giẢi mà - thanhlinhvietnam.comthanhlinhvietnam.com/tailieu/giamakhaitamdaodolm... · 2 lỜi...
TRANSCRIPT
GIẢI MÃ
KHAI TÂM ĐẠO
LM. JOSEPH NGUYỄN BÌNH AN
2
LỜI NGỎ
Đang khi mở khoá “Thánh Linh Canh Tân Đặc Sủng” tại
hội trường Dòng Chúa Cứu Thế (Phía trên nhà sách Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp), một sự tình cờ đã xảy ra làm tôi
suy nghĩ sâu đậm thêm về cái gọi là “Đại Đạo Yêu” hay
“Khai Tâm Đạo”, và đôi khi được gọi một cách nhẹ
nhàng, là phong trào “Sống Lời Chúa” do Lm. Gioan
nguyễn văn Minh hình thành.
Một người tín hữu, sau khi đọc cuốn sách “Ƣu và
khuyết điểm của Khai Tâm Đạo” tôi phát hành và biếu
năm 2010, đã đến gặp, và trao cho tôi cảo bản cuốn
“Khai Tâm Đạo”, là bút ký của Lm. Gioan Nguyễn văn
Minh. Cùng với cảo bản này là một tâm thơ của một số
anh chị em tín hữu thuộc Tổng giáo phận Thành Phố đệ
trình ĐTGM Sai Gon, tố cáo sự sai trái, và lạc lối của
Khai Tâm Đạo. Các tài liệu này chứng minh Khai Tâm
Đạo đúng là một “Dị giáo = Cult”.
Thơ tố cáo trích dẫn những lời: “LM. Gioan Minh giảng
dậy,” còn lưu giữ trong các cuốn băng do các đồ đệ của
Khai Tâm Đạo thực hiện, và đã được: phân phối đi nhiều
nơi. Khi trao những tài liệu này, người tín hữu nhiệt
thành, và có tâm huyết, mong sống tín trung với Tổng
Giáo Phận thành phố nói riêng và giáo hội VN nói
chung, đã nhỏ nhẹ và ân cần nói: “Xin cha viết những gì
cần, để cứu giáo hội Việt Nam! Và xin cha viết càng sớm
càng tốt hầu giúp giáo dân! xin chân thành cám ơn cha.”
3
Tôi đã chân thành nhận món qùa đột xuất, nhưng qúi hóa
này, và cẩn thận gói lại, đem về USA nghiên cứu, hầu có
đầy đủ thực chất, và tài liệu để viết về hội chứng (syn-
drome) “Đại Đạo Yêu = tình yêu Thiên Chúa!
(1Jn.4:8,16)” hay dị giáo “Khai Tâm Đạo” của thế kỷ
21 phát sinh, do Lm. Gioan Nguyễn văn Minh, tại Việt
Nam.
Nhận các tài liệu, tôi mắc nợ tình yêu với người đã chân
thành trao phó sứ mệnh làm sáng tỏ vấn đề, và lo lắng về
những sai trái của Khai Tâm Đạo. Lưu giữ được bút ký
của Lm. Gioan Minh, hẳn người tín hữu vô danh này, đã
có một thời là đồ đệ trung kiên, và tin cẩn của Lm.
Gioan Minh. Nhưng ông đã sớm nhận ra cái sai lầm
theo truyền thống của giáo hội, và ông đã can đảm thoát
ly khỏi tổ chức dị giáo này. Khi được hỏi về qúi danh,
người tín hữu trên dưới 70 tuổi này đã khiêm tốn: “Con
xin được là một nhân vật ẩn danh. Nếu cha muốn liên
lạc với con, xin liên lạc qua ông Đức cho tiện!” Tôn
trọng ý kiến của ông, tôi đã hoan hỉ cám ơn ông, và tôi
hứa là sẽ sớm hoàn thành điều ông nhờ vả. Chắc chắn là
tên tuổi của ông, cũng sẽ đương nhiên được nhiều người
biết tới sau này.
Tôi đã được nghe, được chứng kiến những thủ đoạn,
những mưu tính, những lật lọng, những vu khống, những
xuyên tạc cố tình , đánh lận con đen, kín kín hở hở, thiếu
chân thành, và tuyệt đối ấu trĩ của nhóm Khai Tâm Đạo
tại Sacramento, CA. USA. Vì thế, tôi run sợ trước
mãnh lực của ma qủi đang thao túng thế giới. Theo linh
đạo Chúa Giêsu đề ra “Cứ xem qủa biết cây (Mt. 7: 15-
4
20)” tôi và nhiều người đã nhận diện, và kiểm chứng là
không có “Thần Trí Chúa, và chân lý (Jn.4:23)” trong
nhóm dị giáo này.
Điều này dễ hiểu thôi, vì đó là hậu kết của: “Rau nào sâu
nấy!” Nhân vật tạo ra Khai Tâm Đạo, cũng đang núp
bóng Chúa, hay Giáo Hội Công Giáo, nhưng đích thị là
đang “Đồng thanh tương ứng,” và “Đồng khí tương cầu”
và “Cùng một tần số!” với các Đấng Cô Hồn! Nhất là
đang duy trì vị thế hiện tại, để cổ võ, và bao che: “Dị
giáo Khai Tâm Đạo” ngay trong lòng giáo hội Thành
Phố. Trong tập sách nhỏ này, tôi sẽ cố gắng trình bầy
hai điểm căn bản:
1. Những sai lầm tệ hại của cảm nghiệm Đại Đạo Yêu,
hay Dị giáo Khai Tâm Đạo.
2. Thơ của một số tín hữu thành phố HCM khởi tố sự sai
lầm của dị giáo Khai Tâm Đạo.
Hy vọng những chứng dẫn từ cảo bản do chính Lm.
Gioan Minh soạn thảo, lời dậy của Gioan Minh từ các
băng ghi lại, thơ khởi tố do chính những ai đã trực tiếp
nghe, sẽ là những tiếng nói trung thực nhất, mạnh mẽ
nhất chứng minh sự lầm lẫn và tệ hại của “Dị Giáo Khai
Tâm Đạo.”
Nhờ đó những ai chưa nhập cuộc biết xa lánh, và những
ai đã lỡ theo, biết lối ra, và dứt khoát với con đường
không phải là giáo lý căn bản, và truyền thống của giáo
hội Công Giáo. Vì là dị giáo, nên Khai Tâm Đạo, với
5
cách tôn thờ các đấng cô hồn, đã không thể dẫn đến ơn
cứu độ, như Thánh Phaolô đã minh định “Không ai có
thể đặt nền móng nào khác, ngoài nền móng đã đặt
sẵn là Chúa Giêsu Kitô (1Cor. 3: 11).” Và như Thánh
Phêrô, giáo hoàng tiên khởi đã oanh liệt, và kiên vững
tuyên xưng trước Hội Đồng Cộng Tọa Do Thái, “Ngoài
Ngƣời ra, không ai đem lại ơn cứu độ; và dƣới gầm
trời này, không có một danh nào khác đã đƣợc ban
cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà
đƣợc cứu độ (Cv.4:12).”
Giảng là “Công bố Lời Chúa (Rm.11:17)” của những
“Viên quản lý trung thành (1Cor. 4: 2)”. Vậy “Đừng
có đi ra ngoài những gì đã viết kẻo sinh ra kiêu ngạo,
theo ngƣời này, chống ngƣời khác (1Cor.4: 6b).” Và
Chúa Giêsu đã công khai dậy “Ai không cùng Thầy thu
góp, là phân tán (Mt.12:30).”
Nguyên tắc chỉ đạo này đã bị Lm. Gioan Minh phá lệ, và
vi phạm bằng một cụm từ rất khôn khéo và tinh xảo:
“Tập sách này không mang ý nghĩa chuyên khoa thần
học, Kinh Thánh, hay tu đức … mà chỉ là sống nghiệm.”
Nhưng thực tế thì Gioan Minh lại khôn khéo lấy Thánh
Kinh che đậy, chứng minh, và triển khai triết lý hoang
tưởng và dị giáo Khai Tâm Đạo của mình. Nhờ đó, Lm.
Gioan Minh đã đánh lận con đen, và đưa nhiều người
gia nhập vào, và sống cái cảm nghiệm riêng tư, sai trái
và dị dạng của mình. Với sĩ số đông dần, Lm Gioan
Minh đã chính thức khai sinh ra dị giáo Khai Tâm Đạo!
Đúng thế, cha Gioan Minh đã sống nghiệm thâm sâu,
thân tình và chặt chẽ với:
6
+ Bùa chú, và phù phép do ông Bẩy gần nhà ga xe lửa
cũ dậy. Nên đang dùng phương pháp này để thi triển
công lực và kiềm chế nhân linh.
+ Với lục đạo của Phật gíáo: Linh đạo, nhân đạo, Atu-
la đạo (một vị La Hán trong Thiên Long Bát Bộ), ngã
qủi đạo, súc sinh đạo, và địa ngục đạo. Một lối diễn giải
không có cội nguồn trong Thánh Kinh.
+ Với cách thực hành cầu cơ: Do “Đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu,” Lm. Gioan Minh tiếp cận
hằng ngày với các cô hồn: hồn cô đơn là chính Satan, để
có thể nói trúng sự việc qúa khứ, đánh vào thị hiếu và
lừa dối những người đơn thành.
+ Với triết lý “Cùng tần số” Lm. Gioan Minh hội ngộ
thường xuyên với Khổng, Lão, Phật, Khổng Minh,
Nguyễn Bình Khiêm…vào khoàng từ 2 - 3 giờ sáng mỗi
ngày qua ngả cầu cơ.
+ Trên lý thuyết, Lm. Gioan Minh có đề cập đến Chúa,
và có trưng dẫn Thánh Kinh. Nhưng trong thực hành thì
LM Gioan Minh chỉ mới đạt tới mức thấp nhất là có
“Cùng tần số” với với Các Đấng Cô Hồn, hầu có thể
được soi dẫn, tìm kiếm qúa khứ, và loan báo những gì đã
xảy ra trong gia đình, nơi cá nhân của những người tin
tưởng, đến van xin và cầu cạnh cho thế nhân các cõi.
Tôi xin trân trọng trao gởi tập sách nhỏ này đến những ai
có thiện chí, có tâm lòng với đức tin truyền thống, giúp
những ai nhất quyết bảo vệ đức tin của Giáo hội: “Duy
nhất, thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.” Đặc biệt
tôi xin lưu tâm và yêu cầu mọi người, hãy nhớ lời của
Chúa Giêsu Kitô, “Anh em hãy coi chừng, đừng để ai
7
lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói
rằng” Chính ta đây là Đấng Kitô, và họ sẽ lừa gạt được
nhiều người (Mt.24: 4-5).”
Với anh chị em tín hữu nói chung, chớ có bao giờ đi tìm
các điềm thiêng, dấu lạ mà sinh ra mù quáng, và lạc lối,
vì Lời Chúa đã rất minh bạch, “Những Kitô gỉa, và ngôn
sứ gỉa xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao, và những
điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã
được tuyển chọn (Mt.24: 24; Kh.13:13-14).”
Xin cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen và tôn vinh Chúa đến
muôn đời. Amen
Lm. Joseph Nguyễn Bình An
8
MỤC LỤC
Lời Ngỏ 2
Chƣơng 1 Linh mục Gioan Minh 09
Chƣơng 2 Chính tà đối đấu 16
Chƣơng 3 Cảm nghiệm đến dị giáo 45
Chƣơng 4 Chiếu sang # phóng thánh Linh 53
Chƣơng 5 Đạo tự nhiên & Siêu nhiên 68
Chƣơng 6 Cùng Tần Số 79
Chƣơng 7 Đức tin chữa lành 93
Chƣơng 8 Đại tâm yêu 112
Chƣơng 9 Những dị thƣờng 122
Chƣơng 10 Lập dị của Gioan Minh 131
Chƣơng 11 Thiên Chúa lên án 151
Chƣơng 12 Lời Chúa dậy 157
Chƣơng 13 Hình thức phóng Thánh Linh 167
Chƣơng 14 Giáo chủ sấm ngôn 184
Chƣơng 15 Những hoang tƣởng 191
Chƣơng 16 Hiện tình Khai Tâm Đạo 210
Chƣơng 17 Hình ảnh Thánh Tâm Chúa 215
Lời kết 222
9
CH Ƣ ƠNG I
Lm. GIOAN MINH
Linh mục Gioan Nguyễn văn Minh chính gốc giáo phận
Thanh Hóa, Học tại ĐCV Xuân Bích, cuối cùng tại ĐCV
Saigon. Lm. Gioan Minh rất có khiếu về ca nhạc, đã
làm ca trưởng tại Đại chủng viện, và đã cùng với cha
Tiến Dũng tổ chức “Đại Hội Thánh Nhạc Công Giáo”
tại trường Tabert. Thời VNCH, Lm. Gioan làm tuyên úy
ngành Thủy quân lục chiến. Năm 1973 cha Gioan đã
thường nhờ Cha Việt Châu thường xuyên đến dâng lễ
Chủ Nhật tại khu Sóng Thần, Thị Nghè, SG. Đó là cơ
duyên Cha Việt Châu biết nhiều về qúa trình, và nguyên
nhân phát sinh Khai Tâm Đạo, hay Đại Đạo Yêu của
Lm. Gioan Nguyễn văn Minh. Tôi viết bài này, căn cứ
theo lời tường thuật của Cha Việt Châu, hiện làm chủ
nhiệm nguyệt san Dân Chúa USA.
Lm. Gioan Minh, cho cha Việt Châu biết, là ngài thường
xuyên gặp bà X, vợ một thượng sĩ từ năm 1972. Thiếu
phụ này trạc 34 tuổi. Chồng chị sau theo vợ nhỏ, bỏ bê
chị và các con, nên chị phải bán thịt heo nuôi các con ở
Búng, Bình Dương. Trong cơn tứng quẫn và cực khổ,
chị đã có liên hệ mật thiết với cõi âm, và bắt đầu sai
khiến được âm binh, nên có thể biết được những chuyện
qúa khứ, và hiện tại của những ai đến nhờ chị coi vận
mạng.
10
Đức cha Huỳnh văn Của, giám mục phó Phú Cường, đã:
“Yêu cầu cha Việt Châu tìm sự thật về thiếu phụ tên X
này.” Cha Việt Châu, với môt thầy đại chủng sinh, đã
tới Búng tìm và đã gặp chị. Vì những diễn biến bất
thường, chị X đã ngừng bán thịt heo, và sống nhờ lợi tức
do lời tiên báo về qúa khứ mà âm binh chỉ dẫn, và chỉ
sống đời thường bằng nghề nuôi heo.
Khi được hỏi: “Chị có liên lạc với âm bình từ hồi nào?”
Chị cho hay là một tối kia, khi đang lần chuỗi, chị thấy ở
cửa sổ một bóng đen rất lớn xuất hiện. Chị theo dõi, và
bóng đen chạy đến gốc ây bên nhà, rồi biến mất. Từ đó
chị được một hồn bé nhỏ cho thấy những dữ kiện qúa
khứ của bất cứ ai, vì thế chị nói rất chính xác những dữ
kiện cuộc đời của bất cứ ai.
Nghe thế, cha Việt Châu đã hỏi thử chị về một người
bạn, đang tu học bên Âu Châu. Chị đặt tay lên trán, mặt
biến sắc, rồi đỏ ửng, và tiếng nói phát ra là của một em
bé rằng “Người bạn của cha rất khỏe, và đang phải làm
việc rất nặng nhọc ở bên đó.” Qủa thật là, người bạn của
cha Việt Châu lúc đó (cha T) đang đi lao động kỳ hè bên
Tây Đức, cho một công ty xây cất.
Cha Việt Châu lại hỏi về người em ruột tại miền Bắc, mà
từ năm 1954 cha chưa hề gặp, hiện đang sống ở miền
bắc Việt Nam ra sao? Chị X cũng đặt tay lên trán, biến
sắc, mặt đỏ ửng, và rồi cũng bằng tiếng con nít “Người
này qủa là em cha thật, nhưng nếu gặp thì không ai bảo
11
là em cha, vì anh ta rất đen, khỏe và cao lớn.” Qủa thật
là em cha Việt Châu rất giống ông nội, nên đen và cao.
Cha Anrê Dũng Lạc Trần Cao Tường, lúc đó còn là thầy
sáu, cũng muốn thử chị X, nên hỏi “ Chị có biết tôi bao
nhiêu tuổi không?” Chị ta yêu cầu thầy Tường thử nói
tuổi thật. Thầy Tường cho hay, “Tôi đã trên 40 tuổi!”
Chị ta nhìn thầy, xác định, thầy chưa tới bốn mươi, mới
có 28 tuổi thôi (năm 1973). Chị hỏi thầy Tường, “Xin
thầy cho biết, tối qua thầy đã có sinh hoạt gì đặc biệt?”
Thầy Tường trả lời, “Tối qua tôi đi coi xinê, chủ đề là
phim Mùa thu lá rụng” Chị ta sửa lại, “Không phải, tên
phim là “Mùa thu lá bay” mới đúng.
Sau khi hồn em bé ra, chị tỉnh lại và không còn nhớ
những gì đã xảy ra, cũng như lời đã nói khi âm binh
nhập. Chị X đã giới thiệu Gioan Minh đến gặp ông Bảy
ở gần ga xe lửa cũ, gần bùng binh chợ Bến Thành.
Ông Bẩy người gầy ốm, cao và là người lão luyện, hay
thầy dậy về ngải, bùa và thuật dùng âm binh. Lm. Gioan
Minh đã đến học ngải, bùa và thuật âm binh với ông
Bẩy. Mãn khóa học, Lm. Gioan Minh đã rất tin và thực
tình theo. Lm. Gioan Minh đã viết hai bài: “Biện minh
cho việc dùng bùa ngải.” Hai bài này đã được đăng
trong hai số báo Sacerdos vào năm 1973-1974. Những
bài này đã: “Gây xôn xao dư luận,” và đã “Tạo thắc mắc
trong giới giáo sĩ, và tu sĩ VN” thời đó. Nhưng chỉ tạo
thắc mắc, vì khác quan điểm và như phản với tín lý,
song chẳng có ai cố tìm ra ngọn nguồn là tại sao Lm.
Gioan Minh lại đổi hướng nhanh như thế về phía tả.
12
Trong bài: “NHÂN KỶ NIỆM BẢN THÁNH CA BẤT
HỦ "HANG BELEM" VỪA TRÕN 65 TUỔI (1945-
2010) - GHI LẠI ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SƢ HẢI
LINH”, Anh Nhị Long - Nhị long Lang đang ở New Or-
leans, LA. USA, học trò của nhạc sư Hải Linh, đã hồi
nhớ lời tâm sự mà Lm. Gioan Minh chia sẻ với anh
trước 1975, cũng là những điều anh Quang hiện đang ở
Houston, TX. USA, đã kiểm chứng vì chinh anh được
nghe và biết về Lm. Gioan Minh qua lời trích dưới đây:
“Trước năm 1975, trong một buổi phát thanh thuộc
chương trình Công giáo đài Sàigòn, Linh mục Nhạc sĩ
Nguyễn Văn Minh (Tổng Thư ký Uỷ ban Thánh nhạc
trước 30-4-1975) dẫn giải về thơ Hàn Mặc Tử.”
“Tôi cũng được biết, Linh mục hiểu biết chƣa đƣợc
thấu đáo về hán văn, vì theo Linh mục Minh: “Lộc là
Nai, Triều Nguyên là trong Triều đình,” trong sân của
các Vua nhà Nguyễn. Trước đây, các Nữ tu Dòng
Carmêlô Tông Đồ tại Houston cũng có ra một cuốn băng
nhạc lấy tên là “Lộc Triều Nguyên - Như Song Lộc”.
Vì cách đặt câu và cách viết chữ, thì tôi được phép
nghĩ rằng, các vị chỉ hiểu đại khái là câu thơ đó chỉ về:
Đức Mẹ Maria. Vì nghe các bậc đàn anh cho biết là câu
thơ đó là một bí hiểm (huyền nhiệm), nên tôi cố công
tìm tòi. Nhân khi đi học, được thụ huấn với cụ Thẩm
Quỳnh, Cử nhân Hán học, tôi có đem câu thơ ra xin cụ
giảng giải trong lúc truyện trò riêng tư. Cụ giải thích rất
dễ dàng và trôi chảy. Tôi xin phép ghi lại lời giải thích
13
của một vị thâm nho, hầu góp phần cùng độc giả, hiểu
thêm ý nghĩa lời thơ của Hàn Mặc Tử.
- Song Lộc: Song Lộc là hai ngôi Sao trong khoa Tử
vi: Lộc Tồn và Hoá Lộc. - Triều: Chầu - Nguyên: Chữ
nho, chữ nguyên chính ra phải đọc là viên hoặc nguyên
là chung quanh. Vậy nghĩa đen: Đức Mẹ nhƣ ngƣời có
hai ngôi Sao: Lộc Tồn và Hoá Lộc chầu chung quanh
cung mệnh. Theo Tử vi, cung mệnh của người nào có
hai ngôi Sao này chầu chung quanh, thì đàn ông sẽ đạt
tới Thủ tƣớng, Tể tƣớng, đàn bà sẽ tới Nữ vƣơng,
Hoàng hậu. Vậy “Như Song Lộc Triều Nguyên” có
nghĩa “Mẹ Maria là Nữ Vƣơng” (trong sứ mệnh an bài
của Thiên Chúa).
Tôi xin thân thưa lại một lần nữa, đây là ý kiến của
một vị thâm nho, ngoài ra tuỳ ý quý vị xét đoán. Tôi
đƣợc biết Linh mục Nguyễn Văn Minh là một ngƣời
rất ham thích học hỏi, ngài có nghiên cứu về Tử vi,
Tƣớng số, và cả về bùa ngải nữa. Ngài là Tuyên uý
của binh chủng Thuỷ quân Lục chiến (VNCH), nên
gặp nhiều anh em gốc Miên, có bùa ngải thực sự. Vì
thế, ngài cố tâm nghiên cứu để có thể giúp đỡ đời
sống thiêng liêng của anh em! Nhƣng vì chữ “Viên”
mà đọc là Nguyên thì phải thâm nho mới thấu đƣợc.
Tôi viết để quí độc giả cùng chƣ quân tử bốn phƣơng
thƣởng lãm… (Quang - Houston, Texas).
Với bối cảnh mới học, và cảm nghiệm được, cha Gioan
Minh đã tin theo “Các Đấng Đông Phương”, sống với
cõi âm binh, dùng bùa ngải sai khiến các tín hữu, và lấy
14
cầu cơ để mê hoặc các đệ tử. Đồng thời Lm. Gioan
Minh bắt đầu hình thành Khai Tâm Đạo theo ảnh hưởng
và cách diễn giải của Tam triết Đông Phương.
Sau những năm tù tội vì là sĩ quan chế độ cũ, Lm. Gioan
Minh về lập xứ Hiển Linh, và đã dùng giáo xứ Hiển
Linh làm cứ địa phát huy, và giảng dậy những suy tư,
những khám phá mới, những cảm nghiệm và những
niềm tin “Dị giáo = Cult” mà Lm. Gioan Minh gọi là
“Khai tâm Đạo,” hay “Đại đạo yêu” cho tới hôm nay.
Mặc dù trong phần mở đầu sách Khai Tâm Đạo, Lm.
Gioan Minh đã minh xác là, “Tập sách này không mang
ý nghĩa chuyên khoa thần học, Kinh Thánh, hay tu đức
… mà chỉ là sống nghiệm.”
Bùa ngải Lm. Gioan Minh xử dụng tương tự như của
“Thanh Hải Vô Thượng Sư” đã mê hoặc, trấn lột, và đưa
nhiều người vào bến mê tại vùng Orange County và Los
Angeles County, USA. Những ai vững tin vào Thiên
Chúa, có trình độ học thức, không đồng bóng, cũng như
với ơn Chúa dư đầy, sẽ thoát hiểm nguy này. Còn
những ai mở lòng, tin tưởng đến nỗi mời cõi âm vào, thì
sẽ mất tự chủ, mê loạn và hành động theo sự sai khiến,
và sở thích của cõi âm: sống hoang tưởng, ngoan cố, lì
lợm và phò thế giới của âm binh, đi “Hai hàng” vì vừa
kính Chúa, vừa tôn thờ ngẫu tượng là “Các Đấng Đông
Phương!”
Như thế, vào dị giáo “Khai Tâm Đạo” là đi vào một thế
giới lừa dối, phản Chúa, tin dị đoan, và thờ ngẫu tượng!
Vì sự sai trái này, đức cố TGM Pjaolô Bình đã ngăn
15
cấm. Chỉ riêng điểm khác biệt qúa nghiệt ngã và nghịch
tín lý này, đã đủ cho chúng ta thấy là dị giáo Khai Tâm
Đạo, không đi theo “Giáo hội duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền” một cách trọn vẹn và truyền
thống của giáo hội, như đức tin chúng ta đã thụ lãnh từ
hồi niên thiếu. Trái lại, Khai Tâm Đại đang muốn hủ
hóa và bôi bẩn giáo hội của Chúa Kitô.
16
CHƢƠNG II
CHÍNH - TÀ ĐỐI ĐẦU Cuối tuần từ ngày 7-10 tháng 5, năm 2010 tại Sacramen-
to, CA. USA có người phụ nữ tên Lành, tự xưng là đệ tử
ruột của Cha Gioan Minh, người đang trụ trì tại giáo xứ
Hiển Linh, Thị Nghè, Thành phố HCM, Việt Nam. Chị
Lành đã đến Sacramento và trên 40 tiếng đồng hồ, chị đã
thuyết trình dị giáo “Khai Tâm Đạo” cho một số anh
chị em thị hiếu, và thích đi tìm điềm thiêng dấu lạ. Sau
khi nghe, 50% đã bỏ trong Thánh Linh tại Sacramento,
USA và theo dị giáo. Xin
ghi lại các sự kiện để qúi vị tùy nghi thẩm định.
Lý do thiếu phụ Lành đến Sacramento được ngụy biện là
“Cha Minh yếu đau, không đi được, nên sai tôi (Thiếu
phụ Lành) sang Sacramento. Đây là một sự nói láo thò
cái đuôi, vì linh mục Gioan Minh đã tự xưng là đã có
“38 năm” sống “Đại Đạo Yêu.” Nghĩa là từ năm 1972-
2010; đã có “15” năm sống trong “Tâm Chúa Hiển
Linh” i.e từ 1995-2010. Năm nay 2010, linh mục Gioan
Minh đã thọ “78” năm phúc làm người: 1932-2010. Và
đã mừng “48” năm “Hiến Tế Hồng Ân: 23-4 năm 1962
tới 23-4 năm 2010. Xin chúc mừng!
Tại sao những năm trước khi sức khỏe còn dồi dào, Linh
Mục Gioan Minh không đi đâu truyền đạo, để bây giờ
thiếu phụ Lành cho là “Yếu bệnh” không đi được, nên
linh mục Minh phải sai phái thiếu phụ Lành đi làm hiện
17
thân? Cái tên Lành, có phải là tên thật, hay chỉ là tên tên
“Cúng cô hồn!” lại là chuyện khác, sẽ được đề cập tới
khi rõ ngọn ngành! Để phơi trần bộ mặt ngôn sứ gỉa của
y thị.
Tinh thần các tham dự viên đã háo hức một cách
lạ thường, chưa từng có! Tất cả như đã bị mê hoặc với
dị giáo mới là “Khai Tâm Đạo” mà người thiếu phụ tên
Lành nói là do linh mục Gioan Minh sai đi rao giảng.
Theo thiếu phụ Lành thì:
+ Cha Gioan Minh đƣợc ơn phân thân một lúc
có thể ở hai ba nơi khác nhau: Đây là điều giáo hội
không bao giờ công nhận khi đương chưa còn sống trên
dương trần. Một thánh nhân thực không bao giờ đi
khoe cái ân huệ Chúa đã ban. Nếu khoe và hãnh diện
qúa lố là “Đa ngôn đa qúa” thì đó là dấu chỉ tính xác
thịt tầm thường: Kiêu ngạo! và dung nó đề gây thị hiếu
và tìm nguồn sống . Tâm tư chính trực của một người
thánh thiện là phải tương tự như Phaolô: “Tôi sẽ tự hào
về cái yếu đuối của tôi (2 Cor. 11:30).”
+ Chị ta nói: “Cha Gioan Minh đƣợc ơn đặc
biệt, và là cố vấn cho các Đức Giáo Hoàng”. Thật
hoang tưởng và không phải là sự thật. Cha Minh làm
việc hay sống ở Rôma vào những năm nào? Lịch sử giáo
triều Vatican chẳng bao giờ đề cập đến Linh mục Gioan
Minh tại Roma. Và đã làm cố vấn cho Đức Giáo Hoàng!
+ Chị khoe: “Cha Gioan Minh đƣợc ơn trừ qủi
mà nhiều ngƣời khác không làm đƣợc”. Lầm lẫn vì
18
nếu ngừng ở linh mục Minh, là quên lời Chúa Giêsu dậy:
“Chính Ta sẽ làm điều đó (Jn. 14:14)!” Linh mục
Minh chỉ là dụng cụ vô dụng trong tay Chúa (Lk.17:10)!
Thánh nhân luôn biết giới hạn của mình và luôn sống
khiêm tốn!
Sau thời gian ngắn được khai tâm vội vàng,
người tham dự như không còn có thể dùng tâm trí, cũng
không muốn nghe giáo lý truyền thống, và chân chính
của người khác. Tâm trí họ đã trở nên bất thường, bất
định, hoang tưởng, và mê mẩn. Bằng mọi cách, họ tôn
vinh và bênh vực người thiếu phụ tên Lành.
Thậm chí là nhóm Khai Tâm Đạo tại Sacramento
đã phá vỡ hoà khí gia đình, tạo bất hoà giữa vợ chồng,
gây rối loạn gia cang, khiến con cái không còn tôn trọng
cha mẹ, gây hấn với anh chị em, chỉ vì nhựng người đã
dám chỉ trích người thiếu phụ tên Lành.
Những Hán từ mới lạ như “Đối ngoại hữu kỳ
tâm”, “Đối nội vô Tâm gỉa”, “Đại đạo yêu”, “Tâm
Chúa Hiển Linh” và “Khai tâm đạo” đã hút hồn các
học viên, làm họ mê mẩn, ghi tâm khắc cốt những từ
mới này, và xử dụng chúng một cách đắc ý và hãnh
diện. Nhất là dám phát ngôn bừa bãi, thiển cận và loan
truyền những chuyện hư cấu mà không biết ngượng! Họ
chẳng tự thấy mình là “Lập dị”, và tự tách rời họ ra khỏi
dòng sinh mệnh của Kitô Giáo, và các đoàn thể mà họ đã
tích cực tham dự từ trước. Thậm chí đến cả gia đình của
mình: cha mẹ, anh chị em họ cũng hùng hổ chống đối,
gạt bỏ và kinh thường nếu không nghe họ.
19
Tất cả các học viên đã tự xếp mình vào hạng ưu
tuyển do “Các Đấng ở trên” tuyển chọn và sai đi. Họ
mất đi sự ngại ngùng, và nhát sợ thường tình. Họ
không muốn sống lén lút, và thập thò, nhưng cứ nói, cứ
thuyết giảng như đang bị ma lực nào đó điều khiển.
Không cần biết người khác có muốn nghe hay không,
họ cứ thao thao bất tuyệt lặp lại những điều mới học.
Nhất là họ kết án những ai không nghe, hay dám
hạch hỏi họ, là kẻ thù, và chưa được “Khai Tâm Đạo!”
soi dẫn. Dấu chứng “Xem qủa biết cây (Mt.7:20)” hiện
rõ qua hành vi là “Cha mẹ họ cũng không cần, vợ hay
chồng bất đồng” họ đều chê trách là “Không chịu đi
nghe, nên không biết.” Và cùng rủ nhau đi về Việt
Nam thụ huấn: “Khóa Sa Mạc” với linh mục Gioan
Minh.
Một số anh chị em thiện chí đã thấy hiện tượng lạ
và kỳ quái của dị giáo “Khai Tâm Đạo”, qua cung cách
kiêu kỳ, bất thường, cuồng tín, ngoan cố và lập dị,
nhưng lại hãnh diện và tự xếp mình vào hàng ƣu tuyển
nhân. Những người này đã trình bầy với các linh mục
tại giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Sacramen-
to. Các cha đã yêu cầu mọi người phải cẩn trọng, chớ
tin tưởng bậy, và cho đó là hình thức của ngôn sứ gỉa
đang làm lung lạc đức tin, thì họ bất đồng, bất phục và
chê trách.
Đây có phải là hiện tượng “Thanh Hải Vô
Thƣợng Sƣ” của phật giáo, đã một thời lôi kéo nhiều
người, đã mê hoặc nhiều tâm hồn thiện chí, biến họ nên
20
nguồn tài trợ tài chính cho “Thanh Hải Vô Thƣợng
Sƣ?” Hiện tượng này đang nhen nhúm và lợi dụng đức
tin ẻo lả, dễ xoay chiều và ấu trĩ của một thiểu số tín hữu
trong giáo hội công giáo tại Sacramento hay không?
Thiếu phụ tên Lành cũng đã lẩm bẩm đọc bùa chú
ma quái, giơ tay làm phép: hệt như các Linh Mục
thường làm. Hiệu qủa là những ai đã tham dự, đã mất sự
điều khiển tâm hồn, và bị ma lực của “Khai Tâm Đạo!”
ngự trị hoàn toàn, và biến họ nên một nhân vật khác
thường. Nhất là, họ đã vô cảm trước sự cắt nghĩa, can
gián, bất đồng của thân nhân. Họ còn ngoan cố trước sự
buồn phiền, bực bội trước sự lo lắng, cố chấp trước
những thắc mắc, và lì lợm trước sự chống đối của cha
mẹ, anh chị em và bằng hữu.
Đây là hành vi “bắt hồn” của “Thanh Hải Vô
Thượng Sư” đang được lặp lại tại xứ Sacramento, USA
nhỏ bé, nhưng qủa đang dậy song và giết chết tầm đầu ý
hiệp đã có từ trước, do sự xuất hiện của thiếu phụ tên
Lành nhân danh dị giáo Khai Tâm Đạo!
Tôi được nhiều người hỏi, và yêu cầu cho biết
đường hướng của giáo hội, vì thế, tôi mạo muội viết
những suy tư của mình, và đưa ra những điều sai trái mà
thiếu phụ tên Lành đã thuyết trình và đã đưa đến tình
trạng mê hoặc.
Tôi dựa vào Thánh Kinh là “Bằng chứng của
Thần Trí và quyền năng (1 Cor.2:4),” để giải thích, và
hy vọng có thể hướng dẫn một số người đã đi lầm đướng
21
lạc lối, và đang nghịch với đức tin và truyền thống Công
giáo mà chính họ đã tin trên 60 năm, hay 40 năm và nhẹ
nhất là 30 năm, thế mà mà nay tự dưng hồ nghi và đánh
mất, để chỉ tin vào dị giáo “Khai Tâm Đạo!” Thật buồn
thay! Hiệu qủa hiển nhiên là những tham dự viên “Khai
Tâm Đạo” đã trở thành những người “Trở cờ 180 độ”
với Chúa, với giáo hội, với giáo xứ, với gia đình và với
đức tin mà họ đã miệt mài sinh động cho tới hôm nay.
Sự xuất hiện kỳ lạ của thiếu phụ tên Lành tại Sac-
ramento cũng cần được đề cập tới: Y thị tự mình lên
đến Sacramento, và trong túi chỉ có điện thoại của một
người mà chính y thị chưa hề quen biết. Y thị ngồi tại
tiệm Bánh Mì Hương Lan gọi người chưa quen, và tự
giới thiệu. Khi gặp nhau, y thị đã hút hồn đương sự, và
đuợc đương sự niềm nở mời đến lưu ngụ tại nhà, và mời
gọi những thành viên Thánh Linh đến nghe.
Trong phần nói về thánh vương David, y thị nói
rằng “David đã chết từ lâu, nhƣng chỉ mới đƣợc lên
thiên đàng thôi.” Thật là lời nghịch nhĩ và phản đức
tin, nhưng những kẻ đã bị mê hoặc, đã tin thật mà quên
lời thánh Phêrô viết, “Chính Đức Kitô đã chết một lần:
Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lƣơng, hầu dẫn
đƣa chúng ta đến cùng Thiên Chúa (1 Pet.3: 18).”
Đặc biệt là “Ngƣời đã đến rao giảng cho các vong linh
bị giam cầm, tức là những ngƣời xƣa đã không vâng
phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn
chờ đợi, nghĩa là thời ông Noah đóng tầu (1 Pet.3:19-
20).”
22
Thánh vương David, theo thiếu phụ tên Lành, là
một trong các “Đấng ở trên.” Ở đây tôi xin trích dẫn
Thánh Kinh, để minh chứng Thánh Vương David là
người thánh thiện, và được Chúa chúc lành. Thiên Chúa
không thích Solomon, con vua David, vì ông đã bỏ
đường ngay nẻo chính, nên đã phán, “Vì ngƣơi đã nhƣ
vậy, và đã không giữ giao ƣớc Ta truyền cho ngƣơi,
thì chắc chắn Ta sẽ giựt vƣơng quốc ngƣơi mà trao
cho một thuộc hạ của ngƣơi (1kgs. 11: 11).” Nhưng
“Vì nể David tôi tớ Ta, và vì Jerusalem , thành đô Ta
đã chọn, Ta sẽ không giựt lấy cả vƣơng quốc, nhƣng
sẽ để lại cho con của ngƣơi một chi tộc (1 Kgs.11:13).”
Khi Ahijah lấy chiếc áo mới mà ông đang mặc,
xé ra làm mười hai mảnh, ngôn sứ nói với tướng Jero-
boam, “Anh cầm lấy mƣời mảnh, vì Đức Chúa, Thiên
Chúa Israel phán nhƣ sau: Nay ta giựt vƣơng quốc
khỏi tay Solomon để trao cho ngƣơi muời chi tộc.
Nhƣng nó vẫn còn đƣợc một chi tộc, vì David: tôi tớ
Ta, và vì Jerusalem thành đô Ta đã chọn trong tất cả
chi tộc Israel (1 Kgs.11: 30-32).” Lý do Chúa hành xử
như thế vì, “Nó (Solomon) đã bỏ Ta và thờ các thần
dân ngoại …và không đi theo đƣờng lối của Ta, là thi
hành điều chính trực trƣớc nhan Ta, cũng nhƣ các
giới răn và luật pháp của Ta nhƣ David thân phụ nó (1Kgs.11: 33).”
Và Chúa nói nguyên nhân của hành động như
trên, “Vì nể David tôi tới Ta, ngƣời Ta đã chọn, kẻ đã
tuân giữ các mệnh lệnh và các giới răn của Ta
(1Kgs.11: 34b).” Thậm chí: “David tôi tớ Ta luôn luôn
23
có một ngọn đèn trƣớc nhan Ta ở Jerusalem, thành
đô Ta đã chọn làm nơi danh Ta ngự trị (1 Kgs. 11:
36).”
Vậy lời của ngôn sứ gỉa Lành cho là David bị
giam cầm cho tới gần đây mới lên thiên đàng, là hư cấu,
võ đoán và phản nghịch với Thánh Kinh, Lời của Thiên
Chúa Toàn Năng. Thiếu phụ tên Lành còn mạnh miệng
nói láo và vô bằng về những sự kiện đã xẩy ra từ rất lâu,
và công bố là các “Đấng ở trên” đã cho “Linh mục
Gioan Minh đã biết trƣớc thiên tai 11-9-2001 tại New
York và thảm sát Katrina” tại New Orleans.
Thật là những lời vô bằng, hư cấu, và chấp vá,
mà chỉ có những bé thơ mới có thể tin, thế mà những
người ở tuổi sắp về với tiên tổ, sau bao nhiêu năm theo
Chúa, lại tin. Đó là điều kinh hồn nhưng đã thực sự xẩy
ra và rất “Chƣớng tai gai mắt” do tà thần điều khiển.
Satan mới chỉ xuất đầu lộ diện qua ngôn sứ gỉa Lành,
chưa cần có cuộc bách hại, thế mà đã gây tang thương và
cướp đi nhiều linh hồn. Người có thể dùng trí khôn
bình thường, nghe đã phát cười vì những lời lố lăng,
trăng cuội và họ nhận diện ra ngay: kẻ dối gian và hoang
tưởng mà không biết chùi miệng. Thế mà nhiều anh chị
em trong phong trào Thánh Linh Canh Tân Đặc Sủng lại
nghe, tin và mù quáng theo. Điều này chứng tỏ, nhiều
người tin đạo, sống đạo nhưng chưa đủ cường lực đứng
vững: Kỳ khôi thật!
24
1. NHỮNG LÝ DO THEO DỊ GIÁO
ĐỨC TIN MONG MANH
Đức tin chúng ta đã lãnh nhận, vì không được phát triển
đúng mức do lười biếng, tự mãn, thiếu tìm hiểu, chưa
xác tín, và thiếu chiều sâu đã làm những người theo đạo
“Vì nguồn lợi (1 Tm.6:5b)” hay “Cơ hội” lộ chân tướng.
Họ bỏ giáo hội, gia nhập dị giáo: “Khai Tâm Đạo” do
ngôn sứ giả tên Lành loan truyền, dù tất cả đã đƣợc
khai tâm từ trong gia đình với cha mẹ, được giáo xứ
khai tâm với các lớp giáo lý xưng tội lần đầu, lớp giáo lý
Bao Đồng, giáo lý Thêm sức và giáo lý hôn nhân.
Thêm vào đó, các giáo xứ thường có các khóa bồi
dưỡng qua các tuần Đại phúc, hay cấm phòng hằng năm.
Thế mà chỉ trong ít giờ, đức tin non kém ấy đã bị tà thần
“Đập nát”, nhận xuống cho “Chìm lỉm” và dùng sức
“Bẻ gẫy” không tiếc nuối. Họ đã không còn lo sợ Chúa
trách phạt, vội tin theo dị giáo “Khai Tâm Đạo” dành
cho những người chưa biết gì về đạo. Thay vì kính sợ
Thiên Chúa, họ sợ: “Các Đấng Đông Phƣơng” trách và
quở phạt. Thậm chí có người còn ngụy biện, và đồng
hóa “Khai tâm đạo” với hình thức “Mở lòng!” của
giáo hội nói chung và của của phong trào Thánh Linh
Canh Tân Đặc Sủng nói riêng.
25
ĐỨC TIN ẤU TRĨ
Đức tin như thế đã “Bị chết đuối” trong dòng đời nổi
trôi, chứ chưa nói đến những phong ba lớn, và bão táp
khủng khiếp. Thánh Phaolô, vì thế, đã viết “Tôi không
thể nói với anh em nhƣ những ngƣời sông theo Thần
Khí. Nhƣng với những ngƣời sống theo tính xác thịt,
và nhƣ với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô (1
Cor.3:1).” Tiếp theo Thánh Phaolô trần tình, “Tôi đã
cho anh em uống sữa, chứ không cho dùng thức ăn,
vì anh em chƣa chịu nổi. Bây giờ anh em cũng vẫn
chƣa chịu nổi. Vì anh em còn là những ngƣời sống
theo tính xác thịt (1 Cor.3:2).” Rồi thánh Phaolô trách
cứ vì, “Chúng tôi có nhiều điều phải nói, nhƣng khó
mà cắt nghĩa, vì anh em đã trở nên uể oải, không
muốn nghe. Với thời gian, đáng lẽ anh em phải là
những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho
ngƣời ta (thiếu phụ tên Lành) dậy anh em những điều
sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì
thức ăn đặc, anh em lại cần phải dung sữa (Dt.5:11-
12),” là như thế.
ĐỨC TIN NHẸ DẠ
Với đức tin yếu kém nên nhiều người đã “Bị chết
chìm” khi giở Thánh Kinh, vì họ đọc thánh Kinh là
“Nguồn và nền tảng chân lý” mà không hiểu đến nơi
đến chốn. Bởi vậy Thánh Phaolô nêu rõ lý do, “Phàm
26
ai cần phải dùng đến sữa, thì chƣa hiểu gì về đạo lý
liên quan đến sự công chính, vì ngƣời ấy vẫn là trẻ
con (Dt. 5:13).” Bởi “Thức ăn đặc dành cho những
ngƣời đã trƣởng thành, những ngƣời nhờ thực hành
mà rèn luyện đƣợc khả năng phân biệt lành dữ
(Dt.5:14).”
Sự thể đã rõ ràng như vậy, nên là một “Thiếu phụ vô
danh tiểu tốt” mà đã được một số tôn vinh như sứ giả
của dị giáo “Khai Tâm Đạo”, do linh mục Gioan Minh
sáng tác, thì thật là hết hiểu nổi! Và thời điểm của ngôn
sứ giả đã bắt đầu gia tăng hoạt động, để quyết đánh gục
những kẻ bị hư vong. “Anh em hãy coi chừng, đừng
để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh
Thầy đến nói với anh em: chính ta đây là Đấng Kitô”
và “Họ sẽ lừa đƣợc nhiều ngƣời (Mt. 24: 4-5),” là lời
chúng ta phải suy gẫm qua biến động Katrina tại Sacra-
mento.
Thánh Gioan Tông Đồ, trên gần 2000 năm trước, đã
nhận diện họ là những tên “Phản Kitô (1Jn.2:18a),” và
khi phản Kitô xuất hiện, thì đó là dấu chứng của ngày
cánh chung hay theo từ của cha gioan Minh là “Thời
chót” đã gần đến (1Jn.2:18b). Thánh Gioan còn chỉ rõ
là các phản Kitô: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ
chúng ta, nhƣng không phải là ngƣời của chúng ta
(1Jn.2:19a).
27
ĐỨC TIN DO CẢM XÖC QÖA ĐÁNG.
Đức tin trưởng thành là hiểu và sống lời Thiên Chúa, vì
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc
bén hơn cả gƣơm (dao) hai lƣỡi: xuyên thấu chỗ
phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán
tâm tình cũng nhƣ tƣ tƣởng của lòng ngƣời
(Dt.4:12).” Đức tin trưởng thành sẽ giúp chúng ta kiên
vững và được ơn thánh để biết phân biệt đúng sai.
Nhiều người sống quá: “Hoang tưởng, tình cảm và thiên
về cảm xúc,” đã thường vô tâm, vô bằng, vô tri và ấu trĩ
phát biểu những lời thiếu suy nghĩ. Họ như những
người cõi trên, khi khoe: “Chúa nói với tôi!‟ thế này thế
kia và “Tôi nhìn thấy Chúa” giống thế nọ thế kia. Đức
tin ấu trĩ, mơ hồ, thị hiếu và hoang tưởng như thế, ai có
thể kiểm chứng! Giáo hội qua đức cố TGM Phaolô Bình
không công nhận! nên trở thành vô gía trị! Vậy đó là
niềm tin vu vơ, vô căn và qúa cuồng tín! Nếu không
dám nói là dị đoan! đến tự khoe khoang mình một cách
phi lý!
Vì thế, họ đã lộ nguyên hình là tay sai của dị giáo Khai
Tâm đạo. Sau khi trở cờ đã thành những người tiên
khởi, và mù quáng tin theo Thiếu phụ tên Lành, với một
mớ triết lý rỗng tuếch, cóp nhặt từ nhiều nguồn. Họ
sống kiêu kỳ và phản niềm tin như lời của Chúa Giêsu:
28
“Ai không đi với Ta, là chống lại Ta; và ai không cùng
ta góp nhặt là phân tán (Mt.12:30).”
ĐỨC TIN THIẾU THÁNH KINH
Đọc và hiểu Thánh Kinh sẽ giúp tín hữu “Bơi lợi giỏi và
lão luyện” khi song hành với Chúa Thánh linh theo thủy
triều bập bềnh lên xuống. Và nhất là khi phải đương đầu
với bão tố, thử thách, xao xuyền, đau khổ và phong ba
giữa cuộc đời.
Vì qúa yếu kém Thánh Kinh, nên nhóm tham dự viên
dị giáo “Khai Tâm Đạo” đã chết đuối một cách tang
thƣơng, hãi hùng và oan uổng. Bởi quá yếu kém về
Thánh Kinh, nên họ mất ơn phân biệt trắng đen, bỏ chân
lý và sống ảo tưởng! Cái “Vô tri bất mộ” đó đã nhận
chìm họ, khiến họ vội vã nắm lấy cái phao dị giáo “Khai
Tâm Đạo!” như nguồn ơn cứu độ mới.
Trước hành vi bất thường này, mỗi người phải tự trách
mình là “Lỗi tại tôi mọi đàng”. Một là vì họ thích tìm
dấu lạ, nên đã hồ hỡi tin những điều quá hiếu kỳ, không
hề có trong Thánh Kinh! Hai là họ chưa hiểu lời Thánh
Phaolô, “Tôi đã khuyên anh ở lại Ephêsô, để anh
truyền cho một số ngƣời đừng dậy một giáo lý khác,
cũng đừng chú ý đến chuyện hoang đƣờng, và những
gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận,
chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa
mà đức tin cho ta biết. Lời truyền dậy đó phải đƣa
29
đến đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lƣơng
tâm ngay thẳng, và đức tin không gỉa hình. Vì đi
trệch đƣờng lối ấy, một số ngƣời đã sa vào tật nói
rỗng tuếch. Họ muốn làm thầy dậy luật, nhƣng lại
chẳng hiểu cả điều mình nói, lẫn điều mình xác quyết
(Tm.1:3-7).”
ĐỨC TIN THEO CHIỀU GIÓ
Điều phải đề cập ở đây là lời khuyên thực tiễn của thánh
Phaolô, “Vào những thời cuối cùng, một số ngƣời sẽ
bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối, và những
giáo huấn của ma qủi; đó là vì trò gỉa hình của những
tên nói dối mà lƣơng tâm nhƣ bị thích dấu nung sắt
(1 Tm.4: 1-2).” Với những người này, Lời Chúa, lời
thánh đã vô hiệu qủa!
Thánh Phaolô mô tả rõ cái nguy hiểm đang đến và sẽ
đến, “Vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go.
Ngƣời ta sẽ ra ích kỉ, ham tiền bạc, khóa lác, kiêu
ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lới cha mẹ, vô ơn
bạc nghĩa, phạm thƣợng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn,
nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản
trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn
yêu Thiên Chúa; hình thức đạo thánh thì họ còn giữ,
nhƣng cái chính yếu thì đã chối bỏ, ANH HÃY XA
LÁNH NHỮNG NGƢỜI ĐÓ (2Tm.3: 1-5).”
30
Hơn thế, Thánh Phaolô còn vạch mặt chỉ tên, “Thuộc
bọn đó là những kẻ lẻn vào nhà ngƣời ta chinh phục
thứ đàn bà nhẹ dạ, đầy những tội lỗi và bị đủ thứ
đam mê lôi cuốn, HỌC MÃI MÀ CHẲNG BAO GIỜ
NHẬN BIẾT ĐƢỢC CHÂN LÝ… Họ là hạng ngƣời
đầu óc lệch lạc, lòng tin không có gì vững chắc … mọi
ngƣời sẽ thấy rõ là họ ĐIÊN KHÙNG (2 Tm.3: 6-9).”
Thần trí hôn mê đã bao phủ họ, nên họ nhắm mắt đi theo
dị đoan vào hư mất (Rm.11:8).
Và cuối cùng thánh Phaolô đưa ra một nhận xét rất thực
tế, và cũng là lời tiên báo là những sự lố lăng sẽ diễn
tiến trong những ngày sắp tới : “Thực vậy, sẽ đến thời
ngƣời ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh,
nhƣng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết
thầy này, đến thầy kia, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ
sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhƣng huớng về
những chuyện hoang đƣờng (2Tm. 3-4).” Thậm chí
họ còn tán tận lương tâm, vô tình trước nghịch cảnh và
đau khổ của người khác, đưa tay thủ lợi moi móc tiền
bạc một cách trắng trợn (1Tm.6:5b).
2. SAI LẠC TRONG HÀNH ĐỘNG
Chấp nhận dị giáo “Khai Tâm Đạo” để nói nhăng nói
cuội, nói vô căn cớ và trở thành hỗn láo với cha mẹ, bất
kính với hàng giào phẩm, bất hòa với bằng hữu, tranh
chấp giữa vợ chồng, và nghi kị với tha nhân là dấu
chứng cho thấy “Mù đang dẫn mù, cả hai sẽ rơi xuống
31
hố (Mt.15:14)”. Trước viễn cảnh này Chúa Giêsu đã
cảnh cáo: „Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ
đội lốt chiên mà đến với anh em; nhƣng bên trong,
họ là sói dữ tham mồi (Mt.7:15).” Chắc chắn thiếu phụ
tên Lành không phải là do vô tư đến Sacramento, tự
nhiên và dễ dàng đánh chài một chuyến thành công như
thế. Vậy, mục đích của chị là gì? Và ai sắp xếp cho chị
đến? Dưới đây là các dấu chứng rõ giúp chúng ta nhận
diện và phân biệt chi ta là ai:
KHÔNG ĐƢỢC GIÁO HỘI SAI ĐI.
Trước hết, theo lý thì họ phải bước vào đoàn thể qua cửa
chuồng chiên là Chính Đức Kitô, chứ không thể qua
danh của bất cứ ai khác vì: “Ai không đi qua cửa mà
vào ràn chiên, nhƣng trèo qua lối khác mà vào, ngƣời
ấy là kẻ trộm, kẻ cƣớp (Jn. 10:1).” Và tuyêt đối là chỉ
“Ai qua tôi mà vào thì sẽ đƣợc cứu (Jn.10:9).” Thế
mà thiếu phụ Lành, ngang nhiên đến, được ăn, được nói
và được gói đem về! mà chẳng cần sự chuẩn chước của
giáo hội địa phương.
Các linh mục tới giúp trong giáo phận mà còn cần phải
được giáo quyền địa phương cho phép, đang khi thiếu
phụ vô danh tiểu tốt, made in Việt Nam, qua tác gỉa
Gioan Minh ngang nhiên đến không phép tắc, đã chễm
trệ ngồi ở vị thế giáo huấn của các linh mục, và hành xử
như một nhà truyền giáo điêu luyện. Vậy thì danh đã
không chính, thì ngôn làm sao thuận, hỡi ngôn sứ gỉa!
32
Chỉ những ai nhẹ dạ mau tin! Chỉ có người thiếu trình,
nhưng thích điềm thiêng dấu lạ mới dễ trở cờ, và đi vào
lầm lẫn!
ĐỨC TIN XEM QỦA BIẾT CÂY
Thứ hai là phải tuân thủ nguyên tắc Chúa Giêsu đã đưa
ra, “Xem qủa biết cây. Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu
sinh trái xấu (Mt.7:15-20).” Hoa trái do dị giáo “Khai
Tâm đạo” gieo xuống là một số đã bỏ giáo lý truyền
thống, quên hết điều đã học, đã tin và đã thực hành nhiều
năm. Với tâm thị hiếu, họ đã hồ hỡi chấp nhận những
danh từ rỗng tuếch, vô nghĩa (Col. 2:8) và sai lạc với
giáo lý của Chúa Kitô. Họ vội tin “Các Đấng ở trên!”
rất mu mơ, huyền hoặc và dị hợm. Chắc chắn các Đấng
ấy không phải là Chúa Giêsu Kitô! Mà họ đã tôn thờ
bao năm nay.
Để đối diện, chúng ta phải dứt khoát như Phaolô, “Tôi
đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu
mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tôi không
muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô,
mà là Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập gía (1Cor. 2:
1-2).” Bỏi vậy, Phaolô đã chia sẻ tâm tình, “Tôi nói, tôi
giảng mà chẳng có dùng lời lẽ hấp dẫn, nhƣng chỉ
dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền
năng Thiên Chúa (1 Cor.2: 4).”
33
Những ai đã theo dị giáo “Khai tâm đạo” thường có
những đặc điểm quái dị và tương tự nhau như: sinh ra
cố chấp, ngoan cố và lì lợm đến thà: “Phá vỡ sự đồng
tâm nhất trí (1Cor.1:10)” và quay lung kết án mọi
người là không biết gì! Đây là một dấu chứng rõ ràng, là
họ đang mắc quai hàm với cái tà tâm của ác thần! Tính
chia rẽ phát lộ qua sự cạnh tranh và hơn thiệt phe phái:
“Tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apolo, tôi thuộc về
Kepha, và tôi thuộc về Đức Kitô (1 Cor.1:12)”. Với
họ bây giờ chỉ có Gioan Minh! Tinh thần này đã bị
Thánh Phaolô nhận diện, mạnh mẽ đương đầu và kết án.
ĐỨC TIN DUY NHẤT NƠI CHÚA GIÊSU.
Thứ ba là Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa và là
Thiên Chúa (Jn.1:1): Ngài phải là trung tâm của Đức tin
và nguồn ơn cứu độ. Ai đến như thiếu phụ Lành, tôn
vinh linh mục Gioan Minh là cha thánh, tức là đã rơi
vào sự sai lầm đáng trách, vì Chúa Giêsu đã dậy “Tôi
đến nhân danh Cha tôi, nhƣng các ông không đón
nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì
các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau, và
không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa
duy nhất, thì làm sao có thể tin đƣợc? (Jn.5:43-44)”
Như thế thiếu phụ tên Lành này, có thể, đang làm sai lạc
tâm tưởng của Cha Gioan Minh, hay chính cha Gioan
Minh chưa giáo huấn thiếu phụ Lành đến nơi đến chốn,
34
nên dị giáo “Khai Tâm Đạo” đang chống đối lại linh
đạo tự khiêm của thánh Gioan Tẩy giả “Ngƣời phải
tăng tiến, còn tôi phải lu mờ đi (Jn.3:30).”
Hiệu qủa là họ phải chịu trách nhiệm về phần rỗi của
người khác, như lời kết án của Chúa Giêsu, “Ai không
đi với tôi là chống tôi; ai không cùng tôi thu góp là
phân tán (Mt.12:30).” Và nhân qủa đau đớn là “Mù
dẫn mù, cả hai cùng lăn cù xuống hố (Mt.15:14;
Lk.6:39)” xẩy ra! Tệ hai và xó xiên nhất là họ lại dùng
hai câu trên và chỉ mặt vào những ai dám ngang nhiên
chống đối lại dị giáo Khai Tâm Đạo. Lời Chúa đem đi
bênh dị giáo!
CHÖA KITÔ LÀ ĐƢỜNG DUY NHẤT.
Thứ tư là chỉ có Chúa Giêsu đã và đang là Đấng khai
tâm duy nhất, Ngài đến để kiện toàn lời các tiên tri và
luật Môsê (Mt.5:17). Vậy cái sai lầm của linh Mục
Gioan Minh là đã tự coi mình là cha đẻ của dị giáo
“Khai Tâm Đạo!” đang khi Chúa Giêsu, Ngôi Lời
Hằng Hữu, đã kiện toàn Lời và giáo thuyết của Thiên
Chúa từ trên 2000 năm trước đây. Hiệu qủa Khai Tâm
Đạo do Chúa là “Ai tin vào Ngài, và chịu phép rửa thì
đƣợc ơn cứu độ. Và “Ai không tin, sẽ bị kết án
(Mk.16:16).” Và chỉ có Ngài là “Đường, là sự thật, và là
sự sống (Jn.14:6).” Có ai khác dám coi mình là đấng ban
phát luật, và nguồn ơn cứu độ, ngoài Chúa Giêsu
35
(Cv.4:12). Thế mà Gioan Minh dám coi mình ngang cơ
với Chúa!
DỊ GIÁO KHAI TÂM ĐẠO LÀ ĐẠO THÁNH
Và thứ năm là: theo thiếu phụ tên Lành rao giảng thì dị
giáo “Khai Tâm Đạo” là “Đạo Thánh thực sự.” Lậy
Chúa tôi! Thế giới Kitô giáo với gần 3 tỉ tín hữu đều
đang theo Chúa sai cả ư? Giáo hội đang lầm đường lạc
lối hay sao? Và chỉ có cha con linh Mục Gioan Minh là
đúng với “Đạo Thánh thực sự? Vậy Chúa Giêsu Kitô,
Đấng đã tuyên dậy “Ta là Đưởng, là Sự Thật, và là Sự
Sống (Jn.14: 6a) ” là kẻ lừa dối nhân loại hay sao?
Nguyên lời lộng ngôn này đã cho thấy các dị giáo nhân
Khai Tâm Đạo qủa là cuồng tín và dung ngoa ngôn để
cạnh tranh với Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Lời
(Jn.1:1), đang ở giữa chúng nhân (Jn.1:14)! Và đang
dẫn hường chúng ta về nhà Cha!
Nếu qủa thật linh Mục Gioan Minh biết mọi sự, có thể
“Phân thân,” đủ khả năng “Phóng Thánh Linh” cho các
cõi, và có đầy đủ quyền năng chữa lành. Thì tại sao còn
phải âm thầm trụ trì ở cái xó của giáo xứ Hiển Linh,
TPHCM, Việt Nam? Tại sao Lm Gioan Minh không can
đảm đứng lên lập kinh đô của dị giáo “Khai Tâm Đạo”
như ông đạo “Dừa” Nguyễn Thành Nam ở “Cồn
Phụng”, Bến Tre độ nào. Nhưng ông Đạo Dừa đã tự
36
biến mất, và đạo dừa đã bị khai tử sau biến cố tháng tư
năm 1975. Vâng tại “Hố Cốc, Bình Châu.”
Đạo mà không đưa tín hữu đến “Kính Chúa và yêu
ngƣời!” là sai hoàn toàn! Là lầm đường lạc lối thậm tệ!
và sẽ bị Chúa chúc dữ! Đạo mà không đƣa tín hữu vào
hiệp nhiệm với Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, và
trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Linh là đạo giả, đạo
rối của Con mãng xà, của con thú thế gian, và của các
ngôn sứ gỉa, vì theo Thánh Gioan Tông Đồ thì “Từ
miệng con mãng xà, từ miệng con thú, từ miệng ngôn
sứ gỉa, tôi thấy ba thần ô uế nhảy ra, hình thù nó nhƣ
con ếch (Kh.16:13).” Và “Chúng là thần Khí của ma
qủi, chúng làm những dấu lạ, và đi đến với vua chúa
khắp trần gian, nhằm tụ họp họ lại giao chiến trong
ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng (Kh.16:14).”
Và đạo chỉ duy nhắm đến chữa lành, nổi danh, và thủ
lợi là “Giữ đạo vì nguồn lội” của ngôn sứ gỉa!
(1Cor.6:5b)
ĐỨC TIN NƠI CHIÊN THIÊN CHÖA
Chúng ta đã tin Đức Giêsu Kitô là “Chiên Thiên Chúa,
Đấng xóa tội trần gian (Jn.1:29)” nghĩa là “Trong Đức
Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian đƣợc hòa giải với
Ngƣời, và Ngƣời không còn chấp tội nhân loại nữa,
và trao cho chúng tôi công bố lời hòa giải (2 Cor.
5:19).”
37
Trách nhiệm của chúng ta là cộng tác với Chúa Giêsu, để
sống với Ngài, vì “Phàm ai ở trong Đức Kitô, đều là
thụ tạo mới (2 Cor.5:17).” Ở trong Chúa Giêsu là “Anh
em đừng mang chung một ách với những kẻ không
tin (2 Cor.6: 14).” Ách này là dối gian, lừa gạt!
Thế gian: đầy tội lỗi thật sự! Thế nhân: bị tam thù dằn
vặt ngày đêm! Bởi vậy chúng ta có bổn phận, một là
“Hãy tự xét mình, xem mình có còn sống trong đức
tin hay không (2 Cor. 13:5)?” và hai là “Hãy cầu xin
cho anh em đƣợc nên toàn thiện (2 Cor.13:9).” Tiêu
chuẩn tuyệt đối nên hoàn thiện theo Chúa Giêsu phải là
“Nhƣ Cha trên trời, là Đấng hoàn thiện (Mt.5:48).”
Nếu chúng ta không hội đủ hai yếu tố trên, Chúa Giêsu,
vì thế, đã đặt vấn đề: “Khi Con Ngƣời ngự đến, liệu
Ngƣời còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không?
(Lk.18:8)”
ĐỨC TIN LỖI THỜI
Như vậy, chúng ta nên vứt bỏ quan niệm tiêu cực, và
lỗi thời. Đó là ngồi than khóc tội mình và tội nhân loại
như dị giáo “Khai Tâm Đạo” đang triển khai, và dậy
tín đồ thực hành qua hình thức đánh tội và hành hạ thân
xác. Trái lại chúng ta phải sống tích cực, dấn thân vào
đời, và nhiệt thành hy sinh cho tha nhân, để cùng tha
nhân nên hoàn thiện (Mt.5:48), và thẳng tiến về nhà
Chúa, đã chuẩn bị từ muôn đời (Mt.25: 34).
38
Vì đức tin của con cái Thiên Chúa, không phải đức tin
sợ hãi vì hình phạt, nhưng là niềm tin chân chính vì
“Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên
Chúa cứu độ (2 Cor.6:2).” Đó là công trình vĩ đại Chúa
Giêsu đã đem đến thế gian, khi Ngài nhập thể, “Những
ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngƣời cũng kêu gọi;
những ai Ngƣời đã kêu gọi, thì Ngƣời cũng làm cho
nên công chính; Những ai Ngƣời đã làm cho nên công
chính, thì Ngƣời cũng cho hƣởng phúc vinh quang
(Rm.8:30).”
Nếu cứ ngồi than khóc tội mình, và tội nhân loại, là chưa
tin vào công cứu chuộc vô gía của Chúa Giêsu, Đấng
“Đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những
ngƣời tội lỗi (Rm.5:8).” Đồng thời cũng chưa tin là
“Chúng ta đã đƣợc nên công chính, nhờ máu Chúa
Giêsu đổ ra, để cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa (Rm.5:9).”
Dĩ nhiên, chúng ta phải sám hối và đổi mới hằng ngày,
và phải “Cùng chết với Chúa Kitô, để đƣợc cùng sống
lại với Ngƣời (Rm.6:8; 2Tm.2:11).” Nhất là phải cẩn
trọng vì “Tội vẫn ở trong tôi (Rm.7:20b).” Vì chúng ta
đã “Bị bán làm tôi cho tội lỗi (Rm.7:14).” Vậy hình thức
đánh tội quan trọng, hiệu qủa và ý nghĩa nhất là “Tâm
ngay lòng chính!” và cũng là lời thiên thần hoan chúc,
khi Đấng Cứu Thế giáng trần, “Bình an dƣới thế cho
ngƣời thiện tâm (Lk.2:14)!”
39
Vậy đừng bắt chước những ai đang phùng môi, trợn mắt,
tay chỉ trỏ chửi bới, vu vạ, cáo gian, lê la nói xấu người.
Nhất là tâm không bao giờ an hòa, vì luôn bị manh động
với những mưu mô hại người, và những tính toán ăn
thua, làm lợi cho mình. Trái lại phải có tâm tình của
Chúa “Có nói có, không nói không, thêm bớt điều gì
là do ác qủi (Mt.5:37).” Đây mới là đánh tội tâm hồn!
2. LỜI KHUYÊN
Tôi không kết án ai, nhưng thật buồn, một cái buồn làm
đau thắt con tim! Tôi không ngờ sự thể lại xảy ra nơi
những người tôi qúi mến nhất, và đang hăng hái đi trong
Thánh Linh Chúa. Thế mà trong phút chốc có người
đến, và dám phạm thượng tuyên bố là phong trào
“Thánh Linh” thua dị giáo “Khai Tâm Đạo!”, thì kẻ
ấy lại được một số anh chị em hoan hỉ đón tiếp. Chúa
Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng luôn hiện hữu
với Chúa Cha và Chúa Con. Người đang lấy “Những gì
là của Thầy mà loan báo cho anh em (Jn. 16:15).” Và
Người “Sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã
nói với anh em (Jn.14: 26b).” Chẳng lẽ chân lý hằng
hữu do chính Ngôi Lời là Thiên Chúa mặc khải (Jn.1:1),
lại thua sản phẩm của một người tầm thường, hèn yếu và
sẽ trở về với cát bụi, là Lm. Gioan Minh hay sao? Thật
là phi lý, kiêu căng và cuồng tín!
Chúng ta phải nhận diện ra tên “Phản Kitô (1Jn.2:18,
22)” khi ai đó dám đại ngôn và ngoa ngôn chủ trương
“Chúa Thánh Linh” thua dị giáo “Khai Tâm Đạo.”
40
Tội thay cho những người vì nông nổi và nhẹ dạ, thiếu
hiểu biết, không xác tín, vô tri và bất mộ nên đã bị ác
thần kìm kẹp và sai khiến! Họ là những kẻ “Phản Kitô
đã xuất hiện (1Jn.2:18b).” Qua họ, ác thần đang muốn
phá tan nhóm Thánh Linh tại Sacramento!
Đây là hành động hiển nhiên của Satan, qua ngôn sứ gỉa
tên Lành: kẻ “Phản Kitô (1Jn.2:18).” Và nếu không có
sự hoàn hồn và nhận ra cái sai trái để hoà giải với Thiên
Chúa và anh chị em, chắc chắn nhóm Thánh Linh Sac-
ramento sẽ phải loại bỏ những kẻ “HAI LÒNG” và
“VÔ ÍCH” với Thánh Linh Canh Tân Đặc Sủng, vì họ
đã thuận nhân với kẻ “Phản Kitô (1Jn.2:18).”
Tôi xin tha thiết kêu gọi tất cả hãy: “Thành tâm với
Chúa Giêsu, trong Thánh Linh Chúa, mà tôn vinh Chúa
Cha.” Đừng để bất cứ ai đến lấy đi phần rỗi qúi báu
đang là cùng đích của chúng ta. Hãy xa lánh những kẻ
ăn không ngồi rồi, lết la đi gieo tin xấu, hoang đường và
gây chia rẽ. Hãy tin chắc là không có gì cao qúi hơn
chân lý, và niềm tin chúng ta đã lãnh nhận từ nguyên
thủy, và đang tuân giữ cho tới hôm nay vì “Kính sợ
Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngƣời là Đạo
làm ngƣời (Gv.12:13.”
Hy vọng những gì tôi chia sẻ, sinh ích lợi cho anh chị
em, và được anh chị em chấp nhận như chính lời của
Chúa Kitô và Thánh Phaolô, vì tôi đã chỉ trích dẫn lời
chân lý của Thiên Chúa Hằng Sống, là bằng chứng của
“Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa (1Cor.2:4b).”
41
Vì sự thay đổi qúa mau của nhóm Thành Linh Canh Tân
tại Sacramento, mà tôi tin là chỉ có tà thần mới có thể
làm được chuyện ấy ngoạn mục như thế. Tôi xin trưng
dẫn lời Thánh Phaolô, một lần đã phiền trách anh chị em
tín hữu tại Galata rằng, “Tôi lấy làm ngạc nhiên, vì anh
chị em trở mặt mau lẹ nhƣ thế với Đấng đã kêu gọi
anh em, nhờ ơn sủng Đức Giêsu Kitô, để theo một
Tin Mừng khác (Gal.1:6).” Rồi Phaolô khẳng định là,
“Không có Tin Mừng nào khác, mà chỉ có một vài kẻ
phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng
của Đức Kitô mà thôi (Gal.1:7).”
Và Phaolô nguyền rủa ngôn sứ gỉa hai lần như sau, “Nếu
có ai, kể cả chúng tôi, hay một thiên thần từ trời
xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với tin
mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin
Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi (Gal.1:8-9).” Lời nặng nề
nhất, thánh Phaolô đã phải dùng đến để nói lên cái tội
xấu xa, và nặng nề ấy là “Những kẻ làm cho anh em bị
rối loạn, phải chi họ tự thiến cho xong! (Gal.5:12)”
Có người ngụy biện rằng, “Bây giờ Khai Tâm Đạo còn
mới, chƣa ai hiểu, nên bị chống đối nhƣ phong trào
Thánh Linh.” Đây là một so sánh ương ngạnh, và
cưỡng lý, do đương sự cố tình “vá víu,” và không rõ cái
mình so sánh. Thánh Linh là Đấng Bảo Trợ đã được
chính Chúa Giêsu hứa ban 2000 năm rồi, “Thầy sẽ xin
Chúa Cha, và Ngƣời sẽ ban cho anh em một Đấng
Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là
Thần Khí sự thật (Jn.14:16).”
42
Còn dị giáo “Khai Tâm Đạo” trước hết chỉ là “Lớp vỡ
lòng về đạo” dành cho những người trở lại, và những trẻ
em đang lớn lên, chứ không cho các người đã là tín hữu
thuần thành. Hơn nữa, dị giáo “Khai Tâm Đạo” theo
nhà sáng lập Gioan Minh: “Không là thần học, hay
Thánh Kinh, mà chỉ là một cảm nghiệm” hạn hẹp và
nhất thời của một trần nhân tội lỗi, yếu hèn (Lời minh
định) đang sống tại Viêt Nam mà thôi, đó là Lm. Gioan
Minh.
Tiếp theo là tôi thách đố những ai theo dị giáo “Khai
Tâm Đạo,” mở Thánh Kinh ra đọc và tìm trong Thánh
Kinh, xem ở chỗ nào Chúa Giêsu đã đề cập đến lý thuyết
của cái dị giáo “Khai Tâm Đạo” này, và khuyên khích
chúng ta phải gia nhập dị giáo “Khai Tâm Đạo” để nghe
“Các Đấng Đông Phƣơng” tâm tình và chia sẻ hằng
ngày. Với dị giáo Khai Tâm đạo, Chúa lên án rất nặng,
cũng như dứt khoát ly khai với họ: “Ai không đi với tôi,
là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân
tán (Mt.12:30).” Nếu có ai không tin điều tôi viết, xin
làm ơn nghe ít nhất 25 DVD‟s của Lm Gioan Minh, sẽ
rõ!
Lịch sử giáo hội và gương các thánh còn ghi đậm những
lần chính Chúa Giêsu tỏ mình ra cho một vài vị thánh,
và Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với một vài linh hồn
thánh thiện, chứ không bao giờ thấy “Các Đấng Đông
Phương” ra mặt loan báo điều nọ điều kia như với thế
nhân như với dị giáo Khai Tâm Đạo. Như vậy, nếu
chúng ta bỏ Chúa Giêsu là “Đƣờng, là sự thật và là sự
sống (Jn.14:6)” tức là chúng ta đi trệch đường, vì theo
43
lời phù phiếm, rỗng tuyếch và gỉa dối của thiếu phụ tên
Lành, và đang đánh mất phần rỗi vì công khai “Không
đi với Chúa” thì ắt hẳn là “Phân tán (Mt.12:30).”
Trong Thiên Chúa Chí Ái, Đức Giêsu Kitô và Thánh
Linh Chúa, tôi cầu chúc mọi sự tốt đẹp, sẽ đến với nhóm
nhỏ Thánh Linh tại Sacramento. Ước mong mọi người
sẽ sống hoan lạc, an vui, đồng tâm nhất trí, là dây ràng
buộc và liên kết nhau, vì: “Nếu anh em cắn xé nhau,
hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!
(Gal.5:15)”.
Nhưng điều tiên quyết là “Hãy lấy đức mến mà phục
vụ lẫn nhau (Gal.5:13).” Nếu tâm tình chia sẻ và lời cắt
nghĩa chân thành này có gây phẫn nộ cho bất cứ ai,
xuyên thấu hay cắt tỉa tâm hồn ai, thì xin hãy cầu cho
tôi, tôi tớ vô dụng của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy cầu
cho hết những ai đang phẫn nộ, ngoan cố và lì lợm, bởi
“Thiên Chúa đã cho họ một Thần Trí hôn mê
(Rm.11:8).”
Tôi sẽ tha thiết cầu xin Thiên Chúa, nhân danh Đức
Giêsu Kitô và trong Thánh Linh Người, chữa lành và
xua trừ những tà khí đang ngự trị, và kìm kẹp những ai
đang phản bội chân lý của Chúa Giêsu. Hiện họ đang
huyền hoặc tin theo sự cuồng tín không phải là của Chúa
“Là Đƣờng, là sự thật và là sự sống (Jn.14:6)” để
chấp nhận tin theo những cảm nghiệm lập dị và đặc thù
của dị giáo Khai Tâm Đạo. Thánh Phaolô đã cương
quyết phản đối và yêu cầu chúng ta phải hàng động là:
“Cần phải khóa miệng họ lại (Tm. 1: 11a).” Nghĩa là
44
phải đối đấu với tà thần, tay sai và bè lũ. Đây là lý do
tôi đã nhận lời viết cuốn sách nhỏ: “Giải Mã Khai Tâm
Đạo” này, với ước vọng là có thể „Khai Dân Trí” và
ngăn chặn sự phát triển nguy hại của dị giáo Khai Tâm
Đạo.
45
CH Ƣ ƠNG III CẢM NGHIỆM ĐẾN DỊ GIÁO
Một ký ức nhớ đời, cũng là một ngạc nhiên của tôi, là
câu hỏi mà cha linh hướng Matthêu Phạm Hảo Kỳ
(1912-1994) đặt ra năm 1966, khi lần đầu tôi diện kiến
ngài, “Linh Đạo của thầy là gì?"
Theo sự hiểu biết thô thiển của tôi lúc ấy, thì con đường
“Phục vụ và dâng hiến (Mt.20:28)” đã qúa rõ ràng: Đó
là dấn thân cho Chúa, rao giảng Tin Mừng và lo giúp các
linh hồn. Thấy tôi ngập ngừng chưa trả lời, Cha Kỳ cắt
nghĩa, “Kho tàng Thánh Kinh thì vô biên, bao gồm mọi
khía cạnh của cuộc sống, tích trữ mọi nhân đức, soi dẫn
mọi sự thánh thiện, Thầy không thể theo Chúa, và thực
thi trọn vẹn cả kho tàng Thanh Kinh. Thầy phải suy
nghĩ, cầu nguyện, và tìm chọn cho mình một linh đạo
đặc thù, hợp với cá tính, khả năng, hoàn cảnh, và ước
muốn nên thánh của thầy.”
Vì thế tôi hoàn toàn đồng ý với Lm. Gioan Minh, khi
cha trưng dẫn lời Chúa Giêsu nói với bà Bossis ngày 28-
6-1939, “Con hãy chân tình kính trọng cách sống đạo
đức của kẻ khác. Mỗi người có một: „Cách sống riêng,
để đến với Cha.” Thậm chí Đức Giáo Hoàng Benedicto
XVI, trong cuốn: “Muối cho đời! (Trang 34)”, cũng đưa
ra một quan điểm tương đồng: “Bao nhiêu ngƣời, thì
bấy nhiêu con đƣờng.” Bởi vì “Con đƣờng độc đạo
của Chúa qúa rộng, nên nó biến thành đƣờng riêng
46
cho mỗi ngƣời, và trong mỗi ngƣời.” Khi mỗi người
biết tháp nhập linh đạo của mình vào độc đạo vô biên
của Chúa Giêsu, thì linh đạo cá nhân sẽ hòa hợp vào,
như giọt nước rớt vào đại dương và biến mất, để hòa
nhập với đạo vĩnh hằng và vô biên từ trời ban xuống
(Jn.3:13).
Thật đúng, khi cha Gioan Minh viết, “Tập này không
mang ý nghĩa chuyên khoa thần học, Kinh Thánh hay tu
đức … mà chỉ là SỐNG NGHIỆM LỜI CHÖA trực
tiếp và cụ thể … ” Đúng thế, vì cha Gioan Minh đã tận
mắt chứng kiến, và tâm cha thực sự cảm phục những
thành qủa lạ lùng do ông Bẩy dậy về bùa chú, và ma
thuật “Cùng tần số” với âm binh. Bởi vậy cha Gioan
Minh cảm nghiệm là thuyết “Đồng thanh tương ứng” và
“Đồng khí tương cầu” thật hữu hiệu, mỗi khi cha cần
gặp “Các Đấng Đông Phương” để xin chỉ dẫn. Cha đã
được toại nguyện! Còn gặp Chúa, và kiếm tìm thánh ý
thì nhiêu khê quá! Vì muôn đời: “Chúa vẫn là Đấng vô
hình.” Chẳng gặp!
Thật đúng, khi cha Gioan Minh ghi chép lại cặn kẽ, và
vắn gọn linh đạo, hay cảm nghiệm của mình, giống như
Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu đã làm, và trở thánh “tiến
sĩ giáo hội” vì linh đạo thơ ấu thiêng liệng. Teresa đã
sống tuyệt vời, nhưng khác cha Gioan Minh, là “Chị
không dám quảng bá” linh đạo riêng của mình, cho bất
cứ ai. Hôm nay, chị sang gía và được tôn trọng, vì ai
đọc cũng cảm phục linh đạo thơ ấu thiêng liêng:
khiêm tốn, phó thác, bác ái, nhẫn nhục và vâng phục của
chị.
47
Thật đúng, khi cha Gioan Minh viết, “Đây không phải
là tập tài liệu phổ biến kiến thức để thỏa mãn óc hiếu kỳ,
bởi trí khôn ta hạn hẹp, chữ viết là bất toàn, ngừng nơi
kiến thức và chữ viết là giết chết ĐẠO TÂM (Eph.3:16-
19; Jn.18:36; Rm.7:6). Sự thực thì tâm lòng cha Gioan
Minh đang phô trương cái bất toàn, và cái hạn hẹp của
mình, khi không biết tháp nhập cái kiến thức giới hạn
của mình vào cái tâm vô biên của Thiên Chúa. Nhất là
cha vội KHAI TỬ ĐẠO TÂM, mà cha vừa mới khai
sinh, khi cha quá hãnh diện với cái kiến thức Đông
phương, và vội vàng trình làng cái kiến thức thô thiển
này, và qúa ấu trĩ, một sản phẩm của trí khôn con người,
trên giấy trắng mực đen. Cha còn tự đắc sấm ngôn là
khắp nơi sẽ đến học!
Thật đúng, khi cha Gioan Minh viết, “Không nên trao
tập này cho bạn bè, hay người thân (huyết tộc và linh
tộc) mà chƣa có Tâm-căn, chƣa có cơ duyên, chƣa
đƣợc chia sẻ Khai Tâm Đạo. Vì vậy cha Gioan Minh
chủ trương: “Phải có huấn luyện, có học hỏi, có tẩy não
và bị mê hoặc đã!”
Thật đúng, khi cha Gioan Minh viết: “Cần phải có thời
gian, có nhiều người cùng sống nghiệm cho sâu sắc hơn
nữa, để bổ túc, hệ thống hóa, hoàn chỉnh lại, hầu trình
lên giáo quyền duyệt xét và phê chuẩn. Người sống đạo
tâm luôn luôn tuyệt đối vâng phục quyền giáo huấn của
giáo hội, qua vị đại diện của Chúa ở trần gian, và các vị
thông hiệp với ngài (Mt.16:18-19). Nếu qủa như thế,
Khai Tâm Đạo không còn là cảm nghiệm riêng tư của
48
một cá nhân, bị trù dập và trăn trở trước cuộc đời nữa,
trái là nó trở thành một học thuyết, một triết lý, một linh
đạo, một tôn chỉ, hay một cùng đích của một tổ chức.
Và tham vọng của Lm Gioan Minh là truyền dậy, hình
thành và phát triển dị giáo Khai Tâm đạo đi khắp thế
giới như chúng ta đang thấy hôm nay!
Như thế, Lm Gioan Minh đã hoàn toàn sai, khi công
khai đem cái cảm nghiệm riêng tư của mình ra chia sẻ,
huấn luyện, và mong biến thành một linh đạo chung cho
nhiều người. Làm như vậy, cha đã không tôn trọng linh
đạo riêng của người khác. Trái lại cha đang bắt nhiều
người phải theo cùng một cảm nghiệm, mà cá nhân cha
đã trăn trở đi qua, như một chân lý! Lý thuyết và thực
hành của cha Gioan minh, vì thế, thật là “Chéo cẳng
ngỗng”, hay “Tiền hậu bất nhất!”
Giả như cha cứ viết, cứ hình thành linh đạo theo cảm
nghiệm của mình, rồi sống cho thánh thiện, sống rất
chứng nhân, thì cha sẽ là “Hƣơng thơm của Chúa Kitô
dâng kính Thiên Chúa, tỏa ra giữa những ngƣời
đƣợc cứu độ, cũng nhƣ những kẻ bị hƣ mất (2Cor.
2:15).” Rồi sau khi cha tạ thế, một kẻ hay một nhóm
hậu sinh hữu duyên nào đó sẽ đọc, hiểu, trình bầy, và
làm tỏa sáng gương sống thánh thiện, hương thơm nhân
đức, và lý thuyết thanh thoát hợp với chân lý Phúc Âm
của cha, lúc đó biết đâu cha sẽ trở thành tiến sĩ hội thánh
như Teresa chăng! Đây mới là con đường các thánh đã
đi!
Cha Gioan Minh viết “Đây không phải là tập tài liệu phổ
biến kiến thức, để thỏa mãn óc hiếu kỳ!” nhưng cha lại
49
đã ấn hành, xuất bản và phân phối rộng rãi tập sách
này cho mọi người. Đây là cách quảng cáo, và mời gọi
quần chúng rằng: “Ở nơi cha có sự toàn mỹ, có nhiều
điềm thiêng, có dấu lạ, có đạo mới, có “Đồng thanh
tương ứng”, có “Đồng khí tương cầu,” với các đấng
Đông Phương và có “Cùng tần số” với thế giới âm.”
Hỡi những ai hiếu kỳ và muốn tìm kiếm sự lạ, hãy đến!
Cha tuyên bố, “Không nên trao tập này cho bè bạn, hay
người thân” nhưng hôm nay người thân và bè bạn của
cha đang xúm lại phân phối, trao đổi, tìm lợi nơi
những người muốn đến gặp cha, hay dự khóa. Họ đến
dự, chẳng phải vì kiến thức, nhưng do hiếu kỳ, và chờ
đợi cha bố thí một dấu lạ, hay hay điềm thiêng. Họ mong
nghe những bí mật cuộc đời đã xảy ra trong qúa khứ,
cho thỏa long hiếu kỳ.
Cha chủ trương cái “TÔI” trở thành bé nhỏ, mất hút vào
hư không, mà tâm yêu lại trở nên bao la, vĩ đại đến
mức chứa cả TẠO HÓA CÀN KHÔN, CHỨA CẢ
HOÀN VŨ VẠN VẬT.” Lý thuyết thật hay, nhưng sự
thực thì ai đến, mà không qua cửa ngỏ “Thủ tục đầu
tiên”, thì chẳng được gặp cha! Cái tôi của cha Minh đã
không mất hút vào hư vô, trái lại đã được phô trương
kệch cỡm, khi cha kiêu hãnh khoe cái “TÔI” đang
“Cùng tần số!” và “Phân thân” như các Đấng Đông
Phương và các âm hồn.
Cha dậy: “Người sống đao tâm thực, thì đã từ bỏ hết, chỉ
mến yêu, chỉ sống cho Chúa, và cho tha nhân. Tâm chỉ
phóng yêu, phóng sáng.” Nhưng thực tế thì cha đã biến
50
cơ sở nên hội quán kinh tế: làm ăn, và tìm lợi
(1Cor.6:5b). Từ bỏ đâu không thấy, chỉ thấy các hình
thức mãi lộ, là “Vơ - vét - vào vụng về!” Chúa, qủa thật,
đã mất hút trong cái tôi: “Qúa ư kiêu kỳ, đầy ẩn ý, đầy
tham vọng và đầy mánh mung lợi dụng nhiều người.”
Cha muốn ghi lại cảm nghiệm trầy trụa của người Đông
Phương, trong đau khổ, thử thách, tai ương đã tìm ra lối
thoát, tự giải phóng, và cha muốn chia sẻ qua hình thức
“Tâm truyền tâm” cho những người cùng cảnh ngộ. Vì
thế, cha đã mở các khoá: “Khai Tâm Đạo” cho những
người không cùng cảnh ngộ, và tù tội như cha. Tiếp
theo, cha yêu cầu mọi người tuyên hứa, sống linh đạo,
hay cảm nghiệm riêng của cha. Như thế là cha đã chủ
trương lập một dòng mới, hay vĩ đại hơn, một dị giáo
mới với cái tên thật kêu: “Khai Tâm Đạo,” hay “Đại Đạo
Yêu”. Và phải dự khóa Sa Mạc, rập khuôn người Hồi
Giáo về Mecca, để hoàn tất chương trình và trở thành
cán bộ nồng cốt, hầu tiếp nối cái cảm nghiệm “Cùng Tần
Số” với cõi âm, và “Đồng thanh đồng khí” với các Đấng
Đông Phương của cha.
Cha hân hoan bảo: “Đây chỉ là nghiệm sống cá nhân,
riêng tƣ, của một ngƣời tội lỗi, của một linh mục tầm
thƣờng, của một ngƣời Phƣơng Đông!” nhưng cha lại
ước mong có một hệ thống toàn hảo, được giáo hội phê
chuẩn, để thành cái gì? Một Dòng, một tu hội, một
phong trào, hay một tân dị giáo “Khai Tâm Đạo!”
Nhưng khi trái ý, và bị ngăn cản, thì cha đã: buồn, giận,
và căm hận. Điển hình là với đức cố TGM Phaolô Bình:
nạn nhân đầu tiên của Khai Tâm Đạo!
51
Vì tụ điểm của cha Gioan Minh là “Đồng thanh tƣơng
ứng,” và “Đồng khí tƣơng cầu” với “Các Đấng Đông
Phƣơng”. Phương tiện cha xử dụng là “Cầu cơ”, và thi
công “Bùa phép” mà cha đã học được với ông Bẩy,
nên cha mới có cùng “Tần số” với các hồn. Cha đã
hoàn toàn tìm mình, hay bán mình vì lợi lộc thế trần
(1Tm.6:5b), thay vì tháp nhập vào chính Thiên Chúa là
“Nguyên nhân và cùng đích: Alpha và Omega
(Kh.1:8, 11; 2:8; 21:6; 22:13)” của mọi thế nhân.
Những quái tượng dị hợm này là cảm nghiệm của một
cõi riêng tư thẳm sâu, và khó có thể “Tâm truyền tâm”
với tha nhân, vì cha Gioan Minh dùng chúng để liên hệ
với thế giới âm binh. Muốn có cảm nghiệm „Tâm
truyền tâm” với cha Gioan Minh, thì người tin theo Khai
Tâm Đạo, cũng phải đầu phục những quái tượng di hợm
này. Nhưng lý thuyết ấy lại đi ngược hẳn với giáo lý
truyền thống của giáo hội công giáo, nên không thể chấp
nhận, và chẳng bao giờ có thể thỏa hiệp được, vì chúng
nghịch với chân lý ngàn đời của Chúa Giêsu “Ai không
đi với Ta, là chống Ta (Mt.12:30).
Đồng thời những hành vi quái tượng này vi phạm
nghiêm trọng, giới răn thứ nhất “Phải tôn thờ một
Thiên Chúa (Xh. 20:3; Đnl.10:12; 30:6, Mt.22:37).” Do
hành vi tôn vinh “Các Đấng Đông Phương” dị giáo
“Khai Tâm Đạo” của cha Gioan Minh, không thể tự biện
minh cho cảm nghiệm dị hợm của mình, nhưng qủa thật,
về một phương diện nào đó, “Khai Tâm Đạo” đúng là
52
một “Dị Giáo: Cult” vì đang thờ, cổ võ, phát triển nghi
lễ tôn vinh “Ngẫu tượng.”
Giáo quyền sẽ có nhận định rõ ràng và xác thực hơn về
dị giao Khai Tâm Đạo, sau khi nghe các DVDs của cha
Gioan Minh. Nhưng vấn đề nan giải vẫn là: “Đã có ai
nghe những DVD’s để định giá chƣa?” Và: “Khi nào
mới có người kiên nhẫn ngồi nghe, và đọc các sách
Gioan Minh xuất bản, để có thể thẩm định đúng sai?”
53
CHƢƠNG IV
CHIẾU SÁNG
PHÓNG THÁNH LINH
1. CHIẾU SÁNG Ánh sáng nguyên thủy là chính Chúa Kitô, khi Ngài
tuyên phán “Ta là ánh sáng thế gian! (Jn.8:12; 9:5)”
Thiên quang này đã được giáo hội long trọng công bố ba
lần trong thánh lễ Vọng Phục Sinh “Ánh sáng Chúa
Kitô!”
Ánh sáng này đã chiếu vào thế nhân, và tỏa sáng trong
thế gian, hay nói theo cụm từ của cha Gioan Minh là
“Phóng Thiên Quang” vào thế gian. Sự phản chiếu kỳ
diệu này đã được Chúa Giêsu nhận diện, vì “Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5:14).” Vậy
“Anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy
những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt.5:16).” Vậy phóng
thiên quang rồi ngừng ở nơi mình là sai!
Ngôn sứ Môisen, sau cuộc diện kiến thân thương với
Đấng Toàn năng, đã phải che trán lại, vì “Thiên quang
tỏa sáng” khiến chẳng ai dám trực diện nhìn ông
(Xh.34:29-35). Môisen đã được siêu biến, và ngoại hình
đã trở nên giống Chúa phần nào! Nhưng Môisen mới
54
chỉ tham dự và phản chiếu, chứ Môisen không phải là
chính ánh sáng (Jn.8:2)!
Chúa Giêsu trong biến cố Hiển Dung thì “Dung mạo và
y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lk.9:29).”
Ánh sáng của Chúa Giêsu không phải là sự phản chiếu,
mà là chính nguồn ánh sáng, vì “Chúa Giêsu, Ngôi Lời
là Thiên Chúa (Jn.1:1).” Dù khi làm người, và ở giữa
thế nhân, Ngài vẫn là Thiên Chúa, nên “Ai thấy Thầy là
thấy Cha! (Jn.14:9b)”. Bởi vì “Ta và Cha là một
(Jn.10:32).”
Như vậy, ánh sáng mà hôm nay chúng ta có thể chiếu
sáng cho tha nhân chính là cách chúng ta phản chiếu sự
thánh thiện, là đời sống mô phạm với các nhân đức
luyện thành, là sự công chính chúng ta trân trọng tuân
giữ, là sự yêu thương và bác ái chúng ta chia sẻ, là sự tha
thứ chúng ta trao ban, là sự cảm thông chúng ta hòa
đồng, là sự hòa hợp chúng ta có với Chúa khi “Thuận
thiên gỉa tồn,” rồi quay sang yêu thương tha nhân, vì họ
là con Chúa, và anh chị em của ta: thuận nhân.
Những luồng ánh sáng này, nếu bao quanh và được phản
chiếu trong cuộc đời chúng ta, đều do tâm chúng ta đã
hiệp nhiệm và được siêu biến trong Chúa Giêsu Kitô. Sự
phản chiếu này sẽ biến chúng ta nên những vĩ nhân, nên
những chính nhân quân tử, và nên những tôn sư vĩ đại.
Ánh sáng phản chiếu này phải dẫn đưa nhiều người qua
chúng ta, đến với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, nguồn
phú túc của mọi ơn lành, thánh thiện, hạnh phúc và là
cùng đích của thế nhân (Mt.5:16). Nếu để họ tôn vinh ta
55
là thánh, hay cha thánh, thì chúng ta đi sai đạo và chân
lý, mất sự sống, và sẽ là một đại họa: Ngẫu tƣợng!
Thế nhân hôm nay đang sợ, trốn chạy, và xa lánh ánh
sáng huyền diệu của Chúa Giêsu, vì mặc cảm tự ti với
lời Chúa “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không
phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng
đem lại sự sống (Jn.8:12).”
Thậm chí có người còn đang tán tận lương tâm, và sống
ngược với ánh sáng. Lý do vì “Ánh sáng đã đến thế
gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa (Jn.3: 19).” Và hiệu qủa
hai chiều đương nhiên phải xẩy ra là: ngƣợc chiều, “Ai
làm điều ác, thì ghét ánh sáng, và không đến cùng ánh
sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách (Jn.3:20).” Và
thuận chiều “Những kẻ sống theo sự thực, thì đến cùng
ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã
được thực hiện trong Thiên Chúa (Jn.3:21).” Vâng, việc
“Thực hiện trong Thiên Chúa” là thứ tự tuyệt vời, và là
dấu chứng ân sủng của những ai đang đi trong Thần
Linh của Chúa. Nghĩa là đang khiêm tốn “Phục vụ và
hiến dâng (Mt.20:28)” thực sự cho Thiên Chúa và cho
tha nhân như Chúa Giêsu, đến dám “Hy sinh mạng sống
cho làm giá cứu chuộc muôn người.”
Chúa Giêsu bị kinh sư, biệt phái và thượng tế chống đối,
ghét bỏ và lên án, vì thiên quang của Ngài chiếu tỏa cực
mạnh, soi thấu tâm can, gọt dũa linh hồn, hủy diệt óc tự
mãn và kết án lòng tự kiêu của họ. Giới lãnh đạo đương
thời, thay vì mở lòng: “Để được thanh tẩy, canh tân và
56
nên toàn hảo hơn,” đã phản ứng trái ngược, “Trở nên
ngoan cố và lì lợm hơn, đến đóng kín cửa lòng.”
Họ nhất quyết phải diệt cho bằng được cái ánh sáng
tuyệt đối, hay “Con Người Giêsu,” Đấng đã “Dám bất
kính và phanh phui” đời sống và tư cách của giới lãnh
đạo tôn giáo đương thời (Mt.23:13-36). Thánh Gioan, vì
thế, trong chương mở đầu đã trình thuật hiệu qủa bất lực
của bóng tối, “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và
bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Jn.1:5).”
Đồng thời, Thánh Gioan đã chứng tỏ sự vô ơn bất nghĩa
của thế nhân với Thiên Chúa: “Người ở giữa thế gian, và
thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết
người. Người đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận (Jn.1:10-11).” Hiệu qủa đặc biệt dành
cho người thiện tâm là: “Những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” Vì
“Họ được sinh ra bởi Thiên Chúa (Jn.1: 13).”
Sở dĩ tôi phải dài dòng với từ “Chiếu Sáng”, những
mong qúi vị hiểu rõ “Chúng ta nguyên thủy không là ánh
sáng. Chúng ta chỉ là phản chiếu ánh thiên quang của
Thiên Chúa, “Đấng tạo tác vũ trụ” và “Đấng cứu chuộc
thế nhân,” nếu chúng ta “Hiểu, sống, làm chứng nhân và
chia sẻ Lời Chúa” và “Luật Chúa với tha nhân.” Trường
hợp này, chúng ta sẽ được hiệp nhiệm với Chúa Giêsu,
và qua Ngài với Chúa Cha, như lời dậy: “Ai yêu mến
Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu thương người
ấy. Cha Thầy, và Thầy sẽ đến và lưu ngụ với người ấy
(Jn.14: 23).”
57
Điển hình là thánh Gioan Tông Đồ đã ghi nhận vai trò
của Thánh Gioan Tẩy Gỉa, “Ông đến để làm chứng về
ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không
phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh
sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian,
và chiếu soi mọi người (Jn.1: 7-9).” Như thế, chúng ta
mới có thể hiểu đúng lời: “Ánh sáng của anh em phải
chiếu giãi truớc mặt thiện hạ, để họ thấy công việc tốt
đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự
trên trời (Mt.5:16).” Vậy nếu có ai tự nghĩ mình là ánh
sáng thật, thì thật sự họ đã “Đa ngôn đa qúa” và lạc lối
rồi vậy!
2. PHÓNG THÁNH LINH
Phóng Thánh Linh: là cụm từ phổ thông được cha Gioan
Minh đề cập tới rất thường xuyên và đắc ý. Đi vào chiều
sâu, phóng Thánh Linh ở đây là hình thức giáo dục nhồi
sọ: “Tự kỉ ám thị”, nghĩa là tự gán cho mình điều không
hề có! hay tự nghĩ là mình có thể làm điều nọ, điều kia,
mà thực chất mình bất lực! Phóng Thánh Linh là bệnh
hoang tưởng (Grandiose)! “Tự cho mình có khả năng”,
thực sự chỉ là “Thùng rỗng kêu to!” Và Phóng Thánh
Linh là “Ễnh ương nghĩ mình là con bò!” Là thế nhân,
nhưng lại quên phận mình, và tưởng mình là “Thiên
Chúa.” Tâm kiêu ngạo này đã đưa Lucifer đến cái chết
thứ nhất (Kh.12:7-9).
58
Nếu hiểu “Ánh sáng thật” là chính Chúa Kitô, và thế
nhân chỉ là “Phản chiếu ánh sáng” của Thiên Chúa như
Môisen (Xh.34: 29-35), thì sẽ không có vấn đề. Vì mọi
sự thế nhân nghĩ, nói và làm liên quan đến vấn đề thần
thiêng, Kitô giáo, sấm ngôn, chữa lành, trừ quỉ v.v. đều
phải bắt nguồn từ Thiên Chúa và: “Nhân danh Chúa Kitô
(Jn.14:14; 16: 24)!” Thế nhân trong trường hợp này, chỉ
là những người “Quản lý các mầu nhiệm thánh
(1Cor.4:1; Tit.1:7)” và những kẻ “Phân phối các ơn huệ
thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa (1Pet.4:10).”
Hay như những “Người thợ” trong mùa gặt Nước Trời
(Mt.9:37-38).
Đẻ ra cụm từ “Phóng Thánh Linh”, Lm Gioan Minh
muốn trình bầy những ước vọng đang tiềm ẩn và bức
xúc trong lòng, theo cảm nghiệm đã có với “Các Đấng
Đông Phương” từ lâu. Nhưng cụm từ dùng không chỉnh,
thiếu chính xác nên tạo hiểu lầm, gây xung khắc, và
tương phản với truyền thống, do sự hiểu biết qúa lập dị.
Ở đây tôi xin đan cử lại một trường hợp do thiếu chuyên
môn, và chưa hiểu biết đủ, đã đưa Lm Gioan Minh đi từ
“Thái quá” đến “Bất cập” như sau.
Do hiểu biết qúa phiến diện, và ngây ngô vì chƣa đƣợc
thấu đáo về Hán tự, Lm Gioan Minh đã cắt nghĩa quá
giản dị, và không hợp lý, cụm từ “Nhƣ Song Lộc Triều
Nguyên ơn phƣớc cả” của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Theo Lm
Gioan Minh thì: “Lộc là Nai, Triều Nguyên là trong
Triều đình, trong sân của các Vua nhà Nguyễn.” Diễn
giải theo ý nghĩa “Cóc ngồi đáy giếng” này đã được Lm
Gioan Minh tâm tình với anh Quang.
59
Trong khi cụ Thẩm Qùynh, Cử nhân Hán học, là vị thâm
nho đã cắt nghĩa cụm từ: “Như Song Lộc Triều Nguyên”
khác một trời một vực. Theo cụ: “Song Lộc: Song Lộc
là hai ngôi Sao trong khoa Tử vi: Lộc Tồn và Hoá Lộc.
Triều: là Chầu - Nguyên: là chữ nho. Chữ nguyên có
thể đọc là viên hoặc nguyên nghĩa là chung quanh. Vậy
nghĩa đen của “Song lộc triều nguyên” là: Đức Mẹ nhƣ
ngƣời có hai ngôi Sao: Lộc Tồn và Hoá Lộc chầu
chung quanh cung mệnh của mẹ. Theo Tử vi, cung
mệnh của người nào có hai ngôi Sao này chầu chung
quanh, thì đàn ông sẽ đạt tới Thủ tƣớng, hay Tể tƣớng,
còn đàn bà sẽ đạt tới Nữ vƣơng, hay Hoàng hậu. Vậy
“Như Song Lộc Triều Nguyên” có nghĩa “Mẹ Maria
là Nữ Vƣơng Trời Đất.” (Tưởng nhớ Hai Linh).
Ngôi Lời là Thiên Chúa (Jn.1:1), và đồng bản tính với
Chúa Cha “Ta và Cha Ta là một (Jn.10:30).” Theo phận
Con Thiên Chúa giáng trần, Chúa Giêsu đã: “Không tự
mình nói gì, và làm gì! (Jn.8:28b; 13:49). ” Dù Người sở
hữu tất cả (Mt.28:18), vì “Mọi sự Chúa Cha có đều là
của Thầy (Jn.16:15),” và “Chúa Cha ở trong tôi, và tôi ở
trong Chúa Cha (Jn.11:38).” Như thế, Chúa Giêsu vẫn
luôn nhấn mạnh đến sự hiệp nhất bất khả phân ly, và duy
nhất thể trong đời sống nội tại của: “Ba Ngôi Thiên
Chúa.”
Và khi sai Chúa Thánh Linh, Đấng Bảo Trợ khác đến
(Jn.14: 16), Người cũng sẽ “Không tự mình nói gì,
nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại. Và
loan báo cho anh em biết điều sẽ xảy ra (Jn.16: 13b).”
60
Đặc biệt là “Đấng đó sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em (Jn.14: 26b).”
Thế nhân tuy được vinh dự “Đồng hình đồng dạng” với
Thiên Chúa nên có đặc ơn “Linh ư vạn vật”, nhưng vẫn,
không hơn không kém, chỉ là tác phẩm qúi yêu do Thiên
Chúa tạo dựng (St.1:27). Như thế, chúng ta không có
thể, cũng như không có quyền, theo nhân tính phàm
nhân giới hạn, và bất lực của mình: “Phóng Thánh
Linh!” cho bất cứ ai. Song chúng ta chỉ có thể chia sẻ
hay thông chia những ơn huệ đã thủ đắc.
Vì vậy, chúng ta phải hành động Nhân Danh Chúa
Kitô! Và trong Thần Trí Người! Điều này đã được Chúa
Giêsu xác nhận và bảo đảm tuyệt đối là: “Khi người ta
nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao, hay
nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết
phải nói gì (Mt.10:19: nói theo ơn huệ).” Lúc đó,
“Không phải chính anh em nói, mà là Thần Trí của Cha
nói trong anh em (Mt.10:20).” Lời hứa thần thánh này
đã vô cùng hữu hiệu trong giáo hội qua mọi thời đại.
Điều này chứng minh: “Chúa đang sống” trong anh chị
em, và trong mọi người.
Tín điều này càng rõ ràng hơn khi linh mục dâng thánh
lễ. Bản thân yếu hèn, khuyết điểm và bất toàn của linh
mục: “Không thể biến thể nước và rượu, hóa nên mình
và máu Chúa Kitô.” Nhưng chính Chúa Kitô, trong
Thần Trí Người đã dùng linh mục, và qua lời truyền
phép hữu hình, hiện thực một phép lạ vĩ đại. Lời cầu
trước phút truyền phép là: “Vì thế, chúng con nài xin
61
Chúa, dùng ơn Thánh Thần Chúa, thánh hoá hiến lễ này,
để trở nên mình và máu Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng
con (KNTT 2).” Chúa Thánh Linh chuyển hóa hai thể
hình nước và rượu, nên Nhiệm Tích Thánh Thể: “Mình
và Máu Chúa Kitô.” Như vậy, chính Chúa Kitô và Thần
Trí Người là: “Tác gỉa của Mầu Nhiệm Thánh Thể!”
Linh mục, vì thế, không thể kiêu hãnh nói: “Tôi phóng
Chúa Kitô, hay phóng Thánh Linh” khiến sự biến thể
của “Mầu nhiệm Đức Tin” thành một hiện thực. Trái lại,
linh mục phải khiêm tốn và thân thưa rằng: “Chúng con
chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm
việc bổn phận đấy thôi (Lk.17:10)”. Lệnh truyền của
Chúa Kitô và trong Thần trí Người là: “Anh em hãy
làm việc này, mà tƣởng nhớ đến Thầy (Lk.22:19b;
1Cor.11: 24b, 25b).”
Biến thể của: “Mầu Nhiệm Đức Tin” chỉ được thực hiện
qua chức linh mục thừa tác, với đặc tính “Tông truyền”
của giáo hội. Như thế “Không ai tự gán cho mình vinh
dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron
đã được gọi (Dt.5:4; 9:4; Xh.28:1).” Hay như chính
Chúa Giêsu, Thượng Tế Tối Cao, đã được Chúa Cha
tuyên nhận: “Muôn thủa, Con là Thượng Tế theo phẩm
hàm Melchizedez (Dt. 5:6).” Bởi vậy, chức linh mục
thừa tác sẽ bất thành, nếu do một giám mục không có
“Đặc Tính Tông truyền” cử hành thánh lễ truyền chức,
dù có nhân danh Chúa Kitô. Vì thế mà hầu hết các mục
sư thuộc hệ phái Tin Lành, khi trở lại với giáo hội công
giáo, đều phải được truyền chức lại nếu còn muốn tiếp
tục phục vụ giáo hội.
62
Linh mục dâng hiến đời mình cho: “Vinh danh Chúa” và
hy sinh cho: “Tha nhân.” Đối lại Chúa Giêsu phóng
Thần Linh Ngài và phóng chính bản tính thiên Chúa
của Ngài vào con người linh mục, “Như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai anh em (Jn.20:21).” Vì thế, dù có
cả trăm ngàn linh mục cử hành thánh lễ hay ban bí tích
một lúc, thì quyền năng Chúa ban cũng bao phủ và
phóng ra đồng đều đến tất cả. Thánh Phaolô cảm
nghiệm được ân sủng đặc biệt này, đã hạnh phúc reo vui:
“Tôi sống” nghĩa là tôi trao dâng cuộc đời, hay tháp
nhập đời tôi vào tình yêu Chúa, “Nhưng không còn là tôi
sống, mà Chúa Kitô sống trong tôi (Gal.2:20)” Nghĩa là
Chúa Kitô bao phủ và ban quyền năng Ngài vào tôi.
Khiến tôi không còn sống cho riêng tôi nữa, song qủa
thật, tôi sống cho Chúa, với Chúa và vì Chúa.
Vì là Thiên Chúa vô biên và quyền năng vô hạn,
Chúa Giêsu đã phóng trao mọi năng quyền cần thiết để
linh mục, những người được tuyển chọn, có thể nối tiếp
sứ vụ, bằng những lệnh rõ ràng, và đặc thù như:
+ “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dƣới đất.
Vậy anh em hãy đi, và làm cho muôn người trở thành
môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con, và Chúa Thánh Thần (Mt.28: 18-19).”
+ “Anh em hãy đi khắp tứ phƣơng thiên hạ, loan báo
Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa,
sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án
(Mk.16: 15-16).”
63
+ “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có long tin:
nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỉ, sẽ n1i được những
tiếng nói mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống
nhầm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay
trên bệnh nhân, thì bệnh nhân sẽ được khoẻ (Mk.16:17-
18).”
+ “Anh em đã đƣợc cho không, thì cũng phải cho
không như vậy. Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giất lung.
Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi
dép hay cầm gậy. Vị thợ đáng được nuôi ăn (Mt.10: 8b -
10).”
+ “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao
bị, không dầy dép, anh em có thiếu thốn gì không?”
Các ông đáp: “Thưa không.” Người bảo các ông:
“Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có
bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà
mua (Lk.22:35-36).”
+ Với Phêrô, Chúa Giêsu phóng trao quyền thủ lãnh
“Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy
sẽ xây hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ
không thắng nổi. Thầy trao cho anh: “Chìa khóa Nước
trời (Quản lý).” Và Chúa Giêsu lại phóng trao quyền
tháo cởi trên trần thế: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo
cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy
(Mt.16:19). Như thế: “Tác nhân chính là Thiên Chúa,
thế nhân chỉ là những kẻ thừa hành nhân danh Chúa.”
64
+ Với các tông đồ, Chúa cũng phóng trao Thánh Linh và
ơn tha tội: “Người thổi hơi vào các tông đồ và nói „Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai,thì
người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị
cầm giữ (Jn.20:22-23; Mt.18:18)‟.” Nghĩa là thế nhân
hành động trong trong quyền năng của Chúa Thánh
Thần.
+ Còn với thế giới tín hữu đại đồng thì Chúa Giêsu
muốn “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, hay “Có đi, có
lại, mới toại lòng nhau” khi Chúa nhân ái dậy linh đạo
tha thứ: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh
em trên trời cũng sẽ tha cho anh em. Nhưng nếu anh
em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ
không tha thứ cho anh em (Mt.6:14-15).”
Thiên Chúa giầu có vô cùng, và quyền năng vô hạn, nên
Ngài phóng trao những gì Ngài có cho thế nhân tùy
theo nhu cầu, trƣớc là giúp con người sống thánh thiện,
sau là giúp chúng ta thực thi công bình bác ái, và cuối
cùng là nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể hoàn tất sứ mệnh,
và ơn gọi vì ích chung (1Cor.12:7, 11).
Thế nhân: “Chúng ta có gì mà phóng?” Điều duy nhất
chúng ta có thể làm, là trao dâng tất cả cho Chúa, hay
phóng lời cầu lên ngai Chúa như làn hương trầm: xin
Chúa che chở, gìn giữ, chúc phúc, ban ơn và hướng dẫn
(Phil.4:6). Chúng ta xin, và thực thi tất cả: “Nhân danh
Chúa Giêsu Kitô.” Vì lời Chúa Giêsu bảo đảm là: “Cứ
xin đi, anh em sẽ đƣợc, để niềm vui của anh em nên
trọn (Jn.16:24b).” Đặc thù và hiệu nghiệm tuyệt vời là:
65
“Nếu ở dưới đất, hai ngƣời trong anh chị em hợp lời cầu
xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ
ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh
Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ (Mt.18:19-20).”
Vậy kẻ đi xin về, rồi dương dương tự đắc, và ra oai tác
quái dám “Phóng Thánh Linh” thì phạm thượng, hoang
tưởng, tiếm quyền và sai lầm qúa! Bởi vậy, Chúa Giêsu
đã cho thấy cái khuyết điểm to lớn là “Cho tới nay, anh
em đã chẳng xin gì Nhân Danh Thầy (Jn.16:24a).”
Nhưng Chúa Giêsu vẫn xác quyết yếu tính căn bản của
lời cầu nhân danh Ngài: “Nếu anh em nhân danh
Thầy mà xin điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó
(Jn.14:14).”
Ai không biết “Nhân danh Chúa Giêsu” , chẳng bao
giờ hiệp nhiệm với Ngài, thì hiệu qủa trái ngược là họ sẽ
nhân danh các đấng Đông Phƣơng, NHỮNG PHÀM
NHÂN TỤC TỬ NHƢ CHÖNG TA là đi ngược chiều
với giáo lý trời cao. Đi sai tín lý của giáo hội công
giáo, và sẽ trở thành dị giáo vì thờ ngẫu tượng! Trời
cao thăm thẳm, mênh mông và ngút ngàn vô tận, thì đâu
có mốc điểm để nhận diện ra đâu là đông tây nam bắc!
Trái lại sẽ chỉ còn “Anh em bốn biển một nhà.”
Thánh Phaolô, khi rao giảng Tin Mừng ở vùng Tiểu Á,
phần địa đầu của Đông Phương đã không cóp nhặt các
hư cấu, và chẳng để kiến thức hão lừa dối mình, trái lại
thánh nhân đã đưa ra chỉ thị căn bản và rất quan trọng:
“Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một
66
vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin
Mừng của Chúa Kitô đó thôi (Gal.1:7).”
Rồi Thánh Phaolô đã mạnh mẽ kết án những ai vênh
vang với mớ kiến thức phiến diện và sai lạc: “Nếu có ai
loan báo một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em
đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi (Gal.1:8-9)!”
Điều hay nhất là qua giáo đoàn Galata, Thánh Phaolô
gián tiếp trách chúng ta: “Anh em đang chạy ngon
trớn nhƣ thế mà ai đã ngăn cản anh em vâng phục
chân lý? Lời dụ dỗ ấy không phát xuất từ Đấng kêu
gọi anh em (Gal.5:7-8).”
Cuối cùng, Phaolô còn tiên đoán qua lời răn đe: “Còn kẻ
phá rối anh em thì phải chuốc lấy án phạt, bất kể
ngƣời ấy là ai (Gal.5:10b).” Và lời rủa nặng nhất của
thánh nhân là: “Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn,
phải chi họ tự thiến cho xong! (Gal.5:12)”
Hy vọng đến đây, độc gỉa đã hiểu rõ điều tôi muốn trình
bầy, và ước nguyện của tôi là muốn thức tỉnh những ai
đã lỡ bước theo dị giáo. Chúng ta được “Kêu gọi để
hƣởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do, để sống
theo tính xác thịt, nhƣng hãy lấy đức mến mà phục
vụ lẫn nhau (Gal.5:13).” Vì “Yêu thƣơng là giữ trọn
luật Chúa thiện toàn (Rm.13:8; Mt.20:40).”
Tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận diện ra sự sai trái cũng là
lời thánh Phaolô: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho
67
tôi, tôi đặt nền móng nhƣ một kiến trúc sƣ lành nghề,
còn ngƣời khác thì xây trên nền móng đó. Nhƣng ai
nấy phải coi chừng về: cách mình xây cất. Vì không
ai có thể đặt nền móng nào khác, ngoài nền móng đã
đặt sẵn là Chúa Giêsu Kitô (1Cor. 3: 10 – 11).”
Đường Chúa giới thiệu, phóng ra và kêu gọi mọi thế
nhân thì: “Bao la và ngút ngàn như chính thiên tính của
Ngài (Jn.14:6).”
Đi trong Ngài, với Ngài và cùng Ngài, chúng ta sẽ:
chẳng bao giờ lạc lối. Và dĩ nhiên mỗi chúng ta sẽ là:
“Một vị thánh đặc thù và khác biệt giữa muôn vàn thần
thánh của Thiên Chúa.” Xin qúi vị cầu nguyện, suy
nghĩ, và tự chọn cho mình một hướng đi, hay một linh
đạo riêng để nên thánh trong Chúa Kitô. Vì ngoài Chúa
Kitô và Thánh Linh của Ngài: “Không có ơn cứu rỗi
(Cv. 4:12).” Vì “Không có ai có thể đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy (Jn.14:6b).”
Trái lại, ngoài Chúa Giêsu Kitô, chỉ có “Giữ đạo vì
nguồn lợi (2Tm.6:5).” Một trò chơi hổ lốn “Cá đối
bằng đầu!” với đầy đủ “Tham-Sân-Si” do các tà thần
sáng kiến, phóng vào thế gian, đang chiêu mời nhiều
người gia nhập. Rồi sau đó chúng quay về kìm kẹp các
kẻ nhẹ dạ tin theo, để cùng hư đi với chúng và như
chúng.
68
CHƢƠNG V
Đ ẠO TỰ NHI ÊN
ĐẠO SI ÊU NHI ÊN Trong lời minh định Lm. Gioan Minh viết: “Xuất phát từ
kinh nghiệm tu thân: Đức - Nhân - Đạo -Nghĩa, từ vốn
qúi Đạo Tâm của cha ông tổ tiên Phương Đông, tâm ta
vươn lên Thánh Tâm, và đạt đắc „Đại Đạo Tâm‟ (Cha -
Con - Thánh Linh.)”. Mục đích là giúp ta từ: “Đạo-tự-
nhiên” của cha ông lên: “Đạo-siêu-nhiên” của Thiên
Chúa. Vì thế “Gợi ý sống nghiệm” có phần nào mới mẻ
do Thánh Linh tác sinh.” Vậy Lm Gioan Minh nghĩ sao
khi từ cái: “Gợi ý” đã hình thành Khai Tâm Đạo! Và
đáng buồn nhất là dấu thánh “Nhân danh Cha, và Con
và Thánh Thần: Đại Đạo Yêu” Gioan Minh đã làm mỏi
tay, và đọc mỏi miệng, thế mà mãi đến năm 1972, khi
Gioan Minh đã 40 tuổi mới ngộ ra “Đại đạo yêu =
Thiên Chúa.” Vì năm 2010 Gioan Minh in thiệp với
hàng chữ: “38 năm sống Đại Đạo Yêu!”
Sự thực thì chính Chúa Giêsu cũng đã xuất thân từ:
Phương Đông, trong vùng Tiểu Á, miền Cận Đông. Đạo
Do Thái đã thoát thai từ chính Thiên Chúa, khi Chúa kêu
mời tổ phụ Abraham từ bỏ đất Ur, Iraq (St.12). Thiên
Chúa đã mặc khải, hướng dẫn, quan phòng, bảo vệ và
sắp xếp mọi biến cố trong dòng lịch sử, không chỉ nhằm
giúp dân Do Thái: “Vào đất hứa là Canaan (Josh.1:2).”
Nhưng qủa thật, cùng đích là một đất hứa vĩnh hằng, một
69
“Tân Giêrusalem trên trời (Kh.3:12; 21:2, 10).” Nghĩa
là từ tự nhiên là: “Vật chất, thế gian và thế nhân,” lên
cấp siêu nhiên là: “Chân sư, thánh nhân và con Chúa
trên thiên quốc.”
Với “Tân Giêrusalem”, Abraham sẽ trở thành tổ phụ đức
tin của nhiều dân nước, vì “Mọi dân trên mặt đất sẽ cầu
chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì
ngươi đã vâng lời Ta (St.22: 18; 28:14).” Tân Giêrusa-
lem là: “Trời mới, đất mới.” Là: “Thành thánh từ nơi
Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa
(Kh.21:10).”
ĐẠO TỰ NHIÊN
Đạo tự nhiên là cách sống “Nhân-trí-dũng” để từ phàm
phu tục tử với “Thất tình lục dục”, giữ vững “Nhân chi
sơ tính bổn thiện”, và trở thành chân sư, quân tử sau
bốn nấc thang tu học: “Tu thân, tề gia, trị quốc và bình
thiên hạ.” Đây là định luật luân lý hay tu đức do con
người đã khai sinh, qua những triết lý nhân gian, hay lý
tưởng hào hùng để hỗ trợ cho hệ thống cai trị. Mục đích
là nhằm giúp mỗi người tự chế bản thân, duy trì trật tự
địa phương, sống hòa hợp trong gia đình, chia sẻ công
bình với bằng hữu, và cổ võ thịnh trị trong xã hội. Đạt
được bốn nấc thang trên, thế nhân sẽ trở thành chính
nhân quân tử: “Dám xả thân cho người và cứu đời.”
70
Những luật cơ bản được các triết gia và chân sư đông
phương gieo vào tâm lòng mọi người là:
+ Tam Cƣơng: “Quân-thần, phụ-tử, phu-phụ”,
+ Ngũ thƣờng: “Nhân-nghĩa-lễ-trí-tín.”
+ Tam tòng: Tại gia tòng phụ; Xuất gía tòng phu; Phu
tử tòng tử.
+ Tam kính: Quân Sư Phụ.
+ Tứ đức: phụ nữ là “Công Dung Ngôn Hạnh.”
+ Tứ đức: quan chức là “Cần Kiệm Liêm Chính”
+ Ngũ luân: Vua tôi, Cha con, Vợ chồng, Anh em,
Bằng hữu.
Các vị chân nhân của tam triết Đông Phương đã không
bao giờ đưa ra một chỉ thị “Yêu cầu thế nhân tôn kính
mình” như một vị thần, dưới bất cứ dạng thức nào.
Hình thức tôn kính và coi các vị chân nhân như các
“Đấng được tôn thờ,” đã thành hình do lòng kính yêu
quá độ, và thần thành hóa các vị của thế nhân qua nhiều
thời đại.
Cho đến hôm nay, nhiều người đơn thành, thuộc giới
bình dân học gỉa, vì thiếu nghiên cứu và hiểu biết, đã
quan niệm các vị chân nhân như những: “Thần Linh toàn
năng” có thể ban ơn. Vì thế, việc thắp nhang, không còn
phải là: “Cách tôn kính, tưởng niệm và cầu cho người
qúa cố” nữa, song là một hình thức: “Tôn thờ!” Đây là
mấu chốt của: “Hoang tưởng, dẫn đến mê tín dị đoan!”
Và người hiểu biết ý nghĩa thực về tôn giáo, là một
“Tương quan của thế nhân với thần linh” sẽ bình phẩm:
đây đúng là hình thức: “Thờ ngẫu tượng!” vì các vị ấy
71
muôn đời vẫn chỉ là những phàm nhân như chúng ta, và
tro bụi đã về tro bụi.
Cơ duyên, hay thiên duyên của thế nhân là cố vượt qua
thực thể: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” để có thể: “Lưu
thủy đan tâm chiếu hãn thanh” và trở thành chân nhân.
Nhưng hành vi thế nhân biến thành một “Thần linh toàn
năng” thì chẳng bao giờ có thể xảy ra. Vì “Cái bởi xác
thịt sinh ra là xác thịt, cái bởi Thần trí sinh ra là Thần Trí
(Jn.3: 6).” Hay nói rõ ràng hơn, “Người chỉ sinh ra
người!” hay “Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất, và nói
những chuyện dưới đất (Jn.3:31b).” Vì “Trong âm ty
nơi bạn đang đi tới, không còn hoạt động, không còn dự
tính, chẳng còn hiểu biết, chẳng còn khôn ngoan
(Gv.9:10).”
Trừ Chúa Giêsu “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi
người (Jn.3:13, 31a).” Vì “Nguồn gốc Người có từ thủa
xa xưa (Mal.5:1)” hay như Chúa Giêsu tự mặc khải, “Ta
Hằng hữu! (Jn.8:58)” và Ta là Thiên Chúa (Jn.1:1) vì
“Ta và Cha Ta là một (Jn.10.30).” Vì thế, “Ai thấy Ta, là
Thấy Cha (Jn.14:9b).” Và hiện nay: “Con Ngƣời ngự
bên hữu Đấng Toàn Năng, và sẽ ngự giá mây mà đến!
(Mt.26:64)”
Trong một DVD, Lm. Gioan Minh tâm tình: “Vì không
có đức tin, chưa được rửa tội, nên chưa có thiên lực là
hai điều kiện để gia nhập Nước trời (Jn.3: 5). Thế nhân,
vì vậy, chỉ có thể lên tới bậc chân nhân, chứ không thể
làm thánh nhân.” Đức Phật đã có lần tâm truyền tâm với
tôi (cha Gioan): “Người tín hữu hạnh phúc hơn con, vì
72
họ đã tin và được rửa tội, nên họ là thánh nhân, còn con
chỉ là chân nhân!” mà thôi. Quan niệm này đúng và
chính xác theo tín lý của giáo hội, và lời dậy của Chúa
Giêsu “Không ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu
không tái sinh (Jn.3:5).
Vì không có niềm tin vào Thiên Chúa, và thiếu ơn sủng,
nên giới bình dân học gỉa của luân lý tự nhiên, phải cố
gắng, và vất vả để “Tự luyện tâm thân,” sống “Thanh
Cao” và đạt đến “Chân Nhân.” Còn với các tín hữu, thì
tuy “Tin Mừng Nước Thiên Chúa đã được loan báo,” và
như mọi người vẫn phải “Dùng sức mạnh mà vào
(Lk.16:16).” Nhưng tín hữu vững tâm vì có nguồn thiên
lực trợ giúp đầy quyền năng: “Tất cả những ai đang vất
vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng (Mt. 11:28).” Vì “Không có Thầy, anh
em chẳng làm gì được (Jn.15:5b).”
ĐẠO SIÊU NHIÊN Đạo siêu nhiên là Đạo Trời, là liên hệ giữa nhân và
Thiên, là chân lý do Thiên Chúa ban tặng, là sự sống
Thượng Đế mặc khải cho thế nhân, qua các ngôn sứ
trong Cựu Ước, và từ chính Ngôi Lời (Dt.1:2; Jn.1:1)
trong Tân Ước, khi thời điểm tới. Niềm tin ấy là:
+ Niềm tin vào Thƣợng Đế là địa căn. Dù Thiên Chúa
vô hình, nhưng tình yêu với thế nhân đã khiến Ngài nhập
cuộc vào dòng sinh mệnh của nhân sinh “Ngôi Lời đã
nhập thể (làm người)” và ngự giữa chúng nhân
73
(Jn.1:14).” Ngài đang: “Hướng dẫn, bảo vệ, mặc khải
cho thế nhân từng bước một (Cv.17:28).” Để bảo đảm
ơn thánh tuôn tràn, “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho
đến tận thế (Mt.28:20b).” Điều kiện căn bản để chúng ta
tháp nhập với Thiên Chúa là “Tin vào Ngài, thì mới
được ơn cứu độ (Jn.3:16).” Phải thi hành: “Ý Ngài” thì
niềm vui mới viên mãn (Mt. 7:21), đồng thời phải thực
thi giới răn Ngài thì mới được Ngài yêu mến (Jn.15:10).
+ Giới Điều hệ trọng nhất là “Thiên”. Thế nhân phải
“Kính thờ Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn, và hết sức lực (Đnl.6:5; 10:12; 30:6; Mt.22:37).”
Sự kính thờ này loại trừ những hình thức thờ phƣơng
ngẫu tƣợng do con người hình thành và tin tưởng nơi
“Thế nhân, hay chân nhân, hoặc thánh nhân và tránh
mọi hình thức phong thần những sức mạnh tự nhiên
đang vằng vặc và huyện nhiệm đến kinh hoàng trên thế
gian (Đnl. 7:25; Lv. 19:4).”
+ Giới Điều thứ hai là “Nhân”. Thế nhân phải tương
kính, tương thân, tương ái tha nhân như yêu thương
chính mình (Lv. 19:18. Mt.22:39) Và Chúa Giêsu đưa ra
nguyên tắc thực hành cao siêu, “Những gì anh em muốn
người ta làm cho mình” thì hãy đi bước tiên phong và
tích cực là “Chính anh em cũng hãy làm cho người ta
(Mt.7:12).”
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh sự quan trọng không thể
thiếu của bổn phận yêu người, khi dậy “Thầy ban cho
anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Jn.13:34).” Và
74
Chúa Giêsu kết luận “Mọi người sẽ nhận diện anh em
là môn đệ Thầy là: nếu anh em có lòng thương yêu
nhau (Jn.13:35).” Vì “Tất cả luật Môisen và sách các
ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy (Mt.22: 40).”
Thánh Phaolô đã dùng cả chương 13 trong thơ thứ nhất
gởi giáo đoàn Corinto để diễn tả về tầm quan trọng của
tình yêu, và Ngài kết luận “Đức tin, đức cậy, đức mến cả
ba cùng tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến
(1Cor.13: 13).” Phaolô còn khuyên “Anh em đừng mắc
nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái; vì ai yêu
ngƣời, thì đã chu toàn lề luật (Rm.13: 8).” Nghĩa là do
yêu thương chúng ta sẽ “Nên trọn lành như Cha anh em
ở trên trời, là Đấng trọn lành (Mt. 4:48).”
Vậy sự khác biệt lớn nhất và quan trọng nhất giữa luân
lý tự nhiên và đạo siêu nhiên là:
+ Luân lý tự nhiên cố gắng giúp con người hiểu, sống
và tự kiềm tỏa danh lợi dục, và tham sân si để “Tu thân”,
sống nhân ái và thuận hòa để “Tề gia”, can cường và
công minh để “Trị quốc”, và thông minh và mẫn đạt thủ
đắc cứu cánh là thành chân nhân hầu “Bình Thiên hạ.”
Nhưng cơ may này không dễ dàng đến với mọi người.
Trái lại, chỉ có một thiểu số rất nhỏ nhoi sống can cường,
mới có thể đi qua bốn chặng đường: “Nhiêu khê” này và
đạt đích.
Có người cả đời vò võ mà vẫn cứ ở: nấc thang thứ nhất.
Có kẻ may mắn hơn bước sang: nấc thang thứ hai. Có
người hạnh phúc tiến vào: nắc thang thứ ba. Và hoạ
75
hiếm mới có người: “Thông thiên, đạt địa, thuận nhân”,
có thể đưa tay giúp người, đưa trí giúp đời, và đem lại
“Thời thái bình cửa thường bỏ ngỏ, đêm năm canh an
giấc ngáy o o (Uy vũ tướng công Nguyễn Công Trứ).”
+ Đạo siêu nhiên tháp nhập chúng ta vào Thiên Chúa là:
“Tình Yêu (1Jn. 4:16)” mà Gioan Minh gọi là “Đại đạo
Yêu.” Nhờ đó, tình yêu của Thiên Chúa trong chúng ta,
có thể: “phản chiếu đến tha nhân, phát lộ qua tư tưởng,
lời nói, và hành động.” Còn tâm thì: “Chúng ta sống,
nhưng thực sự, không còn là chúng ta, mà Chúa Kitô
sống trong chúng ta (Gal.2:20).”
Tình yêu Chúa: “Siêu biến chúng ta nên những chứng
nhân sống động với sự xuất thần vô cùng huyền nhiệm
khi chúng ta nhận lãnh thiên lực là: “Ăn mình và uống
máu Con Người (Jn.6:53 -56)” để trở thành chi thể
Chúa Kitô, được nên một với tha nhân, trong linh đạo
“Thân thể mầu nhiệm,” mà Chúa Kitô là đầu. Trong
Chúa Kitô chúng ta là anh chị em với nhau (Eph.5:23,
4:15-16).
Dù hiệp nhiệm với Chúa Giêsu, qua Ngài chúng ta:
“Hiệp nhiệm với Chúa Cha, và Thánh Linh ở mọi nơi và
mọi lúc (Jn.14:23)” là Đại đạo yêu. Nhưng không bao
giờ chúng ta có thể biến thành: Thiên Chúa. Không
hơn không kém, và cho đến muôn đời, chúng ta vẫn là
những tạo vật quí gía do chính tay Chúa tác thành
(Jn.1:3; Is.43:4). Và vị thế chính thực của thể xác vẫn là
“Bụi tro!” còn thần hồn sẽ như các “Thiên Thần
Lk.20:36).”
76
Mức độ tháp nhập, hiệp nhiệm và siêu biến với Chúa và
trong Chúa, sẽ khác biệt nơi mỗi người, tùy theo cách
thế chúng ta đã hiệp nhiệm, dấn thân, sinh động và nhiệt
tâm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Đồng thời tùy
theo lòng mến thanh thoát, tinh tuyền, vô vụ lợi và hy
sinh tuyết đối cho Chúa và tha nhân.
Do sự thánh thiện, hiệp nhiệm và thần thế cá nhân trước
mặt Thiên Chúa (St.18:16-32 Abraham cầu bầu), chúng
ta có thể khẩn cầu cho tha nhân, và Thiên Chúa sẽ hành
động theo lòng thương xót của Ngài, và sẽ ban ơn cho
họ, tùy theo lòng tin, sự chân thành và sám hối của
đương sự.
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh có thể phóng
quyền năng chữa lành, tái sinh, hồi phục, xua trừ ma qủi
cho bất cứ ai có lòng tin (Lk. 8:46). Chúng ta, những
chứng nhân của lòng tin, những quản lý trung thành, chỉ
có thể cầu xin với Chúa Cha, nhân danh Chúa Giêsu, và
trong sự hiệp nhiệm với Chúa Thánh thần (Mk.16:17-
19). Chắc chắn lời chân thành, tin tưởng và khiêm tốn
khấn cầu của chúng ta sẽ được Thiên Chúa chấp nhận
(Mt.10:7-8).
Bởi vậy chúng ta phải thận trọng, khi dùng ngôn ngữ
trần gian diễn tả: “Sao cho đúng với vị thế tạo vật và
quản lý trung tín của mình.” Chúng ta chỉ có thể chia sẻ
ơn lành, Thần Trí, và quyền năng Thiên Chúa ban cho
tha nhân, cho người đau khổ, cho bệnh nhân, cho kẻ
khao khát chân lý, cho người bị ma qủi nhiễu nhương,
77
và chữa lành họ “Nhân Danh Chúa Giêsu Kitô.” Tín
lý này đã được Chúa Giêsu minh định “Nếu anh em
nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy
sẽ làm điều đó (Jn.14:14; Mk.16:17).” Và hiệu qủa rõ
ràng hơn là khi “Hai người trong anh em hợp lời cầu xin
bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban
cho. Vì ở đâu co hai ba người họp lại nhân danh Thầy,
thì Thầy ở đấy, giữa họ (Mt.18:19-20).”
KẾT LUẬN
Chúng ta tuyệt đối đừng bao giờ tiếm danh và coi
mình nhƣ: “Thiên Chúa,” có thể tự phóng ra một
quyền năng nào, hay phóng Thánh Linh. Phóng Thánh
Linh là thuyết đã được cha Gioan Minh hình thành và
chính cha đã diễn đạt như sau: “Khi cảm nghiệm Thánh
Linh tràn đầy, chân thân rần rần khắp cả, sức mạnh tình
yêu như sóng cồn, hân hoan và đầy ứ, chỉ muốn thông
phát ra muôn phía, thì lập tức giơ tay ra, hướng về người
đáng thương nhất, phóng Thánh Linh thiên lực đến
thương xót cứu chữa. Sức mạnh xuất ra (Lk. 1:46), và
mặc nhiên biết chắc chắn là người đó được khỏi bệnh thể
xác hay tinh thần (Tập luyện 2: Thể nghiệm Thánh
Linh.)
Niềm tin chính xác và thực hành đúng nhất là “Thế nhân
không ai có quyền năng chữa lành.” Chỉ có “Thiên
Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô, và Thần Linh Ngài có
quyền năng “Chữa lành.” Đây là niềm tin và hành động,
78
chúng ta cần cắt nghĩa, giác ngộ, và khai dân trí, cũng
như củng cố niềm tin của tín hữu, trước khi chúng ta:
“Nhân danh Chúa Giêsu, cầu thay nguyện giúp” theo
nhu cầu của bất cứ ai, cho “Danh Cha cả sáng, Nước
Cha trị đến, và Ý Cha thể hiện, dưới đất cũng như trên
trời (Mt.6: 9b-10).”
Câu chuyện đã xảy ra tại Lystra chứng tỏ rõ ràng.
Phaolô đã chữa lành một người bại hai chân từ bẩm sinh.
Dân chúng kinh ngạc và mừng rỡ tung hô “Thần linh đội
lốt người phàm đã xuống với chúng ta.” Họ gọi Barnaba
là: “Thần Zeus.” và Phaolô là: “Thần Hermes.” Bar-
naba và Phaolô đã phải xé áo mình ra phân bua sự thật:
“Chúng tôi đây chỉ là ngƣời phàm, nhƣ các bạn
(Cv.14: 9-15).”
79
CHƢƠNG VI
“CÙNG TẦN SỐ” Trên lý thuyết, cha Gioan Minh có vẻ là rất: “chính
thống.” Nhưng mộng ước và thực hành của Lm Gioan
Minh rất lập dị, lộ nhiều tham vọng, và qúa táo bạo đến
hoang tưởng! Gioan Minh có thể: “Đồng thanh tương
ứng,” và “Đồng khí tương cầu” đến “Cùng tần số” với cả
năm cõi một lúc:
+ Cõi Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa: Thiên phúc
+ Cõi chân sư, phật, tiên, thánh: Linh phúc
+ Cõi dương: tha nhân đang chiến đấu, bệnh tật.
+ Cõi Âm: các hồn còn vương vất, thanh luyện
+ Cõi địa ngục: quỉ, tội nhân trong hoả ngục.
Như vậy là Lm Gioan minh cố tình trưng dẫn tín điều:
“Các thánh thông công” của Giáo Hội Công Giáo, trộn
lẫn với cái cảm nghiệm riêng tư đã học được là “Cùng
tần số” với “Các Đấng Đông Phương” và âm hồn. Cõi
địa ngục đang: “Nhiễu nhương trần gian, ám nhập vào
nhiều người, mê hoặc thế gian, rắc gieo sự ác, phá hủy
xã hội, gây tao loạn khắp nơi (Is.14:16-17; Kh.13:11-
17).” Cõi địa ngục đã bị Chúa chính thức: “Xua đuổi,”
đã giao chiến với Thần sứ Micae và thua đậm (Kh.12:7-
8), và Chúa Giêsu ra lệnh cho chúng ta phải khai trừ
chúng (Mt.10:8; Mk.16:17). Nên tuyệt đối chúng ta
không thể có cùng tân số với cõi địa ngục! Nhất là
không thể “Đồng thanh đồng khí” với qủi thần.
80
Thiên Chúa
Chúa Giêsu Kitô ngoài việc cầu nguyện “Xin gìn giữ các
môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ
nên một như chúng ta (Jn.17: 11b).” Chúa còn cầu
thêm: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này,
nhưng còn cho những ai, nhờ lời họ mà tin vào con, để
tất cả nên một, như Cha ở trong con, và con ở trong Cha,
để họ cũng ở trong chúng ta (Jn.17: 20).” Lời cầu của
Chúa Giêsu nhắm đưa toàn thể thế nhân, những tuyệt tác
đã được hình thành theo tính “Đồng hình đồng dạng” về
chính nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng (St.1:27).
Được hiệp nhất với Thiên Chúa là chúng ta thủ đắc lời
Chúa Giêsu cầu: “Phần con, con đã ban cho họ vinh
quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như
chúng ta là một (Jn.17:22).” Lãnh nhận Thánh Thể là ơn
hiệp nhiệm cao nhất vì lúc đó : “Con ở trong họ, và Cha
ở trong con, để họ hoàn toàn nên một (Jn.17:23).”
Đây là lời nguyện hiệp nhiệm theo bản thể duy nhất của
Thiên Chúa “Đƣợc nên một”, chứ không phải là lời cầu
để được: “Đồng thanh tương ứng” và Đồng khí tương
cầu” như Gioan Minh chủ xướng với đầy đủ ý nghĩa là:
“Cùng ca và cùng cầu” hay “Cùng ủng và cùng hộ” mỗi
khi có “Tâm đầu ý hợp.” Như vậy, tín lý về hiệp nhiệm
của giáo hội do Chúa Giêsu dậy, và cảm nghiệm “Cùng
tần số” của Lm Gioan Minh là hai thực thể, và hai niềm
81
tin hoàn toàn trái nghịch nhau. Chúa đúng hay Gioan
Mình Đúng?
Hiệp nhiệm với Thiên Chúa là chúng ta được khít khao
và thẳm sâu tháp nhập với Chúa, như Chúa Giêsu cầu:
“Lậy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người
Cha đã ban cho con cũng ở đó với con (Jn.14:3;
17:24a).” Thiếu hiệp nhiệm này là chúng ta mất sự
sống vì “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con
Người, các ông không có sự sống nơi mình (Jn.6:53).”
Nhất là mất luôn niềm hy vọng sống lại ngày Chúa giáng
lâm, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì
thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống
(Jn.6:54-55).” Còn “Nếu các ông không ăn thịt và uống
máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình
(Jn.6:53).”
Bởi vậy, Chúa Giêsu luôn tha thiết kêu mời chúng ta đến
tham dự hiến lễ tạ ơn, và hiệp nhiệm với Ngài trong bí
tích Thánh Thể, vì “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Jn.6:56).” Ngoài
sự hiệp nhiệm thần thánh và cần thiết này, Chúa không
hứa xuất hiện, hôi ngộ, hay mặc khải điều gì cho bất cứ
ai. Trừ khi đó là Thiên ý dành cho người Chúa chọn,
như thánh Phaolô viết: “Vậy người ta được chọn không
phải vì muốn, hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa
thương xót (Rm.9:16).” Nhưng với những người công
chính, và thánh thiện, luôn sống đẹp lòng Thiên Chúa,
thì lời chuyển cầu của họ rất có thần thế trước mặt
Thiên Chúa, như trường hợp Abraham đã khấn cầu và
82
mặc cả ơn tha thứ cho Sodoma và Gomora (St.18:22-
32). Không phải là phóng Thánh Linh!
Xét về khía cạnh cứu thế, khi Thiên Chúa sai “Con Một
Nhập Thể” để Thiên Chúa làm người, và “Ngôi Lời” lưu
ngụ giữa phàm nhân (Jn.1:14), là hình thức Thiên Chúa
nhập cuộc, và cố gắng để “Ngự giữa” với thế nhân. Ngự
giữa là sống hòa đồng, nhưng không hoàn toàn cùng
“Tần số” như Lm Gioan Minh chủ trương, vì Ngôi Lời
là: “Một vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách
biệt khỏi đám tội nhân, và được nâng cao vượt các tầng
trời (Dt.7:26).” Ngài đến để “Cảm thương những nỗi
yếu hèn của chúng ta, Ngài chịu thử thách về mọi
phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội
(Dt.4:15).”
Xét về sứ mệnh của “Đấng Thiên Sai”, Chúa Giêsu đã
hoàn toàn có “Cùng tần số với Chúa Cha” ở mọi nơi và
mọi lúc đến nỗi “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy
(Jn.16:15; 17:10.” Thậm chí Chúa Giêsu còn mặc khải
một chân lý: “Tôi không tự mình nói gì, nhưng chính
Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói
gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: “Mệnh lệnh của Người là sự
sống đời đời. Vậy những gì tôi nói đúng như Chúa Cha
đã nói với tôi (Jn.13:49-50).”
Xét về nội tại tính của Ba Ngôi Thiên Chúa, thì hành vi
“Cùng Tần Số” là lẽ hiệp nhiệm duy nhất, tuyệt vời và
siêu biến nên: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha
(Jn.14:9b)” bởi vì “Ta và Cha Ta là một (Jn.10:30).” Khi
“Phóng Thánh linh (Phát xuất Jn.15:26)” vào trần gian,
83
Chúa Giêsu tiết lộ hành vi hiệp nhiệm rất ngoạn mục:
“Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em
một Đấng Bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi
(Jn.14:16).”
Sứ mệnh của Chúa Thánh Linh cũng rất “Cùng tần số”
với Chúa Cha và Chúa Con, vì “Khi Đấng Bảo Trợ đến,
Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa
Cha, Người là Thần Trí sự thật phát xuất từ Chúa
Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy.” Mục đích của
“Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân
danh Thầy,” rất rõ ràng là “Đấng đó sẽ dậy anh em mọi
điều, và sẽ làm anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với
anh em (Jn.14: 26).”
Để duy trì duy nhất tính của Thiên Chúa Ba Ngôi, thì
“Khi nào Thần Trí sự thực đến, Người sẽ dẫn anh em tới
sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói gì, nhưng
tất cả những gì Người Nghe, Người sẽ nói lại, và loan
báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ
tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà
loan báo cho anh em (Jn.16:13-14).”
Tin hay không tin, thì hành vi Thiên Chúa hiệp nhiệm
với thế nhân luôn là một thực thể. Trước hết, Thiên
Chúa biến mỗi người chúng ta nên “Đền thờ của Chúa
Ba Ngôi” như thánh Phaolô hỏi “Anh em không biết
rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần
Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cor.3:16; 6:19)”
Mà “Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy
chính là anh em (1Cor.3: 17b).” Hiệu qủa là: “Ai phá
84
hủy đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ
ấy (1Cor.3:17a).” Vì thế, chúng ta phải tiêu hủy thói:
“ghét ghen, hận thù, mạ lị, vu khống, giết người, gian
dâm, bất nhân, bất công và bất chính” với tha nhân, nếu
không chúng ta sẽ đắc tội với “Chính Thiên Chúa” nơi
tha nhân. Và sẽ là một “Sào huyệt trộm cướp”, chứ
không còn là đền thờ (Mt.21:13).
Tiếp đến, chúng ta phải tin nhận rằng: “Thiên Chúa hiện
diện thực sự trong tha nhân”, vì chúng ta đã được tạo
dựng theo phạm trù “Đồng hình đồng dạng” với Thiên
Chúa (St.1:27; Rm.8:29; Phil.3:10). Bởi vậy trong dụ
ngôn ngày thẩm phán, Chúa Giêsu đã ghi ấn tín “Thiên
Chúa hiện diện” nơi tha nhân rất rõ ràng, qua hình ảnh
phân xử, và Chúa Giêsu đích danh nêu rõ các lý do
chứng tỏ chúng ta nhận diện ra Người: “Ta đói, các
ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là
khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các
ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng,
Ta ngồi tù, các ngươi đã đến hỏi han (Mt.25: 35-36).”
Mạnh mẽ và xác thực hơn là lời Chúa kết luận “Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một
trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt.25:40).” Đây là
niềm tin hiệp nhiệm, không phải là “Cùng tần số!” với
Chúa hay với tha nhân
Vậy nếu chúng ta đã có phúc: “Hiệp nhiệm” với Thiên
Chúa rồi, thì chúng ta sẽ không tha thiết sự thể ấy với
bất kỳ ai khác. Một là chúng ta tin và thực thi lời Chúa
85
Giêsu dậy “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ
ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh chủ nọ (Mt.6:24).” Hai là chúng ta tin rõ là
không cần mời tà lực là ma quỉ, và âm hồn, hai thế lực
chống Thiên Chúa và thế nhân vào tâm hồn, vì như thế
chúng ta sẽ phải thỏa hiệp sống như chúng, hành động
như chúng, và sẽ bị phạt như chúng. Ba là chúng ta nhất
định dứt khoát với cảnh “Chân trong chân ngoài” hay
“Một cổ hai tròng”, và tệ hơn là nên “Điệp viên nhị
trùng”. Bởi vì hành động như thế sẽ bị Chúa kết án vì:
“Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp
mửa ngươi ra khỏi miệng (Kh.3:16).”
Sự thực là đã có nhiều người vì những lý do cá nhân
như: “Muốn nổi tiếng, tìm danh, trục lợi, thích điềm
thiêng dấu lạ” đã phá rào, bất tín và bất trung với Chúa.
Họ đã cảm nghiệm được những điềm thiêng, dấu lạ và
lợi lộc do bùa chú, phù phép và cầu cơ đem lại. Vì thế,
họ nên thường xuyên “Đồng thanh tương ứng, và đồng
khí tương cầu” với cõi âm, sống như người cõi trên, và
“Cùng hội cùng thuyền” với xã hội đen thiêng liêng là
“Cõi ma quỉ” và “Cõi âm binh.”
Ở đây, tôi xin trưng dẫn lời Chúa đã chỉ dẫn từ thửa xưa
“Quả thật, các tượng thần chỉ nói điều gian trá, lũ thầy
bói chỉ thị kiến điều gian; chúng công bố những giấc
chiêm bao nhảm nhí, nói những lời an ủi vu vơ. Chính vì
thế, họ phải ra đi, thảm não ê chề, như đàn chiên không
người chăn dắt (Zac.10:2). Và rõ ràng hơn, Chúa yêu
cầu chúng ta hiểu cho thâm sâu: “Phần các ngươi, đừng
nghe lời các ngôn sứ, các tay bói toán, giải mộng, chiêm
86
tinh, phù thủy của các ngươi; chính chúng đã nói với các
ngươi rằng: "Anh em sẽ không phải làm tôi vua Ba-by-
lon đâu! (Jer. 27:9)" Nhưng thực sự, dân Chúa đã sống
đau khổ trong kiếp nô lệ tại Babylon. Vì thế, thánh
Gioan Tông đồ trong xuất thần đã nghe lời kết án không
chút thương tâm: “Những quân chó má, làm phù phép,
gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tƣọng, thích nói điều
gian dối, và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài (Kh.22:15).”
THÁNH NHÂN VÀ THÔNG CÔNG
Thánh nhân là những người đã thực thi lời dậy của Tin
Mừng “Hãy nên toàn thiện như cha anh em trên trời là
Đấng toàn thiện (Mt.7:48).” Dù đã hy sinh dấn thân cho
Tin Mừng, dù đã cố gắng sống thánh thiện và tập nhân
đức, dù đã cam chịu nhiều thử thách, dù phải trải qua
nhiều đau thương, dù bị danh-lợi-dục nung nấu, và dù bị
ma qủi, xác thịt và thế gian trù dập và cám dỗ, các thánh
nhân đã trung tín với Thiên Chúa, vui lòng chấp nhận
Thiên ý, và hết lòng phục vụ tha nhân.
Thánh nhân là: “Những người bất toàn, hèn yếu và tội
lỗi” như bất cứ ai trên thế gian. Nhưng các ngài có điểm
đặc sắc và đáng khen là sau khi nhận diện ra khuyết
điểm của mình, đã vì yêu Thiên Chúa, thành tâm “Sám
hối và Đầu phục Tin Mừng (Mt.1:15).” Nhất là đã biết
“Giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên
(Kh.7:14)” là “Đấng gánh tội trần gian (Jn.1:29).” Nhờ
vậy, các ngài đã được nên công chính (Rm.5:9), được
hòa giải với Thiên Chúa (Rm.5:11), Nên được cùng
87
sống với Người (2Tm.2:11; Rm.6:8), và được đồng trị
với Người (Rm.5:17b).
Thánh nhân có thể là những người đã một thời bị lưu giữ
trong chốn luyện hình để được thanh tẩy, hầu nên trong
trắng hơn và thánh thiện gia nhập Nước Trời. Thời gian
này, các ngài là thành phần của giáo hội đau khổ, nên
các ngài cần những lời cầu thay nguyện giúp, và những
việc lành thánh dâng kính Chúa thay cho các ngài, từ
giáo hội chiến đấu. Khi vui hưởng thánh nhan Chúa, các
ngài trở nên thành phần của giáo hội chiến thắng, và các
ngài sẽ trả ơn cho nhưng người đã cầu thay nguyện giúp
cho các ngài, và sẽ cầu thay nguyện giúp cho những ai
xin các ngài cầu cho. Đây là ý nghĩa đích thực và hành
động liên đới giữa các thành phần của tín điều các thánh
thông công, mà Giáo Hội Công Giáo tin tưởng.
Các danh hiệu: “Chân nhân, đại sư, tiên, phật, chính
nhân quân tử v.v…” được Tam Giáo Đông Phương công
nhận, để tôn vinh những bậc trưởng thượng đã xả thân
giúp đời, cứu nhân, và độ thế. Các vị này được Lm
Gioan Minh gọi là: “Các Đấng Đông Phương.” Nhưng
theo đức tin công giáo thì một khi đã vào Nước Trời, vui
hưởng và diện kiến Chúa, tất cả đều là thánh nhân. Điều
quan trọng theo đức tin công giáo: “Các ngài vẫn là
những tạo vật do Chúa hình thành, nên chúng ta chỉ kính
yêu, khâm phục đức độ, và các nghĩa cử anh hùng của
các ngài, chứ không bao giờ tôn thờ các ngài nhƣ
Thiên Chúa.”
88
Cũng theo đức tin công giáo, không ai được xưng nhận
hay được phong là “Thánh nhân” đang khi còn sống tại
thế. Danh hiệu “Thánh” chỉ được công khai và chính
thức do giáo hội tuyên nhận, sau những ngày tháng điều
tra, với những dấu chứng quan trọng và cần thiết. Vậy
những ai vội vàng xưng tụng Lm Gioan Minh là: “Cha
Thánh!” đều là “Ngoa ngôn!” Do việc tôn vinh một
phàm nhân qúa đáng (Jn.5:44)! Chính Lm Gioan Minh
đã khiêm tốn nhận diện ra thực chất và bản tính nhân
loại bất toàn của mình, đã viết trong phần minh định:
“Đây chỉ là nghiệm sống cá nhân, riêng tư của một
người tội lỗi, của một Lm tầm thƣờng, của một người
Phương Đông, sau bao thăng trầm, cay đắng, trầy trật,
trăn trở!” Vậy từ: “Cha thánh Minh” quả là đã do những
thành viên quá ái mộ, đã vội ban tặng trước thời hạn nên
trái nghịch với truyền thống tuyên phong Á thánh hay
Thánh của giáo hội.
Hỏa ngục, địa ngục hay âm phủ
Hỏa ngục là một hiện thực được ngôn sứ Isaiah ghi đậm,
“Vẻ oai hùng của ngươi đã nhào xuống âm phủ cùng với
tiếng hạc cầm của ngươi: nệm của ngươi là giòi, mền
của ngươi là bọ (Is.14:11).” Và “Ngươi lại phải nhào
xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu! (Is.14: 15)?”
Hỏa ngục theo Chúa Giêsu là chốn “Lửa không hề tắt
(Mt.3:12b).” Nên người phú hộ đã than: “Ở đây con bị
lửa thiêu đốt khổ lắm! (Lk.16:24b)”. Chúa nói tiếp:
“Trong hòa ngục chúng sẽ phải khóc lóc, nghiến răng
89
(Mt.13:42).” Và hỏa ngục chỉ dành cho “Đồ mãng xà,
nòi rắn độc (Mt.23:33).”
Đồng thời hỏa ngục cũng là chốn cô lập vì: “Giữa chúng
ta đây và các con, có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này
muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có
qua bên chúng ta đây, cũng không được (Lk.16:26).”
Abraham với Lazarus trong lòng đã ngó thấy ông phú hộ
đau khổ trong lửa ngục, và hai bên tuy vẫn có thể đàm
thoại với nhau, nhưng không thể vượt qua ranh giới đến
với nhau, hay trợ giúp nhau.
Hiểu như thế, đại đa số chúng ta đều không thể, hay
không muốn “Đồng thanh tương ứng” và “Đồng khí
tương cầu” với qủi ma và các âm phủ hồn. Nhất là chẳng
hề ao ước được: “Cùng tần số” để thường xuyên gặp gỡ
cõi âm binh hay ma quái vất vưởng.
Thực sự thì chỉ có Satan mới là kẻ: “Lang thang đó đây”
và “Rảo quanh khắp thiên hạ (Job.1:7; 2:2).” Mục đích
của Satan là đi quanh để “Mê hoặc” và “Gieo họa
(Kh.13:14-17)” cho thế nhân, hơn là trợ giúp. Thế nhân,
vì thế, phải đồng ý với triết Việt nho, khi đưa ra nhận
định, đã được tích tụ theo kinh nghiệm từ nhiều đời:
“Thế nhân là chốn hội tụ của qủi thần: devils within hay
inside!” Và tuyệt đối thi hành lệnh Chúa ban “Khử trừ
ma qủi (Mt.10:8b).”
Thánh Phaolô cũng có niềm tin tương tự, và chia sẻ cảm
nghiệm như sau: “Tôi mang tính xác thịt,” lý do vì đã
“Bị bán làm tôi cho tội lỗi (Rm.7:14)” nên có một hiệu
90
qủa thảm thương là “Sự thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm
(Rm.19).” Tôi hành động như thế vì: “Tội vẫn ở trong
tôi (Rm.7:17b).”
Vì: “Một người duy nhất” đã mở cửa cho tà thần mà
“Tội đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết.”
Nhưng chúng ta không bao giờ đứng ở ngõ cụt, trái lại
chúng ta luôn có niềm hy vọng, vì “Nhờ một người duy
nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được
Thiên Chúa làm cho nên công chính (Rm.5:18).”
Thánh “Gioan Tông Đồ trong sách Khải Huyền đã trình
thuật hình ảnh kinh hoàng của hỏa ngục theo ơn xuất
thần, “Ma quỉ, tên mê hoặc, bị quăng vào hổ lửa và diêm
sinh, ở đó đã có Con Thú và tên ngôn sứ gỉa; và chúng
sẽ bị hành khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp
(Kh.20:10).”
Như thế, tín lý của giáo hội công giáo chủ trương:
+ Không bao giờ có sự đồng thuận hay “Cùng Tần Số”
với tà thần, trái lại mỗi khi có thể, phải nhân danh Chúa
Giêsu Kitô khử trừ chúng, và xua đuổi chúng về nguyên
quán là hỏa ngục.
+ Không thể cứu giúp bằng các lời nguyện, các hy sinh
và bằng việc lành phúc đức cho bất cứ hồn nào, đã bị
bản án hỏa ngục giam giữ đời đời.
91
+ Mọi tín hữu được khích lệ phát triển niềm tin, đức mến
và sự hiệp nhiệm với Thiên Chúa, Đấng tạo tác nên
mình, nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
+ Tại thế, tín hữu có thể thực thi tín điều “Các Thánh
Thông Công” để tương trợ, tương thân và tương ái nhau
bằng lời cầu, bằng hy sinh, bằng việc bác ái. Nhưng
Đức tin Công Giáo không chấp nhận lý thuyết phàm
nhân tục tử “Cùng tần số!” với các Đấng đông Phương,
và “Đồng thanh đồng khí” các âm hồn địa phủ. Vì hỏa
ngục là chốn “Nội bất xuất” và “Ngoại bất nhập.”
Với lý thuyết này, qua hành vi cầu cơ, xử dụng bùa chú,
phù phép: một số người, đặc biệt Gioan Minh đang trực
tiếp đối thoại hằng ngày với các âm hồn Đông Phương,
và thế lục của tà thần. Sau khi “Ăn xin” những điều gỉa
dối và gian trá nhẳm lừa dối nhiều người, và tạo mê tín
dị đoan trong cộng đồng dân Chúa, họ hãnh diện khoe
rằng chính “Do các Đấng Đông Phương" tiết lộ. Hành
vi biết “Ba cái lăng nhăng quấy nhiễu ta” này có ích lợi
gì cho phần rỗi? Dĩ nhiên là không vì “Ngoài Người ra
(Chúa Kitô), không ai đem lại ơn cứu độ (Cv.4:12).”
Vậy “Các Đấng Đông Phương” chỉ là hình thức do Sa-
tan trá hình tạo hiếu kỳ, cổ võ và phát triển mê tín dị
đoan, đưa con người vào lối sống lập dị, và cá nhân của
“Những kẻ lạm dụng” tha hồ được thỏa danh tìm lợi
(1Tm.6:5b), khi bỏ Chúa theo dị giáo Khai Tâm Đạo!
Chúng ta chỉ nên nhớ một điều chính chuyên và thực
hành một chân lý quan trọng nhất, phát xuất từ tâm lòng
Chúa Giêsu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời
92
dưới đất. Vậy anh em hãy đi, làm phép rửa cho họ
Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần,
dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh
em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế (Mt.28:18-20).”
93
CHƢƠNG VII
ĐỨC TIN CHỮA LÀNH
Đức tin là yếu tố tối quan trọng liên quan tới hành vi
chữa lành (Mt.8:1-3; Lk.7:1-10), thăng tiến (Jn.4:7-26;
Lk.19:1-10), tái sinh (Lk.7: 36-50), trừ qủi (Lk.8:26-39),
hiệp nhiệm (Lk.9:28-36) và hưởng ơn cứu độ (Lk.
23:40-43).
Đức tin là chìa khóa mở cửa tâm hồn đón nhận Chúa
Kitô, giáo lý trời cao, Thần học cao siêu, và ơn Chúa
Thánh Linh (Jn.3:1-21). Vì trí khôn nhân loại có hạn
trước cõi trời bao la, và không trung bất tận, nên không
sao hiểu nổi những huyền nhiệm nơi cùng lòng Thiên
Chúa (Is.55:9; Rm.11:33-36)! Nhưng tin vào Thiên
Chúa là Chân-Thiện-Mỹ, chúng ta chấp nhận và tin
tưởng mặc khải Người ban cho.
Đức tin biến chúng ta thành những người trì trí, khiêm
tốn, nhẫn nhục, dấn thân, nhiệt thành và vâng phục như
Phêrô “Vâng lời Thầy con thả lưới (Lk.5:5)”, hăng say
ra đi “Loan báo Tin Mừng (Mk.16:15; Mt.10:6)” và trợ
giúp Thầy khi tại thế, cũng như hỗ trợ giáo hội Thầy có
những phương tiện thực hiện sứ mệnh tông đồ còn dang
dở (Lk.8:1-3).
Đức tin tháp nhập chúng ta vào Chúa Tể Càn Khôn
(Jn.6:32-66), nhận diện Chúa trong tha nhân, và phục vụ
94
Chúa nơi những người cùng khốn, yếu đau, và lỡ bước
(Mt.25:31-46).
Phần thưởng của đức tin tuyệt đối và dù chỉ bằng “Hạt
cải (Mt.17:20)” thôi là sẽ được Thiên Chúa ban cho
quyền: chữa lành bệnh phong, trừ qủi, cải tà qui chính
(Mt.10:7-9; Mk.16:17-19). Và nhân danh Chúa có thể
thuyên chữa các bệnh nhân (Lk.8:43-48).
Cuối cùng, đức tin đem lại ơn cứu rỗi cho những ai tin
tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai
(Jn.3:14-15; 3:16; 12:44-50; 17:3). Đồng thời nhân diện
ra Chúa Giêsu trong những ai đang được sai đi tiếp nối
sứ mệnh ban phát ơn cứu độ (Mt.28:18-20; Jn.17:18;
20:21-23) trên thế giới hôm nay. Và nhất là phục vụ
Chúa Giêsu trong những ai cô thân, cô thế, đói nghèo, vô
gia cư, tù tội và bệnh hoạn (Mt.25:40.
Như vậy, thiếu đức tin, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò
trống gì (Jn.15: 2). Chúng ta sẽ có một hiệu qủa tồi tệ là
trở nên “Vô dụng” và sẽ “Khô héo” như ngành nho
không dính liền với thân cây nho (Jn.15:4-6).
Với đức tin vững chắc và tuyệt đối, chúng ta có thể
Nhân danh Chúa “Dời non chuyển núi (Mt.21:21)” vì
“Mọi sự đều có thể đối với người tin (Mk.9:23),” hay
“Những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện,
thì anh em sẽ được (Mt. 21:22).”
Đức tin tuyệt đối sẽ kéo quyền năng Thiên Chúa và
chính Chúa Giêsu từ trời xuống, và Ngài sẽ hành động,
95
vì chính Chúa Giêsu đã hứa: “Nếu anh em nhân danh
Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó
(Jn.14:14).” Ngài còn bảo đảm: “Thầy bảo thật anh em,
ai tin Thầy, thì người đó sẽ làm được những việc Thầy
làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì
Thầy đã đến cùng Cha (Jn.14:12). Và Chúa Giêsu kết
luận: “Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha
điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy
(Jn.16: 23).”
Lời Chúa Giêsu dậy đã bị mai một, bỏ lửng và vô hiệu
trong nhiều thế kỷ, do thiếu lòng tin. Vì thế, chính Chúa
Giêsu đã phiền trách: “Cho tới nay, anh em đã chẳng xin
gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm
vui của anh em nên trọn vẹn (Jn.16:24).”
Nhiều người đã đọc Thánh Kinh, nhưng chưa chịu suy
gẫm, chưa hiểu thấu ý nghĩa, và chưa tin đủ, nên chưa
tìm thấy ơn ích, và hiệu qủa siêu biến của lời Chúa
Giêsu minh định: “Anh em cứ xin, thì sẽ được, cứ tìm,
thì sẽ thấy, cứ gõ cửa, thì sẽ mở cho (Lk.11:9).” Điều
hiển nhiên này đã xảy ra ở Nazareth: quê hương Chúa,
dù Chúa quyền năng vô cùng, nhưng Chúa cũng đã phải
bó tay, vì họ đã không tin (Mt.13:53-58).
Tin mà còn chút hồ nghi, còn sợ sệt, lo lắng, và xao
xuyến thì chúng ta sẽ rơi vào tâm trạng của thánh Phêrô.
Phêrô đang ngon trớn bước trên mặt nuớc đến bên Chúa
Giêsu, nhưng khi cảm thấy gió thổi mạnh, ông, vì thế,
sợ và bắt đầu chìm. Ông đã hoảng hốt cầu cứu: “Lậy
Thầy, xin cứu con với!” Chúa Giêsu đã đưa tay nâng
96
dậy ông, với lời nhẹ nhàng trách: “Người đâu mà kém
tin vậy! Sao lại hồ nghi? (Mt.14:28-31)”
Sau này, trong tư thế là vị giáo hoàng tiên khởi, Phêrô đã
hành xử chức vụ với đức tin rất đảm lược và với lòng tín
thác tuyệt đối: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi
có, tôi cho anh đây: nhân danh Chua Giêsu Kitô, người
Nazareth, anh đứng dậy mà đi! (Cv.3:6) ” Qua các dấu
thiêng, dân chúng tin nhận bàn tay Thiên Chúa tác động
qua con người Phêrô. Thậm chí “Họ khiêng cả những
người ốm đau ra tận đường, đặt trên giường trên chõng,
để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ
lên được một bệnh nhân nào đó (Cv.5:15).” Và Công
Vụ Tông Đồ kết thúc là: “Những kẻ ốm đau, cùng những
người bị thần ô uế ám, tất cả đều được chữa lành
(Cv.5:16b).”
Cũng trong niềm tin phi thường vào Chúa Kitô, Phaolô
đã bỏ qúa khứ là kẻ bắt bớ đạo thánh (Gal.1:12-14), đã
trở thành tông đồ dân ngoại (Cv.13:3; 18:6). Phaolô đã:
“Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải
xuất ra khỏi người này!” Ngay lúc ấy, qủy thần Ốp liền
xuất ra khỏi người tớ gái. Cô gái này là kẻ đã từng bị
quỉ thần Ốp và dùng thuật bói tóan của cô làm lợi cho
các chủ của cô (Cv.16:16-18). Nay thần Ốp đã xuất ra,
cô trở về với chính lộ. Vì thế, các chủ của cô đã chỉ
ngón tay vào Phaolô và Sila, lên án hai ông là những kẻ
gây bất lợi và thiệt hại cho nghề nghiệp, sự an sinh và
cuộc sống lừa dối của họ.
97
Và cuối cùng cả hai vị đại thánh của giáo hội đã “Trong
tin yêu (Gal:5:6)” cùng “Phục vụ và hiến dâng làm của
lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (Mt.20:28).” Phêrô đã gặp
Chúa vác thập gía đi vào thành Roma, và đã để lại câu
hỏi trứ danh: “Quo vadis = Thầy đi đâu vậy?” Phêrô đã
anh dung tử đạo trên đồi Vatican, nơi Vương Cung
Thánh Đường Phêrô đang tọa lạc . Còn Phaolô thì tâm
sự, “Giờ đây, bị Thần Trí trói buộc, tôi về Jerusalem,
mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra
điều này, là tôi đến thánh nào, thì Thánh Thần cũng
khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ
đợi tôi (Cv.21:22-23).” Và Phaolô cũng đã được phúc tử
đạo sau hơn hai năm bị giam tại ngoại (Cv.28:30-31).
QUÊN BỎ ĐỨC TIN Dài dòng diễn giải tầm quan trọng của ĐỨC TIN trong
đời sống tín hữu, nhằm giúp tất cả: không những tin, mà
còn hiểu rõ linh đạo tin, và không nên trộn lẫn với bất cứ
lý thuyết nào của phàm nhân. Tin hay không tin qủa là
vân đề sống và chết, vì Chúa Giêsu đã minh định: “Ai
tin (lý thuyết) và chịu phép rửa (hành động), sẽ được
cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án (Mk.16:16).”
Thậm chí Chúa Giêsu còn nói rõ cái hệ kết của đức tin là
“Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh
ra bởi nuớc và Thần Trí (Jn.3: 5).” Tin và chịu phép rửa
đã là quan trọng, nhưng điều hệ trọng và lớn hơn vẫn là,
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lậy Chúa! Lậy
Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
98
hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới
được vào mà thôi (Mt.7:21).”
Tin hay không tin là vấn đề quan trọng; là tiêu chuẩn đạt
đích; là nguyên tắc hành động, là quyết định sống hay
chết; và là tự do chọn lựa về trời hay không của mỗi
người! Chúa Giêsu đã phân biệt lằn ranh phải hay trái:
“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng
tôi thu góp, là phân tán (Mt.12:30). Đồng thời Chúa
thanh thoát diễn tả cái thực cảnh phũ phàng của ngày
phán xét: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy:
“Lậy Chúa, lậy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân
danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ qủi,
nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy
giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi;
xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! (Mt.
7:22-23)”
Tâm ý của Thiên Chúa từ muôn thủa là nhân ái vô lượng
vì: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui
khi nó thay đổi đường lối để được sống (Ez.33:11;
Is.55:7).” Tâm ý ấy chỉ thực sự thành công, nếu thế
nhân tối thiểu biết cộng tác với Chúa: “Vậy ai nghe
những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví
được như người khôn xây nhà trên đá (Mt.7:14).”
Linh mục Gioan Minh đã không quan trọng hóa đức tin
là điểm chính yếu và nồng cốt, khi đề cập đến “Vài
nghiệm sống” của cá nhân mình. Sai lầm nhất là Lm
Gioan Minh đã thần thánh hóa vùng: “Cảm nghiệm” ấy,
và tự gán cho nó một “Pháp lực vô biên!” Chỉ đến phần
99
thứ IV: “Sống Đức Tin”, Lm Gioan Minh mới diễn trình
một chút linh đạo về đức tin. Nhưng đức tin theo lý
thuyết ấy lại mất dạng, và bị bỏ hẳn, khi lm Gioan Minh
“Sống cảm nghiệm cõi tiên” do “Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu” và “Cùng tần số” với các “”Đấng
Đông Phương” lập dị và hoang tưởng của mình.
Với Chúa Giêsu, hai linh đạo tiên thiên chúng ta nhận
thấy, và phải thực thi cả đời, thì một là “Sám hối” và hai
là “Đức tin (Mk.1:15)”. Thiếu hai linh đạo này, chúng ta
sẽ lầm đường lạc hướng, vì chỉ có Chúa Giêsu mới “Là
Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống (Jn.14:6a: Đạo, Chân,
Sinh).” Và chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến
với “Chúa Cha (Jn.14:6b).” Bởi vậy thông điệp đầu tiên
thánh Phêrô đã kiên cường gởi đến hoàn vũ, ngay trong
cơn nguy hiểm nhất, khi bị bắt bớ và thẩm vấn là,
“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban
cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà
được cứu độ (Cv.4:12).”
PHÁP LỰC VÔ BIÊN “Phóng Thánh Linh”, là hình ảnh mượn của phóng phi
thuyền, cho anh chị em, hoặc ra tứ phía: cho sinh linh
các cõi đang có “Cùng Tần Số, Đồng thanh đồng khí”, là
cụm từ do cảm xúc của “Cơ Duyên Vô Hình”, để tiến
sang “Cơ Duyên Hữu Hình” là lý thuyết, hay cảm
nghiệm mà lm Gioan Minh nhấn mạnh và đắc ý nhất.
100
Nhưng lại tỏ lộ sự hiểu biết “Cuồng ngạo,” đi từ “Thái
qúa” đến “Bất cập” là quyền “Phóng Thánh Linh” tượng
trưng cho “Pháp Lực Vô Biên” của con người, do ảnh
hưởng của Zen vô thần. Chúng ta dù có thể đạt mức
hiệp nhiệm thẳm sâu và được tháp nhập trọn vẹn với
Thiên Chúa, thì quyền “Phóng Thánh Linh” cho ai, ở
đâu và khi nào, vẫn là quyền năng của Thiên Chúa
Thánh Linh (1Cor.12:7). Và luôn luôn chúng ta, không
hơn không kém, vẫn chỉ là những hạt bụi! Sống là những
người thợ hay quản lý: “Phản chiếu vinh quang Thiên
Chúa” mà thôi.
Sự thực, thì linh đạo hiệp nguyện này đã được Chúa
Giêsu đề cập tới rõ ràng, truyền thống và chính xác hơn,
đó là “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời
cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên
Trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân
danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ (Mt.18:19-20).”
Lời Chúa Giêsu qủa: “Cao siêu và huyền nhiệm hơn” sự
hiểu biết hạn hẹp, phiến diện, ấu trĩ và một chiều của Lm
Gioan Minh. Vậy lời “Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,
sẽ ban cho (Mt.18:19b).” Hay “Nếu anh em nhân danh
Thầy là xin điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó
(Jn.14:14)” là linh đạo chính chuyên, và là chân lý Chúa
Giêsu muốn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt. Nếu không,
chúng ta cũng sẽ rơi vào: “Đồng thanh đồng khí" và
“Cùng Tần Số” với các Đấng ngẫu tượng, để đi vào
hoang tưởng với dị giáo Khai Tâm Đạo!
Hình thức “Pháp Lực Vô Biên” của lm Gioan Minh
được diễn tả như sau, “Khi cảm nghiệm Thánh Linh tràn
101
đầy, châu thân rần rần khắp cả, sức mạnh tình yêu như
sóng cồn, hân hoan và đầy ứ, chỉ muốn thông phát ra
phía trước, thì lập tức tay giơ ra, hướng về người đáng
thương nhất (nguy tử, khốn quẫn, bệnh tật, tà ám v.v.)
một cách vị tha; phóng Thánh Linh thiên lực đến thương
xót cứu chữa. Cảm thấy sức nhiệm xuất ra (Lk.1:46;
6:19), và mặc nhiên biết, một cách chắc chắn, không
nghi nan, người được khỏi bệnh thể xác, hay khỏi bệnh
tinh thần (số 2 Tập luyện: Thể nghiệm Thánh Linh).”
Theo cách diễn tả của Lm Gioan Minh, chúng ta có thể
kết luận: “Tin thì cứ tin, cầu thì cứ cầu,” nhưng khi tiếm
quyền, tiếm danh và cuồng ngôn đến dám tự mình
“Phóng Thánh Linh” thì chẳng còn thấy Chúa đâu! Mà
chỉ thấy một thế nhân: “Coi việc giữ đạo là một nguồn
lợi! (1Tm. 6:5b)” hay nói theo ngôn sứ Egiêkiel thì
“Miệng chúng phỉnh phờ, lòng chúng hám lợi (Ez. 33:
31b).” Và hành xử rất ư là cuồng ngạo, do hành vi tự
phong mình là thần hoàng, biến thế nhân thành kẻ có
toàn quyền định đoạt, biết hết mọi sự, và có thể tự ý
Phóng Thánh Linh cho ai tùy ý, không cần phải nhân
danh Chúa Giêsu Kitô! Và không biết thụ nhân có tin
không! May là Lm Gioan Minh còn biết vớt vát một
chút khi thêm: “Xong thì phải tạ ơn ngay!”
Chủ trương ngược ngạo như thế vì lm Gioan Minh quên,
hay chưa thấu hiểu lời Chúa Giêsu “Thầy sẽ xin Chúa
Cha, và Ngƣời sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ
khác đến ở với anh em luôn mãi (Jn.4: 16).” Và chính
Chúa Thánh Thần “Phân chia cho mỗi người mỗi
cách, tùy theo ý của Người (1Cor.12: 11b)” vì “Ích
102
chung (1Cor. 12: 7).” Ngôn từ của Chúa thật nhẹ nhàng,
uyển chuyện và thẳm sâu, không do cảm xúc, huyền
hoặc và sặc mùi danh lợi!
Tâm tình qúa cao ngạo, không phải là của một thánh
nhân chính danh, vì không một thánh nhân nào dám
ngụy biện, hay dám tự cho là mình có “Pháp lực vô
biên” nhƣ chính Thiên Chúa. Theo tu đức học, thế
nhân càng tiến sâu vào hiệp nhiệm, càng thanh thoát, và
càng thánh thiện bao nhiêu, thì lại càng tự cảm thấy
mình “Bất xứng, và nhơ bẩn bấy nhiêu” trước Đấng Tối
Cao. Và đành phải nhờ cậy vào lòng xót thương và
nhân hậu vô biên của Thiên Chúa (Tv.51: 4,9). Trong khi
Gioan Minh lại dương dương tự đắc phóng Thánh Linh
bừa bãi và vô hiệu đi khắp nơi!
Ngôn sứ Isaiah khi vào hiệp nhiệm đã hốt hoảng và kinh
hãi than: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một
người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô
uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Thiên Chúa các
đạo binh! (Is.6:4)” Lý do vì trên trần gian này, “Không
ai là người công chính, dẫu một người cũng không
(Gv.7:20; Rm.3:10).” Nhưng Gioan Minh bị ảnh hưởng
Zen vô thần: thế nhân toàn hảo như Chúa!
Thiền gia Beverly Galyean hoang tƣởng viết, “Sau khi
ý thức là chúng tôi có bản tính Thiên Chúa và thực sự
là Thiên Chúa. Thì mục đích của cuộc sống là phải
đƣợc nổi danh như một Chúa đồng dạng (Godlike-
ness) trong ta. Mọi sự chúng ta có đều toàn hảo: tình
yêu, khôn ngoan, hiểu biết, linh tính. Đây là những ƣu
103
điểm cần được thức tỉnh.” Đó là ý nghĩa của “Pháp lực
vô biên!” của Zen vô thần. Do biến mình thành thần,
nên không còn có thần để phải tôn thờ!
Thủ lãnh Gideon cũng có một tâm tình như ngôn sứ
Isaiah khi được Chúa kêu gọi, “Ôi thưa ngài, con là gì
mà cứu Israel? Này dòng họ con thấp kém nhất trong
chi tộc Manasse, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con
(Tl. 6: 15).” Gideon đã tin tưởng tuyệt đối khi Thiên
Chúa bảo đảm, “Ta sẽ ở với ngƣơi, và ngươi sẽ đánh
quân Median, như đánh có một người (Tl.6:16).”
Ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến sẽ hành động, và tiên
đoán những lời Chúa đã mặc khải. Ngôn sứ Jeremia đã
nhận sấm ngôn của Thiên Chúa: “Đừng nói người còn
trẻ, Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho
ngươi nói gì, ngươi cư nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với
người để giải thoát ngươi (Jer.1:7-8a)” Rồi Thiên Chúa
giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: “Đây, Ta đặt lời Ta
vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu
các dân, các nước, để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây,
để trồng (Jer.1:9-10).”
Vậy bất cứ người nào, nhận sấm ngôn không từ Thiên
Chúa, đều không phải là ngôn sứ do chính Thiên Chúa
sai đến! Họ chính là những kẻ tự “Thuật lại những thị
kiến hão huyền, và những lời sấm dối trá, lại còn dám
nói: Sấm ngôn của Thiên Chúa (Ez. 13: 6).” Hiệu qủa
nghiêm trọng như Chúa dậy sẽ là “Vì các ngươi nói lời
hão huyền, và thấy thị kiến dối trá, nên Ta đây sẽ trừng
phạt các ngươi (Ez.13:8).”
104
Điều quan trọng cần nhớ là Chúa Giêsu đã đến, và đã
kiện toàn luật Môisen, và sách các ngôn sứ (Mt.5:17-19).
Đồng thời Người đã mặc khải toàn diện “Đạo Trời” cho
thế nhân (Mt.11:25). Người lại xin Chúa Cha sai Đấng
Bảo trợ khác đến, và Đấng ấy sẽ “Làm cho anh em nhớ
lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Jn.14: 26b).” Ưu
điểm của việc sai Thánh Linh đến là “Người sẽ không tự
mình nói gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người
sẽ nói lại (Jn.16:13).” Như vậy là không ai có quyền tự
tạo ra một huyền thoại, đánh bóng nó, thêm thắt cho thật
huy hoàng, và đi loan báo như là một: “Sứ điệp của
Thiên Chúa.”
Sau lễ Hiện Xuống, Thiên Chúa chỉ sai đến những người
quản lý “Các mầu nhiệm thánh (1Cor.4:1; Tit.1:7) và
những người phân phối “Các ân huệ thiên hình vạn trạng
của Thiên Chúa (1Pet. 4:10).” Không một ai có thể đến
dậy một mặc khải mới nào cho giáo hội, vì “Đƣờng” đã
tỏ, “Chân lý” đã dậy, và “Sự sống” đời đời đang đến
(Jn.14:6). Và các thần học gia đã, đang và sẽ còn phải
cố gắng học hỏi thêm, và tìm cách diễn giải Lời Hằng
Sống, theo khả năng hạn hẹp và phiến diện của mình, để
Lời Chúa được linh động và hiệu nghiệm (Dt.4:12) hợp
với não trạng của từng thời đại, và theo đà phát triển,
hay sự thông minh của trí khôn con người.
105
CUỒNG NGÔN Lm Gioan Minh sau khi trải qua những “Thăng trầm,
cay đắng, trầy trụa và trăn trở,” của cuộc sống, đã tìm ra
“Lối thoát và được giác ngộ” để thành người có “Đạo
tại tâm” và đó là những cảm nghiệm cá nhân. Dựa vào
lời Thánh Phaolô làm hậu thuẫn “Tôi nguyện xin Chúa
Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh
hiển, ban cho anh em được cũng cố mạnh mẽ nhờ
Thánh Linh của Người, để con người nội tâm anh em
được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được
Chúa Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén
rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái (Eph. 3:16-
17).”
Nay Lm Gioan Minh muốn thông trào chia sẻ “Tâm
truyền tâm” khi trích dẫn lời Chúa Giêsu: “Chúa Cha đã
yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như
vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy
(Jn.15:7).” Và lời “Lậy Cha là Đấng công chính, thế gian
đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và
những người này đã biết là chính Cha đã sai con
(Jn.17:25).” Không hiểu lời trưng của Gioan Minh liên
hệ ra sao với cách cuồng ngôn?
Không có chi là sai lầm khi lấy Lời Chúa làm: “Tôn chỉ,
quyền năng, Thần Trí, và cùng đích” của cuộc sống. Khi
đem những điều thiên thiêng giãi bầy thì thật đáng khen
vì đã ứng dụng lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em
106
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu
độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án (Mk.16:15-16)”.
Nhưng khi giới hạn, thay vì “Cho mọi loài thụ tạo” theo
lệnh của Chúa Giêsu, thì Lm. Gioan Minh lại đem thuyết
cô lập ra dậy. Đó là chỉ giãi bầy “Cho những người
thiên thiêng (1Cor.2:12-14). Hay nói khác hơn là chỉ
giãi bầy cho những thành phần ưu tuyển! Như thế tâm ý
của Lm Gioan Minh đã thật khác xa, hay phản lại với lời
dậy của “Thiên Chúa làm người (Jn.1:14).”
Tính phổ quát hay công giáo của Đạo Trời do Chúa
Giêsu dậy thật vĩ đại, và bao la đến vô biên, đó là “Loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo (Mk.16:15).” Còn
Lm Gioan Minh lại thu gọn ở cõi Đông Phương, lý do vì
“Xuất phát từ kinh nghiệm tu thân Đức Nhân Đạo
Nghĩa, từ vốn qúi đạo tâm của cha ông tổ tiên phương
đông.” Với tâm linh cực đoan và cuồng tín, hay tự cao
và tự đại, của người phương đông, Lm Gioan Minh đã:
“Phong thần triết lý phàm nhân (ngẫu tượng).”
Chính vì thế mà Lm Gioan Minh đã du nhập Tam Triết
Đông Phương, với các chân nhân như “Phật, Khổng,
Lão, Gia Cát Lượng Khổng Minh, và Nguyễn Bỉnh
Khiêm …” Và Lm Gioan Minh đã hãnh diện vì được
gặp các đấng ấy hằng ngày, do “Đồng thanh đồng khí”
và có “Cùng tần số.”
Có lẽ thiện chí của Lm Gioan Minh là muốn “Dung hoà
hay thỏa hiệp” để có một “Tôn giáo đại đồng!” và qui
về một mối “Thủy chung như nhất!” Ước nguyện của
107
Lm Gioan Minh thì thật đẹp, nhưng qúa: “Hão huyền.”
Ao ước ấy sẽ chẳng bao giờ thành sự thực, vì có sự khác
biệt qúa lớn, qúa dầy, qúa sâu và qúa cao giữa Thiên và
địa, giữa Chúa và thế nhân, vì “Trời cao hơn đất chừng
nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các
người, và tư tưởng của ta cũng cao siêu hơn tư tưởng
chừng ấy (Is.55:9).”
Một là vì “Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Nhất Nguyên,
hay Thái Cực, Khởi Nguyên hay Cùng Tận” là chủ tể
càn khôn và là Đấng tác thành: “Chính Ta đã làm ra trái
đất, và trên trái đất, đã dựng nên con người; chính tay Ta
đã giăng vòm trời, và nạm lên đó ức triệu vì sao
(Is.45:12;48:13).” Chân lý này cho đến muôn đời vẫn
không thay đổi, “Ta vẫn là Ta, Ta là Khởi nguyên, Ta
cũng là cùng tận (Is.48.12b; 43:13;41;4b)” Và “Chính
Ta đây là Thiên Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ
(Is.43:11; Cv.4:12).”
Trong khi thế nhân lại chỉ cuồng tín phong người thành
thần hoàng! Và gán cho thế nhân cái: “Quyền năng vô
biên” mà thực sự họ không hề có. Bằng chứng là, xác
của những thế nhân “Thần Hoàng” đó, cũng chỉ là những
hạt bụi vất vưởng tung bay khắp nơi, mất hút vào không
gian vô tận và ngút ngàn, nằm duới lòng đất hay đại
dương. Còn hồn thì nếu đã “Thông thiên, đạt điạ, thuận
nhân” và đã được tái sinh “Bởi nước và Thần Trí” thì
đang diện kiến Thiên Chúa.
Hai là Thiên Chúa dù đã ra lệnh: “Ngươi phải yêu mến
Thiên Chúa của người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn
108
(Đnl.6:5;10:12; 30:6 ; Mt.22:37).” Nhưng thế nhân lại
đang theo đuổi những ngẫu tượng hữu hình, và vô dụng
của đời thường như: sắc đẹp, quan chức, giầu sang, và
danh phận. Và cái tệ nhất, cũng như cái sai lầm nhất là
đã đặt thế nhân chễm chệ ngồi trên “Thượng giới” như
chính Chúa (Is.14:13-14)! Đây cũng chính là giấc mơ
hoang tưởng, nhưng đã thất bại của Satan (Is.14:15).
Ba là Thiên Chúa đã ra lệnh: “Không được có thần nào
khác đối nghịch với Ta (Xh. 20:3).” Và Thiên Chúa còn
cấm dân Ngài: “Không theo những thần khác trong số
các thần của các dân chung quanh (Dnl.6:14).” Trái lại
còn phải: “Hủy bàn thờ, đập tan trụ đá, chặt cột thờ,
thiêu tượng thần (Dnl.7:5,25).” Thế mà do thiển cận,
cuồng tín, dị đoan và thị hiếu, thế nhân đã không những
bỏ Đấng Tạo Hóa, không tin vào Đấng đã dựng nên
mình, mà còn ngu xuẩn hình thành, đục đẽo, vẽ, trang
trí, khấn vái, cầu xin, phủ phục, dâng thực phẩm, và tôn
thờ (Kn.15:4-19) những hình tượng, là sản phẩm do
chính tay họ đã hình thành như chính Chúa. Thực sự
“Chúng vô cảm, vô quyền, và vô linh (Tv.115:4-7).”
Bốn là Thiên Chúa đã truyền “Không được tạc tượng, vẽ
hình bất cứ vật gì trên trời cao, dưới đất, trong nước mà
thờ (Xh.20:4).” Và nhất định “Không được phủ phục
trước những thứ đó mà thờ (Xh.20:5).” Thế nhưng hôm
nay, thế giới dẫy đầy những sản phẩm do trí khôn bất
toàn của thế nhân mà hình thành. Tôn giáo, vì thế,
không còn là mối tương quan linh thiêng và tuyệt vời
giữa “Thiên Chúa và thế nhân” nữa, nhưng chỉ còn là
những tổ chức dựa vào: “Tôn giáo làm nguồn lợi!
109
(1Tm.6:5b)”. Thế nhân đã tạo ra những huyền thoại vô
bằng, và thêu dệt bằng những hư cấu. Vì sự hiểu biết
phiến diện và nông nổi, đại đa số dân chúng đã bị bọn
thủ lợi lạm dụng và đưa vào vòng chế tài của Satan.
Như thế, giới luật của Thiên Chúa đã qúa rõ ràng. Và
Thiên Chúa không cho phép thế nhân thờ bất cứ ai,
ngoài chính Người, là Chúa tể càn khôn (Tv.84:9)! Vậy
“Đức Nhân Đạo Nghĩa” của Đông Phương, cũng chỉ là
sản phẩm của con người. Chúng được hình thành nhằm
“Tự luyện tâm thân”, giúp “tu thân tích đức,” đạt “kinh
bang tế thế,” duy trì nền luân lý trong xã hội, bảo tồn gia
phong, và phò trợ nền quân chủ chuyên chế! Một thể
chế đã biến dạng khỏi lịch sử nhân loại!
Khi thế nhân qúi yêu ai, nhớ ơn ai thì thường lập miếu,
lập đền, lập nơi tôn nghiêm thờ phượng, không những để
kính nhớ, mà còn để khấn xin, thì hình thức này là điều
Thiên Chúa cấm kị, vì đó là nghi lễ “Người thờ người!”
Ai có đức tin tín thành; ai có niềm tin qủa cảm; ai đầy
lòng kính yêu Thiên Chúa sẽ vứt bỏ tất cả qúa khứ, bao
gồm: “Danh phận, dòng tộc, kiến thức, phong tục, tập
quán, văn hóa cá thể và đặc thù của một cõi, để tháp
nhập với niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn “Chân-
Thiện-Mỹ”, vì “Cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi
(Dt.8:13).”
Không đồng ý với linh đạo và quan điểm trên, Lm Gioan
Minh vừa muốn níu kéo lấy cõi đông phương, lại vừa
muốn “Vươn lên Thánh Tâm, và đạt đắc Đại Đạo Tâm
110
(TC Ba Ngôi)”. Lm Gioan Minh cho đó là “Đường đơn
sơ nhất, tự nhiên nhất, dễ dàng nhất, và cũng là cao siêu
nhất, siêu nhiên nhất, nhanh nhất” vì là “Thiên tốc (Lời
minh định).” Sự thực thì đây là hình thức hai mang, đã
bị Thiên Chúa lên án mà Thánh Gioan Tông Đồ đã nhận
được khi xuất thần, và trình thuật như sau: “Ngươi chẳng
lạnh mà cũng chẳng nóng! Phải chi ngươi lạnh hẳn, hay
nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng
chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta
(Kh.3:15-16).”
Chúa không chấp nhận chúng ta đi nước đôi của “Điệp
viên nhị trùng”, hay chân trong chân ngoài, vì như thế
làm sao có sự cân bằng trong đời sống. vì chúng ta sẽ
“Hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ (Mt.6:24).” Nếu chúng
ta đã theo Chúa thì phải cương quyết và một lòng sắt son
như Phaolô “Tôi sống, mà không còn là tôi sống, nhưng
là Chúa Kitô sống trong tôi (Gal.2:20).” Và để thực
hiện linh đạo tuyệt vời này, thánh Phaolô đã cương quyết
dứt khoát, và chia sẻ tâm truyền tâm với chúng ta “Tôi
đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Chúa
Giêsu Kitô, mà là Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào
thập gía (1Cor.1:2).”
Lm Gioan Minh không có chiều sâu tâm linh và chưa
tường Thiên đạo độc nhất “Không ai có thể đến với
Chúa Cha mà không qua Thầy (Jn.14:6b)”, nên trên lý
thuyết Lm. Gioan Minh tuy có đề cập đến Thiên Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, đến đức tin, đến
Đức Trinh Nữ Maria, đến thánh cả Giuse. Nhưng trong
111
thực hành thì Lm Gioan Minh lại hướng chiều về: “Các
Đấng Đông Phương” nhiều hơn và sâu đậm hơn. Lm
Gioan Minh đã thú nhận trong DVD‟s: “Tôi đồng thanh
đồng khí” và “Cùng tần số với các Đấng Đông Phương,
và tôi nhận các chỉ thị từ các Đấng Đông Phương.”
Vậy nếu gia nhập dị giáo Khai Tâm Đạo là chúng ta
cũng phải: “Đồng thanh, đồng khí” với các Đấng Đông
Phương, và có “Cùng Tần Số” với hồn các cõi hay sao?
Như thế có khác chi chúng ta bỏ Chúa Giêsu “Là
Đường, là Sự Thật, và là sự sống (Jn.14:6a).” Không thể
như thế, chúng ta phải như thánh Phêrô, can cường, tín
thác và qủa cảm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng
con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống
đời đời. (Jn.6:68)”
112
CHƢƠNG VIII
ĐẠI TÂM YÊU
Do ảnh hưởng của phong tục, và văn hóa Đông Phương
quá lớn và qúa sâu sa, đặc biệt với nền luân lý Khổng-
Lão-Phật nói chung, hay Khổng Mạnh nói riêng, Lm
Gioan Minh đã luôn bị ám ảnh bởi chữ “Đại” như: đại
từ, đại bi, đại nhân, đại lão, đại chân nhân, đại quân tử...
Hai cụm từ “Đại đạo Tâm” và “Đại đạo yêu” vì thế
cũng đã được lm Gioan Minh thai nghén, sinh ra và
được phổ thông hóa trong dị giáo Khai Tâm Đạo.
Qủa vậy, hai cụm từ này đã được Thiên Chúa mặc khải
qua nhiều hình thức, đã được các ngôn sứ trình thuật
bằng những từ và các hình ảnh khác nhau. Các thánh sử
cũng đã trình thuật và nhắc đến “Tâm yêu” nhiều lần.
Vì thế “Tâm Yêu” không phải là hai danh xưng mới lạ,
phát xuất từ lm Gioan Minh. Chính Thiên Chúa làm
người, “Tin Mừng Vĩ đại” (Jn.1:14), đã không dùng hai
danh xưng này, nên giáo hội theo truyền thống, và Thiên
Ý đã không muốn thêm hay bớt, mà chỉ theo ơn Chúa
Thánh Linh, dùng những ngôn ngữ mà chính Chúa
Giêsu đã xử dụng để loan báo Tin Mừng, và kêu mời
giáo hội tin tưởng bước theo cũng trên một con đường
đó. Đường duy nhất đưa vào hiệp nhiệm với Thiên
Chúa, và giúp thế nhân đạt đích quê trời.
Để giúp qúi vị hiểu rõ và xác tín hơn về nguồn gốc hai
danh xưng này, chúng ta phải biết trưng dẫn một vài chi
113
tiết do chính Thiên Chúa đã mặc khải, các ngôn sứ đã
nhiều lần nhắc đến, và Thánh Kinh Tân Ước và các
thánh thư luôn trình thuật. Như thế, chúng ta sẽ không
qúa ngỡ ngàng và sẽ không lên án ai, khi họ dùng cụm
từ hơi khác với thói quen đã có hay như không đúng với
truyền thống của giáo hội.
Thánh vinh thứ 8 ca ngơi hành vi tạo dựng qúa ư vĩ đại
của Thiên Chúa: “Lậy Thiên Chúa là Chúa chúng con,
lẫy lừng thay (Vĩ đại thay) danh Chúa trên khắp cõi địa
cầu! Uy phong Chúa cao siêu qúa (Vĩ đại qúa, hùng vĩ
qúa) tầng trời cao (Tv.8:2,10)!”
Trong những cái vĩ đại Thiên Chúa đã tác thành, chúng
ta có thể trưng dẫn ra, thì một là: “Trẻ thơ lên tiếng phản
nghịch đối phương, khiến quân địch phải tiêu tan
(Tv.8:3).” Hai là vĩ đại thay: “Tầng trời Chúa sáng tạo,
và trăng sao Chúa an bài! (Tv.8:4)”. Ba là con người,
tuy phận hèn là cát bụi, nhưng vĩ đại thay! “Chúa đã
cho thế nhân được đồng hình đồng dạng” với Người
(St.1:27). Và thế nhân chỉ thua kém thiên sứ một mảy
may, vì thần hồn bị chôn chặt vào xác thân, bao lâu còn
sinh tồn tại thế. Nhưng vĩ đại thay! Vì thế nhân được
quyền làm bá chủ muôn vật Chúa đã tác thành trên mặt
đất (St.1:28).
Tam triết Đông Phương đã không nhận diện ra Thiên
Chúa qúa ư vĩ đại, cao siêu và huyền nhiệm là nguyên
nhân của việc tạo đựng càn khôn (St.1:1-31). Vì thế, họ
chỉ có một hình ảnh rất giản dị, và coi như đó là luật vận
hành “Tự nhiên của vũ trụ.” Lý thuyết của Tam Triết
114
Đông Phương có thể hiểu, nếu chúng ta biết liên kết với
Thánh Kinh, vì lý thuyết này rất “Tương đồng với hành
vi tạo dựng trong Thánh Kinh.” Chỉ có điều là triết đông
chưa thể cắt nghĩa cho rõ ràng và minh bạch và chưa
nhận đó là công trình của Thượng Đế.
Lý thuyết tạo dựng của tam triết Đông Phương phản ảnh
một phần nào chân lý, tuy chưa toàn hảo như Kinh
Thánh, nhưng đủ để thế nhân tin và nhận diện ra một
“Nhất Nguyên” hay “Thái Cực” là đầu mối bao trùm và
chi phối vũ trụ. Thái Cực sinh nên “Lƣỡng nghi” hay
“Nhị Nguyên” là “Âm dương nhị khí” có năng lượng và
sức mạnh; Lưỡng nghi tạo ra “Tứ Tƣợng” là “Thái
dƣơng (Trời) và thiếu âm (Trăng), Thái âm (Sao) và
thiếu dƣơng (Biển),” và tứ tượng sinh ra “Bát quái” là
Kiền hay Càn (Trời), Đoài (Đầm, hồ, biển), Ly (Lửa),
Chấn (Sấm), Tốn (Gió), Khảm (lũ lụt), Cấn (núi), và
Khôn (đất).
Một số chuyên gia đã cố gắng cắt nghĩa cho thế nhân
hiểu sự vận hành trong vũ trụ là: Thƣợng Đế khởi sự
sáng tạo (Jn,1:1; Col.1:16) bằng tiếng Chấn là một tiếng
nổ kinh hồn; Năng lượng hay sức mạnh của “Âm dương
nhị khí” chuyển động sinh ra Tốn là gió. Gió cọ sát và
phát ra Ly là ánh sáng. Khi năng lượng và sức mạnh
ngừng thì tạo thành Khôn tức là đất. Đất không bằng
phẳng, có chỗ cao goị là Cấn tức là núi. Mưa từ trời rơi
xuống quá nhiều, đất không thể thấm hết, chen nhau
chạy ra biển tạo ra Khảm tức là lũ lụt. Nước phì nhiêu
đọng lại ở lũng sâu gọi là Đoài tức là đầm, ao, hồ, biển,
đại đương. Tất cả những diễn biến như: “Tốn, Ly,
115
Khảm” đều vận hành và xô sát nhau trong Kiền tức là
bầu trời, vì thế mà có những thiên tại xảy ra trong trời
đất, ngoài dự liệu và trí khôn của thế nhân.
Hán tự đã diễn giải việc vận hành của bát quái trong
trong trời đất và qua các trạng thái liên tiếp di dời và
thay đổi trong vũ trụ, chúng ta hiểu ra ý nghĩa của
“Kinh Dịch (Gv.3:1-8)” tích tụ trong Triết Đông như
sau:
Đế xuất hồ Chấn (St.1:3,6,9,11,14,20,24,26)
Tề hồ Tốn (St. 1:3,14)
Tương kiến hồ Ly (St.1:3:14)
Trí dịch hồ Khôn (St.1:22,10,11,12,24,29)
Duyệt ngôn hồ Đoài (St.1: 6,9)
Chiến hồ Kiền (St.1:8.14,18)
Lao hồ Khảm (St.1: 2b,9,20)
Thành ngôn hồ Cấn (St.1:9,10)
Vĩ đại thay những công trình tạo dựng! và cao vời thay
các vận hành của bát quái! Bát quái vận hành thứ tự và
lớp lang giải ngân hà bất tận mà chẳng ai thấy Đấng
Sáng Tạo, hay nhận diện ra Đấng Tạo Hóa đang điều
hành. Kitô giáo theo Sáng Thế Ký gọi Đấng Tạo Dựng
và điều hành thiên hình vạn trong của vũ trụ là Thiên
Chúa, là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế huyền nhiện và
vô hình. Tam triết Đông Phương gọi đó là Nhất nguyên
hay Thái cực: là đầu mối bao trùm, chi phối mọi vận
hành, thay đổi, và chuyển biến trong vũ trụ.
116
Khoa học vô thần cho vận hành của giải ngân hà là một
công trình tự nhiên xuất hiện! không cần biết tác gỉa!
hay phủ nhận luôn tác gỉa! Một quan niệm phi lý và vô
cảm, tỏ lộ cái hiểu biết phiến diện đến ngu xuẩn của
giới khoa bảng. Các khoa học gia hãnh diện khoe nhận
mình là tác giả của một sáng chế. Nhưng công trình
sáng tạo vạn năng của Thiên Chúa, đang vận hành và
hiển lộ trong trời đất hôm nay, ngoài vòng cương tỏa của
thế nhân, thì họ lại cho đó là tự nhiên mà có.
Trong vũ trụ, tất cả công trình sáng tạo đều là vật thể vô
tri, đang di động theo định luật vĩ đại và toàn thiện đã
được Thiên Chúa an bài và sắp xếp, vận hành theo bản
năng thiên phú. Không vật nào phải suy nghĩ, xao xuyến,
lo âu hay tính toán. Duy thế nhân là giới có TÂM ĐẠO
nên có đầy đủ thất tình và lục dục, lại thêm tự do lựa
chọn và sáng kiến hay có quyền hoạch định.
Thế nhân, vì thế, đòi phải có thời gian để “Tu thân, tề
gia, trị quốc và bình thiên hạ.” Tu thân thành đạt thì thế
nhân sẽ là những chính nhân quân tử, với ngũ luân điển
hình theo Không Mạnh là: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.”
Những trang bị tuyệt vời này sẽ tạo nên nhân cách, hình
thành phong độ và biến một phàm nhân tục tử thành
nhân nhân, hay chính nhân quân tử với tứ đức: “Cần,
Kiệm, Liêm, Chính.”
Vì có tâm đạo do được tạo dựng theo hình ảnh và tương
đồng với Thiên Chúa (St.1:27) và được thánh Phaolô
tóm lược trong cụm từ tuyệt vời là “Đồng hình đồng
dạng (Rm.8:29; Phil.3:10)”, nên Thiên Chúa muốn thiện
117
toàn thế nhân, khi mặc khải rõ linh đạo hai chiều của
“Đại Tâm Yêu”, đó là: “Kính Chúa “Hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi (Dnl.6:5; 10:12; 30:6;
Mt.22:37)” và “Yêu tha nhân như chính mình ngươi
(Lv.19:18; Mt.22:39).” Chỉ với “Đại Tâm Yêu” hai chiều
này, thế nhân mới kiện toàn lề luật của Môisen (Xh.20:1-
17; Đnl.5:1-33).
Đại Tâm Yêu chính chuyên và từ Thiên Chúa phải hội
đủ ba yếu tố quan trọng của Tam Tài thuyết vì “Yêu
Thiên Chúa và giữ luật Người là đạo làm người
(Gv.12:23):
“Thiên thời: kính yêu Thiên Chúa hết lòng;
Địa Lợi: tình yêu phát sinh tự chính tâm mình;
Nhân Hòa: tình lan tỏa và chia sẻ với tha nhân.”
Lòng kính yêu Thiên Chúa là Thiên Thời được kiểm
chứng qua các hành vi “Tuân phục và chấp nhận ý Chúa
(Mt.7:21; 12:50 – Mẹ Ta).” Nhất là “Nghe Lời Thiên
Chúa và đem ra thực hành (Lk.8:21; Jn. 15:10,14).”
Chúa Giêsu trong bản tính nhân loại cũng đã phải xin
“Cho Ý Cha thành toàn (Mt.26:42).” Và Ngài dậy thế
nhân phải đặt cuộc sống, sứ vụ và thành công của mình
trong ba tiên thiên ý “Danh Cha cả sáng, nước Cha trị
đến, và Ý Cha thể hiện (Mt.6:9b-10).”
Tình yêu Thiên Chúa của thế nhân, và ý chí nên toàn
thiện như Chúa Cha trên trời (Mt.5:48), phải là ước
muốn đầy ắp trong tầm hồn, và bùng phát ra bằng những
hành vi dấn thân phục vụ, nhiệt thành dâng hiến và tình
nguyện khai mở. Lúc đó Địa Lợi mới chín mùi, và đưa
118
tới thành công. Địa lợi chính là điều kiện sẵn sàng, thuận
tiện và tươi tốt, không những để Lời Chúa được gieo
vào, đâm chồi nầy lộc, nhưng còn là môi trường để Lời
Chúa sinh động, tung bay và sinh hoa trái mỹ miều
(Mt.13:23).
Thế nhân không là một ốc đảo cô đơn, và ích kỉ trong vũ
trụ, nhưng phải cùng thuận hòa song hành: trước là với
đồng loại, sau là với các kẻ không hợp quan điểm và cả
với những người chống đối (Mt.5:43-48). Nhân Hòa
hay thuận nhân là hình ảnh tuyệt đẹp trong thế tương
giao lý tưởng, khi thế nhân biết cùng nắm tay nhau, cùng
chung góp, cùng nâng dậy nhau, cùng vác đỡ nhau và
cùng chia sẻ phận làm người với nhau (Mt.7:12). Gia
đình, đoàn thể, tôn giáo, xã hội, quốc gia và thế giới như
thế mới có tôn ti trật tự, trên thuận dưới hòa, và cộng
đồng mới cùng “Đồng tiến!” trong thế “Tương thân và
tương ái (Mt.25:40)!”
Đại Tâm Yêu đã được Chúa Giêsu dùng chính tình yêu
của Ngài, tình yêu của Thiên Chúa làm người và cư ngụ
giữa thế nhân (Jn.1:14), ra làm tiêu chuẩn để nhận diện,
và đích điểm thực thi: “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã
yêu thƣơng anh em (Jn.13:34).” Hệ kết của hành vi
“Xem qủa biết cây (Mt. 7:15-20)” sẽ tỏa sáng và “Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm
này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Jn.13:35).”
Vấn đề chính yếu là cho đến nay, sự rạn nứt, phân ly và
chia rẽ vẫn đầy tràn giữa những người tin yêu và đang
119
theo Chúa. Mặc dù lời tha thiết van xin của Chúa Giêsu
“Xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con, và Con ở
trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta (Jn.17:21),” đã
vang vọng đến ngai Chúa Cha, trong giờ phút tin tưởng
nhất và ý nghĩa nhất vì đã đến lúc “Con Người đến để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gía chuộc muôn
người (Mt.20:28).”
Đại tâm Yêu đã được thánh Gioan Tông Đồ trình thuật
qúa ư tuyệt vời và vô cùng vĩ đại: “Thiên Chúa (qúa)
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời (Jn.3:16).”
Đại Tâm Yêu đã được Chúa Giêsu trân trọng chấp nhận,
và hoàn thành mỹ mãn (Jn.5: 36) khi Ngài tiên báo “Con
Người sẽ bị nộp cho các Thượng Tế và Kinh Sư. Họ sẽ
kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo
bang, đánh đòn và đóng dinh vào thập gía, và ngày thứ
ba, người sẽ phục sinh (Mt.20:18-19).” Sự thực thì tất
cả những sấm ngôn của ngôn sứ Isaiah về Đấng Thiên
Sai, phải được thực hiện, vì đó là chương trình và thiên ý
đã sắp sẵn từ muôn thủa, để cứu sinh linh (Is.53: 4-5).
Và đó là sự “Khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa
1Cor.2:7).” Lẽ khôn ngoan cao siêu này “Không một ai
trong các thủ lãnh thế gian này được biết, vì nếu biết, họ
đã chẳng đóng đinh Chúa Giêsu hiển vinh vào thập gía
(1Cor.2: 8).”
Đại Tâm Yêu đã được phú ban cho thế nhân qua lời tha
thiết kêu gọi canh tân nghi thức thờ phượng: “Thiên
120
Chúa là Thần Trí, và kẻ thờ phượng Người, phải thờ
phượng trong Thần Trí và sự thực (Jn.4:24).” Sự thực đã
được nhận diện qua sự vâng phục và tự nguyện của
Chúa Kitô: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng
đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ
toàn thiêu, và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lậy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài
(Dt.10:5-6; Tv.40: 7-8).” Mà ý của Chúa Cha là: “Khi
Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất, Thầy sẽ
kéo mọi người lên với Thầy (Jn.12:32).”
Như thế, khi Người hoàn tất sứ mệnh một cách mỹ mãn,
và thăng thiên lên ngự bên hữu Thiên Chúa (Dt.10:12),
Người mang theo một cống phẩm đặc biệt về dâng Thiên
Chúa Cha là: “Một đám tù (Is.42:7; Eph.4:8; Tv.68:19)”
đã được thanh tẩy, tắm gội, hòa giải, nên công chính và
được cứu độ bởi chính máu của Người (Kh.7:14;
Rm.5:9-10; Dt.9:14).”
Đại Tâm Yêu cũng đã được mặc khải cho thế nhân, và
kêu mời thế nhân bước vào đường cứu rỗi qua mầu
nhiệm yêu thập gía và từ bỏ, dù thế nhân thực sự chẳng
ưa thích chút nào, trái lại, nhiều khi còn chạy trốn và
cưỡng cầu. Mệnh lệnh “Đại Tâm Yêu” cao qúi đó là:
“Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai
yêu con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.
Ai không vác thập giá mình, thì không xứng với Thầy;
còn ai liếu mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thất
được (Mt.10:37-39).”
121
Mệnh lệnh yêu và từ bỏ này chỉ có thể hiểu trau chuốt và
thân thương khi chúng ta đã tin từ thẳm cung tâm hồn.
Tin và yêu sẽ được phát lộ ra bằng hành vi phi thường là
“Chấp nhận thập gía (Mt.16:24)” và “Bằng lòng hy sinh”
mạng sống cho đoàn chiên (Jn.10:11), và cho Chúa
Chiên. Tin và yêu cùng với hành vi dấn thân, phục vụ
và hiến dâng như Chúa (Mt.20:28), chúng ta mới đi vào
hiệp nhiệm thực sự với Chúa vì “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ
giữ Lời Thầy (Jn.14:23).” Và tháp nhập vào bản tính
Chúa (1Jn.4:12), vì “Chúa là tình yêu (1Jn.4:8,16 - Đại
Đạo Yêu! của Khai Tâm Đạo).” Nhưng tuyệt đối, thế
nhân vẫn là người trần, không bao giờ có thể là Thiên
Chúa!
122
CHƢƠNG IX
NHỮNG DỊ THƢỜNG Dị thường là những hành động tuyệt vời, là đi ra ngoài
luật định mà thế nhân có thể hiểu và cắt nghĩa, là không
theo nguyên tắc tổng quát của đoàn thể, xã hội và tôn
giáo, là những quan niệm tuyệt đối, cao siêu và sâu thẳm
không ai hiểu hay đánh gía nổi vì “Trời cao hơn đất
chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao đường lối các
ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các
ngươi chừng ấy (Is. 55:9).”
Người dị thường, nói chung, có đời sống siêu thoát,
được biểu lộ và nhận diện qua những phong thái thiện
hảo, những chân lý tuyệt đối. Thế nhân bình thường hay
phàm phu tục tử không ai có những nhân cách, hành
động và tư tưởng cao siêu như thế.
DỊ THƢỜNG CỦA THIÊN Ý Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình huyền
nhiệm của trời cao dành cho “Ngôi Lời Nhập thể
(Jn.1:14). Đến thời Thiên Chúa đã mặc khải sứ điệp qua
chính Con Một (Dt.1:3).” Người chính là “Ngôi Lời, mà
Ngôi Lời là Thiên Chúa (Jn.1:1) và “Mọi sự Chúa Cha
tác thành đều qua Người (Jn.1:3; Col.1:16).” Người
“Hằng hữu (Jn.8:24,28,58)” nên “Có trước muôn loài
muôn vật (Col.1:17; Mic.5:1).” Người là Thiên Chúa
123
“Lưu ngụ giữa nhân gian (Jn.1: 14)” nên “Trời cao hơn
đất chừng nào, đường lối Ta cao hơn tư tưởng các ngươi
chừng ấy (Is.55:9).” Người là Đấng duy nhất đã tuyên
phán chân lý ngàn đời “Ta với Cha Ta là một
(Jn.10:30)” và mặc khải duy nhất thể của Chúa Ba
Ngôi “Ai thấy Thầy là thấy Cha (Jn.14: 9b).”
Người là Đấng duy nhất đã khai sáng thần học nhiệm
hiệp cao siêu và thẳm sâu “Ai ăn thịt và uống máu Ta,
thì lưu ngụ trong Ta, và Ta lưu ngụ trong người ấy
(Jn.6:56).” Hiệp nhiệm với Người, vì thế, là vấn đề sinh
tử vì “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con
Người, các ông không có sự sống nơi mình (Jn.6:53).”
Qua việc nhiệm hiệp với Người, chúng ta được bảo đảm
đời sống vĩnh hằng, và sống lại ngày chung thẩm “Ai ăn
thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho người ấy sống lại vào ngày sau hết (Jn.6:54).” Giáo
huấn cao siêu và hiệp nhiệm thẳm sâu “Vô tiền khoáng
đại” này không ai có thể nghĩ đến và thực hiện nổi:
ngoài Chúa!
Là Thiên Chúa giáng trần để cứu sinh linh (Jn.3:16),
Người đã hoàn toàn sống phận thế nhân cùng cực, nghèo
khó (Mt.1:23), bị bạc đãi, phải trốn chạy (Mt.2:14), bị
chống đối (Mt.9:11), bị vu vạ cáo gian (Mt.26:60), bị
hành khổ ( Mt.27:27-31) và thảm tử trên thập tự
(Mt.27:50). Kiêp sống lữ thứ trần gian của Người, như
thế, khốn khổ, bất hạnh, đau thương hơn mọi thế nhân
(Is.53:4-5). Thánh Phaolô tin tưởng và nhận diện ra đó
là sự “Khôn ngoan mầu nhiệm được dấu kín của Thiên
Chúa (1Cor.2:7).” Lẽ khôn ngoan này, không một ai đã
124
tiên đoán ra, kể cả Satan, vì “Nếu biết, họ đã chẳng đóng
đinh Thiên Chúa hiển linh vào thập gía (1Cor.2:8).”
Đạo trời do Người giảng dậy từ đầu đến cuối, với các
điều kiện khắt khe để tu thân (Mt.5-7), với sự hy sinh và
từ bỏ để không dính bén vào đời, vào người và vào vật
chất (Mt.10:37-39), dám hy sinh đến chết cho người yêu
(Jn.10:11), Phải đón nhận thập tự (Mt.16:24), thì chính
Người đã ần cần đón nhận, và thực thi từng điểm
(Is.53:4-5). Và Nguời đã gĩa từ cõi trần như người
nghèo nhất đến không giữ một xu trinh ((Jn.13:29),
giường chết là thập tự (Jn.19:30), và mộ chôn không
phải là của chính Người (Jn.19:41).
Xuống trần đã dị thường, vì do “Quyền năng Chúa
Thánh Thần (Lk.1:35)”. Sống càng thanh thoát, không
màng đến tiền bạc, lợi danh mà chi lo thực hiện Ý Chúa
Cha (Jn.4: 34). Đi lại, gặp gỡ và cứu những người tội
lỗi, những kẻ bị xã hội khinh chê và ruồng bỏ (Mt.9:13),
những người bị coi là “Chiên lạc (Mt.18:13-14).” Từ
nhân và xót thương với những hối nhân (Jn.4:17-18; 8:7-
11; Lk.7:47). Tình thương tha ngút ngàn đến vô tận, và
không điều kiện (Lk.23:43; Lk.18:13).
Chúng ta, người tín hữu, hãnh diện, tin tưởng và hạnh
phúc vì Tâm Cha từ ái khôn lường, đã được mặc khải rõ
ràng qua Ngôi Lời là Thiên Chúa (Jn.1:1), hay Thánh
Tử, Con Một Cha chí ái (Dt.1:3). Chúng ta được cứu độ
vì tin vào hành động cứu rỗi dị thường và tuyệt vời của
Chúa Giêsu (Jn.3:15-16, 18). Mà đã tin thì cần vứt bỏ
tâm tình tự ti, tự trách, tự hành hạ, tự than thân trách
125
phận, và tự đánh tội, song chỉ cần bốn hành động tích
cực là: tin tưởng, sám hối, canh tân và trở về (Lk.15:20-
24). Lý do vì “Lòng tin làm cho người ấy được Thiên
Chúa kể là công chính (Rm.4: 5).” Tin tưởng là “Tâm”
và sám hối là “Hành động” phải song hành với nhau.
Thế nhân sẽ đạt đích do tin tưởng, phó thác và biết “Giặt
sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên
(Kh.7:14).”
Với thần học căn bản, sâu sa, và ý nhị này, người thế
không có đức tin, hay chưa sống đức tin sẽ chẳng bao
giờ hiểu được linh đạo thương tha vô điều kiện, bất tận
và dị thường của Thiên Chúa. Vì thế mà thế nhân cứ
kiêu căng, và hãnh diện vì biết được qúa khứ bê bối,
lăng nhăng và tội lỗi của tha nhân. Đồng thời xã hội tha
hồ lên án, xét phạt, chê bỏ và đầy đọa những người có
chút thành tích bất hảo, bất nhân từ thủa xa xưa nhân
danh cái gọi là công lý! Thế nhân, nói tổng quát, cố
tình quên, cố tình dấu diếm, cố tình bao che cho chính
mình và bạn hữu đến tán tận lương tâm, và quên chân lý
ngàn đời vẫn là: “Không ai là người công chính, dẫu một
người cũng không (Gv.7:20; Rm.4:10).”
Dấu chỉ để chúng ta nhận diện ra những “Dị thường do
Thiên Ý” hướng đạo là “Sinh ký tử qui”, là về với chính
Thiên Chúa Đấng tạo dựng nên mình. Là tôn vinh Thiên
Chúa, tiêu diệt ngẫu tượng, và không tôn thờ: “Bất cứ
phàm nhân nào.” Là không lợi dụng, chẳng mưu mô,
không tìm danh, tránh cuồng ngôn, diệt kiêu căng, không
thù hận, xa lừa dối và sống công chính, để thánh thiện
126
về với Đấng tác thành nên mình và sống muôn đời với
Thiên Chúa trong vinh quang nước Người!
Mẹ Maria vâng phục Thiên Ý, đã sống dị thường với
thánh đức và khiêm tốn trong thân phận: “Tôi đây là nữ
tì của Chúa! Xin vâng Thiên Ý (Lk.1:38)”. Và trong lời:
“Ngợi khen Chúa” Mẹ Maria đã tán dương “Linh hồn tôi
ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên
Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái
nhìn tới (Lk.1:46-48).” Mẹ Maria nhận diện ra ơn thánh
Chúa bao phủ, chứ không phải do công lao của chính
mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao
cả, danh Người thật chí thánh chí tôi! Lk.1: 49)”. Tâm
hồn thánh thiện, sống trong tình Chúa, và thực tâm theo
Chúa phải cùng một thần trí thanh thoát, vâng phục và
khiêm cung như Mẹ Maria!
LẬP DỊ CỦA NGÔN SỨ GIẢ Chúa Giêsu đã tiên báo, là sẽ có “Nhiều ngôn sứ giả
xuất hiện, và lừa gạt được nhiều người (Mt.24:11).” Họ
chính là “Đồ Ghê Tởm Khốc hại” mà ngôn sứ Daniel đã
sấm ngôn (Dan.9:27). Chúng đứng ở nơi không được
phép đứng (Mk.13:14)! Chúng làm: “Những dấu lạ, và
những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được
tuyển chọn, nếu có thể (Mk.13:22).” Thậm chí chúng
“Làm những dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời
cũng rơi xuống đất trước mặt người ta. Nhờ các dấu lạ
mà nó được quyền làm trước mặt con thú, nó mê hoặc
127
những người sống trên mặt đất, bảo họ tạc tượng thờ con
thú… (Kh.13: 13-14; 2 Thes.2:9-10)” Kinh khủng hơn
là “Nó được quyền thổi thần khí vào tượng con thú,
khiến tượng con thú cũng nói được, và ra lệnh giết
những ai không thờ mình (Kh.13:15).”
Chúa Giêsu đã tiên báo là “Các ngôn sứ gỉa, họ đội lốt
chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ
tham mồi! (Mt.7:15)”. Thánh Phaolô cũng đã mạnh mẽ
chỉ rõ: “Những kẻ đó là tông đồ gỉa, là thợ gian xảo, đội
lốt tông đồ của Chúa Kitô.” Như thế, ngôn sứ giả có thể
là bất cứ ai do tác động của Satan (2Col. 2:9): tín hữu, tu
sĩ, linh mục, giám mục, hồng y v.v… như lời thánh
Gioan trình thuật theo hình ảnh nhận được trong khi xuất
thần, “Giờ đây, nhiều tên phản Kitô đã xuất hiện” nghĩa
là “Giờ cuối cùng đang đến (1Jn.2:18).” Họ là ai? và từ
đâu mà đến? “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta,
nhưng chúng không phải là người của chúng ta
(1Jn.2:19a).” Ai nghe theo ngôn sứ gỉa là do bị “Sức
mạnh mê hoặc làm cho chúng tin theo sự dối trá!
(2Thes.2:9-11)”
Để giúp chúng ta dễ nhận diện ra ngôn sứ gỉa, Thánh
Gioan viết thêm, “Anh em đừng cứ thần trí nào cũng
tin, nhưng hãy cân nhắc các thần trí, xem có phải bởi
Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ gỉa làn
tràn khắp thế gian (1Jn.4:1).” Sở dĩ các ngôn sứ gỉa
được đón nhận vì “Chúng thuộc về thế gian; chúng nói
theo thế gian, và thế gian nghe chúng (1Jn.4:5).” Nhất là
có “Kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và
đủ đủ mọi mưu gian chuớc dối, nhằm hại người hư mất,
128
vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu
độ (2Thes.2:9-10).”
Thánh Phaolô cũng có những hình ảnh và lời dậy tương
tự, “Tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ
đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay
từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người
giảng dậy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ
theo chúng (Cv.20:29-30).” Khi được hỏi về lý do tại
sao? Thánh Phaolô viết rõ: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan
cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác
thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công
chính (2Cor.11:14-15).”
Lời kiên định và đức tin Thánh Phaolô đã gieo vào lòng
chúng ta là “Không có Tin Mừng nào khác đâu, chỉ có
một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin
Mừng của Đức Kitô đó thôi (Gal.1:7).” Và Thánh
Phaolô cầu: “Xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! (Gal. 8b,
9b)”. Trong Chúa Kitô, Thánh Phaolô đã tâm truyền tâm
rõ ràng: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền
móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác
thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng
về cách mình xây cất! Vì không ai có thể đặt nền móng
nào khác ngoài nền móng đã đạt sẵn là Chúa Giêsu Kitô
(1Cor.3:10-11).”
Nhưng thực tế đã làm thánh Phaolô xao xuyến vì: “Thần
Trí phán rõ ràng: vào thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ
đức tin mà theo những thần trí lừa dối, và những giáo
huấn của ma qủi; đó là trò gỉa hình của những tên nói
129
dối mà lương tâm như bị thich dấy sắt nung (1Tm.4:1-
2).” Vì thế Thánh Phaolo đã chỉ những dấu chứng giúp
Timôthêo nhận ra sự thực: “Nếu có ai dậy một giáo
khác, không theo sát các lời của Chúa Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo
thánh, thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả,
nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ
(1Tm.6: 3-3).”
Đồng thời Thánh Phaolô đã chỉ rõ những dị hợm, “Vào
những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Qủa thế,
người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiệungạo,
nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa,
phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu
tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên
mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Chúa; hình thức
của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã
chối bỏ (2Tm.3:1- 5).”
Thánh Phaolô còn mạnh mẽ kết án, “Cũng như Jannes
và Jambres xưa chống lại Môisen (Xh.7:11-12; 8:18), thì
nay ngôn sứ giả cũng chống lại chân lý; họ là hạng
người đầu óc lệch lạc, lòng tin không có gì vững chắc.
Nhưng họ sẽ không đi xa hơn được, vì như trường hợp
hai tên kia, mọi người sẽ thấy rõ là họ điên khùng
(2Tm.3: 8-9).”
Với những ngôn sứ giả tuyên truyền những thuyết hoang
tưởng, và có những hành động lập dị, trái với Tin Mừng,
Thánh Phaolô chỉ thị cho Titô: “Cần khóa miệng họ lại.
Hạng người đó làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên xuống
130
dưới; vì lợi lộc thấp hèn, họ dậy những điều không được
phép (Tit. 1: 11).” Phải có quyết định dứt khoát: “Người
theo bè phái, thì sau khi cảnh cáo lần thứ nhất, và lần thứ
hai, anh hãy loại đi, vì biết rằng một người như thế đã ra
hư đốn, người ấy phạm tội và tự kết án mình (Tit.3: 10-
11).” Lý do vì “Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng
trong hành động, họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm,
và không có khả năng làm việc gì tốt (Tit.1: 16).”
Qua những trưng dẫn của Tin Mừng do chính Chúa
Giêsu dậy, qua thơ Thánh Gioan và Thánh Phaolô gời
cho Timôthêo và Titô, và giáo đoàn Thessalonica, chúng
ta thấy rõ các hình thức dị hợm, phong cách lập dị, và
những hành vi lố lăng cá nhân, phát lộ nơi những ngôn
sứ gỉa, và những ai đang lầm lần theo họ. Hy vọng nhờ
những trưng dẫn này, chúng ta nhận diện ra những kẻ
“Điên khùng (2Tm.3: 8-9)” đang hủ hóa, biến dạng Tin
Mừng, và đang dẫn độ nhiều người yếu tin, và đơn thành
đi vào con đường cuồng tín, chấp mê và hoang tưởng.
131
CHƢƠNG X
GIOAN MINH LẬP DỊ Sau khi chúng ta đã rõ “Ai bởi Thần Trí mà sinh ra thì
cũng vậy” nghĩa là sống thoải mái, thanh thoát, bình an,
đảm lược và cương quyết thoát tục để theo ơn gọi (Jn.3:
8). Đồng thời chúng ta cũng đã nhận diện ra những
hành vi, động thái, nhân cách lập dị của các ngôn sứ giả:
gian tham, vì nguồn lợi (1Tm.6:5b). Thiết tưởng bây giờ
là lúc chúng ta phải phân tích rõ ràng các điểm lập dị và
hoang tưởng của Lm Gioan Minh.
1. ĐÁNH LẬN CON ĐEN
Trong lời minh định, Lm Gioan Minh xác nhận “Đây là
những nghiệm sống cá nhân, riêng tư của một con ngƣời
tội lỗi, của một linh mục tầm thƣờng, của một người
phương đông, sau bao thăng trầm, cay đắng, trầy trật,
trăn trờ … từng bước, tìm ra một đường đi, một lối
thoát.” Thật là xúc động và cảm phục cho sự cố gắng
vươn lên không ngừng của một tâm hồn! Nếu biết
ngừng ở đây thì Gioan Minh trong sáng và tuyệt vời.
Nhưng đi sâu vào bùa chú, phù phép và cầu cơ Gioan
Minh đã biến thành một nhân vật lập dị khác thường: tự
cô lập mình và sinh tật hoang tưởng đến vô lối, với
nhưng thủ thuật và lời dậy trái ngược với chân lý của
Chúa Giêsu.
132
Tiếp theo là lời tâm truyền tâm: “Đây không phải là tập
tài liệu phổ biến kiến thức để thoả mãn óc hiếu kỳ, bởi
trí khôn ta hạn hẹp, chữ viết bất toàn. Ngừng nơi kiến
thức và chữ viết là giết chết đạo tâm (Eph.3: 16-19;
Jn.18:36; Rm.7:6). “Satan đã có kiến thức đức tin, và
kiến thức đạo yêu gấp vạnlần kiến thức của ta, nhưng nó
không sống, nên đã trổ thành ác qủi. Sống đạo yêu mới
đi vào sự sống vô biên viên mãn, trường sinh vĩnh phúc
(Eph.3: 19; 1Cor. 13:8,13).”
Và cuối cùng là lời minh xác: “Tập này không mang ý
nghĩa chuyên khoa thần học, Kinh Thánh hay tu đức …
mà chỉ là Sống Nghiệm Lời Chúa trực tiếp và cụ thể …
trong bẩy đề tài: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh
Linh, Sống Đức tin, Sống Đạo Yêu, Sống với Mẹ theo
đường hướng “Đạo Tại Tâm (Jn.18:36; Eph.3:16-17)”
Thoạt đọc lời minh định, nhiều người như thấy cái thiện
chí rất tốt lành của Lm Gioan Minh. Nhưng hiểu những
lời minh định rõ ràng, rồi so sánh với lời dậy, cách thực
thi, chúng ta thấy ngay những điều nghịch lý trong
đƣờng hƣớng và lập luận đánh lận con đen của lm
Gioan Minh:
Thứ nhất: Sống nghiệm Lời Chúa là phải trải dài Thánh
Kinh ra: Đọc, tìm hiểu, suy gẫm, cầu nguyện và thực
hành. Nhưng vậy thì Thánh Kinh phải là tiêu chuẩn
nồng cốt, hay thủ bản sống đưa đến mục đích của sống
nghiệm Lời Chúa. Sao Lm Gioan Minh lại bảo là
“Không mang ý nghĩa chuyên khoa về Thánh Kinh?”
Sợ rằng không có chút trình độ về Thánh Kinh, chúng ta
133
sẽ thành những kẻ hiều biết phiến diện, mất chân lý nên
từ đó đi vào lệch lạc, biến thành ngoa ngôn, sống cuồng
loạn và chai lì lợm với mớ kiến thức một chiều và ấu trĩ
của mình!
Thứ hai: Lm Gioan Minh bảo “Tập này không mang ý
nghĩa chuyên khoa thần học!” Vậy khi luận về Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh mà không có ý
nghĩa thần học, hay tín lý thì dựa vào tài liệu nào đem ra
luận bàn? Chắc chắn phải có thần học, dù chỉ dựa vào
kinh tin kính, và phải dùng thủ bản Thánh Kinh, như
Lm Gioan đã trưng dẫn. Phủ nhận yếu tố thần học khi
hướng dẫn tín hữu vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi:
Cha, Con và Thánh Linh, là Lm Gioan Minh đang xử
dụng phương pháp “Thiền” vô thần, hiệu qủa là đã coi
cảm nghiệm của mình có pháp lực vô biên! và tự cảm
thấy mình là chính Thiên Chúa (Ferguson)!
Thứ ba: Không nhận là có ý nghĩa thần học, Thánh
Kinh và tu đức, tức là Lm Gioan Minh tự hình thành một
đường hướng mới, và tên gọi của nó là “Khai Tâm Đạo,”
hay “Đại Đạo Yêu” và thảng hoặc lại gọi là “Sống Lời
Chúa!” Vậy sống lời Chúa mà không mang ý nghĩa
Thánh Kinh, hay dựa vào Thánh Kinh thì thật là khủng
khiếp, sai lầm và vô cội nguồn! Chính vì thế mà chuỗi
trình cảm nghiệm của Lm Gioan đầy dẫy những cóp nhật
từ thiền, đến Lục đạo của Phật giáo, và dầy đặc những lý
thuyết của tam triết đông phương với tâm tình “Đồng
thanh đồng khí”, với “Các Đấng Đông Phương”, và cuối
cùng nhảy sang “Cùng tần số” với cõi âm binh.
134
Chằng hạn như từ Dung thông, mà “Dung” theo Lm
Gioan Minh hiểu và định nghĩa là “Bao gồm hết, có hết,
chứa hết: NHƢ THIÊN CHÖA CÓ.” Nghĩa là kẻ dung
thông sẽ bằng Thiên Chúa để thành nghịch tử và phải
nhào xuống âm phủ như chính Satan (Is.14: 3-5), và
Zen vô thần chủ trương.
Thứ tƣ: Cũng trong lời minh định, Lm Gioan viết: “Tâm
chỉ phóng yêu và phóng sáng, nên hằng chân nhận rằng
“Người khiêm nhượng và vâng phục là người thuộc về
Chúa và Mẹ. Người kiêu ngạo và bất tuân là người
thuộc về Satan.” Các chứng cớ sau đây chứng minh lm
Gioan Minh nói một đàng, làm một nẻo hay tự mâu
thuẫn với chính mình:
Điều rõ ràng ai cũng biết là ĐTGM Phaolô Nguyễn văn
Bình, tính tình hiền hòa, và nhịn nhục nhiều khi đến nhu
nhược. Nhưng Lm Gioan Minh đã bất mãn và bất tuân
phục khi ngài phiền trách, ngăn cản hướng đi, và sinh
hoạt lập dị của Khai Tâm đạo. Vì thế, Lm Gioan Minh
cứ hậm hực, thù hận và bức xúc khôn nguôi với đức cố
TGM Phaolô Bình. Như vậy, Lm Gioan Minh đã đi
ngược lại với lý thuyết “Khiêm nhƣợng và vâng phục,
để thực hành trọn vẹn nguyên tắc: “Người kiêu ngạo và
bất tuân là người thuộc về Satan.” Thuyết này do chính
Lm Gioan Minh đề ra trong lời minh định, nhưng lại là
người đầu tiên vi phạm, và lộ rõ chân tướng ngôn sứ gỉa,
cũng như tỏ rõ nguồn Khai Tâm Đạo đến từ đâu!
Ngày 30-6-1995 Đức TGM Bình qua đời, thì niềm bức
xúc và hận thù trong lòng Lm Gioan Minh mới nổ tung
135
ra đầy đủ. Do sự bùng nổ này, chúng ta thấy Lm Gioan
lại vi phạm linh đạo yêu thương của chính Chúa là
“Chưa biết tha thứ, để được thứ tha (Mt.6:14).” Vì thế
mới có chuyện hư cấu xuất ra từ cửa miệng cha Minh là:
“ĐTGM Bình đã về xin lỗi tôi (cha Minh)”. Như một
dấu tha thứ, Lm Gioan Minh lại mời “Cố TGM Bình
làm thủ quĩ trong nom tài chính cho Khai Tâm Đạo.”
Thật là quái gở khi kẻ đã “Tử qui” mà còn về làm thủ
qũi như còn sống! Lập dị, quái gở và hoang tưởng hết
sức! Vì sau khi chết là: “Mùa phúc đã hết, mùa tội phải
đền” hay “Trong cõi âm ty... không còn hoạt động,
không còn dự tính, chẳng còn hiểu biết, chẳng còn khôn
ngoan (Gv.9:10).” Làm gì có chuyện: “Hồn là tinh anh”
trở về dương gian làm việc cho âm dương hòa điệu, và
cho “Đồng thanh đồng khí” vẹn chữ tình. Tín lý công
giáo không hề dậy một sự tin tưởng kỳ quái như thế!
Trong tài liệu số 5, sổ tay số 1, một thành viên dị giáo
Khai Tâm Đạo đã ghi lại đầy đủ những sự kiện do Lm
Gioan Minh tiết lộ, chứng tỏ tâm hồn bức xúc chứa đầu
hận thù của lm Gioan Minh liên quan tới Đức Cố TGM
Phaolô Bình vì ngài đã ngăn cấm Khai Tâm Đạo như
sau:
Ngày 1-7-1995 Đức Cố TGM về (qua hành vi cầu cơ)
nói với cha Minh: “Hôm nay cha đến dâng thánh lễ cho
con, con thấy binh mã Xuân Thu Tần Thủy Hoàng và
các cụ Tổ Tiên Việt Nam, cùng các Thánh Tử Đạo Việt
Nam. Con đã đi viếng Chúa Hiển Linh và nhà nguyện.
Giờ đây con hiểu rõ việc cha làm. Chúa đã chỉ tỏ riêng
cho cha, vì con không hiểu, nên đã ngăn cản.” Lm
136
Gioan Minh đã đưa ra lời hư cấu này ra, để chứng minh
là cố TGM Bình đã biết mình sai và về xin lỗi, rồi mới
được tha! Đây là sự kiện chẳng ai có thể kiểm chứng, trừ
chính lm Gioan Minh nói theo cách “Cùng Tần số” do
hành vi “Cầu cơ” mà có. Mà cầu cơ là hình thức: “Mình
có sao, âm hồn hay quỉ ma sẽ nói như vậy!” Và cầu cơ
luôn là hành động bị giáo hội ngăn cấm và lên án.
Ngày 23-7-1995 trong bài huấn đức cho các thành viên
Khai Tâm Đạo, Lm Gioan Minh đã nói: “Đức Cố TGM
Bình đã cho phép tôi (Lm Gioan Minh) tìm hiểu bùa
ngải năm 1972”. Lời tự thú hôm nay của Lm Gioan
Minh đã cho thấy việc cha học bùa ngải với ông Bẩy gần
nhà ga xe lửa cũ, mà cha Việt Châu đã được chứng kiến
và tận mặt gặp gỡ, là đúng sự thực! Và với tâm tình mục
tử lo lắng cho đoàn chiên, thể theo lời yêu cầu như hợp
lý của Lm Gioan Minh, đức cố TGTM Phao Bình đã
đồng ý để Lm. Gioan Minh đi tìm hiểu, nhờ đó có thể
giúp nhiều người hiểu và xa tránh những hành động có
bàn tay ma qủi nhúng vào. Hành động này chứng minh
đức cố TGM Bình rất thức thời!
Sự thực thảm thương và tệ hại đã chứng minh lý thuyết:
“Chơi với dao, có ngày sẽ đứt tay!” Kể từ biến cố học
bùa ngài, và cầu cơ này, Lm Gioan Minh đã thay đổi, và
trở thành một người bất thường đến cuồng tín! Và đức
tin Kitô hữu của cha Minh bị lung lay đến gốc rễ, bởi
vậy: “Hình thức thì còn, nhưng cái chính yếu thì đã chối
bỏ (2Tm.3:5a)”. Thánh Phaolô qua kinh nghiện mục tử
đã khuyên: “Anh hãy xa lánh những người ấy
(2Tm.5b)”. Lời khuyên này chưa được giáo quyền và
137
tín hữu thực thi đứng đắn, trừ Đức cố TGM Phaolô Bình,
người đã rất can đảm dám đối diện khi ngăn cấm Lm
Gioan Minh.
Tháng 9-1993 trong cuộc cấm phòng hằng năm cho các
Lm thuộc TGP Saigon, tại Trung Tâm Fatima, Bình
Triệu, Khai Tâm Đạo được đưa lên bàn mổ để phân tích
đúng sai và tự do phê bình. Cha cố Bản đã phê bình
thẳng thắn: “Khai Tâm Đạo là cái ô nhục cho giáo hội!”
Lời phê bình này đã cho thấy là các Linh mục thuộc
TGP Saigon đã bất đồng thậm tệ với Lm Gioan Minh…
Tất cả các lm đã cùng thấy có một cái gì bất ổn và dị
giáo “Khai Tâm Đạo” qủa là một vấn đề rất lớn trong
giáo phận. Chính vì thế mà Đức cố TGM đương nhiệm
lúc ấy là TGM Phaolô Bình đã ngăn cấm!
Ngày 16-8-1995, Lm Gioan Minh lại long trọng tuyền
bố: “Đức Cố TGM Phaolô Bình, lúc 6 giờ 30 sáng, đã
được rước lên thiên đàng cùng với „Các Đấng!” Và vì
muốn nên giống Chúa Kitô trọn vẹn, nên Đức Cố TGM
cũng đã xin đi dự khóa: “Sa mạc 40 đêm ngày.” Thật là
như chuyện hoang đường, và huyền thoại “Ngàn lẻ một
đêm!” Chưa bao giờ thấy xảy ra sự kiện này trong giáo
hội công giáo! Và trên cả thế giới! Người sống và kẻ
chết cùng ăn, cùng ở, cùng tham dự trại Sa mạc 40 đêm
ngày của dị giáo Khai Tâm Đạo! do phát ngôn viên
chính thức là linh mục Gioan Minh thông báo. Trong
khi Chúa Giêsu minh xác “Có vực thẳm ngăn cách” hai
bên không sang, không về với nhau được (Lk.16:26).
Một người bình thường, không loạn trí, và hoang tưởng
làm sao có tư tưởng quái dị như thế!
138
Ngày 7-12-1996, Lm Gioan Minh lại tiết lộ, “Đức Cố
TGM Phaolô Bình (người đã qua đời từ ngày 30-6-1995)
đã mời cha Trần Mục Đích, dòng Chúa Cứu Thế, về giáo
xứ Hiển Linh giảng mỗi chiều chủ nhật.” Thật là tin
quái gở! Người sống đã không biết sắp xếp, và mời Cha
Đích về giúp, nên đã phải nhờ vong linh của người đã
khuất thực hiện việc mời cha Đích thì sự việc mới xong
và ổn thỏa. Lập dị đến điên khùng!
TGM Phaolô Bình đã được Lm Gioan Minh chiếu cố
qúa kỹ! Chỉ vì ngài đã dám đương đầu, trách cứ và ngăn
cấm Khai Tâm Đạo! Nhưng cái bất ổn ở đây là Lm
Gioan Minh, dùng lời mình là kẻ đang sống, tỏ hết cái
bực bội, và đổ mọi lỗi cho người đã khuất, không còn
tiếng nói, thì đó là một hành vi thiếu công bình, bất nhân
và chẳng hợp lý chút nào. Làm sao Gioan Minh biết! và
dám đi rêu rao điều chẳng ai tin được về sinh mệnh đời
đời của người đã khuất! Nếu không do thuật cầu cơ?
Thế mà Khai Tâm Đạo Nhân tin.
Đọc đến đây, chắc hẳn qúi vị đã thấy rõ sự lập dị qúa cỡ,
sự sai lầm gây tổn hại đến đức tin công giáo, và sự
hoang tưởng đúng như Thánh Phaolô đã viết: “Họ là
hạng người đầu óc lệch lạc, lòng tin không có gì vững
chắc. Nhưng họ sẽ không đi xa hơn được, vì như trường
hợp hai tên kia (Hannes và Jambres Xh. Xh.7:11-12;
8:18), mọi người sẽ thấy rõ là họ điên khùng (2Tm.3: 8-
9).
Nhưng giáo hội địa phương lại đã không biết giải quyết
sao cho ổn thỏa, để củng cố đức tin truyền thống và bảo
139
vệ duy nhất của giáo hội! Có lẽ vì Lm Gioan Minh là
người đã dầy công và vất vả thành lập giáo xứ Hiển
Linh, đã khéo âm thầm hình thành một dị giáo, thành
phần rải rác khắp các giáo phận miền nam. Do sự nín
lặng, và làm ngơ đáng sợ này, vậy thì cùng với Lm
Gioan Minh, ai nữa đây sẽ phải trả lẽ trước Thiên Chúa,
về những người sẽ đang sai lầm, lạc đạo và hư mất đời
đời? Tín hữu vì thiếu trình độ, đơn thành, dễ tin đã trót
dại, và mê loạn để bùa chúa và phù phép trói buộc, nên
đã đi sâu vào hoang tưởng của dị giáo Khai Tâm Đạo?
2. NHỮNG LẬP DỊ TẠI KHÓA SA MẠC
Đi vào Sa mạc 40 đêm ngày của dị giáo Khai Tâm Đạo
là điều bắt buộc với những ai muốn thực sự trở nên
thành viên chính thức của dị giáo. Sau 40 ngày đêm, là
đại lễ của thành viên “Tuyên hứa tuyệt đối trung thành
và hy sinh” cho dị giáo Khai Tâm Đạo. Sa mạc theo
nghĩa phổ quát là vào biển cát, nơi thanh tĩnh, xa trần thế
hoàn toàn, để một mình có thể sống với Thần Linh theo
gương Chúa Giêsu, Đấng đã vào sa mạc 40 ngày đêm,
chay tịnh và cầu nguyện với Chúa Cha, trước khi hoạt
động công khai (Mt.4:1-11) và cứu nhân độ thế với lời
kêu gọi khởi đầu, “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời
đã gần! (Mt. 4:17; Mk.1:15)”
Lm Gioan Minh thường đưa các đồ đệ đến Hồ Cốc, Bình
Châu, Bà Rịa; hay vào rừng thông Đà
Lạt, là hai địa điểm đã được di giáo Khai Tâm Đạo tạo
mãi. Khu rừng này rất rộng được hình thành như một
140
thành phố lều: nho nhỏ, dễ thương và san sát bên nhau.
