hoÀn thiỆn phÁp luẬt vỀ bẢo vỆ bÍ mẬt nhÀ …hcma.vn/uploads/2018/6/3/luan...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHÙNG VĂN TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Hà Nội - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHÙNG VĂN TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phùng Văn Tài
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về
bảo vệ bí mật nhà nước
2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.3. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới và
những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Chương 3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
3.2. Trực trạng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
6
6
22
28
28
47
61
71
71
80
111
111
115
135
137
138
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANQG An ninh quốc gia
BLHS Bộ luật Hình sự
BMNN Bí mật nhà nước
BMQG Bí mật quốc gia
CAND Công an nhân dân
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
HĐND Hội đồng nhân dân
LHS Luật Hình sự
Nxb Nhà xuất bản
QPPL Quy phạm pháp luật
TNHS Trách nhiệm hình sự
UBND Ủy ban nhân dân
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận án
Bí mật nhà nước (BMNN) là những thông tin quan trọng, liên quan đến sự ổn
định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các thế lực thù địch và các
đối tượng phạm tội luôn tìm cách thu thập, chiếm đoạt BMNN nhằm gây nguy hại
cho lợi ích của quốc gia, dân tộc. Mặt khác, trong hoạt động của cơ quan, tổ chức,
việc nắm giữ được thông tin quan trọng là một trong những điều kiện đảm bảo cho
sự thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ta biết giữ bí mật, thì dù địch có
trăm tai, nghìn mắt, cũng không dò được tin tức và đoán được sự hành động của ta.
Biết giữ bí mật, tức là ta đã nắm được một phần thắng lợi trong tay” [65].
Bảo vệ BMNN là một quy luật tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc, mỗi cơ quan, tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Những vǎn kiện
bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn
của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là
nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể. Muốn phá hoại ta về mọi mặt, kẻ
địch dùng mọi thủ đoạn đê hèn để đánh cắp vǎn kiện bí mật của ta về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, v.v.. Khẩu hiệu của kẻ địch là: Lấy được bất kỳ tình báo gì và dù là
chút ít, cũng là quý” [66]. Bảo vệ BMNN có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong
bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ,
thông tin phát triển mạnh mẽ, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”
nhằm xoá bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú
trọng đến công tác bảo vệ BMNN; sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, biện pháp
để bảo vệ BMNN, trong đó, pháp luật được coi là “công cụ sắc bén, hữu hiệu” [77,
tr.01]. Trải qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các quy phạm
pháp luật (QPPL) về bảo vệ BMNN phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ của
cách mạng trong từng giai đoạn, các QPPL đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật
2
về bảo vệ BMNN. Từ khi hình thành, pháp luật về bảo vệ BMNN đã sớm đi vào
cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng là công cụ sắc bén, hữu hiệu, là cơ sở pháp lý
để tiến hành các hoạt động bảo vệ BMNN, góp phần giữ vững ANQG, phục vụ cho
sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Quá trình từ khi hình
thành đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN không ngừng được xây dựng, bổ sung, đã
tạo ra một hệ thống các QPPL quy định về công tác bảo vệ BMNN.
Tuy nhiên, do sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài
nước, pháp luật về bảo vệ BMNN đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như:
các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về bảo vệ BMNN có hiệu lực pháp lý
thấp; phạm vi điều chỉnh chưa toàn diện; nội dung thiếu thống nhất; nhiều quy định
còn chung chung; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của con người, của công dân; nhiều quan hệ mới nảy sinh liên
quan đến bảo vệ BMNN nhưng chưa có QPPL điều chỉnh... Những hạn chế, bất cập
đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo vệ BMNN, là một nguyên nhân dẫn
đến tình hình lộ, lọt, mất BMNN diễn biến phức tạp (từ năm 2001 đến nay đã phát
hiện 844 vụ lộ, lọt, mất BMNN [111]); việc xác định độ mật còn tùy tiện, không mật
cũng đóng dấu mật; công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý các vụ lộ, lọt, mất BMNN
hiệu quả chưa cao, chế tài xử lý chưa nghiêm... [74]. Những hạn chế, bất cập đó đã
đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Đây cũng là yêu cầu tất
yếu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và là một nội
dung quan trọng của hoàn thiện pháp luật về ANQG đã được đề cập trong Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
Với các lý do trên, cùng với việc chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận án về vấn đề này nên nghiên cứu sinh đã chọn
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành “Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu luận án: làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở
3
Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án định ra và giải quyết các nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, đặc điểm, nội dung điều chỉnh
và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu tố ảnh hưởng đến
việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu
pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có thể
tham khảo cho Việt Nam.
Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ
BMNN Việt Nam hiện nay để chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập
và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN; quá trình phát triển và thực trạng của pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện nay (từ năm
2000 đến nay) và có sự tham chiếu kinh nghiệm của nước ngoài.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ ANQG,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp chế XHCN và xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
4
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp nghiên cứu
tài liệu, phương pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu các công trình khoa học đã
công bố và khảo cứu các kết quả liên quan đến luận án, từ đó chỉ ra những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu của luận án.
Ở Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch, phương pháp trao đổi, phương pháp
chuyên gia để nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam như: xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN,
làm rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam; làm rõ các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ
BMNN và các yếu tố tác động đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
Ở Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp nghiên cứu
tài liệu, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp trao đổi, phương pháp chuyên
gia để làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay; đánh giá thực trạng với những kết quả đạt được, những hạn chế, bất
cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam hiện nay.
Ở Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp chuyên
gia để làm rõ quan điểm và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam hiện nay.
5. Những điểm mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có
những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về pháp luật
về bảo vệ BMNN, luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, làm
rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ
5
các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu
tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Luận án đã rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ
BMNN ở một số nước trên thế giới.
Làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay, khẳng định những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ấy. Từ đó, luận án đề xuất 5 quan
điểm và 3 nhóm giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn thiện pháp
luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng.
Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị quan
trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo về pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công
trình của tác giả liên quan đến luận án đã công bố và phụ lục, luận án bao gồm 4
chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ bí mật nhà nước liên
quan đến luận án
1.1.1.1. Đề tài khoa học
- Đề tài khoa học cấp Bộ Giải pháp của lực lượng An ninh nhân dân nhằm
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam hiện nay, do tác giả Đỗ Hữu Vấn làm chủ nhiệm [112], đã phân tích các quy
định của pháp luật về BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt Nam hiện nay,
trong đó đã chỉ ra các quy định của pháp luật về phạm vi BMNN trong lĩnh vực kinh
tế trọng điểm. Công trình đã đưa ra các kiến nghị, trong đó có kiến nghị hoàn thiện
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN với các nội dung: hoàn thiện các văn bản pháp
luật về bảo vệ BMNN để các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách đầy đủ, thống nhất
và có hiệu quả thiết thực; rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật, trên cơ sở đó
kiến nghị Nhà nước xây dựng, ban hành Luật Bảo vệ BMNN; kiến nghị Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các cơ quan, tổ chức kinh tế sớm hoàn thành dứt điểm việc xây
dựng danh mục BMNN.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh -
Những vấn đề lí luận và thực tiễn, do tác giả Đặng Văn Đoài làm chủ nhiệm [35],
dưới góc độ pháp luật, công trình đã chỉ rõ các VBQPPL làm cơ sở pháp lý cho công
tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh (đến thời điểm đó) như: Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ
Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN; Thông tư số 12/2002/TT-BCA
ngày 13/9/2002 của Bộ Công an Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 33/2002/NĐ-CP;
Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg ngày 06/9/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc
xác định khu vực cấm, địa điểm cấm; các danh mục BMNN và các VBQPPL khác có
liên quan đến bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh như: Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 1999; Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ Quy định
7
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội… Đồng
thời, công trình cũng chỉ ra một số điểm hạn chế trong công tác bảo vệ BMNN của
lực lượng An ninh có nguyên nhân từ hạn chế trong pháp luật về bảo vệ BMNN, đó
là: có rất nhiều văn bản quy định về công tác này; việc ban hành chưa được kịp thời
và đề cập đến việc cần tổng kết thi hành pháp luật về bảo vệ BMNN để xây dựng
Luật Bảo vệ BMNN.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN
trong lực lượng Công an nhân dân (CAND), do tác giả Ma Văn Kỳ làm chủ nhiệm
[52], dưới góc độ pháp luật, công trình đã thống kê các VBQPPL được ban hành điều
chỉnh về công tác bảo vệ BMNN do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ và Bộ Công an ban hành. Đồng thời công trình đã đưa ra các kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lực lượng CAND thời gian tới,
trong đó có kiến nghị về mặt pháp luật đó là: Các cơ quan chức năng tiếp tục hoàn
thiện hệ thống các VBQPPL về công tác bảo vệ BMNN. Trước mắt cần đẩy nhanh
tiến độ việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn chỉnh Dự án Luật Bảo vệ BMNN theo sự
phân công của Chính phủ và nghiên cứu, sớm bổ sung, sửa đổi Nghị định số
33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Bảo vệ BMNN năm 2000.
1.1.1.2. Sách, bài báo, tạp chí khoa học
- Sách Bảo vệ BMNN, bảo vệ bí mật và bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng
CAND, do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành [17], đã tập hợp một số
VBQPPL của Nhà nước và của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) liên quan đến bảo vệ
BMNN và bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND. Cuốn sách gồm 19 văn
bản, trong đó trình bày làm 2 phần: Phần I) Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và các văn bản
hướng dẫn thi hành; Phần II) Các văn bản hướng dẫn về công tác bảo vệ BMNN, bảo
vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND, gồm có: Mục A) Bảo vệ BMNN trong lực
lượng CAND; Mục B) Bảo vệ chính trị nội bộ trong lực lượng CAND. Những
VBQPPL này tương ứng với Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991.
- Sách Bảo vệ BMNN, do Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND - Bộ Công an
ban hành [08], đã nêu ra khái niệm BMNN theo quy định của Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000; nêu ra cơ sở pháp lý của công tác bảo vệ BMNN, điển hình là nêu
8
ra quy định trong Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội và các quy định trong một số VBQPPL
khác có liên quan; nêu ra nguyên tắc của công tác bảo vệ BMNN dựa trên những
nguyên tắc của hoạt động bảo vệ ANQG được quy định trong Luật ANQG.
- Sách Bảo vệ BMNN - dùng cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các trường
cao đẳng, trung cấp CAND, do Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND - Bộ Công an
ban hành [09], dưới góc độ pháp luật, công trình đã nêu ra “các văn bản pháp luật
của Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của Đảng; văn bản của Bộ Công an về bảo vệ
BMNN” và bước đầu đề cập đến quy định về phạm vi BMNN của Việt Nam so với
một số nước trên thế giới.
- Bài viết Vấn đề thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí với bảo vệ
BMNN của tác giả Phạm Dũng [28], đã đề cập đến một nhiệm vụ cần thực hiện để
đảm bảo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và bảo vệ được BMNN, đó là: tiếp tục
hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN, sớm ban hành Luật Bảo
vệ BMNN thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và các văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành một cách cụ thể, chi tiết, dễ hiểu và vận dụng thống nhất như
điều kiện, trình tự, thủ tục để giải mật BMNN, tiêu chí xác định độ mật…; rà soát
danh mục BMNN của Bộ, ban, ngành, địa phương để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, đảm bảo pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn, góp phần công khai minh
bạch các thông tin.
- Bài viết Từ kinh nghiệm của một số nước - đề xuất việc giải mật tài liệu có nội
dung BMNN ở nước ta hiện nay của tác giả Vũ Thị Minh [49], đã phân tích kinh
nghiệm của một số nước về việc giải mật tài liệu bí mật và thực tế lưu trữ, bảo quản
tài liệu BMNN ở Việt Nam và đi đến đề xuất cần thực hiện việc giải mật để đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin cho toàn xã hội, tránh việc xuyên tạc thông tin khi không có
thông tin chính thức từ tài liệu lưu trữ và đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng tài liệu
lưu trữ phục vụ nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân. Tuy nhiên, việc giải mật
tài liệu lưu trữ còn gặp nhiều khó khăn do một số vấn đề liên quan đến bảo vệ
BMNN và giải mật tài liệu chưa được điều chỉnh bằng pháp luật.
- Trong bài viết Một số vấn đề rút ra qua việc lộ, mất thông tin bí mật của Mỹ
9
trên internet của tác giả Bùi Vọng Long [62], đã phân tích một số vụ lộ, mất thông
tin bí mật của Mỹ trên internet, mà điển hình là vụ Wikileaks và rút ra một số vấn đề
trong công tác bảo vệ các thông tin bí mật trên internet, trong đó có vấn đề về pháp
luật. Chính phủ Mỹ đã xác định độ mật tài liệu một cách tràn lan gây ra hiệu ứng
ngược. Chính phủ Mỹ đã lấy “thà lạm dụng chứ không được thiếu” làm nguyên tắc
xác định độ mật, các tập tài liệu to nhỏ đều đóng dấu mật, luôn nhắc nhở các công
chức không được rò rỉ các bí mật ra bên ngoài. Thực tế, do những lời cảnh báo “bí
mật” đã quá bão hòa, các thành viên trong chính phủ không còn chú ý đến chúng
nữa, cho nên rất nhiều tài liệu bí mật quốc gia (BMQG) được xác định là “cơ mật”
đều lần lượt rò rỉ. Tài liệu mật càng nhiều và càng nhiều người tiếp cận thì nguy cơ
lộ, mất bí mật càng cao. Điều luật hình sự quy định tội tiết lộ bí mật ở Mỹ chưa đầy
đủ, còn bất cập nên khi cần truy cứu tội của Julian Assage – nhà sáng lập Wikileaks
phải sử dụng tội hiếp dâm; không truy cứu được việc công ty kiến trúc đưa sơ đồ Đại
sứ quán Mỹ tại Iraq và Google đưa những hình ảnh chụp từ trên không các căn cứ
quân sự bí mật của Mỹ lên mạng Internet.
- Bài viết Tăng cường công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới của tác giả
Trần Đại Quang [75], đã đề cập đến các mặt công tác để bảo vệ BMNN trong tình
hình mới, trong đó có việc: Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN trên cơ sở quán triệt các mục tiêu, quan
điểm chỉ đạo và giải pháp nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW. Trước mắt cần đẩy
nhanh tiến độ xây dựng Luật Bảo vệ BMNN trình Quốc hội thông qua. Đây là đạo
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng, nhạy cảm liên quan đến
vấn đề chính trị nội bộ nên cần được tiến hành khẩn trương nhưng thận trọng, đảm
bảo tính toàn diện, tính đặc thù, tính kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập
pháp của các nước tiên tiến về lĩnh vực này. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất
nước, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, phòng ngừa hoạt động làm lộ, lọt
BMNN; có chế tài đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm.
- Bài viết Thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới của tác giả
Mai Tùng Lâm [55], đã đề xuất một số giải pháp mà lực lượng Công an cần tập trung
để thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới. Trong đó có giải pháp
10
về mặt pháp luật, đó là: Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
BMNN, đề xuất đàm phán, ký kết hiệp định hoặc thỏa thuận, biên bản ghi nhớ về
cùng bảo vệ tin mật với các nước láng giềng, các nước Việt Nam có quan hệ đối tác
chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện nhằm tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ tin mật
trong quá trình hợp tác, trao đổi.
- Bài viết Một số vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận bảo vệ BMNN
của tác giả Đặng Văn Đoài [37], đã chỉ ra một số vấn đề cần thực hiện tốt để tiếp tục
phát triển lý luận, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ
BMNN. Trong đó, cần nghiên cứu, cân nhắc sử dụng khái niệm “BMQG” thay cho
khái niệm “BMNN” trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước và các cơ
quan, tổ chức. Theo đó, về chủ thể của BMQG không chỉ là các cơ quan trong hệ
thống chính trị, mà rộng hơn bao gồm cả các tổ chức và cá nhân, pháp nhân của Việt
Nam… Do vậy, dùng khái niệm BMNN sẽ không bao trùm được tất cả các chủ thể
có bí mật cần bảo vệ.
Như vậy, bài viết đã đưa ra một cách nhìn khác về việc sử dụng khái niệm
BMQG thay thế cho khái niệm BMNN, khác với nhiều công trình đã nghiên cứu,
công bố trước đó.
- Bài viết Mối quan hệ giữa bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
của công dân của tác giả Nguyễn Quỳnh Liên [60], đã chỉ ra mối quan hệ giữ bảo vệ
BMNN và tiếp cận thông tin là mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau
và là mối quan hệ giữa phạm vi thông tin được tiếp cận và thông tin không được tiếp
cận để bảo vệ BMNN. Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra cơ sở pháp lý của việc đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin và một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa bảo vệ BMNN với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của pháp luật quốc tế và
pháp luật của một số nước trên thế giới. Quyền tiếp cận thông tin là một trong các
quyền cơ bản của con người, của công dân, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị
được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948;
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và tiếp tục được khẳng
định trong nhiều điều ước quốc tế khác.
Bài viết cũng chỉ ra sự khác nhau trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
của các nước chủ yếu xuất phát từ quan niệm như thế nào về khái niệm “ANQG”,
11
“trật tự công cộng”. Luật của một số nước trên thế giới (như Hàn Quốc, New
Zealand, Bulgari, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch) ghi nhận quyền thông tin chỉ áp
dụng đối với các thông tin “được ghi và lưu giữ lại”, điều này có thể tạo ra một
khoảng trống đối với các thông tin được truyền tải bằng lời nói (như một cuộc họp)
mà đã được sử dụng trong quá trình ra quyết định. Nhiều nước quy định rõ trong
luật, yêu cầu công khai tất cả các thông tin được biết đến. Luật Tiếp cận thông tin
của nhiều nước có quy định khuyến khích việc tiếp cận thông tin chủ động hoặc công
bố thông tin đều đặn. Trong đó, phần lớn các quốc gia đều quy định một danh sách
các loại thông tin/tài liệu phải công bố, phổ biến công khai hoặc cung cấp rộng rãi
cho công chúng.
- Bài viết Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay và hướng
hoàn thiện của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy [99], đã khái quát chung hệ thống văn
bản pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay có thể chia thành các nhóm
chính: VBQPPL chung về bảo vệ BMNN; văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ
có liên quan trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; văn bản pháp luật quy định tội phạm và
xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN; các hiệp
định, điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc ký kết có nội dung liên quan đến
việc hợp tác, chia sẻ thông tin BMNN và cùng bảo vệ tin mật.
Bài viết đã khái quát thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN và đánh
giá: Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân xuất
phát từ hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN còn có những điểm mâu thuẫn,
chồng chéo, chưa kịp thời, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của công tác bảo vệ
BMNN trong tình hình mới, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Để góp
phần hoàn thiện pháp luật trên lĩnh vực này, bài viết đưa ra một số điểm cần chú ý:
trong dự thảo Luật Bảo vệ BMNN cần quy định cụ thể hơn về tiêu chí xác định của
từng cấp độ mật, thẩm quyền sao chụp, thống kê, lưu trữ tài liệu, vật mang BMNN,
nguyên tắc của công tác bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người
đứng đầu và mỗi cán bộ, nhân viên trong bảo vệ BMNN; cần bổ sung, chỉnh sửa các
tội xâm phạm BMNN theo hướng toàn diện, khách quan, tránh bỏ lọt tội phạm; cần
nhanh chóng bổ sung quy định về thẩm quyền của lực lượng An ninh và lực lượng
12
thanh tra chuyên ngành trong CAND trong việc xử phạt vi phạm hành chính đối với
những hành vi vi phạm quy định về bảo vệ BMNN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
1.1.2.1. Đề tài, hội thảo khoa học
- Đề tài khoa học cấp Bộ Phương hướng hoàn thiện quy định của Luật Hình sự
(LHS) Việt Nam về các tội xâm phạm ANQG do tác giả Phùng Văn Tài làm chủ
nhiệm [87], đã phân tích các hành vi xâm phạm ANQG, trong đó có hành vi xâm
phạm BMNN quy định trong BLHS Việt Nam và BLHS một số nước trên thế giới có
nền lập pháp gần với Việt Nam. Theo đó, pháp luật các nước đều xử lý rất nghiêm
khắc đối với hành vi cung cấp BMNN cho nước ngoài, tùy theo chủ thể thực hiện
hành vi. Nếu công dân thực hiện hành vi cung cấp BMNN cho nước ngoài nhằm
chống nhà nước thì bị xử lý về tội phản bội Tổ quốc, nếu do người nước ngoài thực
hiện thì xử lý về tội gián điệp. Quy định như vậy cũng khắc phục được tình trạng
giao thoa giữa tội phản bội Tổ quốc và tội gián điệp. Chẳng hạn, BLHS Liên bang
Nga năm 1996 quy định:
Điều 273. Tội gián điệp: Nếu người nào là người nước ngoài hay người
không có quốc tịch mà thực hiện các hoạt động chuyển giao, cũng như thu
thập, đánh cắp hay tàng trữ nhằm mục đích chuyển giao cho quốc gia
khác, tổ chức nước ngoài hay những người đại diện của họ các thông tin
mà có chứa BMQG, cũng như chuyển giao hoặc thu thập thông tin khác
theo sự chỉ đạo của tình báo nước ngoài để sử dụng nhằm gây thiệt hại
cho an ninh của Liên bang Nga thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi
năm [106, tr.516].
Đồng thời, đề tài cũng đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định về tội gián điệp
trong BLHS, đó là tách hành vi thu thập các tin tức, tài liệu khác (không phải
BMNN) ra khỏi tội gián điệp, không quy định cùng với hành vi cung cấp hoặc thu
thập nhằm cung cấp BMNN cho nước ngoài.
- Hội thảo khoa học Về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo
vệ BMNN, do Bộ Công an tổ chức [07], các nhà khoa học đã thảo luận một số vấn đề
lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác bảo vệ BMNN. Trong đó, các nhà khoa
học có bàn luận đến một số vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN như: chế định về
13
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong bảo vệ BMNN;
quy định về phạm vi và phân loại BMNN; chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ
BMNN; quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; mối
quan hệ giữa bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân; quy
định của pháp luật hiện hành về các loại hình thông tin bí mật; kiến nghị sửa đổi quy
định về xử lý các tội xâm phạm BMNN trong BLHS năm 1999. Đồng thời các nhà
khoa học cũng đi đến thống nhất kiến nghị cần xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để thay
thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
1.1.2.2. Sách, luận văn
- Sách Các quy định pháp luật về bảo vệ BMNN, do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia ban hành [72], đã tập hợp một số VBQPPL về bảo vệ BMNN. Các văn bản
đó được tập hợp thành hai phần: Phần thứ nhất, những quy định chung, gồm Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002
“Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN”; Phần thứ hai, quy định của
pháp luật về bảo vệ BMNN trong các lĩnh vực cụ thể, gồm có 37 quyết định do Thủ
tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy định về danh mục BMNN
độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật trong các lĩnh vực cụ thể.
- Sách Danh mục BMNN, do Bộ Công an ban hành [14], đã tập hợp một số
VBQPPL về bảo vệ BMNN và 62 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng
Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành danh mục BMNN độ Tuyệt mật,
Tối mật và Mật của các bộ, ban, ngành trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
- Sách Các quy định của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về bảo vệ BMNN, do
Bộ Công an ban hành [06], đã tập hợp và hệ thống hóa các văn bản quy định của
Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về bảo vệ BMNN, bao gồm 4 phần: Phần thứ nhất,
gồm Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Phần
thứ hai, gồm hệ thống danh mục BMNN của các bộ, ngành, các ban của Đảng, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân
dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Thủ tướng Chính phủ và Bộ
trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành; Phần thứ ba, trích dẫn
những nội dung liên quan công tác bảo vệ BMNN trong các văn bản của Đảng, Nhà
14
nước và Bộ Công an đã ban hành; Phần thứ tư, giới thiệu các hiệp định đã ký kết
giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam với Chính phủ một số nước về
cùng bảo vệ tin mật (gồm 5 hiệp định giữa Việt Nam với Ba Lan, với Belarut, với
Bulgari, với Nga và với Ucraina). Trong mỗi hiệp định đó, có sự chấp thuận tương
đương về cấp độ mật của mỗi nước; đa số các nước cũng phân loại thành ba cấp độ
mật như ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, pháp luật một số nước còn có những điểm
khác, như: Ba Lan ngoài ba độ mật còn có thêm mức độ “lưu hành nội bộ” cũng là
một mức độ mật; Bulgari có thêm mức độ “hạn chế” cũng là một mức độ mật; Liên
bang Nga có 3 mức độ mật: Tuyệt mật, Mật (ứng với mức độ Tối mật và Mật của
Việt Nam) và mức độ “để sử dụng nội bộ” cũng là một mức độ mật; Ucraina có 3
mức độ mật là: Đặc biệt quan trọng, Hoàn toàn mật và Mật.
Trong công trình này, tác giả đã tập hợp hóa các quy định của Đảng, Nhà nước
và Bộ Công an về bảo vệ BMNN tính đến thời điểm tập hợp hóa. Tuy nhiên, trong
công trình vẫn chưa tách biệt rõ VBQPPL về bảo vệ BMNN với các văn bản của
Đảng và các chỉ thị, văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ và Bộ Công an.
- Luận văn Các tội xâm phạm BMNN trong LHS Việt Nam của tác giả Phạm
Văn Sính [83] đã nghiên cứu về các tội xâm phạm BMNN trong LHS Việt Nam theo
quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong đó tác giả tập
trung làm rõ về các tội xâm phạm BMNN được quy định tại Điều 263, Điều 264
BLHS năm 1999, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định về hai tội
này và kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng tách từng hành vi trong hai điều luật
này ra thành các tội độc lập. Theo đó, Điều 263 sẽ tách thành các tội: Điều 263. Tội
cố ý làm lộ BMNN; Điều 263a. Tội chiếm đoạt BMNN; Điều 263b. Tội mua bán
BMNN; Điều 263c. Tội tiêu hủy trái phép BMNN. Điều 264 sẽ tách thành các tội:
Điều 264. Tội vô ý làm lộ BMNN; Điều 264a. Tội làm mất BMNN.
1.1.2.3. Bài báo, tạp chí khoa học
- Bài viết Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN của tác giả Phan Quang Vinh
[115], đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN. Bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân thường có
sự xung đột, kể cả trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn áp dụng,
15
không chỉ ở Việt Nam mà ở cả nhiều nước trên thế giới. Nhu cầu hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN, xuất phát từ các lý do sau:
Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
quan trọng đó, phải có một hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN đầy đủ, toàn diện, hiệu
lực và hiệu quả.
Đến nay, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trực tiếp điều chỉnh mới chỉ là
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN. Bên cạnh đó, một số quan hệ xã hội phát sinh có liên quan
đến bảo vệ BMNN lại được điều chỉnh bởi các văn bản luật khác.
Một số vấn đề liên quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều chỉnh bằng pháp
luật. Một số nội dung của bảo vệ BMNN tuy đã được điều chỉnh bằng pháp luật,
nhưng chưa đầy đủ và thiếu cụ thể.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, thông tin về các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, quốc phòng, an ninh có sự vận động, sẽ kéo theo sự thay đổi nhất định về
phạm vi BMNN và yêu cầu công tác quản lý, bảo vệ BMNN. Bởi vậy, các quy định
về bảo vệ BMNN hiện tại đã phát sinh nhiều bất cập, nhất là trong mối quan hệ với
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.
Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm bảo vệ ANQG và mục tiêu, quan điểm trong
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-NQ/TW,
bài viết đã nêu ra yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.
Đồng thời, bài viết đã nêu ra nhiều kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN,
từ rà soát, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN, tổng kết thực tiễn áp dụng
pháp luật về bảo vệ BMNN, nghiên cứu kinh nghiệp lập pháp của nước ngoài đến
xây dựng Luật Bảo vệ BMNN, kịp thời ban hành các danh mục BMNN và sửa đổi
các VBQPPL khác có liên quan, nhất là sau khi Luật Bảo vệ BMNN được ban hành
để đảm bảo đồng bộ và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Từ những vấn đề nêu trên, bài viết có giá trị tham khảo trực tiếp cho nghiên cứu
sinh trong quá trình nghiên cứu luận án, nhất là một số lý do và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN.
- Bài viết Quy định về công tác bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay của tác giả
Trần Việt Dũng [29], đã hệ thống hóa và phân chia các quy định về công tác bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay thành các nhóm chính sau: các văn bản của Đảng về
16
bảo vệ BMNN, bí mật nội bộ Đảng; các VBQPPL về bảo vệ BMNN (gồm nhóm
VBQPPL về bảo vệ BMNN - Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và các văn bản
hướng dẫn thi hành; nhóm VBQPPL có liên quan đến bảo vệ BMNN; nhóm
VBQPPL quy định về tội phạm và chế tài xử lý các hành vi vi phạm quy định của
pháp luật về bảo vệ BMNN); các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia về bảo vệ BMNN hoặc liên quan đến việc hợp tác, chia sẻ thông tin BMNN; các
văn bản do các cơ quan, tổ chức ban hành quy định cụ thể về bảo vệ BMNN trong
phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý.
- Bài viết Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN trong
tình hình mới của tác giả Trần Văn Thành [91], đã đề cập đến lịch sử hình thành,
phát triển của hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN và đề xuất một số giải pháp để
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Bài viết đã nêu ra các VBQPPL về
bảo vệ BMNN, gồm: Sắc lệnh số 54/SL ngày 17/11/1950 ấn định những hình phạt
tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của Chính phủ; Sắc lệnh số 69/SL ngày
10/12/1951 về giữ BMQG để bổ khuyết cho Sắc lệnh số 54/SL; Nghị định số 69/CP
ngày 14/6/1962; Thông tư số 67-TTg ngày 20/6/1962; Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
1991 và Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Để thực hiện các pháp lệnh trên, Chính
phủ, Bộ Công an đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN năm 2000 còn có các văn luật, dưới luật tuy không trực tiếp điều chỉnh về
bảo vệ BMNN nhưng có chứa những quy phạm chung nhất về bảo vệ BMNN. Bài
viết cũng chỉ ra yêu cầu khách quan phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
BMNN từ nguyên nhân của tình trạng lộ, mất BMNN; những hạn chế, bất cập trong
pháp luật về bảo vệ BMNN và yêu cầu bảo vệ BMNN trong thời kỳ hội nhập quốc tế
sâu rộng hiện nay.
Bài viết đã đề xuất năm giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
BMNN, đó là: (1) Quán triệt sâu sắc các mục tiêu, quan điểm nêu trong Nghị quyết
số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam;
(2) Rà soát, hệ thống hóa các VBQPPL về bảo vệ BMNN và các VBQPPL khác có
liên quan để bổ sung, hoàn thiện. Sớm xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để nâng cao
hiệu lực pháp lý, làm cơ sở để bổ sung, sửa đổi các VBQPPL khác có liên quan; (3)
Tập trung nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp, tham khảo pháp luật của nước ngoài về
17
bảo vệ BMNN để vận dụng vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN của Việt Nam; (4) Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN cần chú trọng công tác tổng kết thực tiễn; (5) Tổ chức lấy ý kiến góp ý của
các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia và các nhà khoa học; đầu tư kinh tư kinh
phí hợp lý phục vụ cho các hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
bảo vệ BMNN.
- Bài viết Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay
của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng [47], đánh giá các quy định về bảo vệ BMNN ở
nước ta hiện nay tương đối đầy đủ, bảo đảm tính hệ thống, là cơ sở vững chắc cho
hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy sau gần
15 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và các văn bản hướng dẫn thi hành, đến
nay có nhiều quy định bộc lộ hạn chế, cần được bổ sung như: một số vấn đề liên
quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều chỉnh bằng pháp luật; một số quy định của
pháp luật về bảo vệ BMNN thiếu tính khả thi, không thống nhất và khó triển khai
trên thực tế; việc sử dụng một số thuật ngữ trong Hiến pháp, BLHS, Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN và các văn bản dưới luật chưa thống nhất.
Từ những hạn chế nêu trên, bài viết đã đề xuất một số giải pháp cơ bản để hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN như: các cơ quan có thẩm quyền cần tập
trung phối hợp xây dựng Luật Bảo vệ BMNN thay thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
2000; cần nhanh chóng rà soát, thống kê toàn diện các VBQPPL khác ở các lĩnh vực
có liên quan đến bảo vệ BMNN để bổ sung, sửa đổi, đảm bảo tính thống nhất; chú
trọng công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn công tác bảo vệ BMNN nhằm phát huy các
kết quả đã đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm, khắc phục những thiếu sót, bất cập
để kịp thời điều chỉnh; tổ chức nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm lập pháp và pháp
luật của các nước về bảo vệ BMNN để vận dụng cho phù hợp với quá trình xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN của Việt Nam; tăng cường hoạt động
kiểm tra, xử lý VBQPPL liên quan đến bảo vệ BMNN đảm bảo tính hợp hiến, hợp
pháp và thống nhất của hệ thống văn bản về lĩnh vực này.
- Bài viết Về khái niệm BMQG, BMNN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 của tác giả Mai Tùng Lâm [54], đã chỉ ra sự khác nhau giữa hai khái niệm
BMNN và BMQG xuất phát từ sự khác nhau giữa hai khái niệm nhà nước và quốc
18
gia. Bài viết đi đến kết luận khái niệm BMQG có nội hàm rộng hơn khái niệm
BMNN. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nội hàm khái niệm BMQG và BMNN
được quan niệm đồng nhất, dẫn đến việc sử dụng không thống nhất trong các văn bản
pháp quy. Sự không thống nhất này được tác giả chỉ ra cả trong Từ điển Tiếng Việt,
đến quy định trong Sắc lệnh số 69/SL ngày 10/12/1951, đến Hiến pháp năm 1992 và
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Dưới góc độ lập pháp, bài viết đã đưa ra hai
phương án: phương án 1 - sử dụng khái niệm BMQG và sửa đổi các VBQPPL khác;
phương án 2 - sử dụng khái niệm BMNN, chỉ cần sửa đổi Điều 79 Hiến pháp năm
1992. Qua phân tích từng phương án, tác giả đi đến kết luận đề xuất dùng phương án
2 - sử dụng khái niệm BMNN.
- Bài viết Góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN của tác giả Phan
Xuân Tuy [107], đã đề cập đến nhiều vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN. Pháp
luật về bảo vệ BMNN là bộ phận của hệ thống QPPL của Nhà nước ta, bao gồm hệ
thống các QPPL do nhà nước ban hành dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo vệ BMNN luôn luôn phải đáp ứng đồng
thời các yêu cầu của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân được quy
định trong Hiến pháp, các luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Pháp
luật về bảo vệ BMNN bao gồm hệ thống các QPPL thể hiện trong nhiều VBQPPL là
nguồn của nhiều ngành luật và pháp luật về bảo vệ BMNN có mối quan hệ mật thiết
với các văn bản của Đảng liên quan đến bảo vệ BMNN, bí mật của Đảng.
Bài viết cũng chỉ ra những vấn đề cần thống nhất nhận thức trong quá trình
hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, đó là: xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ yêu cầu hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN. Trên cơ sở đánh giá đúng xu hướng phát triển của pháp luật về bảo
vệ BMNN, đánh giá đúng nhu cầu của thực tiễn, bám sát các tiêu chí, tiêu chuẩn của
pháp luật về bảo vệ BMNN: bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của
VBQPPL về bảo vệ BMNN trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Bài viết cũng kiến nghị một số vấn đề liên quan đến hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN đó là: cần xây dựng Luật Bảo vệ BMNN, trong đó cần quy định rõ
khái niệm BMNN theo hướng bao quát hết nội dung BMNN cần bảo vệ và phải
19
thuộc danh mục BMNN do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; kiến nghị
sửa đổi Điều 263 và Điều 264 BLHS năm 1999; cần thống nhất trong sử dụng một số
thuật ngữ liên quan đến bảo vệ BMNN.
Đây là bài viết đã đề cập trực tiếp đến một số vấn đề của pháp luật về bảo vệ
BMNN và có giá trị tham khảo về hướng tiếp cận trong quá trình nghiên cứu sinh
nghiên cứu luận án.
- Trong bài viết Bàn về khái niệm BMQG, BMNN trong quá trình xây dựng
Luật Bảo vệ BMNN của tác giả Mai Tùng Lâm [56], đã chỉ ra sự khác nhau giữa hai
khái niệm BMQG và BMNN. Các nước trên thế giới sử dụng thuật ngữ BMQG hay
BMNN trong các văn bản pháp luật cũng khác nhau (Mỹ, Nga sử dụng BMQG;
Trung Quốc, Georgia, Moldova… sử dụng BMNN). Hiệp định của Chính phủ Việt
Nam ký kết với Chính phủ các nước Ba Lan, Belarut, Bulgari, Nga và Ucraina sử
dụng cụm từ “tin mật”. Như vậy, các nước khác nhau trên thế giới sử dụng khái niệm
BMNN hay BMQG cũng khác nhau.
- Bài viết Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN
và thực tế áp dụng của tác giả Bùi Vọng Long [63], đã thống kê các VBQPPL về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN gồm: Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP; Thông tư số 12/2002/TT-BCA;
Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ Quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội; Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 167/2013/NĐ-CP. Các VBQPPL trên
quy định về những vấn đề: các hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ BMNN; nguyên tắc áp dụng; thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; quy
trình xử phạt vi phạm hành chính; thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính; ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; thời hạn ra quyết định và thủ tục
nộp tiền phạt. Ngoài ra, bài viết cũng nêu lên thực trạng áp dụng các quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN, theo đó, từ năm 2000 đến
nay mới chỉ có 02 trường hợp áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ BMNN với tổng số tiền là 18 triệu đồng.
- Bài viết Vấn đề giải mật tài liệu, vật mang BMNN theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện nay và kinh nghiệm của một số nước của tác giả Đặng Thị Hồng
20
Nhung [73], đã nêu ra cơ sở pháp lý của việc giải mật tài liệu, vật mang BMNN, trực
tiếp là Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20/7/2015 của Bộ Công an Hướng dẫn
thực hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP và đi đến kết luận: Việc đưa
ra quy định giải mật tài liệu, vật mang BMNN đã góp phần đảm bảo thực hiện quyền
tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, việc quy định giải mật tài liệu, vật mang BMNN trong
Thông tư số 33/2015/TT-BCA chỉ mang tính chất tạm thời. Về lâu dài, cần hoàn
thiện hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN, trọng tâm là xây dựng Luật Bảo vệ
BMNN và các văn bản hướng dẫn thi hành phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Trong đó
cần quy định cụ thể thời hạn giải mật tài liệu, vật mang BMNN; đảm bảo các quy
định của pháp luật về bảo vệ BMNN hài hòa, thống nhất với Luật Tiếp cận thông tin,
Luật Lưu trữ và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Bài viết cũng phân tích quy định về cơ chế giải mật tài liệu, vật mang BMNN
của một số nước như Mỹ, Nga, Pháp, Trung Quốc, trong đó có đi sâu phân tích quy
định về giải mật của Liên bang Nga.
- Bài viết Hoàn thiện chế định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức ở trung ương
và địa phương trong bảo vệ BMNN của tác giả Nguyễn Trường Thọ [93], đã thống kê
các quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương theo
quy định của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP và
Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg. Bài viết đã chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong các
quy định đó, như: chưa bao quát đầy đủ các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa
phương có trách nhiệm trong bảo vệ BMNN; sự chưa thống nhất và tập trung trong các
quy định xác định trách nhiệm bảo vệ BMNN của cơ quan, tổ chức ở trung ương và
địa phương; một số quy định chưa toàn diện hoặc có những bất cập, vướng mắc gây
khó khăn trong quá trình thực hiện; quy định cụ thể về trách nhiệm bảo vệ BMNN còn
chưa đầy đủ; chế định trách nhiệm bảo vệ BMNN của các cơ quan, tổ chức còn chung
chung, chưa phân định rõ trách nhiệm bảo vệ BMNN của cơ quan, tổ chức ở trung
ương và địa phương với các cơ quan, tổ chức cấp dưới trực tiếp.
Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp để góp phần nghiên cứu, hoàn thiện chế
định về trách nhiệm bảo vệ BMNN của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa
phương, như: cần xác định rõ đây là một nội dung quan trọng của dự thảo Luật Bảo vệ
BMNN; bổ sung một điều giải thích về từ ngữ, trong đó cần làm rõ khái niệm người
21
được ủy quyền lập danh mục BMNN và người được người đứng đầu cơ quan, tổ chức
ở trung ương và địa phương ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ
BMNN; tích hợp các quy định về trách nhiệm bảo vệ BMNN trong cùng một văn bản
và bổ sung để hoàn thiện chế định quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN của các cơ
quan, tổ chức và công dân; cần có điều luật riêng quy định về trách nhiệm của Bộ
Thông tin và truyền thông, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính
phủ, Bộ Tài chính… trong bảo vệ BMNN; cần quy định rõ hơn về trách nhiệm bảo vệ
BMNN của các cơ quan, tổ chức cấp vụ, cục, sở và tương đương, UBND cấp huyện.
