i hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm...

80
0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề tài khoa học cấp cơ sở Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2012 Mã số: CS.2015.08 Phạm Thị Diệu Linh Hà Nội, 2015

Upload: others

Post on 03-Oct-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

0

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đề tài khoa học cấp cơ sở

Quan điểm quản lý nhà nước

về công tác lưu trữ ở Việt Nam

giai đoạn 1986 – 2012

Mã số: CS.2015.08

Phạm Thị Diệu Linh

Hà Nội, 2015

Page 2: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quản lý nhà nước về lưu trữ đã trở thành học phần bắt buộc trong chương trình

đào tạo Lưu trữ học ở cả hai bậc đại học và sau đại học. Không ít các nghiên cứu lưu

trữ học, từ cấp độ khóa luận tốt nghiệp đến luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu các cấp

đều đề cập tới quản lý nhà nước ở nhiều góc độ khác nhau. Cho đến thời điểm này,

phần lớn các nghiên cứu đều hướng tới đề xuất giải pháp từ góc độ quản lý nhà nước

để góp phần cải tiến hiện trạng công tác lưu trữ ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhận thức đầy

đủ về quản lý nhà nước về công tác lưu trữ trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn

còn bộc lộ những bất cập. Những định nghĩa và quy định về hoạt động này trong các

văn bản có tính pháp lý của Nhà nước không đủ khái quát để định hướng tổng thể,

trong khi các nghiên cứu lý thuyết vẫn còn tranh luận về nội hàm khái niệm quản lý

nhà nước về công tác lưu trữ.

Năm 1962,Thomas Kuhn xuất bản tác phẩm "Cấu trúc của những cuộc cách

mạng khoa học" (Structure of Science Revolutions) đã tạo ra một cách tiếp cận mới

trong nghiên cứu. Thuật ngữ quan điểm (paradigm)1 trở thành một khái niệm chủ đạo,

định hướng cách tiếp cận trong nghiên cứu nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Sự ứng dụng tiếp cận paradigm trong các nghiên cứu về quản lý nhà nước khá phổ

biến với việc xác định những tư tưởng cơ bản trong từng giai đoạn phát triển của lý

thuyết và thực tiễn quản lý nhà nước (Hughes 2003). Bước sang thế kỷ XXI, paradigm

cũng trở thành thuật ngữ cơ bản trong lý thuyết lưu trữ học với sự phân chia bốn giai

đoạn quan điểm lý thuyết của Terry Cook (Terry Cook 2013). Cho nên, nghiên cứu

quan điểm (paradigm) không chỉ góp phần tháo gỡ những tranh luận liên quan tới

quan niệm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ, mà còn là hướng tiếp cận phù hợp

với xu thế chung của thế giới.

Từ 1986 đến 2012, hoạt động quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt Nam

đã đạt được nhiều thành tựu (Nguyễn Văn Thâm 2010). Số lượng văn bản có tính pháp

lý cao được ban hành đầy đủ hơn mà đỉnh cao là sự ra đời của Luật Lưu trữ. Nội dung

của những quy định pháp lý đã đề cập tương đối đầy đủ các nội dung của công tác lưu

trữ. Thành tựu của cơ quan lưu trữ và những tài liệu lưu trữ có giá trị được công chúng

biết tới nhiều hơn. Sự tham gia của ngành lưu trữ vào các hoạt động văn hóa, lịch sử,

chính trị của xã hội ngày càng rõ nét với hàng loạt các triển lãm tài liệu lưu trữ, các

sản phẩm công bố tài liệu đa dạng. Tuy vậy, những thành tựu đó chưa thể hiện hết

1 Với nguyên gốc tiếng Latin là paradigma, có tài liệu tiếng Việt dịch là hệ quan điểm, tài liệu khác gọi là khung mẫu nhưng tất cả dịch giả đều thừa nhận rằng những khái niệm chuyển ngữ đều không phản ảnh chính xác { nghĩa của khái niêm này.

Page 3: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

2

tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất

cập trong quản lý mà vì nó, các nghiên cứu lưu trữ học đều phải kiến nghị thay đổi.

Thực tiễn lưu trữ ở Việt Nam thời gian qua có nhiều thay đổi khiến cho một số

quan niệm cơ bản cần phải định nghĩa lại, bao gồm cả quan niệm về tài liệu lưu trữ

(PGS. Vương Đình Quyền 2007). Sự xuất hiện của ngày càng nhiều các loại hình tổ

chức mới trong kết cấu xã hội hiện đại song song với nhu cầu lưu giữ và dùng tin của

người dân tạo ra không ít những thách thức cho cơ quan lưu trữ. Trong khi các cơ

quan lưu trữ chưa tìm được giải pháp tiếp cận công chúng một cách hiệu quả thì sự hỗ

trợ của internet đã tạo điều kiện để người dân, các cơ quan, tổ chức chủ động trao đổi

tài liệu, thông tin một cách nhanh chóng càng làm vai trò của các lưu trữ có nguy cơ

trở nên mờ nhạt. Cùng lúc đó, Trung tâm di sản các nhà khoa học Việt Nam ra đời với

chức năng như một cơ quan lưu trữ tư nhân và hàng loạt các công ty cung cấp dịch vụ

lưu trữ khác đang hoạt động vừa đem lại hiệu quả, vừa tạo ra những hệ lụy tiêu cực

cho thấy một bước tiến của hoạt động lưu trữ trong xã hội khiến cho các cơ quan quản

lý cần có thêm biện pháp để thích nghi và quản lý hiệu quả hơn. Song các giải pháp

đều phải bắt nguồn từ những quan điểm và mục tiêu chung có tính định hướng.

Là một lĩnh vực trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước

công tác lưu trữ cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo chung của

toàn bộ hệ thống quản lý, từ đảng cầm quyền đến các cơ quan nhà nước. Công cuộc

cải cách hành chính bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước và trào lưu dân chủ hóa

gắn liền với quyền con người trong thời gian gần đây ở Việt Nam đã bắt đầu ảnh

hưởng tới quan điểm quản lý công tác lưu trữ, tiêu biểu ở việc thừa nhận quyền sở hữu

về tài liệu lưu trữ nhưng chưa tạo ra những dấu ấn đáng kể có tính bước ngoặt.

Thực tế kể trên, cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn đòi hỏi phải xem xét

lại quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ trong thời gian qua một cách tổng quát

nhằm xác định rõ tư tưởng chủ đạo của hoạt động này cũng như những thay đổi của nó

qua thời gian với bối cảnh lịch sử cụ thể. Những phát hiện trong quá trình phân tích sẽ

có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính phù hợp của quan điểm quản lý nhà

nước với bối cảnh hiện nay, làm cơ sở cho việc hình thành quan điểm đổi mới thực sự

trong quản lý nhà nước về công tác lưu trữ trong thời gian tới. Đề tài "Quan điểm

quản lý nhà nước về lưu trữ ở Việt Nam giai đoạn 1986-2012" được thực hiện với

mục đích như vậy.

2. Tổng quan tài liệu

Hành chính công và quản lý công là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống từ

những thế kỷ XIX ở Tây Âu và Mỹ. Trong khi đó, quản lý nhà nước là lĩnh vực nghiên

cứu phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô. Các nghiên cứu

Page 4: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

3

hành chính học ở Việt Nam đã kế thừa từ nghiên cứu của Liên Xô và chuyển dịch sang

quan điểm của phương Tây theo hướng thích nghi với bối cảnh ở chính trị ở Việt

Nam. Nghiên cứu này sẽ khái quát một số kết quả từ những nghiên cứu đó.

Liên quan tới quản lý nhà nước về lưu trữ, ở Canada và Australia có hai bài viết

quan trọng, tổng hợp lịch sử lưu trữ và quan điểm quản lý tại nước đó về lưu trữ có ý

nghĩa tham khảo. Ở Việt Nam, các nghiên cứu của một số học giả, đồng thời là nhà

quản lý như nghiên cứu của Ông Dương Văn Khảm, Ông Vương Đình Quyền,... sẽ

được giới thiệu như là những công trình có ảnh hưởng lớn tới hoạt động quản lý về lưu

trữ ở Việt Nam.

3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là: Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ ở Việt

Nam giai đoạn 1986 – 2012 như thế nào?

Giả thuyết nghiên cứu: Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012

là tập trung, thống nhất vào nhà nước, nhưng ngày càng thừa nhận vai trò và sự tham

gia của nhân dân.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của đề tài là chứng minh được giả thuyết trên và so sánh với nhu cầu

thực tiễn hiện nay để đánh giá và kiến nghị phù hợp.

5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ trong thực tế của

Việt Nam dựa trên tiếp cận theo cấu trúc phân tầng về paradigm của GS. Vũ Cao Đàm

Khách thể nghiên cứu chính là những văn bản quản lý nhà nước, chủ yếu là văn bản

quy phạm pháp luật đã được ban hành và thực hiện trong giai đoạn 1986 - 2012. Tuy

nhiên, từ 1982 tới trước khi ban hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001, công tác

lưu trữ Việt Nam vẫn thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ

năm 1982 nên Pháp lệnh này và những văn bản hướng dẫn thi hành vẫn thuộc khách

thể nghiên cứu.

6. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về thời gian: từ 1986 – 2012 với hai thời kỳ là: 1986-2000 và 2001 - 2012

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phân tích nội dung ngôn ngữ kết hợp với thống kê định lượng

Page 5: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

4

8. Những đóng góp mới

Nếu thực hiện thành công, nghiên cứu dự kiến sẽ đóng góp vào những nội dung sau:

- Về lý thuyết: Tổng kết các nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt

Nam có so sánh với sự hình thành và thay đổi lý thuyết quản lý nhà nước nói chung;

- Về thực tiễn: Tổng hợp, so sánh quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ

trong 30 năm đổi mới theo hai giai đoạn trong phạm vi phân tích văn bản pháp lý về

lưu trữ;

- Về phương pháp: Cung cấp một cách tiếp cận phổ biến trên thế giới nhưng chưa phổ

biến trong lưu trữ học ở Việt Nam về nghiên cứu quan điểm; chứng minh hiệu quả kết

hợp phân tích định tính nội dung văn bản với thống kê định lượng các yếu tố ngôn ngữ

trong nghiên cứu lưu trữ học.

9. Bố cục của báo cáo

Ngoài phần mở đầu, báo cáo tổng thuật đề tài gồm bốn chương chính và phân kết luận:

- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu

Tổng quan nghiên cứu phản ảnh quá trình và kết quả nghiên cứu chính về quản lý nhà

nước và quản lý nhà nước và công tác lưu trữ, từ đó chọn lọc những khái niệm và định

nghĩa cơ bản sẽ sử dụng là cơ sở lý thuyết của đề tài.

- Chương 2: Thiết kế nghiên cứu

Chương 2 sẽ cung cấp toàn bộ quy trình và phương pháp thực hiện nghiên cứu, từ việc

xác định câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu tới cách thức cơ bản để thu thập, xử lý thông

tin phục vụ nghiên cứu;

- Chương 3: Quan điểm tập trung, thống nhất vào nhà nước trong quản lý nhà nước

về công tác lưu trữ

Chương này sẽ trình bày các bằng chứng từ phân tích và thống kê nội dung văn bản và

ngôn ngữ để xác định quan điểm quản lý tập trung, thống nhất

- Chương 4: Quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác lưu trữ

Nội dung chính của chương 4 sẽ trình bày các bằng chứng khẳng định sự thay đổi

quan điểm của nhà nước về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác lưu trữ

- Kết luận của nghiên cứu công nhận sự thành công hay thất bại của quá trình chứng

minh giả thuyết, những hạn chế chính của nghiên cứu, những bình luận của tác giả về

kết quả nghiên cứu.

Page 6: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

5

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Hành chính công, quản lý công và quản trị công

Đề cập tới hoạt động quản lý của nhà nước, các lý thuyết phương Tây, chủ yếu

ở Tây Âu và Mỹ sử dụng thuật ngữ hành chính công (public administration). Hành

chính công vừa là hoạt động thực tiễn của các nhà nước, vừa là thuật ngữ khoa học chỉ

một lĩnh vực nghiên cứu. Theo đó, hành chính công là một lĩnh vực “nghiên cứu hàn

lâm về khu vực công”. “Lý thuyết cơ bản của hầu hết thế kỷ XX thường được gọi là mô

hình hành chính công truyền thống với sự tương phản với hành chính công mới hay

chủ nghĩa quản lý hoặc cải cách hành chính công” (Hughes 2003, 8). Hành chính

công tiếp thu lý thuyết và quy trình của khoa học quản lý, chính trị học, khoa học pháp

lý để bổ sung nội dung về phương diện pháp lý, điều hành và xét xử của nhà nước.

Nền tảng lý thuyết quản lý của hành chính công là các trường phái quản lý từ cổ điển

đến hiện đại, bao gồm: “lý thuyết quản lý theo khoa học, lý thuyết quản lý hành chính,

lý thuyết quan hệ con người, lý thuyết nguồn nhân lực, lý thuyết hệ thống, lý thuyết

quản lý chất lượng, lý thuyết văn hóa và lãnh đạo tổ chức” (Tomkins 2005, 6). Từ góc

độ thực tiễn cũng như lý thuyết, chính sách công là kết quả của hành chính công.

Trong hành chính công, các nguyên tắc chính trị chi phối mạnh mẽ quá trình hoạch

định chính sách. Cho nên, chính sách công không đơn thuần là sản phẩm quản lý –

điều hành xã hội của nhà nước, mà trước hết là công cụ của nhà nước để bảo vệ quyền

lực lãnh đạo. Do vậy, ở thời kỳ này, việc ban hành chính sách công tập trung vào vấn

đề xây dựng pháp luật, thiết kế hệ thống, tổ chức và kiểm soát. Các kết quả và hệ quả

của chính sách dựa trên các phân tích định tính.

Những thay đổi và khủng hoảng kinh tế - chính trị tại châu Âu ở nửa sau thế kỷ

XX đã thách thức hoạt động của các nhà nước, theo đó nền hành chính công với nền

tảng lý thuyết dựa trên các học thuyết quản lý cổ điển của Taylor và Weber trở nên lạc

hậu, trở thành lực cản đối với sự tiến triển của các quốc gia. Đồng thời, hành chính

công với những yếu tố phụ thuộc chặt chẽ vào chính trị dần trở nên mâu thuẫn, bởi lẽ

các nguyên tắc chính trị tập trung vào việc bảo vệ sự lãnh đạo chính trị, trong khi hoạt

động của nhà nước đòi hỏi những biện pháp có tính kỹ thuật để thúc đẩy và hỗ trợ xã

hội phát triển. Điều đó khiến cho nhiều phương diện trong hoạt động quản lý của nhà

nước, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, dần tách khỏi các nguyên tắc chính trị và ngày

càng chú trọng về kỹ thuật quản lý đất nước, dẫn đến quá trình cải cách hành chính,

hay hành chính công mới (new public administration), hoặc quản lý công (public

management). Do vậy, “chúng ta sử dụng [thuật ngữ] quản lý công để tiếp cận theo

hướng sử dụng các kỹ thuật quản lý (thường bắt đầu từ khu vực tư) để làm tăng giá trị

tài chính đạt được từ các dịch vụ công” (Tony Bovaird 2003, 5). Tổ chức hợp tác phát

Page 7: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

6

triển kinh tế (OECD) xác định những yếu tố chính trong quản lý công, hay hành chính

công mới gồm:

Nhấn mạnh vào năng lực quản lý;

Quản lý tài chính linh động và phát triển hơn;

Trách nhiệm hơn với người dùng và khách hàng khác trong dịch vụ công;

Phi tập trung hóa mạnh hơn về thẩm quyền và trách nhiệm từ trung ương cho

các cấp thấp hơn trong chính quyền;

Trông cậy lớn hơn vào hệ thống theo hướng thị trường như thị trường nội địa,

khuyến cáo người dùng, hệ thống thanh toán và hợp đồng;

Tư nhân hóa các doanh nghiệp công theo hướng thị trường

(Tony Bovaird 2003, 17)

Cách tiếp cận này làm thay đổi nội dung của chính sách công. Theo đó, “Chính

sách công có thể xác định như sản phẩm đầu ra của quá trình khuếch tán do các cá

nhân thực hiện. Những cá nhân này hợp thành những nhóm nhỏ tác động lẫn nhau

trong một cơ cấu bị chi phối bởi các tổ chức chính thức. Những tổ chức này thực hiện

chức năng trong hệ thống thể chế chính trị, luật lệ và thực tiễn, tất cả đều hướng đến

những tác động có tính xã hội và văn hóa” (Hughes 2003, 115). Một cách đơn giản

hơn, "chính sách công là những gì mà chính quyền thi hành đến dân" (TS. Lê Văn

Danh 2001, 123). “Hoạch định chính sách công [không phải từ ngẫu nhiên], mà

chúng là [quá trình bắt buộc] của mọi tổ chức, các viện, các nhóm quan tâm và thậm

chí là các thế lực văn hóa và xã hội” (Hughes 2003, 115).

Mặc dù coi trọng kỹ thuật quản lý nhưng yếu tố chính trị vẫn là vấn đề chi phối

cốt lõi tới hoạch định chính sách trong quản lý công. Sự tác động của yếu tố chính trị

trong quản lý công khác với hành chính công ở chỗ: thay vì cạnh tranh lợi ích và kiểm

soát lẫn nhau như trong hành chính công, vấn đề chính trị trong quản lý công hướng

tới khả năng thỏa thuận và hợp tác giữa các nhóm lợi ích để đạt mục tiêu chung với sự

tham gia ngày càng tăng của các nhóm công dân và nhóm chủ sở hữu ở khu vực tư

(Tony Bovaird 2003, 20). "Các nhóm lợi ích này nằm ngay trong chính quyền,... và có

quan hệ mật thiết với các Nhóm lợi ích ngoài chính quyền xuất phát từ sự chia sẻ

quyền lợi... Người ta gọi đây là các Nhóm lợi ích để minh họa cho thực tế - đây là các

nhóm hưởng lợi ích từ một chính sách công nhất định" (TS. Lê Văn Danh 2001, 131).

Và ở thời kỳ này, chính sách không chỉ chú trọng giải quyết những vấn đề chung của

quốc gia mà còn được xây dựng trên cơ sở đặc thù chính trị - xã hội – văn hóa của

từng vùng, sự ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa và các trào lưu mang tính quốc

tế. Thay vì hoạch định chính sách công một cách thụ động nhằm giải quyết các vấn đề

thực tiễn, các nhà nước đã tiến tới chủ động thiết kế các chính sách với mục tiêu chiến

Page 8: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

7

lược. Khi đó, từ các biện pháp can thiệp cụ thể, hoạch định chính sách công trở thành

"hoạt động cung cấp nguyên tắc, luật lệ, hệ thống giá trị về tổ chức, điều khiển, quản

lý và kiểm tra sự vận động của từng bộ phận trong xã hội, chịu trách nhiệm rất lớn đối

với hiệu quả khai thác nguồn lực" (TS. Lê Văn Danh 2001, 805). Kéo theo đó, nhà

nước thay đổi vai trò từ kiểm soát và can thiệp sang thúc đẩy, hỗ trợ và điều hành tổng

quát. Tony Bovaird và Elke Louffler giới thiệu quan điểm về vai trò nhà nước hiện

đại đã hình thành từ năm 1959 trong lý thuyết của Muggrave là:

- Điều phối (allocative): bù đắp những sai sót của thị trường thông qua sự điều

tiết, chính sách thuế, hạn chế hoặc cung cấp các sản phẩm công cộng;

- Phân phối (distributional): Đạt được chỉ cho và công bằng cho xã hội thông

qua điều tiết, điều chỉnh các quyền, tạo điều kiện tiếp cận thị trường qua việc đối mặt

với sự phân biệt đối xử, tiến tới thuế quan và hạn chế [tiêu cực];

- Ổn định hóa (stabillization): Kiểm soát sự phát triển kinh tế, thất nghiệp và

lạm phát thông qua quản lý yêu cầu và tài chính.

Cùng với sự thay đổi vai trò của nhà nước, những ranh giới để phân biệt hoạt

động của nhà nước với hoạt động của các tổ chức khác trong xã hội dần bị mờ nhạt.

Quá trình tư nhân hóa các dịch vụ công và nâng cao vai trò điều phối chiến lược của

nhà nước đã dẫn đến sự tham gia ngày càng nhiều của khu vực tư vào chức năng công.

"Những năm 1980 và 1990 chứng kiến những khởi đầu thay đổi sự cân bằng giữa khu

vực công và tư – sự tư nhân hóa; ký kết hợp đồng; giảm nợ công; những quy tắc cân

bằng ngân sách; tái tạo ngân sách; thay đổi quan hệ công – tư;..." (Tony Bovaird

2003, 29).

Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình của sự chuyển đổi từ hành chính công sang

quản lý công. Trong giai đoạn 1935 – 2001, quá trình hoạch định chính sách công đã

chuyển từ các chính quyền địa phương về sự tập trung và can thiệp trực tiếp của trung

ương. Trước những năm 70 của thế kỷ XX, hầu hết các chính sách đều mang tính thụ

động để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Các bộ và ủy ban trung ương đảm nhiệm trực

tiếp việc thực thi chính sách khiến cho quyền lực tập trung về trung ương một cách

đáng kể. Nhưng từ những năm 1969 – 1976, các tổng thống Hoa Kỳ đã chủ trương và

thực hiện phân tán quyền lực trung ương bằng cách đề các nguyên tắc và tiêu chuẩn

thực hiện rồi giao nó cùng ngân sách về địa phương triển khai (TS. Lê Văn Danh

2001, 821). Theo đó, tính cụ thể và định lượng của chính sách được củng cố hơn nữa

trong giai đoạn sau 1970. Con người tại Hoa Kỳ bị bao phủ bởi "hằng hà sa số" các

quy định của pháp luật và gần như mọi hành vi đều bị điều chỉnh bởi luật. Việc hoạch

định chính sách luôn được tính toán chi tiết về chi phí và lợi ích. Đặc điểm của hệ

thống chính trị tại Mỹ cho phép các thế lực và nhóm lợi ích kiểm soát và phản biện lẫn

Page 9: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

8

nhau, đồng thời các nhóm chuyên gia như nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia phân

tích,... đều được sử dụng làm cố vấn để giúp nhà hoạch định chính sách tính toán các

chi tiết đó. Sự tham gia của các nhóm lợi ích và nhu cầu thực tiễn làm xuất hiện ngày

càng nhiều các loại hợp đồng giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa nhà nước

với khu vực tư để cùng thực hiện chính sách công. Thể hiện sự chi phối của nền chính

trị đặc thù tại Hoa Kỳ với nền dân trị Mỹ và quản lý theo số đông, những vấn đề được

Tiến sĩ Lê Văn Danh trình bày trong sản phẩm từ nghiên cứu sau tiến sĩ tại Mỹ cho

thấy nhà nước Hoa Kỳ đã không ngừng thích ứng với thực tiễn để thay đổi phương

cách quản lý và quan điểm hoạch định chính sách. Xu hướng tập quyền thay cho phân

quyền sau 1935 tạo ra nhiều thành tựu nhưng lại mẫu thuẫn với truyền thống chính trị

của người Mỹ và gây ra nhiều xung đột. Do đó, thành công và thất bại trong trường

hợp của Hoa Kỳ là bài học cụ thể về sự kết hợp giữa phương thức quản lý tập trung và

phân tán trên cơ sở cân nhắc cả lợi ích quốc gia và lợi ích nhóm. Sự chuyển đổi hành

chính công sang quản lý công tại Hoa Kỳ có tính đặc thù với vai trò trung tâm điều tiết

của nhà nước và truyền thống thỏa thuận giữa các nhóm đã có từ lâu đời.

Mặc dù Hoa Kỳ được coi là cái nôi nảy sinh nhiều tư tưởng quản lý tiến bộ

nhưng châu Âu lại là hiện thân trong các thành tựu về khả năng điều tiết và đảm bảo

an sinh xã hội của nhà nước. Sự phát triển của đất nước dựa trên sự phát triển dân trí

thông qua chính sách giáo dục tích cực đã giúp nhiều quốc gia giành được các thành

tựu đặc biệt, trong đó có Đức và Thụy Sĩ. Những thành tựu của công nghệ thông tin và

ứng dụng của nó vào quản lý nhà nước đã thúc đẩy kỹ thuật quản lý của nhà nước

được cải tiến mạnh mẽ trong quản lý công. Và quan điểm về quản trị công

(governance) hình thành như là một xu hướng mới nổi trong khu vực công tại châu Âu

và Hoa Kỳ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Quản trị công xuất hiện không chỉ dựa

trên nền tảng của công nghệ thông tin mà còn xuất phát từ nhu cầu thiết thân của nhà

nước trong việc xác lập mối quan hệ công tác (partnership) và mạng lưới đồng quản lý

(co-manage networks) với nhiều loại chủ sở hữu, trong đó chú ý tới sự hình thành các

chính thể quản trị liên quốc gia. Theo đó, quản trị (governance) với tư cách là một

thuật ngữ trong khoa học và thực tiễn đã phát triển và thay đổi ý nghĩa từ nguyên gốc

tiếng Pháp ở thế kỷ XIV thành một khái niệm với nội hàm chú trọng hơn vào bản chất

của nhà nước trong việc đảm bảo dân chủ. Phổ biến trong các nước phát triển, nhiều

chuyên gia của các quốc gia khác nhau đã đưa ra định nghĩa về quản trị, trong đó định

nghĩa của Viện Quốc tế quản trị của Vương Quốc Anh được Tony Bovaird và Elke

Louffler giới thiệu có liên quan trực tiếp tới chính sách. Đó là, "quản trị là cách thức

mà các chủ sở hữu ảnh hưởng lẫn nhau để tác động tới kết quả của chính sách" (Tony

Bovaird 2003, 165). Quản trị được thực hiện với niềm tin về một "chính phủ tốt"

(good government). Trong đó, sách trắng của Chính phủ liên minh Châu Âu đề ra năm

tiêu chí xác định chính phủ tốt gồm: minh bạch (openness), đóng góp (participation),

Page 10: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

9

trách nhiệm (accountability), hiệu quả (effectiveness), đoàn kết (cohenrence) (Tony

Bovaird 2003, 165). Việc chuyển dạng từ quản lý công sang quản trị công khiến cho

các nhà nước thay đổi vai trò từ hoạch định sang điều phối chính sách công. Họ không

còn là nhân vật trung tâm, mà chỉ là một trong những nhân tố của quá trình xây dựng

chính sách. Thách thức then chốt của những chính phủ này là tạo dựng mạng lưới

công việc (networks) và tìm kiếm những hình thức mới của sự hợp tác. Điều đó cũng

đòi hỏi các chủ sở hữu phải đủ năng lực quyết định trong cộng đồng của họ hoặc trong

mạng lưới chính sách. Nói cách khác, trong giai đoạn quản trị công, xã hội không chỉ

phát triển các tổ chức, mà còn hình thành nên những cộng đồng công dân với nhiều

mong đợi và lợi ích khác nhau như cộng đồng doanh nhân, cộng đồng nhà khoa học,

cộng đồng tiểu thương, cộng đồng truyền thông, cộng đồng nhóm yếu thế, ... Và, mối

quan tâm chính của chính sách công không chỉ coi dân chúng như khách hàng mà còn

phải cân bằng lợi ích giữa các cộng đồng với nhiều kế hoạch chiến lược hơn là những

kế hoạch giải quyết mục tiêu trước mắt.

