i hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn Đề ọ ấp cơ sở m quản …€¦ · 2 tiềm...
TRANSCRIPT
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đề tài khoa học cấp cơ sở
Quan điểm quản lý nhà nước
về công tác lưu trữ ở Việt Nam
giai đoạn 1986 – 2012
Mã số: CS.2015.08
Phạm Thị Diệu Linh
Hà Nội, 2015
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quản lý nhà nước về lưu trữ đã trở thành học phần bắt buộc trong chương trình
đào tạo Lưu trữ học ở cả hai bậc đại học và sau đại học. Không ít các nghiên cứu lưu
trữ học, từ cấp độ khóa luận tốt nghiệp đến luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu các cấp
đều đề cập tới quản lý nhà nước ở nhiều góc độ khác nhau. Cho đến thời điểm này,
phần lớn các nghiên cứu đều hướng tới đề xuất giải pháp từ góc độ quản lý nhà nước
để góp phần cải tiến hiện trạng công tác lưu trữ ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhận thức đầy
đủ về quản lý nhà nước về công tác lưu trữ trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn
còn bộc lộ những bất cập. Những định nghĩa và quy định về hoạt động này trong các
văn bản có tính pháp lý của Nhà nước không đủ khái quát để định hướng tổng thể,
trong khi các nghiên cứu lý thuyết vẫn còn tranh luận về nội hàm khái niệm quản lý
nhà nước về công tác lưu trữ.
Năm 1962,Thomas Kuhn xuất bản tác phẩm "Cấu trúc của những cuộc cách
mạng khoa học" (Structure of Science Revolutions) đã tạo ra một cách tiếp cận mới
trong nghiên cứu. Thuật ngữ quan điểm (paradigm)1 trở thành một khái niệm chủ đạo,
định hướng cách tiếp cận trong nghiên cứu nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Sự ứng dụng tiếp cận paradigm trong các nghiên cứu về quản lý nhà nước khá phổ
biến với việc xác định những tư tưởng cơ bản trong từng giai đoạn phát triển của lý
thuyết và thực tiễn quản lý nhà nước (Hughes 2003). Bước sang thế kỷ XXI, paradigm
cũng trở thành thuật ngữ cơ bản trong lý thuyết lưu trữ học với sự phân chia bốn giai
đoạn quan điểm lý thuyết của Terry Cook (Terry Cook 2013). Cho nên, nghiên cứu
quan điểm (paradigm) không chỉ góp phần tháo gỡ những tranh luận liên quan tới
quan niệm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ, mà còn là hướng tiếp cận phù hợp
với xu thế chung của thế giới.
Từ 1986 đến 2012, hoạt động quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu (Nguyễn Văn Thâm 2010). Số lượng văn bản có tính pháp
lý cao được ban hành đầy đủ hơn mà đỉnh cao là sự ra đời của Luật Lưu trữ. Nội dung
của những quy định pháp lý đã đề cập tương đối đầy đủ các nội dung của công tác lưu
trữ. Thành tựu của cơ quan lưu trữ và những tài liệu lưu trữ có giá trị được công chúng
biết tới nhiều hơn. Sự tham gia của ngành lưu trữ vào các hoạt động văn hóa, lịch sử,
chính trị của xã hội ngày càng rõ nét với hàng loạt các triển lãm tài liệu lưu trữ, các
sản phẩm công bố tài liệu đa dạng. Tuy vậy, những thành tựu đó chưa thể hiện hết
1 Với nguyên gốc tiếng Latin là paradigma, có tài liệu tiếng Việt dịch là hệ quan điểm, tài liệu khác gọi là khung mẫu nhưng tất cả dịch giả đều thừa nhận rằng những khái niệm chuyển ngữ đều không phản ảnh chính xác { nghĩa của khái niêm này.
2
tiềm năng của ngành. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất
cập trong quản lý mà vì nó, các nghiên cứu lưu trữ học đều phải kiến nghị thay đổi.
Thực tiễn lưu trữ ở Việt Nam thời gian qua có nhiều thay đổi khiến cho một số
quan niệm cơ bản cần phải định nghĩa lại, bao gồm cả quan niệm về tài liệu lưu trữ
(PGS. Vương Đình Quyền 2007). Sự xuất hiện của ngày càng nhiều các loại hình tổ
chức mới trong kết cấu xã hội hiện đại song song với nhu cầu lưu giữ và dùng tin của
người dân tạo ra không ít những thách thức cho cơ quan lưu trữ. Trong khi các cơ
quan lưu trữ chưa tìm được giải pháp tiếp cận công chúng một cách hiệu quả thì sự hỗ
trợ của internet đã tạo điều kiện để người dân, các cơ quan, tổ chức chủ động trao đổi
tài liệu, thông tin một cách nhanh chóng càng làm vai trò của các lưu trữ có nguy cơ
trở nên mờ nhạt. Cùng lúc đó, Trung tâm di sản các nhà khoa học Việt Nam ra đời với
chức năng như một cơ quan lưu trữ tư nhân và hàng loạt các công ty cung cấp dịch vụ
lưu trữ khác đang hoạt động vừa đem lại hiệu quả, vừa tạo ra những hệ lụy tiêu cực
cho thấy một bước tiến của hoạt động lưu trữ trong xã hội khiến cho các cơ quan quản
lý cần có thêm biện pháp để thích nghi và quản lý hiệu quả hơn. Song các giải pháp
đều phải bắt nguồn từ những quan điểm và mục tiêu chung có tính định hướng.
Là một lĩnh vực trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước
công tác lưu trữ cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo chung của
toàn bộ hệ thống quản lý, từ đảng cầm quyền đến các cơ quan nhà nước. Công cuộc
cải cách hành chính bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trước và trào lưu dân chủ hóa
gắn liền với quyền con người trong thời gian gần đây ở Việt Nam đã bắt đầu ảnh
hưởng tới quan điểm quản lý công tác lưu trữ, tiêu biểu ở việc thừa nhận quyền sở hữu
về tài liệu lưu trữ nhưng chưa tạo ra những dấu ấn đáng kể có tính bước ngoặt.
Thực tế kể trên, cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn đòi hỏi phải xem xét
lại quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ trong thời gian qua một cách tổng quát
nhằm xác định rõ tư tưởng chủ đạo của hoạt động này cũng như những thay đổi của nó
qua thời gian với bối cảnh lịch sử cụ thể. Những phát hiện trong quá trình phân tích sẽ
có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính phù hợp của quan điểm quản lý nhà
nước với bối cảnh hiện nay, làm cơ sở cho việc hình thành quan điểm đổi mới thực sự
trong quản lý nhà nước về công tác lưu trữ trong thời gian tới. Đề tài "Quan điểm
quản lý nhà nước về lưu trữ ở Việt Nam giai đoạn 1986-2012" được thực hiện với
mục đích như vậy.
2. Tổng quan tài liệu
Hành chính công và quản lý công là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống từ
những thế kỷ XIX ở Tây Âu và Mỹ. Trong khi đó, quản lý nhà nước là lĩnh vực nghiên
cứu phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô. Các nghiên cứu
3
hành chính học ở Việt Nam đã kế thừa từ nghiên cứu của Liên Xô và chuyển dịch sang
quan điểm của phương Tây theo hướng thích nghi với bối cảnh ở chính trị ở Việt
Nam. Nghiên cứu này sẽ khái quát một số kết quả từ những nghiên cứu đó.
Liên quan tới quản lý nhà nước về lưu trữ, ở Canada và Australia có hai bài viết
quan trọng, tổng hợp lịch sử lưu trữ và quan điểm quản lý tại nước đó về lưu trữ có ý
nghĩa tham khảo. Ở Việt Nam, các nghiên cứu của một số học giả, đồng thời là nhà
quản lý như nghiên cứu của Ông Dương Văn Khảm, Ông Vương Đình Quyền,... sẽ
được giới thiệu như là những công trình có ảnh hưởng lớn tới hoạt động quản lý về lưu
trữ ở Việt Nam.
3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là: Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ ở Việt
Nam giai đoạn 1986 – 2012 như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu: Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012
là tập trung, thống nhất vào nhà nước, nhưng ngày càng thừa nhận vai trò và sự tham
gia của nhân dân.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của đề tài là chứng minh được giả thuyết trên và so sánh với nhu cầu
thực tiễn hiện nay để đánh giá và kiến nghị phù hợp.
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ trong thực tế của
Việt Nam dựa trên tiếp cận theo cấu trúc phân tầng về paradigm của GS. Vũ Cao Đàm
Khách thể nghiên cứu chính là những văn bản quản lý nhà nước, chủ yếu là văn bản
quy phạm pháp luật đã được ban hành và thực hiện trong giai đoạn 1986 - 2012. Tuy
nhiên, từ 1982 tới trước khi ban hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001, công tác
lưu trữ Việt Nam vẫn thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ
năm 1982 nên Pháp lệnh này và những văn bản hướng dẫn thi hành vẫn thuộc khách
thể nghiên cứu.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: từ 1986 – 2012 với hai thời kỳ là: 1986-2000 và 2001 - 2012
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phân tích nội dung ngôn ngữ kết hợp với thống kê định lượng
4
8. Những đóng góp mới
Nếu thực hiện thành công, nghiên cứu dự kiến sẽ đóng góp vào những nội dung sau:
- Về lý thuyết: Tổng kết các nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt
Nam có so sánh với sự hình thành và thay đổi lý thuyết quản lý nhà nước nói chung;
- Về thực tiễn: Tổng hợp, so sánh quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ
trong 30 năm đổi mới theo hai giai đoạn trong phạm vi phân tích văn bản pháp lý về
lưu trữ;
- Về phương pháp: Cung cấp một cách tiếp cận phổ biến trên thế giới nhưng chưa phổ
biến trong lưu trữ học ở Việt Nam về nghiên cứu quan điểm; chứng minh hiệu quả kết
hợp phân tích định tính nội dung văn bản với thống kê định lượng các yếu tố ngôn ngữ
trong nghiên cứu lưu trữ học.
9. Bố cục của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, báo cáo tổng thuật đề tài gồm bốn chương chính và phân kết luận:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
Tổng quan nghiên cứu phản ảnh quá trình và kết quả nghiên cứu chính về quản lý nhà
nước và quản lý nhà nước và công tác lưu trữ, từ đó chọn lọc những khái niệm và định
nghĩa cơ bản sẽ sử dụng là cơ sở lý thuyết của đề tài.
- Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 2 sẽ cung cấp toàn bộ quy trình và phương pháp thực hiện nghiên cứu, từ việc
xác định câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu tới cách thức cơ bản để thu thập, xử lý thông
tin phục vụ nghiên cứu;
- Chương 3: Quan điểm tập trung, thống nhất vào nhà nước trong quản lý nhà nước
về công tác lưu trữ
Chương này sẽ trình bày các bằng chứng từ phân tích và thống kê nội dung văn bản và
ngôn ngữ để xác định quan điểm quản lý tập trung, thống nhất
- Chương 4: Quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác lưu trữ
Nội dung chính của chương 4 sẽ trình bày các bằng chứng khẳng định sự thay đổi
quan điểm của nhà nước về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác lưu trữ
- Kết luận của nghiên cứu công nhận sự thành công hay thất bại của quá trình chứng
minh giả thuyết, những hạn chế chính của nghiên cứu, những bình luận của tác giả về
kết quả nghiên cứu.
5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Hành chính công, quản lý công và quản trị công
Đề cập tới hoạt động quản lý của nhà nước, các lý thuyết phương Tây, chủ yếu
ở Tây Âu và Mỹ sử dụng thuật ngữ hành chính công (public administration). Hành
chính công vừa là hoạt động thực tiễn của các nhà nước, vừa là thuật ngữ khoa học chỉ
một lĩnh vực nghiên cứu. Theo đó, hành chính công là một lĩnh vực “nghiên cứu hàn
lâm về khu vực công”. “Lý thuyết cơ bản của hầu hết thế kỷ XX thường được gọi là mô
hình hành chính công truyền thống với sự tương phản với hành chính công mới hay
chủ nghĩa quản lý hoặc cải cách hành chính công” (Hughes 2003, 8). Hành chính
công tiếp thu lý thuyết và quy trình của khoa học quản lý, chính trị học, khoa học pháp
lý để bổ sung nội dung về phương diện pháp lý, điều hành và xét xử của nhà nước.
Nền tảng lý thuyết quản lý của hành chính công là các trường phái quản lý từ cổ điển
đến hiện đại, bao gồm: “lý thuyết quản lý theo khoa học, lý thuyết quản lý hành chính,
lý thuyết quan hệ con người, lý thuyết nguồn nhân lực, lý thuyết hệ thống, lý thuyết
quản lý chất lượng, lý thuyết văn hóa và lãnh đạo tổ chức” (Tomkins 2005, 6). Từ góc
độ thực tiễn cũng như lý thuyết, chính sách công là kết quả của hành chính công.
Trong hành chính công, các nguyên tắc chính trị chi phối mạnh mẽ quá trình hoạch
định chính sách. Cho nên, chính sách công không đơn thuần là sản phẩm quản lý –
điều hành xã hội của nhà nước, mà trước hết là công cụ của nhà nước để bảo vệ quyền
lực lãnh đạo. Do vậy, ở thời kỳ này, việc ban hành chính sách công tập trung vào vấn
đề xây dựng pháp luật, thiết kế hệ thống, tổ chức và kiểm soát. Các kết quả và hệ quả
của chính sách dựa trên các phân tích định tính.
Những thay đổi và khủng hoảng kinh tế - chính trị tại châu Âu ở nửa sau thế kỷ
XX đã thách thức hoạt động của các nhà nước, theo đó nền hành chính công với nền
tảng lý thuyết dựa trên các học thuyết quản lý cổ điển của Taylor và Weber trở nên lạc
hậu, trở thành lực cản đối với sự tiến triển của các quốc gia. Đồng thời, hành chính
công với những yếu tố phụ thuộc chặt chẽ vào chính trị dần trở nên mâu thuẫn, bởi lẽ
các nguyên tắc chính trị tập trung vào việc bảo vệ sự lãnh đạo chính trị, trong khi hoạt
động của nhà nước đòi hỏi những biện pháp có tính kỹ thuật để thúc đẩy và hỗ trợ xã
hội phát triển. Điều đó khiến cho nhiều phương diện trong hoạt động quản lý của nhà
nước, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, dần tách khỏi các nguyên tắc chính trị và ngày
càng chú trọng về kỹ thuật quản lý đất nước, dẫn đến quá trình cải cách hành chính,
hay hành chính công mới (new public administration), hoặc quản lý công (public
management). Do vậy, “chúng ta sử dụng [thuật ngữ] quản lý công để tiếp cận theo
hướng sử dụng các kỹ thuật quản lý (thường bắt đầu từ khu vực tư) để làm tăng giá trị
tài chính đạt được từ các dịch vụ công” (Tony Bovaird 2003, 5). Tổ chức hợp tác phát
6
triển kinh tế (OECD) xác định những yếu tố chính trong quản lý công, hay hành chính
công mới gồm:
Nhấn mạnh vào năng lực quản lý;
Quản lý tài chính linh động và phát triển hơn;
Trách nhiệm hơn với người dùng và khách hàng khác trong dịch vụ công;
Phi tập trung hóa mạnh hơn về thẩm quyền và trách nhiệm từ trung ương cho
các cấp thấp hơn trong chính quyền;
Trông cậy lớn hơn vào hệ thống theo hướng thị trường như thị trường nội địa,
khuyến cáo người dùng, hệ thống thanh toán và hợp đồng;
Tư nhân hóa các doanh nghiệp công theo hướng thị trường
(Tony Bovaird 2003, 17)
Cách tiếp cận này làm thay đổi nội dung của chính sách công. Theo đó, “Chính
sách công có thể xác định như sản phẩm đầu ra của quá trình khuếch tán do các cá
nhân thực hiện. Những cá nhân này hợp thành những nhóm nhỏ tác động lẫn nhau
trong một cơ cấu bị chi phối bởi các tổ chức chính thức. Những tổ chức này thực hiện
chức năng trong hệ thống thể chế chính trị, luật lệ và thực tiễn, tất cả đều hướng đến
những tác động có tính xã hội và văn hóa” (Hughes 2003, 115). Một cách đơn giản
hơn, "chính sách công là những gì mà chính quyền thi hành đến dân" (TS. Lê Văn
Danh 2001, 123). “Hoạch định chính sách công [không phải từ ngẫu nhiên], mà
chúng là [quá trình bắt buộc] của mọi tổ chức, các viện, các nhóm quan tâm và thậm
chí là các thế lực văn hóa và xã hội” (Hughes 2003, 115).
Mặc dù coi trọng kỹ thuật quản lý nhưng yếu tố chính trị vẫn là vấn đề chi phối
cốt lõi tới hoạch định chính sách trong quản lý công. Sự tác động của yếu tố chính trị
trong quản lý công khác với hành chính công ở chỗ: thay vì cạnh tranh lợi ích và kiểm
soát lẫn nhau như trong hành chính công, vấn đề chính trị trong quản lý công hướng
tới khả năng thỏa thuận và hợp tác giữa các nhóm lợi ích để đạt mục tiêu chung với sự
tham gia ngày càng tăng của các nhóm công dân và nhóm chủ sở hữu ở khu vực tư
(Tony Bovaird 2003, 20). "Các nhóm lợi ích này nằm ngay trong chính quyền,... và có
quan hệ mật thiết với các Nhóm lợi ích ngoài chính quyền xuất phát từ sự chia sẻ
quyền lợi... Người ta gọi đây là các Nhóm lợi ích để minh họa cho thực tế - đây là các
nhóm hưởng lợi ích từ một chính sách công nhất định" (TS. Lê Văn Danh 2001, 131).
Và ở thời kỳ này, chính sách không chỉ chú trọng giải quyết những vấn đề chung của
quốc gia mà còn được xây dựng trên cơ sở đặc thù chính trị - xã hội – văn hóa của
từng vùng, sự ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa và các trào lưu mang tính quốc
tế. Thay vì hoạch định chính sách công một cách thụ động nhằm giải quyết các vấn đề
thực tiễn, các nhà nước đã tiến tới chủ động thiết kế các chính sách với mục tiêu chiến
7
lược. Khi đó, từ các biện pháp can thiệp cụ thể, hoạch định chính sách công trở thành
"hoạt động cung cấp nguyên tắc, luật lệ, hệ thống giá trị về tổ chức, điều khiển, quản
lý và kiểm tra sự vận động của từng bộ phận trong xã hội, chịu trách nhiệm rất lớn đối
với hiệu quả khai thác nguồn lực" (TS. Lê Văn Danh 2001, 805). Kéo theo đó, nhà
nước thay đổi vai trò từ kiểm soát và can thiệp sang thúc đẩy, hỗ trợ và điều hành tổng
quát. Tony Bovaird và Elke Louffler giới thiệu quan điểm về vai trò nhà nước hiện
đại đã hình thành từ năm 1959 trong lý thuyết của Muggrave là:
- Điều phối (allocative): bù đắp những sai sót của thị trường thông qua sự điều
tiết, chính sách thuế, hạn chế hoặc cung cấp các sản phẩm công cộng;
- Phân phối (distributional): Đạt được chỉ cho và công bằng cho xã hội thông
qua điều tiết, điều chỉnh các quyền, tạo điều kiện tiếp cận thị trường qua việc đối mặt
với sự phân biệt đối xử, tiến tới thuế quan và hạn chế [tiêu cực];
- Ổn định hóa (stabillization): Kiểm soát sự phát triển kinh tế, thất nghiệp và
lạm phát thông qua quản lý yêu cầu và tài chính.
Cùng với sự thay đổi vai trò của nhà nước, những ranh giới để phân biệt hoạt
động của nhà nước với hoạt động của các tổ chức khác trong xã hội dần bị mờ nhạt.
Quá trình tư nhân hóa các dịch vụ công và nâng cao vai trò điều phối chiến lược của
nhà nước đã dẫn đến sự tham gia ngày càng nhiều của khu vực tư vào chức năng công.
"Những năm 1980 và 1990 chứng kiến những khởi đầu thay đổi sự cân bằng giữa khu
vực công và tư – sự tư nhân hóa; ký kết hợp đồng; giảm nợ công; những quy tắc cân
bằng ngân sách; tái tạo ngân sách; thay đổi quan hệ công – tư;..." (Tony Bovaird
2003, 29).
Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình của sự chuyển đổi từ hành chính công sang
quản lý công. Trong giai đoạn 1935 – 2001, quá trình hoạch định chính sách công đã
chuyển từ các chính quyền địa phương về sự tập trung và can thiệp trực tiếp của trung
ương. Trước những năm 70 của thế kỷ XX, hầu hết các chính sách đều mang tính thụ
động để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Các bộ và ủy ban trung ương đảm nhiệm trực
tiếp việc thực thi chính sách khiến cho quyền lực tập trung về trung ương một cách
đáng kể. Nhưng từ những năm 1969 – 1976, các tổng thống Hoa Kỳ đã chủ trương và
thực hiện phân tán quyền lực trung ương bằng cách đề các nguyên tắc và tiêu chuẩn
thực hiện rồi giao nó cùng ngân sách về địa phương triển khai (TS. Lê Văn Danh
2001, 821). Theo đó, tính cụ thể và định lượng của chính sách được củng cố hơn nữa
trong giai đoạn sau 1970. Con người tại Hoa Kỳ bị bao phủ bởi "hằng hà sa số" các
quy định của pháp luật và gần như mọi hành vi đều bị điều chỉnh bởi luật. Việc hoạch
định chính sách luôn được tính toán chi tiết về chi phí và lợi ích. Đặc điểm của hệ
thống chính trị tại Mỹ cho phép các thế lực và nhóm lợi ích kiểm soát và phản biện lẫn
8
nhau, đồng thời các nhóm chuyên gia như nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia phân
tích,... đều được sử dụng làm cố vấn để giúp nhà hoạch định chính sách tính toán các
chi tiết đó. Sự tham gia của các nhóm lợi ích và nhu cầu thực tiễn làm xuất hiện ngày
càng nhiều các loại hợp đồng giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa nhà nước
với khu vực tư để cùng thực hiện chính sách công. Thể hiện sự chi phối của nền chính
trị đặc thù tại Hoa Kỳ với nền dân trị Mỹ và quản lý theo số đông, những vấn đề được
Tiến sĩ Lê Văn Danh trình bày trong sản phẩm từ nghiên cứu sau tiến sĩ tại Mỹ cho
thấy nhà nước Hoa Kỳ đã không ngừng thích ứng với thực tiễn để thay đổi phương
cách quản lý và quan điểm hoạch định chính sách. Xu hướng tập quyền thay cho phân
quyền sau 1935 tạo ra nhiều thành tựu nhưng lại mẫu thuẫn với truyền thống chính trị
của người Mỹ và gây ra nhiều xung đột. Do đó, thành công và thất bại trong trường
hợp của Hoa Kỳ là bài học cụ thể về sự kết hợp giữa phương thức quản lý tập trung và
phân tán trên cơ sở cân nhắc cả lợi ích quốc gia và lợi ích nhóm. Sự chuyển đổi hành
chính công sang quản lý công tại Hoa Kỳ có tính đặc thù với vai trò trung tâm điều tiết
của nhà nước và truyền thống thỏa thuận giữa các nhóm đã có từ lâu đời.
Mặc dù Hoa Kỳ được coi là cái nôi nảy sinh nhiều tư tưởng quản lý tiến bộ
nhưng châu Âu lại là hiện thân trong các thành tựu về khả năng điều tiết và đảm bảo
an sinh xã hội của nhà nước. Sự phát triển của đất nước dựa trên sự phát triển dân trí
thông qua chính sách giáo dục tích cực đã giúp nhiều quốc gia giành được các thành
tựu đặc biệt, trong đó có Đức và Thụy Sĩ. Những thành tựu của công nghệ thông tin và
ứng dụng của nó vào quản lý nhà nước đã thúc đẩy kỹ thuật quản lý của nhà nước
được cải tiến mạnh mẽ trong quản lý công. Và quan điểm về quản trị công
(governance) hình thành như là một xu hướng mới nổi trong khu vực công tại châu Âu
và Hoa Kỳ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Quản trị công xuất hiện không chỉ dựa
trên nền tảng của công nghệ thông tin mà còn xuất phát từ nhu cầu thiết thân của nhà
nước trong việc xác lập mối quan hệ công tác (partnership) và mạng lưới đồng quản lý
(co-manage networks) với nhiều loại chủ sở hữu, trong đó chú ý tới sự hình thành các
chính thể quản trị liên quốc gia. Theo đó, quản trị (governance) với tư cách là một
thuật ngữ trong khoa học và thực tiễn đã phát triển và thay đổi ý nghĩa từ nguyên gốc
tiếng Pháp ở thế kỷ XIV thành một khái niệm với nội hàm chú trọng hơn vào bản chất
của nhà nước trong việc đảm bảo dân chủ. Phổ biến trong các nước phát triển, nhiều
chuyên gia của các quốc gia khác nhau đã đưa ra định nghĩa về quản trị, trong đó định
nghĩa của Viện Quốc tế quản trị của Vương Quốc Anh được Tony Bovaird và Elke
Louffler giới thiệu có liên quan trực tiếp tới chính sách. Đó là, "quản trị là cách thức
mà các chủ sở hữu ảnh hưởng lẫn nhau để tác động tới kết quả của chính sách" (Tony
Bovaird 2003, 165). Quản trị được thực hiện với niềm tin về một "chính phủ tốt"
(good government). Trong đó, sách trắng của Chính phủ liên minh Châu Âu đề ra năm
tiêu chí xác định chính phủ tốt gồm: minh bạch (openness), đóng góp (participation),
9
trách nhiệm (accountability), hiệu quả (effectiveness), đoàn kết (cohenrence) (Tony
Bovaird 2003, 165). Việc chuyển dạng từ quản lý công sang quản trị công khiến cho
các nhà nước thay đổi vai trò từ hoạch định sang điều phối chính sách công. Họ không
còn là nhân vật trung tâm, mà chỉ là một trong những nhân tố của quá trình xây dựng
chính sách. Thách thức then chốt của những chính phủ này là tạo dựng mạng lưới
công việc (networks) và tìm kiếm những hình thức mới của sự hợp tác. Điều đó cũng
đòi hỏi các chủ sở hữu phải đủ năng lực quyết định trong cộng đồng của họ hoặc trong
mạng lưới chính sách. Nói cách khác, trong giai đoạn quản trị công, xã hội không chỉ
phát triển các tổ chức, mà còn hình thành nên những cộng đồng công dân với nhiều
mong đợi và lợi ích khác nhau như cộng đồng doanh nhân, cộng đồng nhà khoa học,
cộng đồng tiểu thương, cộng đồng truyền thông, cộng đồng nhóm yếu thế, ... Và, mối
quan tâm chính của chính sách công không chỉ coi dân chúng như khách hàng mà còn
phải cân bằng lợi ích giữa các cộng đồng với nhiều kế hoạch chiến lược hơn là những
kế hoạch giải quyết mục tiêu trước mắt.