- Trong bài viết Hoàn thiện quy định về phạm vi và phân loại BMNN trong
pháp luật Việt Nam từ kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia của tác giả Nguyễn
Quế Thu [94], đã khái quát một số nội dung đặc trưng, đặc thù trong pháp luật về bảo
vệ BMNN của các nước: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Ucraina, Singapore, Albani, Litva,
Mông Cổ, Nhật Bản và Nga. Về tên gọi, các quốc gia thuộc khối thịnh vượng chung
thường sử dụng cụm từ “officical secrets act - Luật bí mật công”, trong khi đó, các
nước thuộc Đông Âu cũ thường sử dụng cụm từ “law on state secrets - Luật về
BMNN”. Cụ thể, Mỹ ban hành Luật về thông tin mật trong tố tụng; Nhật Bản có đạo
luật bảo vệ bí mật ở cấp độ đặc biệt; Nga có Luật về thông tin, công nghệ thông tin
và bảo vệ thông tin; Trung Quốc ban hành Luật Bảo vệ BMNN; Singapore sử dụng
Luật bí mật công; Albani quy định Luật về thông tin được xếp loại BMNN; Ucraina
có Luật về BMNN; Litva ban hành Luật BMNN và bí mật công vụ; Mông Cổ ban
hành hai đạo luật liên quan đến BMNN, gồm Luật Bảo vệ BMNN và Luật về việc
phê duyệt danh sách BMNN.
Tác giả chỉ ra 4 cách thức quy định về phạm vi bảo vệ BMNN của các nước:
(1) Quy định một cách chung nhất, đưa ra khái niệm thế nào là BMNN, BMNN được
xác định gồm những loại thông tin, tài liệu, tài sản, vật dụng nào, do cấp nào quản lý
(như ở Litva, Trung Quốc, Ucraina, Albani), (2) Quy định theo hướng liệt kê toàn bộ
các thông tin, lĩnh vực thuộc phạm vi mật hoặc khu vực thuộc phạm vi cấm (như ở
Singapore, Nhật Bản), (3) Quy định chung về thông tin và việc hạn chế tiếp cận
thông tin, theo đó, sẽ gián tiếp quy định loại thông tin nào được tiếp cận, loại thông
tin nào không được tiếp cận, từ đó quy định biện pháp bảo vệ thông tin (như ở Liên
bang Nga), (4) Vừa ban hành luật về BMNN, vừa ban hành luật riêng biệt để liệt kê
22
danh mục thuộc phạm vi BMNN (như ở Mông Cổ).
Nhìn chung, các quốc gia đều coi BMNN là những thông tin, tài liệu của nhà
nước, chính phủ trên các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế, tố tụng…
(gọi chung là các lĩnh vực công); chỉ có pháp luật Trung Quốc coi bí mật của các
đảng chính trị mà có ảnh hưởng quan trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc cũng được
xem như BMNN. Nhật Bản đặc biệt coi trọng sự an toàn của công dân nước này nên
thực hiện việc bảo vệ thông tin mật nhằm cả hai mục đích là bảo đảm an toàn quốc
gia và việc bảo đảm an toàn của công dân Nhật Bản. Litva lại có sự phân biệt giữa
BMNN với bí mật công vụ. Do vậy, quốc gia này ban hành Luật BMNN và bí mật
công vụ năm 1999. Theo quy định tại Điều 5 của Luật này, có 27 loại thông tin, tài
liệu sẽ được coi là BMNN và 14 loại thông tin, tài liệu được coi là bí mật công vụ.
Về phân loại BMNN, đa số các quốc gia nêu trên đều phân thành 3 loại theo
hướng truyền thống, gồm: “mật”, “tối mật”, “tuyệt mật”. Việc phân loại độ “mật”
hay “tối mật” hoặc “tuyệt mật” căn cứ vào nội dung, tầm quan trọng và lợi ích quốc
gia mà thông tin, tài liệu đó chứa đựng. Cách định nghĩa khái niệm “mật”, “tối mật”,
“tuyệt mật” của các quốc gia có sự khác nhau tùy thuộc theo truyền thống tư duy về
lập pháp và thực tiễn pháp lý của quốc gia. Thông thường các quốc gia đưa ra khái
niệm “tuyệt mật”, “tối mật”, “mật” thông qua việc ước lượng các thiệt hại mà việc
tiết lộ thông tin, tài liệu đó có thể gây hậu quả cho ANQG trên các cấp độ “vô cùng
nghiêm trọng”, “nghiêm trọng” hoặc “gây thiệt hại”. Ngoài những quy định chung về
việc phân loại BMNN nêu trên, một số quốc gia còn có thêm các cách phân loại khác
như Albani còn có thêm quy định việc phân loại ban đầu và phân loại phái sinh.
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Trên cơ sở nghiên cứu các công trình khoa học được công bố liên quan đến
luận án, có thể đánh giá kết quả đạt được như sau:
- Đến nay đã có các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm BMNN và bảo
vệ BMNN, nhưng chủ yếu dưới góc độ công tác bảo vệ BMNN của lực lượng
CAND. Trong đó, khái niệm BMNN được các công trình đề cập đến như quy định
trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 mà chưa đi sâu phân tích làm rõ nội hàm
23
và dấu hiệu hay đặc điểm của BMNN. Mặc khác, do cách tiếp cận khác nhau nên các
công trình này chưa thống nhất về khái niệm và nội hàm của công tác bảo vệ BMNN,
nhất là dưới góc độ pháp lý.
- Ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, các công trình nghiên cứu được công
bố đã đề cập đến khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên,
các công trình đó chủ yếu đề cập một cách gián tiếp về khái niệm và đặc điểm của
pháp luật về bảo vệ BMNN, có ít công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Trong
số công trình đó, có công trình đã đưa ra cách hiểu pháp luật về bảo vệ BMNN và
đây được xem như khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN. Đồng thời, đề cập đến một
số nội dung được coi như đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN, đó là: “Pháp luật
về bảo vệ BMNN luôn luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu của quản lý nhà
nước về bảo vệ BMNN và công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền tự do, dân
chủ, quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp, các luật và
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”; “Pháp luật về bảo vệ BMNN có mối
quan hệ mật thiết với các văn bản của Đảng liên quan đến bảo vệ BMNN, bí mật của
Đảng” [107]. Ngoài ra, còn có một số công trình đề cập rõ hơn nội dung pháp luật về
bảo vệ BMNN liên quan đến các quyền tự do, dân chủ cơ bản của con người, như:
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin...
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN đã đề cập một cách rất khái quát lịch sử và sự phát triển của pháp luật về bảo
vệ BMNN thông qua các VBQPPL mang tính chất chuyên ngành về bảo vệ BMNN
từ Sắc lệnh số 154-SL ngày 10/12/1950, đến Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
Tuy nhiên, các công trình đó chưa phân chia thành các giai đoạn phát triển gắn với
yêu cầu bảo vệ BMNN trong từng giai đoạn của cách mạng. Mặt khác, các công trình
nghiên cứu đó mới đề cập đến thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN dưới dạng liệt
kê một số VBQPPL chủ yếu về bảo vệ BMNN hiện nay; chưa có nhận xét, đánh giá
toàn diện thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; chưa chỉ
ra kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế bất
cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay để làm cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.
24
- Trên cơ sở quán triệt mục tiêu, quan điểm xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam trong Nghị quyết số 48-NQ/TW, các công trình nghiên cứu liên
quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN bước đầu đã chỉ ra mục tiêu, quan
điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Mục tiêu, quan điểm này được xác định
từ mục tiêu, quan điểm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung, được cụ thể hóa và gắn với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN. Tuy nhiên, với mức độ cụ thể hóa các mục tiêu, quan điểm trong Nghị quyết
số 48-NQ/TW khác nhau nên các công trình nghiên cứu chưa có sự thống nhất trong
việc xác định mục tiêu, quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.
- Dưới nhiều mức độ và phương diện khác nhau, các công trình nghiên cứu liên
quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN đã đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Trong đó, có công trình chỉ đề cập đến một giải
pháp, có công trình đề cập đến một số giải pháp, có thể khái quát các giải pháp mà
các công trình nghiên cứu đã đưa ra thành các nhóm sau:
Cần tổng kết công tác bảo vệ BMNN và việc thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN
năm 2000 trong thời gian qua để xây dựng Luật Bảo vệ BMNN;
Cần xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN
năm 2000 nhằm nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN. Trong
đó cần chú ý sử dụng thống nhất một khái niệm BMNN hay BMQG; cần quy định rõ
hơn về việc phân loại BMNN; cần quy định cụ thể về việc giải mật tài liệu, vật mang
BMNN…;
Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các văn bản pháp luật khác cho
thống nhất, đồng bộ như trong BLHS, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Báo chí,
các luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin…;
Như vậy, qua nghiên cứu cho thấy, các công trình khoa học được công bố liên
quan trực tiếp đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam chủ yếu là các
bài viết, bài báo khoa học. Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề nhất định
của pháp luật về bảo vệ BMNN, tuy nhiên đa số được đề cập một cách gián tiếp, một
số ít công trình trực tiếp nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN. Đồng thời, nhiều
vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN được đề cập nhưng chưa có sự thống nhất;
chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN.
25
Với tình hình nghiên cứu nêu trên, có thể khẳng định đề tài “Hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” là đề tài mới, không trùng với công trình khoa
học nào đã công bố.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết và câu hỏi
nghiên cứu
1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Trong luận án, nghiên cứu sinh đặt ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,
làm sáng tỏ như sau:
- Về mặt lý luận, các vấn đề cần phải giải quyết là:
Xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN; phân tích đặc điểm, nội dung
điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN và làm rõ vai trò của pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam.
Làm rõ hệ thống các tiêu chí là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ BMNN ở Việt Nam.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN
ở Việt Nam hiện nay.
Rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở
một số nước trên thế giới.
- Về mặt thực tiễn, các vấn đề cần phải giải quyết là:
Làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm
1945 đến nay.
Phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện
nay, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập đó.
Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN ở Việt Nam hiện nay.
1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu đề tài luận án
Với kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
26
Bảo vệ BMMNN là một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, Đảng, Nhà
nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ BMNN, sử dụng các lực lượng, phương
tiện, biện pháp để bảo vệ BMNN, trong đó pháp luật được coi là “công cụ sắc bén,
hữu hiệu”. Pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động bảo vệ BMNN; góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm
của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; bảo vệ nhóm quan hệ xã hội có tầm
quan trọng đặc biệt; tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo
vệ BMNN bao gồm các nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN, quy định
quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và
công dân trong bảo vệ BMNN, quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về
bảo vệ BMNN. Hiện nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập nhất định cả về nội dung điều chỉnh và hình thức đòi hỏi phải được hoàn thiện để
đáp ứng yêu cầu bảo vệ BMNN trong tình hình mới và phù hợp với định hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Từ đó, luận án đứng trước một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời:
1. Pháp luật về bảo vệ BMNN là gì?
2. Pháp luật về bảo vệ BMNN có đặc điểm, vai trò như thế nào?
3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN ra sao?
4. Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN dựa vào
những tiêu chí nào?
5. Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945
đến nay như thế nào?
6. Những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là gì?
7. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay cần xuất phát từ
những quan điểm mang tính chất định hướng nào?
8. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay là gì?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, các công trình khoa học được
công bố liên quan trực tiếp đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam
27
chủ yếu là các bài viết, bài báo khoa học và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau,
một số ít công trình trực tiếp nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN.
Các công trình nghiên cứu được công bố đã đề cập đến những vấn đề nhất định
của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái niệm, đặc điểm BMNN; phạm vi BMNN;
giải mật BMNN; khái niệm và nội dung của công tác bảo vệ BMNN… Có công trình
đã trực tiếp đề cập đến một số nội dung của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái
niệm pháp luật về bảo vệ BMNN; đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN; hệ
thống các VBQPPL của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay; một số hạn chế, bất
cập của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; nhu cầu, quan điểm và
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, còn nhiều vấn đề liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam chưa được đề cập hoặc chưa được luận giải đầy đủ, đặt ra nhiệm vụ cho luận án
cần phải tiếp tục làm rõ như: khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quá trình phát triển và thực trạng
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy, qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án cho thấy,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ BMNN ở Việt Nam. Các công trình này mới đề cập đến một số vấn đề
nhất định của pháp luật về bảo vệ BMNN dưới các phương diện và mức độ nhất
định, qua đó giúp cho nghiên cứu sinh có thể kế thừa những kết quả nghiên cứu, tiếp
tục triển khai, phát triển trong luận án những vấn đề còn bỏ ngỏ; giúp nghiên cứu
sinh hoàn thành các nhiệm vụ mà luận án đã đặt ra.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ CỦA
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước và bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “bí mật” được hiểu là: “Điều cần giữ kín
trong phạm vi một số ít người, không để lộ cho người ngoài biết” [113, tr.155]. Như
vậy, “bí mật” là thuật ngữ quy ước về những điều được giữ kín, không để lộ ra,
không được công khai. Quan niệm về bí mật được hình thành từ buổi sơ khai của xã
hội loài người, khi con người ý thức được sự cần thiết phải giữ kín những điều có thể
đem lại nguồn lợi hoặc gắn với lợi ích hay sự sinh tồn của mình. Theo nghĩa đó, bí
mật là một khái niệm rất rộng, có thể là bí mật của một cá nhân, một gia đình, một tổ
chức hoặc của một nhà nước. Mỗi cá nhân, tổ chức, nhà nước đều có những bí mật
riêng của mình, họ là chủ sở hữu bí mật. Trong các chủ thể sở hữu bí mật thì nhà
nước là chủ sở hữu của nhiều bí mật quan trọng, vì khi những bí mật này bị lộ thì sẽ
ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của một chế độ, một nhà nước, một dân tộc. Như
vậy, BMNN, là một thuật ngữ dùng để chỉ những bí mật thuộc phạm vi nhà nước
quản lý, chi phối, nếu để lộ thì sẽ gây nguy hại cho nhà nước.
Ở Việt Nam, BMNN là thuật ngữ dùng để chỉ những bí mật thuộc sở hữu của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, do các cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan
được nhà nước uỷ quyền tạo ra, khai thác, sử dụng và bảo vệ vì lợi ích chung của nhà
nước và toàn xã hội. Hiện nay, BMNN được hiểu là “những tin về vụ, việc, tài liệu,
vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà
nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [109].
Bí mật nhà nước trước hết phải là những tin (thông tin) về vụ, việc, tài liệu, vật,
địa điểm, thời gian, lời nói, tức là những điều báo cho chúng ta biết về một sự việc,
29
một hành động hay một vật, một văn bản, lời nói nào đó trong một khoảng thời gian,
địa điểm xác định. Những thông tin đó là những thông tin quan trọng thuộc các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa
học, công nghệ, văn hoá, giáo dục,..
Bí mật nhà nước là những tin mà Nhà nước không công bố (có thể vĩnh viễn)
hoặc chưa công bố (có thời hạn). Nội dung, phạm vi BMNN phản ánh chủ trương,
đường lối, chính sách và hoạt động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, có tác
động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, vững mạnh của Nhà nước và chế độ
XHCN ở nước ta. Do tính chất quan trọng của thông tin nên Nhà nước không công
bố hoặc chưa công bố và có biện pháp bảo vệ an toàn cho những tin đó.
Những tin thuộc phạm vi BMNN nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam. Vì vậy, những tin nếu bị tiết lộ mà không gây nguy hại
cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thì không phải BMNN.
Với nhận thức về BMNN như trên cho thấy, BMNN có những đặc điểm cơ bản sau:
- Bí mật nhà nước là những thông tin có có giá trị đặc biệt, quan hệ trực tiếp
đến sự tồn tại, phát triển bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Ở Việt Nam, BMNN được tạo ra và gắn liền với quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và tổ chức, hoạt động của các
cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Nó phản ánh chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Bí mật
nhà nước được hình thành trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và hoạt
động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị, bao gồm: nghệ thuật, phương
pháp cách mạng; phương pháp tổ chức, định hướng điều hành, hoạt động đối nội, đối
ngoại của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị; các
phát minh, sáng chế, giải pháp khoa học, công nghệ mới và những thông tin phản
ánh tình hình nội bộ có tính chất nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hoạt động
bình thường, ổn định, vững mạnh của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Thông tin
thuộc phạm vi BMNN trở thành căn cứ, cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và tổ
chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động và các
hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị để thực hiện
30
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sản phẩm mới có chất lượng, góp phần
củng cố, nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của quốc gia trong bối
cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế.
- Bí mật nhà nước là những thông tin cần được giữ kín, không công khai, nếu bị
tiết lộ sẽ gây nguy hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và rất khó khắc phục. Bí mật
nhà nước khi bị tiết lộ có thể gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về vật chất, uy
tín, danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế, uy tín của Đảng, Nhà nước... đe doạ
đến sự phát triển ổn định, vững mạnh của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
hoặc bị các thế lực thù địch, các loại tội phạm và phần tử xấu sử dụng để chống
Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước phải bảo vệ bằng những biện pháp cần
thiết, trong đó giữ kín và giới hạn phạm vi nắm giữ thông tin bí mật là biện pháp
quan trọng. Phạm vi giữ bí mật là bí mật đối với người không có trách nhiệm trong
soạn thảo, in, sao, vận chuyển, chuyển giao, sử dụng, lưu giữ, bảo quản và tiêu huỷ...
mà không phải bí mật đối với tất cả mọi người. Như vậy, đặc trưng về phương thức
tồn tại của thông tin thuộc phạm vi BMNN là phương thức bí mật. Cấp độ giữ bí mật
của mỗi thông tin khác nhau có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ quan
trọng của nó và hậu quả tác hại xảy ra nếu bị lộ, mất.
- Bí mật nhà nước thể hiện dưới nhiều hình thức: chữ viết, âm thanh, hình ảnh,
ký hiệu, tín hiệu, tín hiệu số... Nội dung thông tin cũng rất đa dạng, có thể là thông
tin về vụ, việc, địa điểm, thời gian, lời nói thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội: chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ... Cũng có khi chỉ là những thông tin liên quan đến cá nhân nhưng
nếu bị tiết lộ sẽ gây nguy hại cho Nhà nước. Chẳng hạn như thông tin về cá nhân
lãnh tụ, lịch trình làm việc của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa công bố...
Bí mật nhà nước có thể được chứa đựng trong nhiều phương tiện mang thông tin
khác nhau như: văn bản, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, thẻ nhớ hay một vật, sản phẩm
hoặc trong bộ óc của một người.
- Phạm vi BMNN luôn có sự thay đổi theo thời gian và cùng với sự phát triển
của kinh tế, xã hội. Bí mật nhà nước có tính lịch sử vì nó không tồn tại vĩnh viễn mà
chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và hoạt động chuyên môn của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
31
Tính chất quan trọng, phạm vi, độ mật (Tuyệt mật, Tối mật, Mật) của BMNN cũng
thay đổi (giải mật, tăng, giảm độ mật) theo yêu cầu của công tác bảo vệ nhằm phục
vụ có hiệu quả các hoạt động đối nội, đối ngoại, phát triển kinh tế, xã hội và an ninh,
quốc phòng. Một thông tin BMNN, dù quan trọng nhưng khi đã được Nhà nước công
bố công khai thì tính mật không còn nữa. Khoảng thời gian tồn tại của BMNN tùy
thuộc vào nội dung, tính chất và phạm vi của nó. Trên thực tế, có những BMNN mà
khoảng thời gian tồn tại của nó rất ngắn, tính bằng phút hoặc bằng giờ và ngược lại,
có những BMNN tồn tại hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm.
Chẳng hạn như bức thư do những người xây dựng thủy điện Hòa Bình viết,
hiện đang được bảo quản tại khu vực thủy điện Hòa Bình sẽ được giữ bí mật đến
năm 2100.
- Bí mật nhà nước có thể được vận chuyển, chuyển giao, sử dụng trong những
phạm vi nhất định, liên quan đến nhiều người, số lượng tài liệu, vật mang BMNN
tương đối lớn, do đó, luôn tiềm ẩn nguy cơ cao bị lộ, mất. Bí mật nhà nước do các cơ
quan nhà nước và các cơ quan được Nhà nước uỷ quyền tạo ra, được hình thành và
luôn gắn liền với quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà
nước, hệ thống chính trị. Theo yêu cầu khách quan, những BMNN được tạo ra từ quá
trình hình thành, phát triển của các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước phải được
sử dụng thường xuyên, đưa vào khai thác nhằm đảm bảo hoạt động chuyên môn bình
thường tại cơ quan, đơn vị, góp phần phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của Nhân
dân. Do vậy, BMNN thường được chuyển giao, sử dụng trong phạm vi nhất định, cả
ở trong nước và ở nước ngoài. Bí mật nhà nước cũng liên quan đến nhiều người, bao
gồm: người soạn thảo, tạo ra BMNN; người chịu trách nhiệm quyết định, in sao, vận
chuyển, giao nhận, bảo quản, lưu giữ, tiêu huỷ BMNN; người được phép nghiên cứu,
khai thác BMNN, các cá nhân, cơ quan, tổ chức sử dụng BMNN phục vụ cho hoạt
động chuyên môn ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... Mặt khác, xuất phát từ
đặc điểm hoạt động của hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay nên số lượng
tài liệu, vật mang BMNN thường rất lớn.
- Bí mật nhà nước là mục tiêu hoạt động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước
ngoài, là đối tượng xâm phạm của các loại tội phạm. Về bản chất, BMNN phản ánh
những lợi ích cơ bản của một quốc gia, dân tộc. Ở phạm vi hẹp hơn, BMNN luôn
32
chứa đựng những thông tin quan trọng, có liên quan đến hoạt động bình thường của
các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị xã hội, có liên hệ trực tiếp đến lợi ích
của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Chính vì thế, BMNN luôn là mục tiêu hoạt
động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, họ thu thập BMNN để phục vụ
cho việc hoạch định các chính sách, kế hoạch và quyết định của họ. Đồng thời
BMNN cũng là đối tượng xâm phạm của các loại tội phạm, các phần tử xấu để phục
vụ cho ý đồ và hoạt động của chúng.
2.1.1.2. Khái niệm bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay chưa có quy định khái niệm bảo vệ
BMNN, cho nên còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm bảo vệ BMNN. Có
quan điểm tiếp cận chung, coi bảo vệ BMNN là một hoạt động áp dụng pháp luật để
phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN, cho rằng: “Bảo vệ BMNN là hoạt
động tổ chức sử dụng lực lượng, biện pháp, phương tiện cần thiết để giữ gìn, chống
lại mọi sự huỷ hoại, xâm phạm BMNN; chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý
những hành vi làm lộ, mất hoặc xâm hại đến BMNN và kịp thời khắc phục hậu quả,
tác hại xảy ra” [09]. Quan điểm khác, tiếp cận dưới góc độ công tác Công an, coi
BMNN là một đối tượng quan trọng cần phải bảo vệ, chống lại mọi sự xâm hại của
các thế lực thù địch và vi phạm pháp luật khác thì cho rằng: “Công tác bảo vệ
BMNN là hoạt động tổ chức sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp đảm bảo
sự an toàn cho BMNN phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
hoạt động xâm hại đến BMNN và những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ
BMNN” [23]. Ngoài ra còn có quan điểm coi bảo vệ BMNN vừa là một hoạt động áp
dụng pháp luật, vừa là một công tác Công an: “Bảo vệ bí BMNN đó là hoạt động tổ
chức, sử dụng các lực lượng, phương tiện, biện pháp nhằm đảm bảo sự an toàn cho
BMNN, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
hại đến BMNN, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN, khắc phục hậu quả do vi
phạm pháp luật về bảo vệ BMNN gây ra” [107].
Như vậy, các quan điểm trên đều thống nhất cho rằng bảo vệ BMNN là hoạt
động tổ chức, sử dụng lực lượng, phương tiện, biện pháp để đảm bảo sự an toàn cho
BMNN, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
hại đến BMNN.
33
Mặt khác, bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ trong bảo vệ ANQG. Do đó, bảo vệ
BMNN cũng được hiểu là một bộ phận của bảo vệ ANQG. Luật ANQG quy định:
“Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt
động xâm phạm ANQG” [76, tr.8].
Với cách tiếp cận đó, ta có thể hiểu: Bảo vệ BMNN là phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN.
Như vậy, khái niệm bảo vệ BMNN đã chỉ rõ, bảo vệ bí mật gồm 4 loại hoạt
động có chung mục đích làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN, bảo đảm an
toàn BMNN, đó là: phòng ngừa; phát hiện; ngăn chặn và đấu tranh với các hoạt động
xâm phạm BMNN. Các hoạt động này được tiến hành đồng thời và thường xuyên,
liên tục. Mục tiêu cao nhất của bảo vệ BMNN là đảm bảo an toàn tuyệt đối cho
BMNN trong bất kỳ tình huống nào, không để cho các thế lực thù địch và bọn tội
phạm thu thập, chiếm đoạt được BMNN.
Nội dung bảo vệ BMNN là việc tổ chức, sử dụng tổng hợp các lực lượng,
phương tiện, biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các
hoạt động xâm phạm BMNN. Cụ thể gồm có các nội dung sau:
- Tham mưu với Đảng, Nhà nước tổ chức triển khai công tác bảo vệ BMNN. Để
tổ chức chỉ đạo có hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong phạm vi cả nước, Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương tham mưu
cho Đảng, Nhà nước ban hành đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ BMNN; chỉ
đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ BMNN; áp dụng các hình thức, biện pháp, đối
sách xử lý đối với các đối tượng thu thập, chiếm đoạt hoặc làm lộ, mất BMNN, đấu
tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động tình báo của các cơ quan đặc biệt nước ngoài.
- Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Đó là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước đối với
hoạt động xác lập, soạn thảo, in ấn, vận chuyển, giao nhận, sử dụng, lưu giữ, phổ
biến, nghiên cứu, cung cấp, tiêu huỷ BMNN của các cơ quan, tổ chức và công dân
nhằm đảm bảo an toàn cho BMNN. Quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN là một nội
dung của quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nói
riêng. Vì vậy, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền sử dụng pháp luật và
bằng pháp luật để quản lý đối với hoạt động bảo vệ BMNN.
34
- Xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch, áp dụng các biện pháp bảo vệ
BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các hoạt động có nội dung thuộc phạm vi
BMNN. Đây là nội dung trọng tâm, mang tính chất nghiệp vụ chuyên sâu của cơ
quan an ninh nhằm chủ động bố trí lực lượng, phương tiện, phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan, ban, ngành của Đảng, Nhà nước tổ chức bảo vệ an ninh các địa bàn, mục
tiêu trọng điểm nơi tập trung BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các hoạt
động quan trọng, có liên quan trực tiếp đến ANQG; phòng ngừa, ngăn chặn hoạt
động của các phần tử thù địch, các loại tội phạm đột nhập, xâm nhập phương tiện, kỹ
thuật thu thập, chiếm đoạt BMNN. Đồng thời, dự báo và đưa ra được phương hướng
xử lý các tình huống nghiệp vụ đột xuất, bất ngờ như: đối tượng tìm cách thu thập,
đánh cắp, moi hỏi thông tin BMNN hoặc cố ý cung cấp cho cá nhân, tổ chức nước
ngoài vì động cơ kinh tế hoặc chính trị...
- Phòng, chống lộ, mất BMNN và hoạt động của các thế lực thù địch, các đối
tượng phạm tội hoạt động thu thập BMNN. Cơ quan an ninh áp dụng tổng hợp các
biện pháp công tác theo quy định của pháp luật về ANQG, bao gồm: biện pháp quần
chúng, biện pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện pháp pháp luật, biện pháp khoa
hoc - kỹ thuật, biện pháp nghiệp vụ, biện pháp vũ trang để tổ chức phòng ngừa tại
các địa bàn, mục tiêu nơi tập trung nhiều BMNN, phát hiện kịp thời những sơ hở,
thiếu sót của các cơ quan chức năng và âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch,
các loại tội phạm xâm hại sự an toàn của BMNN. Trên cơ sở đó tổ chức triển khai
các biện pháp công tác ngăn chặn, bao vây, vô hiệu hoá, làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động xâm hại đến BMNN và những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
BMNN, khắc phục những hậu quả, thiệt hại xảy ra (nếu có).
- Điều tra, xử lý các vụ lộ, mất BMNN, đối tượng có hành vi thu thập, chiếm
đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN. Căn cứ vào quy định của pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan Công an trong công tác bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội, cơ quan an ninh tiến hành các biện pháp theo thẩm quyền để điều tra,
xác minh làm rõ nguyên nhân của các vụ lộ, mất BMNN; thu thập, củng cố tài liệu
chứng cứ về hành vi thu thập, chiến đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN của các
đối tượng, làm căn cứ để xử lý nghiêm minh trước pháp luật hoặc phục vụ công tác
đánh địch lâu dài.
35
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật nói chung được hiểu là những quy tắc xử sự chung (QPPL) do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước
bảo đảm thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, nhằm duy trì xã hội [42, tr.167]. Pháp luật được biểu hiện ra bên ngoài qua ba
hình thức là tập quán pháp, tiền lệ pháp và VBQPPL. Trong đó, VBQPPL là những
văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, có chứa đựng các quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung được áp dụng nhiều lần trong thực tế cuộc sống. Các
VBQPPL chia làm 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới luật. Đối với pháp luật Việt
Nam hiện nay, hình thức biểu hiện chủ yếu của pháp luật là VBQPPL, đây được coi
là một hình thức pháp luật tiến bộ nhất.
Cấu trúc của pháp luật gồm các bộ phận cấu thành là: QPPL, chế định pháp luật
và ngành luật. QPPL là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận; QPPL được coi là tế bào của hệ thống pháp luật. Chế định pháp luật
là tổng thể các QPPL điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại, đồng tính
chất trong cùng một ngành luật [42, tr.203].
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, là một bộ
phận hợp thành của hệ thống pháp luật nói chung. Đồng thời, pháp luật về bảo vệ
BMNN cũng là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành để điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong bảo vệ BMNN. Bảo vệ BMNN là một bộ phận quan trọng
trong bảo vệ ANQG, bảo đảm cho sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN
và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ quan trọng
của Nhà nước, của mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Để bảo vệ BMNN, Nhà nước
tiến hành nhiều hoạt động, trong đó có ban hành các QPPL quy định về BMNN,
quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân
trong bảo vệ BMNN và khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.
Tổng thể các QPPL đó có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN, tức là các quan hệ xã hội phát sinh
trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
36
phạm BMNN. Các QPPL này được thể hiện trong các VBQPPL do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các
QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN, được thể hiện trong
các VBQPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ
tục nhất định.
Khái niệm trên đây cho thấy, pháp luật về bảo vệ BMNN có cấu trúc chặt chẽ,
vừa bảo đảm tính liên kết nội tại, tính hệ thống vừa bảo đảm tính xác định chặt chẽ
về nội dung và hình thức biểu hiện. Theo đó, về nội dung điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm
BMNN. Các quy phạm đó bao gồm các QPPL quy định về BMNN, quản lý nhà nước
về bảo vệ BMNN, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong bảo vệ
BMNN và quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung, do
vậy, phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật; đồng thời, giữa
các QPPL này có mối liên hệ chặt chẽ, quan hệ nội tại, thống nhất, hướng đến việc
bảo vệ tuyệt đối an toàn cho BMNN. Về mặt hình thức, hệ thống QPPL về bảo vệ
BMNN được thể hiện trong các VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau,
từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và văn bản quy phạm dưới luật tạo thành trật tự
thống nhất; các văn bản này được ban hành theo trình tự, thủ tục luật định.
2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN là một bộ phận của hệ thống pháp luật, do vậy, nó
có đầy đủ các đặc trưng của pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ
BMNN có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ BMNN được hình thành từ rất sớm. Bảo vệ
BMNN là một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, gắn liền với sự ổn định,
phát triển bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự
bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng mới được
37
thành lập, đất nước ta đã phải đối phó với nhiều nguy cơ, thách thách to lớn về
ANQG, “thù trong, giặc ngoài”, tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước
tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, biện pháp
để bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ, trong đó có việc ban
hành các VBQPPL làm cơ sở cho việc đấu tranh ngăn chặn các âm mưu và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Các QPPL về bảo vệ BMNN ra đời ngay từ thời kỳ này và gắn liền với việc bảo
vệ ANQG, đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta.
Ngày 14/02/1946, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức các Tòa
án quân sự, trong đó quy định: “Tòa án quân sự xét xử tất cả những người nào phạm
một việc gì sau hay trước ngày 19/8/1945 có phương hại đến nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa" và “Tòa án quân sự có thể áp dụng một trong năm hình
phạt sau đây đối với người phạm tội xâm phạm ANQG”. Theo Sắc lệnh này, các
hành vi xâm phạm ANQG được hiểu là “việc gì sau hay trước ngày 19/8/1945 có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, trong đó có hành
vi xâm phạm đến BMNN (hoặc bí mật của Chính phủ, BMQG...). Đến các giai đoạn
tiếp theo, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các QPPL trực tiếp quy định về bảo vệ
BMNN như: Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950 về việc ấn định những hình phạt
trừng trị việc để tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của Chính phủ; Sắc lệnh số
69/SL ngày 05/12/1951 bổ khuyết Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950, mục đích là:
(1) Giữ BMQG, ngăn ngừa địch và tay sai của chúng dò xét, đánh cắp BMQG; (2)
Đặt nhiệm vụ cho bộ đội, cơ quan, cán bộ, các đoàn thể, các báo chí và nhân dân
phải giữ BMQG. Đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống các QPPL quy định về
bảo vệ BMNN, các QPPL này được quy định trong nhiều văn bản QPPL với các cấp
độ khác nhau, từ Hiến pháp đến các bộ luật, luật và văn bản quy phạm dưới luật,
trong đó có Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ BMNN luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu
của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Pháp luật về bảo vệ BMNN là một công cụ sắc bén, hữu hiệu để nhà
nước quản lý hoạt động bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện những
quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN nhằm phòng ngừa, ngăn chặn việc lộ, mất
38
BMNN, đảm bảo an toàn BMNN có quan hệ mật thiết với việc bảo đảm các quyền tự
do, dân chủ của con người, của công dân được quy định trong Hiến pháp, luật và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin... Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm
và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân...”; Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”; Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin...” [81]; Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền quy định: “Ai cũng có
quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền
không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận
cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên
giới quốc gia” [58]; Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy
định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên
truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất
kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ” [59].
Tuy nhiên, các quyền này cũng bị hạn chế trong các trường hợp luật định, như
khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, ANQG, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”;
khoản 3 Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: “Việc
thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy
nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a)
Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ ANQG hoặc trật tự công
cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội” [59].
Như vậy, quá trình quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN nhằm phòng ngừa, ngăn
chặn việc lộ, mất BMNN, đảm bảo an toàn BMNN luôn đặt ra yêu cầu phải đồng
thời bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, pháp luật về bảo vệ
39
BMNN phải đáp ứng đồng thời yêu cầu của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và
công nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ BMNN gồm các QPPL thể hiện trong nhiều
VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau. Pháp luật về bảo vệ BMNN
không phải là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là một
hệ thống các QPPL có quan hệ mật thiết với nhau, có cùng mục đích, dùng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh
làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN. Các QPPL này thuộc nhiều ngành luật
khác nhau (Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Tố tụng hình sự, LHS…) và được
thể hiện trong rất nhiều VBQPPL từ Hiến pháp đến bộ luật, luật và các văn bản dưới
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Ngoài ra, các QPPL về bảo
vệ BMNN còn thể hiện ở các hiệp định song phương giữa Chính phủ nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam với chính phủ nước ngoài về cùng bảo vệ tin mật và trong các điều
ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam tham gia.
Như vậy, nguồn của pháp luật về bảo vệ BMNN rất rộng, gồm rất nhiều
VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau, trong đó Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất mang tính chất chuyên
ngành trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN. Điều này được thể hiện rõ tại Điều 20
của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000: “Người nào vi phạm các quy định của Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN và các quy định khác của pháp luật về bảo vệ BMNN thì tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS); nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật” [109].
Thứ tư, nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN là những quan hệ
xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội
dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN là những quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động bảo vệ BMNN, tức là các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN.
Hoạt động bảo vệ BMNN có tầm quan trọng đặc biệt, là một nhiệm vụ quan trọng
trong bảo vệ ANQG, liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển bền vững của chế
độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
40
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bí mật nhà nước có ở các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội như: lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác. Đồng thời, hoạt động bảo vệ
BMNN cũng được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực đó. Vì vậy, pháp luật quy định, bảo
vệ BMNN là nhiệm vụ rất quan trọng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, tổ chức khác, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều có nghĩa vụ,
trách nhiệm bảo vệ BMNN [109].
2.1.3. Nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
2.1.3.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL có mối liên hệ chặt chẽ,
thống nhất, điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:
Một là, nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN
Nhóm quy phạm này quy định về những nội dung chung liên quan đến bảo vệ
BMNN như quy định BMNN là gì, phạm vi BMNN, các hành vi bị nghiêm cấm,
nguyên tắc hoạt động bảo vệ BMNN, biện pháp bảo vệ BMNN, hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực bảo vệ BMNN, chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động bảo vệ BMNN, chính sách xử lý các hành vi xâm phạm BMNN…
Việc quy định thế nào là BMNN và những đặc trưng của BMNN rất quan
trọng. Đây là cơ sở để các cơ quan và người có thẩm quyền xác định những gì được
coi là BMNN, trên cơ sở đó xác định loại BMNN và là cơ sở để xây dựng hệ thống
các loại danh mục BMNN. Căn cứ vào tính chất quan trọng của nội dung thông tin,
mức độ gây nguy hại nếu thông tin đó bị tiết lộ, các thông tin thuộc phạm vi BMNN
được chia thành các loại khác nhau, ứng với các mức độ mật khác nhau. Thông
thường, BMNN được chia thành 3 loại, ứng với 3 mức độ mật khác nhau, bao gồm:
BMNN thuộc độ Tuyệt mật, BMNN thuộc độ Tối mật và BMNN thuộc độ Mật. Việc
xác định BMNN nào là Tuyệt mật, Tối mật hay Mật được quy định trong các danh
mục BMNN kèm theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hay của thông tư của Bộ
trưởng Bộ Công an. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ quyết định danh mục BMNN
thuộc độ Tuyệt mật và Tối mật, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định danh mục BMNN
thuộc độ Mật. Hệ thống danh mục BMNN được xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở gắn
41
với chức năng, nhiệm vụ và xuất phát từ yêu cầu khách quan của công tác bảo vệ
BMNN ở các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và của hệ thống chính trị từ
trung ương đến cơ sở, bao gồm: danh mục BMNN của các cơ quan, tổ chức ở trung
ương và danh mục BMNN của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và cơ quan, tổ chức liên
quan thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hai là, nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN
Quản lý nhà nước được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Mục đích của quản lý nhà nước nói
chung là nhằm duy trì ổn định và phát triển của xã hội [43], thiết lập một trật tự xã
hội phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích và địa vị của giai cấp
thống trị trong xã hội. Đồng thời, giai cấp thống trị đã sử dụng sức mạnh quyền lực
của mình và bằng con đường nhà nước nâng chúng lên thành lợi ích chung của xã
hội (lợi ích nhà nước). Quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN cũng nhằm mục đích
chung: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững hoà bình, ổn
định chính trị, bảo đảm ANQG và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân ta” [33, tr.81]. Đồng thời, quản lý nhà nước về bảo
vệ BMNN còn có các mục đích cụ thể như: đảm bảo an toàn cho BMNN và các cá
nhân, tổ chức nắm giữ BMNN, khu vực, địa điểm có chứa BMNN hoặc diễn ra các
hoạt động liên quan đến BMNN, góp phần thực hiện thành công chủ trương đường
lối và hoạt động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước; phòng ngừa, phát hiện,
điều tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi xâm phạm đến sự an toàn của
BMNN, vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN; góp phần đấu tranh, làm thất bại âm
mưu, hoạt động thu thập BMNN, xâm phạm ANQG, trật tự, an toàn xã hội của các
thế lực thù địch và các loại tội phạm.
Pháp luật về bảo vệ BMNN quy định nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ
BMNN gồm: ban hành và hướng dẫn thi hành các VBQPPL về bảo vệ BMNN; quyết
định và thực hiện giải mật BMNN; quy định việc công bố danh mục BMNN; quyết
định kinh phí và bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ BMNN;
quy định chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN; quy
42
định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực bảo vệ BMNN; quy định về việc sơ kết, tổng kết công tác bảo vệ BMNN.
Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, gồm: các cơ
quan thực thi quyền lập pháp, các cơ quan thực thi quyền hành pháp, các cơ quan
thực thi quyền tư pháp [43]. Chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN là tổ chức,
cá nhân được trao quyền lực nhà nước tác động tới các đối tượng quản lý nhằm bảo
đảm an toàn cho BMNN. Theo quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN, chủ thể
quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN gồm: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Các cơ quan, tổ chức ở trung
ương và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm thực
hiện công tác quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN trong phạm vi cơ quan, tổ chức và
địa phương mình.
