giÁo trÌnh - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/179.giaotrinhnhapmoncongtacxa… · web...
TRANSCRIPT
GIÁO TRÌNH NHẬP MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘIGIÁO TRÌNH
NHẬP MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
Tác giả: TS. Mai Thị Kim Thanh
LỜI NÓI ĐẦU
Công tác Xã hội có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con
người, bảo vệ giá trị, nhân phẩm của con người và góp phần trong việc bảo
đảm bình đẳng xã hội. Trên thế giới, Công tác Xã hội được công nhận là một
nghề và tuỳ theo đặc điểm hoàn cảnh của mỗi nước mà Công tác Xã hội có
những sắc thái riêng nhưng hầu hết vẫn tuân theo những nguyên tắc, giá trị
chuẩn mực chung.
Ở Việt Nam, Công tác Xã hội đang ngày càng nhận được sự quan tâm
của xã hội. Đảng và Nhà nước cũng đã có những chính sách phát triển Công
tác Xã hội, cụ thể là việc thực hiện quyết định 32/2010/QĐ–TTg của Thủ
tướng Chính phủ về đề án phát triển nghề Công tác Xã hội giai đoạn 2010 –
2020. Đây là một sự kiện ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển Công tác Xã
hội như một ngành khoa học, một nghề chuyên môn mang tính chuyên nghiệp
tại Việt Nam.
Nhu cầu tìm hiểu về Công tác Xã hội ngày một tăng tuy nhiên tài liệu
giảng dạy, học tập và tham khảo cho giáo viên, sinh viên đại học còn ít, chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế. Chính vì vậy, cuốn sách này được viết trong
khuôn khổ những kiến thức khái quát để phục vụ cho việc tham khảo, việc
dạy và học về Công tác Xã hội. Chúng tôi hy vọng rằng, cuốn giáo trình Nhập
môn Công tác Xã hội sẽ góp phần trong việc giúp đỡ người đọc có được một
cái nhìn tổng quan và khái quát nhất về Công tác Xã hội. Đó là sự khác nhau
giữa Công tác Xã hội và các ngành khoa học khác, chức năng và nhiệm vụ
của Công tác Xã hội, nền tảng khoa học, các quan điểm giá trị, nguyên tắc
đạo đức của nghề, các phương pháp, kỹ năng áp dụng, một số đối tượng
chính của Công tác Xã hội,… Các kiến thức trong giáo trình đã được tham
khảo, biên soạn từ nhau nguồn tài liệu khác nhau ở trong và ngoài nước.
Nội dung của giáo trình được chia thành 3 chương:
Chương 1: Công tác Xã hội là một khoa học.
Chương 2: Nền tàng khoa học của Công tác Xã hội.
Chương 3: Các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.
Trong quá trình biên soạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng có thể
không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được những đóng góp từ các
nhà chuyên môn và bạn đọc gần xa nhằm hoàn thiện hơn nữa nội dung của
cuốn giáo trình này.
Thư góp ý xin gửi về: Công ty Cổ phần sách Đại học – Dạy nghề
HEVOBCO, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 25 Hàn Thuyên – Hà Nội.
Xin trân trọng cảm ơn!
TS. Mai Thị Kim Thanh
Chương 1. CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
1. KHÁI NIỆM CÔNG TÁC XÃ HỘICông tác Xã hội cũng như bất kỳ môn khoa học nào, nó không xuất
hiện ngay một lúc dưới dạng hoàn chỉnh với một hệ thống khái niệm, quy luật
nguyên lý và phương pháp của nó. Vì vậy để hiểu và trả lời được câu hỏi
“Công tác Xã hội là gì?” thì cho tới nay đã có rất nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về nó.
Theo F.Lulu Pablo – Bộ trưởng Bộ Xã hội Philippin: Công tác Xã hội
vừa là một nghệ thuật vừa là một môn khoa học, là một nghề chuyên môn
giúp con người giải quyết những vấn đề của cá nhân, của nhóm (đặc biệt gia
đình), của cộng đồng và để đạt được những mối quan hệ thoả đáng về cá
nhân nhóm, cộng đồng thông qua các hoạt động xã hội như: Công tác Xã hội
cá nhân, Công tác Xã hội nhóm, tổ chức cộng đồng, quản lý xã hội và nghiên
cứu.
Theo Foundation of Social Work Practice (Cơ sở thực hành Công tác
Xã hội): Công tác Xã hội là một khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi người
vượt qua khó khăn của họ và đạt được vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội.
Công tác Xã hội được coi như là một môn khoa học vì nó dựa trên những
luận chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được chứng minh. Và
chính những luận chứng và những cuộc nghiên cứu này đã cung cấp một
lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn cho Công tác Xã hội và xây dựng những
kỹ năng chuyên môn hoá.
Theo ThS. Nguyễn Thị Oanh: Công tác Xã hội là một hoạt động thực
tiễn mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo những nguyên tắc và
phương pháp nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải
quyết các vấn đề đời sống của họ. Qua đó, Công tác Xã hội theo đuổi mục
tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. Công tác Xã hội là
hoạt động thực tiễn bởi họ luôn làm việc trực tiếp với đối tượng, với nhóm
người cụ thể và mang tính tổng hợp cao chính bởi người làm Công tác Xã hội
phải làm việc với nhiều vấn đề khác nhau như: tệ nạn xã hội, vấn đề người
nghèo, vấn đề gia đình,… Công tác Xã hội không giải quyết mọi vấn đề của
con người và xã hội mà chỉ nhằm vào những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống
hàng ngày của con người. Đó là an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội, đồng thời
hỗ trợ con người giải quyết vấn đề đời sống cụ thể của họ, nhằm đem lại sự
ổn định, hạnh phúc cho mọi người và phát triển cho cộng đồng, xã hội.
Theo Joanf Robertson – Chủ nhiệm Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại
học Wisconsin – Hoa Kỳ: Công tác Xã hội là một quá trình giải quyết vấn đề
hợp lý nhằm thay đổi theo kế hoạch, hướng tới mục tiêu đã đề ra ở các cấp
độ cá nhân, gia đình, nhóm, tổ chức, cộng đồng và chính sách xã hội.
Theo NASW – Tổ chức Quốc tế phục vụ cộng đồng, gia đình và tổ chức
tình nguyện Liên Hợp Quốc: Công tác Xã hội là những hoạt động chuyên
nghiệp, nhằm mục đích giúp đỡ các cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn
cảnh khó khăn, để họ tự phục hồi chức năng hoạt động trong xã hội và để tạo
ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích của cá nhân.
Theo ISSW – Liên đoàn chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (tại Đại hội
Montrean tháng 7/2000): Công tác Xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi
xã hội việc giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, sự tăng quyền lực
và giải phóng người dân giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác Xã
hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề.
Theo quan niệm của các học giả Trung Quốc: Công tác Xã hội là một
sự nghiệp, một môn khoa học chuyên ngành của nhà nước và xã hội để giải
quyết và dự phòng những vấn đề xã hội nảy sinh do thành viên xã hội thiếu
khả năng thích ứng với cuộc sống xã hội hay mất thăng bằng với các chức
năng xã hội. Tính năng của nó là điều chỉnh quan hệ xã hội, cải thiện chế độ
xã hội, đẩy mạnh xây dựng xã hội, thúc đẩy sự phát triển ổn định của xã hội
thông qua phục vụ xã hội và quản lý xã hội.
Theo Crouch. R. C: Công tác Xã hội là sự cố gắng hỗ trợ những người
không làm chủ các phương tiện sinh tồn biết tiếp cận được với chúng và đạt
được mức độ độc lập cao nhất có thể được.
Theo Từ điển Xã hội học: Công tác Xã hội là một dịch vụ đã chuyên
môn hoá – một việc giúp đỡ có tính cá nhân để giải quyết những vấn đề xã
hội đặc biệt.
Với quan niệm phong phú về Công tác Xã hội như vậy nên việc nêu
một định nghĩa thật hoàn chỉnh, chính xác về Công tác Xã hội không phải là
đơn giản. Tuy nhiên, có thể tóm tắt nội dung khái niệm Công tác Xã hội như
sau:
Công tác Xã hội là một hoạt động chuyên nghiệp, một nghề, một dịch
vụ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội và cung ứng cho cá nhân, gia
đình cá nhân ấy, cho một nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó khăn mà
tự họ không tìm ra lối giải quyết.
Công tác Xã hội với trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề trong quan
hệ của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông qua mối quan
hệ tương tác đã được cải thiện. Nó tăng cường năng lực, giải phóng tiềm
năng của cá nhân, gia đình, cộng đồng thông qua các hoạt động hướng vào
mối quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với môi trường.
Công tác Xã hội còn cung ứng thông tin, tài liệu, sự hỗ trợ tinh thần và
các kỹ năng chuyên môn thông qua sự quan tâm giữa người và người nhằm
giúp đối tượng có thêm khả năng, điều kiện và hoàn cảnh để họ tự cải thiện
cuộc sống của chính mình.
Nhân viên Công tác Xã hội với các kỹ năng được đào tạo về chuyên
môn và kinh nghiệm nghề nghiệp là người trực tiếp làm việc để đạt các mục
đích được định rõ, vận dụng các phương pháp, kỹ năng cơ bản trong Công
tác Xã hội để làm cho đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu, giải quyết
điều chỉnh những vấn đề đang đặt ra của mình cho phù hợp với sự thay đổi
mô hình xã hội.
Từ định nghĩa trên có thể thấy, Công tác Xã hội chính là một khoa học,
một nghề và đối tượng của nó chính là các hoạt động xã hội đặc thù nhằm
giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng ngăn chặn, khôi phục các chức năng
bị suy thoái, đồng thời chính họ tự vươn lên để giải quyết các vấn đề đã và
đang đặt ra của mình, từ đó hoà nhập với cộng đồng xã hội.
2. CÁC CẤP CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI– Cấp độ vi mô: cá nhân (lịch sử bản thân, cuộc sống, đặc điểm tính
cách, các khả năng,…).
– Cấp độ trung mô: các nhóm nhỏ như gia đình với các thành viên của
mình; nhóm lớn: trường học, cơ sở làm việc,…
– Cấp độ vĩ mô: Xã hội (chính sách xã hội, chương trình, chiến lược
quốc gia,…).
3. PHÂN BIỆT CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CÔNG TÁC TỪ THIỆN, CỨU TRỢ XÃ HỘI, BẢO ĐẢM XÃ HỘI
3.1. Phân biệt Công tác Xã hội với Công tác từ thiện
Công tác Xã hội với Công tác từ thiện là hai hoạt động về mặt hình thức
cùng có những điểm giống nhau, đó là xuất phát từ lòng nhân đạo, lòng
thương người và cùng giúp những người trong những hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Tuy nhiên, giữa chúng lại có những khác nhau về căn bản do xuất phát
từ những mục đích, cách tiếp cận cũng như phương pháp làm việc khác
nhau.
Về động cơ: Nếu như công tác từ thiện, động cơ của họ khi làm có thể
xuất phát từ cá nhân, từ nhu cầu tâm lý muốn tự khẳng định, bù đáp, muốn
tạo uy tín, cũng có thể là mang một màu sắc tôn giáo nào đó như làm phúc,
để đức cho con cháu hoặc cũng có thể là muốn che giấu một điều gì đó,… thì
ở Công tác Xã hội, động cơ của nó khác hẳn, với quan niệm cho rằng, đây là
một nghề phi lợi nhuận, con người và quyền của con người được đặt lên
hàng đầu, cho dù họ là ai về địa vị, kinh tế hay tôn giáo,… thì chính họ và lợi
ích của họ cũng sẽ được quan tâm như nhau.
Về mục đích: Do xuất phát từ động cơ cho rằng, đối tượng và lợi ích
của con người chính là mối quan tâm hàng đầu, không có sự phân biệt cho
nên trong Công tác Xã hội, mục đích chính là giúp đối tượng có vấn nạn phát
huy tiềm năng của chính mình để tự vươn lên. Ở đây, vấn nạn của đối tượng
sẽ được giải quyết tận gốc và toàn diện. Trong khi đó hoạt động của công tác
từ thiện chỉ mang tính chất nhất thời, cần làm ngay nhằm giúp đối tượng thoát
ra khỏi hoàn cảnh khó khăn hiện tại như: sự phân phối viện trợ của một cá
nhân hay tổ chức nào đó cho những cá nhân, gia đình, cộng đồng hiện đang
bị lũ lụt, thiên tai, hoả hoạn,… Vậy nên công tác từ thiện không thể đáp ứng
được nhu cầu của đối tượng.
Về phương pháp: do Công tác Xã hội là một ngành khoa học ứng dụng
nên nhân viên công tác xã hội – những người tham gia trực tiếp giúp đỡ đối
tượng phải là những người được trang bị các kiến thức về chính sách xã hội,
an sinh xã hội, lý thuyết về hành vi con người và môi trường, các kỹ năng trợ
giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng, thái độ đạo đức nghề nghiệp,… cũng như
những phương pháp can thiệp, sau đó sử dụng những phương pháp này (đã
được học từ trường lớp và từ thực tiễn) để giúp đỡ đối tượng, trong khi ở
công tác từ thiện chỉ là những hoạt động phân bổ mang tính chu kỳ.
Về mối quan hệ: Với quan điểm nghề nghiệp của ngành là những quan
điểm vì con người, vì mục đích cho sự an sinh của con người và những biện
pháp đi đến mục đích đó mà trong quan hệ với đối tượng, mối quan hệ của
người nhân viên xã hội với đối tượng trong Công tác Xã hội là mối quan hệ
bình đẳng, mật thiết, tôn trọng. Ở đây nhân viên xã hội tìm hiểu nhu cầu của
đối tượng, dùng những kiến thức, kỹ năng của mình phát huy tiềm năng của
đối tượng và làm cùng với họ. Tôn trọng và khuyến khích đối tượng chủ động
tham gia cũng như tự quyết lấy những vấn đề của chính mình. Trong khi đó ở
hoạt động từ thiện, mối quan hệ này khác hẳn, nó là mối quan hệ nhất thời từ
trên xuống, thậm chí có khi mang tính ban ơn. Ở đây người giúp đỡ chủ động
quyết định, áp đặt có khi làm thay cho đối tượng còn đối tượng thụ động ngồi
chờ.
Về kết quả: Xuất phát từ động cơ, mục đích, phương pháp và mối quan
hệ khác nhau mà kết quả của hai hoạt động này khác hẳn nhau. Trong khi ở
hoạt động Công tác Xã hội, do xuất phát từ nhu cầu của đối tượng, thấu hiểu
được những nguồn lực của chính họ và những rủi ro hay nguy cơ có thể xảy
ra mà nhân viên Công tác Xã hội có thể giúp đỡ một cách tốt nhất, vì thế vấn
đề cốt lõi của đối tượng được giải quyết. Đối tượng từ đó có thể tự đứng
vững trên đôi chân của chính mình sau khi được giúp. Trong khi đó ở hoạt
động từ thiện, việc giúp đỡ này chỉ mang tính chất xoa dịu nhất thời, nhu cầu
chính vẫn chưa giải quyết được, thậm chí đối tượng còn mang tính ỷ lại, chờ
đợi.
3.2. Phân biệt Công tác Xã hội với Cứu trợ xã hội
Nếu như Công tác Xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho
cá nhân, gia đình cá nhân ấy, cho một nhóm người, một cộng đồng khi gặp
khó khăn mà tự họ không tìm ra lối giải quyết thì cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ
của nhà nước, xã hội, cộng đồng thông qua các chính sách, chế độ, biện
pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên của xã hội khi họ gặp những
khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống hoặc do những nguyên nhân khác
nhau dẫn đến mất một phần hoặc toàn bộ thu nhập, tài sản,… nhằm tạo điều
kiện để họ có thể vượt qua khó khăn, đảm bảo cho cuộc sống, sinh hoạt, tự
mình vươn lên hoà nhập trở lại với cộng đồng và xã hội.
Cứu trợ xã hội bao gồm: cứu tế xã hội và trợ giúp xã hội.
Cứu tế xã hội: là cứu giúp cho các thành viên của xã hội khi họ gặp
những rủi ro, bất hạnh mà cuộc sống bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu không có
sự cứu tế thì những đối tượng gặp khó khăn và gia đình của họ có thể bị nguy
hại đến cuộc sống, có thể dẫn đến cái chết. Ở đây, tính chất của cứu tế là
mang tính tức thời, cấp cứu, đôi khi mang tính chất thường xuyên, lâu dài đặc
biệt là những trường hợp như: người già cô đơn không nơi nương tựa, người
nghèo, người tàn tật – những người không có khả năng lao động, không có
nguồn thu nhập để trang trải cho cuộc sống hàng ngày,…
Trợ giúp xã hội: là sự hỗ trợ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện
vật chất tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi gặp
phải những khó khăn hoặc sa sút nào đó. Họ có thể vẫn cố gắng để tự lo liệu
cuộc sống nhưng nếu không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ trở nên khó
khăn hơn và dễ rơi vào tình cảnh bần cùng. Ở đây, tính chất của trợ giúp xã
hội khác với cứu tế xã hội ở chỗ đối tượng có cơ hội khắc phục hoặc giảm
bớt hậu quả, rủi ro, tự vươn lên đảm bảo cuộc sống của mình, sớm hoà nhập
trở lại với cộng đồng. Trợ giúp vừa có tính tức thời, vừa có tính lâu dài nhưng
lâu dài là chủ yếu. Trợ giúp có phạm vi hoạt động lớn hơn cứu tế xã hội.
3.3. Phân biệt Công tác Xã hội với Bảo đảm xã hội
Nếu như Công tác Xã hội với trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề
trong quan hệ của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông
qua mối quan hệ tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức
năng xã hội của các cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt
động hướng vào mối quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với
môi trường thì Bảo đảm xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ
thống các chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Đây là một
chính sách xã hội vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm những điều kiện vật
chất và tinh thần cần thiết để duy trì, ổn định và nâng cao đời sống của mọi
thành viên trong xã hội mà trước hết là người lao động.
Bảo đảm xã hội tập trung ở 3 lĩnh vực chủ yếu là: ưu đãi xã hội, bảo
hiểm xã hội và cứu trợ xã hội.
Ưu đãi xã hội: là một chính sách có tính đặc thù của Nhà nước dành
cho các đối tượng là những người có công với đất nước như: gia đình có
công với cách mạng, thương bệnh binh, liệt sĩ và thân nhân của họ,…
Bảo hiểm xã hội: là một hệ thống chính sách, chế độ nhằm đảm bảo
khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong các trường hợp bị giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm dẫn tới tình trạng bị giảm hoặc mất
nguồn thu nhập từ lao động và việc làm sau khi người lao động đã đóng bảo
hiểm xã hội trong một thời gian nhất định.
Cứu trợ xã hội: là một chính sách đang được áp dụng ở các địa
phương và các nước phát triển nhằm phòng ngừa, bảo vệ những khó khăn có
thể xảy ra đối với các cá nhân trong xã hội. Hoạt động này bao gồm: cứu trợ
tại gia, bảo vệ trẻ em bị ngược đãi, trẻ em không nơi nương tựa do Nhà nước
giám hộ,…
4. QUAN HỆ GIỮA CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI MỘT SỐ NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI KHÁC
4.1. Quan hệ giữa Công tác Xã hội với Xã hội học
Khi xem xét mối quan hệ giữa Xã hội học với Công tác Xã hội thì việc
tìm hiểu đối tượng nghiên cứu của mỗi ngành khoa học là cần thiết, để từ đó
tìm hiểu sự giống, khác nhau giữa hai ngành khoa học này và quan hệ giữa
chúng.
Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về các quy luật và tính quy luật
xã hội chung, đặc thù của sự phát triển, sự vận hành của các hệ thống xã hội
xác định về mặt lịch sử. Nó là khoa học về các cơ chế tác động, các hình thức
biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, nhóm xã hội,
giai cấp và các dân tộc. Nói cách khác, Xã hội học là một bộ môn nghiên cứu
các mối quan hệ của các sự kiện, các quá trình, cơ cấu và thiết chế xã hội
nhằm tìm ra lôgíc của thực tại xã hội và sự vận động của tồn tại đó. Đối tượng
của Xã hội học được chia ra làm 2 cấp độ: cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô. Cấp
độ vi mô nghiên cứu mối quan hệ của các cá nhân trong các nhóm xã hội, các
giai cấp, các tầng lớp xã hội cũng như mối quan hệ giữa các nhóm, các giai
cấp, tầng lớp, cộng đồng. Còn cấp độ vĩ mô nghiên cứu các quy luật chung và
sự đặc thù vận hành của hệ thống xã hội.
Công tác Xã hội cũng là một khoa học ứng dụng, một nghề, một hoạt
động xã hội đặc thù giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng nhằm ngăn chặn,
khôi phục các chức năng bị suy thoái và giúp họ tự vươn lên giải quyết các
vấn đề đã và đang đặt ra của mình, từ đó hoà nhập với cộng đồng xã hội.
Như vậy, Xã hội học và Công tác Xã hội đều giống nhau ở chỗ: cùng
quan tâm và giúp đỡ con người, nhóm, cộng đồng xã hội nhưng khác nhau ở
chỗ: Trong khi Xã hội học nghiên cứu lĩnh vực xã hội của xã hội, nghiên cứu
các hiện tượng xã hội, các mối quan hệ giữa các cộng đồng, giai cấp, tầng
lớp xã hội và giữa các cá nhân hay nói cách khác nó nghiên cứu mối quan hệ
giữa con người và xã hội (sự ảnh hưởng của con người tới xã hội và ngược
lại), sự tương tác giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, với các cộng
đồng trong các tổ chức xã hội và thông qua các tương tác, quan hệ xã hội đó
tìm ra những nguyên nhân, hậu quả từ những quan hệ, tương tác trên, dự
báo xu hướng những vấn đề này sẽ xảy ra trong tương lai ra sao và đưa ra
các giải pháp ngăn chặn thì Công tác Xã hội lại thúc đẩy mối quan hệ giữa
các cá nhân với các lực lượng xã hội và gia đình để giải quyết các vấn đề của
họ (những vấn đề liên quan đến vai trò xã hội và đến việc thực hiện vai trò
ấy), thúc đẩy sự thay đổi xã hội thông qua việc hỗ trợ gia đình và cộng đồng
họ, thiết lập các chương trình, dịch vụ xã hội và quản trị công tác xã hội để
đảm bảo các chính sách xã hội cho những đối tượng dễ bị tổn thương từ đó
thúc đẩy an sinh cho họ và gia đình. Ở đây, những cá nhân, nhóm xã hội,
cộng đồng mà Công tác Xã hội quan tâm không bó hẹp đối tượng quan tâm
của mình theo tôn giáo, địa vị hay mức sống nào,… mà nó chủ yếu nhằm vào
những cá nhân, nhóm, cộng đồng khi đã bị tổn thương hay gặp những vấn
nạn mà chính họ không tự giải quyết được như: mắc vào những tệ nạn xã
hội, làm trái pháp luật, nghèo đói, bị khuyết tật, sức khỏe tâm thần kém,…
Rõ ràng tính chất tổng hợp, đa diện của Công tác Xã hội đã làm cho nó
rất gần với Xã hội học về đối tượng và nội dung cùng quan tâm, đặc biệt là hệ
thống lý luận của Xã hội học – một trong những nền tảng lý luận và là cơ sở
cho những thực hành Công tác Xã hội như: lý thuyết vị trí, vai trò xã hội; lý
thuyết hành động xã hội; lý thuyết hệ thống; lý thuyết giá trị – chuẩn mực,…
Về vấn đề này Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ Triết học Nga P.U. Pavlenok và A.A.
Akamalova cũng đã khẳng định: “Xã hội học trên lý thuyết là phương pháp
luận đối với Công tác Xã hội”. Điều này có nghĩa, những lý thuyết trong Xã hội
học sẽ giúp những người làm Công tác Xã hội hiểu rõ những khái niệm về xã
hội con người như nó vốn có, về những đặc tính của xã hội trong giai đoạn
phát triển và chức năng hoá cụ thể của nó, về các quá trình xã hội riêng lẻ, cá
biệt, các hình thức hoạt động xã hội riêng lẻ, các cộng đồng xã hội, các nhóm
dân cư,… Nó còn giúp những người làm Công tác Xã hội nắm được những
kỹ năng thực tế về tổ chức, nghiên cứu, lập chương trình, các phương pháp
như: phỏng vấn, tham vấn,… khi thực hành nghề và giúp định hướng sự hoạt
động xã hội diễn ra trong một môi trường xã hội với những thể chế, cấu trúc
xã hội và những nhóm xã hội cần được bảo vệ về mặt xã hội. Ngược lại,
những kiến thức và kết quả trong hoạt động Công tác Xã hội cũng là những
minh chứng cụ thể hoá và làm sáng tỏ hơn những khái niệm, hệ thống những
lý thuyết trong Xã hội học, những phát hiện mới mà các nhà Xã hội học
nghiên cứu.
Tuy nhiên do mục đích khác nhau, nhu cầu xã hội đòi hỏi khác nhau,…
mà phương pháp sử dụng để can thiệp cho các đối tượng cũng khác nhau.
4.2. Quan hệ giữa Công tác Xã hội với Tâm lý học
Công tác Xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho cá nhân
gia đình cá nhân ấy, cho một nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó khăn
mà họ không tìm ra lối giải quyết. Trọng tâm của nó là làm giảm bớt các vấn
đề trong quan hệ của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông
qua mối quan hệ tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức
năng xã hội của các cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt
động hướng vào mối quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với
môi trường.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về các cá nhân, về hành vi xã hội
của các cá nhân, về các quy luật hình thành tâm lý (xúc cảm, tình cảm,…) của
con người. Trong tâm lý học, người ta xem các cá thể học những kỹ năng
như thế nào, nghiên cứu sự phát triển của các tâm thế ra sao?
Trong quan hệ với Công tác Xã hội, tâm lý học giúp những nhà làm
Công tác Xã hội có những kiến thức trong mô tả, chuẩn đoán và dự báo tâm
lý cá nhân, nhóm người, những lý thuyết như lý thuyết tâm lý học nhóm, tâm
lý học giao tiếp, lý thuyết cá nhân hoá và phân hoá, lý thuyết xung đột xã hội
về cá nhân – cá nhân, cá nhân – nhóm, nhóm với nhóm và một số phương
pháp trong tâm lý học như: phương pháp chẩn đoán, tâm lý học hướng
nghiệp, phương pháp hiệu chỉnh hành vi, môtíp giao tiếp, tự đánh giá,…
Ở đây chức năng chẩn đoán của tâm lý học giúp những người làm
Công tác Xã hội chẩn đoán cá tính và phẩm chất của đối tượng về mặt xã hội,
chẩn đoán các nhóm người và sự phát triển của họ.
Trong chức năng mô tả, tâm lý học giúp những nhà làm Công tác Xã
hội cách thức mô tả những tình tiết tâm lý – xã hội, từ đó phát hiện những vấn
đề về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của Công tác Xã hội cũng
có liên quan đến những tình tiết đã được mô tả.
Trong chức năng mô tả, tâm lý học giúp những nhà làm Công tác Xã
hội xác định được các yếu tố hình thành cá tính tương lai, cũng từ các yếu tố
này có thể giải quyết được nhiệm vụ phát triển cá tính về mặt xã hội, nâng
con người lên mức tự bảo vệ về mặt xã hội.
Trong lý thuyết tâm lý học nhóm, tâm lý học giúp những nhà làm Công
tác Xã hội nắm được cấu trúc của nhóm người thông qua địa vị lãnh đạo,
trách nhiệm, triển vọng, hoạt động nghề nghiệp, kinh nghiệm xã hội. Việc xác
định cấu trúc nhóm về tâm lý học sẽ giúp những nhà làm Công tác Xã hội tổ
chức tốt các chương trình Công tác Xã hội. Còn ở lý thuyết tâm lý học giao
tiếp, tâm lý học giúp những nhà làm Công tác Xã hội nắm được kỹ năng giao
tiếp để giáo dục và phát triển cá tính. Việc này tạo nên các mối quan hệ sư
phạm xã hội thuận lợi cho Công tác Xã hội.
Đóng vai trò quan trọng với Công tác Xã hội còn là lý thuyết xung đột xã
hội về cá nhân – cá nhân, cá nhân – nhóm, nhóm với nhóm, việc phân tích
tâm lý xã hội với xung đột (tình tiết xung đột, thái độ thái quá gây mất ổn định
xã hội), việc giải quyết xung đột (bảo đảm được tính hiệu lực trong Công tác
Xã hội). Ở lý thuyết cá nhân hoá và phân hoá, những lý thuyết này giúp
những nhà làm Công tác Xã hội nghiên cứu cá nhân với những hiện tượng
tâm lý như: khí chất, tính tình, tư duy, lời nói, những phẩm chất đạo đức, và
trong lý thuyết nghiên cứu về sự phân hoá có nghĩa nghiên cứu sự phân chia
các nhóm xã hội khác nhau theo tiêu chí độ tuổi, học vấn, tính chất công việc
(lao động nặng hay giản đơn, chân tay hay trí óc), sức khoẻ hoặc nghề
nghiệp,…
Trong tâm lý học hướng nghiệp, tâm lý học giúp những nhà làm Công
tác Xã hội phương pháp tâm lý hướng nghiệp (giúp các cá nhân trong việc tự
quyết lấy nghề nghiệp và phục vụ cho việc xác định lĩnh vực đào tạo lại cán
bộ bổ sung vào các nhóm xã hội,…), phương pháp thích ứng tâm lý (giúp các
đối tượng được bảo trợ hoà đồng vào hoạt động xã hội. Từ đó giúp họ hiểu rõ
hơn xã hội, tự đánh giá được mình, tự thích ứng được với hoàn cảnh luôn
luôn thay đổi,…), phương pháp tư vấn tâm lý (giúp các kỹ năng tư vấn theo
từng nhóm xã hội theo ngành nghề), phương pháp hiệu chỉnh hành vi, môtíp
giao tiếp, tự đánh giá (giúp đối tượng cần được bảo trợ hiểu rõ được những
thiếu sót trong cấu trúc cá tính của bản thân, đề ra được những mâu thuẫn
hành vi mới, luyện tập ứng dụng chúng rồi tổng hợp chuyển thành những
thành quả tâm lý xã hội vào điều kiện sinh hoạt mới của mình).
5. MỤC ĐÍCH VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI5.1. Mục đích của Công tác Xã hội
– Trợ giúp con người, cộng đồng giải quyết, đối phó với các khó khăn
trong cuộc sống.
– Tìm ra những điểm mạnh và phát huy tiềm năng của các cá nhân,
nhóm, cộng đồng trong giải quyết vấn đề.
– Nối kết con người với các nguồn lực và hệ thống các dịch vụ xã hội.
– Thúc đẩy các tổ chức xã hội cung cấp dịch vụ và nguồn lực cho con
người hoạt động có hiệu quả và mang tính nhân văn.
– Phát triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
5.2. Chức năng của Công tác Xã hội
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về chức năng của Công tác
Xã hội.
Theo Giáo sư – Tiến sĩ P.U. Pavlenok và các nhà khoa học Nga, Công
tác Xã hội có 13 chức năng, đó là các chức năng: chuẩn đoán, dự báo, cảnh
báo, phòng ngừa, bảo vệ pháp quyền, sư phạm xã hội, tâm lý, y tế xã hội,
sinh hoạt xã hội, giao tiếp, tuyên truyền quảng cáo, nhân văn, tổ chức.
Theo các nhà khoa học Trung Quốc, Công tác Xã hội có 3 chức năng
cơ bản, đó là: chức năng phục hồi, chức năng điều hoà và chức năng ổn
định.
Theo chúng tôi, Công tác Xã hội có 4 chức năng cơ bản sau: chức
năng phòng ngừa, chức năng phục hồi, chức năng trị liệu và chức năng phát
triển.
5.2.1. Chức năng phòng ngừa
Là chức năng mang tính hướng dẫn, cung cấp dịch vụ và hoạt động,
giúp đỡ mọi cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội, đặc biệt là những người dễ bị
tổn thương nhằm ngăn ngừa những trường hợp khó khăn (tâm lý, quan hệ,
kinh tế,…) có thể xảy ra.
Những hình thức phòng ngừa rất đa dạng. Nhân viên xã hội có thể vận
dụng những cơ cấu về mặt pháp chế xã hội, cơ sở pháp lý, tâm lý, sư phạm,
y tế và những cơ sở khác để phòng ngừa như: trong y tế là hoạt động tiêm
phòng, khám sức khoẻ định kỳ; trong sư phạm là các hoạt động tập huấn
trang bị kiến thức về sức khoẻ, về sức khoẻ sinh sản, về pháp luật, về trồng
trọt, chăn nuôi, về các kỹ năng trong giao tiếp ứng xử,…
5.2.2. Chức năng chữa trị (trị liệu)
Với chức năng này, các nhân viên xã hội bằng những kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm của mình làm việc với các cá nhân, nhóm, cộng đồng đã
bị tổn thương để giảm bớt hoặc loại trừ những vấn đề, những khó khăn. Chức
năng này không chỉ đơn thuần là việc giúp họ tự vươn lên trong cuộc sống
mà còn ở khía cạnh khác tích cực hơn đó là tìm kiếm và khuyến khích nhằm
giúp đối tượng phát huy hết khả năng vốn có của mình như: sức khoẻ, ý chí,
tay nghề, phẩm chất,…những điều mà họ không nhận thấy để phát triển.
5.2.3. Chức năng phục hồi
Đây cũng là một trong những chức năng không kém phần quan trọng
của Công tác Xã hội trong hoạt động giúp đỡ đối tượng. ở đây, những người
làm Công tác Xã hội không chỉ giúp các đối tượng phục hồi những chức năng
về thể chất mà còn phục hồi cả những chức năng về tâm lý và xã hội. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc đánh tan mặc cảm, tự ty của chính họ và giúp họ
nhanh chóng hoà nhập vào với cuộc sống sôi động của cộng đồng.
5.2.4. Chức năng phát triển
Là chức năng phát huy những tiềm năng, tăng năng lực vượt khó, nâng
cao chất lượng sống và tăng cường trách nhiệm xã hội cho các cá nhân,
nhóm, cộng đồng nhằm nâng cao cải thiện chất lượng đời sống cả về vật chất
lẫn tinh thần. Trong các xã hội phát triển, chức năng này luôn luôn được coi
trọng thông qua các chương trình dạy nghề, tập huấn những kiến thức cơ bản
về tâm lý học như: giao tiếp, nghe tích cực, hợp tác, quản lý,… Bởi đây là
cách nhanh nhất để giúp các cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, lạc hậu.
6. VÀI NÉT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI6.1. Trên thế giới
Với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, con người luôn sẵn lòng giúp đỡ
nhau bất kể đó là đất nước hay châu lục nào. Mầm mống của Công tác Xã hội
đã bắt nguồn từ trong lòng các xã hội cổ xưa do trong cuộc sống con người
luôn phải sống trong sự đe doạ của thiên nhiên, của chiến tranh, của nghèo
đói và của bệnh tật,… Công tác Xã hội chuyên nghiệp (mang tính tổ chức
quốc tế) ra đời tới nay chưa đầy 100 năm.
Ở Nga, Hiệp ước năm 911 do Công tước Ôlếc – đại diện nước Nga lúc
bấy giờ ký kết với người Hy Lạp có nêu lên việc nuôi dưỡng người già, cứu
giúp người nghèo, chăm sóc người thương tật,… chính là văn kiện sớm nhất
trên thế giới nói chung và của nước Nga nói riêng, là bằng chứng chính thức
đầu tiên về sự quan tâm của Nhà nước với những công dân cần được sự trợ
giúp của mình. Cùng với sự tan rã của chế độ phong kiến là sự phát triển
mạnh mẽ của chế độ tư bản, Xã hội học, chính sách xã hội, Công tác Xã hội
cũng chính là con đẻ của quá trình vận động về vật chất, tinh thần trong các
xã hội Tây Âu và Mỹ ở thế kỷ XIX.
Ở Anh, Pháp, Mỹ, Đức do ảnh hưởng của các cuộc Cách mạng Công
nghiệp mà những nước này đã phải đối đầu với nhiều vấn đề xã hội trầm
trọng. Sự thất nghiệp của hàng vạn công nhân khi các xí nghiệp, công xưởng,
hầm mỏ bị phá sản, người lao động tại các đô thị bị thiếu ăn, nghèo đói, bệnh
tật, nhà ở tồi tàn, các tệ nạn xã hội, bóc lột lao động ở trẻ em và phụ nữ.
Trong khi đó ở các vùng nông thôn, tình trạng này cũng không khấm khá hơn.
Nhiều gia đình thiếu đất canh tác do chính sách phát triển công nghiệp đã bỏ
làng mạc lên những khu đô thị lớn để kiếm sống với số lượng ngày càng tăng
dẫn tới tình trạng quá tải ở những nơi này về cơ sở hạ tầng lẫn mức sống. Tệ
nạn xã hội đã nhiều lại càng gia tăng một cách nhanh chóng, mâu thuẫn giai
cấp (tư sản và vô sản) tăng lên, các cuộc xung đột vũ trang xảy ra… – một tất
yếu của xã hội tư bản. Trước tình trạng như vậy, nhiều chính phủ đã có cách
giải quyết khác nhau thông qua các chính sách, luật lệ và đạo luật Elizabét
của nước Anh năm 1601 ra đời (tạo công ăn việc làm cho người nghèo,
người còn sức lao động, mở nhà dưỡng lão cho người già, người tàn tật; bảo
trợ trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi bằng cách đào tạo nghề, quy định nguồn tài
chính, trách nhiệm của người quản lý và đối tượng được cứu giúp,…) chính
là một dấu hiệu quan trọng trong lịch sử hình thành Công tác Xã hội như một
nghề do lần đầu tiên nó là hành động cứu giúp có tính tổ chức, mang tính nhà
nước bên cạnh những cải cách tôn giáo (đạo Tin Lành) trong việc thúc đẩy sự
quan tâm về tình trạng bần cùng hoá, về việc tiếp tục viện trợ, cứu giúp và
ngăn chặn sự phụ thuộc lâu dài của người nghèo.
Năm 1788, một chế độ cứu tế xã hội mới – “chế độ Hămbuốc“ đã được
thực hiện rộng rãi ở thành phố Hămbuốc (Đức). Theo chế độ này, cấp thành
phố có cơ cấu quản lý trung tâm, phân loại các vùng tiến hành cứu tế, chữa
bệnh và giới thiệu việc làm cho người nghèo.
Đầu thế kỷ XIX, ở Mỹ, dạng Công tác Xã hội sơ khai được thực hiện
bởi các nhà truyền giáo và tình nguyện viên – những người được gọi là
“những vị khách thân thiện” - Visitors. Họ thường xuyên tuyển chọn và phân
công giúp đỡ những người nghèo đói, ốm yếu, bệnh tật, trẻ mồ côi, người già
không nơi nương tựa. Thông qua các “Uỷ ban cải thiện hình thức vệ sinh” và
“Vụ giải phóng nô lệ”, các tình nguyện viên còn giúp đỡ, chăm sóc những nô
lệ vừa được giải phóng nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng xã hội.
Những năm 1850 – 1865, thông qua các uỷ ban như: “Uỷ ban từ thiện
quốc gia”, “Uỷ ban từ thiện cộng đồng”, “Uỷ ban quốc gia”,… những hoạt
động khởi nguồn của Công tác Xã hội đã được triển khai. Chẳng hạn tại Thụy
Điển, Công tác Xã hội đã được hình thành như một nghề nghiệp từ năm 1851
khi một loạt các trại cải tạo, nhà tù, viện tâm thần, trại tế bần, trại mồ côi được
xây dựng và các uỷ ban đều hoạt động nhằm hướng tới mục đích xây dựng
những thiết chế duy trì trật tự, ổn định xã hội.
Những năm 1869, Hiệp hội các tổ chức cứu tế từ thiện và ngăn chặn ăn
xin ở Luân Đôn (Anh) được thành lập thường gọi là Hiệp hội tô chức từ thiện
Luân Đôn. Ở đây, các nhà lãnh đạo đã vận dụng các triết lý khoa học để hình
thành một dạng quản lý từ thiện mới: khoa học từ thiện. Có thể coi đây là
bước chuyển quan trọng về nhận thức và hành động của những người tham
gia Công tác Xã hội. Về vấn đề này, James Leiby có nhận xét như sau: “Trần
tục, duy lý, thực nghiệm, đối lập với tính tôn giáo, duy cảm và giáo điều. Như
vậy, hướng tiếp cận Công tác Xã hội đã dần dần mang tính hệ thống và duy
lý, tách các hoạt động của nó khỏi quan hệ mang màu sắc tôn giáo, xây dựng
mô hình công tác từ thiện thành một hoạt động độc lập”.
Những năm 1870, khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa kéo dài trong
thiều thập kỷ đẩy con người vào cảnh sống nghèo khổ, bần cùng, xã hội rối
ren. Các nhà băng kiệt quệ, hàng triệu người lâm vào cảnh thất nghiệp,
phong trào bãi công, biểu tình diễn ra tại nhiều đô thị lớn ở châu Âu và Mỹ,
thậm chí nhiều cuộc bãi công còn mang tính bạo lực. Các hoạt động từ thiện
dường như không hoàn thành mục đích mang tính “cách mạng” ban đầu.
Nhiều người nhận ra rằng, các chương trình cứu trợ thực chất là hoang phí,
thậm chí dẫn tới sự sa sút về tinh thần cho người nghèo do nó chỉ làm tăng
sự phụ thuộc, ỷ lại của họ. Về vấn đề này, Herbert Spencer – nhà Xã hội học
người Anh cho rằng: “Cứu trợ là phá hoại xã hội, làm hỏng người nghèo vì nó
gây ra những phụ thuộc và làm mất động cơ hành động. Điều này cho hay
các hoạt động cứu giúp muốn có hiệu quả đòi hỏi phải có nhiều yếu tố nữa
một trong những yếu tố đóng vai trò then chốt đó là phải có một đội ngũ được
đào tạo và trả lương một cách chuyên nghiệp bên cạnh một trái tim nhân từ”.
Năm 1877, “Tổ chức từ thiện xã hội” được thành lập ở Mỹ đã quan tâm
tới vấn đề đào tạo một đội ngũ làm Công tác Xã hội. Cũng từ đây, các “tình
nguyện viên” (Visitors) của những năm 1880 – 1890 đã trở thành các nhân
viên xã hội. Giờ đây họ không chỉ coi đối tượng như những người bạn để cảm
thông, chia sẻ mà còn là những người cần được giúp đỡ để vươn lên – một
hoạt động mang tính chuyên nghiệp hơn và năm 1884 tại Anh, lần lầu tiên đã
xuất hiện “Trung tâm phúc lợi cộng đồng”. Vào cuối những lăm 1890, “Phong
trào định cư” với những “ngôi nhà định cư” ở Luân Đôn (Anh) được thành lập
đã thành công trong việc xây dựng cầu nối giữa người giàu và người nghèo
nhất là những người mới nhập cư.
Năm 1898, “Hiệp hội các tổ chức từ thiện” (Charity Organization society
– COS) ở Mỹ đầu tiên được thành lập đã nâng hoạt động này lên một bước.
Bởi đây là sự tiếp nối hoạt động của Uỷ ban Quốc gia nhằm phát triển khoa
học từ thiện (vay mượn mô hình từ thiện của Anh) với mục đích: tái tổ chức
các hoạt động từ thiện cũng như cá nhân (vốn phát triển nhanh chóng trong
giai đoạn 1870), tiếp tục ứng dụng các nguyên tắc của khoa học từ thiện
nhưng đã khắc phục được hệ quả phổ biến trước đó: sự phụ thuộc và duy trì
sự bần cùng. Hoạt động của hiệp hội đã vượt ra khỏi mục tiêu quản lý, tổ
chức và mang những đặc trưng sau:
– Hoạt động từ thiện tránh sự phân phối và cứu trợ trực tiếp.
– Cố gắng lặp lại trật tự cho tình trạng hỗn loạn trong các hoạt động từ
thiện tại các địa phương.
– Áp dụng công nghệ mới vào các hoạt động của Hiệp hội bao gồm sự
can thiệp hoặc phương pháp trị liệu có kế hoạch với sự tham gia của “những
vị khách thân thiện” (The Friendly Visitor).
– Ngăn chặn việc từ bỏ tín ngưỡng hoặc việc phân biệt đối xử do
những khác biệt về chính trị, tôn giáo hoặc dân tộc.
Có thể nói đây chính là thời điểm đánh dấu bước chuyển từ những việc
làm từ thiện, tình nguyện, bắt nguồn từ những niềm tin và đạo đức, tôn giáo
sang một lĩnh vực mới đó là: Công tác Xã hội – một hoạt động mang tính
khoa học, một nghề nghiệp.
Sau khi hiệp hội ra đời, cũng trong năm này (1898), lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ đầu tiên đã được tổ chức tại trường Summer, New York (Mỹ). Lớp
học kéo dài trong 6 tuần với 27 sinh viên. Năm 1901, cũng tại Summer,
trường công tác xã hội đầu tiên (nay là Trường Đại học Công tác Xã hội
Colombia) đã ra đời. Tại đây, sinh viên được đào tạo trong 8 tháng. Đến năm
1919, cả châu Âu và Mỹ đã có 15 trường và năm 1939, các trường này đã
thống nhất chương trình đào tạo chung ở trình độ thạc sỹ. Đây cũng chính là
những bằng chứng xác định tính chuyên nghiệp của Công tác Xã hội. Năm
1925, Chi Lê là nước đầu tiên ở Châu Mỹ La tinh xuất hiện ngành Công tác
Xã hội. Năm 1936, ở Châu Á, trường Công tác Xã hội đầu tiên được thành
lập ở ấn Độ. Đến năm 1939, các trường đã thống nhất chương trình đào tạo
chung ở trình độ thạc sỹ. Ở Philippin, nhiều phong trào xã hội, đặc biệt là các
tổ chức xã hội như: “Hội đồng điều phối phúc lợi thanh niên”, “Hội đồng chăm
sóc sức khoẻ tinh thần nhằm giáo dục, ngăn ngừa tội phạm trong thanh thiếu
niên”,… lần lượt ra đời vào những năm 1950– 1960. Đến năm 1955, “Hiệp hội
quốc gia những người làm công tác xã hội” (NASW) đã thành lập từ 7 tổ chức
xã hội chuyên nghiệp sau sát nhập lại. Năm 1956, “Liên đoàn quốc tế những
người làm Công tác Xã hội” ra đời. Năm 1988, Ngành Công tác Xã hội mở
khoa đầu tiên tại Khoa Xã hội học Trường Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc).
Sau này, với sự phát triển của ngành, Công tác Xã hội đã xuất hiện thêm ở
nhiều nước khác ở châu Á như: Thái Lan, Inđônêxia, Việt Nam.
Có thể nói, trong xu thế toàn cầu hoá, với sự phát triển của ngành công
tác xã hội bắt nguồn từ Châu Âu, Mỹ dần dần đã ảnh hưởng và được hình
thành, phát triển tại nhiều nước ở Châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia,
Thái Lan, Philippin và Việt Nam,… Đến nay Hiệp hội Công tác Xã hội Quốc tế
Chuyên nghiệp (Intemational Federation of Social Work – IFSW) đã có trên
500.000 thành viên là cán bộ xã hội chuyên nghiệp từ 78 nước trên thế giới,
Hiệp hội các trường đào tạo Công tác Xã hội thế giới (Intemational
Association of Social Work Schools – IASSW) với sự tham gia của hàng trăm
trường từ 80 quốc gia là minh chứng cho sự chuyên môn hoá và phát triển
nhanh chóng của nghề nghiệp này. Các cán bộ xã hội chuyên nghiệp làm việc
ở nhiều lĩnh vực trong xã hội như các cơ quan an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
bệnh viện, trường học, cơ quan tư pháp (toà án, nhà tù) đã và đang góp phần
tạo nên sự bền vững và tính phòng ngừa cao của các chính sách, chương
trình hay dịch vụ an sinh xã hội. Sự ra đời của Công tác Xã hội kịp thời góp
phần giải quyết những vấn đề xã hội đã, đang đặt ra và dần có tiếng nói
chung trên phạm vi quốc tế.
6.2. Ở Việt Nam
Nằm trong quy luật chung của sự hình thành và phát triển công tác xã
hội thế giới, sự hình thành và phát triển công tác xã hội tại Việt Nam cũng
xuất phát điểm từ tình cảm tốt đẹp giữa con người và con người. Có thể tạm
phân chia sự hình thành và phát triển Công tác Xã hội tại Việt Nam theo các
giai đoạn như sau:
Giai đoạn trước thuộc địa Pháp (1862)
Những hoạt động mang dáng dấp Công tác Xã hội đã được thể hiện
trong các văn bản chính thức dưới những thời kỳ trị vì của các nhà nước
phong kiến Việt Nam. Theo các tài liệu sử học, có những văn bản pháp lý quy
định số lượng lúa phân phối cho người có nhu cầu khác nhau, lúa này được
trồng ở những công thổ, công điền dành cho hoạt động phúc lợi. Chẳng hạn
thế kỷ XV (thời hậu Lê):
Trong Quốc triều hình luật có những nội dung liên quan đến những việc
làm từ thiện. Ví dụ: ở chương Hộ môn, điều 11, 12 có ghi: “Những kẻ không
ai nuôi dưỡng, quan sở tại có nhiệm vụ dựng lều, nuôi dưỡng, nếu ai không
làm hoặc không làm tròn thì bị trừng phạt bằng roi,…”.
Thế kỷ XVIII, XIX dưới triều Nguyễn: Các Dương tế sở được thành lập.
Tại đây người già, trẻ em không nơi nương tựa được nuôi dưỡng thông qua
một số ruộng công giao cho người sở tại cày cấy, về sau những nơi này được
gọi là “Cô nhi viện”. Có những văn bản pháp lý quy định số lượng lúa được
phân phối cho những hạng người có nhu cầu khác nhau. Lúa này đã được
trồng ở các công thổ, công điền dành cho hoạt động phúc lợi.
Giai đoạn Pháp thuộc (1862–1945)
Trong giai đoạn này, đã hình thành các mô hình chăm sóc tập trung
như viện mồ côi, viện dưỡng lão dành cho người già và người khuyết tật
được du nhập bởi những nhà truyền giáo. Nhiều nhà nghiên cứu đã đặt câu
hỏi, liệu việc du nhập các mô hình này có phù hợp không khi truyền thống
người Việt Nam có nhiều tiềm năng về an sinh xã hội. Tuy nhiên, một số mô
hình này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay như trường mù Nguyễn Đình
Chiểu, trường câm điếc Lái Thiêu,…
Trong lúc người Pháp mở rộng các mô hình ngoại lai chăm sóc tập
trung để giải quyết các vấn đề xã hội với xu hướng từ thiện thì những người
yêu nước Việt Nam lại tạo lập ra mạng lưới thanh niên, sinh viên, công nhân
nhằm vào “các dịch vụ đó” để phục vụ người nghèo và xây dựng tinh thần
tương thân tương ái. Tuy sự tồn tại trong thời gian ngắn của các phong trào
này nhưng có thể thấy người Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có
những mô hình phát triển công tác xã hội của riêng mình.
Có thể nói, Công tác Xã hội ở Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc theo
nhận định của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (1972) là “xa rời các xu hướng
dân tộc, không phục vụ cho hàng triệu người mù chữ và thất nghiệp”
(UNICEF, 1972) bởi các mô hình này triển khai dưới các hình thức từ thiện
như mở trại mồ côi, khuyết tật, viện dưỡng lão,…
Giai đoạn 1945–1975 tại miền nam Việt Nam
Trường đầu tiên đào tạo Công tác Xã hội ở Việt Nam hệ cán sự xã hội
là Trường Cán sự Xã hội Caritas (do Hội Chữ thập đỏ Pháp hợp tác với toà
Đại sứ Pháp ở Sài Gòn thành lập). Trường này do dòng nữ tu Thiên Chúa
giáo điều hành từ năm 1947 đến năm 1975 bị giải thể. Bên cạnh đó còn có
“Phòng Xã hội” do giám mục người Pháp, đức cha Jean Casseigne thành lập
để giúp đỡ công dân Pháp và được nhập vào Phòng Xã hội thuộc lãnh sự
Pháp vào năm 1957 với hoạt động chính là đưa các trẻ mồ côi lai Châu Âu về
Pháp và phục vụ công nhân Việt Nam thuộc các công ty lớn của Pháp cũng
như các cô nhi, quả phụ người già ở thành phố.
Hiệp định Geneve năm 1954 đã phân chia Việt Nam thành 2 nhà nước,
Miền Bắc theo con đường Xã hội chủ nghĩa, miền Nam dưới sự đô hộ của
quân đội và bộ máy cố vấn khổng lồ Mỹ.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, được đánh dấu bằng cuộc di cư
vào Nam của gần một triệu người công giáo miền Bắc. Các tổ chức phi chính
phủ quốc tế lớn (NGO) đã được chuẩn bị để hỗ trợ cuộc di cư như: tổ chức
cứu trợ công giáo Mỹ, tổ chức hợp tác của Mỹ để cứu trợ khắp nơi, tổ chức
cứu nguy Quốc tế, Hội cha mẹ nuôi, Quỹ trẻ em Cơ Đốc giáo, tổ chức
Mennonite, tổ chức Cơ đốc Adventist, tổ chức cứu trợ và định cư người tỵ
nạn,… trở thành một hoạt động bình thường cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Sự hiện diện của Mỹ đã tạo ra những vấn đề xã hội to lớn như mại
dâm, thanh thiếu niên phạm pháp, băng nhóm tội phạm, nghiện ma tuý, tuy
nhiên chỉ có một vài chương trình nhỏ hỗ trợ cho trẻ đánh giầy. Cứu trợ người
tỵ nạn chỉ để xoa dịu hậu quả chiến tranh, công cuộc phát triển, bình định
nông thôn chỉ nhằm thu phục người Việt Nam ngả về phía Mỹ.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng đánh dấu sự phát triển của Công tác Xã
hội với sự góp mặt của một số nhà Công tác Xã hội được đào tạo từ trước đó
cũng như sự hình thành một số trường Công tác Xã hội như trường Cán sự
xã hội Quân đội (1957) đào tạo trong 2 năm cùng các khoá huấn luyện ngắn
hạn đã cung cấp trên 1.500 học viên cung ứng các dịch vụ gia đình, thực hiện
các dự án an sinh nhi đồng. Trường thanh niên phụng sự xã hội (Phật giáo)
nhấn mạnh việc vận dụng các giá trị và tiềm năng dân tộc. Năm 1968–1969,
Trường Công tác Xã hội Quốc gia được thành lập dưới sự hỗ trợ tài chính và
kỹ thuật của Liên Hợp Quốc (UNICEF và UNDP). Đến năm 1975 đã giải thể
song cũng đào tạo được hai khoá tốt nghiệp. Công tác Xã hội như một bộ
môn khoa học đã được đưa vào trường đại học Đà Lạt và Vạn Hạnh. Mặc dù
trong giai đoạn này, Công tác Xã hội không phát triển nhưng cũng đã đào tạo
được một số nhân viên công tác xã hội như: 500 người đào tạo khoá ngắn
hạn, 300 người đào tạo 2 năm, 25 cán sự xã hội, 7 thạc sỹ công tác xã hội,…
Sau năm 1975, các hoạt động đào tạo và thực hành công tác xã hội ở Miền
Nam và Sài Gòn đã ngừng lại trong một thời gian dài.
Cũng trong giai đoạn này, ở miền Bắc, công tác xã hội được quan niệm
là công tác phong trào của các đoàn thể và cán bộ là những học viên của các
trường như: Trường Đoàn, Trường Đội, Trường cán bộ phụ nữ Trung ương,
Trường Công đoàn, Trường Lao động Xã hội,… Tuy nhiên hoạt động đào tạo
dưới góc độ Công tác Xã hội vẫn còn nhiều hạn chế.
Giai đoạn sau năm 1986 – nay
Từ sau năm 1986, khi đất nước bắt đầu mở cửa và hoạt động theo mô
hình kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được thì nhiều vấn đề xã hội đã tạm thời biến mất lại xuất hiện.
Ban đầu chỉ là những vấn đề trẻ em thành thị bị bỏ bê thiếu sự chăm sóc,
những vấn đề xã hội nhỏ khác cho đến những vấn đề lớn hơn như nghèo đói,
di dân từ nông thôn ra thành thị, trẻ em đường phố, trẻ lao động sớm, lao
động nhập cư, sự hình thành các khu nhà ổ chuột, buôn bán phụ nữ và trẻ
em, tệ nạn xã hội,… xuất hiện khắp nơi.
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực làm giảm những vấn đề xã hội nói trên.
Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo, chương trình tiêm chủng mở
rộng, những tiến bộ trong việc vệ sinh, cung cấp nước sạch, giảm tỷ lệ tử
vong và suy dinh dưỡng trẻ em, phổ cập giáo dục,… đã mang lại hiệu quả
tích cực.
Các chính sách xã hội, các nội dung tuyên truyền, giáo dục công tác xã
hội đã dần được phục hồi và phát triển. Hoạt động nghiên cứu, đào tạo công
tác xã hội ngày càng thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước. Các nội dung, hình thức công tác xã hội kịp thời được
triển khai theo hướng các giải pháp hỗ trợ như: chương trình xoá đói giảm
nghèo, công ước về quyền trẻ em, cứu trợ xã hội,…
Năm 1989, ThS. Nguyễn Thị Oanh cùng một số cán bộ được đào tạo
chuyên môn Công tác Xã hội ở trong và ngoài nước đã liên kết với nhau
thành lập “Phòng nghiên cứu Công tác Xã hội”, ban đầu đặt dưới sự bảo trợ
của Hội Tâm lý – Giáo dục học Thành phố Hồ Chí Minh, đến cuối năm 2001
đã đổi thành “Trung tâm Nghiên cứu – Tư vấn Công tác Xã hội và Phát triển
Cộng Đồng” (SDRC) hoạt động với tư cách một cơ sở khoa học độc lập. ThS.
Nguyễn Thị Oanh cũng là người đã góp phần đưa bộ môn Công tác Xã hội
vào giảng dạy tại Khoa phụ nữ học, Trường Đại học Mở – Bán công Thành
phố Hồ Chí Minh. Song song với đào tạo Công tác Xã hội hệ đại học, một
chương trình đào tạo Công tác Xã hội hệ cán sự xã hội hai năm cũng ra đời
từ năm 1992. Có thể nói, từ thập kỷ 1990, hoạt động đào tạo và thực hành
Công tác Xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh có những bước phát triển mạnh.
Đại học Mở – Bán công Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trường đầu tiên
ở Việt Nam đào tạo công tác xã hội và có nhiều đóng góp trong việc hỗ trợ
các trường khác trong việc đào tạo giáo viên, kiểm huấn viên, xây dựng công
tác đoàn thể,…
Ở Miền Bắc, năm 1996, Khoa Xã hội học của trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội) đã phối hợp với Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em Việt
Nam (nay là Cục Trẻ em) mở lớp thí điểm đào tạo 23 cán bộ cấp bằng cử
nhân Công tác Xã hội – hệ cử nhân chuyên ngành đầu tiên về Công tác Xã
hội với trẻ em, đồng thời chính thức đưa Công tác Xã hội vào chương trình
đào tạo của khoa với tư cách là một môn học bổ trợ. Cũng trong năm này
(1996) một đoàn đại biểu của Việt Nam là những người tham gia đào tạo ở
Miền Bắc cũng như Miền Nam làm đại diện đi dự hội nghị quốc tế nhân viên
xã hội do IFSW và ICSW tổ chức ở Hồng Kông. Những năm tiếp theo, nhiều
trường đại học trên cả nước đó bắt đầu mở ngành đào tạo Công tác Xã hội.
Bên cạnh hoạt động đào tạo về Công tác Xã hội, Ở Việt Nam còn có
nhiều mô hình Công tác Xã hội khác nữa như:
– Trung tâm nghiên cứu, tư vấn Công tác Xã hội và phát triển cộng
đồng;
– Câu lạc bộ Công tác Xã hội chuyên nghiệp;
– Cơ sở chăm sóc trẻ đường phố (chẳng hạn: Cơ sở chăm sóc trẻ
đường phố Thảo Đàn – Thành phố Hồ Chí Minh);
– Mái ấm, nhà mở (như: Mái ấm hoa hồng nhỏ ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Mái ấm 19–5 Quận Ba Đình Hà Nội,…);
– Phòng tư vấn trẻ em đường phố;
– Các trung tâm bảo trợ của các tỉnh, thành,…
Trong mạng lưới Công tác Xã hội không thể không kể đến hoạt động
của các tổ chức quốc tế phi chính phủ (NGO) như: Quỹ Cứu trợ Nhi đồng
Anh, Tổ chức Radda Ba men của Thuỵ Điển, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc,…
Các hỗ trợ mang tính nhân đạo của họ đã góp phần vào việc xây dựng cơ sở
lý luận và các phương pháp thực hành công tác xã hội, đặc biệt với đối tượng
là trẻ em Việt Nam.
Tính đến năm 2000, bên cạnh số cán bộ có bằng cử nhân, có bằng
thạc sỹ Công tác Xã hội được đào tạo trong và ngoài nước, còn có tới hàng
trăm cán bộ được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về Công tác Xã hội
thông qua những lớp tập huấn do các giảng viên, các chuyên gia trong và
ngoài nước tham gia giảng dạy. Công tác đào tạo và thực hành Công tác Xã
hội ít nhiều đã có dấu ấn riêng trong các hoạt động xã hội hiện nay.
Hoạt động công tác xã hội gần đây vẫn tiếp tục được quan tâm, đã và
đang đi vào chuyên nghiệp hoá theo hướng vừa đào tạo vừa thực hành.. Ghi
nhận sự phát triển của ngành nghề này những năm qua mà tháng 10/2004,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình khung đào tạo Công tác
Xã hội hệ cao đẳng và đại học. Khung này do Hội đồng tư vấn cấp Quốc gia
xây dựng.
Hiện nay có khoảng 40 trường đại học, cao đẳng trong cả nước đang
đào tạo hệ cử nhân ngành Công tác Xã hội. Từ tháng 1/2009 đến nay, dưới
sự tài trợ của UNICEF, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tổ chức thành công 4 khoá bồi dưỡng sau đại học cho
các giảng viên, nghiên cứu viên công tác xã hội.
Năm 2010 đã đánh dấu một mốc phát triển mới của Công tác Xã hội
bằng việc Đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển nghề công tác xã
hội được chính thức phê duyệt, đi vào hoạt động nhằm xây dựng thí điểm
những mô hình trung tâm Công tác Xã hội, 70 mô hình cơ sở dịch vụ Công
tác Xã hội tại các quận, huyện, thị xã thuộc các tỉnh, thành phố, trường đại
học, trường nghề cho tới năm 2015. Từ năm 2016 đến năm 2020, đào tạo
trên 20.000 nhân viên Công tác Xã hội có trình độ cao đẳng, đại học. Và cũng
trong năm này, ngành Công tác Xã hội đã có một mã nghề – cơ sở để đội ngũ
những nhà Công tác Xã hội có một môi trường làm việc chuyên nghiệp và
khẳng định vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ xã hội.
Để thúc đẩy sự phát triển hoạt động Công tác Xã hội ở Việt Nam hiện
nay, không thể không quan tâm tới hoạt động đào tạo đội ngũ giảng viên của
ngành này tại các trường đại học. Đây chính là một nhu cầu cấp thiết trước
mắt và cần làm ngay.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
1. Công tác Xã hội là gì? Chức năng, nhiệm vụ của Công tác Xã hội.
Đối tượng của Công tác Xã hội là ai?
2. Phân biệt Công tác Xã hội với Công tác từ thiện, Cứu trợ xã hội và
Bảo đảm xã hội theo các tiêu chí mục đích, động cơ, phương pháp ứng dụng,
mối quan hệ của người giúp đỡ và người được giúp đỡ, kết quả thực hiện.
3. So sánh điểm giống và khác nhau giữa Công tác xã hội với Xã hội
học và Tâm lý học.
4. Từ trước đến nay, anh (chị) hiểu thế nào là nhân viên xã hội? Thế
nào là các phương pháp Công tác Xã hội? Hãy kể tên một số hoạt động đang
diễn ra trong đời sống xã hội dưới góc độ Công tác Xã hội.
5. Những điều kiện dẫn tới sự ra đời và phát triển Công tác Xã hội trên
thế giới và ở Việt Nam.
Chương 2. NỀN TẢNG KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. NỀN TẢNG LÝ THUYẾT CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘICơ sở lý thuyết dùng trong các hoạt động của ngành Công tác Xã hội
chủ yếu dựa trên sự tổng hợp của nhiều lý thuyết khác nhau, không theo một
phương thức nhất định nào. Các nước khác nhau thì phương thức thực hiện
trong ngành Công tác Xã hội cũng khác nhau.
Ở Mỹ, cũng như nhiều ngành khoa học khác, Công tác Xã hội sử dụng
một số lý thuyết khoa học về xã hội, về sự phát triển con người, về các hành
vi, về giao tiếp ứng xử giữa con người với nhau. Chẳng hạn: Trong các lý
thuyết về con người, các nhà Công tác Xã hội thường sử dụng những lý
thuyết trong tâm lý học như: thuyết hiện sinh, thuyết phát triển con người,
thuyết giao tiếp xã hội, thuyết hệ thống,…
Trong quá trình phát triển Công tác Xã hội, mỗi lý thuyết đều có những
mảng được những nhà làm Công tác Xã hội quan tâm và nghiên cứu tạo
thành các phương thức thực hành của Công tác Xã hội. Tuy nhiên trong số
những lý thuyết đó, có một số lý thuyết không thể không nói tới đó là: Lý
thuyết sinh thái học (Ecologycal Theory), Lý thuyết hành động xã hội, Lý
thuyết vị trí, vai trò xã hội và một số kiến thức cơ bản về sự phát triển con
người như các nhu cầu căn bản của con người, quá trình phát triển con
người, rối nhiễu tâm trí,…
1.1. Lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud (1856–1939)
Lý thuyết phân tâm học do Sigmund Freud (1856 - 1939) sáng lập. Lý
thuyết này nhấn mạnh đến hành vi xuất phát từ những động thái (suy nghĩ,
tình cảm), những tương tác trong ý thức và sau này là những cách thức mà ý
chí thúc đẩy hành vi của con người. Ở đây, ý thức, hành vi đều ảnh hưởng và
bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội. Đây là một cách nhìn nhiều chiều và
mang tính biện chứng vì thế nó được coi là lý thuyết nền tảng, then chốt trong
Công tác Xã hội nhằm giúp nhân viên xã hội vận dụng để lý giải nhưng hiện
tượng thường gặp khi làm việc với thân chủ.
Thuyết phân tâm học có 3 phần: lý thuyết về sự phát triển con người; lý
thuyết về nhân cách và tâm lý học nhân cách khác thường; lý thuyết về cách
điều trị với 2 tư tưởng cơ bản quan trọng làm cơ sở cho lý thuyết trên: Quyết
định luận siêu linh (hành động, hành vi xuất phát từ các quá trình tư duy của
con người) và cái vô thức (hành động tư duy, tinh thần còn ẩn giấu).
– Lý thuyết về sự phát triển con người:
Theo lý thuyết này, trẻ em trải qua các giai đoạn phát triển. Ở mỗi giai
đoạn sẽ có những hành vi đặc thù phù hợp với tâm sinh lý của con người
trong từng giai đoạn ấy. Trong từng giai đoạn, hành vi của con người sẽ có
sự kế thừa những trải nghiệm về mặt hành vi và nhận thức mà mỗi người có
được trong giai đoạn trước. Trong từng giai đoạn khác nhau, sự chú ý của
con người sẽ hướng đến những nhu cầu khác nhau.
Theo Freud, cuộc sống có nhiều động lực (libido) thúc đẩy thú tính bẩm
sinh của con người như: ăn, mặc, ngủ, nghỉ ngơi, an toàn, bạo lực,… song
chủ yếu và mạnh mẽ nhất vẫn là động lực về tình dục. Chẳng hạn: từ khi mới
chào đời con người đã có nhu cầu và có hành vi tình dục như: sờ mó, bú
mớm, thích và mong muốn được ôm ấp. Đây là một trong những phát hiện
của Freud bởi trước đó người ta cho rằng, con người chỉ bắt đầu phát triển
nhu cầu tình dục ở tuổi dậy thì.
Động cơ tình dục bẩm sinh thúc đẩy sự trưởng thành của con người
qua năm giai đoạn:
1) Miệng (oral stage) (dùng miệng để ăn (bú sữa), sờ mó, thám hiểm
thế giới xa lạ xung quanh và để có cảm giác sung sướng (bú ngón tay, ngậm
vú mẹ, ngậm núm vú) theo 2 giai đoạn: giai đoạn thụ động (receptive) và giai
đoạn chủ động (aggressive)).
2) Hậu môn (anal stage) từ 1 đến 3 tuổi: Khu vực này nhạy cảm và tạo
cảm giác sướng khoái nhiều nhất, bao gồm cả hậu môn lẫn bộ phận tiểu tiện
và cũng được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn buông (expulsion) và giai
đoạn giữ (retention). Giai đoạn này cực kỳ quan trọng để đứa trẻ học cách
được khen, được thương, tình thương của cha mẹ không còn tự do vô tổ
chức như trước. Ngược lại, cách dạy con của cha mẹ cũng góp phần không
nhỏ trong việc tạo nên cá tính của trẻ như: cách trẻ suy nghĩ và ứng xử đối
với những người có quyền lực trong cuộc đời của nó.
3) Dương vật (phallic stage) từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi: Theo Freud “của
quý” của đứa trẻ trai và trẻ gái giống nhau, chỉ đến tuổi dậy thì trẻ gái mới
hình thành khoái cảm từ bộ phận sinh dục. Ông cho rằng, tình thương đối với
mẹ của đứa trẻ trai trở nên mãnh liệt vào đầu giai đoạn dương vật. Nó muốn
độc chiếm mẹ và vì vậy ngày càng trở nên ganh tỵ và mâu thuẫn với bố,
muốn cho bố “biến mất”. Vì bố to lớn hơn nó, khỏe hơn nó, đứa bé trở nên sợ
bố và cái nó sợ nhất là bị bố cắt mất của quý (castration anxiety) – cái nó hay
tự mày mò để có cảm giác sung sướng. Để thoát khỏi mối lo sợ này, đứa trẻ
trai dồn nén tình yêu mẹ của nó vào tiềm thức và tìm cách đứng về phía bố,
bắt chước cách bố cư xử, suy nghĩ, hành động. Nhờ vậy nó có được cảm
giác an toàn không còn sợ bị thiến và vẫn có thể thầm lén yêu mẹ trong trí
tưởng tượng.
4) Trước dậy thì (latency period) từ 5, 6 tuổi đến dậy thì: Ở giai đoạn
này động lực sống/libido – chủ yếu là bản năng tình dục của đứa bé chỉ thay
đổi về lượng chứ không thay đổi về chất. Đứa bé dồn nén được những quan
tâm về tình dục của những năm trước và tập trung năng lực vào việc phát
triển kiến thức cũng như năng khiếu mới. Ở giai đoạn này, đứa bé thích chơi
với bạn cùng giới. Có thể nói những năm trước dậy thì là thời gian sự thăng
bằng giữa thú tính bẩm sinh, lương tâm và cái tôi đạt mức cao nhất trong đời
người. Đây là thời gian biển lặng trước cơn bão táp của tuổi dậy thì.
5) Giai đoạn sinh dục (Genital stage) thăng bằng giữa ba thành phần
của bản ngã chấm dứt, thú tính bẩm sinh (id) vượt lên trên, tạo ra những đòi
hỏi mãnh liệt về tình dục với người khác phái. Nếu đứa trẻ được thoả mãn
vừa phải, nó sẽ dồn được tất cả năng lực vào việc phát triển mối quan hệ
bình thường, hạnh phúc với người khác phái. Trái lại nếu nó không được thoả
mãn vừa đủ hoặc được thoả mãn quá độ, nó sẽ có triệu chứng của tình trạng
ám ảnh (fixation) bởi đứa trẻ bị bắt buộc phải tiêu phí nhiều năng lực vào
phản ứng dồn nén hoặc tự vệ liên quan đến những mâu thuẫn chưa giải
quyết được ở môi trường sống. Kết quả là nó sẽ khổ đau, sẽ không thể xây
dựng được mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh, hạnh phúc bình thường với
người khác phái.
Như vậy, có thể nói ở mỗi giai đoạn phát triển của trẻ trong môi trường
sống, trẻ đều bị ảnh hưởng và nhiều nhất là từ bố mẹ. Nếu nhu cầu tình dục
của đứa trẻ được thoả mãn vừa phải một cách khác nhau trẻ sẽ phát triển
bình thường ở giai đoạn kế tiếp. Nếu bị cấm cản không cho thoả mãn hoặc bị
buông thả cho thoả mãn quá trớn nhu cầu tình dục sơ sinh của nó, đứa trẻ sẽ
phải chịu đựng những ám ảnh (fixation) vào giai đoạn phát triển liên hệ và
không thể tiến lên giai đoạn cao hơn. Kết quả là nó sẽ lớn lên với những triệu
chứng bất bình thường về tâm lý và qua năm giai đoạn của quá trình trưởng
thành này, đối tượng tình dục của đứa trẻ sơ sinh dần dần thay đổi từ bản
thân (bú ngón tay, tự sờ mó bộ phận sinh dục) và mẹ (bú mớm, sờ mó, ôm
ấp,…) sang người khác phái.
– Lý thuyết nhân cách:
Theo lý thuyết này, con người là phức hợp của các xung năng hình
thành cái ấy ("cái đó") thúc đẩy con người hoạt động thoả mãn nhu cầu. Sự
phát triển của bản ngã là bước tiếp theo sau hoạt động của cái ấy. Cái tôi
điều khiển cái ấy (cái tôi (ego) là một thực thể tâm lý phức tạp hình thành do
tác động từ hai đòi hỏi khác nhau của thú tính bẩm sinh (id) và siêu tôi
(superego) – môi trường sống thực của cái tôi). Cái siêu tôi phát triển những
nguyên tắc đạo đức để chỉ dẫn cái tôi. Lý thuyết cũng chỉ ra rằng, con người
là một sinh vật có thú tính bẩm sinh, y như mọi sinh vật khác. Do đó từ khi
chào đời đã muốn được thoả mãn những nhu cầu vật chất, sinh lý và muốn
tránh khổ đau. Trong quá trình trưởng thành, ảnh hưởng của gia đình, văn
hoá, tôn giáo, xã hội,… sẽ tạo ra siêu tôi – cái phần lý tưởng mà người ta
muốn hướng tới. Vì vậy hoàn cảnh sống thực tế sẽ là nơi diễn ra sự tranh
chấp giữa thú tính bẩm sinh và siêu tôi. Kết quả của cuộc tranh chấp này là
cái tôi tức là mỗi cá nhân với cách ứng xử an toàn nhất, phù hợp nhất, thực tế
nhất mà con người lựa chọn cho mình trong mọi hoàn cảnh. Điều này có
nghĩa, đặc điểm quan trọng nhất của nhân cách chính là cách thức cái tôi điều
khiển những xung đột, cách thức nhu cầu về cái tôi và cái siêu tôi tìm cách
điều khiển cái ấy trong những vấn đề xã hội đã tạo ra xung đột nhiều hơn như
thế nào. Ở đây, sự lo lắng chính là kết quả từ những xung đột đó. Cái tôi giải
toả sự lo lắng bằng cách áp dụng cơ chế phòng vệ đa dạng như: sự dồn nén,
trấn áp, phóng thiếu, thăng hoa, duy lý hoá. Tóm lại, trong cấu trúc tâm lý con
người của Freud, phần tôi (cao) và phần siêu tôi (superego) hoạt động trong
cả ba tầng của thức. Phần thú tính bẩm sinh (id) trái lại chỉ hoạt động trong
tầng vô thức.
– Thức (conscious) và vô thức (unconscious):
Thức là trạng thái tỉnh táo khi con người nhận biết được và có được
phản ứng đối với những kích thích của môi trường và ngược lại là vô thức.
Khái niệm “vô thức” đã được nhiều người nhắc đến song Freud là người phân
tích tỷ mỹ và chính xác nhất phần vô thức của tâm lý con người. Theo Freud,
trong vô thức có hai phần: phần tiềm thức (preconscious) và phần vô thức
Tiềm thức là những cảm xúc, những kinh nghiệm, những ý nghĩ những ghi
nhận,… mà con người có thể dễ dàng nhớ lại khi cần còn vô thức là chỗ chứa
những cảm xúc, những kinh nghiệm, những khao khát mạnh mẽ bị dồn nén ra
khỏi thức. Mặc dù con người không nhận biết những cảm xúc này và không
thể nhớ lại được chúng theo ý muốn nhưng chúng vẫn hiện diện trong vô
thức và ảnh hưởng mạnh mẽ đến cảm xúc cũng như ứng xử của con người
qua cơ chế tự vệ/defense mechanism.
– Ý nghĩa của các giấc mộng
Theo Freud, mộng là “sự thực hiện thầm lén những ước vọng bị dồn
nén” và là “con đường lớn dẫn vào vô thức”. Phần thú tính bẩm sinh của con
người luôn có những khát vọng không thể thực hiện một cách an toàn trong
đời sống thực, vì vậy chúng bị phần lương tâm và cái tôi dồn vào vô thức.
Mặc dù bị dồn nén, những khát vọng đó không hoàn toàn biến mất và chúng
hiện ra dưới hình thức các giấc mộng vì khi người ta ngủ, phần siêu tôi và cái
tôi không hoạt động hữu hiệu như khi thức.
Freud chia nội dung mộng làm hai phần, phần nổi (manifest content) và
phần tiềm ẩn (latent content). Phần nổi là phần chúng ta nhớ được khi thức
dậy, trong phần này có tản mạn những mảnh vụn của những gì xảy ra khi
thức và những khát vọng bị dồn nén, tất cả được thể hiện dưới hình thức ảo
giác (hallucination) thường là ảo giác nhìn (visual hallucination). Phần tiềm ẩn
là những nội dung trôi nổi ra khỏi vô thức, những nội dung này có thể liền
mạch, có ý nghĩa hay rời rạc, quái dị, không rõ nghĩa. Trong tâm lý trị liệu của
Freud, phương pháp nói hết (free association) giúp nhà trị liệu thu góp những
thành phần rời rạc của các giấc mộng và từ những thành phần rời rạc này
hiểu được phần tiềm ẩn của mộng. Đây chính là mục đích của giải mộng: nối
kết phần nổi với phần tiềm ẩn và tìm ra ý nghĩa của giấc mộng.
– Cơ chế tự vệ (defense mechanism):
Là một trong những khám phá quan trọng của Freud, cơ chế tự vệ là
những phản ứng do vô thức điều động để giúp con người chống lại trạng thái
bồn chồn, lo lắng khi phải đối phó với những mối đe doạ không có lối thoát rõ
rệt. Dưới đây là một số cơ chế tự vệ thông thường:
+ Biện luận (Intellectualization): dùng lý luận hay từ ngữ để ngăn không
cho một mối đe doạ gây ra cảm xúc tiêu cực cho bản thân.
+ Đền bù (Compensation): khiếm khuyết ở một lĩnh vực được bù đắp
bằng cố gắng và thành công ở một lĩnh vực khác.
+ Đổ tội (Blaming): đổ những khiếm khuyết, sai lầm, lỗi,… của mình cho
người khác.
+ Mộng tưởng (Fantasy): tưởng tượng được trải qua một mơ ước thầm
kín nào đó không thể có trong thực tế.
+ Chối bỏ (Denial): từ chối chấp nhận một thực trạng vì nó tai hại cho
sự an toàn của cái tôi.
+ Giận cá chém thớt (Displacement): chuyển cảm xúc, năng lực, từ đối
tượng này sang đối tượng khác để được bình an.
+ Chuộc tội (Undoing): đền bù một hành vi hoặc ham muốn xấu bằng
một hành động tốt.
+ Giả bệnh (Somatizatton): biến đổi những khó chịu hay mối đe doạ
thành bệnh tật.
+ Hoán chuyển (Subtimation): chuyển một ham muốn tự nhiên mạnh
mẽ không được xã hội tán đồng thành hành vi phù hợp với giá trị do xã hội
đặt ra.
+ Nhập nội (Introjection): chấp nhận điều tiêu cực người khác gán cho
mình mặc dù mình không có điều tiêu cực đó để tránh va chạm. Đây là lý do
giải thích tại sao người ta khuyên cha mẹ không nên mắng chửi những lỗi lầm
của con cái mà chú ý tìm kiếm những ưu điểm để khen ngợi. Ở các nước
phát triển, thầy cô giáo không được phép dùng những lời lẽ nặng nề để miệt
thị học trò.
+ Phóng chiếu (Projection): đem những điều tiêu cực của mình (mà cái
tôi của mình cố ý bỏ qua không biết đến) gán cho người khác. Ví dụ: ông A là
người kiêu căng, phách lối, xem thường tất cả mọi người nhưng ông lại hay
thường phê bình người khác là kiêu căng.
+ Nói vậy nhưng không phải vậy (Reactionformation): hành động hay
diễn tả ngược lại với ý định hay cảm xúc của mình.
+ Dồn nén (Repression): đẩy những thực tế đã gây ra cảm xúc tiêu cực
vào vô thức để khỏi phải chịu đựng những cảm xúc đó. Những thực tế này có
thể trỗi dậy trong các giấc mơ hoặc trong những câu nói buột miệng và là đối
tượng phân tích của khoa phân tâm. Ví dụ một người quên đi một lỗi lầm, một
hành vi sai quấy hay một điều xấu hổ trong quá khứ để khỏi phải chịu đựng
những dằn vặt, hối hận, khổ đau liên quan đến kinh nghiệm đó.
+ Thoái bộ (Regression): dùng lại ứng xử của giai đoạn phát triển tâm lý
đã qua. Ví dụ khi hồi hộp, xúc động thì tiểu dầm mặc dù đã qua tuổi đó hoặc
van xin, khóc lóc, năn nỉ như trẻ con khi phải đối phó với những mâu thuẫn
trong cuộc sống lứa đôi.
– Cách tiếp cận và mục tiêu của phương pháp phân tâm:
Theo Freud, triệu chứng thần kinh tâm trí diễn ra khi người ta dùng cơ
chế tự vệ một cách không thích đáng để đối phó với một số mâu thuẫn phần
lớn liên quan tới tình dục hay bạo động xuất phát từ tuổi ấu thơ. Vì vậy, cách
đối phó này không thực sự giải quyết tận gốc mâu thuẫn mà chỉ giúp con
người tạm thời quên đi những cảm xúc tiêu cực khó chịu. Mâu thuẫn không
được giải quyết vẫn còn đó và gây ra những triệu chứng. Điều này có nghĩa,
mục tiêu của phương pháp phân tâm là đem cái kinh nghiệm, cái khao khát,
cái sợ hãi đã bị vùi sâu trong vô thức phơi bày ra thức, tạo cho thân chủ cơ
hội sống lại nó và giải quyết nó một cách đúng đắn, rốt ráo để đạt được một
kết luận tích cực cho mâu thuẫn đó. Khi các mâu thuẫn của quá khứ được
giải quyết thoả đáng, những triệu chứng thần kinh tâm trí liên quan đến nó sẽ
tiêu tan. Ở đây nhà phân tâm giữ vai trò trung lập, khách quan bằng cách
không nói gì về bản thân, không phê phán, mà chỉ giúp bệnh nhân đi ngược
lại lịch sử của mình, nói ra tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhất là
những kỷ niệm tiêu cực, những dục vọng xấu xa, từ đó diễn dịch những mâu
thuẫn không được giải quyết thoả đáng, bị dồn vào vô thức, những cơ chế tự
vệ, những né tránh,… và dần dần giúp bệnh nhân hiểu được những uẩn khúc
tâm lý bản thân một cách sâu sắc. Qua quá trình làm việc lâu dài, hết sức gần
gũi này, bệnh nhân tin tưởng tuyệt đối, thổ lộ tất cả cuộc đời của mình cho
nhà phân tâm, dần dần coi nhà phân tâm như đối tượng của những tình cảm.
Quá trình này được Freud đặt tên là chuyển dịch (transference). Freud phân
biệt hai loại chuyển dịch: chuyển dịch tích cực (positive transference) là
những tình cảm thương yêu, ái mộ đối với nhà phân tâm và chuyển dịch tiêu
cực (negative transference) là những ác cảm đối với nhà phân tâm. Chuyển
dịch, cả tích cực lẫn tiêu cực, đều là mục tiêu của phân tâm vì nó tạo cơ hội
cho bệnh nhân được “làm lại cuộc đời” tức là được sống lại mâu thuẫn cũ và
được đối tượng của mâu thuẫn (tức là nhà phân tâm qua chuyển dịch) dẫn
dắt đến một giải pháp phù hợp nhất có thể giúp cho mâu thuẫn đó, triệu
chứng tâm lý đó tiêu tan.
Quá trình làm việc lâu dài và hết sức gần gũi của phương pháp phân
tâm cũng có thể làm cho nhà phân tâm sống lại những ẩn ức bị dồn nén của
chính bản thân, phát sinh tình cảm thương ghét đối với bệnh nhân và dùng
mối liên hệ nghề nghiệp với bệnh nhân để giải quyết những ẩn ức (phần đông
liên quan đến dục tình) bị dồn nén trong quá khứ của chính mình. Freud gọi
hiện tượng này là phản chuyển dịch/counter transference và đề nghị nhà
phân tâm cảnh giác, nếu thấy dấu hiệu của phản chuyển dịch phải ngừng
công việc ngay, giới thiệu bệnh nhân đi chỗ khác và bản thân mình đi tham
vấn để điều trị những ẩn ức cũ một cách thoả đáng.
Ngoài nói hết, Freud còn dùng phương pháp giải mộng để khám phá vô
thức của bệnh nhân. Phương pháp giải mộng đòi hỏi bệnh nhân kể lại tất cả
những gì nhớ được trong giấc mộng để nhà phân tâm diễn dịch, tìm ra những
ẩn ức bị dồn nén vào vô thức và giúp bệnh nhân giải quyết những ẩn ức đó
một cách thoả đáng và nhờ vậy hết bệnh.
Phương pháp tiếp cận các vấn đề trong phân tâm học của Freud và
sau này là Anna Freud, Hartmanddax là nền tảng cho việc thực hành Công
tác Xã hội hoàn thiện và phát triển. Phân tâm học có những ảnh hưởng khá
phức tạp và gián tiếp đến Công tác Xã hội quạ một số khía cạnh sau:
+ Nhiều tư tưởng của Freud thể hiện qua văn hoá, từ đó áp dụng trực
tiếp vào Công tác Xã hội.
+ Tư tưởng tâm lý động trong phân tâm học là lý thuyết kiến giải đầu
tiên và được ứng dụng rộng rãi trong Công tác Xã hội.
+ Ảnh hưởng liệu pháp phân tâm học làm nảy sinh cách trị liệu thoáng,
cởi mở, lắng nghe nhằm kiếm tìm cách lý giải và hiểu thấu nhân cách.
+ Nhiều thuật ngữ như: cái vô thức, sự thấu cảm, sự hung hăng, xung
đột, sự lo âu, quan hệ mẫu tử, sự chuyển dịch tình cảm được nhân viên trị
liệu sử dụng nhiều và thường xuyên trong Công tác Xã hội.
+ Nhiều quan điểm của Freud được sử dụng để trị liệu: bệnh tâm thần,
hành vi có vấn đề, mối quan hệ thời thơ ấu và thời trẻ cũng như tình trạng bị
tước bỏ tình mẫu tử trong Công tác Xã hội,…
Đại diện cho những người sử dụng lý thuyết phân tâm học về cấu trúc
nhân cách vào can thiệp trong Công tác Xã hội là Bowlby (1951), Rutter
(1981) với nghiên cứu về quan hệ mẹ – con (việc tước bỏ tình mẫu tử);
Salzberger - Wittenberg (1970), Parkes (1972), C. Smith (1982) với nghiên
cứu về việc mất người thân,… bằng những phương pháp khác nhau như:
“những màn hình trống”, “dịch chuyển”,…
1.2. Thuyết phát triển tri thức của Jean Piaget (1896–1980)
Piaget, tâm lý gia Thụy Sĩ, là người có đóng góp lớn nhất vào kiến thức
của nhân loại về sự phát triển của trí khôn. Theo ông, trong quá trình lớn lên
của đứa trẻ, skima - nơi lưu trữ những kiến thức đã thu nhận được và là nền
tảng cho sự học hỏi thêm những kiến thức mới được liên tục bổ sung qua hai
quá trình: tiếp nhận (assimilation) quá trình đưa những thông tin mới, kinh
nghiệm mới vào cơ cấu skima có sẵn để làm phong phú thêm skima và hội
nhập (accommodation) thay đổi skima có sẵn để chứa đựng được thông tin
và kinh nghiệm mới. Khi gặp một kinh nghiệm mới, tình huống mới chưa biết
bao giờ (không có trong skima) đứa trẻ lúng túng, mất thăng
bằng/disequilibrium, bắt buộc phải tiếp nhận hay hội nhập để trưởng thành lên
và lấy lại tình trạng thăng bằng (equilibrium). Cuộc sống liên tiếp tạo ra trạng
thái mất thăng bằng, đòi hỏi tiếp nhận hoặc hội nhập để phục hồi trạng thái
thăng bằng, nhờ vậy tri thức con người được phát triển.
– Các giai đoạn hình thành tri thức:
Piaget chia sự hình thành của tri thức con người ra bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn giác quan và cử động (sensorimotor) từ 0 đến 2 tuổi.
+ Giai đoạn tiền vận hành (pre-perational) từ 2 đến 7 tuổi.
+ Giai đoạn vận hành đơn giản (concrete operational) từ 7 đến 11 tuổi.
+ Giai đoạn vận hành hoàn chỉnh (formal operational) từ 11 đến 15 tuổi.
Chia ra bốn giai đoạn khác nhau nhưng những giai đoạn này không đứt
đoạn một cách rõ rệt mà diễn ra một cách liên tục và liền mạch. Mặt khác, số
tuổi của mỗi giai đoạn chỉ là phỏng chừng, tuỳ theo những yếu tố nội tại cũng
như yếu tố môi trường, mỗi trẻ có thể trải qua từng giai đoạn ở tuổi khác
nhau. Ngoài ra các giai đoạn có thứ tự cố định và áp dụng chung cho toàn thể
nhân loại, không phân biệt chủng tộc, điều này có nghĩa sự hình thành trí
khôn phải bắt đầu bằng giai đoạn xúc giác và cử động, sau khi phát triển xong
giai đoạn một mới có thể tiến lên giai đoạn hai, rồi mới đến giai đoạn ba và
sau cùng là giai đoạn bốn. Mặc dù đa số mọi người đều trải qua bốn giai đoạn
phát triển kể trên, một thiểu số không hoàn tất được đầy đủ và sự phát triển
trí khôn có thể ngừng lại ở bất cứ giai đoạn nào.
Giai đoạn giác quan và cử động (sơ sinh, khoảng 0 đến 2 tuổi): Trí khôn
của đứa trẻ được hình thành qua ngũ giác (nhìn, nghe, nếm, ngửi, sờ) và cử
động (nắm, kéo, đẩy, đạp,…). Trẻ không có một cử chỉ hay dấu hiệu nào
chứng tỏ nó còn biết đến vật thể đó, vật thể hoàn toàn biến mất trong trí khôn
của nó. Đến khoảng 7 tháng tuổi, đứa trẻ chỉ cần thấy một phần của vật thể
cũng nhận biết được vật thể đó nhưng nếu cất vật thể đi thì nó sẽ quên ngay.
Đây là dấu hiệu của thiếu vật thể thường trực trong trí khôn của đứa trẻ. Ở
cuối giai đoạn này (khoảng 18 tháng tuổi) đứa trẻ dần dần xây dựng được sự
hiểu biết về vật thể thường trực (object permanence): vật thể đứa trẻ hiểu
được, nhận ra được trong trí não mặc dù không thấy vật thể đó trước mắt và
song song với vật thể thường trực là sự hình thành của ngôn ngữ. Bởi khi đó
trẻ bắt đầu có thể nghĩ về vật thể tức là thay thế sự hiện diện thực của vật thể
bằng biểu tượng (symbol) của nó trong trí não và diễn tả ra bằng ngôn ngữ
tức là bằng những ký hiệu (sum) chấp nhận bởi mọi người xung quanh.
Giai đoạn tiền vận hành (ấu thơ, khoảng 2 đến 7 tuổi): Khả năng suy
nghĩ và diễn tả của đứa trẻ tiếp tục phát triển qua biểu tượng và ký hiệu. Tuy
nhiên thế giới của đứa trẻ vẫn xoay quanh cái tôi chủ quan (egocentric) dựa
vào trực giác, nặng tính cách cụ thể và tuyệt đối, chưa hiểu được lý luận và
cách vận hành của vật thể (chính vì vậy Piaget đặt tên giai đoạn này là tiền
vận hành), chưa phân biệt được ý nghĩ và hiểu biết của người khác có thể
khác với bản thân nó.
Giai đoạn vận hành đơn giản (trước dậy thì, khoảng 7 đến 11 tuổi): Lần
đầu tiên đứa trẻ hiểu được lôgíc vận hành của sự vật. ý nghĩ không còn bị chi
phối hoàn toàn bởi trực giác và đứa trẻ có thể dùng trí khôn để giải quyết
được những vấn nạn mà nó có kinh nghiệm (cụ thể). Cũng trong giai đoạn
này, đứa trẻ bắt đầu hiểu được ý nghĩ khác biệt của người khác và ngôn ngữ
của nó càng ngày càng có chức năng xã hội và truyền thông.
Giai đoạn vận hành hoàn chỉnh (từ 11 – 15 tuổi trở lên): Đứa trẻ bắt đầu
xây dựng được khả năng lý luận về những sự kiện nó chưa hề có kinh
nghiệm. Ở đầu giai đoạn này, ý nghĩ của đứa trẻ có khuynh hướng quay trở
lại xoay quanh cái tôi chủ quan/egocentric của giai đoạn tiền vận hành, tức là
không chú ý đến nhu cầu, ý thích, lập luận,… của bất cứ ai ngoài chính bản
thân nó.
– Ứng dụng trong Công tác Xã hội:
Mặc dù ảnh hưởng chính và rất lớn của Piaget nằm trong lĩnh vực giáo
dục (giáo dục mẫu giáo và tiểu học) song những phát kiến của Piaget cũng
được dùng hiệu quả trong Công tác Xã hội, đặc biệt là tham vấn cho cha mẹ
và thầy cô giáo trong những trường hợp khó khăn về dạy dỗ trẻ em. Quá trình
tham vấn áp dụng tư tưởng Piaget sẽ giúp cha mẹ và thày cô giáo tìm được
phương pháp giáo dục uốn nắn, kỷ luật thích hợp để đứa trẻ phát huy được
đạo đức xã hội và tự nó phát triển được tính thật thà, thẳng thắn là một trong
những yếu tố rất quan trọng giúp nó liên hệ được với mọi người xung quanh
và thành công trong cuộc sống gia đình cũng như xã hội. Một cách cụ thể,
Piaget phân biệt hai lối phạt: phạt bắt đền/expiatory punishment và phạt đối
xứng/reciprocal punishment. Phạt bắt đền là hình phạt mạnh mẽ có mục đích
gây ra đau đớn, khó chịu khi đứa trẻ vi phạm những điều cha mẹ ngăn cấm.
Hình “phạt bắt đền” có ý nghĩa áp đặt độc đoán theo ngẫu hứng của người có
quyền lực (cha mẹ) và không có liên quan trực tiếp gì đến nội dung “tội”, của
đứa trẻ, chỉ nhằm bắt nó phải trả giá cho tội của nó để hy vọng nó sẽ nhớ và
chừa. Phạt đối xứng luôn luôn liên hệ trực tiếp đến nội dung của “tội” và nhằm
củng cố mối quan hệ hợp tác với người khác và phát huy tinh thần trách
nhiệm tự giác.
1.3. Thuyết hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một phong trào tiến bộ phát xuất từ Pháp và
Công tác Xã hội cũng chịu ảnh hưởng từ thuyết này. Những ý tưởng chính:
– Con người không chỉ là một thực thể tồn tại mà còn có khả năng ý
thức về sự tồn tại của mình và ý nghĩa về sự tồn tại ấy.
– Nhấn mạnh đến khả năng của các cá nhân nhằm đạt được quyền lực
kiểm soát về cuộc sống của mình.
– Cá nhân được chấp nhận như “chủ thể”, “khách thể” (họ hành động
theo, bị ảnh hưởng bởi môi trường).
– Nhấn mạnh đến việc con người sẽ thay đổi như thế nào để hướng tới
xã hội tốt đẹp hơn.
– Hướng đến tìm kiếm việc tái tạo toàn bộ tổ chức xã hội, tái tạo “xã hội
hoá”. Vì thế, con người tự do dựa vào nhu cầu và mong muốn của mình để
tham gia vào một tiến trình tái tạo liên tục của xã hội.
– Nhấn mạnh đến giá trị về “chính thể luận”. Xem xét các cá nhân và
các hệ thống xã hội như một tổng thể.
– Tồn tại trong mỗi con người là một quá trình hai mặt: mặt động và
mặt ảnh. Để hiểu được phải có một quá trình tìm hiểu, quan sát, tưởng tượng
và tư duy về những khía cạnh tĩnh tại và năng động của người khác trong bối
cảnh sống hiện tại của người ấy (phải đặt một người khác vào cuộc sống của
họ để tư duy).
Nội dung của thuyết hiện sinh gồm 2 nội dung chính: sự tồn tại của con
người và bản chất xã hội của con người.
– Sự tồn tại của con người:
+ Thuyết hiện sinh phản đối mọi sự kỳ vọng, ưu tiên về việc con người
hoặc xã hội sống ra sao.
+ Thuyết hiện sinh hướng sự chú ý của mình đến hiện tại, những gì
đang diễn ra có ảnh hưởng như thế nào đến hành vi của con người hiện tại.
+ Đề cao tính chủ động của cá nhân: Cá nhân tự do hành động theo
mục tiêu mà tự bản thân họ đặt ra và mong muốn.
+ Cá nhân có thể thông qua tự do của mình nhằm kiến tạo, xác định
chính mình đi đến hình thành nhân cách, cấu trúc xã hội. Ở đây, sự tự do
không phải là mình được phép làm bất kỳ điều gì mình muốn mà là quyền
được sử dụng có ý thức và trách nhiệm. Điều này có liên quan đến việc thực
hiện chức năng xã hội của chính cá nhân đó.
– Bản chất xã hội của con người:
+ Mỗi con người trong xã hội đều chịu những áp lực khác nhau, có
những mục đích khác nhau, vì thế có những hành động khác nhau để đạt
được mục đích.
+ Cá nhân thông qua sự tự do của mình để kiến tạo, xác định về chính
bản thân và nhân cách riêng cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh
sống trong môi trường riêng của mình.
+ Trong xã hội, mỗi cá nhân chịu sự chi phối, tác động của những yếu
tố như: sự kỳ vọng của xã hội (những cái nhãn mà xã hội gán cho). Cái nhãn
này có thể phù hợp hoặc không phù hợp với từng người. Vì thế nó có tác
động tới hành động tích cực hoặc tiêu cực của cá nhân trong việc thực hiện
mục tiêu. Ở đây các cá nhân tự do hành động nhưng không tự do từ trách
nhiệm của mình. Đó là thực tế của “sự tồn tại”.
Một khía cạnh quan trọng khác về đạo đức hiện sinh là giá trị về sự
cam kết đoàn kết với những cá nhân khác. Ở đây, tư tưởng hiện sinh nhấn
mạnh đến giá trị về “chính thể luận”, xem xét các cá nhân và các hệ thống xã
hội là một tổng thể. Quan điểm tổng thể nhấn mạnh đến việc cố gắng tạo
dựng được một hình thức tổng hợp về cách hiểu của chúng ta về các tình
hưống xã hội và những câu chuyện lịch sử của họ.
Đại diện cho những người sử dụng thuyết hiện sinh vào các biện pháp
can thiệp trong Công tác Xã hội là: Thompson, Rollo Mayo,…
– Những nguyên tắc thực hành về cách tiếp cận hiện sinh trong Công
tác Xã hội:
+ Tự do, trách nhiệm là hạn chế cơ bản về trải nghiệm của mọi người;
+ Tự do chính là sự giải phóng và là một gánh nặng;
+ Sự xác thực chính là điểm mấu chốt cho sự tự do.
+ Sự tồn tại cũng được trải nghiệm qua như là sự vô quyền lực; trách
nhiệm phải được chấp nhận đối với mọi người;
+ Thuyết hiện sinh đòi hỏi có được hành trình của chủ thể được sẻ chia
và một cách tiếp cận hợp tác;
+ Thừa nhận và quản lý được sự căng thẳng giữa quyền lực/kiểm soát/
trách nhiệm pháp lý và công việc sáng tạo, không định hướng;
+ Hiện sinh là sự vận động;
+ Trong sự tự do hiện sinh, tiến trình tự kiến tạo chính là những vấn đề
cơ bản của sự tự do chính trị.
1.4. Lý thuyết trị liệu nhận thức
Trị liệu nhận thức là một trường phái tư tưởng với chủ đề chính tập
trung xung quanh khái niệm tư duy. Sự tư duy của một cá nhân được định
hình bởi xã hội và hoàn cảnh trực tiếp của người ấy. Trên chiều cạnh này, tư
duy quyết định cảm xúc và hành vi. Thông qua tư duy, con người đặt ra mục
tiêu ngắn hạn và dài hạn cho hành động của mình trong cuộc sống. Điều này
có nghĩa, nếu như việc thực hiện chức năng xã hội của một cá nhân bị khiếm
khuyết thì có nghĩa là tư duy của người ấy không hoàn hảo. Chính vì vậy,
hành vi con người thay đổi thì phương thức tư duy cũng phải thay đổi theo.
Đại biểu là Albert Ellis (1913 – 2007), Sheldon (1995) và Beck. Trong
Công tác Xã hội, nếu như nhận thức là cách nhìn nhận của một người về một
vấn đề nào đó theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực thì trị liệu nhận
thức là phương pháp tác động vào thân chủ làm thay đổi nhận thức tiêu cực
của họ. Phương thức này sử dụng kỹ thuật “chuyển cơ cấu tư duy” trong hoạt
động giúp đối tượng. Kỹ thuật này gồm các yếu tố:
+ Giúp thân chủ nhận thức được các suy nghĩ sai lầm đã có ảnh hưởng
đến các hoạt động chức năng của thân chủ.
+ Xoá bỏ những suy nghĩ sai lầm, thay vào đó là những tư duy xác thực
và các hành động có tính chất tích cực để tăng cường các hoạt động chức
năng của thân chủ.
+ Một số ứng dụng có ảnh hưởng về hình thức trị liệu nhận thức chính
là chương trình “lý luận và phục hồi” được sử dụng theo chương trình dịch vụ
về quản chế và những môi trường tư pháp khác.
+ Tái tạo nhận thức là hình thức nổi tiếng nhất của trị liệu nhận thức.
+ Hình thức trị liệu nhận thức cấu trúc có liên quan đến ba cấu trúc về
niềm tin trong ý thức của thân chủ.
+ Một số phương thức trị liệu nhận thức đã được kết hợp với phương
thức thay đổi hành vi để trị liệu các vấn đề tâm lý như bệnh trầm cảm, lo lắng,
sợ hãi, giúp những người thiếu tụ tin hoặc thiếu tự chủ.
Ellis còn được coi là nhà tâm lý trị liệu với cái nhãn "trị liệu xúc cảm"có
lý trí bởi ông là người đầu tiên phối hợp các lý thuyết về tri thức và về ứng xử
của nhiều tác giả khác nhau để đề ra phương pháp tâm lý trị liệu tri thức ứng
xử.
Albert Ellis và phương pháp trị liệu bằng cảm xúc, ứng xử hợp lý:
Ellis gọi phương pháp tri thức ứng xử của ông là trị liệu bằng cảm xúc
và ứng xử hợp lý. Phương pháp này theo ông đã hạn chế được tính chất dài
dòng, mất thì giờ, kém hiệu quả và cực kỳ phức tạp của phương pháp phân
tâm mà ông đang áp dụng. Từ sự thay đổi các nhận thức của đối tượng về
bản thân, về vấn nạn và về thế giới, Ellis đã đưa ra một công thức hết sức
giản dị để giải thích và điều trị các triệu chứng tâm thần là: ABC. (A/activating
event: sự việc xảy ra, B/belief: niềm tin về sự việc xảy ra và C/consequences:
những cảm xúc, ứng xử gây ra bởi niềm tin đó). Điều đó có nghĩa: Khi một sự
kiện diễn ra, những niềm tin chủ quan của cá nhân thường bị sai lạc, bất hợp
lý, vô căn cứ về sự kiện, từ đó dễ gây ra những cảm xúc khó chịu và ứng xử
sai lầm của họ. Chẳng hạn: Cô X bất ngờ đi ngoài phố gặp anh bạn trai Y
nhưng anh Y vô tình không nhìn thấy cô (sự kiện xảy ra – A). Cô B nghĩ “hắn
lờ mình đi” (niềm tin – B). Từ niềm tin này cô nảy sinh cảm xúc tức giận và
tránh mặt anh Y (hậu quả – C).
Các hình thức suy nghĩ, diễn dịch sai về người và sự việc:
Ellis cho rằng, con người nhìn chung ai cũng có đặc tính tự ti (bất kể
chủng tộc hay văn hoá). Đặc tính này có ngay cả khi đứa trẻ được nuôi
dưỡng trong gia đình lành mạnh, tuy nhiên nó thường mạnh hơn khi người ta
lớn lên trong hoàn cảnh gia đình không lành mạnh, bị hành hạ ngược đãi hay
xảy ra loạn luân. Bên cạnh yếu tố nội tại và gia đình này, hoàn cảnh sống
trong xã hội cũng có thể đóng góp vào khuynh hướng tự ti của con người.
Khuynh hướng tự ti mạnh mẽ có thể làm cho con người suy nghĩ theo
khuôn mẫu cứng nhắc hoặc trắng hoặc đen, cường điệu: hay dùng những từ
như “kinh khủng”, “nhất định phải”, “không thể khác được”,… để diễn tả cảm
xúc của bản thân và của người khác; thanh lọc (filtering): chỉ thu nhận những
thông tin xấu, tiêu cực, cố tình bỏ qua những thông tin có tính cách lạc quan
tích cực, khái quát hoá (nói chung thế là cô ta coi mình như rác); võ đoán
(mind reading); bói nhảm (fortune–telling): ngày mai chắc chắn là hắn sẽ
chẳng còn nhớ tên mình là gì; lý luận theo cảm xúc (emotional reasoning);
chạm tự ái (personalizing).
Cách tiếp cận của phương pháp cảm xúc và ứng xử hợp lý:
Phương pháp cảm xúc và ứng xử hợp lý mang đặc tính chung của phái
ứng xử, đó là không quan tâm đến những nguyên nhân sâu xa của triệu
chứng tâm lý mà chỉ chú ý giải quyết nhanh chóng những cảm xúc và ứng xử
sai của thân chủ. Điều trị viên theo phương pháp cảm xúc và ứng xử hợp lý
sẵn sàng áp dụng tất cả các cách tiếp cận khác nhau của các trường phái
miễn đạt được mục tiêu giúp thân chủ giải quyết được triệu chứng và vấn
nạn, kể cả phương pháp cho lời khuyên trực tiếp, ra bài tập, huấn luyện bằng
cách diễn vai trò, thách thức các niềm tin sai trái, động viên và tạo
lực/empower cho thân chủ,… Khi thân chủ đã giảm triệu chứng trong thời
gian ngắn nhất có thể được, điều trị viên sẽ giúp thân chủ tăng tự tin để duy
trì những tiến bộ đã đạt được. Sau đây là một số phương pháp phổ biến nhất
của cảm xúc và ứng xử hợp lý:
a) Phương pháp cảm xúc (Emotive techniques)
– Tấn công sự xấu hổ (Shame attacking): Tập cho thân chủ lập lại hành
vi hay ứng xử đã làm cho thân chủ có cảm xúc xấu hổ, đồng thời tập cho thân
chủ hiểu và có cảm xúc đúng đắn, hợp lý về ứng xử đó (chả có gì phải xấu hổ
như vậy, chả ai để ý, có người để ý thì 5 phút sau họ đã quên).
– Tưởng tượng cảm xúc hợp lý (Rational emotive imagery): Tập cho
thân chủ tưởng tượng hậu quả tồi tệ nhất có thể xảy ra sau một ứng xử nào
đó của họ, ví dụ tất cả bạn bè tẩy chay, cả nước khinh rẻ, cả thế giới chê cười
sau đó tập cho họ có được cảm xúc tiêu cực đúng đắn về ứng xử đó, ví dụ
đáng tiếc, hơi ân hận, hơi thất vọng,…
– Nói đúng một cách khẳng định về mình (Forceful coping statement):
Huấn luyện cho thân chủ cách tự xét đoán một cách hợp lý và làm thế nào tự
tẩy não để xoá bỏ cách tự xét đoán cũ và tin vào cách tự xét đoán mới, ví dụ
lập đi lập lại câu: “Tôi là một người bình thường, tôi chẳng làm điều gì xấu xa,
tội lỗi đến nỗi phải xấu hổ hết” hai mươi lần mỗi tối trước khi đi ngủ và hai
mươi lần mỗi khi có cảm xúc xấu hổ vì một ứng xử hay sự kiện nào đó.
– Độc thoại gay gắt (Forceful self–dialogues): Thân chủ ghi băng mô tả
những niềm tin bất hợp lý về bản thân, tự biện hộ một cách mạnh mẽ, rồi mời
người khác nghe và cho ý kiến xem lập luận biện hộ có đủ mạnh và thuyết
phục hay không.
– Khôi hài: Khôi hài có thể giúp cho thân chủ tự cười về ứng xử hay
cảm xúc sai trái, phóng đại, lố bịch của mình và nhờ vậy bỏ được thói suy
nghĩ và ứng xử đó.
– Cải thiện quan hệ với người khác: Giúp thân chủ cải thiện mối quan
hệ với những người khác trong gia đình hay xã hội bằng cách thay đổi suy
nghĩ, phán đoán về người khác và ứng xử không đúng đắn của bản thân. Ví
dụ anh chồng bực mình vì anh nghe vợ dành quá nhiều thì giờ chăm sóc bố
mẹ ruột mà lơ là không ngó ngàng gì đến bản thân anh. Nếu anh được giúp
hiểu hoàn cảnh của bố mẹ vợ: có đông con những đứa nào cũng chỉ biết hết
sức hiếu với vợ, nghĩa với con; tuổi già yếu đuối bệnh tật, chỉ còn trông cậy
được cô con gái duy nhất chẳng may lại là cô vợ của anh, anh sẽ cảm thông
vợ, không còn bực bội và còn phụ vợ chăm sóc bố mẹ để vợ đỡ cực. Nhờ
vậy vợ đâm ra cảm động, đi chùa/nhà thờ cảm ơn Phật/chúa đã cho con ông
chồng tốt.
b) Phương pháp ứng xử (behavioral techniques)
– Thực tập vai trò/ Role playing: Thân chủ đóng vai thân chủ, người làm
công tác tham vấn đóng vai người thứ hai trong mối quan hệ đã gây ra ABC.
Ví dụ thân chủ mời cô bạn gái (do người làm công tác tham vấn đóng vai) đi
xem hát. Cô bạn gái từ chối. Thân chủ suy luận và ứng xử không thích hợp.
Người làm công tác tham vấn giúp thân chủ hiểu và có suy luận cũng như
ứng xử đúng đắn.
– Thực tập vai trò đảo/ reverse role playing: Người làm công tác tham
vấn đóng vai thân chủ, thân chủ đóng vai người thứ hai trong mối quan hệ đã
gây ra ABC.
– Làm mòn cảm xúc trong thực tế/ In vivo desensitization: Tập cho thân
chủ lập đi lập lại ứng xử hay hành vi gây ra cảm xúc tiêu cực với cường độ
tăng dần từ nhẹ đến mạnh. Ví dụ thân chủ sợ nói trước đám đông, tập nói
trước anh chị em trong gia đình, rồi trước bạn bè, rồi sau cùng trước đám
đông xa lạ. Ví dụ khác: nhát gái, dẫn đến gần chỗ có đông cả nam lẫn nữ
sinh, dần dần lân la đến chỗ có nhóm nhỏ nữ sinh, cuối cùng đem bỏ vào khu
nội trú nữ để làm một nhiệm vụ gì đấy,… phương pháp chữa bệnh ăn cắp
như đã mô tả trong phần ứng xử liệu pháp ở trên cũng là một ví dụ về
phương pháp này.
– Làm mòn cảm xúc cấp tốc/ Implosive desensitization: Tập cho thân
chủ diễn đi diễn lại tình huống gây ra cảm xúc tiêu cực. Ví dụ sợ bị vây kín
trong một khoảng không gian chật hẹp không có lối thoát/claustrophobia, tập
đi thang máy lên xuống mỗi ngày vài chục lần trong một tháng liên tiếp trong
khi tự nói thành tiếng: "Hàng trăm triệu người đi thang máy mỗi ngày, cùng
lắm có sự cố kỹ thuật cũng chỉ bất tiện chút xíu thôi, chẳng có gì phải sợ".
– Duy trì tình trạng “căng thẳng kinh khủng”: Khuyến khích thân chủ tiếp
tục ở lại với mối quan hệ “căng thẳng kinh khủng” (ví dụ với “thằng cha xếp
khùng” hay với “mụ vợ quá quắt” cho đến khi giảm được cảm xúc tiêu cực
như căng thẳng, giận dữ, sợ hãi hoặc trầm cảm, sau đó sẽ nghĩ đến chuyện
ra khỏi mối quan hệ đó).
– Phòng ngừa: đối với những bệnh nhân của bệnh hành vi ám
ảnh/obsessive complulsive behavior, ví dụ rửa tay xà bông mỗi ngày ít nhất
vài chục lần, nghiện cờ bạc, ăn cắp,… Sắp xếp để họ có một người thân
thường trực theo dõi, giúp đỡ, hỗ trợ tinh thần và ngăn ngừa những hành vi
ám ảnh.
– Tự thưởng/ phạt: thân chủ tự thưởng mỗi khi hoàn tất thành công bài
tập và tự phạt mỗi khi không làm bài tập hay lập lại hành vi hay ứng xử không
đúng.
Một số đặc điểm khác của phương pháp cảm xúc và ứng xử hợp lý:
– Tránh những phương pháp không hiệu quả.
– Giúp thân chủ hướng đến tình trạng viên mãn/self actualization tức là
trạng thái phát triển cao nhất theo Maslow.
1.5. Lý thuyết sinh thái học (Ecologycal Theory)
Tiếp cận dựa trên sinh thái học là một trong những cách tiếp cận truyền
thống khi nghiên cứu về văn hoá của các cá nhân, nhóm, cộng đồng Công tác
Xã hội. Đây là một khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa các cơ thể sống
với môi trường tự nhiên của chúng. Ở đây, môi trường tự nhiên khách quan
có ảnh hưởng sâu sắc tới các chế độ xã hội và tư tưởng của con người.
Những người theo thuyết sinh thái học văn hoá cho rằng, kiểu văn hoá của
mỗi tộc người được tạo ra là do sự quy định của những nguồn tài nguyên và
những giới hạn của môi trường xung quanh, kể cả những thay đổi trong môi
trường đó (C. Montesquieu cho rằng, sự phát triển của văn hoá phụ thuộc vào
khí hậu, độ màu mỡ của đất đai cũng như các yếu tố tự nhiên khác) Điều đó
có nghĩa sự khác biệt trong cách tổ chức xã hội và văn hoá là kết quả của sự
thích nghi với các điều kiện vật chất và sinh thái bao quanh. Ở đây “kiểu văn
hoá” đóng vai trò căn bản được hiểu như một tập hợp những nét khu biệt cho
một lối sống do kết quả thích nghi với môi trường xung quanh và tạo nên hạt
nhân của văn hoá – cái gắn liền với các hoạt động tạo ra phương tiện tồn tại,
các thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo,… Nếu môi trường tự nhiên có
ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế và tổ chức như thế nào thì việc giao
tiếp, ngôn ngữ, tâm hồn, tính cách, tư duy, ẩm thực và tương tác xã hội cũng
có những tác động như vậy, thậm chí còn nhiều hơn và rõ ràng hơn.
Chẳng hạn những người dân vùng biển sống phụ thuộc vào môi trường
biển và nguồn thức ăn chính là cá thì chắc chắn văn hoá của vùng này/môi
trường này cũng sẽ tạo ra những ngôn ngữ/từ ngữ để chuyển tải thông tin
chính xác về cá và nghề đi biển. Đối với những người dân nông thôn Đồng
bằng Bắc Bộ do tính chất manh mún trong đồng ruộng, sản xuất mà từ ngữ
chỉ về nó cũng phong phú như: mang, vác, đội, gánh, khiêng,… để chỉ một
hành động vận chuyển sản phẩm của người lao động sau thu hoạch.