Như thế, hành chính công, quản lý công và quản trị công là ba giai đoạn phát
triển khác nhau trong tư tưởng quản lý nhà nước của các học giả và trong hoạt động
thực tiễn của các nhà nước. Mỗi thuật ngữ này đều có ý nghĩa riêng và được xác định
bởi những quan điểm lý thuyết được xây dựng có hệ thống. Bản chất của chính sách
công và vai trò quản lý của nhà nước trong ba giai đoạn này có sự thay đổi và đòi hỏi
năng lực nhất định của nhà nước và công dân.
1.2. Quản lý nhà nƣớc và pháp luật xã hội chủ nghĩa
Không dùng thuật ngữ hành chính công như các học giả Tâu Âu và Mỹ, các học
giả Liên Xô gọi hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước là quản lý nhà nước. Chịu ảnh
hưởng nặng nề của tư tưởng quản lý nhà nước của Liên Xô, đến trước những năm
1990, các tài liệu học tập và nghiên cứu về quản lý nhà nước của Việt Nam vẫn được
xây dựng trên cơ sở tổng hợp hoặc lược dịch từ tiếng Nga. Theo đó, "Quản lý xã hội là
khái niệm rộng nhất. Quản lý nhà nước là một bộ phận của quản lý xã hội, nó bao
quát toàn bộ hoạt động của nhà nước, gồm hai phần: công tác tổ chức trong bộ máy
nhà nước, và sự tác động về mặt tổ chức đến người công dân, đến các tổ chức xã hội ở
trong nước, sự thực hiện các mối quan hệ với các nhà nước khác" (Nguyễn Diệu Cơ
1987, 13). Hoạt động cơ bản của quản lý nhà nước theo quan điểm này là hoạch định
các thiết chế tổ chức trong toàn xã hội, trong đó xây dựng bộ máy nhà nước trong mối
quan hệ với hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là quan trọng nhất. Bản thân hệ thống
chính trị cũng được xây dựng bao gồm các thiết chế tổ chức như Đảng cộng sản, nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội khác. Công dân trong phương cách quản lý này
không hoạt động một cách độc lập mà phải được tổ chức trong các đoàn thể quần
chúng. Vì thế, quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là sự quản lý thông qua
10
tạo dựng các hệ thống tổ chức. Về phương diện lý thuyết, phương cách quản lý này
được các học giả Tây Âu so sánh và gọi tên là quản lý cổ điển, hay quản lý hành
chính, hoặc hành chính công tương ứng với nền tảng lý thuyết của Taylor và Weber.
Đặc điểm đáng lưu ý của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự can thiệp trực
tiếp của nhà nước vào mọi vấn đề của xã hội, đặc biệt là nền kinh tế, trong đó phủ
nhận vai trò lãnh đạo nền kinh tế của các bộ phận kinh tế. Sự can thiệp này "phản ánh
sự quện vào nhau khăng khít giữa những nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội, và chúng
ngày càng gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ phát triển cơ cấu xã hội của xã hội"
(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 13). Đặc điểm này trở thành đặc trưng của quản lý xã hội chủ
nghĩa, và trở thành nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động của xã hội, dẫn đến sự
hình thành các nguyên tắc chi phối trong quản lý các ngành, lĩnh vực, bao gồm cả
nguyên tắc quản lý "tập trung, thống nhất" về lưu trữ.
Xét tới bản chất của quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tác giả theo quan
điểm của Liên Xô cho rằng quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc tính thống nhất.
Sự thống nhất này được thể hiện trước hết ở chỗ tất cả quần chúng, người lao động
được tổ chức thống nhất và được nhà nước đại diện; thứ hai là sự quản lý thống nhất
tư liệu sản xuất của nhân dân do nhà nước thay mặt để quản lý; thứ ba là nhà nước
nắm những khả năng tổ chức – điều khiển, các phương tiện vật chất và pháp luật, nắm
cơ chế tác động mà không một tổ chức xã hội nào khác có được; thứ tư là thu hút tất
cả những người lao động vào đời sống xã hội tích cực, vào quản lý công việc nhà nước
(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 20). Do vậy, xét về phương diện nội dung và cơ cấu, quản lý
nhà nước xã hội chủ nghĩa "phải mang tính tổng hợp, phải nhằm bao quát và biểu hiện
dưới hình thức tập trung tính phức tạp, tính đa diện và hình vẻ khác nhau của hiện
tượng xã hội này" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 21). Nói cách khác, quản lý xã hội chủ
nghĩa tập trung vào bản chất chính trị của nhà nước và vai trò của nhà nước trong việc
vận hành đất nước theo định hướng chính trị. Theo đó, "chức năng của quản lý nhà
nước có đặc điểm là mang tính cách quyền lực – pháp lý, tính cách tổ chức – kế
hoạch, tính cách điều chỉnh, tính cách cải tạo thực tiễn đối tượng" (Nguyễn Diệu Cơ
1987, 27). Với những đặc trưng đó, "chức năng quản lý nhà nước có thể xác định là
một nội dung được biểu thị bằng pháp luật của tác động quyền lực, tổ chức – kế hoạch
và điều chỉnh của những cơ quan nhà nước cụ thể, những tác động này thực hiện
thường xuyên và trong điều kiện liên hệ qua lại không ngừng với các cơ quan và
khách thể quản lý khác" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 28). Không nhắc tới chính sách,
những nhà nghiên cứu theo quan điểm của Liên Xô cũ cho rằng xây dựng hệ thống tổ
chức và luật pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của quản lý nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Bởi lẽ, "pháp luật có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm quá trình quản lý.
Vấn đề không chỉ đơn thuần ở chỗ các giai đoạn của quá trình quản lý – như thông
qua quyết định, thi hành quyết định,... được thực hiện dưới những hình thức pháp luật
11
nào đấy, mà là ở chỗ những hình thức đó đưa vào quá trình một trật tự ổn định, sự
rành rọt và nâng cao tính nội dung trong hành động của những người làm việc trong
bộ máy quản lý, tạo điều kiện để áp dụng những kiến nghị có căn cứ khoa học"
(Nguyễn Diệu Cơ 1987, 93). Tính chính trị trong quan điểm xây dựng pháp luật của
những học giả này được thể hiện rõ rệt trong các tuyên bố của họ với việc khẳng định
"nhờ có vai trò lãnh đạo và hướng dẫn của Đảng cộng sản trong mọi lĩnh vực của xã
hội, trong việc quản lý tất cả các quá trình xã hội ngày càng được thực hiện đầy đủ
hơn chức năng định ra mục tiêu của pháp luật" (Nguyễn Diệu Cơ 1987, 94). Tuy
nhiên, bên cạnh nhấn mạnh quá lớn tới vai trò lãnh đạo của đảng chính trị, các học giả
này cũng chú ý tới đặc tính nhân đạo của quản lý nhà nước và của luật pháp với khẩu
hiệu đem lại cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc và quyền làm chủ của nhân dân.
Trong những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX ở Việt Nam, nền kinh tế và
phương thức quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp bộc lộ nhiều yếu kém. Chủ trương
đổi mới vừa có tính chính trị, vừa là bước đột phá của Đảng và Nhà nước Việt Nam để
phát triển đất nước. Đến những năm 90, lý thuyết và quan điểm quản lý nhà nước của
Liên Xô trước đây không còn phù hợp, trong khi bản thân Liên bang Xô Viết đã tan rã
với một phần lý do từ sự yếu kém về quản lý. Tiếp thu quan điểm quan điểm quản lý
mới trên cơ sở lý thuyết quản lý nhà nước của Liên Xô cũ, các chuyên gia hành chính
học dưới sự chỉ đạo, chủ biên của GS. TS. Nguyễn Duy Gia đã xây dựng những bộ
giáo trình giới thiệu quan điểm được coi là đặc thù của Việt Nam. Quan điểm này sử
dụng thuật ngữ "hành chính công" với nghĩa là "hành chính nhà nước", trong đó hành
chính được hiểu theo nghĩa rộng là "sự quản lý của Nhà nước". "Nó là sự tác động có
tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của công dân [,] do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương
đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát
triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn những nhu cầu hàng
ngày của nhân dân" (GS. TS. Nguyễn Duy Gia 1996, 6). Quan điểm này coi quản lý
nhà nước là hoạt động của cơ quan hành chính – hành pháp nhằm thực thi quyền hành
pháp và không mang quyền lực chính trị. Nền hành chính này gồm ba yếu tố cấu thành
là:
- Hệ thống thể chế để quản lý xã hội theo luật pháp
- Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp
- Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
Đặt trong mối liên hệ với toàn bộ hệ thống chính trị, nhà nước thực hiện quyền
hành pháp với hai nội dung chính là: lập quy và hành chính (GS. TS. Nguyễn Duy Gia
1996, 10). Các nội dung này lại được thực hiện với sự tập trung, thống nhất của chính
12
quyền trung ương, có phân công, phân cấp cho địa phương để phát huy dân chủ, chủ
động, sáng tạo.
Xét về bản chất, nền hành chính nhà nước ở Việt Nam có một số đặc trưng cơ
bản sau:
- Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị;
- Tính pháp quyền;
- Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng;
- Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao;
- Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ;
- Tính không vụ lợi;
- Tính nhân đạo
Không khuôn mẫu và tập trung quá lớn vào các vấn đề chính trị như quan điểm
của Liên Xô trước đây, quan điểm quản lý nhà nước ở Việt Nam thời kỳ này có chú
trọng tới những đặc tính kỹ thuật của quản lý, trong đó ứng dụng lý thuyết quản trị
hiện đại với sự phân định rõ các chức năng của quản trị vào quản lý nhà nước. Quy
trình của quản lý hành chính nhà nước được xây dựng với đầy đủ các vấn đề, bao
gồm:
- Quy hoạch và kế hoạch;
- Tổ chức bộ máy hành chính;
- Sắp xếp bố trí và quản lý nhân sự;
- Ra các quyết định quản lý;
- Phối hợp;
- Sử dụng nguồn tài lực
- Chỉ đạo kiểm tra, tổng kết đánh giá
Những bộ giáo trình này cũng chú ý tới vấn đề cải cách hành chính, trong đó
phải tiến hành cải cách đồng bộ các yếu tố của nền hành chính quốc gia. Tuy nhiên,
các lý thuyết thời kỳ này chưa đề cập tới chính sách và vấn đề xây dựng, thực hiện
chính sách như là một nhiệm vụ của nhà nước. Trong số hơn 200 luận án tiến sĩ về
chính sách tại Thư viện Quốc gia Việt Nam từ 1990 - 2002, các luận án lấy chính sách
là đối tượng nghiên cứu chính không nhiều, chủ yếu tập trung nghiên cứu về hệ thống
13
văn bản quy định liên quan tới một vấn đề cụ thể và những bất cập trong thực tiễn để
đề xuất giải pháp liên quan tới chính sách.
Bước sang thế kỷ XXI, công cuộc cải cách hành chính thu được một số kết quả
nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của xã hội. Sự tham gia ngày càng
nhiều của Việt Nam vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế đã thúc đầy sự giao lưu, học hỏi
và cam kết của Nhà nước Việt Nam trong cải cách hành chính, nâng cao năng lực
quản lý, quản trị của Nhà nước. Hoạt động của các chuyên gia hành chính, luật học,
khoa học quản lý và của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế như Ngân hàng
phát triển thế giới (ADB), Ngân hàng thế giới (WB), ... đã góp phần quan trọng vào
việc "nhập khẩu" các tư tưởng quản lý công hay hành chính công mới vào Việt Nam.
Vấn đề dân chủ được thảo luận sôi nổi hơn nhưng vẫn duy trì nguyên tắc tập trung, trở
thành nguyên tắc "tập trung, dân chủ". Nguyên tắc này được thể hiện với phương
châm "Đảng chính trị cầm quyền và nhà nước quản lý bằng pháp luật để thực hiện
đúng đắn có hiệu quả mạnh mẽ, với tư cách đại diện cho lợi ích, quyền lực và ý chí
của nhân dân, tạo ra môi trường kinh tế - xã hội và pháp lý lành mạnh để mọi công
dân được hưởng đúng quyền, được làm đúng nghĩa vụ, được công bằng về lợi ích,
được bình đẳng về trách nhiệm" (TS. Nguyễn Tiến Phồn 2001, 133). Vấn đề phân cấp
quản lý nhà nước cũng được nghiên cứu sâu hơn với sự học hỏi kinh nghiệm từ các
nhà nước tổ chức theo hình thức liên bang như Cộng hòa Liên bang Đức. Theo đó, các
học giả nhận định "quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp xét về tổng thể vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi
bức xúc của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất hợp lý" (GS.TS.Phạm Hồng Thái 2011).
Thế kỷ XXI đánh dấu sự xuất hiện công khai của nhiều quan điểm mới ở Việt
Nam với việc coi chính sách là đối tượng nghiên cứu chính thức dưới sự ảnh hưởng
của khoa học chính sách xuất hiện ở Tây Âu và Mỹ. Chính sách công đang trở thành
một môn học của khoa học hành chính, tách khỏi quan điểm thiết kế hệ thống tổ chức
và lập pháp. Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu vào đào tạo đó, những ấn phẩm và
bài viết đề cập trực tiếp đến chính sách công bắt đầu xuất hiện. Vẫn tập trung vào các
vấn đề kỹ thuật, quy trình và không từ bỏ những nguyên tắc quản lý xã hội chủ nghĩa
đã được xây dựng từ thời kỳ Liên Xô nhưng khách quan hơn, các học giả của Học
viện Hành chính Quốc gia định nghĩa "chính sách công là những hành động ứng xử
của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng
nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy xã hội phát triển" (PGS. TS. Nguyễn Hữu
Hải 2013, 14). Xem xét các đặc điểm cơ bản và cấu trúc của chính sách công, các học
giả coi "mục tiêu chính sách: là những giá trị hoặc kết quả mà nhà nước mong muốn
đạt được thông qua thực hiện các giải pháp chính sách. Mục tiêu chính sách thể hiện ý
chí của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề công" (PGS.TS.Nguyễn Hữu Hải 2013,
22). Về cơ bản, các học giả của Học viện hành chính chú ý hơn tới tính đúng đắn của
14
chính sách trong mối quan hệ với quan điểm chính trị của đảng cầm quyền và thực tiễn
của Quốc gia hơn là những nội dung có tính hàn lâm và triết lý. Các nghiên cứu này,
tuy phát triển nhiều nội dung chuyên sâu về chính sách nhưng vẫn sử dụng các tiếp
cận của hành chính học Việt Nam, trong đó "định hướng của đảng cầm quyền" và ý
chí của nhà nước vẫn là căn cứ đầu tiên để hoạch định chính sách.
Khác với quan điểm đó, tiếp thu những nghiên cứu lý thuyết về chính sách của
các học giả Tây Âu và Mỹ, những bài viết của GS.TS. Vũ Cao Đàm hướng đến bản
chất và triết lý của chính sách. Tập trung vào chính sách và chiến lược phát triển khoa
học – công nghệ nhưng nhiều bài viết và bài giảng chuyên đề của GS.TS. Vũ Cao
Đàm đã bao quát những vấn đề có tính lý thuyết. Theo đó, tác giả đã phân loại các
quan niệm về chính sách theo 10 cách tiếp cận của các ngành khoa học khác nhau và
mối quan hệ của nó với pháp luật, xã hội dân sự và các thiết chế quản lý khác. Ứng
dụng lý thuyết của Kuhn vào nghiên cứu chính sách, GS.TS.Vũ Cao Đàm xây dựng
một khung mẫu (paradigma) của chính sách. Khung mẫu này không mâu thuẫn với
cấu trúc chính sách của các học giả của Học viên Hành chính Quốc gia nhưng khai
thác sâu hơn ở nhiều tầng quan điểm theo hướng ngày càng tập trung vào bản chất và
tinh thần chung của chính sách và của nhà nước tạo ra nó. Theo đó, "triết lý của chính
sách là tầm tư tưởng, tầm quan trọng nhất của chính sách" (Vũ Cao Đàm 2009, 487).
Đặc tính liên ngành với dấu ấn xã hội học, khoa học quản lý, văn hóa học, triết học,...
biểu hiện rõ trong các nghiên cứu của Ông.
Tìm kiếm nhiều hơn các bài học từ các quốc gia láng giềng ở châu Á, đồng thời
cung cấp cách nhìn đa chiều từ các chuyên gia trong và ngoài nước, nhiều hội thảo về
chính sách công đã được tổ chức dưới sự tài trợ của các quỹ tiền tệ quốc tế như ADB
hay WB. Năm 2005, từ một hội thảo như vậy, các tác giả Toru Hashimoto, Stefan
Hell, Sang – Woo Nam đã biên tập và xuất bản những bài viết về nghiên cứu và đào
tạo chính sách công ở Việt Nam. Cuốn sách là tổng hợp một số bài viết của các nhà
nghiên cứu uy tín về hiện trạng nghiên cứu và đào tạo chính sách công ở Châu Á,
trong đó có Việt Nam thông qua việc mô tả hoạt động của các viện nghiên cứu và tư
vấn chính sách. Bên cạnh những nghiên cứu có tính khái quát, các bài nghiên cứu
trong cuốn sách cũng thể hiện những phân tích cụ thể trong bối cảnh Việt Nam và một
số trường hợp điển hình ở Hàn Quốc, Singgapor, Indonesia, Liên Xô và Trung Quốc
để gợi ý kinh nghiệm cho Việt Nam. Trong cuốn sách này, các tác giả đã mô tả môi
trường chính sách nói chung, môi trường ở Châu Á và Việt Nam nói riêng là môi
trường “nảy sinh các mối quan tâm khác nhau, các mong muốn khác nhau và khi điều
này trở nên phức tạp hơn về cơ cấu và có tính toàn cầu hóa hơn, việc hoạch định
chính sách trở thành một vấn đề mang tính liên ngành hơn, đòi hỏi các phân tích phức
tạp hơn và các cách tiếp cận rộng hơn trước” (Toru Hashimoto 2005, 25). Cũng liên
quan đến môi trường chính sách, phần trình bày của tác giả Diane L. Stone cho rằng
15
các yếu tố sau đây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các viện nghiên cứu chính
sách cũng như quá trình hoạt định và triển khai chính sách nói chung. Đó là: Kiến trúc
chính trị và loại hình cơ chế; cơ cấu tổ chức hành chính và cách thức hoạt động khác
nhau ở các quốc gia; dân chủ hóa và sự phát triển của xã hội dân sự, luật về tổ chức
phi chính phủ và phi lợi nhuận thường mang tính hạn chế; không có truyền thống lâu
đời về các đảng phái chính trị và canh tranh đảng phái; các nguồn trợ giúp tài chính;
độc lập kinh doanh và khả năng đại diện quyền lợi; hỗ trợ và tạo nền tảng hợp hiến
cho chế độ; nhu cầu đào tạo chính sách của Nhà nước; chức năng biểu tượng của các
đơn vị nghiên cứu, tư vấn chính sách; những yêu cầu và tài trợ quốc tế; và cuối cùng là
xu hướng toàn cầu hóa và hoạt động xuyên quốc gia (Toru Hashimoto 2005, 59-71). Ở
Việt Nam, dưới sự ảnh hưởng không nhỏ của cách thức thiết kế hệ thống nghiên cứu,
tư vấn chính sách ở Liên Xô cũ và Trung Quốc đã hình thành nên các cơ quan nghiên
cứu phụ thuộc Nhà nước, với “vai trò quan trọng là khả năng khuếch đại thông tin
đưa từ trên xuống” và “xu hướng đề cao chế độ hơn phê bình, đóng góp cho chế độ”
(Toru Hashimoto 2005, 53). Ngoài ra, “tình trạng kiểm soát chính trị chặt chẽ từ trên
xuống của đảng và nhà nước đã ngăn cản sự phát triển (và ảnh hưởng) tới sự hình
thành các đơn vị nghiên cứu, tư vấn chính sách độc lập” (Toru Hashimoto 2005, 57).
Tranh luận về vấn đề này, nhóm tác giả Nguyễn Đình Cung, Bùi Văn và Phạm
Hoàng Hà phủ nhận sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Âu và Trung Quốc đối với môi
trường chính sách ở Việt Nam. Họ cho rằng môi trường nghiên cứu chính sách ở Việt
Nam được đặc thù bởi: Nền kinh tế và xã hội trong thời kỳ chuyển đổi; các khái niệm
và quan điểm trái ngược nhau hoặc không rõ ràng; tương lai không chắc chắn; thông
tin không hoàn hảo về khả năng cung cấp và độ tin cậy; các quyền lợi không nhất
quán; cảm nhận về sự nhạy cảm (Toru Hashimoto 2005, 141-145).
Về nội dung nghiên cứu, nhóm tác giả Nguyễn Đình Cung, Bùi Văn và Phạm
Hoàng Hà tổng kết thành ba nhóm nội dung cơ bản là: “các nghiên cứu cơ bản nhằm
tạo luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách công; các nghiên cứu chính sách
nhằm trực tiếp xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh
tế xã hội của quốc gia, ngành và địa phương; và các hoạt động nghiên cứu công nghệ
mang tính ứng dụng nhằm tạo cơ sở cho việc xây dựng chiến lược và chính sách phát
triển, các quy trình hoặc tiêu chuẩn ngành” (Toru Hashimoto 2005, 113).
Phân tích nhu cầu đối với hoạt động nghiên cứu chính sách, nhóm tác giả Việt
Nam cho rằng: “Chính sách chung khẳng định tầm quan trọng của hoạt động nghiên
cứu; các đối tượng liên quan đến quy trình lập chính sách có mức độ tác động và lợi
ích khác nhau đối với chính sách được xây dựng; yêu cầu của các đối tượng tác động
tới xây dựng chính sách đối với hoạt động nghiên cứu chính sách… về phương diện lý
thuyết là đưa ra cách tiếp cận mới, những lựa chọn chính sách mới, …, nhưng trên
16
thực tế …lại định hướng chính sách chung; cấu trúc và quy trình xây dựng chính
sách” (Toru Hashimoto 2005, 147-155).
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, các nghiên cứu về quản lý nhà nước
ở Việt Nam đã thích nghi và thay đổi theo tình hình thực tế và kế thừa nhiều quan
điểm quản lý của nước ngoài. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền và ý chí
của nhà nước vẫn được coi là yếu tố chuẩn mực trong lý thuyết quản lý nhà nước ỏ
Việt Nam, và các nghiên cứu quản lý nhà nước công tác lưu trữ cũng chịu ảnh hưởng
của tư tưởng đó.
1.3. Quản lý nhà nƣớc về công tác lƣu trữ
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những nguyên tắc quản lý tài liệu lưu trữ của Liên
Xô trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa với tinh thần “Nguyên tắc cơ bản của
Lê-nin về công tác lưu trữ còn sống mãi” (Việt Trí 1988), các học giả và nhà nước
Việt Nam cũng coi tập trung, thống nhất là một trong những nguyên tắc ưu tiên hàng
đầu khi thực hiện quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Đồng thời, xu hướng nghiên
cứu tập trung vào thiết kế hệ thống tổ chức và lập pháp cũng được thể hiện rõ. Tác
phẩm được coi là kinh điển của Lưu trữ học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám có
tên gọi "Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ" do nhóm tác giả trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội biên soạn đặt hệ thống tổ chức ngành lưu trữ Việt Nam là nội dung đầu
tiên trong "công tác quản lý của các cơ quan lưu trữ" (Đào Xuân Chúc 1990, 307).
Xuất phát từ những hạn chế của hệ thống lưu trữ Việt Nam trong những năm 90
của thế kỳ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu
về việc tổ chức lại hệ thống các trung tâm, các kho lưu trữ, chủ yếu để đề xuất mô
hình mẫu cho các cơ quan lưu trữ nhà nước theo sự tổ chức hệ thống hành chính,
nhằm mục đích chính là quản lý tài liệu của nhà nước như đề tài cấp ngành do PGS.
Vương Đình Quyền chủ trì, các luận văn thạc sĩ của Trần Thanh Tùng, Phạm Thị Diệu
Linh. Bên cạnh đó là những nghiên cứu về đảm bảo nguồn lực cho ngành lưu trữ như
luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Hương. Do những thay đổi về bối cảnh kinh tế
- xã hội, PGS. TS. Dƣơng Văn Khảm cùng nhóm tác giả đã công bố báo cáo tổng
thuật đề tài cấp ngành có tên “Cơ sở khoa học để tổ chức quản lý nhà nước về công
tác lưu trữ” năm 2001. Những cơ sở khoa học trong báo cáo bao gồm: lịch sử tổ chức
công tác lưu trữ tại Việt Nam từ 1945 đến 2000, cơ sở lý luận Mác – Lê-nin, cơ sở lý
luận lưu trữ học. Nhấn mạnh về đặc thù quản lý ở một nước xã hội chủ nghĩa như Việt
Nam, các tác giả chú trọng nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất công tác lưu trữ.
Theo đó, công cuộc đổi mới của đất nước sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm
1986 đã đưa tới sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế nên nguyên tắc tập trung,
thống nhất cũng phải thích ứng để quản lý được tài liệu của những thành phần kinh tế
này. Vì vậy, bên cạnh quan điểm quản lý thống nhất công tác lưu trữ và tài liệu lưu
17
trữ, nhóm tác giả đã xác định một trong những cơ sở lý luận để quản lý nhà nước công
tác lưu trữ là phải “xây dựng hệ thống các trung tâm lưu trữ, các kho lưu trữ theo hệ
thống chính trị trong xã hội” (TS.Dương Văn Khảm 2001, 57). Hệ thống này bao
gồm:
- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam
- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ nhà nước
- Hệ thống các trung tâm, kho lưu trữ của các ngành đặc biệt cần bảo quản cố
định tài liệu lưu trữ tại ngành
- Các kho lưu trữ các thành phần kinh tế khác
- Các kho lưu trữ của tổ chức tôn giáo
- Các kho lưu trữ thuộc sở hữu tập thể
- Các kho lưu trữ tư nhân, gia đình, dòng họ
(TS.Dương Văn Khảm 2001, 57-58)
Việc xác định hệ thống trung tâm, kho lưu trữ như trên cho thấy quan điểm bao
quát của các tác giả đối với việc quản lý tài liệu thông qua việc thiết lập các cơ quan
lưu trữ theo những đối tượng hình thành nên tài liệu trong xã hội, trong đó có tài liệu
của nhân dân. Tuy nhiên, đáng tiếc là toàn bộ phần cơ sở lý luận đó chỉ được sử dụng
để giải thích cho mô hình tổ chức lưu trữ nhà nước thời điểm đó mà không xét tới các
lưu trữ đa dạng như vừa đề cập. Nói cách khác, mặc dù coi sự đổi mới trong quan
điểm của Đảng là một nền tảng lý luận để quản lý nhà nước về công tác lưu trữ nhưng
việc đề xuất một mô hình tổ chức chỉ dựa trên các cơ quan lưu trữ nhà nước, mà bản
thân các cơ quan ấy lại được xây dựng dựa trên hệ thống cơ quan hành chính từ trung
ương đến địa phương đã cho thấy nhóm tác giả chưa thoát khỏi sự chi phối của quan
điểm tập trung, thống nhất theo hướng Nhà nước là chủ thể tạo ra tài liệu và chủ thể
của công tác lưu trữ.
Nói chung, cho tới những năm 2000, các nghiên cứu quản lý nhà nước về công
tác lưu trữ vẫn tiếp cận theo quan điểm quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó
chú trọng nghiên cứu hệ thống tổ chức và nghiên cứu để xây dựng văn bản pháp luật,
chưa có những nghiên cứu về quan điểm hay chính sách chủ đạo, định hướng trong
quản lý nhà nước từng thời kỳ. Những nghiên cứu này, hoặc để đáp ứng nhu cầu thực
tiễn, hoặc để xây dựng lịch sử ngành, trong khi những phát hiện về ý tưởng định
hướng có tính lý luận chưa nhiều, cũng chưa thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa nghiên
cứu quản lý nhà nước về công tác lưu trữ với những nghiên cứu khác về hành chính
18
học và khoa học quản lý nói chung. Tính liên ngành của những nghiên cứu này đã xuất
hiện nhưng chưa rõ nét.
1.4. Các khái niệm cơ bản
Từ những tổng kết như trên, các định nghĩa có thể khái quát như sau:
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan
có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa
mãn những nhu cầu hàng ngày của nhân dân. Theo đó, quản lý nhà nước có một số
đặc điểm là:
- Hoạt động dựa trên quyền lực nhà nước, có tính tổ chức: Quyền lực của nhà
nước Việt Nam do nhân dân trao thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu. Các hoạt
động quản lý nhà nước được thực hiện một cách có kế hoạch, phân công, kiểm tra và
giám sát với mục tiêu cụ thể. Việc thực hiện đó được đảm bảo bằng hệ thống thể chế
và những cơ quan, lực lượng giúp pháp luật được thực thi nghiêm túc.
- Hoạt động quản lý nhà nước do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Thẩm
quyền quản lý nhà nước phải do luật định hoặc do các văn bản có hiệu lực pháp lý cao
của cơ quan được giao chức năng tổ chức theo sự phân công của bộ máy nhà nước.
Thẩm quyền này xác định phạm hoạt động của cơ quan nhà nước về cả phương diện
hình thức và nội dung.
- Mục tiêu chung nhất của quản lý nhà nước là phát triển các mối quan hệ xã hội
theo định hướng của Nhà nước trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chính trị, an ninh, quốc
phòng, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Và công tác lưu trữ được định nghĩa là "một ngành hoạt động của nhà nước (xã hội)
bao gồm tất cả những vấn đề lý luận, pháp chế và thực tiễn có liên quan đến việc bảo
quản và tổ chức sử dụng tài liệu lưu trữ" (Đào Xuân Chúc 1990, 15). Do vậy, quản lý
nhà nước về công tác lưu trữ là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước đối với các nội dung thuộc phạm vi công tác lưu trữ, do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do
nhà nước giao phó, đảm bảo sự phát triển của ngành lưu trữ theo mục tiêu của từng
thời kỳ.
"Quan điểm" trong tiếng Việt là chỗ đứng để xem xét, nhìn nhận vấn đề hay ý
kiến, nhìn nhận riêng (Nguyễn Như Ý 1998, 1360). Trong tiếng Anh, quan điểm
19
(thoughts) là mọi suy nghĩ hay ý tưởng về sự vật, hiện tượng, con người (Oxford
University 2015).
Khi nghiên cứu lịch sử khoa học, Thomas Kuhn sử dụng thuật ngữ paradigm để
chỉ quan điểm, hay đúng hơn là chỉ cách thức để nhận thức lịch sử khoa học. Quan
điểm (paradigm) là từ được vay mượn từ tiếng Latin với nguồn gốc trong tiếng Hi Lạp
là paradeigma với nghĩa là "từ khía cạnh này sang khía cạnh khác". Kuhn sử dụng
thuật ngữ này để chỉ những tư tưởng cơ bản, nổi trội, được nhiều người tin dùng và kế
thừa để nhận thức về một lĩnh vực, một ngành hay một chủ đề nghiên cứu cụ thể trong
từng giai đoạn phát triển của một ngành khoa học nhất định. Và sự chuyển đổi từ quan
điểm (paradigm hay paradigm shift) này sang quan điểm (paradigm) khác là một cuộc
cách mạng trong khoa học (Thomas Kuhn (Chu Đình Lan dịch) 1962, 2008). Mặc dù
hình thành trong lý thuyết khoa học luận nhưng tính khái quát của paradigm khiến
thuật ngữ này và ý nghĩa của nó được ứng dụng như một phương cách để nhận thức
trong nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có quản lý nhà nước và lưu trữ học.
Nghiên cứu nổi tiếng nhất và đánh dấu sự ứng dụng paradigm trong nghiên cứu quản
lý nhà nước là bài viết của Nicolas Henry thuộc trường Đại học Georgia đăng trên tạp
chí Hành chính công (Public Administration REview) số 35 năm 1975 của Hiệp hội
Hành chính công Mỹ với tựa đề Những quan điểm về hành chính công (Paradigms of
Public Administration). Trong bày viết này, Henry chỉ ra năm giai đoạn tương ứng với
năm quan điểm về hành chính công, bao gồm: hành chính tách rời khỏi chính trị
(1900-1926), các nguyên tắc hành chính (1927-1937), hành chính công thuộc khoa
học chính trị (1950-1970), hành chính công là khoa học hành chính (1956 - 1970), và
hành chính công là hành chính công (1970 - ?) (Nicolas Henry 1975). Sau Henry,
những nhà nghiên cứu hành chính học, và sau đó là hành chính công hay quản lý công
đều sử dụng cách tiếp cận này để xác định tư tưởng cơ bản và những thay đổi trong tư
tưởng của khoa học hành chính nói chung. Là một trong những nhà khoa học hàng đầu
và tham gia sáng lập tạp chí Lưu trữ học (Archival Sience), Terry Cook tập trung
nhiều vào những nghiên cứu có tính lý thuyết. Bài viết Bằng chứng, ký ức, bản sắc và
cộng đồng: sự chuyển đổi bốn quan điểm lưu trữ (Evidence, memory, indentity, and
community: four shifting archival paradigms) là một ứng dụng của Ông về paradigm
trong nghiên cứu lưu trữ học, vừa có tính chất tổng kết, vừa trở thành một trong những
cách tiếp cận định hướng cho lý thuyết lưu trữ học hậu hiện đại trong những năm đầu
thế kỷ XXI. Như thế, trong các nghiên cứu của thế giới, quan điểm (paradigm) vừa là
cách thức để nhận thức về sự vật, hiện tượng theo hướng bản chất, vừa là tri thức
chung của con người về một lĩnh vực hay chủ đề nhất định trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể.
Ở Việt Nam, quan điểm quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa xác định rõ nội dung
của quản lý nhà nước công tác lưu trữ tập trung trước hết vào việc thiết kế hệ thống tổ
20
chức hợp lý, xây dựng hệ thống quy định, quan trọng nhất là pháp luật. Ảnh hưởng
của quan điểm cải cách hành chính thúc đẩy quản lý nhà nước về công tác lưu trữ quan
tâm hơn đến việc phân cấp, phân quyền quản lý, tăng cường dân chủ trong các nội
dung quản lý. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong công tác lưu trữ, như đã nói
ở trên, chủ yếu tập trung vào những thành tựu và kết quả, nhưng không có đánh giá
hiệu quả. Tác phẩm duy nhất coi trọng việc đánh giá quan điểm quản lý nhà nước là
cuốn sách Lịch sử Lưu trữ Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Văn Thâm, Vương
Đình Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kỳ Hồng. Song quan điểm quản lý nhà nước
được chỉ ra chủ yếu dựa trên phân tích nội dung các văn bản quản lý, trong đó quan
điểm chủ đạo của nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay
chưa được thể hiện rõ. Và việc ứng dụng paradigm như là một cách tiếp cận để nhận
thức về quan điểm của nhà nước chưa được áp dụng.
Tuy nhiên, áp dụng paradigm cũng là vẫn đề khó khăn bởi để làm rõ quan điểm
của một cá nhân, một cơ quan, một hệ cơ quan hay nhóm người đều phải dựa trên
những biểu hiện bên ngoài của nó. Trên thế giới đã có nhiều cuộc tranh luận về ý
nghĩa của paradigm, trong đó cách tiếp cận của GS. Vũ Cao Đàm về paradigm của
chính sách với sự tiếp thu và phát triển cách tiếp cận của Kuhn có thể được xét tới để
áp dụng ở Việt Nam. Bài giảng Lý thuyết hệ thống của GS. Vũ Cao Đàm xác định
quan điểm (paradigma) của chính sách gồm 4 tầng như sau:
(Nguồn: Bài giảng Lý thuyết hệ thống, Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, Vũ Cao Đàm tuyển tập, tập 2, trang 486)
Cấu trúc quan điểm như trên có ưu điểm là đã phân tách quan điểm thành các
tầng từ thấp tới cao trên cơ sở kế thừa các thành tựu của lý thuyết nhận thức trong xã
Triết l{
Hệ quan điểm
Hệ chuẩn mực
Hệ khái niệm
21
hội học, triết học và tâm lý học một cách hệ thống. Theo đó, yếu tố đầu tiên phản ảnh
quan điểm của một hoặc một nhóm người thể hiện ở việc họ gọi tên được (xác định
được khái niệm) sự vật, hiện tượng. Cấp độ thứ 2 phản ảnh quan điểm là thông qua
những quy tắc ứng xử mà một người hay nhóm người đó đưa ra và thực hiện. Cấp độ
thứ ba là thái độ ủng hộ hoặc phản đối của họ đối với một hoặc một nhóm hiện tượng,
hành vi nào đó. Và cấp độ cao nhất là tư tưởng chi phối liên quan đến ý thức hệ, niềm
tin, hệ giá trị,... . Tuy nhiên, sự phân biệt giữa triết lý và hệ quan điểm, giữa hệ chuẩn
mực và hệ khái niệm chưa rõ ràng nên khó áp dụng và dễ gây nhầm lẫn trong khung lý
thuyết chính sách của GS. Vũ Cao Đàm. Trong khi đó, việc xác định quan điểm của
một hệ thống cơ quan quản lý, mặc dù cũng dựa trên đặc điểm nhận thức, tâm lý của
nhóm người làm việc trong hệ thống đó nhưng phải thông qua những biểu hiện bên
ngoài của quan điểm ấy, trước hết là hệ thống văn bản quản lý, nhất là khi quản lý nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn chặt với việc ban hành văn bản và xây dựng
pháp luật. Cho nên, cần có những diễn giải cụ thể hơn cho cách tiếp cận này để có thể
áp dụng cho quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Dựa trên các nội dung quản lý nhà
nước và những biểu hiện của hoạt động quản lý nhà nước thông qua hệ thống văn bản
do cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương về công tác lưu trữ ban hành, đồng thời kế
thừa cấu trúc phân tầng trong lý luận của GS. Vũ Cao Đàm, quan điểm (paradigm) của
quản lý nhà nước về công tác lưu trữ có thể tiếp cận với bốn thành tố cơ bản:
- Triết lý của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là tầm tư tưởng của hoạt
động quản lý nhà nước, theo đó xác định lý do và giá trị tư tưởng mà hoạt động quản
lý nhà nước cần phải hướng đến. Nói cách khác, triết lý thể hiện trong mục đích của
quản lý nhà nước về công tác lưu trữ.
- Hệ quan điểm của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là thái độ của cơ quan
có thẩm quyền quản lý nhà nước về việc ủng hộ hay phản đối một hay một nhóm hành
vi hay hiện tượng nào đó trong công tác lưu trữ. Thái độ này được thể hiện thông qua
những tuyên bố công khai trong các văn bản quy phạm pháp luật, phát ngôn của lãnh
đạo cấp cao, thông cáo báo chí chính thức của cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ có
thẩm quyền.
- Hệ chuẩn mực là những quy tắc hành động, ứng xử trong công tác lưu trữ
được cơ quan có thẩm quyền quy định. Hệ chuẩn mực này được thể hiện rõ trong
những quy định trong văn bản có tính quy phạm của cơ quan có thẩm quyền
- Hệ khái niệm là hệ thống những thuật ngữ được cơ quan quản lý nhà nước đề
cập hoặc định nghĩa để hiểu và sử dụng thống nhất trong quá trình thực hiện và quản
lý công tác lưu trữ.
22
Vì thế, cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ nên áp dụng
trong nghiên cứu này là:
Hình 1: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ
Như vậy, trong lúc nội hàm khái niệm "quản lý nhà nước về công tác lưu trữ"
vẫn chưa được xác định cụ thể thì việc xác định quan điểm quản lý nhà nước về công
tác lưu trữ là một thách thức. Tuy vậy, cơ sở lý thuyết của quản lý nhà nước, hành
chính công và lưu trữ học ở Việt Nam thời gian qua đã tạo điều kiện để giải thích được
một số vấn đề trong hoạt động quản lý của ngành lưu trữ. Đồng thời, những ý tưởng
và việc áp dụng thuật ngữ paradigm trong nghiên cứu đã cung cấp cách tiếp cận có
tính định hướng quan trọng để triển khai thu thập thông tin nhằm chứng minh giả
thuyết nghiên cứu sẽ được trình bày ở phần sau.
Lý do,
mục đích
Hệ quan điểm:
Tuyên bố
ủng hộ hoặc nghiêm cấm
Hệ chuẩn mực:
Quy định hành vi bắt buộc thực hiện
Hệ Khái niệm: Khái niệm được định nghĩa
thống nhất
23
CHƢƠNG 2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu: Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn
1986 – 2012 như thế nào?
2.2.2. Những cơ sở xây dựng giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết nghiên cứu được xây dựng dựa trên các yếu tố:
- Tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước công tác lưu trữ ở Việt Nam: Như
đã trình bày ở tổng quan, các nghiên cứu về quản lý nhà nước công tác lưu trữ ở Việt
Nam tập trung vào hiện trạng ở từng thời kỳ và đề xuất giải pháp. Quan điểm quản lý
nhà nước được đề cập phân tán trong các nghiên cứu thông qua phân tích và phản biện
những quy định của pháp luật hoặc so sánh quy định đó với khả năng thực hiện trong
thực tế, chưa có tổng kết hệ thống theo giai đoạn. Nói cách khác, các nghiên cứu trước
tuy không xác định câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu nhưng đã tiếp cận vấn đề quản lý
nhà nước về công tác lưu trữ theo hướng chứng minh những hạn chế của thực tiễn
hoặc của pháp luật so với thực tiễn để đề xuất giải pháp. Những nghiên cứu coi quan
điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ là đối tượng nghiên cứu chưa xuất hiện.
Cho nên, việc khám phá quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ một cách hệ
thống trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là một tiếp cận không trùng lặp so với trước.
- Thông tin khảo sát tiền nghiên cứu: Thông tin khảo sát tiền nghiên cứu bao
gồm tổng kết thực trạng công tác lưu trữ đã được phản ảnh qua nhiều nghiên cứu
trước, các nghiên cứu cá nhân của chủ trì đề tài bao gồm luận văn thạc sĩ có tựa đề
"Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lưu trữ cấp huyện của thành phố Hà Nội"
và đề tài khoa học cấp cơ sở "Quản lý nhà nước công tác lưu trữ cấp huyện của thành
phố Hà Nội" cùng thông tin phục vụ các bài viết nghiên cứu khác. Phần tổng hợp
thông tin pháp lý và mô tả thực trạng công tác lưu trữ ở các nghiên cứu trên cho thấy
sự tập trung cao của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của các lưu trữ nhà
nước. Trong khi đó, những văn bản pháp luật được ban hành thời gian gần đây, cùng
với mối quan tâm của các học giả qua các hội thảo, tọa đàm, bài viết nghiên cứu như
Hội thảo quốc tế "Tổ chức và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ nhân dân" cho thấy sự
quan tâm của cơ quan quản lý cũng như các học giả đối với tài liệu của người dân
đang có dấu hiệu tăng lên.
Những thông tin trên cho phép xác định giả thuyết nghiên cứu như sau:
2.2.3. Giả thuyết nghiên cứu:
24
Quan điểm quản lý nhà nước về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012 là tập trung,
thống nhất vào nhà nước nhưng ngày càng thừa nhận vai trò và quyền lợi của người
dân.
2.2. Cơ sở để chứng minh giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết nghiên cứu được chứng minh dựa trên hai cơ sở:
+ Cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu phải cung cấp được mô hình lý thuyết với các khái
niệm, cách tiếp cận hoặc quan điểm cơ bản để xác định khái niệm "quan điểm quản lý
nhà nước" và những vấn đề liên quan tới lý thuyết về "quản lý nhà nước về công tác
lưu trữ". Cơ sở lý thuyết này có được trong quá trình tổng kết các nghiên cứu trước đó
và lựa chọn mô hình lý thuyết phù hợp để áp dụng, đặc biệt là tiếp cận quan điểm của
GS. Vũ Cao Đàm trên nền tảng phương pháp luận của Kuhn. Đồng thời, lý thuyết của
David Held về các mô hình quản lý hiện đại với tư tưởng về sự tham gia ở mức độ
khác nhau của nhân dân vào hoạt động của nhà nước cũng được sử dụng để xây dựng
và chứng minh giả thuyết nghiên cứu.
+ Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt
Nam được thể hiện qua nhiều loại thông tin. Những thông tin cần thu thập để chứng
minh giả thuyết nghiên cứu bao gồm:
- Thông tin từ văn bản: Các văn bản do các cơ quan có thẩm quyền ban hành, đặc
biệt là văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng theo quy trình, thủ tục do
luật định và có giá trị pháp lý cao. Số lượng cơ quan tham gia vào quá trình xây
dựng và ban hành văn bản này nhiều với các cấp thẩm quyền khác nhau nên mỗi
văn bản được ban hành, đặc biệt là văn bản quy phạm pháp luật có thể phản ảnh
quan điểm, ý chí của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề được đề cập
trong văn bản. Cho nên, thông tin từ văn bản được lựa chọn và sử dụng chính
trong nghiên cứu này.
- Thông tin từ bài tham luận, phát biểu của những lãnh đạo các cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền về công tác lưu trữ: Tương tự như các văn bản, các bài
phát biểu thành văn của các lãnh đạo tại các hội nghị, diễn đàn công khai cũng
thể hiện một phần quan điểm của cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ, dù ý kiến
phát biểu hoặc tham luận đó mang tính chất cá nhân nhưng trước các diễn đàn,
hội nghị công khai, các lãnh đạo không chỉ phát biểu với tư cách cá nhân, mà
còn với tư cách của người có thẩm quyền, đại diện cho cơ quan có thẩm quyền.
Vì thế, thông tin từ tham luận, bài phát biểu được sử dụng để bổ sung hoặc kiểm
chứng thông tin từ văn bản.
- Thông tin phỏng vấn, khảo sát từ những cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước: Thông tin này sẽ phản ảnh nhận thức và quan điểm của
25
những cá nhân về vấn đề nghiên cứu, song do sự phụ thuộc vào quan điểm cá
nhân của thông tin này rất cao nên vai trò của nó trong việc làm rõ quan điểm
quản lý của cơ quan nhà nước không lớn. Vì thế, thông tin này tạm thời không
được sử dụng trong đề tài.
Vì các thông tin được lựa chọn để thu thập ở trên đều là thông tin văn bản nên
nghiên cứu phải kết hợp phân tích định tính dựa trên kết quả của những thống kê định
lượng. Tuy nhiên, logic của những thông kê định lượng lại dựa trên những phân tích
định tính nên việc sử dụng đồng thời hai phương pháp này là thường xuyên trong
nghiên cứu. Cơ sở thực tiễn là bằng chứng chủ yếu để chứng minh giả thuyết nên sẽ
được trình bày trong các chương tiếp theo của báo cáo.
2.3. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin
2.3.1. Thu thập văn bản
Văn bản do cơ quan quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở trung ương ban
hành được tập hợp từ hai nguồn:
- Cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công
tác văn thư, lưu trữ hiện hành do Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước ấn hành năm
2012 với danh mục các văn bản đã hết hiệu lực và toàn văn những văn bản còn hiệu
lực, tính đến thời điểm năm 2012. Tuyển tập này bao gồm đầy đủ các văn bản cần
thiết và được sắp xếp và phân loại theo quan điểm của cơ quan có trách nhiệm chính
trong xây dựng các văn bản này. Do vậy, nội dung và trình tự hệ thống hóa văn bản
trong cuốn sách được kế thừa nguyên vẹn trong nghiên cứu với hai mục tiêu chính:
giảm bớt thời gian hệ thống theo phương án khác và sử dụng các phân loại văn bản
của cơ quan quản lý để làm rõ quan điểm về quản lý nhà nước.
- Văn bản được công bố trên website Chính phủ, Bộ Nội vụ và Cục Văn thư –
Lưu trữ Nhà nước: vì cuốn sách tuyển tập văn bản do Cục Lưu trữ ấn hành không bao
gồm toàn văn những văn bản đã hết hiệu lực nên các website chính thống kể trên sẽ
cung cấp toàn các bản toàn văn này.
Bài phát biểu của lãnh đạo ngành được sử dụng trong nghiên cứu là kỷ yếu các
hội thảo, hội nghị trong khuôn khổ chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật của ngành lưu trữ.
2.3.2. Thống kê và so sánh
Việc thống kê văn bản được thực hiện thông qua kiểm đếm số lượng theo sự
phân loại định trước như cách phân loại của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước trong
cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn
26
thư, lưu trữ hiện hành. Số lượng văn bản được kiểm đếm thông qua hai hình thức:
kiểm đếm trực tiếp văn bản hoặc kiểm đếm thông qua ký tự đại diện. Văn bản được
kiếm đếm trực tiếp sẽ sử dụng để tính toán tỷ lệ và thể hiện kết quả trong các biểu đồ.
Văn bản được kiểm đếm thông qua ký tự đại diện được thực hiện theo hai bước:
- Bước 1: chọn nội dung để quy ước. Ví dụ: khái niệm được đề cập và định
nghĩa trong văn bản được quy ước bằng ký hiệu "+" , không được đề cập được quy
ước bằng ký hiệu "-". Sau khi xác định ký hiệu quy ước, các nội dung thông tin sẽ
được mã hóa bằng ký hiệu xác định.