Ba là, nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân
trong bảo vệ BMNN
Pháp luật về bảo vệ BMNN quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công
dân trong bảo vệ BMNN với những nội dung sau:
Quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân nói chung trong
công tác bảo vệ BMNN. Cơ quan, tổ chức và công dân đều có nghĩa vụ, trách nhiệm
bảo vệ BMNN. Bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ trong bảo vệ ANQG, một bộ phận
cấu thành của bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và
mọi công dân. Cùng với quy định về trách nhiệm bảo vệ BMNN nói chung, pháp luật
về bảo vệ BMNN còn quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong
các hoạt động cụ thể thuộc lĩnh vực bảo vệ BMNN như: trong hoạt động in, sao,
chụp tài liệu, vật mang BMNN; vận chuyển, giao nhận tài liệu, vật mang BMNN;
trong hoạt động xuất bản, báo chí và thông tin đại chúng; cung cấp thông tin thuộc
phạm vi BMNN cho cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam; bảo vệ BMNN trong
quan hệ, tiếp xúc với tổ chức, cá nhân nước ngoài…
Pháp luật về bảo vệ BMNN còn quy định riêng về trách nhiệm trong bảo vệ
BMNN của Bộ Công an với tư cách là cơ quan được giao thực hiện quản lý nhà nước
43
về bảo vệ BMNN, như: trong việc giải mật, tăng, giảm độ mật của BMNN, sửa đổi,
bổ sung danh mục BMNN; báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác bảo vệ BMNN…
Bốn là, nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ
BMNN
Pháp luật về bảo vệ BMNN quy định về việc khen thưởng trong công tác bảo vệ
BMNN, gồm các quy phạm quy định về các trường hợp khen thưởng, các hình thức
khen thưởng đối với cơ quan, tổ chức và công dân có thành tích trong công tác bảo vệ
BMNN. Người có thành tích trong công tác bảo vệ BMNN thuộc diện khen thưởng
được pháp luật về bảo vệ BMNN quy định bao gồm: những người có thành tích đột
xuất và cả những người có thành tích trong thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN theo
chức năng, nhiệm vụ của mình được pháp luật về bảo vệ BMNN quy định.
Pháp luật về bảo vệ BMNN quy định những hành vi nào là vi phạm pháp luật
về bảo vệ BMNN. Các quy phạm này có rất nhiều, được thể hiện trong nhiều
VBQPPL khác nhau. Những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN được quy
định trong BLHS là các tội xâm phạm BMNN và sẽ bị truy cứu TNHS, chẳng hạn
như: tội gián điệp; tội cố ý làm lộ BMNN, tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu
BMNN; tội vô ý làm lộ BMNN; tội làm mất vật, tài liệu BMNN… Còn những hành
vi khác vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN như: vi phạm các quy định về việc in,
sao, chụp tài liệu bí mật, phổ biến, nghiên cứu tin thuộc phạm vi BMNN, tiêu huỷ
các tài liệu, vật mang BMNN không đúng quy định; không thực hiện đúng quy định
về vận chuyển, giao nhận tài liệu, vật mang BMNN… sẽ bị xử lý hành chính. Ngoài
ra, người có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN còn có thể bị xử lý kỷ luật
và không được làm việc ở các cơ quan, bộ phận thiết yếu, quan trọng.
2.1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Ngoài vai trò của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN còn thể hiện
vai trò riêng của mình như:
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần thể chế hóa chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối xây
dựng và phát triển kinh tế, xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là
44
nhiệm vụ chiến lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi với giữ
nước, được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, trong đó bảo vệ ANQG là một bộ phận quan trọng.
Việc ban hành các VBQPPL về bảo vệ BMNN đã thể chế chủ trương, đường
lối đó của Đảng. Các VBQPPL về bảo vệ BMNN đã thể hiện được sự kết hợp giữa
hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ ANQG với phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó,
việc bảo vệ vững chắc ANQG sẽ tạo ra môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát
triển kinh tế, xã hội, bảo vệ lợi ích sống còn của Nhà nước, của chế độ và của cơ
quan, tổ chức. Ngược lại, kinh tế, xã hội phát triển cũng là tiền đề, cơ sở nâng cao
nhận thức, tiềm lực vật chất cho bảo vệ ANQG, bảo vệ BMNN.
Việc ban hành các VBQPPL về bảo vệ BMNN phù hợp với đường lối phát triển
“nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” [81]. Bởi vì, BMNN có trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực kinh tế tồn tại rất nhiều BMNN,
các VBQPPL về bảo vệ BMNN sẽ góp phần bảo vệ bí mật của nền kinh tế, bí mật
của các thành phần và của các tổ chức kinh tế. Đồng thời, mục tiêu phát triển nền
kinh tế nước ta là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập,
hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện CNH, HĐH đất nước” [81]. Quá trình đó
cho thấy có rất nhiều BMNN trên lĩnh vực kinh tế và vai trò quan trọng của việc bảo
vệ BMNN trên lĩnh vực kinh tế. Việc bảo vệ BMNN trên lĩnh vực kinh tế trong giai
đoạn hội nhập ngày nay cần phải được thể chế hóa thành các QPPL và tổ chức thực
hiện các QPPL đó để góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, quan
điểm đã đề ra.
Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ và thúc đẩy quan hệ đối ngoại của
nước ta với các đối tác nước ngoài phát triển. Bí mật nhà nước phản ánh đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta với các nước trong khu vực, trên thế
giới, nếu bị tiết lộ sẽ gây phương hại nghiêm trọng đến quan hệ đối ngoại; đồng thời
có thể tạo ra những sơ hở để các thế lực thù địch, phản động quốc tế kích động, gây
45
chia rẽ trong nội bộ Đảng hoặc gây chia rẽ trong các tổ chức, diễn đàn, khối hợp tác
mà Việt Nam là thành viên, làm mất uy tín chính trị của Đảng, Nhà nước ta trên
trường quốc tế. Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, quan hệ
giữa các quốc gia có cùng lợi ích càng trở lên sâu sắc hơn, quá trình chuyển giao các
bí mật kinh tế, khoa học, công nghệ có quy mô ngày càng lớn hơn. Hiện nay, Việt
Nam đã ký kết các hiệp định hợp tác về cùng bảo vệ tin mật với 5 nước trên thế giới
và đang tiếp tục đàm phán để ký với nhiều nước khác. Do vậy, bảo đảm an toàn cho
các bí mật kinh tế, khoa học, công nghệ, quân sự... mà nước ngoài chuyển giao cho
nước ta là điều quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ đối ngoại song
phương và đa phương của Việt Nam với các đối tác nước ngoài.
Mặt khác, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng, Nhà
nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [81], trong các quyền ấy, có
quyền có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin. Tuy nhiên những
quyền đó sẽ bị hạn chế đối với các thông tin thuộc BMNN. Pháp luật về bảo vệ
BMNN sẽ quy định cụ thể những gì là BMNN, thẩm quyền, trình tự, thủ tục cung
cấp thông tin thuộc BMNN… Việc ban hành các QPPL về bảo vệ BMNN đồng bộ
cùng với các QPPL điều chỉnh về quyền tự do dân chủ sẽ góp phần bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, tránh việc lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối việc cung cấp
thông tin, từ chối cho công dân tiếp cận thông tin. Đây chính là một biện pháp hữu
hiệu để bảo vệ quyền tự do, dân chủ của con người, của công dân.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ nhóm quan hệ xã hội có
tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN dùng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, làm cho các quan hệ xã hội ấy phát sinh, phát triển theo chiều
hướng nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Nhưng nhóm quan hệ xã
hội mà pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh có tầm quan trọng đặc biệt, là một bộ
phận trong bảo vệ ANQG, liên quan đến sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ
46
XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bí mật nhà nước có ở các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế,
văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, môi trường, thông tin và truyền thông,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., nhưng tập trung nhiều ở lĩnh vực chính trị,
kinh tế, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, khoa học, công nghệ. Bởi những lĩnh vực
này có nhiều thông tin quan trọng ảnh hưởng đến lợi ích của chế độ, của nhà nước,
của quốc gia, dân tộc. Do đó, bảo vệ BMNN luôn được Nhà nước ta xác định là một
nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN,
xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Những
vǎn kiện bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự
mất còn của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc
biệt là nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các đoàn thể” [66]; “... giữ bí mật của Nhà
nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch. Đó là một vấn đề chính trị quan
trọng” [08]. Các quan hệ xã hội được pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh đó
chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong bảo vệ BMNN. Cụ thể là điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các
hoạt động xâm phạm BMNN. Các quan hệ xã hội này liên quan trực tiếp đến sự an
toàn của BMNN, do vậy liên quan đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam. Nếu BMNN mất an toàn, bị tiết lộ “thì gây nguy hại cho
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [109].
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ BMNN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ
BMNN, góp phần xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách bảo vệ BMNN
Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, để bảo vệ BMNN,
Nhà nước cũng như các cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau, trong đó có biện pháp pháp luật - là một trong 7 biện pháp cơ bản bảo vệ
ANQG. Đó là cách thức, phương pháp xây dựng pháp luật, ký kết, gia nhập điều ước
quốc tế, thỏa thuận quốc tế và sử dụng pháp luật, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc
tế để bảo vệ ANQG. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và chủ động hội nhập quốc tế thì vai
trò của biện pháp pháp luật ngày càng được coi trọng. Kết quả của việc áp dụng biện
47
pháp pháp luật trong bảo vệ BMNN là xây dựng nên một hệ thống các VBQPPL về
bảo vệ BMNN. Mặt khác, trong bảo vệ BMNN, các cơ quan và người có thẩm quyền
sẽ tiến hành nhiều hoạt động khác nhau để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đấu
tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN. Các hoạt động được tiến hành
dựa trên những nguyên tắc nhất định, đảm bảo căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
tiến hành… Những vấn đề này được quy định trong pháp luật về bảo vệ BMNN. Đây
là cơ sở pháp lý cho việc tiến hành hoạt động bảo vệ BMNN.
Pháp luật về bảo vệ BMNN cùng với các QPPL khác về bảo vệ ANQG quy
định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, đơn vị
trong bảo vệ BMNN. Trong đó, quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
bảo vệ BMNN; Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ BMNN; Công an các đơn vị, địa phương và tất cả các cơ quan, tổ
chức đều phải tổ chức lực lượng làm công tác bảo vệ BMNN trong phạm vi cơ quan,
tổ chức, địa phương mình. Các QPPL này chính là cơ sở pháp lý để xây dựng, củng
cố lực lượng chuyên trách bảo vệ BMNN.
2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước ở Việt Nam
Một là, tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tiêu chí này đòi hỏi
pháp luật về bảo vệ BMNN phải điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động bảo vệ BMNN ở nước ta và được xem xét dựa trên các nội dung
điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN, đó là: quy định chung về BMNN; quản
lý nhà nước về bảo vệ BMNN; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong
bảo vệ BMNN và khen thưởng, xử lý vi phạm về bảo vệ BMNN. Tránh tình trạng có
những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN nhưng không có
QPPL về bảo vệ BMNN để điều chỉnh.
Tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN “còn thể hiện ở việc ban hành
đầy đủ các văn bản quy định chi tiết các văn bản, quy định pháp luật trong những
trường hợp cần có sự quy định chi tiết, để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó
48
cũng đã có đủ các điều kiện để có thể được tổ chức thực hiện ngay trên thực tế”
[69]. Những vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN và những
tác động của tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong và ngoài nước, nhất là
sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, những cam kết và giải pháp trong việc bảo vệ
các quyền và tự do cơ bản của con người… trong những năm gần đây cũng như trong
thời gian tới, đòi hỏi pháp luật về bảo vệ BMNN phải theo sát, phản ánh và đưa vào
những quy định để điều chỉnh kịp thời.
Tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN là một tiêu chí quan trọng để
đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và là tiêu chí để định
lượng hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN.
Hai là, tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN. Trước tiên,
tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN đòi hỏi pháp luật về bảo vệ
BMNN phải bảo đảm sự nhất quán. Điều này thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật về
bảo vệ BMNN và các văn bản pháp luật khác có liên quan đều thống nhất trong việc
xác lập mô hình hành vi. Tránh tình trạng văn bản luật thì cho phép nhưng xuống đến
văn bản hướng dẫn thi hành luật lại không cho phép; đồng thời, văn bản luật và văn
bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mặt khác, pháp
luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của chủ thể. Hoạt động bảo vệ BMNN liên quan đến việc thực hiện các quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể như: quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, quyền tự do đi lại… cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
các chủ thể đối với các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ
thuật… Hầu hết các quyền này đều được Hiến pháp quy định phải được bảo đảm bởi
các luật và VBQPPL dưới luật. Các văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN phải quy
định trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc bảo vệ BMNN
nhưng cũng phải tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của mình.
Tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN còn được thể hiện
qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của QPPL về bảo vệ BMNN.
Mặc dù cùng điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong bảo vệ BMNN nhưng tính
thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN đòi hỏi những QPPL về bảo vệ BMNN
49
được quy định trong Hiến pháp phải có giá trị pháp lý cao nhất, sau mới đến những
QPPL được quy định trong các bộ luật và luật, thứ nữa mới đến các QPPL quy định
trong pháp lệnh và các VBQPPL khác. Như vậy, dưới góc độ này, tính thống nhất
của pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm trên hai mức độ: sự thống nhất trong
chính VBQPPL đó và sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật [70].
Đối với một VBQPPL về bảo vệ BMNN, tính đồng bộ, thống nhất thể hiện
ngay trong cơ cấu của văn bản. Cơ cấu của văn bản phải thể hiện được mối liên hệ
logic giữa các phần, chương, mục, điều, khoản, điểm với cách trình bày, cách đánh
số thứ tự thống nhất. Mỗi phần, chương, mục, điều, khoản, điểm đều có nội dung thể
hiện chủ đề chính của văn bản, hướng tới mục tiêu chung. Vì vậy, các phần cần được
bố trí, sắp xếp một cách hợp lý, phải thể hiện rõ được phần chung, phần riêng, những
đặc thù của văn bản nhìn từ khía cạnh logic hình thức. Tính thống nhất trong cơ cấu
còn thể hiện ở việc các quy định trong cùng một văn bản phải tương quan với nhau,
không mâu thuẫn, chồng chéo. Ở phương diện khác, khi xem xét tính đồng bộ, thống
nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN, cần đặt VBQPPL về bảo vệ BMNN trong mối
tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật; cần xem xét tính đồng bộ, thống nhất
giữa các QPPL, các chế định pháp luật về bảo vệ BMNN với nhau và cả với các
ngành luật trong hệ thống pháp luật.
Tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN còn được xem xét
trong mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình
thức,… Bởi vậy, việc xem xét về tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ
BMNN đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát, toàn diện ở nhiều cấp độ và phương
diện khác nhau; đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong
bản thân pháp luật về bảo vệ BMNN, trong các ngành luật có liên quan, mỗi chế định
pháp luật và giữa các QPPL với nhau; xác định ranh giới điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ BMNN và định ra một hệ thống QPPL đồng bộ. Nếu hệ thống pháp luật về
bảo vệ BMNN không đồng bộ, thống nhất, giữa các bộ phận của nó chứa đựng mâu
thuẫn, chồng chéo, thì hệ thống ấy không thể tạo ra sự điều chỉnh pháp luật một cách
toàn diện và hiệu quả.
Muốn pháp luật về bảo vệ BMNN là cơ sở để hướng dẫn và thống nhất hành vi
hành vi của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật trong hoạt động bảo
50
vệ BMNN, tạo lập trật tự, pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm tính đồng bộ,
thống nhất.
Ba là, tính phù hợp của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tính phù hợp của pháp luật
về bảo vệ BMNN thể hiện ở sự tương quan, phù hợp giữa quy định của pháp luật về
bảo vệ BMNN với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Khi xem xét tiêu
chí này, đòi hỏi pháp luật về bảo vệ BMNN phải phù hợp với tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội và thực tiễn tình hình hoạt động bảo vệ BMNN ở Việt Nam, cụ thể là:
Pháp luật về bảo vệ BMNN phải phù hợp với mục đích, yêu cầu và sự phát
triển của nền kinh tế, đó là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực,
hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện CNH, HĐH đất nước”. Nền kinh
tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh
tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Nhân dân là người làm chủ đất nước, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân. Vì vậy, pháp luật về bảo vệ BMNN phải phù hợp với việc “bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện” [81]. Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Pháp luật về bảo vệ BMNN phải phù hợp với chính sách đối ngoại của nước ta,
đó là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành
viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì
51
lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới” [81].
Bốn là, tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tính minh
bạch của pháp luật được thể hiện ở sự công khai, chính xác, mục đích rõ ràng của cơ
quan ban hành pháp luật và cơ quan tổ chức thực thi pháp luật và quan trọng hơn đó
là gắn với những bảo đảm để người dân có thể tiếp cận với các quy định của pháp
luật để tham gia tích cực vào các quan hệ pháp luật. Đối với pháp luật về bảo vệ
BMNN, tính minh bạch đòi hỏi phải bảo đảm cho người dân biết được BMNN là như
thế nào, phạm vi BMNN đến đâu, quyền, nghĩa vụ của mình trong bảo vệ BMNN;
đồng thời minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan và người có thẩm quyền trong
hoạt động bảo vệ BMNN theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, tính
minh bạch của pháp luật về bảo vệ BMNN phải được thể hiện trong quá trình xây
dựng, ban hành và thực thi các VBQPPL về bảo vệ BMNN. Tính minh bạch của
pháp luật về bảo vệ BMNN thể hiện ở việc pháp luật về bảo vệ BMNN được công
bố, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, pháp luật
về bảo vệ BMNN còn thể hiện ở “sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất
quán” [25]. Một hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về bảo vệ BMNN nói
riêng cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu
thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở thành nền tảng cho
nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, để hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN có chất lượng thì phải bảo
đảm tính khả thi, nghĩa là các quy định pháp luật về bảo vệ BMNN phải có khả năng
thực hiện được trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại. Điều này đòi hỏi các
quy định pháp luật về bảo vệ BMNN phải được ban hành phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật về
bảo vệ BMNN được ban hành quá cao hoặc quá thấp so với các điều kiện phát triển
của đất nước thì đều có ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Trong những trường hợp đó hoặc là pháp luật về bảo vệ BMNN không có khả năng
thực hiện hoặc là được thực hiện không triệt để, không nghiêm, không phát huy hết
vai trò tác dụng của nó trong đời sống xã hội. Do đó khó đảm bảo được sự an toàn
52
cho BMNN và ngăn chặn được việc gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước thông qua
việc xâm phạm đến BMNN.
Tính khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN còn thể hiện ở việc các quy định
pháp luật về bảo vệ BMNN phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng những
nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp
dụng pháp luật hiện hành. Hiện nay, nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở rộng hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực. Do đó, yêu cầu bảo
vệ BMNN là tất yếu và ngày càng cao. Vì vậy, nhu cầu điều chỉnh pháp luật hoạt
động bảo vệ BMNN ngày càng lớn. Khi ban hành các văn bản và các QPPL về bảo
vệ BMNN phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho
phép thực hiện được quy định hoặc văn bản pháp luật đó hay không, đồng thời phải
tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán
bộ, công chức có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận
quy định hoặc văn bản pháp luật đó (ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và
kiến thức pháp lý của nhân dân... “Pháp luật có chất lượng phải là pháp luật đưa ra
được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất để
thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế, xã
hội hiện tại” [70].
Năm là, hình thức văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo vệ
BMNN phải được thể hiện dưới hình thức VBQPPL, là các văn bản có chứa đựng
các QPPL về bảo vệ BMNN. Đây là hình thức pháp luật tiến bộ nhất, thể hiện tập
trung ý chí của Nhân dân, được Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác có thẩm
quyền ban hành theo trình tự luật định, được thể hiện theo các cấp độ hiệu lực pháp
lý khác nhau từ Hiến pháp đến luật, đến các VBQPPL dưới luật.
Tiêu chí về hình thức văn bản để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
bảo vệ BMNN là phải có những văn bản luật về bảo vệ BMNN được ban hành đảm
bảo về thẩm quyền và trình, tự thủ tục do pháp luật quy định. Đây là loại văn bản do
Quốc hội ban hành, vì vậy có hiệu lực pháp lý cao và phạm vi tác động rộng, hạn chế
ban hành các VBQPPL về bảo vệ BMNN dưới luật.
53
Tiêu chí về hình thức này cũng đòi hỏi pháp luật về bảo vệ BMNN hạn chế
những QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong bảo vệ BMNN nằm rải
rác ở quá nhiều VBQPPL dẫn đến tản mạn, khó khăn cho việc áp dụng. Vì vậy, tiêu
chí về hình thức văn bản của pháp luật về bảo vệ BMNN đòi hỏi cần phải tăng cường
hệ thống hoá pháp luật về bảo vệ BMNN, cần pháp điển hoá thành luật (hay bộ luật)
về bảo vệ BMNN. Tiêu chí này đã được chỉ ra trong Pháp lệnh của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về pháp điển hệ thống QPPL,
theo đó bảo vệ BMNN là một đề mục pháp điển hóa thuộc chủ đề ANQG [97].
Sáu là, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo vệ
BMNN phải đảm bảo kỹ thuật lập pháp hiện đại, đó được hiểu là tổng thể những
phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá
pháp luật về bảo vệ BMNN nhằm đảm bảo cho pháp luật về bảo vệ BMNN có được
đầy đủ các khả năng để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội phát sinh trong
bảo vệ BMNN. Điều này đòi hỏi:
Khi xây dựng pháp luật về bảo vệ BMNN phải đưa ra được những nguyên tắc,
những trình tự thủ tục tối ưu để tiến hành có hiệu quả quá trình đó nhằm tạo ra được
những quy định, những văn bản pháp luật tốt nhất, đồng thời phù hợp với các quy
định đã có. Những nguyên tắc và trình tự này được xác định dựa trên những nguyên
tắc và trình tự chung được xác định trong Luật ban hành VBQPPL, trong Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời dựa vào đặc điểm
riêng của pháp luật về bảo vệ BMNN để xác định;
Xác định chính xác, khoa học cơ cấu của pháp luật về bảo vệ BMNN phù hợp
với các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước;
Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt
phải rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính cô đọng, logic và một nghĩa. Đối với những thuật
ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều được giải thích trong văn bản. Trong
pháp luật về bảo vệ BMNN có rất nhiều thuật ngữ chuyên môn cần phải được diễn
đạt chính xác, rõ ràng, dễ hiểu ngay trong VBQPPL, chẳng hạn như BMNN, bảo vệ
BMNN, các mức độ mật (Tuyệt mật, Tối mật, Mật), khu vực cấm, địa điểm cấm, vật
mang BMNN…
54
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải thường
xuyên sử dụng các phương tiện, các cách tiếp cận, các kỹ thuật pháp lý, các quy tắc
pháp lý tiên tiến, khoa học nhất đã đạt được của nhân loại trong lĩnh vực điều chỉnh
pháp luật. Nội dung các QPPL về bảo vệ BMNN, các VBQPPL về bảo vệ BMNN
được xây dựng với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao có kết cấu chặt chẽ, logic, các
thuật ngữ pháp lý được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn,
dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng. “Một QPPL sẽ
phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công
dân và ngược lại” [108, tr.263]. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các QPPL về bảo
vệ BMNN cũng tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình
thực hiện và áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN. Để có chất lượng các văn bản pháp
luật về bảo vệ BMNN phải được xây dựng đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật
định, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước ở Việt Nam
2.2.2.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ bí mật nhà nước
Bảo vệ BMNN là một bộ phận, một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN chịu
sự tác động trực tiếp từ yếu tố quan điểm của Đảng về bảo vệ BMNN, đó là:
Chủ động phòng ngừa, không để lộ, mất BMNN; đồng thời, làm tốt công tác
bảo vệ chính trị nội bộ, không để các thế lực thù địch lợi dụng thâm nhập nội bộ, thu
thập BMNN. Đảng ta khẳng định, trong bối cảnh Việt Nam chủ động hội nhập quốc
tế trên nhiều lĩnh vực: “Giữ vững bên trong là điều kiện tiên quyết để đánh bại mọi
âm mưu, hoạt động diễn biến hoà bình, chủ động loại trừ bạo loạn, lật đổ và làm thất
bại các âm mưu và hoạt động chống phá của địch" [01]. Đại hội Đảng lần thứ XII
tiếp tục nhấn mạnh: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai
trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ
an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh
mạng [34, tr.33]. Như vậy, chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính, là
luận điểm cốt lõi, xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh bảo vệ ANQG, mà
55
công tác bảo vệ BMNN là một bộ phận quan trọng. Trong công tác bảo vệ BMNN,
phải quán triệt quan điểm chủ động phòng ngừa, bảo vệ tuyệt đối an toàn BMNN là
chính; không để các thế lực thù địch và tội phạm lợi dụng, khai thác những sơ hở,
thiếu sót của ta để thu thập, chiếm đoạt BMNN nhằm gây nguy hại cho ANQG.
Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó chịu trách nhiệm
chính là cấp uỷ Đảng, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức. Bảo vệ BMNN có quan hệ
mật thiết đến sự ổn định, phát triển vững mạnh của nền kinh tế, của chế độ chính trị
XHCN, đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, tổ chức, đến quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Vì vậy, bảo vệ BMNN là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, BMNN được tạo ra,
sử dụng, lưu giữ và bảo quản tại các cơ quan, tổ chức, góp phần bảo đảm hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức đó. Do vậy, trách nhiệm chính trong công tác bảo
vệ BMNN phải thuộc về cấp uỷ Đảng, thủ trưởng và mỗi cán bộ, nhân viên; cần
tránh khuynh hướng: hoặc là thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
“khoán trắng” cho cơ quan Công an, quan niệm bảo vệ BMNN là trách nhiệm riêng
của cơ quan Công an; hoặc là bao biện, làm thay nhiệm vụ của cấp ủy, thủ trưởng
các cơ quan, ban, ngành.
Bảo vệ BMNN phải gắn liền và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội. Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã
hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội
trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [34, tr.34].
Công tác bảo vệ BMNN phải gắn liền và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của đất nước trong
từng thời kỳ, giai đoạn nhất định. Cùng với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời
sống xã hội và yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước dẫn đến một thực tế là
phạm vi BMNN sẽ ngày càng bị thu hẹp. Mặt khác, trong công tác bảo vệ BMNN
luôn tồn tại mâu thuẫn mang tính khách quan, đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo vệ
tuyệt đối an toàn cho BMNN với đòi hỏi phải sử dụng các thông tin bí mật phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng quyền tự do thông tin của công dân.
Phải sử dụng tổng hợp các lực lượng, biện pháp, trong đó lấy vận động quần
chúng, nâng cao ý thức cảnh giác, giữ gìn BMNN của cán bộ, đảng viên là biện pháp
56
cơ bản. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, phương tiện, biện pháp, là
một trong những vấn đề có tính nguyên tắc trong sự nghiệp bảo vệ ANQG. Xuyên
suốt sự nghiệp cách mạng của đất nước, luận điểm “Nhân dân là gốc” đã được Đảng,
Nhà nước ta vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt, từ đó giành được thắng lợi trên nhiều
mặt. Công tác bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, do đó
trước hết và chủ yếu phải phát huy được sức mạnh và vai trò của quần chúng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cũng như muôn việc khác, việc chống tình báo, việc
giữ bí mật phải dựa vào sức quần chúng,... phải tuyên truyền, giáo dục cho Nhân dân
giữ bí mật. Dù tinh ranh, quỷ quyệt mấy, địch cũng không thể che giấu hàng ức, hàng
triệu lỗ tai, con mắt của Nhân dân. Nhân dân hiểu biết thì chẳng những giữ được bí
mật của ta lại còn dò được bí mật của địch” [67]. Bí mật nhà nước có liên quan đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhiều
ngành, nhiều cấp. Do đó phải sử dụng tổng hợp các lực lượng, phương tiện, biện
pháp. Bí mật nhà nước do chính những cá nhân có trách nhiệm tạo ra, lưu giữ và sử
dụng. Trong khi đó, quy luật tâm lý và nhu cầu, lợi ích luôn thúc đẩy họ công bố
thông tin để thoả mãn các nhu cầu khác nhau. Nếu không có ý thức giữ bí mật
thường trực thì rất dễ bị lộ, bị mất.
2.2.2.2. Những vấn đề về pháp lý
Những vấn đề về pháp lý ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN ở nước ta hiện nay có thể kể đến là: trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và
tổ chức thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý; yêu cầu của việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Kết quả việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phụ thuộc rất nhiều vào
trình độ, năng lực xây dựng pháp luật. Trước hết, các cơ quan xây dựng pháp luật về
bảo vệ BMNN phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ ANQG, bảo
vệ BMNN. Trên cơ sở đó, xác định rõ ràng mục tiêu của văn bản, phạm vi điều
chỉnh, đối tượng điều chỉnh của VBQPPL mà mình có trách nhiệm xây dựng. Đặc
biệt, năng lực phân tích chính sách, xây dựng báo cáo tác động của văn bản pháp luật
về bảo vệ BMNN tới đời sống xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với chất
lượng, hiệu quả của VBQPPL. Việc xây dựng các phương án điều chỉnh, phân tích,
so sánh các phương án, cung cấp số liệu, dữ liệu cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân
57
đóng góp ý kiến cho dự thảo văn bản pháp luật là khâu cần thiết để bảo đảm tính phù
hợp và khả thi của văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN. Tiếp đó, trình độ, kỹ năng
tiếp thu, chỉnh lý văn bản, kỹ thuật trình bày các QPPL sao cho hợp lý, khoa học, lô
gic là yếu tố chi phối chất lượng pháp luật về bảo vệ BMNN.
Việc xây dựng pháp luật về bảo vệ BMNN đòi hỏi các chủ thể phải có trình độ,
năng lực cao để nhận biết và xác định chính xác nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ BMNN, từ đó để xây dựng các VBQPPL về bảo vệ BMNN để điều chỉnh các
quan hệ đó. Bởi vì, bảo vệ BMNN là một vấn đề rất đặc thù và nhạy cảm, liên quan
đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, đồng thời lại phải giải quyết mối quan hệ
giữa bảo vệ BMNN với bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân,
trong đó có quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí...
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, là
cơ sở bảo đảm áp dụng đúng đắn các QPPL. Văn hóa pháp lý (còn gọi là văn hóa
pháp luật) được hiểu “là sự hiểu biết và chuyển hóa các QPPL vào hành vi ứng xử
của con người”; tuỳ theo tiêu chí phân loại, mà có các loại văn hoá pháp lý khác
nhau, như: văn hoá pháp lý trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, công
nghiệp, kinh doanh, y tế, xã hội…; văn hoá pháp lý của cán bộ công chức, công
nhân, nông dân, doanh nhân, nhà giáo, văn nghệ sỹ…
Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của các chủ thể có tác động ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Tác động tích cực biểu
hiện ở chỗ: làm cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
BMNN đạt chất lượng hơn; hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật
về bảo vệ BMNN của mỗi cá nhân được tự giác và phù hợp với quy định của pháp
luật về bảo vệ BMNN; năng lực trình độ, kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ cán
bộ, công chức thực thi pháp luật về bảo vệ BMNN được đầy đủ và đúng đắn theo
đúng quy định. Tác động tiêu cực sẽ diễn ra theo chiều hướng ngược lại.
Yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam: Từ sau năm 2000,
Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và chủ trương xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, trên cơ sở phát hiện những hạn chế, bất cập của
pháp luật về bảo vệ BMNN, các cơ quan chức năng phải có ý kiến đề nghị cơ quan nhà
58
nước có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN theo yêu cầu
của Nghị quyết số 48/NQ-TW. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN
được đặt trong tổng thể chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, chịu ảnh hưởng, tác động của việc hoàn thiện pháp luật trên các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Đặc trưng tổng quát của mô hình XHCN ở Việt Nam là: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và có Nhà nước pháp quyền XHCN
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” và một trong
những giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu trên là phải tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là những
chủ trương, chính sách lớn của Đảng, đặc trưng cho thời kỳ CNH, HĐH đất nước cần
được pháp luật thể chế hóa, trong đó có pháp luật về bảo vệ BMNN.
2.2.2.3. Tình hình thế giới và khu vực liên quan đến an ninh quốc gia
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, gây mất ổn định, bất trắc, khó
lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế là xu hướng tất yếu, diễn ra mạnh mẽ. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật
đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biển đảo, biên giới lãnh thổ và
tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh giữa chủ nghĩa đơn cực và bá quyền với các lực
lượng chống lại vẫn tiếp diễn phức tạp. Các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi
truyền thống tiếp tục gia tăng, trong đó hoạt động khủng bố và vấn đề an ninh mạng
đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với ANQG của nhiều nước và Việt Nam.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực địa chiến lược quan
trọng của thế giới và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ
quyền trên biển, sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung Quốc tiếp tục
giữ vai trò tác động chi phối đối với tình hình khu vực này. ASEAN trở thành một
cộng đồng phát triển năng động, là nhân tố quan trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp
tác, phát triển ở khu vực, tiếp tục là nơi diễn ra tranh giành ảnh hưởng giữa các nước
lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc. Tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa một số
nước ASEAN (trong đó có Việt Nam) với Trung Quốc tiếp tục căng thẳng, quyết liệt,
không loại trừ xảy ra va chạm trên biển. Việt Nam là thành viên của ASEAN nhưng
59
giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực có những khác biệt về chế độ chính trị.
Do có vị trí địa chiến lược quan trọng và đang trở thành nhân tố quan trọng góp phần
tích cực đối với hòa bình, ổn định khu vực, nên Việt Nam luôn được các nước lớn
tính toán trong chiến lược của mình. Bởi vậy, Việt Nam chịu tác động nhiều mặt
trong quá trình triển khai và điều chỉnh chiến lược của các nước lớn; các nước lớn sẽ
tăng cường thông qua Việt Nam để gây ảnh hưởng của mình ở trong khu vực. Những
hoạt động thâm nhập tác động vào nội bộ, gây sức ép về chính trị, kinh tế, ngoại
giao... từ một số nước lớn đối với lợi ích và ANQG của nước ta sẽ gia tăng.
Những yếu tố đó tác động mạnh mẽ đến công tác bảo vệ BMNN của Việt Nam,
đòi hỏi quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải tính tới, phải có cơ chế
hợp tác phù hợp để có thể vừa chia sẻ thông tin, vừa bảo vệ được BMNN, đấu tranh
có hiệu quả với hoạt động thâm nhập nội bộ, thu thập BMNN, chiến tranh mạng,
chiến tranh thông tin... của các thế lực thù địch và các loại tội phạm.
2.2.2.4. Tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước
Về kinh tế, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được những thành tựu to
lớn. Nền kinh tế của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN được
khẳng định và từng bước phát triển theo chiều sâu. Cùng với các luật khác trong hệ
thống pháp luật nước ta, pháp luật về bảo vệ BMNN cũng đang dần được hoàn thiện
để bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển đúng hướng. Tuy
vậy, nhiều QPPL về bảo vệ BMNN vẫn là “sản phẩm” của thời kỳ đầu của quá trình
đổi mới, do vậy, nó chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện các quy luật của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một số quy phạm tỏ ra không còn phù
hợp, nhiều vấn đề mới liên quan đến bảo vệ BMNN phát sinh trong quá trình vận
hành nền kinh tế thị trường chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung
nhưng chưa đầy đủ, toàn diện.
Bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì sau 30 năm đổi mới, những mặt trái của nó cũng đang dần lộ rõ, đòi hỏi
phải có biện pháp đồng bộ, đấu tranh kiên quyết, mạnh mẽ trong đó có biện pháp
pháp luật để bảo đảm cho nền kinh tế được phát triển bền vững, đúng hướng. Do đó,
pháp luật về bảo vệ BMNN phải là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ và thúc đẩy
60
sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm vận
hành đúng hướng; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, làm lộ BMNN nói chung và
BMNN trong lĩnh vực kinh tế nói riêng để gây hại cho nền kinh tế, bảo đảm sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
Về mặt xã hội, tư tưởng dân chủ, nhân quyền, tư tưởng nhà nước pháp quyền
XHCN mà cốt lõi là đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
ngày càng được phổ biến rộng rãi và được nhận thức rõ ràng hơn, đặc biệt là sau khi
Hiến pháp năm 2013 được ban hành. Việc thực hiện các quyền con người, quyền
công dân liên quan nhiều đến việc bảo vệ BMNN như quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền tiếp cận thông tin…, thậm chí có khi xảy ra sự xung đột. Mặt khác,
trên thực tế còn xảy ra tình trạng lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ tốt hơn các giá trị của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân.
Về đối ngoại, nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế, đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia [82]; tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức
khu vực; ký kết, gia nhập rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương,
trong đó có các điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống tội phạm, các điều ước
quốc tế về quyền con người, hợp tác và bảo vệ tin mật… Bên cạnh những cơ hội và
thuận lợi trong quá trình phát triển mà hội nhập quốc tế mang lại, nước ta cũng phải
đối mặt với không ít thách thức, khó khăn, trong đó có những vấn đề liên quan trực
tiếp đến bảo vệ BMNN, như: hoạt động thâm nhập, thu thập BMNN của các cơ quan
đặc biệt nước ngoài, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, các loại tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia, hoạt động cạnh tranh trong làm ăn kinh tế…
Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ phải bảo vệ BMNN, để
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của cơ quan, tổ chức. Pháp luật về bảo vệ
BMNN phải phản ánh được đầy đủ, toàn diện những đặc điểm và yêu cầu bảo vệ
ANQG, bảo vệ BMNN trong điều kiện hội nhập quốc tế; phải nội luật hóa được các
điều ước mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; phải có cơ chế pháp lý để vừa bảo vệ
BMNN, vừa thúc đẩy quan hệ đối ngoại phát triển.
61
2.3. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
2.3.1. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới
Một là, về hình thức: Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước thuộc hệ
thống pháp luật XHCN và châu Âu lục địa, pháp luật về bảo vệ BMNN là một hệ
thống các VBQPPL có chứa các quy phạm quy định về bảo vệ BMNN, trong đó đa
số các nước đã ban hành một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Về thực
chất, các đạo luật này của các nước là giống nhau, chủ yếu quy định về thông tin bí
mật và bảo vệ thông tin bí mật nhưng về tên gọi của đạo luật này ở mỗi nước có sự
khác nhau, điều đó xuất phát từ đặc điểm, điều kiện và truyền thống lập pháp của
mỗi nước. Chẳng hạn: Mỹ ban hành Luật về thông tin mật trong tố tụng; Nhật Bản có
đạo luật bảo vệ bí mật ở cấp độ đặc biệt; Nga ban hành hai đạo luật: Luật về thông
tin, công nghệ thông tin và bảo vệ thông tin; Luật BMQG; Trung Quốc ban hành
Luật Bảo vệ BMNN; Singapore sử dụng Luật bí mật công; Albani quy định Luật về
thông tin được xếp loại BMNN; Ucraina có Luật về BMNN; Litva ban hành Luật
BMNN và bí mật công vụ; Mông Cổ ban hành hai đạo luật liên quan đến BMNN,
gồm Luật BMNN và Luật về việc phê duyệt danh sách BMNN, đồng thời pháp luật
Mông Cổ quy định: “Pháp luật về BMNN sẽ bao gồm Hiến pháp, pháp luật hiện tại
(Luật BMNN) và các hành vi pháp luật liên quan”.
Hai là, về nội dung: Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên
thế giới cho thấy một số vấn đề quan trọng nổi lên sau:
Về khái niệm BMNN: Ở mỗi nước khác nhau, quy định về khái niệm BMNN
cũng khác nhau (giống như sự khác nhau về tên của đạo luật này). Pháp luật về bảo
vệ BMQG của Liên bang Nga quy định khái niệm BMQG khá giống với quy định
trong pháp luật về bảo vệ BMNN của Việt Nam hiện tại, cũng chỉ ra các đặc trưng
của BMQG, đó là những “thông tin được bảo vệ bởi nhà nước trong lĩnh vực quân
sự, chính sách đối ngoại, kinh tế, tình báo, phản gián và điều tra hình sự mà việc phổ
biến chúng có thể gây gây thiệt hại đến an ninh của Liên bang Nga” và BMQG cũng
được thể hiện dưới các dạng vật mang BMQG “bao gồm BMQG là cơ sở vật chất,
bao gồm cả vật chất trong các lĩnh vực, trong đó thông tin tạo thành BMQG thể hiện,
biểu hiện của nó dưới dạng các biểu tượng, hình ảnh, tín hiệu, các giải pháp và quy
62
trình kỹ thuật” [121]. Trung Quốc, quy định khái niệm BMNN khá rộng, coi trọng cả
về đặc trưng và về hình thức của BMNN: “BMNN là những vấn đề có ảnh hưởng
quan trọng đến ANQG và lợi ích quốc gia và theo quy định của thủ tục pháp lý được
ủy thác cho một số người hạn chế trong một khoảng thời gian nhất định” [123].