Như thế, hành chính công, quản lý công và quản trị công là ba giai đoạn phát

triển khác nhau trong tư tưởng quản lý nhà nước của các học giả và trong hoạt động

thực tiễn của các nhà nước. Mỗi thuật ngữ này đều có ý nghĩa riêng và được xác định

bởi những quan điểm lý thuyết được xây dựng có hệ thống. Bản chất của chính sách

công và vai trò quản lý của nhà nước trong ba giai đoạn này có sự thay đổi và đòi hỏi

năng lực nhất định của nhà nước và công dân.

1.2. Quản lý nhà nƣớc và pháp luật xã hội chủ nghĩa

Không dùng thuật ngữ hành chính công như các học giả Tâu Âu và Mỹ, các học

giả Liên Xô gọi hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước là quản lý nhà nước. Chịu ảnh

hưởng nặng nề của tư tưởng quản lý nhà nước của Liên Xô, đến trước những năm

1990, các tài liệu học tập và nghiên cứu về quản lý nhà nước của Việt Nam vẫn được

xây dựng trên cơ sở tổng hợp hoặc lược dịch từ tiếng Nga. Theo đó, "Quản lý xã hội là

khái niệm rộng nhất. Quản lý nhà nước là một bộ phận của quản lý xã hội, nó bao

quát toàn bộ hoạt động của nhà nước, gồm hai phần: công tác tổ chức trong bộ máy

nhà nước, và sự tác động về mặt tổ chức đến người công dân, đến các tổ chức xã hội ở

trong nước, sự thực hiện các mối quan hệ với các nhà nước khác" (Nguyễn Diệu Cơ

1987, 13). Hoạt động cơ bản của quản lý nhà nước theo quan điểm này là hoạch định

các thiết chế tổ chức trong toàn xã hội, trong đó xây dựng bộ máy nhà nước trong mối

quan hệ với hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là quan trọng nhất. Bản thân hệ thống

chính trị cũng được xây dựng bao gồm các thiết chế tổ chức như Đảng cộng sản, nhà

nước, các tổ chức chính trị - xã hội khác. Công dân trong phương cách quản lý này

không hoạt động một cách độc lập mà phải được tổ chức trong các đoàn thể quần

chúng. Vì thế, quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là sự quản lý thông qua

Page 11: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

10

tạo dựng các hệ thống tổ chức. Về phương diện lý thuyết, phương cách quản lý này

được các học giả Tây Âu so sánh và gọi tên là quản lý cổ điển, hay quản lý hành

chính, hoặc hành chính công tương ứng với nền tảng lý thuyết của Taylor và Weber.

Đặc điểm đáng lưu ý của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự can thiệp trực

tiếp của nhà nước vào mọi vấn đề của xã hội, đặc biệt là nền kinh tế, trong đó phủ

nhận vai trò lãnh đạo nền kinh tế của các bộ phận kinh tế. Sự can thiệp này "phản ánh

sự quện vào nhau khăng khít giữa những nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội, và chúng

ngày càng gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ phát triển cơ cấu xã hội của xã hội"

(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 13). Đặc điểm này trở thành đặc trưng của quản lý xã hội chủ

nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động của xã hội, dẫn đến sự

hình thành các nguyên tắc chi phối trong quản lý các ngành, lĩnh vực, bao gồm cả

nguyên tắc quản lý "tập trung, thống nhất" về lưu trữ.

Xét tới bản chất của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tác giả theo quan

điểm của Liên Xô cho rằng quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc tính thống nhất.

Sự thống nhất này được thể hiện trước hết ở chỗ tất cả quần chúng, người lao động

được tổ chức thống nhất và được nhà nước đại diện; thứ hai là sự quản lý thống nhất

tư liệu sản xuất của nhân dân do nhà nước thay mặt để quản lý; thứ ba là nhà nước

nắm những khả năng tổ chức – điều khiển, các phương tiện vật chất và pháp luật, nắm

cơ chế tác động mà không một tổ chức xã hội nào khác có được; thứ tư là thu hút tất

cả những người lao động vào đời sống xã hội tích cực, vào quản lý công việc nhà nước

(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 20). Do vậy, xét về phương diện nội dung và cơ cấu, quản lý

nhà nước xã hội chủ nghĩa "phải mang tính tổng hợp, phải nhằm bao quát và biểu hiện

dưới hình thức tập trung tính phức tạp, tính đa diện và hình vẻ khác nhau của hiện

tượng xã hội này" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 21). Nói cách khác, quản lý xã hội chủ

nghĩa tập trung vào bản chất chính trị của nhà nước và vai trò của nhà nước trong việc

vận hành đất nước theo định hướng chính trị. Theo đó, "chức năng của quản lý nhà

nước có đặc điểm là mang tính cách quyền lực – pháp lý, tính cách tổ chức – kế

hoạch, tính cách điều chỉnh, tính cách cải tạo thực tiễn đối tượng" (Nguyễn Diệu Cơ

1987, 27). Với những đặc trưng đó, "chức năng quản lý nhà nước có thể xác định là

một nội dung được biểu thị bằng pháp luật của tác động quyền lực, tổ chức – kế hoạch

và điều chỉnh của những cơ quan nhà nước cụ thể, những tác động này thực hiện

thường xuyên và trong điều kiện liên hệ qua lại không ngừng với các cơ quan và

khách thể quản lý khác" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 28). Không nhắc tới chính sách,

những nhà nghiên cứu theo quan điểm của Liên Xô cũ cho rằng xây dựng hệ thống tổ

chức và luật pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của quản lý nhà nước xã hội chủ

nghĩa. Bởi lẽ, "pháp luật có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm quá trình quản lý.

Vấn đề không chỉ đơn thuần ở chỗ các giai đoạn của quá trình quản lý – như thông

qua quyết định, thi hành quyết định,... được thực hiện dưới những hình thức pháp luật

Page 12: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

11

nào đấy, mà là ở chỗ những hình thức đó đưa vào quá trình một trật tự ổn định, sự

rành rọt và nâng cao tính nội dung trong hành động của những người làm việc trong

bộ máy quản lý, tạo điều kiện để áp dụng những kiến nghị có căn cứ khoa học"

(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 93). Tính chính trị trong quan điểm xây dựng pháp luật của

những học giả này được thể hiện rõ rệt trong các tuyên bố của họ với việc khẳng định

"nhờ có vai trò lãnh đạo và hướng dẫn của Đảng cộng sản trong mọi lĩnh vực của xã

hội, trong việc quản lý tất cả các quá trình xã hội ngày càng được thực hiện đầy đủ

hơn chức năng định ra mục tiêu của pháp luật" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 94). Tuy

nhiên, bên cạnh nhấn mạnh quá lớn tới vai trò lãnh đạo của đảng chính trị, các học giả

này cũng chú ý tới đặc tính nhân đạo của quản lý nhà nước và của luật pháp với khẩu

hiệu đem lại cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc và quyền làm chủ của nhân dân.

Trong những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX ở Việt Nam, nền kinh tế và

phương thức quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp bộc lộ nhiều yếu kém. Chủ trương

đổi mới vừa có tính chính trị, vừa là bước đột phá của Đảng và Nhà nước Việt Nam để

phát triển đất nước. Đến những năm 90, lý thuyết và quan điểm quản lý nhà nước của

Liên Xô trước đây không còn phù hợp, trong khi bản thân Liên bang Xô Viết đã tan rã

với một phần lý do từ sự yếu kém về quản lý. Tiếp thu quan điểm quan điểm quản lý

mới trên cơ sở lý thuyết quản lý nhà nước của Liên Xô cũ, các chuyên gia hành chính

học dưới sự chỉ đạo, chủ biên của GS. TS. Nguyễn Duy Gia đã xây dựng những bộ

giáo trình giới thiệu quan điểm được coi là đặc thù của Việt Nam. Quan điểm này sử

dụng thuật ngữ "hành chính công" với nghĩa là "hành chính nhà nước", trong đó hành

chính được hiểu theo nghĩa rộng là "sự quản lý của Nhà nước". "Nó là sự tác động có

tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi

hoạt động của công dân [,] do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương

đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát

triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu hàng

ngày của nhân dân" (GS. TS. Nguyễn Duy Gia 1996, 6). Quan điểm này coi quản lý

nhà nước là hoạt động của cơ quan hành chính – hành pháp nhằm thực thi quyền hành

pháp và không mang quyền lực chính trị. Nền hành chính này gồm ba yếu tố cấu thành

là:

- Hệ thống thể chế để quản lý xã hội theo luật pháp

- Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp

- Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính

Đặt trong mối liên hệ với toàn bộ hệ thống chính trị, nhà nước thực hiện quyền

hành pháp với hai nội dung chính là: lập quy và hành chính (GS. TS. Nguyễn Duy Gia

1996, 10). Các nội dung này lại được thực hiện với sự tập trung, thống nhất của chính

Page 13: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

12

quyền trung ương, có phân công, phân cấp cho địa phương để phát huy dân chủ, chủ

động, sáng tạo.

Xét về bản chất, nền hành chính nhà nước ở Việt Nam có một số đặc trưng cơ

bản sau:

- Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị;

- Tính pháp quyền;

- Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng;

- Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao;

- Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ;

- Tính không vụ lợi;

- Tính nhân đạo

Không khuôn mẫu và tập trung quá lớn vào các vấn đề chính trị như quan điểm

của Liên Xô trước đây, quan điểm quản lý nhà nước ở Việt Nam thời kỳ này có chú

trọng tới những đặc tính kỹ thuật của quản lý, trong đó ứng dụng lý thuyết quản trị

hiện đại với sự phân định rõ các chức năng của quản trị vào quản lý nhà nước. Quy

trình của quản lý hành chính nhà nước được xây dựng với đầy đủ các vấn đề, bao

gồm:

- Quy hoạch và kế hoạch;

- Tổ chức bộ máy hành chính;

- Sắp xếp bố trí và quản lý nhân sự;

- Ra các quyết định quản lý;

- Phối hợp;

- Sử dụng nguồn tài lực

- Chỉ đạo kiểm tra, tổng kết đánh giá

Những bộ giáo trình này cũng chú ý tới vấn đề cải cách hành chính, trong đó

phải tiến hành cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính quốc gia. Tuy nhiên,

các lý thuyết thời kỳ này chưa đề cập tới chính sách và vấn đề xây dựng, thực hiện

chính sách như là một nhiệm vụ của nhà nước. Trong số hơn 200 luận án tiến sĩ về

chính sách tại Thư viện Quốc gia Việt Nam từ 1990 - 2002, các luận án lấy chính sách

là đối tượng nghiên cứu chính không nhiều, chủ yếu tập trung nghiên cứu về hệ thống

Page 14: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

13

văn bản quy định liên quan tới một vấn đề cụ thể và những bất cập trong thực tiễn để

đề xuất giải pháp liên quan tới chính sách.

Bước sang thế kỷ XXI, công cuộc cải cách hành chính thu được một số kết quả

nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của xã hội. Sự tham gia ngày càng

nhiều của Việt Nam vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế đã thúc đầy sự giao lưu, học hỏi

và cam kết của Nhà nước Việt Nam trong cải cách hành chính, nâng cao năng lực

quản lý, quản trị của Nhà nước. Hoạt động của các chuyên gia hành chính, luật học,

khoa học quản lý và của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế như Ngân hàng

phát triển thế giới (ADB), Ngân hàng thế giới (WB), ... đã góp phần quan trọng vào

việc "nhập khẩu" các tư tưởng quản lý công hay hành chính công mới vào Việt Nam.

Vấn đề dân chủ được thảo luận sôi nổi hơn nhưng vẫn duy trì nguyên tắc tập trung, trở

thành nguyên tắc "tập trung, dân chủ". Nguyên tắc này được thể hiện với phương

châm "Đảng chính trị cầm quyền và nhà nước quản lý bằng pháp luật để thực hiện

đúng đắn có hiệu quả mạnh mẽ, với tư cách đại diện cho lợi ích, quyền lực và ý chí

của nhân dân, tạo ra môi trường kinh tế - xã hội và pháp lý lành mạnh để mọi công

dân được hưởng đúng quyền, được làm đúng nghĩa vụ, được công bằng về lợi ích,

được bình đẳng về trách nhiệm" (TS. Nguyễn Tiến Phồn 2001, 133). Vấn đề phân cấp

quản lý nhà nước cũng được nghiên cứu sâu hơn với sự học hỏi kinh nghiệm từ các

nhà nước tổ chức theo hình thức liên bang như Cộng hòa Liên bang Đức. Theo đó, các

học giả nhận định "quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và

chính quyền địa phương các cấp xét về tổng thể vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi

bức xúc của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất hợp lý" (GS.TS.Phạm Hồng Thái 2011).

Thế kỷ XXI đánh dấu sự xuất hiện công khai của nhiều quan điểm mới ở Việt

Nam với việc coi chính sách là đối tượng nghiên cứu chính thức dưới sự ảnh hưởng

của khoa học chính sách xuất hiện ở Tây Âu và Mỹ. Chính sách công đang trở thành

một môn học của khoa học hành chính, tách khỏi quan điểm thiết kế hệ thống tổ chức

và lập pháp. Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu vào đào tạo đó, những ấn phẩm và

bài viết đề cập trực tiếp đến chính sách công bắt đầu xuất hiện. Vẫn tập trung vào các

vấn đề kỹ thuật, quy trình và không từ bỏ những nguyên tắc quản lý xã hội chủ nghĩa

đã được xây dựng từ thời kỳ Liên Xô nhưng khách quan hơn, các học giả của Học

viện Hành chính Quốc gia định nghĩa "chính sách công là những hành động ứng xử

của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng

nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển" (PGS. TS. Nguyễn Hữu

Hải 2013, 14). Xem xét các đặc điểm cơ bản và cấu trúc của chính sách công, các học

giả coi "mục tiêu chính sách: là những giá trị hoặc kết quả mà nhà nước mong muốn

đạt được thông qua thực hiện các giải pháp chính sách. Mục tiêu chính sách thể hiện ý

chí của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề công" (PGS.TS.Nguyễn Hữu Hải 2013,

22). Về cơ bản, các học giả của Học viện hành chính chú ý hơn tới tính đúng đắn của

Page 15: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

14

chính sách trong mối quan hệ với quan điểm chính trị của đảng cầm quyền và thực tiễn

của Quốc gia hơn là những nội dung có tính hàn lâm và triết lý. Các nghiên cứu này,

tuy phát triển nhiều nội dung chuyên sâu về chính sách nhưng vẫn sử dụng các tiếp

cận của hành chính học Việt Nam, trong đó "định hướng của đảng cầm quyền" và ý

chí của nhà nước vẫn là căn cứ đầu tiên để hoạch định chính sách.

Khác với quan điểm đó, tiếp thu những nghiên cứu lý thuyết về chính sách của

các học giả Tây Âu và Mỹ, những bài viết của GS.TS. Vũ Cao Đàm hướng đến bản

chất và triết lý của chính sách. Tập trung vào chính sách và chiến lược phát triển khoa

học – công nghệ nhưng nhiều bài viết và bài giảng chuyên đề của GS.TS. Vũ Cao

Đàm đã bao quát những vấn đề có tính lý thuyết. Theo đó, tác giả đã phân loại các

quan niệm về chính sách theo 10 cách tiếp cận của các ngành khoa học khác nhau và

mối quan hệ của nó với pháp luật, xã hội dân sự và các thiết chế quản lý khác. Ứng

dụng lý thuyết của Kuhn vào nghiên cứu chính sách, GS.TS.Vũ Cao Đàm xây dựng

một khung mẫu (paradigma) của chính sách. Khung mẫu này không mâu thuẫn với

cấu trúc chính sách của các học giả của Học viên Hành chính Quốc gia nhưng khai

thác sâu hơn ở nhiều tầng quan điểm theo hướng ngày càng tập trung vào bản chất và

tinh thần chung của chính sách và của nhà nước tạo ra nó. Theo đó, "triết lý của chính

sách là tầm tư tưởng, tầm quan trọng nhất của chính sách" (Vũ Cao Đàm 2009, 487).

Đặc tính liên ngành với dấu ấn xã hội học, khoa học quản lý, văn hóa học, triết học,...

biểu hiện rõ trong các nghiên cứu của Ông.

Tìm kiếm nhiều hơn các bài học từ các quốc gia láng giềng ở châu Á, đồng thời

cung cấp cách nhìn đa chiều từ các chuyên gia trong và ngoài nước, nhiều hội thảo về

chính sách công đã được tổ chức dưới sự tài trợ của các quỹ tiền tệ quốc tế như ADB

hay WB. Năm 2005, từ một hội thảo như vậy, các tác giả Toru Hashimoto, Stefan

Hell, Sang – Woo Nam đã biên tập và xuất bản những bài viết về nghiên cứu và đào

tạo chính sách công ở Việt Nam. Cuốn sách là tổng hợp một số bài viết của các nhà

nghiên cứu uy tín về hiện trạng nghiên cứu và đào tạo chính sách công ở Châu Á,

trong đó có Việt Nam thông qua việc mô tả hoạt động của các viện nghiên cứu và tư

vấn chính sách. Bên cạnh những nghiên cứu có tính khái quát, các bài nghiên cứu

trong cuốn sách cũng thể hiện những phân tích cụ thể trong bối cảnh Việt Nam và một

số trường hợp điển hình ở Hàn Quốc, Singgapor, Indonesia, Liên Xô và Trung Quốc

để gợi ý kinh nghiệm cho Việt Nam. Trong cuốn sách này, các tác giả đã mô tả môi

trường chính sách nói chung, môi trường ở Châu Á và Việt Nam nói riêng là môi

trường “nảy sinh các mối quan tâm khác nhau, các mong muốn khác nhau và khi điều

này trở nên phức tạp hơn về cơ cấu và có tính toàn cầu hóa hơn, việc hoạch định

chính sách trở thành một vấn đề mang tính liên ngành hơn, đòi hỏi các phân tích phức

tạp hơn và các cách tiếp cận rộng hơn trước” (Toru Hashimoto 2005, 25). Cũng liên

quan đến môi trường chính sách, phần trình bày của tác giả Diane L. Stone cho rằng

Page 16: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

15

các yếu tố sau đây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các viện nghiên cứu chính

sách cũng như quá trình hoạt định và triển khai chính sách nói chung. Đó là: Kiến trúc

chính trị và loại hình cơ chế; cơ cấu tổ chức hành chính và cách thức hoạt động khác

nhau ở các quốc gia; dân chủ hóa và sự phát triển của xã hội dân sự, luật về tổ chức

phi chính phủ và phi lợi nhuận thường mang tính hạn chế; không có truyền thống lâu

đời về các đảng phái chính trị và canh tranh đảng phái; các nguồn trợ giúp tài chính;

độc lập kinh doanh và khả năng đại diện quyền lợi; hỗ trợ và tạo nền tảng hợp hiến

cho chế độ; nhu cầu đào tạo chính sách của Nhà nước; chức năng biểu tượng của các

đơn vị nghiên cứu, tư vấn chính sách; những yêu cầu và tài trợ quốc tế; và cuối cùng là

xu hướng toàn cầu hóa và hoạt động xuyên quốc gia (Toru Hashimoto 2005, 59-71). Ở

Việt Nam, dưới sự ảnh hưởng không nhỏ của cách thức thiết kế hệ thống nghiên cứu,

tư vấn chính sách ở Liên Xô cũ và Trung Quốc đã hình thành nên các cơ quan nghiên

cứu phụ thuộc Nhà nước, với “vai trò quan trọng là khả năng khuếch đại thông tin

đưa từ trên xuống” và “xu hướng đề cao chế độ hơn phê bình, đóng góp cho chế độ”

(Toru Hashimoto 2005, 53). Ngoài ra, “tình trạng kiểm soát chính trị chặt chẽ từ trên

xuống của đảng và nhà nước đã ngăn cản sự phát triển (và ảnh hưởng) tới sự hình

thành các đơn vị nghiên cứu, tư vấn chính sách độc lập” (Toru Hashimoto 2005, 57).

Tranh luận về vấn đề này, nhóm tác giả Nguyễn Đình Cung, Bùi Văn và Phạm

Hoàng Hà phủ nhận sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Âu và Trung Quốc đối với môi

trường chính sách ở Việt Nam. Họ cho rằng môi trường nghiên cứu chính sách ở Việt

Nam được đặc thù bởi: Nền kinh tế và xã hội trong thời kỳ chuyển đổi; các khái niệm

và quan điểm trái ngược nhau hoặc không rõ ràng; tương lai không chắc chắn; thông

tin không hoàn hảo về khả năng cung cấp và độ tin cậy; các quyền lợi không nhất

quán; cảm nhận về sự nhạy cảm (Toru Hashimoto 2005, 141-145).

Về nội dung nghiên cứu, nhóm tác giả Nguyễn Đình Cung, Bùi Văn và Phạm

Hoàng Hà tổng kết thành ba nhóm nội dung cơ bản là: “các nghiên cứu cơ bản nhằm

tạo luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách công; các nghiên cứu chính sách

nhằm trực tiếp xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh

tế xã hội của quốc gia, ngành và địa phương; và các hoạt động nghiên cứu công nghệ

mang tính ứng dụng nhằm tạo cơ sở cho việc xây dựng chiến lược và chính sách phát

triển, các quy trình hoặc tiêu chuẩn ngành” (Toru Hashimoto 2005, 113).

Phân tích nhu cầu đối với hoạt động nghiên cứu chính sách, nhóm tác giả Việt

Nam cho rằng: “Chính sách chung khẳng định tầm quan trọng của hoạt động nghiên

cứu; các đối tượng liên quan đến quy trình lập chính sách có mức độ tác động và lợi

ích khác nhau đối với chính sách được xây dựng; yêu cầu của các đối tượng tác động

tới xây dựng chính sách đối với hoạt động nghiên cứu chính sách… về phương diện lý

thuyết là đưa ra cách tiếp cận mới, những lựa chọn chính sách mới, …, nhưng trên

Page 17: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

16

thực tế …lại định hướng chính sách chung; cấu trúc và quy trình xây dựng chính

sách” (Toru Hashimoto 2005, 147-155).

Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, các nghiên cứu về quản lý nhà nước

ở Việt Nam đã thích nghi và thay đổi theo tình hình thực tế và kế thừa nhiều quan

điểm quản lý của nước ngoài. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền và ý chí

của nhà nước vẫn được coi là yếu tố chuẩn mực trong lý thuyết quản lý nhà nước ỏ

Việt Nam, và các nghiên cứu quản lý nhà nước công tác lưu trữ cũng chịu ảnh hưởng

của tư tưởng đó.

1.3. Quản lý nhà nƣớc về công tác lƣu trữ

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những nguyên tắc quản lý tài liệu lưu trữ của Liên

Xô trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa với tinh thần “Nguyên tắc cơ bản của

Lê-nin về công tác lưu trữ còn sống mãi” (Việt Trí 1988), các học giả và nhà nước

Việt Nam cũng coi tập trung, thống nhất là một trong những nguyên tắc ưu tiên hàng

đầu khi thực hiện quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Đồng thời, xu hướng nghiên

cứu tập trung vào thiết kế hệ thống tổ chức và lập pháp cũng được thể hiện rõ. Tác

phẩm được coi là kinh điển của Lưu trữ học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám có

tên gọi "Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ" do nhóm tác giả trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội biên soạn đặt hệ thống tổ chức ngành lưu trữ Việt Nam là nội dung đầu

tiên trong "công tác quản lý của các cơ quan lưu trữ" (Đào Xuân Chúc 1990, 307).

Xuất phát từ những hạn chế của hệ thống lưu trữ Việt Nam trong những năm 90

của thế kỳ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu

về việc tổ chức lại hệ thống các trung tâm, các kho lưu trữ, chủ yếu để đề xuất mô

hình mẫu cho các cơ quan lưu trữ nhà nước theo sự tổ chức hệ thống hành chính,

nhằm mục đích chính là quản lý tài liệu của nhà nước như đề tài cấp ngành do PGS.