- Bước 2: kiểm đếm số lần xuất hiện của các ký hiệu quy ước theo từng tiêu chí.
Ví dụ: số lần xuất hiện dấu "+" trong thống kê từ Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm
1982.
Kết quả kiểm đếm, thống kê như trên sẽ cung cấp các giá trị định lượng bằng số
nguyên.
So sánh các kết quả thống kê sẽ thực hiện giữa các yếu tố:
- So sánh các nội dung được đề cập trong giai đoạn thực hiện của 3 văn bản có
giá trị pháp lý cao là Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và
Luật Lưu trữ. Lý do chính lựa chọn tiêu chí văn bản quy phạm pháp luật cao nhất để
so sánh là: tính pháp lý cao của văn bản sẽ thể hiện quan điểm rõ ràng hơn về quản lý
nhà nước, sự thay đổi trong nội dung văn bản này sẽ cho thấy sự thay đổi về quan
điểm.
- So sánh các nội dung theo hai thời kỳ nhỏ là : thời kỳ 1986 – 2000 và thời kỳ
2001 – 2012. Hai thời kỳ này được lựa chọn vì dù sau năm 1986, đất nước bước vào
thời kỳ đổi mới và nhiều nội dung quản lý nhà nước phải thay đổi theo, nhưng đến
năm 2000, ngành lưu trữ vẫn thực hiện theo những quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài
liệu lưu trữ được ban hành từ năm 1982 với nhiều nội dung còn nặng tính quan liêu,
bao cấp. Vì thế, giai đoạn 1986 – 2000 được coi là giai đoạn chưa đổi mới của ngành
lưu trữ. Đến Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001 và Luật Lưu trữ kế thừa năm 2012,
nhiều vấn đề đáp ứng nhu cầu quản lý tài liệu theo tinh thần của nền kinh tế thị trường
đã được bổ sung và thay đổi so với trước đó. Cho nên, từ Pháp lệnh 2001, ngành lưu
trữ mới thực sự thể hiện tinh thần đổi mới. Việc lựa chọn hai thời kỳ này để so sánh sẽ
cho thấy những chuyển biến trong quan điểm quản lý nhà nước, góp phần làm rõ hơn
hai vấn đề được xác định trong giả thuyết nghiên cứu.
Các giá trị sử dụng để so sánh là kết quả thống kê được chuyển sang số thập
phân (tỷ lệ %).
27
Ngoài ra, trong một số nội dung cụ thể, việc so sánh có thể được thực hiện giữa
số lượng văn bản của cơ quan trung ương và của địa phương (thành phố Hà Nội và
tỉnh Hà Tây cũ) để xác định mức độ phụ thuộc vào trung ương của quản lý nhà nước
về công tác lưu trữ.
2.3.4. Phân tích ngôn ngữ
Nội dung ngôn ngữ của văn bản được phân tích qua các hình thức:
- Kiếm đếm tần xuất xuất hiện của từ, cụm từ trong văn bản để tìm bằng chứng
cho quan điểm quản lý nhà nước. Ví dụ: số lần xuất hiện trong 1 câu
- So sánh nội dung ngữ nghĩa: So sánh nội dung ngữ nghĩa với định nghĩa trong
từ điển, với khả năng áp dụng trong thực tiễn. Việc so sánh này chủ yếu để xác định
logic trong quan điểm quản lý nhà nước và mức độ phù hợp của nó với thực tiễn.
Logic này cùng với những kết quả thống kê sẽ cung cấp bằng chứng để xác định tính
đúng đắn của giả thuyết.
Bên cạnh đó, sự phân tích nội dung ngôn ngữ này sẽ được thực hiện với sự so
sánh bối cảnh ra đời của một số văn bản chủ yếu, phát biểu của những cá nhân có
thẩm quyền liên quan đến việc xây dựng và ban hành đó.
28
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM TẬP TRUNG, THỐNG NHẤT VÀO NHÀ NƢỚC
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CÔNG TÁC LƢU TRỮ
3.1. Những văn bản quản lý do cơ quan quản lý nhà nƣớc ở Trung ƣơng ban
hành về công tác lƣu trữ giai đoạn 1986 – 2012
Trong giai đoạn 1986 -2012, công tác lưu trữ Việt Nam được Nhà nước chỉ đạo
và quản lý với việc ban hành và kiểm soát việc thi hành các văn bản quan trọng. Công
tác lưu trữ thời kỳ này chịu sự chi phối của ba văn bản có giá trị pháp lý cao lần lượt
thay thế nhau, bao gồm:
- Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982: Pháp lệnh này ra đời trong điều
kiện Đảng và Nhà nước đang tập trung xây dựng đất nước thống nhất xã hội chủ
nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh. Nhu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trên
nhiều phương diện đã được thể hiện trong nhu cầu bảo vệ tài liệu lưu trữ. Sự chỉ đạo
của đồng chí Lê Duẩn và những hành động cụ thể của đồng chí Phạm Văn Đồng để
đưa dự án xây dựng pháp lệnh vào chương trình xây dựng luật của Hội đồng Nhà nước
đã tạo điều kiện để Pháp lệnh được ban hành kịp thời (Nguyễn Văn Thâm 2010). Tuy
được ban hành từ thời kỳ bao cấp nhưng sau năm 1986, dù Đảng và Nhà nước đã
tuyên bố và thực hiện công cuộc đổi mới nhưng chưa có văn bản nào được ban hành
thay thế Pháp lệnh này nên các nội dung của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ vẫn là
căn cứ pháp lý để thực hiện công tác lưu trữ đến năm 2000.
- Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001: Sau gần 20 năm thực hiện Pháp lệnh
bảo vệ tài liệu lưu trữ, thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước và thực tiễn công tác lưu
trữ đã có nhiều thay đổi. Chủ trương đổi mới toàn diện đất nước theo hướng kinh tế thị
trường đặt ra nhiều vấn đề mới, trong đó có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế
và nhiều hình thức sở hữu tài liệu lưu trữ. Tài liệu lưu trữ không thể và không còn chỉ
thuộc sở hữu toàn dân như quy định của Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982.
Trong lúc đó, nhu cầu phát triển kinh tế để nâng cao đời sống, đẩy mạnh hội nhập đòi
hỏi công tác lưu trữ phải đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sử dụng tài liệu đa dạng, bao
gồm cả việc tiếp cận tài liệu đối với người nước ngoài. Nhiều tài liệu lưu trữ cần được
giới thiệu và công bố. Đồng thời, những thay đổi trong tư duy quản lý nhà nước đã
thúc đẩy nhu cầu phân cấp mạnh mẽ nhằm tạo sự tự chủ cho các chính quyền địa
phương. Thông tư số 40/1998/TT-TCCP ngày 24/01/1998 của Ban Tổ chức – Cán bộ
Chính phủ hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở cơ quan nhà nước các cấp đã thể hiện được
tinh thần đó với sự thiết lập Trung tâm Lưu trữ cấp tỉnh, Phòng Lưu trữ và quy định
chức năng quản lý nhà nước cho các đơn vị này. Điều đó thúc đẩy phải xây dựng và
ban hành văn bản có tính pháp lý cao hơn để áp dụng và bắt buộc áp dụng trong cả
29
nước, đồng thời tạo cơ chế pháp lý để các cơ quan từ trung ương đến địa phương thực
hiện quản lý nhà nước và quản lý tài liệu lưu trữ. Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia được
ban hành trong bối cảnh như vậy.
- Luật Lưu trữ năm 2011: Kết thúc 10 năm thi hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc
gia, ngành lưu trữ đã đạt được nhiều bước tiến bộ với nhiều văn bản hướng dẫn có giá
trị pháp lý cao được ban hành, đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ
ngày càng được bổ sung đông đảo, quy mô của các cơ quan lưu trữ từ trung ương đến
địa phương được mở rộng. Ngành lưu trữ Việt Nam đã tham gia tích cực hơn và có vai
trò quan trọng trong các diễn đàn và hiệp hội lưu trữ quốc tế (Cục Văn thư và Lưu trữ
Nhà nước 2011). Song, những hạn chế của công tác lưu trữ, đặc biệt là hoạt động quản
lý nhà nước khiến cho những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của
ngành. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia chỉ ra rằng một
trong những nguyên nhân quan trọng của hạn chế đó là chưa đủ văn bản có giá trị
pháp lý cao để thực hiện trong thực tiễn. Do đó, Bộ Nội vụ với sự tham mưu của Cục
Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã xúc tiến quá trình xây dựng Luật Lưu trữ. Dự án Luật
Lưu trữ được Quốc Hội thông qua năm 2011 và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 7 năm
2012, trở thành văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của ngành.
Ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng ba văn bản trên đều đồng thuận
về quan điểm quản lý tập trung, thống nhất công tác lưu trữ với sự chú trọng vào các
cơ quan lưu trữ nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, những vấn đề liên quan đến công
dân ít được đề cập. Ngoài ba văn bản có giá trị pháp lý cao, nhiều văn bản dưới luật từ
Nghị định tới các công văn hướng dẫn, điều hành được ban hành cũng tập trung vào
các nội dung phục vụ cho hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan lưu trữ nhà
nước. Trong số 1592 văn bản do cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương ban hành về
công tác lưu trữ từ 1986 - 2012, số lượng văn bản quy định cho các cơ quan lưu trữ
nhà nước là chủ yếu:
2 Thống kê từ danh mục văn bản trong cuốn Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn thư, lưu trữ hiện hành do Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước ấn hành năm 2012.
12%
88%
Văn bản quy định liên quan đến người dân
Văn bản quy định liên quan đến cơ quan nhà nước
Biểu đồ 1: Tỷ lệ văn bản quy định cho
cơ quan nhà nước và người dân
30
Trong số tất cả những văn bản đó, số lượng điều khoản quy định liên quan đến
người dân như thủ tục khai thác, sử dụng, quyền và trách nhiệm đối với tài liệu lưu trữ
cũng không nhiều, chiếm ít hơn 10% các điều khoản quy định cho công tác lưu trữ.
Tương quan giữa các nội dung được đề cập trong các văn bản đã ban hành cũng
không đồng đều và có sự thay đổi đáng kể trong hai giai đoạn chủ đạo: Từ 1986 –
2000 và từ 2001 – 2012, cụ thể như sau:
Biểu đồ 2: Số lượng văn bản ban hành theo tính chất nội dung trong từng thời kỳ
Biểu đồ 3: Tỷ lệ văn bản ban hành theo tính chất nội dung trong từng thời kỳ
So với giai đoạn 1986 – 2001, số lượng văn bản quản lý nhà nước do các cơ
quan Trung ương ban hành tăng lên đáng kể nhưng vẫn tập trung vào các quy định để
thực hiện trong các cơ quan lưu trữ nhà nước. Mức độ tập trung cao ở các cơ quan
trung ương thể hiện tương đối rõ với tỷ lệ văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác văn
thư – lưu trữ ở địa phương ít hơn và thiếu cụ thể hơn so với các cơ quan trung ương.
Chẳng hạn, trong giai đoạn 1986 -2001, các cơ quan quản lý nhà nước về văn thư –
lưu trữ ở Trung ương gồm Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, Cục Lưu trữ Nhà nước
ban hành được 13 văn bản quy định, hướng dẫn các loại, trong khi đó UBND thành
0
10
20
30
40
50
60
70
1986 - 2000 2001 - 2012
Quy định chung
Quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ
Quy định về tổ chức và cán bộ
0% 20% 40% 60% 80% 100%
1986-2000
2001-2012
Quy định chung
Quy định, hướng dẫn về nghiệp vụ
Quy định về tổ chức, cán bộ
31
phố Hà Nội và UBND tỉnh Hà Tây, mỗi địa phương chỉ ban hành được 01 chỉ thị về
quản lý công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ khi Văn phòng UBND tỉnh
được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước theo Thông tư số 40/1998/TT- TCCB của Ban
Tổ chức – Cán bộ Chính phủ, các văn bản chỉ đạo, điều hành và hướng dẫn cụ thể của
những địa phương này hầu như không có. Cho nên, các hoạt động thuộc công tác lưu
trữ đều phụ thuộc chặt chẽ vào quy định và hướng dẫn từ Trung ương.
Về nội dung, sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu nội dung văn bản ban hành giữa
hai giai đoạn cho thấy trọng tâm của vấn đề quản lý đã thay đổi. Nếu thời kỳ 1986 –
2000, quản lý nhà nước về công tác lưu trữ tập trung lớn vào xây dựng hệ thống tổ
chức lưu trữ và đội ngũ cán bộ của ngành thì thời kỳ 2001 – 2012, những vấn đề này
đã giảm mạng để chuyển hướng sang quy định và hướng dẫn nghiệp vụ.
Cơ cấu văn bản quản lý do cơ quan nhà nước ban hành như trên cho thấy hai
đặc điểm:
- Nội dung quản lý công tác lưu trữ tập trung chủ yếu vào hoạt động của các cơ
quan lưu trữ nhà nước;
- Quản lý nhà nước công tác lưu trữ thông qua các văn bản quy định có tính
pháp lý tập trung cao ở Trung ương.
3.2. Hệ khái niệm
Trong các văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 1986-2012 đều tuyên bố công
tác lưu trữ được Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất nhưng không giải thích rõ
khái niệm này. Tuy vậy, các văn bản này đều xác định và định nghĩa một số khái niệm
cơ bản để trở thành cách hiểu và áp dụng thống nhất trong công tác lưu trữ trên phạm
vi cả nước. Vì các văn bản có tính pháp lý cao đều được đảm bảo thực hiện từ quyền
lực Nhà nước nên việc đưa ra các định nghĩa trong văn bản có tính pháp lý cao không
chỉ có ý nghĩa tạo sự đồng thuận, mà còn phản ảnh tính chất định hướng của Nhà nước
đối với nhận thức thống nhất trong công tác lưu trữ. Đồng thời, các khái niệm và định
nghĩa được xác định trong văn bản có tính pháp lý cao là một biểu hiện cho tính tập
quyền cao ở Trung ương, đồng thời tính thống nhất trên phạm vi cả nước trong một
lĩnh vực chuyên môn như công tác lưu trữ. Những khái niệm và sự thay đổi về cách
hiểu được thể hiện qua các văn bản có giá trị pháp lý cao của ngành lưu trữ được thể
hiện trong bảng sau:
32
Bảng 1. Những khái niệm được định nghĩa trong Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn
1986 -2012
TT Khái niệm Pháp lệnh bảo
vệ tài liệu lƣu
trữ 1982
Pháp lệnh Lƣu
trữ Quốc gia
2001
Luật Lƣu
trữ 2011
1. Tài liệu 0 0 +
2. Tài liệu lưu trữ + + +
3. Kho lưu trữ _ _ _
4. Bản chính, bản gốc, bản sao
hợp pháp hay bản sao có giá trị như bản chính (*)
_ _ _
5. Phông Lưu trữ Quốc gia Việt
Nam
0 + +
6. Phông Lưu trữ Nhà nước
Việt Nam
0 + +
7. Phông Lưu trữ Đảng Cộng
sản Việt Nam
0 + +
8. Tài liệu văn thư 0 + 0
9. Lưu trữ hiện hành 0 + +
10. Lưu trữ lịch sử 0 + +
11. Bảo hiểm tài liệu lưu trữ _ + +
12. Hồ sơ và lập hồ sơ _ 0 +
13. Hoạt động lưu trữ 0 0 +
14. Thu thập tài liệu _ _ +
15. Xác định giá trị tài liệu _ _ +
16. Chỉnh lý tài liệu _ _ +
17. Tài liệu lưu trữ điện tử 0 0 +
18. Tài liệu có giá trị bảo quản
vĩnh viễn
0 0 +
19. Tài liệu bảo quản có thời hạn 0 0 +
20. Tài liệu hết giá trị 0 0 +
21. Tài liệu quý, hiếm _ _ _
22. Chứng thực lưu trữ 0 _ +
23. Dịch vụ lưu trữ 0 0 +
24. Quản lý nhà nước về công
tác lưu trữ/ Quản lý về lưu
trữ
_ _ _
25. Chứng chỉ hành nghề lưu trữ 0 0 _ Ghi chú bảng:
0 Không đề cập + Có định nghĩa
_ Đề cập nhưng không định nghĩa * Định nghĩa trong văn bản hướng dẫn dưới luật
33
Như thế, về mặt số lượng, các khái niệm được định nghĩa và quy định bằng văn
bản pháp lý cao ngày càng nhiều. So với Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ, số lượng
khái niệm được định nghĩa trong văn bản tăng 62.5% của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia,
và tăng 87.5% của Luật Lưu trữ. Sự gia tăng số lượng như vậy không chỉ thông qua
việc bổ sung khái niệm mới như khái niệm "hoạt động lưu trữ", khái niệm "tài liệu",
mà còn thông qua việc nâng tính pháp lý của khái niệm được định nghĩa từ văn bản
dưới luật lên văn bản luật. Từ so sánh như trên, số lượng khái niệm được bổ sung đáng
kể từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia so với Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ, và Luật Lưu
trữ cũng bổ sung thêm hơn 30% (9/25) số lượng khái niệm so với Pháp lệnh Lưu trữ
Quốc gia.
Không chỉ thay đổi về số lượng, những thay đổi về nội dung các định nghĩa
cũng cho thấy sự chuyển biến về quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ qua
các văn bản Pháp lệnh và Luật. Thống kê sau đây cho phản ảnh sự chuyển biến này:
34
Bảng 2. Sự thay đổi định nghĩa qua Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 - 2012
Khái niệm Pháp lệnh bảo vệ tài liệu
lƣu trữ 1982
Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia
2001
Luật Lƣu trữ 2011
Tài liệu 0 0 là vật mang tin hình thành trong quá trình
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Tài liệu lưu trữ Tài liệu lưu trữ quốc gia là
tài liệu có giá trị về chính
trị, quân sự, kinh tế, văn
hoá, giáo dục, xã hội, khoa
học, kỹ thuật, được hình
thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan Đảng
và Nhà nước, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang và các
nhân vật, trải qua các thời
kỳ lịch sử của dân tộc Việt
Nam, phục vụ việc nghiên
cứu lịch sử, khoa học và
công tác thực tiễn.
Tài liệu lưu trữ quốc gia
phải là bản chính của văn
kiện hoặc tài liệu khác ghi
trên giấy, phim, ảnh, băng,
đĩa ghi âm, hoặc bằng các
Tàiliệu lưu trữ quốc gia là tài
liệu có giá trị về chính trị, kinh
tế, quốc phòng,an ninh, ngoại
giao, văn hóa, giáo dục, khoa
học và công nghệ được hình
thành trong các thời kỳ lịch sử
của dân tộc Việt Nam, trong
quá trình hoạt động củacác cơ
quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân(sau
đây gọi chung là cơ quan, tổ
chức) và các nhân vật lịch sử,
tiêu biểu phụcvụ việc nghiên
cứu lịch sử, khoa học và hoạt
động thực tiễn.
Tài liệu lưu trữ quốc gia phải là
Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ
hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học,
lịch sử được lựa chọn để lưu trữ .
Tài liệu lưu trữ bao gồm bản gốc, bản
chính; trong trường hợp không còn bản
gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản
sao hợp pháp
35
phương pháp ghi tin khác;
trong trường hợp không
còn bản chính mới được
thay thế bằng bản sao có
giá trị như bản chính.
bản chính, bản gốc của tài liệu
được ghi trêngiấy, phim, ảnh,
băng hình, đĩa hình, băng âm
thanh, đĩa âm thanh hoặc các
vậtmang tin khác; trong trường
hợp không còn bản chính, bản
gốc thì được thay thế bằng bản
sao hợp pháp.
Phông Lưu trữ Quốc
gia Việt Nam
0
(định nghĩa trong Quyết
định 168/HĐBT ngày
26/12/1981 của Hội đồng
Bộ trưởng về việc thành
lập Phông Lưu trữ Quốc
gia Việt Nam)
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ của
nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, không phân
biệt thời gian, xuất xứ, chế độ
xã hội, nơi bảo quản, kỹ thuật
làm ra tài liệu đó.
Phông lưu trữ quốc gia Việt
Nam bao gồm Phông lưu trữ
Đảng Cộng sản Việt Nam và
Phông lưu trữ Nhà nước Việt
Nam.
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt
Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình
thành, nơi bảo quản, chế độ chính trị - xã
hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin.
Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm
Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và
Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam.
Phông Lưu trữ Nhà
nước Việt Nam
0 Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được
hình thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội,tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành
trong quá trình hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự
36
tế, đơn vị vũ trang nhân dân,
các nhân vật lịch sử, tiêu biểu
và tài liệu khác có giá trị về các
lĩnh vực quyđịnh tại Điều 1 của
Pháp lệnh này
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân vật
lịch sử, tiêu biểu và tài liệu khác được hình
thành qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.
Phông Lưu trữ Đảng
Cộng sản Việt Nam
0 Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được
hình thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức
của Đảng Cộng sảnViệt Nam,
tổ chức tiền thân của Đảng, tổ
chức chính trị - xã hội; tài liệu
về thân thế, sự nghiệp và hoạt
động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của các nhân vật lịch sử,
tiêu biểu của Đảng, các nhân
vật lịch sử, tiêu biểu của Đảng
đồng thời là các cán bộ lãnh
đạo chủ chốt của Nhà nước,
của các tổ chức chính trị - xã
hội.
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành
trong quá trình hoạt động của các tổ chức
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tiền
thân của Đảng, các tổ chức chính trị - xã
hội; các nhân vật lịch sử, tiêu biểu của
Đảng, tổ chức tiền thân của Đảng và của
các tổ chức chính trị - xã hội.
Lưu trữ hiện hành 0 Là bộ phận lưu trữ của cơ
quan, tổ chức có nhiệm vụ thu
thập, bảo quản và phục vụ sử
dụng tài liệu lưu trữ được tiếp
Là tổ chức thực hiện hoạt động lưu trữ đối
với tài liệu lưu trữ của cơ quan, tổ chức.
37
nhận từ các đơn vị thuộc cơ
quan, tổ chức.
Lưu trữ lịch sử 0 Là cơ quan lưu trữ có nhiệm vụ
thu thập, bảo quản lâu dài và
phục vụ sử dụng tài liệu lưu trữ
được tiếp nhận từ lưu trữ hiện
hành và các nguồn tài liệu khác
Là cơ quan thực hiện hoạt động lưu trữ đối
với tài liệu lưu trữ có giá trị bảo quản vĩnh
viễn được tiếp nhận từ Lưu trữ cơ quan và
từ các nguồn khác.
Bảo hiểm tài liệu lưu
trữ
_ Là việc thực hiện các biện pháp
sao chụp,bảo quản tài liệu lưu
trữ tại kho lưu trữ chuyên dụng
riêng biệt tách rời bản chính,
bản gốc đối với tài liệu lưu trữ
đặc biệt quý, hiếm nhằm bảo
vệ an toàn tài liệu đó
Bản sao bảo hiểm tài liệu lưu trữ là bản sao
từ tài liệu lưu trữ theo phương pháp, tiêu
chuẩn nhất định nhằm lưu giữ bản sao đó
dự phòng khi có rủi ro xảy ra đối với tài
liệu lưu trữ
Hồ sơ và lập hồ sơ _ 0 Hồ sơ là một tập tài liệu có liên quan với
nhau về một vấn đề, một sự việc, một đối
tượng cụ thể hoặc có đặc điểm chung, hình
thành trong quá trình theo dõi, giải quyết
công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Lập hồ sơ là việc tập hợp, sắp xếp tài liệu
hình thành trong quá trình theo dõi, giải
quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thành hồ sơ theo những nguyên tắc và
38
phương pháp nhất định.
Hoạt động lưu trữ 0 0 Hoạt động lưu trữ là hoạt động thu thập,
chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống
kê, sử dụng tài liệu lưu trữ
Thu thập tài liệu _ _ Thu thập tài liệu là quá trình xác định
nguồn tài liệu, lựa chọn, giao nhận tài liệu
có giá trị để chuyển vào Lưu trữ cơ quan,
Lưu trữ lịch sử.
Xác định giá trị tài
liệu
_ _ Xác định giá trị tài liệu là việc đánh giá giá
trị tài liệu theo những nguyên tắc, phương
pháp, tiêu chuẩn theo quy định của cơ quan
có thẩm quyền để xác định những tài liệu
có giá trị lưu trữ, thời hạn bảo quản và tài
liệu hết giá trị.
Chỉnh lý tài liệu _ _ Chỉnh lý tài liệu là việc phân loại, xác định
giá trị, sắp xếp, thống kê, lập công cụ tra
cứu tài liệu hình thành trong hoạt động của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tài liệu lưu trữ điện
tử
0 0 Tài liệu lưu trữ điện tử là tài liệu được tạo
lập ở dạng thông điệp dữ liệu hình thành
trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân được lựa chọn để lưu trữ
hoặc được số hóa từ tài liệu lưu trữ trên các
vật mang tin khác.
39
Tài liệu có giá trị bảo
quản vĩnh viễn
0 0 Tài liệu bảo quản vĩnh viễn là tài liệu có ý
nghĩa và giá trị không phụ thuộc vào thời
gian
Tài liệu có giá trị bảo
quản có thời hạn
0 0 Tài liệu bảo quản có thời hạn là tài liệu
không thuộc trường hợp quy định tại khoản
1 Điều này và được xác định thời hạn bảo
quản dưới 70 năm .
Tài liệu hết giá trị 0 0 Tài liệu hết giá trị cần loại ra để hủy là tài
liệu có thông tin trùng lặp hoặc đã hết thời
hạn bảo quản theo quy định và không còn
cần thiết cho hoạt động thực tiễn, nghiên
cứu khoa học, lịch sử.
Tài liệu lưu trữ quý,
hiếm
_ _ _
Chứng thực tài liệu
lưu trữ
0 0 Chứng thực lưu trữ là xác nhận của cơ
quan, tổ chức hoặc Lưu trữ lịch sử về nội
dung thông tin hoặc bản sao tài liệu lưu trữ
do Lưu trữ cơ quan hoặc Lưu trữ lịch sử
đang quản lý
Dịch vụ lưu trữ 0 0 Các hoạt động dịch vụ lưu trữ bao gồm:
a) Bảo quản, chỉnh lý, tu bổ, khử trùng,
khử axit, khử nấm mốc, số hóa tài liệu lưu
trữ không thuộc danh mục bí mật nhà
nước;
40
b) Nghiên cứu, tư vấn, ứng dụng khoa học
và chuyển giao công nghệ lưu trữ.
Quản lý nhà nước về
công tác lưu trữ
/Quản lý về lưu trữ
_ _ _
Chứng chỉ hành nghề
lưu trữ
0 0 _
Ghi chú bảng:
0 Không đề cập
_ Đề cập nhưng không định nghĩa
+ Có định nghĩa
* Được định nghĩa trong văn bản hướng dẫn dưới luật
41
Về hình thức diễn đạt, các khái niệm trong Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia được
định nghĩa không thay đổi nhiều so với Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, chủ yếu
thông qua sáp nhập nội dung Quyết định 168/HĐBT ngày 26/12/1981 của Hội đồng
Bộ trưởng về việc thành lập Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam với Pháp lệnh Bảo vệ
tài liệu lưu trữ, đồng thời cụ thể hóa một số khái niệm mới. Điều đó thể hiện ở:
- Pháp lệnh lưu trữ Quốc gia định nghĩa lại gần như toàn bộ nội dung của khái
niệm "tài liệu lưu trữ" trong Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ. Các từ ngữ được thay
đổi bao gồm: thay đổi tên gọi của các nguồn tạo ra tài liệu từ cơ quan Đảng và Nhà
nước thành các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,...;
bổ sung nguồn tạo nên tài liệu là các nhân vật lịch sử tiêu biểu;
- Khái niệm Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam được lặp lại trọn vẹn từ Quyết
định 168/HĐBT ngày 26/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Phông
Lưu trữ Quốc gia Việt Nam;
- Bổ sung và định nghĩa cụ thể các khái niệm Phông Lưu trữ nhà nước, Phông
Lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam, lưu trữ hiện hành, lưu trữ lịch sử;
So với Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia, hệ khái niệm trong Luật Lưu trữ Việt Nam
thay đổi không đáng kể, tập trung vào giảm liệt kê, tách khái niệm cơ bản khỏi khái
niệm chuyên môn, định nghĩa khái niệm cơ bản để dùng khái niệm cơ bản cho định
nghĩa khái niệm chuyên môn. Nhờ đó, các định nghĩa của khái niệm chuyên môn ngày
càng ngắn gọn và khái quát nhưng vẫn giữ nguyên nội hàm chính của khái niệm đã
được đề cập từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia. Quan niệm về tài liệu lưu trữ và các
nghiệp vụ lưu trữ về cơ bản không thay đổi, chỉ thay đổi về cách diễn đạt để đảm bảo
tính khái quát và toàn diện hơn. Điều đó thể hiện qua những điểm sau:
- Khái niệm "tài liệu" được bổ sung trong Luật Lưu trữ như một khái niệm cơ sở
để định nghĩa khái niệm "tài liệu lưu trữ"; khái niệm "hoạt động lưu trữ" được bổ sung
để làm cơ sở định nghĩa các khái niệm "lưu trữ lịch sử", "lưu trữ hiện hành";
- Thay việc liệt kê các nguồn hình thành tài liệu lưu trữ trong Pháp lệnh Lưu trữ
Quốc gia bằng cụm từ "cơ quan, tổ chức, cá nhân";
- Giá trị của tài liệu lưu trữ về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội,... được khái quát thành 3 loại giá trị: thực tiễn, khoa học và lịch sử;
- Các khái niệm về nghiệp vụ văn thư – lưu trữ như "hồ sơ", "lập hồ sơ", "thu
thập tài liệu", "chỉnh lý tài liệu", "xác định giá trị tài liệu", "tài liệu lưu trữ điện tử",
"chứng thực tài liệu lưu trữ", các khái niệm về thời hạn bảo quản tài liệu được định
nghĩa lần đầu tiên trong văn bản có giá trị pháp lý cao như Luật Lưu trữ.
42
Về nội dung, các khái niệm được định nghĩa lại cho phản ảnh rõ những thay đổi
trong quan điểm quản lý nhà nước. Đến Luật Lưu trữ, khái niệm "tài liệu lưu trữ"
không thay đổi về nội hàm nhưng bổ sung tính "được lựa chọn" trong đặc điểm của tài
liệu này khiến cho vai trò của người làm lưu trữ và các nghiệp vụ lưu trữ, cũng như
việc gắn giá trị của tài liệu lưu trữ với nhu cầu sử dụng trở nên quan trọng hơn. Việc
bổ sung hai khái niệm "Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam" và "Phông Lưu trữ Đảng
cộng sản Việt Nam" bên cạnh khái niệm "Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam" trong
hai văn bản ban hành sau là dấu hiệu của sự phân tán trong quản lý tài liệu lưu trữ mà
những nội dung của hệ chuẩn mực sẽ cho thấy rõ. Việc bỏ cụm từ "đồng thời là các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước" trong định nghĩa "Phông Lưu trữ Đảng Cộng
sản Việt Nam" thể hiện sự giới hạn phạm vi tài liệu của phông này và mở rộng phạm
vi tài liệu của "Phông Lưu trữ Nhà nước". Song, mặc dù khái niệm "Phông Lưu trữ
Nhà nước" đề cập tới tài liệu của nhiều thành phần xã hội khác nhau, bao gồm cả
những nhân vật lịch sử tiêu biểu song những cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc
khu vực tư nhưng vẫn tạo ra tài liệu lưu trữ có giá trị như các hội nghề nghiệp, các
cộng đồng dân cư, các nhóm xã hội chưa được đề cập tới trong định nghĩa này. Cho
nên, mặc dù định nghĩa về "Phông Lưu trữ Quốc gia" rất khái quát nhưng việc xác
định phạm vi của hai phông lưu trữ thuộc Phông Lưu trữ Quốc gia lại không đầy đủ vì
chưa xét tới tài liệu của nhiều chủ thể tạo ra tài liệu là nhân dân.
Các định nghĩa được từng bước bổ sung vào các văn bản phản ảnh mục tiêu của
cơ quan quản lý nhà nước trong việc "làm cho xã hội hiểu rõ hơn về hoạt động lưu
trữ" (TS. Vũ Minh Hương 2011) cũng như góp phần quan trọng trong định hướng
nhận thức thống nhất về công tác lưu trữ. Hơn thế nữa, các khái niệm mới như "tài liệu
lưu trữ điện tử", "dịch vụ lưu trữ", "chứng thực lưu trữ",... cho thấy sự cập nhật của
những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền soạn thảo và ban hành văn bản về những vấn
đề mới phát sinh trong thực tiễn công tác lưu trữ, nhất là trong điều kiện vận hành của
nền kinh tế theo hướng thị trường như hiện nay. Tính khách quan, phi chính trị và xu
hướng dân chủ được thể hiện rõ qua việc bỏ điều khoản quy định về "sở hữu toàn dân"
đối với tài liệu lưu trữ trong Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, thay cụm từ "nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" bằng "nước Việt Nam" trong định nghĩa về Phông
Lưu trữ Quốc gia Việt Nam.
Tuy nhiên, những khái niệm đã xuất hiện nhiều lần trong cả ba văn bản nhưng
không được định nghĩa, đặc biệt là hai khái niệm "tài liệu lưu trữ quý, hiếm" và "quản
lý nhà nước về lưu trữ" cho thấy khoảng trống, thậm chí là những khúc mắc của đơn
vị soạn thảo và ban hành văn bản về khái niệm đó và có thể bao gồm những vấn đề
liên quan tới khái niệm. Việc chỉ đề cập tới hai khái niệm "lưu trữ hiện hành" và "lưu
trữ lịch sử" với cách định nghĩa gắn chức năng của các lưu trữ này với nguồn bổ sung
đã khiến cho hoạt động lưu trữ được đề cập trong Luật bị giới hạn trong các cơ quan
43
lưu trữ nhà nước3 mà bỏ quan những lưu trữ tự phát hay có mục tiêu, hoặc các mô
hình tương tự như lưu trữ của các tổ chức nhân dân, các cộng đồng, các nhóm xã hội,
thậm chí là các cá nhân, gia đình, dòng họ trong khi Luật thừa nhận việc sở hữu tài
liệu lưu trữ.
Định nghĩa về "tài liệu lưu trữ" đã có thay đổi qua thời gian, nhưng việc nhấn
mạnh nhiều tới nguồn gốc tạo ra tài liệu là các cơ quan, tổ chức, đồng thời coi trọng
tính chất "bản chính, bản gốc" lại khiến cho định nghĩa này khó áp dụng đối với tài
liệu của nhân dân. Bởi lẽ, không ít người dân đánh giá giá trị của tài liệu để lựa chọn
lưu giữ lại không dựa trên những yếu tố này. Chẳng hạn, với tác phẩm của một tác giả
viết sách, bản thảo của người đó được coi là bản gốc và được các học giả lưu trữ học
coi trọng nhất, đặc biệt là khi chúng được tạo thành bằng chữ viết tay hoặc có chữ viết
tay sửa chữa của tác giả (còn gọi là thủ bút). Tuy nhiên, trong không ít trường hợp,
bản thân tác giả không giữ lại bản thảo viết tay vì bản in chính thức trùng hoàn toàn về
nội dung với bản thảo và bản in chính thức đó đủ chứng minh cho hoạt động của tác
giả như trường hợp tài liệu của Giáo sư Lê Mậu Hãn, Phó Giáo sư Hoàng Văn Khoán,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội4. Đồng thời,
sự ảnh hưởng của phương tiện chế tác có thể xóa nhòa ranh giới phân biệt giữa bản
gốc và bản chính (Jenkinson 1922). Một số trường hợp khác, bản thân kỹ thuật chế tác
lại tạo nên giá trị của tài liệu. Tác phẩm "Nghiên cứu kỹ thuật của người An Nam" hay
"Lục Vân Tiên"5, Mộc bản chủa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang hay tài
liệu ghi trên lá Buông của đồng bào Khmer tại hai tỉnh An Giang (Chi Cục Văn thư -
Lưu trữ tỉnh An Giang 2013) và Kiên Giang (Văn Việt 2013) là những trường hợp như
vậy. Hơn thế nữa, với nhiều trường hợp khác như các tác phẩm hội họa, tài liệu của cá
nhân chỉ được phép có 1 bản, vừa là bản gốc, vừa là bản chính, các bản sao hoặc bản
giả đều có giá trị thấp6. Khi đó, người làm lưu trữ không thể áp dụng khái niệm "bản
3 Các văn bản quy định dưới Pháp lệnh và Luật về danh mục cơ quan, tổ chức là nguồn nộp lưu chỉ đề cập tới các cơ quan nhà nước và một số cá nhân tiêu biểu nên khi gắn chức năng của các lưu trữ với nguồn bổ sung sẽ làm chức năng nó bị giới hạn với cơ quan nhà nước. 4 Báo cáo khảo sát của sinh viên Lê Thị Quyên trong quá trình thực hiện đề tài khoa học "Tài liệu lưu trữ của những nhà giáo Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội", thực hiện năm 2014 do Ths. Phạm Thị Diệu Linh hướng dẫn. Theo báo cáo này, các giáo sư đều hạn chế giữ lại các bản thảo vì chất lượng giấy không tốt, nội dung bài viết hoặc sách đều được truyền tải đầy đủ trong bản in nên việc lưu giữ lại bản in thuận tiện và dễ chia sẻ với người đọc hơn. 5 "Nghiên cứu kỹ thuật của người An Nam" là cuốn sách của tác giả Henri OGER thực hiện cùng một họa sĩ là người Việt Nam. Bộ sách gồm 2 tập, chỉ được in hơn 60 bản bằng kỹ thuật in dập khắc của người Việt Nam và in tại Việt Nam nên không thực hiện nộp lưu chiểu và chỉ xuất hiện trong các sưu tập cá nhân. Vì thế, bên cạnh hơn 4000 trang bản thảo, bao gồm cả những ghi chép và ký họa của các tác giả, bản thân ấn phẩm cũng được lưu giữ tại Pháp không chỉ vì nội dung thông tin mà vì tính độc đáo trong kỹ thuật tạo ra nó như là một bằng chứng cho "Kỹ thuật của người An Nam". Tác phẩm "Lục Vân Tiên" cũng có đặc điểm tương tự. Thông tin cung cấp của Triển lãm tư liệu về Việt Nam tại Trung tâm văn hóa Pháp (Le'space) Hà Nội tháng 10 năm 2013. 6 Bản gốc hay bản chính là tác phẩm do tác giả tạo ra, thông thường sẽ có chữ ký của tác giả trên tác phẩm. Bản chép
hay bản sao là bản vẽ lại tác phẩm gốc do họa sĩ khác thực hiện, có thể có hoặc không có chữ ký của người vẽ lại. Bản giả là tác phẩm do người khác vẽ lại để làm giả tác phẩm chính nên họ sẽ cố gắng không tạo ra sự khác biệt nào. Trong trường hợp tranh của Bùi Xuân Phái, bản gốc hay bản chính có thể định giá hàng nghìn đô la Mỹ, nhưng bản chép chỉ có giá vài triệu đồng Việt Nam, còn bản giả xuất hiện trên thị trường đã gây nhiều thiệt hại cho người sở hữu bởi nó không
44
sao có giá trị tương đương". Cùng với đó, những tiến bộ của công nghệ đã tạo điều
kiện cho nhân dân sáng tạo và chia sẻ hàng loạt tài liệu mà tính pháp lý và tính xác
thực của chúng còn phải được nghiên cứu tiếp. Cho nên, sự đa dạng và phong phú của
tài liệu lưu trữ nhân dân đã phá vỡ mọi giới hạn cho định nghĩa về tài liệu lưu trữ, từ
nguồn gốc hình thành, thể loại, kỹ thuật chế tác tới nội dung. Và vì thế, định nghĩa
trong những quy định như trên, về cơ bản vẫn chỉ phù hợp với tài liệu lưu trữ do nhà
nước và của nhà nước.
Tương tự như vậy, các định nghĩa cho những nghiệp vụ lưu trữ hướng đến việc
áp dụng chủ yếu cho các lưu trữ nhà nước. Ví dụ như việc xác định giá trị tài liệu của
người dân để họ lưu giữ lại dựa vào trước hết là nhu cầu sử dụng của họ, và sau đó là
giá trị của tài liệu đó đối với cuộc sống của họ. Cho nên, việc xác định giá trị này
không phụ thuộc vào những "nguyên tắc, tiêu chuẩn theo quy định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền", mà ngược lại, phụ thuộc vào thiên kiến chủ quan của chủ sở
hữu mà trong những trường hợp rất phổ biến đó, các cơ quan có thẩm quyền không thể
can thiệp được. Vì thế, định nghĩa về "xác định giá trị" không phù hợp với tài liệu và
hoạt động lưu giữ tài liệu của người dân.
3.3. Hệ chuẩn mực
Hệ chuẩn mực của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thể hiện trong các quy
định về công tác lưu trữ có tính bắt buộc thực hiện. Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ
và Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia đều tuyên bố rõ: "Lưu trữ Quốc gia đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước"(Điều 3 Pháp lệnh Lưu trữ
Quốc gia). "Nhà nước quản lý theo nguyên tắc tập trung, thống nhất"(Điều 1 Pháp
lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ). Nhưng đến Luật Lưu trữ, các nguyên tắc này không được
nhắc lại chính thức và được thay thế hoặc cụ thể hóa bằng những quy định chi tiết về
trách nhiệm quản lý nhà nước về lưu trữ. Cùng với đó, ở mỗi phần quy định về các nội
dung của hoạt động lưu trữ đều có những điều khoản về trách nhiệm của cơ quan có
thẩm quyền. Các quy định này có thể chia thành các nhóm chính:
3.3.1. Nhóm quy định về quản lý nhà nước công tác lưu trữ:
Trong các văn bản có tính pháp lý cao của ngành lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012
đều có những phần quy định riêng về hoạt động quản lý nhà nước. Nội dung và mức
độ chi tiết của những quy định này có thay đổi theo hướng ngày càng cụ thể qua từng
văn bản với hai nội dung chính là: thẩm quyền và nội dung quản lý về công tác lưu trữ
của nhà nước.
đem lại giá trị nghệ thuật chính xác như bản gốc nhưng vẫn được bán với giá như bản gốc. Bản giả được coi là một sản phẩm vô đạo đức của giới mỹ thuật. Thông tin từ chia sẻ của họa sĩ Bùi Thanh Phương và các họa sĩ khác.
45
Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác lưu trữ được quy định
như sau:
Cơ quan Pháp lệnh Bảo vệ tài
liệu lƣu trữ
Pháp lệnh Lƣu trữ
Quốc gia
Luật Lƣu trữ
Trung ương Thủ trưởng các ngành
ở Trung ương
Chính phủ
Cơ quan lưu trữ trung
ương
Chính phủ
Bộ Nội vụ
Địa phương Chủ tịch UBND các
cấp
Chủ tịch UBND các
cấp
Ủy ban nhân dân các
cấp
Tuy nhiên, cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ ở trung ương và Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp ở địa phương trong quản lý nhà nước về công tác lưu trữ có sự điều
chỉnh thường xuyên, tập trung trong giai đoạn từ 1998 – 2013 sau hàng loạt các văn
bản dưới luật quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan lưu trữ.
Những quy định này đã từng bước thiết lập hệ thống cơ quan có thẩm quyền quản lý
chuyên môn về công tác lưu trữ từ Trung ương tới địa phương với sự thay đổi cơ quan
chủ quản ở Trung ương từ Văn phòng Phủ Thủ tướng sang Ban Tổ chức – Cán bộ
Chính phủ, sau đó là Bộ Nội vụ. Điều đó kéo theo hàng loạt thay đổi ở địa phương.
Các Trung tâm Lưu trữ địa phương được thành lập, đảm nhiệm hai vai trò quản lý tài
liệu và giúp lãnh đạo địa phương quản lý công tác lưu trữ đã được coi là bước tiến
quan trọng của ngành. Tuy nhiên, cơ quan này bị xáo trộn sau đó, từng bước tách chức
năng quản lý tài liệu khỏi chức năng tham mưu, giúp lãnh đạo địa phương quản lý nhà
nước. Những thay đổi về thẩm quyền quản lý công tác lưu trữ của các cơ quan này
được thể hiện trong bảng dưới đây:
46
Cơ quan Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lƣu trữ Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia Luật Lƣu trữ
Trung ƣơng
Hội đồng bộ trưởng: quản lý tập
trung, thống nhất tài liệu lưu trữ
Chính phủ quản lý thống nhất về lưu
trữ
Văn phòng chính phủ, sau đó là Bộ
Nội vụ giúp Chính phủ quản lý nhà
nước về công tác lưu trữ (*)
Cục Lưu trữ, sau đó là Cục Văn thư và
Lưu trữ Nhà nước giúp Bộ Nội vụ
quản lý công tác lưu trữ (*)
Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về lưu trữ
Bộ Nội vụ Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về lưu trữ và quản lý tài liệu
Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam
Cơ quan thuộc Hội đồng bộ trưởng
quản lý công tác và tài liệu lưu trữ
trong ngành và các đơn vị trực
thuộc
Văn phòng các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ quản lý công
tác lưu trữ theo ngành dọc (*)
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị - xã hội trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý về lưu trữ
Các cơ quan lưu trữ Nhà nước
trung ương có trách nhiệm quản lý
tập trung, thống nhất công tác lưu
trữ; xây dựng các chế độ quản lý,
chế độ nghiệp vụ lưu trữ; hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện các chế độ đó trong cả nước;
quản lý các cơ quan nghiên cứu
khoa học lưu trữ, các cơ sở đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ lưu trữ; trực
Các trung tâm lưu trữ quốc gia chỉ
quản lý tài liệu lưu trữ có ý nghĩa quốc
gia, không quản lý công tác lưu trữ (*)
Chưa thay đổi so với Pháp lệnh Lưu
trữ Quốc gia
47
tiếp quản lý các tài liệu lưu trữ có ý
nghĩa toàn quốc
Địa phƣơng
UBND chỉ đạo tổ chức, quản lý tài
liệu lưu trữ tại địa phương
Chủ tịch UBND các cấp quản lý thống
nhất công tác lưu trữ (*)
Văn phòng UBND các cấp giúp Chủ
tịch UBND quản lý công tác lưu trữ
trên địa bàn
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về lưu trữ ở địa
phương
Sở Nộ vụ, Phòng nội vụ các cấp giúp
UBND quản lý công tác lưu trữ (*)
Cơ quan lưu trữ thuộc Uỷ ban nhân
dân các cấp, quản lý công tác lưu
trữ và tài liệu lưu trữ trong địa
phương
Lưu trữ lịch sử các cấp gồm: Trung
tâm lưu trữ tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương, lưu trữ lịch sử huyện quản
lý tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ
tại địa phương. (*)
Tương tự như Pháp lệnh Lưu trữ Quốc
gia nhưng bỏ lưu trữ lịch sử cấp huyện
(*)
Bảng 3. So sánh thẩm quyền quản lý công tác lưu trữ trong quy định của Pháp lệnh, Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012
Ghi chú bảng:
(*) Quy định trong văn bản dưới luật, pháp lệnh
48
Theo thống kê và so sánh ở trên, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác
lưu trữ và tài liệu lưu trữ được thiết kế theo hệ thống cơ quan hành chính – hành pháp
và không có quy định nào thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của những tổ chức lưu trữ
tư. Riêng thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ của các cơ quan trong hệ thống Đảng
cộng sản Việt Nam được giao cho Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương đảng thực hiện
theo quy định của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ. Điều đó, một lần nữa,
là biểu hiện của sự phân tách và mâu thuẫn với nguyên tắc quản lý tập trung, thống
nhất công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ đã được đặt ra từ quy định của Pháp lệnh Bảo
vệ tài liệu lưu trữ.
Các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý thống nhất về công tác lưu trữ ở trung
ương và địa phương đều thuộc về cơ quan quản lý hành chính – hành pháp cao nhất ở
mỗi cấp nên về cơ bản không thay đổi. Sự thay đổi cơ quan chuyên môn, tham mưu,
giúp việc cho cơ quan quản lý hành chính cao nhất không những không thể hiện rõ sự
thay đổi mục tiêu tổng quát quản lý nhà nước mà còn khiến cho công tác lưu trữ càng
có xu hướng trở thành hoạt động phục vụ nhà nước. Bởi lẽ, khi giao công tác lưu trữ
cho cơ quan Bộ có chức năng chính là quản lý các vấn đề thuộc hoạt động nội bộ của
bộ máy nhà nước thì khả năng phục vụ của công tác lưu trữ đối với toàn xã hội càng
có nguy cơ bị giới hạn trong phục vụ hoạt động của chính nhà nước. Quan điểm này
được khẳng định trong bài viết của nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Văn Tất Thu trong
giai đoạn chuẩn bị ban hành Luật Lưu trữ: "Công tác lưu trữ là sự nghiệp chính trị thể
hiện ở chính bản thân nó làm nhiệm vụ bảo quản và tổ chức sử dụng các tài liệu có ý
nghĩa chính trị, phục vụ trước hết cho lợi ích của nhà nước, của giai cấp, của Đảng
cầm quyền. Ngoài ra, tính chất chính trị của công tác lưu trữ còn thể hiện ở nội hàm
tính chất có mật của nó" (TS. Văn Tất Thu 2011).
Nội dung quản lý về công tác lưu trữ được đề cập chủ yếu trong Pháp lệnh Lưu
trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ nhưng một số nội dung bị lược bỏ và thay đổi:
Bảng 4. So sánh nội dung quy định về quản lý nhà nước công tác lưu trữ trong Pháp
lệnh Lưu trữ Quốc gia và Luật Lưu trữ
Văn bản/Vấn đề Giống nhau Khác nhau
Pháp lệnh Lƣu
trữ Quốc gia
- Quy định trách nhiệm
quản lý về công tác lưu trữ
- Quy định quản lý nhà
nước về công tác lưu trữ
bao gồm hoạt động hợp
tác quốc tế
- Cụ thể hóa vấn đề hợp
Xác định nhiều vấn đề thuộc nội
dung quản lý nhà nước: lập kế
hoạch, ban hành văn bản, thống kê,
nghiên cứu khoa học, đào tạo cán
bộ,...