Nhiều nước khác cũng đưa ra khái niệm BMNN bằng cách chỉ ra các đặc trưng của
BMNN, chẳng hạn như Georgia quy định: "Thông tin BMNN, bao gồm dữ liệu có
chứa BMNN trong lĩnh vực quốc phòng, kinh tế, ngoại giao, thông tin, ANQG và
việc thực thi pháp luật, việc tiết lộ hoặc mất mát có thể làm phương hại đến chủ
quyền, trật tự hiến pháp, lợi ích chính trị hoặc kinh tế của Georgia hoặc bất kỳ bên
nào trong các thoả thuận quốc tế và các giao ước, dựa trên quy định của Luật này và /
hoặc các điều ước quốc tế hoặc các giao ước, được công nhận là một bí mật của nhà
nước và được bảo vệ bởi nhà nước” [118]. Moldova quy định: “BMNN tạo nên
thông tin được bảo vệ của nhà nước trong các lĩnh vực hoạt động quân sự, chính sách
đối ngoại, chống thông tin và điều tra, các nhà phân phối, tiết lộ, mất mát hoặc phá
hủy trong đó có thể vi phạm an ninh của nước Cộng hòa Moldova” [117]. Mông Cổ
quy định: “BMNN sẽ là các báo cáo, tài liệu, chất, các mặt hàng và thủ tục tố tụng
mà được xác định là BMNN theo quy định của pháp luật Mông Cổ, và chứa trong
thông tin bản thân của họ, trong đó sẽ gây nguy hại đến ANQG, trong hình thức định
nghĩa, minh hoạ, bảng hiệu, giải pháp công nghệ và liên quan đến các vấn đề chính
sách đối ngoại, kinh tế, khoa, công nghệ, quốc phòng, tình báo, đối ứng tình báo và
hoạt động bí mật của Mông Cổ” [120].
Nhìn chung, các nước đều coi BMNN là những thông tin, tài liệu của nhà nước,
chính phủ trên các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế, tố tụng hình
sự… (gọi chung là các lĩnh vực công) mà có ảnh hưởng quan trọng đến ANQG và lợi
ích dân tộc hoặc an toàn của công dân (chẳng hạn Nhật Bản).
Về phạm vi BMNN: Các nước với các tên gọi khác nhau nhưng đều phân thành
các cấp độ bí mật đối với BMNN. Đa số các nước đều phân thành ba loại theo hướng
truyền thống gồm: Mật, Tối mật, Tuyệt mật. Việc phân loại độ Mật hay Tối mật hoặc
Tuyệt mật căn cứ vào nội dung, tầm quan trọng và lợi ích quốc gia mà thông tin, tài
liệu đó chứa đựng. Cách định nghĩa khái niệm “mật”, “tối mật”, “tuyệt mật” của các
quốc gia có sự khác nhau tùy thuộc theo truyền thống tư duy về lập pháp và thực tiễn
63
pháp lý của quốc gia. Thông thường các quốc gia đưa ra khái niệm “tuyệt mật”, “tối
mật”, “mật” thông qua việc ước lượng các thiệt hại mà việc tiết lộ thông tin, tài liệu
đó có thể gây hậu quả cho ANQG trên các cấp độ “vô cùng nghiêm trọng”, “nghiêm
trọng” hoặc “gây thiệt hại”. Cộng hòa Albani quy định: “Tuyệt mật” là những thông
tin mà khi bị tiết lộ trái phép sẽ gây thiệt hại vô cùng nghiêm trọng đến ANQG; “Tối
mật” là những thông tin mà khi bị tiết lộ trái phép sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng đến
ANQG và “Mật” là những thông tin khi bị tiết lộ trái phép sẽ gây thiệt hại tới ANQG
(Điều 3 Luật số 8457 ngày 11/02/1999 của Cộng hòa Albani về thông tin được xếp
loại BMNN). Cũng với cách giải thích như vậy, Trung Quốc lại đặc biệt đề cao đến
ANQG và lợi ích dân tộc. Điều 9 Luật Bảo vệ BMNN của Trung Quốc quy định:
những thông tin tuyệt mật đề cập đến những BMNN trọng yếu, việc để lộ những
thông tin này sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc; những
thông tin tối mật đề cập đến những BMNN quan trọng, việc để lộ những thông tin
này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc; những thông tin mật
đề cập đến những BMNN thông thường, việc để lộ những thông tin này sẽ gây tổn
hại đến ANQG và lợi ích dân tộc [123].
Như vậy, phạm vi và cách phân loại thông tin mật ở các nước là khác nhau, tùy
thuộc vào truyền thống lập pháp, yêu cầu bảo vệ ANQG, lợi ích dân tộc, lợi ích của
công dân và điều kiện thực tế mà quốc gia có cách thức tiếp cận khác nhau.
Về chủ thể thực hiện việc phân loại BMNN: Các nước giao cho các cơ quan nhà
nước có liên quan ở cả cấp độ quốc gia và khu vực (cấp cơ sở) và trong phạm vi cơ
quan nhà nước đó. Trung Quốc thành lập hệ thống cơ quan quốc gia bảo vệ BMNN ở
cấp quốc gia và cấp địa phương (cấp huyện trở lên) có trách nhiệm xác định độ mật
của thông tin, tài liệu và tiến hành phân loại, cách thức, biện pháp bảo vệ và thời hạn
bảo vệ BMNN ở cấp quốc gia hoặc địa phương. Mông Cổ không quy định về phân
loại và phạm vi BMNN như Trung Quốc mà ban hành riêng một đạo luật gọi là Luật
ngày 02/01/2004 phê duyệt danh sách BMNN. Trong đó, nước này liệt kê 58 loại
thông tin, tài liệu, vật, đối tượng và hoạt động đương nhiên sẽ được công bố là
BMNN của Mông Cổ, gồm cả các thông tin trong phạm vi BMQG của Mông Cổ
(gồm 19 loại thông tin được bảo mật vô thời hạn hoặc tính theo số năm hoặc theo
cam kết với phía nước ngoài); trong phạm vi các vấn đề quốc phòng (gồm 15 loại
64
thông tin được bảo mật trong 10, 15, 20, 40 hoặc 50 năm tùy từng loại thông tin);
trong phạm vi kinh tế, khoa học và kỹ thuật (gồm 5 loại thông tin); trong phạm vi
tình báo, phản gián và các hoạt động bí mật (gồm 15 loại thông tin); và thuộc các
lĩnh vực khác như cuộc họp kín của các quan chức Chính phủ, về thi hành án tử
hình… (gồm 5 loại thông tin).
Ngoài những quy định chung về chủ thể thực hiện việc phân loại BMNN nêu
trên, một số quốc gia còn có thêm các cách phân loại khác như Albani còn có thêm
quy định việc phân loại ban đầu và phân loại phái sinh. Theo đó, thông tin có BMNN
được phân độ mật bởi người có thẩm quyền phân loại ban đầu. Thông tin này được
sở hữu, tạo ra và chịu sự quản lý từ lợi ích quốc gia và chỉ Tổng thống; Thủ tướng;
các quan chức của các cơ quan được ủy quyền bởi Thủ tướng, trong Bản Đăng ký tin
mật nhà nước (ở trung ương) và các quan chức cấp cao của các cơ quan này được ủy
quyền hợp pháp bởi người có thẩm quyền phân loại ban đầu có thẩm quyền phân loại
thông tin. Tuy vậy, công dân cũng có quyền đề nghị phân loại thông tin. Quyền đề
nghị phân loại thông tin của công dân Albani được quy định tại Điều 5 Luật số 8457
ngày 11/02/1999 của Cộng hòa Albani.
Về trách nhiệm bảo vệ BMNN: Đa số các nước quy định trách nhiệm bảo vệ
BMNN thuộc các cơ quan của nhà nước, gồm chính phủ, các cơ quan nhà nước ở
trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Điều 4 Luật BMNN của Moldova quy định về “Nhiệm vụ của cơ quan Chính
phủ và cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tư pháp liên quan đến việc gán và bảo
vệ các thông tin về BMNN”, trong đó có quy định cụ thể trách nhiệm bảo vệ BMNN
của các cơ quan như:
(1) Quốc hội: a) Quy định các cơ sở pháp lý của các quan hệ trong lĩnh vực bảo
vệ BMNN; b) Phê duyệt ngân sách liên quan đến việc thực hiện các chương trình
Chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; c) Kiểm soát việc áp dụng pháp luật liên
quan đến BMNN.
(2) Chủ tịch nước Cộng hòa Moldova: a) Phê duyệt các chương trình nhà nước
trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; b) Phê duyệt theo đề nghị của Chính phủ, các cấu trúc
và thành phần của ủy ban liên bộ phận bảo vệ BMNN và của mình theo pháp luật; c)
Phê duyệt theo đề nghị của Chính phủ nhân sự, chức năng của mình và trách nhiệm
65
vào việc phân phối thông tin mà đại diện BMQG và cũng phân loại các thông tin
được gọi là BMNN.
(3) Chính phủ a) Tổ chức thực hiện các Luật liên quan đến BMNN; b) Trình bày
chính của Tổng thống cấu trúc và thành phần của liên ngành Ủy ban bảo vệ BMNN
và của mình theo pháp luật; c) Trình bày chính của Tổng thống danh sách các nhân
viên với chức năng và trách nhiệm của mình và cũng có quyền tham khảo các thông
tin BMNN; d) Thiết lập các thủ tục phân loại các thông tin được gọi là BMNN; e) Tổ
chức lập và thực hiện các chương trình nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; f)
Thiết lập các lợi ích, khối lượng và cách gán cho các công dân có một truy cập vĩnh
viễn đối với BMNN, và các nhân viên của các phân khu nội bộ về bảo vệ BMNN; g)
Thành lập cách xác định khối lượng thiệt hại gây ra bởi sự phân phối không được
thừa nhận thông tin mà đại diện BMQG, và thiệt hại gây ra cho các tác giả của thông
tin như một kết quả của việc phân loại của các thông tin; h) Ký thỏa thuận liên chính
phủ, cam kết các biện pháp thực hiện điều ước quốc tế đã ký bởi Moldova liên quan
đến ứng dụng phổ biến và bảo vệ thông tin đó được hiểu là BMNN.
(4) Các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương: a) Cung cấp bảo vệ BMNN
tại các doanh nghiệp trực thuộc, các tổ chức và các tổ chức theo yêu cầu của pháp
luật; b) Cung cấp, trong giới hạn thẩm quyền của mình, các biện pháp kiểm soát của
công dân có quyền truy cập đến BMNN; c) Thực hiện các biện pháp quy định trong
pháp luật về các giới hạn của quyền công dân và đem lại lợi ích cho những người có
hoặc có quyền truy cập vào thông tin mà đại diện BMNN; d) Đệ trình lên các cơ
quan tối cao của các cơ quan nhà nước và đề nghị chính quyền liên quan đến hoàn
thiện hệ thống bảo vệ BMNN.
(5) Cơ quan tư pháp: a) Kiểm tra vụ án hình sự và dân sự về hành vi vi phạm
pháp luật liên quan đến BMNN; b) Cung cấp bảo vệ tư pháp cho công dân, cơ quan
hành chính nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức và các tổ chức liên quan với
hoạt động của họ trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; c) Cung cấp trong khi kiểm tra các
trường hợp nêu trên trạng thái bảo vệ bí mật.
(6) Cơ quan nhà nước và các cơ quan hành chính, các cơ quan tư pháp trong
phạm vi thẩm quyền của mình giải quyết các vấn đề khác liên quan đến việc giới
thiệu các thông tin BMNN.
66
Georgia có quy định: “Hệ thống bảo vệ BMNN” - phương tiện và phương pháp
bảo vệ bí mật được sử dụng bởi các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo vệ
BMNN, cũng như các biện pháp thực hiện cho các mục đích tương tự. Đồng thời
cũng cũng quy định các cơ quan bảo vệ BMNN bao gồm các cơ quan từ Quốc hội
đến các cơ quan tư pháp, ở cả trung ương và địa phương.
Mông cổ quy định: BMNN là dưới sự bảo hộ của nhà nước, đồng thời quy định
các hoạt động cụ thể bảo vệ BMNN và quy định trách nhiệm của từng loại cơ quan
đối với mỗi nội dung liên quan đến BMNN như việc tạo ra BMNN, phân loại
BMNN, xác định BMNN, lập danh mục BMNN…
Liên bang Nga: Bảo vệ BMNN cũng được quy định đối với các cơ quan nhà
nước và đối với mỗi nội dung liên quan đến bảo vệ BMNN, đồng thời quy định về
các cơ quan chuyên trách bảo vệ BMNN. Cơ quan để bảo vệ BMNN là: Ủy ban liên
ngành về bảo vệ BMNN; cơ quan điều hành của liên bang có thẩm quyền trong lĩnh
vực an ninh, cơ quan điều hành của liên bang có thẩm quyền trong lĩnh vực quốc
phòng, cơ quan điều hành của liên bang có thẩm quyền trong lĩnh vực tình báo nước
ngoài, cơ quan liên bang của quyền hành pháp có thẩm quyền trong lĩnh vực chống
lại tình báo kỹ thuật và bảo vệ kỹ thuật thông tin, và cơ quan lãnh thổ; cơ quan công
quyền, các doanh nghiệp, các tổ chức và phân cấu trúc của họ về bảo vệ BMNN.
Đối với Trung Quốc, việc bảo vệ BMNN cũng được quy định tương tự như
trong pháp luật về bảo vệ BMNN của Việt Nam. Trong đó quy định: BMNN phải
được bảo vệ bởi pháp luật, tất cả các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, các đảng
chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các tổ chức và công dân có nghĩa vụ bảo vệ
BMNN. Bất kỳ hành vi nào gây nguy hiểm hoặc gây tổn hại cho an ninh BMNN sẽ
bị truy tố theo pháp luật [123]. Đồng thời, pháp luật về bảo vệ BMNN cũng quy định
trách nhiệm bảo vệ BMNN với từng nội dung cụ thể liên quan đến BMNN.
Về giải mật BMNN: Các nước khác nhau, quy định về vấn đề này cũng khác
nhau. Theo quy định của Lệnh số 13526 về phân loại an toàn thông tin quốc gia, tài
liệu mật của Hoa Kỳ được chia làm 3 mức độ “Tối mật”, “Tuyệt mật” và “Mật”. Hoa
kỳ áp dụng cơ chế tự động giải mật. Cơ quan ban hành văn bản sẽ xác định mức độ
mật của thông tin và phải xác định một ngày cụ thể để giải mật. Khi đến ngày đó,
thông tin sẽ tự động giải mật. Nếu các cơ quan ban hành văn bản không thể xác định
67
một ngày cụ thể để giải mật tài liệu thì thông tin sẽ được đánh dấu để giải mật sau
một thời hạn nhất định phụ thuộc vào độ mật và độ nhạy cảm của thông tin.
Đối với Liên bang Nga, Nghị quyết số 170 ngày 20/02/1995 quy định về trình
tự giải mật và kéo dài thời hạn bảo mật tài liệu lưu trữ của Chính phủ Liên Xô đã quy
định thành lập Ủy ban liên ngành Chính phủ Liên bang Nga, trong đó có các nhóm
chuyên gia để giải mật tài liệu lưu trữ hoặc kéo dài thời hạn bảo mật tài liệu lưu trữ
của Chính phủ Liên Xô. Việc giải mật các tài liệu của Chính phủ Liên Xô do Ủy ban
này đề xuất. Luật pháp Liên bang Nga cũng quy định về việc hạn chế tiếp cận tài liệu
lưu trữ có thông tin bí mật cá nhân, bí mật gia đình công dân, thông tin có thể gây
nguy hại cho sự an toàn của cá nhân trong thời gian 75 năm tính từ ngày tài liệu đó
được hình thành. Việc bãi bỏ thời hạn hạn chế sử dụng trước 75 năm nói trên do
công dân đó hoặc người thừa kế của công dân đó đồng ý bằng văn bản. Trình tự giải
mật tài liệu được thực hiện như sau: các tổ chức lưu trữ được lưu trữ tài liệu mật của
Chính phủ đề xuất kế hoạch và nội dung khối tài liệu đề nghị giải mật hàng năm cho
cơ quan lưu trữ nhà nước. Các cơ quan lưu trữ nhà nước tổng hợp danh mục tài liệu
đề nghị giải mật trình Ủy ban liên ngành xem xét, nghiên cứu, cho ý kiến (nêu rõ lý
do giải mật toàn bộ hay một phần hoặc cần gia hạn thời gian bảo mật và các tài liệu
có liên quan kèm theo). Ủy ban liên ngành tổng hợp, dự thảo quyết định giải mật và
đệ trình các thành viên của Ủy ban liên ngành xem xét, phê chuẩn. Quyết định giải
mật tài liệu của Ủy ban liên ngành phải thông báo cho các cơ quan lưu trữ nhà nước,
lưu trữ các cơ quan, tổ chức, công dân và công bố rộng rãi. Danh mục tài liệu giải
mật phải được xuất bản thành các bản tin giải mật tài liệu hàng năm hoặc bản tin giải
mật tài liệu theo các chuyên đề. Danh mục tài liệu giải mật phải tóm tắt được thông
tin về hồ sơ và các nội dung tài liệu có trong hồ sơ được giải mật.
Đối với Pháp, quy định về thời hạn giải mật, được quyền tiếp cận tài liệu sau
một khoảng thời gian nhất định phụ thuộc vào tính chất loại tài liệu đó. Thời hạn này
được xác định tính từ ngày hình thành tài liệu hay ngày của tài liệu mới nhất trong hồ
sơ hay từ ngày mất của đối tượng có liên quan… Thời hạn đó có thể là 25 năm, 50
năm, 75 năm hoặc 100 năm. Ủy ban tư vấn BMQG thực hiện giải mật các tài liệu có
nội dung bí mật. Mỗi năm một lần, Bộ trưởng Bộ Nội vụ có trách nhiệm giải mật các
thông tin mật với sự phối hợp của cơ quan có thẩm quyền.
68
Đối với Trung Quốc, tại Điều 19 Luật Lưu trữ của Trung Quốc quy định:
những tài liệu lưu trữ được kho lưu trữ nhà nước bảo quản thông thường sẽ được
công bố rộng rãi cho công chúng sau khi tròn 30 năm kể từ ngày bắt đầu hình thành.
Thời hạn công bố các loại tài liệu lưu trữ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa…
có thể ít hơn 30 năm; những tài liệu liên quan đến sự an toàn hoặc lợi ích trọng đại
của quốc gia hoặc những tài liệu khác đã đến hạn nhưng chưa thích hợp cho việc
công bố thì thời hạn công bố có thể hơn 30 năm [122].
2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới có
thể thấy, tuy thể chế và hệ thống chính trị của Việt Nam khác với một số nước khác,
nhưng trong lộ trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN có thể tham khảo một số
kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài sau đây:
Một là, xây dựng một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Đa số các
nước đều đã có một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Điều này vừa đảm
bảo hiệu lực điều chỉnh, vừa đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Ở Việt
Nam chưa có đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN mà mới chỉ có Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN; hơn nữa đối với Việt Nam, việc xây dựng đạo luật riêng quy định về bảo
vệ BMNN còn là yêu cầu, đòi hỏi để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
theo Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu của hội nhập quốc tế. Trong đạo luật này cần
phải thống nhất về tên gọi, tuy pháp luật mỗi nước sử dụng thuật ngữ, tên gọi khác
nhau, nhưng chúng giống nhau về bản chất. Đa số các nước sử dụng tên gọi là Luật
BMNN hoặc Luật Bảo vệ BMNN. Đối với Việt Nam, có thể lựa chọn tên gọi Luật
Bảo vệ BMNN cho phù hợp với thực tế và truyền thống lập pháp của Việt Nam.
Hai là, quy định rõ ràng, chính xác khái niệm BMNN và phạm vi BMNN.
Trong pháp luật về bảo vệ BMNN nói chung và Luật Bảo vệ BMNN nói riêng cần có
quy định về khái niệm BMNN. Khái niệm BMNN cần đi vào bản chất và chỉ ra
những đặc trưng của BMNN để làm cơ sở cho việc xác định BMNN. Đa số pháp luật
các nước quy định khái niệm BMNN theo hướng này. Đồng thời pháp luật về bảo vệ
BMNN cần quy định rõ phạm vi BMNN gồm các nội dung cơ bản như: quy định về
69
độ mật, về các cấp độ mật. Đa số các nước quy định có ba cấp độ mật tương ứng như
ở Việt Nam là Tuyệt mật, Tối mật, Mật; quy định rõ cơ sở, căn cứ để xác định từng
cấp độ mật. Đa số các nước xác định mức độ mật căn cứ vào nội dung, tính chất, tầm
quan trọng của thông tin mật và mức độ thiệt hại gây ra khi thông tin mật đó bị tiết lộ
trái pháp luật, không nên quy định phạm vi BMNN theo cách liệt kê các thông tin bí
mật ứng với từng cấp độ mật. Ngoài ra, liên quan đến phạm vi BMNN cần quy định
rõ chủ thể có thẩm quyền phân loại BMNN và trình tự, thủ tục để phân loại BMNN.
Pháp luật về bảo vệ BMNN của nhiều nước trên thế giới rất coi trọng vấn đề này và
quy định rất rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ tục phân loại BMNN.
Ba là, quy định rõ ràng, đầy đủ về trách nhiệm bảo vệ BMNN. Đối với vấn đề
này, xuất phát từ thể chế chính trị khác với các nước XHCN nên đa số các nước quy
định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về các cơ quan nhà nước và phân rõ trách
nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp; trách nhiệm của
các cơ quan trung ương và của các cơ quan địa phương. Tuy nhiên, với Trung Quốc
là nước XHCN có quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về cả hệ thống chính
trị, các tổ chức kinh tế và cả công dân. Điều này cũng phù hợp với quy định về trách
nhiệm bảo vệ BMNN trong pháp luật về bảo vệ BMNN của Việt Nam hiện nay.
Bốn là, quy định rõ ràng, đầy đủ về việc giải mật BMNN. Pháp luật về bảo vệ
BMNN của các nước rất coi trọng việc giải mật BMNN và đều có quy định rất rõ
ràng về việc giải mật BMNN. Điều này xuất phát từ chính đặc trưng của BMNN, trải
qua một thời gian nhất định hoặc với những điều kiện nhất định, những thông tin đó
không còn quan trọng nữa, khi bị tiết lộ nó không gây ra nguy hại cho ANQG, cho
lợi ích dân tộc nữa. Ngoài ra, pháp luật các nước quy định về việc giải mật BMNN
còn để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông
tin, quyền tự do báo chí, tự do thông tin. Tuy nhiên, pháp luật các nước khác nhau
quy định về cách thức, cơ chế giải mật thông tin là khác nhau, trong đó nhiều nước
quy định cơ chế tự động giải mật. Tức là sau một thời hạn nhất định thì BMNN đó sẽ
tự động được giải mật, thông tin đó không còn là thông tin bí mật nữa. Thời hạn này
được xác định tùy thuộc vào tính chất, tầm quan trọng của thông tin và độ mật của
thông tin đó; nhưng cũng có những thông tin đặc biệt quan trọng không quy định thời
hạn (vô hạn).
70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, chương 2 của
luận án đã làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Cụ thể đã
đạt được kết quả sau:
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án đã xây dựng khái
niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, phân tích và làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung điều
chỉnh, vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta và thực tiễn công tác bảo vệ BMNN ở Việt Nam.
Luận án đã phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
bảo vệ BMNN. Đó là phải đảm bảo tính toàn diện; tính đồng bộ, thống nhất; tính phù
hợp; tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN. Đồng thời pháp luật
về bảo vệ BMNN phải được thể hiện thể hiện dưới hình thức tiến bộ là VBQPPL
theo các cấp độ hiệu lực pháp lý từ Hiến pháp, đến luật, đến các VBQPPL dưới luật
và đảm bảo kỹ thuật lập pháp hiện đại.
Đồng thời, luận án đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Quan điểm của Đảng vệ bảo vệ
BMNN; những vấn đề về pháp lý; tình hình thế giới và khu vực liên quan đến
ANQG; tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước. Đặc biệt, luận án đã
nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN của một số nước trên thế giới, nhất là những
nước có truyền thống pháp luật tương tự Việt Nam và những nước có trình độ lập
pháp tiến bộ, qua đó rút ra một số kinh nghiệm để tham khảo trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
71
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu quá trình phát triển của pháp
luật về bảo vệ BMNN. Dưới góc độ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, có thể
chia quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam thành các giai
đoạn gắn với việc ban hành các VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN.
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950
Sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Lần đầu tiên trong lịch sử, Nhân dân ta thực sự trở thành chủ nhân
của đất nước và làm chủ vận mệnh của mình. Ngay từ những ngày đầu chính quyền
nhân dân còn đang trong “trứng nước”, nước ta phải đối phó với nhiều nguy cơ,
thách thức to lớn về ANQG, như: tình hình kinh suy sụp, nạn đói hoành hành, nạn
ngoại xâm đang gần kề, bọn phản động trong nước nổi lên chống đối quyết liệt.
Trước âm mưu thâm độc của kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân ta là sử dụng
mọi lực lượng, phương tiện, biện pháp và hình thức đấu tranh để bảo vệ chính quyền
cách mạng, chống lại những âm mưu đen tối của kẻ thù bên trong và các thế lực thù
địch bên ngoài. Trong đó có việc ban hành các VBQPPL làm cơ sở cho việc đấu
tranh ngăn chặn các âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác bảo vệ BMNN,
Người từng căn dặn: “Những văn kiện bí mật của Nhà nước quan hệ trực tiếp đến
vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Cho nên giữ bí mật của Nhà
nước là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt là nhiệm vụ của cán bộ các cơ quan, các
đoàn thể”. Người nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ BMNN:
“Vấn đề này, nhắc đi nhắc lại đã nhiều lần. Nhưng tiếc thay, chứng bệnh không biết
giữ bí mật vẫn rất phổ thông, rất trầm trọng. Nhiều cán bộ, nhân viên, binh sĩ, nhân
dân còn mắc bệnh ấy. Chúng ta phải luôn nhớ rằng: Trong chiến tranh, giữ bí mật
72
hay không là điều rất quan hệ đến sự thắng hay bại. Nếu địch biết tin tức của ta, nó sẽ
tìm đánh vào chỗ yếu của ta, thì địch sẽ thắng. Nếu ta thấy rõ tin tức của địch, ta sẽ
tìm đánh vào chỗ yếu của nó, thì ta sẽ thắng”. Người chỉ rõ: “Tất cả các cơ quan, bộ
đội, tất cả các đoàn thể phải phụ trách thiết thực huấn luyện cho binh sĩ, cán bộ và
nhân dân điều lợi, điều hại và cách giữ bí mật. Mỗi người phải coi việc giữ bí mật là
một nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, đối với Chính phủ” [75].
Trên phương diện pháp lý, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL để bảo vệ
ANQG (trong đó có bảo vệ BMNN, bởi bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ quan trọng
trong bảo vệ ANQG và hành vi xâm phạm đến BMNN cũng là một trong những
hành vi xâm phạm ANQG). Ngày 14/02/1946, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số
21/SL về tổ chức các Tòa án quân sự. Điều 2 của Sắc lệnh này quy định: “Tòa án
quân sự xét xử tất cả những người nào phạm một việc gì sau hay trước ngày
19/8/1945 có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".
Điều 8 của Sắc lệnh quy định: “Tòa án quân sự có thể áp dụng một trong năm hình
phạt sau đây đối với người phạm tội xâm phạm ANQG: 1) Tha bổng; 2) Tịch thu một
phần hay tất cả tài sản; 3) Phạt tù từ 01 năm đến 10 năm; 4) Phạt khổ sai từ 5 năm
đến 20 năm; 5) Xử tử”.
Như vậy, trong Sắc lệnh này, các hành vi xâm phạm ANQG là “việc gì sau hay
trước ngày 19/8/1945 có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa”, trong đó có hành vi xâm phạm đến BMNN (hoặc bí mật của Chính phủ,
BMQG...).
Ngày 09/11/1946, Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua
bản Hiến pháp đầu tiên. Đây là một dấu mốc quan trọng đánh dấu việc hoàn thiện
chính quyền, nhà nước về mặt pháp lý; là bước phát triển vĩ đại trong lịch sử lập
hiến, lập pháp của Nhà nước ta; là cơ sở pháp lý để Nhân dân ta tiến hành toàn diện
công cuộc “kháng chiến và kiến quốc”. Hiến pháp năm 1946 có hai điều (Điều 4 và
Điều 5) quy định về nghĩa vụ của công dân, tại Điều 4 quy định: “Mỗi công dân Việt
Nam phải: bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng Hiến pháp; tuân theo pháp luật”. Mặc dù Điều
4 này không trực tiếp quy định về nghĩa vụ bảo vệ BMNN nhưng có thể hiểu đây
cũng là một quy định về bảo vệ BMNN, bởi vì bảo vệ BMNN luôn được xác định là
73
một nội dung, một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, là một bộ phận cấu
thành của bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp đến, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 128/SL quy định về việc trừng trị
những tội bóc trộm, ăn cắp hay thủ tiêu công văn của Chính phủ và thư từ của tư
nhân, trong đó có quy định: “Những kẻ phạm tội bóc trộm, ăn cắp, hay thủ tiêu công
văn của Chính phủ sẽ bị truy tố trước Toà án và phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm, phạt
tiền từ 1.000 đồng đến 10.000 đồng, hay một trong hai hình phạt ấy. Những tòng
phạm cũng bị phạt như chính phạm” [21].
Như vậy, giai đoạn này, nước ta mới giành được chính quyền, chấm dứt thời kỳ
thực dân, phong kiến, đất nước còn muôn vàn khó khăn nhưng đã phải bước vào thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong giai đoạn này, chưa có VBQPPL trực
tiếp quy định về bảo vệ BMNN, các QPPL quy định về bảo vệ BMNN chủ yếu nằm
trong các VBQPPL quy định về bảo vệ ANQG.
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1991
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền mới được thành lập còn rất
non trẻ đã phải lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành công cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (từ tháng 12 năm 1946) xâm lược nước ta một lần nữa. Nước ta con rất
nghèo nàn và lạc hậu, vừa mới trải qua thời kỳ thực dân, phong kiến, chưa có điều
kiện, thời gian để xây dựng đất nước lại phải đương đầu với một trong những kẻ thù
mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Cuộc kháng chiến của Nhân dân ta gặp rất nhiều khó
khăn, các cơ quan của Chính phủ phải chuyển từ Hà Nội lên vùng Việt Bắc để tránh
địch, thực hiện “trường kỳ kháng chiến”. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của
thời kỳ này là phải đảm bảo bí mật, an toàn cho hoạt động của các cơ quan nhà nước
để thực hiện lãnh đạo cuộc kháng chiến của Nhân dân ta.
Ngày 17/11/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 154/SL về
ấn định những hình phạt trừng trị việc để tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của
Chính phủ, trong đó có quy định: “Trong thời kỳ kháng chiến việc giữ bí mật về cơ
quan hay công tác của Chính phủ là nhiệm vụ của công chức, quân nhân và của toàn
dân. Người nào làm tiết lộ những bí mật nói trên, tuỳ theo lỗi nặng nhẹ, sẽ bị: cảnh
cáo; phạt vi cảnh; truy tố trước Tòa án thường và có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 6
tháng; truy tố trước Tòa án quân sự” [20].
74
Tiếp đến, ngày 05/12/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số
69/SL về việc đặt chế độ giữ gìn BMQG. Sắc lệnh quy định:
Mục đích và nhiệm vụ bảo vệ BMQG, “Sắc lệnh này bổ khuyết Sắc lệnh số 154-
SL ngày 17/11/1950, mục đích là: Giữ BMQG, ngăn ngừa địch và tay sai của chúng
dò xét, đánh cắp BMQG; đặt nhiệm vụ cho bộ đội, cơ quan, cán bộ, các đoàn thể, các
báo chí và Nhân dân phải giữ BMQG”.
Về BMQG, phạm vi BMQG, Sắc lệnh quy định: “BMQG là những việc, những tài
liệu, những địa điểm và những điều gì mà để tiết lộ ra thì có hại cho ta, có lợi cho địch”.
Về xử lý các hành vi xâm phạm BMQG, các tội xâm phạm BMQG bị coi như
tội phản quốc và hành vi khác xâm phạm BMQG: “Ai phạm vào một trong các tội
dưới đây sẽ bị truy tố trước Tòa án như tội phản quốc: 1) Cố ý tiết lộ hoặc bán
BMQG cho địch hay là cho tay sai của địch. 2) Lợi dụng BMQG để đầu cơ lấy lợi. 3)
Dò xét BMQG; mua, lấy cắp những tài liệu BMQG”. “Ai vì sơ suất để lộ BMQG,
hoặc đánh mất tài liệu BMQG sẽ tuỳ theo trường hợp mà bị trừng phạt”.
Về khen thưởng người có thành tích trong bảo vệ BMQG, “Ai có một trong
những thành tích dưới đây sẽ được khen thưởng: 1) Trong khi nguy nan không chịu
khuất phục địch, giữ gìn được BMQG. 2) Gặp trường hợp khó khăn không sợ nguy
hiểm, giữ kín được BMQG. 3) Tìm ra và bắt được những vụ tiết lộ, lợi dụng, dò xét,
lấy cắp, mua, bán BMQG. 4) Thấy người khác để mất hoặc để tiết lộ BMQG, mà kịp
thời cứu chữa”.
Thực hiện Sắc lệnh trên, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69-CP
ngày 14/6/1962 quy định những vấn đề thuộc phạm vi bí mật của Nhà nước và trách
nhiệm trong việc giữ gìn bí mật của Nhà nước. Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Thông tư số 67-TTg ngày 20/6/1962 quy định biện pháp, tổ chức giữ gìn
bí mật của Nhà nước (để thi hành Nghị định số 69-CP ngày 14/6/1962 của Hội đồng
Chính phủ).
Những văn bản này (Sắc lệnh số 154/SL, Sắc lệnh số 69/SL, Nghị định số 69-
CP và Thông tư số 67-TTg) được áp dụng cho tới khi ban hành Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 1991.
Ngoài ra, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, để bảo vệ cuộc
kháng chiến, trừng trị bọn cường hào địa chủ, bảo vệ an toàn cho chính quyền dân
75
chủ nhân dân, đồng thời chỉ rõ cho Nhân dân đối tượng đấu tranh, ngày 20/01/1953
Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 133/SL về việc trừng trị các loại Việt gian phản
động. Trong đó có quy định về tội làm gián điệp: “Kẻ nào phạm tội làm gián điệp
cho địch như làm nội gián trong các tổ chức quân, dân, chính; cố ý tiết lộ hoặc bán
BMQG cho địch; dò xét BMQG; mua, cướp, lấy cắp những tài liệu BMQG; làm dấu
hiệu cho địch bắn phá hoặc lùng bắt cơ quan, cán bộ, Nhân dân; làm liên lạc đưa thư,
tài liệu, tin tức, đưa người cho địch.
Sẽ bị xử phạt như sau: a) Bọn tổ chức, chỉ huy hoặc bọn hoạt động đắc lực, sẽ
bị xử tử hình, hoặc sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân. b) Bọn gián điệp thường,
tội trạng tương đối nhẹ, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống”.
Tiếp đến, ngày 30/10/1967, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
Trừng trị các tội phản cách mạng, trong đó có quy định về tội gián điệp: “Kẻ nào
phạm tội như sau: cung cấp, chuyển giao hoặc lấy cắp, thu thập, cất giữ để cung cấp,
chuyển giao những BMNN, bí mật quân sự cho bọn đế quốc và bè lũ tay sai của
chúng, cho cơ quan tình báo nước ngoài…”.
Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng được sử dụng cho đến khi Nhà
nước ta ban hành BLHS năm 1985.
Tại miền Nam Việt Nam, sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL/76 ngày 15/3/1976
quy định về các tội phạm và hình phạt, trong đó quy định phạm tội gián điệp bị coi là
tội phản cách mạng.
Như vậy, giai đoạn này, Nhân dân ta đã tiến hành công cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ cứu nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất
đất nước và cả nước tiến lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong
giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL về bảo vệ ANQG, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, Nhà nước đã ban hành những VBQPPL
trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN, BMQG, đó là: Sắc lệnh số 154/SL ngày
17/11/1950; Sắc lệnh số 69/SL ngày 10/12/1951 bổ khuyết cho Sắc lệnh 154/SL và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều này cho thấy tầm quan trọng và sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ BMNN, là dấu mốc quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN.
76
3.1.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000
Giai đoạn này, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thay đổi lớn. Đất
nước đã thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH; công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp dần sang nền kinh tế thị
trường từ năm 1986. Tuy nhiên, những cơ chế, chính sách đổi mới chỉ thực sự phát
huy tác dụng, cải thiện tình hình khó khăn của đất nước từ năm 1991. Trên thế giới,
các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ cùng với sự tấn công của
chủ nghĩa đế quốc thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình” đã sụp đổ. Chủ nghĩa
xã hội không còn là một hệ thống trên thế giới và tạm thời lâm vào thoái trào. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho đây là thời cơ tốt nhất để xoá bỏ hoàn toàn
CNXH trên thực tế. Vì vậy, chúng ráo riết, tăng cường các hoạt động chống phá trên
tất cả các lĩnh vực, tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” với các nước
XHCN còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm.
Sau hơn 40 năm thực hiện Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950 và Sắc lệnh số
69/SL ngày 10/12/1951, cùng với sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
trong và ngoài nước đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới cho bảo vệ ANQG nói chung và
bảo vệ BMNN nói riêng rất nặng nề, cần có một văn bản mới, thống nhất về bảo vệ
BMNN. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng về bảo vệ ANQG trong tình hình mới.
Đáp ứng yêu cầu nêu trên, ngày 28/10/1991, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký Lệnh số 62-LCT/HĐNN
ngày 08/11/1991 công bố Pháp lệnh Bảo vệ BMNN, thay thế cho Sắc lệnh số 154/SL
ngày 17/11/1950 và Sắc lệnh số 69/SL ngày 10/12/1951.
Việc ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 là một bước tiến lớn trong
lịch sử lập pháp nói chung và lịch sử hình thành, pháp triển của pháp luật về bảo vệ
BMNN nói riêng. Pháp lệnh đã hệ thống hoá một cách cơ bản các quy định về bảo vệ
BMNN, tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành các hoạt động bảo vệ BMNN
một cách tập trung, thống nhất và hiệu quả. Trên cơ sở đó Chính phủ, các bộ và các
đơn vị, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban hành các VBQPPL để
thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN.
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 gồm: các quy định chung về BMNN; về
phạm vi BMNN; về quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN; về trách nhiệm bảo vệ
BMNN và khen thưởng, xử lý vi phạm về bảo vệ BMNN.
77
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 đã pháp điển hoá và sử dụng thống nhất
khái niệm BMNN thay cho khái niệm BMQG trước đây. Theo đó, BMNN được
hiểu: “Là những tin tức về vụ, việc, tài liệu, địa điểm, vật, lời nói có nội dung quan
trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công nghệ
hoặc các lĩnh vực khác mà Nhà nước chưa công bố hoặc không công bố và nếu bị tiết
lộ, thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam” [44].
Căn cứ vào tính chất quan trọng, các tin tức thuộc phạm vi BMNN được chia ba
mức độ: Tuyệt mật, Tối mật và Mật.
Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN được chính thức giao cho các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện là một nhiệm vụ chính thức, thường xuyên. Trong
đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ
BMNN. Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức lập danh mục BMNN và thực hiện công tác bảo vệ
BMNN; thực hiện thanh tra nhà nước về công tác bảo vệ BMNN; giúp Hội đồng Bộ
trưởng xây dựng các dự án văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN.
Bộ Quốc phòng và các cơ quan, đơn vị, địa phương có trách nhiệm tổ chức thực
hiện công tác bảo vệ BMNN trong phạm vi quản lý của mình.
Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam. Các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế và mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ BMNN.
Cơ quan, tổ chức hoặc công dân có thành tích trong việc bảo vệ BMNN, thì
được khen thưởng theo chế độ chung.
Người làm lộ, dò xét, chiếm đoạt BMNN, lạm dụng việc bảo vệ BMNN để che
giấu hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan,
tổ chức và công dân hoặc làm cản trở việc thực hiện kế hoạch nhà nước về phát triển
kinh tế, xã hội hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định về bảo vệ BMNN, thì tuỳ
theo mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu TNHS.
Để tổ chức thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 84-HĐBT ngày 09/3/1992 ban hành
“Quy chế bảo vệ BMNN”. Quy chế bảo vệ BMNN quy định về các vấn đề: lập danh
mục BMNN; đăng ký các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích có nội dung thuộc
78
phạm vi BMNN; soạn thảo, in ấn, sao chụp tài liệu BMNN; địa điểm, phương tiện,
vật thuộc phạm vi BMNN; phổ biến, lưu hành, tìm hiểu, sử dụng BMNN; vận
chuyển, giao nhận BMNN; thống kê, cất giữ bảo quản BMNN; thanh lý, tiêu huỷ các
BMNN; bảo vệ khu vực cấm, nơi cất giữ, nơi tiến hành các hoạt động có nội dung
thuộc phạm vi BMNN; bảo vệ bí mật mật mã quốc gia; bảo vệ bí mật trong thông tin
liên lạc; bảo vệ bí mật trong quan hệ tiếp xúc với tổ chức nước ngoài, người nước
ngoài; việc cung cấp những thông tin có liên quan đến BMNN cho tổ chức quốc tế,
nước ngoài; thực hiện cam kết bảo vệ BMNN; việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ công tác bảo vệ BMNN; thanh tra, kiểm tra về công tác bảo vệ BMNN; báo
cáo về công tác bảo vệ BMNN; hệ thống tổ chức chuyên trách bảo vệ BMNN; tiêu
chuẩn cán bộ làm công tác bảo vệ BMNN; khen thưởng; xử lý vi phạm.
Trong giai đoạn này, công tác lập pháp được đẩy mạnh để đáp ứng yêu cầu đổi
mới toàn diện đất nước. Vì vậy, ngoài Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và các
văn bản hướng dẫn thi hành còn có rất nhiều các VBQPPL khác có liên quan đến bảo
vệ BMNN được ban hành như Hiến pháp năm 1992, BLHS năm 1999, Luật Xuất
bản, Luật Báo chí, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính…
Như vậy, với việc Nhà nước ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 đã
đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong quá trình hình thành và pháp triển của
pháp luật về bảo vệ BMNN. Trong giai đoạn này đã có nhiều VBQPPL về bảo vệ
BMNN được ban hành, đặc biệt là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và các văn
bản hướng dẫn thi hành có ý nghĩa, vai trò quan trọng đáp ứng yêu cầu bảo vệ
ANQG nói chung và bảo vệ BMNN nói riêng trong thời kỳ đổi mới đất nước.
3.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được
nhiều kết quả to lớn, nước ta đã thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, trở thành
một nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Đất nước chuyển sang giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại; phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; chủ động và tích cực hội nhập, hợp
tác quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế. Điều này đã đặt ra yêu cầu mới cho sự nghiệp bảo vệ ANQG nói chung và bảo vệ
BMNN nói riêng. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 28/12/2000, Uỷ ban thường vụ Quốc
79
hội đã thông qua Pháp lệnh Bảo vệ BMNN số 30/2000/PL-UBTVQH10 thay thế
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991, có hiệu lực thi hành ngày 01/4/2001.
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 có nhiều điểm sửa đổi, bổ sung (so với
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991) về nội dung cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh mới; còn về hình thức và bố cục cơ bản vẫn giữ nguyên như Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 1991. Để thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Nghị định này đã quy định đầy đủ hơn, chi tiết
hơn so với Nghị định số 84-HĐBT ngày 09/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (chỉ ban
hành Quy chế bảo vệ BMNN) để tổ chức thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN. Đồng
thời các cơ quan, đơn vị, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban
hành các VBQPPL để thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và thực hiện
hoạt động bảo vệ BMNN trong phạm vi cơ quan, đơn vị, địa phương mình quản lý,
như: Thông tư số 12/2002/TT-BCA ngày 13/9/2002 của Bộ trưởng Bộ Công an
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 33/2002/NĐ-CP (nay được thay thế bằng Thông
tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Công an); các quyết định,
chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng Cơ
quan ngang Bộ; quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương về danh mục BMNN, quy chế, nội quy bảo vệ BMNN…
Trong giai đoạn hiện nay, công tác lập pháp được đẩy mạnh và tăng cường với
mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Do đó, ngoài Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà nước ta còn ban hành nhiều VBQPPL
khác liên quan đến bảo vệ BMNN, có chứa các QPPPL về bảo vệ BMNN. Các văn
bản này thuộc nhiều ngành luật khác nhau, với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau,
từ Hiến pháp năm 2013 đến các bộ luật (như BLHS năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015), luật (như Luật ANQG năm 2004, Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005, Luật Cơ yếu năm 2012, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Xuất
bản năm 2012, Luật CAND năm 2014, Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016…), các văn bản dưới luật như pháp lệnh, nghị định, thông tư…
80
Cùng với các VBQPPL trong nước về bảo vệ BMNN, trong giai đoạn này Nhà
nước ta đã ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế liên quan đến bảo vệ BMNN. Đó
là các hiệp định hợp tác cùng bảo vệ thông tin mật giữa Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam với Chính phủ của một số nước, tham gia các điều ước quốc tế về
quyền con người và phòng, chống tội phạm…
Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật về bảo vệ BMNN có bước phát triển
quan trọng, một mặt Nhà nước ta tiếp tục ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
2000 để thay thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 cùng các văn bản hướng dẫn
thi hành. Mặt khác, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL khác có chứa QPPL về
bảo vệ BMNN, từ Hiến pháp, đến các bộ luật, luật, văn bản quy phạm dưới luật và
các danh mục BMNN cùng với các điều ước quốc tế song phương và đa phương liên
quan đến bảo vệ BMNN. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN trong giai đoạn này
bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ BMNN trong điều kiện đẩy mạnh CNH,
HĐH, hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.2.1. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh
của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Kết quả đạt được về nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí
mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN
Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay có một hệ thống các QPPL quy định
chung về bảo vệ BMNN.
Quy định chung về BMNN: Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã có quy định
riêng về BMNN. Theo đó BMNN là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm,
thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không
công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam [109]. Đây được coi là khái niệm BMNN và là khái niệm pháp lý
về BMNN duy nhất hiện nay.
81
Quy định về các hành vi bị nghiêm cấm: Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay
đã có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Cụ thể, đã quy định: Nghiêm cấm mọi
hành vi thu thập, làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy trái phép BMNN và
việc lạm dụng bảo vệ BMNN để che giấu hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân hoặc làm cản trở việc thực
hiện các kế hoạch Nhà nước (Điều 3 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000). Tương tự
như vậy, Luật ANQG cũng quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có
hành vi “thu thập, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng, tiết lộ, cung cấp, tán phát
trái phép tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc BMNN” (Điều 13). Như vậy, trong Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và Luật ANQG đã quy định các hành vi cụ thể bị
nghiêm cấm.
Ngoài hai văn bản này, còn nhiều VBQPPL khác có quy định về hành vi bị
nghiêm cấm trong bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các văn bản này chủ yếu chỉ quy định
chung về hành vi bị nghiêm cấm là “tiết lộ BMNN” như trong Luật Công nghệ thông
tin, Luật Viễn thông, Luật Cơ yếu, Luật Xuất bản... Bên cạnh đó, trong các VBQPPL
quy định về công tác bảo vệ BMNN của một số cơ quan, tổ chức, ngành, địa phương
cũng có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm phù hợp với công tác bảo vệ BMNN
của mình, như: Thông tư số 59/2010/TT-BCA ngày 14/12/2010 của Bộ Công an Quy
định về công tác bảo vệ BMNN trong lực lượng CAND, quy định những hành vi bị
nghiêm cấm tại Điều 3; Thông tư số 04/2015/TT-TTCP ngày 09/7/2015 Quy định về
công tác bảo vệ BMNN trong ngành Thanh tra, quy định những hành vi bị nghiêm
cấm tại Điều 4;…
Quy định về phạm vi BMNN: Căn cứ vào tính chất quan trọng của nội dung tin
và mức độ nguy hại nếu bị tiết lộ, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay quy định các
tin thuộc phạm vi BMNN được chia làm ba mức độ: Tuyệt mật, Tối mật và Mật.
Đồng thời, pháp luật về bảo vệ BMNN đã quy định phạm vi những loại BMNN cụ
thể thuộc độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật (như trong quy định tại các Điều 5, 6, 7
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000).
Liên quan đến vấn đề phạm vi BMNN, pháp luật về bảo vệ BMNN còn quy
định cụ thể về: người có trách nhiệm lập danh mục BMNN; người được ủy quyền lập
82
danh mục BMNN; lập danh mục BMNN; thẩm định và quyết định danh mục BMNN
và công bố danh mục BMNN (như trong Nghị định số 33/2002/NĐ-CP). Theo các
quy định này, Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định danh mục BMNN
thuộc độ Tuyệt mật và Tối mật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương.
Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định danh mục BMNN thuộc độ Mật
sau khi thống nhất với người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương;
thẩm định danh mục BMNN độ Tuyệt mật và Tối mật của các cơ quan, tổ chức ở
trung ương và địa phương để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Để cụ thể hóa một số quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 và
Nghị định số 33/2002/NĐ-CP, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 33/2015/TT-
BCA (thay thế Thông tư số 12/2002/TT-BCA) có quy định thêm một số vấn đề cụ
thể, như: lập, sửa đổi, bổ sung, giải mật danh mục BMNN; xác định độ mật đối với
hồ sơ, tài liệu, vật mang BMNN. Đặc biệt, Thông tư số 33/2015/TT-BCA đã có quy
định về: giải mật, giảm mật, tăng mật tài liệu, vật mang BMNN (Điều 12); giải mật
tài liệu lưu trữ (Điều 13). Đây là lần đầu tiên pháp luật về bảo vệ BMNN có quy định
về việc giải mật, giảm mật, tăng mật đối với BMNN.
Pháp luật về bảo vệ BMNN còn quy định về khu vực cấm, địa điểm cấm như
trong Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg về việc xác định khu vực cấm, địa điểm cấm.
Theo đó, khu vực cấm, địa điểm cấm thuộc phạm vi BMNN được thiết lập để bảo vệ,
quản lý, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của người, phương tiện nhằm duy trì trật
tự, an ninh và phòng, chống các hành vi xâm nhập, phá hoại, thu thập BMNN trong
khu vực, địa điểm đó. Công dân Việt Nam, người nước ngoài muốn vào khu vực
cấm, địa điểm cấm phải được phép của cơ quan có thẩm quyền; Quyết định này
không áp dụng đối với công dân Việt Nam được phép thường xuyên cư trú, làm việc
ở khu vực cấm, địa điểm cấm.
Trên cơ sở đó, các cơ quan, tổ chức, địa phương đã lập danh mục BMNN thuộc
độ Tuyệt mật, Tối mật, Mật do mình quản lý và trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Cho đến nay, đa số các cơ quan, tổ chức ở trung ương và các địa phương đã lập được
danh mục BMNN do mình quản lý và đã được cấp có thẩm quyền quyết định tương
ứng với cấp độ mật do pháp luật quy định.
83
Như vậy, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã quy định khá toàn diện về
phạm vi BMNN, đặc biệt với việc ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BCA đã phần
nào đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn liên quan đến phạm vi
BMNN như vấn đề tăng mật, giảm mật, giải mật BMNN.
Quy định về biện pháp bảo vệ BMNN: Bảo vệ BMNN được xác định là một
nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG, sử dụng các biện pháp bảo vệ ANQG nói
chung. Luật ANQG quy định “Các biện pháp cơ bản bảo vệ ANQG bao gồm vận
động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ
trang” (Điều 15). Trong bảo vệ ANQG, lực lượng CAND là một lực lượng chuyên
trách. Vì vậy, Luật CAND cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng
CAND trong bảo vệ ANQG nói chung và bảo vệ BMNN nói riêng, đó là: “Áp dụng
các biện pháp vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ
thuật, nghiệp vụ, vũ trang để bảo vệ ANQG, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy
định của pháp luật” (Điều 15). Như vậy, pháp luật về bảo vệ BMNN đã quy định về
biện pháp bảo vệ BMNN với tính chất là một nhiệm vụ, một nội dung trong bảo vệ
ANQG nên cũng sử dụng các biện pháp chung của bảo vệ ANQG trong hoạt động
bảo vệ BMNN.
Hai là, nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN
Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay có nhiều quy phạm quy định quản lý nhà
nước về bảo vệ BMNN.
Quy định về chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN: Pháp luật về bảo vệ
BMNN hiện nay đã có quy định khá cụ thể về các chủ thể và nhiệm vụ, quyền hạn
của các chủ thể trong quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, cụ thể:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn sau: trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội các dự thảo luật, pháp lệnh hoặc các VBQPPL khác về bảo vệ BMNN; ban
hành các nghị định, quyết định, chỉ thị về bảo vệ BMNN, xử lý vi phạm pháp luật về
bảo vệ BMNN; ban hành các cơ chế, chính sách, quyết định các điều kiện đảm bảo
cho các hoạt động bảo vệ BMNN; quyết định việc lập và giải mật, công bố danh mục
BMNN thuộc độ Tuyệt mật, Tối mật; quyết định việc trao đổi, cung cấp BMNN
84
thuộc độ Tuyệt mật cho cá nhân, tổ chức nước ngoài; tổ chức, chỉ đạo các hoạt động
bảo vệ BMNN.
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ BMNN. Bộ Công an có nhiệm vụ, quyền hạn: trình Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ dự thảo các VBQPPL về bảo vệ BMNN; hướng dẫn cơ quan, tổ chức lập
danh mục BMNN và thực hiện công tác bảo vệ BMNN; thẩm định việc lập và giải
mật danh mục BMNN thuộc độ Tuyệt mật, Tối mật trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định; quyết định và giải mật danh mục BMNN thuộc độ Mật sau khi thống nhất với
người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền của cơ quan, tổ chức có liên quan; thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bảo vệ
BMNN; giúp Chính phủ sơ kết, tổng kết công tác bảo vệ BMNN.
Ngoài ra, theo Nghị định số 33/2002/NĐ-CP, Quyết định số 160/2004/QĐ-
TTg, Thông tư số 33/2015/TT-BCA thì Bộ Công an còn có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Xác định các khu vực, địa điểm thuộc phạm vi BMNN để đề nghị cấp có thẩm
quyền cắm biển khu vực cấm, địa điểm cấm; cấp phép cho người nước ngoài vào khu
vực cấm, địa điểm cấm;
Tổ chức xét duyệt những BMNN thuộc độ Tối mật, thẩm định những BMNN
thuộc độ Tuyệt mật mà cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương đề nghị trao
đổi, cung cấp cho cá nhân, tổ chức nước ngoài trước khi trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt;
Chỉ đạo, tổ chức triển khai toàn diện các mặt công tác bảo vệ BMNN; phòng,
chống hoạt động thu thập BMNN và điều tra, xử lý các vụ, việc, đối tượng làm lộ,
mất BMNN;
Tổ chức thực hiện và chỉ đạo, quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN đối với các
cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý của Bộ;
Bộ Công an giao Tổng cục An ninh phối hợp với Công an các đơn vị, địa
phương thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.
Các cơ quan, tổ chức ở trung ương và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có trách nhiệm: tổ chức thực hiện công tác bảo vệ BMNN trong
phạm vi cơ quan, tổ chức, địa phương mình theo quy định của pháp luật; ban hành và
tổ chức thực hiện quy chế bảo vệ BMNN trong phạm vi cơ quan, tổ chức, địa phương
85
mình theo quy định của Chính phủ; lập danh mục, thay đổi độ mật, giải mật BMNN
gửi cấp có thẩm quyền quyết định; quyết định tổ chức, biên chế và chế độ, chính
sách đối với cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ BMNN theo quy định của
Chính phủ; tuyên truyền, giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng
cao trách nhiệm, cảnh giác và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về bảo vệ BMNN;
quyết định in, sao, chụp tài liệu, vật mang BMNN; cung cấp BMNN thuộc độ Tối
mật, Tuyệt mật cho cá nhân, tổ chức Việt Nam; cung cấp BMNN thuộc độ Mật cho
cá nhân, tổ chức nước ngoài; duyệt cho phép cán bộ, đảng viên mang BMNN ra nước
ngoài. Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm xác định và cắm biển khu vực cấm, địa
điểm cấm; xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ BMNN trong
phạm vi cơ quan, tổ chức, địa phương mình; chỉ đạo và tổ chức kiểm tra việc thực
hiện các quy định của pháp luật và quy chế bảo vệ BMNN đối với các đơn vị, địa
phương trong phạm vi quản lý của mình; thực hiện chế độ báo cáo, sơ kết, tổng kết
về công tác bảo vệ BMNN theo quy định của Chính phủ.
Như vậy, về chủ thể và nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong quản lý nhà
nước về bảo vệ BMNN đã được pháp luật về bảo vệ BMNN quy định khá đầy đủ và
phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung, nhất là quy định của Luật Hành
chính về quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể.
Quy định về nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN: Theo Luật ANQG và
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN
bao gồm: ban hành và hướng dẫn thi hành các VBQPPL về bảo vệ BMNN; quyết
định và giải mật BMNN; quy định việc công bố danh mục BMNN; quyết định kinh
phí và bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác bảo vệ BMNN; quy định
chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN; thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bảo vệ BMNN;
sơ kết, tổng kết công tác bảo vệ BMNN.
Ba là, nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân
trong bảo vệ BMNN
Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã có những QPPL quy định chung về
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong bảo vệ BMNN. Trong đó quy
định “Bảo vệ BMNN là nhiệm vụ rất quan trọng của Nhà nước Cộng hòa XHCN
86
Việt Nam. Cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ
BMNN” [109].
Pháp luật về bảo vệ BMNN quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công
dân trong bảo vệ BMNN với những nội dung sau:
Quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân nói chung trong
công tác bảo vệ BMNN: Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức phải tuyên truyền, giáo dục
cho nhân viên thuộc quyền quản lý của mình nắm vững nội dung, yêu cầu về công
tác bảo vệ BMNN, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác này. Căn cứ
vào danh mục BMNN đã được Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an phê
duyệt, thủ trưởng các bộ, ngành, địa phương xác định danh mục BMNN cụ thể của
đơn vị, địa phương mình. Phân loại tài liệu mật đã có từ trước tới nay đang lưu trữ
gồm các tài liệu Mật, Tối mật, Tuyệt mật để bảo quản thích hợp (ví dụ: Tài liệu
Tuyệt mật phải để trong két sắt, các tài liệu mật khác phải có tủ, khoá). Khi soạn thảo
văn bản, người được phân công soạn thảo văn bản nào phải đề xuất độ mật của văn
bản đó trình lãnh đạo có thẩm quyền duyệt độ mật. Lãnh đạo nào duyệt văn bản thì
duyệt độ mật của văn bản đó. Đối với vật mang BMNN phải có văn bản ghi rõ tên
của vật kèm theo và đóng dấu mật vào văn bản này.
Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong các hoạt
động cụ thể như: in, sao, chụp tài liệu, vật mang BMNN; phổ biến, nghiên cứu tin
thuộc phạm vi BMNN; thống kê, lưu giữ, bảo quản tài liệu, vật mang BMNN; bảo vệ
các khu vực, địa điểm cấm, nơi cất giữ, nơi tiến hành các hoạt động có nội dung
thuộc phạm vi BMNN; bảo vệ BMNN khi truyền đi bằng phương tiện thông tin liên
lạc; bảo vệ BMNN trong hoạt động xuất bản, báo chí và thông tin đại chúng; cung
cấp thông tin thuộc phạm vi BMNN; bảo vệ BMNN trong quan hệ, tiếp xúc với tổ
chức, cá nhân nước ngoài; tiêu hủy tài liệu, vật mang BMNN; thanh tra, kiểm tra
trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; chế độ báo cáo và sơ kết, tổng kết về công tác bảo vệ
BMNN; xây dựng quy chế bảo vệ BMNN…
Quy định về trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ BMNN của Bộ Công an với
tư cách là cơ quan được giao thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN: trách
nhiệm trong việc giải mật, sửa đổi, bổ sung danh mục BMNN của các cơ quan, tổ
chức, địa phương và trong lực lượng CAND; bảo vệ BMNN trong việc soạn thảo, in,
87
sao, chụp tin, tài liệu, vật mang BMNN; thống kê, lưu giữ, bảo quản tin, tài liệu, vật
mang BMNN; mang tin, tài liệu, vật có nội dung BMNN ra nước ngoài; tiêu huỷ tin,
tài liệu, vật mang BMNN; bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ BMNN; báo cáo sơ kết,
tổng kết về công tác bảo vệ BMNN; các khu vực, địa điểm cấm thuộc phạm vi
BMNN trong lực lượng CAND. Các nội dung này đã được quy định cụ thể trong
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP và Thông tư số
33/2015/TT-BCA.
Bốn là, nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo
vệ BMNN
Về khen thưởng: Hiện nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có những quy định
chung nhất quy định về vấn đề này. Điều 19 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 quy
định “Cơ quan, tổ chức và công dân có thành tích bảo vệ BMNN thì được khen
thưởng theo quy định của pháp luật”. Cụ thể hóa quy định này, Nghị định số
33/2002/NĐ-CP quy định cụ thể thành tích bảo vệ BMNN là như thế nào bằng việc
quy định cụ thể các trường hợp (hành vi) được khen thưởng trong bảo vệ BMNN
“Cơ quan, tổ chức và công dân có một trong những thành tích sau đây sẽ được khen
thưởng theo quy định của pháp luật: phát hiện, tố giác kịp thời hành vi thu thập, làm
lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy trái phép BMNN; khắc phục mọi khó
khăn, nguy hiểm bảo vệ an toàn BMNN; tìm được tài liệu, vật thuộc BMNN bị mất;
ngăn chặn hoặc hạn chế được hậu quả do việc làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán,
tiêu hủy trái phép BMNN do người khác gây ra; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo
vệ BMNN theo chức trách được giao” (Điều 28).
Về xử lý vi phạm: Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã có những quy định
chung và quy định cụ thể về vấn đề này. Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 quy
định “người nào vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc truy
cứu TNHS; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Mọi vi
phạm chế độ bảo vệ BMNN phải được điều tra làm rõ. Người có hành vi vi phạm,
tùy theo tính chất, hậu quả tác hại gây ra sẽ bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành
chính hoặc truy cứu TNHS”. Những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN
được quy định trong BLHS là các tội xâm phạm BMNN (BLHS năm 2015 quy định
88
có 8 tội xâm phạm BMNN, gồm các tội quy định tại các Điều 110, 286, 287, 2989,
337, 338, 399 và 400) sẽ bị truy cứu TNHS.
Cùng với quy định truy cứu TNHS đối với những trường hợp có hành vi xâm
phạm BMNN đủ yếu tố cấu thành tội phạm, pháp luật về bảo vệ BMNN còn quy
định những hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN nhưng chưa
đến mức truy cứu TNHS, đó là những hành vi được quy định trong Luật Hành chính
và trong các luật khác. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia
đình, đã có một điều riêng quy định xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi
phạm quy định về bảo vệ BMNN (Điều 18).
Ngoài ra pháp luật về bảo vệ BMNN còn quy định, người có hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ BMNN có thể bị xử lý kỷ luật và không được làm việc ở các cơ
quan, bộ phận thiết yếu, quan trọng, những nơi có BMNN.
Như vậy, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã quy định khá cụ thể, đầy đủ
về các hành vi xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm, bị truy cứu TNHS và cả những
vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN bị xử lý hành chính, đồng thời quy định rõ cả
các hình thức xử lý đối với các vi phạm đó.
3.2.1.2. Những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo
vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, đối chiếu với các tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN cho thấy, nội dung điều chỉnh của
pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Một là, nhiều vấn đề liên quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều chỉnh bằng
pháp luật, chưa có QPPL quy định, chưa đảm được tính toàn diện của pháp luật về
bảo vệ BMNN.
Mặc dù nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay khá rộng,
đã bao trùm cơ bản các hoạt động trong công tác bảo vệ BMNN, tuy nhiên vẫn còn
một số vấn đề liên quan bảo vệ BMNN vẫn chưa được điều chỉnh bằng pháp luật,
chưa có QPPL quy định, như: nguyên tắc bảo vệ BMNN; chính sách bảo vệ BMNN;
89
tuyên truyền, giáo dục bảo vệ BMNN; việc cung cấp thông tin và phạm vi tiếp cận
BMNN; chế độ quản lý BMNN; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân
quản lý BMNN; hợp tác quốc tế về bảo vệ BMNN.
Những vấn đề này liên quan trực tiếp và có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ
BMNN. Tuy nhiên, những vấn đề này chưa được quy định trong các VBQPPL, chưa
có QPPL điều chỉnh mà mới chỉ được đề cập đến trong những phạm vi hẹp, trong các
văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật hoặc trong nội quy, quy chế bảo vệ BMNN
của cơ quan, tổ chức. Đặc biệt, về nguyên tắc bảo vệ BMNN và hợp tác quốc tế về
bảo vệ BMNN chưa được đề cập đến trong pháp luật về bảo vệ BMNN.
Bảo vệ BMNN liên quan đến sự tồn tại, phát triển bền vững của chế độ XHCN
và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của
Nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức và công dân; liên
quan đến nhiều nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội… Hoạt
động này cần phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định. Tuy nhiên, pháp
luật về bảo vệ BMNN hiện nay chưa có quy định về nguyên tắc bảo vệ BMNN.
Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
hiện nay, hợp tác quốc tế diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, của các
cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương ngày càng được mở rộng cả về quy mô,
hình thức, mức độ. Vì vậy, hợp tác quốc tế về cùng trao đổi và bảo vệ thông tin mật
là một yêu cầu khách quan. Đây là một nội dung quan trọng trong bảo vệ BMNN giai
đoạn hiện nay. Trên thực tế, ở các phạm vi khác nhau, Nhà nước, các cơ quan, tổ
chức đã thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ BMNN, điển hình là việc ký kết, tham
gia các điều ước quốc tế song phương, đa phương, trong đó có những điều ước quốc
tế về cùng bảo vệ tin mật. Đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ký kết hiệp định hợp tác
cùng bảo vệ tin mật với Chính phủ của 5 quốc gia là Nga, Ucraina, Belarut, Ba Lan,
Bulgari. Đồng thời đã ký Bản ghi nhớ với Chính phủ Isarel và đang hoàn thiện hồ sơ
hiệp định giữa Chính phủ Việt với Chính phủ Tây Ban Nha, Chính phủ Mông Cổ về
cùng bảo vệ thông tin mật. Tuy nhiên, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay ở nước ta
chưa có QPPL quy định về vấn đề hợp tác quốc tế về bảo vệ BMNN.
90
Hai là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN còn bất cập,
chưa đầy đủ, cụ thể, chưa đảm bảo được tính phù hợp, minh bạch và khả thi của pháp
luật về bảo vệ BMNN.
Về khái niệm BMNN, được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
2000 (BMNN là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội
dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế,
khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công
bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam)
[109]. Tuy nhiên, khái niệm này mang tính liệt kê, chưa bao quát hết phạm vi
BMNN, đó chính là bí mật của Đảng, của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN; chưa bao quát hết vật
mang BMNN. Đồng thời, việc đánh giá như thế nào là gây nguy hại cho Nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam chưa cụ thể, khó xác định. Hạn chế, bất cập trong quy
định khái niệm BMNN hiện nay đã gây ra những khó khăn nhất định cả về nhận thức
và áp dụng pháp luật. Điều này có thể dẫn đến hai xu hướng, có thể là xác định
BMNN một cách tràn lan, “cái gì” cũng cho là BMNN, cũng đóng dấu mật gây khó
khăn cho công tác bảo vệ, dẫn đến không bảo vệ được BMNN, không xử lý được
những hành vi xâm phạm BMNN, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật;
hoặc xác định BMNN quá cứng nhắc, quá hẹp, dẫn đến để sót, lọt những bí mật quan
trọng cần phải bảo vệ.
Từ quy định về BMNN như vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định
BMNN trên thực tế, nhiều cơ quan, đơn vị rất lúng túng khi xác định BMNN và xác
định BMNN không phù hợp. Có cơ quan, đơn vị quy định BMNN gồm “… các
thông báo của Ban Giám hiệu, lãnh đạo các đơn vị trong trường” mà không có một
tiêu chí cụ thể nào. Có cơ quan, đơn vị quy định BMNN bao gồm “… văn bản, dự
thảo văn bản; các đề án, dự án, sách, tạp chí, bản tin… có chứa nội dung BMNN độ
Mật hoặc có phạm vi lưu hành nội bộ”. Như vậy, cơ quan, đơn vị đã đồng nhất phạm
vi lưu hành nội bộ với BMNN, cho rằng các văn bản, tài liệu thuộc phạm vi lưu hành
nội bộ cũng là BMNN. Việc xác định BMNN như vậy là quá rộng, tràn lan, không
chính xác và dẫn đến cũng không bảo vệ được BMNN.
91
Về trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia bảo vệ
BMNN, được quy định tại Điều 2 và Chương III Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000
về trách nhiệm quản lý nhà nước; Chương II Nghị định số 33/2002/NĐ-CP quy định
trách nhiệm đối với một số hoạt động cụ thể trong bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các
quy định đó chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân tham gia
như thế nào, nghĩa vụ ra sao; nhiều quy định rất chung chung như “theo quy định của
pháp luật” hoặc “do Chính phủ quy định" nhưng thực tế những nội dung này chưa
được các VBQPPL khác cũng như chưa được Chính phủ quy định cụ thể.
Về bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân: Bảo vệ
BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân thường có sự xung đột, kể
cả trong các quy định của pháp luật và trong thực tiễn áp dụng, không chỉ ở Việt
Nam mà ở cả nhiều nước trên thế giới. Việc mở rộng phạm vi BMNN, không những
làm yếu đi khả năng bảo vệ các thông tin đó, mà còn hạn chế quyền tiếp cận thông
tin (là một quyền cơ bản) của công dân. Ngược lại, nếu mở rộng theo hướng tự do
tiếp cận thông tin sẽ dễ dẫn đến lộ, lọt, mất BMNN, cũng là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động thu thập BMNN của các cơ quan đặc biệt nước ngoài và các loại tội phạm,
có thể gây ra thiệt hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc xác định đúng phạm
vi BMNN và phạm vi thông tin được công khai là rất hệ trọng. Nếu làm được điều
đó, sẽ tạo lập được sự cân bằng đúng mức giữa bí mật và công khai.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành, đã có nhiều VBQPPL điều chỉnh về quyền
tiếp cận thông tin của công dân, trong đó có quy định việc công bố, công khai thông
tin, dữ liệu có liên quan đến hoạt động công quyền và quy định các trường hợp
không được công bố, công khai, cung cấp thông tin đối với các tin thuộc BMNN.
Chẳng hạn, tại Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Thông tin công dân không
được tiếp cận: (1). Thông tin thuộc BMNN, bao gồm những thông tin có nội dung
quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế,
khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật…” [78].
Tuy vậy, các văn bản này lại không quy định loại thông tin nào thuộc BMNN.
Việc xác định thông tin nào thuộc BMNN phải dựa vào quy định của các VBQPPL
trực tiếp điều chỉnh về bảo vệ BMNN, như Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, các VBQPPL hiện hành trực tiếp điều chỉnh về
92
bảo vệ BMNN đã xuất hiện nhiều bất cập như: hiệu lực pháp lý chưa cao, phạm vi
điều chỉnh chưa toàn diện, nội dung thiếu thống nhất, nhiều quy định còn chung
chung… dẫn đến việc áp dụng còn tùy tiện, chưa thực sự đáp ứng được đồng thời
yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và yêu cầu công khai thông tin trong tình
hình hiện nay. Ngoài ra còn có tình trạng lợi dụng danh nghĩa bảo vệ BMNN để né
tránh, từ chối cung cấp thông tin cho công dân; không quy định nghĩa vụ phải cung
cấp thông tin hoặc xác định phạm vi BMNN không sát thực, cái gì cũng cho là “mật”
dẫn đến ảnh hưởng đến việc cung cấp thông tin và hoạt động bảo vệ BMNN. Như
vậy, pháp luật về bảo BMNN hiện nay chưa có các quy định cụ thể để vừa bảo vệ
được BMNN, vừa bảo đảm được về quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Thực tế hiện nay có tình trạng “mật” hóa văn bản, dấu mật được đóng tràn lan,
đa số bản thân danh mục BMNN lại được cơ quan có thẩm quyền đóng dấu mật,
không phổ biến cho cán bộ, nhân viên và người dân nên mọi người cũng không thể
biết được đâu là BMNN để bảo vệ.
Ngoài các nội dung trên, còn nhiều nội dung về bảo vệ BMNN cũng chưa được
quy định đầy đủ, cụ thể, như: việc thay đổi độ mật, giải mật BMNN nói chung và
từng loại BMNN cụ thể; các khái niệm về độ mật nói chung và về từng cấp độ mật
cụ thể, về vật mang BMNN; chế độ, chính sách đối với người làm công tác bảo vệ
BMNN; điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm cho công tác bảo vệ
BMNN… Trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP,
Thông tư số 12/2002/TT-BCA, các nội dung đó mới chỉ được đề cập đến một cách
chung nhất hoặc liệt kê mà chưa đầy đủ, cụ thể, rất khó thực hiện được trên thực tế.
Năm 2015, Bộ Công an ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BCA trên cơ sở tổng kết,
rút kinh nghiệm một số hạn chế, bất cập của Thông tư số 12/2002/TT-BCA và thay
thế Thông tư số 12/2002/TT-BCA. Trong Thông tư số 33/2015/TT-BCA, những nội
dung trên tiếp tục được đề cập đến và được quy định rõ hơn một bước so với các văn
bản trước đây. Tuy nhiên, những quy định đó vẫn chưa đầy đủ, cụ thể nên vẫn rất
khó thực hiện.
Vì vậy, trên thực tế chưa có trường hợp nào thực hiện việc giải mật BMNN,
tăng độ mật, giảm độ mật BMNN, xử lý vi phạm đối với hành vi tiêu hủy tài liệu
93
BMNN; chưa có chế độ, chính sách cho người làm công tác bảo vệ BMNN cũng như
thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác bảo vệ BMNN.
Theo Nghị định số 106/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an; Thông tư số 59/2010/TT-
BCA ngày 14/12/2010 Quy định về công tác bảo vệ BMNN trong lực lượng CAND
và thực tế hiện nay Bộ Công an mới chỉ thành lập được 01 phòng (Phòng 6 thuộc
Cục An ninh chính trị nội bộ) có chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, với
biên chế có 17 cán bộ trong cả nước (phân công ở miền Bắc 13 cán bộ và miền Nam
04 cán bộ); ở Công an cấp tỉnh biên chế từ 01 đến 02 cán bộ chuyên trách hoặc kiêm
nhiệm làm công tác bảo vệ BMNN. Hoạt động của các đơn vị, bộ phận này chưa
theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, chủ yếu mới chỉ tiếp nhận báo cáo và tin
tức về các vụ việc lộ, lọt BMNN, thống kê các vụ lộ, lọt BMNN, tiến hành kiểm tra
công tác bảo vệ BMNN ở một số cơ quan, tổ chức mà chưa định rõ hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ của mình. Các đơn vị, bộ phận này đang trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ.
Hiện nay, trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 có đề cập đến việc “người
đứng đầu hoặc người được ủy quyền của cơ quan, tổ chức và Chủ tịch UBND các
cấp có trách nhiệm: tổ chức thực hiện công tác bảo vệ BMNN theo quy định của
Pháp lệnh này và các văn bản pháp luật khác có liên quan; bố trí cán bộ làm công tác
bảo vệ BMNN theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên, pháp luật về bảo vệ
BMNN mới chỉ dừng lại ở quy định chung như trên. Trong Nghị định số
33/2002/NĐ-CP của Chính phủ cũng không quy định cụ thể vấn đề này. Đồng thời
quyền, nghĩa vụ, chế độ chính sách đối với những người này cũng chưa được pháp
luật về bảo vệ BMNN quy định.
Vì vậy, trên thực tế việc tổ chức công tác bảo vệ BMNN ở mỗi cơ quan, đơn vị,
địa phương là khác nhau, không thống nhất, việc bố trí cán bộ trực tiếp làm công tác
bảo vệ BMNN nơi có, nơi không và trách nhiệm chưa gắn trực tiếp với chủ thể nào,
chỉ trừ trường hợp để xảy ra việc lộ, lọt, mất BMNN mới tính đến việc xác định trách
nhiệm của người làm lộ, lọt, mất BMNN.
Ba là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN không đồng
bộ, thống nhất, như:
94
Sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của BLHS với nội dung điều
chỉnh của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Trong BLHS năm 2015 (và trước đây
là BLHS năm 1999) quy định về các tội xâm phạm đến BMNN, gồm 8 tội (tại các
Điều 110, 286, 287, 289, 337, 338, 399 và 400 của BLHS năm 2015). Các tội này
quy định về các hành vi xâm phạm BMNN, trong đó có hành vi xâm phạm đến tài
liệu BMNN. Cụ thể, Điều 337 quy định: Tội cố ý làm lộ BMNN; tội chiếm đoạt, mua
bán, tiêu huỷ tài liệu BMNN; Điều 338 quy định: Tội vô ý làm lộ BMNN; tội làm
mất vật, tài liệu BMNN. Như vậy, theo các quy định trên của BLHS, vật mang
BMNN theo BLHS năm 1999 chỉ quy định một dạng là “tài liệu”, BLHS năm 2015
có bổ sung thêm về vật BMNN nhưng quy định không thống nhất và vẫn chủ yếu là
một loại là “tài liệu BMNN”. Đối tượng bị xâm phạm theo quy định tại Điều 337
BLHS năm 2015 chỉ là tài liệu, đối tượng bị xâm phạm theo quy định tại Điều 338
BLHS năm 2015 có bổ sung thêm “vật, tài liệu BMNN”.
Trong khi đó, theo khái niệm BMNN được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN năm 2000 thì BMNN có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, vật mang
BMNN có nhiều loại khác nhau, tài liệu chỉ là một dạng (một loại) của vật mang
BMNN. Việc quy định hành vi xâm phạm đến BMNN trong BLHS năm 2015 như
vậy là rất hẹp, không bao trùm hết các hành vi xâm phạm đến BMNN với các loại
vật mang BMNN khác, không phải là tài liệu. Các đối tượng khác như “tin về vụ,
việc, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng...” không phải là đối
tượng xâm phạm của các tội phạm nói trên.
Như vậy, có sự không thống nhất trong quy định của BLHS về các tội xâm
phạm BMNN và không thống nhất trong quy định về vật mang BMNN của BLHS và
của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN. Điều này dẫn đến sự e ngại, không dám xử lý các
hành vi xâm phạm đến BMNN của các cơ quan, người áp dụng pháp luật và có thể
dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Về hành vi tiêu hủy BMNN: Theo quy định của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP
và Thông tư số 33/2015/TT-BCA thì BMNN có thể được tiêu hủy BMNN trên cơ sở
quyết định của người có thẩm quyền và tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định. Tuy
nhiên, theo quy định tại Điều 337 BLHS năm 2015 về tội cố ý làm lộ BMNN; tội
chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu BMNN, chỉ quy định về hành vi tiêu hủy tài
95
liệu BMNN. Nếu căn cứ vào quy định tại Điều 337 BLHS năm 2015 thì hành vi tiêu
hủy BMNN kể cả được phép hoặc không được phép đều phạm tội tiêu hủy tài liệu
BMNN. Đây là một hạn chế, bất bật lớn của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay.
Từ hạn chế, bất cập đó dẫn đến tình trạng thực tế chưa có vụ án hình sự nào
được khởi tố, điều tra về tội tiêu hủy tài liệu BMNN.
Sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của các VBQPPL trực tiếp quy
định về bảo vệ BMNN. Điều này được thể hiện ở sự không thống nhất trong quy định
về vật mang BMNN. Nghị định số 33/2002/NĐ-CP quy định về các dạng tồn tại của
BMNN gồm hai loại là tài liệu và vật mang BMNN. Căn cứ vào Danh mục BMNN
đã được cấp có thẩm quyền quyết định, người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền
của cơ quan, tổ chức, địa phương phải có văn bản quy định cụ thể: loại tài liệu, vật
mang BMNN thuộc độ Tuyệt mật; loại tài liệu, vật mang BMNN thuộc độ Tối mật;
loại tài liệu, vật mang BMNN thuộc độ Mật”. Theo văn bản này, tài liệu và vật mang
BMNN là hai loại khác nhau và tương đương nhau. Đây là điểm không thống nhất so
với quy định của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Bời vì, Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000 chỉ quy định chung là vật mang BMNN, trong đó tài liệu BMNN
chỉ là một dạng (một loại) của vật mang BMNN.
Khoản 3 Điều 2 của Thông tư số 33/2015/TT-BCA quy định “Vật mang
BMNN là vật thể bao gồm tài liệu, vật liệu, máy móc trong đó có lưu giữ, chứa đựng
BMNN”. Như vậy, Thông tư này đã đưa ra khái niệm vật mang BMNN và đã liệt kê
gồm có ba loại là: Tài liệu, vật liệu, máy móc trong đó có lưu giữ, chứa đựng
BMNN. Tuy nhiên, trong Thông tư số 33/2015/TT-BCA cũng còn nhiều điểm sử
dụng không thống nhất. Mặc dù khái niệm vật mang BMNN gồm ba loại nêu trên
nhưng trong nhiều điều, khoản khác của Thông tư lại sử dụng đồng thời, ngang hàng
nhau hai khái niệm là “tài liệu, vật mang BMNN”. Việc sử dụng như vậy là không
thống nhất, theo khái niệm đưa ra tại khoản 3 Điều 2 của Thông tư thì tài liệu mang
BMNN chỉ là một trong ba loại của vật mang BMNN.
Sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh về phạm vi độ mật. Đó là sự
không thống nhất giữa quy định của các VBQPPL về bảo vệ BMNN trong nước với
các hiệp định về trao đổi, bảo vệ tin mật giữa Việt Nam với một số nước hoặc sự
chồng chéo giữa quy định về phạm vi độ mật với mức độ lưu hành nội bộ. Có văn
96
bản vừa lưu hành nội bộ, vừa đóng dấu mật và ngược lại (chẳng hạn như cuốn thông
tin nội bộ hàng tháng của Tổng cục Chính trị CAND). Điều này dẫn đến việc đồng
nhất cho rằng lưu hành nội bộ cũng là một mức độ mật và ngược lại BMNN thì lưu
hành nội bộ. Các VBQPPL về bảo vệ BMNN quy định phạm vi BMNN được chia
làm 3 mức độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật; phạm vi BMNN và phạm vi lưu hành nội
bộ hoàn toàn khác nhau, những tin, tài liệu thuộc loại lưu hành nội bộ thì không
thuộc phạm vi BMNN.
Một vấn đề nữa là các quốc gia khác nhau cũng có cách phân chia phạm vi độ
mật khác nhau. Trong đó có một số nước như Ucraina, Belarut phân chia độ mật
tương tự như ở Việt Nam, còn các nước khác mà Việt Nam đã ký hiệp định cùng trao
đổi, bảo vệ tin mật có quy định khác Việt Nam. Trong các hiệp định đã ký kết đó,
những thông tin mà Việt Nam nhận được từ các nước đã ký kết hiệp định được xác
định là lưu hành nội bộ (như ở Ba Lan), hoặc hạn chế (như ở Bulgari) sẽ được bảo vệ
như thông tin mật ở Việt Nam. Điều này có nghĩa là các thông tin đó được coi là
BMNN, thuộc một phạm vi độ mật ở Việt Nam.
3.2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về hình thức của pháp
về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay
3.2.2.1. Kết quả đạt được về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Cho đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có một hệ thống VBQPPL về bảo
vệ BMNN thuộc nhiều ngành luật khác nhau với các độ hiệu lực pháp lý khác nhau,
từ Hiến pháp đến các luật và VBQPPL dưới luật.
Có thể kể đến các VBQPPL hiện hành có chứa QPPL về bảo vệ BMNN như:
Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2008 và
năm 2014); Luật ANQG năm 2004; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012); Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Luật Công
nghệ thông tin năm 2006; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viễn thông năm
2009; Luật Bưu chính năm 2010; Luật Viên chức năm 2010; Luật Cơ yếu năm 2011;
Luật Lưu trữ năm 2011; Luật Xuất bản năm 2012; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật
năm 2012; Hiến pháp năm 2013; Luật CAND năm 2014; BLHS năm 2015; Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015; Luật
97
An toàn thông tin mạng năm 2015; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND
năm 2015; Luật Trưng cầu ý dân năm 2015; Luật Ban hành VBQPPL năm 2015;
Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015; Luật
Báo chí năm 2016; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016…
Ngoài các văn bản luật trên đây, còn có nhiều VBQPPL dưới luật có chứa các
QPPL về bảo vệ BMNN, tạo thành hệ thống, chỉnh thể trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN như: Pháp lệnh Bảo vệ công
trình quốc phòng và khu vực quân sự năm 1994; Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm
2000; Pháp lệnh Bảo vệ công trình, phương tiện liên quan đến an ninh quốc gia năm
2007... Các nghị định của Chính phủ như: Nghị định số 04/1995/NĐ-CP ngày
16/01/1995 của Chính phủ ban hành Quy chế bảo vệ công trình quốc phòng và khu
vực quân sự; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày
10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước; Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28/8/2008 của Chính phủ về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử internet; Nghị định
số 49/2012/NĐ-CP ngày 04/6/2012 của Chính phủ quy định danh mục quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi BMNN trong các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, đối ngoại; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP; Nghị định số
120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2012 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu… Các thông tư của các Bộ như: Thông tư
số 59/2010/TT-BCA ngày 14/12/2010 của Bộ Công an quy định về công tác bảo vệ
BMNN trong lực lượng CAND; Thông tư số 72/2011/TT-BQP ngày 29/4/2011 của
Bộ Quốc phòng quy định bảo mật nội dung thông tin khi sử dụng phương tiện liên
lạc tại quần đảo Trường Sa và DK1; Thông tư số 33/2015/TT-BCA…
Trong các văn bản trên, có văn bản trực tiếp quy định về công tác bảo vệ
BMNN, có văn bản không trực tiếp quy định về công tác bảo vệ BMNN nhưng có
chứa QPPL quy định về công tác bảo vệ BMNN. Trên cơ sở các VBQPPL đó, Thủ
tướng Chính phủ ban hành các quyết định quy định về danh mục BMNN độ Tuyệt
mật và độ Tối mật của các ngành, lĩnh vực, cơ quan, tổ chức và địa phương; Bộ
trưởng Bộ Công an ban hành thông tư quy định về danh mục BMNN độ Mật; các cơ
98
quan, tổ chức, địa phương ban hành các quyết định về quy chế bảo vệ BMNN của cơ
quan, tổ chức, địa phương mình.
Cùng với các VBQPPL trong nước, hiện nay Việt Nam đã ký kết, gia nhập
nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong đó có chứa các QPPL về
bảo vệ BMNN. Đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định hợp tác cùng bảo
vệ tin mật với Chính phủ của các nước: Nga, Ucraina, Belarut, Ba Lan, Bulgari và ký
Bản ghi nhớ với Chính phủ Isarel về cùng bảo vệ thông tin mật, đang đàm phán để
ký kết Hiệp định hợp tác cùng bảo vệ tin mật với Chính phủ Tây Ban Nha và Chính
phủ Mông Cổ. Trong các hiệp định nêu trên, ngoài phần chung (xác định cấp độ tin
mật, phạm vi hợp tác, trao đổi, cung cấp và bảo vệ tương đương giữa các quốc gia,
các nguyên tắc bảo vệ tin mật) còn có những điều khoản chặt chẽ và cụ thể về các
vấn đề liên quan như hợp đồng mật, chuyển giao tin mật, hủy tin, các chuyến thăm.
Đồng thời các hiệp định này còn chứa đựng những điều khoản quy định cụ thể về
những hành vi vi phạm các quy định an ninh liên quan đến việc cùng bảo vệ tin mật,
cơ chế ràng buộc, biện pháp thực hiện những cam kết cụ thể để bảo vệ bí mật được
trao đổi giữa hai Nhà nước, hai Chính phủ phù hợp với quy định của luật pháp quốc
tế, Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam đã gia nhập và ký kết nhiều điều ước quốc tế về bảo vệ
quyền con người; hợp tác phòng, chống khủng bố; tương trợ tư pháp; phòng, chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; hợp tác phòng, chống buôn bán người; hợp tác
và tương trợ hành chính trong lĩnh vực hải quan…, như: Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Uzbekistan về hợp tác phòng chống
khủng bố, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và tội phạm khác; Hiệp định giữa
Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào về hợp tác phòng, chống buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị buôn
bán; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước
Ucraina về hợp tác và tương trợ hành chính trong lĩnh vực hải quan; Hiệp định tương
trợ tư pháp về hình sự giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa
Indonesia; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ
Malaysia về hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia…
99
3.2.2.2. Hạn chế, bất cập về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Cùng với những kết quả đạt được nêu trên, đối chiếu với các tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN cho thấy pháp luật về bảo vệ
BMNN ở nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập về hình thức.
Một là, hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN ít được hệ thống hoá. Hệ thống
VBQPPL về bảo vệ BMNN rất phong phú với nhiều cấp độ hiệu lực pháp lý khác
nhau, do rất nhiều cơ quan ban hành và trong một thời gian dài, có văn bản mới ban
hành nhưng cũng có văn bản đã ban hành đến 20 năm, thuộc các ngành, các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Cho đến nay, chỉ có một số ít công trình tập hợp hoá
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN như: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã tập
hợp thành cuốn “Các quy định pháp luật về bảo vệ BMNN”, tính đến năm 2004. Tuy
nhiên, công trình được thực hiện đã lâu, trong đó mới chỉ tập hợp một số VBQPPL
về bảo vệ BMNN như: Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, Nghị định số
33/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và các quyết
định về danh mục BMNN trong các lĩnh vực cụ thể của các bộ, ngành ở trung ương
tính đến thời điểm đó. Bộ Công an đã tập hợp “Danh mục BMNN” thực hiện vào
năm 2008; “Các quy định của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về bảo vệ BMNN”
tính đến ngày 30/9/2012 và “Danh mục VBQPPL thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước
của Bộ Công an” (kết quả hệ thống hoá văn bản đến ngày 31/12/2013), trong đó có
tập hợp cả các VBQPPL về bảo vệ BMNN còn hiệu lực pháp luật theo cấp độ hiệu
lực từ luật đến thông tư.
Như vậy, với hình thức tập hợp hoá pháp luật về bảo vệ BMNN, đến nay có rất
ít công trình thực hiện. Tuy nhiên, các công trình tập hợp đó chưa đảm bảo được đầy
đủ, kịp thời và không chuyên biệt mà tập hợp chung cùng với hệ thống các VBQPPL
thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Công an.
Đối với hình thức pháp điển hoá, cho đến nay, chưa có luật hay bộ luật về bảo
vệ BMNN mà văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN và
chưa có công trình nào pháp điển hoá pháp luật về bảo vệ BMNN để xây dựng Bộ
pháp điển về bảo vệ BMNNN. Ngày 06/6/2014 Chính phủ có “Quyết định phê duyệt
100
danh mục các đề mục trong mỗi chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển
theo các đề mục”, trong đó có đề mục bảo vệ BMNN thuộc chủ đề ANQG.
Hai là, ở nước ta vẫn chưa có Luật Bảo vệ BMNN. VBQPPL có hiệu lực pháp
lý cao nhất mang tính chất chuyên ngành, trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN hiện
nay là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000, chưa có luật hay bộ luật về bảo vệ
BMNN. Hơn nữa, Pháp lệnh Bảo vệ BMNN ban hành đã lâu và còn nhiều hạn chế,
bất cập về nội dung. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến hiệu lực điều chỉnh của pháp
luật về bảo vệ BMNN, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động bảo vệ BMNN. Bởi vì,
bảo vệ BMNN có ở các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến rất nhiều cơ
quan, tổ chức và ở nhiều cấp khác nhau, cả trong và ngoài nước… Đồng thời, các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động bảo vệ BMNN thường xuyên có sự biến
đổi, nhất là các quan hệ xã hội liên quan đến sự phát triển của khoa học, công nghệ,
liên quan đến internet, đến các quyền và tự do cơ bản của con người, đến hợp tác
quốc tế… Điều đó càng đòi hỏi pháp luật về bảo vệ BMNN phải có các VBQPPL về
bảo vệ BMNN có hiệu lực pháp lý cao và cập nhật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh
các quan hệ xã hội đó.
Ba là, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về bảo vệ
BMNN còn rất hạn chế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa,
đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 185 quốc gia
[82], là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng, với vị thế
và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế
giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa,
xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng. Điều đó đặt ra yêu cầu hợp tác, trao đổi
thông tin (đàm phán, ký kết, hội nghị, hội thảo…), bảo vệ BMNN ngày càng tăng. Vì
vậy, yêu cầu bảo vệ các thông tin, tài liệu BMNN trong quá trình quan hệ, hợp tác,
trao đổi giữa Việt Nam với các nước càng trở nên cấp thiết, góp phần bảo vệ ANQG,
lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân Việt Nam.
Tuy nhiên đến nay, Chính phủ Việt Nam mới ký kết Hiệp định hợp tác cùng
bảo vệ tin mật với Chính phủ của 5 quốc gia (Nga, Ucraina, Belarut, Ba Lan,
Bulgari) và ký Bản ghi nhớ với Chính phủ Isarel về cùng bảo vệ thông tin mật. Như
vậy, so với yêu cầu quan hệ, hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng của nước ta hiện nay
101
thì số lượng hiệp định trên là quá khiêm tốn và mới chỉ tập trung vào một số nước
mà Việt Nam có quan hệ truyền thống trước đây.
Bốn là, kỹ thuật lập pháp trong một số văn bản về bảo vệ BMNN còn hạn chế.
Có thể thấy những hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong quy định của BLHS về các tội
xâm phạm BMNN. BLHS năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015,
thay thế cho BLHS năm 1999, mặc dù vậy, BLHS năm 2015 còn nhiều hạn chế về kỹ
thuật lập pháp, trong đó có quy định về các tội xâm phạm BMNN. Trong Điều 337
BLHS năm 2015, có sự không thống nhất giữa tên tội (tên điều luật) với nội dung
của điều luật, nội dung mô tả về hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tên tội là “cố ý làm
lộ BMNN; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu BMNN” nhưng trong nội dung
chỉ mô tả hai hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán BMNN”. Đây là một hạn chế lớn về
kỹ thuật lập pháp và có thể dẫn đến bỏ lọt hành vi nguy hiểm cho xã hội, bỏ lọt tội
phạm. Khi đó, hành vi “chiếm đoạt tài liệu BMNN” và “tiêu hủy tài liệu BMNN” sẽ
rất khó xử lý bằng LHS. Hơn nữa, đối với hành vi “tiêu hủy tài liệu BMNN” phải là
tiêu hủy trái phép mới có thể cấu thành tội phạm xâm phạm BMNN nhưng trong
BLHS năm 2015 chỉ mô tả là hành vi “tiêu hủy tài liệu BMNN”. Do hạn chế, bất cập
đó nên trên thực tế chưa có vụ án nào được khởi tố, điều tra và xử lý về tội tiêu hủy
tài liệu BMNN.
Một điểm hạn chế nữa về kỹ thuật lập pháp trong Điều 337 và 338 BLHS năm
2015 là sự không thống nhất giữa đối tượng tác động nêu ở tên tội với đối tượng tác
động quy định trong nội dung của tội, của các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối
tượng tác động nêu ở tên tội là “vật hay tài liệu BMNN”, còn đối tượng tác động của
các hành vi nguy hiểm cho xã hội là “BMNN”.
Năm là, các danh mục BMNN chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ. Bí mật nhà
nước được xác định từ khái niệm BMNN quy định trong VBQPPL về bảo vệ BMNN
và qua các dấu hiệu của BMNN. Tuy nhiên, về hình thức, BMNN được quy định
trong danh mục BMNN. Đây là căn cứ pháp lý vô cùng quan trọng để các cơ quan, tổ
chức và công dân xác định những gì là BMNN và tiến hành các hoạt động bảo vệ
BMNN. Trong thực tế hiện nay, BMNN vẫn được quan niệm chính là các bí mật
được quy định trong các danh mục BMNN với các phạm vi độ mật khác nhau của tất
cả các lĩnh vực, cơ quan, tổ chức, địa phương. Tuy nhiên, việc ban hành các danh
102
mục BMNN còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác bảo vệ BMNN
như: việc ban hành các danh mục BMNN chưa kịp thời, chưa thường xuyên được rà
soát, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế; bản thân danh mục BMNN lại là một
BMNN và được đóng dấu độ mật, ngay cả bản tập hợp hóa danh mục BMNN cũng
đóng dấu Mật, thậm chí có khi là Tối mật.
Đến nay có 107 danh mục BMNN của các bộ, ngành, tổ chức, địa phương được
ban hành. Trong đó, có những danh mục BMNN ban hành đã lâu nhưng chưa được
kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự biến đổi của tình hình thực tế. Còn
nhiều bộ, ngành, tổ chức, địa phương chưa ban hành danh mục BMNN cũng như
chưa kịp thời rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung danh mục BMNN của mình.
Sáu là, một số QPPL về bảo vệ BMNN được ban hành đã lâu nhưng chưa thực
sự đi vào cuộc sống, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như cơ chế để
thực hiện. Pháp lệnh Bảo vệ BMNN được ban hành năm 2000 nhưng đến năm 2002
thì Chính phủ và Bộ Công an mới ban hành nghị định và thông tư để quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN. Đây là một sự chậm trễ trong
công tác xây dựng pháp luật đối với hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Pháp luật
về bảo vệ BMNN có quy định về việc giải mật danh mục BMNN và tiêu huỷ tài liệu,
vật mang BMNN nhưng chỉ quy định chung nhất mà không quy định rõ về nguyên
tắc, trình tự, thủ tục thực hiện. Vì vậy, những quy định này vẫn chưa thực sự đi vào
cuộc sống, các cơ quan có trách nhiệm rất khó thực hiện.
Tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 cho thấy, các bộ,
ngành, tổ chức, địa phương chưa thực hiện việc giải mật danh mục BMNN; việc tiêu
huỷ tài liệu, vật mang BMNN cũng không thống kê, xác định được, bởi vì mỗi cơ
quan, đơn vị thực hiện khác nhau. Đến Thông tư số 33/2015/TT-BCA đã quy định
chi tiết hơn một bước về một số nội dung, trong đó có giải mật, tăng, giảm độ mật tài
liệu BMNN; tiêu huỷ tài liệu, vật mang BMNN. Tuy nhiên những quy định đó vẫn
chưa thực sự cụ thể đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được thuận lợi. Vì vậy,
những quy định đó cũng chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa có cơ quan, đơn vị, địa
phương nào thực hiện việc giải mật danh mục BMNN hay thực hiện việc tăng độ
mật, giảm độ mật BMNN trên thực tế.
103
Ngày 06/9/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 160/2004/QĐ-TTg về
việc xác định khu vực cấm, địa điểm cấm, trong đó tại Điều 8 quy định: “Bộ trưởng
Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong phạm vi và
quyền hạn của mình chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành Quyết định
này”, nhưng cho đến nay các cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định này vẫn
chưa ban hành văn bản hướng dẫn để thi hành Quyết định này.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ BMNN cũng vậy. Điều
18 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa
cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, quy định những hành vi vi phạm hành chính về
bảo vệ BMNN và mức xử phạt tương ứng đối với các hành vi đó. Tuy nhiên lại
không quy định rõ thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính về
bảo vệ BMNN là của lực lượng nào, cấp nào… Đồng thời trên thực tế thẩm quyền
này cũng rất khó xác định và hầu như không ra quyết định xử phạt đối với các cơ
quan, cá nhân vi phạm mà chủ yếu xử lý bằng biện pháp tổ chức hoặc các biện pháp
hành chính khác.
Theo thống kê, từ năm 2000 đến nay chỉ có 02 vụ áp dụng hình thức xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ BMNN. Vụ thứ nhất, do Công an huyện Bảo
Lạc, Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty dịch vụ thương mại Thái
Hà do Công ty này sau khi sửa máy tính chứa tài liệu BMNN của Công an huyện Bảo
Lạc đã bán USB chứa tài liệu BMNN của Công an huyện Bảo Lạc cho nước ngoài.
Vụ thứ hai, do Công an tỉnh Quảng Nam ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với 03 cán bộ của Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Quảng Nam và 01 cán bộ
Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Phước Sơn (Quảng Nam) đã làm lộ đề thi
môn Vật lý đầu vào hệ vừa học, vừa làm do Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Quảng
Nam liên kết với Trường Đại học Kinh tế Thừa Thiên Huế tổ chức tại Quảng Nam.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ bí
mật nhà nước
3.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của đất nước thời gian qua. Sau
30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
104
trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, nghèo nàn, lạc hậu, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình; hội nhập quốc tế sâu rộng; đẩy mạnh CNH, HĐH sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp hiện đại. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Chính trị, xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa, xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất
nước và đời sống của Nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ XHCN được phát huy và
ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và chế độ XHCN. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước tạo ra những thay đổi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong khi đó pháp luật về bảo vệ BMNN có trên tất cả các lĩnh vực đó, là một
bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc nên mặc dù đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung
nhưng còn nhiều nội dung chưa theo kịp những thay đổi nhanh chóng của cuộc sống.
Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, xu hướng toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và quá trình dân chủ hóa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân là một tất yếu và ngày càng được đề cao. Đi liền với đó là yêu cầu xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là những vấn đề
khó và cần phải được đồng thời bảo đảm nhất là trong lĩnh vực bảo vệ BMNN; do
vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ.
- Sự gia tăng các VBQPPL về bảo vệ BMNN thuộc các ngành, lĩnh vực khác
nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và trong một thời gian dài. Bí mật
nhà nước có ở tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, VBQPPL
về bảo vệ BMNN cũng có ở tất cả các ngành, lĩnh vực đó. Tuy nhiên, việc ban hành
các VBQPPL về bảo vệ BMNN do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và trong
một thời gian dài, vào những thời điểm khác nhau, cùng với chưa có chiến lược tổng
thể trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Điều này đã dẫn
105
đến những hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN như: tản mạn, chưa đảm
bảo tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, hiệu lực điều chỉnh thấp…
Có thể thấy, có những VBQPPL ban hành đã rất lâu như Luật báo chí, ban hành
từ năm 1989 (được sửa đổi năm 1999; ngày 05/4/2016, Quốc hội mới thông qua Luật
Báo chí sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017), thậm chí Pháp lệnh Bảo vệ BMNN
được ban hành đã gần 20 năm. Tuy nhiên cũng có nhiều VBQPPL về bảo vệ BMNN
mới được ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến bảo vệ BMNN
mới phát sinh, như: Luật An toàn thông tin mạng, Luật Tiếp cận thông tin, Thông tư
số 33/2015/TT-BCA... Các văn bản này được ban hành để bảo vệ BMNN trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng đến kinh
tế, văn hoá, xã hội, khoa hoc, công nghệ… Các văn bản này do nhiều cấp, nhiều
ngành ban hành với nhiều tên gọi và hiệu lực pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp, các
bộ luật và luật đến các pháp lệnh, nghị định, thông tư, quyết định. Các VBQPPL về
bảo vệ BMNN không chỉ có những văn bản trong nước mà còn cả các điều ước quốc
tế song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có các quy phạm về
bảo vệ BMNN như các hiệp định về trao đổi, bảo vệ tin mật, các hiệp định tương trợ
tư pháp, phòng chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các công ước quốc tế về
quyền con người…
3.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Trong một thời gian dài Nhà nước ta chưa có chương trình xây dựng pháp luật
toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược trong đó có pháp luật về bảo vệ BMNN.
Trước khi có Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nhà nước ta chưa có một chương trình tổng
thể về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Khi đó, các cơ quan có
chức năng, nhiệm vụ trong công tác xây dựng pháp luật cũng rất ít cơ quan có chương
trình xây dựng pháp luật, chủ yếu chỉ có Quốc hội là có Chương trình xây dựng pháp
luật theo từng nhiệm kỳ và từng năm. Chưa có sự quan tâm thường xuyên đến vấn đề
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, như đánh giá của Bộ Chính
trị tại Nghị quyết số 48-NQ/TW đã chỉ rõ: “Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta
vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống”.
Đối với pháp luật về bảo vệ BMNN cũng vậy, đến năm 1991 Nhà nước ta mới
ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN (Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991). Từ năm
106
1950 đến năm 1991, nước ta vẫn sử dụng Sắc lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950 về
“Ấn định những hình phạt trừng trị việc tiết lộ bí mật cơ quan hay công tác của
Chính phủ” (và Sắc lệnh số 69-SL ngày 10/12/1951 về giữ gìn BMQG để bổ khuyết
cho Sắc lệnh số 154-SL). Như vậy trong một thời gian dài, nước ta vẫn sử dụng Sắc
lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950 để quy định về bảo vệ BMNN, trong khi đó tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và trên thế giới có rất nhiều thay đổi. Điều
này cho thấy chiến lược xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật về bảo vệ BMNN
nói riêng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Sau 10 năm
thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991, đến năm 2000 Nhà nước ta ban hành
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN lần 2 (Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000) thay thế cho
Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991.
Đến năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW đã xác định rõ
mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam. Nghị quyết đã đề ra chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam toàn diện, đầy đủ đảm bảo cho sự thống nhất của hệ thống pháp
luật. Trong đó có định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc
phòng và ANQG, trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền
đã xây dựng chương trình, nhiệm vụ của mình để thực hiện chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 đã chỉ ra nhiều
hạn chế, bất cập của Pháp lệnh này nói riêng và pháp luật về bảo vệ BMNN nói
chung, trong đó đặt ra yêu cầu cấp bách cần phải xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để
thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ BMNN. Uỷ ban Quốc phòng - an ninh, Uỷ ban Pháp
luật của Quốc hội và Bộ Công an đã đề xuất đưa dự án Luật Bảo vệ BMNN vào
chương trình làm việc của nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII. Tuy nhiên, năm 2013 Hiến
pháp mới được ban hành đã đặt ra yêu cầu phải xây dựng rất nhiều luật để thể chế
hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, trong đó có các vấn đề liên quan mật thiết
với việc bảo vệ BMNN, cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá đồng bộ, toàn diện…
như quyền tiếp cận thông tin của người dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…
Vì vậy, Dự án Luật Bảo vệ BMNN chưa thể thực hiện được.
107
- Tư duy pháp lý về bảo vệ BMNN có những khía cạnh không theo kịp sự thay
đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống. Trong một thời gian dài chúng ta chậm
đổi mới về kinh tế, chính trị cùng với đó, “pháp luật lại càng đóng kín hơn” bởi vốn
dĩ pháp luật bao giờ cũng chậm hơn chính trị, kinh tế. Tư duy pháp lý về bảo vệ
BMNN lại càng chậm được đổi mới bởi BMNN luôn được xác định là vấn đề quan
trọng, liên quan đến lợi ích của quốc gia, dân tộc cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt.
Đồng thời bảo vệ BMNN cũng là vấn đề khó khăn, nhạy cảm liên quan đến an ninh
nội bộ, đến quyền tự do cá nhân, tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông
tin… Việc chậm đổi mới tư duy pháp lý về bảo vệ BMNN được thể hiện trong việc
xây dựng cũng như áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN.
Trong thời gian dài, quan niệm về BMNN chưa cập nhật với sự thay đổi của
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Từ năm 1950 đến năm 1991 chúng ta vẫn sử dụng
Sắc lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950 và Sắc lệnh số 69-SL ngày 10/12/1951 là văn
bản chuyên ngành cao nhất về bảo vệ BMNN. Trong đó, phạm vi BMNN chủ yếu
chỉ quan niệm đó là các bí mật trong các cơ quan và hoạt động của Chính phủ, các cơ
quan Nhà nước, các đơn vị kinh tế của Nhà nước. Trong khi đó, tình hình đất nước
trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và có rất nhiều thay đổi. Nước ta đã tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước và tiến lên CNXH. Tiếp đến năm
1986 chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đã đạt được nhiều
kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Hệ thống chính trị được củng cố, mở rộng và
ổn định; nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung, kế hoạch, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế bình đẳng với nhau; nước
ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước có thu nhập trung bình; đời
sống nhân dân ngày càng được nâng cao, các quyền con người, quyền công dân được
ghi nhận, và bảo đảm ngày càng tốt hơn; nước ta đã hội nhập quốc tế một cách sâu
rộng, trên tất cả các lĩnh vực…
Với những thay đổi đó đã làm phát sinh nhiều mối quan hệ xã hội mới trên tất
cả các lĩnh vực, trong đó có các vấn đề về bảo vệ BMNN. Chẳng hạn như mối quan
hệ giữa bảo vệ BMNN với sự phát triển kinh tế, xã hội, với việc bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân, bảo đảm bí mật của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
108
chính trị, của các tổ chức xã hội và đảm bảo bí mật trong thời kỳ phát triển của khoa
học, công nghệ và hội nhập quốc tế… Điều đó đặt ra nhu cầu điều chỉnh pháp luật rất
lớn mà pháp luật về bảo vệ BMNN chưa thực sự phản ánh và đáp ứng được, kể cả
khi ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
- Thiếu các công trình nghiên cứu cơ bản, cung cấp luận chứng khoa học cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Cho đến nay các công trình
nghiên cứu cơ bản cung cấp luận chứng khoa học cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung còn nhiều hạn chế, mặc dù Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 48-
NQ/TW về việc xây dựng dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Đối với
hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN lại càng hạn chế. Cho đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống cung cấp luận chứng khoa
học cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Các công trình nghiên cứu trước
đây chủ yếu đi vào nghiên cứu thực trạng công tác bảo vệ BMNN dưới góc độ công
tác Công an, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ
BMNN, rất ít công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Thậm
chí việc nghiên cứu lý luận về công tác bảo vệ BMNN cũng khá mới và còn nhiều
hạn chế. Trước đây, công tác này được đề cập là một nội dung trong công tác bảo vệ
an ninh nội bộ, gần đây mới được nghiên cứu và xác định là một môn học riêng và có
các công trình nghiên cứu độc lập cấp Bộ. Vì vậy, các cơ quan chức năng cũng rất
khó xây dựng được một chiến lược tổng thể, toàn diện để hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bảo vệ BMNN.
- Việc bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ BMNN, tổ chức, sắp xếp đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác xây dựng và áp dụng pháp luật ở các bộ, ngành chưa
tương xứng với yêu cầu bảo vệ BMNN trong tình hình mới. Cán bộ làm công tác bảo
vệ BMNN ở các cơ quan, đơn vị, địa phương thường là kiêm nhiệm, chỉ một số rất ít
đơn vị đặc biệt mới bố trí cán bộ chuyên trách. Ngay cả trong CAND cũng vậy, tổ
chức bộ phận chuyên trách làm công tác bảo vệ BMNN cũng mới được thành lập và
trở thành hệ thống từ Bộ đến Công an cấp tỉnh từ năm 2014 theo Nghị định số
106/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, cán bộ làm công tác bảo vệ BMNN (kể cả chuyên
trách) hiện nay số lượng rất ít, ở địa phương chỉ từ 01 đến 02 người; đa số là cán bộ
trẻ, ít kinh nghiệm và có nhiều biến động.
109
Cùng với đó, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ
BMNN nói chung và đối với mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng cũng còn
nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ BMNN
chưa thường xuyên, nội dung, hình thức và phương pháp chưa được đổi mới nên hiệu
quả chưa cao. Điều này dẫn đến đa số cán bộ, nhân viên các cơ quan, tổ chức, đơn vị,
địa phương chưa nhận thức được hết về ý nghĩa, tác dụng của công tác bảo vệ
BMNN; cách thức bảo vệ BMNN cũng như âm mưu, phương thức, thủ đoạn chiếm
đoạt BMNN của các thế lực thù địch và các loại tội phạm… Vì vậy, công tác tham
mưu xây dựng và áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN của các cơ quan, tổ chức, địa
phương còn yếu, hiệu quả chưa cao; nhiều cán bộ, nhân viên các cơ quan, tổ chức,
đơn vị, địa phương chưa nêu cao tinh thần cảnh giác và tự giác trong bảo vệ BMNN;
việc lộ, lọt, mất BMNN còn nhiều, thậm chí cả trong CAND và Quân đội nhân dân.
Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa coi trọng công tác bảo vệ BMNN, cá biệt còn
có trường hợp lợi dụng danh nghĩa bảo vệ BMNN để bưng bít, che giấu thông tin,
thực hiện hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và Nhân dân,
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, như trong một số vụ án
lớn liên quan đến cán bộ, đảng viên, sĩ quan Quân đội, Công an gần đây.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, chương 3 của
luận án đã làm rõ quá trình phát triển và thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam hiện nay. Cụ thể đã đạt được kết quả sau:
Luận án đã làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay. Quá trình đó được chia làm các giai đoạn gắn với việc
ban hành các VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN. Trong mỗi giai đoạn đó,
luận án đã làm rõ hệ thống các VBQPPL về bảo vệ BMNN, nhất là các văn bản
mang tính chất chuyên ngành, trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN.
Luận án đã làm rõ thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay
trên phương diện về nội dung điều chỉnh và hình thức của pháp luật về bảo vệ
BMNN. Trong đó, luận án đã đánh giá kết quả đạt được về nội dung điều chỉnh theo
các nhóm quan hệ xã hội mà pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh. Cùng với kết
110
quả đạt được, đối chiếu với các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
bảo vệ BMNN, luận án đã làm rõ những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của
pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay.
Đánh giá kết quả đạt được về hình thức của pháp luật về bảo vệ BMNN cho
thấy: Đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có một hệ thống VBQPPL về bảo vệ
BMNN thuộc nhiều ngành luật khác nhau với các độ hiệu lực pháp lý khác nhau, từ
Hiến pháp đến các luật và đến VBQPPL dưới luật. Cùng với những kết quả đạt được,
đối chiếu với các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ
BMNN, luận án cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập về hình thức của pháp luật về
bảo vệ BMNN.
Luận án đã làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp luật về
bảo vệ BMNN, trong đó có những nguyên nhân thuộc về khách quan và cả những
nguyên nhân thuộc về chủ quan.
111
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ
MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ
an ninh quốc gia
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải quán triệt quan điểm chỉ đạo là thể
chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ ANQG, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Hiến pháp ghi nhận “là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay.
Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay phải quán
triệt, thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
trên các lĩnh vực. Đặc biệt, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng, nhạy cảm, đặc thù
quan hệ trực tiếp đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, sự phát triển bền vững của cơ quan, tổ chức và lợi ích của cá nhân nên
việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ngoài việc quán triệt, thể chế hóa các
quan điểm, đường lối, chủ trương chung của Đảng phải đặc biệt chú ý quán triệt, thể
chế các quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ ANQG, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
4.1.2. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch của
pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm tạo ra hệ thống QPPL về
bảo vệ BMNN đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch. Hệ thống QPPL
về bảo vệ BMNN phải bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, sự
112
đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, minh bạch,
khả thi, hiệu quả của pháp luật về bảo vệ BMNN.
Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN phải phù hợp với điều kiện, yêu cầu bảo vệ
BMNN hiện nay và trong giai đoạn tới; đồng thời, không làm cản trở việc thực hiện
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng được yêu cầu của hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật về bảo vệ
BMNN để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta sớm trở thành nước công
nghiệp hiện đại. Trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện các quy định chung về BMNN,
bảo vệ BMNN và các quy định cụ thể về bảo vệ BMNN.
Cần rà soát hệ thống các VBQPPL về bảo vệ BMNN và các VBQPPL khác có
liên quan để xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Sớm xây dựng Luật Bảo vệ
BMNN để nâng cao hiệu lực pháp lý, làm cơ sở để bổ sung, sửa đổi các VBQPPL
khác có liên quan, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp
luật về bảo vệ BMNN.
4.1.3. Tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ bí mật
nhà nước trong tình hình mới
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN để tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững
chắc cho công tác bảo vệ BMNN đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước, đồng thời đảm bảo tốt các
quyền tự do, dân chủ của công dân; phòng ngừa các hành vi lộ, lọt, mất BMNN và
hoạt động thu thập BMNN của các đối tượng; nghiêm cấm các hành vi lợi dụng bảo
vệ BMNN để che giấu hành vi vi phạm pháp luật. Bí mật nhà nước là những thông
tin quan trọng cần phải được bảo vệ đặc biệt, nhất là trong tình hình hiện nay. Các
thế lực thù địch và tội phạm luôn tìm cách thu thập và chiếm đoạt BMNN để phục vụ
cho ý đồ chống phá của chúng và gây nguy hại cho lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Đảng ta đã chỉ rõ: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Giữ
113
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội là lợi ích cao nhất
của đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu,
hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống” [03]. Điều đó có nghĩa là trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh
nào vẫn không thay đổi mục tiêu mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Bảo vệ Tổ
quốc phải đi liền với bảo vệ chế độ XHCN. Lợi ích cao nhất của đất nước ta trong
giai đoạn hiện nay là đảm bảo hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội. Tất cả
mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong bối cảnh hiện nay đều phải
phục vụ cho lợi ích này.
Để giữ vững được môi trường hoà bình, ổn định, ta phải đảm bảo được an toàn,
phải giữ gìn được BMNN, không để cho kẻ thù và các loại tội phạm thu thập hay
chiếm đoạt được BMNN để phá hoại chúng ta. Bảo vệ ANQG phải chủ động phòng
ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Quan điểm này thể
hiện tư tưởng chủ động trong bảo vệ ANQG. Nội dung quan trọng của quan điểm
này là bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hoá,
tham nhũng, thoái hoá, biến chất, bảo vệ BMNN - là một nội dung quan trọng trong
bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Quan điểm này cũng chính là sự kế thừa tư tưởng
phải giữ nước từ thời bình, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới” đã khẳng định: Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học
của cha ông ta: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quy luật đó được biểu hiện là “Kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó có nghĩa là
nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo vệ BMNN phải gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội; phải bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển. Ngược lại, sự phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội sẽ tạo ra tiền đề vật chất quan trọng để giữ vững ANQG, bảo vệ BMNN.
Ngoài ra, đối với công tác bảo vệ BMNN còn liên quan mật thiết với việc thực
hiện các quyền tự do, dân chủ của con người và của công dân như quyền tiếp cận
thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, quyền tham gia quản lý các
công việc của nhà nước, quyền giám sát… Công tác bảo vệ BMNN không được gây
114
cản trở cho việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân mà phải tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển của kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, quốc
phòng, đối ngoại, bảo đảm tôn trọng và thực hiện các quyền tự do, dân chủ của con
người, của công dân theo đúng quy định của Hiến pháp năm 2013. Hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác
bảo vệ BMNN đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước vừa mang tính thường
xuyên, lâu dài, vừa mang tính cấp bách nhưng phải được tiến hành thận trọng
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN là việc làm thường xuyên, lâu dài và
mang tính cấp bách, là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải đặt
trong chiến lược tổng thể xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Do
đó, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cũng phải đáp ứng được những mục
tiêu chung của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng
thời đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN. Mặt khác,
pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng,
nhạy cảm, liên quan đến vấn đề chính trị nội bộ, liên quan đến sự ổn định, phát triển
của chế độ, nhà nước và xã hội nên việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải
được tiến hành kịp thời nhưng thận trọng, đảm bảo vững chắc ANQG, không để tạo
ra sơ hở, tạo cớ để các thế lực thù địch lợi dụng xâm phạm ANQG.
4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước phải đảm bảo tính
kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết
đầy đủ, toàn diện thực tiễn công tác bảo vệ BMNN ở nước ta trong những năm qua,
khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, kế thừa những quy
định còn phù hợp. Quá trình thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN cần chú trọng
công tác tổng kết thực tiễn; tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm để tranh thủ ý kiến
tham gia, góp ý của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học, cán
bộ có kinh nghiệm trực tiếp làm công tác này. Trên cơ sở đó tiếp thu, hoàn thiện hệ
115
thống các văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN đảm bảo tính khoa học, tính khả thi
trong thực tiễn.
Đồng thời, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cần tập trung nghiên cứu
kinh nghiệm lập pháp, tham khảo kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN của nước
ngoài (như về quan điểm, chính sách bảo vệ BMNN; bộ máy cơ quan chuyên trách
bảo vệ BMNN; vấn đề xác định độ mật, giải mật BMNN, chế tài xử lý đối với các
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN…) để vận dụng có chọn lọc vào quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Các giải pháp xây dựng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
4.2.1.1. Cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ bí mật nhà nước
Một hạn chế, bất cập lớn của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam là chưa
có Luật Bảo vệ BMNN, VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao nhất, trực tiếp quy định về
bảo vệ BMNN hiện nay là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Quá trình thực hiện
pháp luật về bảo vệ BMNN, với những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật về
bảo vệ BMNN nói chung và Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 nói riêng, cùng với
sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là để cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, ANQG, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [81] đã đặt ra yêu cầu
cấp thiết cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ BMNN thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000.
Để xây dựng Dự án Luật Bảo vệ BMNN được tốt, không đặt vấn đề Luật Bảo
vệ BMNN sẽ pháp điển hóa hết các quy định về bảo vệ BMNN. Bởi vì, BMNN rất
đa dạng, phong phú, tồn tại ở nhiều lĩnh vực; chủ thể sử dụng BMNN cũng rất đa
dạng… Để thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN, sát với thực tế của từng lĩnh vực thì
Luật Bảo vệ BMNN sẽ quy định những vấn đề cơ bản về BMNN và bảo vệ BMNN.
Nội dung của Luật Bảo vệ BMNN cần giải quyết tốt những vấn đề sau: quy định về
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, chính sách bảo vệ BMNN, nguyên tắc hoạt
động bảo vệ BMNN; nhiệm vụ, lực lượng, phương tiện, biện pháp trong bảo vệ
116
BMNN; bảo đảm điều kiện cho bảo vệ BMNN; quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN;
xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN. Đồng thời, trong giai đoạn hiện nay, Luật
Bảo vệ BMNN cần có quy định về hợp tác quốc tế trong bảo vệ BMNN. Đặc biệt,
Luật Bảo vệ BMNN cần có nội dung quy định về các khái niệm cơ bản như khái
niệm về BMNN, về phạm vi độ mật, về các mức độ mật, về tăng, giảm độ mật, về
khu vực cấm, địa điểm cấm… làm cơ sở để thống nhất về nhận thức và hành động
bảo vệ BMNN trên thực tế.
Việc xây dựng Luật Bảo vệ BMNN sẽ là một bước tiến quan trọng trong lịch sử
lập pháp về bảo vệ BMNN, khắc phục được hạn chế lớn trong hệ thống pháp luật về
bảo vệ BMNN, đó là: phức tạp, tản mản của hệ thống các văn bản và các QPPL về
bảo vệ BMNN; hiệu lực điều chỉnh thấp… Luật Bảo vệ BMNN là luật chuyên
ngành, chủ đạo về bảo vệ BMNN sẽ nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật về
bảo vệ BMNN. Bên cạnh Luật này vẫn còn tồn tại quy định của nhiều luật khác có
liên quan đến bảo vệ BMNN trên từng lĩnh vực (như báo chí, xuất bản, viễn thông,
khoa học và công nghệ, cơ yếu, tiếp cận thông tin, hình sự…) và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật.
Mặc dù chỉ quy định những vấn đề cơ bản về BMNN và bảo vệ BMNN, nhưng
xuất phát từ quan điểm: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế” [31] và quan điểm: “Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; đồng thời:
“Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật; quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, ANQG, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [81]” thì Luật Bảo vệ BMNN
phải góp phần tích cực bảo đảm quyền con người, quyền công dân về tiếp cận thông
tin, giữ bí mật cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại…; đồng thời là
công cụ hữu hiệu để đối thoại với các nước về quyền con người và chủ động bảo vệ
ANQG của Việt Nam.
Do đó, Luật Bảo vệ BMNN phải nội luật hóa tốt quy định tại Điều 19 Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (mà Việt Nam là thành viên) để
117
đáp ứng yêu cầu trên. Khoản 3 Điều 19 Công ước quy định: Việc thực hiện những
quyền quy định tại khoản 2 của Điều này (mọi người có quyền tự do ngôn luận.
Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến,
không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc
bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tuỳ theo
sự lựa chọn của họ) kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể
dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được pháp luật
quy định và cần thiết để: (a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, (b) Bảo
vệ ANQG hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng [59].
4.2.1.2. Cần kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành và sửa đổi, bổ
sung các văn bản có liên quan
Các QPPL về bảo vệ BMNN được quy định trong nhiều VBQPPL, trên nhiều
lĩnh vực và do nhiều chủ thể ban hành. Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khả
thi của hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN thì cần phải có một chiến lược tổng thể
trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, trong đó cần sửa đổi,
bổ sung các VBQPPL khác có liên quan đến bảo vệ BMNN và kịp thời ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành để các QPPL về bảo vệ BMNN sớm đi vào cuộc sống
nhất là sau khi dự thảo Luật Bảo vệ BMNN được thông qua.
Trong đó cần chú ý đến những quy định mới về bảo vệ BMNN như các quy
định khái niệm BMNN; những quy định liên quan đến nhiệm vụ, lực lượng, phương
tiện, biện pháp trong bảo vệ BMNN; chế độ, chính sách và những bảo đảm cho hoạt
động bảo vệ BMNN; việc tăng, giảm độ mật của BMNN; hoạt động cung cấp, tiếp
cận thông tin; hợp tác quốc tế trong bảo vệ BMNN; các hành vi bị nghiêm cấm có
liên quan đến bảo vệ BMNN…
Cần rà soát, đánh giá một cách tổng thể hệ thống các VBQPPL liên quan đến
bảo vệ BMNN để điều chỉnh cho phù hợp. Trong đó cần chú ý những VBQPPL có
liên quan trực tiếp đến bảo vệ BMNN như BLHS, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử
lý vi phạm hành chính, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật
Giám sát, Luật Cơ yếu, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật ANQG, Luật CAND,
Luật Khiếu nại, Luật Khoa hoc và công nghệ… Đặc biệt, đối với các VBQPPL đang
118
được dự thảo xây dựng, sửa đổi, bổ sung thì cần tính toán, tích hợp ngay nhằm đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, ổn định của pháp luật về bảo vệ BMNN.
4.2.1.3. Cần kịp thời xác lập các loại danh mục bí mật nhà nước
Các cơ quan và người có thẩm quyền cần kịp thời xác lập các loại danh mục
BMNN bảo đảm đầy đủ, toàn diện và thống nhất. Các loại danh mục BMNN chính là
hình thức pháp lý của BMNN và trong chừng mực nhất định BMNN được quan niệm
chính là các bí mật được quy định trong các danh mục BMNN với các phạm vi độ
mật khác nhau của tất cả các lĩnh vực, bộ, ngành, tổ chức và địa phương, ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác bảo vệ BMNN. Việc xác lập danh mục BMNN cần căn cứ vào
quy định khái niệm BMNN và tiêu chí xác định phạm vi BMNN để lập danh mục
BMNN tương ứng với các phạm vi cấp độ mật (Tuyệt mật, Tối mật hoặc Mật). Cần
kịp thời xác lập và ban hành các loại danh mục BMNN, vừa bảo đảm đúng phạm vi,
vừa toàn diện, đồng bộ cho tất cả các lĩnh vực, bộ, ngành, tổ chức và địa phương.
Việc xác lập và ban hành danh mục BMNN phải bảo đảm cập nhật, khả thi và
tính đến sự thay đổi của thực tiễn. Không nên quan niệm một cách tuyệt đối rằng
danh mục BMNN cũng là một loại BMNN nên tất cả đều đóng dấu độ mật (có nghĩa
là cái gì cũng là BMNN, tất cả là BMNN). Điều đó dẫn đến cán bộ, nhân viên và
người dân không biết được về danh mục BMNN và do vậy cũng không biết cái gì là
BMNN để bảo vệ, khai thác sử dụng cho đúng quy định của pháp luật. Điều này ảnh
hưởng đến chính công tác bảo vệ BMNN và sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng trong trường hợp nhất định, danh mục BMNN
cũng cần phải được xác định là một loại BMNN. Bởi vì, có trường hợp tên của
BMNN, tên của tài liệu BMNN cũng chứa đựng thông tin quan trọng và nếu bị tiết lộ
sẽ ảnh hưởng đến ANQG, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Chẳng hạn một số văn bản
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng liên quan đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, ảnh
hưởng đến ANQG. Những trường hợp này, tên của BMNN, tên của tài liệu BMNN
đó cũng là một loại BMNN. Danh mục BMNN chứa đựng tên của BMNN đó trong
trường hợp này cũng là một loại BMNN cần được đóng dấu xác định độ mật.
Vì vậy, khi xác lập, ban hành danh mục BMNN cần phải được nghiên cứu,
xác định cụ thể để tránh được các hạn chế nêu trên, bảo vệ được đầy đủ, an toàn
cho BMNN.
119
4.2.2. Các giải pháp hoàn thiện nội dung của pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước
4.2.2.1. Hoàn thiện quy định khái niệm bí mật nhà nước
Trong các quy định của pháp luật về bảo vệ BMNN, quy định khái niệm
BMNN là một trong những quy định quan trọng hàng đầu. Quy định này sẽ là cơ sở,
nền tảng để xây dựng nên các quy định, các chế định khác của pháp luật về bảo vệ
BMNN cũng như triển khai các biện pháp để bảo vệ BMNN trên thực tế đạt hiệu
quả; tạo ra sự thống nhất từ nhận thức đến hành động của tất cả các cơ quan, tổ chức
và cá nhân trong bảo vệ BMNN.
Để hoàn thiện quy định khái niệm BMNN, pháp luật về bảo vệ BMNN cần
thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ BMNN hay BMQG; định ra các đặc trưng
khoa học, phù hợp đảm bảo tính khả thi trong việc xác định và bảo vệ các bí mật đó.
Việc quy định khái niệm và các đặc trưng của BMNN cần tránh hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất là xác định phạm vi BMNN quá rộng dẫn đến cái gì cũng
cho là bí mật, hạn chế các quyền tự do, dân chủ của công dân một cách bất hợp lý
như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin… không thúc đẩy
được sự phát triển kinh tế, xã hội và cũng không bảo vệ được BMNN thực sự, dẫn
đến có quá nhiều vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN và không phát hiện, xử lý
được hết. Ngược lại, khuynh hướng thứ hai là xác định phạm vi BMNN quá hẹp dẫn
đến không bảo vệ được các thông tin quan trọng thuộc phạm vi BMNN, ảnh hưởng
đến ANQG, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của chế độ, Nhà nước, của các
cơ quan, tổ chức và của cả xã hội.
Việc luật hóa, khái niệm BMNN là hết sức cần thiết, phù hợp với quan điểm
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Liên quan đến quy định
khái niệm BMNN, cần làm rõ một số vấn đề sau:
Về tên gọi, cần sử dụng thống nhất thuật ngữ BMNN hay BMQG. Nghiên cứu
thực tế cho thấy, các nước trên thế giới sử dụng thuật ngữ BMQG hay BMNN trong
các VBQPPL cũng khác nhau. Chẳng hạn các nước như Mỹ, Nga… sử dụng thuật
ngữ BMQG. Nhật Bản sử dụng thuật ngữ bí mật đặc biệt và cũng được hiểu nghĩa
rộng như BMQG. Trong khi đó, nhiều nước khác như Trung Quốc, Grudia,
Mondova... sử dụng thuật ngữ BMNN. Hiệp định của Chính phủ Việt Nam ký kết
120
với Chính phủ các nước Ba Lan, Belarut, Bulgari, Nga và Ucraina sử dụng cụm từ
“tin mật” và cũng chia thành 3 cấp độ: Tuyệt mật, Tối mật và Mật. Ở nước ta từ
trước tới nay vẫn tồn tại cả hai thuật ngữ BMNN và BMQG. Mặc dù thuật ngữ
BMNN và BMQG là khác nhau và khái niệm về chúng cũng khác nhau, xuất phát từ
sự khác nhau giữa hai khái niệm nhà nước và quốc gia.
Tuy nhiên, thực tế với đặc thù ở Việt Nam, khái niệm BMNN và BMQG được
quan niệm đồng nhất. Khi xây dựng Luật Bảo vệ BMNN đòi hỏi cần phải sử dụng
thống nhất một thuật ngữ, một khái niệm. Việc lựa chọn sử dụng khái niệm nào đến
nay vẫn tồn tại hai loại ý kiến: Một số ý kiến cho rằng nên sử dụng khái niệm BMQG
để mang tính bao trùm toàn bộ những bí mật của quốc gia, của dân tộc, bí mật của
các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức phi chính phủ… Số ý kiến còn lại cho
rằng, sử dụng khái niệm BMNN là chính xác hơn, vì BMNN được coi là “tài sản”
đặc biệt của Nhà nước, do Nhà nước ban hành, được Nhà nước bảo vệ. Ở Việt Nam,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [81] và Hiến pháp do Nhà nước ban
hành; bí mật của Đảng cũng cần phải được xác lập và bảo vệ. Vì vậy, bí mật của
Đảng cũng chính là BMNN.
Trong quá trình soạn thảo Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và Pháp lệnh
Bảo vệ BMNN năm 2000 đã từng xảy ra nhiều tranh luận xung quanh việc lựa chọn
khái niệm BMQG hay BMNN. Tuy nhiên, trong cả hai lần xây dựng Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN, đa số các đại biểu trong Hội đồng Nhà nước (năm 1991) và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội (năm 2000) đều nhất trí biểu quyết thông qua và thống nhất sử
dụng khái niệm BMNN. Đồng thời, hầu hết các văn bản pháp luật hiện nay đã thay
đổi và đã sử dụng thống nhất khái niệm BMNN. Mặt khác, việc sử dụng khái niệm
BMNN hay BMQG không nên xem xét dưới góc độ thuật ngữ mà điều quan trọng là
bản chất và nội hàm khái niệm đó quy định như thế nào, có định lượng được không,
có bao trùm được hết các bí mật cần bảo vệ và có tính khả thi, hiệu quả khi áp dụng
trong thực tế hay không.
121
Từ sự phân tích trên cho thấy, nên sử dụng thống nhất thuật ngữ BMNN và quy
định khái niệm BMNN trong pháp luật về bảo vệ BMNN, tránh tình trạng phức tạp
hóa, nếu sử dụng khái niệm BMQG sẽ phải sửa lại toàn bộ các văn bản pháp luật
hiện hành. Tuy nhiên, nếu sử dụng khái niệm BMNN thì nội hàm khái niệm BMNN
cũng cần phải sửa đổi (so với khái niệm BMNN quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN năm 2000) để phù hợp và đáp ứng được yêu cầu trên.
Về nội dung khái niệm BMNN. Hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau
về nội dung khái niệm BMNN, trong dự án Luật Bảo vệ BMNN phải giải quyết được
vấn đề này để đi đến sự thống nhất trong nhận thức và hành động bảo vệ BMNN trên
thực tế. Có quan điểm cho rằng việc quy định khái niệm BMNN cần làm rõ được bản
chất của BMNN và nội hàm khái niệm BMNN, không quá coi trọng danh mục
BMNN. Bởi việc xây dựng danh mục BMNN chỉ là sự xác định cụ thể từng loại
BMNN, trong từng ngành, lĩnh vực và địa phương mà thôi. Đồng thời, việc xác lập
các danh mục BMNN đó có thể chưa bao hàm hết các BMNN trên thực tế và chưa kịp
thời dẫn đến khó khăn cho việc xác định BMNN, có thể dẫn đến lộ, lọt, mất BMNN.
Quan điểm khác lại coi trọng về hình thức thể hiện của BMNN và quan niệm
rằng BMNN phải thuộc danh mục BMNN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận [107], coi đây là cơ sở để xác định và bảo vệ BMNN trên thực tế. Do đó,
một tin tức, tài liệu, đồ vật… nào không thuộc danh mục BMNN thì không phải là
BMNN. Việc xây dựng khái niệm BMNN theo quan điểm này mang tính khái quát
cao, dễ xây dựng, dễ thống nhất về nhận thức và thuận lợi cho việc áp dụng trong
việc xác định và bảo vệ BMNN trên thực tế. Tuy nhiên, việc quy định khái niệm
BMNN theo quan điểm này lại có nhiều hạn chế, không làm rõ được bản chất của
BMNN và nội hàm khái niệm BMNN, có thể chưa bao hàm hết các BMNN trên thực
tế và có thể việc xác lập danh mục BMNN chưa kịp thời dẫn đến khó khăn cho việc
xác định BMNN và có thể dẫn đến để lộ, lọt hoặc mất BMNN.
Việc xây dựng khái niệm BMNN trong Luật Bảo vệ BMNN phải đảm bảo kế
thừa hạt nhân hợp lý của khái niệm BMNN trong Pháp lệnh Bảo vệ BMNN cũng như
của các quan điểm đã nêu và khắc phục những hạn chế, bất cập đã được chỉ ra, đồng
thời có tính đến sự thay đổi của hiện tại và trong tương lai.
122
Với cách tiếp cận như vậy, theo tôi, khái niệm BMNN có thể được hiểu như
sau: “BMNN là thông tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói hoặc
các dạng khác có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh,
kinh tế, đối ngoại, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác
mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố, nếu bị lộ, mất sẽ ảnh hưởng đến
ANQG và lợi ích của quốc gia, dân tộc”.
Khái niệm BMNN nêu trên đã chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của BMNN, đó là:
BMNN phải là những thông tin (hay tin) về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời
gian, lời nói hoặc các dạng khác. Những thông tin đó là những thông tin quan trọng
thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế,
đối ngoại, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác.
BMNN là những thông tin mà Nhà nước không công bố (có thể vĩnh viễn) hoặc
chưa công bố (có thời hạn). Do tính chất quan trọng những thông tin đó, nên Nhà
nước không công bố hoặc chưa công bố. Dấu hiệu này cũng thể hiện BMNN do Nhà
nước quản lý. Bí mật đó có thể liên quan đến Nhà nước hoặc các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong xã hội nhưng vẫn do Nhà nước quản lý. Sự quản lý của Nhà nước đối với
BMNN được biểu hiện ở việc Nhà nước quy định như thế nào là BMNN, xác định
phạm vi BMNN, xác lập danh mục BMNN, cất giữ, bảo quản, sao, chép, cung cấp
BMNN… Sự quản lý của Nhà nước không chỉ đối với những BMNN được xác lập
trong danh mục BMNN mà cả với nhưng BMNN chưa được xác lập trong danh mục
BMNN. Mặt khác, dấu hiệu này cũng thể hiện BMNN không phải chỉ thuần túy là
các thông tin liên quan đến Nhà nước cần được giữ kín mà còn bao gồm cả các thông
tin bí mật của Đảng, của các tổ chức, cá nhân cần được giữ kín và Nhà nước thống
nhất quản lý.
Những thông tin thuộc phạm vi BMNN nếu bị lộ, mất sẽ ảnh hưởng đến ANQG
và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Bí mật nhà nước là những tin quan trọng nên Nhà
nước không công bố hoặc chưa công bố và những tin đó nếu bị lộ, mất sẽ ảnh hưởng
đến ANQG và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, một thông tin nào đó nếu bị lộ,
mất mà không gây ảnh hưởng đến ANQG và lợi ích của quốc gia, dân tộc thì không
phải BMNN. Dấu hiệu này cũng thể hiện phạm vi BMNN đã bao trùm bí mật của
Đảng và của các tổ chức chính trị - xã hội.
123
4.2.2.2. Hoàn thiện quy định về phạm vi độ mật của bí mật nhà nước
Việc quy định phạm vi độ mật của BMNN ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập
danh mục BMNN và hiệu quả của công tác bảo vệ BMNN. Phạm vi BMNN được
xác định căn cứ vào khái niệm và những dấu hiệu của BMNN và được chia làm các
cấp độ phù hợp, tương ứng với tính chất, mức độ, tầm quan trọng của thông tin và
mức độ gây nguy hại nếu bị lộ, mất. Pháp luật về bảo vệ BMNN nên quy định chỉ có
ba cấp độ mật là: Tuyệt mật, Tối mật và Mật. Việc quy định ba cấp độ mật như vậy
để đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay, cũng
phù hợp với thực tế công tác bảo vệ BMNN trong thời gian qua và quy định của
nhiều nước trên thế giới. Đồng thời phải xác định rõ thông tin thuộc phạm vi “nội
bộ”, “lưu hành nội bộ” không đồng nhất với phạm vi BMNN. Còn việc cung cấp,
khai thác, sử dụng BMNN… như thế nào đã có các quy định khác điều chỉnh, không
hiểu giới hạn đó như phạm vi nội bộ và sử dụng nội bộ là BMNN.
Việc xác định phạm vi BMNN phải đảm bảo yêu cầu bao quát hết được BMNN
nhưng phải khả thi, tránh việc xác định phạm vi BMNN quá rộng dẫn đến không bảo
vệ được hết BMNN, dẫn đến lộ, lọt, mất BMNN và khó xử lý. Tuy nhiên cũng tránh
việc xác định phạm vi BMNN quá hẹp dẫn đến không bảo vệ được những bí mật cần
bảo vệ, để lộ, lọt, mất những thông tin quan trọng, ảnh hưởng ANQG và lợi ích của
quốc gia, dân tộc. Việc xác định phạm vi BMNN có tính đến sự thay đổi về phạm vi
BMNN trong tương lai, nhất là khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, trên tất cả
các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực bảo vệ BMNN, trao đổi các thông tin mật.
Đồng thời với việc xác định phạm vi BMNN phải quy định thủ tục, quy trình,
cơ chế đầy đủ, cụ thể cho việc lập, quyết định, điều chỉnh phạm vi BMNN cho kịp
thời, đầy, nhất là việc giải mật, tăng, giảm độ mật, phạm vi tiếp cận đối với BMNN,
truyền, nhận, sao chép và tiêu hủy BMNN...
4.2.2.3. Cần quy định về nguyên tắc hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước
Bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ quan trọng, hoạt động bảo vệ BMNN cũng là
một hoạt động quan trọng trong tổng thể các nhiệm vụ và hoạt động bảo vệ ANQG.
Hoạt động này ảnh hưởng đến “sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN và
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”; trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của quốc
124
gia, dân tộc; liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức; tác động trực tiếp đến việc thực
hiện các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân… Vì vậy, hoạt động bảo vệ
BMNN phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định sao cho vừa bảo vệ
được BMNN, vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ được các quyền và tự
do, dân chủ cơ bản của công dân nhất là các quyền tiếp cận thông tin, tự do ngôn
luận, tự do báo chí... Đó chính là sự thể hiện của tư tưởng kết hợp hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Vì vậy, cần phải luật hóa nguyên tắc hoạt động bảo vệ BMNN; nguyên tắc này
cần thể hiện được một số nội dung như:
(1). Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.
(2). Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự
quản lý thống nhất của Nhà nước và sự tham gia của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân.
(3). Chủ động phòng ngừa là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm
cơ quan, tổ chức, cá nhân làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán BMNN hoặc thu
thập, tiêu hủy trái phép BMNN.
(4). Bảo vệ BMNN gắn liền và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
(5). Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ BMNN trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền, bình đẳng và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội.
4.2.2.4. Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và
công dân tham gia bảo vệ bí mật nhà nước
Bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ ANQG - một bộ phận
của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013: “Bảo
vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân”. Trong bảo vệ
BMNN, cơ quan, tổ chức và công đều có quyền và nghĩa vụ của mình. Việc quy định
đầy đủ, rõ ràng cả về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia bảo
vệ BMNN sẽ tạo ra hành lang pháp lý, góp phần nâng cao ý thức và tạo ra động lực
để cơ quan, tổ chức và công dân tham gia bảo vệ BMNN.
125
Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và công dân
tham gia bảo vệ BMNN cần tập trung vào các nội dung: (1). Tiếp xúc, trao đổi, cung
cấp thông tin, tài liệu, vật mang BMNN cho cá nhận, tổ chức trong nước và nước
ngoài. (2). Việc soạn thảo, in, sao, chụp, vận chuyển, giao nhận, tiêu hủy tài liệu, vật
mang BMNN. (3). Việc thống kê, lưu giữ, bảo quản, sử dụng tài liệu, vật mang
BMNN. (4). Việc phổ biến, nghiên cứu tin thuộc phạm vi BMNN. (5). Đăng ký các
phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích có nội dung thuộc phạm vi BMNN. (6). Việc
phát hiện, ngăn chặn vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN; bảo vệ an toàn BMNN.
(7). Khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.
Trong các nội dung trên, cần quy định rõ cơ quan, tổ chức và công dân có
quyền như thế nào, được làm những gì, làm đến đâu. Đồng thời pháp luật về bảo vệ
BMNN cũng phải quy định cụ thể nghĩa vụ trong các nội dung đó, phải làm những
gì, làm ra sao.
4.2.2.5. Hoàn thiện quy định về tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách của cơ
quan chuyên trách quản lý nhà nước và người trực tiếp bảo vệ bí mật nhà nước
Cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và người trực tiếp
bảo vệ BMNN là lực lượng trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN, hoạt động của họ
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của công tác bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo vệ
BMNN cần quy định thống nhất, hệ thống cơ quan, bộ phận quản lý nhà nước về bảo
vệ BMNN từ trung ương đến địa phương, bao gồm: cơ quan, bộ phận làm công tác
quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN ở trung ương (thuộc Chính phủ); cơ quan, bộ
phận làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN ở Bộ Công an và ở Công an
các cấp. Cơ quan, bộ phận này phải đảm bảo có cơ cấu tổ chức hợp lý, đủ về số
lượng và đảm bảo về chất lượng, đồng thời có quy định rõ chức năng, nhiệm vụ riêng
về quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Về tổ chức, biên chế bộ phận này trong lực
lượng CAND cần thống nhất từ Bộ Công an đến Công an các cấp, theo đó đề xuất
thành lập đơn vị cấp Phòng thuộc Bộ Công an, cấp Đội thuộc Công an cấp tỉnh và
cấp Tổ thuộc Công an cấp huyện làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.
Các cơ quan, bộ phận này được áp dụng dụng các phương tiện, biện pháp quản lý
nhà nước nói chung và các phương tiện, biện pháp đặc thù để thực hiện theo đúng
chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, để bảo vệ an toàn cho BMNN.
126
Cùng với việc quy định về các đơn vị chuyên trách quản lý nhà nước về bảo vệ
BMNN, pháp luật về bảo vệ BMNN cũng cần quy định cụ thể về việc bố trí các cán
bộ trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN trong tất cả các cơ quan, tổ chức của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Việc bố trí các cán bộ này hướng vào
những người làm ở các bộ phận thiết yếu, cơ mật, đảm bảo về phẩm chất, năng lực
và trình độ chuyên môn. Để hiện thực hóa quy định này cần có các quy định đi kèm
về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc bố trí cán bộ trực tiếp
làm công tác bảo vệ BMNN; quy định số lượng biên chế bắt buộc cho các cán bộ làm
công tác này đồng thời quy định rõ về quyền, nghĩa vụ và chế độ, chính sách cụ thể
với những người trực tiếp làm công tác này.
4.2.2.6. Hoàn thiện quy định về xử lý các hành vi xâm phạm bí mật nhà nước
và thống nhất sử dụng một số thuật ngữ pháp lý
Hoàn thiện quy định về xử lý các hành vi xâm phạm BMNN đó là hoàn thiện
quy định về các loại hành vi xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm và các hành vi vi
phạm hành chính về bảo vệ BMNN. Đồng thời, quy định chế tài xử lý vi phạm pháp
luật về BMNN như truy cứu TNHS, xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính và các
hình thức xử lý bổ sung khác. Pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định rõ hành vi
xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm và cho phép phân biệt được với những hành vi
vi phạm hành chính về bảo vệ BMNN; quy định về những hành vi bị nghiêm cấm cụ
thể, rõ ràng hơn; quy định trách nhiệm pháp lý tương ứng với từng loại vi phạm đó,
với các chế tài xử lý phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các vi phạm đó.
Đồng thời, ngay trong quy định của LHS về các hành vi xâm phạm BMNN cũng cần
quy định rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm BMNN, cho phép
dễ dàng phân biệt tội này với các tội khác liên quan đến bí mật như bí mật quân sự,
bí mật công tác; làm rõ BMNN với vật mang BMNN… và đảm bảo thuận lợi cho
việc áp dụng, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
BLHS năm 2015 có nhiều điều quy định về các tội xâm phạm BMNN, trong đó
có Điều 337 và Điều 338 quy định một cách trực tiếp và cụ thể về các hành vi xâm
phạm BMNN. Từ những hạn chế, bất cập đã được chỉ ra, có thể sửa đổi hai điều luật
trên như sau:
127
“Điều 337. Tội cố ý làm lộ BMNN; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ
trái phép vật hoặc tài liệu BMNN
1. Người nào cố ý làm lộ BMNN; chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy trái phép
vật hoặc tài liệu BMNN, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 của Bộ
luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
a) BMNN thuộc độ tối mật;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa.
3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) BMNN thuộc độ tuyệt mật;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Gây tổn hại về chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm”.
“Điều 338. Tội vô ý làm lộ BMNN; tội làm mất vật, tài liệu BMNN
1. Người nào vô ý làm lộ BMNN hoặc làm mất vật, tài liệu BMNN, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm:
a) BMNN thuộc độ tối mật, tuyệt mật;
b) Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa chế độ chính
trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
128
Việc sửa đổi Điều 337, 338 BLHS năm 2015 như trên sẽ đảm bảo sự thống nhất
giữa tên tội nêu ở điều luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều
luật; giữa đối tượng nêu ở tên tội với đối tượng nói đến trong điều luật; đảm bảo sự
thống nhất của điều luật với quy định trong các VBQPPL về bảo vệ BMNN (như quy
định khái niệm BMNN; quy định về hành vi tiêu hủy BMNN…).
Cần thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ, khái niệm “tài liệu BMNN”, “vật
mang BMNN”. Bí mật nhà nước là những thông tin, được chứa đựng trong những
dạng cụ thể, đó là tài liệu hoặc các vật khác. Đây là đối tượng trực tiếp của các hành
vi xâm phạm BMNN, cần bảo vệ. Vì vậy, cần có quy định cụ thể, thống nhất về vấn
đề này. Nên sử dụng đồng thời hai khái niệm tài liệu, vật mang BMNN với ý nghĩa
giống nhau. Ngoài tài liệu mang BMNN, các loại còn lại là vật mang BMNN. Bởi vì,
mặc dù tài liệu mang BMNN thực chất cũng là một loại vật mang BMNN nhưng đây
là loại chủ yếu, phổ biến nhất; các quy định trong pháp luật về bảo vệ BMNN hiện
hành đại đa số dùng thường xuyên cả hai khái niệm này với nghĩa như nhau; trong
thực tiễn nhận thức và áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN cũng quan niệm, sử dụng
như vậy. Do đó, có thể dùng đồng thời hai khái niệm này với nghĩa tương đương
nhau là: tài liệu BMNN hoặc vật khác mang BMNN.
4.2.3. Các giải pháp tạo lập điều kiện đảm bảo cho hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ bí mật nhà nước
4.2.3.1. Xây dựng chiến lược tổng thể hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước
Để thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với tinh thần
“thượng tôn pháp luật” thì cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phải đề
cao nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp
luật về bảo vệ BMNN. Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
BMNN theo Nghị quyết số 48-NQ/TW, trong thời gian tới cần tiếp tục thể chế hóa
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ANQG phù
hợp với Hiến pháp năm 2013, đồng thời bảo đảm sự thống nhất về nội dung và hình
thức thể hiện của hệ thống pháp luật; bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhiệm vụ bảo vệ ANQG. Vì thế, cần xác định rõ việc hệ thống hóa pháp luật về
129
bảo vệ BMNN là một nhiệm vụ trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Hệ
thống hóa pháp luật nói chung không chỉ phục vụ các dự án luật, pháp lệnh mà còn là
giải pháp thiết thực phục vụ tích cực cho hoạt động quản lý nhà nước, thực thi pháp
luật, đặc biệt cho công tác pháp điển hóa khi cần thiết và đủ điều kiện.
Chương trình xây dựng pháp luật về bảo vệ an ninh, trật tự nói chung và bảo vệ
BMNN nói riêng trước hết phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng pháp
luật về bảo vệ BMNN phải căn cứ vào chiến lược phát triển đất nước, quan điểm,
đường lối, chính sách về bảo vệ ANQG của Đảng; sự cần thiết cũng như các điều
kiện đã chín muồi của những quan hệ phát sinh liên quan đến bảo vệ BMNN; điều
kiện và khả năng để xác định thứ tự ưu tiên. Các cơ quan, đơn vị trong hệ thống quản
lý nhà nước về ANQG nói chung và quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN nói riêng
cần nhìn nhận vấn đề đảm bảo tính hệ thống cho các QPPL điều chỉnh hoạt động
quản lý là bảo đảm lợi ích, hiệu quả cho hoạt động quản lý, là đáp ứng yêu cầu hoạt
động quản lý nhà nước về ANQG, về bảo vệ BMNN không chỉ trước mắt mà còn
trong tương lai.
Tiếp theo, cần xây dựng một kế hoạch tổng thể, dài hạn, có lộ trình cụ thể để
tiến hành hệ thống hóa pháp luật về bảo vệ BMNN. Một chương trình hay kế hoạch
tổng thể như thế phải định rõ thời hạn và thứ tự ưu tiên những lĩnh vực cần tiến hành
hệ thống hóa dưới các hình thức tập hợp hóa, hợp nhất văn bản và đi đến pháp điển
hóa từng lĩnh vực. Trên cơ sở hệ thống hóa dưới các hình thức tập hợp văn bản, rà
soát, phân tích, phát hiện và xác định rõ những lĩnh vực có nhiều bất cập trong điều
chỉnh pháp luật và đang có nhu cầu cao về thi hành pháp luật thì tiến hành hợp nhất
văn bản và pháp điển trước, theo thứ tự ưu tiên.
Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cần được xác định là việc làm
thường xuyên nhưng cần có chiến lược tổng thể và đặt trong mối quan hệ với chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-
NQ/TW. Nội dung quan trọng trong chiến lược hoàn thiện pháp luật nói chung và
pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng hiện nay là thực hiện việc pháp điển hệ thống
QPPL. Các cơ quan hữu quan theo sự phân công (theo Quyết định số 843/QĐ-TTg
130
ngày 06/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ) cần xây dựng kế hoạch để triển khai thực
hiện việc pháp điển hệ thống QPPL, để xây dựng Bộ pháp điển. Trong đó, Bộ Công
an được phân công thực hiện pháp điển với chủ đề ANQG, trong đó có đề mục bảo
vệ BMNN. Vì vậy, Bộ Công an cần triển khai kế hoạch pháp điển hệ thống QPPL về
bảo vệ BMNN để xây dựng Bộ pháp điển về bảo vệ BMNN. Một nội dung trọng tâm
và cơ bản nhất trong việc triển khai kế hoạch pháp điển hệ thống QPPL về bảo vệ
BMNN là xây dựng Luật Bảo vệ BMNN. Trải qua 17 năm thực hiện Pháp lệnh về
bảo vệ BMNN năm 2000, với những bất cập, hạn chế của Pháp lệnh đã đặt ra yêu
cầu cấp thiết hiện nay cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ BMNN để thay thế cho Pháp
lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.
4.2.3.2. Thường xuyên rà soát thực trạng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà
nước, kết hợp với tổng kết thi hành pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
Để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cần phải thường xuyên
rà soát, đánh giá đầy đủ, chính xác thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN nhằm phát
hiện những hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN. Việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo vệ BMNN nói
riêng là một tất yếu trong quá trình vận hành của hệ thống pháp luật. Đây vừa là yêu
cầu tự thân, vừa là yêu cầu từ thực tiễn, nhất là trong điều kiện xây dựng nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Về bản chất, “nhà nước pháp quyền là nhà nước
thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục
hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý” [25].
Nếu phân tích từ góc độ pháp luật, có thể thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là
nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
Như vậy, có thể thấy nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được hợp
pháp hoá bởi pháp luật. Pháp luật là nền tảng của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên,
vấn đề ở chỗ là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho nhà nước pháp quyền phải như
thế nào. Nói như Josef Thesing thì nhà nước pháp quyền phải dựa trên “vị trí tối
thượng của pháp luật và khái niệm về đạo đức của công lý” [51]. Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống chính trị -
pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
131
thị trường định hướng XHCN, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt là hệ thống pháp
luật của Nhà nước XHCN Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Pháp luật về bảo vệ BMNN cũng không nằm
ngoài tình trạng chung đó.
Để đảm bảo chất lượng của hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN, trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cần tiến hành rà soát, đánh giá đầy đủ,
chính xác thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN nhằm phát hiện những bất cập về:
tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của
các VBQPPL; thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành VBQPPL;
tính khả thi của các VBQPPL đã được ban hành. Việc này phải được xác định là nhu
cầu khách quan, tất yếu và phải được tiến hành thường xuyên nhằm kịp thời phát
hiện những hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN để kịp thời điều chỉnh.
Đi đôi với việc rà soát, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN, để có
cơ sở hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN trong giai đoạn hiện nay, cần phải tiến
hành tổng kết việc thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Thời gian tổng kết được
tính từ thời điểm Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 có hiệu lực (từ năm 2001) đến
nay. Năm 2012, Chính phủ đã tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN, tuy nhiên cần tiếp tục tổng kết từ đó đến nay, đồng thời sơ kết, tổng kết việc
triển khai thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21/02/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới.
Nội dung cụ thể là: Tiếp tục làm rõ sự phù hợp, hiệu quả của pháp luật về bảo
vệ BMNN trong thực tiễn thi hành để có cơ sở tham mưu, đề xuất tiếp tục phát huy.
Phát hiện những điểm tồn tại (mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sót), bất cập (không còn
phù hợp) của pháp luật về bảo vệ BMNN trước đòi hỏi của thực tiễn và các cam kết
quốc tế có liên quan để có cơ sở tham mưu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời. Chú
ý tổng kết thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN để phát hiện những vấn đề mới cần
bổ sung trong nội hàm của BMNN, những âm mưu, hướng tấn công, phương thức,
thủ đoạn mới xâm phạm BMNN cần bổ sung trong quy định về bảo vệ BMNN (như
bổ sung quy định về biện pháp bảo vệ, chủ thể có trách nhiệm bảo vệ BMNN, bổ
sung cơ chế bảo vệ BMNN…) để đáp ứng thực tiễn bảo vệ BMNN.
132
4.2.3.3. Tăng cường hợp tác quốc tế và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm
lập pháp về bảo vệ bí mật nhà nước của nước ngoài
Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hội nhập quốc tế, các nước nói chung và Việt
Nam nói riêng tiến hành các hoạt động gắn kết với nhau, điều đó đặt ra yêu cầu tất
yếu cho mỗi nước là phải xây dựng và thi hành pháp luật quốc tế. Nghị quyết số 22-
NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế cũng đã chỉ rõ:
“Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ
động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và
tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế...”. Đồng thời, tại Điều 12
Hiến pháp năm 2013 quy định:
Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam
là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [81].
Từ những lý do nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế. Yêu cầu này cũng được chỉ ra trong Nghị quyết số
48-NQ/TW: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN... để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế...”. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập
quốc tế cũng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết lập bộ
máy đủ thẩm quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối
hợp các hoạt động hội nhập quốc tế”.
133
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, điều đó
đặt ra cho nước ta nhiều vấn đề có liên quan, trong đó có hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng. Bởi vì, pháp luật về bảo vệ
BMNN cũng phải phục vụ, không làm cản trở việc hội nhập quốc tế và trên thực tế
Việt Nam cũng có nhu cầu hợp tác với nhiều nước trên thế giới về trao đổi thông tin
mật nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm, bảo vệ Tổ quốc. Đây là yêu cầu tất yếu của hội nhập quốc tế nhưng cũng rất
khó khăn, phức tạp, đặc biệt là đối với việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, vì
đây là những vấn đề liên quan đến ANQG và lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Từ thực tế đó cho thấy nhu cầu hợp tác, trao đổi thông tin (trong đàm phán, ký
kết, hội nghị, hội thảo...) giữa Việt Nam với các nước ngày càng tăng. Do đó, yêu
cầu bảo vệ các thông tin, tài liệu BMNN trong quá trình hợp tác, trao đổi giữa Việt
Nam với các nước càng trở nên cấp thiết, góp phần bảo vệ ANQG, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức và của công dân. Vì vậy, Chính phủ cần tổ chức rà soát, đánh
giá kết quả đàm phán, triển khai các hiệp định đã ký kết giữa Việt Nam với các nước
về cùng bảo vệ tin mật để rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó nghiên cứu tiếp tục ký kết
các điều ước quốc tế về cùng bảo vệ tin mật với các nước mà Việt Nam có quan hệ
ngoại giao, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực Đông Nam Á và các
nước đối tác lớn. Cùng với việc ký kết các điều ước quốc tế, định kỳ giữa các bên
cần tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện điều ước quốc tế đã được ký kết để đánh
giá kết quả, rút ra những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi thông qua các nghị định thư
hoặc một hình thức văn bản phù hợp.
Thực tế cho thấy, kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN của nước ta chưa
nhiều, hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy,
cần tổ chức nghiên cứu pháp luật nước ngoài về bảo vệ BMNN để vận dụng có
chọn lọc những kinh nghiệm của họ vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về bảo vệ BMNN của Việt Nam. Trong đó chú ý các vấn đề về xác định BMNN ;
về tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của
các lực lượng, cá nhân trực tiếp bảo vệ BMNN; phạm vi của từng mức độ mật;
việc giải mật BMNN…
134
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, trên cơ sở thực
trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay, chương 4 của luận án đã xác
định quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện
nay. Cụ thể đã đạt được kết quả sau:
Luận án đã làm rõ hệ thống các quan điểm cần quán triệt trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay, đó là: Thể chế hóa quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ ANQG; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch của pháp luật về bảo vệ BMNN; tạo khuôn khổ pháp lý
đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ BMNN trong tình hình mới; hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN vừa mang tính thường xuyên, lâu dài, vừa mang tính cấp bách
nhưng phải được tiến hành thận trọng; hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải
đảm bảo tính kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.