Vương Đình Quyền chủ trì, các luận văn thạc sĩ của Trần Thanh Tùng, Phạm Thị Diệu

Linh. Bên cạnh đó là những nghiên cứu về đảm bảo nguồn lực cho ngành lưu trữ như

luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hương. Do những thay đổi về bối cảnh kinh tế

- xã hội, PGS. TS. Dƣơng Văn Khảm cùng nhóm tác giả đã công bố báo cáo tổng

thuật đề tài cấp ngành có tên “Cơ sở khoa học để tổ chức quản lý nhà nước về công

tác lưu trữ” năm 2001. Những cơ sở khoa học trong báo cáo bao gồm: lịch sử tổ chức

công tác lưu trữ tại Việt Nam từ 1945 đến 2000, cơ sở lý luận Mác – Lê-nin, cơ sở lý

luận lưu trữ học. Nhấn mạnh về đặc thù quản lý ở một nước xã hội chủ nghĩa như Việt

Nam, các tác giả chú trọng nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất công tác lưu trữ.

Theo đó, công cuộc đổi mới của đất nước sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm

1986 đã đưa tới sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế nên nguyên tắc tập trung,

thống nhất cũng phải thích ứng để quản lý được tài liệu của những thành phần kinh tế

này. Vì vậy, bên cạnh quan điểm quản lý thống nhất công tác lưu trữ và tài liệu lưu

Page 18: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

17

trữ, nhóm tác giả đã xác định một trong những cơ sở lý luận để quản lý nhà nước công

tác lưu trữ là phải “xây dựng hệ thống các trung tâm lưu trữ, các kho lưu trữ theo hệ

thống chính trị trong xã hội” (TS.Dương Văn Khảm 2001, 57). Hệ thống này bao

gồm:

- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam

- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ nhà nước

- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ của các ngành đặc biệt cần bảo quản cố

định tài liệu lưu trữ tại ngành

- Các kho lưu trữ các thành phần kinh tế khác

- Các kho lưu trữ của tổ chức tôn giáo

- Các kho lưu trữ thuộc sở hữu tập thể

- Các kho lưu trữ tư nhân, gia đình, dòng họ

(TS.Dương Văn Khảm 2001, 57-58)

Việc xác định hệ thống trung tâm, kho lưu trữ như trên cho thấy quan điểm bao

quát của các tác giả đối với việc quản lý tài liệu thông qua việc thiết lập các cơ quan

lưu trữ theo những đối tượng hình thành nên tài liệu trong xã hội, trong đó có tài liệu

của nhân dân. Tuy nhiên, đáng tiếc là toàn bộ phần cơ sở lý luận đó chỉ được sử dụng

để giải thích cho mô hình tổ chức lưu trữ nhà nước thời điểm đó mà không xét tới các

lưu trữ đa dạng như vừa đề cập. Nói cách khác, mặc dù coi sự đổi mới trong quan

điểm của Đảng là một nền tảng lý luận để quản lý nhà nước về công tác lưu trữ nhưng

việc đề xuất một mô hình tổ chức chỉ dựa trên các cơ quan lưu trữ nhà nước, mà bản

thân các cơ quan ấy lại được xây dựng dựa trên hệ thống cơ quan hành chính từ trung

ương đến địa phương đã cho thấy nhóm tác giả chưa thoát khỏi sự chi phối của quan

điểm tập trung, thống nhất theo hướng Nhà nước là chủ thể tạo ra tài liệu và chủ thể

của công tác lưu trữ.

Nói chung, cho tới những năm 2000, các nghiên cứu quản lý nhà nước về công

tác lưu trữ vẫn tiếp cận theo quan điểm quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó

chú trọng nghiên cứu hệ thống tổ chức và nghiên cứu để xây dựng văn bản pháp luật,

chưa có những nghiên cứu về quan điểm hay chính sách chủ đạo, định hướng trong

quản lý nhà nước từng thời kỳ. Những nghiên cứu này, hoặc để đáp ứng nhu cầu thực

tiễn, hoặc để xây dựng lịch sử ngành, trong khi những phát hiện về ý tưởng định

hướng có tính lý luận chưa nhiều, cũng chưa thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa nghiên

cứu quản lý nhà nước về công tác lưu trữ với những nghiên cứu khác về hành chính

Page 19: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

18

học và khoa học quản lý nói chung. Tính liên ngành của những nghiên cứu này đã xuất

hiện nhưng chưa rõ nét.

1.4. Các khái niệm cơ bản

Từ những tổng kết như trên, các định nghĩa có thể khái quát như sau:

Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan

có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và

nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa

mãn những nhu cầu hàng ngày của nhân dân. Theo đó, quản lý nhà nước có một số

đặc điểm là:

- Hoạt động dựa trên quyền lực nhà nước, có tính tổ chức: Quyền lực của nhà

nước Việt Nam do nhân dân trao thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu. Các hoạt

động quản lý nhà nước được thực hiện một cách có kế hoạch, phân công, kiểm tra và

giám sát với mục tiêu cụ thể. Việc thực hiện đó được đảm bảo bằng hệ thống thể chế

và những cơ quan, lực lượng giúp pháp luật được thực thi nghiêm túc.

- Hoạt động quản lý nhà nước do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Thẩm

quyền quản lý nhà nước phải do luật định hoặc do các văn bản có hiệu lực pháp lý cao

của cơ quan được giao chức năng tổ chức theo sự phân công của bộ máy nhà nước.

Thẩm quyền này xác định phạm hoạt động của cơ quan nhà nước về cả phương diện

hình thức và nội dung.

- Mục tiêu chung nhất của quản lý nhà nước là phát triển các mối quan hệ xã hội

theo định hướng của Nhà nước trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chính trị, an ninh, quốc

phòng, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.

Và công tác lưu trữ được định nghĩa là "một ngành hoạt động của nhà nước (xã hội)

bao gồm tất cả những vấn đề lý luận, pháp chế và thực tiễn có liên quan đến việc bảo

quản và tổ chức sử dụng tài liệu lưu trữ" (Đào Xuân Chúc 1990, 15). Do vậy, quản lý

nhà nước về công tác lưu trữ là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực

nhà nước đối với các nội dung thuộc phạm vi công tác lưu trữ, do cơ quan nhà nước

có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do

nhà nước giao phó, đảm bảo sự phát triển của ngành lưu trữ theo mục tiêu của từng

thời kỳ.

"Quan điểm" trong tiếng Việt là chỗ đứng để xem xét, nhìn nhận vấn đề hay ý

kiến, nhìn nhận riêng (Nguyễn Như Ý 1998, 1360). Trong tiếng Anh, quan điểm

Page 20: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

19

(thoughts) là mọi suy nghĩ hay ý tưởng về sự vật, hiện tượng, con người (Oxford

University 2015).

Khi nghiên cứu lịch sử khoa học, Thomas Kuhn sử dụng thuật ngữ paradigm để

chỉ quan điểm, hay đúng hơn là chỉ cách thức để nhận thức lịch sử khoa học. Quan

điểm (paradigm) là từ được vay mượn từ tiếng Latin với nguồn gốc trong tiếng Hi Lạp

là paradeigma với nghĩa là "từ khía cạnh này sang khía cạnh khác". Kuhn sử dụng

thuật ngữ này để chỉ những tư tưởng cơ bản, nổi trội, được nhiều người tin dùng và kế

thừa để nhận thức về một lĩnh vực, một ngành hay một chủ đề nghiên cứu cụ thể trong

từng giai đoạn phát triển của một ngành khoa học nhất định. Và sự chuyển đổi từ quan

điểm (paradigm hay paradigm shift) này sang quan điểm (paradigm) khác là một cuộc

cách mạng trong khoa học (Thomas Kuhn (Chu Đình Lan dịch) 1962, 2008). Mặc dù

hình thành trong lý thuyết khoa học luận nhưng tính khái quát của paradigm khiến

thuật ngữ này và ý nghĩa của nó được ứng dụng như một phương cách để nhận thức

trong nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có quản lý nhà nước và lưu trữ học.

Nghiên cứu nổi tiếng nhất và đánh dấu sự ứng dụng paradigm trong nghiên cứu quản

lý nhà nước là bài viết của Nicolas Henry thuộc trường Đại học Georgia đăng trên tạp

chí Hành chính công (Public Administration REview) số 35 năm 1975 của Hiệp hội

Hành chính công Mỹ với tựa đề Những quan điểm về hành chính công (Paradigms of

Public Administration). Trong bày viết này, Henry chỉ ra năm giai đoạn tương ứng với

năm quan điểm về hành chính công, bao gồm: hành chính tách rời khỏi chính trị

(1900-1926), các nguyên tắc hành chính (1927-1937), hành chính công thuộc khoa

học chính trị (1950-1970), hành chính công là khoa học hành chính (1956 - 1970), và

hành chính công là hành chính công (1970 - ?) (Nicolas Henry 1975). Sau Henry,

những nhà nghiên cứu hành chính học, và sau đó là hành chính công hay quản lý công

đều sử dụng cách tiếp cận này để xác định tư tưởng cơ bản và những thay đổi trong tư

tưởng của khoa học hành chính nói chung. Là một trong những nhà khoa học hàng đầu

và tham gia sáng lập tạp chí Lưu trữ học (Archival Sience), Terry Cook tập trung

nhiều vào những nghiên cứu có tính lý thuyết. Bài viết Bằng chứng, ký ức, bản sắc và

cộng đồng: sự chuyển đổi bốn quan điểm lưu trữ (Evidence, memory, indentity, and

community: four shifting archival paradigms) là một ứng dụng của Ông về paradigm

trong nghiên cứu lưu trữ học, vừa có tính chất tổng kết, vừa trở thành một trong những

cách tiếp cận định hướng cho lý thuyết lưu trữ học hậu hiện đại trong những năm đầu

thế kỷ XXI. Như thế, trong các nghiên cứu của thế giới, quan điểm (paradigm) vừa là

cách thức để nhận thức về sự vật, hiện tượng theo hướng bản chất, vừa là tri thức

chung của con người về một lĩnh vực hay chủ đề nhất định trong từng giai đoạn lịch sử

cụ thể.

Ở Việt Nam, quan điểm quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định rõ nội dung

của quản lý nhà nước công tác lưu trữ tập trung trước hết vào việc thiết kế hệ thống tổ

Page 21: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

20

chức hợp lý, xây dựng hệ thống quy định, quan trọng nhất là pháp luật. Ảnh hưởng

của quan điểm cải cách hành chính thúc đẩy quản lý nhà nước về công tác lưu trữ quan

tâm hơn đến việc phân cấp, phân quyền quản lý, tăng cường dân chủ trong các nội

dung quản lý. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong công tác lưu trữ, như đã nói

ở trên, chủ yếu tập trung vào những thành tựu và kết quả, nhưng không có đánh giá

hiệu quả. Tác phẩm duy nhất coi trọng việc đánh giá quan điểm quản lý nhà nước là

cuốn sách Lịch sử Lưu trữ Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Văn Thâm, Vương

Đình Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kỳ Hồng. Song quan điểm quản lý nhà nước

được chỉ ra chủ yếu dựa trên phân tích nội dung các văn bản quản lý, trong đó quan

điểm chủ đạo của nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay

chưa được thể hiện rõ. Và việc ứng dụng paradigm như là một cách tiếp cận để nhận

thức về quan điểm của nhà nước chưa được áp dụng.

Tuy nhiên, áp dụng paradigm cũng là vẫn đề khó khăn bởi để làm rõ quan điểm

của một cá nhân, một cơ quan, một hệ cơ quan hay nhóm người đều phải dựa trên

những biểu hiện bên ngoài của nó. Trên thế giới đã có nhiều cuộc tranh luận về ý

nghĩa của paradigm, trong đó cách tiếp cận của GS. Vũ Cao Đàm về paradigm của

chính sách với sự tiếp thu và phát triển cách tiếp cận của Kuhn có thể được xét tới để

áp dụng ở Việt Nam. Bài giảng Lý thuyết hệ thống của GS. Vũ Cao Đàm xác định

quan điểm (paradigma) của chính sách gồm 4 tầng như sau:

(Nguồn: Bài giảng Lý thuyết hệ thống, Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, Vũ Cao Đàm tuyển tập, tập 2, trang 486)

Cấu trúc quan điểm như trên có ưu điểm là đã phân tách quan điểm thành các

tầng từ thấp tới cao trên cơ sở kế thừa các thành tựu của lý thuyết nhận thức trong xã

Triết l{

Hệ quan điểm

Hệ chuẩn mực

Hệ khái niệm

Page 22: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

21

hội học, triết học và tâm lý học một cách hệ thống. Theo đó, yếu tố đầu tiên phản ảnh

quan điểm của một hoặc một nhóm người thể hiện ở việc họ gọi tên được (xác định

được khái niệm) sự vật, hiện tượng. Cấp độ thứ 2 phản ảnh quan điểm là thông qua

những quy tắc ứng xử mà một người hay nhóm người đó đưa ra và thực hiện. Cấp độ

thứ ba là thái độ ủng hộ hoặc phản đối của họ đối với một hoặc một nhóm hiện tượng,

hành vi nào đó. Và cấp độ cao nhất là tư tưởng chi phối liên quan đến ý thức hệ, niềm

tin, hệ giá trị,... . Tuy nhiên, sự phân biệt giữa triết lý và hệ quan điểm, giữa hệ chuẩn

mực và hệ khái niệm chưa rõ ràng nên khó áp dụng và dễ gây nhầm lẫn trong khung lý

thuyết chính sách của GS. Vũ Cao Đàm. Trong khi đó, việc xác định quan điểm của

một hệ thống cơ quan quản lý, mặc dù cũng dựa trên đặc điểm nhận thức, tâm lý của

nhóm người làm việc trong hệ thống đó nhưng phải thông qua những biểu hiện bên

ngoài của quan điểm ấy, trước hết là hệ thống văn bản quản lý, nhất là khi quản lý nhà

nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn chặt với việc ban hành văn bản và xây dựng

pháp luật. Cho nên, cần có những diễn giải cụ thể hơn cho cách tiếp cận này để có thể

áp dụng cho quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Dựa trên các nội dung quản lý nhà

nước và những biểu hiện của hoạt động quản lý nhà nước thông qua hệ thống văn bản

do cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương về công tác lưu trữ ban hành, đồng thời kế

thừa cấu trúc phân tầng trong lý luận của GS. Vũ Cao Đàm, quan điểm (paradigm) của

quản lý nhà nước về công tác lưu trữ có thể tiếp cận với bốn thành tố cơ bản:

- Triết lý của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là tầm tư tưởng của hoạt

động quản lý nhà nước, theo đó xác định lý do và giá trị tư tưởng mà hoạt động quản

lý nhà nước cần phải hướng đến. Nói cách khác, triết lý thể hiện trong mục đích của

quản lý nhà nước về công tác lưu trữ.

- Hệ quan điểm của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là thái độ của cơ quan

có thẩm quyền quản lý nhà nước về việc ủng hộ hay phản đối một hay một nhóm hành

vi hay hiện tượng nào đó trong công tác lưu trữ. Thái độ này được thể hiện thông qua

những tuyên bố công khai trong các văn bản quy phạm pháp luật, phát ngôn của lãnh

đạo cấp cao, thông cáo báo chí chính thức của cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ có

thẩm quyền.

- Hệ chuẩn mực là những quy tắc hành động, ứng xử trong công tác lưu trữ

được cơ quan có thẩm quyền quy định. Hệ chuẩn mực này được thể hiện rõ trong

những quy định trong văn bản có tính quy phạm của cơ quan có thẩm quyền

- Hệ khái niệm là hệ thống những thuật ngữ được cơ quan quản lý nhà nước đề

cập hoặc định nghĩa để hiểu và sử dụng thống nhất trong quá trình thực hiện và quản

lý công tác lưu trữ.

Page 23: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

22

Vì thế, cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ nên áp dụng

trong nghiên cứu này là:

Hình 1: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ

Như vậy, trong lúc nội hàm khái niệm "quản lý nhà nước về công tác lưu trữ"

vẫn chưa được xác định cụ thể thì việc xác định quan điểm quản lý nhà nước về công

tác lưu trữ là một thách thức. Tuy vậy, cơ sở lý thuyết của quản lý nhà nước, hành

chính công và lưu trữ học ở Việt Nam thời gian qua đã tạo điều kiện để giải thích được

một số vấn đề trong hoạt động quản lý của ngành lưu trữ. Đồng thời, những ý tưởng

và việc áp dụng thuật ngữ paradigm trong nghiên cứu đã cung cấp cách tiếp cận có

tính định hướng quan trọng để triển khai thu thập thông tin nhằm chứng minh giả

thuyết nghiên cứu sẽ được trình bày ở phần sau.

Lý do,

mục đích

Hệ quan điểm:

Tuyên bố

ủng hộ hoặc nghiêm cấm

Hệ chuẩn mực:

Quy định hành vi bắt buộc thực hiện

Hệ Khái niệm: Khái niệm được định nghĩa

thống nhất

Page 24: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

23

CHƢƠNG 2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

2.1. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu: Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn

1986 – 2012 như thế nào?

2.2.2. Những cơ sở xây dựng giả thuyết nghiên cứu:

Giả thuyết nghiên cứu được xây dựng dựa trên các yếu tố:

- Tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước công tác lưu trữ ở Việt Nam: Như

đã trình bày ở tổng quan, các nghiên cứu về quản lý nhà nước công tác lưu trữ ở Việt

Nam tập trung vào hiện trạng ở từng thời kỳ và đề xuất giải pháp. Quan điểm quản lý

nhà nước được đề cập phân tán trong các nghiên cứu thông qua phân tích và phản biện

những quy định của pháp luật hoặc so sánh quy định đó với khả năng thực hiện trong

thực tế, chưa có tổng kết hệ thống theo giai đoạn. Nói cách khác, các nghiên cứu trước

tuy không xác định câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu nhưng đã tiếp cận vấn đề quản lý

nhà nước về công tác lưu trữ theo hướng chứng minh những hạn chế của thực tiễn

hoặc của pháp luật so với thực tiễn để đề xuất giải pháp. Những nghiên cứu coi quan

điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là đối tượng nghiên cứu chưa xuất hiện.

Cho nên, việc khám phá quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ một cách hệ

thống trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là một tiếp cận không trùng lặp so với trước.

- Thông tin khảo sát tiền nghiên cứu: Thông tin khảo sát tiền nghiên cứu bao

gồm tổng kết thực trạng công tác lưu trữ đã được phản ảnh qua nhiều nghiên cứu

trước, các nghiên cứu cá nhân của chủ trì đề tài bao gồm luận văn thạc sĩ có tựa đề

"Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lưu trữ cấp huyện của thành phố Hà Nội"

và đề tài khoa học cấp cơ sở "Quản lý nhà nước công tác lưu trữ cấp huyện của thành

phố Hà Nội" cùng thông tin phục vụ các bài viết nghiên cứu khác. Phần tổng hợp

thông tin pháp lý và mô tả thực trạng công tác lưu trữ ở các nghiên cứu trên cho thấy

sự tập trung cao của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của các lưu trữ nhà

nước. Trong khi đó, những văn bản pháp luật được ban hành thời gian gần đây, cùng

với mối quan tâm của các học giả qua các hội thảo, tọa đàm, bài viết nghiên cứu như

Hội thảo quốc tế "Tổ chức và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ nhân dân" cho thấy sự

quan tâm của cơ quan quản lý cũng như các học giả đối với tài liệu của người dân

đang có dấu hiệu tăng lên.

Những thông tin trên cho phép xác định giả thuyết nghiên cứu như sau:

2.2.3. Giả thuyết nghiên cứu:

Page 25: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

24

Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012 là tập trung,

thống nhất vào nhà nước nhưng ngày càng thừa nhận vai trò và quyền lợi của người

dân.

2.2. Cơ sở để chứng minh giả thuyết nghiên cứu:

Giả thuyết nghiên cứu được chứng minh dựa trên hai cơ sở:

+ Cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu phải cung cấp được mô hình lý thuyết với các khái

niệm, cách tiếp cận hoặc quan điểm cơ bản để xác định khái niệm "quan điểm quản lý

nhà nước" và những vấn đề liên quan tới lý thuyết về "quản lý nhà nước về công tác

lưu trữ". Cơ sở lý thuyết này có được trong quá trình tổng kết các nghiên cứu trước đó

và lựa chọn mô hình lý thuyết phù hợp để áp dụng, đặc biệt là tiếp cận quan điểm của

GS. Vũ Cao Đàm trên nền tảng phương pháp luận của Kuhn. Đồng thời, lý thuyết của

David Held về các mô hình quản lý hiện đại với tư tưởng về sự tham gia ở mức độ

khác nhau của nhân dân vào hoạt động của nhà nước cũng được sử dụng để xây dựng

và chứng minh giả thuyết nghiên cứu.

+ Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt

Nam được thể hiện qua nhiều loại thông tin. Những thông tin cần thu thập để chứng

minh giả thuyết nghiên cứu bao gồm:

- Thông tin từ văn bản: Các văn bản do các cơ quan có thẩm quyền ban hành, đặc

biệt là văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng theo quy trình, thủ tục do

luật định và có giá trị pháp lý cao. Số lượng cơ quan tham gia vào quá trình xây

dựng và ban hành văn bản này nhiều với các cấp thẩm quyền khác nhau nên mỗi

văn bản được ban hành, đặc biệt là văn bản quy phạm pháp luật có thể phản ảnh

quan điểm, ý chí của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề được đề cập

trong văn bản. Cho nên, thông tin từ văn bản được lựa chọn và sử dụng chính

trong nghiên cứu này.

- Thông tin từ bài tham luận, phát biểu của những lãnh đạo các cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền về công tác lưu trữ: Tương tự như các văn bản, các bài

phát biểu thành văn của các lãnh đạo tại các hội nghị, diễn đàn công khai cũng

thể hiện một phần quan điểm của cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ, dù ý kiến

phát biểu hoặc tham luận đó mang tính chất cá nhân nhưng trước các diễn đàn,

hội nghị công khai, các lãnh đạo không chỉ phát biểu với tư cách cá nhân, mà

còn với tư cách của người có thẩm quyền, đại diện cho cơ quan có thẩm quyền.

Vì thế, thông tin từ tham luận, bài phát biểu được sử dụng để bổ sung hoặc kiểm

chứng thông tin từ văn bản.

- Thông tin phỏng vấn, khảo sát từ những cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ

quản lý nhà nước: Thông tin này sẽ phản ảnh nhận thức và quan điểm của

Page 26: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

25

những cá nhân về vấn đề nghiên cứu, song do sự phụ thuộc vào quan điểm cá

nhân của thông tin này rất cao nên vai trò của nó trong việc làm rõ quan điểm

quản lý của cơ quan nhà nước không lớn. Vì thế, thông tin này tạm thời không

được sử dụng trong đề tài.

Vì các thông tin được lựa chọn để thu thập ở trên đều là thông tin văn bản nên

nghiên cứu phải kết hợp phân tích định tính dựa trên kết quả của những thống kê định

lượng. Tuy nhiên, logic của những thông kê định lượng lại dựa trên những phân tích

định tính nên việc sử dụng đồng thời hai phương pháp này là thường xuyên trong

nghiên cứu. Cơ sở thực tiễn là bằng chứng chủ yếu để chứng minh giả thuyết nên sẽ

được trình bày trong các chương tiếp theo của báo cáo.

2.3. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin

2.3.1. Thu thập văn bản

Văn bản do cơ quan quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở trung ương ban

hành được tập hợp từ hai nguồn:

- Cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công

tác văn thư, lưu trữ hiện hành do Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước ấn hành năm

2012 với danh mục các văn bản đã hết hiệu lực và toàn văn những văn bản còn hiệu

lực, tính đến thời điểm năm 2012. Tuyển tập này bao gồm đầy đủ các văn bản cần

thiết và được sắp xếp và phân loại theo quan điểm của cơ quan có trách nhiệm chính

trong xây dựng các văn bản này. Do vậy, nội dung và trình tự hệ thống hóa văn bản

trong cuốn sách được kế thừa nguyên vẹn trong nghiên cứu với hai mục tiêu chính:

giảm bớt thời gian hệ thống theo phương án khác và sử dụng các phân loại văn bản

của cơ quan quản lý để làm rõ quan điểm về quản lý nhà nước.

- Văn bản được công bố trên website Chính phủ, Bộ Nội vụ và Cục Văn thư –

Lưu trữ Nhà nước: vì cuốn sách tuyển tập văn bản do Cục Lưu trữ ấn hành không bao

gồm toàn văn những văn bản đã hết hiệu lực nên các website chính thống kể trên sẽ

cung cấp toàn các bản toàn văn này.

Bài phát biểu của lãnh đạo ngành được sử dụng trong nghiên cứu là kỷ yếu các

hội thảo, hội nghị trong khuôn khổ chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật của ngành lưu trữ.

2.3.2. Thống kê và so sánh

Việc thống kê văn bản được thực hiện thông qua kiểm đếm số lượng theo sự

phân loại định trước như cách phân loại của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước trong

cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn

Page 27: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

26

thư, lưu trữ hiện hành. Số lượng văn bản được kiểm đếm thông qua hai hình thức:

kiểm đếm trực tiếp văn bản hoặc kiểm đếm thông qua ký tự đại diện. Văn bản được

kiếm đếm trực tiếp sẽ sử dụng để tính toán tỷ lệ và thể hiện kết quả trong các biểu đồ.

Văn bản được kiểm đếm thông qua ký tự đại diện được thực hiện theo hai bước:

- Bước 1: chọn nội dung để quy ước. Ví dụ: khái niệm được đề cập và định

nghĩa trong văn bản được quy ước bằng ký hiệu "+" , không được đề cập được quy

ước bằng ký hiệu "-". Sau khi xác định ký hiệu quy ước, các nội dung thông tin sẽ

được mã hóa bằng ký hiệu xác định.

- Bước 2: kiểm đếm số lần xuất hiện của các ký hiệu quy ước theo từng tiêu chí.

Ví dụ: số lần xuất hiện dấu "+" trong thống kê từ Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm

1982.

Kết quả kiểm đếm, thống kê như trên sẽ cung cấp các giá trị định lượng bằng số

nguyên.

So sánh các kết quả thống kê sẽ thực hiện giữa các yếu tố:

- So sánh các nội dung được đề cập trong giai đoạn thực hiện của 3 văn bản có

giá trị pháp lý cao là Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và

Luật Lưu trữ. Lý do chính lựa chọn tiêu chí văn bản quy phạm pháp luật cao nhất để

so sánh là: tính pháp lý cao của văn bản sẽ thể hiện quan điểm rõ ràng hơn về quản lý

nhà nước, sự thay đổi trong nội dung văn bản này sẽ cho thấy sự thay đổi về quan

điểm.

- So sánh các nội dung theo hai thời kỳ nhỏ là : thời kỳ 1986 – 2000 và thời kỳ

2001 – 2012. Hai thời kỳ này được lựa chọn vì dù sau năm 1986, đất nước bước vào

thời kỳ đổi mới và nhiều nội dung quản lý nhà nước phải thay đổi theo, nhưng đến

năm 2000, ngành lưu trữ vẫn thực hiện theo những quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài

liệu lưu trữ được ban hành từ năm 1982 với nhiều nội dung còn nặng tính quan liêu,

bao cấp. Vì thế, giai đoạn 1986 – 2000 được coi là giai đoạn chưa đổi mới của ngành

lưu trữ. Đến Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001 và Luật Lưu trữ kế thừa năm 2012,

nhiều vấn đề đáp ứng nhu cầu quản lý tài liệu theo tinh thần của nền kinh tế thị trường

đã được bổ sung và thay đổi so với trước đó. Cho nên, từ Pháp lệnh 2001, ngành lưu

trữ mới thực sự thể hiện tinh thần đổi mới. Việc lựa chọn hai thời kỳ này để so sánh sẽ

cho thấy những chuyển biến trong quan điểm quản lý nhà nước, góp phần làm rõ hơn

hai vấn đề được xác định trong giả thuyết nghiên cứu.

Các giá trị sử dụng để so sánh là kết quả thống kê được chuyển sang số thập

phân (tỷ lệ %).

Page 28: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

27

Ngoài ra, trong một số nội dung cụ thể, việc so sánh có thể được thực hiện giữa

số lượng văn bản của cơ quan trung ương và của địa phương (thành phố Hà Nội và

tỉnh Hà Tây cũ) để xác định mức độ phụ thuộc vào trung ương của quản lý nhà nước

về công tác lưu trữ.

2.3.4. Phân tích ngôn ngữ

Nội dung ngôn ngữ của văn bản được phân tích qua các hình thức:

- Kiếm đếm tần xuất xuất hiện của từ, cụm từ trong văn bản để tìm bằng chứng

cho quan điểm quản lý nhà nước. Ví dụ: số lần xuất hiện trong 1 câu

- So sánh nội dung ngữ nghĩa: So sánh nội dung ngữ nghĩa với định nghĩa trong

từ điển, với khả năng áp dụng trong thực tiễn. Việc so sánh này chủ yếu để xác định

logic trong quan điểm quản lý nhà nước và mức độ phù hợp của nó với thực tiễn.

Logic này cùng với những kết quả thống kê sẽ cung cấp bằng chứng để xác định tính

đúng đắn của giả thuyết.

Bên cạnh đó, sự phân tích nội dung ngôn ngữ này sẽ được thực hiện với sự so

sánh bối cảnh ra đời của một số văn bản chủ yếu, phát biểu của những cá nhân có

thẩm quyền liên quan đến việc xây dựng và ban hành đó.

Page 29: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

28

CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM TẬP TRUNG, THỐNG NHẤT VÀO NHÀ NƢỚC

TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CÔNG TÁC LƢU TRỮ

3.1. Những văn bản quản lý do cơ quan quản lý nhà nƣớc ở Trung ƣơng ban

hành về công tác lƣu trữ giai đoạn 1986 – 2012

Trong giai đoạn 1986 -2012, công tác lưu trữ Việt Nam được Nhà nước chỉ đạo

và quản lý với việc ban hành và kiểm soát việc thi hành các văn bản quan trọng. Công

tác lưu trữ thời kỳ này chịu sự chi phối của ba văn bản có giá trị pháp lý cao lần lượt

thay thế nhau, bao gồm:

- Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982: Pháp lệnh này ra đời trong điều

kiện Đảng và Nhà nước đang tập trung xây dựng đất nước thống nhất xã hội chủ

nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh. Nhu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trên

nhiều phương diện đã được thể hiện trong nhu cầu bảo vệ tài liệu lưu trữ. Sự chỉ đạo

của đồng chí Lê Duẩn và những hành động cụ thể của đồng chí Phạm Văn Đồng để

đưa dự án xây dựng pháp lệnh vào chương trình xây dựng luật của Hội đồng Nhà nước

đã tạo điều kiện để Pháp lệnh được ban hành kịp thời (Nguyễn Văn Thâm 2010). Tuy

được ban hành từ thời kỳ bao cấp nhưng sau năm 1986, dù Đảng và Nhà nước đã

tuyên bố và thực hiện công cuộc đổi mới nhưng chưa có văn bản nào được ban hành

thay thế Pháp lệnh này nên các nội dung của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ vẫn là

căn cứ pháp lý để thực hiện công tác lưu trữ đến năm 2000.

- Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001: Sau gần 20 năm thực hiện Pháp lệnh

bảo vệ tài liệu lưu trữ, thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước và thực tiễn công tác lưu

trữ đã có nhiều thay đổi. Chủ trương đổi mới toàn diện đất nước theo hướng kinh tế thị

trường đặt ra nhiều vấn đề mới, trong đó có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế

và nhiều hình thức sở hữu tài liệu lưu trữ. Tài liệu lưu trữ không thể và không còn chỉ

thuộc sở hữu toàn dân như quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982.

Trong lúc đó, nhu cầu phát triển kinh tế để nâng cao đời sống, đẩy mạnh hội nhập đòi

hỏi công tác lưu trữ phải đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sử dụng tài liệu đa dạng, bao

gồm cả việc tiếp cận tài liệu đối với người nước ngoài. Nhiều tài liệu lưu trữ cần được

giới thiệu và công bố. Đồng thời, những thay đổi trong tư duy quản lý nhà nước đã

thúc đẩy nhu cầu phân cấp mạnh mẽ nhằm tạo sự tự chủ cho các chính quyền địa

phương. Thông tư số 40/1998/TT-TCCP ngày 24/01/1998 của Ban Tổ chức – Cán bộ

Chính phủ hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở cơ quan nhà nước các cấp đã thể hiện được

tinh thần đó với sự thiết lập Trung tâm Lưu trữ cấp tỉnh, Phòng Lưu trữ và quy định

chức năng quản lý nhà nước cho các đơn vị này. Điều đó thúc đẩy phải xây dựng và

ban hành văn bản có tính pháp lý cao hơn để áp dụng và bắt buộc áp dụng trong cả

Page 30: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

29

nước, đồng thời tạo cơ chế pháp lý để các cơ quan từ trung ương đến địa phương thực

hiện quản lý nhà nước và quản lý tài liệu lưu trữ. Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia được

ban hành trong bối cảnh như vậy.

- Luật Lưu trữ năm 2011: Kết thúc 10 năm thi hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc

gia, ngành lưu trữ đã đạt được nhiều bước tiến bộ với nhiều văn bản hướng dẫn có giá

trị pháp lý cao được ban hành, đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ

ngày càng được bổ sung đông đảo, quy mô của các cơ quan lưu trữ từ trung ương đến

địa phương được mở rộng. Ngành lưu trữ Việt Nam đã tham gia tích cực hơn và có vai

trò quan trọng trong các diễn đàn và hiệp hội lưu trữ quốc tế (Cục Văn thư và Lưu trữ

Nhà nước 2011). Song, những hạn chế của công tác lưu trữ, đặc biệt là hoạt động quản

lý nhà nước khiến cho những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của

ngành. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia chỉ ra rằng một

trong những nguyên nhân quan trọng của hạn chế đó là chưa đủ văn bản có giá trị

pháp lý cao để thực hiện trong thực tiễn. Do đó, Bộ Nội vụ với sự tham mưu của Cục

Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã xúc tiến quá trình xây dựng Luật Lưu trữ. Dự án Luật

Lưu trữ được Quốc Hội thông qua năm 2011 và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 7 năm

2012, trở thành văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của ngành.

Ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng ba văn bản trên đều đồng thuận

về quan điểm quản lý tập trung, thống nhất công tác lưu trữ với sự chú trọng vào các

cơ quan lưu trữ nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, những vấn đề liên quan đến công

dân ít được đề cập. Ngoài ba văn bản có giá trị pháp lý cao, nhiều văn bản dưới luật từ

Nghị định tới các công văn hướng dẫn, điều hành được ban hành cũng tập trung vào

các nội dung phục vụ cho hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan lưu trữ nhà

nước. Trong số 1592 văn bản do cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương ban hành về

công tác lưu trữ từ 1986 - 2012, số lượng văn bản quy định cho các cơ quan lưu trữ

nhà nước là chủ yếu:

2 Thống kê từ danh mục văn bản trong cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn thư, lưu trữ hiện hành do Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước ấn hành năm 2012.

12%

88%

Văn bản quy định liên quan đến người dân

Văn bản quy định liên quan đến cơ quan nhà nước

Biểu đồ 1: Tỷ lệ văn bản quy định cho

cơ quan nhà nước và người dân

Page 31: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

30

Trong số tất cả những văn bản đó, số lượng điều khoản quy định liên quan đến

người dân như thủ tục khai thác, sử dụng, quyền và trách nhiệm đối với tài liệu lưu trữ

cũng không nhiều, chiếm ít hơn 10% các điều khoản quy định cho công tác lưu trữ.

Tương quan giữa các nội dung được đề cập trong các văn bản đã ban hành cũng

không đồng đều và có sự thay đổi đáng kể trong hai giai đoạn chủ đạo: Từ 1986 –

2000 và từ 2001 – 2012, cụ thể như sau:

Biểu đồ 2: Số lượng văn bản ban hành theo tính chất nội dung trong từng thời kỳ

Biểu đồ 3: Tỷ lệ văn bản ban hành theo tính chất nội dung trong từng thời kỳ

So với giai đoạn 1986 – 2001, số lượng văn bản quản lý nhà nước do các cơ

quan Trung ương ban hành tăng lên đáng kể nhưng vẫn tập trung vào các quy định để

thực hiện trong các cơ quan lưu trữ nhà nước. Mức độ tập trung cao ở các cơ quan

trung ương thể hiện tương đối rõ với tỷ lệ văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác văn

thư – lưu trữ ở địa phương ít hơn và thiếu cụ thể hơn so với các cơ quan trung ương.

Chẳng hạn, trong giai đoạn 1986 -2001, các cơ quan quản lý nhà nước về văn thư –

lưu trữ ở Trung ương gồm Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, Cục Lưu trữ Nhà nước

ban hành được 13 văn bản quy định, hướng dẫn các loại, trong khi đó UBND thành

0

10

20

30

40

50

60

70

1986 - 2000 2001 - 2012

Quy định chung

Quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ

Quy định về tổ chức và cán bộ

0% 20% 40% 60% 80% 100%

1986-2000

2001-2012

Quy định chung

Quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ

Quy định về tổ chức, cán bộ

Page 32: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

31

phố Hà Nội và UBND tỉnh Hà Tây, mỗi địa phương chỉ ban hành được 01 chỉ thị về

quản lý công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ khi Văn phòng UBND tỉnh

được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước theo Thông tư số 40/1998/TT- TCCB của Ban

Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, các văn bản chỉ đạo, điều hành và hướng dẫn cụ thể của

những địa phương này hầu như không có. Cho nên, các hoạt động thuộc công tác lưu

trữ đều phụ thuộc chặt chẽ vào quy định và hướng dẫn từ Trung ương.

Về nội dung, sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu nội dung văn bản ban hành giữa

hai giai đoạn cho thấy trọng tâm của vấn đề quản lý đã thay đổi. Nếu thời kỳ 1986 –

2000, quản lý nhà nước về công tác lưu trữ tập trung lớn vào xây dựng hệ thống tổ

chức lưu trữ và đội ngũ cán bộ của ngành thì thời kỳ 2001 – 2012, những vấn đề này

đã giảm mạng để chuyển hướng sang quy định và hướng dẫn nghiệp vụ.

Cơ cấu văn bản quản lý do cơ quan nhà nước ban hành như trên cho thấy hai

đặc điểm:

- Nội dung quản lý công tác lưu trữ tập trung chủ yếu vào hoạt động của các cơ

quan lưu trữ nhà nước;

- Quản lý nhà nước công tác lưu trữ thông qua các văn bản quy định có tính

pháp lý tập trung cao ở Trung ương.

3.2. Hệ khái niệm

Trong các văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 1986-2012 đều tuyên bố công

tác lưu trữ được Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất nhưng không giải thích rõ

khái niệm này. Tuy vậy, các văn bản này đều xác định và định nghĩa một số khái niệm

cơ bản để trở thành cách hiểu và áp dụng thống nhất trong công tác lưu trữ trên phạm

vi cả nước. Vì các văn bản có tính pháp lý cao đều được đảm bảo thực hiện từ quyền

lực Nhà nước nên việc đưa ra các định nghĩa trong văn bản có tính pháp lý cao không

chỉ có ý nghĩa tạo sự đồng thuận, mà còn phản ảnh tính chất định hướng của Nhà nước

đối với nhận thức thống nhất trong công tác lưu trữ. Đồng thời, các khái niệm và định

nghĩa được xác định trong văn bản có tính pháp lý cao là một biểu hiện cho tính tập

quyền cao ở Trung ương, đồng thời tính thống nhất trên phạm vi cả nước trong một

lĩnh vực chuyên môn như công tác lưu trữ. Những khái niệm và sự thay đổi về cách

hiểu được thể hiện qua các văn bản có giá trị pháp lý cao của ngành lưu trữ được thể

hiện trong bảng sau:

Page 33: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

32

Bảng 1. Những khái niệm được định nghĩa trong Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn

1986 -2012

TT Khái niệm Pháp lệnh bảo

vệ tài liệu lƣu

trữ 1982

Pháp lệnh Lƣu

trữ Quốc gia

2001

Luật Lƣu

trữ 2011

1. Tài liệu 0 0 +

2. Tài liệu lưu trữ + + +

3. Kho lưu trữ _ _ _

4. Bản chính, bản gốc, bản sao

hợp pháp hay bản sao có giá trị như bản chính (*)

_ _ _

5. Phông Lưu trữ Quốc gia Việt

Nam

0 + +

6. Phông Lưu trữ Nhà nước

Việt Nam

0 + +

7. Phông Lưu trữ Đảng Cộng

sản Việt Nam

0 + +

8. Tài liệu văn thư 0 + 0

9. Lưu trữ hiện hành 0 + +

10. Lưu trữ lịch sử 0 + +

11. Bảo hiểm tài liệu lưu trữ _ + +

12. Hồ sơ và lập hồ sơ _ 0 +

13. Hoạt động lưu trữ 0 0 +

14. Thu thập tài liệu _ _ +

15. Xác định giá trị tài liệu _ _ +

16. Chỉnh lý tài liệu _ _ +

17. Tài liệu lưu trữ điện tử 0 0 +

18. Tài liệu có giá trị bảo quản

vĩnh viễn

0 0 +

19. Tài liệu bảo quản có thời hạn 0 0 +

20. Tài liệu hết giá trị 0 0 +

21. Tài liệu quý, hiếm _ _ _

22. Chứng thực lưu trữ 0 _ +

23. Dịch vụ lưu trữ 0 0 +

24. Quản lý nhà nước về công

tác lưu trữ/ Quản lý về lưu

trữ

_ _ _

25. Chứng chỉ hành nghề lưu trữ 0 0 _ Ghi chú bảng:

0 Không đề cập + Có định nghĩa

_ Đề cập nhưng không định nghĩa * Định nghĩa trong văn bản hướng dẫn dưới luật

Page 34: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

33

Như thế, về mặt số lượng, các khái niệm được định nghĩa và quy định bằng văn

bản pháp lý cao ngày càng nhiều. So với Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ, số lượng

khái niệm được định nghĩa trong văn bản tăng 62.5% của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia,

và tăng 87.5% của Luật Lưu trữ. Sự gia tăng số lượng như vậy không chỉ thông qua

việc bổ sung khái niệm mới như khái niệm "hoạt động lưu trữ", khái niệm "tài liệu",

mà còn thông qua việc nâng tính pháp lý của khái niệm được định nghĩa từ văn bản

dưới luật lên văn bản luật. Từ so sánh như trên, số lượng khái niệm được bổ sung đáng

kể từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia so với Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ, và Luật Lưu

trữ cũng bổ sung thêm hơn 30% (9/25) số lượng khái niệm so với Pháp lệnh Lưu trữ

Quốc gia.

Không chỉ thay đổi về số lượng, những thay đổi về nội dung các định nghĩa

cũng cho thấy sự chuyển biến về quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ qua

các văn bản Pháp lệnh và Luật. Thống kê sau đây cho phản ảnh sự chuyển biến này:

Page 35: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

34

Bảng 2. Sự thay đổi định nghĩa qua Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 - 2012

Khái niệm Pháp lệnh bảo vệ tài liệu

lƣu trữ 1982

Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia

2001

Luật Lƣu trữ 2011

Tài liệu 0 0 là vật mang tin hình thành trong quá trình

hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân

Tài liệu lưu trữ Tài liệu lưu trữ quốc gia là

tài liệu có giá trị về chính

trị, quân sự, kinh tế, văn

hoá, giáo dục, xã hội, khoa

học, kỹ thuật, được hình

thành trong quá trình hoạt

động của các cơ quan Đảng

và Nhà nước, tổ chức xã

hội, đơn vị vũ trang và các

nhân vật, trải qua các thời

kỳ lịch sử của dân tộc Việt

Nam, phục vụ việc nghiên

cứu lịch sử, khoa học và

công tác thực tiễn.

Tài liệu lưu trữ quốc gia

phải là bản chính của văn

kiện hoặc tài liệu khác ghi

trên giấy, phim, ảnh, băng,

đĩa ghi âm, hoặc bằng các

Tàiliệu lưu trữ quốc gia là tài

liệu có giá trị về chính trị, kinh

tế, quốc phòng,an ninh, ngoại

giao, văn hóa, giáo dục, khoa

học và công nghệ được hình

thành trong các thời kỳ lịch sử

của dân tộc Việt Nam, trong

quá trình hoạt động củacác cơ

quan nhà nước, tổ chức chính

trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ

chức xã hội, tổ chức xã hội -

nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,

đơn vị vũ trang nhân dân(sau

đây gọi chung là cơ quan, tổ

chức) và các nhân vật lịch sử,

tiêu biểu phụcvụ việc nghiên

cứu lịch sử, khoa học và hoạt

động thực tiễn.

Tài liệu lưu trữ quốc gia phải là

Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ

hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học,

lịch sử được lựa chọn để lưu trữ .

Tài liệu lưu trữ bao gồm bản gốc, bản

chính; trong trường hợp không còn bản

gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản

sao hợp pháp

Page 36: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

35

phương pháp ghi tin khác;

trong trường hợp không

còn bản chính mới được

thay thế bằng bản sao có

giá trị như bản chính.

bản chính, bản gốc của tài liệu

được ghi trêngiấy, phim, ảnh,

băng hình, đĩa hình, băng âm

thanh, đĩa âm thanh hoặc các

vậtmang tin khác; trong trường

hợp không còn bản chính, bản

gốc thì được thay thế bằng bản

sao hợp pháp.

Phông Lưu trữ Quốc

gia Việt Nam

0

(định nghĩa trong Quyết

định 168/HĐBT ngày

26/12/1981 của Hội đồng

Bộ trưởng về việc thành

lập Phông Lưu trữ Quốc

gia Việt Nam)

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ của

nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, không phân

biệt thời gian, xuất xứ, chế độ

xã hội, nơi bảo quản, kỹ thuật

làm ra tài liệu đó.

Phông lưu trữ quốc gia Việt

Nam bao gồm Phông lưu trữ

Đảng Cộng sản Việt Nam và

Phông lưu trữ Nhà nước Việt

Nam.

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt

Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình

thành, nơi bảo quản, chế độ chính trị - xã

hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin.

Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm

Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam.

Phông Lưu trữ Nhà

nước Việt Nam

0 Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được

hình thành trong quá trình hoạt

động của các cơ quan nhà

nước, tổ chức xã hội,tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành

trong quá trình hoạt động của các cơ quan

nhà nước, tổ chức chính trị xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -

nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự

Page 37: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

36

tế, đơn vị vũ trang nhân dân,

các nhân vật lịch sử, tiêu biểu

và tài liệu khác có giá trị về các

lĩnh vực quyđịnh tại Điều 1 của

Pháp lệnh này

nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân vật

lịch sử, tiêu biểu và tài liệu khác được hình

thành qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.

Phông Lưu trữ Đảng

Cộng sản Việt Nam

0 Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được

hình thành trong quá trình hoạt

động của các cơ quan, tổ chức

của Đảng Cộng sảnViệt Nam,

tổ chức tiền thân của Đảng, tổ

chức chính trị - xã hội; tài liệu

về thân thế, sự nghiệp và hoạt

động của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, của các nhân vật lịch sử,

tiêu biểu của Đảng, các nhân

vật lịch sử, tiêu biểu của Đảng

đồng thời là các cán bộ lãnh

đạo chủ chốt của Nhà nước,

của các tổ chức chính trị - xã

hội.

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành

trong quá trình hoạt động của các tổ chức

của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tiền

thân của Đảng, các tổ chức chính trị - xã

hội; các nhân vật lịch sử, tiêu biểu của

Đảng, tổ chức tiền thân của Đảng và của

các tổ chức chính trị - xã hội.

Lưu trữ hiện hành 0 Là bộ phận lưu trữ của cơ

quan, tổ chức có nhiệm vụ thu

thập, bảo quản và phục vụ sử

dụng tài liệu lưu trữ được tiếp

Là tổ chức thực hiện hoạt động lưu trữ đối

với tài liệu lưu trữ của cơ quan, tổ chức.

Page 38: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

37

nhận từ các đơn vị thuộc cơ

quan, tổ chức.

Lưu trữ lịch sử 0 Là cơ quan lưu trữ có nhiệm vụ

thu thập, bảo quản lâu dài và

phục vụ sử dụng tài liệu lưu trữ

được tiếp nhận từ lưu trữ hiện

hành và các nguồn tài liệu khác

Là cơ quan thực hiện hoạt động lưu trữ đối

với tài liệu lưu trữ có giá trị bảo quản vĩnh

viễn được tiếp nhận từ Lưu trữ cơ quan và

từ các nguồn khác.

Bảo hiểm tài liệu lưu

trữ

_ Là việc thực hiện các biện pháp

sao chụp,bảo quản tài liệu lưu

trữ tại kho lưu trữ chuyên dụng

riêng biệt tách rời bản chính,

bản gốc đối với tài liệu lưu trữ

đặc biệt quý, hiếm nhằm bảo

vệ an toàn tài liệu đó

Bản sao bảo hiểm tài liệu lưu trữ là bản sao

từ tài liệu lưu trữ theo phương pháp, tiêu

chuẩn nhất định nhằm lưu giữ bản sao đó

dự phòng khi có rủi ro xảy ra đối với tài

liệu lưu trữ

Hồ sơ và lập hồ sơ _ 0 Hồ sơ là một tập tài liệu có liên quan với

nhau về một vấn đề, một sự việc, một đối

tượng cụ thể hoặc có đặc điểm chung, hình

thành trong quá trình theo dõi, giải quyết

công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm

vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Lập hồ sơ là việc tập hợp, sắp xếp tài liệu

hình thành trong quá trình theo dõi, giải

quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá

nhân thành hồ sơ theo những nguyên tắc và

Page 39: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

38

phương pháp nhất định.

Hoạt động lưu trữ 0 0 Hoạt động lưu trữ là hoạt động thu thập,

chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống

kê, sử dụng tài liệu lưu trữ

Thu thập tài liệu _ _ Thu thập tài liệu là quá trình xác định

nguồn tài liệu, lựa chọn, giao nhận tài liệu

có giá trị để chuyển vào Lưu trữ cơ quan,

Lưu trữ lịch sử.

Xác định giá trị tài

liệu

_ _ Xác định giá trị tài liệu là việc đánh giá giá

trị tài liệu theo những nguyên tắc, phương

pháp, tiêu chuẩn theo quy định của cơ quan

có thẩm quyền để xác định những tài liệu

có giá trị lưu trữ, thời hạn bảo quản và tài

liệu hết giá trị.

Chỉnh lý tài liệu _ _ Chỉnh lý tài liệu là việc phân loại, xác định

giá trị, sắp xếp, thống kê, lập công cụ tra

cứu tài liệu hình thành trong hoạt động của

cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Tài liệu lưu trữ điện

tử

0 0 Tài liệu lưu trữ điện tử là tài liệu được tạo

lập ở dạng thông điệp dữ liệu hình thành

trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ

chức, cá nhân được lựa chọn để lưu trữ

hoặc được số hóa từ tài liệu lưu trữ trên các

vật mang tin khác.

Page 40: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

39

Tài liệu có giá trị bảo

quản vĩnh viễn

0 0 Tài liệu bảo quản vĩnh viễn là tài liệu có ý

nghĩa và giá trị không phụ thuộc vào thời

gian

Tài liệu có giá trị bảo

quản có thời hạn

0 0 Tài liệu bảo quản có thời hạn là tài liệu

không thuộc trường hợp quy định tại khoản

1 Điều này và được xác định thời hạn bảo

quản dưới 70 năm .

Tài liệu hết giá trị 0 0 Tài liệu hết giá trị cần loại ra để hủy là tài

liệu có thông tin trùng lặp hoặc đã hết thời

hạn bảo quản theo quy định và không còn

cần thiết cho hoạt động thực tiễn, nghiên

cứu khoa học, lịch sử.

Tài liệu lưu trữ quý,

hiếm

_ _ _

Chứng thực tài liệu

lưu trữ

0 0 Chứng thực lưu trữ là xác nhận của cơ

quan, tổ chức hoặc Lưu trữ lịch sử về nội

dung thông tin hoặc bản sao tài liệu lưu trữ

do Lưu trữ cơ quan hoặc Lưu trữ lịch sử

đang quản lý

Dịch vụ lưu trữ 0 0 Các hoạt động dịch vụ lưu trữ bao gồm:

a) Bảo quản, chỉnh lý, tu bổ, khử trùng,

khử axit, khử nấm mốc, số hóa tài liệu lưu

trữ không thuộc danh mục bí mật nhà

nước;

Page 41: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

40

b) Nghiên cứu, tư vấn, ứng dụng khoa học

và chuyển giao công nghệ lưu trữ.

Quản lý nhà nước về

công tác lưu trữ

/Quản lý về lưu trữ

_ _ _

Chứng chỉ hành nghề

lưu trữ

0 0 _

Ghi chú bảng:

0 Không đề cập

_ Đề cập nhưng không định nghĩa

+ Có định nghĩa

* Được định nghĩa trong văn bản hướng dẫn dưới luật

Page 42: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

41

Về hình thức diễn đạt, các khái niệm trong Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia được

định nghĩa không thay đổi nhiều so với Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, chủ yếu

thông qua sáp nhập nội dung Quyết định 168/HĐBT ngày 26/12/1981 của Hội đồng

Bộ trưởng về việc thành lập Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam với Pháp lệnh Bảo vệ

tài liệu lưu trữ, đồng thời cụ thể hóa một số khái niệm mới. Điều đó thể hiện ở:

- Pháp lệnh lưu trữ Quốc gia định nghĩa lại gần như toàn bộ nội dung của khái

niệm "tài liệu lưu trữ" trong Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ. Các từ ngữ được thay

đổi bao gồm: thay đổi tên gọi của các nguồn tạo ra tài liệu từ cơ quan Đảng và Nhà

nước thành các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,...;

bổ sung nguồn tạo nên tài liệu là các nhân vật lịch sử tiêu biểu;

- Khái niệm Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam được lặp lại trọn vẹn từ Quyết

định 168/HĐBT ngày 26/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Phông

Lưu trữ Quốc gia Việt Nam;

- Bổ sung và định nghĩa cụ thể các khái niệm Phông Lưu trữ nhà nước, Phông

Lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam, lưu trữ hiện hành, lưu trữ lịch sử;

So với Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia, hệ khái niệm trong Luật Lưu trữ Việt Nam

thay đổi không đáng kể, tập trung vào giảm liệt kê, tách khái niệm cơ bản khỏi khái

niệm chuyên môn, định nghĩa khái niệm cơ bản để dùng khái niệm cơ bản cho định

nghĩa khái niệm chuyên môn. Nhờ đó, các định nghĩa của khái niệm chuyên môn ngày

càng ngắn gọn và khái quát nhưng vẫn giữ nguyên nội hàm chính của khái niệm đã

được đề cập từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia. Quan niệm về tài liệu lưu trữ và các

nghiệp vụ lưu trữ về cơ bản không thay đổi, chỉ thay đổi về cách diễn đạt để đảm bảo

tính khái quát và toàn diện hơn. Điều đó thể hiện qua những điểm sau:

- Khái niệm "tài liệu" được bổ sung trong Luật Lưu trữ như một khái niệm cơ sở

để định nghĩa khái niệm "tài liệu lưu trữ"; khái niệm "hoạt động lưu trữ" được bổ sung

để làm cơ sở định nghĩa các khái niệm "lưu trữ lịch sử", "lưu trữ hiện hành";

- Thay việc liệt kê các nguồn hình thành tài liệu lưu trữ trong Pháp lệnh Lưu trữ

Quốc gia bằng cụm từ "cơ quan, tổ chức, cá nhân";

- Giá trị của tài liệu lưu trữ về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội,... được khái quát thành 3 loại giá trị: thực tiễn, khoa học và lịch sử;

- Các khái niệm về nghiệp vụ văn thư – lưu trữ như "hồ sơ", "lập hồ sơ", "thu

thập tài liệu", "chỉnh lý tài liệu", "xác định giá trị tài liệu", "tài liệu lưu trữ điện tử",

"chứng thực tài liệu lưu trữ", các khái niệm về thời hạn bảo quản tài liệu được định

nghĩa lần đầu tiên trong văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật Lưu trữ.

Page 43: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

42

Về nội dung, các khái niệm được định nghĩa lại cho phản ảnh rõ những thay đổi

trong quan điểm quản lý nhà nước. Đến Luật Lưu trữ, khái niệm "tài liệu lưu trữ"

không thay đổi về nội hàm nhưng bổ sung tính "được lựa chọn" trong đặc điểm của tài

liệu này khiến cho vai trò của người làm lưu trữ và các nghiệp vụ lưu trữ, cũng như

việc gắn giá trị của tài liệu lưu trữ với nhu cầu sử dụng trở nên quan trọng hơn. Việc

bổ sung hai khái niệm "Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam" và "Phông Lưu trữ Đảng

cộng sản Việt Nam" bên cạnh khái niệm "Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam" trong

hai văn bản ban hành sau là dấu hiệu của sự phân tán trong quản lý tài liệu lưu trữ mà

những nội dung của hệ chuẩn mực sẽ cho thấy rõ. Việc bỏ cụm từ "đồng thời là các

cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước" trong định nghĩa "Phông Lưu trữ Đảng Cộng

sản Việt Nam" thể hiện sự giới hạn phạm vi tài liệu của phông này và mở rộng phạm

vi tài liệu của "Phông Lưu trữ Nhà nước". Song, mặc dù khái niệm "Phông Lưu trữ

Nhà nước" đề cập tới tài liệu của nhiều thành phần xã hội khác nhau, bao gồm cả

những nhân vật lịch sử tiêu biểu song những cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc

khu vực tư nhưng vẫn tạo ra tài liệu lưu trữ có giá trị như các hội nghề nghiệp, các

cộng đồng dân cư, các nhóm xã hội chưa được đề cập tới trong định nghĩa này. Cho

nên, mặc dù định nghĩa về "Phông Lưu trữ Quốc gia" rất khái quát nhưng việc xác

định phạm vi của hai phông lưu trữ thuộc Phông Lưu trữ Quốc gia lại không đầy đủ vì

chưa xét tới tài liệu của nhiều chủ thể tạo ra tài liệu là nhân dân.

Các định nghĩa được từng bước bổ sung vào các văn bản phản ảnh mục tiêu của

cơ quan quản lý nhà nước trong việc "làm cho xã hội hiểu rõ hơn về hoạt động lưu

trữ" (TS. Vũ Minh Hương 2011) cũng như góp phần quan trọng trong định hướng

nhận thức thống nhất về công tác lưu trữ. Hơn thế nữa, các khái niệm mới như "tài liệu

lưu trữ điện tử", "dịch vụ lưu trữ", "chứng thực lưu trữ",... cho thấy sự cập nhật của

những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền soạn thảo và ban hành văn bản về những vấn

đề mới phát sinh trong thực tiễn công tác lưu trữ, nhất là trong điều kiện vận hành của

nền kinh tế theo hướng thị trường như hiện nay. Tính khách quan, phi chính trị và xu

hướng dân chủ được thể hiện rõ qua việc bỏ điều khoản quy định về "sở hữu toàn dân"

đối với tài liệu lưu trữ trong Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, thay cụm từ "nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" bằng "nước Việt Nam" trong định nghĩa về Phông

Lưu trữ Quốc gia Việt Nam.

Tuy nhiên, những khái niệm đã xuất hiện nhiều lần trong cả ba văn bản nhưng

không được định nghĩa, đặc biệt là hai khái niệm "tài liệu lưu trữ quý, hiếm" và "quản

lý nhà nước về lưu trữ" cho thấy khoảng trống, thậm chí là những khúc mắc của đơn

vị soạn thảo và ban hành văn bản về khái niệm đó và có thể bao gồm những vấn đề

liên quan tới khái niệm. Việc chỉ đề cập tới hai khái niệm "lưu trữ hiện hành" và "lưu

trữ lịch sử" với cách định nghĩa gắn chức năng của các lưu trữ này với nguồn bổ sung

đã khiến cho hoạt động lưu trữ được đề cập trong Luật bị giới hạn trong các cơ quan

Page 44: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

43

lưu trữ nhà nước3 mà bỏ quan những lưu trữ tự phát hay có mục tiêu, hoặc các mô

hình tương tự như lưu trữ của các tổ chức nhân dân, các cộng đồng, các nhóm xã hội,

thậm chí là các cá nhân, gia đình, dòng họ trong khi Luật thừa nhận việc sở hữu tài

liệu lưu trữ.

Định nghĩa về "tài liệu lưu trữ" đã có thay đổi qua thời gian, nhưng việc nhấn

mạnh nhiều tới nguồn gốc tạo ra tài liệu là các cơ quan, tổ chức, đồng thời coi trọng

tính chất "bản chính, bản gốc" lại khiến cho định nghĩa này khó áp dụng đối với tài

liệu của nhân dân. Bởi lẽ, không ít người dân đánh giá giá trị của tài liệu để lựa chọn

lưu giữ lại không dựa trên những yếu tố này. Chẳng hạn, với tác phẩm của một tác giả

viết sách, bản thảo của người đó được coi là bản gốc và được các học giả lưu trữ học

coi trọng nhất, đặc biệt là khi chúng được tạo thành bằng chữ viết tay hoặc có chữ viết

tay sửa chữa của tác giả (còn gọi là thủ bút). Tuy nhiên, trong không ít trường hợp,

bản thân tác giả không giữ lại bản thảo viết tay vì bản in chính thức trùng hoàn toàn về

nội dung với bản thảo và bản in chính thức đó đủ chứng minh cho hoạt động của tác

giả như trường hợp tài liệu của Giáo sư Lê Mậu Hãn, Phó Giáo sư Hoàng Văn Khoán,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội4. Đồng thời,

sự ảnh hưởng của phương tiện chế tác có thể xóa nhòa ranh giới phân biệt giữa bản

gốc và bản chính (Jenkinson 1922). Một số trường hợp khác, bản thân kỹ thuật chế tác

lại tạo nên giá trị của tài liệu. Tác phẩm "Nghiên cứu kỹ thuật của người An Nam" hay

"Lục Vân Tiên"5, Mộc bản chủa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang hay tài

liệu ghi trên lá Buông của đồng bào Khmer tại hai tỉnh An Giang (Chi Cục Văn thư -

Lưu trữ tỉnh An Giang 2013) và Kiên Giang (Văn Việt 2013) là những trường hợp như

vậy. Hơn thế nữa, với nhiều trường hợp khác như các tác phẩm hội họa, tài liệu của cá

nhân chỉ được phép có 1 bản, vừa là bản gốc, vừa là bản chính, các bản sao hoặc bản

giả đều có giá trị thấp6. Khi đó, người làm lưu trữ không thể áp dụng khái niệm "bản

3 Các văn bản quy định dưới Pháp lệnh và Luật về danh mục cơ quan, tổ chức là nguồn nộp lưu chỉ đề cập tới các cơ quan nhà nước và một số cá nhân tiêu biểu nên khi gắn chức năng của các lưu trữ với nguồn bổ sung sẽ làm chức năng nó bị giới hạn với cơ quan nhà nước. 4 Báo cáo khảo sát của sinh viên Lê Thị Quyên trong quá trình thực hiện đề tài khoa học "Tài liệu lưu trữ của những nhà giáo Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội", thực hiện năm 2014 do Ths. Phạm Thị Diệu Linh hướng dẫn. Theo báo cáo này, các giáo sư đều hạn chế giữ lại các bản thảo vì chất lượng giấy không tốt, nội dung bài viết hoặc sách đều được truyền tải đầy đủ trong bản in nên việc lưu giữ lại bản in thuận tiện và dễ chia sẻ với người đọc hơn. 5 "Nghiên cứu kỹ thuật của người An Nam" là cuốn sách của tác giả Henri OGER thực hiện cùng một họa sĩ là người Việt Nam. Bộ sách gồm 2 tập, chỉ được in hơn 60 bản bằng kỹ thuật in dập khắc của người Việt Nam và in tại Việt Nam nên không thực hiện nộp lưu chiểu và chỉ xuất hiện trong các sưu tập cá nhân. Vì thế, bên cạnh hơn 4000 trang bản thảo, bao gồm cả những ghi chép và ký họa của các tác giả, bản thân ấn phẩm cũng được lưu giữ tại Pháp không chỉ vì nội dung thông tin mà vì tính độc đáo trong kỹ thuật tạo ra nó như là một bằng chứng cho "Kỹ thuật của người An Nam". Tác phẩm "Lục Vân Tiên" cũng có đặc điểm tương tự. Thông tin cung cấp của Triển lãm tư liệu về Việt Nam tại Trung tâm văn hóa Pháp (Le'space) Hà Nội tháng 10 năm 2013. 6 Bản gốc hay bản chính là tác phẩm do tác giả tạo ra, thông thường sẽ có chữ ký của tác giả trên tác phẩm. Bản chép

hay bản sao là bản vẽ lại tác phẩm gốc do họa sĩ khác thực hiện, có thể có hoặc không có chữ ký của người vẽ lại. Bản giả là tác phẩm do người khác vẽ lại để làm giả tác phẩm chính nên họ sẽ cố gắng không tạo ra sự khác biệt nào. Trong trường hợp tranh của Bùi Xuân Phái, bản gốc hay bản chính có thể định giá hàng nghìn đô la Mỹ, nhưng bản chép chỉ có giá vài triệu đồng Việt Nam, còn bản giả xuất hiện trên thị trường đã gây nhiều thiệt hại cho người sở hữu bởi nó không

Page 45: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

44

sao có giá trị tương đương". Cùng với đó, những tiến bộ của công nghệ đã tạo điều

kiện cho nhân dân sáng tạo và chia sẻ hàng loạt tài liệu mà tính pháp lý và tính xác

thực của chúng còn phải được nghiên cứu tiếp. Cho nên, sự đa dạng và phong phú của

tài liệu lưu trữ nhân dân đã phá vỡ mọi giới hạn cho định nghĩa về tài liệu lưu trữ, từ

nguồn gốc hình thành, thể loại, kỹ thuật chế tác tới nội dung. Và vì thế, định nghĩa

trong những quy định như trên, về cơ bản vẫn chỉ phù hợp với tài liệu lưu trữ do nhà

nước và của nhà nước.

Tương tự như vậy, các định nghĩa cho những nghiệp vụ lưu trữ hướng đến việc

áp dụng chủ yếu cho các lưu trữ nhà nước. Ví dụ như việc xác định giá trị tài liệu của

người dân để họ lưu giữ lại dựa vào trước hết là nhu cầu sử dụng của họ, và sau đó là

giá trị của tài liệu đó đối với cuộc sống của họ. Cho nên, việc xác định giá trị này

không phụ thuộc vào những "nguyên tắc, tiêu chuẩn theo quy định của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền", mà ngược lại, phụ thuộc vào thiên kiến chủ quan của chủ sở

hữu mà trong những trường hợp rất phổ biến đó, các cơ quan có thẩm quyền không thể

can thiệp được. Vì thế, định nghĩa về "xác định giá trị" không phù hợp với tài liệu và

hoạt động lưu giữ tài liệu của người dân.

3.3. Hệ chuẩn mực

Hệ chuẩn mực của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thể hiện trong các quy

định về công tác lưu trữ có tính bắt buộc thực hiện. Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ

và Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia đều tuyên bố rõ: "Lưu trữ Quốc gia đặt dưới sự lãnh

đạo của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước"(Điều 3 Pháp lệnh Lưu trữ

Quốc gia). "Nhà nước quản lý theo nguyên tắc tập trung, thống nhất"(Điều 1 Pháp

lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ). Nhưng đến Luật Lưu trữ, các nguyên tắc này không được

nhắc lại chính thức và được thay thế hoặc cụ thể hóa bằng những quy định chi tiết về

trách nhiệm quản lý nhà nước về lưu trữ. Cùng với đó, ở mỗi phần quy định về các nội

dung của hoạt động lưu trữ đều có những điều khoản về trách nhiệm của cơ quan có

thẩm quyền. Các quy định này có thể chia thành các nhóm chính:

3.3.1. Nhóm quy định về quản lý nhà nước công tác lưu trữ:

Trong các văn bản có tính pháp lý cao của ngành lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012

đều có những phần quy định riêng về hoạt động quản lý nhà nước. Nội dung và mức

độ chi tiết của những quy định này có thay đổi theo hướng ngày càng cụ thể qua từng

văn bản với hai nội dung chính là: thẩm quyền và nội dung quản lý về công tác lưu trữ

của nhà nước.

đem lại giá trị nghệ thuật chính xác như bản gốc nhưng vẫn được bán với giá như bản gốc. Bản giả được coi là một sản phẩm vô đạo đức của giới mỹ thuật. Thông tin từ chia sẻ của họa sĩ Bùi Thanh Phương và các họa sĩ khác.

Page 46: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

45

Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác lưu trữ được quy định

như sau:

Cơ quan Pháp lệnh Bảo vệ tài

liệu lƣu trữ

Pháp lệnh Lƣu trữ

Quốc gia

Luật Lƣu trữ

Trung ương Thủ trưởng các ngành

ở Trung ương

Chính phủ

Cơ quan lưu trữ trung

ương

Chính phủ

Bộ Nội vụ

Địa phương Chủ tịch UBND các

cấp

Chủ tịch UBND các

cấp

Ủy ban nhân dân các

cấp

Tuy nhiên, cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ ở trung ương và Ủy ban nhân dân

(UBND) các cấp ở địa phương trong quản lý nhà nước về công tác lưu trữ có sự điều

chỉnh thường xuyên, tập trung trong giai đoạn từ 1998 – 2013 sau hàng loạt các văn

bản dưới luật quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan lưu trữ.

Những quy định này đã từng bước thiết lập hệ thống cơ quan có thẩm quyền quản lý

chuyên môn về công tác lưu trữ từ Trung ương tới địa phương với sự thay đổi cơ quan

chủ quản ở Trung ương từ Văn phòng Phủ Thủ tướng sang Ban Tổ chức – Cán bộ

Chính phủ, sau đó là Bộ Nội vụ. Điều đó kéo theo hàng loạt thay đổi ở địa phương.

Các Trung tâm Lưu trữ địa phương được thành lập, đảm nhiệm hai vai trò quản lý tài

liệu và giúp lãnh đạo địa phương quản lý công tác lưu trữ đã được coi là bước tiến

quan trọng của ngành. Tuy nhiên, cơ quan này bị xáo trộn sau đó, từng bước tách chức

năng quản lý tài liệu khỏi chức năng tham mưu, giúp lãnh đạo địa phương quản lý nhà

nước. Những thay đổi về thẩm quyền quản lý công tác lưu trữ của các cơ quan này

được thể hiện trong bảng dưới đây:

Page 47: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

46

Cơ quan Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lƣu trữ Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia Luật Lƣu trữ

Trung ƣơng

Hội đồng bộ trưởng: quản lý tập

trung, thống nhất tài liệu lưu trữ

Chính phủ quản lý thống nhất về lưu

trữ

Văn phòng chính phủ, sau đó là Bộ

Nội vụ giúp Chính phủ quản lý nhà

nước về công tác lưu trữ (*)

Cục Lưu trữ, sau đó là Cục Văn thư và

Lưu trữ Nhà nước giúp Bộ Nội vụ

quản lý công tác lưu trữ (*)

Chính phủ thống nhất quản lý nhà

nước về lưu trữ

Bộ Nội vụ Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm

trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về lưu trữ và quản lý tài liệu

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam

Cơ quan thuộc Hội đồng bộ trưởng

quản lý công tác và tài liệu lưu trữ

trong ngành và các đơn vị trực

thuộc

Văn phòng các bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ quản lý công

tác lưu trữ theo ngành dọc (*)

Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, cơ quan trung ương của tổ

chức chính trị - xã hội trong phạm vi

nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực

hiện quản lý về lưu trữ

Các cơ quan lưu trữ Nhà nước

trung ương có trách nhiệm quản lý

tập trung, thống nhất công tác lưu

trữ; xây dựng các chế độ quản lý,

chế độ nghiệp vụ lưu trữ; hướng

dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực

hiện các chế độ đó trong cả nước;

quản lý các cơ quan nghiên cứu

khoa học lưu trữ, các cơ sở đào tạo

và bồi dưỡng cán bộ lưu trữ; trực

Các trung tâm lưu trữ quốc gia chỉ

quản lý tài liệu lưu trữ có ý nghĩa quốc

gia, không quản lý công tác lưu trữ (*)

Chưa thay đổi so với Pháp lệnh Lưu

trữ Quốc gia

Page 48: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

47

tiếp quản lý các tài liệu lưu trữ có ý

nghĩa toàn quốc

Địa phƣơng

UBND chỉ đạo tổ chức, quản lý tài

liệu lưu trữ tại địa phương

Chủ tịch UBND các cấp quản lý thống

nhất công tác lưu trữ (*)

Văn phòng UBND các cấp giúp Chủ

tịch UBND quản lý công tác lưu trữ

trên địa bàn

Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm

vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực

hiện quản lý nhà nước về lưu trữ ở địa

phương

Sở Nộ vụ, Phòng nội vụ các cấp giúp

UBND quản lý công tác lưu trữ (*)

Cơ quan lưu trữ thuộc Uỷ ban nhân

dân các cấp, quản lý công tác lưu

trữ và tài liệu lưu trữ trong địa

phương

Lưu trữ lịch sử các cấp gồm: Trung

tâm lưu trữ tỉnh/thành phố trực thuộc

trung ương, lưu trữ lịch sử huyện quản

lý tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ

tại địa phương. (*)

Tương tự như Pháp lệnh Lưu trữ Quốc

gia nhưng bỏ lưu trữ lịch sử cấp huyện

(*)

Bảng 3. So sánh thẩm quyền quản lý công tác lưu trữ trong quy định của Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012

Ghi chú bảng:

(*) Quy định trong văn bản dưới luật, pháp lệnh

Page 49: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

48

Theo thống kê và so sánh ở trên, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác

lưu trữ và tài liệu lưu trữ được thiết kế theo hệ thống cơ quan hành chính – hành pháp

và không có quy định nào thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của những tổ chức lưu trữ

tư. Riêng thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ của các cơ quan trong hệ thống Đảng

cộng sản Việt Nam được giao cho Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương đảng thực hiện

theo quy định của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ. Điều đó, một lần nữa,

là biểu hiện của sự phân tách và mâu thuẫn với nguyên tắc quản lý tập trung, thống

nhất công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ đã được đặt ra từ quy định của Pháp lệnh Bảo

vệ tài liệu lưu trữ.

Các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý thống nhất về công tác lưu trữ ở trung

ương và địa phương đều thuộc về cơ quan quản lý hành chính – hành pháp cao nhất ở

mỗi cấp nên về cơ bản không thay đổi. Sự thay đổi cơ quan chuyên môn, tham mưu,

giúp việc cho cơ quan quản lý hành chính cao nhất không những không thể hiện rõ sự

thay đổi mục tiêu tổng quát quản lý nhà nước mà còn khiến cho công tác lưu trữ càng

có xu hướng trở thành hoạt động phục vụ nhà nước. Bởi lẽ, khi giao công tác lưu trữ

cho cơ quan Bộ có chức năng chính là quản lý các vấn đề thuộc hoạt động nội bộ của

bộ máy nhà nước thì khả năng phục vụ của công tác lưu trữ đối với toàn xã hội càng

có nguy cơ bị giới hạn trong phục vụ hoạt động của chính nhà nước. Quan điểm này

được khẳng định trong bài viết của nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Văn Tất Thu trong

giai đoạn chuẩn bị ban hành Luật Lưu trữ: "Công tác lưu trữ là sự nghiệp chính trị thể

hiện ở chính bản thân nó làm nhiệm vụ bảo quản và tổ chức sử dụng các tài liệu có ý

nghĩa chính trị, phục vụ trước hết cho lợi ích của nhà nước, của giai cấp, của Đảng

cầm quyền. Ngoài ra, tính chất chính trị của công tác lưu trữ còn thể hiện ở nội hàm

tính chất có mật của nó" (TS. Văn Tất Thu 2011).

Nội dung quản lý về công tác lưu trữ được đề cập chủ yếu trong Pháp lệnh Lưu

trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ nhưng một số nội dung bị lược bỏ và thay đổi:

Bảng 4. So sánh nội dung quy định về quản lý nhà nước công tác lưu trữ trong Pháp

lệnh Lưu trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ

Văn bản/Vấn đề Giống nhau Khác nhau

Pháp lệnh Lƣu

trữ Quốc gia

- Quy định trách nhiệm

quản lý về công tác lưu trữ

- Quy định quản lý nhà

nước về công tác lưu trữ

bao gồm hoạt động hợp

tác quốc tế

- Cụ thể hóa vấn đề hợp

Xác định nhiều vấn đề thuộc nội

dung quản lý nhà nước: lập kế

hoạch, ban hành văn bản, thống kê,

nghiên cứu khoa học, đào tạo cán

bộ,...

Luật Lƣu trữ Chỉ đề cập tới hai nội dung cơ bản

là: kinh phí, nhân lực cho công tác

Page 50: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

49

tác quốc tế trong lưu trữ

thành nguyên tắc thực

hiện và các nội dung hợp

tác cơ bản

lưu trữ và hợp tác quốc tế về lưu trữ

Tuyên bố thêm về chính sách lưu

trữ, bao gồm thừa nhận quyền sở

hữu tài liệu lưu trữ

Nếu những nội dung quản lý nhà nước công tác lưu trữ được xác định trong Pháp lệnh

Lưu trữ Quốc gia quá rộng, bao trùm cả những nội dung chuyên môn của các đơn vị

sự nghiệp lưu trữ và cơ quan nghiên cứu thì sự lược bỏ những nội dung này trong Luật

Lưu trữ lại khiến cho hoạt động quản lý trở nên thiếu xác đáng và không rõ ràng. Việc

kiểm soát tài chính phục vụ công tác lưu trữ là hết sức cần thiết nên việc đưa vấn đề

này vào Luật Lưu trữ là có cơ sở. Tuy nhiên, cách đề cập tới nội dung quản lý nhà

nước trong Luật Lưu trữ khiến cho mục tiêu định hướng hoạt động phục vụ thông tin

cho cộng đồng và nhà nước bị coi nhẹ so với quản lý tài chính và đối ngoại, từ đó tính

chất của công tác lưu trữ có nguy cơ bị thay đổi theo hướng không còn phù hợp với lý

do tồn tại của nó. Trong khi đó, chính sách phát triển ngành lưu trữ cũng chỉ đề cập tới

đầu tư tài chính và nhân lực cùng với điều khoản không rõ ràng về việc công nhận

quyền sở hữu tài liệu lưu trữ chưa đủ phản ảnh mục tiêu tổng quát của nhà nước đối

với sự phục vụ của ngành lưu trữ đối với xã hội.

Mặc dù có những thay đổi như vậy nhưng quan điểm chung của những quy định

này đều cho thấy vai trò trung tâm của nhà nước trong quản lý nhà nước về công tác

lưu trữ. Sự tham gia của người dân, trước hết là các cơ quan nghiên cứu, các nhà

nghiên cứu, các chủ sở hữu tài liệu vào quá trình quản lý nhà nước công tác lưu trữ

hoàn toàn không được thể hiện.

3.3.2. Nhóm quy định về trách nhiệm của các cơ quan lưu trữ trong quản lý và thực

hiện các nghiệp vụ lưu trữ

Vì các vấn đề nghiệp vụ lưu trữ tương đối tỷ mỷ và có tính chất chuyên môn sâu

nên thường được quy định trong các văn bản hướng dẫn dưới Luật, Pháp lệnh. Song,

trong các ba văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của ngành lưu trữ trong giai đoạn 1986

– 2012 vẫn đề cập một cách phân tán trong từng phần quy định về nghiệp vụ lưu trữ,

qua đó từng bước xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý công tác lưu trữ và cơ

quan quản lý tài liệu ở những mức độ khác nhau.

Page 51: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

50

Bảng 5. So sánh quy định trách nhiệm về nghiệp vụ lưu trữ trong các Pháp lệnh và

Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 - 2012

Văn bản Cơ quan Thu thập,

bổ sung

Bảo quản Xác định

giá trị

Chỉnh lý

Pháp

lệnh Bảo

vệ tài liệu

lƣu trữ

Hội đồng bộ

trưởng 0 + + 0

Cơ quan lưu trữ

* * * *

Cơ quan, tổ

chức, cá nhân + * * *

Pháp

lệnh Lƣu

trữ Quốc

gia

Chính phủ + 0 + 0

Cơ quan lưu

trữ Đảng + 0 0 0

Cơ quan lưu

trữ Nhà nước + * * *

Cơ quan lưu

trữ trung ương 0 + 0 0

Người đứng

đầu cơ quan, tổ chức

+ * + 0

Luật

Lƣu trữ

Người được

giao thực hiện

công việc

+ 0 * *

Người đứng

đầu cơ quan, tổ chức

+ * *

Lưu trữ cơ quan

+ * *

Lưu trữ lịch sử + * *

Bộ Nội vụ 0 0 + 0

Lưu trữ lịch sử Đảng cộng sản

Việt Nam

+ 0 0 0

Lưu trữ lịch sử

Nhà nước Việt

Nam

+ * *

Ghi chú bảng:

+ Có quy định trong văn bản

* Quy định trong văn bản dưới luật, pháp lệnh

0 Không quy định

Page 52: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

51

Như thế, các quy định về thẩm quyền quản lý nghiệp vụ lưu trữ của các cơ quan

trung ương đã có sự chuyển hướng từ việc tập trung quản lý và quy định chế độ bảo

quản, quản lý tài liệu tại cơ quan lưu trữ sang thiết lập nguyên tắc thu thập, bổ sung và

xác định giá trị. Điều này phản ảnh sự thay đổi tích cực trong quan điểm quản lý

nghiệp vụ lưu trữ. Bởi lẽ, các nghiệp vụ xác định giá trị và thu thập, bổ sung tài liệu là

những nghiệp vụ cơ bản, chịu sự chi phối và cần sự tham gia của nhiều cơ quan, bao

gồm cơ quan lưu trữ và các cơ quan hình thành nên tài liệu. Cho nên, những quy định

về thu thập, bổ sung và xác định giá trị không đơn thuần là quy định về nghiệp vụ, mà

phải có tác dụng điều chỉnh cả mối quan hệ giữa cơ quan lưu trữ và các cơ quan là

nguồn nộp lưu. Trong khi đó, những quy định về trách nhiệm chỉnh lý và bảo quản

được tập trung hơn vào các cơ quan lưu trữ, cơ quan là nguồn nộp lưu vì những cơ

quan này liên quan trực tiếp tới sự hình thành và số phận của tài liệu. Vì thế, những

điều chỉnh của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và sự kế thừa của Luật Lưu trữ cho thấy

quan điểm quản lý nhà nước ngày càng tập trung vào bản chất của hoạt động lưu trữ.

Ngoài quy định trách nhiệm cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức liên quan về việc

quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ, các Pháp lệnh, Luật về lưu trữ cũng có những

quy định khác về nghiệp vụ, chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:

- Thời hạn giao nộp tài liệu

- Quản lý tài liệu khi cơ quan chia tách, sáp nhập, giải thể

- Thủ tục tiêu hủy tài liệu

- Việc bảo quản tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ chuyên dụng

Nhìn chung, bên cạnh những quy định trong Pháp lệnh, Luật, văn bản quy phạm

pháp luật quy định về nghiệp vụ và văn bản hướng dẫn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ cao nhất

trong hệ thống văn bản được ban hành thời kỳ 1986 – 2012 (xem biểu đồ 2 và biểu đồ

3). Số lượng cá nhân, tổ chức được quy định trách nhiệm trong quản lý và thực hiện

nghiệp vụ lưu trữ tăng dần qua từng Pháp lệnh, Luật cho thấy những thay đổi trong

quan niệm của các nhà xây dựng luật về phạm vi thực hiện công tác lưu trữ và vai trò

của nó trong xã hội theo hướng ngày càng mở rộng. Việc các quy định và hướng dẫn

nghiệp vụ trên đây tập trung chính vào hoạt động của các cơ quan lưu trữ nhà nước và

các công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước cho thấy khoảng trống về quy định

nghiệp vụ cho khu vực phi nhà nước, thậm chí là các cơ quan, tổ chức do hệ thống cơ

quan Đảng cộng sản Việt Nam quản lý. Đặc điểm đáng lưu ý là tuy những quy định và

hướng dẫn về nghiệp vụ về lưu trữ chiếm số lượng không nhỏ và đặc biệt gia tăng từ

giữa những năm 1990 đến 2011, nhưng trong các văn bản này không đề cập tới các

chế tài xử phạt nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện đúng với quy định của

Nhà nước. Khi các cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định nhưng không có chế tài

Page 53: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

52

kèm theo thì không những không đảm bảo thực thi nghiêm túc mà còn thể hiện sự

thiếu triệt để trong quan điểm quản lý của những người xây dựng và ban hành văn bản.

Nói cách khác, những quy định về nghiệp vụ tuy ngày càng cụ thể và đề cập tới nhiều

nội dung quan trọng trong hoạt động lưu trữ nhưng vẫn cho thấy quan điểm thiếu rõ

ràng và kiên quyết trong quản lý nghiệp vụ.

3.3.3. Nhóm quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ

Quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ có vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, thông

qua sử dụng tài liệu lưu trữ, công tác lưu trữ sẽ thể hiện được tầm quan trọng và vị trí

trong xã hội. Cho nên, các quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ không những ảnh

hưởng tới khả năng tiếp cận thông tin, tài liệu của người dân cũng như khả năng phục

vụ của cơ quan lưu trữ mà còn cho thấy quan điểm của các cấp lãnh đạo về việc quản

lý, định hướng mục tiêu, đối tượng phục vụ chính của công tác lưu trữ.

Về quyền được sử dụng tài liệu, các Pháp lệnh và Luật về lưu trữ đều công nhận

quyền được sử dụng tài liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân để phục vụ các hoạt động

công tác, nghiên cứu và nhu cầu chính đáng theo quy định của pháp luật:

Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lƣu trữ Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia Luật Lƣu trữ

Các cơ quan của Đảng và Nhà nước,

tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân

dân được sử dụng tài liệu lưu trữ

quốc gia để phục vụ các nhu cầu

công tác và nghiên cứu khoa học.

Công dân Việt Nam được sử dụng

tài liệu lưu trữ quốc gia vào các nhu

cầu chính đáng theo quy định của

Hội đồng bộ trưởng.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có

quyền khai thác, sử dụng tài

liệu lưu trữ quốc gia để phục

vụ nhu cầu công tác, nghiên

cứu khoa học và các nhu cầu

chính đáng khác;đồng thời có

trách nhiệm thực hiện các quy

định của Pháp lệnh này và

các quy định khác của pháp

luật có liên quan.

Cơ quan, tổ

chức, cá nhân

có quyền sử

dụng tài liệu

lưu trữ để phục

vụ công tác,

nghiên cứu

khoa học, lịch

sử và các nhu

cầu chính đáng

khác

Bắt đầu từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia trách nhiệm của cơ quan lưu trữ lịch sử

trong việc phục vụ toàn xã hội sử dụng tài liệu được tuyên bố rõ ràng. Điều 18 của

Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia quy định như sau:

"1-Tài liệu lưu trữ tại lưu trữ lịch sử được khai thác, sử dụng rộng rãi cho yêucầu

nghiên cứu của toàn xã hội, trừ tài liệu lưu trữ thuộc danh mục bí mật Nhànước, tài

liệu lưu trữ đặc biệt quý, hiếm.

Page 54: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

53

2-Người đứng đầu lưu trữ lịch sử phải thông báo, giới thiệu danh mục tài liệu lưutrữ

để phục vụ việc khai thác, sử dụng."

Bổ sung so với Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia, Luật Lưu trữ quy định trách nhiệm

của các cơ quan, tổ chức có tài liệu lưu trữ là:

" a) Chủ động giới thiệu tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài

liệu lưu trữ đang trực tiếp quản lý;

b) Hằng năm rà soát, thông báo tài liệu lưu trữ thuộc Danh mục tài liệu có đóng dấu

chỉ các mức độ mật đã được giải mật."

Như thế, những quy định về quyền của cá nhân, tổ chức trong sử dụng và trách

nhiệm của cơ quan lưu trữ trong phục vụ sử dụng tài liệu đã tạo cơ sở pháp lý quan

trọng để người dân được tiếp cận tài liệu.

Ngoài ra, các văn bản này còn quy thẩm quyền của các cơ quan lưu trữ và cơ

quan quản lý về công bố tài liệu, cho phép sử dụng tài liệu hạn chế tiếp cận, chứng

thực tài liệu việc sử dụng tài liệu có dấu chỉ mức độ mật, đem tài liệu ra nước ngoài, ...

Các quy định này đều hướng đến những vấn đề có tính nguyên tắc, bắt buộc nhằm

đảm bảo khả năng kiểm soát của Nhà nước và các cơ quan lưu trữ đối với việc sử

dụng tài liệu để đảm bảo toàn vẹn cho tài liệu và thông tin trong tài liệu, bảo vệ bí mật

nhà nước và một phần bí mật của cá nhân.

Về cơ bản, những quy định trên chủ yếu xác lập quy tắc ứng xử của cá nhân, tổ

chức, cơ quan trong hoạt động lưu trữ. Tuy nhiên, việc từng bước bổ sung các quy

định trách nhiệm và ngày càng cụ thể trách nhiệm này trong mỗi nhóm quy định qua

từng văn bản song song với các tuyên bố về nguyên tắc quản lý nhà nước hoặc chính

sách về lưu trữ đã cho thấy hai khía cạnh quan trọng trong quan điểm quản lý nhà

nước công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2012:

Một là, các cơ quan nhà nước, từ cán bộ lưu trữ tới lãnh đạo có thẩm quyền đều

phải có trách nhiệm quản lý tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ. Trong đó, nhà nước là

cơ quan có trách nhiệm chính trong thực hiện và quản lý công tác lưu trữ. Nói cách

khác, Nhà nước là chủ thể chính trong quản lý tài liệu và quản lý công tác lưu trữ.

Hai là, bên cạnh các quyền về sử dụng tài liệu, cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng

phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đối bảo vệ tài liệu lưu trữ.

3.4. Hệ quan điểm

Nếu hệ chuẩn mực xác định các hành vi được hoặc phải thực hiện của những

nhóm đối tượng cụ thể trong công tác lưu trữ như cơ quan lưu trữ, cơ quan quản lý về

Page 55: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

54

lưu trữ, tổ chức, cá nhân sử dụng tài liệu,... thì hệ quan điểm xác định rõ những hành

vi được hoặc không được làm cho tất cả các đối tượng trong xã hội. Qua đó, các cơ

quan xây dựng và ban hành văn bản thể hiện thái độ ủng hộ hoặc phản đối những hành

vi cụ thể về lưu trữ. Điều đó được biểu hiện rõ qua những quy định khuyến khích hoặc

nghiêm cấm trong văn bản có giá trị pháp lý cao.

Bảng 5. Các hành vi được khuyến khích hoặc nghiêm cấm thực hiện trong quy định

của Pháp lệnh, Luật về lưu trữ thời kỳ 1986 - 2012

Thái độ/Văn bản Pháp lệnh Bảo vệ

tài liệu lƣu trữ

Pháp lệnh lƣu trữ

Quốc gia

Luật Lƣu trữ

Khuyến khích

Khuyến khích việc ký gửi, tặng tài liệu

riêng của cá nhân,

gia đình, dòng họ và tập thể vào các

cơ quan lưu trữ Nhà

nước;

- Khuyến khích việc mở rộng quan

hệ hợp tác với các

tổ chức, cá nhân nước ngoài trong

việc thu thập, quản

lý, bảo vệ và khai

thác, sử dụng tài liệu lưu trữ quốc

gia;

- Khuyến khích việc tặng cho, ký

gửi tài liệu riêng

của cá nhân, gia

đình, dòng họ cho cơ quan lưu trữ;

- Khuyến khích tổ chức, cá nhân hiến

tặng, ký gửi, bán tài

liệu lưu trữ của mình cho Nhà

nước;

- Khuyến khích

thực hiện hoạt động dịch vụ lưu trữ;

- Khuyến khích tổ

chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá

nhân ngoài nước

đóng góp, tài trợ

cho việc bảo vệ và phát huy giá trị tài

liệu lưu trữ;

Nghiêm cấm

- Không một cơ quan, tập thể hoặc

cá nhân nào được

chiếm tài liệu lưu trữ làm của riêng;

- Nghiêm cấm việc

mua bán, trao đổi,

cất giữ, tiêu huỷ trái phép tài liệu lưu trữ

quốc gia hoặc sử

dụng vào các mục đích trái với lợi ích

của Nhà nước;

- Cấm cá nhân, gia

đình, dòng họ, và tập thể chuyển tài

- Nghiêm cấm việc mang tài liệu lưu

trữ đặc biệt quý,

hiếm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, trong

trường hợp đặc biệt

được cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền cho phép thì

chỉ được mang bản

sao; - Nghiêm cấm việc

chiếm giữ, tiêu hủy

trái phép, làm hư

hại tài liệu lưu trữ quốc gia hoặc sử

- Chiếm đoạt, làm hỏng, làm mất tài

liệu lưu trữ;

- Làm giả, sửa chữa, làm sai lệch

nội dung tài liệu lưu

trữ;

- Mua bán, chuyển giao, hủy trái phép

tài liệu lưu trữ.

- Sử dụng tài liệu lưu trữ vào mục

đích xâm phạm lợi

ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ

Page 56: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

55

liệu lưu trữ ra nước ngoài dưới mọi

hình thức; trong

trường hợp muốn

bán thì chỉ được bán cho cơ quan lưu

trữ Nhà nước;

- Cấm mang tài liệu

lưu trữ quốc gia ra khỏi lãnh thổ Việt

Nam, trừ trường

hợp có giấy phép của cơ quan được

Hội đồng bộ trưởng

uỷ nhiệm và chỉ

được mang bản sao

dụng tài liệu lưu trữ quốc gia vào mục

đích trái với lợi ích

của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân;

quan, tổ chức, cá nhân.

- Mang tài liệu lưu

trữ ra nước ngoài

trái phép;

So sánh trên đây cho thấy những vấn đề được khuyến khích hoặc nghiêm cấm

qua các thời kỳ trong giai đoạn 1986 – 2012 không thay đổi vể cơ bản, chỉ bổ sung

thêm hoặc làm rõ hơn. Những dòng gạch chân trong bảng trên là nội dung được bổ

sung mới so với những văn bản trước. Những hoạt động được khuyến khích chủ yếu

tập trung vào việc ký gửi hoặc chuyển đổi sở hữu tài liệu lưu trữ của người dân cho

nhà nước, và các hành vi bị nghiêm cấm hướng vào những hành vi gây tổn hại tới tài

liệu hoặc hành vi sử dụng tài liệu gây tổn hại tới lợi ích của quốc gia, cơ quan, tổ chức,

cá nhân. Riêng Luật Lưu trữ đã bổ sung thêm quy định khuyến khích thực hiện dịch

vụ lưu trữ, tài trợ cho hoạt động lưu trữ cho thấy quan điểm tạo cơ chế mở cho việc

huy động nguồn lực và mở rộng thâm nhập của các cơ quan lưu trữ vào xã hội. Đồng

thời, bổ sung nghiêm cấm việc làm giả hoặc sai lệch nội dung tài liệu lưu trữ là phù

hợp với thực tế, nhất là trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi như

hiện nay. Tuy nhiên, quan điểm mở rộng hoạt động và nguồn lực của các lưu trữ theo

hướng như trên cần xem xét thêm bởi lẽ các cơ quan lưu trữ nên chú trọng hình thức

phục vụ đối với cộng đồng phù hợp với việc thực hiện chức năng cơ bản và giá trị cốt

lõi của ngành lưu trữ. Đồng thời, người dân cũng nên được nhìn nhận với vai trò đa

dạng hơn, không chỉ là cơ quan, tổ chức có thể đóng góp nguồn lực hoặc hiến tặng tài

liệu cho cơ quan lưu trữ. Những yếu tố đó đều thuộc về quan điểm về triết lý của

ngành mà các nhà lãnh đạo, cơ quan xây dựng và ban hành văn bản cần suy xét

nghiêm túc.

Page 57: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

56

3.5. Triết lý

Như đã trình bày ở khái niệm, triết lý của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ

là quan điểm rõ ràng của cơ quan quản lý nhà nước về mục đích, lý do thực hiện công

tác lưu trữ cũng như thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác này. Trong giai đoạn

1986 – 2012 với hai thời kỳ chính là 1986 – 2000 và 2001 – 2012, triết lý của công tác

lưu trữ và quản lý nhà nước về công tác lưu trữ cũng thay đổi:

3.5.1. Thời kỳ 1986 – 2000

Thời kỳ này các khái niệm, quan điểm và chuẩn mực đều xoay quanh vai trò và

lợi ích của nhà nước trong công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ. Tổng kết

những trình bày ở trên phản ảnh đầy đủ bức tranh quan điểm về quản lý nhà nước

công tác lưu trữ thời kỳ này, từ đó triết lý quản lý được bộc lộ trực tiếp và rõ ràng.

Theo những tổng kết ở trên, khái niệm trung tâm được định nghĩa trong thời kỳ này là

"tài liệu lưu trữ" với sự tập trung cao vào chủ thể tạo thành là các cơ quan đảng, nhà

nước. Vấn đề sở hữu tài liệu được đặt ra và xác định là "sở hữu của toàn dân", đồng

thời nghiêm cấm "chiếm tài liệu lưu trữ làm của riêng". Nguyên tắc quản lý nhà nước

công tác lưu trữ là "tập trung, thống nhất" với vai trò chủ đạo của Hội đồng bộ trưởng

trong việc quyết định các chế độ quản lý công tác lưu trữ và các lưu trữ trung ương

trong quản lý nghiệp vụ cũng như quản lý tài liệu lưu trữ. Việc sử dụng tài liệu lưu trữ

không được phép "trái với lợi ích của Nhà nước", lợi ích của công dân chưa được đề

cập. Tài liệu riêng của cá nhân, gia đình, dòng họ được khuyến khích ký gửi, hiến tặng

nhưng nếu bán thì "chỉ được bán cho cơ quan lưu trữ nhà nước". Bằng cách sử dụng

liên tiếp danh từ "nhà nước" hoặc tên các cơ quan quản lý tài liệu như "cơ quan lưu trữ

nhà nước" hay cơ quan quản lý như Hội đồng bộ trưởng với mức độ thường xuyên (1

lần/câu), Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ và những văn bản hướng dẫn thời kỳ 1986 –

2000 đã đặt Nhà nước là trung tâm của công tác lưu trữ cũng như quản lý công tác lưu

trữ giai đoạn này. Và Nhà nước với hệ thống các cơ quan, tổ chức dưới sự chỉ đạo của

Đảng cầm quyền đã trở thành chủ thể tạo ra tài liệu lưu trữ, chủ thể lưu giữ cũng như

sử dụng tài liệu lưu trữ. Cho nên, có thể coi triết lý của quản lý nhà nước công tác lưu

trữ thời kỳ này là: quản lý công tác lưu trữ cho nhà nước và phục vụ nhà nước.

Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000 được khái

quát trong mô hình sau:

Page 58: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

57

Hình 2: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000

3.5.2. Thời kỳ 2001 – 2012

Mặc dù vẫn thực hiện quản lý công tác lưu trữ theo tinh thần của Pháp lệnh Bảo

vệ bí mật nhà nước đến khi văn bản này bị thay thế năm 2001, nhưng công tác lưu trữ

đã bắt đầu có những khởi sắc sau Thông tư số 04/1998/TT-TCCB ngày 24 tháng 1

năm 1998 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ về việc Hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở

cơ quan nhà nước các cấp. Những thay đổi của thực tiễn công tác lưu trữ trong bối

cảnh kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới đã dẫn tới sự ra đời của Pháp lệnh

Lưu trữ Quốc gia năm 2001. Luật Lưu trữ ra đời năm 2011 là sự kế thừa tương đối đầy

đủ của những văn bản được ban hành từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia với sự bổ sung,

sửa đổi một số điểm. Những thay đổi từ khái niệm, tới chuẩn mực và quan điểm về

công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ trong hai văn bản ban hành sau so với

Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ cho thấy sự chuyển dịch về quan điểm, trong đó từng

bước loại bỏ quan niệm "sở hữu toàn dân" đến "thừa nhận quyền sở hữu đối với tài

liệu lưu trữ", từ khẳng định lại nguyên tắc quản lý "tập trung, thống nhất" công tác lưu

trữ tới việc xác định trách nhiệm đối với tài liệu, hồ sơ đối với các đối tượng liên quan,

từ cán bộ, công chức tới Chính phủ, cơ quan, tổ chức, công dân. Quyền sử dụng tài

liệu để phục vụ mục đích chính đáng cũng được khẳng định. Sự phân tách thẩm quyền

quản lý tài liệu và nghiệp vụ giữa cơ quan lưu trữ nhà nước và cơ quan lưu trữ đảng

bắt đầu thể hiện sự mâu thuẫn trong nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất như đã

đề cập từ năm 1982.

Triết lý: Quản l{ công tác lưu trữ cho nhà nước và vì nhà nước

Quan điểm: ủng hộ giao nộp, quản l{ tài liệu lưu trữ tập trung tron g các lưu trữ

nhà nước; nghiêm cấm sử dụng tài liệu gây hại cho nhà nước

Chuẩn mực: thực hiện đúng nguyên tắc quản l{ tài liệu tập trung dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bộ trưởng và hướng dẫn

của các cơ quan lưu trữ quốc gia

Khái niệm: "Tài liệu lưu trữ" với chủ thể tạo thành là cơ quan đảng, nhà nước; chủ

thể sở hữu là toàn dân;

Page 59: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

58

Tuy nhiên, về cơ bản, những quy định thời kỳ này với tinh thần của Pháp lệnh

Lưu trữ Quốc gia và kế thừa trong Luật Lưu trữ vẫn tập trung vào chế độ nghiệp vụ

của các lưu trữ nhà nước, phục vụ nhà nước. Từ các định nghĩa trong hệ khái niệm, tới

các quy định trong hệ chuẩn mực, các tuyên bố khuyến khích hoặc nghiêm cấm trong

hệ quan điểm đều thể hiện vai trò chủ thể của Nhà nước trong ba nội dung: Chủ thể

đầu tư, chủ thể quản lý công tác lưu trữ, và chủ thể thực hiện hoạt động lưu trữ. Cho

nên, nhà nước vẫn là trung tâm của công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ nhưng

có xem xét tới sự tác động của nền kinh tế thị trường và yêu cầu dân chủ, dẫn đến triết

lý quản lý nhà nước thời kỳ này là: Quản lý công tác lưu trữ phục vụ trước hết cho nhà

nước và các nhu cầu chính đáng của công dân, tạo điều kiện cho người dân tham gia

hoạt động lưu trữ. Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 2001-2012

được khái quát là:

Hình 3: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 2001-2012

Triết lý: Quản l{ công tác lưu trữ trước hết phục vụ nhà nước và các nhu cầu

chính đáng của công dân, công dân tham gia thực hiện hoạt động lưu trữ

Quan điểm: ủng hộ giao nộp, quản l{ tài liệu lưu trữ tập trung trong các lưu trữ nhà nước, có thừa nhận việc sở hữu và tự quản l{ tài liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân

Chuẩn mực: thực hiện đúng nguyên tắc quản l{ tài liệu tập trung và thống nhất nghiệp vụ dưới sự chỉ đạo của cơ quan

quản l{ nhà nước có thẩm quyền

Khái niệm: "Tài liệu lưu trữ" với chủ thể tạo thành và chủ thể sở hữu đa dạng

Page 60: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

59

CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ VÀ SỰ THAM GIA CỦA NHÂN DÂN

TRONG CÔNG TÁC LƢU TRỮ

Công tác lưu trữ là một khái niệm rộng, bao gồm tất cả mọi vấn đề liên quan

đến việc phát triển ngành, từ quản lý nhà nước đến thực hiện các nghiệp vụ. Mặc dù có

những quan điểm cho rằng công tác lưu trữ phải phục vụ trước hết cho nhà nước như

bài viết của Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Hội thảo Pháp luật lưu trữ, nhưng

thực tiễn và lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ rằng cách tiếp cận như vậy không những đã

và đang hạn chế khả năng phát triển của ngành, mà còn khiến cho ngành lưu trữ không

thể hiện được vai trò tích cực trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội và về bản

chất, công tác lưu trữ phải đảm nhiệm. Trong lúc các tuyên ngôn chính trị của Đảng và

Nhà nước coi dân chủ là mục tiêu chính trị hàng đầu thì việc khẳng định và tạo điều

kiện cho nhân dân tham gia vào công tác lưu trữ vừa góp phần thực hiện mục tiêu

chính trị đó, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công tác lưu trữ Việt Nam cần huy

động các nguồn lực trong nhân dân. Tuy nhiên, nhân dân là ai, họ được tham gia như

thế nào và có thể tham gia trong những điều kiện nào và lợi ích có được chia sẻ công

bằng với họ không lại phụ thuộc rất lớn vào quan điểm của cơ quan có thẩm quyền về

vai trò của nhân dân, biểu hiện trước hết qua cá văn bản quy phạm pháp luật. Chương

4 sẽ tập trung tìm kiếm những cứ liệu về vấn đề này trong pháp luật lưu trữ.

Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: "Nhân dân là bộ

phận đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu

là những người lao động, phân biệt với bộ phận khác là giai cấp, tầng lớp thống trị xã

hội" (Nguyễn Như Ý 1998, 1283). Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn cũng

đưa ra ý nghĩa tương tự. Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: "Theo nghĩa thông

thường, nhân dân là toàn thể cư dân của một nước. Nhân dân luôn có tính lịch sử cụ

thể. Trong cộng đồng nguyên thủy, nhân dân đồng nghĩa với cư dân. Trong xã hội có

đối kháng giai cấp, thành phần của nhân dân thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.

Nhân dân không bao hàm trong nó giai cấp thống trị thi hành chính sách chống nhân

dân. Quan điểm lịch sử cụ thể về nhân dân có ý nghĩa trọng yếu đối với Đảng cộng

sản trong việc xác định chủ trương, chính sách nhằm động viên tất cả mọi lực lượng

có thể tập hợp được trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và

chủ nghĩa xã hội" (Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa 2003, 232).Từ điển Oxford

lại xác định khái niệm "nhân dân" (trong tiếng Anh) với nhiều cách hiểu. Theo đó,

"nhân dân là mọi người nói chung", là "công dân của một quốc gia", là "những người

không giữ vị trí lãnh lạo trong xã hội", "những người bị người khác lãnh đạo", và

"những người làm việc trong những lĩnh vực chuyên môn hay để hỗ trợ người khác"

(Oxford University 2015). Như thế, dù trong tiếng Việt hay tiếng Anh, khái niệm

"nhân dân" đều được dùng để chỉ những công dân, người lao động nói chung, những

Page 61: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

60

người dưới quyền của các nhà lãnh đạo và quản lý, không có địa vị và quyền lực trong

xã hội.

Khái niệm "nhân dân" là một khái niệm có ý nghĩa nhân văn bởi đó là cách gọi

chung cho đông đảo mọi người trong xã hội một cách tôn trọng, từ cấp độ cá nhân đến

nhóm người. Cho nên, "nhân dân" là một khái niệm khá đặc trưng của những quốc gia

có thể chế chính trị dân chủ hay coi dân chủ là mục tiêu hoặc tuyên ngôn chính trị của

nhà nước, trong đó có Việt Nam. Các tuyên ngôn chính trị của Đảng cộng sản Việt

Nam và các bản Hiến pháp đều sử dụng chung khái niệm nhân dân với nghĩa rộng lớn

là tất cả mọi công dân của Quốc gia Việt Nam và mọi người dân có nguồn gốc Việt

Nam. Đáng lưu ý trong số đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ nhân dân bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông

dân, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các nhà

doanh nghiệp, các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam

ở nước ngoài (Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam 2012).

Quan điểm về vai trò và lợi ích của nhân dân trong những quy định pháp luật về

lưu trữ cũng được phân tích theo cấu trúc phân tầng. Cụ thể như sau:

4.1. Hệ khái niệm

Những khái niệm đã được thống kê ở chương 3 sẽ được phân tích nội dung

thông qua xác định các từ, cụm từ thể hiện mức độ tham gia của nhân dân trong nội

dung các định nghĩa của khái niệm. Những từ, cụm từ chỉ mức độ tham gia đến nhân

dân được gạch chân ở bảng kê dưới dây.

Bảng 6: Liệt kê nội dung định nghĩa liên quan tới nhân dân

Khái niệm Pháp lệnh

bảo vệ tài liệu

lƣu trữ 1982

Pháp lệnh Lƣu trữ

Quốc gia 2001

Luật Lƣu trữ 2011

Tài liệu không đề cập là vật mang tin hình thành

trong quá trình hoạt động

của cơ quan, tổ chức, cá

nhân

Tài liệu lưu

trữ

Tài liệu lưu

trữ quốc gia là

tài liệu có giá

trị về chính trị,

quân sự, kinh

tế, văn hoá,

Tàiliệu lưu trữ quốc gia

là tài liệu có giá trị về

chính trị, kinh tế, quốc

phòng,an ninh, ngoại

giao, văn hóa, giáo dục,

khoa học và công nghệ

Tài liệu lưu trữ là tài liệu

có giá trị phục vụ hoạt

động thực tiễn, nghiên

cứu khoa học, lịch sử

được lựa chọn để lưu trữ .

Page 62: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

61

giáo dục, xã

hội, khoa học,

kỹ thuật, được

hình thành

trong quá trình

hoạt động của

các cơ quan

Đảng và Nhà

nước, tổ chức

xã hội, đơn vị

vũ trang và

các nhân vật,

trải qua các

thời kỳ lịch sử

của dân tộc

Việt Nam,

phục vụ việc

nghiên cứu

lịch sử, khoa

học và công

tác thực tiễn.

Tài liệu lưu

trữ quốc gia

phải là bản

chính của văn

kiện hoặc tài

liệu khác ghi

trên giấy,

phim, ảnh,

băng, đĩa ghi

âm, hoặc bằng

các phương

pháp ghi tin

khác; trong

trường hợp

không còn bản

chính mới

được thay thế

bằng bản sao

được hình thành trong

các thời kỳ lịch sử của

dân tộc Việt Nam, trong

quá trình hoạt động

củacác cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội,

tổ chức xã hội, tổ chức

xã hội - nghề nghiệp, tổ

chức kinh tế, đơn vị vũ

trang nhân dân(sau đây

gọi chung là cơ quan, tổ

chức) và các nhân vật

lịch sử, tiêu biểu phục vụ

việc nghiên cứu lịch sử,

khoa học và hoạt động

thực tiễn.

Tài liệu lưu trữ quốc gia

phải là bản chính, bản

gốc của tài liệu được ghi

trêngiấy, phim, ảnh, băng

hình, đĩa hình, băng âm

thanh, đĩa âm thanh hoặc

các vậtmang tin khác;

trong trường hợp không

còn bản chính, bản gốc

thì được thay thế bằng

bản sao hợp pháp.

Tài liệu lưu trữ bao gồm

bản gốc, bản chính; trong

trường hợp không còn

bản gốc, bản chính thì

được thay thế bằng bản

sao hợp pháp

Page 63: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

62

có giá trị như

bản chính.

Phông Lưu

trữ Quốc gia

Việt Nam

(định nghĩa

trong Quyết

định

168/HĐBT

ngày

26/12/1981

của Hội đồng

Bộ trưởng về

việc thành lập

Phông Lưu trữ

Quốc gia Việt

Nam)

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam,

không phân biệt thời

gian, xuất xứ, chế độ xã

hội, nơi bảo quản, kỹ

thuật làm ra tài liệu đó.

Phông lưu trữ quốc gia

Việt Nam bao gồm

Phông lưu trữ Đảng

Cộng sản Việt Nam và

Phông lưu trữ Nhà nước

Việt Nam.

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

của nước Việt Nam,

không phụ thuộc vào thời

gian hình thành, nơi bảo

quản, chế độ chính trị - xã

hội, kỹ thuật ghi tin và

vật mang tin.

Phông lưu trữ quốc gia

Việt Nam bao gồm Phông

lưu trữ Đảng Cộng sản

Việt Nam và Phông lưu

trữ Nhà nước Việt Nam.

Phông Lưu

trữ Nhà nước

Việt Nam

không đề cập

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

được hình thành trong

quá trình hoạt động của

các cơ quan nhà nước, tổ

chức xã hội,tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, tổ

chức kinh tế, đơn vị vũ

trang nhân dân, các nhân

vật lịch sử, tiêu biểu và

tài liệu khác có giá trị về

các lĩnh vực quyđịnh tại

Điều 1 của Pháp lệnh này

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

được hình thành trong

quá trình hoạt động của

các cơ quan nhà nước, tổ

chức chính trị xã hội -

nghề nghiệp, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức kinh tế,

đơn vị sự nghiệp, đơn vị

vũ trang nhân dân, nhân

vật lịch sử, tiêu biểu và

tài liệu khác được hình

thành qua các thời kỳ lịch

sử của đất nước.

Phông Lưu

trữ Đảng

Cộng sản Việt

Nam

không đề cập

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

được hình thành trong

quá trình hoạt động của

các cơ quan, tổ chức của

Đảng Cộng sảnViệt

Nam, tổ chức tiền thân

của Đảng, tổ chức chính

trị - xã hội; tài liệu về

thân thế, sự nghiệp và

Là toàn bộ tài liệu lưu trữ

được hình thành trong

quá trình hoạt động của

các tổ chức của Đảng

Cộng sản Việt Nam, tổ

chức tiền thân của Đảng,

các tổ chức chính trị - xã

hội; các nhân vật lịch sử,

tiêu biểu của Đảng, tổ

Page 64: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

63

hoạt động của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, của các

nhân vật lịch sử, tiêu

biểu của Đảng, các nhân

vật lịch sử, tiêu biểu của

Đảng đồng thời là các

cán bộ lãnh đạo chủ chốt

của Nhà nước, của các tổ

chức chính trị - xã hội.

chức tiền thân của Đảng

và của các tổ chức chính

trị - xã hội.

Lưu trữ hiện

hành

không đề cập

Là bộ phận lưu trữ của

cơ quan, tổ chức có

nhiệm vụ thu thập, bảo

quản và phục vụ sử dụng

tài liệu lưu trữ được tiếp

nhận từ các đơn vị thuộc

cơ quan, tổ chức.

Là tổ chức thực hiện hoạt

động lưu trữ đối với tài

liệu lưu trữ của cơ quan,

tổ chức.

Lưu trữ lịch

sử

không đề cập

Là cơ quan lưu trữ có

nhiệm vụ thu thập, bảo

quản lâu dài và phục vụ

sử dụng tài liệu lưu trữ

được tiếp nhận từ lưu trữ

hiện hành và các nguồn

tài liệu khác

Là cơ quan thực hiện hoạt

động lưu trữ đối với tài

liệu lưu trữ có giá trị bảo

quản vĩnh viễn được tiếp

nhận từ Lưu trữ cơ quan

và từ các nguồn khác.

Bảo hiểm tài

liệu lưu trữ

không định

nghĩa

Là việc thực hiện các

biện pháp sao chụp,bảo

quản tài liệu lưu trữ tại

kho lưu trữ chuyên dụng

riêng biệt tách rời bản

chính, bản gốc đối với tài

liệu lưu trữ đặc biệt quý,

hiếm nhằm bảo vệ an

toàn tài liệu đó

Bản sao bảo hiểm tài liệu

lưu trữ là bản sao từ tài

liệu lưu trữ theo phương

pháp, tiêu chuẩn nhất

định nhằm lưu giữ bản

sao đó dự phòng khi có

rủi ro xảy ra đối với tài

liệu lưu trữ

Hồ sơ và lập

hồ sơ

không đề cập

không định nghĩa

Hồ sơ là một tập tài liệu

có liên quan với nhau về

một vấn đề, một sự việc,

một đối tượng cụ thể hoặc

có đặc điểm chung, hình

thành trong quá trình theo

Page 65: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

64

dõi, giải quyết công việc

thuộc phạm vi chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan, tổ

chức, cá nhân.

Lập hồ sơ là việc tập hợp,

sắp xếp tài liệu hình

thành trong quá trình theo

dõi, giải quyết công việc

của cơ quan, tổ chức, cá

nhân thành hồ sơ theo

những nguyên tắc và

phương pháp nhất định.

Hoạt động

lưu trữ

không đề cập

Hoạt động lưu trữ là hoạt

động thu thập, chỉnh lý,

xác định giá trị, bảo quản,

thống kê, sử dụng tài liệu

lưu trữ

Thu thập tài

liệu

không đề cập

không định nghĩa

Thu thập tài liệu là quá

trình xác định nguồn tài

liệu, lựa chọn, giao nhận

tài liệu có giá trị để

chuyển vào Lưu trữ cơ

quan, Lưu trữ lịch sử.

Xác định giá

trị tài liệu

không đề cập

không định nghĩa

Xác định giá trị tài liệu là

việc đánh giá giá trị tài

liệu theo những nguyên

tắc, phương pháp, tiêu

chuẩn theo quy định của

cơ quan có thẩm quyền để

xác định những tài liệu có

giá trị lưu trữ, thời hạn

bảo quản và tài liệu hết

giá trị.

Chỉnh lý tài

liệu

không đề cập

không định nghĩa

Chỉnh lý tài liệu là việc

phân loại, xác định giá trị,

sắp xếp, thống kê, lập

công cụ tra cứu tài liệu

hình thành trong hoạt

Page 66: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

65

động của cơ quan, tổ

chức, cá nhân.

Tài liệu lưu

trữ điện tử

không đề cập

không đề cập

Tài liệu lưu trữ điện tử là

tài liệu được tạo lập ở

dạng thông điệp dữ liệu

hình thành trong quá trình

hoạt động của cơ quan, tổ

chức, cá nhân được lựa

chọn để lưu trữ hoặc

được số hóa từ tài liệu lưu

trữ trên các vật mang tin

khác.

Tài liệu có

giá trị bảo

quản vĩnh

viễn

không đề cập

không đề cập

Tài liệu bảo quản vĩnh

viễn là tài liệu có ý nghĩa

và giá trị không phụ

thuộc vào thời gian

Tài liệu có

giá trị bảo

quản có thời

hạn

không đề cập

không đề cập

Tài liệu bảo quản có thời

hạn là tài liệu không

thuộc trường hợp quy

định tại khoản 1 Điều này

và được xác định thời hạn

bảo quản dưới 70 năm .

Tài liệu hết

giá trị

không định

nghĩa

không định nghĩa

Tài liệu hết giá trị cần

loại ra để hủy là tài liệu

có thông tin trùng lặp

hoặc đã hết thời hạn bảo

quản theo quy định và

không còn cần thiết cho

hoạt động thực tiễn,

nghiên cứu khoa học, lịch

sử.

Tài liệu lưu

trữ quý, hiếm

không định

nghĩa

không định nghĩa

không định nghĩa

Chứng thực

tài liệu lưu trữ

không đề cập

Chứng thực lưu trữ là xác

nhận của cơ quan, tổ chức

hoặc Lưu trữ lịch sử về

nội dung thông tin hoặc

Page 67: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

66

bản sao tài liệu lưu trữ do

Lưu trữ cơ quan hoặc

Lưu trữ lịch sử đang quản

Dịch vụ lưu

trữ

không đề cập

không đề cập

Các hoạt động dịch vụ

lưu trữ bao gồm:

a) Bảo quản, chỉnh lý, tu

bổ, khử trùng, khử axit,

khử nấm mốc, số hóa tài

liệu lưu trữ không thuộc

danh mục bí mật nhà

nước;

b) Nghiên cứu, tư vấn,

ứng dụng khoa học và

chuyển giao công nghệ

lưu trữ.

Quản lý nhà

nước về công

tác lưu trữ

/Quản lý về

lưu trữ

không định

nghĩa

Quản lý nhà nước công

tác lưu trữ bao gồm 9 nội

dung (điều 25)

không định nghĩa

Chứng chỉ

hành nghề lưu

trữ

không đề cập

không đề cập

không định nghĩa

Từ bảng 4, các từ và cụm từ đã gạch chân được quy ước về mức độ tham gia

của nhân dân. Mức độ tham gia của nhân dân thể hiện qua định nghĩa được quy định

trong luật. Nội dung của định nghĩa khẳng định vai trò hoặc thể hiện vị trí chủ thể của

nhân dân càng nhiều vào các nhiệm vụ của công tác lưu trữ thì mức độ tham gia càng

lớn. Những từ, cụm từ trong nội dung của các định nghĩa đề cập tới vai trò và sự tham

gia của nhân dân bao gồm việc xác định nhân dân là chủ thể tạo ra tài liệu, của hoạt

động lưu trữ và của sử dụng tài liệu. Nếu định nghĩa xác định chủ thể là nhân dân hoặc

sử dụng cụm từ chung là "cơ quan, tổ chức, cá nhân" thì mức độ liên quan cao. Nếu

trong định nghĩa không xác định rõ chủ thể là nhân dân hoặc hoàn toàn không xác

định chủ thể với hàm ý là bất kỳ ai thì mức độ liên quan tới nhân dân được thể hiện

không rõ ràng. Nếu định nghĩa chỉ đề cập tới các cơ quan nhà nước hoặc nội dung

không áp dụng được cho các hoạt động lưu trữ của nhân dân thì mức độ liên quan

Page 68: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

67

thấp. Qua quy ước như vậy, bảng 5 dưới đây sẽ thống kê mức độ liên quan đến người

dân của các định nghĩa trong từng văn bản.

Bảng 7: Mức độ tham gia của nhân dân trong nội dung định nghĩa trong

các Pháp lệnh, Luật giai đoạn 1986-2012

TT Khái niệm Pháp lệnh bảo

vệ tài liệu lƣu

trữ 1982

Pháp lệnh Lƣu

trữ Quốc gia

2001

Luật Lƣu

trữ 2011

1. Tài liệu _

2. Tài liệu lưu trữ + + +

3. Bản chính, bản gốc, bản sao

hợp pháp hay bản sao có giá

trị như bản chính

_ _ _

4. Phông Lưu trữ Quốc gia Việt

Nam

+ + +

5. Phông Lưu trữ Nhà nước

Việt Nam

+ + +

6. Phông Lưu trữ Đảng Cộng

sản Việt Nam

+ 0

7. Tài liệu văn thư 0

8. Lưu trữ hiện hành _ _

9. Lưu trữ lịch sử + +

10. Bảo hiểm tài liệu lưu trữ _

11. Hồ sơ và lập hồ sơ +

12. Hoạt động lưu trữ _

13. Thu thập tài liệu _

14. Xác định giá trị tài liệu _

15. Chỉnh lý tài liệu _

16. Tài liệu lưu trữ điện tử +

17. Tài liệu có giá trị bảo quản

vĩnh viễn

_

18. Tài liệu bảo quản có thời hạn _

19. Tài liệu hết giá trị _

20. Tài liệu quý, hiếm _

21. Chứng thực lưu trữ +

22. Dịch vụ lưu trữ +

23. Quản lý nhà nước về công 0

_ 0

Page 69: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

68

tác lưu trữ/ Quản lý về lưu

trữ

24. Chứng chỉ hành nghề lưu trữ _

Ghi chú bảng:

Ô trống Không đề cập hoặc không định nghĩa

0 có khái niệm hoặc định nghĩa nhưng không cho thấy sự tham gia của nhân dân

_ Tham gia không rõ ràng tới nhân dân

+ Tham gia trực tiếp tới nhân dân

Bảng 5 cho phép thống kê các ký hiệu quy ước về mức độ liên quan tới nhân

dân trong nội dung các khái niệm, qua đó có biểu đồ sau:

Biểu đồ 4: Sự thay đổi mức độ tham gia của người dân trong nội dung các khái niệm

qua các Pháp lệnh, Luật giai đoạn 1986 – 2012

Biểu đồ 4 xây dựng từ dữ liệu ngôn ngữ đã phân tích và lượng hóa ở trên đã

chứng minh được sự gia tăng về mức độ liên quan đến người dân trong hệ khái niệm

của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012.

4.2. Hệ chuẩn mực

4.2.1. Quy định về quản lý nhà nước về công tác lưu trữ

Trong nhóm quy định này, không có điều khoản nào về việc cho phép hoặc tạo

điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước. Trách nhiệm quản lý

nhà nước về công tác lưu trữ, như đã trình bày ở chương 3, được phân cấp cho các cơ

quan từ trung ương tới địa phương nhưng không có quy định về việc lấy ý kiến của

nhân dân, hoặc tham gia góp ý các dự thảo chính sách của các cơ quan, tổ chức, các

nhân là nhân dân như các cơ quan chuyên môn, các tổ chức xã hội, các nhà khoa học,

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu

trữ

Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia

Luật Lưu trữ

Sự thay đổi về mức độ tham gia của nhân dân

Column1

Column2

Page 70: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

69

chủ sở hữu tài liệu, người sử dụng tài liệu,... Điều đó cho thấy tính tập trung cao trong

hoạt động quản lý nhà nước với vai trò trung tâm là các cơ quan nhà nước.

4.2.2. Quy định về quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ

Với nhóm quy định này, trách nhiệm quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ

cũng thuộc về các cơ quan quản lý và cơ quan lưu trữ nhà nước như đã trình bày ở

chương 3. Thậm chí, một số nghiệp vụ lưu trữ quan trọng như xác định giá trị cũng

phải thực hiện "theo những nguyên tắc, phương pháp, tiêu chuẩn theo quy định của cơ

quan có thẩm quyền" như định nghĩa của Luật Lưu trữ. Do đó, vai trò của các tổ chức,

đoàn thể quần chúng, các hội nghề nghiệp như Hội Lưu trữ Việt Nam, Hội Sử học,

Hội Nhà văn,..., các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu hoàn toàn không được đề

cập. Đây là một biểu hiện của nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất nghiệp vụ lưu

trữ. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện toàn bộ vai trò nghiên cứu, quy

định, kiểm tra, giám sát đối với các quy trình nghiệp vụ.

Tuy nhiên, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982 tuyên bố rõ ràng về

quyền của "cá nhân, gia đình, dòng họ và tập thể" được "Nhà nước đăng ký và bảo hộ,

các cơ quan lưu trữ hướng dẫn, giúp đỡ về mặt bảo quản". Pháp lệnh Lưu trữ Quốc

gia năm 2001 quy định: " Tài liệu riêng của cá nhân, gia đình, dòng họ có giá trị"..."

được Nhà nước đăng ký và bảo hộ; cơ quan lưu trữ có trách nhiệm hướng dẫn, giúp

đỡ về kỹ thuật bảo quản". Luật Lưu trữ Việt Nam năm 2011 cũng ghi rõ: "Cá nhân có

tài liệu có quyền được đăng ký tài liệu tại Lưu trữ lịch sử và hướng dẫn, giúp đỡ về kỹ

thuật bảo quản và tạo điều kiện để phát huy giá trị tài liệu". Những quy định này, tuy

vẫn chưa thể hiện sự tham gia của người dân vào việc xây dựng, thực hiện các nghiệp

vụ lưu trữ nhưng đã tạo điều kiện để nhân dân được trợ giúp từ cơ quan lưu trữ. Nói

cách khác, quy định này khiến cho các nghiệp vụ lưu trữ không chỉ là hoạt động thuộc

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan lưu trữ mà còn là trách nhiệm phục vụ cho

người dân.