Luật Lƣu trữ Chỉ đề cập tới hai nội dung cơ bản
là: kinh phí, nhân lực cho công tác
49
tác quốc tế trong lưu trữ
thành nguyên tắc thực
hiện và các nội dung hợp
tác cơ bản
lưu trữ và hợp tác quốc tế về lưu trữ
Tuyên bố thêm về chính sách lưu
trữ, bao gồm thừa nhận quyền sở
hữu tài liệu lưu trữ
Nếu những nội dung quản lý nhà nước công tác lưu trữ được xác định trong Pháp lệnh
Lưu trữ Quốc gia quá rộng, bao trùm cả những nội dung chuyên môn của các đơn vị
sự nghiệp lưu trữ và cơ quan nghiên cứu thì sự lược bỏ những nội dung này trong Luật
Lưu trữ lại khiến cho hoạt động quản lý trở nên thiếu xác đáng và không rõ ràng. Việc
kiểm soát tài chính phục vụ công tác lưu trữ là hết sức cần thiết nên việc đưa vấn đề
này vào Luật Lưu trữ là có cơ sở. Tuy nhiên, cách đề cập tới nội dung quản lý nhà
nước trong Luật Lưu trữ khiến cho mục tiêu định hướng hoạt động phục vụ thông tin
cho cộng đồng và nhà nước bị coi nhẹ so với quản lý tài chính và đối ngoại, từ đó tính
chất của công tác lưu trữ có nguy cơ bị thay đổi theo hướng không còn phù hợp với lý
do tồn tại của nó. Trong khi đó, chính sách phát triển ngành lưu trữ cũng chỉ đề cập tới
đầu tư tài chính và nhân lực cùng với điều khoản không rõ ràng về việc công nhận
quyền sở hữu tài liệu lưu trữ chưa đủ phản ảnh mục tiêu tổng quát của nhà nước đối
với sự phục vụ của ngành lưu trữ đối với xã hội.
Mặc dù có những thay đổi như vậy nhưng quan điểm chung của những quy định
này đều cho thấy vai trò trung tâm của nhà nước trong quản lý nhà nước về công tác
lưu trữ. Sự tham gia của người dân, trước hết là các cơ quan nghiên cứu, các nhà
nghiên cứu, các chủ sở hữu tài liệu vào quá trình quản lý nhà nước công tác lưu trữ
hoàn toàn không được thể hiện.
3.3.2. Nhóm quy định về trách nhiệm của các cơ quan lưu trữ trong quản lý và thực
hiện các nghiệp vụ lưu trữ
Vì các vấn đề nghiệp vụ lưu trữ tương đối tỷ mỷ và có tính chất chuyên môn sâu
nên thường được quy định trong các văn bản hướng dẫn dưới Luật, Pháp lệnh. Song,
trong các ba văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của ngành lưu trữ trong giai đoạn 1986
– 2012 vẫn đề cập một cách phân tán trong từng phần quy định về nghiệp vụ lưu trữ,
qua đó từng bước xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý công tác lưu trữ và cơ
quan quản lý tài liệu ở những mức độ khác nhau.
50
Bảng 5. So sánh quy định trách nhiệm về nghiệp vụ lưu trữ trong các Pháp lệnh và
Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 - 2012
Văn bản Cơ quan Thu thập,
bổ sung
Bảo quản Xác định
giá trị
Chỉnh lý
Pháp
lệnh Bảo
vệ tài liệu
lƣu trữ
Hội đồng bộ
trưởng 0 + + 0
Cơ quan lưu trữ
* * * *
Cơ quan, tổ
chức, cá nhân + * * *
Pháp
lệnh Lƣu
trữ Quốc
gia
Chính phủ + 0 + 0
Cơ quan lưu
trữ Đảng + 0 0 0
Cơ quan lưu
trữ Nhà nước + * * *
Cơ quan lưu
trữ trung ương 0 + 0 0
Người đứng
đầu cơ quan, tổ chức
+ * + 0
Luật
Lƣu trữ
Người được
giao thực hiện
công việc
+ 0 * *
Người đứng
đầu cơ quan, tổ chức
+ * *
Lưu trữ cơ quan
+ * *
Lưu trữ lịch sử + * *
Bộ Nội vụ 0 0 + 0
Lưu trữ lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam
+ 0 0 0
Lưu trữ lịch sử
Nhà nước Việt
Nam
+ * *
Ghi chú bảng:
+ Có quy định trong văn bản
* Quy định trong văn bản dưới luật, pháp lệnh
0 Không quy định
51
Như thế, các quy định về thẩm quyền quản lý nghiệp vụ lưu trữ của các cơ quan
trung ương đã có sự chuyển hướng từ việc tập trung quản lý và quy định chế độ bảo
quản, quản lý tài liệu tại cơ quan lưu trữ sang thiết lập nguyên tắc thu thập, bổ sung và
xác định giá trị. Điều này phản ảnh sự thay đổi tích cực trong quan điểm quản lý
nghiệp vụ lưu trữ. Bởi lẽ, các nghiệp vụ xác định giá trị và thu thập, bổ sung tài liệu là
những nghiệp vụ cơ bản, chịu sự chi phối và cần sự tham gia của nhiều cơ quan, bao
gồm cơ quan lưu trữ và các cơ quan hình thành nên tài liệu. Cho nên, những quy định
về thu thập, bổ sung và xác định giá trị không đơn thuần là quy định về nghiệp vụ, mà
phải có tác dụng điều chỉnh cả mối quan hệ giữa cơ quan lưu trữ và các cơ quan là
nguồn nộp lưu. Trong khi đó, những quy định về trách nhiệm chỉnh lý và bảo quản
được tập trung hơn vào các cơ quan lưu trữ, cơ quan là nguồn nộp lưu vì những cơ
quan này liên quan trực tiếp tới sự hình thành và số phận của tài liệu. Vì thế, những
điều chỉnh của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và sự kế thừa của Luật Lưu trữ cho thấy
quan điểm quản lý nhà nước ngày càng tập trung vào bản chất của hoạt động lưu trữ.
Ngoài quy định trách nhiệm cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức liên quan về việc
quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ, các Pháp lệnh, Luật về lưu trữ cũng có những
quy định khác về nghiệp vụ, chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
- Thời hạn giao nộp tài liệu
- Quản lý tài liệu khi cơ quan chia tách, sáp nhập, giải thể
- Thủ tục tiêu hủy tài liệu
- Việc bảo quản tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ chuyên dụng
Nhìn chung, bên cạnh những quy định trong Pháp lệnh, Luật, văn bản quy phạm
pháp luật quy định về nghiệp vụ và văn bản hướng dẫn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ cao nhất
trong hệ thống văn bản được ban hành thời kỳ 1986 – 2012 (xem biểu đồ 2 và biểu đồ
3). Số lượng cá nhân, tổ chức được quy định trách nhiệm trong quản lý và thực hiện
nghiệp vụ lưu trữ tăng dần qua từng Pháp lệnh, Luật cho thấy những thay đổi trong
quan niệm của các nhà xây dựng luật về phạm vi thực hiện công tác lưu trữ và vai trò
của nó trong xã hội theo hướng ngày càng mở rộng. Việc các quy định và hướng dẫn
nghiệp vụ trên đây tập trung chính vào hoạt động của các cơ quan lưu trữ nhà nước và
các công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước cho thấy khoảng trống về quy định
nghiệp vụ cho khu vực phi nhà nước, thậm chí là các cơ quan, tổ chức do hệ thống cơ
quan Đảng cộng sản Việt Nam quản lý. Đặc điểm đáng lưu ý là tuy những quy định và
hướng dẫn về nghiệp vụ về lưu trữ chiếm số lượng không nhỏ và đặc biệt gia tăng từ
giữa những năm 1990 đến 2011, nhưng trong các văn bản này không đề cập tới các
chế tài xử phạt nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện đúng với quy định của
Nhà nước. Khi các cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định nhưng không có chế tài
52
kèm theo thì không những không đảm bảo thực thi nghiêm túc mà còn thể hiện sự
thiếu triệt để trong quan điểm quản lý của những người xây dựng và ban hành văn bản.
Nói cách khác, những quy định về nghiệp vụ tuy ngày càng cụ thể và đề cập tới nhiều
nội dung quan trọng trong hoạt động lưu trữ nhưng vẫn cho thấy quan điểm thiếu rõ
ràng và kiên quyết trong quản lý nghiệp vụ.
3.3.3. Nhóm quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ
Quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ có vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, thông
qua sử dụng tài liệu lưu trữ, công tác lưu trữ sẽ thể hiện được tầm quan trọng và vị trí
trong xã hội. Cho nên, các quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ không những ảnh
hưởng tới khả năng tiếp cận thông tin, tài liệu của người dân cũng như khả năng phục
vụ của cơ quan lưu trữ mà còn cho thấy quan điểm của các cấp lãnh đạo về việc quản
lý, định hướng mục tiêu, đối tượng phục vụ chính của công tác lưu trữ.
Về quyền được sử dụng tài liệu, các Pháp lệnh và Luật về lưu trữ đều công nhận
quyền được sử dụng tài liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân để phục vụ các hoạt động
công tác, nghiên cứu và nhu cầu chính đáng theo quy định của pháp luật:
Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lƣu trữ Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia Luật Lƣu trữ
Các cơ quan của Đảng và Nhà nước,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân được sử dụng tài liệu lưu trữ
quốc gia để phục vụ các nhu cầu
công tác và nghiên cứu khoa học.
Công dân Việt Nam được sử dụng
tài liệu lưu trữ quốc gia vào các nhu
cầu chính đáng theo quy định của
Hội đồng bộ trưởng.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
quyền khai thác, sử dụng tài
liệu lưu trữ quốc gia để phục
vụ nhu cầu công tác, nghiên
cứu khoa học và các nhu cầu
chính đáng khác;đồng thời có
trách nhiệm thực hiện các quy
định của Pháp lệnh này và
các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
Cơ quan, tổ
chức, cá nhân
có quyền sử
dụng tài liệu
lưu trữ để phục
vụ công tác,
nghiên cứu
khoa học, lịch
sử và các nhu
cầu chính đáng
khác
Bắt đầu từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia trách nhiệm của cơ quan lưu trữ lịch sử
trong việc phục vụ toàn xã hội sử dụng tài liệu được tuyên bố rõ ràng. Điều 18 của
Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia quy định như sau:
"1-Tài liệu lưu trữ tại lưu trữ lịch sử được khai thác, sử dụng rộng rãi cho yêucầu
nghiên cứu của toàn xã hội, trừ tài liệu lưu trữ thuộc danh mục bí mật Nhànước, tài
liệu lưu trữ đặc biệt quý, hiếm.
53
2-Người đứng đầu lưu trữ lịch sử phải thông báo, giới thiệu danh mục tài liệu lưutrữ
để phục vụ việc khai thác, sử dụng."
Bổ sung so với Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia, Luật Lưu trữ quy định trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức có tài liệu lưu trữ là:
" a) Chủ động giới thiệu tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài
liệu lưu trữ đang trực tiếp quản lý;
b) Hằng năm rà soát, thông báo tài liệu lưu trữ thuộc Danh mục tài liệu có đóng dấu
chỉ các mức độ mật đã được giải mật."
Như thế, những quy định về quyền của cá nhân, tổ chức trong sử dụng và trách
nhiệm của cơ quan lưu trữ trong phục vụ sử dụng tài liệu đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để người dân được tiếp cận tài liệu.
Ngoài ra, các văn bản này còn quy thẩm quyền của các cơ quan lưu trữ và cơ
quan quản lý về công bố tài liệu, cho phép sử dụng tài liệu hạn chế tiếp cận, chứng
thực tài liệu việc sử dụng tài liệu có dấu chỉ mức độ mật, đem tài liệu ra nước ngoài, ...
Các quy định này đều hướng đến những vấn đề có tính nguyên tắc, bắt buộc nhằm
đảm bảo khả năng kiểm soát của Nhà nước và các cơ quan lưu trữ đối với việc sử
dụng tài liệu để đảm bảo toàn vẹn cho tài liệu và thông tin trong tài liệu, bảo vệ bí mật
nhà nước và một phần bí mật của cá nhân.
Về cơ bản, những quy định trên chủ yếu xác lập quy tắc ứng xử của cá nhân, tổ
chức, cơ quan trong hoạt động lưu trữ. Tuy nhiên, việc từng bước bổ sung các quy
định trách nhiệm và ngày càng cụ thể trách nhiệm này trong mỗi nhóm quy định qua
từng văn bản song song với các tuyên bố về nguyên tắc quản lý nhà nước hoặc chính
sách về lưu trữ đã cho thấy hai khía cạnh quan trọng trong quan điểm quản lý nhà
nước công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2012:
Một là, các cơ quan nhà nước, từ cán bộ lưu trữ tới lãnh đạo có thẩm quyền đều
phải có trách nhiệm quản lý tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ. Trong đó, nhà nước là
cơ quan có trách nhiệm chính trong thực hiện và quản lý công tác lưu trữ. Nói cách
khác, Nhà nước là chủ thể chính trong quản lý tài liệu và quản lý công tác lưu trữ.
Hai là, bên cạnh các quyền về sử dụng tài liệu, cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng
phải thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đối bảo vệ tài liệu lưu trữ.
3.4. Hệ quan điểm
Nếu hệ chuẩn mực xác định các hành vi được hoặc phải thực hiện của những
nhóm đối tượng cụ thể trong công tác lưu trữ như cơ quan lưu trữ, cơ quan quản lý về
54
lưu trữ, tổ chức, cá nhân sử dụng tài liệu,... thì hệ quan điểm xác định rõ những hành
vi được hoặc không được làm cho tất cả các đối tượng trong xã hội. Qua đó, các cơ
quan xây dựng và ban hành văn bản thể hiện thái độ ủng hộ hoặc phản đối những hành
vi cụ thể về lưu trữ. Điều đó được biểu hiện rõ qua những quy định khuyến khích hoặc
nghiêm cấm trong văn bản có giá trị pháp lý cao.
Bảng 5. Các hành vi được khuyến khích hoặc nghiêm cấm thực hiện trong quy định
của Pháp lệnh, Luật về lưu trữ thời kỳ 1986 - 2012
Thái độ/Văn bản Pháp lệnh Bảo vệ
tài liệu lƣu trữ
Pháp lệnh lƣu trữ
Quốc gia
Luật Lƣu trữ
Khuyến khích
Khuyến khích việc ký gửi, tặng tài liệu
riêng của cá nhân,
gia đình, dòng họ và tập thể vào các
cơ quan lưu trữ Nhà
nước;
- Khuyến khích việc mở rộng quan
hệ hợp tác với các
tổ chức, cá nhân nước ngoài trong
việc thu thập, quản
lý, bảo vệ và khai
thác, sử dụng tài liệu lưu trữ quốc
gia;
- Khuyến khích việc tặng cho, ký
gửi tài liệu riêng
của cá nhân, gia
đình, dòng họ cho cơ quan lưu trữ;
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân hiến
tặng, ký gửi, bán tài
liệu lưu trữ của mình cho Nhà
nước;
- Khuyến khích
thực hiện hoạt động dịch vụ lưu trữ;
- Khuyến khích tổ
chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá
nhân ngoài nước
đóng góp, tài trợ
cho việc bảo vệ và phát huy giá trị tài
liệu lưu trữ;
Nghiêm cấm
- Không một cơ quan, tập thể hoặc
cá nhân nào được
chiếm tài liệu lưu trữ làm của riêng;
- Nghiêm cấm việc
mua bán, trao đổi,
cất giữ, tiêu huỷ trái phép tài liệu lưu trữ
quốc gia hoặc sử
dụng vào các mục đích trái với lợi ích
của Nhà nước;
- Cấm cá nhân, gia
đình, dòng họ, và tập thể chuyển tài
- Nghiêm cấm việc mang tài liệu lưu
trữ đặc biệt quý,
hiếm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, trong
trường hợp đặc biệt
được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cho phép thì
chỉ được mang bản
sao; - Nghiêm cấm việc
chiếm giữ, tiêu hủy
trái phép, làm hư
hại tài liệu lưu trữ quốc gia hoặc sử
- Chiếm đoạt, làm hỏng, làm mất tài
liệu lưu trữ;
- Làm giả, sửa chữa, làm sai lệch
nội dung tài liệu lưu
trữ;
- Mua bán, chuyển giao, hủy trái phép
tài liệu lưu trữ.
- Sử dụng tài liệu lưu trữ vào mục
đích xâm phạm lợi
ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
55
liệu lưu trữ ra nước ngoài dưới mọi
hình thức; trong
trường hợp muốn
bán thì chỉ được bán cho cơ quan lưu
trữ Nhà nước;
- Cấm mang tài liệu
lưu trữ quốc gia ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam, trừ trường
hợp có giấy phép của cơ quan được
Hội đồng bộ trưởng
uỷ nhiệm và chỉ
được mang bản sao
dụng tài liệu lưu trữ quốc gia vào mục
đích trái với lợi ích
của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân;
quan, tổ chức, cá nhân.
- Mang tài liệu lưu
trữ ra nước ngoài
trái phép;
So sánh trên đây cho thấy những vấn đề được khuyến khích hoặc nghiêm cấm
qua các thời kỳ trong giai đoạn 1986 – 2012 không thay đổi vể cơ bản, chỉ bổ sung
thêm hoặc làm rõ hơn. Những dòng gạch chân trong bảng trên là nội dung được bổ
sung mới so với những văn bản trước. Những hoạt động được khuyến khích chủ yếu
tập trung vào việc ký gửi hoặc chuyển đổi sở hữu tài liệu lưu trữ của người dân cho
nhà nước, và các hành vi bị nghiêm cấm hướng vào những hành vi gây tổn hại tới tài
liệu hoặc hành vi sử dụng tài liệu gây tổn hại tới lợi ích của quốc gia, cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Riêng Luật Lưu trữ đã bổ sung thêm quy định khuyến khích thực hiện dịch
vụ lưu trữ, tài trợ cho hoạt động lưu trữ cho thấy quan điểm tạo cơ chế mở cho việc
huy động nguồn lực và mở rộng thâm nhập của các cơ quan lưu trữ vào xã hội. Đồng
thời, bổ sung nghiêm cấm việc làm giả hoặc sai lệch nội dung tài liệu lưu trữ là phù
hợp với thực tế, nhất là trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi như
hiện nay. Tuy nhiên, quan điểm mở rộng hoạt động và nguồn lực của các lưu trữ theo
hướng như trên cần xem xét thêm bởi lẽ các cơ quan lưu trữ nên chú trọng hình thức
phục vụ đối với cộng đồng phù hợp với việc thực hiện chức năng cơ bản và giá trị cốt
lõi của ngành lưu trữ. Đồng thời, người dân cũng nên được nhìn nhận với vai trò đa
dạng hơn, không chỉ là cơ quan, tổ chức có thể đóng góp nguồn lực hoặc hiến tặng tài
liệu cho cơ quan lưu trữ. Những yếu tố đó đều thuộc về quan điểm về triết lý của
ngành mà các nhà lãnh đạo, cơ quan xây dựng và ban hành văn bản cần suy xét
nghiêm túc.
56
3.5. Triết lý
Như đã trình bày ở khái niệm, triết lý của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ
là quan điểm rõ ràng của cơ quan quản lý nhà nước về mục đích, lý do thực hiện công
tác lưu trữ cũng như thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác này. Trong giai đoạn
1986 – 2012 với hai thời kỳ chính là 1986 – 2000 và 2001 – 2012, triết lý của công tác
lưu trữ và quản lý nhà nước về công tác lưu trữ cũng thay đổi:
3.5.1. Thời kỳ 1986 – 2000
Thời kỳ này các khái niệm, quan điểm và chuẩn mực đều xoay quanh vai trò và
lợi ích của nhà nước trong công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ. Tổng kết
những trình bày ở trên phản ảnh đầy đủ bức tranh quan điểm về quản lý nhà nước
công tác lưu trữ thời kỳ này, từ đó triết lý quản lý được bộc lộ trực tiếp và rõ ràng.
Theo những tổng kết ở trên, khái niệm trung tâm được định nghĩa trong thời kỳ này là
"tài liệu lưu trữ" với sự tập trung cao vào chủ thể tạo thành là các cơ quan đảng, nhà
nước. Vấn đề sở hữu tài liệu được đặt ra và xác định là "sở hữu của toàn dân", đồng
thời nghiêm cấm "chiếm tài liệu lưu trữ làm của riêng". Nguyên tắc quản lý nhà nước
công tác lưu trữ là "tập trung, thống nhất" với vai trò chủ đạo của Hội đồng bộ trưởng
trong việc quyết định các chế độ quản lý công tác lưu trữ và các lưu trữ trung ương
trong quản lý nghiệp vụ cũng như quản lý tài liệu lưu trữ. Việc sử dụng tài liệu lưu trữ
không được phép "trái với lợi ích của Nhà nước", lợi ích của công dân chưa được đề
cập. Tài liệu riêng của cá nhân, gia đình, dòng họ được khuyến khích ký gửi, hiến tặng
nhưng nếu bán thì "chỉ được bán cho cơ quan lưu trữ nhà nước". Bằng cách sử dụng
liên tiếp danh từ "nhà nước" hoặc tên các cơ quan quản lý tài liệu như "cơ quan lưu trữ
nhà nước" hay cơ quan quản lý như Hội đồng bộ trưởng với mức độ thường xuyên (1
lần/câu), Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ và những văn bản hướng dẫn thời kỳ 1986 –
2000 đã đặt Nhà nước là trung tâm của công tác lưu trữ cũng như quản lý công tác lưu
trữ giai đoạn này. Và Nhà nước với hệ thống các cơ quan, tổ chức dưới sự chỉ đạo của
Đảng cầm quyền đã trở thành chủ thể tạo ra tài liệu lưu trữ, chủ thể lưu giữ cũng như
sử dụng tài liệu lưu trữ. Cho nên, có thể coi triết lý của quản lý nhà nước công tác lưu
trữ thời kỳ này là: quản lý công tác lưu trữ cho nhà nước và phục vụ nhà nước.
Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000 được khái
quát trong mô hình sau:
57
Hình 2: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000
3.5.2. Thời kỳ 2001 – 2012
Mặc dù vẫn thực hiện quản lý công tác lưu trữ theo tinh thần của Pháp lệnh Bảo
vệ bí mật nhà nước đến khi văn bản này bị thay thế năm 2001, nhưng công tác lưu trữ
đã bắt đầu có những khởi sắc sau Thông tư số 04/1998/TT-TCCB ngày 24 tháng 1
năm 1998 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ về việc Hướng dẫn tổ chức lưu trữ ở
cơ quan nhà nước các cấp. Những thay đổi của thực tiễn công tác lưu trữ trong bối
cảnh kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới đã dẫn tới sự ra đời của Pháp lệnh
Lưu trữ Quốc gia năm 2001. Luật Lưu trữ ra đời năm 2011 là sự kế thừa tương đối đầy
đủ của những văn bản được ban hành từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia với sự bổ sung,
sửa đổi một số điểm. Những thay đổi từ khái niệm, tới chuẩn mực và quan điểm về
công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ trong hai văn bản ban hành sau so với
Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ cho thấy sự chuyển dịch về quan điểm, trong đó từng
bước loại bỏ quan niệm "sở hữu toàn dân" đến "thừa nhận quyền sở hữu đối với tài
liệu lưu trữ", từ khẳng định lại nguyên tắc quản lý "tập trung, thống nhất" công tác lưu
trữ tới việc xác định trách nhiệm đối với tài liệu, hồ sơ đối với các đối tượng liên quan,
từ cán bộ, công chức tới Chính phủ, cơ quan, tổ chức, công dân. Quyền sử dụng tài
liệu để phục vụ mục đích chính đáng cũng được khẳng định. Sự phân tách thẩm quyền
quản lý tài liệu và nghiệp vụ giữa cơ quan lưu trữ nhà nước và cơ quan lưu trữ đảng
bắt đầu thể hiện sự mâu thuẫn trong nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất như đã
đề cập từ năm 1982.
