đề lý luận, (5), tr.10.
34. Nguyễn Đức Bình (2005), Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và
văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149
35. Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 về hội nhập quốc tế các nội dung về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và định
hướng hội nhập quốc tế, Hà Nội.
36. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Báo cáo tác động hội nhập đối với nền
kinh tế Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO, Hà Nội.
37. Bộ Ngoại giao (1999), Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), Báo chí với công tác tuyên truyền,
đấu tranh chống các luận điệu sai trái, NXB Thông tin và truyền
thông, Hà Nội.
39. Bộ Thông tin và Truyền thông (2015), Báo cáo đánh giá công tác báo
chí năm 2015, Hà Nội.
40. B.Mozias (2009), "Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung
Quốc", Tạp chí Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế, (11), tr.15.
41. B.N.Promarep (1961), Từ điển chính trị, NXB Sự thật, Hà Nội.
42. C.Mác - Ph.Ăngghen (1952), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, NXB Sự
thật, Hà Nội.
43. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 5, NXB Sự thật, Hà Nội.
44. C.Mác - Ph.Ăng ghen (1995), Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
45. Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), "Hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức
đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay",
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (4).
46. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới (2008), Báo cáo phát triển con người 2007 - 2008, Hà Nội.
47. Bùi Phương Dung (2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hóa tâm linh, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
150
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các nghị quyết Hội nghị Trung ương
Đảng 2001 -2004, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận
- thực tiễn qua 20 năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XI
của Đảng, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
59. Trần Thị Anh Đào (2008), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ
làm công tác tư tưởng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Quang Định (2005), “Diễn biến hòa bình” và cuộc đấu tranh
chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
151
62. Ngô Huy Đức (2010), "Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản", Bản tin Thông tin Chính trị học, (1).
63. Gustave Lebon, Surowecki (1995), Tâm lý học đám đông và trí tuệ đám đông, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Lương Khắc Hiếu (2008), Giáo trình nguyên lý công tác tư tưởng, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hà Thị Bình Hòa (2012), Tâm lý học tuyên truyền, NXB Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
66. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Tuyên truyền (2006), Nguyên lý tuyên truyền, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2008), Giáo trình nguyên lý công tác
tư tưởng, Hà Nội.
68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học (2006),
Tập bài giảng Chính trị học, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
69. Hà Học Hợi (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tư tưởng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2010), Đảng Cộng sản cầm quyền - nội
dung và phương thức cầm quyền của Đảng, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
71. Trần Khang, Lê Cự Lộc (Chủ biên) (2005), Giáo trình tổng kết một cách toàn diện, có hệ thống những kinh nghiệm cơ bản trong công tác
tuyên truyền tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó chỉ rõ vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tuyên truyền, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Phạm Gia Khiêm (2009), "Việt Nam sau hai năm gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới", tại trang http://www.mofa.gov.vn/, [truy cập
ngày 6/8/2015].
73. Võ Thành Khôi (2006), Tâm lý học lãnh đạo, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
152
74. Phạm Huy Kỳ (2009), "Các loại hình tuyên truyền và tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình tuyên truyền", Tạp
chí Lý luận chính trị và truyền thông, (6). 75. Nguyễn Lân (1989), Từ điển Hán - Việt, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh.
76. Nông Đức Mạnh (2008), "Làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng, thông tin
tuyên truyền, tạo sự nhất trí, đồng thuận cao trong toàn xã hội", Tạp chí Thông tin đối ngoại, (8).
77. Vũ Văn Mạnh (2004), Nghiên cứu tỉnh biến động của tầng ô-zôn khí quyển phục vụ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Địa lý, Trường Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2000), Về công tác tư tưởng văn hóa, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Ngọc Minh (2000), "Các lý thuyết phát triển và chính trị, thông tin
Chính trị học", Tạp chí Khoa học chính trị, (2).
91. M.I.Calinin (1983), Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
153
92. Phạm Quang Nghị (1996), Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ công tác
tư tưởng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phạm Quang Nghị (Chủ biên) (1977), Những vấn đề về công tác tư
tưởng, NXB Sự thật, Hà Nội.
94. Nguyễn Đức Ngữ (2009), Một số điều cần biết về biến đổi khí hậu, NXB
Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
95. Nhiều tác giả (1984), Những nguyên lý tuyên truyền cộng sản chủ nghĩa,
NXB Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
96. Ph.Ăngghen (1984), Tuyển tập, Tập 6, NXB Sự thật, Hà Nội.
97. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (2003), Nguyên lý tuyên truyền, Hà Nội.
98. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
99. Phùng Hữu Phú (2004), Thủ đô Hà Nội trong công cuộc xây dựng và
phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội.
100. Đào Duy Quát (Chủ biên) (2000), Công tác tư tưởng - văn hóa ở cấp
huyện, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Đào Duy Quát (2010), Công tác tư tưởng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Lê Minh Quân (Chủ biên) (2014), Về một số xu hướng chính trị chủ yếu
trên thế giới hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật Báo
chí, Hà Nội.
104. Phan Xuân Sơn (Chủ biên) (2005), Tập bài giảng chính trị học, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Văn Tân (Chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB khoa học xã hội,
Hà Nội.
106. Tạ Ngọc Tấn (2011), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
107. Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1987), Từ điển triết học giản yếu, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
154
108. Phạm Tất Thắng (2010), Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi (2008), Xây dựng cơ chế phản hồi nhanh
dư lậu, tạo ra kênh thông tin thông suốt cho quyết sách của Đảng và
Chính phủ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Tỉnh ủy Quảng Ninh (2004), Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa -
Hội nhập quốc tế - nhìn từ thực tế, Hà Nội.
111. Lưu Minh Trị (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề về công tác tư tưởng và
nghiên cứu dư luận xã hội ở Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Phú Trọng (2006), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương
(2013), Báo cáo công tác tuyên truyền miệng năm 2012, phương
hướng nhiệm vụ năm 2013, Hà Nội.
114. Phạm Quốc Trụ (2011), "Hội nhập quốc tế - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn", Nghiên cứu biển đông, (17).
115. Vũ Anh Tuấn (2006), "Giáo dục và hình thành niềm tin từ hướng tiến
cận tâm lý học", Tạp chí Tâm lý học, (1).
116. Trương Minh Tuấn (2010), Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
117. Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
118. V.A.Cruchetxki (1981), Những cơ sở tâm lý học, Tập 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
119. V.I.Lênin (1957), Làm gì?, NXB Sự thật, Hà Nội.
120. V.I.Lênin (1975) Toàn tập, Tập 5, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
155
121. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 19, NXB Tiến Bộ, Mátcơva.
122. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 20, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
123. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 39, NXB Sự thật, Hà Nội.
124. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
125. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 43, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
126. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả của công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng là sự tương quan giữa kết quả đạt được so với mục đích đề ra
và sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều
kiện cụ thể, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội.
127. Nguyễn Văn Vĩnh (2007), Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
128. Vụ Tuyên truyền và hợp tác quốc tế (2005), Đối ngoại Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Nguyễn Như Ý (1989), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội.