hoÀn thiỆn phÁp luẬt vỀ kiỂm sÁt viÊn viỆn...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TUẤN PHONG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ TUẤN PHONG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH
TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi,
có sự hỗ trợ của các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Tuấn Phong
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 22
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 28
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ 34
2.1. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực
hành quyền công tố 34
2.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố 41
2.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các
điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố 48
2.4. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố ở một số nước
trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam 58
Chương 3: QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở
VIỆT NAM 75
3.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền
công tố từ 1945 đến trước khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002 75
3.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền
công tố từ khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
đến 2015 và thực tiễn áp dụng 85
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 115
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố 115
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố 123
KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CQĐT : Cơ quan điều tra
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã chú
ý tới cán bộ làm nhiệm vụ công tố. Các vấn đề pháp lý của chức danh này được
điều chỉnh trong những văn bản pháp luật đầu tiên của chính quyền dân chủ
nhân dân. Nếu như những năm đầu tiên, chế định công tố và Công tố viên gắn
liền với tổ chức và hoạt động của Tòa án thì sự ra đời của Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960 đánh dấu sự thay đổi lớn của chế định này. Vị trí, vai trò của
Kiểm sát viên trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy Nhà nước được
khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với quá trình phát triển
của hệ thống cơ quan tư pháp, pháp luật về Kiểm sát viên cũng từng bước hoàn
thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, các
quy định pháp luật hiện nay chưa bảo đảm cho Kiểm sát viên chủ động thực hiện
hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hành quyền công tố
vẫn còn có trường hợp bỏ lọt tội phạm; việc phê chuẩn các quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn có trường hợp còn chưa chính xác; còn
một số trường hợp đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án do bị can không phạm
tội, trong khi đội ngũ Kiểm sát viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng
lực nghiệp vụ.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là cơ sở
pháp lý đối với chức danh Kiểm sát viên, trong đó có các bảo đảm pháp lý cho
việc thực hành quyền công tố của chức danh này chưa hoàn thiện, các quyền năng
pháp lý của Kiểm sát viên chưa được phát huy, chưa đáp ứng được yêu cầu của
cải cách tư pháp trong lĩnh vực hoạt động công tố. Nghị quyết số 48/NQ-TW,
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định các
2
phương hướng và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, trong đó có nhiệm vụ
“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo
đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tiếp đó, Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra nhiệm vụ:
... Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền
hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm
quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán
để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật... [10].
Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện các quy
định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một nhiệm
vụ quan trọng vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài, cần phải được tiến
hành trên cơ sở chủ trương, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp và các
quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của
kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, góp phần thực hiện mục tiêu của cải
cách tư pháp.
Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công
tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố, đánh giá đúng thực trạng pháp luật,
Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
3
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; từ đó, nêu các vấn
đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Xây dựng cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư pháp; Xây dựng khái
niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Nghiên
cứu pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố ở một
số nước, rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam.
- Khái quát sự hình thành và phát triển pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam; Đánh giá thực trạng pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, chỉ ra các điểm hạn chế bất
cập và nguyên nhân.
- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư
pháp; tập trung vào đối tượng là các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố trong phạm vi toàn quốc. Thời gian nghiên
cứu từ khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đến năm 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, lý luận về hoàn thiện pháp luật,
4
các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu Luận án là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa
các hiện tượng và quá trình xã hội được sử dụng để nghiên cứu, phân tích mối liên
hệ hữu cơ giữa các thiết chế tư pháp và thể chế pháp lý cho hoạt động của Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên. Nguyên lý về sự phát triển được sử dụng để nghiên
cứu, phân tích những thay đổi về kinh tế -xã hội, quá trình hội nhập quốc tế và
toàn cầu hóa dẫn đến những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong cách thức tổ
chức và hoạt động tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát. Một số quy luật của phép
biện chứng duy vật như quy luật lượng-chất, hay các cặp phạm trù như cái chung
và cái riêng, khả năng và hiện thực, được sử sử dụng để nghiên cứu, phân tích các
yếu tố tác động, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận án là:
- Phương pháp hệ thống được áp dụng trong chương 1 để phân loại và
nghiên cứu nội dung các tài liệu nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, hệ
thống hóa theo một cấu trúc logic khoa học qua đó giúp tác giả có được nhận thức
một cách biện chứng, tổng thể, khái quát nhất về hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay và một số nước
trên thế giới.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cả chương 2, chương 3 và
chương 4 của luận án. Phân tích khái niệm về Kiểm sát viên, pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; đặc điểm, nội dung điều chỉnh,
vai trò; các yêu cầu cải cách tư pháp, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; các điều kiện bảo đảm; phân
tích nguyên nhân của thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
5
hành quyền công tố; phân tích các quan điểm và giải pháp hoàn thiện của pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được áp dụng để nghiên cứu kinh nghiệm nước
ngoài, qua đó rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh để áp dụng đối với Việt Nam.
- Trong chương 3, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích tác giả
còn sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp các số liệu để
chứng minh cho các luận giải đã nêu trong phần đánh giá thực trạng pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Những đóng góp của
Luận án thể hiện cụ thể như sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của Việt Nam và các
nước trên thế giới, xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố; khái quát nội dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Xây dựng các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố pháp luật theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam.
- Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước
năm 2002 và thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố từ 2002 - 2015.
- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong những năm tới.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải
cách tư pháp. Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số kiến
nghị góp phần vào sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình sự,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luận án đóng góp thêm vào sự phát triển
lý luận về pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở
Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự. Luận án cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy
ở các cơ sở đào tạo luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành kiểm sát và
những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án bao
gồm 4 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Trong những năm qua, với việc thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của
Đảng, vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố đã được nghiên cứu nhiều hơn so với trước đây. Điều này được thể
hiện qua số lượng và nội dung của các công trình nghiên cứu dưới dạng các đề tài
nghiên cứu khoa học, các xuất bản phẩm, các luận văn, luận án, các bài viết đăng
trên tạp chí nghiên cứu pháp luật chuyên ngành. Để bảo đảm phục vụ việc nghiên
cứu của luận án tác giả phân chia thành các nhóm vấn đề cụ thể như sau:
1.1.1. Pháp luật về Kiểm sát viên
Pháp luật về Kiểm sát viên tiếp cận dưới giác độ lý luận lịch sử Nhà nước
và pháp luật đòi hỏi phải có cách nhìn toàn diện, khái quát xuất phát từ nguồn gốc,
bản chất, mối quan hệ của quyền công tố trong phương thức tổ chức bộ máy nhà
nước, mà trực tiếp là trong Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ
1945 đến nay.
* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học
Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên khảo “Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” của Trần Hậu Thành [105]. Trong cuốn sách này, tác giả đã
khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong
tiến trình lịch sử nhân loại, đồng thời hệ thống một số quan điểm và thực tiễn tổ
chức theo hướng nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Cuối cùng tác giả đã
luận giải và đưa ra mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại, trong đó có
mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp như tòa án và viện kiểm sát
Cuối sách “Dân chủ và pháp luật dân chủ” của Ngô Huy Cương [25].
Trong cuốn sách này tác giả đã luận giải và xây dựng khái niệm về dân chủ, đồng
8
thời đưa ra sáu thành tố của dân chủ đó là: Nhà nước pháp quyền; Chủ nghĩa lập
hiến; Phân chia quyền lực; Xã hội công dân; Quyền con người, quyền công dân;
Tư pháp độc lập. Trên cơ sở thực tiễn pháp luật Việt Nam tác giả đã đưa ra các
tiêu chuẩn đánh giá tính dân chủ và hiện trạng dân chủ trong pháp luật Việt Nam
trên cơ sở tổ chức Nhà nước, bảo đảm quyền con người và hình thức dân chủ.
Luận giải và đưa ra một số giải pháp về dân chủ và pháp luật dân chủ trong các
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư pháp.
Cuốn sách “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS.
Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn
sách lần đầu tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, thể
chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các
loại hình thể chế tư pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế
giới. Từ đó, tác giả nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ
thống Tòa án, cơ quan công tố, vai trò của thẩm phán và công tố viên và những
vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Cuốn sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể [107], đã đề cập tương đối toàn diện,
đầy đủ các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các quan điểm
về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự; những quy định của pháp
luật về Kiểm sát viên và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra; đồng thời, khái quát về cơ quan công tố của một số nước trên thế
giới nhằm rút ra kinh nghiệm ứng dụng vào Việt Nam.
Nguyễn Hải Phong và cộng sự trong cuốn “Một số vấn đề về trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu
cải cách tư pháp” [82] đã phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động công tố của các cấp kiểm sát, kiến nghị
9
các giải pháp thiết thực, có tính khả thi khi thực hiện trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát.
Đề tài “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo
yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Ngọc Khánh [66], đề tài đã tập trung
nghiên cứu về mối quan hệ giữa công tố với điều tra của một số quốc gia và quan
điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về việc tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, đã xác định vị trí, thẩm
quyền của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp.
* Luận án, luận văn
Vấn đề thực hành quyền công tố cũng là tâm điểm thu hút sự chú ý nghiên
cứu của các luận án Tiến sĩ như “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết
Hoa, từ góc độ lý luận nhà nước và pháp luật [54] đã khái quát những vấn đề cơ
bản nhất về quyền công tố như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự; thực trạng tổ chức thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt
Nam. Đồng thời nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.
Luận án của Nguyễn Duy Giảng “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam” [44] đã nghiên cứu toàn diện việc thực hiện các quy
định pháp luật liên quan đến chủ thể tiến hành tố tụng, những kết quả, hạn chế,
vướng mắc bộ lộ trong thực tiễn, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của
BLTTHS hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới. Trên
cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận tổng kết thực tiễn và làm rõ những yêu cầu
của cải cách tư pháp, tác giả đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong hệ
thống quy định pháp luật về viện kiểm sát và Kiểm sát viên, góp phần khắc phục
những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến chức năng thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên. Theo tác giả, việc thực hiện các nhiệm vụ và
10
quyền hạn của Kiểm sát viên trong điều tra vụ án hình sự còn nhiều tồn tại, trong
đó có nguyên nhân là quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ và quyền hạn
của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra còn một số bất cập về thẩm quyền khởi
tố bị can, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền quyết định việc chuyển vụ án, về mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; về vai trò, trách nhiệm của
Kiểm sát viên tại phiên tòa… Từ đó, tác giả kiến nghị hoàn thiện nhiều quy định
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 2003, trong
đó có các quy định về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
1.1.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực
hành quyền công tố
* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học
- Về quyền công tố trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Đăng Dung và
các cộng sự trong nghiên cứu “Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền” [32] đã
đề cập đến một số vấn đề như: phân tích vị trí và vai trò của Viện kiểm sát trong
mô hình hiện nay và xu thế của Viện kiểm sát trong thời gian tới; làm rõ những
yêu cầu có tính nguyên tắc của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền gắn với
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát - Viện kiểm sát thực hành quyền công tố là
quyền hành pháp mà không phải là quyền tư pháp như quan niệm hiện nay; chủ
thể của công tố chỉ do Viện kiểm sát thực hiện và vì vậy Viện kiểm sát phải thống
nhất chỉ đạo điều tra toàn bộ vụ án; có chỉ đạo điều tra mới buộc tội được, có buộc
tội được mới góp phần bảo vệ công lý xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Ngoài ra, các
tác giả còn giới thiệu một vài mô hình công tố trên thế giới điển hình và đặt ra
việc chuyển đổi vai trò, chức năng, tên gọi của Viện kiểm sát thành Viện công tố
là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhưng cần tính đến lộ trình và bước đi phù hợp.
Đồng thời, cuốn sách cũng đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều nội dung thực hiện
chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dưới một giác độ tiếp cận mới, tiếp
cận dựa trên quyền và nghĩa vụ như: Quyền công tố và phạm vi của công tố; Giới
hạn của việc xét xử theo cáo trạng; nội dung và bản chất của tranh tụng giữa bên
11
buộc tội và gỡ tội; có hay không cần thiết Viện kiểm sát phải thực hiện kiểm sát
hoạt động tư pháp các lĩnh vực phi hình sự…
Cuốn sách “Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của
Viện kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động” của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao [146] đã tập trung tổng hợp, khái quát những vấn đề cơ bản trong
công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân từ 1960
đến 2015 trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Từ đó đưa ra 9 bài học kinh
nghiệm lớn làm cơ sở để nghành kiểm sát tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý
luận, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” của Phạm Mạnh Hùng [62], đã nghiên cứu thực trạng
và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự.
- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Lê Hữu Thể [109] đã luận chứng, làm rõ
những vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình tố tụng hình sự; các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Trên cơ
sở đánh giá đúng đắn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, đề tài
nêu những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát, trong đó tính độc lập của Kiểm sát viên là một trong những vấn đề còn
vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế pháp lý phù hợp.
Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình tố tụng hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của CQĐT,
Viện kiểm sát. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên
trong hoạt động điều tra, truy tố.* Luận án, Luận văn
12
- Nguyễn Thị Thủy “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng
tố tụng tranh tụng” [113] nêu mô hình tố tụng mới kết hợp giữa xét hỏi và tranh
tụng trong điều kiện Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp. Từ đổi mới mô
hình tố tụng dẫn đến đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của
Kiểm sát viên trong mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất của ngành
kiểm sát với tính độc lập của từng Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố;
giữa mối quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng giữa Viện trưởng Viện kiểm sát
với Kiểm sát viên trong điều tra, kiểm sát điều tra và truy tố bị can ra trước tòa,
duy trì công tố tại phiên tòa hình sự.
- Bùi Mạnh Cường “Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình
sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” [26] đã tập trung tìm hiểu một số vấn đề chung về công tố và hoạt động
điều tra, phân tích thực trạng về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra
tại Việt Nam (số liệu 5 năm: từ năm 2006 đến năm 2010), mối quan hệ giữa công
tố với hoạt động điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành; những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công tố với
hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những
kết quả đạt được; một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và
nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Tác giả cũng đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra.
- Vũ Đức Ninh “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố”
[80] đã khái quát về quyền công tố và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở
nước ta theo BLTTHS, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố cũng như hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong cùng thời điểm
này, xem xét thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố bằng cách nhìn vào những phân tích số liệu
về các quyết định mà cơ quan này ban hành trên một địa bàn cụ thể sau đó đưa ra
13
những nhận xét về thẩm quyền của Viện kiểm sát từ đó đề xuất một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về vai trò cũng như vị trí của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố và một số kiến nghị khác nhằm phát huy cũng như kiện toàn vị trí cơ quan
Viện kiểm sát trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
* Các bài đăng trên tạp chí
Trong bài viết “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát
nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay” của Đào Trí Úc [118] đã nêu
khái quát các quan điểm, ý kiến đóng góp khác nhau trong dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 về tính chất, vị trí, chức năng của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, đặc biệt là
nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát nhân dân. Nguyên tắc này
chỉ phù hợp với việc thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật vì tính
thống nhất theo nghành dọc là bảo đảm cho sự giám sát, kiểm tra mang tính quyền
lực Nhà nước đối với các chủ thể áp dụng, thi hành pháp luật và đối với công dân.
Từ giác độ tiếp cận mang tính toàn diện, hệ thống, trên cơ sở nội dung pháp lý của
hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân, từ yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả đã luận chứng và đề xuất ghi
nhận trên bình diện Hiến pháp hai nguyên tắc quan trọng cho tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta như sau:
Một là, nguyên tắc tập trung thống nhất về tổ chức của Viện kiểm sát nhân
dân; Hai là, nguyên tắc khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân độc lập, tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, nghiêm cấm mọi sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân [118]. Phạm Mạnh Hùng với bài “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta” [63], đã giới thiệu một
cách khái quát hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy
nhà nước ta, đồng thời nêu và phân tích cụ thể từng quy định về cơ chế kiểm soát
14
quyền lực Nhà nước trong từng phân nhánh hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
nói riêng và trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung. Từ đó, tác giả đưa
ra nhận xét và kiến nghị cần tiếp tục xem xét hoàn thiện về Quyền tư pháp và cơ
quan thực hiện quyền tư pháp; khôi phục lại chức năng kiểm sát chung của Viện
kiểm sát nhân dân vì đây là yêu cầu xuất phát từ lý luận và thực tiễn thực hiện cơ
chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước hiện nay.
Vũ Mộc trong bài viết ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,
tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ
chế gắn công tố với hoạt động điều tra” [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong
BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện
kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố
tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời
hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính: Pháp luật về hình sự và
tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự
của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về
thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra
theo pháp luật tố tụng hình sự. Cuối bài viết tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt
động điều tra.
1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài khoa học
- Sách chuyên khảo “Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ
quan Nhà nước” của Nguyễn Đăng Dung [31]. Trong cuốn sách này tác giả đã
nghiên cứu và làm rõ vai trò, vị trí, bản chất “vượt trội” của Hiến pháp, cũng như
tính đặc thù của Hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia. Từ
đó đi đến nhận định về tính nhân bản của Hiến pháp. Và cũng trên cơ sở tiếp cận
15
này, xuất phát từ lịch sử lập hiến Việt Nam, tác giả đã phân tính và khái quát về
các bản tính của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và đưa ra từng kiến
nghị cụ thể cho từng cơ quan nhà nước.
- Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trần Ngọc Đường [41]. Trong cuốn
sách này, tác giả từ cách tiếp cận quyền con người, quyền công dân là giá trị cao
quý, là mục đích phấn đấu cao nhất, đồng thời là đường lối nhất quán của Đảng và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả đã tổng hợp, phân tích rồi
đưa ra các quan điểm về quyền con người, quyền công dân; quyền và nghĩa vụ cá
nhân công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xuất phát
từ lịch sử lập hiến (1945 đến 2001), tác giả đã chứng minh quá trình sửa đổi, ban
hành Hiến pháp ở Việt Nam luôn là quá trình tiếp nối và hoàn thiện cơ chế bảo
đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Và từ cơ sở trên, tác giả đã nêu những bảo đảm pháp
lý trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân, cùng các phương hướng
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới.
- Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư
pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Uông Chu Lưu [73], xác
định bản chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm,
đưa người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là
một chức năng không tách rời của hành pháp. Viện Công tố, do vậy, phải là một
cơ quan thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và
trước nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước toà. Các tác giả trong
nhóm nghiên cứu cũng cho rằng phạm vi công tố chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực
hình sự nghĩa là trong việc đại diện cho quyền lực công truy tố tội phạm và buộc
tội người có hành vi phạm tội trước toà. Về nguyên lý, Viện công tố phải đồng
thời là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành
16
các hoạt động điều tra theo yêu cầu của Viện công tố; mọi kết luận điều tra đều
phải có phê chuẩn của Viện công tố mới có giá trị pháp lý. Tại phiên toà, Công tố
viên thực hiện chức năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn
toàn về những chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế
này bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp,
nâng cao chất lượng truy tố và tranh tụng của Công tố viên tại phiên toà. Từ đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố trong các vụ án hình sự theo hướng tăng cường năng lực và trách
nhiệm độc lập của Kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố theo tinh
thần cải cách tư pháp.
- Đề tài “Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự phục vụ Chiến
lược cải cách tư pháp” của Lê Văn Cảm [16] nghiên cứu về tổ chức, cơ cấu của
hệ thống tư pháp hình sự và vai trò của hệ thống đó trong cải cách tư pháp ở Việt
Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị.
Các tác giả đã làm rõ hơn vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều kiện Việt Nam; đề
xuất mô hình mới về Viện kiểm sát và những thay đổi về pháp luật khi quy định
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm hiệu quả
của hệ thống tư pháp hình sự.
* Luận án, luận văn
Trong số các Luận án tiến sĩ có thể kể đến như của Nguyễn Tiến Sơn “Mối
quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam”
[102]. Trong đó xác định mối quan hệ giữa CQĐT và Viện kiểm sát, giữa Kiểm
sát viên với Điều tra viên trong tố tụng hình sự, xuất phát từ vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của hai cơ quan và hai chủ thể này trong hệ thống tư pháp hình sự. Mối
quan hệ này về cơ bản, chỉ có thể là mối quan hệ tố tụng hình sự. Từ đó thấy rõ
hơn sự chế ước và phối hợp, thực tế là kiểm sát tư pháp đối với CQĐT thông qua
Kiểm sát viên. Luận án đưa ra một kiến nghị hoàn thiện các quy định về pháp luật
điều chỉnh mối quan hệ này nhằm tăng cường trách nhiệm của công tố trong giai
đoạn điều tra.
17
Nguyễn Công Cường “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự” [29] nêu những đặc điểm mang tính phổ biến của hoạt động công
tố, phân tích rõ nội hàm khái niệm thực hành quyền công tố như đối tượng, phạm
vi, nội dung và đặc điểm và vận dụng được để trong lý giải về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra.
* Các bài đăng trên tạp chí
Bài viết “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" thể hiện xuyên
suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa đổi, của Trần Ngọc
Đường [42]. Trong bài viết này tác giả khái quát và tổng hợp năm điểm mới
trong Hiến pháp 2013 thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vấn đề “Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Qua đây tác giả cũng khẳng định đây là
sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ
quyền nhân dân, khẳng định ở "Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ".
Nguyễn Hòa Bình có bài "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành
kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới" [6]. Trong bài
viết này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước ta; chỉ ra hai chức năng cơ bản là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; khái quát hóa một số kết quả đổi mới
nổi bật của cơ quan này trong tiến trình cải cách tư pháp thời gian qua. Đồng thời,
tác giả cũng chỉ ra nhu cần đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải tiếp tục đổi mới
toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực công tác, nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn
hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để đáp
ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Từ đó, bài viết đã chỉ ra sáu nhiệm vụ
trọng tâm đặt ra đối với ngành kiểm sát nhân dân để thực hiện các mục tiêu cải
cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng trong thời gian tới như: đẩy mạnh thực
18
hiện, hoàn thành đúng tiến độ các nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra;
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động; hoàn thiện thể chế; tập trung
đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ; tiếp tục tập trung nghiên cứu, xây
dựng, thực hiện các đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện làm việc; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Cũng nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhưng
tiếp cận ở góc độ hẹp hơn theo hướng chỉ đề cập đến mô hình tổng thể hoặc một
vài thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân nhất định. Có thể kể đến một số công
trình của các tác giả như: Lại Hợp Việt có các bài viết "Bàn về mô hình Viện kiểm
sát và chế định Kiểm sát viên trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa
đổi)" [148].
Trong bài “Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Hồng Vinh [151] đã tổng hợp các chủ
trương của Đảng và Nhà nước về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra”. Từ cơ sở đó, tác giả đã trích dẫn và phân tích các quy định về
quyền công tố, cơ chế vận hành cụ thể của quyền công tố trong giải quyết các vụ
án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân hiện hành, đưa ra những đánh giá cụ thể và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật trong Tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát với các nội dung: cần có
quy định cụ thể các trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ra Quyết định
khởi tố và chuyển giao cho cơ quan Điều tra thụ lý điều tra vụ án; bổ sung quy
định mới về chế định “miễn tố” độc lập, theo đó, khi thực hành quyền công tố
Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
các bị can trong một số trường hợp nhất định; bổ sung thêm các chế định nhằm
tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên để Kiểm sát viên chủ
động thực hiện và chịu trách nhiệm về các hành vi tố tụng, nhất là quyền tham gia
trực tiếp vào một số biện pháp điều tra khi thấy cần thiết. Đây cũng là một trong
những nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo rất lớn cho đề tài nghiên cứu của luận án.
19
Bài viết “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách
nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố
với hoạt động điều tra” của Vũ Mộc [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong
BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện
kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố
tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời
hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính (Pháp luật về hình sự và
tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự
của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về
thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra
theo pháp luật tố tụng hình sự và cuối cùng tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt
động điều tra..
Bài viết “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát
và một số kiến nghị hoàn thiện” của Nguyễn Duy Giảng [43] đã đề cập nhiều
vướng mắc trong thực tiễn khi Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra và giai đoạn xét xử. Nguyên nhân
là do quy định pháp luật tố tụng hình sự chưa được giải thích chính thức, các văn
bản dưới luật mang tính hướng dẫn thì hiệu lực thấp so với luật. Vì vậy, việc
hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, xét xử là
rất cần thiết.
Thời gian gần đây đề tài về chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên cũng được
nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng nhìn chung các tác giả thường chỉ tập trung vào
một lĩnh vực hoặc trong phạm vi một địa phương nhỏ như các tác giả: Vũ Công
Thuận nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố ở ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu cải
20
cách tư pháp” [112]; Đào Thịnh Cường nghiên cứu về “Năng lực áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội” [28]; Lê Xuân Lộc “Năng lực thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh phú thọ trong xét xử các
vụ án hình sự” [70]; Phạm Thị Phương “Năng lực thực hành quyền công tố trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, tỉnh Ninh Bình” [85],… Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu vừa nêu đều
không đi sâu tìm hiểu về hệ thống các quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên, đặc biệt là trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Khi nghiên cứu về “Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát Nhân dân
đối với các vụ án hình sự” của Nguyễn Trọng Nghĩa [78] đã khái quát những vấn
đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong đó có Kiểm sát viên trong Viện
kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự; đánh giá thực trạng người tiến hành
tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự và đưa ra một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng, đặc
biệt là của Kiểm sát viên trong VKSND đối với các vụ án hình sự.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp lý về thẩm quyền hành
chính và trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm
sát viên, các tác giả Lưu Trọng Nguyên, Trần Mai Lâm khi nghiên cứu về “Phân
định thẩm quyền hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng cho
Kiểm sát viên” [79] đã đi sâu vào phân tích, đánh giá những điểm hợp lý cũng như
những hạn chế, bất cập trong đang tồn tại trong hoạt động của hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát; thực trạng pháp lý của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành
quyền công tố được giao quyền rất hạn chế và phải chịu sự quản lý cả về hành
chính, cả về hoạt động nghiệp vụ trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng là chưa đáp
ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Các tác giả đã đưa ra đề xuất, kiến
nghị cần phải xây dựng quy định cụ thể trong BLTTHS về nhiệm vụ và quyền hạn
21
của người đứng đầu Viện kiểm sát và Kiểm sát viên theo hướng: Viện trưởng có
trách nhiệm tổ chức, điều hành chung công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật; chỉ tiến hành tố tụng trong một số vụ, việc nghiêm
trọng, phức tạp. Phó Viện trưởng là một chức danh tố tụng độc lập, tiến hành tố
tụng đối với hầu hết các vụ án, phải được giao tất cả các quyền hạn tố tụng thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát trong lĩnh vực được phân công phụ trách; tăng
quyền hạn cho Kiểm sát viên theo từng cấp bậc, đối với Kiểm sát viên sơ cấp có
thẩm quyền như luật hiện hành. Kiểm sát viên trung cấp được phân công thụ lý
chính đối với vụ án có quyền gia hạn tạm giữ, trưng cầu giám định, cấp giấy
chứng nhận người bào chữa, trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Kiểm sát viên cao cấp
được phân công thụ lý chính đối với vụ án thuộc thẩm quyền cấp trung ương,
ngoài những quyền hạn của Kiểm sát viên trung cấp còn có quyền phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, gia hạn điều tra vụ án. Kiểm sát viên giữ chức Vụ
trưởng, Phó Vụ trưởng có quyền hạn tố tụng như Viện trưởng, Phó Viện trưởng
cấp tỉnh đối với những vụ án do cấp trung ương thụ lý. Viện kiểm sát cấp huyện,
cấp tỉnh có Kiểm sát viên trung cấp và sơ cấp. Viện kiểm sát cấp tỉnh và cấp cao
(tương ứng với Tòa án Thượng thẩm) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cả ba
chức danh Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp.
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết như: "Bàn về ngạch Kiểm sát viên và
điều kiện tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các cấp trong Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân" của Lại Hợp Việt [149]; “Nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự” của Hoàng Hải Yến
[152]; “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố
tụng đối với người chưa thành niên” của Trần Quỳnh Hoa [55]...
Như vậy, qua việc khái quát hệ thống các công trình nghiên cứu trong
nước, có thể thấy trong thời gian gần đây đã có một khối lượng lớn các công trình
khoa học nghiên cứu về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước,
vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong cải cách tư pháp; về
quyền công tố, thực hành quyền công tố, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với các
22
cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên với người tiến hành tố tụng khác trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự; về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố, vấn đề xây dựng đội ngũ Kiểm sát
viên trong chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên từ thực trạng trên cho phép
chúng ta đánh giá hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào tập trung đề cập trực
tiếp đến vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Pháp luật về Kiểm sát viên
Thiết chế Viện kiểm sát hiện tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa như Trung
quốc, Cu Ba, Việt Nam, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Cộng hoà dân chủ nhân
dân Triều tiên. Trong cải cách tư pháp ở Trung quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào, việc nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đã được quan
tâm rất nhiều với các quan điểm khác nhau về cải cách Viện kiểm sát. Ở Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, vấn đề thực hành quyền công tố và cơ sở chính trị - pháp lý
tổ chức thực hiện quyền công tố được quan tâm trong các công trình nghiên cứu.
Trong Sách trắng “Xây dựng chính trị dân chủ của Trung Quốc” [122] đã nêu rõ
vai trò của cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát dựa vào luật pháp trừng trị
kẻ phạm tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Cuốn “Cải cách
thể chế chính trị ở Trung Quốc” do Đỗ Tiến Sâm chủ biên đã đề cập đến một nền
tư pháp XHCN công minh, độc lập, trong đó viện kiểm sát có vai trò quan trọng
nhân danh nhà nước truy tố tội phạm [101]. Tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN diễn ra tại Việt Nam (tháng 11-2014), Vương Hồng Tường (Trung Quốc)
trong tham luận “Đẩy nhanh xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng,
hiệu quả, uy tín” đã nêu các biện pháp chính trị và pháp lý bảo đảm cho Tòa án,
Viện kiểm sát thực hiện chức trách, quyền lực độc lập, công bằng theo pháp luật
với phương châm Đảng lãnh đạo lập pháp, thúc đẩy hành pháp và bảo đảm tư
pháp. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được xác định là
23
một thiết chế độc lập, quan trọng để thực hiện quyền công công tố nhà nước thông
qua hoạt động của Kiểm sát viên. Viện kiểm sát là phòng tuyến cuối cùng trong
việc bảo đảm công bằng, chính nghĩa. Cần cải cách và hoàn thiện quan hệ lãnh
đạo giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới, vừa kịp thời giám sát, sửa đổi những
sai sót của cấp dưới, vừa vừa phòng tránh tình trạng bao biện làm thay hoặc đùn
đẩy trách nhiệm. Phân định rõ quyền hạn trong nội bộ cơ quan kiểm sát. Phân biệt
quyền kháng nghị tố tụng và quyền điều tra tội phạm liên quan đến lạm dụng chức
vụ do các đơn vị nghiệp vụ khác nhau thực hiện [59, tr.174-177].
Ở các quốc gia khác, các nghiên cứu về pháp luật đối với địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên được thực hiện với mục đích thúc đẩy việc bảo đảm xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Năm 2012, Nhà xuất bản Wadsworth Publishing
đã cho tái bản lần thứ 6 cuốn “Judicial Process: Law, Courts, and Politics in
the United States” (Thủ tục tư pháp: Pháp luật, các Tòa án, và Chính trị ở Hoa
Kỳ) của David W. Neubauer, Stephen S. Meinhold [30]. Cuốn sách nghiên cứu
sâu về thủ tục tư pháp trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ như tổ chức hệ thống
Tòa án, công tố, thủ tục tố tụng và vai trò công tố viên. Công trình đề cập sự ra
đời của quyền tư pháp, vai trò độc lập của quyền tư pháp trong hệ thống quyền
lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền tư pháp với các nhánh quyền lập pháp
và hành pháp trong cơ chế phân chia quyền lực, quyền tư pháp với việc bảo vệ
quyền con người…Trong các công trình này đều có đề cấp đến vai trò của công
tố viên nhưng với tư cách là đại diện của cơ quan hành pháp đứng ra truy tố bị
cáo trước tòa án, viện công tố (viện kiểm sát). Viện công tố (kiểm sát) không
được coi là cơ quan tư pháp.