Triết lý: Quản l{ công tác lưu trữ cho nhà nước và vì nhà nước
Quan điểm: ủng hộ giao nộp, quản l{ tài liệu lưu trữ tập trung tron g các lưu trữ
nhà nước; nghiêm cấm sử dụng tài liệu gây hại cho nhà nước
Chuẩn mực: thực hiện đúng nguyên tắc quản l{ tài liệu tập trung dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bộ trưởng và hướng dẫn
của các cơ quan lưu trữ quốc gia
Khái niệm: "Tài liệu lưu trữ" với chủ thể tạo thành là cơ quan đảng, nhà nước; chủ
thể sở hữu là toàn dân;
58
Tuy nhiên, về cơ bản, những quy định thời kỳ này với tinh thần của Pháp lệnh
Lưu trữ Quốc gia và kế thừa trong Luật Lưu trữ vẫn tập trung vào chế độ nghiệp vụ
của các lưu trữ nhà nước, phục vụ nhà nước. Từ các định nghĩa trong hệ khái niệm, tới
các quy định trong hệ chuẩn mực, các tuyên bố khuyến khích hoặc nghiêm cấm trong
hệ quan điểm đều thể hiện vai trò chủ thể của Nhà nước trong ba nội dung: Chủ thể
đầu tư, chủ thể quản lý công tác lưu trữ, và chủ thể thực hiện hoạt động lưu trữ. Cho
nên, nhà nước vẫn là trung tâm của công tác lưu trữ và quản lý công tác lưu trữ nhưng
có xem xét tới sự tác động của nền kinh tế thị trường và yêu cầu dân chủ, dẫn đến triết
lý quản lý nhà nước thời kỳ này là: Quản lý công tác lưu trữ phục vụ trước hết cho nhà
nước và các nhu cầu chính đáng của công dân, tạo điều kiện cho người dân tham gia
hoạt động lưu trữ. Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 2001-2012
được khái quát là:
Hình 3: Cấu trúc quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thời kỳ 2001-2012
Triết lý: Quản l{ công tác lưu trữ trước hết phục vụ nhà nước và các nhu cầu
chính đáng của công dân, công dân tham gia thực hiện hoạt động lưu trữ
Quan điểm: ủng hộ giao nộp, quản l{ tài liệu lưu trữ tập trung trong các lưu trữ nhà nước, có thừa nhận việc sở hữu và tự quản l{ tài liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Chuẩn mực: thực hiện đúng nguyên tắc quản l{ tài liệu tập trung và thống nhất nghiệp vụ dưới sự chỉ đạo của cơ quan
quản l{ nhà nước có thẩm quyền
Khái niệm: "Tài liệu lưu trữ" với chủ thể tạo thành và chủ thể sở hữu đa dạng
59
CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ VÀ SỰ THAM GIA CỦA NHÂN DÂN
TRONG CÔNG TÁC LƢU TRỮ
Công tác lưu trữ là một khái niệm rộng, bao gồm tất cả mọi vấn đề liên quan
đến việc phát triển ngành, từ quản lý nhà nước đến thực hiện các nghiệp vụ. Mặc dù có
những quan điểm cho rằng công tác lưu trữ phải phục vụ trước hết cho nhà nước như
bài viết của Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Hội thảo Pháp luật lưu trữ, nhưng
thực tiễn và lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ rằng cách tiếp cận như vậy không những đã
và đang hạn chế khả năng phát triển của ngành, mà còn khiến cho ngành lưu trữ không
thể hiện được vai trò tích cực trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội và về bản
chất, công tác lưu trữ phải đảm nhiệm. Trong lúc các tuyên ngôn chính trị của Đảng và
Nhà nước coi dân chủ là mục tiêu chính trị hàng đầu thì việc khẳng định và tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia vào công tác lưu trữ vừa góp phần thực hiện mục tiêu
chính trị đó, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công tác lưu trữ Việt Nam cần huy
động các nguồn lực trong nhân dân. Tuy nhiên, nhân dân là ai, họ được tham gia như
thế nào và có thể tham gia trong những điều kiện nào và lợi ích có được chia sẻ công
bằng với họ không lại phụ thuộc rất lớn vào quan điểm của cơ quan có thẩm quyền về
vai trò của nhân dân, biểu hiện trước hết qua cá văn bản quy phạm pháp luật. Chương
4 sẽ tập trung tìm kiếm những cứ liệu về vấn đề này trong pháp luật lưu trữ.
Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: "Nhân dân là bộ
phận đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu
là những người lao động, phân biệt với bộ phận khác là giai cấp, tầng lớp thống trị xã
hội" (Nguyễn Như Ý 1998, 1283). Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn cũng
đưa ra ý nghĩa tương tự. Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích: "Theo nghĩa thông
thường, nhân dân là toàn thể cư dân của một nước. Nhân dân luôn có tính lịch sử cụ
thể. Trong cộng đồng nguyên thủy, nhân dân đồng nghĩa với cư dân. Trong xã hội có
đối kháng giai cấp, thành phần của nhân dân thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
Nhân dân không bao hàm trong nó giai cấp thống trị thi hành chính sách chống nhân
dân. Quan điểm lịch sử cụ thể về nhân dân có ý nghĩa trọng yếu đối với Đảng cộng
sản trong việc xác định chủ trương, chính sách nhằm động viên tất cả mọi lực lượng
có thể tập hợp được trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội" (Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa 2003, 232).Từ điển Oxford
lại xác định khái niệm "nhân dân" (trong tiếng Anh) với nhiều cách hiểu. Theo đó,
"nhân dân là mọi người nói chung", là "công dân của một quốc gia", là "những người
không giữ vị trí lãnh lạo trong xã hội", "những người bị người khác lãnh đạo", và
"những người làm việc trong những lĩnh vực chuyên môn hay để hỗ trợ người khác"
(Oxford University 2015). Như thế, dù trong tiếng Việt hay tiếng Anh, khái niệm
"nhân dân" đều được dùng để chỉ những công dân, người lao động nói chung, những
60
người dưới quyền của các nhà lãnh đạo và quản lý, không có địa vị và quyền lực trong
xã hội.
Khái niệm "nhân dân" là một khái niệm có ý nghĩa nhân văn bởi đó là cách gọi
chung cho đông đảo mọi người trong xã hội một cách tôn trọng, từ cấp độ cá nhân đến
nhóm người. Cho nên, "nhân dân" là một khái niệm khá đặc trưng của những quốc gia
có thể chế chính trị dân chủ hay coi dân chủ là mục tiêu hoặc tuyên ngôn chính trị của
nhà nước, trong đó có Việt Nam. Các tuyên ngôn chính trị của Đảng cộng sản Việt
Nam và các bản Hiến pháp đều sử dụng chung khái niệm nhân dân với nghĩa rộng lớn
là tất cả mọi công dân của Quốc gia Việt Nam và mọi người dân có nguồn gốc Việt
Nam. Đáng lưu ý trong số đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ nhân dân bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các nhà
doanh nghiệp, các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài (Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam 2012).
Quan điểm về vai trò và lợi ích của nhân dân trong những quy định pháp luật về
lưu trữ cũng được phân tích theo cấu trúc phân tầng. Cụ thể như sau:
4.1. Hệ khái niệm
Những khái niệm đã được thống kê ở chương 3 sẽ được phân tích nội dung
thông qua xác định các từ, cụm từ thể hiện mức độ tham gia của nhân dân trong nội
dung các định nghĩa của khái niệm. Những từ, cụm từ chỉ mức độ tham gia đến nhân
dân được gạch chân ở bảng kê dưới dây.
Bảng 6: Liệt kê nội dung định nghĩa liên quan tới nhân dân
Khái niệm Pháp lệnh
bảo vệ tài liệu
lƣu trữ 1982
Pháp lệnh Lƣu trữ
Quốc gia 2001
Luật Lƣu trữ 2011
Tài liệu không đề cập là vật mang tin hình thành
trong quá trình hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá
nhân
Tài liệu lưu
trữ
Tài liệu lưu
trữ quốc gia là
tài liệu có giá
trị về chính trị,
quân sự, kinh
tế, văn hoá,
Tàiliệu lưu trữ quốc gia
là tài liệu có giá trị về
chính trị, kinh tế, quốc
phòng,an ninh, ngoại
giao, văn hóa, giáo dục,
khoa học và công nghệ
Tài liệu lưu trữ là tài liệu
có giá trị phục vụ hoạt
động thực tiễn, nghiên
cứu khoa học, lịch sử
được lựa chọn để lưu trữ .
61
giáo dục, xã
hội, khoa học,
kỹ thuật, được
hình thành
trong quá trình
hoạt động của
các cơ quan
Đảng và Nhà
nước, tổ chức
xã hội, đơn vị
vũ trang và
các nhân vật,
trải qua các
thời kỳ lịch sử
của dân tộc
Việt Nam,
phục vụ việc
nghiên cứu
lịch sử, khoa
học và công
tác thực tiễn.
Tài liệu lưu
trữ quốc gia
phải là bản
chính của văn
kiện hoặc tài
liệu khác ghi
trên giấy,
phim, ảnh,
băng, đĩa ghi
âm, hoặc bằng
các phương
pháp ghi tin
khác; trong
trường hợp
không còn bản
chính mới
được thay thế
bằng bản sao
được hình thành trong
các thời kỳ lịch sử của
dân tộc Việt Nam, trong
quá trình hoạt động
củacác cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân(sau đây
gọi chung là cơ quan, tổ
chức) và các nhân vật
lịch sử, tiêu biểu phục vụ
việc nghiên cứu lịch sử,
khoa học và hoạt động
thực tiễn.
Tài liệu lưu trữ quốc gia
phải là bản chính, bản
gốc của tài liệu được ghi
trêngiấy, phim, ảnh, băng
hình, đĩa hình, băng âm
thanh, đĩa âm thanh hoặc
các vậtmang tin khác;
trong trường hợp không
còn bản chính, bản gốc
thì được thay thế bằng
bản sao hợp pháp.
Tài liệu lưu trữ bao gồm
bản gốc, bản chính; trong
trường hợp không còn
bản gốc, bản chính thì
được thay thế bằng bản
sao hợp pháp
62
có giá trị như
bản chính.
Phông Lưu
trữ Quốc gia
Việt Nam
(định nghĩa
trong Quyết
định
168/HĐBT
ngày
26/12/1981
của Hội đồng
Bộ trưởng về
việc thành lập
Phông Lưu trữ
Quốc gia Việt
Nam)
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam,
không phân biệt thời
gian, xuất xứ, chế độ xã
hội, nơi bảo quản, kỹ
thuật làm ra tài liệu đó.
Phông lưu trữ quốc gia
Việt Nam bao gồm
Phông lưu trữ Đảng
Cộng sản Việt Nam và
Phông lưu trữ Nhà nước
Việt Nam.
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
của nước Việt Nam,
không phụ thuộc vào thời
gian hình thành, nơi bảo
quản, chế độ chính trị - xã
hội, kỹ thuật ghi tin và
vật mang tin.
Phông lưu trữ quốc gia
Việt Nam bao gồm Phông
lưu trữ Đảng Cộng sản
Việt Nam và Phông lưu
trữ Nhà nước Việt Nam.
Phông Lưu
trữ Nhà nước
Việt Nam
không đề cập
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
được hình thành trong
quá trình hoạt động của
các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội,tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân, các nhân
vật lịch sử, tiêu biểu và
tài liệu khác có giá trị về
các lĩnh vực quyđịnh tại
Điều 1 của Pháp lệnh này
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
được hình thành trong
quá trình hoạt động của
các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân dân, nhân
vật lịch sử, tiêu biểu và
tài liệu khác được hình
thành qua các thời kỳ lịch
sử của đất nước.
Phông Lưu
trữ Đảng
Cộng sản Việt
Nam
không đề cập
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
được hình thành trong
quá trình hoạt động của
các cơ quan, tổ chức của
Đảng Cộng sảnViệt
Nam, tổ chức tiền thân
của Đảng, tổ chức chính
trị - xã hội; tài liệu về
thân thế, sự nghiệp và
Là toàn bộ tài liệu lưu trữ
được hình thành trong
quá trình hoạt động của
các tổ chức của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ
chức tiền thân của Đảng,
các tổ chức chính trị - xã
hội; các nhân vật lịch sử,
tiêu biểu của Đảng, tổ
63
hoạt động của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, của các
nhân vật lịch sử, tiêu
biểu của Đảng, các nhân
vật lịch sử, tiêu biểu của
Đảng đồng thời là các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Nhà nước, của các tổ
chức chính trị - xã hội.
chức tiền thân của Đảng
và của các tổ chức chính
trị - xã hội.
Lưu trữ hiện
hành
không đề cập
Là bộ phận lưu trữ của
cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thu thập, bảo
quản và phục vụ sử dụng
tài liệu lưu trữ được tiếp
nhận từ các đơn vị thuộc
cơ quan, tổ chức.
Là tổ chức thực hiện hoạt
động lưu trữ đối với tài
liệu lưu trữ của cơ quan,
tổ chức.
Lưu trữ lịch
sử
không đề cập
Là cơ quan lưu trữ có
nhiệm vụ thu thập, bảo
quản lâu dài và phục vụ
sử dụng tài liệu lưu trữ
được tiếp nhận từ lưu trữ
hiện hành và các nguồn
tài liệu khác
Là cơ quan thực hiện hoạt
động lưu trữ đối với tài
liệu lưu trữ có giá trị bảo
quản vĩnh viễn được tiếp
nhận từ Lưu trữ cơ quan
và từ các nguồn khác.
Bảo hiểm tài
liệu lưu trữ
không định
nghĩa
Là việc thực hiện các
biện pháp sao chụp,bảo
quản tài liệu lưu trữ tại
kho lưu trữ chuyên dụng
riêng biệt tách rời bản
chính, bản gốc đối với tài
liệu lưu trữ đặc biệt quý,
hiếm nhằm bảo vệ an
toàn tài liệu đó
Bản sao bảo hiểm tài liệu
lưu trữ là bản sao từ tài
liệu lưu trữ theo phương
pháp, tiêu chuẩn nhất
định nhằm lưu giữ bản
sao đó dự phòng khi có
rủi ro xảy ra đối với tài
liệu lưu trữ
Hồ sơ và lập
hồ sơ
không đề cập
không định nghĩa
Hồ sơ là một tập tài liệu
có liên quan với nhau về
một vấn đề, một sự việc,
một đối tượng cụ thể hoặc
có đặc điểm chung, hình
thành trong quá trình theo
64
dõi, giải quyết công việc
thuộc phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Lập hồ sơ là việc tập hợp,
sắp xếp tài liệu hình
thành trong quá trình theo
dõi, giải quyết công việc
của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thành hồ sơ theo
những nguyên tắc và
phương pháp nhất định.
Hoạt động
lưu trữ
không đề cập
Hoạt động lưu trữ là hoạt
động thu thập, chỉnh lý,
xác định giá trị, bảo quản,
thống kê, sử dụng tài liệu
lưu trữ
Thu thập tài
liệu
không đề cập
không định nghĩa
Thu thập tài liệu là quá
trình xác định nguồn tài
liệu, lựa chọn, giao nhận
tài liệu có giá trị để
chuyển vào Lưu trữ cơ
quan, Lưu trữ lịch sử.
Xác định giá
trị tài liệu
không đề cập
không định nghĩa
Xác định giá trị tài liệu là
việc đánh giá giá trị tài
liệu theo những nguyên
tắc, phương pháp, tiêu
chuẩn theo quy định của
cơ quan có thẩm quyền để
xác định những tài liệu có
giá trị lưu trữ, thời hạn
bảo quản và tài liệu hết
giá trị.
Chỉnh lý tài
liệu
không đề cập
không định nghĩa
Chỉnh lý tài liệu là việc
phân loại, xác định giá trị,
sắp xếp, thống kê, lập
công cụ tra cứu tài liệu
hình thành trong hoạt
65
động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Tài liệu lưu
trữ điện tử
không đề cập
không đề cập
Tài liệu lưu trữ điện tử là
tài liệu được tạo lập ở
dạng thông điệp dữ liệu
hình thành trong quá trình
hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân được lựa
chọn để lưu trữ hoặc
được số hóa từ tài liệu lưu
trữ trên các vật mang tin
khác.
Tài liệu có
giá trị bảo
quản vĩnh
viễn
không đề cập
không đề cập
Tài liệu bảo quản vĩnh
viễn là tài liệu có ý nghĩa
và giá trị không phụ
thuộc vào thời gian
Tài liệu có
giá trị bảo
quản có thời
hạn
không đề cập
không đề cập
Tài liệu bảo quản có thời
hạn là tài liệu không
thuộc trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều này
và được xác định thời hạn
bảo quản dưới 70 năm .
Tài liệu hết
giá trị
không định
nghĩa
không định nghĩa
Tài liệu hết giá trị cần
loại ra để hủy là tài liệu
có thông tin trùng lặp
hoặc đã hết thời hạn bảo
quản theo quy định và
không còn cần thiết cho
hoạt động thực tiễn,
nghiên cứu khoa học, lịch
sử.
Tài liệu lưu
trữ quý, hiếm
không định
nghĩa
không định nghĩa
không định nghĩa
Chứng thực
tài liệu lưu trữ
không đề cập
Chứng thực lưu trữ là xác
nhận của cơ quan, tổ chức
hoặc Lưu trữ lịch sử về
nội dung thông tin hoặc
66
bản sao tài liệu lưu trữ do
Lưu trữ cơ quan hoặc
Lưu trữ lịch sử đang quản
lý
Dịch vụ lưu
trữ
không đề cập
không đề cập
Các hoạt động dịch vụ
lưu trữ bao gồm:
a) Bảo quản, chỉnh lý, tu
bổ, khử trùng, khử axit,
khử nấm mốc, số hóa tài
liệu lưu trữ không thuộc
danh mục bí mật nhà
nước;
b) Nghiên cứu, tư vấn,
ứng dụng khoa học và
chuyển giao công nghệ
lưu trữ.
Quản lý nhà
nước về công
tác lưu trữ
/Quản lý về
lưu trữ
không định
nghĩa
Quản lý nhà nước công
tác lưu trữ bao gồm 9 nội
dung (điều 25)
không định nghĩa
Chứng chỉ
hành nghề lưu
trữ
không đề cập
không đề cập
không định nghĩa
Từ bảng 4, các từ và cụm từ đã gạch chân được quy ước về mức độ tham gia
của nhân dân. Mức độ tham gia của nhân dân thể hiện qua định nghĩa được quy định
trong luật. Nội dung của định nghĩa khẳng định vai trò hoặc thể hiện vị trí chủ thể của
nhân dân càng nhiều vào các nhiệm vụ của công tác lưu trữ thì mức độ tham gia càng
lớn. Những từ, cụm từ trong nội dung của các định nghĩa đề cập tới vai trò và sự tham
gia của nhân dân bao gồm việc xác định nhân dân là chủ thể tạo ra tài liệu, của hoạt
động lưu trữ và của sử dụng tài liệu. Nếu định nghĩa xác định chủ thể là nhân dân hoặc
sử dụng cụm từ chung là "cơ quan, tổ chức, cá nhân" thì mức độ liên quan cao. Nếu
trong định nghĩa không xác định rõ chủ thể là nhân dân hoặc hoàn toàn không xác
định chủ thể với hàm ý là bất kỳ ai thì mức độ liên quan tới nhân dân được thể hiện
không rõ ràng. Nếu định nghĩa chỉ đề cập tới các cơ quan nhà nước hoặc nội dung
không áp dụng được cho các hoạt động lưu trữ của nhân dân thì mức độ liên quan
67
thấp. Qua quy ước như vậy, bảng 5 dưới đây sẽ thống kê mức độ liên quan đến người
dân của các định nghĩa trong từng văn bản.
Bảng 7: Mức độ tham gia của nhân dân trong nội dung định nghĩa trong
các Pháp lệnh, Luật giai đoạn 1986-2012
TT Khái niệm Pháp lệnh bảo
vệ tài liệu lƣu
trữ 1982
Pháp lệnh Lƣu
trữ Quốc gia
2001
Luật Lƣu
trữ 2011
1. Tài liệu _
2. Tài liệu lưu trữ + + +
3. Bản chính, bản gốc, bản sao
hợp pháp hay bản sao có giá
trị như bản chính
_ _ _
4. Phông Lưu trữ Quốc gia Việt
Nam
+ + +
5. Phông Lưu trữ Nhà nước
Việt Nam
+ + +
6. Phông Lưu trữ Đảng Cộng
sản Việt Nam
+ 0
7. Tài liệu văn thư 0
8. Lưu trữ hiện hành _ _
9. Lưu trữ lịch sử + +
10. Bảo hiểm tài liệu lưu trữ _
11. Hồ sơ và lập hồ sơ +
12. Hoạt động lưu trữ _
13. Thu thập tài liệu _
14. Xác định giá trị tài liệu _
15. Chỉnh lý tài liệu _
16. Tài liệu lưu trữ điện tử +
17. Tài liệu có giá trị bảo quản
vĩnh viễn
_
18. Tài liệu bảo quản có thời hạn _
19. Tài liệu hết giá trị _
20. Tài liệu quý, hiếm _
21. Chứng thực lưu trữ +
22. Dịch vụ lưu trữ +
23. Quản lý nhà nước về công 0
_ 0
68
tác lưu trữ/ Quản lý về lưu
trữ
24. Chứng chỉ hành nghề lưu trữ _
Ghi chú bảng:
Ô trống Không đề cập hoặc không định nghĩa
0 có khái niệm hoặc định nghĩa nhưng không cho thấy sự tham gia của nhân dân
_ Tham gia không rõ ràng tới nhân dân
+ Tham gia trực tiếp tới nhân dân
Bảng 5 cho phép thống kê các ký hiệu quy ước về mức độ liên quan tới nhân
dân trong nội dung các khái niệm, qua đó có biểu đồ sau:
Biểu đồ 4: Sự thay đổi mức độ tham gia của người dân trong nội dung các khái niệm
qua các Pháp lệnh, Luật giai đoạn 1986 – 2012
Biểu đồ 4 xây dựng từ dữ liệu ngôn ngữ đã phân tích và lượng hóa ở trên đã
chứng minh được sự gia tăng về mức độ liên quan đến người dân trong hệ khái niệm
của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn 1986 – 2012.
4.2. Hệ chuẩn mực
4.2.1. Quy định về quản lý nhà nước về công tác lưu trữ
Trong nhóm quy định này, không có điều khoản nào về việc cho phép hoặc tạo
điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước. Trách nhiệm quản lý
nhà nước về công tác lưu trữ, như đã trình bày ở chương 3, được phân cấp cho các cơ
quan từ trung ương tới địa phương nhưng không có quy định về việc lấy ý kiến của
nhân dân, hoặc tham gia góp ý các dự thảo chính sách của các cơ quan, tổ chức, các
nhân là nhân dân như các cơ quan chuyên môn, các tổ chức xã hội, các nhà khoa học,
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu
trữ
Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia
Luật Lưu trữ
Sự thay đổi về mức độ tham gia của nhân dân
Column1
Column2
69
chủ sở hữu tài liệu, người sử dụng tài liệu,... Điều đó cho thấy tính tập trung cao trong
hoạt động quản lý nhà nước với vai trò trung tâm là các cơ quan nhà nước.
4.2.2. Quy định về quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ
Với nhóm quy định này, trách nhiệm quản lý và thực hiện nghiệp vụ lưu trữ
cũng thuộc về các cơ quan quản lý và cơ quan lưu trữ nhà nước như đã trình bày ở
chương 3. Thậm chí, một số nghiệp vụ lưu trữ quan trọng như xác định giá trị cũng
phải thực hiện "theo những nguyên tắc, phương pháp, tiêu chuẩn theo quy định của cơ
quan có thẩm quyền" như định nghĩa của Luật Lưu trữ. Do đó, vai trò của các tổ chức,
đoàn thể quần chúng, các hội nghề nghiệp như Hội Lưu trữ Việt Nam, Hội Sử học,
Hội Nhà văn,..., các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu hoàn toàn không được đề
cập. Đây là một biểu hiện của nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất nghiệp vụ lưu
trữ. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện toàn bộ vai trò nghiên cứu, quy
định, kiểm tra, giám sát đối với các quy trình nghiệp vụ.
Tuy nhiên, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ năm 1982 tuyên bố rõ ràng về
quyền của "cá nhân, gia đình, dòng họ và tập thể" được "Nhà nước đăng ký và bảo hộ,
các cơ quan lưu trữ hướng dẫn, giúp đỡ về mặt bảo quản". Pháp lệnh Lưu trữ Quốc
gia năm 2001 quy định: " Tài liệu riêng của cá nhân, gia đình, dòng họ có giá trị"..."
được Nhà nước đăng ký và bảo hộ; cơ quan lưu trữ có trách nhiệm hướng dẫn, giúp
đỡ về kỹ thuật bảo quản". Luật Lưu trữ Việt Nam năm 2011 cũng ghi rõ: "Cá nhân có
tài liệu có quyền được đăng ký tài liệu tại Lưu trữ lịch sử và hướng dẫn, giúp đỡ về kỹ
thuật bảo quản và tạo điều kiện để phát huy giá trị tài liệu". Những quy định này, tuy
vẫn chưa thể hiện sự tham gia của người dân vào việc xây dựng, thực hiện các nghiệp
vụ lưu trữ nhưng đã tạo điều kiện để nhân dân được trợ giúp từ cơ quan lưu trữ. Nói
cách khác, quy định này khiến cho các nghiệp vụ lưu trữ không chỉ là hoạt động thuộc
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan lưu trữ mà còn là trách nhiệm phục vụ cho
người dân.
4.2.3. Quy định về sử dụng tài liệu lưu trữ
Những vấn đề liên quan tới nhân dân được thể hiện nhiều nhất ở quy định về sử
dụng tài liệu lưu trữ. Quyền được sử dụng tài liệu và trách nhiệm phục vụ của các lưu
trữ lịch sử được thể hiện rõ trong các Pháp lệnh và Luật về lưu trữ giai đoạn 1986 –
2012 như đã thể hiện ở chương 3. Để cụ thể hóa quyền và trách nhiệm này, các cơ
quan quản lý nhà nước đã xây dựng quy trình và ban hành thủ tục khai thác tài liệu,
bao gồm:
- Công văn số 397/LTNN-VNTW ngày 22.8.2001 của Cục Lưu trữ Nhà nước về việc
xác định hồ sơ, tài liệu lưu trữ thuộc diện hạn chế sử dụng tại các Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia;
70
- Công văn số 218/VTLTNN- NVTW ngày 01.4.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ
Nhà nước về việc xét duyệt cho người nước ngoài khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại
các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia;
- Quyết định số 104/QĐ-VTLTNN ngày 22.4.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà
nước về việc ban hành Quy trình phục vụ độc giả tài phòng đọc và cấp bản sao, chứng
thực lưu trữ tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia;
- Quyết định số 111/QĐ-VTLTNN ngày 13.5.2009 của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà
nước về việc ban hành Quy trình giải mật tài liệu lưu trữ;
- Thông tư số 08/2012/TT-BNV ngày 26/11/2012 của Bộ Nội vụ Quy định định mức
kinh tế - kỹ thuật Lập danh mục tài liệu hạn chế sử dụng của một phông lưu trữ và
Phục vụ độc giả tại phòng đọc
Các văn bản trên được ban hành theo tinh thần của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia
và Luật Lưu trữ. Về cơ bản, nội dung chính của các văn bản đó đều hướng dẫn quy
trình và thủ tục để các lưu trữ viên thực hiện tại cơ quan lưu trữ. Phần quy định quan
trọng nhất có liên quan tới việc tiếp cận tài liệu của nhân dân là có hay không thực
hiện giới thiệu danh mục tài liệu đã được giải mật hoặc danh mục tài liệu hạn chế tiếp
cận cho người sử dụng. Nhưng, phần quy định này không xuất hiện trong các văn bản
trong khi Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia ghi rõ: "Người đứng đầu lưu trữ lịch sử phải
thông báo, giới thiệu danh mục tài liệu lưu trữ để phục vụ việc khai thác, sử dụng".