Như vậy, hướng tiếp cận sinh thái học văn hoá đòi hỏi khi nghiên cứu
cần phải đào sâu tìm hiểu nội dung, đặc điểm cùng với những hệ quả tinh
thần – xã hội của một nền văn hoá nào đó ở môi trường tự nhiên đã hình
thành nên chúng, nhất là trong Công tác Xã hội. Bất cứ một sự can thiệp hay
giúp đỡ cho dù là một cá nhân hay tổ chức xã hội nào thì trước hết phải tìm
hiểu môi trường sống của cá nhân hay tổ chức xã hội đó. Các hệ thống môi
trường ở đây là hệ thống mở, các hệ thống có liên hệ chặt chẽ với nhau. Một
hệ thống này bao gồm những phần tử nhỏ hơn nó nhưng có khi lại thuộc một
hệ thống lớn hơn. Chẳng hạn: Gia đình bao gồm nhiều thành viên: cha mẹ,
con cái còn gọi là gia đình hạt nhân. Những gia đình con này lại nằm trong
một gia đình lớn hơn còn gọi là gia đình mở rộng.
Tóm lại theo lý thuyết này, tất cả các vấn đề của con người phải được
nhìn nhận một cách tổng thể trong mối quan hệ với các yếu tố khác, chứ
không được nhìn nhận một cách độc lập, riêng lẻ. Nói cách khác, trong hoàn
cảnh sống, mỗi người đều có những hành động và phản ứng làm ảnh hưởng
lẫn nhau. Một hoạt động can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân, một nhóm đều
có những ảnh hưởng ít nhiều tới những yếu tố xung quanh. Vì thế trong các
hoạt động Công tác Xã hội, việc giúp đỡ, hỗ trợ một cá nhân, một nhóm, gia
đình, cộng đồng, xã hội,… cần phải được xem xét trên nhiều phương diện,
nhiều mức độ khác nhau.
Lý thuyết môi trường sinh thái có ảnh hưởng nhiều đến các phương
thức thực hành trong Công tác Xã hội như: tư vấn, xử lý trường hợp, tư vấn
gia đình, tư vấn nhóm, thiết kế và phát triển cộng đồng,…
1.6. Lý thuyết về vị trí – vai trò xã hội
Mỗi xã hội có cơ cấu phức tạp bao gồm các vị trí, vai trò xã hội khác
nhau. Lý thuyết về vị trí – vai trò xã hội cho rằng, mỗi một cá nhân có mọt vị trí
xã hội là vị trí tương đối trong cơ cấu xã hội, hệ thống quan hệ xã hội. Nó
được xác định trong sự đối chiếu so sánh với các vị trí xã hội khác. Vị thế xã
hội là vị trí xã hội gắn với những trách nhiệm và những quyền hạn kèm theo.
Vị thế chính là bất kỳ vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã hội với những kỳ
vọng quyền hạn và nghĩa vụ đặc thù. Các quyền và nghĩa vụ này thường
tương ứng với nhau. Phạm vi quyền và nghĩa vụ hoàn toàn phụ thuộc vào
quan điểm của các xã hội, của các nền văn hoá thậm chí của các nhóm xã hội
nhỏ. Nhưng khi xem xét vị trí với những quyền và nghĩa vụ kèm theo, tức là
xem xét vị thế xã hội của cá nhân, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt trong thứ bậc
xã hội và thay đổi theo từng xã hội, từng khu vực.
Mỗi cá nhân có nhiều vị trí xã hội khác nhau, do đó cũng có nhiều vị thế
khác nhau. Những vị thế xã hội của cá nhân có thể là: vị thế đơn lẻ, vị thế
tổng quát hoặc có thể chia theo cách khác là: vị thế có sẵn – được gán cho, vị
thế đạt được, một số vị thế vừa mang tính có sẵn, vừa mang tính đạt được.
Vai trò xã hội của cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội
tương ứng. Nó chính là mặt động của vị thế xã hội, vì luôn biến đổi trong các
xã hội khác nhau, qua các nhóm xã hội khác nhau. Tương ứng với từng vị thế
sẽ có một mô hình hành vi được xã hội mong đợi. Mô hình hành vi này chính
là vai trò tương ứng của vị thế xã hội. Các nhà Xã hội học cho rằng, hành vi
con người thay đổi khác nhau tuỳ theo bối cảnh và gắn liền với vị trí xã hội
của người hành động, hành vi phần nào được tạo ra bởi những mong đợi của
người hành động và những người khác. Như vậy, vai trò xã hội là sự tập hợp
hành vi, thái độ, quyền lợi và sự bắt buộc mà xã hội mong đợi đối với một vị
thế xã hội nhất định và sự thực hiện của cá nhân có vị thế đó.
Vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội. Những
đòi hỏi được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội. Trong các xã hội
khác nhau thì các chuẩn mực này cũng khác nhau. Vì vậy, cùng một vị thế xã
hội nhưng trong các xã hội khác nhau thì mô hình hành vi được xã hội trông
đợi cũng khác nhau và các vai trò xã hội cũng khác nhau.
Theo thuyết này, trong Công tác Xã hội, việc tìm hiểu những nhận thức
cũng như hành động của cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng phụ thuộc nhiều
vào chính vị trí mà họ được thừa nhận trong gia đình và xã hội. Nếu như họ
được coi trọng, được có tiếng nói riêng của mình, được bình đẳng như mọi
người trong gia đình và ngoài xã hội thì họ sẽ làm tốt hơn vai trò của mình,
đáp ứng được nhiều hơn những mong đợi của mọi người và ngược lại.
1.7. Lý thuyết hành động xã hội của Max Weber
Coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ người – xã hội, là cơ
sở của đời sống xã hội của con người. Nó là hành vi được chủ thể gắn cho
một ý nghĩa chủ quan nhất định và cái mà Weber gọi là “ý nghĩa chủ quan”
chính là ý thức, là những hành động có ý thức, chủ thể hiểu được mình định
thực hiện hành động gì và sẽ thực hiện nó như thế nào? Khác hẳn những
hành động bản năng sinh học hay là hành động có sự tham gia của ý thức.
Với nhãn quan của thuyết hành động xã hội, những quan niệm nhu cầu
và nhu cầu mong muốn của các cá nhân, nhóm, cộng đồng được nhìn nhận
như là nguồn gốc sâu xa của các hành động của họ.
Vận dụng lý luận quan điểm của Weber, cần phải nghiên cứu hành
động của các cá nhân, nhóm, cộng đồng theo hướng tiếp cận văn hoá. Mỗi
con người vừa là chủ thể sáng tạo của văn hoá, vừa là sản phẩm của văn
hoá cộng đồng và tiểu văn hoá gia đình. Bằng quá trình xã hội hoá, con người
tiếp nhận hệ giá trị, chuẩn mực của cộng đồng và các khuôn mẫu ứng xử để
trở thành con người xã hội. Họ được nhào nặn khuôn theo văn hoá của cộng
đồng, khiến cho những đặc trưng cơ bản của văn hoá đó luôn hiện diện trong
họ, chi phối từ nhận thức tới hành vi và tư duy của họ. Trong điều kiện đó,
mỗi hành động của con người đều không thể vượt ra ngoài sự chi phối của
khuôn mẫu văn hoá ấy. Trong thuyết hành động của mình, Weber đã từng
nhấn mạnh vai trò của hệ thống mẫu này chỉ với 4 định hướng hành động:
hành động thuần lý đối chiếu với một giá trị, hành động thuần lý đối chiếu với
một mục đích, hành động thuần lý đối chiếu với cảm xúc, hành động truyền
thống. Rõ ràng văn hoá cộng đồng, tiểu văn hoá gia đình là yếu tố vô cùng
quan trọng không thể xem nhẹ khi nghiên cứu về hành động của các cá nhân
trong các gia đình, của cá nhân, nhóm ngoài xã hội. Tất cả luôn ghi đậm dấu
ấn văn hoá của cộng đồng và tiểu văn hoá gia đình đã được thẩm thấu vào cá
nhân thông qua quá trình xã hội hoá.
Vì vậy, trong Công tác Xã hội, khi nghiên cứu tìm hiểu về hành động
của các cá nhân, nhóm, cộng đồng, không được tách chủ thể khỏi môi trường
văn hoá nơi họ sinh sống. Hiểu biết về phong tục tập quán, về thói quen và
tâm lý cộng đồng, về tín ngưỡng, niềm tin và những quan hệ xã hội của chủ
thể, là cơ sở đáng tin cậy để lý giải các hành động của họ.
1.8. Một số kiến thức cơ bản về sự phát triển con người
Công tác Xã hội là hoạt động hướng tới giúp đỡ cá nhân, nhóm, cộng
đồng thoả mãn nhu cầu cần thiết, đế giúp họ hoạt động có hiệu quả hơn. Vì
vậy muốn giúp đỡ cá nhân, nhóm, cộng đồng đòi hỏi nhân viên Công tác Xã
hội phải có những hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm lý xã hội của con
người và các hành vi của họ. Tại sao họ lại có những hành vi như vậy? Hành
vi đó nhằm đáp ứng nhu cầu gì?
1.8.1. Nhu cầu của con người
Con người vừa là một thực thể sinh vật vì nó là cơ thể sống, vừa là một
thực thể xã hội vì nó chứa đựng “tổng hoà các mối quan hệ xã hội” với một cơ
chế tâm lý đặc thù. Vì thế ba mặt: sinh lý, tâm lý và xã hội thường xuyên biến
đổi và tác động qua lại lẫn nhau trong suốt quá trình phát triển con người nổi
chung, nhân cách nói riêng và nói tới phát triển của con người là nói tới sự
phát triển về thể lực, trí tuệ, tình cảm, xã hội. Để đảm bảo các yếu tố trên
được phát triển một cách hoàn thiện, con người cần có các điều kiện cần
thiết, có nghĩa là các nhu cầu cơ bản của con người cần được đáp ứng, thoả
mãn.
Nhu cầu là yếu tố tất yếu, cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của cá nhân. Nếu nhu cầu được thoả mãn thì sẽ tạo nên cảm giác thoải
mái, an toàn cho sự phát triển. Ngược lại, nếu không được đáp ứng thì sẽ
gây nên sự căng thẳng và có thể dẫn tới những hậu quả nhất định. Vì thế nhu
cầu là động lực bên trong kích thích cá nhân hoạt động, quyết định mọi hoạt
động của con người nhưng thực chất “nhu cầu là gì?” đến nay vẫn còn gây
nhiều tranh cãi. Khi nói đến nhu cầu, người ta thường nói đến hoạt động.
Thông qua các hoạt động mà cá nhân nảy sinh những nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu là động lực kích thích hoạt động và ngược lại, hoạt động là điều kiện
nảy sinh nhu cầu.
Theo định nghĩa, Nhu là cần thiết, Cầu là đòi hỏi, mong muốn. Như vậy,
“nhu cầu là một yếu tố cần thiết, tất yếu để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của cá nhân”.
Theo Từ điển tiếng Việt (2002, Nhà xuất bản Đà Nẵng): nhu cầu là điều
đòi hỏi của đời sống tự nhiên và xã hội”.
Theo Loenter (1971): “Nhu cầu là trạng thái thiếu hụt cái gì đó, trạng
thái hướng hoạt động của cá nhân đến sự bù đắp, thoả mãn cái thiếu hụt đó”.
Theo các nhà kinh tế học, nhu cầu chia làm hai loại: nhu cầu tuyệt đối
và nhu cầu tương đối. Nhu cầu tuyệt đối là nhu cầu mà bất cứ thành viên nào
của xã hội cũng được thoả mãn ở một mức độ khuôn khổ tối thiểu. Còn nhu
cầu tương đối là nhu cầu mà sự thoả mãn chúng đem đến cho con người
niềm ao ước, ấp ủ. Về phương diện tâm lý học – xã hội, nhu cầu tương đối
đem lại cho con người ta niềm kiêu hãnh rằng, mình cao hơn đồng loại. Sự
phát triển nhu cầu tuyệt đối tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội
thoả mãn nhu cầu tương đối.
Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự bậc
thang từ thấp tới cao – từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ yếu,
cao hơn. Sự thoả mãn nhu cầu của con người cũng như các bậc thang đó.
Khi con người thoả mãn được nhu cầu cấp thấp rồi thì sẽ tiến tới thoả mãn
các nhu cầu cấp cao hơn.
Chẳng hạn: Con người thoả mãn nhu cầu ăn no rồi mới nghĩ tới thoả
mãn nhu cầu ăn ngon, thẩm mỹ.
Theo Charlotte Towle, nhu cầu về tâm linh, tôn giáo giúp người ta tin
vào một sức mạnh tồn tại bên ngoài con người, nó giúp người ta các giá trị
tinh thần, đặc biệt là các giá trị văn hoá dân tộc.
Như vậy, có nhiều cách phân loại về nhu cầu và về cơ bản con người
có những nhu cầu chính sau đây:
+ Nhu cầu vật chất sinh lý: thức ăn, không khí, nước uống;
+ Nhu cầu an toàn (được đảm bảo trên nhiều phương diện khác nhau):
nhà ở, việc làm, sức khoẻ;
+ Nhu cầu tình thương: nhu cầu được thuộc về ai đó, nhóm nào đó
(cha mẹ, bạn bè, họ hàng,…);
+ Nhu cầu được tôn trọng: được chấp nhận có vị trí trong một nhóm
người;
+ Nhu cầu được hoàn thiện: nhu cầu phát triển trí tuệ, được thể hiện
khả năng và tiềm lực của mình;
+ Nhu cầu về tâm linh tôn giáo.
Các nhu cầu trên luôn tồn tại, thay đổi và phát triển, chúng đan xen
nhau, phụ thuộc lẫn nhau, quan hệ qua lại nhau. Sự thay đổi trong đáp ứng
nhu cầu này sẽ ảnh hưởng tới sự thay đổi trong đáp ứng nhu cầu khác (nhu
cầu tình thương được đáp ứng thì nhu cầu về vật chất sinh lý, nhu cầu an
toàn, nhu cầu hoàn thiện cũng có những ảnh hưởng theo chiều hướng tích
cực) Nhu cầu khác với ý muốn. Nếu như nhu cầu là cái gì đó mà khi thiếu thì
sẽ dẫn đến những hạn chế trong quá trình phát triển của con người thì ý
muốn là điều ta mong muốn có.
– Đặc điểm của nhu cầu:
+ Các nhu cầu có tầm quan trọng lớn và cần thiết vì chúng là những
yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người. Vì vậy con người
luôn thực hiện các hoạt động để thoả mãn nhu cầu của mình.
+ Nếu được thoả mãn, nó sẽ đem lại cảm giác thoải mái, an toàn, đảm
bảo cho sự phát triển của cá nhân.
+ Nếu không được thoả mãn sẽ gây ra những căng thẳng dẫn đến đe
doạ sự an toàn và tồn tại của con người.
Trạng thái hụt hẫng: Khi nhu cầu không được đáp ứng làm nảy sinh
tình trạng mất thăng bằng ngay trong bản thân cá nhân hay với quan hệ bên
ngoài, khiến cá nhân phải làm cái gì đó hoặc là đấu tranh hoặc là bỏ chạy.
Chẳng hạn trẻ bỏ gia đình theo bạn bè do bầu không khí gia đình căng thẳng,
cha mẹ xung đột. Vì thế nhu cầu được yêu thương của trẻ không được thoả
mãn dẫn tới tình trạng trẻ bị hụt hẫng.
Trạng thái bị tước đoạt: Khi sự thoả mãn nhu cầu bị cản trở và kéo dài
sẽ đe doạ nghiêm trọng sự tồn tại và an toàn của cá nhân, dẫn tới nhiễu loạn
trong ứng xử. Chẳng hạn: Trẻ bị tước đoạt mối quan hệ tình yêu thương của
mẹ khi bố mẹ chia tay nhau. Khi đó trong trẻ xuất hiện cảm giác không an
toàn vì thế luôn có mối lo sợ ám ảnh. (Theo Freud, đó sẽ là một trong những
nguyên nhân của các rối nhiễu tâm lý sau này) và sẽ mất đi cơ hội học hỏi
cách cho và nhận tình thương từ người khác. Đây cũng chính là nguyên nhân
của những khó khăn tạo lập mối quan hệ xã hội về sau này ở trẻ.
+ Quá trình thoả mãn nhu cầu con người thường gặp phải trạng thái
mâu thuẫn tâm lý – đó là sự trái ngược giữa các rung động ham muốn bên
trong hoặc bên ngoài, mâu thuẫn giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu nhóm.
+ Mọi hành vi của con người đều nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Vì
vậy nhân viên xã hội cần phân biệt nhu cầu cảm nhận (nhu cầu được xác
định và xuất phát từ bản thân đối tượng) và nhu cầu cần ở đối tượng (là nhu
cầu được nhận định bởi những người khác).
+ Nhu cầu được sinh ra, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển
của con người.
+ Mỗi người đều có những nhu cầu chung nhưng lại được đáp ứng
theo những phương thức khác nhau bởi sự tác động của các yếu tố văn hoá,
lịch sử truyền thống, kinh tế, giới tính, sự phân biệt giai cấp.
2. CÁC QUAN ĐIỂM GIÁ TRỊ, NGUYÊN TẮC VÀ QUY CHUẨN ĐẠO ĐỨC NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
2.1. Các quan điểm giá trị trong ngành Công tác Xã hội (Social Work Values)
Trong một lĩnh vực nào đó, một vấn đề nào đó thường tồn tại các quan
điểm giá trị xã hội, giá trị nghề nghiệp và giá trị cá nhân. Những quan điểm
này luôn chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường như: ý thức hệ chính trị,
nền kinh tế, văn hoá xã hội và đặc điểm tâm lý – xã hội của những nhóm
người, cộng đồng tại địa phương đó.
Quan điểm ngành nghề không tách khỏi quan điểm xã hội, nó chịu sự
chi phối của các quan điểm, hệ giá trị – chuẩn mực xã hội thông qua các văn
bản pháp lý, các chính sách và các nguồn kinh phí cho các hoạt động chức
năng của ngành nhằm bảo đảm tính hợp lý, tính đúng đắn của ngành.
Đối với Công tác Xã hội, quan điểm nghề nghiệp, quan điểm giá trị của
ngành và quan điểm giá trị cá nhân được thể hiện trên những khía cạnh sau:
– Quan điểm nghề nghiệp của ngành là những quan điểm về con
người, về mục đích cho sự an sinh của họ và những biện pháp đi đến mục
đích đó.
– Quan điểm giá trị trong ngành (hiện nay đang được áp dụng ở một số
nước đang phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Thuỵ Điển,…) là: + Mỗi người có
một nét riêng biệt, vì vậy cần có sự tôn trọng tính cách của họ khi làm việc;
+ Là một con người nên ai cũng mong muốn có những hỗ trợ cần thiết
để ứng phó với những khó khăn và trở ngại của cuộc sống;
+ Mọi người đều có quyền tự do, miễn sao tự do đó không xâm phạm
vào quyền của những người khác. Vì thế khi làm việc, cần thiết phải có những
tính khích lệ tự chủ, tự quyết ở mỗi người (khả năng tự thân vận động).
Theo một số quốc gia khác, triết lý giá trị của Công tác Xã hội là:
+ Cá nhân là mối quan tâm hàng đầu của xã hội;
+ Tôn trọng phẩm giá của mỗi con người;
+ Cá nhân và xã hội luôn có mối liên hệ mật thiết;
+ Cá nhân và xã hội luôn phải có trách nhiệm với nhau;
+ Tôn trọng những đặc điểm riêng biệt của mỗi cá nhân;
+ Cá nhân phải được thể hiện tiềm năng của mình trong việc tham gia
các quá trình xã hội;
+ Xã hội tạo điều kiện để khắc phục trở ngại cho từng cá nhân.
Ở đây đòi hỏi cá nhân và xã hội phải hiểu, phải thống nhất các quan
điểm trên và có trách nhiệm với nhau. Xã hội cần tạo cơ hội và điều kiện
thuận lợi cho mọi người được tham gia và đóng góp, ngược lại mọi cá nhân
cũng phải có trách nhiệm tham gia, đóng góp một cách tích cực trở lại trong
quá trình thực hiện.
– Quan điểm giá trị cá nhân trong ngành:
Mỗi cá nhân tuy có một cá tính riêng biệt với những quan điểm khác
nhau, song ở trong ngành họ phải nhận định rõ quan điểm của mình và nhất
quán quan điểm của ngành khi làm việc với đối tượng. Điều đó có nghĩa họ
phải hiểu rõ được mục đích của hoạt động giúp đỡ, đối tượng cần được giúp
đỡ nhận định đúng những nguyên nhân chính gây nên những thiếu hụt các
chức năng của đối tượng và phương pháp làm việc với đối tượng,…
2.2. Các nguyên tắc trong ngành Công tác Xã hội (Social Work Principles)
Cũng như nhiều ngành khoa học khác, những người làm Công tác Xã
hội phải tuân thủ một số nguyên tắc đã được đề ra trong khi thực hiện các
chức năng hàng ngày của mình. Các nguyên tắc này định hướng các hoạt
động của người nhân viên xã hội trong quá trình giúp đỡ đối tượng. Sau đây
là một số nguyên tắc căn bản thường gặp trong các hoạt động của ngành
Công tác Xã hội:
+ Nhân viên xã hội cần chú ý tới các mặt tích cực và khả năng tiềm
tàng của đối tượng, nhấn mạnh vào đó để tạo niềm tin, hy vọng và giải quyết
các khó khăn một cách tích cực, có hiệu quả do mọi người đều có khả năng
phân tích vấn đề và đưa ra những giải pháp cho những tình huống khó khăn
của họ;
+ Nhân viên xã hội cần cố gắng tạo cơ hội tối đa để giúp đối tượng tăng
thêm niềm tin, tính độc lập, tự chủ để họ giải quyết khó khăn của mình một
cách hiệu quả. Ở đây nhân viên xã hội cùng đối tượng nỗ lực làm việc để giải
quyết vấn đề một cách tốt nhất;
+ Nhân viên xã hội phải có trách nhiệm tạo ra một số thay đổi trong môi
trường của họ nhằm hạn chế những tác động bất lợi cho họ. Ở đây, gia đình,
cộng đồng và nơi làm việc của đối tượng chính là những môi trường mà
người nhân viên xã hội hoạt động để giúp đỡ đối tượng giải quyết các vấn đề
khó khăn của họ;
+ Nhân viên xã hội cần hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nếu họ có xu
hướng muốn học hỏi những hành vi, niềm tin mới một cách hợp lý (cho dù
trên thực tế chúng ta đều biết việc thay đổi hành vi và niềm tin vốn có ở con
người, đặc biệt là những người lớn tuổi không phải là dễ).
+ Nhân viên xã hội cần giúp đỡ đối tượng bộc lộ những tiềm năng và
sức mạnh của họ (do các vấn đề nảy sinh thường thiếu nguồn hỗ trợ, thiếu kỹ
năng đối phó với các vấn đề), từ đó giúp họ sử dụng những năng lực này một
cách thích hợp trong giải quyết vấn đề.
+ Nhân viên xã hội cần giúp đối tượng nhận ra được một điều: những
khó khăn thường là tất yếu của cuộc sống con người. Vượt qua được những
điều này, con người chắc chắn sẽ trưởng thành hơn do học được những kỹ
năng và các chiến lược đã được sử dụng trong khi giải quyết vấn đề.
+ Nhân viên xã hội cần giúp đối tượng nhận thấy và hiểu được nguyên
nhân sâu xa của vấn đề mà họ hành động do các hành vi đó thường mang
tính định hướng bởi các mục tiêu và mục đích đã được xác định – những điều
mà nhiều khi họ không ý thức được.
+ Nhân viên xã hội cần chấp nhận đối tượng của mình ngay cả khi
những quan điểm giá trị, thái độ, niềm tin và cách sống của họ trái ngược với
mình, thậm chí có khi mình hiểu được chính các quan điểm trên là nguyên
nhân gây trở ngại cho họ. Khi đó không nên áp đặt quan điểm của mình đối
với họ, không khiển trách và đổ lỗi cho họ mà cần giúp họ hiểu được các giá
trị và niềm tin đó đã tác động thế nào tới vấn đề của họ, từ đó giúp họ tìm ra
giải pháp giải quyết vấn đề.
+ Do mỗi người có những cá tính riêng, có thể chất và tinh thần khác
nhau cùng với vốn kinh nghiệm sống, niềm tin, các giá trị, các mục đích, ước
vọng, hành vi riêng,… mà nhân viên xã hội cần chấp nhận đối tượng của
mình. Đặt mình vào địa vị của họ để hiểu và thông cảm với họ (điều này
không đồng nghĩa với việc đồng ý với những việc làm sai trái của đối tượng).
Cần cố gắng giúp đỡ đối tượng nhận rõ những đúng sai, tăng cường sự tự
chủ và khả năng xác định có ý thức của họ, làm cho các kinh nghiệm trong
cuộc sống của họ trở nên có giá trị và được khẳng định.
2.3. Những quy chuẩn đạo đức trong ngành Công tác Xã hội (Social Work Ethics)
Quy chuẩn đạo đức là sự tập hợp các nguyên tắc, quy định, các giá trị
chuẩn mực mà nhân viên xã hội cần phải tuân thủ. Nó mô tả các trách nhiệm
và hành vi cần có ở người nhân viên xã hội với đối tượng, với cộng đồng, với
bạn đồng nghiệp và cơ quan tổ chức nơi họ làm việc. Đây chính là những
điều quy định nhằm xác định cách thực hành của người nhân viên xã hội,
đồng thời đóng vai trò như một sự định hướng ngăn chặn những hành vi lệch
lạc với chuẩn mực đạo đức.
Quy chuẩn đạo đức không phải là những nguyên tắc hoàn chỉnh cho
một hành vi cụ thể của nhân viên xã hội trong mọi tình huống và mọi hoàn
cảnh. Nó chỉ là những quy định chung, đặc biệt đối với các tình huống có tính
phức tạp.
Mục đích của quy chuẩn đạo đức ở đây là:
+ Quy định những hành vi của nhân viên xã hội;
+ Xác định những quyền hạn và trách nhiệm của người nhân viên xã
hội khi thực hiện công việc;
+ Bảo vệ đối tượng khỏi sự lạm dụng của nhân viên xã hội thiếu lương
tâm và trách nhiệm.
Đối với nhân viên Công tác Xã hội, tuỳ đặc thù mỗi quốc gia mà có
những quy định đạo đức cho nhân viên Công tác Xã hội khác nhau, tuy nhiên
nó vẫn không tách khỏi quy chuẩn đạo đức của ngành. Chẳng hạn:
Quy định đạo đức của Hiệp hội các Nhân viên xã hội Mỹ (năm 1990):
1) Tư cách;
2) Tài năng và sự phát triển nghề;
3) Tinh thần phục vụ;
4) Tính chính trực;
5) Học hỏi và nghiên cứu;
6) Quan tâm hàng đầu đến khách hàng;
7) Quyền và đặc quyền của khách hàng;
8) Giữ bí mật và riêng tư của khách hàng;
9) Tiền công;
10) Tôn trọng, bình đẳng và lịch sự;
11) Đối với khách hàng của đồng nghiệp tôn trọng, lịch sự;
12) Gắn bó với cơ quan;
13) Giữ gìn tính liêm chính của nghề;
14) Phục vụ cộng đồng;
15) Trau dồi kiến thức;
16) Tăng cường lợi ích chung của xã hội.
Quy định đạo đức của nhân viên Công tác Xã hội Philippin:
1) Phẩm giá con người;
2) Quyền và trách nhiệm của con người;
3) Trách nhiệm của chính quyền và nhân dân;
4) Nghèo đói không phải là định mệnh hay một sự trừng phạt;
5) Nguyện dấn thân.
2.3.1. Vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của nhân viên xã hội
Nhân viên xã hội là những người có ý thức, tay nghề vững chắc (kỹ
năng chuyên môn). Họ là cầu nối giữa đối tượng với các nguồn hỗ trợ của xã
hội và là người có trách nhiệm kết nối những việc làm của các phòng ban có
liên hệ với đối tượng để có được sự thống nhất nhằm hiệu quả tối đa nguồn
hỗ trợ cho các đối tượng. Chính vì thế nhân viên xã hội có vai trò trách nhiệm
rất lớn trong hoạt động sự nghiệp của mình. Dưới đây là vai trò và trách
nhiệm của người nhân viên xã hội:
– Về sự phù hợp: Nhân viên xã hội cần phải có phẩm chất, năng lực và
trách nhiệm phù hợp với công việc.
– Về ý thức rèn luyện khả năng và nâng cao trình độ chuyên môn: Nhân
viên xã hội cần có ý thức phấn đấu để có kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động
chức năng chuyên môn của mình.
– Về tinh thần phục vụ: Nhân viên xã hội cần phải coi trách nhiệm phục
vụ là hàng đầu trong Công tác Xã hội. Phải phục vụ đối tượng hết mình.
Những niềm vui, sự thoả mãn của đối tượng chính là mối quan tâm hàng đầu
của nhân viên xã hội.
– Về tính liêm chính trong nghề nghiệp: Nhân viên xã hội ngoài việc cần
phải tránh những ảnh hưởng, sức ép từ bên ngoài tới công tác thực hành
chuyên môn của mình còn không được lạm dụng vị trí của mình để lợi dụng
người khác nhằm thoả mãn nhu cầu riêng.
– Về việc nâng cao kiến thức: Nhân viên xã hội làm công tác nghiên
cứu cần có những hiểu biết rõ về yêu cầu trình độ học vấn cần có, đó là học
hỏi và nghiên cứu.
– Vai trò của nhân viên Công tác Xã hội:
+ Người tạo khả năng (Enabler): Giúp khách hàng có khả năng đương
đầu với tình huống hay áp lực quá độ. Nhân viên Công tác Xã hội truyền tải
sự hy vọng, giảm bớt sự cản trở và mâu thuẫn, phát hiện và quản lý cảm xúc
nhận diện và củng cố năng lực thân chủ cũng như khả năng tiếp cận xã hội,
chia nhỏ vấn đề thành từng phần để giải quyết nó dễ dàng hơn, duy trì sự tập
trung, mục tiêu, ý nghĩa của việc đạt được chúng (Barker, 1995).
+ Người hoà giải (Mediator): Giúp thân chủ giải quyết những tranh luận,
xung đột tầm cỡ vi mô, trung mô hay liên quan tới hệ thống vĩ mô. Ở mức độ
vĩ mô, người hoà giải giúp những tiểu hệ thống khác nhau trong cộng đồng
hay một cộng đồng và vài hệ thống khác, tạo ra sự khác biệt. Ở mức độ vi mô
và trung mô, người hoà giải giúp đỡ ở những lĩnh vực như ly hôn hay giám hộ
trẻ em. nhân viên Công tác Xã hội duy trì sự trung lập và không ủng hộ đảng
phái trong cuộc tranh luận (Zastrov and Kirst – Ashman, 1997).
+ Người hợp nhất/ điều phối (Integrator/coordinator): Hợp nhất là quá
trình nhân viên Công tác Xã hội đưa những phần riêng lẻ đến cùng nhau hợp
thành một tổng thế thống nhất. Một nhân viên Công tác Xã hội có thể thực
hiện chức năng như một người hợp nhất hay điều phối theo những cách có
thể, sắp xếp trật tự từ việc biện hộ và nhận diện sự điều phối các cơ hội để
cung cấp sự hỗ trợ chuyên môn có liên quan trực tiếp đến sự phát triển và thi
hành các sự liên kết với các dịch vụ (Yessian and Broskowski, 1983, p. 184).
+ Người quản lý (Manager): Quản lý trong Công tác Xã hội liên quan tới
việc nhân viên Công tác Xã hội có những mức độ, quyền hạn, trách nhiệm
hành chính với các tổ chức xã hội để yêu cầu những nguồn lực và ứng dụng
chúng trong triển khai chương trình, điều phối hoạt động hướng đến đạt được
những thành tựu từ những mục tiêu đã được thiết lập và quản lý, tiếp cận, tạo
sự thay đổi cần thiết trong quá trình xây dựng nhằm nâng cao tính hiệu quả
và tính khả thi (Barker, 1995, p.8).
+ Người giáo dục (Educator): Vai trò giáo dục liên quan đến việc cung
cấp thông tin, dạy các kỹ năng cho khách hàng và các hệ thống khác. Để trở
thành người giáo dục hiệu quả, nhân viên Công tác Xã hội đầu tiên phải có
kiến thức. Thêm vào đó, nhân viên Công tác Xã hội phải là người giao tiếp để
thông tin được truyền tải rõ ràng và dễ hiểu với khách hàng hay hệ thống vĩ
mô (Zastrov and Kirst – Ashman, 1 997).
+ Người phân tích/ lượng giá (Analyst/Evaluator): Nhân viên Công tác
Xã hội với nền tảng kiến thức lớn về sự đa dạng của chức năng hệ thống có
thể phân tích hay lượng giá xem chương trình hay hệ thống làm việc tốt ra
sao. Họ còn có thể lượng giá hiệu quả sự can thiệp của họ (Zastrov and Kirst
–Ashman, 1997).
+ Người môi giới (Broker): Một người môi giới có thể giúp kết nối các
khách hàng (cá nhân, nhóm, tổ chức hay cộng đồng) với những dịch vụ hay
nguồn lực cộng đồng. Một người môi giới cũng giúp đặt những phần khác
nhau của cộng đồng trong mối quan hệ với một phần khác để dẫn đến những
lợi ích lẫn nhau giữa họ (Barker, 1995, p.43). Trong hệ thống vi mô và trung
mô, nó đòi hỏi nhân viên công tác xã hội phải quen thuộc với các dịch vụ cộng
đồng, có kiến thức hiểu biết chung về yêu cầu, thích hợp và nhạy cảm với
những nhu cầu của khách hàng. (Zastrov and Kirst – Ashman, 1997).
+ Người tạo điều kiện thuận lợi (Facilitator): Một người tạo điều kiện
thuận lợi là người mà phục vụ như một trưởng nhóm cho những kinh nghiệm
nhóm (Barker, 1995, p.129). Nhóm có thể là một nhóm trị liệu gia đình một
nhóm nhiệm vụ, một nhóm đồng đẳng, một nhóm giáo dục, một nhóm tự giúp
hay một nhóm với vài trọng tâm khác. Vai trò của người tạo điều kiện thuận
lợi có thể áp dụng với thực hành vĩ mô. Trong bối cảnh đó, một người tạo
điều kiện thuận lợi gánh lấy trách nhiệm tiến hành sự thay đổi nỗ lực bằng
cách đưa con người đến với nhau và kết nối với cộng đồng, lập hệ thống các
hoạt động và nguồn lực, cung cấp chúng với sự tiếp cận lời khuyên chuyên
môn.
+ Người đàm phán (Negotiator): Một người đàm phán đại diện cho một
tổ chức, một nhóm hay một cá nhân mà đang cố gắng đạt được điều gì đó từ
nhóm hay hệ thống khác. Phần nào nó giống với điều đình, đàm phán liên
quan tới việc tìm ra vị trí trung gian mà mọi phía có thể tồn tại với việc đạt
được sự nhất trí khi nào có thể. Tuy nhiên, không giống như người điều đình
người mà đóng một vai trò trung lập, người đàm phán liên kết rõ ràng giữa họ
với một trong những phía liên quan (Zastrov and Kirst – Ashman, 1 997).
+ Người biện hộ (Advocate): Người biện hộ là người thay mặt cho cá
nhân nhóm hay cộng đồng đứng lên đấu tranh, vận động bảo vệ quyền lợi và
nhân phẩm cho cá nhân, nhóm hay cộng đồng đó nhằm đạt được mục tiêu:
duy trì sự công bằng xã hội (Mickelson, 1995, p.95). Vai trò biện hộ liên quan
tới việc hướng tới và phát ngôn đại diện cho hệ thống khách hàng.
Vai trò biện hộ là một trong những vai trò quan trọng nhất của nhân
viên Công tác Xã hội. Họ có thể làm bất chấp những khó khăn có thể xảy ra
(Zastrov and Kirst – Ashman, 1997).
Nhiệm vụ của nhân viên xã hội:
+ Trợ giúp con người giải quyết vấn đề khó khăn;
+ Nối kết các cá nhân, nhóm, cộng đồng – những người gặp khó khăn
với các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội;
+ Thúc đẩy cung cấp dịch vụ trợ giúp và nguồn lực hiệu quả;
+ Phát triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
Ngoài ra nhân viên xã hội cần phải lưu ý các điểm sau:
+ Cần lưu tâm trước tiên tới tác dụng của kết quả nghiên cứu đối với
đối tượng trong thiết kế kế hoạch nghiên cứu của mình.
+ Trong nghiên cứu cần để đối tượng của mình tự nguyện tham gia.
Những vấn đề họ từ chối thì không nên đòi hỏi họ.
+ Những thông tin từ đối tượng tham gia cần được giữ bí mật. Chỉ có
thể cung cấp cho những nhà chuyên môn khác nếu họ có liên quan trực tiếp
tới vấn đề này.
2.3.2. Trách nhiệm của nhân viên xã hội đối với các đối tượng
– Coi đối tượng là mối quan tâm hàng đầu: Trách nhiệm của nhân viên
xã hội trước hết là nhằm vào các đối tượng của họ. Phải phục vụ hết khả
năng của mình, coi quyền lợi thiết thực của đối tượng là mối quan tâm của
mình. Tuy nhiên trong một số tình huống buộc người nhân viên xã hội phải có
sự lựa chọn giữa quyền lợi của đối tượng với quyền lợi của tổ chức quản lý
nơi mình đang công tác. Chẳng hạn: đối với nhân viên xã hội đang làm trong
các bệnh viện với tình huống khó xử: nhu cầu của bệnh nhân – đối tượng cần
phải được nằm lại trong bệnh viện do bệnh chưa thuyên giảm nhiều với kinh
phí hạn hẹp của bệnh viện.
– Phát huy tối đa khả năng tự quyết của đối tượng: Nhân viên xã hội
cần giúp đối tượng tự lập và có khả năng tự quyết từ đó chính họ sẽ đưa ra
các giải pháp khác nhau hoặc chọn một quyết định đúng đắn, có cơ sở. Đối
với những tình huống khó xử chẳng hạn: Đối tượng quyết định chọn giải pháp
tự vẫn thì buộc nhân viên xã hội phải dùng những nguyên tắc pháp luật làm
kim chỉ nam đưa ra những quyết định cho hành động của mình.
– Tôn trọng những vấn đề riêng tư của đối tượng: Nhân viên xã hội cần
giữ bí mật tất cả các thông tin về đối tượng, không nên chia sẻ với người
khác trừ phi được đối tượng đồng ý. Nhân viên xã hội cũng cần cho đối tượng
biết những quyền này (được giữ bí mật, chia sẻ thông tin nếu cần thiết của
mình. Nhân viên xã hội có thể chia sẻ các thông tin bí mật của đối tượng với
người khác – những người có trách nhiệm liên quan nếu như đối tượng đang
gặp nguy hiểm hoặc sẽ gây nguy hiểm cho mình và cho người khác.
– Bảo đảm giá cả (kinh phí phục vụ) với mức phải chăng so với công
việc giúp và khả năng chi trả của đối tượng: Nhân viên xã hội cần bảo đảm
phẩm chất, tính cách nghề nghiệp, thái độ ứng xử phù hợp với mọi đối tượng
ngay cả khi những đối tượng không trả thù lao cho việc phục vụ.
2.3.3. Trách nhiệm của nhân viên xã hội đối với các bạn đồng nghiệp
– Tôn trọng, bình đẳng: Nhân viên xã hội cần tôn trọng, bình đẳng, tin
tưởng đồng nghiệp và giúp họ nâng cao khả năng chuyên môn. Nếu có
những sự cố, cần dàn xếp vấn đề vào buổi thảo luận chuyên môn.
– Thái độ với các đối tượng của đồng nghiệp: Nhân viên xã hội cần thảo
luận với đồng nghiệp về trường hợp và quyền lợi thiết thực của đối tượng mà
mình sẽ tiếp nhận để có thể giúp đỡ một cách tích cực khi có trách nhiệm liên
đới với các đối tượng của đồng nghiệp.
2.3.4. Trách nhiệm của nhân viên xã hội đối với cơ quan tổ chức của họ
Nhân viên xã hội cần trung thành với nhiệm vụ uỷ thác của các tổ chức
sử dụng họ. Thực hiện tốt những giao phó của các cơ quan, tổ chức nơi
người nhân viên xã hội nhận nhiệm vụ. Điều đó có nghĩa nhân viên xã hội cần
giúp các cơ quan tổ chức của họ hoàn thành và duy trì việc chuyển giao các
dịch vụ tới các đối tượng. Tuy nhiên họ cũng cần có các ý kiến khách quan
không đảm bảo được lợi ích cho đối tượng, bên cạnh đó, nhân viên xã hội
cần giúp cơ quan sử dụng các nguồn hỗ trợ một cách hợp lý.
2.3.5. Trách nhiệm của nhân viên xã hội đối với ngành Công tác Xã hội
– Đảm bảo tính liêm chính cho ngành: Nhân viên xã hội cần dành thời
gian cho việc trau dồi phẩm chất và đạo đức, tính liêm chính trong ngành
Công tác Xã hội. Cần hiểu rõ chính sách liên quan đến ngành, nâng cao và
ủng hộ các quan điểm giá trị, quy định đạo đức, vốn kiến thức và sứ mệnh
của ngành. Cần giúp nhau tiến bộ và ngăn ngừa những hành vi không phù
hợp, trái với đạo đức nghề nghiệp.
– Phục vụ cộng đồng: Nhân viên xã hội cần tăng cường hoạt động
chuyên môn thông qua các dịch vụ Công tác Xã hội, phục vụ tập thể và cộng
đồng. Việc cung cấp các dịch vụ cho toàn dân là một mục đích chủ yếu của
các hoạt động Công tác Xã hội.
– Trau dồi kiến thức: Nhân viên xã hội cần có trách nhiệm xác định,
nâng cao và sử dụng đầy đủ với kiến thức cho công tác chuyên môn. Cần cố
gắng phấn đấu hoặc chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức của mình với đồng
nghiệp nhằm tăng cường kiến thức, kinh nghiệm thực hành trong Công tác Xã
hội.
2.3.6. Trách nhiệm của nhân viên xã hội đối với xã hội
Tăng cường lợi ích chung của toàn xã hội: Nhân viên xã hội cần lưu ý
tới lợi ích chung của toàn xã hội thông qua việc giúp đỡ những đối tượng
đang cần sự hỗ trợ và những dịch vụ cần thiết cho họ. Nhân viên xã hội cần
bảo vệ những quyền lợi và sự tự do của con người vì trên thực tế, khi làm
việc chuyên môn với một nhóm người nhân viên xã hội cũng có thể ảnh
hưởng tới sự thay đổi ở một mức độ vĩ mô. Nhân viên xã hội cần có trách
nhiệm nâng cao sự hiểu biết của cộng đồng về các chính sách và huy động
họ tham gia vào các chính sách đó.
3. PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI3.1. Phương pháp Công tác Xã hội cá nhân
– Là phương pháp mà đối tượng tác động vào là nhóm, là mối tương
quan giữa các nhóm viên, là mục đích, bầu không khí sinh hoạt nhóm.
– Là phương pháp giúp đỡ từng cá nhân thông qua mối quan hệ một –
một nhằm giúp những người có vấn đề trong việc thực hiện các chức năng xã
hội, những vấn đề liên quan đến vai trò xã hội và đến việc thực hiện vai trò ấy
– Sau khi lượng giá phải nhìn về tương lai gần để phục vụ cho việc
hình thành một số kế hoạch sâu hơn trong tiến trình Công tác Xã hội cá nhân.
3.1.1. Các thành phần của Công tác Xã hội cá nhân
– Con người (thân chủ và nhân viên xã hội):
Trong Công tác Xã hội cá nhân, con người là một trong những thành
phần quan trọng nhất để tiến hành hoạt động này. Để làm việc có hiệu quả
trong các quan hệ tâm lý xã hội giữa nhân viên xã hội với thân chủ đồng thời
cũng để hiểu được những vấn đề mà thân chủ cần trợ giúp. Điều không thể
thiếu đòi hỏi ở người nhân viên Công tác Xã hội là phải có những kiến thức
cơ bản về con người (quá trình hình thành tâm sinh lý, sự phát triển con
người,…) và mối quan hệ giữa con người với môi trường. Điều đó có nghĩa
các thuyết về tâm lý, xã hội ở đây đóng một vai trò vô cùng quan trọng với tư
cách là công cụ đắc lực giúp nhân viên xã hội hiểu rõ về mục đích, động cơ
hành vi,… của thân chủ, từ đó mới có thể đi sâu vào tìm hiểu, thảo luận, phát
huy những tiềm tàng, khả năng sẵn có của thân chủ, đưa ra những dự báo về
điều có thể xảy ra trong tương lai gần đối với thân chủ, giúp họ nhìn nhận vấn
đề một cách khách quan, đưa ra những giải pháp, những cách thức hành
động giải quyết vấn đề một cách hợp lý nhất để rồi chính họ sẽ có những
quyết định trong giải quyết các vấn đề của mình. Ở đây, nhân viên xã hội phối
hợp với hoạt động của bản thân thân chủ thông qua các yếu tố cảm nhận suy
nghĩ và hành động để cùng đi tới mục đích chung. Đó là tạo ra sự thay đổi về
tình huống hoặc đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho thân chủ. Đây cũng
chính là nguyên tắc cốt yếu trong Công tác Xã hội cá nhân khi giải quyết vấn
đề của người nhân viên xã hội.
– Vấn đề của thân chủ (Problem):
Vấn đề thân chủ gặp phải thường là những vấn đề xảy ra hàng ngày
trong đời sống nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của chính họ
mà bản thân họ không tìm được lối thoát. Đó là những vấn đề thuộc về tâm
sinh lý; về môi trường sống hoặc cũng có thể là cả hai vấn đề trên. Những
vấn đề này cho dù bắt nguồn từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng
khiến cho thân chủ gặp khó khăn trong việc thực hiện chức năng của mình.
Chính vì thế buộc thân chủ phải nhờ tới sự can thiệp giúp đỡ của nhân viên
Công tác Xã hội.
– Cơ quan giải quyết các vấn đề (place):
Cơ quan giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực Công tác Xã hội cá nhân
là nơi cung cấp các dịch vụ và tài nguyên bên ngoài mà cá nhân hoặc gia
đình không có. Nhân viên xã hội chính là bộ mặt của cơ quan. Có nhiều tiêu
chí khác nhau để phân loại các loại cơ quan như:
Dựa trên nguồn tài trợ: Đó là các cơ quan thuộc chính phủ, ngoài chính
phủ. Tổ chức chính phủ được chính quyền tài trợ và các tổ chức ngoài (phi)
chính phủ gây quỹ từ các chiến dịch hay từ những sự đỡ đầu tài chính khác.
Một số ít là cơ quan bán công vì họ có nhận được một phần tài trợ từ chính
phủ mặc dù nguồn tài chính là từ bên ngoài.
Dưa theo sự chủ quản có thể phân thành: Cơ quan chính phủ (được
phép hoạt động từ chính phủ, trên cơ sở luật lệ) và cơ quan tư nhân (được
cấp quyền hạn từ một nhóm công dân có quan tâm hay một cộng đồng hoặc
lĩnh vực tư nhân)
Cũng có thể phân loại theo chức năng: Đó là những cơ quan đa năng
với nhiều bộ phận (các bộ) nhưng cũng có những cơ quan chỉ có một chức
năng duy nhất (chủ yếu là các tổ chức phi chính phủ).
Có những cơ quan mà mục đích chủ yếu là Công tác Xã hội và những
cơ quan có mục đích khác nhưng có tuyển dụng nhân viên xã hội như lĩnh
vực giáo dục, sức khoẻ, nhà ở, toà án,… ở đây Công tác Xã hội hỗ trợ, bổ
sung cho chức năng chuyên biệt.
3.1.2. Tiến trình giải quyết vấn đề
Tiến trình Công tác Xã hội cá nhân là một chuỗi các hoạt động tương
tác giữa nhân viên xã hội với thân chủ để cùng nhau giải quyết vấn đề. Trong
quá trình này, nhân viên xã hội dùng chính các quan điểm giá trị, kiến thức
kinh nghiệm, kỹ năng của mình để tham gia vào việc giải quyết các vấn đề
của đối tượng và với hỗ trợ đó, đối tượng cũng huy động hết khả năng, sức
lực của mình để giải quyết những khó khăn đang mắc phải. Như vậy, tiến
trình Công tác Xã hội là hoạt động mà trong đó bao gồm các bước chính như:
Tiếp cận thân chủ, xác định vấn đề, thu thập dữ liệu, chuẩn đoán, lên kế
hoạch trị liệu, trị liệu, lượng giá. Các bước này có thể nối tiếp nhau– nghĩa là
kết thúc bước này thì mới được chuyển sang bước khác, song cũng có thể
đan xen giữa các bước dựa trên kết quả của hoạt động lượng giá.
– Tiếp cận thân chủ:
Tiếp cận thân chủ là bước đầu tiên có thể thân chủ tự tìm đến với nhân
viên xã hội khi họ gặp vấn đề và cần sự giúp đỡ, song trong một chừng mực
nào đó cũng có thể chính nhân viên xã hội lại là người tìm đến với thân chủ
trong phạm vi hoạt động theo chức năng của mình. Ở bước tiếp cận này nếu
nhân viên xã hội tạo được ấn tượng tốt với thân chủ thì những bước sau sẽ
thuận tiện hơn.
– Xác định vấn đề:
Sau khi tiếp cận với thân chủ, nhân viên xã hội phải xác định được vấn
đề thân chủ đang gặp khó khăn để tìm ra hướng giải quyết. Đây là giai đoạn
đầu tiên của quá trình Công tác Xã hội cá nhân, nó đóng vai trò quan trọng
trong cả quá trình và kết quả của nó là sự định hướng cho tất cả các bước
tiếp theo bởi nếu nhận diện đúng sẽ dẫn tới chuẩn đoán và cách trị liệu đúng.
Vì thế có thể coi đây là giai đoạn hoạt động chuẩn đoán, phân tích và thẩm
định. Giai đoạn này bao gồm:
+ Thu thập các dữ liệu, thông tin liên quan để tìm hiểu hoàn cảnh và
vấn đề;
+ Phân tích các thông tin, dữ liệu (về tính chất, đặc điểm của vấn đề,
phân tích nguyên nhân, yếu tố tác động, mức độ trầm trọng,…);
+ Kết hợp ghi chép, lưu giữ những thông tin cần thiết về đối tượng và
vấn đề
Đồng thời cần xem xét một số yếu tố khi nhận diện vấn đề:
+ Tìm hiểu các vấn đề đó;
+ Xác định tất cả các vấn đề có liên quan;
+ Xếp đặt chúng theo cấu trúc có mối quan hệ tương tác nhau.
– Xác định các nhu cầu, yếu tố bảo vệ, rủi ro, nguy cơ, rào cản trong
việc thực hiện nhu cầu của đối tượng:
+ Xác định các vấn đề, yếu tố điều kiện giải quyết;
+ Xác định nguồn hỗ trợ và tiềm năng của đối tượng;
+ Xác định các hạn chế, yếu tố ảnh hưởng có thể phát sinh.
– Thu thập dữ liệu:
Nhân viên xã hội có thể dựa vào 4 nguồn tin:
+ Chính thân chủ là nguồn tin trực tiếp (lời kể, hành vi, cử chỉ, ngôn
ngữ,…);
+ Những người có quan hệ thân thiết như gia đình, bạn bè thân, đồng
nghiệp, hàng xóm,…;
+ Tài liệu, biên bản, hồ sơ về thân chủ có liên quan đến vấn đề;
+ Các trắc nghiệm tâm lý để xác định chức năng xã hội, nguyên nhân,
thông tin tiềm ẩn mà quan sát bình thường không có được của thân chủ.
Mục đích của thu thập dữ kiện này giúp nhân viên xã hội hiểu được
hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân của vấn đề từ đó lên một kế hoạch trị liệu.
– Chẩn đoán:
Gồm 3 bước: chẩn đoán, phân tích, thẩm định. Chẩn đoán là xem xét
tính chất của vấn đề và những trục trặc của nó trên cơ sở các dữ liệu thu
nhận được. Phân tích là chỉ ra nguyên nhân hay nhân tố dẫn đến khó khăn.
Thẩm định là xem có thể giảm bớt những khó khăn này thông qua những
năng lực nào của thân chủ, sự thẩm định mang tính chất tâm lý xã hội vì đây
là trọng tâm của Công tác Xã hội cá nhân. Khi hoàn thành cuộc thẩm định tình
huống có vấn đề và cá nhân liên quan trong đó, nhân viên xã hội làm ngay
một kế hoạch trị liệu cho dù đây mới chỉ là kế hoạch tạm thời.
– Lên kế hoạch trị liệu:
Trong giai đoạn này nhân viên xã hội sẽ xác định mục đích trị liệu và
các mục tiêu cụ thể để đạt được mục đích. Nhiệm vụ của hoạt động này:
+ Xác định nội dung và mục tiêu phải đạt được: phải làm gì, đi đến đâu,
phải đạt được gì, tạo được sự thay đổi gì;
+ Xác định hoạt động này cho ai, nhóm nào và ở đâu;
+ Xác định cách thức, phương sách để đi đến mục tiêu: làm như thế
nào;
+ Xác định rõ vai trò người thực hiện: ai là người thực hiện (nhân viên
xã hội hoặc thân chủ);
+ Xác định thời gian, lịch trình thực hiện: khi nào, bao lâu;
Một số điều chú ý:
+ Kế hoạch phải xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu cho đối tượng;
+ Kế hoạch phải được đối tượng bàn bạc và chấp thuận;
+ Luôn có sự đánh giá lại, xem xét lại vấn đề trong quá trình xây dựng
kế hoạch để có những phương án thích hợp;
+ Cần chú ý tới đặc điểm môi trường cộng đồng, nền văn hoá, phong
tục tập quán nơi nhân viên xã hội thực hiện kế hoạch;
+ Xem xét đặc điểm cấu trúc tổ chức, chức năng cơ quan tổ chức thực
hiện;
+ Ghi chép lại những kế hoạch hành động để có thể lượng giá sự hữu
hiệu của kế hoạch trong quá trình thực hiện;
+ Đòi hỏi nhân viên xã hội có những hiểu biết và kỹ năng chuyên môn
như: kỹ năng xác định nội dung và mục tiêu hành động, kỹ năng lựa chọn
những phương sách tối ưu, đỡ tốn kém nhất về thời gian, tiền của, sức lực và
kỹ năng hiểu biết dự đoán các yếu tố ảnh hưởng, các yếu tố tiềm năng hữu
ích.
Sự lựa chọn mục đích cuối cùng phụ thuộc vào:
+ Điều thân chủ mong muốn;
+ Điều mà nhân viên xã hội cho là cần thiết và khả thi;
+ Các yếu tố liên hệ như: các dịch vụ, tài nguyên cần thiết.
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn cách trị liệu: tính chất vấn đề;
các tài nguyên cần thiết và có được; động cơ và năng lực của thân chủ. Có
thể còn có các nhân tố khác ảnh hưởng đến việc lựa chọn là các giá trị của
thân chủ.
– Trị liệu:
Là quá trình mà nhân viên xã hội cùng đối tượng thực thi các hoạt động
cụ thể để đi đến mục tiêu đặt ra. Mục tiêu của trị liệu bao gồm:
+ Thay đổi, cải thiện hoàn cảnh của thân chủ bằng cách đưa các tài
nguyên như giúp đỡ tài chính hoặc thay đổi môi trường xã hội gần gũi;
+ Giúp cá nhân thay đổi thái độ, hành vi trong hoàn cảnh trước mắt;
+ Thực hiện cả hai cùng lúc.
Nhân viên xã hội có thể sử dụng tiếp cận hay liên kết theo các cách
sau:
+ Cung cấp dịch vụ cụ thể;
+ Tham vấn: là một loại vấn đàm mà nhân viên xã hội thực hiện với
thân chủ nhằm vận động sự tham gia ý thức của thân chủ trong việc xử lý các
vấn đề xã hội và sự thích nghi xã hội. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của thân
chủ với tiến trình trị liệu sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cá nhân như sự tự
ý thức về bản thân, các tài nguyên, các cơ hội có thể có,…
Công cụ của trị liệu là các mối quan hệ nhân viên xã hội – thân chủ, vấn
đàm, triển khai các tài nguyên xã hội, vật chất, áp dụng chính sách và tài
nguyên của cơ quan xã hội; nối kết với các tài nguyên của cơ quan và cộng
đồng khác.
Phương pháp trị liệu nên dựa trên gia đình của thân chủ. Họ có thể
đóng góp những nhân tố, điều kiện giúp tiến trình trị liệu diễn ra tốt hơn.
– Lượng giá:
Là việc xem xét lại toàn bộ những bộ phận trong tiến trình Công tác Xã
hội cá nhân để thẩm định kết quả. Lượng giá là một hoạt động liên tục, đồng
thời, dù nó là một bộ phận của tiến trình Công tác Xã hội cá nhân và chỉ tìm
được mục tiêu, biểu hiện đầy đủ sau một khoảng thời gian hoạt động.
Khi các cuộc lượng giá định kỳ cho thấy có sự tiến bộ hoặc không thay
đổi thì tiếp tục điều trị và ngược lại thì phải thay đổi phương pháp trị liệu.
Kết thúc quá trình trị liệu là khi vấn đề của thân chủ đã được giải quyết
hoặc sự hiện diện của nhân viên xã hội không còn cần thiết hoặc không thay
đổi được vấn đề.
Trong những trường hợp can thiệp trong cơn khủng hoảng thì không
cần kéo dài thời gian, ngược lại những vấn đề liên quan đến tâm lý xã hội thì
cần nhiều thời gian hơn.
SƠ ĐỒ TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
1. TIẾP CẬN THÂN CHỦ – Vấn đàm
– Quan sát
– Tham khảo tài liệu, hồ sơ
2. NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ
Vấn đề hiện tại của thân chủ là gì? Ai là thân chủ trọng tâm?
– Trắc nghiệm
– Vấn đàm
– Quan sát
– Tham khảo tài liệu
– Vãng gia
3. THU THẬP THÔNG TIN
Thông tin tổng quát: tiểu sử gia đình, học vấn, kinh tế xã hội,
…
– Vấn đề xuất hiện như thế nào, nguyên nhân? Ai tham gia?
* Nguồn thông tin:
– Thân chủ
- Người thân gia đình
Hành vi có vấn đề xuất hiện như thế nào, ảnh hưởng cá
nhân ra sao?
– Thân chủ đã làm gì để đối phó? Phản ứng và hỗ trợ của
những người liên quan?
– Nhu cầu thực sự của những người liên quan là gì?
– Thân chủ được lợi gì nếu vấn đề được giải quyết
– Khả năng và hạn chế của thân chủ để giải quyết vấn đề?
– Người dân cộng đồng
– Bạn bè nhà trường
– Nơi chuyển đến
– Mạng lưới kết nối
– Hồ sơ
4. ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN
– Đánh giá các vấn đề mà thân chủ thấy cần giải quyết, mức
độ của vấn đề, mối quan hệ của vấn đề với cuộc sống của
thân chủ.
- Xác định vấn đề ưu tiên.
– Những người có quan hệ trong vấn đề hiện tại.
– Giải pháp mà thân chủ đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
– Tiềm năng của thân chủ và các nguồn hỗ trợ.
Trao đổi thống nhất giữa nhân
viên công tác xã hội và thân chủ,
tôn trọng quyền tham gia và tự
quyết của thân chủ.
5. LẬP KẾ HOẠCH
– Xác định mục tiêu:
1) Có đáp ứng nhu cầu của thân chủ không? 2) Có cần thiết?
3) Có mang tinh khả thi? 4) Có dựa trên cơ sở nguồn lực hiện
có không?
– Lựa chọn giải pháp:
+ Cân nhắc các yếu tố, điều kiện cho phép thực hiện các giá
trị của cá nhân, nhóm, cộng đồng.
+ Đưa ra các giải pháp thay thế.
+ Yếu tố thời gian, địa điểm, tài chính, nhân lực
+ Các hoạt động của nhân viên
công tác xã hội có thể là hỗ trợ,
tư vấn, hoà giải, biện hộ, giáo
dục…
6. TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH
– Trợ giúp và huy động nguồn trợ giúp về mặt vật chất.
– Có thể trợ giúp thay đổi môi trường, cải thiện quan hệ XH.
– Trợ giúp thay đổi thái độ, hành vi, tâm trạng.
+ Có thể thực hiện trong suốt
quá trình trợ giúp.
+ “Nới lỏng” mối quan hệ.
7. LƯỢNG GIÁ VÀ KẾT THÚC
– Mục đích, mục tiêu có đạt được không? Mức độ ra sao?
– Hoạt động nào dẫn đến kết quả mong muốn, hoạt động nào
không? Vì sao?
– Ai tham gia hoạt động? Mức độ tham gia?
– Phương pháp nào được sử dụng? Kết quả?
– Nguồn hỗ trợ nào được sử dụng, sử dụng như thế nào?
+ Cùng thân chủ xem xét, đánh
giá toàn bộ công việc, nhấn
mạnh những thành tích thân chủ
đạt được.
– Đặc điểm Công tác Xã hội nhóm:
+ Lấy hoạt động nhóm làm nơi thoả mãn nhu cầu của nhóm;
+ Đối tượng tác động là mối quan hệ tương tác trong nhóm từ đó giúp
nhóm tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề;
+ Lấy ảnh hưởng của nhóm để tạo sự đổi mới thái độ và hành vi của cá
nhân thông qua hoạt động nhóm;
+ Công tác Xã hội nhóm thường được sử dụng khi: Có vấn đề nảy sinh
giữa hai hay nhiều người, khi một số người có vấn đề, nhu cầu giống nhau
tạo môi trường để trao đổi thông tin, kinh nghiệm,…
Các loại nhóm thông thường được sử dụng trong Công tác Xã hội:
+ Nhóm giải trí: Mục đích là cung cấp những hoạt động vui chơi giải trí
có mục đích cho các thành viên. Qua đó các thành viên giúp nhau xây dựng
những tích cách cần thiết. Ví dụ: Sinh hoạt hè cho thanh thiếu niên.
+ Nhóm giáo dục: Nhằm truyền đạt những kỹ năng, kiến thức trong một
lĩnh vực nào đó như: Kiến thức làm cha mẹ, kiến thức chăn nuôi bò,…
+ Nhóm trợ giúp: Là những nhóm nhỏ có tính chất tình nguyện với mục
đích hỗ trợ qua lại lẫn nhau để hoàn thành mục đích cụ thể. Nhóm này được
thành lập bởi những người cùng cảnh ngộ, tập hợp lại để giúp nhau cùng đáp
ứng những nhu cầu chung, giúp nhau vượt qua những khó khăn của cuộc
sống và tạo ra những thay đổi cá nhân hay xã hội cần thiết. Việc giúp đỡ này
là một phần thưởng tâm lý, niềm an ủi, động viên với họ,…
Người điều động trong nhóm là một trong những thành viên có cùng
cảnh ngộ. Vai trò của nhân viên xã hội là tạo điều kiện để tập hợp và hoạt
động thông qua sinh hoạt nhóm.
+ Nhóm trị liệu: Mục đích là giúp cá nhân chia sẻ những cảm xúc với
các thành viên khác từ đó hiểu rõ vấn đề tình cảm của mình và đưa ra chiến
lược giải quyết các vấn đề đang mắc phải.
Người điều động trong nhóm đòi hỏi phải có hiểu biết về cơ chế tâm
sinh lý, tâm lý xã hội, hành vi con người, có kỹ năng sử dụng năng động
nhóm để hỗ trợ tinh thần, khuyến khích những thay đổi hành vi, có kỹ năng tư
vấn nhóm,… Cần sử dụng các kỹ thuật trị liệu đồng bộ để giúp đối tượng giải
quyết những vấn đề tình cảm cá nhân.
+ Nhóm với mục đích xã hội hoá: Mục đích phát triển nhân cách, giáo
dục con người là để tăng cường khả năng quan hệ xã hội cá nhân, từ đó thay
đổi thái độ hành vi của cá nhân theo hướng tích cực. Ví dụ: để nâng cao khả
năng xã hội, tính tự tin, khả năng đề ra kế hoạch cho tương lai,…
Người điều động nhóm cần có kỹ năng và hiểu biết nhất định về hành vi
con người và cách tác động qua nhóm. Bởi ở đây, khía cạnh tâm lý xã hội
được quan tâm nhiều chứ không chỉ chú trọng đến dạng kỹ năng.
+ Nhóm trợ giúp: Mục đích tìm điều kiện để cá nhân nhìn nhận về bản
thân cũng như tăng cường khả năng đồng cảm với người khác nhằm phát
triển các mối quan hệ tương tác có hiệu quả hơn.
Loại nhóm này đòi hỏi sự thân mật, tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau giữa
các thành viên trong nhóm để giúp nhau hiểu được tại sao họ cư xử và hành
động như vậy.
Nhân viên xã hội thường sử dụng loại hình này để cùng nhau chia sẻ
kinh nghiệm, những cảm nhận trong các trường hợp khó xử (loại này thường
được dùng nhiều trong huấn luyện các chủ tư vấn chuyên nghiệp, giúp họ
tăng cường khả năng đồng cảm khi làm việc với đối tượng).
– Tiến trình Công tác Xã hội nhóm: Trong Công tác Xã hội nhóm, nhân
viên xã hội lấy tiến trình sinh hoạt làm công cụ để giúp đỡ đối tượng. Công cụ
giúp đỡ là các hoạt động nhóm, mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân
trong nhóm.
Tiến trình công tác nhóm, nhân viên xã hội cần phải xác định rõ: Để giải
quyết vấn đề gì? Tại sao dùng phương pháp nhóm? Cho ai? Đối tượng như
thế nào? Đặc điểm nhu cầu đối tượng của cá nhân là gì? Mục tiêu của sinh
hoạt nhóm là gì? Mục tiêu của cá nhân là gì? Cơ cấu hình thức nhóm là gì?…
+ Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị
Xác định hiện trạng vấn đề: Nhận diện, đánh giá tình hình, tìm hiểu.
Xây dựng nhóm: Xác định kiểu lãnh đạo, xác định thành phần nhóm
dựa trên đặc điểm, tuổi, giới tính, xác định dạng nhóm (nhóm mở hay nhóm
đóng: có thể thay đổi người trong quá trình sinh hoạt hay không); xác định
quy mô của nhóm (số lượng người cho hoạt động nhóm: khoảng 5–7 người là
tốt nhất)
Xây dựng mục đích hoạt động của nhóm: Chọn mục đích và thường
hạn định để đạt được mục đích, cân nhắc các yếu tố đảm bảo tính khả thi của
mục đích; mục đích phải rõ ràng, cụ thể – phải trả lời câu hỏi làm gì và tại
sao.
Xác định thời gian, địa điểm hoạt động của nhóm: Trong bao lâu và họp
thường xuyên như thế nào và tại đâu.
+ Giai đoạn 2: Tiến hành sinh hoạt nhóm
Triển khai hoạt động và can thiệp nhóm, tiến hành các hoạt động theo
kế hoạch và tạo các can thiệp theo mục tiêu.
Vai trò nhân viên xã hội: Tạo ảnh hưởng hỗ trợ về chương trình, theo
dõi tiến trình, điều hoà.
Mục tiêu được nhóm am hiểu và chấp nhận, từ đó đi vào nề nếp.
Chú ý các nguyên tắc, nội quy, những mong muốn, giá trị, mục đích
được thể hiện rõ, có ảnh hưởng lớn tới các quan hệ của nhóm.
Bắt đầu sinh hoạt: Giới thiệu thành viên, mục đích cá nhân, mục đích
nhóm, nội quy nhóm, đưa ra chương trình hành động, phân công tổ chức
trong nhóm, dự trù chương trình sinh hoạt, thời gian, địa điểm,…
Tiến hành các buổi sinh hoạt tiếp theo như kế hoạch: Theo dõi, đánh
giá và can thiệp. Có hai nhiệm vụ cơ bản nhất của người điều động nhóm
(thường là nhân viên xã hội): Đánh giá một cách chính xác hoạt động cá
nhân, nhóm và đưa ra can thiệp một cách hiệu quả để điều chỉnh những quá
trình phát triển của cá nhân và nhóm.
Một số vấn đề cần phải đánh giá như:
* Đánh giá hành vi cá nhân trong nhóm;
* Đánh giá vai trò của cá nhân trong nhóm;
* Đánh giá quá trình phát triển nhóm;
* Đánh giá mối quan hệ trong nhóm.
+ Giai đoạn 3: Giai đoạn cuối – đánh giá và kết thúc.
Kết thúc hoạt động của nhóm có thể do nhiều nguyên nhân:
* Hoạt động của nhóm đã đạt được mục đích;
* Hoặc thất bại không đạt được mục đích;
* Hoặc sự tiếp tục sẽ gây những điều không thuận lợi cho một hay vài
thành viên của nhóm.
– Vai trò của nhân viên xã hội trong hoạt động nhóm:
+ Tìm hiểu các đặc điểm, nhu cầu, khó khăn, thuận lợi của các cá nhân
trong nhóm;
+ Hỗ trợ các nhóm viên xây dựng chương trình hoạt động, xác định
mục tiêu phù hợp và thu hút được sự tham gia của nhiều người vào trong
hoạt động nhóm;
+ Điều phối các hoạt động của nhóm;
+ Xác định rõ vai trò của mình: làm xúc tác hay lãnh đạo;
+ Tìm hiểu các quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên để tạo bầu
không khí thoải mái, thân thiện,… của các cơ cấu hình thức và phi hình thức;
+ Theo dõi diễn biến hoạt động của nhóm có thu hút mọi thành viên hay
chỉ một vài người.
3.3. Phát triển cộng đồng
Là một phương pháp (hay tiến trình) qua đó một cộng đồng (địa bàn,
dân cư, quần thể, một tập hợp người có nhu cầu và mối quan hệ chung) dựa
vào tiềm năng của chính mình, với sự hỗ trợ từ bên ngoài để tự thay đổi, tự
nâng cao năng lực nội tại, nhằm giải quyết các vấn đề và tiến tới sự phát triển
bền vững.
Các hoạt động công tác trong phát triển cộng đồng:
– Nhận diện, xác định những nhu cầu và vấn đề cần giải quyết của
cộng đồng. Tuy nhiên cần chú ý một số điểm sau:
+ Bối cảnh, tiểu sử và nhân khẩu cộng đồng: được thành lập bao lâu,
có đặc điểm gì, nhân khẩu trong cộng đồng;
+ Hệ thống cơ cấu kinh tế: Hệ thống lao động (bao nhiêu người, loại
nghề, mức thu nhập,…), hệ thống kinh doanh, sản xuất dịch vụ (các loại
thương mại, mức sản xuất trung bình, lãi xuất,…);
+ Hệ thống chính trị gồm những yếu tố như: cơ cấu tổ chức chính
quyền và chức năng các cá nhân lãnh đạo hiện đang nắm quyền, hệ thống
bảo vệ an ninh, công lý, dịch vụ cộng đồng;
+ Hệ thống giáo dục: cơ cấu tổ chức các trường, kinh phí cho ngành
giáo dục, tổng số học sinh, giáo viên, nhân viên, phương pháp và nội dung
giáo dục liên quan đến vấn đề hiện tại – mối quan hệ giữa hệ thống và những
nhà giáo với cộng đồng;
+ Hệ thống văn hoá xã hội: mục đích hoạt động về ảnh hưởng của các
đoàn thể tôn giáo, xã hội, văn hoá, dân tộc. Các cá nhân có vai trò chính yếu
trong các hoạt động văn hoá;
+ Hệ thống dịch vụ tâm lý xã hội gồm: dịch vụ y tế, tâm lý và xã hội. Các
dịch vụ này có thể trực thuộc trong hệ thống chính phủ hoặc phi chính phủ;
+ Các đặc điểm khác về cộng đồng: Những vấn đề trong cuộc sống
cộng đồng có liên hệ đến vấn đề hiện tại. Những phương án giải quyết vấn đề
đã được ứng dụng và hiệu quả của những phương án đó. Các mối quan hệ
trong cộng đồng có ảnh hưởng đến vấn đề hiện tại. Cần nhận định một số
đặc điểm sau của cộng đồng như:
* Trong cộng đồng đã có những mối quan hệ chủ chốt liên quan đến
vấn đề hiện tại không?;
* Cộng đồng có sự tự chủ tính cộng đồng không hay phụ thuộc vào
những yếu tố và nguồn hỗ trợ bên ngoài;
* Cộng đồng có tiềm năng để ứng phó với hoàn cảnh khó khăn hoặc
vấn đề khó khăn không?;
* Trong cộng đồng có các quyền quyết định có thể từ nhiều nguồn khác
hay chỉ tập trung vào một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào?;
* Các thành viên trong cộng đồng có thực tâm đóng góp cho lợi ích tập
thể hay chỉ lo cho quyền lợi của riêng mình?;
* Trong cộng đồng có nhiều quan điểm và lối sống giống nhau;
* Khi có sự khác biệt, mâu thuẫn hoặc xung đột thì cộng đồng thường
có những biện pháp gì, có thừa nhận hay không chấp nhận sự mâu thuẫn.
+ Phân tích những nhu cầu và vấn đề;
+ Xác định những phương án có thể giải quyết nhu cầu và vấn đề;
+ Xác định những tiềm năng hoặc nguồn hỗ trợ từ bên trong và ngoài
cộng đồng để có thể giải quyết vấn đề;
+ Nhận định những cá nhân hoặc nhóm cộng đồng có khả năng lãnh
đạo hoặc điều động trong quá trình phát triển;
+ Xác định những hoạt động cần thiết của cá nhân và của tập thể để
giải quyết vấn đề;
+ Huy động những nguồn hỗ trợ và các thành viên để tiến hành kế
hoạch hành động trong cộng đồng;
+ Tiến hành những hoạt động phát triển theo kế hoạch;
+ Đánh giá những hoạt động phát triển và bổ sung kế hoạch hành động
tuỳ theo sự tiến triển và hiệu quả của các hoạt động. Quá trình đánh giá nên
chú ý những yếu tố:
* Mục đích của các hoạt động;
* Đối tượng là ai?;
* Vấn đề đang nổi cộm nhiều nhất ở lĩnh vực nào;
* Chính sách nào liên quan hướng tới vấn đề đó;
* Người nào ủng hộ chính sách đó;
* Chính sách đó đã tạo những ảnh hưởng sức mạnh như thế nào;
* Trong cộng đồng đã sử dụng những tiềm năng nào;
* Sự hỗ trợ về tài chính có bao nhiêu, các hoạt động gì để có được hỗ
trợ;
* Các điều kiện, hạn chế của sự hỗ trợ từ bên ngoài;
* Phương pháp đối với vấn đề có thiết thực và hiệu quả thế nào;
* Các hoạt động đã tạo ra những ảnh hưởng như thế nào đối với cộng
đồng;
* Các hoạt động đã có lợi cho ai;
* Làm thế nào để tiếp tục hoặc mở rộng các nguồn hỗ trợ, tài trợ;
* Phản hồi về sự cải tiến chương trình;
* Cơ chế đánh giá;
* Hiệu quả trên phương diện cán bộ và tổ chức.
Những nguyên tắc hành động để định hướng tiến trình phát triển:
+ Hoạt động tối đa sự tham gia của toàn thể cộng đồng bởi các thành
viên trong cộng đồng đều có mối quan hệ lẫn nhau và mối quan tâm của họ
cũng liên hệ trực tiếp với những diễn biến trong tập thể cộng đồng;
+ Huy động tối đa các nguồn hỗ trợ bên trong hoặc bên ngoài cộng
đồng;
+ Những vấn đề trong hoạt động phát triển phải có tầm quan trọng
trong hiện tại đối với cộng đồng thì mới kêu gọi được sự tham gia của nhiều
người, nhất là những vấn đề chính yếu và sát thực của các thành viên;
+ Đặt vấn đề cụ thể và tạo điều kiện để các thành viên có thể tự huy
động chính họ suy nghĩ phân tích vấn đề và lựa chọn những phương án thích
hợp.
+ Các hoạt động phát triển là một tiến trình có sự hợp tác và liên kết vì
mỗi người có tiềm năng riêng cần có sự hợp tác để chia sẻ sáng kiến, kinh
nghiệm, phương cách hoạt động.
+ Luôn có sự đánh giá nhận định trong các hoạt động nhằm mục đích
tạo cơ hội và điều kiện cho các thành viên trong cộng đồng suy nghĩ về
những nhu cầu và nguyên nhân vấn đề của họ. Sự nhận định này sẽ giúp họ
hiểu vấn đề rõ hơn và các phương án giải quyết sẽ sát thực và hiệu quả hơn.
+ Quyền lựa chọn và sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng
là một mục tiêu quan trọng trong tiến trình phát triển, nhất là khi có nhiều
nguồn hỗ trợ từ bên ngoài hoặc khi nhân viên xã hội cảm thấy trình độ của
thành viên thấp.
+ Vai trò của những người có khả năng lãnh đạo trong cộng đồng.
Những người này không nhất thiết phải là người đang có quyền hoặc đang
giữ chức vụ lãnh đạo – họ có thể là một thành viên nhưng có đặc điểm, khả
năng đặc biệt có thể giúp trong việc giải quyết vấn đề hiện tại.
– Các quá trình quyết định vấn đề trong cộng đồng:
Trong phát triển cộng đồng, nhân viên xã hội cần nhận định các quyết
định của cộng đồng và những cá nhân có sức mạnh hoặc quyền ảnh hưởng
đến các quyết định. Sau đây là một số phương cách đi đến quyết định:
+ Không có quyết định: ngay cả khi không có quyết định cụ thể cũng là
một cách quyết định.
+ Một người quyết định: chỉ có một người có quyền và có thể đi đến
quyết định nhanh chóng.
+ Theo nhau quyết định: Khi có một đề nghị và nhiều người hưởng ứng
những quyết định này thường xảy ra nhanh chóng nhưng thiếu phân tích và
suy xét.
+ Quyết định của một băng nhóm: Loại quá trình này có sự phân tích và
chuẩn bị cho các quyết định nhưng không được sự tham gia của toàn thể
nhóm mà chỉ phụ thuộc vào một số ít người. Trường hợp này có nhiều chia rẽ
dễ xảy ra mâu thuẫn giữa các thành viên trong tập thể.
+ Quyết định bởi một số ít cá nhân: Trong trường hợp này một số ít
người có nhiều quyền hoặc tiếng nói trong tập thể thuyết phục mọi người theo
ý quyết định của họ. Quyết định có thể được phân tích trong tập thể nhưng
thường theo quan điểm của một số ít người.
+ Quyết định theo dân chủ: Trong quá trình này mọi người tập trung
thảo luận về vấn đề, phân tích tình hình và bầu cử để đi đến quyết định. Loại
quyết định này phản ánh ý kiến của số đông trong tập thể. Vì thế thường
được sử dụng trong các hoạt động phát triển cộng đồng.
+ Thống nhất miễn cưỡng: Cả tập thể thảo luận và suy diễn có sự
thống nhất.
+ Hoà hợp và thống nhất: Cả nhóm thảo luận, phân tích, bổ sung và
hoà hợp những phương án của tất cả các thành viên có ý kiến về vấn đề và
thống nhất với sự đồng ý của mọi người trong tập thể.
– Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quyết định vấn đề
+ Sợ hậu quả của các quyết định;
+ Có những mâu thuẫn cho cá nhân vì trung thành với hai nhóm quan
hệ đang đối nghịch nhau;
+ Có những khác biệt mâu thuẫn và xung đột giữa những cá nhân trong
nhóm;
+ Mỗi cá nhân trong nhóm có mục tiêu riêng biệt, không theo mục tiêu
tập thể;
+ Nhóm bị giới hạn bởi những thủ tục và quá trình cồng kềnh không linh
hoạt, không thích hợp với những hoạt động phát triển hiện tại;
+ Thiếu lãnh đạo giỏi, có khả năng và tầm nhìn sâu rộng;
+ Có nhiều mối quan tâm đối nghịch giữa các thành viên trong nhóm.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2
1. Các quan điểm giá trị và nguyên tắc hoạt động của Công tác Xã hội?
Hãy vận dụng những quan điểm giá trị, nguyên tắc trong Công tác Xã hội vào
tìm hiểu hoạt động của một mô hình can thiệp trong thực tế mà anh (chị) đã
biết.
2. Hãy phân tích và bình luận một số quy chuẩn đạo đức mà anh (chị)
quan tâm.
3. Các phương pháp trong Công tác Xã hội. Mối tương quan giữa các
phương pháp của Công tác Xã hội.
4. Hãy phân tích các lý thuyết: phân tâm học, hiện sinh, trị liệu, hành vi,
học hỏi xã hội, hệ thống và vận dụng chúng vào phân tích một trường hợp cụ
thể trong đời sống xã hội mà anh (chị) quan tâm.
5. Trình bày các khái niệm thường sử dụng trong Công tác Xã hội.
Chương 3. CÁC NHÓM ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
1. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN1.1. Khái niệm
“Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” là một khái niệm hiện nay vẫn
còn nhiều tranh cãi. Có người cho rằng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn là những trẻ nghèo, những trẻ bị rơi vào những hoàn cảnh éo le như mồ
côi, bị khuyết tật, phải lang thang, tham gia lao động nặng, bị xâm hại tình
dục, trẻ hư, bị nghiện ngập ma tuý. Ý kiến khác lại cho rằng, thống nhất với
những đối tượng trẻ em đã nêu ra ở quan niệm trên, riêng đối với trẻ nghiện
và trẻ em hư là những đối tượng không thể đưa vào nhóm những trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn được do trẻ em nghiện ma tuý thường là con trong các
gia đình không thật khó khăn về kinh tế, thậm chí nhiều gia đình có mức sống
giàu và trẻ em mắc nghiện là do chúng tự hư hỏng chứ không phải do những
điều kiện khách quan đưa lại như trẻ mồ côi, tàn tật. Mọi ý kiến khác lại mở
rộng quan niệm này hơn cho rằng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
phải kể cả trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ sống trong vùng sâu, vùng xa. Đồng ý
với các ý kiến trên nhưng một quan niệm khác lại cho rằng, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn phải bao hàm cả trẻ bị ngược đãi.
Theo UNICEP – 1994: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là
những trẻ em sống trong hoàn cảnh vì một lý do nào đó mà việc đáp ứng các
nhu cầu cơ bản của các em bị hạn chế.
Theo quy định của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn phải là những trẻ em dưới 16 tuổi do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà bị:
– Rơi vào hoàn cảnh éo le, khó khăn khác thường so với trẻ em khác.
– Cần đến sự giúp đỡ đặc biệt (về vật chất, tinh thần hoặc cả vật chất
lẫn tinh thần) mới có điều kiện phát triển bình thường như mọi trẻ em khác.
Những hoàn cảnh éo le, khó khăn đó bao gồm: bị trở thành mồ côi, bị bỏ rơi
không nơi nương tựa, đẻ ra không biết cha mẹ mình là ai,… được gọi chung
là trẻ mồ côi.
– Bị tàn tật (khuyết tật) về thể chất hoặc tâm thần như: động kinh, thiểu
năng trí tuệ, điếc, câm, mù, tàn tật vận động,… (do bẩm sinh, bệnh tật hoặc
một tai nạn bất thường nào đó).
– Phải lang thang (có thể bỏ hẳn nhà đi theo thời vụ hoặc hàng ngày đi,
tối vẫn về gia đình) để kiếm sống không ổn định tại một nơi nào đó trên
đường phố, trong các đô thị, khu du lịch,…
– Phải lao động làm thuê với những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm, làm quá sức ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường cả về thể chất
lẫn tinh thần.
– Bị xâm hại tình dục như bị hiếp dâm, cưỡng dâm, dùng thân thể mình
phục vụ cho việc quay phim, chụp ảnh khiêu dâm,…
– Bị nghiện ma tuý bằng bất cứ hình thức nào: hút, hít, tiêm chích,…
– Bị trở thành trẻ em hư có hành vi pháp luật như: trộm cắp, cờ bạc,
quấy rối, gây mất trật tự công cộng,…
Như vậy, nói tới trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là không chỉ
nhấn mạnh tới khó khăn về kinh tế mà phải chú trọng tới những khó khăn về
tinh thần của trẻ, những hậu quả do hoàn cảnh éo le trẻ gặp phải, những hậu
quả gây ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của chúng. Điều quan trọng
nhất ở đây, đó phải là những trẻ em bị ảnh hưởng do hậu quả tệ nạn xã hội
mà chúng chính là nạn nhân.
Trên thực tế ở Việt Nam, trẻ em thuộc nhóm “Trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn” bao gồm các nhóm sau đây:
– Trẻ em lang thang đường phố (street children);
– Trẻ bị lạm dụng tình dục (sufually exploited children);
– Trẻ thiệt thòi (disadvantaged children) gồm: trẻ sống ở những vùng
hẻo lánh, thiếu điều kiện giáo dục, y tế sức khoẻ cần thiết,…;
– Trẻ khuyết tật (disabled children);
– Trẻ mồ côi (orphaned children);
– Trẻ phạm pháp (children in confiet with law);
– Trẻ lao động sớm (working children);
– Trẻ bị ngược đãi.
Sự phân loại trên đây chỉ mang tính chất lượng tương đối vì một đối
tượng có thể lại thuộc vào một vài nhóm.
1.2. Nhu cầu cơ bản chung của trẻ em
– Nhu cầu vật chất: bao gồm thực phẩm, nước uống, nơi ở, điều kiện
chăm sóc vệ sinh sức khỏe. Các yếu tố này đảm bảo cho sự phát triển thể lực
của các em.
– Nhu cầu về mái ấm gia đình: đó là tình thương yêu cha mẹ, ông bà,
anh chị em,… Gia đình là chỗ dựa vật chất và tinh thần, là sự an toàn tuyệt
đối của trẻ, là cái nôi đầu tiên xã hội hoá trẻ em, từ đây các em học cách làm
người, học cách “cho” và “nhận” tình thương yêu nhân loại, học cách gánh
vác trách nhiệm của cha mẹ, anh chị,… Mối quan hệ sau này ờ tuổi trưởng
thành có thành công hay không là phụ thuộc nhiều vào chất lượng mối quan
hệ trong gia đình của trẻ.
– Nhu cầu được vui chơi, học hành, được phát triển trí tuệ: hoạt động
vui chơi cũng như học hành sẽ giúp trẻ trải nghiệm cuộc sống, ít trí tuệ và tích
luỹ những hiểu biết, kiến thức cho mai sau.
– Nhu cầu được thừa nhận, được tôn trọng: việc thừa nhận những đặc
điểm, tính cách dễ làm tăng tính tự tin ở trẻ, những lời khen, những công
nhận thành tích ở trẻ sẽ làm tăng nghị lực của trẻ, giúp trẻ vượt qua những
khó khăn mỗi khi vấp phải.
1.3. Một nhóm trẻ em dễ bị tổn thương ở Việt Nam
1.3.1.Trẻ em bị ngược đãi
– Khái niệm:
Ngược đãi trẻ là khái niệm dùng để chỉ tình trạng trẻ không chỉ bị đánh
đập về thể xác, về mặt tình dục (tát, đánh gây thương tích,…), về mặt tâm lý
(chửi, sỉ nhục, doạ dẫm, lăng mạ,…) mà còn bị người lớn làm ngơ và không
quan tâm chăm sóc (cả về vật chất lẫn tinh thần). Vì thế trẻ em bị ngược đãi
là những trẻ bị đánh đập về thể xác, bị hành hạ về tâm lý, bị lạm dụng tình
dục, không được chăm sóc dẫn đến những ảnh hưởng về sự phát triển của
trẻ,…
Bên cạnh khái niệm trẻ em bị ngược đãi còn có khái niệm trẻ em gặp
nguy hiểm. Đây là khái niệm dùng để chỉ tập hợp những đứa trẻ bị ngược đãi
và trẻ có nguy cơ bị ngược đãi.
Như vậy, tất cả những gì làm tổn thương đến sự tự trọng của trẻ ở bất
kỳ mức độ nào, làm chúng mất đi cảm giác an toàn, làm hại cả về thể xác lẫn
tinh thần, làm chậm sự phát triển, toàn vẹn của đứa trẻ và làm ảnh hưởng
đến tương lai phát triển làm người lớn sau này của trẻ – đều bị coi là ngược
đãi trẻ.
– Nguyên nhân dẫn tới tình trạng ngược đãi:
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này: về phía người mẹ, văn
hoá, xã hội. Có nhiều yếu tố không phải là chủ ý, tiềm thức, có những trường
hợp trẻ bị ngược đãi do chính bố mẹ trước kia đã phải trải qua, có những
trường hợp bị chấn thương từ ông bà, bố mẹ – nay xuất hiện ở trẻ (những
chấn thương do chiến tranh), có những trường hợp trẻ giống người nào đó
(theo phong tục tập quán), có trẻ được sinh ra không do sự mong muốn của
cha mẹ (con hoang), có trường hợp trẻ khó nuôi dẫn tới tình trạng mệt mỏi khi
chăm sóc ở cha mẹ cũng dễ dẫn tới ngược đãi,…
– Hậu quả:
+ Về thể xác: bị mù, gãy xương, bầm dập cơ thể, có “hội chứng nằm
bệnh viện”.
+ Về tâm lý: có những triệu chứng ngắn hạn như bị trầm cảm (buồn
rầu, không vồ vập, thái độ vô cảm), triệu chứng lâu dài: rối loạn về tâm lý,
chậm hiểu biết, một số trẻ không phân biệt được quen, lạ, một số trẻ có hành
vi đối kháng xã hội rồi sau đó lâm vào tình trạng làm trái pháp luật, nghiện
ngập ma tuý.
– Công tác dự phòng:
Là một công việc tập thể, đòi hỏi người nhân viên xã hội phải phát hiện
được ngay những trẻ có nguy cơ và có giải pháp kịp thời.
1.3.2. Trẻ em lang thang
– Khái niệm:
Ở một số nước phát triển trên thế giới, trẻ em lang thang được gọi là
“street children”. Còn ở Việt Nam, chưa có một sự thống nhất về khái niệm
này. Nhiều người cho rằng, trẻ em lang thang là những trẻ em đường phố, là
những trẻ em bụi đời. Nhưng thực ra những khái niệm này có sự khác nhau:
+ Trẻ em đường phố: là những trẻ em lang thang trên hè phố.
+ Trẻ em bụi đời: là những trẻ em lâm vào cảnh sống lang thang không
nhà cửa, không nghề nghiệp, là những trẻ em vừa có dấu hiệu của trẻ em
lang thang, trẻ em đường phố lại vừa có dấu hiệu của trẻ em hư.
+ Theo Từ điển Tiếng Việt: Trẻ em lang thang là những trẻ em đến chỗ
này rồi bỏ đi chỗ khác, không dừng lại ở một chỗ nào nhất định. Nhìn chung,
ta có thể phân biệt được trẻ em lang thang với trẻ em bình thường ở chỗ: trẻ
em lang thang là những trẻ em kiếm sống hàng ngày trên các đường phố và
có cuộc sống cơ bản sinh hoạt cũng diễn ra trên đường phố, kể cả khi sống
với gia đình hoặc không sống với gia đình. Bao gồm ba nhóm sau:
* Nhóm trẻ em bị bỏ rơi không còn gia đình, bố mẹ và người thân thích
khác. Những trẻ em này sống theo băng nhóm và hàng ngày ăn ngủ trên
đường phố.
* Nhóm trẻ em hàng ngày kiếm sống trên đường phố nhưng vẫn còn
liên hệ với gia đình.
* Nhóm trẻ em ban ngày lang thang trên đường phố và tối lại trở về với
gia đình.
– Đặc điểm của trẻ em lang thang:
Đặc điểm trong lối sống của trẻ em lang thang: Trẻ em lang thang là đối
tượng mà chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu vì các em luôn luôn có
cuộc sống sinh hoạt cơ bản diễn ra ở trên đường phố. Tuy về hoàn cảnh,
mục đích kiếm sống của các trẻ em lang thang có khác nhau nhưng tựu
chung lại, các em cũng có những đặc điểm chung nhất trong lối sống, phong
cách sống, quan niệm sống – những điểm mà người ta dễ nhận biết đó là:
+ Về hoạt động lao động:
Các em là những người phải lăn lộn với cuộc sống để có thể tồn tại,
phần lớn các em không phân biệt những hành động hợp pháp hay phi pháp
miễn là có ăn và có tiền. Những công việc mà các em làm là những công việc
thuộc loại giản đơn nhưng lại dễ kiếm tiền, phù hợp với hoàn cảnh của các
em, nhất là không cần phải có vốn hoặc nếu có thì rất ít, chủ yếu dựa vào sức
lao động của các em là chính: đánh giày, bán báo, nhặt phế liệu, bán hàng
rong,… thậm chí có khi đi ăn xin và cả móc túi nữa. Số liệu điều tra 8/2007
của Uỷ ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em Thành phố Hà Nội cho thấy 82% số trẻ
lang thang khi được hỏi đều nói: việc lang thang trên đường phố là cơ hội để
các em kiếm tiền sinh sống. Ở các độ tuổi khác nhau, mức độ tham gia vào
các công việc kiếm sống cũng khác nhau. Sự khác biệt còn được thể hiện
trong các nhóm theo giới tính – nhóm em trai tham gia vào các công việc
chiếm phần trăm cao hơn các em nữ.
+ Về môi trường lao động:
Đại đa số các công việc các em phải làm là trên các vỉa hè, trên các
đường phố,… nơi mà nắng mưa thất thường, bụi bặm, ồn ào, thậm chí có khi
trẻ phải đối đầu với những cám dỗ về mặt vật chất do kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng
và cả với những nguy hiểm của tệ phóng nhanh vượt ẩu của xe cộ trên
đường phố trong khi dụng cụ bảo hiểm không có như: găng tay, khẩu trang
(khi nhặt phế liệu, đánh giày). Tất cả những cái đó đều có tác hại xấu đến sức
khoẻ và sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của trẻ trong tương lai.
+ Về thời gian lao động:
Đối với trẻ em lang thang, thời gian lao động là một chuỗi thời gian trên
tục được tính bằng buổi hay cả một ngày, thậm chí kể cả những ngày nghỉ lễ,
tết. Chính những ngày nghỉ lễ, tết lại là những ngày các em phải lao động
nhiều hơn, làm liên tục, thậm chí không có thời gian nghỉ ngơi điển hình là
những nghề như: bán hàng rong, đánh giày, dịch vụ ăn uống,… Có trẻ phải
làm việc liên tục từ 7–10 tiếng/ngày – cá biệt còn có thể còn phải lao động
trên 10 tiếng/ngày.
+ Về thu nhập của trẻ em lang thang:
Thu nhập của các em có những khác nhau trong mỗi công việc. Những
trẻ đi bán báo, bán tạp phẩm, ăn xin thường có thu nhập hàng ngày, nhóm
các em đi nhặt phế liệu, nhặt rác và làm thuê có thu nhập bấp bênh nhất.
Nhưng đại đa số các em đều có thu nhập trung bình (khoảng từ 5.000 đồng
đến 10.000 đồng/ngày), chỉ có rất ít các em kiếm được loại tương đối khá (từ
15.000 đồng đến 20.000 đồng/ngày). Với số tiền như vậy nên phần lớn các
em đều để dành ra một khoản tiền nhất định để dành cho việc chi tiêu vào
những ngày không kiếm được tiền hoặc bị trấn lột, bị đánh đập,…
+ Về mặt sinh hoạt:
Những trẻ em lang thang cho dù ở nhóm nào đi nữa nhưng một khi đã
phải quyết định dấn thân vào cuộc sống thì đều là những đứa trẻ thiếu thốn
về tình cảm thương yêu của gia đình, đời sống tinh thần bị tổn thương, tâm lý
không ổn định. Các em gần như quên đi khái niệm về thời gian, luôn muốn
chôn vùi quá khứ và không ý thức được về tương lai. Các em phải chấp nhận
những khó khăn, vất vả để làm bất cứ việc gì cho sự tồn tại. Chính vì thế cuộc
sống bươn chải đó dễ làm mất đi tính hồn nhiên, vui tươi của trẻ thơ các em,
thay thế vào đó là tính đa nghi, mặc cảm, tự ty và ít thiện chí khi nhìn nhận
vấn đề trong sinh hoạt hàng ngày. Có lẽ vì vậy mà cơ chế tự vệ của các em
rất cao. Đây là quy luật sinh tồn của con người khi phải sống trong một cuộc
sống luôn phải đối đầu với nhiều yếu tố đe doạ tới tính mạng. Điều này cũng
phần nào lý giải được nguyên nhân tại sao nhiều em hay nóng tính, dễ hung
hăng, gây gổ, đánh nhau trên đường phố.
Xuất phát từ đặc thù công việc kiếm sống của mỗi nhóm trẻ em ở các
địa phương khác nhau và để thích nghi với cuộc sống lang thang trên đường
phố, đã đưa tới việc hình thành các cộng đồng trong trẻ em lang thang. Các
cộng đồng này có thể gắn bó với nhau trong một môi trường sống như một
khu chợ, khu lao động, ga xe lửa hay bãi rác công cộng nào đó trong thành
phố. Nơi đó các thành viên cũng có thể có gia đình hay người thân hoặc một
số trẻ chỉ có một mình. Nhưng cho dù một mình thì trẻ vẫn là người có tính tự
lập cao trong cuộc sống.
Trong khi giữa các thành viên trong một cộng đồng có tinh thần đoàn
kết mạnh mẽ thì giữa các cộng đồng khác nhau cũng có những ganh đua và
tranh đấu. Mỗi cộng đồng đều có khu vực riêng của mình và các cộng đồng
khác dường như phải tuân thủ sự toàn vẹn lãnh thổ đó, nếu không thì cuộc
chiến giữa các cộng đồng sẽ xảy ra. Vì thế các em có một tinh thần kỷ luật
nhóm rất cao. Nếu nhìn qua một cách bàng quan thì khó có thể phân biệt
được điều này.
Những trẻ em lang thang có những cách phòng thân bằng việc kết
băng, kết nhóm. Có thể phát hiện các liên kết này vào ban đêm, khi những
đứa trẻ cùng băng nhóm trở về với nhau ở các tụ điểm. Những tụ điểm này
thường tiếp giáp với những nơi dễ kiếm ăn và cũng dễ lẩn trốn như: góc chợ,
gầm cầu, bến xe, vườn hoa,… Có thể nói rằng, những địa điểm này là nơi dễ
đưa các em đến con đường phạm pháp.
Với những thu nhập thấp (như đã nói ở trên), lại không ổn định và luôn
bị đe doạ bởi nhiều yếu tố khác nhau như trấn lột, cướp giật,… trong khi phải
nuôi bản thân (chi phí trong ăn, ngủ, chi phí khác,…) các em còn phải đóng
góp cho gia đình (đối với trẻ em còn liên hệ với gia đình) và để dành phòng
khi những ngày không kiếm được,… cho nên việc chi tiêu trong sinh hoạt của
các em vô cùng eo hẹp. Nhưng không vì thế mà các em sống ích kỷ với nhau.
Một đặc điểm dễ nhận biết khi nhìn nhận trẻ em lang thang đó là tấm lòng hào
hứng, tinh thần tương trợ những người nghèo, người yếu đuối, bởi một điều
đơn giản đó là những người cùng cảnh ngộ, nên các em rất thông cảm và
giúp đỡ không ngần ngại.
+ Về thời gian rỗi:
Khó có thể hình dung được một cách rõ ràng về thời gian rỗi của các
em bởi tính chất công việc của các em luôn luôn quy định những sinh hoạt
của các em. Đối với những em làm trong tổ chức của Nhà nước hay tư nhân
bảo trợ như: bán báo, đánh giày, bán tăm,… thì giờ giấc tương đối ổn định. Ở
những nơi này ngoài thời gian đi làm các em còn được học văn hoá và được
giải trí như đọc truyện, đọc báo, xem ti vi,… Còn đại đa số các em không
được bảo trợ của Nhà nước hay tư nhân thì gần như không có thời gian rỗi.
Vì cuộc sống hàng ngày của gia đình, của bản thân, nhiều trẻ đã buộc phải
làm việc liên tục. Đặc biệt là trong những ngày như chủ nhật, hay ngày lễ, tết
hàng năm, khi mọi người đi chơi, đi xem… thì cũng là lúc các em phải làm
việc vất vả nhất để bù vào những lúc không có khách, không kiếm được tiền.
Đối với các em, đường phố là “công viên”, là “sân chơi”, là “trường học”, là
“nhà” để tồn tại. “Chơi” nhưng mà “làm” và “làm” mà “chơi”.
+ Về học tập:
Trẻ em lang thang là những trẻ em phải chịu nhiều thiệt thòi. Hầu hết
các em phải bỏ học từ rất sớm do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng
nguyên nhân chủ yếu và chiếm cao nhất trong trẻ em lang thang là do gia
đình quá nghèo, không đủ điều kiện để nuôi sống gia đình, cho nên cũng
không có điều kiện cho con em mình đi học (thậm chí nhiều gia đình còn coi
việc kiếm sống quan trọng hơn cả).
Việc thất học trong trẻ em lang thang đang là một điều cảnh tỉnh, đáng
báo động đối với các nhà quản lý bởi các em thất học, không những thiệt thòi
cho chính các em trong việc nhận thức, trong việc hình thành nhân cách mà
quan trọng hơn cả, trẻ em, trong đó có cả trẻ em lang thang, trong tương lai
cũng sẽ là những người chủ nhân của đất nước.
+ Về sức khoẻ:
Đối với trẻ em lang thang, bên cạnh những thiếu thốn về điều kiện sống
thì đều phải ghi nhận là nhóm đối tượng này có những tính miễn dịch rất cao.
Trẻ em lang thang được xem là đói nhất, sống vất vưởng tạm bợ nhất và luôn
luôn phải đối đầu với môi trường sương, gió, ô nhiễm nặng,… Nhưng khi tìm
hiểu thì những bệnh mà các em thường mắc và có chiều hướng phát triển là
bệnh dạ dày, sau đó là bệnh đau đầu, thận, phổi, đau mắt. Cuộc sống lang
thang của các em đường phố có biết bao điều may rủi hay bệnh tật mắc phải
nhưng các em thường nhận sự giúp đỡ cao nhất ở nhóm, ở bạn bè kiếm
sống. Chỉ có số ít là tự chăm sóc lấy hoặc để mặc cho bệnh tự khỏi.
– Phản ứng xã hội đối với trẻ em lang thang:
Mỗi hiện tượng xã hội bao giờ cũng có sự đa dạng của nó, cũng như
vậy hiện tượng trẻ em lang thang đã xuất hiện và tồn tại từ lâu nhưng chưa
có giai đoạn nào phát triển mạnh và đa dạng như hiện nay. Dù là làm công
việc gì: đánh giày, bán báo, ăn xin hay thậm chí móc túi,… thì về mặt tình
cảm và xã hội các em đều được nhìn nhận như nhau theo khía cạnh tiêu cực.
Có nghĩa là các em bị người đời nhìn nhận như là những kẻ gây rối loạn xã
hội, những kẻ hư, phạm tội dễ bị công an thu gom vào các trại trong thành
phố do vậy các em bị hắt hủi, coi thường, xa lánh. Mọi người chỉ có quan hệ,
giao tiếp với các em khi có công việc cần đến sự phục vụ như đánh giày, mua
báo,… chứ các em không được nhìn nhận như một trẻ em bình thường với
nghĩa thân thiện tốt lành. Thậm chí có khi nhiều người còn cảm thấy khó chịu
khi gặp hay nhìn thấy các em,… Nhưng trong những năm gần đây, vấn đề trẻ
em, đặc biệt là trẻ em lang thang đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan
tâm. Sự quan tâm đó không chỉ thể hiện ở các tổ chức chính phủ của các
quốc gia đó cùng nhau ngồi bàn về những vấn đề ưu tiên cho trẻ em, với
những bộ luật, những chính sách và biện pháp riêng mình mà còn cả ở
những tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức này còn thành lập một uỷ ban
cho chương trình: “Vì sự sống còn và phát triển của trẻ em”, các công trình
nghiên cứu do UNICEP tiến hành. Tất cả không nhằm ngoài mục đích tập
trung nghiên cứu nguyên nhân của sự nghèo khổ để từ đó xác định và hoạch
định một chiến lược chung nhằm giảm nghèo, đồng thời giúp các chính phủ
một số nước hình thành một chính sách phù hợp với sự phát triển của dân số.
Giảm nghèo chính là giảm số trẻ em nghèo lang thang cơ nhỡ. Chương trình
đã có những cách tiếp cận với mỗi chính phủ, có thể giúp các em có đủ cơm
no áo mặc hoặc giúp có những kiến thức cơ bản.
Ở nước ta trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Bộ luật Bảo
vệ và Chăm sóc trẻ em ra đời (8/1991), Đảng và Chính phủ đã cố gắng nhiều
trong việc giải quyết vấn đề trẻ em lang thang. Nhiều chính sách, biện pháp
đã được đổi mới, thực hiện song trên thực tế cách nhìn nhận vấn đề của các
tổ chức chính quyền và cá nhân khác nhau. Nhưng nhìn chung các tổ chức
và đoàn thể xã hội này mới chỉ chú ý tới mục tiêu nhân đạo, hay nói cách
khác mới chỉ cho các em con cá chứ không sắm cho các em những kiến thức
cần câu. Còn về phía các cá nhân thì hết sức đa dạng về biện pháp cứu giúp
– mang tính nhân đạo cũng có và mượn tiếng danh nghĩa nhân đạo để che
đậy mục đích khác cũng có. Chính vì vậy, trên thực tế, hiện tượng trẻ lang
thang không những vẫn tiếp tục tồn tại mà còn có xu hướng ngày càng mở
rộng và phát triển. Trẻ lang thang gần như bị thủ tiêu mọi quyền theo luật
định: Chúng bị mất quyền được chăm sóc, được nuôi dạy để phát triển thể
chất và trí tuệ, đạo đức một cách bình thường. Chính vì thế khi nhìn nhận đòi
hỏi không thể chỉ được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu cực, mà phải được xã hội
quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ. Coi đó là nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của
mình.
– Công tác Xã hội đối với trẻ em lang thang:
+ Đánh giá ban đầu: tìm hiểu tiểu sử của các em như: quê quán, gia
đình (nghề nghiệp của bố mẹ, số anh chị em trong gia đình), trình độ văn hoá,
thời gian trên đường phố (bao nhiêu), lý do ra đường phố kiếm sống,…
+ Tìm hiểu tình hình hiện tại của các em: về sức khoẻ, mối quan hệ
hiện nay của em với gia đình, điều kiện ăn ở, sinh hoạt hàng ngày, nghề
nghiệp kiếm sống hiện nay trên đường phố là gì, phương tiện kiếm sống là gì
và thu nhập hàng ngày của các em là bao nhiêu.
+ Quan hệ xã hội hiện nay của các em: quan hệ với gia đình như thế
nào (mức độ quan hệ đó ra sao), hình thức hoạt động của các em trên đường
phố là hình thức nào (một mình hay theo băng nhóm), các em có được sự hỗ
trợ, giúp đỡ của tổ chức xã hội nào không.
+ Những khó khăn và mong muốn hiện nay của các em.
+ Những kinh nghiệm của bản thân với công an (đã bị bắt, giữ bao giờ
chưa).
– Các hoạt động can thiệp và hỗ trợ của xã hội:
+ Tiếp xúc cá nhân với trẻ: tiếp xúc cá nhân với trẻ để tìm hiểu hoàn
cảnh, tâm tư, nguyện vọng của các em để qua đó có những hỗ trợ cần thiết.
Việc tiếp xúc trực tiếp với các em sẽ giúp các em rất nhiều, chẳng hạn như về
tình cảm – việc giúp đỡ các em về mặt tình cảm như vậy có nghĩa là đã giúp
các em có được những cảm giác quan hệ xã hội thân thuộc với người lớn mà
trước đây các em đã từng có và giúp các em thấy được sự chấp nhận và tôn
trọng của xã hội đối với mình. Tiếp xúc cá nhân với các em còn nhằm mục
đích giúp các em tìm trở về với gia đình, với trường học. Để đảm bảo các em
quay trở lại gia đình mà không quay trở lại với đường phố nữa thì vai trò của
nhân viên xã hội ở đây là phải cùng gia đình giải quyết được các lý do rời nhà
ra đi trước đây của các em.
+ Hỗ trợ trẻ em lang thang thông qua nhóm hoạt động của trẻ tại địa
bàn trên đường phố: giúp các em tự tổ chức các hoạt động dịch vụ thích hợp
cho xã hội. Chẳng hạn như: tổ bán báo, tổ đánh giày, tổ bán tăm,… Tại đây
nhân viên xã hội cần giúp các em phân công lao động, nghề,… Qua đó giáo
dục thái độ và cách sống tích cực.
+ Đưa trẻ em lang thang vào nuôi dạy tập trung: đối với trẻ em đưa vào
nuôi dạy tập trung phải:
* Để trẻ em vào nơi này một cách tự nguyện, không ép buộc;
* Cần giải thích để trẻ hiểu mà quay trở về với gia đình (trẻ được nuôi
dạy trong các nơi này là những trẻ em bị bỏ rơi, không thể quay trở về với gia
đình được nữa);
* Trẻ phải được cùng bàn bạc về chương trình, thời gian biểu về các
hoạt động sinh hoạt của trung tâm;
* Cần có các đánh giá ban đầu với trẻ bằng nhiều phương pháp (chẳng
hạn như phỏng vấn) để đánh giá tình hình của trẻ, những tâm tư, tình cảm,
cũng như sức khoẻ của các em.
Tại các trung tâm nuôi dạy tập trung trẻ em cần phải được đảm bảo cơ
sở vật chất cho sự phát triển thể chất, tinh thần của trẻ. Có nghĩa các em cần
phải được đủ ăn, có chỗ ngủ, được giữ vệ sinh, có áo mặc đầy đủ và được
chăm sóc sức khoẻ.
* Dưới sự hướng dẫn của “mẹ nuôi” các em phải được làm những công
việc gia đình như: nấu cơm, đi chợ, lau nhà, chăn nuôi,… để hình thành thói
quen trong các hoạt động thường ngày trong một gia đình phi huyết thống.
* Các em phải được tham gia vào các hoạt động như: giáo dục, lao
động, học tập,… để các em từ đó tự xây dựng cho mình quan điểm nhận
thức, giá trị cuộc sống và hành vi ứng xử đúng đắn. Chẳng hạn như: tính kỷ
luật, tinh thần trách nhiệm với những người khác. Ở đây vai trò của nhân viên
xã hội, đặc biệt là các “mẹ nuôi” vô cùng quan trọng, họ vừa mềm mỏng, tế
nhị, yêu trẻ,… nhưng cũng phải thật cương quyết. Có như vậy mới cảm hoá
được những hành vi lệch lạc phát sinh ở trẻ do những ngày sống cuộc sống
lang thang trên đường phố. Tất nhiên làm được điều đó phải có thời gian.
Nhất là ở giai đoạn đầu, không thể gò ép các em vào nội quy, kỷ luật của
trung tâm một cách vội vàng được, mà phải tôn trọng các em, tôn trọng và
chấp nhận cách sống của em lúc bấy giờ. Có như vậy mới không tạo ra trong
các em cách nghĩ tiêu cực về trung tâm, không coi nơi đây như một “nhà tù
giam lỏng”.
* Trẻ em trong các trung tâm cũng phải được tham gia vào các hoạt
động vui chơi giải trí như: đi tham quan, cắm trại, thể dục thể thao,… để giúp
các em tạo ra bầu không khí vui vẻ, chan hoà, thấm đượm tình đoàn kết và có
được ý thức kỷ luật tập thể, tinh thần công bằng.
* Trẻ em cũng cần phải được học văn hoá (nhất là được theo học chính
quy ở các trường phổ thông bên ngoài trung tâm). Bên cạnh đó, trẻ em cũng
cần phải được học một nghề nào đó. Việc học và thực hành một nghề nghiệp
nào đó giúp các em trang bị được một nghề để kiếm sống sau này. Đây chính
là cơ hội giúp các em có được một nghề nghiệp, tăng thêm thu nhập, phát
triển nhận thức về giá trị của lao động, phát triển tính cần cù, kỷ luật và xây
dựng được lòng tin cho chính mình.
– Vai trò của nhân viên xã hội:
Người nhân viên xã hội trong khi làm việc với trẻ em lang thang cần
phải:
+ Xoá bỏ các mặc cảm về các em (là những đứa trẻ lang thang) thông
qua những hành vi và thái độ như: không tránh né, không thị uy, giận dữ hoặc
thương hại, khinh ghét,… các em.
+ Cần phải tìm hiểu từng cảnh ngộ, tôn trọng sự tự do và khát vọng độc
lập của các em.
+ Cần phải giúp đỡ các em dựa trên những nguyện vọng riêng của các
em, phát huy những năng lực tự chủ, những mong muốn tự lập kết hợp với
các nguồn lực hỗ trợ tại cộng đồng.
+ Đối với từng trường hợp, cần năng động, linh hoạt để giúp đỡ các
em.
+ Điều quan trọng ở đây – với tư cách là một nhà giáo dục trẻ em
đường phố – người nhân viên xã hội cần khuyến khích các em tự giải quyết
các vấn đề và các khó khăn của chính mình.
2. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NHỮNG NGƯỜI KHUYẾT TẬT2.1. Khái niệm
Người khuyết tật là những người do bị khiếm khuyết nào đó của cơ thể
mà dẫn tới sự giảm sút đáng kể trong thực hiện chức năng so với những cá
nhân khác
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm khuyết tật, tàn tật hay tật nguyền còn
chưa được thống nhất trong các nhà chuyên môn.
– Khuyết tật được phân làm nhiều loại:
+ Tật vận động;
+ Tật giác quan (câm, mù, điếc…);
+ Tật trí tuệ (chậm phát triển).
– Nguyên nhân: có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như:
+ Khuyết tật do bẩm sinh;
+ Khuyết tật do chấn thương khi sinh;
+ Khuyết tật do ngộ độc thức ăn;
+ Khuyết tật do tai nạn;
+ Khuyết tật do chiến tranh;
+ Khuyết tật do bị bệnh khác gây ra.
2.2. Đặc điểm của người khuyết tật
2.2.1. Đặc điểm trong lối sống của người khuyết tật
– Về hoạt động lao động:
Do bị bệnh tật, khó khăn trong đi lại, hạn chế trong giao tiếp nên hoạt
động trong lao động của họ gặp rất nhiều khó khăn. Tuỳ theo từng loại tật mà
họ có những khó khăn khác nhau. Song tựu chung lại họ là những người giàu
nghị lực, dám vượt qua tất cả những trở ngại của bản thân và cả từ phía xã
hội để đảm nhận mọi công việc khác nhau khi xã hội có nhu cầu. Từ những
việc nhẹ nhàng như: chẻ tăm, đan lát,… cho tới những công việc nặng nhọc
như làm các nghề cơ khí: gò, hàn,… Làm được những điều như vậy bởi vì họ
là những người trong các nhóm hoạt động rất có hiệu quả. Tại đây, bên cạnh
cơ chế bù trừ chức năng của các cơ quan cảm giác của người khuyết tật
(như mất đi khả năng hoạt động của các cơ quan cảm giác nào thì ở họ
những hoạt động của các cơ quan cảm giác còn lại phát triển rất mạnh để
giúp họ nhận biết thế giới xung quanh) thì chính tại nơi đây (nhóm trợ giúp
này) người khuyết tật đã giúp nhau vượt qua những khó khăn của bệnh tật,
chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân để giúp nhau thích nghi cuộc sống
tốt hơn.
Với sự hỗ trợ thích hợp của gia đình, xã hội và nghị lực của chính bản
thân mà nhiều người khuyết tật đã đạt thành tích cao trong lao động, trong
học tập. Tuy nhiên, với những công việc khác nhau thì mức thu nhập của họ
cũng khác nhau nhưng nói chung đó là những thu nhập tương đối ổn định
(cho dù thu nhập của một số nghề còn thấp như: chẻ tăm, đan lát,…).
– Về sinh hoạt:
Do sự thiếu hụt về thể chất như: mất hay giảm khả năng hoạt động của
một số cơ quan tiếp nhận thông tin cần thiết cho hoạt động nhận thức,… đặc
biệt ở những người bị khuyết tật giác quan, tật thần kinh hoạt động tư duy,…
nên những người khuyết tật thường bị ức chế dẫn tới bi quan, chán nản, tự ty
hay cáu gắt, nóng nảy,… và cảm thấy nhiều khi mình là những người sống
thừa trong xã hội, trong gia đình.
Trong quan hệ với gia đình, với những người trong các trung tâm phục
hồi chức năng, những người khuyết tật thường nhận được hai cách cư xử
khác nhau: hoặc họ là những người được mọi người thương yêu, quý mến,
muốn bù đắp những tình cảm vào sự thiệt thòi mà người bị khuyết tật không
thể có được như người bình thường. Đối với những người được sống trong
môi trường như vậy họ vẫn cảm thấy yêu đời, vẫn học tập, làm việc và vẫn
tham gia vào các hoạt động của xã hội. Thời gian rỗi họ dùng vào những việc
có ích cho sức khoẻ như chơi thể thao, đi dạo, nghe nhạc, giao tiếp với
những người cùng cảnh ngộ, tham gia các hoạt động văn hoá văn nghệ,… do
các tổ chức xã hội tổ chức. Chính vì vậy trong họ, không còn mặc cảm về
bệnh tật của mình, về những khiếm khuyết của bản thân mình. Còn ngược lại,
có khi họ không nhận được ở những người thân trong gia đình, ở những
người chăm sóc, giúp đỡ những lời động viên, sự đồng cảm, an ủi, thậm chí
nhiều khi còn bị người đời có những hành vi miệt thị, xa lánh và gọi họ bằng
những tên theo dị tật của bản thân họ. Với đời sống nội tâm nhạy cảm và tế
nhị như vậy nên những người khuyết tật này thường có những khủng hoảng
về tâm lý, họ cảm thấy mình bị bỏ bê, ruồng bỏ, là gánh nặng cho mọi người.
Chính vì vậy ở những người khuyết tật sống trong môi trường này thường tìm
đến những khía cạnh tiêu cực như không muốn giao tiếp xã hội, không tham
gia lao động cũng như các hoạt động xã hội khác. Trừ số ít những người có
chí thì họ đắm mình vào trong học tập, thơ văn hay những công việc,… Chính
điều này làm cho phạm vi quan hệ xã hội ở người khuyết tật bị thu hẹp lại (trừ
số ít những người có chí lao vào công việc), những người này không thể thấy
được những niềm vui trong công việc, trong lao động và không thể nào giảm
bớt được tâm lý nặng nề khi bị phụ thuộc kinh tế, khi nhu cầu chính đáng của
bản thân không được thoả mãn.
2.2.2. Phản ứng xã hội đối với người khuyết tật
Trước đây, những người khuyết tật thường bị coi là sự trừng phạt của
thượng đế.
Thời Hy Lạp cổ đại, thời kỳ coi vẻ đẹp con người là một cơ thể khoẻ
mạnh, vì thế con người ta thường chú trọng tới vẻ đẹp của thể xác và hình
dáng đẹp được coi là biểu hiện của những điều kiện, những điều tốt lành, của
sự hợp nhất giữa linh hồn và thể xác. Do vậy những ai bị khuyết tật thì bị
người đời khinh bỉ, chế giễu, xa lánh và thậm chí còn bị nhìn theo khía cạnh
tiêu cực.
Sau đó vài thế kỷ, những người La Mã cổ đại, Trung cổ có những quan
niệm như vậy, cho nên những người khuyết tật bị coi là người thừa trong xã
hội, là những người bị quỷ ám và vì vậy họ bị đem đi giết. Nhưng đến thế kỷ
XIX, vấn đề người nghèo, người khuyết tật đã được xã hội quan tâm hơn,
những người khuyết tật đã được nhận trợ cấp xã hội. Sự quan tâm này được
thể hiện thông qua đạo luật dành cho người nghèo của nữ hoàng Anh
Elizabeth (1609).
Từ thế kỷ XIX đến nay, tại nhiều nước trên thế giới, vấn đề người
khuyết tật không những được quan tâm hơn mà họ còn được coi trọng nữa.
Nhiều luật lệ, chính sách và chương trình giáo dục dạy nghề rõ ràng dành cho
người khuyết tật bên cạnh các chương trình đào tạo giáo dục viên, giáo dục
phòng ngừa. Chẳng hạn: có những luật lệ bắt buộc các xí nghiệp phải thu
nhận người khuyết tật vào làm việc hoặc ở các xưởng được bảo vệ, người
khuyết tật được giúp đỡ, tìm hiểu, đánh giá các khả năng làm việc, giao tiếp,
sở thích và hạn chế của họ. Tại đây, dựa vào những khuyết tật của họ, họ
được đào tạo một nghề cho phù hợp với bản thân, bên cạnh đó họ còn có
những nhà tư vấn sẵn sàng trao đổi về những vấn đề khó khăn của họ, từ đó
hỗ trợ cho họ trong việc học tập những vai trò mới, giúp gia đình họ hiểu và
tìm mọi điều kiện cho việc phục hồi tại gia đình hoặc trong vui chơi, trong
công việc. Người khuyết tật có cơ hội để tham dự, ngoài đường còn có các lề
đường được xây dựng dành riêng cho những người khuyết tật để họ có thể đi
lại được dễ dàng, có chỗ cho họ gọi điện thoại công cộng và có nơi đậu xe
riêng. ở các ga xe lửa, thang máy còn được thiết kế sao cho người khuyết tật
có thể lên xuống được dễ dàng và điều quan trọng nhất là hiện nay, đã có sự
tham gia của cộng đồng vào việc chăm sóc người khuyết tật trong các trung
tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
Tất cả những việc làm trên không nhằm ngoài mục đích cuối cùng là
làm thế nào để người khuyết tật có thể sống tự lực không lệ thuộc vào ai.
Điều đó có nghĩa giúp họ học tập để có kiến thức, có thể lao động và nhất là
có mối quan hệ với mọi người một cách bình thường.
Ở Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta cũng đã quan tâm tới những người
bị khuyết tật. Ngoài các chính sách cho thương binh theo các cấp bậc nặng,
nhẹ, tiền trợ cấp về ăn, điều trị cơ sở vật chất còn có các cơ sở tập trung cho
người già, người tàn tật, các trường học dành cho trẻ mù, trẻ điếc, trẻ chậm
phát triển trí tuệ, trẻ bại liệt, hội bạn người mù, trung tâm phục hồi chức năng,
trung tâm nghiên cứu và giáo dục người khuyết tật,… Tuy nhiên, trên thực tế
cách nhìn nhận của những con người xã hội đối với những người khuyết tật
không phải là không có vấn đề.
Những người bị khuyết tật, cho dù là khuyết tật về thể chất hay khuyết
tật về trí tuệ thì về mặt tình cảm và xã hội cũng đều bị con người xã hội nhìn
nhận như nhau, có nghĩa là họ đều bị cô lập, bị gạt ra ngoài xã hội (cả trực
tiếp lẫn gián tiếp). Họ thường sợ hãi, sợ bị mất tình thương vì ngay trong
chính gia đình họ, nhiều khi họ cũng bị bỏ rơi hoặc ít được quan tâm đến
thậm chí còn bị ghê tởm, chế giễu và xa lánh,…
Ngược lại nhiều người khác trong xã hội còn cho rằng, người bị khuyết
tật chức năng này, thường bị khuyết tật luôn những chức năng khác. Chẳng
hạn với một người mù, dường như tai của họ cũng bị nghễnh ngãng,… cho
nên họ quan niệm những người tàn tật là bị thua kém những người bình
thường khác, do đó cần phải thương hại họ. Bởi vì họ không thể nào quan hệ
giao tiếp được với những người khuyết tật (khuyết tật giác quan khuyết tật trí
tuệ) họ không biết nói gì hoặc làm cách nào để người khuyết tật hiểu được
những điều họ muốn nói, họ sợ làm những người khuyết tật bị tổn thương.
Trong khi đó, trong những gia đình có người bị khuyết tật, nhiều cha
mẹ, anh chị em họ lại có những biểu hiện chán nản, u buồn, lo lắng, mệt mỏi
thậm chí xấu hổ,… khi trong gia đình mình có người bị khuyết tật bởi vì theo
họ, họ cảm thấy ngại ngùng khi quan hệ với bạn bè, với hàng xóm, với cộng
đồng xung quanh,… Những người đó họ nghĩ gì và nói gì về gia đình mình,
về những người khuyết tật trong gia đình mình. Điều đó không phải là không
có khi nhiều người trong xã hội cho rằng: Những “gia đình có người bị khuyết
tật là những “gia đình vô phúc”, là những gia đình kiếp trước ăn ở không có
hậu nên bây giờ bị trừng phạt,… Bên cạnh đó, những gia đình khi có người bị
khuyết tật còn có những lo lắng khác về tình trạng sức khoẻ của người bị
khuyết tật, về tài chính trong gia đình, về mối quan hệ của người khuyết tật
với những người thân trong gia đình, về tương lai của chính người khuyết tật,
…
Tất cả những điều trên khiến người khuyết tật nhận được ở gia đình
hoặc là rất tốt, chăm sóc rất chu đáo, cẩn thận đến mức tiêu diệt cả tiềm năng
phát triển của họ vì thiếu sự kích thích cho người đó vươn lên,… hoặc là có
khi ngược lại, những người thân trong gia đình bỏ bê, không quan tâm chăm
sóc,… Những điều này làm cho người khuyết tật mặc cảm, thấy mình vụng
về, kém tự tin bởi họ là những người rất nhạy cảm, họ không thích những
giao tiếp giả tạo, không thích bị đối xử khác thường chỉ vì mình bị khuyết tật
Nhìn chung, xã hội Việt Nam đã quan tâm đến người khuyết tật, tuy
nhiên để thay đổi cách nhìn của xã hội phải có thời gian. Phục hồi về mặt y
học hay kỹ thuật giáo dục cho người khuyết tật đòi hỏi phải có những phương
tiện nhưng đó còn là điều làm được và dễ làm, còn phục hồi xã hội mới là
điều khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi một hệ thống kiến thức về tâm lý xã
hội, giáo dục đặc biệt là một chính sách xã hội có luật pháp bảo vệ, chăm sóc
người khuyết tật cùng với một đội ngũ công nhân viên chuyên môn được
huấn luyện, có quy chế rõ ràng.
Xu hướng mới hiện tại với sự tham gia của cộng đồng xã hội vào việc
phục hồi cho người khuyết tật ngay tại địa phương là cách tiếp cận ít tốn kém
và có hiệu quả, lại phù hợp với truyền thống “tương thân tư ái”, “lá lành đùm
lá rách”, “chị ngã em nâng” của người dân Việt Nam.
Đây là những cơ hội không chỉ giúp cho người khuyết tật mà còn giúp
cho cộng đồng, cho chính bản thân gia đình những người bị khuyết tật nhận
thức rõ hơn về người khuyết tật trong gia đình, trong cộng đồng của mình để
từ đó giữ vai trò chính yếu trong việc đáp ứng nhu cầu cho người khuyết tật
có cơ hội trở thành người hữu ích và tìm được cuộc sống hạnh phúc giữa
cộng đồng thân yêu.
2.2.3. Công tác Xã hội với người khuyết tật
– Nhận định và đánh giá tình trạng chung của người khuyết tật:
Tránh những thành kiến về những dị tật khi đối diện với những người bị
khuyết tật. Nhất là đối với những trường hợp như: bị mù, điếc, câm, bại liệt,
Cần tìm hiểu và có những thông tin về bệnh tật, về những biểu hiện
trong bệnh tật của thân chủ để từ đó có thể đánh giá được chính xác về mức
độ tình trạng và tiểu sử của tật, có những phản ứng thính giác, thị giác, khứu
giác của cá nhân mình đối với những dị tật của thân chủ (Đặc biệt là trong
trường hợp đến nhà thăm thân chủ).
Cần phải bày tỏ sự cảm thông, chân thành mà không thương hại đối
với thân chủ. Bởi họ là những người trong cuộc sống, đôi khi đã từng bị chế
giễu, chọc ghẹo, bị hắt hủi, bị bỏ rơi trong quá khứ,… nên họ rất nhạy cảm và
vì vậy rất dè dặt khi tiếp xúc lần đầu với những người lạ.
Khi đối xử với những người khuyết tật, cần phải có những hành vi thích
ứng với từng tật của người khuyết tật một cách tế nhị. Chẳng hạn: Đối với
người bị mù thì cần phải dùng ngôn ngữ nhiều, đối với người ngồi trên xe lăn
thì phải ngồi xuống để nói chuyện cùng tầm mắt với họ.
Lấy thông tin từ gia đình về tiểu sử quá trình bệnh tật, mức độ của tật,
quá trình phát triển của chính bản thân người khuyết tật với những trở ngại,
khó khăn hiện tại và ngoài ra còn phải lấy thông tin về những dịch vụ yếu tố
vật liệu, loại thuốc và dụng cụ chỉnh hình cần thiết của người khuyết tật.
Cần đánh giá tình trạng sức khoẻ, bệnh (nếu có bệnh), mức độ phát
triển và nhu cầu tâm lý của bản thân người khuyết tật nhất là những nhu cầu
liên quan đến dạng tật.
Khi đánh giá trường hợp và lượng định mức phục hồi chức năng cần
phải nhận định khả năng sinh hoạt hàng ngày của người khuyết tật thông qua
quan sát, hỏi những người thân trong gia đình họ và hỏi cả cộng đồng về điều
kiện và sinh hoạt của bản thân người khuyết tật, về mức độ tự túc của người
khuyết tật trong những sinh hoạt đời thường như: ăn uống, tắm rửa, làm vệ
sinh, khả năng đi lại, khả năng diễn tả những cảm xúc, khả năng làm được
những công việc trong gia đình, khả năng hiểu được những câu chuyện bình
thường và khả năng chi tiêu tiền bạc.
– Công tác Xã hội với người khuyết tật, với gia đình người khuyết tật.
Điều trước tiên là nhận định rõ tình trạng, tìm hiểu nguyên nhân, triệu chứng
và dự đoán về sự khuyết tật. Tìm hiểu về quá trình của sự suy yếu và những
biểu hiện của tật.
Tìm hiểu tâm trạng của người bị khuyết tật để từ đó tạo cơ hội cho họ
bày tỏ nỗi niềm về những mối lo âu, buồn bã, gây lòng tin tưởng và bày tỏ sự
thông cảm với những khó khăn mà họ phải trải qua.
Bên cạnh việc tìm hiểu tâm trạng người khuyết tật, còn cần phải tìm
hiểu tâm trạng của gia đình từ đó giúp gia đình nhận định tình trạng của
người khuyết tật trong gia đình họ và giúp gia đình tìm đến những dịch vụ y
tế, pháp luật, giải trí trong cộng đồng.
Giúp gia đình người khuyết tật nhận định được những biến chuyển và
tiến trình của bản thân người khuyết tật trong việc phục hồi chức năng.
Chỉ dẫn họ cách giải quyết những vấn đề khó khăn và nhận định được
khi nào cần phải có thêm dịch vụ bên ngoài. Giúp gia đình đặt kế hoạch đề
phòng trường hợp khẩn cấp và có phương pháp đối phó.
Cần phải xác định mục tiêu trong Công tác Xã hội với người khuyết tật,
với gia đình của người khuyết tật để giúp họ tăng thêm chức năng tự túc sinh
hoạt và giáo dục gia đình người khuyết tật về việc chăm nuôi, phục hồi cho
chính bản thân người khuyết tật trong gia đình họ.
Công tác Xã hội với những chương trình, dịch vụ trong cộng đồng như
dạy văn hoá, giáo dục lao động, hướng nghiệp, dạy nghề,… cho những người
bị khuyết tật.
Trong Công tác Xã hội với gia đình người khuyết tật (đặc biệt là trong
trường hợp gia đình mới có người khuyết tật), cần phải lưu tâm đến một số
vấn đề sau:
+ Phản ứng của những người thân trong gia đình khi biết người thân bi
mắc khuyết tật thông qua hàng loạt những trạng thái xúc cảm như: chán nản,
mặc cảm, buồn, cảm thấy mất hy vọng, xấu hổ,…
+ Các gia đình của người khuyết tật thường phản ứng (nhiều hơn là
chủ động) khi biết người thân mình bị mắc khuyết tật. Bởi họ chưa hiểu nhiều
về bệnh tình và cách chăm lo cho chính người khuyết tật. Bởi vậy, trong thời
gian này, gia đình người khuyết tật cần có sự đồng cảm, cần được chia sẻ sự
mất mát, lo buồn và cần có được những tin tức về tình trạng khuyết tật của
người thân trong gia đình họ.
+ Ở gia đình người khuyết tật, theo thời gian, họ sẽ có thể chấp nhận
và thích nghi với hoàn cảnh của người khuyết tật trong gia đình mình hơn. Để
từ đó những người thân trong gia đình điều chỉnh nếp sống, nếp sinh hoạt
hàng ngày cho phù hợp và có thời gian để chăm sóc, chữa trị, tìm cách phục
hồi chức năng cho người khuyết tật.
+ Cuộc sống của gia đình những người khuyết tật có một số thay đổi
(khi gia đình có một người bị tật) trên một số khía cạnh như:
* Về mối quan hệ trong gia đình: Khi gia đình có người bị khuyết tật
trong nhà thì mối quan hệ trong gia đình có nhiều thay đổi. Trong đó bố hoặc
mẹ phải đóng vai trò quan trọng trong việc chăm lo cho người bị khuyết tật
những người thân còn lại trong gia đình như anh, chị, em,… là những giải
pháp giúp đỡ thêm những công việc khác và còn phải chịu cảnh ít được quan
tâm trong công việc chăm sóc, bảo ban,… Bởi vậy dễ dẫn tới tình trạng
những người thân này trở nên ghen ghét, khó chịu,… vì sự xuất hiện khuyết
tật của một người nào đó trong gia đình.
* Về tình hình tài chính của gia đình: Gia đình gặp khó khăn khi trong
nhà một người bị khuyết tật vì phải lo tiền thuốc men bồi bổ, chăm sóc sức
khoẻ và các phương tiện phục vụ cho người khuyết tật, từ những việc đơn
giản như ăn, uống, tắm rửa,… cho đến việc đưa đến bệnh viện, tập phục hồi
chức năng.
* Về thời gian rỗi: Mỗi gia đình có người khuyết tật thường có ít thời
gian rỗi. Bởi lẽ họ phải dành nhiều thời gian trong việc chăm sóc người
khuyết tật, từ những việc đơn giản như ăn, uống, tắm rửa,… cho đến việc
đưa đến bệnh viện, tập phục hồi chức năng.
* Về bầu không khí trong gia đình: đối với những gia đình có người bị
khuyết tật, thường có hai trạng thái không khí gây ra bao trùm trong toàn gia
đình, hoặc là gia đình đó cảm thấy gần nhau hơn trong việc giao tiếp, trong
việc học hỏi kinh nghiệm sống và trong việc trải qua thử thách hoặc cũng có
khi gia đình đó lại có một bầu không khí u buồn, căng thẳng, vì họ cảm thấy bị
mất mát, bị thiếu sự bình thường và thầm tiếc một đứa con lành lặn,…
2.2.4. Vai trò của người nhân viên xã hội
Nhân viên xã hội làm việc với người khuyết tật, ngoài việc có kiến thức
chuyên môn ra, cần phải có một hiểu biết căn bản về thuốc men y tế để hỗ
trợ, hướng dẫn người khuyết tật và gia đình họ.
Để giúp đỡ người khuyết tật được tốt, đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi nhân
viên xã hội:
– Đối với người khuyết tật:
Hỗ trợ tức thời khi người khuyết tật gặp khó khăn.
Giúp người khuyết tật hiểu rõ và thích nghi với khiếm khuyết của mình,
tiềm năng và hạn chế của bản thân họ.
Giúp người khuyết tật có những hình ảnh tốt về bản thân mình để từ đó
tự khắc phục và phát huy những tiềm năng của bản thân có.
Giúp người khuyết tật thích nghi với việc giáo dục, chọn nghề và hỗ trợ
vật chất cho họ khi cần.
– Bản thân nhân viên xã hội: phải có những hoạt động bảo vệ, biện hộ
cho người khuyết tật khi họ cần. Bên cạnh đó còn phải tham gia đề xuất các
chính sách bảo vệ cho họ. Tìm các nguồn hỗ trợ cho cộng đồng để hỗ trợ họ
và điều cũng không kém phần quan trọng là nhân viên xã hội phải tạo lập các
mạng lưới câu lạc bộ, hội người khuyết tật,… để giúp họ đạt đến sự cân bằng
về trạng thái trong xã hội.
3. NGƯỜI CAO TUỔI3.1. Khái niệm chung về người cao tuổi
Có rất nhiều cách gọi khác nhau trong lịch sử. Theo nguồn gốc dân
gian, người cao tuổi là những người có tuổi. Ở các địa phương như người
Tày gọi là “cần ké”, nhiều dân tộc Bắc – Nam gọi là “già làng” và hiện nay gọi
“người cao tuổi” có hàm ý tôn trọng hơn bởi từ “già” dễ bị hiểu thành “già
nua”, biểu thị một sự yếu ớt,… Tuỳ thuộc ngữ cảnh, mỗi tên có thể thích hợp
hơn, hay hơn. Nhưng theo như hiến pháp hiện hành thì vẫn gọi cách dễ hiểu
và giản dị nhất là “người già”.
Hiện nay vẫn chưa có một phân định rõ ràng tuyệt đối về khái niệm tuổi
già. Bởi sự lão hoá ở các cá nhân là khác nhau. Có nhiều người vào độ tuổi
70 – 80 nhưng vẫn tráng cường về mặt thể lực, minh mẫn về mặt trí tuệ, tự
nhận mình “so với ông Bành vẫn thiếu niên”. Song có những người tuy mới
độ tuổi trên dưới 50, lại luôn cảm thấy già yếu, mọi sinh hoạt đều chậm chạp,
…
Vậy thế nào là cao tuổi?
– Theo quan điểm y học: sự già hoá có những đặc điểm vừa chung mọi
người, vừa riêng của mọi người.
– Theo pháp luật:
+ Việt Nam chưa có quy phạm cao tuổi. Quan niệm hết tuổi lao động đã
có từ nhiều năm ở các văn bản dưới luật (Nữ trên 55 tuổi, Nam trên 60 tuổi).
+ Trên phạm vi quốc tế, quan niệm người cao tuổi tính từ 60–65 trở lên
(dựa trên nguồn gốc chủ yếu từ các nước phát triển).
Trong cuộc sống có nhiều người cho rằng, người cao tuổi là người già
xã hội, là người hưu trí. Nhưng thực ra các khái niệm đó khác hẳn nhau:
– Người hưu trí: là khái niệm dùng để chỉ những người đã nghỉ ngơi
hoàn toàn sau một thời gian dài làm trong khu vực nhà nước.
– Người già xã hội: là khái niệm dùng để chỉ những người thật sự ở tuổi
già và các trường hợp được tập quán xã hội coi như người già.
– Người cao tuổi: là giai đoạn cuộc sống sau tuổi chín mùi, là giai đoạn
mà hoạt động của các chức năng cơ thể bị chậm lại do suy thoái.
Dưới góc Xã hội học: Cao tuổi không chỉ là hiện tượng sinh lý mà còn
là một hiện tượng xã hội sâu sắc. Tính chất xã hội của thời kỳ này trong cuộc
đời mỗi con người được đặc trưng bởi những đặc điểm sau:
+ Sự rời bỏ hoạt động nghề nghiệp tích cực (hay là sự thay đổi tính
chất của hoạt động đó);
+ Sự thay đổi lối sống nói chung và các định hướng giá trị nói riêng;
+ Sự thay đổi địa vị trong xã hội;
+ Sự thay đổi những chức năng và vai trò của cá nhân trong gia đình.
3.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi
Người cao tuổi là một người bình thường như bao người khác, tuy
nhiên họ có thêm một số những dấu hiệu đi kèm theo do sự suy thoái tự
nhiên của các tế bào như: tóc bạc, da nhăn nheo, khả năng tình dục giảm, cơ
bắp nhão, xương dễ bị giòn, dễ bị gãy do vôi hoá nhiều, trí nhớ ngắn hạn
giảm (là những sự việc vừa mới xảy ra, họ có thể quên ngay) nhưng những trí
nhớ dài hạn lại vẫn ở mức độ cao (chẳng hạn những kỷ niệm xưa cũ, họ vẫn
có thể nhớ từng chi tiết nhỏ), quá trình đồng hoá và dị hoá giảm mạnh, hoạt
động của các cơ quan nội tạng như phổi bị teo, bộ phận tuần hoàn, tiêu hoá,
bài tiết,… giảm sút. Do vậy việc đi lại gặp nhiều khó khăn.
Đối với những người già yếu hoặc có bệnh dài lâu thường trong họ có
những phản ứng tâm lý như: lo âu, buồn chán và đôi khi chán sống. Khi nói
về cái chết, ở trong họ có hai khả năng xảy ra: Khi nghĩ về cái chết gần kề
của bản thân, nhiều người đã muốn chuẩn bị việc an táng, ma chay trước cho
mình nhưng cũng không ít người không bao giờ nhắc đến chuyện này, họ
lạnh nhạt, phủ nhận vì cảm thấy sắp phải xa người thân, có người lại gần gũi
với người thân hơn, số khác thì đến với tôn giáo.
Khi nhìn thấy những người thân chết (hoặc vợ, chồng hoặc những
người bạn cùng lứa tuổi) thì ở người già thường có những phản ứng tâm lý
như: trầm cảm hơn, cô đơn, sợ hãi, buồn đau hơn,… Chính vì lẽ đó nhiều
người muốn “đi theo” người đã chết đó luôn.
Theo các chuyên gia về sức khoẻ cho người cao tuổi thì những người
cao tuổi nào bình thường, không cảm thấy bị đe doạ về sức khoẻ,… lại là
những người dễ bị nguy hiểm hơn là những người cao tuổi bị bệnh vì những
người cao tuổi này lúc nào cũng cảm thấy cơ thể mình khoẻ mạnh nên chủ
quan không phòng bệnh tật.
3.3.1. Các nhu cầu cơ bản của người cao tuổi
Cũng như ở mọi lứa tuổi, người cao tuổi cần phải được đáp ứng những
nhu cầu vật chất và tinh thần cần thiết. Song bên cạnh đó còn có những nhu
cầu đặc biệt cần được quan tâm hơn như:
+ Nhu cầu về chế độ ăn uống, ở phù hợp thuận tiện,… (chẳng hạn
người cao tuổi mắt kém nên cần có kính lão để họ có thể tự túc hoạt động mà
không phải phụ thuộc vào người khác dẫn dắt).
+ Nhu cầu an toàn cho cuộc sống: đây là nhu cầu quan trọng của người
cao tuổi bởi lúc này họ đang trong giai đoạn cuối của cuộc đời. Giai đoạn của
sự thoái hoá tự nhiên của con người. Sự thoái hoá này không những chỉ ảnh
hưởng về mặt thể chất mà cả về mặt tâm lý. Vì vậy đối với những người cao
tuổi, việc chăm sóc sức khoẻ là vô cùng cần thiết. Từ chế độ ăn uống, sinh
hoạt, khám chữa bệnh, phòng bệnh đến môi trường sống lành mạnh, ít căng
thẳng,…
+ Một nhu cầu cơ bản và quan trọng nhất ở người cao tuổi là được tôn
trọng và được mọi người chấp nhận, quý mến. Cho dù họ không còn trực tiếp
đóng góp cho xã hội nữa nhưng họ vẫn cần có sự chấp nhận của xã hội; của
gia đình về những kinh nghiệm trong quá khứ của họ, về khả năng và tính tự
lập rằng, họ không phải là những người thừa vô ích trong xã hội mà ngược
lại, họ vẫn còn quan trọng đối với xã hội, nhất là đối với những người thân.
Hơn bao giờ hết, người cao tuổi rất cần mối quan hệ mật thiết với
những người thân trong gia đình như: con, cháu, vợ chồng,… và với xã hội là
bạn bè. Nếu thiếu những mối quan hệ và tình cảm này, người già dễ nảy sinh
cảm giác cô đơn và đôi khi có thể tăng thêm trong quá trình lão hoá.
3.3.2. Những lĩnh vực hoạt động sống chủ yếu của người cao tuổi
– Về hoạt động lao động:
Nhiều người cao tuổi, nhất là những người sau khi về hưu vẫn tiếp tục
làm việc dưới nhiều hình thức khác nhau như: tiếp tục làm những công việc
cũ, làm những việc mới phù hợp với sức lực, năng lực và điều kiện của mình,
làm các công việc nội trợ, trông cháu trong gia đình,… không mấy ai chịu “bó
tay” nghỉ ngơi hoàn toàn. Ở những nước khan hiếm người lao động, lực
lượng người già, người về hưu còn được xem xét như một nguồn lao động
bổ sung quan trọng (tất nhiên họ phải có chính sách sử dụng hợp lý). Có rất
nhiều động cơ khiến người già tiếp tục tham gia vào công việc: từ những
động cơ kinh tế (do hoàn cảnh bức bách), động cơ mang tính chất tâm lý – xã
hội (do không muốn mất đi uy tín và địa vị xã hội) cho đến những động cơ
mang tính chất nghề nghiệp thuần tuý (những người say mê với nghề nghiệp,
sống bằng “công việc”). Các động cơ này không hẳn lệ thuộc vào ý muốn chủ
quan của mỗi người mà nó bị quy định bởi nhân tố kinh tế – xã hội. Quan
trọng nhất là nó phụ thuộc vào tâm thế xã hội hoặc các định hướng giá trị của
các nhóm xã hội trong đó người già là đặc biệt. Nhưng tuy nhiên, những
nguồn thu nhập trên tuy không nhiều song lại đem đến cho người già cảm
giác sống hữu ích, họ không phải là những người thừa, gánh nặng cho con
cháu.
– Về thu nhập:
Do phải lao động để kiếm sống vào lúc tuổi cao sức yếu mà thu nhập
cuộc sống của người già thấp thậm chí nhiều người còn khó khăn chật vật.
Thu nhập của người cao tuổi phụ thuộc chủ yếu (tương đối ổn định) là dựa
vào bảo hiểm, lương hưu, lợi tức, việc làm, sự giúp đỡ của cộng đồng và sự
trợ giúp của con cháu (về bản chất là sự tuỳ tâm).
– Về sinh hoạt:
Trong mọi thể chế xã hội hiện tồn dưới mọi hình thức hiện có, gia đình
là một thực thể văn hoá song hành biến đổi theo hai chiều: không gian và thời
gian. Chiều không gian là những đặc trưng văn hoá giữa các vùng khác nhau,
còn chiều thời gian là sự biến đổi của gia đình từ truyền thống đến hiện đại.
Gia đình còn là một thể chế cơ sở coi như tế bào của xã hội và vì thế gia đình
đóng một vai trò to lớn trong việc chăm sóc người cao tuổi.
– Về cách sắp xếp cuộc sống:
Khi còn sức khoẻ và khả năng lao động, nhất là khi con cái đã trưởng
thành và có gia đình riêng, người cao tuổi mong muốn được tách ra để có
cuộc sống độc lập với con cái (tách ra nhưng không có nghĩa là ở quá xa con
cái mà phải gần; thậm chí thật gần với gia đình các con hoặc sống với gia
đình một người con trai đã có vợ). Họ chỉ muốn quay trở về sống với con
cháu cho vui vẻ hơn, để có được những điều kiện chăm sóc tốt hơn, khi tuổi
đã cao, sức đã yếu và một trong hai vợ chồng họ có người không may bị mất
sớm hơn. Vì thế, trong gia đình con cái luôn đóng một vai trò lớn trong việc
chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ già, nhất là khi cha mẹ họ muốn quay trở lại
sống cùng con cháu.
Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội và văn hoá hiện nay đang
tạo ra những thay đổi rất lớn trong cấu trúc, quy mô và chức năng của gia
đình. Gia đình tuy vẫn là nguồn trợ giúp cơ bản của người cao tuổi về cả điều
kiện vật chất, tinh thần cũng như khi chăm sóc sức khoẻ. Nhưng nói chung
trong sinh hoạt, người cao tuổi phải đối diện với những mâu thuẫn tất yếu khó
tránh khỏi khi vai trò truyền thống của gia đình trong việc chăm sóc và giúp đỡ
họ đang chịu nhiều sức ép cả về kinh tế, xã hội và tâm lý. Do vậy mà trong gia
đình, nhiều người cao tuổi cảm thấy bất lực, sức yếu và mất tự chủ trong mọi
công việc từ việc nhà, hôn nhân của con cái,..: cho đến việc mất quyền lực
kinh tế, chính trị bảo tồn và truyền bá văn hoá, mặc cảm về sự mất uy thế –
cái uy thế và quyền lực đã được người già tạo dựng nhiều năm từ chiều dài
của năm tháng, bề dày của kinh nghiệm, của tập quán, thói quen,… Nhất là ở
phương Đông, khi người cao tuổi đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của trật tự kỷ
cương Nho giáo đó là: nối tiếp, làm theo và không bao giờ thay đổi (kế, thuật
vô cải) theo nguyên lý: sai khiến, phục tùng (sử và sự) một chiều từ trên
xuống,… Nhiều người cao tuổi cảm thấy bị đứng ngoài cuộc, bị rút ra khỏi
trào lưu của xã hội mà họ đã lớn lên trong đó, họ không còn được tôn trọng
như trước (già rồi biết gì). Giới trẻ tự lập sớm, học nghề ở người khác, không
còn học ở cha mẹ nữa, xã hội ưu ái giới trẻ hơn (trọng cái mới, sự thay đổi,
hăng say, sinh lực…), nhiều con cháu còn cho việc chăm sóc bố mẹ họ nhất
là trong những lúc ốm đau là một gánh nặng cho người thân, gia đình và thậm
chí ở xã hội phương Tây, nhiều con cháu còn đưa người cao tuổi đến viện
dưỡng lão để nuôi,… Vì thế trong gia đình, quan hệ giữa cha mẹ con cái cũng
bị biến dạng đi ít nhiều. Nếu như trước đây việc người già trông nom, chăm
sóc con cháu là một nhu cầu tình cảm thì tới nay, việc đó được coi là một sự
phân công sòng phẳng để người con đi lao động sản xuất.
Tất cả những điều trên khiến người cao tuổi cảm thấy dễ bị mủi lòng,
dễ bị uất ức và dẫn tới dỗi hờn,… họ giận bản thân mình và đôi khi giận cả
người khác. Họ chối từ mọi sự giúp đỡ, cho dù lúc đó họ rất cần sự giúp đỡ
của cả gia đình và xã hội,… Do vậy mà quan hệ xã hội của người cao tuổi bị
thu hẹp đáng kể.
– Về việc sử dụng thời gian rỗi:
Ở cái tuổi gần đất xa trời, người cao tuổi bị hạn chế bởi bệnh tật, sức
khoẻ bởi khả năng đi lại,… nên thời gian rỗi của người cao tuổi thường dùng
trong những hoạt động có tính chất cá nhân nhiều hơn là các hoạt động mang
tính tập thể và cộng đồng.
Những hình thức sinh hoạt mang tính chất hưởng thụ cá nhân được
người cao tuổi tham gia thường xuyên là đọc sách báo, nghe đài, xem vô
tuyến,…
Những hình thức sinh hoạt có tính chất nhóm ít thường xuyên hơn
nhưng lại có số đông người cao tuổi thích tham gia là hoạt động giao tiếp
trong gia đình, họ hàng và trong các bạn bè tri kỷ.
Các hình thức sinh hoạt cộng đồng có tính phi chính thức như cưới hỏi,
cúng giỗ, lễ hội, chùa chiền đặc biệt là ma chay ở các nước phương Đông là
những hoạt động được nhiều người cao tuổi tham gia. Còn đối với các sinh
hoạt cộng đồng có tính chất chính thức hơn như: hội bảo thọ, mặt trận tổ
quốc, hội phụ nữ,… mặc dù có tên trong danh sách các hội viên nhưng thực
chất không được người cao tuổi quan tâm.
Chính những điều trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực hiện nhu
cầu văn hoá của họ. Nhất là nhu cầu tâm linh còn tiềm ẩn sâu trong cuộc
sống của người cao tuổi. Cho dù là đức tin của mỗi người cao tuổi không
giống nhau nhưng chỗ gặp gỡ của họ chính là nó đã tạo nên động lực bên
trong giúp họ sống.
Ở Việt Nam, việc phục hồi các sinh hoạt giỗ Tổ, tết Thanh minh, khôi
phục tộc họ, lập gia phả, lễ mừng thọ,… là một cố gắng của người cao tuổi
tìm cách khẳng định lại vị trí của mình sau một thời gian thiếu vắng. Đây cũng
là một biện pháp giúp người cao tuổi giải toả được những tâm trạng tiêu cực
và hòng lan truyền trong họ tính lạc quan xã hội.
– Về tính tích cực xã hội của người cao tuổi:
So với các nước phương Tây, người cao tuổi Việt Nam có được những
điều kiện thuận lợi để thực hiện được nguyện vọng của mình nhằm đóng góp
công sức, kinh nghiệm và kiến thức cho xã hội.
Trong các thành phố lớn, tỷ lệ người cao tuổi, người về hưu đảm nhiệm
trực tiếp các công việc của bộ máy chính quyền, đảng, tổ chức quần chúng ở
cơ sở,… đặc biệt trong công tác hoà giải chiếm một tỷ lệ cao. Cho dù công
việc bận rộn, chiếm nhiều thời gian, vất vả,… nhưng với vốn sống phong phú,
kinh nghiệm công tác nhiều năm trong các cơ quan xí nghiệp cộng với lòng
nhiệt tình, ý thức trách nhiệm trước xã hội, trước công việc chung khiến
người già tham gia một cách tích cực, họ quên đi sự hụt hẫng do thay đổi nếp
sống quá nhanh, quên đi sự cô đơn và mất đi những mặc cảm về sự vô dụng
của tuổi già. Họ cảm thấy mình sống vui, sống khoẻ, sống có ích hơn.
3.4. Phản ứng của xã hội đối với người cao tuổi
Từ trong gia đình ra ngoài xã hội, bên cạnh những quan niệm cứng
nhắc, đôi khi sai lệch về người cao tuổi như: người cao tuổi thì yếu và vô ích
không còn đóng góp được cho xã hội nữa còn có những nét ứng xử thiếu văn
hoá của một số người, đặc biệt là một bộ phận thanh niên với hàng loạt
những điều chướng tai, gai mắt trong cách xưng hô, cử chỉ, thái độ, hành vi,
thậm chí trong cả những lời nói như: ông khối, bà bô,… Tất cả những điều đó
làm cho người cao tuổi chạnh lòng hoặc phẫn nộ, cảm giác bị xúc phạm.
Trong một số gia đình, nhiều người đã quên đi cái nếp ứng xử kính trên
nhường dưới của con cái đối với ông bà, cha mẹ và anh chị em. Cùng với sự
tước bỏ lề thói gia trưởng và sự áp đặt tư tưởng phục tùng, cúi đầu cam chịu
của người bề dưới, nhiều người cũng đã vứt luôn những quy phạm trong ứng
xử giữa người với người – một biểu hiện của văn hoá, văn minh. Trong gia
đình đã vậy, ngoài xã hội cũng có không ít những biểu hiện làm người cao
tuổi chạnh lòng.
Chúng ta đều biết với độ tuổi già thì sức khoẻ kém là điều dễ hiểu. Vì
vậy nhu cầu chữa bệnh của họ là khá cao. Nhưng họ vẫn cảm thấy ngại
ngùng không muốn đi chữa trị. Đối với những người cao tuổi về hưu, tuy đã
có thẻ bảo hiểm y tế nhưng thái độ phục vụ của các nhân viên y tế khiến cho
người cao tuổi cảm thấy nản lòng còn đối với những người cao tuổi không đi
làm trong các cơ quan, xí nghiệp thì họ lại càng ngại đến bệnh viện hơn khi
mắc bệnh tật bởi tiền chi trả cho việc khám, chữa bệnh và tiền viện phí, tiền
thuốc men;… quá cao. Chính vì lẽ đó người cao tuổi có xu hướng hoặc mặc
kệ tự cho bệnh phát triển không muốn chữa trị, hoặc tự chữa lấy, không dám
nói, ngại phiền hà đến con cháu. Chỉ đến khi bệnh tình đã trầm trọng họ mới
tìm đến sự giúp đỡ của gia đình, của xã hội,…
3.5. Công tác xã hội cho người cao tuổi
3.5.1. Phần đánh giá nhu cầu
Trước hết cần đánh giá những nhu cầu cơ bản và khả năng hoạt động
chức năng thường ngày như:
+ Khả năng tự nấu ăn, tự lo việc ăn uống;
+ Khả năng tự tắm rửa, lo vệ sinh, giặt quần áo;
+ Họ có nhu cầu đặc biệt gì? (Tuỳ theo hoàn cảnh sống cá nhân và ý
muốn của họ), chẳng hạn nhu cầu hoạt động thể thao, giải trí, nhu cầu giao
tiếp thường xuyên với những người xung quanh, nhu cầu cần được chăm sóc
chữa trị bệnh.
3.5.2. Hỗ trợ tìm đến dịch vụ cần thiết
Giúp người già có được hoàn cảnh thuận lợi cho hoạt động của họ
thông qua những hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng như:
– Công tác Xã hội cho người cao tuổi tại nhà: Tại các nước phương
Tây, khi người cao tuổi sống neo đơn tại nhà, thiếu người chăm sóc, người
nhân viên xã hội là người tổ chức cuộc sống cho họ, giúp họ tăng thêm khả
năng tự chăm sóc sức khoẻ và tự túc trong những sinh hoạt thường ngày.
Tổ chức các công việc phù hợp để họ có thể tham gia, tạo niềm vui
trong lao động, mặt khác tạo thêm thu nhập làm giảm bớt cảm giác lệ thuộc.
Khi có những khó khăn mà người cao tuổi không thể tự đáp ứng được
thì cần phải có các dịch vụ hỗ trợ cần thiết (nhất là đối với người cao tuổi độc
thân không gia đình) như: dịch vụ phụ việc nội trợ tại nhà (dọn dẹp nhà cửa,
đi mua bán, nấu nướng), dịch vụ chăm sóc tại nhà (khám chữa bệnh tại nhà,
giúp đỡ khi tắm giặt, chăm sóc khi bị ốm đau,…).
Khuyến khích trẻ em hàng xóm đến trò chuyện,…
– Công tác Xã hội cho người cao tuổi tại nhà an dưỡng:
Nhà an dưỡng cho người cao tuổi chủ yếu duy trì ở các nước phương
Tây, giờ.đây đã có những thay đổi về hình thức tập trung như: người cao tuổi
đã hết cảm giác cô đơn, cảm giác bị ruồng bỏ, cảm giác lo sợ triền miên khi
thường xuyên phải chứng kiến cái chết của những người bạn già ở nhà an
nhưỡng bởi vì họ đã được sống ở những căn hộ kề cận với những hộ gia
đình trẻ.
Tại nhà an dưỡng, nhân viên xã hội đồng thời là thành phần của ê kíp
quản lý, họ đóng vai trò cung cấp dịch vụ xã hội cho người người cao tuổi và
gia đình họ. Nhân viên xã hội giúp giải quyết các vấn đề như: sự tuỳ thuộc ỷ
lại, các hành vi gây hấn và cả những vẩn đề không kiềm chế được như việc
tiểu tiện do tâm lý người cao tuổi.
Nhân viên xã hội còn là cầu nối quan hệ giữa người cao tuổi và gia
đình, khuyến khích sự thăm hỏi của gia đình và đóng góp vào sinh hoạt của
nhà an dưỡng. Tổ chức các câu lạc bộ dành riêng cho người cao tuổi để tại
đây họ có thể mở rộng giao lưu xã hội, có thể chia sẻ tình cảm, nỗi vui buồn
với những người khác.
Tuy nhiên trước khi đưa người cao tuổi vào các nhà an dưỡng, cần
phải cân nhắc kỹ vì ngoài những ưu điểm của nhà an dưỡng là sự chăm sóc
đầy đủ, còn có những mặt hạn chế của nó như: người cao tuổi có thể mất đi
cảm giác tự chủ và tự lập, họ phải sống xa gia đình, xa môi trường quen
thuộc, xa những người thân, xa nguồn hỗ trợ trong cộng đồng sẵn có từ
trước.
– Công tác Xã hội cho người già tại bệnh viện:
Việc phải nằm trong bệnh viện, đối với người cao tuổi là cả một vấn đề
từ việc sợ hãi bị chết, sợ hãi vì bị bỏ rơi cho đến việc mặc cảm vì phải tuỳ
thuộc hoàn toàn vào người khác, mất phương hướng do sự thay đổi môi
trường. Những điều này rất dễ dẫn tới sự hiểu lầm của các y tá, bác sĩ trong
bệnh viện vì vậy vai trò nhân viên xã hội ở đây là:
+ Tư vấn để người cao tuổi bớt cảm thấy buồn chán, cô đơn, giải thích
tiến trình chữa trị;
+ Giúp đỡ người cao tuổi lấy lại hoạt động độc lập;
+ Giúp gia đình, người thân tham gia vào việc chăm sóc.
Bản thân nhân viên xã hội cũng phải tham gia vào kế hoạch xuất viện
của người cao tuổi, bởi những lúc này, thường trong người cao tuổi xuất hiện
sự mâu thuẫn: vừa muốn về nhà, lại vừa sợ phải xuất viện vì ở đây họ có
cảm giác an toàn hơn (do có y tá, bác sĩ khám và chăm nom thường xuyên
hơn).
3.6. Vai trò của nhân viên xã hội
Trong việc chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, nhân viên xã hội thường
phải đảm nhận các vai trò chính sau:
– Vai trò trung gian: nhằm giúp người cao tuổi có điều kiện tham gia
các sinh hoạt trong cộng đồng.
– Vai trò tư vấn cho người cao tuổi và gia đình họ: về các vấn đề tình
cảm, tâm lý, công ăn việc làm, ý nghĩa mới trong cuộc sống, vấn đề về sức
khoẻ, về cái chết,…
– Vai trò nhận diện và cung cấp dịch vụ cho người cao tuổi có nhu cầu:
trợ giúp về tài chính, nơi ở tốt hơn, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ vui
chơi giải trí, dịch vụ du lịch, thăm viếng bạn bè,…
– Vai trò biện hộ, bảo vệ quyền lợi cho người cao tuổi:
Trong tiến trình tiếp cận với người cao tuổi, yêu cầu đối với nhân viên
xã hội phải giữ thái độ tôn trọng, tế nhị, những hành động, cử chỉ thích hợp –
chẳng hạn trong cách xưng hô, khoảng cách khi ngồi nói chuyện,… Tuy nhiên
việc kính trọng người cao tuổi không có nghĩa phải hoàn toàn chiều theo ý
muốn của một số người cao tuổi vì tính tình của họ dễ thay đổi thất thường
làm cho công việc chăm sóc họ gặp khó khăn hoặc đôi khi bị gián đoạn.
Với những người cao tuổi đang có vấn đề cá nhân cần giải quyết, đòi
hỏi nhân viên xã hội phải dành thời gian để tham vấn và lắng nghe họ – lắng
nghe những nỗi niềm, tâm trạng họ trong nhiều lúc và tỏ ra thấu hiểu, cảm
thông. Thậm chí nếu cần thiết, còn phải theo dõi, ngăn cản và giúp đỡ người
cao tuổi giảm bớt ý muốn tự vẫn. Ở những trường hợp như thế này thì đòi hỏi
ở nhân viên xã hội không những kỹ năng về tham vấn mà cả lòng nhiệt tình
và sự kiên trì hơn là những hoạt động chăm sóc khác.
4. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY4.1. Khái niệm về ma tuý và sự nghiện ma tuý
4.1.1. Khái niệm về ma tuý
– Ma: là cây gai.
– Túy: là say.
Ma tuý theo gốc Hán – Việt có nghĩa là mê mẩn.
– Theo Từ điển tiếng Việt: “Ma tuý là chất bột trắng kết tinh dẫn xuất từ
moóc phin rất độc, dùng làm thuốc giảm đau, người lạm dụng có cảm giác
thần kinh bị tê liệt và lâu dần có thể nghiện”.
– Theo Tổ chức Y tế thế giới OMS: “Ma tuý là bất kỳ chất gì mà khi đưa
vào cơ thể sống, có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể”.
Theo nghĩa đó, ma tuý bao gồm những chất được sử dụng hợp pháp như:
rượu, thuốc lá đến những chất chỉ được sử dụng hạn chế theo chỉ dẫn của
thầy thuốc để chữa bệnh như moóc phin và những chất bị cấm như thuốc
phiện, heroin, cocain,…
– Hiểu theo nghĩa hẹp và thông dụng: thì ma tuý được tinh chế từ một
số loại cây có tên là cần sa, anh túc thường được dùng trong y học để làm
thuốc giảm đau và chữa bệnh. Tuy nhiên, nếu dùng vào mục đích phục vụ
nhu cầu giải trí với liều cao để có cảm giác đặc biệt thì nó sẽ trở thành chất
gây ức chế thần kinh, gây ra ảo giác cho người sử dụng, khi dùng nhiều
thành thói quen dẫn đến nghiện.
– Theo nghĩa rộng (1982) của Tổ chức Y tế thế giới nêu, được
UNESCO và Nhà nước ta công nhận: “ma tuý là một thực thể hoá học hoặc là
những thực thể hỗn hợp khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một
sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những chất đó sẽ làm biến đổi chức
năng sinh học và tinh thần của con người”.
Như vậy có thể hiểu, ma tuý bao gồm: thuốc phiện, cần sa, heroin,
moóc phin và các chất kích thích thần kinh,…
4.1.2. Khái niệm nghiện ma tuý
Là trạng thái nhiễm độc chu kỳ, mãn tính do sử dụng lặp lại nhiều lần
một chất độc tự nhiên hay tổng hợp nào đó. Đặc trưng của sự nhiễm độc là:
+ Cần tăng liều tiêu dùng;
+ Sự lệ thuộc của tâm sinh lý của người dùng vào tác dụng của thuốc;
+ Người nghiện ma tuý là những người thường xuyên dùng một chất
gây độc, có hiện tượng phụ thuộc thuốc (bắt buộc dùng thường xuyên, nếu
không, xuất hiện hội chứng cai như: vật vã, lo âu, rối loạn giấc ngủ, đau mình
mẩy,…). Nói một cách khác, nghiện ma tuý là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay
mãn tính do các chất ma tuý gây nên cho người sử dụng chúng, có nghĩa là lệ
thuộc thuốc về mặt thể chất và tâm thần (tức là phải tăng liều).
4.1.3. Các phương thức sử dụng
Ma tuý được đưa vào cơ thể bằng các con đường như:
– Hút: thuốc phiện, bạch phiến, cần sa, heroin, cocain,…
– Tiêm (chích): gồm tiêm chích dưới da, tiêm bắp hoặc trên tĩnh mạch.
– Nuốt, uống: thuốc phiện sống, moóc phin, các thuốc an thần.
– Nhai: lá coca.
4.2. Đặc điểm chung của người nghiện ma tuý
Ham muốn chất thuốc khó có thể kiềm chế được: lệ thuộc nhiều về tâm
lý và thể chất do sự tác dụng của thuốc.
– Sự lệ thuộc về tâm lý: là hiện tượng mà đối tượng khi đã cai nghiện
một thời gian những chỉ nghe nói chuyện về thuốc hoặc thấy người nào sử
dụng là xuất hiện các hiện tượng như: bứt rứt, ngáp, chảy nước mũi,… và
muốn sử dụng lại.
– Sự lệ thuộc thể chất: là hiện tượng thay đổi sinh lý mà đối tượng sau
một thời gian dùng ma tuý liên tục xuất hiện những triệu chứng vật vã nếu
như không có thuốc.
Sự lệ thuộc thể chất có thể giảm đi nhanh chóng nhưng sự lệ thuốc tâm
lý là yếu tố làm cho người nghiện quay trở lại dùng thuốc nhanh nhất và nhiều
nhất. Người nghiện ma tuý khuynh hướng tăng dần liều lượng thuốc dùng.
4.3. Văn hoá của người nghiện ma tuý
4.3.1. Các nhu cầu của người nghiện
– Những người nghiện và những người đã cai nghiện khi trở về muốn
sống trong tình thương yêu của gia đình, cộng đồng và trong lòng tin của mọi
người – chính tình thương yêu và lòng tin đó sẽ làm tăng thêm sức mạnh
trong cuộc sống của những người nghiện, giúp họ vượt qua tất cả để trở về
với cuộc sống đời thường.
– Những người nghiện muốn được sống trong một môi trường trong
sạch không còn ma tuý. Không chỉ trong khoảng thời gian điều trị mà còn cả
sau khi đã cai nghiện trở về, cho dù là chỉ thấy hoặc nghe nói tới ma tuý.
Những người nghiện có nhu cầu lớn về hỗ trợ y tế để chữa trị bệnh, cai
nghiện và phục hồi sức khoẻ.
– Những người nghiện cần có các thông tin, kiến thức về bệnh của
mình để hiểu rõ được nguyên nhân, tác hại và có các phương pháp phòng
chống căn bệnh này. Từ đó giúp họ chủ động tham gia vào chương trình cai
nghiện cũng như phòng chống các tệ nạn xã hội.
– Những người nghiện cần được xã hội giúp họ có một nghề nghiệp ổn
định để họ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống; tìm lại được niềm vui trong lao
động, niềm tin, tình thương yêu của gia đình, cũng như ngoài xã hội và cũng
thông qua đó họ mới không còn cảm giác bị gia đình, xã hội bỏ rơi mà cảm
thấy mình như được tái hoà nhập với cộng đồng trên cơ sở quan hệ bình
đẳng, không bị đối xử phân biệt.
4.3.2. Những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của người nghiện
– Về phương diện hoạt động lao động:
Phần lớn những người nghiện (theo thống kê của Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội – chiếm khoảng hơn 60%) là thất nghiệp, khoảng hơn 20% là
những người lao động tự do đi vào con đường nghiện hút, số còn lại là những
người đang làm việc trong các cơ quan xí nghiệp, học sinh, sinh viên,… Đó là
những người bị nghiện do nhu cầu công việc (vận động viên thể thao muốn
chạy nhanh hơn, học sinh, sinh viên muốn thức đêm để học,…) và những
người bị bệnh nặng buộc phải dùng ma tuý để điều trị vết thương,…
Như vậy có thể nói, hoạt động lao động của những người nghiện là
không có hoặc nếu có thì cũng không ổn định, bấp bênh, vì thế thu nhập của
họ phụ thuộc chủ yếu vào gia đình như: Bố mẹ, chồng, con, vợ,… dưới nhiều
hình thức: xin gia đình, lừa đảo gia đình một cách khéo léo, ăn cắp,… và nếu
như trong gia đình không còn khả năng để giúp họ có tiền thoả mãn nhu cầu
hút, chích thì họ ra ngoài xã hội – cũng thông qua hàng loạt các hành vi: từ ăn
xin, móc túi cho tới cướp của giết người – miễn sao có tiền, càng nhiều tiền
càng tốt để hòng thoả mãn nhu cầu cá nhân, nhu cầu hưởng lạc, hòng quên
đi tâm trạng chán chường, cay đắng vì thực tế xã hội, vì cuộc sống của chính
cuộc đời họ, cả vì tò mò hay do áp lực của nhóm bạn nữa,…
– Về sinh hoạt:
Những người lao vào con đường nghiện hút là những người bị khủng
khoảng niềm tin, là những người tò mò muốn thử và cũng là những người bị
áp lực của nhóm bạn mà mình quan hệ cho nên họ đã đi tìm sự bù đắp qua
ma tuý. Ma tuý sẽ giúp họ bớt lo âu từ đó họ hoàn toàn phụ thuộc vào ma tuý.
Họ lệ thuộc đến mức phải dùng liên tục để khỏi bị vật vã khi không có thuốc
(vòng luẩn quẩn này đưa họ đến sự nghiện ngập ngày càng nặng). Họ sống
co mình thu hẹp vào các phạm vi thích thú, họ luôn u sầu, lãnh đạm và trở lên
phó mặc đối với người thân, gia đình, thờ ơ và bỏ bê công việc với cả vui
buồn, họ chai lỳ cảm giác đối với mọi mặt của cuộc sống đời thường như: tình
yêu, vui chơi, giải trí, học hành,.. Tất cả đối với họ đều vô nghĩa. Ở họ, khi có
ma tuý thì thương cha, thương mẹ, kêu gào tình thương nhưng khi hết ma tuý
thì tỏ ra thù ghét, phẫn uất tất cả – thậm chí tới mức độ liều lĩnh mất hết tính
người, hung hãn và đi đến con đường phạm pháp.
Trong quan hệ với gia đình, những người nghiện – thường cảm thấy
thiếu thốn về tình cảm do bị gia đình mải mê làm kinh tế không quan tâm, do
gia đình bỏ rơi vì cảm thấy bất lực khi bỏ ra quá nhiều tiền bạc và sức lực mà
không giúp được người thân cai nghiện hẳn hoặc cũng có khi do bỏ mặc
không quan tâm vì cho rằng, những người nghiện trong nhà làm ảnh hưởng
tới uy tín của chính bản thân họ. Tuy nhiên cũng có những người nghiện vẫn
sống trong tình thương yêu của gia đình, cộng đồng, bản thân họ cũng nhận
thức được hoàn cảnh, tình trạng sức khoẻ của chính mình, những điều mà họ
đã gây ra cho gia đình và bạn bè trong lúc tỉnh táo. Nhưng tuy nhiên họ vẫn
không vượt qua được chính mình để tái hoà nhập với cộng đồng. Chính vì lẽ
đó họ vẫn thường sống trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi, không thiết quan hệ
với người nào cả.
– Về sức khỏe:
Theo y học phân tích, khi con người hút, chích thì chất ma tuý sẽ phá
hủy vỏ não, gây nên ở người nghiện tình trạng giảm trí nhớ và giảm tốc độ
phản ứng ở hệ thần kinh. Vì thế, xét trên toàn diện, thì ở những người này
sức khoẻ bị giảm sút rõ rệt cả về trí lực lẫn thể lực. Dấu hiệu rõ nhất phản ánh
sự biến đổi của cơ thể theo chiều hướng tiêu cực là: ngáp vặt, đờ đẫn, gầy
guộc, môi thâm, da xanh xám, mặt tái,… Bên cạnh những dấu hiệu trên, ở
người nghiện còn xuất hiện một số bệnh kèm theo như: xuất huyết phổi, dạ
dày, ghẻ, ung mủ, gan thận, tóc khô và rụng,… thậm chí còn bị giang mai và
có nguy cơ bị nhiễm HIV/AIDS cao.
Cho đến nay, người ta đã phát hiện khoảng 25 loại bệnh phát sinh do
nghiện ma tuý.
4.3.4. Hậu quả của những người nghiện
Hậu quả do nghiện hút mang lại thật nặng nề, gây thiệt hại lớn không
những cho bản thân, cho gia đình mà còn cho cả ngân sách của nhà nước và
cho cả xã hội.
– Đối với bản thân người nghiện hút:
Dù sử dụng ma tuý bằng con đường nào thì cũng sẽ dẫn con người
đến tình trạng suy đồi đạo đức (lợi dụng lòng tin, tình thương yêu của gia đình
và xã hội để lừa đảo lấy tiền, đem đồ đi bán) và bị huỷ hoại sức khoẻ của
chính bản thân họ. Ở những người nghiện sẽ phát sinh ra nhiều rối loạn về
mặt sinh học, cùng với những bệnh nguy hiểm đến tính mạng của họ.
– Đối với gia đình người nghiện:
Những gia đình có người thân mắc vào nghiện hút, chích thì kinh tế sẽ
bị suy sụp. Từ suy sụp kinh tế dẫn tới xung đột trong gia đình, người thân
trong gia đình luôn luôn cảnh giác với họ, còn tình cảm thì bị rạn nứt, gia đình
không hạnh phúc và điều nguy hại hơn, những đứa trẻ sinh ra từ các ông bố
bà mẹ nghiện ngập sẽ bị tật nguyền về thể xác hoặc tinh thần.
– Đối với xã hội:
Gia đình là tế bào của xã hội. Nghiện hút ma tuý phá hoại hạnh phúc và
kinh tế gia đình là tiền đề của sự rối loạn xã hội. Chẳng hạn như: ảnh hưởng
đến anh ninh xã hội, ảnh hưởng đến kinh tế xã hội,… trong đó yếu tố an ninh
xã hội được mọi người coi trọng gấp 10 lần so với những người nghiện đã
tiêu tốn không ít chi phí xã hội cho việc chữa trị cai nghiện, bởi những người
cai nghiện hẳn vẫn còn quá ít.
4.4. Phản ứng xã hội đối với những người nghiện hút
Nếu thừa nhận tệ nạn ma tuý là những hành vi lệch chuẩn mực xã hội
do con người gây ra, do con người làm chủ thể thì rõ ràng có thể thấy được
để dẫn tới hành vi lệch chuẩn xã hội đó không chỉ phụ thuộc vào yếu tố bên
ngoài mà còn phụ thuộc vào yếu tố bên trong với những kết cấu phức tạp của
tâm sinh lý, ý thức tư tưởng. Vì vậy phản ứng của xã hội đối với những người
nghiện hút cũng theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực.
– Phản ứng của xã hội theo chiều hướng tích cực
Nhiều người khi tiếp xúc hoặc khi nói về những người nghiện ma tuý,
cho rằng đó là những con người đáng thương, đáng được quan tâm giúp đỡ
bởi lẽ họ bị nghiện có thể do nguyên nhân như bị bạn bè lôi kéo, chưa hiểu
biết hết tác hại của ma tuý, do hoàn cảnh xô đẩy họ chưa hẳn là những người
xấu.
Trên cơ sở sự hiểu biết này, bày tỏ thái độ quan tâm, tích cực tham gia
vào các hoạt động giúp đỡ những người nghiện như: động viên, khuyên nhủ.
Nhất là đối với những người cai nghiện trở về thì họ tỏ ra rất vui vẻ, tìm mọi
cách tạo điều kiện cho những người nghiện quay trở về học tiếp văn hoá (đối
với những người học dở) và giúp tìm việc làm. Thậm chí còn tạo điều kiện
cho họ tham gia các hoạt động xã hội,… bởi họ nghĩ rằng, khi đã được đi học
văn hoá, có vốn tri thức nhất định, những người nghiện sẽ tiếp thu được phần
nào những tác hại của ma tuý, của việc dùng ma tuý và khi đã được đi học,
người nghiện mới được sống trong môi trường đầy ắp tình người (thầy cô,
bạn bè,…).
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực còn không ít những người có
thái độ với người nghiện.
– Phản ứng của xã hội theo chiều hướng tiêu cực:
Nếu như ở những người còn nhìn nhận những người nghiện theo khía
cạnh nhân văn, mặt tích cực của họ thì trong xã hội cũng không ít người luôn
cảnh giác, lo lắng trước những người nghiện. Họ luôn cho rằng, đó là những
con người xấu, luôn rình rập, trộm cắp, là những người có những hoạt động
không trung thực, thậm chí có những việc làm mất tính người. Chính vì vậy
mà họ không những luôn xa lánh, không cho con em mình tiếp xúc, giao du
với những người nghiện sợ rằng, con em mình sẽ bị tiêm nhiễm không những
với những người nghiện mà họ còn có thành kiến với cả gia đình của những
người nghiện, bỏ mặc không quan tâm giúp đỡ.
4.5. Công tác xã hội cho người nghiện hút
4.5.1. Nhận định tình hình chung của người nghiện hút
+ Mức độ nghiện: chất gì, từ bao giờ, cách dùng (hút, hít, uống, tiêm
chích tĩnh mạch..), liều lượng (bao nhiêu/ 1lần và một ngày);
+ Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghiện;
+ Tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình: tình hình kinh tế, quan hệ trong gia
đình và sự quan tâm của gia đình;
+ Tìm hiểu nhu cầu đặc biệt của đối tượng: các khó khăn mà thân chủ
đang gặp phải,…;
+ Trình độ hiểu biết về ma tuý của đối tượng và gia đình họ;
+ Đối tượng và gia đình có muốn cai nghiện không;
+ Nghề nghiệp và khả năng tạo lập kinh tế của thân chủ;
+ Tình trạng sức khoẻ, tuổi, các rối loạn nhân cách, các bệnh kết hợp,
các hành vi phạm tội.
4.5.2. Công tác Xã hội với người nghiện hút
Tiếp xúc để hiểu rõ hoàn cảnh của thân chủ. Giải thích cho thân chủ rõ
về tác hại của ma tuý, cùng bàn bạc với thân chủ về các giải pháp, hướng cai
nghiện thông thường. Về mặt lý thuyết việc cai nghiện phải qua 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Chế ngự vật vã, tạo sự năng động, thiết lập mục tiêu cho
cá nhân.
– Giai đoạn 2: Giải quyết mâu thuẫn cá nhân mà có và tăng cường khả
năng tâm lý xã hội.
– Giai đoạn 3: Phục hồi, tái hoà nhập cộng đồng, phòng ngừa sự trở lại
với ma tuý.
Tổ chức cai nghiện cho đối tượng tại các cơ sở cai nghiện; thuyết phục,
động viên những mặt tốt của thân chủ, hướng tới những điều tốt đẹp để họ từ
bỏ ma tuý. Cung cấp các hỗ trợ cần thiết trong khi cai nghiện, chẳng hạn như
hỗ trợ y tế, sinh hoạt giáo dục, lao động và vui chơi giải trí.
Công tác hỗ trợ tâm lý xã hội trong cộng đồng là cần thiết để tránh tái
nghiện, chẳng hạn thiết lập mối quan hệ thân thiết, tránh mặc cảm, xa lánh
người nghiện, cung cấp dịch vụ tư vấn khi cần thiết.
– Tổ chức các câu lạc bộ những người nghiện ma tuý, có sinh hoạt
định kỳ, các thành viên giúp đỡ nhau về mặt tâm lý để vượt qua sự cám dỗ
của ma tuý, các hoạt động giải trí khác nhằm làm người nghiện thích nghi trở
lại với cuộc sống.
– Tạo cho người nghiện có công ăn việc làm, tự lập về kinh tế sau khi
đi cai nghiện trở về.
– Giúp những người nghiện tự điều chỉnh các tương tác sai lệch giữa
bản thân họ với những thành viên khác trong gia đình thông qua việc giải
thích cho họ về việc hoà nhập vào gia đình và có trách nhiệm với gia đình của
mình.
4.5.3. Công tác Xã hội đối với gia đình người nghiện
Cung cấp thông tin cho gia đình có người nghiện về tác hại của ma tuý,
cách phát hiện ma tuý, cách cai nghiện, phục hồi chức năng tâm lý xã hội cho
những người nghiện trong gia đình họ.
– Giúp gia đình những người nghiện giải quyết những xung đột trong
tương tác giữa các thành viên trong gia đình để từ đó những người nghiện có
cơ hội được sống trong môi trường hoà thuận.
– Thuyết phục để gia đình người nghiện quan tâm, thương yêu thực sự
và tin tưởng ở họ (những người nghiện), không xa lánh hắt hủi họ mà ngược
lại những người thân trong gia đình phải gần gũi, dẫn dắt, nâng đỡ họ mỗi khi
họ gặp khó khăn. Và cũng từ đây, những người nghiện sẽ tìm thấy được chỗ
dựa về tinh thần, vật chất để vượt qua khó khăn, từ đó họ sẽ không còn ý
nghĩ dùng ma tuý để tìm lối thoát nữa.
– Kết hợp với các trung tâm để làm công tác cho người nghiện.
– Gia đình những người nghiện phải có trách nhiệm đưa thân chủ
(những người nghiện) thích ứng lại trong sinh hoạt và điều kiện trước đây.
4.5.4. Công tác Xã hội với cộng đồng
Trong cộng đồng, việc thực hiện công tác phục hồi chức năng, tâm lý
xã hội cho những người nghiện đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì nếu
như làm tốt, nó sẽ có tác dụng đề phòng những người nghiện tái nghiện.
Muốn vậy thì trước hết phải:
– Giáo dục ý thức cho mọi người trong xã hội không những không xa
lánh những người nghiện mà còn có trách nhiệm nâng đỡ, giúp đỡ họ bằng
mọi khả năng có thể có.
– Tạo điều kiện cho những người nghiện được học tập, làm việc tại
cộng đồng. Bên cạnh đó còn hỗ trợ cho những người đi cai nghiện trở về với
yếu tố vật chất, y tế,… bởi vì lúc này họ thường gặp nhiều khó khăn.
– Phối kết hợp nhiều ngành, nhiều đoàn thể để phòng chống nghiện hút
ma tuý trong xã hội như: phát hiện và triệt phá các ổ tiêm chích, buôn bán và
vận chuyển ma tuý,…
4.6. Vai trò của nhân viên xã hội
Nhân viên xã hội đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp
thân chủ cai nghiện và giúp họ tái hoà nhập với cộng đồng sau khi họ cai
nghiện trở về.
Những công việc chính đòi hỏi nhân viên xã hội phải đảm nhận:
– Vãng gia: thăm viếng gia đình có người nghiện để nhằm mục đích
khuyến khích những người nghiện lánh xa với thuốc và khuyến khích gia đình
giúp đỡ họ trong những việc này.
– Cùng với những người nghiện đến tái khám định kỳ tại các trung tâm
y tế.
– Thường xuyên liên lạc với những người nghiện (trường hợp không
gặp trực tiếp được phải liên lạc bằng thư).
– Giúp những người nghiện tìm công ăn việc làm. Bởi vì chính hoạt
động lao động sẽ giúp những người nghiện tìm niềm vui, ý nghĩa của cuộc
sống, giúp họ thấy được giá trị của đồng tiền, của sức lao động, giá trị của
bản thân mình. Và cũng thông qua lao động, những người nghiện mới cảm
thấy mình được quan hệ với mọi người khác một cách bình đẳng, mình được
tin, được yêu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong việc củng cố
và duy trì lâu dài kết quả cai nghiện.
Muốn làm được như vậy, người nhân viên xã hội cần phải chú ý những
điểm sau:
– Phải đặt lòng tin vào những người nghiện. Nếu nhân viên xã hội làm
được như vậy, có nghĩa họ đã tiếp sức giúp những người nghiện vượt qua
được bệnh tật khó khăn của sự cám dỗ, vượt qua được chính mình và từ đó
tự trách nhiệm với cuộc sống của mình.
– Phải thay đổi môi trường sinh hoạt cho những người nghiện nhằm
tránh những cám dỗ, từ đó mới giúp người cai nghiện có hiệu quả.
– Người nhân viên xã hội phải dùng tình cảm để thuyết phục những
người nghiện, tìm hiểu những nguyên nhân đã đẩy họ vào con đường nghiện
ngập, từ đó mới giúp họ thoát khỏi sự cô đơn và mặc cảm tội lỗi của mình.
– Phải tôn trọng nhân phẩm của người nghiện bởi nếu còn nghi ngờ và
xúc phạm đến nhân phẩm của họ cũng có nghĩa là làm cho họ đau khổ thêm
và đẩy họ quay trở lại với con đường nghiện ngập.
– Giúp nâng cao nhận thức cho người nghiện để họ hiểu được về tệ
nạn xã hội này mà từ đó chủ động, tích cực hợp tác giải quyết chữa trị bệnh
của mình.
– Tạo điều kiện cho người nghiện có được những niềm tin trong công
việc từ đó họ không còn thời gian nào mà suy nghĩ về những chuyện không
hay nữa,…
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3
1. Khái niệm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn? Đặc trưng cơ bản của
nhóm đối tượng này? Phân tích kỹ thuật hỗ trợ trong trường hợp Công tác Xã
hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Với tư cách là một nhân viên Công tác
Xã hội, anh (chị) sẽ có những hoạt động nào để giúp đỡ nhóm đối tượng này?
2. Trình bày khái niệm về người khuyết tật. Đặc điểm của nhóm người
khuyết tật. Nhu cầu của họ là gì? Phân tích kỹ thuật hỗ trợ trong trường hợp
Công tác Xã hội với người khuyết tật. Nhân viên Công tác Xã hội có vai trò
như thế nào trong việc giúp đỡ giải quyết các vấn đề cho người khuyết tật?
3. Khái niệm chung về người già, đặc điểm tâm sinh lý, tình hình người
cao tuổi ở nước ta hiện nay. Nhưng vấn đề nảy sinh đối với người cao tuổi
trong xã hội hiện nay là gì? Nhu cầu của người cao tuổi. Phân tích kỹ thuật hỗ
trợ trong Công tác Xã hội với người cao tuổi. Nhân viên xã hội có vai trò như
thế nào trong việc giúp đỡ nhóm đối tượng này?
4. Khái niệm về ma túy và người nghiện ma túy. Đặc điểm tâm sinh lý
của người nghiện ma túy. Những rào cản đặt ra khi tái hoà nhập cộng đồng
cho người nghiện là gì? Phân tích kĩ thuật hỗ trợ trong trường hợp Công tác
Xã hội với người nghiện ma túy. Vai trò của nhân viên Công tác Xã hội đối với
nhóm đối tượng này. Với tư cách là một nhân viên Công tác Xã hội, anh (chị)
sẽ triển khai những hoạt động nào nhằm giúp đỡ nhóm đối tượng này tái hoà
nhập cộng đồng?
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. A.A. Akmalova, P.U. Pavlenok và các cộng sự, Cơ sở của Công tác
Xã hội, sách tiếng Nga (lược dịch), NXB Matxcơva, 2002.
2. Therese L. Baker, Thục hành nghiên cứu xã hội, Nhà Xuất bản Chính
trị quốc gia, 1998.
3. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Chủ biên), Xã hội học đại cương,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1997.
4. Phạm Tất Dong (Chủ biên), Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Ha
Nội, 2001.
5. Nguyễn Sinh Huy, Xã hội học đại cương, NXB Khoa học Xã hội,
1998.
6. Phạm Huy Dũng, Bài giảng: Lý thuyết và thực hành Công tác Xã hội,
Đại học Thăng Long, 2006.
7. Nguyễn Thị Oanh, Công tác Xã hội đại cương, Nhà xuất bản Giáo
dục, 1998.
8. Elizabeth A. Ferguson, Social Work, Coppyright, 1975 hy
J.B.Lippincott Company (Philadelphia – New York – Toronto).
9. Encyclopediea of Sociology, vol 1, Fidzoy Dearmorn Publishes Uk
and US, 1995.
10. Trần Đình Tuấn: Lý thuyết và Thực hành CTXH, NXB ĐH Quốc gia,
2009.
11. Trích bài phát biểu trong đợt tập huấn: Đào tạo cho các đào tạo
viên về Công tác Xã hội, Tổ chức tại Hà Nội từ 3/6 – 10/7/ 1996.
12. G. Endrrweit Và G. Trommsdorrff, Từ điển Xã hội học, NXB thế giới,
2001.
13. Quốc triều hình luật, NXB Chính trị Quốc gia, 1995.
14. Social Work Defined, 1979.
15. Trịnh Hằng Sinh (Chủ biên), Khái luận Xã hội học, NXB Đại học
Nhân dân Trung Quốc, 2000.
16. Bùi Thế Cường, Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam
thập niên 90, NXB Khoa học Xã hội, 2002.
17. Trần Văn Kham, Hiểu về Công tác Xã hội, Tạp chí Xã hội học,
2009.
18. Lê Văn Phú, Công tác Xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
19. Hermann Korte, Nhập môn về lịch sử xã hội học, NXB Thế giới,
1997.
20. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu
Xã hội học, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
21. Thanh Lê, Những vấn đề Xã hội học, NXB Thanh niên, 1999.
22. Đào Hữu Hồ, Thống kê Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
1998.
23. Vũ Quang Hà, Các lý thuyết Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2001.
24. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết Xã hội học, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2002.
25. Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới, 2002.
26. Jean – Claude Passeron, Lý luận Xã hội học, NXB Thế giới, 2002.
27. Bùi Đình Thanh, Xã hội học và chính sách xã hội, NXB Khoa học Xã
hội, 2004.
28. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trinh Luật an sinh xã hội, NXB
Công an Nhân dân, 2008.
MỤC LỤCLỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
1. Khái niệm Công tác Xã hội
2. Các cấp độ của Công tác Xã hội
3. Phân biệt Công tác Xã hội với Công tác từ thiện, Cứu trợ xã hội, Bảo
đảm xã hội
4. Quan hệ giữa Công tác Xã hội với một số ngành khoa học xã hội
khác
5. Mục đích và chức năng của Công tác Xã hội
6. Vài nét về sụ ra đời của Công tác Xã hội
Câu hỏi ôn tập chương 1
Chương 2: NỀN TẢNG KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Nền tảng lý thuyết của Công tác Xã hội
2. Các quan điểm giá trị, nguyên tắc và quy chuẩn đạo đức ngành Công
tác Xã hội
3. Phương pháp Công tác Xã hội
Câu hỏi ôn tập chương 2
Chương 3: CÁC NHÓM ĐỐI TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG
1. Công tác Xã hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
2. Công tác Xã hội với những người khuyết tật
3. Người cao tuổi
4. Công tác Xã hội với người nghiện ma tuý
Câu hỏi ôn tập chương 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
GIÁO TRÌNHNHẬP MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
Tác giả: TS. MAI THỊ KIM THANH
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch Hội đồng Thành viên kiêm Tổng Giám đốc: NGÔ TRẦN ÁI
Tổng biên tập kiêm Phó Tổng Giám đốc: NGUYỄN QÚY THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dung:
Phó Tổng biên tập LÊ HỮU TỈNH
Giám đốc Công ty CP Sách ĐH – DN NGÔ THỊ THANH BÌNH
Biên tập nội dung và sửa bản in: NGUYỄN NGỌC DIỆP
Trình bày bìa: BÍCH LA
Thiết kế sách và chế bản: NGUYỄN NGỌC DIỆP
Công ty CP Sách Đại học – Dạy nghề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
giữ quyền công bố tác phẩm.
Mã số: 7X523Y1 – DAI
Số đăng kí KHXB: 1048–2011/CXB/31–1495/GD. In 700 cuốn (QĐ in số: 43),
khổ 16 x 24 cm. In tại Công ty CP in Phúc Yên. In xong và nộp lưu chiểu
tháng 10 năm 2011.