4.2.3. Quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ

Những vấn đề liên quan tới nhân dân được thể hiện nhiều nhất ở quy định về sử

dụng tài liệu lưu trữ. Quyền được sử dụng tài liệu và trách nhiệm phục vụ của các lưu

trữ lịch sử được thể hiện rõ trong các Pháp lệnh và Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 –

2012 như đã thể hiện ở chương 3. Để cụ thể hóa quyền và trách nhiệm này, các cơ

quan quản lý nhà nước đã xây dựng quy trình và ban hành thủ tục khai thác tài liệu,

bao gồm:

- Công văn số 397/LTNN-VNTW ngày 22.8.2001 của Cục Lưu trữ Nhà nước về việc

xác định hồ sơ, tài liệu lưu trữ thuộc diện hạn chế sử dụng tại các Trung tâm Lưu trữ

Quốc gia;

Page 71: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

70

- Công văn số 218/VTLTNN- NVTW ngày 01.4.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ

Nhà nước về việc xét duyệt cho người nước ngoài khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại

các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia;

- Quyết định số 104/QĐ-VTLTNN ngày 22.4.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà

nước về việc ban hành Quy trình phục vụ độc giả tài phòng đọc và cấp bản sao, chứng

thực lưu trữ tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia;

- Quyết định số 111/QĐ-VTLTNN ngày 13.5.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà

nước về việc ban hành Quy trình giải mật tài liệu lưu trữ;

- Thông tư số 08/2012/TT-BNV ngày 26/11/2012 của Bộ Nội vụ Quy định định mức

kinh tế - kỹ thuật Lập danh mục tài liệu hạn chế sử dụng của một phông lưu trữ và

Phục vụ độc giả tại phòng đọc

Các văn bản trên được ban hành theo tinh thần của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia

và Luật Lưu trữ. Về cơ bản, nội dung chính của các văn bản đó đều hướng dẫn quy

trình và thủ tục để các lưu trữ viên thực hiện tại cơ quan lưu trữ. Phần quy định quan

trọng nhất có liên quan tới việc tiếp cận tài liệu của nhân dân là có hay không thực

hiện giới thiệu danh mục tài liệu đã được giải mật hoặc danh mục tài liệu hạn chế tiếp

cận cho người sử dụng. Nhưng, phần quy định này không xuất hiện trong các văn bản

trong khi Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia ghi rõ: "Người đứng đầu lưu trữ lịch sử phải

thông báo, giới thiệu danh mục tài liệu lưu trữ để phục vụ việc khai thác, sử dụng".

Bên cạnh đó, trong lúc hướng dẫn xác định danh mục tài liệu thuộc danh mục hạn chế

sử dụng, các văn bản trên không xác định đối tượng bị hạn chế sử dụng hoặc thời gian

hạn chế sử dụng.

Về thủ tục và ngôn ngữ, Quy trình phục vụ độc giả theo Quyết định 104 chưa

phản ảnh được tinh thần đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện cho người sử dụng tài

liệu. Chẳng hạn, người sử dụng phải ghi và chờ xét duyệt hai loại văn bản trước khi

được tiếp cận tài liêu là: Đơn xin khai thác, sử dụng tài liệu và Phiếu yêu cầu khai

thác, sử dụng tài liệu trong khi thông tin trong hai văn bản này có thể được trình bày

một lần duy nhất trong Phiếu yêu cầu khai thác. Việc sử dụng cụm từ "Đơn xin khai

thác, sử dụng tài liệu" không phản ảnh sự tôn trọng và vị trí phục vụ của cơ quan lưu

trữ đối với nhân dân. Trong các quy trình được ban hành, duy nhất quy trình phục vụ

độc giả nước ngoài có bao gồm thời hạn trả lời độc giả. Cho nên, mặc dù quy định về

khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong các Pháp lệnh, Luật Lưu trữ đã xác lập quyền

của nhân dân và ngày càng cụ thể hóa trách nhiệm của các lưu trữ cũng như trách

nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong sử dụng tài liệu nhưng những quy định,

hướng dẫn dưới Pháp lệnh không thể hiện được tinh thần này.

Page 72: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

71

4.2.4. Quy định về sở hữu tài liệu

Vấn đề sở hữu tài liệu chỉ được đề cập trong Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ và

Luật Lưu trữ. Theo đó, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ xác định "sở hữu toàn dân do

Nhà nước quản lý", còn Luật Lưu trữ "thừa nhận quyền sở hữu" đối với tài liệu lưu

trữ. Như thế, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ coi tài liệu lưu trữ là một loại tài sản

công và không công nhận sự sở hữu tư đối với chúng. Luật Lưu trữ đã thay đổi quan

niệm này bằng cách công nhận quyền sở hữu nhưng không xác định chủ thể của quyền

này. Nói cách khác, tuy đã có điểm tiến bộ trong việc xác lập quyền sở hữu nhưng quy

định như trên của Luật Lưu trữ, về phương diện ngôn ngữ vẫn mang tính chất không

rõ ràng.

Cả ba văn bản Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và

Luật Lưu trữ đều khuyến khích chuyển đổi sở hữu tài liệu lưu trữ từ nhân dân cho Nhà

nước thông qua hiến tặng hoặc bán nhưng không có hướng dẫn cụ thể nào về thủ tục

và thẩm quyền mua hay nhận tài liệu của người dân.

4.3. Hệ quan điểm

Như đã trình bày và phân tích ở bảng 5 và mục 3.4, các nội dung khuyến khích

và nghiêm cấm qua các Pháp lệnh và Luật Lưu trữ ít thay đổi. Số lượng hành vi được

khuyến khích được quy định trong Luật Lưu trữ nhiều hơn so với hai Pháp lệnh trước

đó. Những hành vi của nhân dân được Nhà nước khuyến khích bao gồm:

- Ký gửi, hiến tặng, bán tài liệu cho lưu trữ lịch sử;

- Đóng góp tài trợ cho lưu trữ;

- Thực hiện dịch vụ lưu trữ

Xét về tính chất, ba hành vi của nhân dân được khuyến khích tập trung vào ba

nội dung của công tác lưu trữ, bao gồm:

- Chuyển đổi sở hữu tài liệu cho nhà nước hoặc đăng ký để nhà nước kiểm soát

và hỗ trợ;

- Bổ sung nguồn lực cho hoạt động lưu trữ;

- Tham gia thực hiện nghiệp vụ lưu trữ để bảo quản tài liệu;

- Nghiên cứu khoa học về lưu trữ, tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ

lưu trữ;

Như thế, đến Luật Lưu trữ, vai trò và mức độ tham gia của người dân trong công tác

lưu trữ được gia tăng đáng kể trên các phương diện: bảo quản, nguồn lực và khoa học

Page 73: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

72

– công nghệ. Qua đó, nhân dân có cơ hội tham dự sâu hơn vào các vấn đề của công tác

lưu trữ, thể hiện vai trò chủ thể trong những nội dung được cho phép.

Tuy nhiên, nội dung về sử dụng và phát huy giá trị tài liệu chưa được khuyến

khích trong các Pháp lệnh và Luật. Ngoài quy định về quyền được sử dụng, không có

điều khoản nào trong các văn bản này khuyến khích nhân dân sử dụng tài liệu phục vụ

các mục đích nghiên cứu, học tập, cũng chưa thấy chính sách hỗ trợ hoặc ưu tiên nhằm

tạo động lực để nhân dân sử dụng tài liệu lưu trữ vào học tập và nghiên cứu. Việc phát

huy giá trị tài liệu của nhân dân được công nhận là quyền của người có tài liệu nhưng

chưa có hướng dẫn chi tiết, nhất là khi quy định về thẩm quyền công bố tài liệu đã bị

bãi bỏ trong Luật Lưu trữ.

4.4. Triết lý

Mặc dù có những điểm mâu thuẫn giữa các Pháp lệnh, Luật về lưu trữ và giữa

Pháp lệnh với văn bản hướng dẫn thi hành như đã trình bảy ở trên nhưng vai trò của

nhân dân trong từng thời kỳ được thể hiện tương đối thống nhất và có sự thay đổi giữa

thời kỳ 1986-2000 và 2001-2012. Ở thời kỳ 1986 – 2000, mức độ tham gia của người

dân trong nội dung của các định nghĩa rất thấp, vấn đề sở hữu tư đối với tài liệu lưu trữ

bị phủ nhận, nhà nước giữ vai trò trung tâm trong quản lý, thực hiện nghiệp vụ và sở

hữu tài liệu; quyền sử dụng tài liệu được công nhận trong điều kiện bị hạn chế. Sang

thời kỳ 2001-2012, mức độ tham gia của người dân từng bước được nâng lên, quyền

sở hữu đối với tài liệu từ chỗ bãi bỏ quy định về sở hữu toàn dân đến chỗ công nhận

quyền sở hữu tư, các nội dung của công tác lưu trữ cho phép nhân dân tham gia được

mở rộng nhưng nhân dân vẫn chưa được phép tham gia vào các vấn đề của quản lý

nhà nước. Nói cách khác, đến Luật Lưu trữ, nhân dân đã được phép sở hữu tài liệu,

góp vốn, nghiên cứu khoa học và tư vấn – chuyển giao công nghệ nhưng vẫn chưa có

cơ chế được tham gia hoạch định chính sách về lưu trữ. Qua đó, nếu triết lý quản lý

nhà nước thời kỳ 1986-2000 là tập trung, thống nhất vào nhà nước thì triết lý quản lý

nhà nước thời kỳ 2001-2012 trở thành tập trung, thống nhất vào nhà nước, có sự tham

gia và đóng góp của nhân dân.

Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ với vấn đề vai trò và sự tham

gia của nhân dân được khái quát như sau:

Page 74: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

73

Hình 4: Cấu trúc quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác

lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000

Hình 5: Cấu trúc quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác

lưu trữ thời kỳ 2001-2012

Triết l{: Tập trung, thống nhất vào Nhà nước

Hệ quan điểm: chỉ khuyến khích chuyển đổi sở hữu tài liệu

Hệ chuẩn mực: không có quy định về hành vi bắt buộc thực hiện đối

với nhân dân

Hệ khái niệm: mức độ tham gia của người dân thấp

Triết l{: Tập trung, thống nhất vào nhà nước, có sự tham gia của

nhân dân

Hệ quan điểm: Khuyến khích nhân dân tham gia vào các lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyển đổi sở hữu tài liệu, đầu tư kinh,

bảo quản

Hệ chuẩn mực: chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của nhân dân khi sử

dụng tài liệu lưu trữ

Hệ Khái niệm: Mức độ tham gia của người dân cao

Page 75: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

74

KẾT LUẬN

Qua việc xác định quan điểm quản lý nhà nước giai đoạn 1986-2012, giả thuyết

nghiên cứu đã được chứng minh. Theo đó, sự tập trung, thống nhất của nhà nước được

thể hiện bởi ba đặc trưng cơ bản: Nhà nước là chủ thể quản lý nhà nước công tác lưu

trữ và quản lý tài liệu lưu trữ; là chủ thể chính thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ; là chủ

thể kiểm soát và định hướng sử dụng tài liệu lưu trữ. Tuy nhiên, quan điểm tập trung,

thống nhất này đã có sự thay đổi qua các thời kỳ theo hướng chia sẻ vai trò và trách

nhiệm quản lý tài liệu lưu trữ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trong đó, vai trò

của nhân dân đã được xác lập trên các phương diện: chủ thể sáng tạo và sử dụng tài

liệu; chủ thể sở hữu tài liệu; chủ thể đóng góp, tài trợ; chủ thể thực hiện các dịch vụ

lưu trữ. Quan điểm và sự thay đổi quan điểm này phản ảnh sự thích nghi của quản lý

nhà nước về công tác lưu trữ trước các yếu tố ảnh hưởng cơ bản. Đó là: sự thay đổi

của thực tiễn công tác lưu trữ, sự thay đổi của lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước

nói chung và khuynh hướng của thế giới. Trong đó, thực tiễn công tác lưu trữ có thể là

yếu tố chi phối chính tới quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thông qua hàng loạt các

mâu thuẫn khó giải quyết trong thời gian qua: mâu thuẫn giữa nhu cầu thông tin của

nhà nước và của nhân dân với hạn chế của các cơ quan lưu trữ, mâu thuẫn giữa nguồn

lực hữu hạn của nhà nước và nguồn lực tiềm năng của nhân dân với khả năng sử dụng

chúng, mâu thuẫn giữa những bối cảnh đặc thù của các cơ quan lưu trữ từ trung ương

tới địa phương với khả năng kiểm soát của cơ quan trung ương, mâu thuẫn giữa các

vấn đề quản lý phát sinh ngày càng phức tạp với năng lực thực tế của cơ quan quản

lý,... Song, động cơ thực sự dẫn đến những thay đổi này chưa được giải thích trong

nghiên cứu vì thiếu những phỏng vấn hoặc khảo sát trực tiếp từ các lãnh đạo ngành,

hay các phân tích thông tin trong hồ sơ lưu trữ về quá trình xây dựng, ban hành văn

bản qua các thời kỳ.

Ngoài các đặc trưng kể trên, sự tập trung, thống nhất quản lý công tác lưu trữ

còn thể hiện ở tính phụ thuộc vào trung ương. Theo đó, mọi vấn đề từ tổ chức, cán bộ,

nghiệp vụ, đến sử dụng tài liệu lưu trữ đều phụ thuộc vào các quy định từ văn bản của

cơ quan trung ương. Với trường hợp của UBND thành phố Hà Nội và UBND tỉnh Hà

Tây cũ, số lượng văn bản của lý của cơ quan địa phương vừa ít hơn về số lượng, vừa ít

đa dạng về nội dung so với văn bản của Bộ Nội vụ và Cục Văn thư – Lưu trữ Nhà

nước. Đây là biểu hiện rõ ràng của quan điểm quản lý hành chính với vai trò kiểm soát

chặt chẽ của chính quyền trung ương, tính tự chủ của các địa phương không được thể

hiện rõ. Vấn đề đáng lưu tâm là cho đến nay, trên cả phương diện khoa học lẫn thực

tiễn, chưa có báo cáo hoặc công trình khoa học nào chứng minh tính hiệu quả hơn của

quản lý tập trung, thống nhất từ trung ương so với việc cho phép tăng tính đa dạng và

chủ động của địa phương trong quản lý nhà nước công tác lưu trữ. Trong khi đó, mặc

dù gần 200 văn bản đã được ban hành trong giai đoạn 1986 – 2012 nhưng không có

Page 76: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

75

văn bản nào xác định các tiêu chí cụ thể để đánh giá hiệu quả công tác lưu trữ. Cho

nên, dường như trong quan điểm quản lý nhà nước công tác lưu trữ đang thiếu những

mục tiêu tổng quát về hiệu quả. Quy hoạch ngành Văn thư – Lưu trữ đến 2020, tầm

nhìn 2030 được xây dựng từ 2012 có nhiều chỉ tiêu định lượng cụ thể nhưng vẫn

không phản ảnh hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu quả công tác lưu trữ. Ngược lại,

khi công tác lưu trữ địa phương bị phụ thuộc nhiều vào trung ương thì các nội dung

của công tác lưu trữ địa phương có nguy cơ trở nên manh mún, thiếu kế hoạch dài hạn

mà luôn phải đợi những kế hoạch cụ thể từ trung ương.

Tính tập trung cao của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn 1986 –

2012 thể hiện rõ nhất trong việc xác định trách nhiệm, thẩm quyền và nội dung quản

lý nhà nước. Theo đó, dù thay đổi hình thức diễn đạt nhưng quan điểm xuyên suốt từ

năm 1982 đến 2012 vẫn là vai trò trung tâm của các cơ quan có thẩm quyền trong

quản lý nhà nước và hoàn toàn không có sự tham gia của nhân dân. Thậm chí, các vấn

đề của khoa học nghiệp vụ cũng phải thực hiện theo quy định của nhà nước và không

có từ ngữ nào cho phép sự góp ý của các tổ chức nghề nghiệp, các nhà khoa học, cơ

quan chuyên môn. Đồng thời, bên cạnh thừa nhận quyền sở hữu và cơ chế thỏa thuận

trong thu thập tài liệu lưu trữ của cá nhân, gia đình, dòng họ nhưng vẫn chưa có điều

khoản nào cho thấy sự gắn kết giữa các thỏa thuận này với các văn bản liên quan khác

như Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ,... Cho nên, trong vấn đề này xuất hiện một số

mâu thuẫn.

Mâu thuẫn trước hết là vấn đề lợi ích. Khi pháp luật tuyên bố chính sách và thừa

nhận vai trò của nhân dân trên nhiều phương diện như đã nêu ở trên nhưng lại không

có cơ chế cho phép họ được tham gia thảo luận hay góp ý về chính sách sử dụng thành

quả khoa học, nguồn tài chính, phân chia lợi ích khi thực hiện dịch vụ,... thì tính minh

bạch và hiệu quả, nhất là về phân phối lợi ích trong các hoạt động có nhân dân tham

gia không được thể hiện rõ. Chẳng hạn, nếu các hội nghề nghiệp hoặc nhà khoa học

nghiên cứu được sản phẩm có thể ứng dụng trong lưu trữ nhưng các cơ quan lưu trữ

lại phải áp dụng theo những tiêu chuẩn kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành,

lại không có cơ chế nào cho nhà khoa học được giới thiệu trực tiếp cho cơ quan quản

lý để xây dựng thành quy định thì lợi ích của nhà khoa học với mong muốn được

chuyển giao, ứng dụng sản phẩm lao động của mình sẽ bị hạn chế. Bằng cách đó,

chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học sẽ không thể khuyến khích được nhà

nghiên cứu.

Mâu thuẫn thứ hai tồn tại trong sự phức tạp của quản lý nhà nước. Khi thừa

nhận và cho phép người dân tham gia vào những nội dung của công tác lưu trữ, nhiều

nội dung của quản lý nhà nước sẽ chuyển từ việc giải quyết mối quan hệ trong các cơ

quan nhà nước với nhau như trước kia sang giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với

Page 77: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

76

công dân. Quan hệ này sẽ được giải quyết theo hướng nào, quan hệ hành chính hay

quan hệ dân sự là lựa chọn không dễ mà các cơ quan quản lý nhà nước phải đối mặt.

Nếu lựa chọn quan hệ hành chính với tính quyền lực-phục tùng thì chắc chắn sự tham

gia của người dân không phát huy được hiệu quả cao, thậm chí không kêu gọi được họ

tham gia vì quan hệ đó không đảm bảo sự công bằng cho đóng góp của họ. Nếu lựa

chọn quan hệ dân sự thì các cơ quan lưu trữ nhà nước, cơ quan quản lý có thẩm quyền

cần phải chuẩn bị đủ nền tảng pháp lý và phải sẵn sàng đặt mình ngang hàng với người

dân. Chẳng hạn, cơ quan lưu trữ phải có tâm thế rằng họ có thể bị kiện và phải bồi

thường nếu người dân không hài lòng với cách ứng xử của cơ quan lưu trữ đối với tài

liệu do họ hiến tặng. Khuynh hướng cải cách hành chính trên thế giới mà Việt Nam

đang tích cực học hỏi cùng với kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến như Canada

và Mỹ cho thấy rằng quan hệ dân sự sẽ khuyến khích tốt nhất cho việc tìm kiếm nguồn

lực và tài liệu của nhân dân, nhưng cơ quan lưu trữ, cán bộ lưu trữ và cả hệ thống thể

chế phải thích nghi được với điều này.

Mặc dù chậm 15 năm7 so với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, những

thay đổi trong pháp luật lưu trữ, bắt đầu từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và kế thừa,

phát triển ở Luật Lưu trữ là dấu hiệu của những tư tưởng tiến bộ. Sự tiến bộ này thể

hiện ở việc thích nghi với nền kinh tế - xã hội theo hướng thị trường, có sự điều tiết

của nhà nước và nâng cao dân chủ trong công tác lưu trữ. Cho phép và khuyến khích

nhân dân tham gia công tác lưu trữ là thừa nhận khả năng, tiềm lực của nhân dân, khác

với quan điểm có phần cực đoan của một số học giả quản lý hành chính nhà nước cho

rằng đó là nhiệm vụ của nhà nước và chỉ nhà nước làm được. Tuy nhiên, khi chấp

nhận điều này, các cơ quan quản lý phải đối diện với với rủi ro liên quan đến khả năng

mất kiểm soát về chất lượng của các dịch vụ lưu trữ, dẫn đến nguy cơ hủy hoại di sản

thay vì bảo tồn. Cho nên, khi quan điểm quản lý nhà nước tiến bộ hơn cần đồng thời

nâng cao năng lực quản lý của chính các cơ quan có thẩm quyền.

Với những mâu thuẫn đang đặt ra, những nguy cơ có thể xuất hiện, việc chuyển

đổi quan điểm quản lý với việc khẳng định vai trò của nhân dân trong công tác lưu trữ

là hành động thể hiện sự tiến bộ và linh hoạt của các cơ quan xây dựng pháp luật. Tuy

nhiên, từ quan điểm này tới khi chúng được thực hiện trong thực tiễn sẽ cần nhiều thời

gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi và hành động tích cực hơn nữa của các cơ quan có

thẩm quyền. Những khó khăn đó sẽ được giảm bớt nếu họ sẵn sàng lắng nghe và chia

sẻ với nhân dân, những người sẽ đồng hành cùng họ để thực hiện chính sách quản lý

tiến bộ nói trên vì lợi ích của cả hai phía: Nhà nước và Công dân. Nhưng trước hết,

xác định một mục tiêu tối thượng và xuyên suốt cho công tác lưu trữ phải là ưu tiên

hàng đầu trong quan điểm quản lý, chỉ đạo về công tác lưu trữ trong thời gian tới.

7 So sánh về thời gian xuất hiện những quan điểm mới trong Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001 với thời điểm tuyên bố đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986.

Page 78: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. 23 7 2012. http: dangcongsan.vn cpv Modules Ne s Ne s etail.aspx co id 28340692 cn id 534147 (đã truy cập 5 15, 2015).

Chi Cục Văn thư - Lưu trữ tỉnh An Giang. Sở Nội vụ An Giang. 10 10 2013. http://sonoivu.angiang.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9M Py8xB 9CP0os3 3oBBLc dT ML 383 09nx1 T g Cd M 2Cb d N6QP CM L B L C NT T ps cm connect sonoivu siteo sonoivu tintucsukien congtacvanthuluutru tailieuquyhiem (đã truy cập 6 2015, 15).

Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh lưu trữ Quốc gia. Báo cáo tổng kết, Hà Nội: Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, 2011.

Đào uân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm,. Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ. Hà Nội: N B Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1990.

GS. TS. Nguyễn Duy Gia. Giáo trình quản lý hành chính nhà nước. Hà Nội: NXB Giáo dục, 1996.

GS.TS.Phạm Hồng Thái, GS.TS.Nguyễn Đăng ung, T .Nguyễn Ngọc Chí,. Phân cấp quản lý nhà nước. Hà Nội: NXB Công an Nhân dân, 2011.

Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa. Từ điển bách khoa Việt Nam. Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa, 2003.

Hughes, Owen E. Public management and Administration - An introduction (third edition). New York: Palgrave Macmillan, 2003.

Nguyễn Diệu Cơ, Đinh Ngọc Vượng, Nguyễn Quốc Việt. Quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa (lược dịch từ tiếng Nga). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1987.

Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn thư, lưu trữ hiện hành, Hà Nội, 2012.

David Held, Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại (PHạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, 2012

Nguyễn Như Ý. Đại từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: N B Văn hóa - Thông tin, 1998.

—. Đại Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: N B Văn hóa - Thông tin, 1998.

Page 79: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

78

Nguyễn Văn Thâm, Vương Đình Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kz Hồng. Lịch sử lưu trữ Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: N B ĐHQ Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.

Nicolas Henry. "Paradigms of Public Administration." Public Administration Review, vol.35, 1975: 378-386.

Oxford University. Oxforf University Press. 2015. http://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/people_1?q=people (accessed 4 03, 2015).

PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải, Ths. Phạm Thu Lan. Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công. Hà Nội: NXB Khoa học - Kỹ thuật, 2013.

P . Vương Đình Quyền. “"Tài liệu lưu trữ", Một thuật ngữ cần được hiểu và định nghĩa chính xác hơn.” Dấu ấn thời gian số 3, 2007.

PGS.TS.Nguyễn Hữu Hải, Ths. Lê Văn Hòa (đồng chủ biên),. Đại cương về chính sách công. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2013.

Terry Cook. "Evidence, Memorie, Identity, and Community: Four shifting archival paradigms." Archival Science, 2013: 95 - 120.

Thomas Kuhn (Chu Đình Lan dịch). Structure of Revolution Sciences . Chicago: The University of Chicago Press (bản dịch tiếng Việt của NXB Tri thức), 1962, 2008.

Tomkins, Jonathan R. Organization theory and Public management. Tomson Wadsworth, 2005.

Tony Bovaird, Elke Louffler. Public management and Governance. London, New York: Taylor and Francis Group, 2003.

Toru Hashimoto, Stefan Hell, Sang – Woo Nam. Nghiên cứu và đào tạo chính sách công ở Việt Nam. Hà Nội: Viện Ngân hàng Phát triển châu Á, 2005.

T . Lê Văn anh. Chính sách công của Hoa Kỳ. Hà Nội: NXB Thống Kê, 2001.

TS. Nguyễn Tiến Phồn. Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2001.

T . Văn Tất Thu. “Quản l{ nhà nước về lưu trữ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền.” Pháp luật về lưu trữ. Bình Thuận: Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội và Dự án hỗ trợ thực thi chính sách, 2011. 32.

T . Vũ Minh Hương. “Quản lý tài liệu thuộc Phông Lưu trữ Nhà nước Việt Nam - Thực tiễn và Kiến nghị.” Pháp luật về lưu trữ. Bình Thuận: Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội và Dự án Hỗ trợ thực thi chính sách, 2011. 17.

Page 80: I HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

79

T . ương Văn Khảm, nhóm tác giả. Cơ sở khoa học để tổ chức quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Research report, Hà Nội: Cục Lưu trữ Nhà nước, 2001.

Văn Việt. Sở Nội vụ Kiên Giang. 20 4 2013. http://sonoivu.kiengiang.gov.vn index2. sp menuId 1354 articleId 24167 (đã truy cập 6 2015, 15).

Việt Trí. “Những nguyên tắc cơ bản của Lê-nin về công tác lưu trữ còn sống mãi.” Tạp chí Văn thư - Lưu trữ số 6, 1988: 1-3.

Vũ Cao Đàm. Tuyển tập các công trình đã công bố. Hà Nội: NXB Thế giới, 2009.