Còn đối với các nước XHCN ở châu Âu trước năm 1991, sau khi Liên xô
sụp đổ, Liên bang Nga và một số quốc gia thành viên SNG như Ucraina,
Belorus, Azecbaijan, Kưrgưxtan, Kazacxtan... và một vài nước Đông Âu khác
vẫn tiếp tục duy trì thiết chế Viện kiểm sát trong cơ chế phân chia quyền lực nhà
nước thành các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau, với những
thay đổi không nhiều về chức năng, nhiệm vụ. Do đó việc nghiên cứu về vai trò
24
của Kiểm sát viên trong quá trình chuyển đổi thể chế tư pháp ở các nước này vẫn
là đề tài thời sự. Đó là các công trình như Luận án TSKH. của V.V E-rơ-shôp
“Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, đề cập đến quyền tư pháp như là
một nhánh quyền lực độc lập trong cơ chế phân chia quyền lực của thể chế chính
trị Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô-viết. Nhánh quyền lực đó đặc trưng bởi
nguyên tắc Tòa án độc lập, xác định chính Tòa án mới là cơ quan bảo đảm tính
tối thượng của Hiến pháp và luật trong Nhà nước pháp quyền. Viện kiểm sát
thuộc hệ thống tư pháp nhưng không được coi là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, vì Hiến pháp quy định chỉ có tòa án mới là cơ quan thực hiện quyền lực tư
pháp. Từ đó, các quy định pháp luật về viện kiểm sát và kiểm sát viên đã có
những thay đổi so với thời kỳ xô-viết. Chức năng kiểm sát chung bị thu hẹp,
chức năng kiểm sát xét xử đã bị bãi bỏ. Cuốn sách của Giu-ba E.P. “Các xu
hướng đương đại phát triển nguyên tắc độc lập của Thẩm phán” [45] nêu rõ các
xu hướng khác nhau trong việc quy định hệ thống tố tụng tranh tụng, hệ thống tố
tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng kết hợp giữa xét hỏi và tranh tụng. Trong đó vai
trò của kiểm sát viên (công tố viên)ở mỗi quốc gia rất khác nhau. Có nơi thì vị trí
công tố rất được đề cao (công tố mạnh), có nơi thì công tố thể hiện vai trò bình
thường (công tố “mờ”). Đồng thời nêu các khó khăn, trở ngại trong thực hiện
quyền công tố, nhất là ở các nước kém phát triển và đang phát triển. William E
Buttler trong “Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp
Liên bang Nga” [21] cho rằng Viện kiểm sát Liên bang Nga chủ yếu tự kiểm
soát và chịu sự giám sát của hệ thống Viện kiểm sát theo yêu cầu, mệnh lệnh nội
bộ. Như vậy, vấn đề đặt ra trong cải cách tư pháp ở Nga là cần phải điều chỉnh
pháp luật theo hướng tản quyền đối với Viện kiểm sát để tránh việc tập trung
nhiều quyền cho cơ quan này.Cần phải bỏ chức năng kiểm sát tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát, chỉ giữ lại chức năng công tố và Viện kiểm sát cần phải
được sáp nhập vào hệ thống tòa án hoặc hệ thống hành pháp. Vì vậy cần có
những cải cách căn bản đối với Viện kiểm sát. Trong cơ chế phân chia quyền lực
hiện nay ở Liên bang Nga đã có sự kiềm chế, đối trọng và cân bằng quyền lực
25
nên việc tồn tại một thứ quyền kiểm sát độc lập là không cần thiết. Nguyên tắc
phân quyền không có chỗ cho kiểm sát độc lập của Viện kiểm sát. Công việc mà
Viện kiểm sát cần phải làm là truy tố và buộc tội. Viện kiểm sát cần trở thành cơ
quan chuyên về thực hiện quyền công tố; Kiểm sát viên là người của hành pháp
thực hành quyền công tố.
1.2.2. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Trong số các công trình nghiên cứu ở Liên bang Nga, cần kể đến bài viết
“Kiểm sát viên trong tư pháp hình sự” của D.A. Be-vê-shen-cô [156] đề cập đến
vai trò của Kiểm sát viên trong hệ thống tư pháp hình sự. Tác giả cho rằng một số
quy định của pháp luật Liên bang Nga chưa cụ thể hóa hết tinh thần và nội dung
của Hiến pháp khi ghi nhận về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát với tư cách là cơ
quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, do đó không thể
đứng ngoài hoạt động điều tra dự thẩm như hiện nay. Việc hoàn thiện địa vị pháp
lý của Kiểm sát viên trong cải cách hệ thống kiểm sát là cần thiết để bảo đảm việc
điều tra xử lý tội phạm hiệu quả hơn.
Tác giả Kha-zi-nô-va V.M trong công trình “Kiểm sát viên trong tố tụng
hình sự” [67] đã tập trung phân tích vai trò của Kiểm sát viên trong giai đoạn tố
tụng tiền xét xử và đề xuất cần trả lại cho Kiểm sát viên vai trò điều tra vụ án. Vì
hiện tại chỉ các dự thẩm viên của Viện kiểm sát và Bộ Nội vụ thực hiện các hoạt
động điều tra. Việc tạo độc lập cho các dự thẩm viên dường như không phát huy
được tác dụng của Kiểm sát viên trong kiểm sát điều tra. Do vậy, các Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố, cần được giao nhiệm vụ điều tra.
Như vậy, cần sửa đổi các quy định pháp luật về viện kiểm sát và kiểm sát viên cho
phù hợp [155].
Công trình nghiên cứu về công tố Nhật Bản do Nhóm tác giả thực hiện gồm
Luke Nottage [14] (Đại học tổng hợp Sydney); Kent Anderson (Đại học quốc gia
Úc); Makoto Ibusuki (Đại học tổng hợp; Giáo sư David Johnson Đại học tổng hợp
Hawai đã có những đánh giá tích cực đối với hệ thống công tố Nhật Bản. Theo đó,
Ở Nhật Bản, có hai nguyên tắc cơ bản mà Bộ Tư pháp Nhật Bản (MOJ) áp dụng
26
đối với công tố viên: Nguyên tắc công tố thống nhất và nguyên tắc công tố viên
độc lập. Các nguyên tắc này tạo nên những mục tiêu có tính chất cạnh tranh với
nhau. Tuy nhiên, hệ thống ở Nhật Bản có thể điều hòa, cân đối tương đối tốt, hệ
quả là tại Nhật Bản tồn tại một hệ thống công tố có thể dự đoán trước được, phù
hợp với chế độ pháp quyền. Tất cả các vụ án do Cảnh sát điều tra tội phạm phải
được chuyển tới Viện công tố, trừ vụ án ít nghiêm trọng. Công tố viên chỉ huy
cảnh sát điều tra bổ sung, hoặc tự tiến hành các hoạt động điều tra bổ sung, thu
thập thêm chứng cứ, thẩm vấn bị can hoặc người tham gia tố tụng khác. Trong
quan hệ với Cơ quan điều tra, Công tố viên vừa đóng vai trò là người chỉ đạo,
giám sát điều tra, vừa phối hợp với Điều tra viên. Công tố viên không những được
quyền chỉ huy, chỉ đạo Điều tra viên mà còn có thẩm quyền yêu cầu xử lý kỷ luật
Điều tra viên nếu Điều tra viên không tuân theo chỉ đạo của Công tố viên. Đối với
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khác (Thanh
tra viên Cục thuế nhà nước; cán bộ thuế của cơ quan hành chính tỉnh, thành phố;
nhân viên Hải quan; nhân viên Uỷ ban theo dõi giao dịch chứng khoán; Uỷ ban
giao dịch công chính…), Công tố viên phối hợp và có trách nhiệm chỉ đạo, trợ
giúp các cơ quan này tiến hành hoạt động điều tra, hoàn thiện hồ sơ chuyển Viện
công tố truy tố. Về nguyên tắc, Công tố viên Nhật Bản có thẩm quyền điều tra tất
cả các vụ án hình sự, nhưng trên thực tế, họ chỉ thực hiện các hoạt động điều tra
bổ sung sau khi cảnh sát chuyển hồ sơ vụ án đến Viện công tố đối với các vụ án
nghiêm trọng, vụ án liên quan đến tội phạm tham nhũng, tội phạm về kinh tế quy
mô lớn. Tuy nhiên, có sự trùng lặp giữa nhiệm vụ của cảnh sát với nghĩa vụ của
công tố, đặc biệt là liên quan đến điều tra cũng như việc “làm rõ và chứng minh sự
thật.” Hệ quả là, quan hệ giữa công tố với cảnh sát phức tạp hơn so với quan hệ
với các cơ quan tham gia tố tụng khác trong tư pháp hình sự. Các Công tố viên
điều hành tại Nhật Bản đã phải dành khá nhiều thời gian và công sức để xử lý mối
quan hệ nhạy cảm này.
Tác giả Byung-Sun Cho sau khi làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn
của Viện Công tố và Công tố viên đã đánh giá trong “Báo cáo nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Hàn Quốc” của mình là tại Hàn Quốc
27
[23], Công tố viên có vị trí rất quan trọng, có thể chỉ đạo hoạt động điều tra truy tố
trong mối quan hệ với cảnh sát tư pháp và các lực lượng khác. Mối quan hệ này
không chỉ là sự hợp tác mà còn là mối quan hệ mệnh lệnh, chấp hành. Mô hình tổ
chức của hệ thống công tố Hàn Quốc được xây dựng từ khái niệm Độc lập công tố
(Prosecutorial Independence) vốn tương đồng với khái niệm Độc lập tư pháp. Cải
cách tư pháp tại Hàn Quốc đã bắt đầu xem công tố viên như người chỉ huy việc
điều tra và như một bên đúng nghĩa trong phiên tòa chứ không phải là một bán
thẩm phán. Do đó, Công tố viên Hàn Quốc vẫn là một hệ thống duy nhất kết hợp
cả hệ thống thông luật và hệ thống luật dân sự. Do vậy, những thay đổi cần thiết
về pháp luật đối với ông tố viên như là một yêu cầu tự nhiên của nền tư pháp
mang tính chất kết hợp này.
1.2.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền
công tố
Vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công
tố ở Liên bang Nga luôn mang tính thời sự kể từ khi Chương trình cải cách tư
pháp được thực hiện từ 2007. Theo tài liệu nghiên cứu của bốn Giáo sư trong
nhóm cố vấn của Tổng thống Liên bang Nga về cải cách tư pháp “Luận cương về
cải cách tư pháp ở Liên bang Nga” [154] đã nêu rõ mục tiêu của cải cách tư pháp
ở Liên bang Nga là bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án. Muốn thế, hoạt động xét
xử và hoạt động công tố tuy đều tuân thủ mục đích của tố tụng hình sự nhưng vẫn
cần độc lập với nhau. Các chức năng công tố và xét xử không được lẫn lộn. Trong
Viện kiểm sát, hoạt động của Kiểm sát viên về tố tụng là độc lập, vì nếu hành
chính lẫn với tư pháp sẽ dễ dẫn đến vi phạm pháp luật. Do đó cần khắc phục sớm
những bất cập hiện nay của pháp luật về tố tụng hình sự về quyền hạn, trách
nhiệm của Kiểm sát viên.
“Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” của Vivienne Bath [20] nêu rõ: Sau khi chuyển
đổi nền kinh tế về cơ bản, Trung Quốc vẫn giữ mô hình Viện kiểm sát trước khi
chuyển đổi. Viện kiểm sát vẫn trực thuộc cơ quan đại diện, không nằm trong hệ
28
thống các cơ quan hành chính. Hệ thống Cơ quan điều tra ở Trung Quốc thuộc Bộ
Công an. Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự; được trao thẩm quyền điều tra nên có vị trí, vai trò,
quyền hạn rất lớn và có thực lực so với các cơ quan công tố trên thế giới hiện nay.
Viện kiểm sát Trung Quốc, ngoài việc chịu sự giám sát theo hệ thống ngành dọc
còn chịu sự giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp. Hệ thống Viện
kiểm sát ở Trung Quốc được tổ chức thành bốn cấp phù hợp với hệ thống tổ chức
Toà án.
Bài viết “Về mô hình tổ chức Viện kiểm sát trong bối cảnh cải cách tư pháp
ở Việt Nam” của Richard S. Shiner [100], chuyên gia của UNDP thực hiện giới
thiệu về chế độ công tố Hoa Kỳ và chế độ kiểm sát ở Liên bang Nga, trên cơ sở đó
khuyến nghị mô hình công tố cho Việt Nam. Trong công trình này, tác giả đã so
sánh hai loại thiết chế kiểm sát (ở Liên bang Nga) và công tố (ở Hoa Kỳ). Ở Hoa
Kỳ, với 31.000 công tố viên bang và ở các địa phương, hoạt động với thẩm quyền
độc lập, tiến hành truy tố các tội phạm xay ra trên địa bàn mà không chịu sức ép
và sự giám sát của Bộ Tư pháp và chính quyền cấp trên. Trong khi đó, ở Liên
bang Nga, Viện kiểm sát Liên bang là thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước.
Viện trưởng Viện kiểm sát Liên bang lại có quyền giám sát trực tiếp họat động
công tố của các Viện trưởng kiểm sát cấp vùng. Đây là những vấn đề cần nghiên
cứu khi vận dụng ở nước ta.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Qua việc nghiên cứu, khái quát các công trình tiêu biểu về các vấn đề liên
quan đến Viện kiểm sát/Viện công tố; Kiểm sát viên của các tác giả trong và ngoài
nước cho thấy, nhìn chung các công trình của các nhà khoa học ở những cấp độ và
khía cạnh khác nhau đều đã phân tích những vấn đề lý luận Pháp luật về Kiểm sát
viên; Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; các yêu
cầu, đặc điểm của dân chủ, các cơ chế thực hành quyền công tố; đề cập đến việc
thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải
29
cách nói riêng để thấy được sự cần thiết phải đảm bảo quyền thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Một số công trình đã nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống ý nghĩa,
vai trò, tầm quan trọng của Pháp luật về Kiểm sát viên ở Việt Nam hiện nay; tìm
ra những yếu tố tác động, những giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hành
quyền công tố; nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng thiết chế thực hành quyền
công tố theo yêu cầu cải cách trên phạm vi cả nước. Các công trình này đã góp
phần làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam; đánh giá những mặt làm được, những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam; đưa ra được các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, bảo đảm
nâng cao chất lượng của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố đã đề cập đến một số khía cạnh khác
nhau như: tập trung phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, hình thức, vai trò quan
trọng của pháp luật về Kiểm sát viên và việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố; những thành công, hạn chế và
những vấn đề đặt ra trong hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố, mỗi tác giả có những cách tiếp cận cùng với mục đích
nghiên cứu riêng. Tuy nhiên, riêng đối với việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, cụ thể có hệ thống dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà
nước và pháp luật.
Để đạt được mục tiêu của luận án, quá trình nghiên cứu đã kế thừa có chọn
lọc kết quả của những công trình khoa học nêu trên và tiếp tục làm rõ một số vấn
đề cụ thể:
30
* Về lý luận, luận án tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ
- Khái niệm pháp luật về quyền công tố, thực hành quyền công tố và xác
định đây là các khái niệm công cụ để nghiên cứu khái niệm pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Một khái niệm cho đến nay chưa có
nghiên cứu nào đưa ra quan điểm nhất quán và gắn với các tư duy lý luận pháp lý
mới, tư tưởng quan điểm mới của Hiến pháp 2013. Trên cơ sở này, những nội
dung cần điều chỉnh, bổ sung trong pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố mà các công trình khoa học nêu trên chưa đề cập đến cũng
được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
- Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố là vấn đề cơ bản để từ đó phân tích, làm rõ các nội dung lý luận của khái
niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.
- Cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố, bao gồm: đặc điểm, nội dung vai trò, đối tượng và phương
pháp điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên; yêu cầu cải cách tư pháp và các
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố; điều kiện bảo đảm hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam; Pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố của
một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo ở Việt Nam.
* Về thực tiễn, luận án tập trung làm rõ
- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện pháp luật tổ chức và hoạt động của mô hình Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể: làm rõ pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố qua các giai đoạn từ 1945 đến năm 1959,
từ 1960 đến trước 2002 và từ 2002 đến nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
31
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
của thực trạng nói trên. Rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu
cải cách tư pháp.
Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố, Luận án xây dựng luận cứ, đề xuất các
quan điểm và giải pháp bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiểu kết chương 1 Kết quả nghiên cứu chương 1 cho thấy, đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án. Những
công trình này liên quan đến các nhóm vấn đề cơ bản sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về Kiểm sát viên.
Đa số các nghiên cứu này tập trung đi vào phân tích và làm rõ nội dung khái niệm
quyền công tố, thực hành quyền công tố, chức năng, nhiệm vụ, vai trò, của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, đặc biệt nhấn mạnh vai trò, chức năng,
nhiệm vụ thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra. Bên
cạnh đấy, các công trình nghiên cứu cũng đi sâu vào phân tích, làm rõ chức năng
vấn đề thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thông qua việc đánh
giá hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về Kiểm sát viên trên cơ sở mối quan hệ pháp
lý của Viện kiểm sát với các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, dù rất đa dạng và bao trùm nhiều khía cạnh nhưng
các công trình khoa học nêu trên vẫn thiếu vắng các nghiên cứu sâu về bản chất,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tổ chức và hoạt động
thực hiện quyền công tố gắn với bối cảnh yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là gắn với các tư duy lý
luận pháp lý mới, tư tưởng mới của Hiến pháp 2013.
32
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố. Các công trình ở nhóm này đề cập đến
một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố. Thông qua việc luận chứng, làm rõ những vấn đề lý luận
chung về thủ tục, mô hình tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng liên
quan đến Kiểm sát viên, kết hợp đánh giá một số hạn chế, vướng mắc, bất cập
trong pháp luật tố tụng hình sự khi Kiểm sát viên thực hành quyền công tố từ đó
đưa ra một số kiến nghị mang tính khái quát theo hướng tăng thẩm quyền và trách
nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, truy tố, gắn với bảo vệ quyền
con người, quyền công dân theo tinh thần mới của Hiến pháp 2013
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Ở nhóm này, các công
trình tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố một cách gián tiếp thông qua phân tích, đánh giá
làm rõ chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tổ chức, hoạt động của bộ máy
Nhà nước, trong tổ chức, cơ cấu của hệ thống tư pháp hình sự. Trên cơ sở xác định
cải cách tư pháp là yêu cầu khách quan, tất yếu của quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do, Nhân dân, vì Nhân dân
và để bảo đảm hiệu quả của mối quan hệ chế ước, phối hợp trong hệ thống tư pháp
hình sự thì cần có mô hình mới về Viện kiểm sát và những thay đổi pháp luật về
quy định địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong thực hành quyền công tố.
Nhóm các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Các công trình ở nhóm
này đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với mô hình tố tụng và thực tiễn tổ
chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước của từng quốc gia cụ thể. Bên cạnh những
đặc điểm mang tính đặc thù quốc gia, thì đặc điểm chung nhất của pháp luật về
Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố của các nước đó là để Kiểm sát
33
viên/Công tố viên thực hành quyền công tố một cách hiệu quả thì cần phải có cơ
chế pháp lý bảo đảm tính độc lập, chủ động của Kiểm sát viên/Công tố viên trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Đây là hạt nhân có giá trị tốt cho việc nghiên
cứu tìm ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Các công trình khoa học được đề cập trong chương 1 của luận án, ở mức độ
khác nhau đều liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án. Song cho đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện, hệ thống dưới
góc độ Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật vấn đề hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp. Vì vậy, việc tổng hợp, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước đối với pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố sẽ góp phần khái quát lại những kết quả đã đạt được của các công trình đã
công bố đồng thời chỉ ra mảng vấn đề chưa được quan tâm thỏa đáng khi đề cập
đến pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam. Những nhận
xét, đánh giá sau khi nghiên cứu tổng quan (chương 1) sẽ giúp cho nghiên cứu
sinh có cái nhìn tổng quát về các giá trị có thể kết thừa và phát triển, cũng như vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
34
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
2.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
Để nghiên cứu và xây dựng được khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố trước hết cần phải làm rõ các khái niệm
công cụ: Quyền công tố; Thực hành công tố; Kiểm sát viên. Nội dung các khái
niệm công cụ này cũng sẽ là cơ sở lý luận để nghiên cứu đặc điểm, vai trò pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.
2.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà
nước, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực tư pháp. Mặc dù, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được
thực hiện ở nước ta từ năm 1945 đến nay, nhưng trong thực tiễn khoa học pháp lý
giữa các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà lập pháp và các cán bộ đang trực tiếp
hoạt động trong lĩnh vực tư pháp vẫn chưa đạt được nhận thức thống nhất. Trong
lĩnh vực lập pháp, thuật ngữ quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều
138 Hiến pháp năm 1980 trong cụm từ “Thực hành quyền công tố”. Tuy nhiên
cho đến nay, trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn vẫn có nhiều quan điểm
khác nhau về quyền công tố, thực hành quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất đồng nhất quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND nên cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố [136, tr.85-87].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó
tại phiên tòa sơ thẩm” [83]. Theo quan điểm này thì chủ thể duy nhất thực hành
quyền công tố là Viện kiểm sát và quyền này chỉ được thực hiện trong lĩnh vực tố
tụng hình sự và phạm vi của nó cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất là giai đoạn
xét xử sơ thẩm.
35
Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền của cơ quan hành pháp
truy tố bị cáo ra trước tòa án [13]. Công tố chỉ thực hiện chức năng đại diện cho
Nhà nước để bảo vệ lợi ích công khi nhà nước là một bên trong vụ án bởi vì, bản
chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm, đưa
người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là một
chức năng không tách rời của hành pháp - cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực
thi pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, chịu trách nhiệm trước nhân
dân về tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm. Viện Công tố phải là một cơ quan
thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và trước
nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước Toà.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội” [128, tr.10]. Do vậy, chủ thể
thực hành quyền công tố không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các cơ quan tiến
hành tố tụng khác như: Cơ quan điều tra, Cơ quan xét xử, Cơ quan thi hành án và
phạm vi quyền công tố có ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử
đến thi hành án.
Quan điểm thứ năm cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền
này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm
được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách
nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và
người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [107, tr.40]. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực tố tụng khác như: dân sự,
hành chính, kinh tế, lao động.
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về quyền công tố.
Mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý nhưng cũng đều bộc lộ những hạn
chế nhất định nhìn từ các khía cạnh: cơ sở lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn
36
hoạt động và còn không phù hợp với nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực trong
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Hiến pháp 2013. Theo
quan điểm của Đảng ta hiện nay thì Nhà nước của dân, do dân, vì dân được nhận
thức thống nhất là Nhà nước của dân là nhà nước mà trong tổ chức và hoạt động
của mình phải khẳng định vai trò chủ thể, chủ sở hữu quyền lực nhà nước thuộc về
dân. Nhà nước do dân nói lên vai trò của dân, phương thức tổ chức, xây dựng Nhà
nước và hành động của dân, rõ nhất là sự ủy quyền và chế độ ủy quyền của nhân
dân vào Nhà nước. Nhà nước vì dân là mục đích, mục tiêu phục vụ dân của Nhà
nước đó. Nhìn từ lịch sử ta thấy ở Nga nhà nước Xô Viết được thành lập sau Cách
mạng Tháng Mười với chính thể Cộng hòa Xô Viết, chính phủ là hội đồng dân ủy,
các Bộ trưởng là ủy viên Hội đồng dân ủy. Và trước đó ta cũng thấy, trong Công
xã Pari thể nghiệm hình thức chính trị đầu tiên thực hiện quyền của nhân dân là sự
hình thành chính quyền Công xã. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra
khái niệm:
Quyền công tố là quyền của Nhân dân uỷ quyền cho Viện kiểm sát/Viện
công tố để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, đồng thời duy trì việc buộc tội đó trước phiên tòa nhằm bảo đảm quyền con
người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
Theo định nghĩa nêu trên thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội được quy định
bởi Luật Hình sự. Để bảo vệ lợi ích chung và duy trì trật tự xã hội, Nhân dân
thông qua nhà nước giao quyền cho các cơ quan nhân danh công quyền để buộc
tội và áp dụng chế tài hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyền
công tố chỉ phát sinh khi có tội phạm xảy ra và chỉ áp dụng đối với người thực
hiện hành vi phạm tội. Phạm vi quyền công tố cũng có giới hạn ở lĩnh vực tố tụng
hình sự, và phát động từ khi phát hiện tội phạm đến hết giai đoạn xét xử (sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm), không mở rộng sang lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao
động hay hành chính.
37
Khái niệm thực hành quyền công tố được nghiên cứu trên cơ sở khái niệm
quyền công tố. Do có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố nên cũng có
nhiều quan điểm khác nhau về thực hành quyền công tố. Khái quát chung thì hiện
nay, trong khoa học pháp lý và trong hoạt động thực tiễn tư pháp, có hai quan
điểm chủ yếu về thực hành quyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: "Thực
hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [39]. Quan điểm
thứ hai cho rằng: “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét
xử” [107, tr.57]. Mới đây nhất, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 đã có một quy phạm mang tính định nghĩa
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự [98].
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, dưới góc độ lý luận lịch sử nhà
nước và pháp luật, khái niệm “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử
dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội
đó nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”.
Theo quy định của Hiến pháp, theo cơ chế tổ chức và hoạt động của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chủ thể thực hành quyền công tố chỉ có thể là
Viện kiểm sát nhân dân. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu ngay từ khi cơ
quan tiến hành tố tụng nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
(vì đây là thời điểm xuất hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội) và
kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật tức là quyền truy cứu trách nhiệm hình
38
sự đã đạt được (trừ trường hợp vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật). Nội
dung thực hành quyền công tố là việc cơ quan tiến hành tố tụng - Viện kiểm sát sử
dụng tổng hợp tất cả các quyền năng pháp lý mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định
thông qua các hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên) để phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng quy định pháp luật mọi hành vi tội phạm
và người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Đối với mô hình tố tụng hình sự xét hỏi (mô hình tố tụng thẩm vấn) kết hợp
với tranh tụng như Việt Nam, hoạt động thực hành quyền công tố bao gồm: 1)
Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp
luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố
vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
2) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế
quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự; 3) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi
tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Từ các quy định pháp luật nêu trên cho thấy nhiệm vụ thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân khác với nhiệm vụ của cơ quan thanh tra, cơ
quan điều tra, Toà án nhân dân ở chỗ thông qua thực hành quyền công tố Viện
kiểm sát nhân dân vừa nhiệm vụ và trách nhiệm phát hiện tội phạm và truy tố
người phạm tội ra xét xử trước Toà án, vừa thực hiện quyền giám sát của Nhân
dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, của con người trước sự xâm hại của hành vi tội phạm và sự
lạm quyền, lộng quyền của cá nhân, tổ chức công quyền trong quá trình giải quyết
39
nguồn tin tội phạm, giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự được phát sinh ngay từ khi
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, đến khi bản án có hiệu lực. Phạm vi
này, chỉ có trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Đây cũng là một đặc điểm mang tính đặc thù, tạo sự khác biệt với các hoạt động
điều tra, xét xử, thi hành án.
2.1.2. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
Kiểm sát viên là một chủ thể pháp lý hiến định, là một trong những người
tiến hành tố tụng được quy định trong BLTTHS. Theo từ điển Luật học, Kiểm sát
viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [12]. Theo điều 74, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp [98].
Trên phương diện thực tiễn, Kiểm sát viên là chủ thể pháp lý trực tiếp được
uỷ quyền để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ Kiểm
sát viên là nhân tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc khẳng định vị trí, vai trò,
chức năng của nghành kiểm sát, cũng như trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước, khắc phục tình trạng lạm quyền, xâm phạm các quyền dân
chủ của công dân, của con người. Bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của
cá nhân và các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết nguồn tin tội
phạm hoặc vụ án hình sự. Mặt khác, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ
Kiểm sát viên còn một trong những là cơ sở quan trọng để Nhân dân và Nhà nước
đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bảo vệ tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật nói riêng và trong bảo
đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nói chung. Từ cơ sở nêu trên,
nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm:
40
Kiểm sát viên là một chủ thể pháp lý hiến định trong Viện kiểm sát nhân
dân, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ tính nghiêm minh,
thống nhất của pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Tiếp cận định nghĩa pháp luật dưới góc độ lý luận Nhà nước và Pháp luật
thì “pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh
các quan hệ xã hội” [34, tr.66]. Từ cách tiếp cận này, pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố được xem là hệ thống các quy tắc xử sự
do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong quá trình Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố. Khi quyền công tố được phát động, thì chủ thể pháp lý Kiểm
sát viên sẽ được phép sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước
Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó. Từ đó có thể khái niệm như sau:
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là hệ
thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội
nhằm bảo vệ tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
Các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố được ghi nhận ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, từ những
quy định của Hiến pháp đến Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; từ Bộ luật tố
tụng hình sự đến các luật liên quan như Luật tổ chức điều tra hình sự đến các pháp
lệnh về Kiểm sát viên VKSND và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Như vậy,
về mặt kỹ thuật lập pháp, không có một văn bản quy phạm pháp luật duy nhất ghi
nhận các quy định về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Tuy
41
nhiên, do tính thống nhất nội tại của hệ thống pháp luật, của các chế định pháp
luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp, các quy định nói trên đã tạo ra
một cơ sở pháp lý đồng bộ và thống nhất cho hoạt động thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên trong các vụ án hình sự. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này sẽ giúp
cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên nói chung, hoạt động thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên nói riêng có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về
tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
2.2. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT
VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
2.2.1. Đặc điểm của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố có
những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình thực hành quyền công tố. Đây có thể coi là đặc trưng cơ bản nhất
để nhận biết, phân biệt pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố với các lĩnh vực pháp luật khác, bao gồm các nhóm quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự sau:
- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên (người được uỷ quyền) với Nhân dân
(người uỷ quyền - chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước).
- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với các cơ quan tiến hành tố tụng như
Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Toà án nhân dân...
- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với người tiến hành tố tụng như: Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Giám thị trại giam...
- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng
hình sự thuộc đối tượng của thực hành quyền công tố (nhóm “yếu thế” trong tố
42
tụng hình sự) như người bị tạm giữ, người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội, bị
can, bị cáo.
- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác
như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự, người giám định, người phiên dịch.
Thứ hai, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố thể hiện trách nhiệm, thái độ của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt
động thực hành quyền công tố.
Phòng ngừa tội phạm, tiến đến loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội là
một trong những biểu hiện của bản chất nhân đạo chế độ xã hội mới, một nhiệm
vụ không thể thiếu trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phòng ngừa tội
phạm không chỉ là nhiệm vụ, quan điểm, thái độ ứng xử của Nhà nước đối với tội
phạm và người phạm tội, mà đây còn sự thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Một trong những yếu tố đảm bảo tính hiệu quả trong đấu tranh phòng
chống tội phạm là Nhà nước cần phải có hệ thống các quy định pháp lý hợp hiến,
đầy đủ, minh bạch, thống nhất bên cạnh một hệ thống cơ quan tư pháp mạnh bảo
đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tất cả các hành vi tội phạm và người
phạm tội. Không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, hệ thống
pháp lý này phải bảo đảm được tính hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực từ
bên trong, lẫn bên ngoài. Hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền từ phía các chủ thể
được Nhân dân uỷ quyền, giao quyền.
Trong Nhà nước pháp quyền XNCN Việt Nam, Hiến pháp và các đạo luật
giữ vai trò tối thượng, mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức, các cơ quan Nhà
nước... đều phải tuân theo các quy định của pháp luật và mục đích cuối cùng của
Nhà nước là tôn trọng và bảo đảm cao nhất quyền con người, quyền công dân,
43
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ,
tăng cường kỷ cương. Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan thực
hiện hoạt động tư pháp trực tiếp thực nhiệm vụ nêu trên. Điều tra, truy tố người
phạm tội ra trước Toà án, bảo vệ sự buộc tội đó tại Tòa là một quá trình bao gồm
nhiều hoạt động phức hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, trong đó có Kiểm sát viên. Nhận thức và đánh giá đúng vai trò, chức năng
của Kiểm sát viên trong phòng chống tội phạm nói chung, trong giải quyết vụ án
hình sự nói riêng Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng quy
định cụ thể, chặt chẽ về địa vị pháp lý và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Những
văn bản pháp luật đó đã trở thành phương tiện quan trọng, một bảo đảm pháp lý
mạnh mẽ để Kiểm sát viên thực hiện hiệu quả việc “buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội”, phát hiện mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Và đây
cũng là cơ sở pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực và giám sát hoạt động thực
hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
Thứ ba, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
có mối quan hệ mật thiết với các quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật
Việt Nam và các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Xem xét
dưới góc độ pháp luật thực định, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố là nhóm các quy định pháp luật bao gồm hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Kiểm sát viên. Vì vậy, nó có mối quan hệ chặt chẽ với các quy định của
ngành luật khác, trước hết là các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp như Luật Hiến pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Cơ
quan điều tra hình sự. Ngoài ra pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố còn có sự liên hệ và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các
nghành luật như Luật Tố tụng hình sự, Luật hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm
44
giam; Luật giám định tư pháp, Luật luật sư... Sự tương tác thể hiện ở chỗ các quy
phạm của các ngành luật nêu trên có vai trò hỗ trợ, chế ước trong quá trình thực
hiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự nói
chung, thực hành quyền công tố nói riêng.
2.2.2. Nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
* Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành
quyền công tố điều chỉnh một số nhóm quan hệ xã hội
Trong khoa học pháp lý, địa vị pháp lý của một chủ thể quan hệ pháp luật
(cơ quan, tổ chức, cá nhân...) được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ thể đó. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, quá trình hoạt
động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND không thể triển khai
tác nghiệp tập thể mà phải thông qua chủ thể Kiểm sát viên được phân công thực
hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn tố tụng, từng công việc cụ thể thuộc trách
nhiệm của Viện kiểm sát. Vì vậy, khi nói về nội dung điều chỉnh của pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần đề cập đến các nhóm
quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh nội dung thực hành quyền công tố và liên
quan đến chủ thể Kiểm sát viên.
Nhóm thứ nhất gồm các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung quyền
năng pháp lý mà Kiểm sát viên được trực tiếp nhân danh Kiểm sát viên khi thực
hành quyền công tố.
Xuất phát từ vị trí, chức năng Hiến định của Viện kiểm sát là “thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Kiểm sát viên cũng là một chức
danh tư pháp Hiến định. Kế thừa và phát triển các quy định của các Hiến pháp
1946, 1960, 1980, 1992, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên là một
chức danh tư pháp “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân” [97]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định chức năng,
45
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực hiện các hoạt động tố tụng khác khi giải
quyết vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu xác minh và
yêu cầu điều tra viên được phân công giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện;
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trong hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm
mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục. Ngoài ra còn có một số
hoạt động tiến hành tố tụng khác theo luật định như tham gia khám nghiệm tử thi;
khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm phương tiện; lấy lời khai đối tượng,
người làm chứng… theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn truy tố Kiểm sát
viên yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong
trường hợp cần thiết; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra,
bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Toà án yêu cầu điều
tra bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT. Trong giai đoạn xét
xử Kiểm sát viên tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát
liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội;
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia
tố tụng tại phiên toà.
Nhóm thứ hai là các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung quyền năng
pháp lý của Kiểm sát viên nhân danh Viện kiểm sát VKSND trong thực hành
quyền công tố khi thực hiện nhiệm vụ cụ thể do Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền phân công trong từng vụ việc, vụ
án cụ thể. Như đã trình bày ở phần trên, quyền công tố được phát động ngay từ khi
tội phạm xảy ra, vì vậy khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố Viện kiểm sát có nhiệm vụ xác minh tính xác thực của nguồn tin về tội
phạm này trước khi chuyển, hoặc yêu cầu CQĐT có thẩm quyền thụ lý, giải quyết.
Thực hiện việc xác minh theo phân công của Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ
46
quan, tổ chức, hoặc cá nhân cung cấp tài liệu, lấy lời khai đối tượng nhưng phải
trên cơ sở nhân danh Viện kiểm sát; Ngoài ra, theo quy định tại điều 37, BLTTHS
2003 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố thì Kiểm sát viên còn “thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng
Viện kiểm sát”.
Nhóm thứ ba, là các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung kiểm tra,
giám sát của Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước (chủ
thể uỷ quyền) đối với Kiểm sát viên (chủ thể pháp lý được uỷ quyền) trong quá
trình giải quyết nguồn tin tội phạm, hoặc vụ án hình sự.
2.2.3. Vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
- Pháp luật về Kiểm sát viên là sự bảo đảm pháp lý, công cụ không thể
thiếu trong quá trình Kiểm sát viên thực hành quyền công tố.
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân,
Kiểm sát viên là nhân tố cơ bản. Hoạt động nghề nghiệp của Kiểm sát viên mang
tính đặc thù cao. Nghề nghiệp đó có ảnh hưởng lớn tới tính công minh của pháp
luật, tới uy tín nền công lý của một quốc gia. Vì vậy, để thực hành quyền công tố
thì trước hết địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm Kiểm
sát viên cần phải được Nhà nước luật hoá và bảo đảm thực hiện.
Xuất phát từ đặc điểm nghề nghiệp mang tính đặc thù đó nên mọi hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên phải được tiến hành trên cơ sở
quy định của pháp luật, từ khi Kiểm sát viên được phân công giải quyết tố giác,
47
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và kết thúc khi bản án có hiệu lực. Nói một cách khác, pháp luật về
Kiểm sát viên là sự bảo đảm pháp lý, công cụ không thể thiếu trong quá trình
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố.
- Pháp luật về Kiểm sát viên là cơ sở xác định phạm vi, nội dung thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên trong quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về
tội phạm hoặc vụ án hình sự.
Để giải quyết một vụ án hình sự từ khi tiếp nhận nguồn tin tội phạm đến
khi bản án có hiệu lực, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố
phải tiến hành hàng loạt các hoạt động tố tụng phức tạp liên quan đến cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Hoạt động thực
hành quyền công tố của Kiểm sát viên được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước
truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án và đại diện cho công lý buộc tội kẻ phạm tội
trước phiên tòa. Đây là một chức năng tố tụng nhằm chống lại một người cụ thể
và thực chất đó là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi phạm. Vì vậy, nó sẽ tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Để bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
tránh xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội thì pháp luật về Kiểm sát
viên phải là cơ sở để xác định phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là cơ
sở pháp lý để Nhân dân kiểm soát quyền lực và thực hiện việc kiểm tra, giám sát
đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn giữ một vai trò rất quan trọng. Một
mặt, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, mặt
khác pháp luật cũng là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm
chủ của mình.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, từ
khi cơ quan chức năng tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi bản án có hiệu lực
48
thông qua chủ thể trực tiếp và cơ bản là Kiểm sát viên. Xét về bản chất của quyền
công tố nói riêng, quyền lực nhà nước nói chung là quyền lực của nhân dân.
Quyền lực của nhân dân là cơ sở nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ
với nhân dân, không có quyền mà chỉ là thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân. Vì
vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng phải
là cơ sở pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực và thực hiện việc kiểm tra, giám
sát đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Việc kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát
viên trên cơ sở các quy định pháp luật. Một mặt, để bảo đảm cho nhân dân - chủ
thể tối cao của quyền lực nhà nước giao quyền nhưng không mất quyền. Mặt khác,
hạn chế tối thiểu các trường hợp lạm quyền, lộng quyền của Kiểm sát viên và để
hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên nói riêng, của Viện kiểm sát
nói chung đạt được hiệu quả cao nhất trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, trật tự xã hội.
2.3. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ
HOÀN THIỆN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ
2.3.1. Yêu cầu cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố
Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến nay, chế định quyền công tố đã được thiết
lập, củng cố và thay đổi sau những lần cải cách của hệ thống tư pháp. Nhưng nội
hàm của khái niệm quyền công tố không thay đổi. Quyền công tố chính là quyền
của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát/Viện công tố để phát hiện tội phạm và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; đồng thời duy trì việc buộc tội đó
trước phiên tòa.
Tuy nhiên, ở mỗi một giai đoạn lịch sử của đất nước, tuỳ thuộc vào các
điều kiện kinh tế - xã hội, thực tiễn pháp luật sẽ những yêu cầu cụ thể đòi hỏi pháp
luật về quyền công tố nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm thực hiện một
49
cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát. Từ cách tiếp cận này,
trước khi đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm
của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nghiên
cứu sinh khái quát các yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra đối với pháp luật về
Kiểm sát viên.
Chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp
được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), khi công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước bắt đầu. Nghị quyết đại hội xác định nhiệm vụ “thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”. Đến Đại hội toàn
quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta chỉ rõ cần tăng cường hiệu lực của các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan
toà án, kiểm sát, tư pháp có đủ quyền lực và khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật. Chủ trương nêu trên tiếp tục được xác định tại Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 khoá VII (1995) và Trung ương 3 khoá VIII (1997) nhằm tăng
cường chất lượng, hiệu quả của công tác tư pháp. Trước yêu cầu cấp bách về kiện
toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, ngày 02-01-2002 Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 08/NQTW “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới”, đề ra các giải pháp cấp bách, những nhiệm vụ cần thực
hiện ngay nhằm thúc đẩy thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp đã
được Đảng ta đề ra trong các kỳ Đại hội [7]. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết
08-NQ/TW đã thu được những kết quả bước đầu có ý nghĩa quan trọng, tạo
chuyển biến quan trọng trong nhận thức, trong chỉ đạo, lãnh đạo và thực hiện các
nhiệm vụ cải cách tư pháp. Bên cạnh những kết quả đã thu được, cũng phải thấy
rằng cải cách tư pháp tiến hành còn chậm hơn so với yêu cầu và đòi hỏi của Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Thực tiễn đất nước đặt ra yêu cầu phải tiến hành cải cách
tư pháp mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn. Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 (dưới đây gọi tắt là Chiến lược cải cách tư pháp). Chiến lược cải cách tư
pháp đề ra mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ và lộ trình thực hiện cụ
50
thể. Trong đó nhấn mạnh địa vị pháp lý của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Chiến
lược phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư
pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho
Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm
vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và
quyết định tố tụng của mình. Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 28-7-
2010 về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần:
Đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và
các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân [3].
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là bộ
phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động
VKSND, từ vị trí, vai trò đến chức năng, nhiệm vụ. Vì vậy để bảo đảm được các
mục tiêu đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp đối với hệ thống cơ quan VKSND,
thì việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và các
văn kiện khác của Đảng, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền tư pháp độc lập,
trong sạch, vững mạnh, gần dân, thuận lợi cho dân, hoạt động có hiệu quả, bảo vệ
trật tự, kỷ cương, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Hai là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
phải gắn liền với hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong kiểm sát hoạt động
tư pháp. Bởi đây là hai chức năng của Viện kiểm sát đều được thực hiện bởi một
chủ thể là Kiểm sát viên.
51
Giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy có tính
độc lập nhưng trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử giữa hai chức năng này luôn có mối quan hệ tác
động qua lại mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện quyền công
tố của Kiểm sát viên.
Ba là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
phải xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý của Kiểm sát viên bảo
đảm để Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp, tăng cường trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra,
nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử.
Hoạt động công tố của Kiểm sát viên phải được thực hiện ngay từ khi có tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm
vụ. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Bốn là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố phải phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn
tư pháp giữa Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên để Kiểm sát
viên chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm
trước về hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Năm là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố phải bảo đảm tăng cường được cơ chế kiểm soát quyền lực và kiểm tra, giám
sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
2.3.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố được hiểu là việc rà soát, loại bỏ những quy định, những văn bản không
còn phù hợp, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật,
52
nhằm tạo ra hệ thống các quy định pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, phù hợp với hệ thống pháp
luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Để có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần phải có những tiêu chí nhất định.
Nội dung của các tiêu chí này về mặt lý thuyết phải khái quát được những yếu tố
làm nên giá trị của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
trong thực hành quyền công tố, về mặt thực tiễn phải tổng hợp được những điều
kiện, yêu cầu đặt ra với công tác xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố bảo đảm cao nhất tính hiệu quả, hiệu lực và vai trò
của hệ thống các quy định pháp luật này trong việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, trật tự xã hội.
Thứ nhất, tiêu chí về nội dung
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về cải cách
tư pháp. Đó là Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Đảng (được ban hành theo Nghị
quyết số 48-NQ/TW, ngày 25-6-2005 của Bộ Chính trị)
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,
thể hiện ở những tiêu chí: bảo đảm cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước; sự giám sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên; hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền của Kiểm sát viên
trong quá trình tiến hành tố tụng; tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
phù hợp với các điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thứ hai, tiêu chí về hình thức
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
bảo đảm được tính toàn diện, đồng bộ và thống nhất.
53
Tính toàn diện, của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố thể hiện ở việc các quy định pháp luật thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên phải bao quát được toàn bộ hoạt động của Kiểm sát viên, địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự;
Tính đồng bộ, thể hiện ở việc pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố phải được xây dựng và hiện diện trên tất cả các cấp độ
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến địa vị pháp
lý, đến chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên, cũng như cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong quá trình
thực hành quyền công tố. Bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt được nhiệm
vụ bảo vệ được công lý, quyền con người, quyền công dân được triệt để tôn trọng
và bảo vệ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Tính thống nhất, đòi hỏi hệ thống các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố phải được xác định đúng, đủ về thẩm
quyền, địa vị pháp lý nguyên tắc, cũng như các trình tự, thủ tục tố tụng mà Kiểm
sát viên được phép sử dụng khi thực hành quyền công tố mà không được trùng
lắp, hoặc mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định pháp lý của các chủ thể pháp lý
có liên quan từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm đến bản án có hiệu lực. Mặt khác, các quy định pháp lý này được áp dụng
chung trên phạm vi cả nước và không có ngoại lệ nào cho từng địa phương.
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
bảo đảm được khả thi, công khai, minh bạch:
Đạt được giới hạn này thì pháp luật đó mới có khả năng đi vào cuộc sống
và được sử dụng như một trong những công cụ không thể thiếu trong quá trình
thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
Tính khả thi của pháp luật trong lĩnh vực này đó là sự phù hợp giữa các quy
định của pháp luật với trình độ phát triển của nền kinh tế trong những giai đoạn
54
phát triển nhất định, phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ cơ bản giữa pháp luật với yêu cầu đảm bảo an ninh chính
trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.trong lĩnh vực này còn phải được đảm bảo ở mức
độ hiện thực trong điều chỉnh của các quan hệ xã hội có liên quan đến chủ thể
Kiểm sát viên. Nếu có các quy phạm pháp luật quy định về thực hành quyền công
tố của Kiểm sát viên nhưng không bao giờ được sử dụng hoặc sử dụng không hiệu
quả thì pháp luật đó không đảm bảo tính hiện thực.
Tính công khai là việc làm cho ai cũng có thể biết được, tiếp cận được.
Tính công khai của văn bản pháp luật có thể hiểu đó là việc mọi người được biết
về văn bản pháp luật đó. Đảm bảo cho mọi người được tiếp cận các quy định tại
văn bản quy phạm pháp luật đó. Như vậy khi các văn bản pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố bảo đảm được yêu cầu công khai tức
là văn bản này phải đáp ứng được yêu cầu mà chức năng quản lý xã hội đặt ra. Mà
cụ thể ở đây là pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
không chỉ dừng lại ở việc “công khai” với các chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể
tham gia tố tụng mà còn phải “công khai”để nhân dân có thể giám sát..
Tính minh bạch là một đòi hỏi rất quan trọng đối với hệ thống pháp luật nói
chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói
riêng. Một số quan điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc
pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng là chưa toàn diện và đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở
sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ thống pháp luật
cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu thuẫn
nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở thành nền tảng cho nhà
nước pháp quyền.
- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải
bảo đảm được tiêu chí về tính ổn định và tính dự báo
Pháp luật phải đảm bảo độ ổn định và có tính dự báo là một trong những
yêu cầu nhằm đảm bảo hiệu quả của pháp luật trong quá trình thực hiện. Đối với
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, tính ổn định
55
thể hiện ở chỗ pháp luật chỉ buộc phải thay đổi trong những trường hợp thật cần
thiết để không xáo trộn tổ chức bộ máy và thủ tục tố tụng hình sự cũng như địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên. Tính dự báo của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật
không chỉ phản ánh nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện tại mà còn phải có
khả năng đáp ứng với những quan hệ xã hội trong tương lai gắn liền với các dự
báo về sự phát triển kinh tế - xã hội, xu hướng diễn biến của tình hình tội phạm,
xu hướng phát triển của VKSND nói chung, lực lượng Kiểm sát viên nói riêng.
Dựa trên các cơ sở đó pháp luật mới có tính ổn định tương đối, hạn chế tới mức
thấp nhất việc pháp luật mới ban hành đã rơi vào tình trạng lạc hậu cần phải sửa
đổi bổ sung, hoặc quá xa rời cuộc sống trở thành "luật treo". Để đảm bảo tính dự
báo của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố thì
phải giải quyết được vấn đề VKSND và Kiểm sát viên VKSND sẽ phát triển,
được tổ chức và hoạt động như thế nào trong thời gian tới? Yêu cầu cơ bản của cải
cách tư pháp đối với lực lượng Kiểm sát viên VKSND là xác định rõ nhiệm vụ
của VKSND nói chung, Kiểm sát viên nói riêng trong mối quan hệ với các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Pháp luật
phải dự tính được xu hướng phát triển của các cơ quan này, các chủ thể này mới
đảm bảo sự ổn định.
Thứ ba, tiêu chí về tổ chức và thực hiện
Để đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố thì bên cạnh các tiêu chí nêu trên, cần phải có tiêu chí
đánh giá về tổ chức và thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố. Tiêu chí này, bao gồm các nội dung cơ bản đó là: Tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố; Đào
tạo đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên; Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên nói chung và pháp luật về
Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố nói riêng.
Trước hết về nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về Kiểm sát viên
trong thực hành quyền công tố ta thấy, để pháp luật đi vào đời sống thì không chỉ
56
cần có một hệ thống các quy phạm pháp luật mang tính pháp điểm cao, mà ngoài
ra điều quan trọng hơn là phải làm cho các chủ thể thực hiện pháp pháp luật, áp
dụng pháp luật phải nắm được một cách đầy đủ quy trình xây dựng và hiểu được
nội dung của các văn bản pháp luật nói chung, văn bản pháp luật về Kiểm sát viên
trong thực hành quyền công tố nói riêng. Muốn vậy, thì công tác giáo dục, tuyên
truyền, giải thích pháp luật cần phải được chú trọng, đặc biệt là đối với nhân dân,
chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Vì vậy, tính hiệu quả trong công tác giáo
dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật cũng được xem là một trong những tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền
công tố.
Quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông hoạt động
thực hiện và áp dụng pháp luật của chủ thể Kiểm sát viên trong quá trình tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc vụ án hình sự. Vì vậy, kết quả thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân phụ thuộc rất nhiều và trình độ,
năng lực, phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố của mình, Viện kiểm sát nhân dân cũng cần
phải luật hoá các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, về tác phong, đạo đức, lối
sống của chủ thể pháp lý hiến định - Kiểm sát viên. Đây cũng là một trong các tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền
công tố.
Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố còn được đánh
giá là hoàn thiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện
pháp luật và việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên nói chung
và pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố nói riêng.
2.3.3. Các điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, việc hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần có các điều kiện bảo
đảm sau đây:
57
Thứ nhất, có chính sách pháp luật phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và
đổi mới Viện kiểm sát. Trước hết là có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò, vị
trí của Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền XHCN, những điểm khác biệt
so với Viện kiểm sát trong thời kỳ nhà nước theo cơ chế tập trung. Thực tiễn cho
thấy nếu có nhận thức đầy đủ, về yêu cầu, định hướng nội dung xây dựng pháp
luật và tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động tư pháp thì
việc đề xuất kế hoạch ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về địa
vị pháp lý của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp sẽ tuân thủ Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật được
nêu tại Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị. Địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên được phái sinh trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân
dân. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố thì cần phải hiến định rõ vị trí Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức
bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, tuy Hiến
pháp 2013 kế thừa các bản Hiến pháp trước đây tiếp tục để Viện kiểm sát nhân
dân bên cạnh Toà án nhân dân trong chương VIII, nhưng vẫn chưa có sự minh
định Viện kiểm sát nhân dân thuộc nhánh tư pháp hay hành pháp.
Thứ hai, lựa chọn đúng một số vấn đề cần ưu tiên, chọn khâu thiết yếu nhất
trong số rất nhiều quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với tình
hình mới là vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Quá trình thể chế hóa chủ trương đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện qua Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các luật
liên quan khác thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW cho thấy đã lựa chọn theo thứ
tự ưu tiên một số vấn đề chủ yếu nhất để hoàn thiện pháp luật; bảo đảm tính đồng
bộ và thống nhất của quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố với các quy định khác về Viện kiểm sát nhân dân; bảo đảm sự
kiểm tra, giám sát của chủ thể Nhân dân.
58
Thứ ba, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố phải có sự tập trung cao độ các chuyên gia trong
lĩnh vực tổ chức và hoạt động tư pháp, có nghiên cứu cơ bản về lý thuyết và tổng
kết thực tiễn về hoạt động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố. Điều đó mang lại mang lại cho các quy định pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố tính khả thi, sự phù hợp với thực tiễn và
vì thế dễ dàng phát huy hiệu lực và tác động tích cực đối với việc giải quyết các
vụ án hình sự, tránh được việc oan, sai, đồng thời tránh được bỏ lọt tội phạm.
Thứ tư, về công tác cán bộ, Viện kiểm sát ở tất cả các cấp phải bảo đảm có
đủ biên chế và đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng các yêu cầu về năng lực, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thực hành quyền công tố theo các
quy định mới của pháp luật. Bên cạnh các tiêu chuẩn về độ tuổi, trình độ cử nhân
luật, thâm niên công tác, còn phải có trình độ, nghiệp vụ, kinh nghiệm trong điều
tra tội phạm. Cần xây dựng mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để phù
hợp với đối tượng được đào tạo là Kiểm sát viên.
2.4. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
Trên thế giới, tùy theo cách thức tổ chức quyền lực tư pháp của mỗi quốc
gia mà chế định các mô hình tố tụng tư pháp khác nhau. Trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, hiện nay có hai mô hình tố tụng hình sự chủ yếu, đó là mô hình tố tụng
xét hỏi (thẩm vấn) và mô hình tố tụng tranh tụng. Ngoài ra còn có mô hình phái
sinh là mô hình tố tụng kết hợp xét hỏi và tranh tụng. Mỗi mô hình có đặc điểm
riêng và chi phối cách thức tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát/viện công tố và
các Kiểm sát viên/Công tố viên. Luận án lựa chọn một số quốc gia để tìm hiểu về
các quy định pháp luật liên quan đến Kiểm sát viên/công tố viên trong thực hành
quyền công tố để rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam.
Trước hết là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đất nước có thể chế chính trị và hệ
thống pháp luật và tư pháp tương đồng với Việt Nam và điển hình của mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn (xét hỏi). Tiếp theo là Liên bang Nga - đất nước mà hệ
59
thống pháp luật Xô-viết trước đây có ảnh hưởng lớn đến pháp luật Việt Nam, cũng
là quốc gia có sự chuyển đổi pháp luật và tư pháp mạnh mẽ sau khi Liên xô tan rã.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Liên bang Đức là một trong những mô hình tố tụng xét
hỏi đặc trưng ở châu Âu. Còn Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là quốc gia có nền tư
pháp thuộc hệ thống tố tụng hình sự tranh tụng nên có thể tham khảo kinh nghiệm
của họ trong quá trình Việt Nam chuyển đổi sang mô hình tố tụng hình sự kết hợp
thẩm vấn với tranh tụng. Trong hệ thống tư pháp hình sự, chủ thể thực hành quyền
công tố tuỳ theo quy định của pháp luật cụ thể của từng quốc gia có thể gọi là
Kiểm sát viên hoặc Công tố viên nhưng đều có nhiệm vụ chung nhất đó là thực
hiện nhiệm vụ đại diện quyền lực Nhà nước để truy tố và buộc tội người phạm tội
tại Toà án.
2.4.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định "Viện
kiểm sát nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà nước…".
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát như sau:
1. Thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẽ đất nước
và các vụ án phạm tội to lớn, phá hoại nghiêm trọng việc thực hiện thống nhất
chính sách, pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà nước.
2. Tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự được trực tiếp thụ lý.
3. Kiểm sát việc điều tra vụ án hình sự do cơ quan công an tiến hành; quyết
định việc bắt giữ; truy tố hoặc miễn tố đối với các vụ án do cơ quan công tác điều
tra; thực hiện việc giám sát xem hoạt động điều tra của cơ quan công an có hợp
pháp hay không.
4. Khởi tố và hỗ trợ truy tố đối với các vụ án hình sự, thực hiện giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân xem có tuân thủ đúng pháp luật hay không.
5. Thực hiện giám sát đối với việc chấp hành phán quyết và quyết định của
các vụ án hình sự, hoạt động của trại giam, nơi tạm giam và cơ quan cải tạo lao
động có hợp pháp hay không.
60
Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc bảo vệ quyền tố cáo của công dân đối với các nhân viên nhà nước vi
phạm pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp luật đối với những người xâm phạm
quyền thân thể, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân [145].
Đối với Kiểm sát viên, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Trung Hoa chỉ
quy định chung về cơ cấu tổ chức, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ của Viện kiểm
sát nhân dân. Những vấn đề cụ thể khác liên quan đến chức trách, nhiệm vụ,
ngạch, bậc, việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, điều động
luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật chức danh Kiểm sát viên của Viện kiểm sát
nhân dân do Luật Kiểm sát viên năm 1995, được sửa đổi năm 2001 quy định. Về
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
quy định như sau:
Kiểm sát viên là cán bộ thực hiện quyền kiểm sát và công tố Nhà nước theo
quy định của pháp luật. Kiểm sát viên phải chấp hành trung thực Hiến pháp và
pháp luật, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Theo quy định của pháp luật, Kiểm
sát viên thực hiện các nhiệm vụ sau đây: Thực hiện công tác giám sát việc tuân
theo pháp luật; Thay mặt Nhà nước tiến hành công tố; Điều tra những vụ án do
Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý; Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Theo đó, khi thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong từng lĩnh vực tố tụng
hình sự, tố tụng dân sự cụ thể, Kiểm sát viên thực hiện các quyền hạn, nhiệm vụ
theo quy định các văn bản pháp luật chuyên ngành đó.
Luật quy định cụ thể các nghĩa vụ của Kiểm sát gồm: 1).Nghiêm túc tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; 2).Khi thực thi nhiệm vụ của mình phải lấy sự thật
làm căn cứ, lấy pháp luật làm chuẩn mực, thực thi pháp luật một cách công bằng,
không lợi dụng pháp luật vì tư lợi; 3).Bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác;
4).Trong sạch, liêm chính, trung thành với công việc, tuân thủ kỷ luật, nghiêm túc
giữ gìn đạo đức nghề nghiệp; 5). Bảo vệ bí mật quốc gia và bí mật công tác kiểm
sát; 6).Chịu sự giám sát của pháp luật và quần chúng nhân dân.
61
2.4.2. Liên bang Nga
Viện kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống tập trung thống nhất, trong
đó các Kiểm sát viên cấp dưới phục tùng và chịu sự chỉ đạo của các Kiểm sát viên
cấp trên và của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga [144]. Tổng kiểm sát trưởng
do Thượng viện (Hội đồng liên bang) bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của
Tổng thống Liên bang Nga [144].
Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga hiện hành quy định chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát với nhiều nội dung, trong đó có thực hành quyền
công tố đối với các vụ án hình sự theo thẩm quyền được pháp luật tố tụng hình sự
Liên bang Nga quy định. Trong trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát Liên bang
Nga kiểm sát việc chấp hành các cơ quan đang tiến hành các hoạt động trinh sát -
nghiệp vụ, các cơ quan điều tra và thẩm cứu, cụ thể là: kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc tôn trọng quyền tự do và các quyền khác của công dân và con
người, việc tuân thủ trình tự luật định trong việc giải quyết đơn khiếu nại và tố
giác về các tội phạm đã xảy ra, đang chuẩn bị diễn ra; việc hoàn thành các biện
pháp nghiệp vụ - trinh sát, truy tìm và việc tiến hành điều tra cũng như tính pháp
chế trong các quyết định của các cơ quan thực hiện hoạt động nghiệp vụ - trinh
sát, truy tìm và điều tra [144]; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác
trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm; giám sát hoạt động điều tra và điều tra
các vụ án hình sự (dự thẩm viên của Viện kiểm sát có thẩm quyền điều tra đối với
khoảng hơn 80 loại tội); truy cứu trách nhiệm hình sự theo đúng thẩm quyền; thực
hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa, có quyền rút một phần hoặc toàn bộ
nội dung buộc tội; kháng nghị đối với các bản án, quyết định và phán quyết vi
phạm pháp luật của Tòa án. Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của Ban giám đốc,
quản đốc các cơ quan, các trại thi hành hình phạt các biện pháp cưỡng chế khác do
Tòa án tuyên phạt, các nơi tạm giữ và tạm giam.
Thẩm quyền của Viện kiểm sát ở giai đoạn trước khi xét xử là tương đối
rộng, bao gồm các hoạt động chỉ đạo điều tra trong quá trình truy tố hình sự và các
hoạt động giám sát hoạt động điều tra. Còn trong giai đoạn xét xử, thẩm quyền của
62
Viện kiểm sát chỉ hạn chế ở việc thực hành quyền công tố tại tòa và kháng nghị.
Viện kiểm sát không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Trong hoạt động, Kiểm sát viên Liên bang Nga phải đảm bảo nguyên tắc
không cho phép can thiệp vào việc thực hiện công tác kiểm sát [144].
Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga không quy định nhiệm vụ,
quyền hạn Kiểm sát viên thành một phần riêng mà theo từng lĩnh vực công tác
kiểm sát cụ thể, đồng thời có sự phân biệt rõ nhiệm vụ quyền hạn quản lý hành
chính tư pháp và thẩm quyền tố tụng của Kiểm sát viên, bao gồm Kiểm sát viên
giữ chức vụ Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga; Kiểm sát viên giữ chức vụ cấp
trưởng, cấp phó Viện kiểm sát các chủ thể Liên bang Nga, Viện kiểm sát cấp tỉnh
và cấp quận, huyện.
Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga và các Kiểm sát viên dưới quyền tổ
chức điều phối các hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm; tham gia vào hoạt
động xây dựng pháp luật như gửi các kiến nghị của mình đến các cơ quan lập
pháp để yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc thông qua một số đạo luật, văn bản
pháp luật khác; xem xét và giải quyết các đơn khiếu nại, tố giác và một số đơn
khác trong cơ quan kiểm sát; tiến hành giám định chống tham nhũng đối với các
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước liên bang, cơ quan chính
quyền của các chủ thể thuộc Liên bang Nga, cơ quan quyền lực khác, cơ quan tự
quản địa phương và những người có chức vụ của các cơ quan này ban hành. Trong
trường hợp phát hiện các yếu tố tham nhũng trong văn bản quy phạm pháp luật,
Kiểm sát viên gửi đến cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đó yêu cầu sửa đổi văn bản cùng với kiến nghị biện pháp khắc
phục các yếu tố tham nhũng, hoặc gửi đơn yêu cầu đến Tòa án giải quyết theo thủ
tục do pháp luật tố tụng Liên bang Nga quy định [144].
Trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra,
nghiệp vụ trinh sát, truy tìm nghiệp vụ của cơ quan điều tra ban đầu, điều tra dự
thẩm thực hiện theo quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga
và các đạo luật liên bang khác. Các chỉ thị của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang
63
Nga về các vấn đề điều tra sơ bộ mà không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật, mang tính bắt buộc thi hành [144].
Trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ban giám đốc các cơ
quan, các trại thi hành hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác theo quyết định
của Tòa án và những nơi tạm giữ, tạm giam, Kiểm sát viên có quyền: Thăm các
loại trại vào bất kỳ thời gian nào; Hỏi cung những người bị tạm giữ, tạm giam,
phạm nhân và những người đang bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế; xem hồ sơ
và nghiên cứu các tài liệu nghiệp vụ khác; yêu cầu Ban giám đốc phải đảm bảo
các điều kiện và quyền hợp pháp của những người bị tạm giữ, tạm giam, phạm
nhân và những người đang bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế; kiểm tra tính phù
hợp với pháp luật Liên bang Nga của các mệnh lệnh, các quyết định của Ban giám
đốc các trại; yêu cầu giải thích khi cần thiết, kháng nghị hoặc kiến nghị; khởi tố vụ
án hành chính. Văn bản của Ban giám đốc đang bị kháng nghị sẽ bị tạm thời đình
chỉ thực hiện; hủy bỏ các quyết định trái luật, ra quyết định trả tự do ngay cho
người bị giam, giữ, bị kỷ luật trái pháp luật. Kiểm tra trưởng hay Phó Kiểm sát
trưởng có quyền ra quyết định trả tự do ngay lập tức.
Kiểm sát viên tham gia quá trình xét xử có nhiệm vụ thực hành quyền công
tố tại Tòa án với tư cách công tố viên nhà nước, có quyền kiến nghị, kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án, Kiểm sát viên có quyền tham dự vào bất cứ giai
đoạn nào của quá trình xét xử, nếu việc đó cần thiết để bảo vệ các quyền cho công
dân và các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước.
Các Kiểm sát viên, theo quy định của pháp luật tố tụng Liên bang Nga,
tham gia các phiên tòa xét xử của Tòa án, có quyền kháng nghị các bản án, các
quyết định và các phán quyết khác của Tòa án có vi phạm luật [144].
2.4.3. Cộng hòa Liên bang Đức
Cộng hòa Liên bang Đức không có đạo luật riêng về cơ quan công tố và
Công tố viên. Các quy định về Công tố viên và cơ quan công tố được quy định
thành một chương riêng trong Luật tổ chức Tòa án. Về tổ chức, hệ thống Viện
Công tố được thành lập tương ứng với Tòa án [143]. Viện Công tố có chức năng
64
thực hành quyền công tố, không có chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa
án [143]. Tại mỗi cấp tòa án, chức năng công tố do Viện trưởng Viện Công tố và
các Công tố viên của Viện Công tố tương ứng với Tòa án đó thực hiện. Công tố
viên thực hiện chức năng công tố trong phạm vi thẩm quyền của Viện Công tố nơi
mình công tác. Công tố viên tập sự có thể thực hiện chức năng công tố trước Tòa
án trong việc giải quyết một vụ án cụ thể nhưng dưới sự giám sát của Công tố viên
[143]. Viện Công tố độc lập với Tòa án trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm
vụ của mình [143].
Viện Công tố do Viện trưởng đứng đầu. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
Công tố tập trung vào Viện trưởng Viện Công tố. Các Công tố viên khác thực hiện
nhiệm vụ theo sự ủy quyền của Viện trưởng [143]. Công tố viên cấp dưới phải
tuân thủ quyết định của Viện trưởng Viện Công tố nơi mình công tác và các quyết
định, hướng dẫn của các Công tố viên cấp trên [143].
Như đã nói ở trên, ở Đức không có đạo luật riêng về cơ quan công tố và
Công tố viên mà chỉ có Luật tổ chức cơ quan tư pháp Đức quy định chung Tòa án,
Viện Công tố. Vì vậy, một số quy định đối với Thẩm phán cũng được áp dụng cho
Công tố viên. Những người có đủ điều kiện làm việc trong cơ quan tư pháp thì có
thể được bổ nhiệm làm Công tố viên. Năng lực đối với chức vụ tư pháp: bất kỳ
người nào hoàn thành nghiên cứu pháp lý tại một trường đại học, tham dự kỳ thi
cấp Bang lần đầu, sau đó được đào tạo và tham dự kỳ thi cấp Bang lần 2 sẽ có đủ
điều kiện để giữ chức vụ tư pháp; kỳ thi cấp Bang lần đầu bao gồm kỳ thi đại học
gồm các lĩnh vực chuyên môn và kỳ thi cấp Bang bao hàm các môn học bắt buộc.
Đào tạo đại học 4 năm; có thể ngắn hơn nếu tri thức cần thiết đối với kỳ thi đại
học được chứng minh. Tuy nhiên thời gian học đại học không được dưới 2 năm tại
một trường đại học.
Bên cạnh việc tích luỹ kiến thức nêu trên, để bảo đảm điều kiện bổ nhiệm
Công tố viên bắt buộc phải thực hành tại các cơ quan sau đây:
1. Tại Tòa án có thẩm quyền xét xử thông thường đối với các vấn đề dân sự.
2. Tại Viện Công tố hoặc tại Tòa án có thẩm quyền xét xử hình sự.
3. Tại cơ quan hành chính.
65
4. Cùng với luật sư; Và tại một hoặc nhiều cơ quan không bắt buộc nhưng
việc đào tạo phải phù hợp.
Các điều kiện để bổ nhiệm, nhiệm kỳ tư pháp:
1. Là công dân Đức theo quy định của Điều 116 Hiến pháp.
2. Chứng minh là họ sẽ luôn luôn gìn giữ nguyên tắc tự do dân chủ cơ bản
theo quy định của Hiến pháp.
3. Có đủ năng lực để giữ chức vụ tư pháp.
4. Có các kỹ năng xã hội cần thiết.
Chế độ bổ nhiệm Công tố viên suốt đời
Bất kỳ người nào đã làm việc với tư cách là một Công tố viên có thời hạn ít
nhất là 3 năm sau khi có đủ điều kiện giữ chức vụ tư pháp có thể được bổ nhiệm
làm Công tố viên suốt đời, khi đã thực hiện các việc:
1. Như là một công chức trong cơ quan nhà nước cấp cao.
2. Trong cơ quan nhà nước Đức hoặc trong tổ chức quốc tế, tổ chức đa
quốc gia, với điều kiện là loại công việc và tầm quan trọng của công việc đã làm
tương tự như các công việc liên quan trong việc thi hành công vụ trong cơ quan
nhà nước cấp cao;
3. Là giáo viên luật tại một viện nghiên cứu khoa học cấp đại học, đang là
giáo viên đủ khả năng giảng dạy tại một trường đại học.
4. Là luật sư tư vấn, công chứng viên hoặc là luật sư có đủ trình độ để giữ
chức vụ tư pháp (hội thẩm) hỗ trợ cho luật sư tư vấn hoặc công chức viên;
5. Trong các nghề nghiệp khác, với điều kiện là loại công việc đã làm
tương tự như các công việc liên quan trong việc thi hành công vụ trong cơ quan
nhà nước cấp cao.
2.4.4. Vương quốc Anh
Cơ quan công tố hoàng gia Anh (CPS) là một cơ quan của Chính phủ có
chức năng thực hiện việc truy tố tội phạm, hoặc đưa ra biện pháp xử lý không qua
xét xử đối với bị cáo tại Vương quốc Anh và xứ Wales [146]. Ngoài ra, cơ quan
công tố còn có chức năng bảo đảm quyền con người theo Luật nhân quyền năm
1998 và Công ước châu Âu về quyền con người [146].
66
Khi thực hiện chức năng trên, Công tố viên phải đảm bảo việc áp dụng
pháp luật đúng đắn, các chứng cứ thích hợp đều được trình trước tòa [146].
Cũng như Cơ quan công tố, Công tố viên ở Vương quốc Anh không có
chức năng giám sát tư pháp và không tham gia vào việc giải quyết các vụ án dân
sự. Chỉ khi nào Chính phủ bị kiện, cơ quan công tố có thể được yêu cầu đứng ra
bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, nhưng với tư cách là luật sư nhà nước (luật sư
công) chứ không phải với tư cách là cơ quan công tố.
Ở Anh, đứng đầu hệ thống cơ quan công tố là Tổng Chưởng lý - người chịu
trách nhiệm trước Nghị viện về toàn bộ hoạt động công tố; đứng đầu cơ quan công
tố Hoàng gia là Công tố viên trưởng [146]. Công tố viên phải tuân thủ mọi hướng
dẫn của Tổng Chưởng lý và các chính sách hoạt động công tố do Công tố trưởng
ban hành [146]. Các Công tố viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan
công tố theo sự ủy quyền của Công tố viên trưởng [146].
Công tố viên phải tuân thủ các nguyên tắc độc lập, truy tố công bằng và
hiệu quả. Điều đó nghĩa là công tố viên trưởng thực hiện chức năng của mình một
cách độc lập, có nhiệm vụ ban hành Luật về Công tố viên Hoàng gia [146]. Mặc
dù trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, Công tố viên có sự hợp tác chặt chẽ nhưng
hoàn toàn độc lập với cảnh sát và điều tra viên. Sự độc lập của Công tố viên mang
tính hiến định. Công tố viên đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội và nhanh
chóng xử lý người phạm tội. Việc giải quyết vụ án công bằng, khách quan và
chính trực giúp đem công lý cho người bị hại, người làm chứng, bị cáo và xã hội
[146]. Công tố viên phải đảm bảo rằng pháp luật được áp dụng một cách đúng
đắn; tất cả các chứng cứ thích hợp đều được đưa ra trước Tòa [146]. Từng vụ án
khác nhau phải được xem xét một cách khác nhau theo đúng những tình tiết và sự
thật khách quan của từng vụ việc cụ thể [146].
Ngoài ra, Công tố viên ở Anh phải tuân thủ cả nguyên tắc công bằng, độc
lập, khách quan Các Công tố viên không được để cho các quan điểm cá nhân về
sắc tộc, quốc tịch, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, khuynh hướng tình dục
của người bị tình nghi, nạn nhân hay các nhân chứng ảnh hưởng đến các quyết
định của mình. Công tố viên không phải chịu ảnh hưởng bởi những áp lực không
67
đúng đắn hoặc không phù hợp từ bất kỳ nguồn nào. Công tố viên luôn hành động
vì lợi ích của công lý và không chỉ nhằm mục đích kết tội [146].
Đối với các quy định cụ thể về địa vị pháp lý của công tố viên, Luật về
Công tố viên Hoàng gia Anh chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cách thức truy tố,
không truy tố của công tố, không quy định về các tiêu chuẩn, ngạch bậc và các
vấn đề khác của Công tố viên. Cụ thể thể là:
Về các nguyên tắc chung: Nghĩa vụ của Công tố viên là đảm bảo việc truy
tố đúng người, đúng tội và nhanh chóng xử lý người phạm tội; xem xét, tư vấn và
truy tố các vụ án hoặc đưa ra biện pháp xử lý không qua xét xử. Công tố viên phải
đảm bảo tất cả các chứng cứ đều được đưa ra trước tòa. Công tố viên phải độc lập
và khách quan, hành động vì lợi ích công lý, không chỉ vì mục đích kết tội; phải
áp dụng các nguyên tắc của Công ước châu Âu về quyền con người, Luật nhân
quyền trong từng vụ án…
Về xem xét việc quyết định truy tố:
Trong các vụ án nghiêm trọng và phức tạp, Công tố viên quyết định có
buộc tội hay không và nếu buộc tội thì tội gì. Công tố viên phải đưa ra quyết định
phù hợp và theo hướng dẫn truy tố của Công tố viên trưởng. Cảnh sát và Điều tra
viên chịu trách nhiệm điều tra các hành vi bị cho là đã phạm tội. Công tố viên phải
xem xét từng vụ án do Cảnh sát hoặc Điều tra viên chuyển đến. Công tố viên
hướng dẫn, tư vấn cho Cảnh sát và Điều tra viên hướng điều tra, yêu cầu về chứng
cứ và trợ giúp các thủ tục trước khi buộc tội thông qua điều tra và truy tố. Công tố
viên không thể trực tiếp chỉ đạo Cảnh sát và Điều tra viên. Công tố viên nhanh
chóng đình chỉ vụ án nếu không vượt qua được giai đoạn chứng cứ của phần Kiểm
tra luật đầy đủ và việc điều tra bổ sung cũng không khắc phục được hoặc về lợi
ích công không yêu cầu truy tố. Công tố viên và Điều tra viên phối hợp chặt chẽ
với nhau nhưng trách nhiệm cuối cùng quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hay
không thuộc về cơ quan công tố.
Về việc kiểm tra luật đầy đủ:
Mặc dù cảnh sát có nhiệm vụ chính trong hoạt động điều tra nhưng do kết
quả hoạt động tố tụng phục thuộc vào việc giá trị của chứng cứ có được chấp nhận
68
tại Tòa hay không nên mọi hoạt động của cảnh sát phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ
với cơ quan công tố và công tố viên - cơ quan đảm nhận việc buộc tội trước tòa.
Cơ quan công tố truy tố một tội phạm với hai điều kiện của việc kiểm tra luật đầy
đủ này là đảm bảo yêu cầu về chứng cứ và dựa trên lợi ích hay đòi hỏi của công
chúng. Chỉ duy nhất cơ quan công tố có quyền xem xét và thực hiện. Tòa án
không có thẩm quyền này khi vụ án đã được truy tố ra tòa để xét xử.
Về vai trò của Công tố viên trong việc kết án
Công tố viên có nhiệm vụ hỗ trợ cho Tòa án trong việc đưa ra quyết định
kết án phù hợp. Công tố viên cũng có thể hỗ trợ cho Tòa án bằng cách đệ trình,
phạm vi kết án của hành vi phạm tội này.
Trong tất cả các vụ án phức tạp khi có khả năng về sự hiểu lầm, Công tố
viên phải nêu bằng văn bản các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
mà Công tố viên sẽ phác thảo khi thông báo cho Tòa án tại phiên tòa tuyên án.
Trong các vụ án khác, phương pháp này cần được xem xét và áp dụng nếu giúp
cho Tòa án hoặc cho công chúng hiểu vụ án.
Công tố viên tranh luận về quan điểm do người bào chữa đưa ra về tình tiết
giảm nhẹ không chính xác, gây hiểu lầm hoặc xúc phạm. Nếu người bào chữa vẫn
giữ quan điểm và điều đó phù hợp với mức án, thì mời Tòa án đến để nghe chứng
cứ và xác định các sự kiện và mức án phù hợp.
Công tố viên phải tuân thủ hướng dẫn của Tổng Chưởng lý về việc chấp
nhận lời nhận tội và vai trò của Công tố viên trong việc thi hành hình phạt đã quy
định chi tiết về nhiệm vụ, vai trò của Công tố viên trong quá trình tuyên án.
Về việc xem xét tại quyết định truy tố
Thông thường, nếu Cơ quan công tố nói cho người bị tình nghi hoặc bị
can biết rằng sẽ không có việc truy tố hoặc việc truy tố sẽ được đình chỉ, vụ án
sẽ không bắt đầu lại. Nhưng thực tế khi có lý do đặc biệt khiến Cơ quan công
tố phải lật ngược một quyết định không truy tố hoặc biện pháp xử lý không qua
xét xử hoặc sẽ bắt đầu lại việc truy tố, đặc biệt đối với các vụ án nghiêm trọng
với lý do:
69
- Các vụ án hiếm có khi có quan điểm mới về quyết định ban đầu cho thấy
rằng có sai sót và để duy trì niềm tin trong hệ thống tư pháp hình sự, việc truy tố
nên được đưa ra mặc dù đã có quyết định trước đó;
- Các vụ án đã được đình chỉ mà chứng cứ bổ sung dường như đã rõ và có
thể được thu thập và xem xét trong tương lai gần. Trong những vụ án này, Công tố
viên sẽ nói cho bị cáo việc truy tố có thể bắt đầu lại.
- Các vụ án được đình chỉ vì thiếu chứng cứ nhưng sau đó các chứng cứ
quan trọng hơn đã được phát hiện; và
- Các vụ án liên quan đến chết người, khi xem xét lại sau kết quả điều tra
kết luận việc truy tố nên được tiến hành, dù quyết định trước đó đã không truy tố.
Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với việc thẩm tra chứng cứ
cũng như việc tiến hành tố tụng tại phiên hòa, tiến hành truy tố theo nhiệm vụ của
công tố viên. Tuy nhiên, họ lại không ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuyên phạt của
Tòa án và không có nghĩa vụ pháp lý là đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo mà
đó là công việc của Tòa.
2.4.5. Hoa Kỳ
Cơ quan Công tố của Hoa Kỳ được phân chia theo cấp bang và liên bang. Ở
cấp bang, do pháp luật của mỗi bang khác nhau nên nhiệm vụ, quyền hạn của
Công tố viên cũng khác nhau nhưng cùng thực hiện nhiệm vụ của cơ quan Công
tố là truy tố tội phạm ra trước tòa án.
Ở cấp liên bang, việc truy tố tội phạm do Chưởng lý liên bang truy tố. Các
tội phạm liên bang thường là các tội nghiêm trọng như buôn bán ma túy, giết
người, quan chức chính quyền phạm tội hoặc tham nhũng, các tội phạm xâm phạm
an ninh quốc gia như phản quốc,... Các thông tin về chứng cứ đã được điều tra
viên thu thập sẽ được trình lên Bộ pháp hoặc Chưởng lý liên bang. Sau đó Công tố
viên liên bang sẽ quyết định có truy tố vụ việc ra tòa hay không.
Ở cấp bang, các công tố viên tiến hành truy tố các tội phạm xâm phạm pháp
luật của bang. Quyền hạn và trách nhiệm của các công tố viên địa phương được
phân chia theo cấp quận, mỗi bang đều có một Tổng Chưởng lý và viên chức này
70
có toàn quyền truy tố tất cả các tội phạm theo pháp luật bang quy định. Nhìn
chung Công tố viên không giám sát quá trình điều tra mà thượng vai trò là luật sư
chủ nhà đối với cảnh sát để chỉ dẫn việc tìm kiếm bằng chứng, hướng dẫn thủ tục
bắt giam và bảo đảm việc thu thập chứng cứ theo đúng thủ tục.
Nói chung, trong quá trình điều tra, dù ở cấp bang hay liên bang thì công tố
viên đều có quyền lực đáng kể. Họ có thể không chấp nhận hồ sơ buộc tội do cảnh
sát gửi đến cho đến khi những yêu cầu về chứng cứ của họ được cảnh sát đáp ứng,
họ cũng có thể từ chối phê chuẩn lệnh bắt giam của cảnh sát. Ngoài ra, công tố
viên còn có thể hủy bỏ hoặc đình chỉ vụ việc khi xét thấy việc điều tra của cảnh
sát không đúng thủ tục hoặc chứng cứ yếu, không đủ để buộc tội hoặc có khả năng
tòa án sẽ không chấp nhận các chứng cứ đó. Nếu công tố viên quyết định việc truy
tố vụ việc ra tòa thì họ có trách nhiệm buộc tội gì, bao nhiêu tội và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm. Quyết định truy tố của Công tố viên có ảnh hưởng quan trọng
tới hình phạt mà kẻ phạm tội có thể bị tòa án tuyên phạt nếu bị kết tội. Công tố
viên Hoa Kỳ còn thực thi quyền hạn đáng kể về các vấn đề hình phạt thông qua
quyết định buộc tội.
Quyền tùy nghi truy tố là quyền đặc biệt của Công tố viên. Với tư cách là
một nhân viên được bầu hoặc bổ nhiệm, Công tố viên là người có quyền lực nhất
trong hệ thống tư pháp hình sự. Các công tố viên thực hiện quyền tự quyết không
bị ràng buộc, có quyền quyết định ai là người bị truy tố, đưa ra những lời buộc
tội nào, khi nào thì bỏ qua lời buộc tội, có thực hiện việc mặc cả thú tội hay
không và cần phải tổ chức thực hiện việc truy tố như thế nào. Các công tố viên
thực hiện quyền tự quyết khi ra quyết định trong ba lĩnh vực chủ yếu là: quyết
định đưa ra lời buộc tội, quyết định đình chỉ vụ án (bãi bỏ lời buộc tội) và mặc cả
thú tội.
Quyết định việc truy tố dựa trên ba yếu tố:
Thứ nhất, truy tố khi có đủ chứng cứ pháp lý (đủ các yếu tố tối thiểu để
phát động truy tố hình sự). Theo đó, một văn phòng công tố có thể tiếp nhận nhiều
vụ án để truy tố nhưng xử lý phần lớn các vụ án đó thông qua thủ tục mặc cả thú
tội. Những căn cứ để xem xét truy tố bao gồm:
71
- Có đủ chứng cứ liên quan đến việc người bị tình nghi đã phạm tội;
- Tính nghiêm trọng của tội phạm;
- Số lượng án tại tòa án;
- Sự cần thiết phải duy trì các nguồn lực công tố để giải quyết những vụ án
nghiêm trọng hơn;
- Tính sẵn sàng (thực tế) của những lựa chọn đối với hình thức truy tố;
- Sự có lỗi của bị cáo (đáng khiển trách về mặt đạo đức);
- Hồ sơ hình sự của bị cáo (tiền án tiền sự);
- Sự mong muốn của bị cáo trong việc hợp tác tại giai đoạn điều tra hoặc
truy tố những người khác.
Thứ hai, để đẩy nhanh tiến trình tố tụng đối với các vụ án, giảm sự ùn tắc
số lượng án tại các toà án, duy trì quyền công tố và giảm các phí tổn từ các nguồn
lực của tòa án, các công tố viên thường bỏ qua ngay những vụ án có chứng cứ yếu
ngay từ đầu vào và giảm mức độ nghiêm trọng xuống thành tội ít nghiêm trọng
nhằm giải quyết các vụ án thông qua mặc cả thú tội.
Thứ ba, các Công tố viên chỉ truy tố khi có đủ khả năng xét xử, bao gồm cơ
sở truy tố, điều tra của cảnh sát và đối chứng của luật sư. Các công tố viên chỉ đệ
trình bản buộc tội trong trường hợp có đủ bằng chứng để đảm bảo việc kết án và
chỉ sử dụng tối thiểu thủ tục mặc cả thú tội trong trường hợp này.
Trên cơ sở cân nhắc rất nhiều yếu tố bao gồm cả tính nghiêm trọng của tội
phạm và sự thuyết phục của chứng cứ, Công tố viên quyết định việc có truy tố
người có hành vi phạm tội ra trước tòa án hay không. Sau khi công tố viên đã đệ
trình bản buộc tội, công tố viên có thể giảm buộc tội để đổi lại việc bị cáo nhận tội
hoặc tiến hành thủ tục không truy tố. Thủ tục không truy tố là một hình thức công
tố viên ra bản tuyên bố nêu rõ rằng vụ án sẽ không được tiếp tục tiến hành tố tụng.
Những lý do cho việc thực hiện thủ tục này bao gồm không đủ chứng cứ, chứng
cứ không được thừa nhận, không buộc tội được và bản chất của một số tội phạm
không đáng kể.
72
2.4.6. Một số kinh nghiệm vận dụng đối với việc hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố ở
Việt Nam
Qua nghiên cứu các quy định liên quan đến Kiểm sát viên/Công tố viên
trong thực hành quyền công tố ở một số mô hình công tố của các quốc gia tiêu
biểu trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét:
Một là, việc thực hiện quyền công tố của Kiểm sát viên/Công tố viên của
các cơ quan công tố trên thế giới theo truyền thống pháp luật nào, dù vị trí và tổ
chức hoạt động có khác nhau nhưng đều có chức năng chính là chức năng buộc tội
và giám sát thực hiện pháp luật. Các chức năng khác của Kiểm sát viên/Công tố
viên trong các cơ quan kiểm sát/công tố thì tùy thuộc vào đặc điểm thể chế và điều
kiện cụ thể của các quốc gia mà cơ quan công tố có thêm các chức năng, nhiệm vụ
và thẩm quyền khác nhau trên các lĩnh vực khác nhau như: dân sự, giam giữ, thi
hành án; Trong lĩnh vực hình sự, dù Kiểm sát viên/Công tố viên trong cơ quan
công tố ở quốc gia có truyền thống pháp luật khác nhau nhưng đều thực hiện chức
năng chính là truy tố tội phạm và chỉ có Viện kiểm sát hoặc Viện công tố là cơ
quan duy nhất thực hành quyền công tố.
Hai là, ở những quốc gia khác nhau và truyền thống pháp luật khác
nhau, Kiểm sát viên đều có quyền hạn rất lớn và độc lập. Do vậy, để hạn chế
những sai lầm trong quá trình thực thi nhiệm vụ và tránh lạm quyền, lộng
quyền thì mỗi quốc gia đều có những phương pháp khác nhau. Dù Kiểm sát
viên/Công tố viên của Viện kiểm sát/Viện Công tố được tổ chức trong cơ cấu
của Tòa án hay nằm song song với Tòa án hoặc thuộc nhánh hành pháp thì
Kiểm sát viên/Công tố viên luôn được hoạt động độc lập trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Ở các quốc gia theo truyền thống pháp luật Châu Âu
lục địa, đối với chức năng thực hành quyền công tố của Viện Công tố/Viện
kiểm sát, thì Kiểm sát viên/Công tố viên luôn giữ vai trò chỉ đạo điều tra hình
sự và có vai trò quan trọng trong thi hành án hình sự. Ở các quốc gia theo
truyền thống pháp luật án lệ, Kiểm sát viên/Công tố viên có chức năng chính là
73
truy tố tội phạm và không giữ vai trò quyết định trong hoạt động điều tra hình
sự, không chỉ đạo hoạt động điều tra.
Ba là, dù các quốc gia đều quy định cho Viện công tố/Viện kiểm sát nhiều
chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng chức năng thực hành quyền công tố luôn là
chức năng chủ đạo, có vị trí quan trọng nhất. Do vậy, vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố cũng
luôn được đề cao và được điều chỉnh bởi những quy định pháp luật rất chặt chẽ.
Đặc biệt là đối với chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên/Công tố
viên có vai trò quyết định trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Việc quy định
Viện công tố/Viện kiểm sát chỉ đạo hoạt động điều tra, quyết định việc truy tố là
rất cần thiết. Bởi vậy, cần tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên/Công tố viên trong
thực hành quyền công tố ngay từ giai đoạn này để có một nền công tố mạnh trong
hệ thống tư pháp.
Tiểu kết chương 2
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là
một bộ phận văn bản quy phạm pháp luật không thể tách rời hệ thống các quy
định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Bản chất Nhà nước và mô hình tổ chức hoạt động của Nhà nước có vai trò quyết
định mô hình tố tụng, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nói chung và
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng. Vì
vậy, để hoàn thiện pháp luật, chúng ta cần phải đặt pháp luật trong mối quan hệ
hữu cơ với nhà nước. Cho dù là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hay tố tụng
hình sự tranh tụng, hoặc mô hình tố tụng hình sự kết hợp cả hai yếu tố này; cho
dù là cơ quan công tố đặt ở hành pháp (Chính phủ) hay trực thuộc cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất (Quốc hội, nghị viện) thì vị trí, vai trò, chức năng vả địa
vị pháp lý của Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố nhà
nước là như nhau. Thực hành quyền công tố là lĩnh vực hoạt động liên quan trực
tiếp đến tài sản, tính mạng, danh dự, tự do của con người… nên hoạt động thực
74
hành quyền công tố của Kiểm sát viên/Công tố viên luôn phải dựa trên một cơ sở
pháp lý vững chắc, hoàn hảo, trước tiên là Hiến pháp, sau đó là các đạo luật về tổ
chức và hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố không phải là một tập hợp bất biến, nó được hoàn thiện
từng bước theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp, phù hợp với các điều kiện
kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật trong lĩnh vực
này được đánh giá bởi các tiêu chí như tính toàn diện, đồng bộ, khả thi, tính dự
báo... Dựa trên những tiêu chí này, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố sẽ đi đúng hướng, phù hợp với Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo tinh thần Nghị
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm pháp chế trong hoạt động
tố tụng hình sự, đáp ứng ngày càng đầy đủ các yêu cầu công cuộc cải cải cách tư
pháp đề ra.
75
Chương 3
QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở pháp luật hiện hành để bảo đảm có được một nội dung đánh giá
khách quan, toàn diện về mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố theo các tiêu chí đã nêu ở chương 2, thì
việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố trong mối quan hệ với mô hình tổ
chức quyền lực Nhà nước nói chung, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong từng giai đoạn lịch sử nói riêng là một nội dung
không thể thiếu. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh việc hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố luôn song hành với kiện
toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp và để đáp ứng nhiệm vụ chính trị -
pháp lý ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.
3.1. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT
TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử dân tộc. Đảng cộng sản Việt
Nam từ một đảng hoạt động bí mật, đã trở thành Đảng cầm quyền, thực hiện vai
trò lãnh đạo nhân dân kiến lập Nhà nước dân chủ cộng hoà của dân, do dân, vì
dân. Cùng với việc xóa bỏ bộ máy nhà nước phong kiến, chính quyền cách mạng
nhanh chóng được thiết lập trên phạm vi cả nước, có hệ thống từ trung ương đến
cơ sở.
Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trong ngày 2.9.1945 tại
quảng trường Ba Đình đã chính thức khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ
76
cộng hoà là một quốc gia có chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên vô cùng quan trọng của nhà nước dân chủ nhân
dân, đặt cơ sở pháp lý để xây dựng và củng cố các thiết chế nhà nước và hệ thống
pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Trên cơ sở những yêu cầu chính trị cấp bách và lâu dài đó là, cần sớm “ổn
định trật tự xã hội và để cho nhân dân ta được hưởng quyền tự do dân chủ, bảo vệ
vững chắc nhà nước cách mạng non trẻ” nên ngay khi nước ta giành được độc lập,
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã đặc biệt chú trọng đến
hoạt động tư pháp. Vì vậy, chỉ trong một khoảng thời giá rất ngắn Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản định hướng và đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp
nói chung, cho công tác công tố nói riêng.
Cùng với sự ra đời của hệ thống cơ quan tư pháp trong hệ thống chính trị
của Nhà nước nhân dân kiểu mới, Cơ quan công tố cũng được hình thành với
nhiệm vụ cùng với Cơ quan công an, Tòa án trấn áp bọn tội phạm phản cách
mạng, chống lại những hành vi đi ngược lại lợi ích của chính quyền nhân dân,
bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể người lao động, đảm bảo việc thực hiện các
chính sách trật tự trị an của xã hội... Để thực hiện nhiệm vụ đó, Cơ quan công tố
ngoài chức năng buộc tội còn thực hiện chức năng giám sát các họat động tố
tụng tư pháp (trình tự tố tụng tại Tòa án). Để bảo đảm quá trình tố tụng được
khách quan, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ
và tôn trọng, tránh sự lộng quyền, lạm quyền từ phía các cơ quan tư pháp, Chủ
tịch Chính phủ lâm thời ký, ban hành Sắc lệnh số 46-SL, ngày 10/10/1945 “về
chế độ luật sư”. Sắc lệnh này cũng quy định rõ thẩm quyền của Chưởng lý (nay
là Viện trưởng Viện kiểm sát) của toà thượng thẩm trong thủ tục công nhận luật
sư thực thụ.
Theo các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946; Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17 tháng 04 năm 1946; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 07 năm 1946, thì
các viên chức công tố nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp: ở Tòa án đệ nhị cấp
(cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) có Thẩm phán xử án và Thẩm phán
77
buộc tội. Như vậy, ở Tòa án đệ nhị cấp mặc dù chưa có cơ quan công tố nhưng lại
có các cán bộ làm nhiệm vụ công tố, đó là: Biện lý, Tham lý. Ở Tòa thượng thẩm
(tổ chức ở ba miền Bắc, Trung, Nam) có các Công tố viên do Chưởng lý đứng đầu
và hoạt động của các cán bộ chuyên trách như Biện lý, phó Biện lý, Công tố
viên... chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp.
Qua nghiên cứu lịch sử giai đoạn này cho thấy, do chưa có điều kiện cải tổ
toàn diện bộ máy nhà nước, Sắc lệnh số 13-SL, ngày 24-01-1946 cũng như Hiến
pháp năm 1946 đều quy định mô hình công tố nằm trong Tòa án. Như vậy, chức
năng thực hành quyền công tố của các viên chức công tố trong giai đoạn này là
nằm trong chức năng của Tòa án. Trong Tòa án quân sự có một Ủy viên quân sự
hoặc Ủy viên Ban trinh sát giữ quyền công tố, thực hiện chức năng buộc tội, tại
các Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm thuộc hệ thống Tòa án thường có chức
danh Thẩm phán buộc tội, hoạt động công tố tại Tòa án binh do một Ủy viên
Chính phủ đảm nhận. Tuy là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án,
chịu sự quản lý hành chính của Bộ Tư pháp nhưng hoạt động của các “viên chức
công tố” hoàn toàn độc lập với hoạt động xét xử, các Ủy viên công tố chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Chưởng lý. Với tính chất là hoạt động tư pháp, hoạt động công
tố được Hiến pháp bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bên cạnh chức
năng công tố, buộc tội, các chức danh Biện lý và Chưởng lý (thuộc Tòa án
thường) còn có chức năng giám sát, chỉ đạo hoạt động điều tra của tư pháp công
an, các cơ quan được giao thẩm quyền điều tra (kiểm lâm, hỏa xa, thương chính),
quyết định việc truy tố, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; Trực tiếp điều tra một số loại
án; Kháng nghị quyết định giam giữ bị can quá hạn; Thi hành án và giám sát thi
hành án; Đề nghị ân xá, phóng thích; Tham gia tất cả các phiên toà dân sự; Khởi
tố các vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về thể chất, tâm thần và pháp nhân hành chính. Biện lý có quyền kháng cáo bản
án, quyết định hình sự, dân sự của Tòa án.
Trước yêu cầu tăng cường tính dân chủ của tư pháp, Sắc lệnh số 85/SL
ngày 22/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về cải cách tư pháp và luật tố tụng.
78
Đây có thể coi là lần cải cách tư pháp đầu tiên dưới chế độ dân chủ cộng hòa
nhằm khẳng định tính chất nhân dân của Tòa án. Sắc lệnh đã đổi tên Toà án sơ cấp
thành Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án đệ nhị cấp thành Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Hội đồng phúc án thành Tòa phúc thẩm; Phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội
thẩm nhân dân (khẳng định địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân cao hơn Phụ
thẩm). Khi xét xử hoặc bào chữa, Thẩm phán và Luật sư không mặc áo chùng đen.
Để xử việc hình và việc hộ, Toà án nhân dân huyện và Toà án nhân dân tỉnh gồm
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; Toà phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và
ba Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết. Hội
thẩm nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng
như các Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính cấp tương đương. Trong điều
kiện lịch sử của thời kỳ 1945 - 1958, việc tiếp tục duy trì mô hình công tố trong
Tòa án là phù hợp với nền tảng hệ thống pháp luật cũ [19], không tạo ra xáo trộn
lớn trong hoạt động tư pháp, trấn áp kịp thời các hành vi phạm tội, giữ vững chính
quyền, ổn định đời sống nhân dân, bảo đảm tập trung mọi nguồn lực chuẩn bị cho
công cuộc trường kỳ kháng chiến.
Tuy nhiên, trong cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất tiến hành năm 1950,
Nhà nước đã tăng thẩm quyền chỉ đạo của Ủy ban hành chính đối với cơ quan
công tố, bao gồm cả việc ra mệnh lệnh về đường lối công tố cũng như điều khiển
các vụ việc cụ thể. Đặc biệt, Nhà nước đã mở rộng thẩm quyền cho Công tố viện
được kháng cáo các vụ án dân sự. Quy định này đã tạo thuận lợi cho Công tố viện
không chỉ với tư cách đại diện cho toàn xã hội trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn là điều kiện
quan trọng để Công tố viện thực hiện có hiệu quả hơn chức năng giám sát việc
tuân thủ pháp luật của các đối tượng trong xã hội.
Sau khi miền Bắc hoàn giải phóng, đến cuối những năm 1950 đã có sự
thay đổi lớn mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ 8 trong phiên
họp ngày 29 tháng 4 năm 1958, Chính phủ đã ban hành Nghị định 256-Ttg, ngày
79
01-7-1958 về thành lập Viện Công tố và hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tư pháp,
đặt Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và
quyền hạn ngang một Bộ; Viện công tố có chức năng, nhiệm vụ giám sát việc tuân
thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ
phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài
sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết
và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuộc lợi. Trong Viện Công tố, chức danh Ủy
viên công tố được hình thành với chức năng thực hành quyền công tố trong lĩnh
vực hình sự được quy định một cách cụ thể hơn, rộng hơn so với trước đó là điều
tra, truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp hình sự, giám sát việc chấp hành
pháp luật trong việc xét xử của Tòa án; đặc biệt là có trách nhiệm áp dụng các
biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi
phần tử phạm pháp trong quá trình điều tra, truy tố. Tuy nhiên, do đây là một giai
đoạn chuyển tiếp để hình thành Viện kiểm sát nhân dân với tư cách pháp lý là một
hệ thống cơ quan tư pháp độc lập, trực thuộc cơ quan quyền lực cao nhất - Quốc
hội, nên chức năng, nhiệm vụ về thực hành quyền công tố của Uỷ viên công tố
vẫn chưa có những quy định luật hoá cụ thể.
Như vậy, vào thời kỳ đầu khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà theo
quy định tại các điều 1, 22, 43, 63, 64 của Hiến pháp 1946 với bản chất nhà nước
kiểu mới:
Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam...
Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà... Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là
Chính phủ Việt Nam..Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam...gồm có
Toà án tối cao; các toà án phúc thẩm; các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp...
Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm [93].
Cơ quan công tố được xác định là cơ quan tư pháp, được tổ chức nằm trong
Toà án, nhưng chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp là cơ quan hành pháp và
chưa được hình thành với tư cách là cơ quan tư pháp độc lập, chức danh Kiểm sát
80
viên chưa hình thành. Tuy vậy, hoạt động thực hành quyền công tố đã được thực
hiện thông qua việc các chỉ đạo hoạt động điều tra và buộc tội bị cáo trong các
phiên toà của các “viên chức công tố” và được xem là một nhiệm vụ của Toà án,
nhưng vẫn độc lập với chức năng xét xử. Nhiệm vụ này được thực hiện trên thực
tế bởi một số chủ thể khác nhau như Uỷ viên quân sự, Biện lý, hoặc Công tố viên.
Cho đến, Thông tư số 556-Ttg ngày 24 tháng 12 năm 1958 của Thủ tướng chính
phủ ban hành, quy định rõ mối quan hệ giữa Công an, Tòa án và Viện công tố
trong việc trấn áp bọn phản cách mạng. Viện công tố có quyền điều tra, truy tố
những vụ án hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật của CQĐT, hoạt động xét
xử của Tòa án và việc giam giữ, cải tạo của cơ quan, người được trao quyền. Cùng
với việc thực hành quyền công tố nhà nước, Viện công tố còn thực hiện chức năng
giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra, xét xử các vụ án hình
sự, thi hành án, giam giữ cải tạo và tham gia giải quyết các vụ án dân sự quan
trọng có liên quan tới lợi ích của nhà nước và xã hội. Có thể nói, Viện Công tố
thời kỳ này đã được nhà nước giao những nhiệm vụ, quyền hạn mới so với trước
đây. Đặc biệt là việc thực hiện chức năng giám sát các hoạt động tố tụng tư pháp.
Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
sau này. Sau khi miền Bắc giải phóng, năm 1959 đã có sự thay đổi mô hình tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ 8 trong phiên họp ngày 29 tháng 4
năm 1958, Chính phủ đã ban hành Nghị định 256-Ttg, ngày 01-7-1958 về thành
lập Viện Công tố và hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tư pháp, đặt Viện Công tố
trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn ngang
một Bộ. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị định 381-Ttg, ngày 20-10-1959 thành
lập Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống Tòa án nhân dân tách khỏi Bộ Tư pháp,
đặt Tòa án Nhân dân tối cao thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền
hạn ngang một Bộ. Chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố và công tố viên đã có
những thay đổi nhất định cho đến khi thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
vào năm 1960.
81
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 2002
Vào thời điểm 1960, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới -
giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền
Bắc làm hậu thuẫn cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về
mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước
cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau, nếu không đạt
được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ
vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất [87].
Trong điều kiện cả nước tập trung mọi nguồn lực cho kháng chiến, sự phát
triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở Miền Bắc có ý nghĩa quyết định cho sự
thắng lợi của nhiệm vụ cách mạng ở cả hai miền. “Bất kỳ một vi phạm về pháp
luật, chế độ hoặc thể lệ nào của Nhà nước đều ít nhiều có hại đến việc kế hoạch
hóa nền kinh tế quốc dân của ta” [86]. Vì vậy, phải bảo đảm cho mọi pháp luật,
chế độ, thể lệ của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Yêu cầu
về một thiết chế có nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất là hết sức khách quan
trong điều kiện của đất nước vào thời điểm đó: nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là sản
xuất nhỏ, tâm lý dân tộc có những thiên kiến về pháp luật (đề cao đức trị thay cho
pháp trị, truyền thống coi lệ làng là luật, coi pháp luật của nhà nước là đối lập…).
Chế định Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến
pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo các văn bản pháp luật
này, VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan
Nhà nước và công dân. Còn hoạt động thực hành quyền công tố được coi là quyền
năng phát sinh khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử).
82
Theo quy định của Hiến pháp 1959, tại các điều 4, 43, 71, 97, 104, 105, 108:
Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về
nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan
Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ…; Quốc
hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất…; Hội đồng Chính phủ là
cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất…; Toà án
nhân dân tối cao …là những cơ quan xét xử… Toà án nhân dân tối cao
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội…. Toà án nhân
dân địa phương cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân
dân địa phương; Viện kiểm sát nhân dân tối cao…kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan Nhà
nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân..Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước
Quốc hội…Uỷ ban thường vụ Quốc hội [94].
Như vậy, từ góc độ tổ chức và hoạt động của nhà nước trong giai đoạn này,
ta thấy:
Về vị trí, VKSND là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước,
các VKSND địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính nhưng không phụ
thuộc vào chính quyền hành chính. Về tổ chức, VKSND tối cao, các VKSND địa
phương và Viện kiểm sát Quân sự tạo thành một hệ thống thống nhất, theo đó
VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên, các VKSND địa
phương và Viện kiểm sát Quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng
VKSND tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND địa
phương và Viện kiểm sát Quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng
VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện trưởng VKSND tối cao
do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban
83
Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối
cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Đối với chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên thì chỉ dừng
ở mức độ quy định của Viện kiểm sát có trách nhiệm điều tra những việc phạm
pháp về hình sự, tham gia việc điều tra hoặc khi cần thiết thì tự mình điều tra, truy
tố hoặc miễn truy tố can phạm; truy tố trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
ra trước Toà án nhân dân cùng cấp. Bên cạnh đó, thực hành quyền công tố còn
được thể hiện ở chức năng buộc tội thông qua các hoạt động khởi tố bị can, truy tố
bị can, thực hành quyền công tố tại phiên toà.
Trong giai đoạn này, cùng tồn tại song song với quyền công tố trong các
hoạt động tố tụng hình sự và cùng hướng tới mục đích của cuối cùng của pháp luật
trong nhà nước nhân dân đó là, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì ở
miền Bắc, Hiến pháp 1959 được ban hành, tiếp tục khẳng định quan điểm của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Điều 101, Hiến pháp 1959 quy định: “Quyền bào chữa của người bị
cáo được bảo đảm”. Năm 1963, văn phòng luật sư thí điểm đầu tiên được thành
lập, đặt tên là Văn phòng luật sư Hà Nội (Văn phòng luật sư). Ban đầu Luật sư chỉ
nhận bào chữa những vụ án do tòa án chỉ định, về sau các bị cáo, đương sự có nhu
cầu mời luật sư thì trực tiếp đến Văn phòng luật sư. Năm 1972, Ủy ban pháp chế
của Chính phủ được thành lập, năm 1974 Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao
Văn phòng luật sư sang Ủy ban pháp chế của Chính phủ để quản lý theo chức
năng quy định tại Nghị định 190/CP ngày 9/10/1972.
Sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 15-5-1976 Chính phủ cách mạng
lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 01/SL-76 quy định
về Tổ chức Tòa án nhân dân và Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Sau đó 2 tuần,
ban hành quyết định số 29-QĐ-76 ngày 27-5-1976 thành lập Toà án nhân dân đặc
biệt để xét xử các tên tư bản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối
thị trường. Tiếp theo đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 181-
NQ/QHK 6 ngày 23-01-1978 giao cho Toà án nhân dân đặc biệt xét xử những tội
84
phạm đặc biệt nghiêm trọng về trật tự xã hội xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh
như: Giết người, cướp của tống tiền, bắt cóc, đốt nhà, tổ chức lưu manh trộm cắp,
hiếp dâm. (Toà án nhân dân đặc biệt giải thể năm 1986). Vai trò của Kiểm sát viên
trong kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án này rất lớn.
Năm 1980, Hiến pháp của thời kỳ quá độ cả nước đi lên CNXH được
Quốc hội Khóa VI thông qua. Viện kiểm sát nhân dân được coi là một thiết chế tư
pháp bên cạnh Tòa án. Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm
1981, VKSND tối cao có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực
hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các VKSND địa phương, các Viện kiểm sát Quân sự kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng được
hoàn thiện nhằm bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu bước chuyển hướng chiến
lược về nhận thức xây dựng CNXH ở Việt Nam, đánh dấu bước chuyển hướng
chiến lược của toàn Đảng, toàn dân về xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền
XHCN và mô hình kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, bao cấp sang cơ chế thị
trường, hội nhập quốc tế. Hiến pháp năm 1992 xác định VKSND các cấp “kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Luật Tổ chức VKSND năm 1992 tiếp tục
quy định VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành
quyền công tố.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 và và Luật tổ chức VKSND năm 1992, Ủy
ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 1993.
Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà
nước, VKSND và Kiểm sát viên VKSND các cấp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ và quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ tài sản của nhà nước, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm công dân,
85
bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân đều phải được xử lý theo pháp luật, bảo đảm cho pháp
luật được thực thi nghiêm minh, công bằng. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
TW khoá IX nêu “…cần sửa đổi, bổ sung chức năng nhiệm vụ của VKSND theo
hướng VKSND chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp…”
[35]; Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ghi “… Viện kiểm sát các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong
suốt quá trình tố tụng…” [7].
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của
VKSND, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ
của VKSND. Theo đó, VKSND thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; Đồng thời nhận
mạnh việc tăng cường chức năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một cơ sở quan trọng để luật hoá nhiệm
vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Tiếp đó,
BLTTHS năm 1988 cũng được sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 2000
cho phù hợp. Nhưng các nội dung bổ sung, sửa đổi của BLTTHS chủ yếu tập
trung vào nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và Viện trưởng VKSND. Còn chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố không
thay nhiều lớn so với BLTTHS ban hành năm 1988.
3.2. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TỪ KHI BAN HÀNH LUẬT TỔ CHỨC VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002 ĐẾN 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
3.2.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực
hành quyền công tố từ năm 2002 đến 2015
Từ năm 2002 đến 2015, nhìn từ tiêu chí đánh giá về nội dung của hệ thống
các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
ta thấy, các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
86
công tố đã được thể chế một cách mạnh mẽ và toàn diện, đồng bộ để phù hợp với
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Mà cụ thể là về chủ trương cải cách
tư pháp thể hiện trong các Nghị quyết chuyên đề về tư pháp của Bộ Chính trị như
Nghị quyết 08-NQ/TW (02/01/2002); Nghị quyết số 48-NQ/TW (24/5/2005);
Nghị quyết số 49-NQ/TW (02/06/2005). Hệ thống pháp luật về tư pháp nói chung,
pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về Kiểm sát viên trong thực
hành quyền công tố nói riêng đã được từng bước sửa đổi, bổ sung ở nhiều cấp độ
văn bản pháp lý và cụ thể hoá thành những quy định pháp luật cụ thể. Một mặt, là
để phù hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng đặt ra về cải cách tư pháp và
các nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân. Mặt khác là để đáp ứng các tiêu chí về tính
công khai, minh bạch, dân chủ, tính toàn diện, đồng bộ thống nhất của một chế
định pháp luật nằm trong hệ thống pháp luật.
Điều này trước hết được thể hiện ở các nội dung Hiến pháp 1992 (sửa đổi,
bổ sung); Hiến pháp 2013; Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (sửa đổi, bổ sung); Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 cùng nhiều các luật và văn bản pháp luật
khác có liên quan được nhà nước ban hành trong khoảng thời gian này. Vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong quá
trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi bản án có hiệu lực
được quy định một cách cụ thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mà cải cách tư pháp
đặt ra đó là “ Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,
quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền
cho Kiểm sát viên… để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc
lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của
mình”. Để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân được pháp luật tôn
trọng và bảo vệ. Hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm quyền, lộng quyền của các
chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự các quy định pháp luật hiện hành đã xây dựng và hoàn thiện các quy
định pháp lý cụ thể về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
87
tố tụng đặc biệt là nhóm chủ thể “yếu thế”: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị
hại, người chưa thành niên…Đặc biệt là sự tham gia của người bào chữa nói
chung, của luật sư (chỉ định hoặc không chỉ định) nói riêng ngay từ giai đoạn
điều tra. Sự tham gia của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong quá trình giải
quyết vụ án là những biểu hiện rõ nét của việc “tích cực, chủ động” thể chế hoá
các nội dung điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt nam đã ký
kết hoặc tham gia. Việc quy định cụ thể nội dung và trình tự, thủ tục các hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong các quy định pháp luật
mà tập trung nhất là trong bộ luật tố tụng hình sự cũng là một biểu hiện rõ nét
của tính công khai, minh bạch, dân chủ theo các nguyên tắc và yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân
mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Bên cạnh đó, ta cũng nhận thấy các quy định pháp luật trong lĩnh vực
này đã bao quát được hầu hết các hoạt động của Kiểm sát viên, địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự nói chung, trong
thực hành quyền công tố nói riêng từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm đến khi bản án có hiệu lực. Đó là các quy định pháp luật mà Kiểm sát
viên sẽ thực hiện một cách trực tiếp (nhân danh Kiểm sát viên) hoặc một cách
gián tiếp (nhân danh Viện kiểm sát) liên quan đến: Quyết định phát động quyền
công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối với sự kiện phạm tội (khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự); Quyết định việc khởi tố bị can (phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, trực tiếp ra quyết định khởi tố bị
can); Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tư do dân chủ của cá nhân
người phạm tội (xét phê chuẩn việc bắt, gia hạn tạm giữ, tạm giam); Quyết định
việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ
án); Quyết định truy tố bị can và các hoạt động thực hành quyền công tố tại
phiên toà. Ngoài ra trong pháp luật hiện hành còn có những quy định cụ thể về
địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng và một số các chủ thể pháp lý khác có liên quan trực tiếp đến quá
88
trình thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên hình thành nên các cơ chế
kiểm soát, để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền của Kiểm sát viên trong quá
trình tiến hành tố tụng.
Từ thực trạng hệ thống các quy định pháp luật trong lĩnh vực này ta thấy,
để chủ thể pháp lý hiến định - Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng công tố bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp thì
các quy định pháp luật đã được xây dựng và hình thành tương đối đồng bộ và
thống nhất. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền
công tố đã được cụ thể hoá thành những quy định pháp luật trong Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, pháp lệnh Kiểm sát
viên và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong quá trình thực hành quyền
công tố Kiểm sát viên bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật này một cách
nghiêm minh và thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung (2001) với việc
ghi nhận:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…; Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [96].
Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm
2002 đã cụ thể hoá nội dung của Điều 137, Hiến pháp 1992 (sửa đổi) “…Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất…” [89]. Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND trong giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử được nêu trong các Điều 13, 15, 16 của Luật tổ chức
VKSND với các nội dung cụ thể:
89
…Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra
theo quy định của pháp luật; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ
các biện pháp ngăn chặn; huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ
quan điều tra; Quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc xét xử của Toà án, thực hành quyền công tố nhằm bảo
đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời; Thực hành
quyền công tố trước Toà án nhân dân cùng cấp… [89].
Lần đầu tiên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố được luật hoá một cách cụ thể:
…Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật
để làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền
công tố; Trong phạm vi công tác kiểm sát được giao, Kiểm sát viên có
trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
cấp mình theo quy định của pháp luật, trừ những việc thuộc thẩm quyền
của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng… [88].
Về tổ chức cán bộ, Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối
cao (khác với giai đoạn trước là thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhà nước hay Ủy
ban thường vụ Quốc hội); Kiểm sát viên VKSND địa phương do Viện trưởng
VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Về nhiệm kỳ công tác, lần đầu
tiên Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND đã quy định: “nhiệm kỳ của Kiểm sát viên
là năm năm”, bảo đảm tinh thần trách nhiệm cao hơn của Kiểm sát viên và tạo cơ
sở cho việc miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên không hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
Ở VKSND các cấp trước đây, Kiểm sát viên là người thực hiện các nhiệm
vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Do vậy, về nguyên
tắc, VKSND cấp nào thì có Kiểm sát viên cấp đó. Luật tổ chức VKSND năm
2002 đã khắc phục việc xác định chức danh Kiểm sát viên gắn với cấp hành
90
chính (Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên VKSND tỉnh và Kiểm sát
viên VKSND huyện) thành ba ngạch Kiểm sát viên: Kiểm sát viên VKSND tối
cao, Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp (Điều 3 Luật tổ chức
VKSND năm 2002) [91].
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ra đời, đã có những quy định rõ hơn về
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.
Một số nội dung trước đây chưa có sự phân định rõ giữa kiểm sát việc tuân theo
pháp luật và thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; quyền năng pháp lý cụ thể của chủ thể tiến hành tố tụng -
Kiểm sát viên nay đã được luật hoá trong BLTTHS 2003. Điều 37, BLTTHS quy
định về:
… Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm
sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời
khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kiểm sát việc bắt,
tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của
Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ
và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án,
tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những
người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;
Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; Thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự
phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát; Kiểm sát viên phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về
những hành vi và quyết định của mình... [92].
91
Như vậy, đánh giá chung về các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong BLTTHS 2003 đã mở rộng quyền hạn của Kiểm sát viên
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra đã
được trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án… đây là những bảo đảm pháp
luật để Kiểm sát viên chủ động hơn trong thực hành quyền công tố, là một trong
những yếu tố cơ bản để không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Bên cạnh đấy, quyền hạn của Kiểm sát viên còn được mở rộng bằng
việc quy định “Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của
Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát”. Quy định này
cũng kèm theo quy định chế tài, nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên đó là
“Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện
kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình...” [92].
Ngoài các quy định pháp luật liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
vai trò của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố đã nêu trên, thì để bảo
đảm cho Kiểm sát viên thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động thực hành
quyền công tố, một mặt bảo đảm được tính nghiêm minh, thống nhất của pháp
luật, mặt khác là nhằm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội. Bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công
dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ thì trong pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác có liên
quan đến hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên như (Luật tổ
chức Toà án nhân dân, pháp lệnh tổ chức toà án quân sự, pháp lệnh thẩm phán-
hội thẩm nhân dân toà án nhân dân năm 2002; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
2004, sửa đổi 2009; Luật luật sư 2006, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước 2009; Luật tố cáo 2011...) đã có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Điều tra viên;
Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Phó Viện trưởng; Toà án, Thẩm phán, Thư
92
ký, Hội thẩm....). Cũng như các chủ thể tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, tạm
giam..; bị can, bị cáo, luật sư, người giám định...). Đây là những chế định pháp
lý vừa có tính chất phối hợp, vừa có tính chế ước, kiểm soát đối với chủ thể pháp
lý Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
và xét xử vụ án hình sự.
Ngoài ra, có thể thấy rõ tính chế ước này trong những quy định mới của
pháp luật tố tụng hình sự (BLTTHS 2003). Các quy định tố tụng hình sự về vị trí
của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên toà; sự bình đẳng giữa
Kiểm sát viên (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa..). Kiểm sát
viên có nghĩa vụ (trước đây là có quyền) xét hỏi và tranh luận khi tham gia phiên
toà để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Với các quy định này, Kiểm sát viên
đã chủ động hơn, không còn là người chỉ “chứng kiến Hội đồng xét xử bảo vệ cáo
trạng cho Viện kiểm sát” [92].
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm; chất lượng công
tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn
nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do,
dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và các cơ quan tư pháp và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương cải
cách tư pháp. Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề về công tác tư
pháp, sau Nghị quyết 08-NQ/TW là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
“về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010 định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo tinh thần này chức năng
VKSND nói chung, Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói
riêng tiếp tục được điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn và bảo đảm hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là những cơ sở lý luận nền tảng, quan trọng
để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
trong những năm tiếp theo.
93
Hiến pháp năm 2013 ra đời đã tiếp tục khẳng định chức năng của VKSND
là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên khi thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chỉ tuân theo pháp luật và chịu
sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Đây là quy định khẳng định
vị trí độc lập của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung,
thực hành quyền công tố nói riêng. Tuy nhiên, cũng như Hiến pháp 1992 (sửa đổi,
bổ sung), Hiến pháp 2013 vẫn chưa xác định rõ vị trí của Viện kiểm sát nhân dân
thuộc nhánh quyền lực trong bộ máy Nhà nước mà chỉ “tạm xác định vị trí: Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Việc
quy định này là chưa phù hợp với quy định tại điều 2 của Hiến pháp: “Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng bảo đảm thực
hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp…; bảo đảm quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân; Tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử; phân
định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong
hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho… Kiểm sát
viên… để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.... Luật
tổ chức VKSND năm 2014 ban hành, hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002
và Pháp lệnh về Kiểm sát viên năm 2002 với nhiều quy định mới khẳng định chức
năng thực hành quyền công tố Kiểm sát các hoạt động tư pháp và mở rộng nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự.
Thực hành quyền công tố được xác định là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
94
vụ án hình sự. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 không quy định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
mà chỉ có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cụ thể khi thực hiện chức
năng này gồm:
…Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những
trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; Quyết định, phê chuẩn
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự; Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Khi cần thiết đề ra yêu
cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người
phạm tội; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết
định việc buộc tội đối với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra
trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật; Quyết định việc áp
dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố; Quyết định việc
truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ
lọt tội phạm, người phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự... [98].
95
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định: điều 74, thì
“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”; Tại Điều 83
quy định:
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát
viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân; Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực
hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư
pháp; Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân; Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp
luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp
thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng
vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải
chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi
hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình…; Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp do luật định... [92].
Cụ thể hoá các quy định của BLTTHS năm 2003 và Luật tổ chức VKSND
năm 2014, nội dung nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố được quy định trong Quy chế “công tác
kiểm sát việc tiếp nhanh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố - ban hành kèm theo Quyết định 422-QĐ-VKSNDTC, ngày 17/10/2014; Quy
chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-
VKSTC, ngày 2/1/2008; Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC, ngày 17/9/2007,
quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”.
96
Trên cơ sở của Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND cũng các quy định
mới về mặt tổ chức đó là: quy định 4 ngạch Kiểm sát viên ở 4 cấp kiểm sát là:
Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp và
Kiểm sát viên sơ cấp. Với quy định này, trong mỗi cấp kiểm sát đều có Kiểm sát
viên thuộc các ngạch khác nhau, như: VKSND tối cao có thể được 4 ngạch kiểm
sát; Ở Viện kiểm sát Quân sự Trung ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên
VKSND tối cao và có thể bố trí các ngạch kiểm sát (Kiểm sát viên cao cấp, trung
cấp, sơ cấp; các VKSND cấp cao có thể bố trí đủ 4 ngạch Kiểm sát viên; VKSND
khác có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Việc
xác định ngạch và bố trí Kiểm sát viên các ngạch khác nhau ở từng cấp kiểm sát
còn bảo đảm sự tương thích với việc bố trí Điều tra viên ở từng cấp trong CQĐT
hiện nay (CQĐT cấp huyện hiện nay bố trí cả Điều tra viên cao cấp) và phù hợp
với tính chất nhiệm vụ của từng cấp VKSND. Theo đó, Kiểm sát viên ở Viện
kiểm sát cấp trên có trình độ, kinh nghiệm cao hơn đội ngũ Kiểm sát viên ở Viện
kiểm sát cấp dưới, để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát cấp mình và
có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ cho Viện kiểm sát cấp dưới.
Và cũng xuất phát bản chất và nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát
của nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, của chủ thể pháp lý hiến định -
Kiểm sát viên, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), tại Điều 140 đã bổ sung
nội dung “Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân” [96]. Đây là quy định pháp lý thể hiện cơ chế kiểm soát quyền lực
của nhân dân đối với các Viện kiểm sát nhân dân địa phương nói chung, Kiểm sát
viên nói riêng.
97
Để bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả
thi của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành
quyền công tố nói riêng, theo tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi đổi sung),
Hiến pháp 2013 và cùng hướng tới mục đích cuối cùng và trên hết, là bảo vệ, tôn
trọng quyền con người, quyền công dân trong quá trình tiến hành tố tụng, nhiều
văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên cũng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mà tiêu biểu đó là:
Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014; Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015;
Luật giám định tư pháp 2012; Luật luật sư (sửa đổi 2012)…
Để hoàn thiện cơ chế phối hợp, chế ước trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự giữa Cơ quan điều tra, Điều tra viên với Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm
sát viên thì Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015 đã có quy định bổ sung
về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan được giao tiến hành một
số hoạt động điều tra (Điều 9) như: Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; các cơ
quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng Cảnh
sát biển; các cơ quan của Công an nhân dân; các cơ quan khác trong Quân đội
nhân dân; các cơ quan của Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra gồm Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư vùng. Đặc biệt là quy
định tại điều 11 của luật này: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra”, theo đó Viện kiểm sát phải phát hiện kịp thời và yêu cầu, kiến
nghị Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện
yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự; xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, để bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất với quy định của
Hiến pháp 2013 nói chung và của pháp luật về Kiểm sát VKSND trong thực
hành quyền công tố nói riêng thì Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự cần
phải ghi nhận chức năng hiến định “thực hành quyền công tố”, đồng thời phải
98
có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Điều tra viên
trong việc thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân và của
Kiểm sát viên.
Trong mối quan hệ giữa Toà án nhân dân, Thẩm phán với Viện kiểm sát
nhân dân, Kiểm sát viên nói riêng và các chủ thể tiến hành tố tụng khác nói
riêng trong giai đoạn xét xử cũng được pháp điển hoá và bổ sung một số nội
dung nhưng cơ tập trung nhất ở việc khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình
sự “Tòa án có thể tự kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ” mà cụ thể
đó là: a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài
liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập;
do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c)
Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu
cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh,
thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; d) Yêu
cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề
có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có
việc bỏ lọt tội phạm. Đây là những quy định pháp luật. Những quy định mới
này đã tạo nên được sự dân chủ trong phiên toà giữa Kiểm sát viên (chủ thể
pháp lý đại diện cho nhà nước thực hành quyền công tố) và các chủ thể tham
gia tố tụng khác mà đặc biệt là đối với bị cáo và người bào chữa của bị cáo.
Tuy nhiên, đặt dưới tiêu chí đồng bộ, thống nhất và toàn diện của hệ thống các
quy định pháp luật về Kiểm sát VKSND trong thực hành quyền công tố thì ta
cũng thấy rằng Luật tổ chức toà án nhân dân cần có những quy định cụ thể hơn
về cơ chế, trách nhiệm và chế tài áp dụng đối với Thẩm phán về quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật, thiếu tính khách quan và
trách nhiệm.
99
3.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố từ năm 2002 đến 2015
Quá trình thực hiện các quy định pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố cũng là quá trình kiểm chứng mức độ
hoàn thiện của các quy định này.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng
hiến định của Viện kiểm sát nhân dân, mỗi chức năng đều có những quy phạm
pháp luật cụ thể điều chỉnh, tuy nhiên giữa hai chức năng này luôn luôn tồn tại
mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ và kiểm soát nhau trong quá trình giải quyết
nguồn tin về tội phạm, giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, trong quá trình đánh giá
thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố không
thể tách rời kết quả thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp cũng như kết
quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của chủ thể pháp lý - Viện kiểm
sát nhân dân.
3.2.2.1. Những kết quả chủ yếu
Từ năm 2002 đến 2015, trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Bằng việc đề cao trách nhiệm thực hành quyền công tố, tăng cường
các biện pháp nghiệp vụ nhằm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống
làm oan người vô tội ngay từ khâu tiếp nhận, phân loại và xử lý tố giác, tin báo tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo
đảm mục tiêu cao nhất và cuối cùng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Theo quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đã chủ động đề ra yêu cầu xác
minh, yêu cầu điều tra, bám sát tiến độ và thúc đẩy có hiệu quả chất lượng công
tác điều tra. Tỷ lệ phát hiện tội phạm được nâng lên, số vụ khởi tố, điều tra năm
sau cao hơn năm trước.
Năm 2013 - 2014, VKSND các cấp tiếp tục thực hiện việc “tăng cường,
nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc giải quyết tố giác tin báo về tội
phạm”, qua đó đã yêu cầu khởi tố 405 vụ (giảm 8,3% so với năm 2012), trực tiếp
100
khởi tố và yêu cầu điều tra 20 vụ (giảm 71% so với năm 2012), hủy 92 quyết định
không khởi tố, quyết định khởi tố và yêu cầu điều tra [139]. Điều này cho thấy, vai
trò quan trọng của Kiểm sát viên trong việc đề xuất với Viện trưởng quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố; phê chuẩn, hoặc không phê chuẩn các lệnh, các quyết
định tố tụng của CQĐT.
Ngày 05/12/2013, Viện trưởng VKSND tối cao đã có Chỉ thị số 06/CT-
VKSTC về “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm” và qua
triển khai thực hiện cho thấy, Kiểm sát viên VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ
với CQĐT nói chung, Điều tra viên nói riêng để bám sát quá trình điều tra, kịp
thời đề ra yêu cầu điều tra sát với vụ án, đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế
tình trạng điều tra kéo dài; khắc phục cơ bản việc lạm dụng bắt khẩn cấp, việc
hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự, tạm giam, tạm giữ, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của con người, của công dân; hạn chế đáng kể việc bắt oan, sai; hạn
chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và CQQDT; đẩy
nhanh tiến độ giải quyết án; giảm đáng kể các trường hợp đình chỉ điều tra, đình
chỉ vụ án do bị can không phạm tội. Số vụ án Viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so
với tổng số vụ án đã kết thúc điều tra. Năm 2002, Viện kiểm sát các cấp truy tố đạt
96% so với số vụ đã kết thúc điều tra; giai đoạn 2006 -2007 đạt 99,1%, năm 2008
đạt 99%, năm 2009 đạt 98,68%, năm 2010 là 96,57%, năm 2011 là 96,91%, 6
tháng đầu năm 2012 là 92,17%; năm 2013 là 99,34% (vượt 9,34% so với chỉ tiêu
của Nghị quyết số 37/QH); trong đó, bảo đảm truy tố bị can đúng tội đạt 99,72%
(vượt 4,72% so với chỉ tiêu của Nghị quyết số số 37/QH) [141].
Để có sự thống nhất, nâng cao hiệu quả, chất lượng ở giai đoạn điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo quyết liệt triển khai đồng bộ các giải
pháp, kịp thời ban hành Chỉ thị triển khai hướng dẫn Nghị quyết số 33/2009/QH12
ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự để thực hiện thống nhất trong toàn ngành. Thực hiện chỉ đạo
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát các địa phương chủ động kiểm
101
sát trực tiếp và vận dụng các biện pháp kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm của CQĐT, góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt
tội phạm, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có
chuyển biến mạnh mẽ, đã giảm đáng kể các vụ án oan, sai và việc trả hồ sơ điều
tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Viện kiểm sát các cấp đã tập trung chỉ đạo, xử lý đối với các vụ án trọng
điểm về an ninh quốc gia, án ma túy, án tham nhũng và các vụ án nghiêm trọng,
phức tạp khác; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng tìm biện pháp khắc
phục những vướng mắc về chứng cứ để giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm
đã được khởi tố điều tra, như vụ “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban quản lý dự án xây dựng Tượng đài chiến thắng
Điện Biên Phủ; vụ “Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ”, “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban điều hành Đề án Tin học hóa quản lý hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005 (Đề án 112); vụ “Tham ô tài sản”, “cố ý làm
trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy
ra tại Dự án Đại lộ Đông Tây và Môi trường nước, thành phố Hồ Chí Minh.
Thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, các Viện kiểm sát chủ động phối hợp
với CQĐT, kiểm sát 100% các vụ án ngay từ khi khởi tố; nâng cao trách nhiệm
trong việc phê chuẩn và ban hành các lệnh, quyết định thuộc thẩm quyền, đảm bảo
có căn cứ, đúng pháp luật; nắm chắc tiến độ điều tra, bảo đảm việc thu thập chứng
cứ đầy đủ, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật; chú trọng ban
hành và nâng cao chất lượng các yêu cầu điều tra.
Thực hiện BLTTHS năm 2003, ngày 29/04/2004, Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã thông qua Nghị quyết số 523/2004/NQ-UBTVQH 11 về việc giao thẩm
quyền xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 cho Tòa án
nhân dân cấp huyện. Theo đó, năm 2004 có 107 Viện kiểm sát cấp huyện được
tăng thẩm quyền xét xử (90 Tòa án nhân dân quận, huyện thị xã thuộc tỉnh và 17
102
Toà án quân sự khu vực), tương ứng là 107 CQĐT. Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã chỉ đạo các đơn vị trong ngành kiện toàn bộ máy, tăng cường các Kiểm sát
viên có năng lực, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho Kiểm sát viên cấp huyện, bổ
sung kinh phí, trang thiết bị làm việc, tăng cường kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ
cho các Viện kiểm sát cấp huyện được tăng thẩm quyền nhằm tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành kiểm tra
việc thực hiện tăng thẩm quyền của các Viện kiểm sát cấp huyện tương ứng với
việc tăng thẩm quyền của các Tòa án cấp huyện. Kết quả kiểm tra cho thấy năm
2005: Án thụ lý kiểm sát điều tra của các đơn vị cấp huyện được tăng thẩm quyền
tăng 27,3% về số vụ, tăng 32,8% về số bị can so với cùng kỳ năm 2004. Mặc dù
vậy, chất lượng giải quyết án ở các đơn vị được tăng thẩm quyền về cơ bản vẫn
đảm bảo các quy định của pháp luật [138].
Thực hiện Nghị quyết 388-NQ/QH 11, ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Viện kiểm sát nhân dân các địa phương đã
tiến hành rà soát các trường hợp bị oan thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát, chủ
động xem xét giải quyết việc bồi thường cho người bị oan khi có đơn yêu cầu.
Viện kiểm sát các cấp đã tiếp nhận 95 đơn yêu cầu bồi thường của người bị oan
(các trường hợp có đơn yêu cầu bồi thường này đều xảy ra trước ngày 1/10/2004).
trình giải quyết đã công khai xin lỗi đối với 26 người; thương lượng bồi thường
xong cho 45 người với tổng số tiền 1.104.559.199 đ. Có 07 người, Viện kiểm sát
đã thương lượng bồi thường vật chất nhiều lần nhưng không thành. Những người
này đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn lại đang tiếp tục thương lượng
giải quyết cho 32 người [138].
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo việc kiểm điểm, xác định rõ trách
nhiệm của các cá nhân có liên quan đến việc làm oan. Đến nay, toàn ngành đã
kiểm điểm, xem xét trách nhiệm đối với 50 cán bộ, trong đó có 01 Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh, 19 Viện trưởng, Phó Viện trưởng cấp huyện, 30
103
Kiểm sát viên các cấp. Đã xử lý kỷ luật cảnh cáo 01 người, 02 người bị khiển
trách, 47 người kiểm điểm rút kinh nghiệm [138].
Trong xét xử các vụ án hình sự, chất lượng thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên từng bước được nâng cao, góp phần để Tòa án ra bản án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Quán triệt chủ trương cải
cách tư pháp, Viện kiểm sát các cấp đã chủ động, tích cực phối hợp với Tòa án tổ
chức nhiều phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, qua đó nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa; kỹ năng xét hỏi, đối đáp và chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên được nâng lên.
Việc thực hiện thông khâu kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm đã
giúp cho Kiểm sát viên nắm chắc hồ sơ từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử. Kiểm
sát viên đã chủ động tham gia xét hỏi, kiểm tra tài liệu, chứng cứ; tích cực, chủ
động tham gia tranh luận, đối đáp với luật sư và các chủ thể khác tham gia tranh
tụng tại phiên tòa, tạo chuyển biến tích cực trong xét xử của tòa án các cấp, phiên
tòa được diễn ra dân chủ và bình đẳng hơn.
Việc rút kinh nghiệm tổ chức các phiên tòa trong nhiều năm đã được Viện
kiểm sát các cấp tăng cường nhằm mục tiêu 100% Kiểm sát viên thực hành tốt
quyền công tố tại các phiên tòa hình sự (đã tổ chức 4.072 phiên tòa rút kinh
nghiệm trong năm 2013, tăng 37,8% so với năm 2012) [139], góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả tranh tụng của Kiểm sát viên, bảo đảm hiệu lực, vai trò của
quyền công tố trong việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội trong các phiên
tòa xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện nhiều biện pháp tăng
cường trách nhiệm của Kiểm sát viên, tích cực phát hiện những sai sót, vi phạm
thông qua việc kiểm sát các bản án, quyết định và hoạt động xét xử của Tòa án;
qua đó, kịp thời ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục, sửa chữa.
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương đẩy mạnh thực hiện cải cách tư
pháp, hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã có những chuyển biến
tích cực (năm 2010, khởi tố 21 vụ, tăng gấp hơn 2 lần (21/10 vụ) so với năm 2009;
năm 2011, khởi tố 52 vụ) [138]. Các vụ án do Cơ quan điều tra VKSND tối cao
khởi tố, điều tra đều được tiến hành kiểm sát chặt chẽ theo đúng các quy định của
104
pháp luật. Qua điều tra, giải quyết các vụ án, Cơ quan điều tra VKSND tối cao
tiếp tục rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra; ban hành kiến nghị
yêu cầu các cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý thực hiện các biện pháp phòng ngừa
tội phạm, vi phạm pháp luật. Tuy số lượng án được CQĐT của Viện kiểm sát khởi
tố, điều tra không nhiều, nhưng qua việc thực hiện thẩm quyền điều tra, VKSND
đã góp phần chấn chỉnh hoạt động tư pháp.
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự được chú trọng nhằm
bảo đảm việc giam giữ đúng pháp luật, chế độ giam giữ được chấp hành nghiêm
chỉnh, tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của người bị giam, giữ và
các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Mỗi năm, Viện
kiểm sát các cấp đã quyết định trả tự do cho hàng chục người bị giam giữ không
có căn cứ và trái pháp luật (năm 2006: 43 người, năm 2007: 32 người, năm 2008:
52 người), từ 1998 - 2008, có 447 người bị tạm giữ, 569 người bị tạm giam được
trả tự do [138]; Các kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát được Toà
án, Cơ quan Công an, Cơ quan Thi hành án khắc phục kịp thời.
3.2.2.2. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
* Bất cập về thể chế pháp lý
Thứ nhất, về phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, theo
khoản 1 Điều 23 BLTTHS hiện hành quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa”,
theo đó, Viện kiểm sát chỉ thực hành quyền công tố, quyết định truy tố người phạm
tội ra trước Tòa án, còn từ giai đoạn Tòa án xét xử trở về sau Viện kiểm sát không
thực hành quyền công tố. Khoản 2 Điều này về thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật tiếp tục quy định phạm vi kiểm sát tương tự như khoản 1.
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 23 BLTTHS lại quy định phạm vi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật rộng hơn sang cả lĩnh vực thi
hành án. Theo đó, VKSND không chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đối với cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được quy định tại khoản 1, 2
105
Điều 23 mà còn có quyền và trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan thi hành án (hình sự, dân sự) (như
Điều 257 BLTTHS). Điều này thể hiện sự chưa rõ ràng giữa việc thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp
khác (như thi hành án).
Khắc phục hạn chế này, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ
ràng phạm vi nội hàm hai loại quyền công tố và quyền kiểm sát hoạt động tư
pháp, theo đó, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố được giới hạn như khoản
1, 2 Điều 23 BLTTHS và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ bao hàm cả lĩnh
vực tố tụng hình sự và các hoạt động tư pháp khác. Tuy nhiên, ngay cả trong
điều 20 BLTTHS 2015 (chưa có hiệu lực) cũng không có được sự phân biệt rõ
trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND trong hoạt động thi hành án. Do vậy, trong thời gian tới, việc sửa đổi,
bổ sung BLTTHS cần điều chỉnh, thống nhất với Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014.
Thứ hai, BLTTHS năm 2003 quy định giới hạn VKSND chỉ có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKSND hủy bỏ quyết định
không khởi tố của CQĐT (Điều 104 BLTTHS); chỉ khởi tố bị can sau khi nhận hồ
sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác thực hiện hành vi phạm tội
chưa được khởi tố (Điều 126 BLTTHS) là không phù hợp với vai trò, trách nhiệm
của cơ quan thực hành quyền công tố. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực
hiện chức năng công tố, quyết định việc khởi tố vụ án nhưng không có quyền xác
minh, chỉ kiểm sát kết quả giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố. Quy định VKSND phải chuyển ngay các tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho CQĐT nhưng chưa quy định trách nhiệm của
CQĐT thông báo trở lại cho VKSND các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố đã tiếp nhận được; chưa quy định cụ thể trách nhiệm thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đối với hoạt động khởi
tố, điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra (Điều 103 BLTTHS).
106
Thứ ba, Bộ luật Hình sự chưa có chế tài xử lý áp dụng đối với chủ thể là
thủ trưởng cơ quan, nhà nước cố tình không thông báo hành vi phạm tội xảy ra
trong cơ quan và trong lĩnh vực mình quản lý cho CQĐT, Viện kiểm sát. Mặc dù
tại điều 26, BLTTHS hiện hành; điều 5, Luật Tố tụng hình sự (TTHS) 2015 (chưa
Bộ có hiệu lực) đã có quy định về trách nhiệm của người thủ trưởng cơ quan nhà
nước trong việc không thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi
phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực mình quản lý cho CQĐT, Viện
kiểm sát.
Trong thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thì
việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm có một vị trí quan trọng trong việc
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ “bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử
lý kịp thời… không để lọt tội phạm và người phạm tội..”. Để bảo đảm cho Viện
kiểm sát nhân dân nói riêng, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung thực hiện có hiệu
quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thì trong BLTTHS (hiện hành) tại
điều 25, 26 có quy định về trách nhiệm, sự phối hợp của các tổ chức và công dân,
giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng. Quy định này trong
một thời gian dài đã góp phần tạo cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn
thành nhiệm vụ đầu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện
nay, thực tiễn tình hình tội phạm cho thấy có nhiều vụ án hình sự gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng xảy ra trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức mặc dù người
thủ trưởng biết nhưng vẫn không thông báo kịp thời đến CQĐT, Viện kiểm sát
theo quy định của BLTTHS. Đặc biệt là trong các cơ quan mang tính đặc thù như
đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan hành chính nhà nước, doanh nghiệp nhà
nước… Vì vậy, Bộ luật hình sự cần quy định một tội danh có chế tài đủ mạnh để
loại trừ hành vi vi phạm pháp luật này.
* Bất cập về cơ chế bảo đảm địa vị pháp lý hiến định của Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố
Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân nói chung, cá nhân Kiểm sát viên có
thẩm quyền nói riêng phải chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc khởi tố,
107
bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của Viện trưởng,
hoặc những nội dung, kết quả xử lý vụ án mà Kiểm sát viên được Viện trưởng
phân công giải quyết. Tuy nhiên, BLTTHS lại thiếu các biện pháp áp dụng, thiếu
các chế tài pháp lý đối với những trường hợp Cơ quan điều tra, Điều tra viên
không thực hiện đầy đủ các yêu cầu thực hành quyền công tố của VKSND, hoặc
các yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm;
giải quyết vụ án hình sự (Điều 114 BLTTHS). Đặc biệt là trong các hoạt động
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện… đây
là những hoạt động tố tụng không chỉ đòi hỏi phải đúng theo quy định của pháp
luật mà còn phải bảo đảm được tính kịp thời. Kết quả của các hoạt động tố tụng
nói trên trong một số trường hợp sẽ chỉ mang tính khách quan, khi được các chủ
thể tiến hành tố tụng thực hiện ngay sau khi phát hiện tội phạm xảy ra. Thực tiễn
các án oan sai mà Viện kiểm sát đang giải quyết đền bù trong 05 năm gần đây, rất
nhiều trường hợp có nguyên nhân từ việc không thể tiến hành lại các hoạt động
khám nghiệm, thực nghiệm hoặc trưng cầu giám định. Vì vậy, cần phải có quy
định bảo đảm để Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong các hoạt động
khám nghiệm tử thi, hiện trường, phương tiện, chứ không chỉ dừng lại ở việc kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong các hoạt động tố tụng này. Và cần phải có chế tài
xử lý cụ thể, đủ sức răn đe khi các yêu cầu của Kiểm sát viên đối với người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình thực hành quyền công tố
không được thực hiện một cách triệt để và kịp thời.
Thứ hai, một trong những nguyên tắc phân công quản lý nhà nước, đặc biệt
là trong quản lý hành chính nhà nước, đó là chế độ Thủ trưởng. Thủ trưởng các cơ
quan sử dụng nguyên tắc này để chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động của cơ quan.
Trong ngành Kiểm sát, xuất phát từ nguyên tắc “Tập trung thống nhất lãnh đạo
trong ngành”, khi tiến hành tố tụng, khác với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
trong xét xử vụ án hình sự triệt để tuân theo nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”, thì hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên lại mang tính
độc lập đặc thù. Đó là, Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố vừa phải tuân
108
theo pháp luật, vừa phải thực hiện sự chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng
hoặc người được sự ủy quyền của Viện trưởng. Vì vậy, để bảo đảm được tính hiệu
quả của nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong nghành” đáp ứng được
yêu cầu, chủ trương của Đảng về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng theo hướng tăng quyền và
trách nhiệm cho Kiểm sát viên thì pháp luật về Kiểm sát viên còn thiếu các quy
định cụ thể phân chia rõ thẩm quyền của Viện trưởng đối với Kiểm sát viên sau
khi đã ra quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc giải quyết vụ
án hình sự.
Thứ ba, BLTTHS còn có những bất cập trong thực hiện các quy định pháp
luật về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.
Theo quy định của Hiến pháp và được cụ thể hoá trong điều 37 BLTTHS
(hiện hành) thì Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý có nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự. Kiểm sát viên có quyền đề ra yêu cầu
điều tra. Yêu cầu điều tra là văn bản pháp lý thể hiện toàn bộ nội dung công việc
mà Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên phải tiến hành để phục vụ cho việc Viện
kiểm sát quyết định truy tố hoặc không truy tố bị can ra xét xử trước Toà án. Tuy
nhiên, BLTTHS (hiện hành) là không có quy định cụ thể hậu quả pháp lý sẽ áp
dụng đối với Điều tra viên các trường hợp Điều tra viên không thực hiện, không
thực hiện đầy đủ, kịp thời các nội dung yêu cầu điều tra, yêu cầu xác minh của
Kiểm sát viên. Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền Thủ trưởng CQĐT yêu cầu
thay đổi Điều tra viên nhưng lại không có quy định định thời gian thực hiện cụ
thể. Mặc dù thời gian điều tra của vụ án thì được quy định và giới hạn cụ thể.
Trong BLTTHS 2015 (chưa có hiệu lực), tại Điều 42 có quy định Kiểm sát viên
có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng nhưng vẫn không có quy định
cụ thể trường hợp và thời gian hay đổi người tiến hành tố tụng. Nếu BLTTHS
không có các quy định chặt chẽ về vấn đề này, thì sẽ làm hạn chế chức năng,
109
quyền hạn cũng như sự chủ động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hợp thời
gian điều tra bị kéo dài quá hạn; Viện kiểm sát phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Tại điều 3, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định VKSND
thực hành quyền công tố “ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
Đây là một quy định mới so với các quy định của BLTTHS (hiện hành) và đã cụ thể
hoá được chủ trương của Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong thực hành quyền công tố ở các giai đoạn tố tụng. Thời gian trước đây trong
thực tiễn, hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, được
xem như là một hoạt động tiền khởi tố. Nhiệm vụ này thường do CQĐT chủ động
thực hiện. Từ khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 có hiệu lực, Kiểm sát
viên được Viện trưởng phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố sẽ có yêu cầu xác minh gửi cho Điều tra viên, trong đó ghi rõ các nội dung
Điều tra viên cần thu thập để có cơ sở để ra Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án. Tuy nhiên, ngay cả trong BLTTHS 2015, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014 cũng không có quy định ghi nhận “Yêu cầu xác minh” là một văn bản tố
tụng thuộc thẩm quyền của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, tại khoản 1, điều 3, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 chỉ ghi nhận: “Thực hành quyền công tố là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác… xét xử vụ án hình sự”, là chưa chính xác về phạm vi phát động quyền công
tố. Vì thực tiễn cho thấy ngay từ khi Viện kiểm sát “tiếp nhận” nguồn tin tội phạm,
quyền công tố của Kiểm sát viên đã được phát động thể hiện qua quy định vào sổ
đăng ký, yêu cầu cơ quan điều tra xác minh ban đầu.
* Những bất cập về cơ cấu tổ chức và các yếu tố bảo đảm cho Viện kiểm
sát nhân dân và Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Theo Báo cáo tổng kết Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các Pháp
lệnh năm 2002 cho thấy, công tác đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Viện
110
kiểm sát các cấp có lúc còn nóng vội. Có thời gian (từ 2004 - 2006), tổ chức bộ
máy các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ở VKSND tối cao và
VKSND cấp tỉnh chưa được cân nhắc kỹ lưỡng, nên đã thực hiện việc sáp nhập
các đơn vị, sau đó qua hoạt động thực tiễn, thấy rằng không phù hợp, nhất là trong
mối tương quan với tổ chức của CQĐT của Bộ Công an, nên lại phải tách ra cho
phù hợp. Ngược lại, có lúc lại chưa đổi mới kịp thời, ví dụ như: chậm đổi mới
kiện toàn các đơn vị làm công tác kiểm sát giải quyết vụ, việc dân sự, vụ án hành
chính, kiểm sát thi hành án…
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát địa phương được tổ chức theo 5
mô hình, có nơi tổ chức 14 phòng trực thuộc, nhưng có nơi chỉ có 08 phòng, điều
này phụ thuộc vào điều kiện thực tế của từng địa phương, tuy nhiên, lại tạo nên
sự thiếu đồng bộ, thống nhất, khó khăn cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
và công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Những biến động về cơ cấu tổ chức
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên.
Một số nơi, hoạt động của Viện kiểm sát còn bị chi phối bởi sự tác động
của các cấp chính quyền, chưa tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc độc lập, không phụ
thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
Pháp luật quy định mỗi cấp Viện kiểm sát có nhiều ngạch Kiểm sát viên,
nhưng lại chưa quy định về cơ cấu, tỷ lệ mỗi loại Kiểm sát viên ở mỗi cấp Viện
kiểm sát; chưa phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các loại Kiểm sát viên. Cho
đến nay, VKSND các cấp vẫn chưa thực hiện được quy định này do vướng về cơ
chế tuyển chọn Kiểm sát viên; đồng thời bị giới hạn bởi số lượng Kiểm sát viên
các cấp do Ủy ban Thường vụ của Quốc hội quyết định.
Về bảo đảm điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát: Kinh phí bảo đảm
hoạt động của ngành Kiểm sát còn thấp so với yêu cầu thực tế; đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của Viện kiểm sát các cấp tuy đã được
quan tâm hơn, nhưng vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở cấp huyện;
trụ sở làm việc của nhiều Viện kiểm sát địa phương đã lạc hậu, xuống cấp
111
nghiêm trọng, không có nhà để xe, nhà công vụ; vẫn còn có Viện kiểm sát phải
đi thuê trụ sở làm việc.
Quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 05 năm là không
phù hợp, bởi vì, Kiểm sát viên là chức danh tố tụng, gắn với hoạt động nghề
nghiệp (không phải là chức vụ quản lý); do đó, người đã đủ điều kiện để được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên để thực hiện hoạt động nghề nghiệp thì họ phải được
công nhận chức danh nghề nghiệp đó cho đến khi họ thôi không còn thực hiện
nghề nghiệp đó nữa, trừ trường hợp họ vi phạm các quy định về hoạt động nghề
nghiệp thì sẽ bị miễn nhiệm.
- Những hạn chế của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố
Từ những bất cập về tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất của pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố như vừa nêu trên đã dẫn
đến những hạn chế nhất định đối với hiệu quả và chất lượng thực hành quyền công
tố của Kiểm sát viên trên thực tiễn của nghành kiểm sát hiện nay.
Do BLTTHS trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên, VKSND khi thực hành quyền công tố trong các giai đoạn khởi tố, truy tố, xét
xử còn chưa đồng bộ, thống nhất nên dẫn đến vẫn còn trường hợp Kiểm sát viên
VKSND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm còn thiếu chủ động, chưa thật sự
gắn được công tố với điều tra. Thể hiện cụ thể là ở số lượng án trả hồ sơ điều tra
bổ sung còn chiếm tỉ lệ cao. Vẫn còn nhiều vụ án oan sai mà nguyên nhân là do
kết quả công tác khám nghiệm của cơ quan điều tra chưa áp ứng đầy đủ và kịp
thời các nội dung yêu cầu của Kiểm sát viên.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên VKSND các cấp vẫn chưa thực sự chủ động, còn hiện tượng
thụ động, chờ việc, để đến khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra, đề nghị xử lý thì
Kiểm sát viên mới thực sự “vào cuộc”, dẫn đến có trường hợp chất lượng hồ sơ
điều tra chưa bảo đảm, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, chặt chẽ, nhất là
những vụ án tham nhũng, kinh tế và chức vụ. Còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội
112
phạm trong quá trình điều tra hoặc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc
phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội... Thời hạn điều tra, xử lý một số
vụ án, nhất là án tham nhũng, án trọng điểm còn có trường hợp bị kéo dài trong đó
có trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND.. Bên cạnh đó cũng có nhiều trường
hợp Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ, sau khi Viện kiểm sát
trả hồ sơ mà không có bổ sung gì thì Thẩm phán vẫn xét xử và ra bản án đúng
pháp luật, dẫn đến thời gian xử lý án kéo dài gây mất lòng tin của nhân dân đối
với tính nghiêm minh của pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
của một số Kiểm sát viên còn chưa cao, chưa ngang tầm với yêu cầu cải cách tư
pháp, có Kiểm sát viên còn thụ động, lúng túng khi xét hỏi bị cáo, chưa tích cực
tranh luận để bác bỏ những luận điểm không đúng của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng… Một số vụ án có bản án chưa phù hợp nhưng Kiểm sát
viên chưa kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo VKSND kháng nghị kịp thời. Nguyên
nhân của các hạn chế nêu trên là do pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố còn thiếu vắng một số các quy định pháp lý bảo đảm để
Kiểm sát viên tăng cường được sự chủ động và gắn trách nhiệm trong quá trình
thực hành quyền công tố.
- Nguyên nhân của hạn chế của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa có sự phân định rõ giữa thẩm
quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn thực hành quyền công tố
của Viện trưởng, Phó Viện trưởng đối với Kiểm sát viên. Đặc biệt là thời điểm tố
tụng sau khi Kiểm sát viên có quyết định phân công giải quyết nguồn tin về tội
phạm; quyết định phân công giải quyết vụ án hình sự
Quy định nguyên tắc “tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành” đã phát
huy vai trò tích cực, nhất là khi Viện kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm sát
chung. Tuy nhiên, đến nay cần phải xem xét điều chỉnh lại phạm vi nội dung của
nguyên tắc này để bảo đảm thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp là tăng quyền và
113
trách nhiệm cho Kiểm sát viên, Điều tra viên để họ chủ động trong thực thi nhiệm
vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và
quyết định tố tụng của mình. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một cách
đồng bộ các quy định của pháp luật liên quan đến nguyên tắc này để đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới.
Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ
chức cơ quan điều tra và các văn bản pháp luật khác có liên quan còn thiếu những
quy định, chế tài đủ mạnh và thống nhất để bảo đảm được địa vị pháp lý hiến định
của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.
Chính sách, chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát
viên chậm được điều chỉnh, bổ sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được
giao. Việc quy định chế độ tiền lương của Kiểm sát viên được áp dụng giống như
cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ quản lý hành chính là không phù hợp
với tính chất đặc thù của công tác của Viện kiểm sát. Các chế độ ưu tiên đối với
Kiểm sát viên, Điều tra viên ngành Kiểm sát cũng chưa được quy định cụ thể và
chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Do đó, chưa bảo đảm khuyến khích, tạo điều
kiện để đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên yên tâm công tác, cố gắng phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ.
Tiểu kết chương 3
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố từ năm 1945 đến nay cho thấy thấy các
quy định pháp luật đã không ngừng được hoàn thiện theo yêu cầu, nhiệm vụ
của mỗi giai đoạn. Tuy nhiên, cái bất biến trong những quy định nói trên là
công tố luôn là một chức năng cơ bản của Viện kiểm sát/Viện công tố và Kiểm
sát viên là chủ thể chủ yếu thực hiện chức năng này. Những năm đầu của chính
quyền dân chủ nhân dân, Nhà nước ta đã lựa chọn mô hình Viện công tố nằm
trong Tòa án như là một giải pháp quá độ trước khi chuyển sang mô hình Viện
kiểm sát trên cơ sở học thuyết pháp chế XHCN mà các nước XHCN trước đây
cũng như hiện nay đã chọn. Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng, có nhiệm
114
vụ thực hành quyền công tố trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật
quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.
Cùng với thời gian, pháp luật quy định về chủ thể thực hành quyền công tố
cũng được hình thành và từng bước hoàn thiện, phát triển với trọng tâm là thực
hiện chức năng chỉ đạo điều tra, truy tố và buộc tội người phạm tội tại Tòa án
khi xét xử, với mục đích là bảo đảm giữ vững nền độc lập của đất nước, bảo vệ
Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội và bảo vệ pháp luật.
Từ khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Luật tổ chức VKSND năm
2014 đã được thông qua trên cơ sở hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002
và Pháp lệnh về Kiểm sát viên năm 2002, tạo cơ sở cao nhất và thống nhất cho
mọi hoạt động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Đặc
biệt lần đầu tiên Luật đã có sự phân định rõ chức năng thực hành quyền công tố
và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đưa việc thực hành
quyền công tố ngay từ khi phát hiện, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tội phạm
cho đến khi kết thúc xét xử, bảo đảm được mục tiêu ngay từ đầu của chức năng
công tố.
Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và thực tiễn tình
hình đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mở cửa và hội nhập quốc
tế thì các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố thì vẫn còn bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện
đó là tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, tính công khai, minh bạch và khả thi
của hệ thống các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền
công tố. Bên cạnh đó là sự chưa minh định về thẩm quyền quản lý hành chính
với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng
tăng quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên bảo đảm để Kiểm sát viên chủ
động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
115
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố phải phù hợp chủ trương cải cách tư pháp
của Đảng trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND trong tình hình mới phải quán
triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, góp phần thực
hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Kiểm sát viên là một trong những chủ thể tiến hành tố tụng
hình sự, có nhiệm vụ thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần quán triệt
sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong lĩnh vực tư pháp.
Trong tiến trình "hội nhập, mở cửa", quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng,
các đối tượng phạm tội là người nước ngoài ngày càng nhiều và có xu hướng gia
tăng... đòi hỏi phải nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Sự lãnh đạo của
Đảng phải được bảo đảm trong tất cả các quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN và trong tất cả các quy trình xây dựng pháp luật, từ khảo sát thực
tiễn, tổng kết thực tiễn đến lựa chọn nội dung sửa đổi, bổ sung, xây dựng dự án,
đề án, lấy ý kiến, thảo luận, biểu quyết thông qua dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
116
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã khẳng
định chủ trương tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp;
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước
hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân [37, tr.178-179]. Trên tinh thần đó, công tác cải cách tư
pháp, trong đó có hoàn thiện thể chế pháp lý về Kiểm sát viên phải quán triệt đầy
đủ, sâu sắc hơn nữa chủ trương cải cách tư pháp nêu tại Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị và các văn kiện khác của Đảng, bám sát các nội dung
về quan điểm và nhiệm vụ cải cách tư pháp được Bộ Chính trị điều chỉnh tại Kết
luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014.
Từ những quan điểm chỉ đạo chung đối với cơ quan VKSND, Đảng ta
cũng có những quan điểm chỉ đạo cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật riêng
cho các chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên. Xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với chủ trương chung, trên
cơ sở quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể về tổ chức và
hoạt động của mỗi cơ quan tư pháp. Để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong
sạch, vững mạnh, đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, các
nghị quyết về cải cách tư pháp của Đảng [10, tr.49] nêu rõ phương hướng đổi
mới, nâng cao chất lượng cán bộ, chức danh tư pháp với các nội dung cơ bản
sau: Đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của chức danh pháp lý, nâng cao và
cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và
kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ
thi tuyển đối với toàn bộ các chức danh pháp lý, đối với ngành Kiểm sát là các
ngạch Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Điều tra viên; Phân định rõ thẩm quyền
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng
tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên
để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
117
Đây là những định hướng rất quan trọng trong toàn bộ tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, xuất phát từ nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong hệ thống quyền lực nhà
nước, về sự đóng góp to lớn của ngành Kiểm sát nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta và những mong đợi của xã hội, của nhân
dân trong quá trình phát triển tiếp theo của đất nước. Là cơ sở quan trọng để việc
hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố,
bám sát và đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố phải được tiến hành toàn diện, đồng bộ,
thống nhất với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp,
phù hợp với yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Hệ thống pháp luật quốc gia chứa đựng mối liên hệ mật thiết giữa các
chế định pháp luật trong một thể thống nhất. Đó là mối quan hệ biện chứng
giữa các bộ phận trong sự vật, hiện tượng. Trong khi, sự vận động của các
quan hệ pháp luật luôn có ảnh hưởng qua lại, tương tác với nhau, tạo nên sự
phát triển của cả hệ thống quan hệ xã hội vận động theo quy luật khách quan.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân hiện nay ở Việt Nam, vấn đề bảo đảm và thúc đẩy
quyền con người vừa được xem là nhân tố khẳng định tính chất pháp quyền
của Nhà nước, vừa là mục tiêu, yêu cầu đòi hỏi các cơ quan trong bộ máy Nhà
nước nói chung phải chú trọng thực hiện trong thực tiễn hoạt động. Chính vì
vậy, sự hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố phải được đặt trong sự hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật nói
chung, đặc biệt là pháp luật về tố tụng hình sự. Việc hoàn thiện pháp luật phải
nhằm thể chế hóa đầy đủ và kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng về
quyền con người, phải được tiến hành đồng bộ với việc hoàn thiện hệ thống
chính sách về quyền con người và mức độ bảo đảm các quyền đó và được
thực hiện theo từng lộ trình phù hợp với từng thời kỳ phát triển của kinh tế -
118
xã hội. Quyền con người là những quyền được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc
ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các
bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi
nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như
Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965,
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về
quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006
v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa
bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại. Tiếp tục kế thừa và phát triển những
quy định của các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới căn
bản, quan trọng cả về cơ cấu, bố cục, cách viết và nội dung.
Như đã trình bày ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực
hành quyền công tố là một bộ phận không thể tách rời của pháp luật về
VKSND. Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố được hình thành trên cơ sở các quy định về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của VKSND trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố
phải tuân thủ các quy định pháp luật đã được Luật Hiến pháp quy định, mà cụ
thể ở đây là Hiến pháp 2013. Nói một cách cụ thể hơn, phải được tiến hành
đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật về
tổ chức, hoạt động của VKSND.
119
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực
tiễn hoạt động của Viện kiểm sát
Việc tổng kết thực tiễn là điều kiện bảo đảm đầu tiên để hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Bởi lẽ, thông qua
việc tổng kết về chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên chúng ta mới có cơ sở để đánh giá một cách khách quan, hệ thống
và toàn diện những ưu điểm, những kết quả đã đạt được cũng như những khó
khăn, bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành trong quá trình tổ chức thực hiện
và áp dụng pháp luật, từ đó xác định rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng
yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đối với hoạt động thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên. Việc tổng kết thực tiễn còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh
giá và kiểm định chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, Viện
kiểm sát nhân dân nói riêng.
Quá trình tổng kết thực tiễn pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố cần phải được nghiên cứu một cách khách quan, toàn
diện, gắn liền với từng giai đoạn lịch sử cụ thể của dân tộc. Như đã trình bày
trên, Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý, một chủ thể tiến hành tố tụng của
Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm và vụ án hình sự.
Bên cạnh chức chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn
có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp (việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực tư pháp). Hai chức năng, nhiệm vụ này của Kiểm sát viên luôn được tiến
hành song song trong quá trình nguồn tin về tội phạm, giải quyết vụ án hình sự
và giữa hai chức năng này có sự tác động qua lại lẫn nhau để đảm bảo cho Kiểm
sát viên thực hiện tốt việc “buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội” ngay
từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Vì vậy, để bảo đảm cho chủ
thể Kiểm sát viên thực hành quyền công tố một cách hiệu quả thì việc hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải gắn liền
120
với việc tổng kết thực tiễn, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Mặt khác, như chúng tôi đã trình bày trên, chức năng và
nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng và
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung là một bộ phận không tách rời
khỏi chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Do đó, trong quá trình
tổng kết thực tiễn hướng đến mục đích hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố cần đặc biệt chú ý đến mối quan hệ hữu
cơ trong hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát.
Ngoài ra yêu cầu tổng kết thực tiễn một cách toàn diện, khách quan còn bao hàm
cả nội dung đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Kiểm sát
viên với các chủ thể tiến hành tố tụng khác (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT,
Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó
Chánh án Toà án, Thẩm pháp, Hội thẩm, Thư ký toà án) và ngay cả với các chủ
thể tham gia tố tụng (Người bị tạm giữ; Bị can; Bị cáo, Người bị hại; Nguyên
đơn dân sự; Bị đơn dân sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
Người làm chứng; Người bào chữa…); Các Cơ quan tiến hành tố tụng có liên
quan đến thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên; Trách nhiệm của các tổ
chức và công dân, thủ trưởng cơ quan nhà nước khi thực hiện yêu cầu của Kiểm
sát viên khi thực hành quyền công tố.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
trong thực hành quyền công tố cần tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm các
nước có nền tư pháp tiên tiến
Hiện nay, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta đã
được luật hóa. Tuy nhiên, chất lượng thực hiện ở từng khâu phụ thuộc vào năng
lực, đạo đức và trách nhiệm của cán bộ. Ở đây, cần chú ý đến mối quan hệ giữa
chính sách hình sự, đường lối về cải cách tư pháp của Đảng với việc chi tiết hóa
các chính sách, đường lối ấy trong pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố. Pháp luật ở lĩnh vực này còn nhiều quy định thiếu tính
khả thi dẫn đến hiệu quả của pháp luật trong đời sống chưa cao, thậm chí, một số
121
quy định chưa thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống nên có văn bản vừa ban
hành đã phải sửa đổi, bổ sung dẫn đến lãng phí tiền của của nhân dân, làm giảm
uy tín của Đảng và Nhà nước. Một số ý kiến còn cho rằng, chất lượng "làm luật"
của nước ta còn quá thấp do quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn
chưa hợp lý và khoa học, chúng ta chưa phát huy tốt vài trò phản biện xã hội của
các tầng lớp nhân dân, Hiện tại, chúng ta vẫn đang duy trì làm luật theo phương
thức "làm văn tập thể", bàn bạc và biểu quyết thông qua tại diễn đàn Quốc hội.
Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố phải tuân theo một quy trình xây dựng pháp luật hợp
lý; phải dựa trên cơ sở học tập có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật của
các nước có nền tư pháp tiên tiến, dân chủ trên thế giới, trong đó, cần đặc chú ý
các vấn đề sau:
- Cần tăng cường năng lực, trình độ và chú trọng nâng cao đạo đức của
đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn, chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật, tăng cường trao dồi kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
- Cần tạo ra nhiều hình thức, nhiêu kênh thông tin để lấy ý kiến phản biện
của các tầng lớp nhân dân, trong đó, đặc biệt chú ý là nhóm đối tượng thuộc đối
tượng điều chỉnh của văn bản sẽ được ban hành, các Luật gia, Luật sư, Điều tra
viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, các nhà khoa học pháp lý. Đối với việc hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, thì
việc lấy ý kiến phản biện của chính đội ngũ Kiểm sát viên và những người đang
công tác kiểm sát sẽ mang lại hiệu quả, chất lượng cao cho văn bản luật sẽ được
ban hành.
- Cần đổi mới hoạt động thảo luận và thông qua dự án luật tại Quốc hội
theo hướng tăng cường số lượng đại biểu chuyên trách và tăng thời lượng thảo
luận tại tổ.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền
công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nằm trong Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được Đảng ta nêu
122
trong Nghị quyết 49-NQ/TW và Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết 48-
NQ/TW). Kết quả hoàn thiện pháp luật cụ thể này, một mặt phải đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân. Mặt khác, phải bảo đảm tính tính Quốc tế hoá theo xu hướng hội
nhập đang diễn ra thì chúng ta bắt buộc cần phải có sự nghiên cứu khách quan,
học tập có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện pháp luật của các nước có
nền tư pháp tiên tiến, dân chủ trên thế giới.
Trên thế giới do cách thức tổ chức bộ máy nhà nước của các quốc gia rất
khác nhau, kể cả các quốc gia có cùng chế độ chính trị, nên Cơ quan công
tố/Viện kiểm sát cũng được tổ chức và hoạt động hoàn toàn không giống nhau.
Tuy nhiên, dù không được tổ chức giống nhau nhưng các Cơ quan công tố/Viện
kiểm sát đều có một vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước. Vị trí độc lập của Cơ
quan công tố/Viện kiểm sát là yếu tố rất cần thiết, bảo đảm cho nó được hoạt
động khách quan, nhằm mục đích bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân và chế độ chính trị đang tồn tại. Đây là
hạt nhân đầu tiên mà chúng ta cần nghiên cứu và học tập và chọn lọc để tiếp thu.
Ngoài chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, hầu hết các Cơ quan
công tố/Viện kiểm sát trên thế giới đều thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trên
các lĩnh vực tư pháp cụ thể khác nhau (giám sát tư pháp, tố tụng dân sự, giam,
giữ, cải tạo, thi hành án...) và các chức năng này được từng nhà nước phân công
cho Cơ quan công tố/Viện kiểm sát hoàn toàn trên cơ sở đặc điểm chính trị, xã
hội, truyền thống pháp lý... của từng quốc gia. Tuy nhiên, cho dù chức năng,
nhiệm vụ cụ thể của Cơ quan công tố/Viện kiểm sát ở từng quốc gia có khác
nhau, nhưng các quốc gia đều xem Cơ quan công tố/Viện kiểm sát là cơ quan có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự xã hội; việc đảm nhiệm
các chức năng khác bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố có chồng chéo,
giảm tính hiệu quả trong quá trình áp dụng, thực hiện pháp luật của Cơ quan
công tố/Viện kiểm sát hay không?; Mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa các
123
chức năng này như thế nào với chức năng thực hành quyền công tố của Cơ quan
công tố/Viện kiểm sát nói chung và Công tố viên/Kiểm sát viên, chủ thể thực
hành quyền công tố nói riêng.
Đối với pháp luật của các quốc gia theo truyền thống pháp luật châu Âu
lục địa, gần giống như pháp luật nước ta đều khẳng định vai trò quyết định của
Viện công tố/Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Viện công
tố/Viện kiểm sát chỉ đạo hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố tội phạm.
Vậy việc nghiên cứu cần tập trung làm rõ tính hợp lý trong các quy định pháp
luật về Công tố viên/Kiểm sát viên trong việc chỉ đạo điều tra; thẩm quyền quản
lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư
pháp trong từng cơ quan tiến hành tố tụng với các chủ thể tiến hành tố tụng nói
chung và Kiểm sát viên nói riêng luôn luôn được xem là một nhiệm vụ của việc
hoàn thiện pháp luật.
Tóm lại, việc học tập kinh nghiệm các nước có nền tư pháp tiên tiến, dân
chủ trên thế giới về việc xây dựng và thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật về
Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố luôn luôn là cần thiết.
Vì từ đó các nhà lập pháp sẽ rút ra được những giá trị cốt lõi mang tính phổ biến,
chung nhất, có giá trị, hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện cụ thể và có khả năng
vận dụng ở Việt Nam.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
4.2.1. Nhóm giải pháp chung
- Về hình thức thể hiện các quy định pháp luật
Nghiên cứu về lâu dài sửa đổi quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong
Hiến pháp năm 2013. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, Hiến pháp bao
giờ cũng được xem là đạo luật gốc. Luật hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ
bản làm cơ sở để xây dựng các ngành luật khác.Ví dụ: Luật hiến pháp quy định
cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước, xác định mối quan hệ cơ bản giữa công dân và các cơ quan
124
nhà nước... Luật Hiến pháp quy định cả trình tự thông qua, sửa đổi, bãi bỏ quy
phạm của các ngành luật khác. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, ngành luật
Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo. Vị trí chủ đạo của ngành luật Hiến pháp được xác
định bởi đối tượng đặc biệt nằm dưới sự tác động của quy phạm luật hiến pháp.
Vì đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp là những quan hệ xã hội cơ
bản tạo thành cơ sở của chế độ xã hội và Nhà nước mà các mối quan hệ thuộc
phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác đều bắt nguồn từ cơ sở của chế độ
xã hội và nhà nước đó. Do vậy, ngành luật hiến pháp còn đóng vai trò trung
tâm liên kết các ngành luật khác. Chính từ vị trí trung tâm của ngành luật Hiến
pháp mà hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng thành một hệ thống pháp
luật thống nhất và hoàn chỉnh.
Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan Hiến định có chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiến pháp cần khẳng định vị trí của
Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước là cơ quan thuộc nhánh quyền
lực “Tư pháp”. Bởi đây là tính đặc thù của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân.
Việc gộp chung VKSND và Toà án nhân dân vào một chương trong Hiến
pháp là chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí và chức năng “bảo vệ pháp chế” của Viện
kiểm sát nhân dân. Bên cạnh đó, nội dung các quy định của Hiến pháp đối với
Viện kiểm sát còn thiếu quy định về cơ chế bảo đảm cho việc tuân thủ một cách
nghiêm minh, kịp thời các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân từ
phía các chủ thể khác khi tham gia quan hệ pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân
giữ vai trò đại diện Nhà nước thực hành quyền công tố.
Trong bức thư "Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế".
V.I.Lênin cho rằng, để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thống nhất trong
phạm vi cả nước cộng hòa cần tổ chức ra một cơ quan đặc biệt để kiểm sát toàn
bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước và
mọi công dân. Cơ quan đặc biệt đó là Viện kiểm sát. V.I.Lênin nhấn mạnh, sẽ là
125
sai lầm nếu việc tổ chức Viện kiểm sát cũng theo nguyên tắc "song trùng trực
thuộc" như các cơ quan nhà nước khác. Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm cho
"bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành chính địa phương nào cũng
không đi ngược lại pháp luật". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đã có luật thì tất
cả mọi người cần phải thi hành tốt, thi hành thật đúng để xây dựng kỷ cương nhà
nước, thiết lập trật tự xã hội một cách nghiêm minh, từ đó mới có pháp chế.
Dùng pháp chế để xây dựng chế độ xã hội, có pháp chế tất nhiên sẽ có dân chủ,
có pháp chế thì uy quyền nhà nước với mạnh, ngược lại, không có pháp chế sức
mạnh nhà nước sẽ bị suy yếu. Đây là những tư tưởng, quan điểm cơ sở nền tảng
đầu tiên để hệ thống cơ quan VKSND ra đời ở nước ta.
Thiết chế tổ chức VKSND ra đời vào năm 1960, thay thế cho chế định
Viện công tố nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước trong giai đoạn lịch
sử cụ thể. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, để Viện kiểm sát nhân
dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, thì VKSND luôn luôn cần
phải bảo đảm được tính độc lập, tập trung thống nhất trong ngành.
Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một sự đa dạng trong các quy định về vị trí,
chức năng của VKSND hoặc các thiết chế tương tự ở các nước trên thế giới. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy rằng, nếu chỉ xét trên bình diện “chỗ đứng” về
mặt tổ chức của các cơ quan như VKSND hoặc Cơ quan công tố ở nhiều nước và
nhiều khu vực khác nhau thì vẫn chưa rõ cơ quan này thuộc “nhánh” quyền lực
nhà nước nào trong cơ chế phân quyền: lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Nhưng
một điều có thể dễ nhìn thấy là, dù sự hiện diện ở “nhánh” quyền lực nào thì
tính độc lập về chức năng của loại cơ quan đó luôn luôn được bảo đảm. Song
song với việc khẳng định tính chất độc lập của Viện kiểm sát hay Cơ quan công
tố với tính cách là một thiết chế nhà nước, Hiến pháp và pháp luật của nhiều
nước, kể cả những nước mà cơ quan đó nằm trong cơ cấu của ngành hành pháp
còn quy định về vị trí độc lập của các Kiểm sát viên, Công tố viên. Ví dụ như Bộ
luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 669 về vị trí hoàn
toàn độc lập của công tố; Cũng theo Bộ luật này, các chức danh như Thẩm phán
126
và thành viên Bồi thẩm đoàn có thể bị thay đổi, nhưng Công tố viên thì không bị
thay đổi bởi những lý do tương tự đối với các chức danh đó.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy vị trí của Cơ
quan kiểm sát hay Công tố còn có thể xác định bởi mức độ điều chỉnh pháp lý
của nó. Ở một số nước tổ chức và hoạt động của thiết chế này được quy định
trong Hiến pháp, một số nước quy định bởi các đạo luật.
Vì vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng là xây dựng một nền công tố
mạnh, bảo đảm cho VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ “bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [97], về lâu dài cần
tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung chế định VKSND trong Hiến pháp ở thời
điểm thích hợp.
- Hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân trong thực hành quyền công tố
Trong nội dung này, mặc dù hiện nay trong thực tiễn pháp lý BLTTHS
năm 2003 vẫn đang được áp dụng, nhưng để bảo đảm tính thời sự, Luận án chỉ
đề cập đến những nội dung cần tiếp tục hoàn thiện trong BLTTHS 2015.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ
10 thông qua ngày 27/11/2015 (hiện chưa có hiệu lực) là một bước tiến dài trong
việc hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự, theo nhiệm vụ của Đảng ta đặt ra
trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. BLTTHS năm 2015, đã quy
định cụ thể hơn quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, theo
đánh giá của chúng tôi, BLTTHS 2015 vẫn còn tồn tại một số bất cập trong việc
tổ chức và thực hiện quyền công tố của VKSND nói chung, của Kiểm sát nói
riêng trên cơ sở các yêu cầu cải cách tư pháp đã đặt ra.
Một là, bất cập trong quản lý thông tin về tội phạm. Theo quy định của
Hiến pháp 2013, Điều 107 “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
127
kiểm sát hoạt động tư pháp” của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
VKSND thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không
để lọt tội phạm và người phạm tội. Ngoài ra theo quy định của pháp luật,
VKSND còn có nhiệm vụ thống kê tội phạm. Như vậy, cần phải nhận thức thống
nhất là VKSND là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phân loại, đánh giá vi phạm,
tội phạm. Vì vậy, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được
phát hiện và xử lý kịp thời thì Viện kiểm sát cần phải được cung cấp ngay (kịp
thời) và đầy đủ tất cả các nguồn tin về tội phạm. Sau khi Viện kiểm sát thụ lý, sẽ
chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết và Viện kiểm sát sẽ căn cứ trên
kết quả xác minh, xử lý của các cơ quan có thẩm quyền để phân loại vi phạm, tội
phạm. Nhưng với các quy định tại các Điều 145, 146, 147, BLTTHS 2015 Viện
kiểm sát chưa thể thực hiện được việc quản lý thông tin tội phạm một cách đầy
đủ và kịp thời. Điều 145 quy định: Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm CQĐT; VKSND; Cơ quan, tổ
chức khác. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiến hành xác minh là CQĐT; các
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. VKSND giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục. Trong thời hạn 3 ngày
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện
kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Bên cạnh đó, Điều 146 lại
quy định trường hợp: “Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra,
128
xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ
vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.
Với quy định này, công an phường, thị trấn sau khi tiếp nhận “tiến hành
kiểm tra; xác minh sơ bộ” rồi mới chuyển cho CQĐT có thẩm quyền. Trong thời
hạn 03 ngày CQĐT mới có trách nhiệm thông báo cho VKSND.
Vì vậy, để khắc phục vướng mắc này chúng tôi thấy cần phải sửa đổi các
điều 145,146,147 BLTTHS 2015 theo hướng: Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá
nhân sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đều phải thông báo ngay cho
VKSND gần nhất trong vòng 24 giờ. Và Bộ luật hình sự cũng cần xây dựng
một chế tài cần thiết để xử lý các hành vi vi phạm nội dung trên. Bởi việc xử lý
tội phạm không chỉ là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn phải đáp
ứng yêu cầu “nhanh chóng, kịp thời”, để hạn chế thấp nhất hậu quả có thể xảy
ra tiếp theo.
Hai là, cần tiếp tục tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố trên cơ sở chuyển hoá một số quyền năng pháp lý
chung của Viện kiểm sát và cụ thể hoá nội dung tại điểm p, khoản 1, Điều 42
BLTTHS 2015 “Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền
của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy
định của Bộ luật này”.
Điều 109, Hiến pháp 2013 quy định “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”; Điều 74, Luật Tổ chức VKSND năm
2014 quy định “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp”; khoản 2 Điều 42 BLTTHS 2015 quy định “Kiểm sát viên phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình”. Trên đây là những căn cứ pháp
lý quan trọng khẳng định chức năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của Kiểm
sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
129
Đối chiếu vào các quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy các quy định pháp
luật vẫn chưa bảo đảm được sự chủ động của Kiểm sát viên trong việc thực hiện
hai chức năng này. Vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một số nội
dung cụ thể như sau:
Chuyển nội dung “Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” từ khoản 2, Điều 159
sang khoản 1, điều 42; Bỏ cụm từ “Khi cần thiết”. Giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố là một giai đoạn tố tụng quan trọng bởi lẽ, nó quyết
định việc xác định, phân loại có hay không có sự việc tội phạm, người phạm tội.
Là tiền đề cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Theo BLTTHS thì VKSND
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và chủ thể thực hiện việc tiếp giải
quyết và lập hồ sơ giải quyết là Kiểm sát viên. Mặt khác, “yêu cầu xác minh; yêu
cầu điều tra” là một văn bản tố tụng thể hiện sự gắn kết, chỉ đạo của Công tố đối
với hoạt động Điều tra, vì vậy không nên sử dụng cụm từ “khi cần thiết” để xác
định đây là hoạt động thực hành quyền công tố bắt buộc. Và việc đề ra yêu cầu
điều tra, yêu cầu xác minh của Kiểm sát viên là một hoạt động tố tụng mang tính
bắt buộc mà Kiểm sát viên phải thực hiện sau khi có quyết định phân công của
Viện trưởng. Và yêu cầu của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công
tố phải có tính pháp lý là “nghĩa vụ” buộc các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ
thể tham gia tố tụng, các chủ thể có liên quan khác cơ quan. Việc bổ sung các
quy định này là cần thiết bởi lẽ đây là bảo đảm pháp lý đối với vị trí pháp lý
Hiến định của Kiểm sát viên. Mặt khác, đây cũng là sự cụ thể hoá quan điểm cải
cách tư pháp của Đảng “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra” [36, tr.127].
Cần luật hoá các hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên
đang tồn tại dưới các hình thức tham mưu, đề xuất cho Viện trưởng trong quá
trình quyết định “đóng mở vụ án” và quyết định áp dụng các biện pháp “hạn chế
quyền con người, quyền công dân” thành những nhiệm vụ của Kiểm sát viên, cụ
thể như sau:
130
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê
chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can trái pháp luật.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can trong những trường hợp do BLTTHS quy định.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền
con người, quyền công dân.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề
xuất với Viện trưởng phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố
tụng khác của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng Khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện
hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm.
131
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam,
chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Trong giai đoạn truy tố
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo
quy định của luật; yêu cầu CQĐT truy nã bị can.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan
đến vụ án trong trường hợp cần thiết.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người
phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra
bổ sung.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo
thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp
dụng các biện pháp ngăn chặn.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định truy tố, không truy tố bị can.
+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất
với Viện trưởng quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục
hồi vụ án, bị can.
Ba là, cần xây dựng cơ chế bảo đảm các yêu cầu, quyết định của công tố
phải được thực hiện. Điều tra tội phạm là tiền đề của công tố, là sự chuẩn bị cho
132
hoạt động công tố. Quá trình thực hiện chức năng công tố, Viện kiểm sát được
giao trách nhiệm quyết định việc buộc tội, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đến cùng với người phạm tội, trực tiếp thực hiện truy tố, buộc tội, luận
tội tại phiên tòa. Chất lượng điều tra quyết định chất lượng công tố, thiếu những
chứng cứ trong giai đoạn điều tra thì Kiểm sát viên sẽ rất khó có thể thành công
để thực hiện việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, hoạt động điều tra của
CQĐT phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu công tố. Khi các yêu cầu, quyết
định tố tụng của Viện kiểm sát/Kiểm sát viên không được CQĐT/Điều tra viên
thực hiện hoặc thực hiện không đạt yêu cầu, thực hiện không kịp thời thì pháp
luật phải có cơ chế để bảo đảm cho các yêu cầu, quyết định đó phải được thực
hiện, điều này là cơ sở để thực hiện mục tiêu của chức năng công tố - phát hiện
tội phạm và đưa kẻ phạm tội ra tòa. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự nước ta
lại chưa đáp ứng được yêu cầu này. Thực tiễn cho thấy, nhiều yêu cầu, quyết
định tố tụng của VKSND /Kiểm sát viên không được CQĐT/Điều tra viên thực
hiện một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời, song BLTTHS, BLHS và các
luật có liên quan lại không có quy định để xử lý. Thực tế này ảnh hưởng đến
mục tiêu, hiệu quả của hoạt động công tố, gây khó khăn đối với VKSND/Kiểm
sát viên trong thực hiện chức năng công tố. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố
tụng, làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội như chúng tôi đã đánh giá ở chương 3. Vì vậy, cần tiếp
tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và hình sự theo hướng xây dựng bổ sung
cơ chế bảo đảm các yêu cầu, quyết định của công tố phải được thực hiện theo
phương châm “nhanh chóng, kịp thời” có thời hạn cụ thể.
Thực tiễn trong những năm gần đây, nhiều vụ án oan, sai có nguyên nhân
từ việc kết quả khám nghiệm hiện trường, tử thi, phương tiện không bảo đảm để
Viện kiểm sát ra quyết định truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong
BLTTHS 2003 và 2015 đều quy định Kiểm sát viên chỉ thực hiện chức năng
kiểm sát trong quá trình Điều tra viên tiến hành khám nghiệm. Điều tra viên sẽ
133
tiến hành khám nghiệm trên cơ sở yêu cầu của Kiểm sát viên. Tuy nhiên từ
thực tiễn cho thấy rất nhiều trường hợp Điều tra viên không thực hiện, hoặc
thực hiện không đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình
khám nghiệm. Bên cạnh đấy, trong nhiều trường hợp tính khách quan của kết
quả khám nghiệm phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố: thời điểm khám nghiệm;
môi trường, hoàn cảnh khám nghiệm. Nhiều trường hợp kết quả khám nghiệm
không thể bảo đảm được tính khách quan khi thực hiện lần thứ hai. Nhiệm vụ
và mục đích cuối cùng của hoạt động điều tra là để kết luận có hay không sự
việc tội phạm và người phạm tội. Và kết luận này phải được Viện kiểm sát nhất
trí vì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có chức thực hành quyền công tố, kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Vì vậy, BLTTHS cần bổ sung nội dung này theo
hướng Kiểm sát viên tham gia hoạt động khám nghiệm với tư cách là người
chủ trì khám nghiệm và Điều tra viên là người trực tiếp thực hiện hoạt động
khám nghiệm.
Song song với việc hoàn thiện các quy định pháp luật nêu trên, cần phải
tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Luật tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 để bảo đảm được tính đồng bộ, thống
nhất của pháp luật.
4.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực toàn diện của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố
- Xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ Kiểm sát viên
Cán bộ và công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng. Trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc…cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Người cán bộ cách
mạng phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt”, trong đó phẩm
chất, đạo đức là yếu tố hàng đầu: "Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém". Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực nghiệp vụ “vừa hồng vừa chuyên”.
134
Từ năm 2002 đến nay, cùng với việc từng bước hoàn thiện các cơ chế
pháp lý bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hành quyền công thì các quy định pháp
luật về lĩnh vực công tác, cán bộ đối với chủ thể Kiểm sát viên cũng từng bước
được kiện toàn trên các mặt cụ thể như trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp…, những quy định này cũng góp phần nâng cao
chất lượng công tác thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Thực tiễn thời
gian qua, đội ngũ cán bộ kiểm sát nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã từng
bước được củng cố, phát triển để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi
mới, phát triển đất nước. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát ngày
càng nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Biên chế cán bộ của
nghành đã được tăng về số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ,
Kiểm sát viên đã nâng lên so với thời gian trước đây, (Năm 2011, toàn Ngành có
8.378 Kiểm sát viên (170 số Kiểm sát viên VKSND tối cao; 2.457 Kiểm sát viên
trung cấp; 5.751 Kiểm sát viên sơ cấp); Đến năm 2012 được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội giao chỉ tiêu 10.424 Kiểm sát viên (170 Kiểm sát viên VKSND tối cao;
4.039 Kiểm sát viên trung cấp; 6.215 Kiểm sát viên sơ cấp). Năm 2013, tổng số
Kiểm sát viên ở VKSND tối cao có 290 người, trong đó có 170 Kiểm sát viên
VKSND tối cao, 58 Kiểm sát viên tối cao, 62 Kiểm sát viên sơ cấp; Kiểm sát
viên VKSND cấp tỉnh có 2.217 Kiểm sát viên trung cấp và 770 Kiểm sát viên sơ
cấp, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện có 4,935 Kiểm sát viên gồm 755 Kiểm
sát viên trung cấp và 4,180 Kiểm sát viên sơ cấp. Về trình độ cán bộ, trước tháng
10/2002, tỷ lệ Kiểm sát viên đạt trình độ cử nhân luật còn thấp (ở VKSND tối
cao đạt tỷ lệ 59%; ở Viện kiểm sát cấp tỉnh đạt tỷ lệ 54,4%; ở Viện kiểm sát cấp
huyện đạt tỷ lệ 38,3%; ở Viện kiểm sát Quân sự các cấp đạt tỷ lệ 86,7%. Số còn
lại khoảng 50% chỉ có trình độ cao đẳng kiểm sát hoặc trung cấp pháp lý). Đến
nay, 100% Kiểm sát viên đã có trình độ Cử nhân luật trở lên; toàn Ngành có 25
Tiến sĩ, 511 Thạc sĩ; có 2547 người có trình độ cử nhân hoặc trình độ cao cấp lý
135
luận chính trị; có 4.667 người có trình độ trung cấp lý luận chính trị). Biên chế
toàn ngành từ 13,269 người năm 2011 lên 14,547 người 2013 (tăng 1,278 người,
chiếm 11%), với cơ cấu Kiểm sát viên, cán bộ hợp lý. Hiện nay, tổng biên chế
toàn ngành kiểm sát là 14,220 người, trong đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao là
988; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện là 13,232 người. Tổng số
Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có 290 người. Trong đó, 170
Kiểm sát viên cao cấp; 58 Kiểm sát viên trung cấp; 62 Kiểm sát viên sơ cấp;
Điều tra viên có 66 người (17 Điều tra viên cao cấp); Kiểm tra viên có 282
người, còn tại là công chức và nhân viên khác. Biên chế cán bộ làm việc ở Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là 4.463 người (trong đó có 2.217 Kiểm sát viên
trung cấp; 770 Kiểm sát viên sơ cấp; 373 Kiểm tra viên các cấp, còn lại là công
chức, nhân viên khác); Biên chế làm việc tại các Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện là 8,869 người, trong đó có 4,935 Kiểm sát viên (755 Kiểm sát viên trung
cấp; 4,180 Kiểm sát viên sơ cấp; 808 Kiểm tra viên, còn lại 3,126 công chức,
nhân viên khác) [138].
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được
chú trọng. Hàng năm, Viện kiểm sát các cấp đã cử hàng trăm cán bộ tham gia
các lớp học chính trị sơ, trung, cao cấp hoặc tại chức, bảo đảm các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng được quán triệt kịp thời trong toàn ngành. Tăng cường Kiểm sát
viên cho những bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp; bổ sung kịp thời cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cho các đơn vị kiểm sát các cấp. Hàng năm, ngành kiểm sát đều tổng rà soát,
phân loại, đánh giá đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên và luân chuyển cán bộ theo
chủ trương của Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác cán bộ của Viện kiểm sát
nhân dân vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại sau đây: công tác xây dựng cán bộ kiểm
sát cũng như cán bộ tư pháp nói chung chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn mới. Tại Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ, trong thời gian qua.
136
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ
thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử
dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh
giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ
vẫn là khâu yếu… Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ
chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực,
sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn
bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc [1].
Đánh giá về công tác tư pháp vào thời điểm năm 2002, Đảng ta đã chỉ rõ:
"Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi
của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi
phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [1] mà một trong những
nguyên nhân cơ bản, trực tiếp từ đội ngũ cán bộ tư pháp.
Trong điều kiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, một bộ phận cán bộ,
Kiểm sát viên chậm đổi mới, tiếp cận, học hỏi nâng cao năng lực, nhận thức toàn
diện để đáp ứng yêu cầu công việc, nhất là kiến thức về pháp luật kinh tế quốc
tế, về ngoại ngữ, tin học. Ngoại ngữ mới chỉ tập trung chủ yếu vào tiếng Anh
(trước đây là tiếng Nga), trong khi tiếng Trung Quốc, tiếng các nước trong khu
vực, tiếng dân tộc ít được quan tâm đào tạo.
Đội ngũ Kiểm sát viên các cấp cũng còn yếu về năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ. Các Kiểm sát viên trong khối hình sự chưa có đủ những kiến thức cần
thiết về điều tra tội phạm, kỹ năng tranh luận, đối đáp tại phiên tòa còn yếu. Phần
lớn các Kiểm sát viên mới chỉ được trang bị thuần túy về kiến thức pháp lý, các
tri thức chuyên ngành khác cần thiết cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, ít
được quan tâm trang bị đúng mức (kiến thức về môi trường đối với các tội phạm
về môi trường, kiến thức tài chính, kế toán đối với các tội phạm kinh tế, tham
nhũng; tin học trong các tội phạm máy vi tính, bưu chính viễn thông, tội phạm
137
mạng internet; tội phạm chứng khoán; pháp luật quốc tế trong các vụ việc tương
trợ tư pháp).
Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp, bên cạnh việc hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng thì cần phải
tiếp tục có các giải pháp xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh,
giỏi nghiệp vụ. Một đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp
vụ sẽ bảo đảm tính hiệu quả, nâng cao hiệu lực của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trong thực hành quyền công tố.
Các giải pháp cụ thể như sau:
Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm
sát viên. Cán bộ kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp là những người
được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Do đó, cần quan tâm tuyển chọn, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng...
những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Hai là, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo định hướng cải cách tư pháp, căn cứ
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân gồm 4 cấp phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. theo đó các quy định về
tiêu chuẩn, bổ nhiệm, tuyển chọn Kiểm sát viên được áp dụng căn cứ vào kết quả
thi tuyển, căn cứ vào các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực thực
hiện nhiệm vụ mà không phụ thuộc vào cấp hành chính. Đồng thời với việc sửa
đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây
dựng mới các quy chế về công tác cán bộ như: Quy chế phân cấp, quản lý cán
bộ; Quy chế tuyển dụng cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và bổ nhiệm lại Kiểm sát
viên các cấp; Quy chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... tạo cơ sở pháp lý thực hiện
tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm sát viên trong sạch, vững
mạnh, giỏi về nghiệp vụ.
138
Ba là, đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ. Tuyển dụng cán bộ là bước
khởi đầu quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có tuyển dụng được đội ngũ
cán bộ tốt, có trình độ mới xây dựng được đội ngũ cán bộ mạnh. Căn cứ Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tổ
chức hướng dẫn Viện kiểm sát nhân dân các địa phương tổ chức thi tuyển công
chức. Nghiên cứu việc tổ chức thi tuyển công chức ngành kiểm sát tập trung trên
địa bàn cả nước hoặc phạm vi từng khu vực (miền Bắc, miền Trung, miền Nam)
vào cùng một thời điểm (có thể 1 hoặc 2 lần trong một năm). Đối với các tỉnh ở
cấp huyện có đông người dân tộc ít người sinh sống thì cần có hướng dẫn cụ thể
về việc thay thi tuyển môn ngoại ngữ bằng việc kiểm tra trình độ tiếng dân tộc.
Đối với những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ chuyên
ngành luật ở nước ngoài cần nghiên cứu chế độ ưu tiên tuyển dụng đặc biệt để
thực hiện thống nhất.
Bốn là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để có được đội ngũ
cán bộ kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao thì công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được quan tâm đặc biệt. Trước hết phải xây
dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, đổi mới chương trình, giáo trình, tài
liệu, phương pháp giảng dạy - học tập. Bổ sung các tài liệu tham khảo, hồ sơ tình
huống theo hướng tăng cường trang bị kỹ năng nghề nghiệp, sát với yêu cầu thực
tiễn. Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy - học tập
của nhà trường. Hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ thông tin, thư viện của
nhà trường.
Năm là, tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ.
Để quản lý tốt đội ngũ cán bộ cần tiến hành đổi mới việc phân công, phân cấp
quản lý cán bộ nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý,
theo hướng phân cấp mạnh hơn cho các Viện kiểm sát địa phương, bảo đảm
nguyên tắc và trách nhiệm của lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương trong việc
quản lý đội ngũ cán bộ. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao
trình độ chính trị và nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm của
139
người cán bộ kiểm sát là yêu cầu có tính thường xuyên, liên tục, mỗi cán bộ
kiểm sát phải tự rèn luyện nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, chấp
hành nghiêm kỷ luật của ngành. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", thực hiện tốt 5 đức tính mà Bác Hồ
đã dạy đối với người cán bộ Kiểm sát: "Công minh, Chính trực, Khách quan,
Thận trọng, Khiêm tốn", coi đây là nội dung quan trọng của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.
Tóm lại, để xây dựng được đội ngũ cán bộ kiểm sát nói chung, Kiểm sát
viên nói riêng thật sự trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ cần phải có sự đổi
mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các khâu công tác: Tuyển dụng, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quản lý, giáo
dục, rèn luyện cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ... Đây là công việc khó khăn,
phức tạp đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực chung của các các cấp ủy Đảng, các ngành,
các cấp.
- Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà
Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên chủ yếu thực hiện tại phiên toà.
Để tranh tụng tốt, trước hết Kiểm sát viên phải thực hiện đầy đủ và có chất lượng
việc xét hỏi để làm rõ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ
quan điểm truy tố. Do đó Kiểm sát viên phải thực hiện tốt nhiều hoạt động mang
tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà. Là một bên tham gia tranh tụng,
Kiểm sát viên phải có kỹ năng nghiệp vụ tranh tụng, thể hiện tinh thần trách
nhiệm, lương tâm và danh dự nghề nghiệp. Phải bảo đảm thủ tục và cách thức
tranh tụng một cách nghiêm minh, dân chủ, công bằng, có văn hoá, tôn trọng
quyền của những người tham gia tố tụng. Như vậy sẽ tránh được các trường hợp
bị cáo bị truy tố, xét xử oan; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị cáo bị
truy tố, xét xử sai. Tỷ lệ án sơ thẩm về hình sự bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ
hoặc sửa càng thấp là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
140
- Nâng cao văn hóa tư pháp trong tranh tụng của Kiểm sát viên
Thứ nhất, văn hóa tư pháp của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng là
hệ thống các giá trị mà trước hết là các giá trị pháp lý và đạo đức của Kiểm sát
viên trong quan hệ với những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng và với những người tham dự phiên tòa. Văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên
còn là hệ thống các giá trị tạo nên tính cách, phẩm chất, bản lĩnh của Kiểm sát
viên khi thực hiện nhiệm vụ. Với cách hiểu này, văn hóa ứng xử của Kiểm sát
viên không phải các giá trị có sẵn lại càng không phải là hệ thống các giá trị
bất biến mà đòi hỏi phải luôn được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với sự thay đổi
của pháp luật cũng như phải đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức mới và phẩm chất
chính trị trong tình hình hiện nay. Hệ thống các giá trị này là kết quả của trình
độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và quá trình tự học hỏi tích lũy kinh nghiệm
trong thực tiễn.
Để xứng đáng với vai trò đại diện cho sự nghiêm minh của pháp luật,
Kiểm sát viên không chỉ là người nắm vững và chấp hành các quy định của pháp
luật, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm nghiệp vụ mà còn phải
luôn hành xử một cách công bằng, dân chủ và văn minh. Kiểm sát viên phải đạt
các chuẩn mực về văn hóa ứng xử. Người Kiểm sát viên không được để các mối
quan hệ thân thuộc, hoặc lợi ích vật chất chi phối hoặc làm dao động, biết vượt
qua áp lực của dư luận, không lo sợ trả thù, chỉ trích. Theo quy định của Kiểm
sát viên phải có mặt đúng thời gian, phải mặc trang phục của ngành và ngồi
đúng vị trí quy định. Khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên phải có tư thế thoải mái,
đọc rõ ràng, mạch lạc, tạo tư thế chủ động tự tin. Đặc biệt, khi đọc bản luận tội
phải đảm bảo tính thuyết phục đối với Hội đồng xét xử, với mọi người tham gia
tố tụng.
Kiểm sát viên phải bình tĩnh xem xét, đối chiếu lời bào chữa, vận dụng
chứng cứ, vạch rõ lập luận sai trái của luật sư, người bào chữa và bác bỏ lời bào
chữa. Đồng thời, phải biết nhận những sai sót xảy ra trong kiểm sát điều tra, truy
tố và báo cáo lãnh đạo kịp thời khắc phục những sai sót, những vi phạm đó.
141
Ngôn ngữ Kiểm sát viên sử dụng phải trong sáng, tôn trọng mọi người
tham gia phiên tòa, tôn trọng Hội đồng xét xử. Đặc biệt, Kiểm sát viên phải có
ứng xử thích hợp để giải quyết một số tình huống đột xuất tại phiên tòa, như bị
cáo bị kích động, người tham dự phiên tòa có lời nói, hành động làm mất trật tự
trị an phiên tòa...
Để làm được những yêu cầu này, người Kiểm sát viên trước hết phải là
người hiểu biết pháp luật, là tấm gương về chấp hành những quy định của
pháp luật.
Thứ hai, phải đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh
nghề nghiệp. Để đạt được trình độ văn hóa xét xử cao, Kiểm sát viên phải thực
hiện thành thạo kỹ năng nghiệp vụ về phân tích, đánh giá, nghiên cứu hồ sơ, có
dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, thường xuyên rèn
luyện kỹ năng đọc, viết, kỹ năng cảm hóa, giáo dục, thuyết phục. Mặt khác, do
tính đặc thù nghề nghiệp, người Kiểm sát viên phải kết hợp nhuần nhuyễn kiến
thức pháp lý, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ với sự hiểu biết tổng hợp các
môn khoa học xã hội, khoa học pháp lý, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp,
kinh nghiệm đối nhân xử thế....
Thứ ba, xây dựng tác phong làm việc và sinh hoạt của Kiểm sát viên với
tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tận tụy với công việc, giải quyết công việc
khoa học, tiết kiệm thời gian, lối sống trong sáng, thái độ khiêm tốn, tôn trọng
mọi người...
Thứ tư, là phải đáp ứng yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề
nghiệp là phương thức điều chỉnh hành vi thể hiện qua lời nói, cử chỉ, hành
động, tư cách nghề nghiệp Kiểm sát viên là cơ sở nền tảng của văn hóa ứng xử
và gắn liền với mọi hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành kiểm sát
Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin là yếu tố thiết yếu phục vụ
công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ của hệ thống cơ quan nhà nước trong đó
có Viện kiểm sát nhân dân. Trong những năm qua, ngành kiểm sát nhân dân đã
142
được tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng được Trung
tâm tích hợp dữ liệu với mạng LAN (mới được xây dựng kết nối ở Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) và một số phần mềm được
triển khai trên phạm vi toàn quốc (phần mềm thống kê tổng hợp; phần mềm
Quản lý án hình sự; phần mềm kế toán tài chính).
Tuy nhiên, theo đánh giá chung cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong
ngành Kiểm sát còn lạc hậu như, mạng LAN mới chỉ xây dựng ở Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (từ năm 2004, 2005 đến
nay) nên đã xuống cấp; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chỉ có một máy chủ cấu
hình thấp với hệ thống mạng 24 nút đã hết hạn sử dụng chưa được thanh lý, thay
thế; một số Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và hầu hết Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện chưa có đường truyền tốc độ cao; việc bảo mật đường truyền, bảo mật
dữ liệu chưa được triển khai; nhiều phần mềm ứng dựng khác triển khai chậm.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công
nghệ thông tin trong ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2015, định hướng
đến năm 2020 (Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31/3/2009 của Thủ tướng
Chính phủ “v/v phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010”; Quyết định số 1605/QĐ-TTg
ngày 27/8/2010 về “Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015”) với Tổng mức đầu
tư dự kiến 411 tỷ đồng, hiện nay đang được triển khai thực hiện.
Để bảo đảm cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố, cần phải tiếp tục “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin theo yêu
cầu cải tư pháp”. Cần phải xây dựng các giải pháp về phát triển công nghệ thông
tin, thư viện bao gồm: Đầu tư nâng cấp thư viện điện tử hiện có bảo đảm đáp
ứng tốt nhu cầu trao đổi và sử dụng thông tin cho đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm
sát viên; tăng cường đầu tư và đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin
hiện đại để khai thác có hiệu quả thư viện điện tử; In ấn, xây dựng và phát triển
nguồn tài liệu điện tử. Xây dựng, nâng cấp trang thông tin điện tử của nghành
143
Kiểm sát thành một cơ sở dữ liệu luật, diễn đàn trao đổi nghiệp vụ kiểm sát đáng
tin cậy. Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại. Ứng dụng triệt để
công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và
sinh hoạt nghiệp vụ của các đơn vị kiểm sát từ Trung ương đến cấp huyện. Hợp
tác, liên kết và chia sẻ nguồn thông tin với các cơ quan thông tin, thư viện và các
cơ sở nghiên cứu, đào tạo, thực hành pháp luật trong nước và trên thế giới.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm
sát, Kiểm sát viên và công tác tư pháp
Củng cố các mối quan hệ hợp tác đang có của VKSDN tối cao và của
Trường Đại học kiểm sát với Viện công tố/Viện kiểm sát trên thế giới, nhất là
với “Học Viện Kiểm sát viên quốc gia Trung Quốc” và “Viện nghiên cứu và tập
huấn thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lào”, đồng thời mở rộng quan hệ hợp
tác với các đối tác có tiềm năng khác nhằm thu hút nguồn lực tài chính của các
nhà tài trợ, tận dụng sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm và kiến thức của các chuyên
gia nước ngoài. Nghiên cứu việc liên danh, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa
học với các cơ sở đào tạo nước ngoài, các tổ chức quốc tế. Triển khai kế hoạch
hợp tác đào tạo với các cơ sở đào tạo cán bộ kiểm sát của Trung Quốc, Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào và với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Triển
khai chương trình dạy và học ngoại ngữ tiếng Anh chuyên ngành cho cán bộ,
học viên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tranh thủ các nguồn tài trợ để tổ
chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về thực hành quyền công tố.
Cần nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, về giải quyết các loại hình tranh chấp trên cơ sở bảo
đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia. Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện
tốt các Công ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp và các hiệp định hợp tác
phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc ra nhập; tiếp tục nghiên
cứu việc ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các
nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.
144
Hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, Lào, Campuchia… trong đấu tranh
chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma tuý, buôn lậu, vận chuyển và lưu hành
tiền giả, mua bán phụ nữ và trẻ em…
- Các biện pháp bảo đảm an toàn cho Kiểm sát viên
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các lĩnh vực tư pháp có
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự về danh dự,
nhân phẩm, tài sản, tự do và cả tính mạng. Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ đối
với Kiểm sát viên với tư cách là trung tâm của hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đó là nguy cơ của sự thù hằn cá nhân, sự
đe dọa, trả thù... Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình tại phiên toà, các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật thường lợi dụng
kẽ hở của pháp luật, bằng mọi giá nhằm cản trở hoạt động của Kiểm sát viên, ép
buộc Kiểm sát viên thay đổi quyết định truy tố có lợi cho họ...
Trên thực tế, pháp luật hiện hành cũng có những quy định tương đối cơ
bản nhằm bảo vệ Kiểm sát viên như quy định về tội chống người thi hành công
vụ, các tội trong lĩnh vực xâm phạm các hoạt động tư pháp (được ghi nhận trong
Bộ luật Hình sự 1995). Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của thực tế, tính chất
của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những hành vi phạm tội với
số người phạm tội ngày càng tăng, mức độ phạm tội có tổ chức mang tính phổ
biến, đặc biệt là những án về ma tuý, buôn lậu, tham nhũng...
Trước tình hình đó, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khoẻ cho Kiểm sát viên trở nên rất cấp thiết. Các biện pháp này cần
có tính dự phòng trước, bảo đảm cho Kiểm sát viên được an toàn, giúp họ yên
tâm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình, yên tâm công tác, đấu
tranh vì sự công bằng xã hội, vì công lý.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm cho
Kiểm sát viên. Mục đích của các biện pháp này là bảo vệ tính mạng, sức khỏe và
tài sản của Kiểm sát viên, tránh những rủi ro do tính chất nghề nghiệp mang lại.
Cụ thể là:
145
- Áp dụng các biện pháp an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản của Kiểm sát viên do cơ quan an ninh thực hiện.
- Áp dụng các biện pháp pháp lý, bằng cách tăng nặng trách nhiệm hình
sự với các hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Kiểm sát viên.
- Quy định chế độ bảo hiểm, bồi dưỡng vật chất... trong trường hợp Kiểm
sát viên bị chết, bị thương tật hoặc có những tổn hại tới sức khỏe, tài sản của họ
cũng bị hư hỏng, huỷ hoại do thực hiện công vụ.
Trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế như hiện nay thì tội phạm là
người nước ngoài hoặc người nước ngoài là người bị hại, là nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự.... có chiều hướng gia tăng, muốn thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không chỉ Thẩm phán,
Hội thẩm mà cả Kiểm sát viên đều phải nỗ lực phấn đấu nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn để đảm nhiệm tốt vai trò của người tiến hành hoạt động tố tụng, và
Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để Kiểm sát viên thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Tiểu kết chương 4
Trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp, vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã và đang được khẳng định rõ
hơn trong lĩnh vực thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế
- xã hội, với cuộc cải cách tư pháp ngày càng đi vào chiều sâu, chức năng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát cần phải được pháp luật quy định đầy đủ
và cụ thể hơn; vị trí, vai trò của Kiểm sát viên cũng cần được quy định theo
hướng mở rộng hơn quyền năng của họ khi nhân danh nhà nước thực hành quyền
công tố. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên theo hướng tăng
cường vai trò của họ không phải nhằm đề cao chức danh tư pháp này hơn những
chủ thể tố tụng khác, mà điều cốt lõi là để họ có đủ quyền năng pháp lý về tố
tụng hình sự để thực hiện có hiệu quả các quyền lực tư pháp được Nhân dân uỷ
146
quyền, vì mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn pháp
luật. Quá trình xây dựng pháp luật luôn chứa đựng trong nó nguyên tắc dự báo,
bảo đảm để pháp luật có khả năng điều chỉnh một cách hiệu quả các mối quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tuy
nhiên, thực tiễn pháp lý sinh động cũng luôn đặt ra yêu cầu mang tính thời sự
của từng giai đoạn lịch sử đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật phải tiến hành
thường xuyên, thông qua việc rà soát, hệ thống hóa, sửa đổi, bổ sung kịp thời các
quy định cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mà cụ thể ở đây là các nội dung
đã được nêu trong các văn bản về cải cách tư pháp.
Trong bối cảnh nguyên tắc tranh tụng đã được hiến định, dân chủ trong tố
tụng đã có bước đổi mới, các khả năng bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong hoạt động tư pháp được mở rộng hơn, thì việc tăng cường năng lực pháp lý
toàn diện cho Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, một chủ
thể hiến định là đòi hỏi khách quan. Điều đó một mặt bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời cũng
không truy tố oan người vô tội. Vì vậy, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố luôn gắn liền với việc
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm sát, chế độ
đãi ngộ phù hợp cho Kiểm sát viên và bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết
khác cho hoạt động của cơ quan kiểm sát. Bên cạnh đó là các giải pháp hoàn
thiện về mặt thể chế bảo đảm cho địa vị pháp lý hiến định của chủ thể tiến hành
tố tụng đặc thù - Kiểm sát viên trong các mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá
nhân, tổ chức có liên quan khác trong quá trình thực hành quyền công tố.
147
KẾT LUẬN
1. Sự hình thành và phát triển của chế định Kiểm sát viên gắn liền với quá
trình xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của
VKSND nói riêng và mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung.
Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và là hai
chức năng cơ bản của VKSND, có mối quan hệ gắn bó với nhau, bảo đảm cho
VKSND phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời kiểm sát chặt chẽ việc tuân thủ
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Với vai trò là chủ thể tố tụng hình sự được
Nhân dân uỷ quyền trực tiếp thực hiện chức năng của VKSND, Kiểm sát viên
theo quy định của Hiến pháp đảm nhận vai trò đại diện cho Nhà nước truy tố
người có hành vi phạm tội ra tòa án. Bảo đảm cho pháp luật được thực thi thống
nhất và nghiêm minh.Toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố cũng như
kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự được tiến
hành trên cơ sở pháp luật chặt chẽ và thống nhất. Tiêu chí cuối cùng và trên hết
trong đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên trong thực
hành quyền công tố đó là quyền con người, quyền công dân phải được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
ngay từ khi xây dựng pháp luật đến khi áp dụng, tổ chức, thực hiện pháp luật.
2. Hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về tổ chức và hoạt
động tư pháp nói riêng ra đời từ những năm đầu của chính quyền dân chủ nhân
dân, đã từng bước được hoàn thiện theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong mỗi
giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Các quy định pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng từng bước hình thành, phát
triển theo hướng này. Sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên
trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước có những đóng góp rất quan trọng
cho việc hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện các hành vi tố tụng hình sự khi
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và ngược lại. Quá trình hoàn thiện
148
các quy định này đã từng bước khắc phục những hạn chế, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ của cải cách tư pháp
trong thời gian tiếp theo thì việc hoàn thiện chế định Kiểm sát viên để góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động và xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên tinh thông
nghiệp vụ là một trong những công việc cấp bách, vừa mang tính thời sự, vừa
mang tính chiến lược.
3. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố phụ thuộc nhiều vào mô hình tố tụng hình sự mà mỗi
quốc gia lựa chọn. Ở Việt Nam, mặc dù mô hình tổ chức của Viện kiểm sát, cách
thức tổ chức hệ thống tư pháp ở mỗi giai đoạn có khác nhau nhưng chức năng
thực hành quyền công tố là không thay đổi. Trong một thời gian dài, từ 1945 đến
trước khi ban hành BLTTHS năm 2015, mô hình tố tụng hình sự nước ta cơ bản
là mô hình xét hỏi (thẩm vấn), trong đó CQĐT có vai trò rất quyết định trong
điều tra, phát hiện tội phạm. Viện kiểm sát/Viện công tố là cơ quan tư pháp có
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Khi BLTTHS
năm 2015 được thông qua và có hiệu lực, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đã
thể hiện rõ là mô hình kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng. Vì vậy, nhiều quy
định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân không còn phù hợp. Các quy định về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố cũng không đứng ngoài khả năng này.
4. Pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân đứng trước tình hình và yêu cầu mới đã bộc lộ một số bất
cập, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Vì
vậy, cần tiếp tục nghiên cứu các chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan kiểm sát, về địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong hoạt động tư pháp và nhu cầu hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định mới một mặt phải góp phần nâng cao hiệu
quả thực hành quyền công tố, mặt khác bảo đảm cho hoạt động công tố tuân
149
thủ pháp chế XHCN và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
VKSND với tư cách là một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, được ghi
nhận trong Hiến pháp.
5. Việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố cũng như pháp luật về tổ chức, hoạt động tư pháp nói chung cần
quán triệt các quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, mang tính nền tảng cho tổ chức và hoạt
động tư pháp như nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát, nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng trước Tòa án, nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc
khách quan, toàn diện và đầy đủ trong điều tra, truy tố, xét xử; nguyên tắc bảo
đảm quyền con người, quyền công dân…Đồng thời tuân thủ quy trình xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm các tiêu chí như tính toàn
diện, đồng bộ, khả thi, minh bạch. Mỗi quy định cần được hoàn thiện trong sự
phù hợp với điều kiện cụ thể của kinh tế - xã hội của đất nước để tránh rơi vào
chủ quan, duy ý chí; đồng thời không bị lạc hậu dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo,
khó khả thi trong thực tế.
6. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, trong thời gian tới,
ngành Kiểm sát nhân dân cần tăng cường hơn nữa chỉ đạo hoạt động thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự, gắn công tố
với hoạt động điều tra; nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại
phiên tòa, hiệu quả hoạt động của CQĐT thuộc VKSND tối cao. Trong đó, việc
hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thực hành quyền công tố có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định sự thành công
của công cuộc cải cách tư pháp nói chung và nâng cao hiệu quả thực hành quyền
công tố của VKSND các cấp.
7. Trong giai đoạn tiếp theo, từ nay đến năm 2020-2025, mục tiêu đổi mới
tổ chức, hoạt động của VKSND là đổi mới cơ bản và toàn diện về tổ chức và
hoạt động. Do đó, cần phải đổi mới tổ chức VKSND theo hướng xây dựng
VKSND với chức năng, nhiệm vụ mạnh mẽ tương đồng với Viện công tố các
150
nước có vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra, hoạt động công tố phải gắn kết với
hoạt động điều tra ngay từ đầu và cơ quan VKSND thực hiện quyền nhân danh
xã hội để bảo vệ lợi ích công trong các lĩnh vực dân sự, hành chính. Trước bối
cảnh đó, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố là yêu cầu mang tính thời sự cả về lý luận và thực tiễn nhằm góp
phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố để Viện kiểm sát thực sự đủ
mạnh, thực quyền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ có hiệu quả
lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
công dân trên các phương diện.
8. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, cần tăng cường năng lực toàn diện
cho Kiểm sát viên, giúp họ có khả năng tốt nhất trong quá trình thực hành quyền
công tố nhân danh nhà nước. Việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy
hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ là Kiểm sát viên, việc nâng cao trình độ chính trị,
pháp lý, nghiệp vụ công tác kiểm sát, ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin
trong một nền tư pháp điện tử là những đòi hỏi cần thiết và cấp bách. Bên cạnh
đó cần có chính sách đãi ngộ phù hợp và thỏa đáng đối với đội ngũ Kiểm sát
viên trong điều kiện có thể để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ được pháp luật
giao là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Tuấn Phong (2012), “Viện Kiểm sát Quân sự quân khu 5 đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử án hình sự, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr.23-27.
2. Lê Tuấn Phong (2013), “Đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực
hành quyền công tố của Viện Kiểm sát quân sự”, Tạp chí Kiểm sát,
(21), tr.13-15.
3. Lê Tuấn Phong (2016), "Pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân
dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam", tại trang
http:lyluanchinhtri.vn, [ngày 25/4/2016].
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về các Văn kiện Đại hội XII của Đảng, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2004), Báo cáo sơ kết hai năm triển khai thực
hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (2012), Sổ tay công tác cải cách tư
pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Ban Nội chính Trung ương (2015), Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn 30
năm đổi mới (1986-2016) về tư pháp - nội chính, phòng chống tham
nhũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
6. Nguyễn Hòa Bình (2013), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành
kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới", tại
trang www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 21/3/2016].
7. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, Hà Nội.
10. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp
- Nxb Từ điển bách khoa, tr.443.
153
13. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992, Hà Nội.
14. Bộ Tư pháp Việt Nam và UNDP, Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp của năm quốc gia - Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Nga, Hà Nội.
15. Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Lê Văn Cảm (Chủ nhiệm) (2009), Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp
hình sự phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp, Đề tài khoa học đặc biệt
cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số QG.07.37, Hà Nội.
17. Lê Lan Chi (2006), "Một số ý kiến về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc xét xử các vụ án hình sự nhìn từ yêu cầu chuyển đổi Viện
kiểm sát thành Viện công tố", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).
18. Lý Văn Chính (2004), Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc
vận dụng trong điều kiện Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.
19. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), "Sắc lệnh
số 47 ngày 10/10/1945" tại trang https://thuvienphapluat.vn, [truy cập
ngày 12/04/2017].
20. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Vivienne Bath, Đại học Tổng hợp Sydney, Sarah
Biddulph, Đại học Tổng hợp Melbourne.
21. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Liên bang Nga,
William E Buttler, Trường Đại học tổng hợp quốc gia Pennsylvania.
22. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Nhật Bản, Luke
Nottage, Đại học Tổng hợp Sydney, Kent Anderson, Đại học Quốc gia
Úc, Makoto Ibusuki, Đại học Tổng hợp Seijo, David Johnson, Đại học
tổng hợp Hawai'i.
154
23. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Hàn Quốc, Byung-
Sun Cho, Trường Cao đẳng luật, Đại học Tổng hợp Chongju, Hàn
Quốc, Tom Ginsburg, Trường Luật, Đại học tổng hợp Chicago.
24. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Indonesia, Simon
Butt, Đại học Sydney.
25. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
26. Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.
27. Cao Việt Cường (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội),
Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Đào Thịnh Cường (2009), Năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà
Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Nguyễn Công Cường (2016), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
30. David W. Neubauer; Stephen S. Meinhold (2012), Judicial Process: Law,
Courts, and Politics in the United States (Thủ tục tư pháp: Pháp luật,
các Tòa án, và Chính trị ở Hoa Kỳ), Nxb Wadsworth Publishing.
31. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của
các cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) và các cộng sự (2014), Viện kiểm sát trong
Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
155
33. Bùi Chí Dũng (2008), Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
34. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thư tư Ban Chấp
hành trung ương khoá IX, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
38. Phạm Thị Đào (2011), Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư
pháp hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật, Hà Nội.
39. Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát", Kỷ
yếu đề tài cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn
hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.
40. Trần Mạnh Đông (2009), Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình
tiến hành tố tụng hình sự một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư
pháp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
41. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
42. Trần Ngọc Đường (2013), “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân thể
hiện xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa
đổi", tại trang http://www.nhandan.com.vn, [truy cập ngày 20/2/2017].
43. Nguyễn Duy Giảng (2013), “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành
tố tụng thuộc Viện kiểm sát và một số kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Kiểm sát, (6).
156
44. Nguyễn Duy Giảng (2015), Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
45. Giu-ba E.P (2008), Các xu hướng đương đại phát triển nguyên tắc độc lập
của Thẩm phán, Học viện Nhà nước và pháp luật Xa-ra-tốp.
46. Lương Thúy Hà (2013), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát Nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta,
Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hà và các cộng sự (2007), "Giới thiệu về Viện kiểm sát nhân
dân và Viện công tố của một số nước trên thế giới", Tạp chí Kiểm sát,
(14), tr.3- 27, 36
48. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư
pháp", Kiểm sát, (8), tr.19.
49. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Phạm Hồng Hải (2006), “Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).
51. Hà Thị Hằng (2013), Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật,
Hà Nội.
52. Vũ Đức Hạnh (2012), Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại
học Quốc gia, Hà Nội, Hà Nội.
53. Hoàng Thị Hoa (2009), Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tiến trình cải cách tư pháp,Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.
54. Lê Thị Tuyết Hoa (2005), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật
học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
55. Trần Quỳnh Hoa (2014), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát
viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
157
56. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình công tác
kiểm sát, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu đính,
Nxb Pháp luật Bắc Kinh, Trung Quốc.
57. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình chế độ
công tố, tập I, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu
đính, Nxb Pháp luật, Bắc Kinh, Trung Quốc.
58. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình chế độ
công tố, tập II, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu
đính, Nxb Pháp luật, Bắc Kinh, Trung Quốc.
59. Hội đồng lý luận Trung ương (2015), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung quốc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
60. Ngũ Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong luật tố tụng
hình sự của Trung Quốc và Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
61. Văn Thị Bích Huệ (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Phạm Mạnh Hùng (2009), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện
kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp
bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
63. Phạm Mạnh Hùng (2013), “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta”, Tạp chí
Kiểm sát, (06).
64. T. Hương (2010), "Trung Quốc: Quy định mới giữa Viện kiểm sát và Bộ
Công an", Báo Bảo vệ pháp luật, (81), tr.15.
65. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát Nhân dân, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
158
66. Nguyễn Ngọc Khánh (Chủ biên) (2008), Tăng cường trách nhiệm của công
tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa
học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
67. Kha-zi-nô-va V.M (2016), "Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”, Thư viện
khoa học điện tử Lênin, tại trang http://cyberleninka.ru/ [truy cập ngày
20/8/2016].
68. Phạm Thị Bích Liên (2012), Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân Thành phố Việt Trì trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
69. Nguyễn Thùy Linh (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát
xét xử vụ án hình sự của Viện kiếm sát nhân dân, Luận văn Thạc sỹ luật,
Hà Nội.
70. Lê Xuân Lộc (2012), Năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh phú thọ trong xét xử các vụ án
hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Phạm Văn Lợi (Chủ biên) (2005), Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
72. Mai Văn Lư (2009), "Cần tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra và tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trong
tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Kiểm sát, (5), tr.13.
73. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) (2005), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX04.06,
Hà Nội.
74. Mai Văn Minh (2016), "Quy định mới của pháp luật về thẩm quyền điều tra
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương", Tạp chí Kiểm
sát, (9), tr.25-28.
159
75. Vũ Mộc (2009), ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng
cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực
hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (10).
76. Vũ Mộc (Chủ biên) (2010), Công tác điều tra của Viện kiểm sát nhân dân -
Thực trạng và phương hướng đổi mới, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
77. Mai Thị Nam (2008), Chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm
hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Nguyễn Trọng Nghĩa (2010), Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
Nhân dân đối với các vụ án hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
79. Lưu Trọng Nguyên, Trần Mai Lâm (2013), “Phân định thẩm quyền hành
chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng cho
Kiểm sát viên”, Tạp chí Kiểm sát, (01).
80. Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố,
Luận văn Thạc sỹ Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
81. Nguyễn Hải Phong (2010), Bảo đảm tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động
điều tra - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Nhà
nước - nhánh nghiên cứu IX, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Hà Nội.
82. Nguyễn Hải Phong (Chủ biên) và các cộng sự (2014), Một số vấn đề về trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
160
83. Nguyễn Thái Phúc (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm
sát", Kỷ yếu đề tài cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.
84. Lê Tuấn Phương (2009), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh Thái Nguyên,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
85. Phạm Thị Phương (2013), Năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960), Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
87. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960), Tờ trình về Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
88. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), "Pháp lệnh Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân", tại trang http://thuvienphapluat.vn,
[truy cập ngày 20/5/2016].
89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
Hà Nội.
90. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.
91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân, Hà Nội..
92. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng
hình sự, Hà Nội.
161
93. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, Nxb Lao động -
Xã hội, Hà Nội.
94. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959, Nxb Lao động -
Xã hội, Hà Nội.
95. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Nxb Lao động -
Xã hội, Hà Nội.
96. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
97. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm
2013, Hà Nội.
98. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
99. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2010), Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Richard S. Shiner, Về mô hình tổ chức Viện kiểm sát trong bối cảnh cải cách
tư pháp ở Việt Nam.
101. Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên) (2003), Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
102. Nguyễn Tiến Sơn (2012), Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
103. Trịnh Duy Tâm (2005), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
162
104. Lại Văn Thái (2013), Chức năng Công tố của Viện kiểm sát, Luận văn Thạc
sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
105. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
106. Lê Hữu Thể (1997), “Về vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong cải cách bộ
máy Nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).
107. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
108. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới
thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài đề tài
cấp nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội,
109. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới
thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài mã số
ĐTĐL.2009G/13, Hà Nội.
110. Thông tin khoa học kiểm sát (2010), "Mô hình tố tụng hình sự Việt nam qua
các thời kỳ", Viện Khoa học kiểm sát, (5+6).
111. Thông tấn xã Việt Nam (dịch) (2014), Hội nghị Trung ương 4 khóa XVIII
Đảng Cộng sản Trung Quốc - Y pháp trị quốc và vai trò lãnh đạo của
Đảng, Hà Nội.
112. Vũ Công Thuận (2009), Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố ở ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
113. Nguyễn Thị Thủy (2014), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp
dụng tố tụng tranh tụng, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
114. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình Công tác kiểm sát
tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
163
115. Hoàng Tùng (2008), Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
116. Nguyễn Thế Tùng (2011), Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm
sát quân sự tại phiên tòa hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, Luận án thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
117. Vương Hồng Tường (2010), Đẩy nhanh xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ
nghĩa công bằng, hiệu quả, uy tín, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
Trung Quốc.
118. Đào Trí Úc (2013), “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát
nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, (01).
119. Đào Trí Úc, Vũ Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), Cải cách tư pháp vì một
nền tư pháp liêm chính, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
120. UNDP và Bộ Tư pháp Việt Nam (2009), Đổi mới cơ cấu tổ chức cơ quan
kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp tại Việt Nam (kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn trong nước), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
121. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (2012), Tài liệu hội thảo về Mô hình tố tụng
hình sự, Thừa Thiên Huế.
122. Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung quốc (2005), Xây dựng chính trị
dân chủ của Trung Quốc, Thông tấn xã Việt Nam dịch, Hà Nội.
123. Văn phòng Quốc vụ viện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (2005), Sách trắng:
Xây dựng chính trị dân chủ của Trung quốc, Thông tấn xã Việt Nam
(dịch), Nxb Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội.
124. Nguyễn Tất Viễn (2009), Suy nghĩ về cơ quan công tố ở Việt Nam trong cải
cách tư pháp, Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
125. Nguyễn Tất Viễn (2014), "Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động
của hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo lý luận lần
thứ 10 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung quốc,
Hội đồng lý luận Trung ương, Đà Lạt.
164
126. Nguyễn Tất Viễn (2016), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật
hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
127. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự Trung
Quốc, tập II, Hà Nội
128. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), “Những vấn đề lý luận về quyền công
tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”,
Thông tin khoa học pháp lý, (1), tr.10.
129. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên
bang Đức", Thông tin Khoa học Kiểm sát, (5+6), tr.138
130. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Số chuyên đề về Luật tố tụng hình
sự Cộng hòa liên bang Đức", Thông tin Khoa học Kiểm sát, (5+6),
tr.138.
131. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Chuyên đề Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Hội nghị tập
huấn công tác kiểm sát, Hà Nội.
132. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC
ngày 02/01/2008 ban hành Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự,
Hà Nội.
133. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện kiểm sát/công tố một số nước
trên thế giới”, Thông tin Khoa học kiểm sát, (1, 2).
134. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Chuyên đề sơ kết công tác kiểm sát
việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, Hà Nội.
135. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi
mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đề tài cấp
Nhà nước, Hà Nội.
136. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Đề án và Phụ lục Đề án mô hình tố
tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội.
137. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), "Mô hình tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới", Thông tin Khoa học kiểm sát (1, 2).
165
138. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết việc thi hành Hiến
pháp năm 1992 trong ngành Kiểm sát nhân dân số 09/BC-VKSTC ngày
20/01/2012, Hà Nội.
139. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác của ngành
Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
140. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), “Nghiên cứu luật tổ chức cơ quan
công tố/Viện kiểm sát một số nước trên thế giới”, Thông tin Khoa học
kiểm sát (3, 4).
141. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 02/BC-VKSTC ngày
09/01/2014 về Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 (sửa đổi năm 2011), Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự
năm 2002, Hà Nội.
142. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 11/BC-VKSTC ngày
19/01/2015 về Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình
sự, Hà Nội.
143. Viện kiểm sát Liên bang Đức (1993), Luật tổ chức, Liên bang Đức.
144. Viện kiểm sát Liên bang Nga (1993), Luật tổ chức, Liên bang Nga.
145. Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1995), Luật tổ
chức, Trung Hoa.
146. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tổng kết một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về công tác của Viện Kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức
và hoạt động, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
147. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2015), Từ điển Bách khoa
toàn thư, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội, tr.563.
148. Lại Hợp Việt (2014), "Bàn về mô hình Viện kiểm sát và chế định Kiểm sát
viên trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)", Tạp chí
Kiểm sát, (10), tr.18-21.
149. Lại Hợp Việt (2014), "Bàn về ngạch Kiểm sát viên và điều kiện tiêu chuẩn
bổ nhiệm Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các cấp trong Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.16-19.
166
150. Lại Hợp Việt (2014), “Tăng thẩm quyền và mở rộng đối tượng điều tra cho
cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, (22),
tr.8-11.
151. Nguyễn Hồng Vinh (2013), “Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra” đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (01).
152. Hoàng Hải Yến (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát
viên trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Nga
153. И.М Чепурнова. (1994), Конституционные основы правосудия в
Российской Федерации: автореферат Kанд. юрид. наук. Ростов-на-
Дону.
154. Проф. С.А.Пашин; Проф.доктор юр. наук Т.Г. Морщакова; Проф.
доктор юридических наук В.И. (2011) Миронов, Концепция
судебной реформы в России (тезисы), OMCK
155. Прокурор в уголовном судопроизводстве, http://cyberleninka.ru/
article/n/prokuror-v-ugolovnom-protsesse#ixzz4e7sMFT00, date]
156. Дмитрий Антонович, Безвершенко Государство и право Опубликовано
в Молодой учёный №1 (48) январь 2013.
157. Алексеева Судоргина Ирина; Судебная власть в правовом государстве;
автореферата по ВАК 12.00.01, доктор юридических наук, Москва,
1992 год.