Bên cạnh đó, trong lúc hướng dẫn xác định danh mục tài liệu thuộc danh mục hạn chế
sử dụng, các văn bản trên không xác định đối tượng bị hạn chế sử dụng hoặc thời gian
hạn chế sử dụng.
Về thủ tục và ngôn ngữ, Quy trình phục vụ độc giả theo Quyết định 104 chưa
phản ảnh được tinh thần đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện cho người sử dụng tài
liệu. Chẳng hạn, người sử dụng phải ghi và chờ xét duyệt hai loại văn bản trước khi
được tiếp cận tài liêu là: Đơn xin khai thác, sử dụng tài liệu và Phiếu yêu cầu khai
thác, sử dụng tài liệu trong khi thông tin trong hai văn bản này có thể được trình bày
một lần duy nhất trong Phiếu yêu cầu khai thác. Việc sử dụng cụm từ "Đơn xin khai
thác, sử dụng tài liệu" không phản ảnh sự tôn trọng và vị trí phục vụ của cơ quan lưu
trữ đối với nhân dân. Trong các quy trình được ban hành, duy nhất quy trình phục vụ
độc giả nước ngoài có bao gồm thời hạn trả lời độc giả. Cho nên, mặc dù quy định về
khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong các Pháp lệnh, Luật Lưu trữ đã xác lập quyền
của nhân dân và ngày càng cụ thể hóa trách nhiệm của các lưu trữ cũng như trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong sử dụng tài liệu nhưng những quy định,
hướng dẫn dưới Pháp lệnh không thể hiện được tinh thần này.
71
4.2.4. Quy định về sở hữu tài liệu
Vấn đề sở hữu tài liệu chỉ được đề cập trong Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ và
Luật Lưu trữ. Theo đó, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ xác định "sở hữu toàn dân do
Nhà nước quản lý", còn Luật Lưu trữ "thừa nhận quyền sở hữu" đối với tài liệu lưu
trữ. Như thế, Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ coi tài liệu lưu trữ là một loại tài sản
công và không công nhận sự sở hữu tư đối với chúng. Luật Lưu trữ đã thay đổi quan
niệm này bằng cách công nhận quyền sở hữu nhưng không xác định chủ thể của quyền
này. Nói cách khác, tuy đã có điểm tiến bộ trong việc xác lập quyền sở hữu nhưng quy
định như trên của Luật Lưu trữ, về phương diện ngôn ngữ vẫn mang tính chất không
rõ ràng.
Cả ba văn bản Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ, Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và
Luật Lưu trữ đều khuyến khích chuyển đổi sở hữu tài liệu lưu trữ từ nhân dân cho Nhà
nước thông qua hiến tặng hoặc bán nhưng không có hướng dẫn cụ thể nào về thủ tục
và thẩm quyền mua hay nhận tài liệu của người dân.
4.3. Hệ quan điểm
Như đã trình bày và phân tích ở bảng 5 và mục 3.4, các nội dung khuyến khích
và nghiêm cấm qua các Pháp lệnh và Luật Lưu trữ ít thay đổi. Số lượng hành vi được
khuyến khích được quy định trong Luật Lưu trữ nhiều hơn so với hai Pháp lệnh trước
đó. Những hành vi của nhân dân được Nhà nước khuyến khích bao gồm:
- Ký gửi, hiến tặng, bán tài liệu cho lưu trữ lịch sử;
- Đóng góp tài trợ cho lưu trữ;
- Thực hiện dịch vụ lưu trữ
Xét về tính chất, ba hành vi của nhân dân được khuyến khích tập trung vào ba
nội dung của công tác lưu trữ, bao gồm:
- Chuyển đổi sở hữu tài liệu cho nhà nước hoặc đăng ký để nhà nước kiểm soát
và hỗ trợ;
- Bổ sung nguồn lực cho hoạt động lưu trữ;
- Tham gia thực hiện nghiệp vụ lưu trữ để bảo quản tài liệu;
- Nghiên cứu khoa học về lưu trữ, tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ
lưu trữ;
Như thế, đến Luật Lưu trữ, vai trò và mức độ tham gia của người dân trong công tác
lưu trữ được gia tăng đáng kể trên các phương diện: bảo quản, nguồn lực và khoa học
72
– công nghệ. Qua đó, nhân dân có cơ hội tham dự sâu hơn vào các vấn đề của công tác
lưu trữ, thể hiện vai trò chủ thể trong những nội dung được cho phép.
Tuy nhiên, nội dung về sử dụng và phát huy giá trị tài liệu chưa được khuyến
khích trong các Pháp lệnh và Luật. Ngoài quy định về quyền được sử dụng, không có
điều khoản nào trong các văn bản này khuyến khích nhân dân sử dụng tài liệu phục vụ
các mục đích nghiên cứu, học tập, cũng chưa thấy chính sách hỗ trợ hoặc ưu tiên nhằm
tạo động lực để nhân dân sử dụng tài liệu lưu trữ vào học tập và nghiên cứu. Việc phát
huy giá trị tài liệu của nhân dân được công nhận là quyền của người có tài liệu nhưng
chưa có hướng dẫn chi tiết, nhất là khi quy định về thẩm quyền công bố tài liệu đã bị
bãi bỏ trong Luật Lưu trữ.
4.4. Triết lý
Mặc dù có những điểm mâu thuẫn giữa các Pháp lệnh, Luật về lưu trữ và giữa
Pháp lệnh với văn bản hướng dẫn thi hành như đã trình bảy ở trên nhưng vai trò của
nhân dân trong từng thời kỳ được thể hiện tương đối thống nhất và có sự thay đổi giữa
thời kỳ 1986-2000 và 2001-2012. Ở thời kỳ 1986 – 2000, mức độ tham gia của người
dân trong nội dung của các định nghĩa rất thấp, vấn đề sở hữu tư đối với tài liệu lưu trữ
bị phủ nhận, nhà nước giữ vai trò trung tâm trong quản lý, thực hiện nghiệp vụ và sở
hữu tài liệu; quyền sử dụng tài liệu được công nhận trong điều kiện bị hạn chế. Sang
thời kỳ 2001-2012, mức độ tham gia của người dân từng bước được nâng lên, quyền
sở hữu đối với tài liệu từ chỗ bãi bỏ quy định về sở hữu toàn dân đến chỗ công nhận
quyền sở hữu tư, các nội dung của công tác lưu trữ cho phép nhân dân tham gia được
mở rộng nhưng nhân dân vẫn chưa được phép tham gia vào các vấn đề của quản lý
nhà nước. Nói cách khác, đến Luật Lưu trữ, nhân dân đã được phép sở hữu tài liệu,
góp vốn, nghiên cứu khoa học và tư vấn – chuyển giao công nghệ nhưng vẫn chưa có
cơ chế được tham gia hoạch định chính sách về lưu trữ. Qua đó, nếu triết lý quản lý
nhà nước thời kỳ 1986-2000 là tập trung, thống nhất vào nhà nước thì triết lý quản lý
nhà nước thời kỳ 2001-2012 trở thành tập trung, thống nhất vào nhà nước, có sự tham
gia và đóng góp của nhân dân.
Quan điểm quản lý nhà nước về công tác lưu trữ với vấn đề vai trò và sự tham
gia của nhân dân được khái quát như sau:
73
Hình 4: Cấu trúc quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác
lưu trữ thời kỳ 1986 – 2000
Hình 5: Cấu trúc quan điểm về vai trò và sự tham gia của nhân dân trong công tác
lưu trữ thời kỳ 2001-2012
Triết l{: Tập trung, thống nhất vào Nhà nước
Hệ quan điểm: chỉ khuyến khích chuyển đổi sở hữu tài liệu
Hệ chuẩn mực: không có quy định về hành vi bắt buộc thực hiện đối
với nhân dân
Hệ khái niệm: mức độ tham gia của người dân thấp
Triết l{: Tập trung, thống nhất vào nhà nước, có sự tham gia của
nhân dân
Hệ quan điểm: Khuyến khích nhân dân tham gia vào các lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyển đổi sở hữu tài liệu, đầu tư kinh,
bảo quản
Hệ chuẩn mực: chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của nhân dân khi sử
dụng tài liệu lưu trữ
Hệ Khái niệm: Mức độ tham gia của người dân cao
74
KẾT LUẬN
Qua việc xác định quan điểm quản lý nhà nước giai đoạn 1986-2012, giả thuyết
nghiên cứu đã được chứng minh. Theo đó, sự tập trung, thống nhất của nhà nước được
thể hiện bởi ba đặc trưng cơ bản: Nhà nước là chủ thể quản lý nhà nước công tác lưu
trữ và quản lý tài liệu lưu trữ; là chủ thể chính thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ; là chủ
thể kiểm soát và định hướng sử dụng tài liệu lưu trữ. Tuy nhiên, quan điểm tập trung,
thống nhất này đã có sự thay đổi qua các thời kỳ theo hướng chia sẻ vai trò và trách
nhiệm quản lý tài liệu lưu trữ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trong đó, vai trò
của nhân dân đã được xác lập trên các phương diện: chủ thể sáng tạo và sử dụng tài
liệu; chủ thể sở hữu tài liệu; chủ thể đóng góp, tài trợ; chủ thể thực hiện các dịch vụ
lưu trữ. Quan điểm và sự thay đổi quan điểm này phản ảnh sự thích nghi của quản lý
nhà nước về công tác lưu trữ trước các yếu tố ảnh hưởng cơ bản. Đó là: sự thay đổi
của thực tiễn công tác lưu trữ, sự thay đổi của lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước
nói chung và khuynh hướng của thế giới. Trong đó, thực tiễn công tác lưu trữ có thể là
yếu tố chi phối chính tới quản lý nhà nước về công tác lưu trữ thông qua hàng loạt các
mâu thuẫn khó giải quyết trong thời gian qua: mâu thuẫn giữa nhu cầu thông tin của
nhà nước và của nhân dân với hạn chế của các cơ quan lưu trữ, mâu thuẫn giữa nguồn
lực hữu hạn của nhà nước và nguồn lực tiềm năng của nhân dân với khả năng sử dụng
chúng, mâu thuẫn giữa những bối cảnh đặc thù của các cơ quan lưu trữ từ trung ương
tới địa phương với khả năng kiểm soát của cơ quan trung ương, mâu thuẫn giữa các
vấn đề quản lý phát sinh ngày càng phức tạp với năng lực thực tế của cơ quan quản
lý,... Song, động cơ thực sự dẫn đến những thay đổi này chưa được giải thích trong
nghiên cứu vì thiếu những phỏng vấn hoặc khảo sát trực tiếp từ các lãnh đạo ngành,
hay các phân tích thông tin trong hồ sơ lưu trữ về quá trình xây dựng, ban hành văn
bản qua các thời kỳ.
Ngoài các đặc trưng kể trên, sự tập trung, thống nhất quản lý công tác lưu trữ
còn thể hiện ở tính phụ thuộc vào trung ương. Theo đó, mọi vấn đề từ tổ chức, cán bộ,
nghiệp vụ, đến sử dụng tài liệu lưu trữ đều phụ thuộc vào các quy định từ văn bản của
cơ quan trung ương. Với trường hợp của UBND thành phố Hà Nội và UBND tỉnh Hà
Tây cũ, số lượng văn bản của lý của cơ quan địa phương vừa ít hơn về số lượng, vừa ít
đa dạng về nội dung so với văn bản của Bộ Nội vụ và Cục Văn thư – Lưu trữ Nhà
nước. Đây là biểu hiện rõ ràng của quan điểm quản lý hành chính với vai trò kiểm soát
chặt chẽ của chính quyền trung ương, tính tự chủ của các địa phương không được thể
hiện rõ. Vấn đề đáng lưu tâm là cho đến nay, trên cả phương diện khoa học lẫn thực
tiễn, chưa có báo cáo hoặc công trình khoa học nào chứng minh tính hiệu quả hơn của
quản lý tập trung, thống nhất từ trung ương so với việc cho phép tăng tính đa dạng và
chủ động của địa phương trong quản lý nhà nước công tác lưu trữ. Trong khi đó, mặc
dù gần 200 văn bản đã được ban hành trong giai đoạn 1986 – 2012 nhưng không có
75
văn bản nào xác định các tiêu chí cụ thể để đánh giá hiệu quả công tác lưu trữ. Cho
nên, dường như trong quan điểm quản lý nhà nước công tác lưu trữ đang thiếu những
mục tiêu tổng quát về hiệu quả. Quy hoạch ngành Văn thư – Lưu trữ đến 2020, tầm
nhìn 2030 được xây dựng từ 2012 có nhiều chỉ tiêu định lượng cụ thể nhưng vẫn
không phản ảnh hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu quả công tác lưu trữ. Ngược lại,
khi công tác lưu trữ địa phương bị phụ thuộc nhiều vào trung ương thì các nội dung
của công tác lưu trữ địa phương có nguy cơ trở nên manh mún, thiếu kế hoạch dài hạn
mà luôn phải đợi những kế hoạch cụ thể từ trung ương.
Tính tập trung cao của quản lý nhà nước về công tác lưu trữ giai đoạn 1986 –
2012 thể hiện rõ nhất trong việc xác định trách nhiệm, thẩm quyền và nội dung quản
lý nhà nước. Theo đó, dù thay đổi hình thức diễn đạt nhưng quan điểm xuyên suốt từ
năm 1982 đến 2012 vẫn là vai trò trung tâm của các cơ quan có thẩm quyền trong
quản lý nhà nước và hoàn toàn không có sự tham gia của nhân dân. Thậm chí, các vấn
đề của khoa học nghiệp vụ cũng phải thực hiện theo quy định của nhà nước và không
có từ ngữ nào cho phép sự góp ý của các tổ chức nghề nghiệp, các nhà khoa học, cơ
quan chuyên môn. Đồng thời, bên cạnh thừa nhận quyền sở hữu và cơ chế thỏa thuận
trong thu thập tài liệu lưu trữ của cá nhân, gia đình, dòng họ nhưng vẫn chưa có điều
khoản nào cho thấy sự gắn kết giữa các thỏa thuận này với các văn bản liên quan khác
như Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ,... Cho nên, trong vấn đề này xuất hiện một số
mâu thuẫn.
Mâu thuẫn trước hết là vấn đề lợi ích. Khi pháp luật tuyên bố chính sách và thừa
nhận vai trò của nhân dân trên nhiều phương diện như đã nêu ở trên nhưng lại không
có cơ chế cho phép họ được tham gia thảo luận hay góp ý về chính sách sử dụng thành
quả khoa học, nguồn tài chính, phân chia lợi ích khi thực hiện dịch vụ,... thì tính minh
bạch và hiệu quả, nhất là về phân phối lợi ích trong các hoạt động có nhân dân tham
gia không được thể hiện rõ. Chẳng hạn, nếu các hội nghề nghiệp hoặc nhà khoa học
nghiên cứu được sản phẩm có thể ứng dụng trong lưu trữ nhưng các cơ quan lưu trữ
lại phải áp dụng theo những tiêu chuẩn kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành,
lại không có cơ chế nào cho nhà khoa học được giới thiệu trực tiếp cho cơ quan quản
lý để xây dựng thành quy định thì lợi ích của nhà khoa học với mong muốn được
chuyển giao, ứng dụng sản phẩm lao động của mình sẽ bị hạn chế. Bằng cách đó,
chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học sẽ không thể khuyến khích được nhà
nghiên cứu.
Mâu thuẫn thứ hai tồn tại trong sự phức tạp của quản lý nhà nước. Khi thừa
nhận và cho phép người dân tham gia vào những nội dung của công tác lưu trữ, nhiều
nội dung của quản lý nhà nước sẽ chuyển từ việc giải quyết mối quan hệ trong các cơ
quan nhà nước với nhau như trước kia sang giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với
76
công dân. Quan hệ này sẽ được giải quyết theo hướng nào, quan hệ hành chính hay
quan hệ dân sự là lựa chọn không dễ mà các cơ quan quản lý nhà nước phải đối mặt.
Nếu lựa chọn quan hệ hành chính với tính quyền lực-phục tùng thì chắc chắn sự tham
gia của người dân không phát huy được hiệu quả cao, thậm chí không kêu gọi được họ
tham gia vì quan hệ đó không đảm bảo sự công bằng cho đóng góp của họ. Nếu lựa
chọn quan hệ dân sự thì các cơ quan lưu trữ nhà nước, cơ quan quản lý có thẩm quyền
cần phải chuẩn bị đủ nền tảng pháp lý và phải sẵn sàng đặt mình ngang hàng với người
dân. Chẳng hạn, cơ quan lưu trữ phải có tâm thế rằng họ có thể bị kiện và phải bồi
thường nếu người dân không hài lòng với cách ứng xử của cơ quan lưu trữ đối với tài
liệu do họ hiến tặng. Khuynh hướng cải cách hành chính trên thế giới mà Việt Nam
đang tích cực học hỏi cùng với kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến như Canada
và Mỹ cho thấy rằng quan hệ dân sự sẽ khuyến khích tốt nhất cho việc tìm kiếm nguồn
lực và tài liệu của nhân dân, nhưng cơ quan lưu trữ, cán bộ lưu trữ và cả hệ thống thể
chế phải thích nghi được với điều này.
Mặc dù chậm 15 năm7 so với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, những
thay đổi trong pháp luật lưu trữ, bắt đầu từ Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia và kế thừa,
phát triển ở Luật Lưu trữ là dấu hiệu của những tư tưởng tiến bộ. Sự tiến bộ này thể
hiện ở việc thích nghi với nền kinh tế - xã hội theo hướng thị trường, có sự điều tiết
của nhà nước và nâng cao dân chủ trong công tác lưu trữ. Cho phép và khuyến khích
nhân dân tham gia công tác lưu trữ là thừa nhận khả năng, tiềm lực của nhân dân, khác
với quan điểm có phần cực đoan của một số học giả quản lý hành chính nhà nước cho
rằng đó là nhiệm vụ của nhà nước và chỉ nhà nước làm được. Tuy nhiên, khi chấp
nhận điều này, các cơ quan quản lý phải đối diện với với rủi ro liên quan đến khả năng
mất kiểm soát về chất lượng của các dịch vụ lưu trữ, dẫn đến nguy cơ hủy hoại di sản
thay vì bảo tồn. Cho nên, khi quan điểm quản lý nhà nước tiến bộ hơn cần đồng thời
nâng cao năng lực quản lý của chính các cơ quan có thẩm quyền.
Với những mâu thuẫn đang đặt ra, những nguy cơ có thể xuất hiện, việc chuyển
đổi quan điểm quản lý với việc khẳng định vai trò của nhân dân trong công tác lưu trữ
là hành động thể hiện sự tiến bộ và linh hoạt của các cơ quan xây dựng pháp luật. Tuy
nhiên, từ quan điểm này tới khi chúng được thực hiện trong thực tiễn sẽ cần nhiều thời
gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi và hành động tích cực hơn nữa của các cơ quan có
thẩm quyền. Những khó khăn đó sẽ được giảm bớt nếu họ sẵn sàng lắng nghe và chia
sẻ với nhân dân, những người sẽ đồng hành cùng họ để thực hiện chính sách quản lý
tiến bộ nói trên vì lợi ích của cả hai phía: Nhà nước và Công dân. Nhưng trước hết,
xác định một mục tiêu tối thượng và xuyên suốt cho công tác lưu trữ phải là ưu tiên
hàng đầu trong quan điểm quản lý, chỉ đạo về công tác lưu trữ trong thời gian tới.
7 So sánh về thời gian xuất hiện những quan điểm mới trong Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia năm 2001 với thời điểm tuyên bố đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986.
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. 23 7 2012. http: dangcongsan.vn cpv Modules Ne s Ne s etail.aspx co id 28340692 cn id 534147 (đã truy cập 5 15, 2015).
Chi Cục Văn thư - Lưu trữ tỉnh An Giang. Sở Nội vụ An Giang. 10 10 2013. http://sonoivu.angiang.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9M Py8xB 9CP0os3 3oBBLc dT ML 383 09nx1 T g Cd M 2Cb d N6QP CM L B L C NT T ps cm connect sonoivu siteo sonoivu tintucsukien congtacvanthuluutru tailieuquyhiem (đã truy cập 6 2015, 15).
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh lưu trữ Quốc gia. Báo cáo tổng kết, Hà Nội: Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, 2011.
Đào uân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm,. Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ. Hà Nội: N B Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1990.
GS. TS. Nguyễn Duy Gia. Giáo trình quản lý hành chính nhà nước. Hà Nội: NXB Giáo dục, 1996.
GS.TS.Phạm Hồng Thái, GS.TS.Nguyễn Đăng ung, T .Nguyễn Ngọc Chí,. Phân cấp quản lý nhà nước. Hà Nội: NXB Công an Nhân dân, 2011.
Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa. Từ điển bách khoa Việt Nam. Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa, 2003.
Hughes, Owen E. Public management and Administration - An introduction (third edition). New York: Palgrave Macmillan, 2003.
Nguyễn Diệu Cơ, Đinh Ngọc Vượng, Nguyễn Quốc Việt. Quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa (lược dịch từ tiếng Nga). Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1987.
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác văn thư, lưu trữ hiện hành, Hà Nội, 2012.
David Held, Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại (PHạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, 2012
Nguyễn Như Ý. Đại từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: N B Văn hóa - Thông tin, 1998.
—. Đại Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: N B Văn hóa - Thông tin, 1998.
78
Nguyễn Văn Thâm, Vương Đình Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kz Hồng. Lịch sử lưu trữ Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: N B ĐHQ Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
Nicolas Henry. "Paradigms of Public Administration." Public Administration Review, vol.35, 1975: 378-386.
Oxford University. Oxforf University Press. 2015. http://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/people_1?q=people (accessed 4 03, 2015).
PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải, Ths. Phạm Thu Lan. Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công. Hà Nội: NXB Khoa học - Kỹ thuật, 2013.
P . Vương Đình Quyền. “"Tài liệu lưu trữ", Một thuật ngữ cần được hiểu và định nghĩa chính xác hơn.” Dấu ấn thời gian số 3, 2007.
PGS.TS.Nguyễn Hữu Hải, Ths. Lê Văn Hòa (đồng chủ biên),. Đại cương về chính sách công. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2013.
Terry Cook. "Evidence, Memorie, Identity, and Community: Four shifting archival paradigms." Archival Science, 2013: 95 - 120.
Thomas Kuhn (Chu Đình Lan dịch). Structure of Revolution Sciences . Chicago: The University of Chicago Press (bản dịch tiếng Việt của NXB Tri thức), 1962, 2008.
Tomkins, Jonathan R. Organization theory and Public management. Tomson Wadsworth, 2005.
Tony Bovaird, Elke Louffler. Public management and Governance. London, New York: Taylor and Francis Group, 2003.
Toru Hashimoto, Stefan Hell, Sang – Woo Nam. Nghiên cứu và đào tạo chính sách công ở Việt Nam. Hà Nội: Viện Ngân hàng Phát triển châu Á, 2005.
T . Lê Văn anh. Chính sách công của Hoa Kỳ. Hà Nội: NXB Thống Kê, 2001.
TS. Nguyễn Tiến Phồn. Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2001.
T . Văn Tất Thu. “Quản l{ nhà nước về lưu trữ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền.” Pháp luật về lưu trữ. Bình Thuận: Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội và Dự án hỗ trợ thực thi chính sách, 2011. 32.
T . Vũ Minh Hương. “Quản lý tài liệu thuộc Phông Lưu trữ Nhà nước Việt Nam - Thực tiễn và Kiến nghị.” Pháp luật về lưu trữ. Bình Thuận: Ủy ban Pháp luật của Quốc Hội và Dự án Hỗ trợ thực thi chính sách, 2011. 17.
79
T . ương Văn Khảm, nhóm tác giả. Cơ sở khoa học để tổ chức quản lý nhà nước về công tác lưu trữ. Research report, Hà Nội: Cục Lưu trữ Nhà nước, 2001.
Văn Việt. Sở Nội vụ Kiên Giang. 20 4 2013. http://sonoivu.kiengiang.gov.vn index2. sp menuId 1354 articleId 24167 (đã truy cập 6 2015, 15).
Việt Trí. “Những nguyên tắc cơ bản của Lê-nin về công tác lưu trữ còn sống mãi.” Tạp chí Văn thư - Lưu trữ số 6, 1988: 1-3.
Vũ Cao Đàm. Tuyển tập các công trình đã công bố. Hà Nội: NXB Thế giới, 2009.