Luận án đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước
ta hiện nay, bao gồm:
Các giải pháp xây dựng pháp luật về bảo vệ BMNN, như: cần sớm xây dựng
Luật Bảo vệ BMNN; cần kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành và sửa đổi,
bổ sung các văn bản có liên quan; cần kịp thời xác lập các loại danh mục BMNN.
Các giải pháp hoàn thiện nội dung của pháp luật về bảo vệ BMNN, như: hoàn
thiện quy định khái niệm BMNN; hoàn thiện quy định về phạm vi độ mật của
BMNN; cần quy định về nguyên tắc hoạt động bảo vệ BMNN; hoàn thiện quy định
về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và công dân tham gia bảo vệ BMNN; hoàn
thiện quy định về tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách của cơ quan chuyên trách
quản lý nhà nước và người trực tiếp bảo vệ BMNN; hoàn thiện quy định về xử lý các
hành vi xâm phạm BMNN và thống nhất sử dụng một số thật ngữ pháp lý.
Các giải pháp tạo lập điều kiện đảm bảo cho hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
BMNN, như: xây dựng chiến lược tổng thể hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN;
thường xuyên rà soát thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN, kết hợp với tổng kết thi
hành pháp luật về bảo vệ BMNN; tăng cường hợp tác quốc tế và tham khảo có chọn
lọc kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN của nước ngoài.
135
KẾT LUẬN
Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng.
Trải qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các QPPL về bảo vệ
BMNN phù hợp với đặc điểm của tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong từng
giai đoạn. Các QPPL đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật về bảo vệ BMNN và là
cơ sở pháp lý để tiến hành công tác bảo vệ BMNN.
Trên cơ sở các QPPL đó, công tác bảo vệ BMNN đã đạt được những kết quả
quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế; tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, pháp luật về bảo vệ BMNN vẫn còn
những hạn chế, bất cập ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo vệ BMNN. Xuất phát
từ thực tế đó, cùng với yêu cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, nhất là
các quy định về bảo vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-NQ/TW, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nên
việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN là
cần thiết và và mang tính cấp bách.
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, luận án “Hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” đã đạt được mục đích và hoàn thành
mục tiêu nghiên cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể khái quát như sau:
1. Luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, phân
tích, làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ
BMNN phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và thực tiễn công tác bảo vệ
BMNN. Luận án đã xác định và làm rõ các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật về bảo vệ BMNN, đó là: phải đảm bảo tính toàn diện; tính đồng bộ, thống
nhất; tính phù hợp; tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN. Đồng
thời pháp luật về bảo vệ BMNN phải được thể hiện thể hiện dưới hình thức tiến bộ là
VBQPPL theo các cấp độ hiệu lực pháp lý từ Hiến pháp, đến luật, đến các VBQPPL
dưới luật và đảm bảo kỹ thuật lập pháp hiện đại. Cùng với đó, luận án đã làm rõ các
136
yếu tố ảnh hưởng đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay;
nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN của một số nước trên thế giới, nhất là những
nước có truyền thống pháp luật tương tự Việt Nam và những nước có trình độ lập
pháp tiến bộ, từ đó rút ra một số kinh nghiệm để tham khảo trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.
2. Luận án đã khái quát quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay; phân tích, đánh giá kết quả đạt được, những hạn
chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay và lý giải nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập đó. Đây là cơ sở thực tiễn để đề ra giải pháp có tính
khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
3. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN,
nhất là những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp
luật về bảo vệ BMNN, luận án đã làm rõ các quan điểm cần quán triệt trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN và đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay. Bao gồm các nhóm giải pháp xây
dựng pháp luật về bảo vệ BMNN; nhóm giải pháp hoàn thiện nội dung của pháp luật
về bảo vệ BMNN và nhóm giải pháp tạo lập điều kiện đảm bảo cho hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ BMNN./.
137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phùng Văn Tài (2018), “Bộ luật hình sự năm 2015 đáp ứng tốt hơn yêu cầu bảo
đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, Số ra ngày 28/3,
xem tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/An-ninh-quoc-
phong/2018/50086/Bo-luat-Hinh-su-nam-2015-dap-ung-tot-hon-yeu-cau.aspx
2. Phùng Văn Tài (2017), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, Số ra ngày 24/10, xem tại trang
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/47568/Hoan-
thien-phap-luat-ve-bao-ve-bi-mat-nha-nuoc-o.aspx
3. Phùng Văn Tài (2017), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 9(353).
4. Phùng Văn Tài (2017), “Bàn về việc xác định cấu thành tội phạm của các tội
xâm phạm an ninh quốc gia trong Bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Công an
nhân dân, Số kỳ 1/8.
5. Phùng Văn Tài (2017), “Một số vấn đề cần chú ý trong xây dựng Dự án Luật
Bảo vệ bí mật nhà nước”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược Công an, Số 07.
6. Phùng Văn Tài (2017), “Mối quan hệ giữa bảo vệ bí mật nhà nước với bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin”, Tạp chí Cộng sản, Số ra ngày 05/7, xem tại trang
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/45726/Moi-
quan-he-giua-bao-ve-bi-mat-nha-nuoc-voi-bao.aspx.
7. Phùng Văn Tài (2017), “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học và giáo dục an ninh,
Số 03/T2.
8. Phùng Văn Tài (2016), “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Đặc san Khoa học an ninh, Số 11-9.
138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết về chiến lược ANQG, số 08-NQ/TW
ngày 17/12/1998.
2. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, số 48-
NQ/TW ngày 24/5/2005.
3. Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013.
4. Ban chấp hành Trung ương, “Nghị quyết về hội nhập quốc tế”, số 22-NQ/TW
ngày 10/4/2013, tại trang http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-
chinh/Nghi-quyet-22-NQ-TW-nam-2013-Hoi-nhap-quoc-te-203954.aspx, [truy
cập ngày 20/12/2015].
5. Trần Thái Bình, “Một số nội dung cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”, tại trang http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-thuc-hien-nghi-
quyet/mot-so-noi-dung-co-ban-cua-chien-luoc-bao-ve-to-quoc-trong-tinh-hinh-
moi/5731.html, [truy cập ngày 22/01/2016].
6. Bộ Công an, Tổng cục An ninh II (2012), Các quy định của Đảng, Nhà nước và
Bộ Công an về bảo vệ BMNN, Tổng cục An ninh II, Hà Nội.
7. Bộ Công an, Tổng cục An ninh (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn
đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
8. Bộ Công an, Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND (2013), Sách Bảo vệ
BMNN, Nxb CAND, Hà Nội.
9. Bộ Công an, Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND (2013), Sách Bảo vệ BMNN
- dùng cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các trường cao đẳng, trung cấp
CAND, Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, Hà Nội.
10. Bộ Công an, Viện Chiến lược và khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa
CAND Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội.
11. Bộ Công an, Viện Chiến lược và khoa học Công an (2006), Bổ sung và hoàn
thiện một bước cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong tình
hình mới, Nxb CAND, Hà Nội.
139
12. Bộ Công an - Viện chiến lược và khoa học Công an (2007), Giải pháp của lực
lượng An ninh nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong
lĩnh vực kinh tế trọng điểm, Nxb CAND, Hà Nội.
13. Bộ Công an, Thông tư số 12/20025/TT-BCA ngày 13/9/2002, hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN.
14. Bộ Công an (2008), Danh mục BMNN, Nxb CAND, Hà Nội.
15. Bộ Công an, Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20/7/2015, hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN.
16. Bộ Công an, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật (2016), Những
nội dung cơ bản của các bộ luật, luật được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ
họp lần thứ 10, Hà Nội.
17. Bộ Nội vụ (1997), Bảo vệ BMNN, bảo vệ bí mật và bảo vệ chính trị nội bộ
trong lực lượng CAND, Vụ Pháp chế, Hà Nội.
18. Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP
ngày 28/3/2002, Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN.
19. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, “Nắm vững tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tại trang
http://cantho.gov.vn/wps/wcm/connect/CanTho/Tieng+Viet/TinTucSuKien/Chi
nhTri/Nam+vung+tu+tuong+chi+dao+cua+Dang+ve+xay+dung,+bao+ve+To+
quoc+trong+tinh+hinh+moi, [truy cập ngày 22/01/2016].
20. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Sắc lệnh về việc ấn định những
hình phạt trừng trị việc để tiết lộ bí mật”, số 154/SL ngày 17/11/1950, tại trang
http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Sac-lenh-154-SL-an-
dinh-hinh-phat-trung-tri-de-tiet-lo-bi-mat-36637.aspx, [truy cập ngày
20/7/2015].
21. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Sắc lệnh, số 128-SL ngày
14/7/1950”, tại trang http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Trach-nhiem-hinh-
su/Sac-lenh-128-SL-trung-tri-toi-boc-trom-an-cap-thu-tieu-cong-van-Chinh-
phu-thu-tu-tu-nhan/36613/noi-dung.aspx, [truy cập ngày 20/7/2015].
140
22. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Sắc lệnh về việc đặt chế độ giữ
gìn BMQG, số 69/SL ngày 05/12/1951”, tại trang
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Sac-lenh-69-SL-dat-
che-do-giu-gin-bi-mat-quoc-gia-36684.aspx, [truy cập ngày 20/7/2015].
23. Diệp Hồng Công (2014), Công tác bảo vệ BMNN trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên - Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ, Học viện An ninh nhân
dân, Hà Nội.
24. Cục An ninh mạng, Bộ Công an (2015), Công tác bảo vệ BMNN trong tình
hình phát triển khoa học – công nghệ hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học về
một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
25. Hà Hùng Cường (2009), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN”, tại trang
http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/02/26/2393/, [truy cập ngày
29/9/2015].
26. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ, đại học Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Quốc Dũng (2015), “Bảo vệ BMNN trong quan hệ tiếp xúc với tổ
chức, cá nhân nước ngoài”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận
phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
28. Phạm Dũng (2012), “Vấn đề thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí với
bảo vệ BMNN”, Tạp chí CAND, số 02-03
29. Trần Việt Dũng (2012), “Quy định về công tác bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí CAND, số 02-03.
30. Phan Đức Dư (2006), “Trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
kinh tế, xã hội trong bảo vệ ANQG”, Tạp chí CAND, số chuyên đề 01.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
141
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đặng Văn Đoài (2006), Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng An ninh - Những
vấn đề lí luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ Công an, Hà Nội.
36. Đặng Văn Đoài (2012), “Xây dựng lý luận về bảo vệ BMNN trong tình hình
hiện nay”, Tạp chí CAND, số 02-03.
37. Đặng Văn Đoài (2015), “Một số vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận
bảo vệ BMNN”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây
dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
38. Đặng Văn Hải (2012), “Những tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của pháp
luật về Kiểm toán Nhà nước ở nước ta hiện nay”, tại trang
http://www.sav.gov.vn/1644-1-ndt/nhung-tieu-chi-xac-dinh-muc-do-hoan-
thien-cua-phap-luat-ve-kiem-toan-nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.sav, [truy cập
ngày 20/7/2015].
39. Phạm Khắc Hiến (2006), “Những nguyên tắc hoạt động bảo vệ ANQG”, Tạp
chí CAND, số chuyên đề 01.
40. Chu Văn Hòa (2015), “Bảo vệ BMNN trong công tác xuất bản, in và phát
hành”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự
án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
41. Học viện An ninh nhân dân (2005), Giáo trình “Bảo vệ an ninh nội bộ", Tập 1,
Nxb CAND, Hà Nội.
42. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật (2013),
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
43. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Lý luận quản lý hành chính nhà nước,
Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
44. Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Pháp lệnh Bảo vệ
BMNN, số 62-LCT/HĐNN8 ngày 28 tháng 10 năm 1991.
142
45. Hoàng Minh Hội (2014), Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Nguyễn Mạnh Hùng (2010), Áp dụng pháp luật hình sự trong khởi tố điều tra
vụ án làm lộ BMNN của Cơ quan ANĐT trong tình hình hiện nay, Luận văn
thạc sĩ, Học viện ANND, Hà Nội.
47. Nguyễn Mạnh Hùng (2013), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
BMNN”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 07.
48. Nguyễn Quý Hưng (2015), “Một số bất cập trong việc áp dụng các quy định
của pháp luật về bảo vệ BMNN trong công tác điều tra, xử lý tội phạm của Cơ
quan an ninh điều tra”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục
vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
49. Vũ Thị Minh Hương (2012), “Từ kinh nghiệm của một số nước - đề xuất việc giải
mật tài liệu có nội dung BMNN ở nước ta hiện nay”, Tạp chí CAND, số 02-03.
50. Đỗ Khắc Hưởng (2015), “Quy định của pháp luật hiện hành về các loại hình
thông tin bí mật và phương hướng hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ BMNN”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật
Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
51. KAS, Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
52. Ma Văn Kỳ (2011), Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong
ực lượng CAND, Đề tài khoa học cấp Bộ Công an, Hà Nội.
53. Mai Tùng Lâm (2013), Phòng, chống lộ BMNN trong lực lượng Công an qua
các phương tiện thông tin liên lạc, luận văn thạc sĩ, Học viện ANND, Hà Nội.
54. Mai Tùng Lâm (2013), “Về khái niệm BMNN, BMQG trong Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/du-
thao-sua-doi-nam-1992/2013/23750/Ve-khai-niem-bi-mat-quoc-gia-bi-mat-
nha-nuoc-trong.aspx, [truy cập ngày 22/7/2015].
55. Mai Tùng Lâm (2014), “Thực hiện tốt công tác bảo vệ BMNN trong tình hình
mới”, Tạp chí CAND, số 04.
143
56. Mai Tùng Lâm (2015), “Bàn về khái niệm “BMQG”, “BMNN” trong quá trình
xây dựng dự thảo Luật Bảo vệ BMNN”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số
vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
57. Tô Lâm (2012), “Công tác bảo vệ BMNN của lực lượng CAND trong tình hình
hiện nay”, Tạp chí CAND, số 02-03.
58. Liên hợp quốc, “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền”, tại trang
http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-
quyen-1948/65774/noi-dung.aspx, [truy cập ngày 20/12/2015].
59. Liên hợp quốc, “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”, tại trang
http://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-
dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx, [truy cập ngày 20/12/2015].
60. Nguyễn Quỳnh Liên (2015), “Mối quan hệ giữa bảo vệ BMNN với bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin của công dân”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn
đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
61. Dương Lê Loan (2015), “Công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực cơ yếu”, Kỷ
yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật
Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
62. Bùi Vọng Long (2012), “Một số vấn đề rút ra qua việc lộ, mất thông tin bí mật
của Mỹ trên mạng internet”, Tạp chí CAND, số 02-03.
63. Bùi Vọng Long (2015), “Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ BMNN và thực tế áp dụng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số
vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
64. Hoàng Hữu Lượng (2015), “Bảo vệ BMNN trong hoạt động báo chí”, Kỷ yếu
hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ
BMNN, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh, “Giữ bí mật”, Báo Sự thật, số 97.
66. Hồ Chí Minh, “Phải giữ bí mật của Nhà nước”, Báo Nhân dân, số 700.
67. Hồ Chí Minh (2005), Về bảo vệ an ninh, trật tự, Nxb CAND, Hà Nội.
68. Nguyễn Bích Mơ (2006), “Nhiệm vụ bảo vệ ANQG theo quy định của Luật
ANQG”, Tạp chí CAND, số chuyên đề 01.
144
69. Nguyễn Nam (2012), “Tiêu chí xác định chất lượng của hệ thống pháp luật”, tại
trang http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=4516,
[truy cập ngày 20/8/2015].
70. Lê Thị Nga, “Yêu cầu về tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, tại trang
http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_c
ateid=1751909&item_id=8611408&article_details=1, [truy cập ngày
20/8/2015].
71. Hồ Trọng Ngũ (2012), Pháp luật quốc phòng - an ninh, mấy vấn đề về tính hệ
thống, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
72. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Các quy định pháp luật về bảo vệ
BMNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Đặng Thị Hồng Nhung (2015), “Vấn đề giải mật tài liệu, vật mang BMNN theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay và kinh nghiệm của một số nước”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật
Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
74. Lê Nhung (2012), “Sẽ có Luật Bảo vệ BMNN”, tại trang
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.
aspx?ItemID=119., [truy cập ngày 5/02/2015].
75. Trần Đại Quang (2015), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với CAND”, tại trang
http://anninhthudo.vn/thoi-su/chu-tich-ho-chi-minh-voi-cong-an-nhan-
dan/610556.antd., [truy cập ngày 23/7/2015].
76. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2005), Luật ANQG, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
77. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2010), BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2016), Luật tiếp cận thông tin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2017), BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam năm 1992.
145
81. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Trương Tấn Sang, “Quan hệ đối ngoại của Việt Nam mở rộng chưa từng có”,
tại trang http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/chu-tich-nuoc-quan-he-doi-ngoai-
cua-viet-nam-mo-rong-chua-tung-co-3270550.html, [truy cập ngày
22/01/2016].
83. Phạm Văn Sính (2015), Các tội xâm phạm BMNN trong LHS Việt Nam, luận
văn thạc sĩ, đại học Quốc gia, Hà Nội.
84. Phạm Văn Sính (2015), “Kiến nghị sửa đổi quy định về xử lý các tội xâm phạm
BMNN trong BLHS năm 1999”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý
luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
85. Đào Hồng Sơn (2009), Giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra vụ án cố ý làm lộ
BMNN; chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu BMNN do Cơ quan ANDDT Bộ
Công an thụ lí, luận văn thạc sĩ, Học viện ANND, Hà Nội.
86. Nguyễn Minh Sơn (2015), “Thực trạng giải mật tài liệu lưu trữ tại các trung
tâm lưu trữ quốc gia – Một số kiến nghị”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số
vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
87. Phùng Văn Tài (2013), Phương hướng hoàn thiện quy định của LHS Việt Nam
về các tội xâm phạm ANQG, Đề tài khoa học cấp Bộ Công an, Hà Nội.
88. Lê Minh Tâm (2000), “Về khái niệm hiệu quả pháp luật và những tiêu chí xác
định hiệu quả pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11.
89. Nguyễn Văn Tạo (2006), “Nhiệm vụ bảo vệ BMNN trong Luật ANQG”, Tạp
chí CAND, số chuyên đề 01.
90. Bùi Trung Thành (2006), “Hoạt động xâm phạm ANQG theo quy định của Luật
ANQG”, Tạp chí CAND, số chuyên đề 01.
91. Trần Văn Thành (2012), “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN
trong tình hình hiện nay”, Tạp chí CAND, số 02-03.
92. Trần Minh Thắng (2015), “Một số kinh nghiệm trong áp dụng pháp luật về xác
định khu vực cấm, địa điểm cấm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN,
Hà Nội.
146
93. Nguyễn Trường Thọ (2015), “Hoàn thiện chế định về trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức ở trung ương và địa phương trong bảo vệ BMNN”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN,
Hà Nội.
94. Nguyễn Quế Thu (2015), “Hoàn thiện quy định về phạm vi và phân loại
BMNN của Việt Nam từ kinh nghiệm của một số quốc gia”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN,
Hà Nội.
95. Nguyễn Quế Thu (2016), “Hoàn thiện quy định về phạm vi và phân loại
BMNN trong pháp luật Việt Nam từ kinh nghiệm lập pháp của một số quốc
gia”, Tạp chí CAND, số 02-04.
96. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị “Về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo
vệ BMNN trong tình hình mới”, số 05/CT-TTg ngày 21/02/2012.
97. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định phê duyệt Danh mục các đề mục trong mỗi
chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển theo các đề mục, số 843/QĐ-
TTg ngày 06/6/2014.
98. Lê Xuân Thủy (2014), Tập bài giảng Công tác bảo vệ BMNN, trường Cao đẳng
ANND I, Hà Nội.
99. Nguyễn Thị Thu Thủy (2015), “Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ BMNN
hiện nay và hướng hoàn thiện”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý
luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
100. Trần Minh Thư (2004), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
101. Nguyễn Hữu Tiếp (2015), “Thực trạng công tác thanh tra chuyên ngành về bảo
vệ BMNN”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây
dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
102. Thái Quang Toản (2015), “Kiện toàn tổ chức, biên chế làm công tác bảo vệ
BMNN trong các cơ quan, tổ chức và địa phương”, Kỷ yếu hội thảo khoa học
về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
103. Kiều Văn Trầm (2015), “Một số kinh nghiệm trong áp dụng pháp luật về xác
định khu vực cấm, địa điểm cấm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”, Kỷ yếu hội thảo
147
khoa học về một số vấn đề lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN,
Hà Nội.
104. Trung tâm Từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
105. Trường đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp
luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
106. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb
CAND, Hà Nội.
107. Phan Xuân Tuy (2014), “Góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN”,
Tạp chí CAND, số 01-12.
108. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, tr.263.
109. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Pháp lệnh Bảo
vệ BMNN, số 30/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000.
110. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Pháp lệnh
Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, số 03/2012/UBTVQH13 ngày
16/4/2012.
111. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, “Tờ trình Dự
án Luật Bảo vệ BMNN”, tại trang
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Det
ail.aspx?ItemID=717&TabIndex=2&TaiLieuID=2522, [truy cập ngày
15/8/2017].
112. Đỗ Hữu Vấn (2005), Giải pháp của lực lượng An ninh nhân dân nhằm nâng
cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN trong lĩnh vực kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ Công an, Hà Nội.
113. Viện Khoa hoc xã hội (2000), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
114. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển
tiếng Việt, Hà Nội.
115. Phan Quang Vinh (2010), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 17(187)-09.
148
116. Phan Quang Vinh (2015), “Chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN theo
quy định của pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về một số vấn đề
lý luận phục vụ xây dựng dự án Luật Bảo vệ BMNN, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
117. Congress of the Republic of Moldova (1994), “Law on state secrets”, tại trang
http://www.venice.coe.int/webforms/documents/default.aspx?pdffile=CDL(200
8)008-e, [truy cập ngày 10/01/2017].
118. Congress of the State of Georgia (1999), “Law on state secrets”, tại trang
https://matsne.gov.ge/en/document/download/33280/22/en/pdf, [truy cập ngày
30/10/2016].
119. National Assembly of the Republic of Albania (1999), “Laws on information
classified as state secrets”, tại trang http://www.informatica-
juridica.com/legislacion/albania/, [truy cập ngày 20/01/2017].
120. National Assembly of the Republic of Mongolia (2004), “Law on state secrets”,
tại trang http://www.forum.mn/res_mat/secrecylaw_eng.pdf, [truy cập ngày
20/10/2016].
121. Russian Federation House of Representatives (2007), “Law on state secrets”,
tại trang
https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/WTACCRUS58_LEG_125.
pdf, [truy cập ngày 10/01/2017].
122. Standing Committee of the National Assembly of the People's Republic of
China (1988), “Law of Archives”, tại trang
http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-12/12/content_1383925.htm,
[truy cập ngày 10/01/2017]
123. Standing Committee of the National Assembly of the People's Republic of
China (1988), “Law of the People's Republic of China on Guarding State
Secrets”, tại trang http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-
12/12/content_1383925.htm, [truy cập ngày 10/01/2017].
PHỤ LỤC
HỆ THỐNG VĂN BẢN VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
Phần thứ nhất
PHÁP LỆNH BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH
STT Tên văn bản
1 Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước ngày 28 tháng 12 năm 2000
2 Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước
3
Quyết định số 160/2003/QĐ-TTg ngày 06 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà
nước trong tình hình mới
4
Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20 tháng 7 năm 2015 của Bộ Công an
hướng dẫn thực một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28
tháng 3 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo
vệ bí mật nhà nước
5
Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng chính phủ
về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình
hình mới
6
Hướng dẫn số 02/HD-BCA-A81 ngày 12 tháng 3 năm 2012 của Bộ Công an
về thực hiện chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 21 tháng 02 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật
nhà nước trong tình hình mới
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ hai
DANH MỤC BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
CÁC CÁN BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
STT Tên văn bản
7
Quyết định số 220/2003/QĐ-TTg ngày 28 tháng 10 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Ban Cán sự Đảng ngoài nước
8
Quyết định số 15/2003/QĐ-TTg ngày 20 tháng 1 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật trong ngành
Ngân hàng
9 Quyết định số 151/2003/QĐ-BCA ngày 11 tháng 03 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Ngân hàng
10
Quyết định số 637/2003/QĐ-BCA(A11) ngày 12 tháng 9 năm 2003 về quy
định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Trung ương Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh
11
Quyết định số 41/2003/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật thuộc
phạm vi Quốc phòng
12
Quyết định số 41/2003/QĐ-BQP ngày 8 tháng 4 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng về danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc phạm vi
Quốc phòng
13
Quyết định số 168/2004/QĐ-BCA ngày 12 tháng 9 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp
14
Quyết định số 18/2004/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật thuộc lĩnh vực quản lý
nhà nước của Bộ Tư pháp
15 Quyết định số 45/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật nhà nước độ Mật của
Ban tổ chức Trung ương
16 Quyết định số 31/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 11 năm 2004 về danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của Ban Tổ chức Trung ương
17 Quyết định số 322/2004/QĐ-BCA ngày 7 tháng 04 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Tạp chí Cộng sản
17
Quyết định số 181/2004/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức
liên quan thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
19
Quyết định số 1279/2004/QĐ-BCA ngày 10 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của của Tỉnh ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức liên quan
thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
20
Quyết định số 01/2004/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của ngành Toà
án nhân dân
21
Quyết định số 30/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Tòa án nhân
dân
22
Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Quốc
hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng Quốc hội
23
Quyết định số 486/2004/QĐ-BCA ngày 28 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Quốc hội, các cơ
quan Quốc hội, các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng
Quốc hội
24 Quyết định số 19/2004/QĐ-BCA ngày 05 tháng 3 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Báo Nhân dân
25 Quyết định số 89/2004/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật của nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Cơ yếu
26 Quyết định số 482/2004/QĐ-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Cơ yếu
27 Quyết định số 193/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Tiếng nói Việt Nam
28
Quyết định số 1307/2004/QĐ-BCA ngày 12 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Tiếng nói
Việt Nam
29
Quyết định số 485/2004/QĐ-BCA ngày 28 tháng 5 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Đài Truyền
hình Việt Nam
30
Quyết định số 1485/2005/QĐ-BCA ngày 20 tháng 12 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Giao
thông vận tải
31
Quyết định số 1261/2004/QĐ-BCA ngày 8 tháng 11 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam
32
Quyết định số 52/2004 QĐ-BCA ngày 15 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam
33
Quyết định số 170/2004/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của cơ
quan Ủy ban Kiểm tra Đảng
34
Quyết định số 1040/2004/QĐ-BCA ngày 11 tháng 5 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của cơ
quan Ủy ban Kiểm tra Đảng
35
Quyết định số 409/2004/QĐ-BCA ngày 05 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực Khoa học
và Công nghệ
36 Quyết định số 88/2004/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật và tối mật trong
ngành Kiểm sát
37 Quyết định số 481/2004/QĐ-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Kiểm sát
38
Quyết định số 156/2004/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
39
Quyết định số 749/2004/QĐ-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật
40
Quyết định số 109/2005/QĐ-BCA ngày 01 tháng 02 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Bảo
hiểm xã hội Việt Nam
41
Quyết định số 306/2005/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật về
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
42
Quyết định số 1811/2005/QĐ-BCA ngày 08 tháng 12 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Quản lý
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
43
Quyết định số 83/2005/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Liên hiệp tổ chức
hữu nghị Việt Nam
44
Quyết định số 479/2005/QĐ-BCA ngày 25 tháng 4 năm 2005 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Liên hiệp tổ chức
hữu nghị Việt Nam
45
Thông tư số 211/2005/QĐ-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2005 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Thể
thao, Văn hóa và Du lịch
46 Quyết định số 211/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Văn
phòng Chủ tịch nước
47
Quyết định số 1254/2004/QĐ-BCA ngày 08 tháng 9 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Văn
phòng Chủ tịch nước
48
Quyết định số 21/2006/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam
49
Quyết định số 144/2006/QĐ-BCA ngày 24 tháng 02 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam
50
Quyết định số 143/2006/QĐ-TTg ngày 19 tháng 6 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam
51
Quyết định số 801/2006/QĐ-BCA ngày 28 tháng 06 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Viện
Khoa học xã hội Việt Nam
52
Quyết định số 214/2006/QĐ-BCA ngày 24 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em
53
Quyết định số 91/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ủy
ban Dân tộc
54
Quyết định số 329/2006/QĐ-BCA ngày 11 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc
55
Quyết định số 244/2006/QĐ-TTg ngày 27 tháng 01 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương
56 Quyết định số 1657/2006/QĐ-BCA ngày 09 tháng 10 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Bảo vệ
chính trị nội bộ Trung ương
57
Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong ngành Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin
58
Quyết định số 96/QĐ-BCA ngày 22 tháng 8 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong nghành Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin
59
Quyết định số 660/2006/QĐ-BCA ngày 01 tháng 6 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam
60
Quyết định số 71/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Kiểm
toán nhà nước
61 Quyết định số 269/2006/QĐ-BCA ngày 17 tháng 4 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Kiểm toán nhà nước
62
Quyết định số 04/2007/QĐ-BCA ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Nghiên cứu của
Bộ Chính trị về an ninh quốc gia
63
Quyết định số 67/2007/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt Mật và Tối mật trong
ngành Kế hoạch và đầu tư
64
Quyết định số 650/QĐ-BCA ngày 13 tháng 6 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Kế hoạch và
Đầu tư
65
Quyết định số 1858/2008/QĐ-BCA ngày 5 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Thông tấn xã
Việt Nam
66
Quyết định số 130/2008/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Dân vận Trung ương
67
Quyết định số 1856/2008/QĐ-BCA ngày 05 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật Nhà nước độ Mật của Ban Dân vận
Trung ương và hệ thống công tác dân vận của Đảng
68 Quyết định số 2039/2008/QĐ-BCA ngày 03 tháng 12 năm 2008 danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của ngành xây dựng
69
Quyết định số 106/2008/QĐ-TTg ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Công thương
70 Quyết định số 1534/2008/QĐ-BCA ngày 18 tháng 9 năm 2008 về danh mục
bí mật nhà nước độ Mật của ngành Công thương
71
Quyết định số 1857/2008/QĐ-BCA ngày 05 tháng 11 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của chính phủ,
Văn phòng Chính phủ
72
Quyết định số 168/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
73
Thông tư số 68/2009/TT-BCA ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước của Học viện Chính trị-
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
74
Quyết định số 90/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
Trung ương Đảng và Văn phòng Trung ương Đảng
75
Quyết định số 48/2009/QĐ-BCA ngày 28 tháng 8 năm 2009 về quy định
danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Trung ương Đảng và Văn phòng
Trung ương Đảng
76
Quyết định số 73/2009/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của Ban
Tuyên giáo Trung ương
77 Thông tư số 39/2009/TT-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ mật của Ban Tuyên giáo
Trung ương
78
Quyết định số 128/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật
của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
79
Thông tư số 73/2009/TT-BCA ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn
80
Quyết định số 13/2010/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2010 của Thủ tướng
chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong lực
lượng Công an nhân dân
81
Thông tư số 11/2010/TT-BCA ngày 25 tháng 3 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong lực lượng Công
an nhân dân
82
Quyết định số 27/2011/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và tối mật thuộc lĩnh
vực Khoa học và Công nghệ
83
Quyết định số 18/2012/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Nội vụ
84 Thông tư số 36/2012/TT-BCA ngày 18 tháng 6 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Nội vụ
85
Thông tư số 64/2012/TT-BCA ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ủy ban
Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam
86
Quyết định số 22/2012/QĐ-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung
ương
87 Quyết định số 59/2013/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Tài chính
88 Thông tư số 56/2013/TT-BCA ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Tài chính
89
Quyết định số 21/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong lĩnh vực Tài
nguyên và Môi trường
90
Thông tư số 29/2013/TT-BCA ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong lĩnh vực Tài nguyên và
Môi trường
91
Quyết định số 81/2013/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của
ngành Thể thao, Văn hóa và Du lịch
92 Thông tư số 32/2014/TT-BCA ngày 25 tháng 7 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Hội Nông dân Việt Nam
93
Quyết định số 52/2014/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của ngành Lao động -
Thương binh và xã hội
94
Thông tư số 59/2014/TT-BCA ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Lao động -
Thương binh và xã hội
95
Thông tư số 084/2014/TT-BCA ngày 321 tháng 02 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương
96
Quyết định số 17/2014/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của ngành
Ngoại giao
97 Thông tư số 12/2014/TT-BCA ngày 19 tháng 3 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của ngành Ngoại giao
98 Thông tư số 63/2014/TT-BCA ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng
Bộ Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật của Ban Kinh tế
Trung ương
99
Quyết định số 49/2014/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật của Ban
Kinh tế Trung ương
100 Thông tư 08/2015/QĐ-BCA ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ
Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Thanh tra
101
Quyết định số 56/2015/QĐ-TTg ngày 10 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật trong
ngành Y tế
102 Thông tư số 06/2015/TT-BCA ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ
Công an về quy định danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Y tế
103
Quyết định số 59/2016/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật trong nghành Giáo dục
và Đào tạo
104
Thông tư số 11/2017/QĐ-BCA ngày 23 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng
Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật trong ngành Giáo dục và
Đào tạo
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ ba
CÁC QUY ĐỊNH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ BỘ CÔNG AN
CÓ LIÊN QUAN VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
A. CÁC QUY ĐỊNH CỦA ĐẢNG
STT Tên văn bản
105
Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 25 tháng 12 năm 1997 của Bộ Chính trị về nói
và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước
106 Chỉ thị số 64-CT/TW ngày 14 tháng 02 năm 2001 của Bộ Chính trị về giữ
nghiêm kỷ luật và bảo vệ bí mật của Đảng trong tình hình hiện nay
107
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 14 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị về bảo
vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn, sử dụng, bảo quản thông tin, tài liệu
trong tình hình mới
108 Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14 tháng 10 năm 2006 của Bộ Chính trị về tăng
cường lãnh đạo công tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới
109
Quy chế số 22-CT-TW ngày 19 tháng 10 năm 2006 của Ban chấp hành
Trung ương về thu hồi tài liệu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đã chuyển công tác, nghỉ hưu, từ trần
110
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07 tháng 7 năm 2007 của Bộ Chính trị về sự
lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều
tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng
111
Quy định số 212-QĐ/TW ngày 16 tháng 3 năm 2009 quy định giải mật tài
liệu của cơ quan, tổ chức trước khi nộp và lưu vào kho lưu trữ của Trung
ương Đảng và tài liệu của kho lưu trữ Trung ương Đảng
112 Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2011 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về những điều Đảng viên không được làm
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC
STT Tên văn bản Năm ban
hành
113 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1999
114 Luật An ninh quốc gia 2004
115 Luật Phòng, chống tham nhũng 2005
116 Luật Giao dịch điện tử 2005
117 Luật Công nghệ thông tin 2006
118 Luật Tương trợ tư pháp 2007
119 Luật Cán bộ, công chức 2008
120 Luật Công nghệ cao 2008
121 Luật Khám bênh, chữa bệnh 2009
122 Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài 2009
123 Luật Quy hoạch đô thị 2009
124 Luật Viễn thông 2009
125 Luật Bưu chính 2010
126 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
127 Luật Viên chức 2010
128 Luật Cơ yếu 2011
129 Luật Lưu trữ 2011
130 Luật Xuất bản 2012
132 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật 2012
133 Hiến pháp 2013
134 Luật Khoa học và công nghệ 2013
135 Luật Công an nhân dân 2014
136 Bộ luật Hình sự 2015
137 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
138 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015
139 Luật An toàn thông tin mạng 2015
140 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015
141 Luật Thống kê 2015
142 Luật Trưng cầu ý dân 2015
143 Luật Ttố tụng hành chính 2015
144 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
145 Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức
quốc phòng 2015
146 Luật Báo chí 2016
147 Luật Tiếp cận thông tin 2016
148 Pháp lệnh Bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự 1994
149 Pháp lệnh Bảo vệ công trình, phương tiện liên quan đến an
ninh quốc gia 2007
150 Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng 2008
151 Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật 2012
152
Nghị định số 04/1995/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 1995 của
Chính phủ ban hành Quy chế bảo vệ công trình quốc phòng và
khu vực quân sự
1995
153 Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của
Chính phủ về công tác văn thư 2004
154
Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của
Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan nhà nước
2007
155
Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2007
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế phát ngôn
và cung cấp thông tin cho báo chí
2007
156
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2008 của
Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và
thông tin điện tử internet
2008
157 Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số 2008
điều của Pháp lệnh Bảo vệ công trình, phương tiện quan trọng
liên quan đến an ninh quốc gia
158 Nghị định số 89/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 của
Chính phủ về hoạt động đối ngoại biên phòng 2009
159 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2009 của
Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật 2009
160
Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 3 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ quy định về kiểm tra, xử lý văn bản
quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước
2009
161
Nghị định số 49/2012/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2012 của
Chính phủ quy định danh mục quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, đối ngoại
2012
162
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2009
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình
2013
163
Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 10 năm 2012
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quốc phòng, cơ yếu
2013
165
Thông tư số 25/2008/TT-BCA ngày 27 tháng 10 năm 2008
hướng dẫn quản lý hoạt động thông tin tuyên truyền, báo chí,
xuất bản trong Công an nhân dân
2008
166
Quy định về quản lý và khai thác mạng máy tính diện rộng
ngành Công an (Ban hành kèm theo Quyết định số
39/2008/QĐ-BCA ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an
2008
167
Thông tư số 01/2009/TT-BCA ngày 06 tháng 01 năm 2009 của
Bộ Công an về các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật trong Công an nhân dân trước tình hình mới.
2009
168
Thông tư số 11/2009/TT-BCA ngày 25 tháng 3 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an Quy định danh mục đơn vị, bộ phận
trọng yếu, cơ mật trong lực lượng Công an nhân dân
2009
169
Thông tư số 59/2009/TT-BCA ngày 29 tháng 10 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về mạng liên lạc mật mã trong
Công an nhân dân.
2009
170
Thông tư số 71/2009/TT-BCA ngày 29 tháng 10 năm 2009 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác văn thư hành
chính, hồ sơ lưu trữ văn bản quản lý nhà nước trong Công an
nhân dân
2009
164
Thông tư số 53/2010/TT-BCA ngày 11 tháng 02 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác bưu chính trong
Công an nhân dân
2010
171
Thông tư số 59/2010/TT-BCA ngày 14 tháng 12 năm 2010 của
Bộ Công an quy định về công tác bảo vệ bí mật nhà nước
trong lực lượng Công an nhân dân
2010
172
Thông tư số 10/2010/TT-BCA ngày 25 tháng 02 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định xử lý vi phạm điều lệnh Công
an nhân dân
2010
173
Thông tư số 51/2010/TT-BCA ngày 24 tháng 11 năm 2010 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về việc xây dựng, quản lý và
sử dụng hệ thống thư điện tử có bảo mật phục vụ trao đổi
thông tin trong Công an nhân dân
2010
174
Thông tư số 72/2011/TT-BQP ngày 29 tháng 4 năm 2011 của
Bộ Quốc phòng quy định bảo mật nội dung thông tin khi sử
dụng phương tiện liên lạc tại quần đảo Trường Sa và DK1
2011
175
Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19 tháng 01 năm 2011 của
Bộ Nội vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản
hành chính
2011
176
Thông tư số 05/2011/TT-BCA ngày 11 tháng 02 năm 2011của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quan hệ, tiếp xúc cán bộ,
chiến sĩ Công an với tổ chức, cá nhân có yếu tố nước ngoài
2011
177
Thông tư số 17/2011/TT-BCA ngày 19 tháng 4 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định quản lý, sử dụng Mạng diện
rộng Cơ yếu trong Công an nhân dân
2011
178
Thông tư số 18/2011/TT-BCA ngày 20 tháng 04 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quản lý, sử dụng điện mật
trong Công an nhân dân
2011
179
Thông tư số 36/2011/TT-BCA ngày 27 tháng 5 năm 2011 của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đảm bảo an toàn thông tin
số trong Công an nhân dân
2011
180 Thông tư số 17/2012/TT-BCA ngày 10 tháng 2 năm 2012 của
Bộ Công an quy định về điều lệnh nội vụ Công an nhân dân 2012
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an
Phần thứ tư
HIỆP ĐỊNH GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM VỚI CHÍNH PHỦ CÁC NƯỚC VỀ CÙNG BẢO VỆ TIN MẬT
181 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Cộng hòa Ba Lan về cùng bảo vệ tin mật
182 Hiệp định giữa Cộng hòa Bê-la-rút và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về cùng bảo vệ tin mật
183 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Cộng hòa Bun-ga-ri về cùng bảo vệ và trao đổi tin mật
184 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Liên bang Nga về cùng bảo vệ các tài liệu mật
185 Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ U-Crai-Na về cùng bảo vệ tin mật
Nguồn: Cục Pháp chế và cải cách hành, chính tư pháp – Bộ Công an