Mỗi người một lều riêng biệt để: “Solus cum solo (sola)
i.e. một mình với Thiên Chúa” và tránh những phút tâm
tình riêng tư. Nhưng nếu ai vì nhát sợ trước cảnh tĩnh
mịch của khu vực ban đêm, và vẻ man rợ của rừng thông
thì có thể chọn một bạn tâm đầu ý hợp ở cùng.
Toàn thời gian dành cho việc cầu nguyện, suy gẫm và
tâm tình với Chúa! Đến giờ ăn, ai ở đâu cứ ung dung ở
tại chỗ, vì có người sẽ mang đồ ăn đến tận nơi, và sau đó
đến lấy các đồ đi rửa cho. Đây là hình thức giống như
các đan sĩ nam nữ của các dòng khổ tu: chiêm niệm và
cầu nguyện, ăn chay và hãm mình trong phòng riêng của
mình. Hay cũng có thể ví như những người tù: không
được tiếp ai, và không tự do đi lại.
Đến giờ thánh lễ, các thành viên cùng nhau đọc một số
kinh chung, chuẩn bị tâm hồn tham dự lễ và rước Chúa.
Cung thánh chỉ gồm có môt bàn và một ghế. Trên bàn
đã đặt sẵn áo lễ, sách lễ, chén thánh, và bánh rượu. Khi
rước lễ, mọi người tiến lên bàn thánh, tự động cầm Mình
Thánh lên nói: “Mình Thánh Chúa Kitô” và tự động thưa
“Amen.” Và cuối cùng tự rước lễ!
Một thành viên tân tòng hiện cư ngụ tại giáo xứ Bắc Hà,
thành phố, đã ao uớc có nước Thánh Thể tôn thờ tại gia.
Lòng ao ước đã được thỏa mãn khi một thành viên Khai
Tâm Đạo lấy những mụn Mình Thánh Chúa hòa tan vào
chai nuớc, rồi trao cho người ấy đem về tôn thờ tại gia.
Một giáo hữu chính chuyên biết chuyện lập dị này, đã
khuyên người tân tòng đem nước: “Thánh Thể,” đến
141
trình tự sự. và xin phép cha sở để được tôn thờ nước
thánh chính thức tại gia. Cha sở Nguyễn văn Bao lúc đó
đi xuất ngoại chưa về, nên người đó đã xin gặp cha phó
Giuse Phạm Công Trường.
Nghe xong chuyện, cha Trường đã tịch thu chai nước
Thánh Thể, và cấm “không được làm như thế!” Hình
thức có nước Thánh Thể tôn thờ tại gia, hay đeo nước
Thánh Thể trên người để thờ kính mọi lúc, là điều Lm
Gioan Minh khuyến khích các thành viên nên làm, để
xua trừ tà ma. Làm như thế Lm Gioan Minh quên hẳn,
hay không tin lời Thánh Phaolô đã dậy, “Nào anh em
chẳng biết rằng, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và
Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?
(1Cor.3:16)” Vì “Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và
đền thờ ấy chính là anh em (1Cor. 3: 17b).” Và: “Làm
sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được? Vì
chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống,
như lời Người phán: “Ta sẽ đến cư ngụ, và đi đi lại lại
giữa họ (2 Cor.6:16).” Vậy nếu đã chân thành tin yêu và
hiệp nhiệm với Chúa Giêsu mọi nơi và mọi lúc, thì làm
sao ma qủi có thể mon men đến làm hại? Trừ khi chính
đương sự mời ma qủi vào, tâm tình và nghe theo lời nó
dụ dỗ.
3. CẦU CƠ Căn cứ vào những sự kiện như cõi tiên, mà Lm Gioan
Minh đã thực hiện từ đầu cho đến nay như:
142
Một là nhiều người đã đến nhờ Lm Gioan Minh cho hay
về số phận, ước nguyện, hay trăn trở của người thân đã
ra đi. Lm Gioan Minh đã chuyển giao thư của các hồn
gởi về cho thân nhân. Tuy chữ viết là của Lm Gioan
Minh, nhưng cha nói là cha chỉ ghi lại những lời các hồn
nhắn gởi, và cha xác định đó là tâm thư các hồn gởi về
cho thân nhân. Qua hình thức nào, Lm Gioan Minh đã
có được tâm thơ. Chắc chắn là qua “Cầu cơ!”
Hai là cũng theo hình thức này, nhưng Lm Gioan Minh
đã ghi lại trên máy Computer những tâm ý, các ao uớc,
những lời dậy của mình, in ra, phân phối cho đồ đệ và
nói: “Đây là tâm thư các Đấng Phật, Khổng, Lão, Tiên,
Thánh, Chân Sư đã tiết lộ cho cha, và cha ghi truyền lại,
để mọi người cùng nhận, tin và hoàn thành sứ vụ.” Qua
hình thức nào, chắc chắn là qua “Đồng thanh tương ứng,
Đồng khí tương cầu” và đặc biệt qua có “Cùng tần số”
với cõi âm là cầu cơ!
Chúng ta có thể xác quyết rõ là Lm Gioan Minh đã dùng
phương thức “Cùng Tần Số” qua hành vi “Cầu Cơ” và
“Đồng thanh đồng khí” với các Đấng, để hành đạo và
giữ đạo “Vì nguồn lợi! (1Tm.6:5b)”. Câu hỏi được
nhiều người đặt ra là: “Tại sao nhiều người, kể cả những
kẻ có chút kiến thức, lại răm rắp nghe và vâng phục
những chuyện phi lý của Lm Gioan Minh như vậy?”
Hỏi tức là qúi vị chưa rõ cái công hiệu, hay mê hồn trận
do ma qủi hành động, qua người dùng phù phép, bùa chú
và cầu cơ! Nên nhớ là Lm Gioan Minh đã tốt nghiệp
cùng trường, và học cùng thầy với: “Thanh Hải Vô
143
Thượng Sư” hiện đang trụ trì tại Los Angeles, USA. Bà
là đã một thời gây tan hoang nhiều gia đình, thu góp rất
nhiều tiền bạc, lập nhiều cơ sở bán các DVD‟s và sách
báo của bà, đồng thời rao truyền thánh đạo của “Thanh
Hải Vô Thượng Sư.” Một quan điểm chung là những ai
xuất xứ từ ông Bẩy, đều thành lập một dị giáo riêng của
mình. Bà đặt tay trên đầu ai, thì người đó sinh ra mê
hoặc, và bị bà sai khiến. Gioan Minh cũng dùng hình
thức này, kiềm chế môn đệ và những ai đến xin ơn!
Qúi vị còn nhớ một biến cố hãi hùng đã xẩy ra ngày 18-
11-1978 tại làng Jonestown, Guyana. 912 người bị mục
sư Jim Jones mê hoặc, bỏ việc làm và nhà cửa tại USA,
di gia đình về Jonestown, sống trong một công đồng biệt
lập và tay làm hàm nhai. Khi bị điều tra thực hư, Jim
Jones đã ra lệnh giết các nghị sĩ và nhân viên đến làm
việc, đồng thời ép 912 uống độc dược tự vẫn tập thể.
Đó là sự mê hoặc của bùa chú và phù phép!
Qúi vị cũng còn nhớ biến cố thứ hai xảy ra tại Wa-
co,Texas ngày 19-4-1993. Mục sư David Koresh và 74
người lớn nhỏ đang sống tại Branch Davidians, một
công đồng tôn giáo tập thể. Khi bị tố là đã có sự hành
hung, cưỡng ép đến mất tự do và có những hành vi bạo
lực và bất nhân xảy ra, chính quyền đã đến can thiệp, và
yêu cầu đối thoại. David Koresh đã phủ nhận không tiếp
và phong tỏa cộng đồng! Cuối cùng ông đã dùng thuốc
nổ phá tan trụ sở trung ương Branh Davidians. Tất cả đã
cùng ông chết tan xác với nhau trong thần hỏa.
144
Và biến cố gần đây nhất đã xảy ra tại Santa Fe, gần San
Diego, CA ngày 26-3-1997. Có 39 người trí thức đủ
các ngành, đã theo bà Bonnie Nettles và ông Marshall
Applewhite, hai người đã thành lập dị giáo Heaven‟s
Gate. Trong mê hồn trận, tất cả đã tin tưởng và sống
theo lời dậy là họ sẽ cùng nhau lên phi thuyền, chạy theo
sao Hale Bopp, và trở thành người hành tinh. Ngày đó
họ tụ tập từ các nơi về một căn nhà ở Santa Fe, nằm la
liệt trên giường, và cả trên mặt đất sau khi đã uống độc
được, vì chỉ có chết, mới có thể lên được phi thuyền,
theo sao Hale Bopp, và thành người hành tinh.
Mãnh lực của bùa chú và phù phép có sức kinh hoàng
đến thế! Người không còn đức tin vào một Chúa duy
nhất là Đấng cứu độ, đã không còn sống Thánh Kinh
chân truyền, hồ nghi tín lý, bỏ giáo hội Chúa Kitô thành
lập, cuỡng lý và bất tuân quyền giáo huấn của hội thánh,
tin vào những cảm nghiệm hão huyền của một cá nhân,
mơ ước được sống trong cõi tiên, và lập một dị giáo mới
trong một giáo hội. Đó là thực cảnh của di giáo Khai
Tâm Đạo hôm nay do Lm Gioan Minh thành lập.
Lời Chúa không còn là Lời Thánh nữa! Nhưng lời của
cha thánh Gioan Minh thì mọi người tuân thủ, và sốt
sắng lắng nghe như lời thánh! Lời đó đã được bao che,
ngụy danh, và lý giải là đã được: “Các Đấng Đông
Phương và Hành Tinh” về dậy. Tất cả đã tin, không rõ
nguồn gốc, chẳng cần tìm hiểu căn nguyên. Thật là tình
trạng khủng khiếp, khi ai đó đã mở lòng đón nhận bùa
chú và phù phép của Lm Gioan Minh!
145
Cựu Đại Tá Đoàn Hậu, người đã từng làm việc tại bộ
Tổng Tham Mưu, trại Trần Hưng Đạo, đã quen thân với
Lm Gioan Minh hồi làm tuyến Úy binh chủng Thủy
Quân Lục Chiến, và hai người thường gặp nhau ở nha
Tuyến Úy Công Giáo. Ông đã nhiều lần chứng kiến tại
chỗ cảnh Lm Gioan Minh Cầu cơ! Vì thế, trước ngày
sang USA theo diện HO, có lẽ vào khoảng năm 1995,
ông đã công khai công bố trước mặt các bằng hữu thân
tình tại sân nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Saigon:
“Cha Minh thƣờng cầu cơ!” Hầu giải đáp những thắc
mắc mà nhiều người đã bàn tán, tìm hiểu và nói ra nói
vào về cha Minh cầu cơ!
Gần đây hơn, ông Trương văn Hải, khi ấy là trưởng “Cu-
ria Legio Mariae” giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do
nghe những lời bàn tán xôn xao về việc Lm Gioan Minh
cầu cơ. Để tìm ra thực hư và cốt lõi của vấn đề, ông đã
đích thân đến giáo xứ Hiển Linh xin gặp cha Minh.
Nhưng tiếc thay, lúc ấy Lm Gioan Minh đi vắng! Ông
đã thăm hỏi và tâm tình lý do đến gặp Lm Gioan Minh
với một nhân viên làm việc tại văn phòng giáo xứ Hiển
Linh. Anh ta thẳng thắn đáp: “Các ông có Kinh Thánh,
có giáo lý, có các cha coi sóc, cần gì phải đến đây hỏi.
Tôi nói thật cho ông biết là: “Cha Minh cầu cơ đấy!”
Biến cố thù hận và bức xúc của Lm Gioan Minh, với
Đức cố TGM Phaolô Bình qua những lần cố TGM Bình
về xin lỗi, hiện làm thủ qũi cho Khai Tâm Đão, đã mời
cha Mục Đích đến giúp các chiều chủ nhật tại giáo xứ
Hiển Linh, và được rước lên trời cũng là hiệu quả của
các cuộc cầu cơ. Nếu không thì do trí tưởng tượng quá
146
phong phú, hay do cảm xúc quá bén nhậy và hoang
tưởng hình thành. Qúi vị tin đàng nào?
Qúi vị nào còn hồ nghi, xin liên lạc trực diện với Lm
Gioan Minh, giáo xứ Hiển Linh, Thị Nghè, Thành Phố
Hồ Chí Minh.
4. CẦU CƠ, BÙA CHÖ
TRONG THÁNH KINH Trong thánh kinh có đề cập đến bà đồng cầu cơ ở Endor
(1Sm.28: 3-25). Câu chuyện như sau:
Saulê trong kinh hãi, xao xuyến và thất vọng khi thấy
dũng khí sang ngời và quyết thắng của người Philistines,
đã đi thỉnh ý bà đồng bóng, hay phù thủy đang trốn ở
Endor (1Sm.28: 4-7), một địa điểm khoảng 9 dặm, nằm
phía đông nam biển hồ Galilea, trong vùng đất của chi
tộc Manasseh.
Saulê đã giả trang là một người dân, và đi cùng hai hầu
cận đến Endor gặp bà đồng. Thoạt tiên, bà đã chối từ, vì
lệnh vua không cho phép! Saulê bảo đảm là không việc
gì đâu! Bà hỏi vậy: “Ông muốn tìm gặp ai?” - Ngôn sứ
Samuel (1Sm.28:8-11).
Khi thấy Samuel, bà đã rú lên sợ hãi! vì nhận ra vua
Saulê ngồi ngay trước mặt. Saul hỏi: “Bà thấy gì?” Bà
trả lời: “Tôi thấy một thần linh đang từ đất đi lên.” Saulê
147
hỏi: “Hình dáng thế nào?” Bà đáp: “Một cụ già đi lên,
mình cuốn áo choàng,” Vua Saulê biết đó là Samuel,
liền kính cẩn sấp mặt xuống đất mà lậy (1Sm.28:12-14).
Samuel hỏi Saulê: “Tại sao ngài gọi tôi lên mà quấy rầy
tôi?” Saulê đáp: “Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo,
Người Philistin đang giao chiến với tôi, và Thiên Chúa
đã rời bỏ tôi: Người không trả lời tôi, dù qua trung gian
ngôn sứ, hay qua giấc mộng, Vậy tôi đã gọi ông, để ông
cho tôi biết phải làm gì.” Samuel đã lặp lại những gì đã
tiên báo cho Saulê (1Sm.15:26-29). Và thêm vào là
ngày mai “Ngài và các con trai ngài sẽ ở với tôi (chết),
cà quân đội Israel nữa, Thiên Chúa cũng sẽ trao vào tay
người Philistin (1Sm.28: 15-19).”
Câu hỏi các nhà điều nghiên và giải thích Thánh Kinh
đặt ra là: “Bà đồng có gọi thần hồn Samuel về thật
không?” Và người bà đồng thấy: “Có phải thật là Sa-
muel không?” Câu trả lời, cho đến nay, vẫn còn đang
tồn đọng, trong vòng tranh cãi, giữa hai lối giải thích
khác nhau.
Nhóm phủ nhận cho rằng: “Không có gì chứng minh rõ
là đồng bóng, phù thủy hay người trung gian đã có thể
đối thoại với người chết.” Sự kiện chỉ có thể xảy ra nếu
Thiên Chúa cho phép! Và đây là trường hợp ngoại lệ!
Lý do vì sau khi chết, thì thần hồn hoặc là “Lên trời hay
xuống địa ngục,” tùy theo niềm tin và công trạng của
chính đương sự (Mt.25:46).
148
Hai là người đã khuất không có quyền từ trời xuống, hay
từ ngục sâu lên thăm thân quyến! vì hai thế giới âm
dương, sáng tối hoàn toàn khác biệt và không thể chung
đụng. Vậy mọi niềm tin trái ngược là do hành động của
ma qủi, như Thánh Phaolô đã lý giải “Lạ gì đâu! Vì
chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng
(2Cor.11:14).”
Ba là thực cảnh “Nội bất xuất, ngoại bất nhập” như
chính lời Chúa Giêsu dậy trong dụ ngôn người giầu có
và Lazarô: “Giữa chúng ta đây và các con có một vực
thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn sang bên đó cũng
không được, mà bên đó có qua bên chúng ta cũng không
được (Lk.17: 26).” Thánh Gioan, vì thế, đã trình thuật
trong sách Khải huyền: “Ma qủi, tên mê hoặc chúng, bị
quăng vào hổ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú, và
tên ngôn sứ gỉa; và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời
đời kiếp kiếp (Kh.20:10).”
Bốn là Satan thủ lãnh của bóng tối có khả năng dây dưa
vào, và ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trên đời. Satan
quan sát những gì đang xẩy ra chung quanh thế nhân và
thế giới, và Satan biết những gì mà những kẻ đang sống
không hề hay biết. Vì Satan là kẻ đã “Từng làm chuyển
rung cõi đất, từng làm cho các nước điên đảo, từng biến
thế giới nên sa mạc, làm cho các thành thị tan hoang,
không mở cửa ngục cho kẻ bị giam cầm (Is.14:17)” sẽ
dàn trận để đánh lừa và mê hoặc thế nhân.
Thời điểm đó Chúa Giêsu gọi là “Là thời của quyền lực
tối tăm (Lk.22:53b).” Một yếu tố cuối khá hay là thậm
149
Chí Thiên Chúa còn cho phép Satan hành khổ và thử
thách thế nhân, như Satan đã thử thách đức tin của Job
(Job. 1:12; 2:6), để thấy được lòng tin chân chính, sự
trung thành đảm lược và tình yêu tuyệt đối của các tín
hữu.
Nhóm tin nhận cho rằng: bà đồng đã thấy Samuel thật
sự, vì đây là trường hợp đăc thù mà Thiên Chúa cho
phép. Giở sách Huấn Ca chúng ta thấy một chứng minh
rất hay đã có từ xa xưa: “Ngay cả khi đã an nghỉ, ông
vẫn tuyên sấm: báo cho vua biết hậu vận của vua; từ
lòng đất: ông vẫn còn lên tiếng: nói lời sấm để xóa đi sự
gian ác của dân (Hc. 46: 20).”
Lý do đầu tiên vì: “Thiên Chúa đã gạt bỏ vua Saulê
(1Sm.15: 26,28; 16; 28: 16),” nên lúc ấy không còn ngôn
sứ.
Lý do thứ hai, Thiên Chúa muốn qua cố ngôn sứ Sa-
muel, báo ngày ra đi thảm sầu của Saulê, để vua chuẩn
bị hậu sự của ông, và an tâm đi về với tổ tiên: “Ngày
mai, ngài và các con trai ngài sẽ ở với tôi (1Sm.28:19;
31:6 thực hiện).”
Lý do thứ ba là chúng ta nhận được bài học mới. Nhờ đó
chúng ta hiểu chính xác, ý thức hơn và phân biệt rõ ràng:
ai là tác gỉa của vận mạng con người. Và ai ban chân lý
để chúng ta tin theo.
Nếu do chính Thiên Chúa thì sẽ có một hình ảnh trung
thực, một lời mô tả chính xác, một thời điểm xác định,
150
và có một hậu qủa nhãn tiền: “Ngày mai, ngài và các con
trai ngài sẽ về với tôi (1Sm. 28:19).” Và hiển nhiên lời
sấm ngôn đã xảy ra: “Vua Saulê với ba con trai, người
hầu cận và mọi người của vua đều chết trong ngày đó
(1Sm.31:6).”
Nếu do tà thần thì chỉ là một thông tin hay tiên đoán viển
vông, hoang tưởng, không bằng chứng, chẳng ai có thể
chứng minh và chỉ vòng vo trong những chuyện qúa
khứ. Những lời đó chỉ nói lên cái tâm thù hằn, hậm hực
và bức xúc của các tiểu nhân thiếu quang minh chính đại
và chưa có cái tâm thanh thoát vươn cao của chính nhân
quân tử! Đó là trường hợp của Lm Gioan Minh đã dối
xử bất công và vô lý với: “Đức Cố TGM Phaolô Bình.”
Lm Gioan Minh đã dùng cầu cơ gởi thông điệp ra: tự
biện minh cho sự sai lầm của Khai Tâm Đạo, và cái tâm
ngoan cố của mình! Ngón tay chỏ của Lm Gioan Minh
chỉ vào Đức Cố TGM Bình: “Lỗi tại ông!” đã ngăn cấm
mà Khai Tâm Đạo khốn khổ. Nhưng Lời Chúa qua ngôn
sứ Samuel soi dẫn chúng ta lúc này, như đã đánh nhào,
và kết án vua Saulê: “Phản nghịch cũng có tội như bói
toán; ngoan cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng
(1Sm.15:23).”
Sự thực, ai trong chúng ta cũng đôi lần nghe là: “Các
hồn về xin trợ giúp, và giải thoát,” vì có thiện tâm.
Nhưng chỉ về với thân nhân, chứ không qua người trung
gian hành xử vì: “Nguồn lợi! (1Tm.6:5b)”
151
CHƢƠNG XI
THIÊN CHÚA LÊN ÁN Chiêm tinh, bùa chú, phù phép, cầu cơ, lên đồng, bói
toán, tử vi v.v. là các tổ chức mà chuyên viên dựa vào
lòng mê tín dị đoan của thế nhân hình thành. Các tổ chức
này có những nghi thức huyền hoặc, và ma quái, liên hệ
và cầu xin với cõi âm, và dùng bùa chú, phù phép,
những hành vì của ma qủi, nên hoàn toàn bị tà thần
không chế. Mục đích chính là không đưa thế nhân lên
cao với Đấng Tạo Hóa, song đã dùng tà thần giúp, để
nhắm vào nguồn lợi nhuận thấp hèn của cá nhân, một
hình thức kiếm kế sinh nhai nuôi gia đình (Tit.1:11b;
1Tm.6:5b).
Các nhà chiêm tinh, bùa chú và phù phép đã thực hiện
những điềm thiêng dấu lạ, đã tiên đoán và sấm ngôn về
tương lai, đã có thể láo lếu giải mộng, nhưng không thể
chính xác như của Giuse bên Ai Cập, và như Daniel thời
lưu đầy bên Ba Tư. Nghề chiêm tinh, bùa chú và phù
phép của họ đã thịnh hành từ thời cổ Ai Cập, kéo dài tới
hôm nay, và sẽ còn tiếp tục thao túng thế nhân, gia đình,
xã hội, và tôn giáo cho đến ngày thế mạt. Thế mới hay
sự tinh quái, sức mạnh và mưu mô qủi quyệt của Satan!
Nó đang dùng tay sai là thế nhân để hại và mê hoặc nhân
loại!
152
A. MÔISEN VÀ CÁC PHÙ THỦY
Khi Thiên Chúa truyền cho Môisen, cầm cây gậy quyền
năng đến gặp Pharaô, và để chứng minh quyền phép của
cây gậy, Thiên Chúa truyền cho Môisen đã ném gậy
quyền năng xuống đất, “Nó hóa ra con rắn! (Xh.4: 3;7:
9-10)” Các pháp sư, hiền sĩ, phù thủy Ai Cập cũng dùng
bùa chú đã làm được như thế, nhưng: “Gậy rắn của Aa-
ron đã nuốt gậy rắn của họ (Xh.7:12).” Họ cũng có thể
biến nước thành máu (Xh.7: 20-22), và họ cố diệt muỗi
của Thiên Chúa (Xh.8:13-14). Nhưng tất cả đều đã thất
bại và qui hàng dưới ngón tay quyền uy, kỳ diệu và khôn
ví của Thiên Chúa toàn năng. Đạo quân Ai Cập bị chôn
xác tại “Biển Đỏ” là cái gía Pharaô phải trả cho sự cứng
lòng là đã dám chống lại Thiên Chúa, và ngăn cản
chương trình đưa dân chúa vào đất hứa.
B. ELIA VÀ CÁC NGÔN SỨ GỈA
Ngôn sứ Elia, dưới đời vua Ahab, đã yêu cầu vua triệu
tập 450 ngôn sứ của thần Baal, và 400 ngôn sứ của thần
Asherah là những người được hưởng lộc của hoàng hậu
Jezebel (1Kgs.18:19), công chúa của Ethbaal, vua xứ Si-
don (1Kgs.16: 31) trên núi Carmel. Elia yêu cầu dân
chúng dứt khoát lập trường: “Thờ Thiên Chúa hay thần
Baal (1kgs.18:21)” qua biến cố này.
153
450 ngôn sứ của thần Baal đã cầu nguyện từ sáng đến
trưa trước bàn thờ thần Baal, mong cho bò mộng được
thiêu, nhân danh thần Baal. Họ van lơn, gào thét, rạch
mình đánh tội, mà bàn thờ vẫn không có một động tĩnh
nào xảy ra (1Kgs.18:26-29).
Elia đã dùng 12 phiến đá dựng bàn thờ, đào mương
chung quanh, xếp củi và đặt thịt bò mộng trên củi. Elia
yêu cầu lấy 4 lu nước đầy tưới lên lễ vật và củi 3 lần.
Elia cầu nguyện rất đơn thành với Thiên Chúa: “Lậy
Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel! Ước
chi hôm nay người ta biết rằng trong Israel Ngài là Thiên
Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà
con làm tất cả các việc này, Xin đáp lời con, lậy Thiên
Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là
Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.”
Lửa trời xuống thiêu của lễ, cùi, dá, và nước cạn hết
(1Kgs.18:30-38). Dân chúng hết sức phấn khởi!
Với chiến thắng hiển nhiên do Chúa an bài và thực hiện,
dân chúng đã thức tỉnh và trở về tôn thờ Thiên Chúa.
Elia, vì thế đã thừa thắng xông lên, ra lệnh bắt, và giết
hết các ngôn sứ gỉa của thần Baal (1Kgs.18:39-40).
Chuyện Elia hạ sát các ngôn sứ thờ thần Baal đã tới tai
hoàng hậu Jezebel. Bà đã tức giận và nhất quyết đòi
mạng Elia! Elia, vì thế, đã phải trốn lánh trong cuộc
hành trình 40 đêm ngày, và cuối cùng ông đã đi đến núi
thánh Chúa : “Horeb” gần Haifa hôm nay, trú ẩn một
thời gian cho đến khi tai qua nạn khỏi (1kgs. 19:2-8)
154
C. MICAIAH VÀ CÁC NGÔN SỨ GỈA
Vua Ahab của Israel muốn giao chiến với Aram vua xứ
Syria vì tranh chấp vùng đất Ramoth ở Gilead
(1Kgs.22:3). Ahab mời Jehoshaphat vua Juda tham dự
(1Kgs.22:4). Ahab tập họp 400 ngôn sứ gỉa lại để thỉnh
ý: “Đánh hay không?” Tất cả 400 ngôn sứ gỉa đều đồng
thanh với vua là “Đánh (1Kgs.22:12)” Duy có ngôn sứ
Micaiah phản đối và trao cho vua lời sấm: “Dân Israel sẽ
tán loạn, không người chăn và ai nấy bỏ về nhà mình
(1Kgs.22:17).” Nghe thế, Ahab đã tức giận, cho giam
ngôn sứ Micaiah lại với lời hăm dọa: “Cho tới khi ta về
bình an (1Kgs.22:27).” Ngôn sứ Micaiah đã nói lời cuối
cho vua Ahab nghe: “Nếu vua trở về bình an, thì Thiên
Chúa đã không dùng miệng tôi mà phán! (1Kgs.22:28)",
nghĩa là sấm ngôn vể hậu vận của vua Ahab sẽ xảy ra.
Ahab và Jehoshaphat cùng ra trận, nhưng Ahab đã tử
thương, máu chảy lênh láng trong lòng xe (1Kgs.22:35).
Nước rửa xe đầy máu chảy xuống hồ Samaria bị chó
liếm, ứng nghiệm lời Chúa ra án phạt cho Ahab, qua
ngôn sứ Elia: “Chó sẽ liếm máu ngươi (1Kgs.21:19).”
D. DANIEL VÀ CÁC NGÔN SỨ GỈA
Daniel phục vụ dưới trướng vua Cyrus, Ba Tư. Người
Ba Tư lúc ấy thờ thần Bel, và đã tin rằng thần Bel có thể
và cần ăn uống như thế nhân. Vì là thần nên mỗi ngày
155
xử dụng đến 6 tạ bột mì, 250 lít rượu, 40 con chiên
(Dan.14:1-3). Khi vua Cyrus tâm tình: “Thần Bel hằng
sống, và ăn uống mỗi ngày!” Rồi vua hỏi Daniel: “Tại
sao không thờ thần Bel?” Daniel bình tâm và chân thành
trả lời: “Tâu đức vua, xin ngài chớ lầm! Thần Bel bên
trong là đất sét, bên ngoài là đồng và chẳng bao giờ phải
ăn uống (Dan.14: 5-7).” Đúng là một sự phi lý!
Nghe vậy, vua đã tìm ra cách giải quyết vấn nạn rất khôn
khéo! Vua vời các tư tế đến và nói: “Nếu các ngươi
không cho trẫm biết ai ăn các thực phẩm ấy, thì các
ngươi phải chết; còn nếu các ngươi chứng minh được là
thần Bel đã dùng những thực phầm ấy, thì Daniel phải
chết, vì đã phạm thương đến thần Bel (Dan.14:8).”
Các tư tế, tổng số là 70 chưa kể vợ con, thưa: “Bây giờ
các bề tôi ra ngoài, xin ngài cho dọn thức ăn, đóng cửa
và lấy ấn niêm phong lại. Sáng mai khi ngài đến, không
thấy đồ ăn, tức là: „Thần Bel đã không dùng,‟ thì các bề
tôi đây phải chết. Bằng không thì Daniel, kẻ muốn hại
các thần phải chết (Dan.14:11). ” Họ an tâm vì nghĩ là
chẳng có ai biết là có con đường hầm bí mật ở ngay dưới
bàn thờ.
Sau khi đã dọn thực phẩm như thường lệ, Daniel sai các
tiểu đồng rắc tro trải khắp nền đền thờ, và chỉ mình vua
Cyrus biết điều ấy, rồi đóng cửa đền, và niêm phong lại.
Đêm ấy, các tư tế cùng vợ con mò ra và ăn uống hết thực
phẩm. Sáng hôm sau, cửa vẫn đóng, ấn niêm phong vẫn
còn, nhưng thực phẩm đã biến mất hết! Vua Cyrus liền
ca ngợi thần Bel: “Lậy thần Bel, Ngài thật cao cả! Ngài
chẳng lừa dối ai bao giờ” Daniel chặn vua đi vào đền thờ
156
và nói: “Xin đức vua nhìn dưới nền, và coi đây là những
vết chân của ai?” Vua trả lời: “Ta thấy vết chân đàn ông,
đàn bà và trẻ con! (Dan.14:13- 20)”
Vua đã nổi giận, cho gọi các tư tế đến và hạch hỏi. Họ
tiết lộ cánh cửa bí mật đưa họ vào dùng thức ăn trên bàn
ban đêm. Vua đã truyền lệnh giết họ, trao tượng thần
Bel cho Daniel, và Daniel đã phá hủy tượng thần và đền
thờ (Dan.14:21-22).
Đó là thực cảnh của những lạm dụng thánh, có lẽ còn tồn
lại cho đến hôm nay ở nhiều nơi trong nhiều tôn giáo!
Và đó cũng là lý do tại sao hôm nay có qúa nhiều tiên tri
giả xuất hiện với những ngón nghề như: Chiêm tinh, bùa
chú, phù phép, cầu cơ, đồng bóng, tử vi, tuớng số và bói
toán vì nguồn lợi (1Tm.6:5b)!
157
CHƢƠNG XII
LỜI CHÖA DẬY Trước khi rời bỏ sa mạc, nơi mà dân chúa đã di hành
dòng dã 40 năm, Môisen đã ân cần đề phòng và giáo
huấn dân chúng rằng: “Khi vào đất mà Thiên Chúa ban
cho anh em, đừng học đòi những thói ghê tởm của các
dân tộc ấy (Đnl.18:9).” Lời dậy này cho thấy, một dân
tộc tinh tuyền, kính sợ Thiên Chúa, chưa pha trộn và
chung đụng với dân ngoại, sẽ không có mê tín dị đoan,
và đã chẳng thờ ngầu tượng. Chung đụng với người Ai
Cập, dân chúng đã rộng rãi trao vàng cho Aaron, để ông
đúc bò vàng, và họ đã tôn thờ ngẫu tượng (Xh.32:15)!
158
Dù luật Thiên Chúa ban đã qua rõ ràng trong “Mười giới
răn (Xh. 20:1-17).”
CHIÊM TINH, TƢỚNG SỐ, PHÙ THỦY
Những thói ghê tởm là: “Không đƣợc ai hành nghề bói
toán, chiêm tinh, tƣớng số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi
đồng ngồi cốt, chiều hồn (cầu cơ) (Đnl.18:10, 14).” Và
“Hễ ai làm điều ấy, thì là điều ghê tởm với Thiên Chúa,
và chính vì nhưng điều ghê tởm ấy mà Thiên Chúa đã
trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em (tiêu
diệt). (Đnl.18:11)” và trao đất đai của họ cho dân chúa
vào cư ngụ: Đó là đất hứa như lời Chúa đã cam kết với
Abraham: “Đến đới thứ bốn, chúng sẽ trở về đây, vì sự
gian ác của người Emori chưa đủ mức (St.15:16).”
Với dân chúng thì Chúa dậy: “Các ngƣơi không đƣợc
đến với các ngƣời ngồi đồng ngồi bóng, và không
đƣợc hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế
(Lv.19:31).” Vì nếu có đức tin vào Thiên Chúa, tại sao
không thỉnh ý Thiên Chúa, mà lại đi tìm những lời ru
ngủ nơi những phàm phu tục từ, ham lợi, hiếu danh? Sự
thực, họ chẳng biết chân lý, không tường tương lai của
chính mình, huống chi của người khác. Tất cả chỉ vì
“Lợi nhuận! (1Tm.6:5b)”
Đến đây, chúng ta có thể tin lời Thánh Phaolô xác quyết
khi trình thuật sấm ngôn: “Thần Linh phán rõ ràng: “Vào
những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà
theo những thần trí lừa dối, và những giáo huấn của ma
qủi (1Tm.4:1).” Mà dị giáo Khai tâm Đạo là điển hình!
159
Họ đang dần dần mất tin tưởng, đến bỏ Thiên Chúa, để
chỉ tin theo một phàm phu tục tử, và tiếp tay cho thế giới
âm hồn: “Hình thức của đạo thánh họ còn giữ, nhƣng
cái chính yếu thì đã chối bỏ (2Tm.3: 5).”
Thánh Phaolô đã cương quyết là: “Không có Tin Mừng
nào khác, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn
xáo trộn Tin Mừng của Chúa Kitô đó thôi (Gal.1: 7).”
Với những kẻ cố tình lèo lái chân lý, theo tham vọng của
mình như vậy thì: “Xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi
(Gal.1: 8b, 9b)!” Và mạnh mẽ hơn Thánh PhaoLô viết:
“Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, phải chi họ tự
thiến cho xong! (Gal.5:12)”
THIÊN ĐÀNG VÀ HỎA NGỤC
Chân lý Chúa Giêsu dậy về thiên đàng và hỏa ngục đã
quá rõ ràng. Về thiên đàng: “Hỡi những kẻ Cha Ta
chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho
các ngươi từ thủa tạo thiên lập địa (Mt.25:34) và sống
“Muôn đời (Mt.15: 46b).” Về hỏa ngục: “Quân bị
nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵng cho tên Ác Qủi, và các sứ thần của nó
(Mt.25:41) và chịu cực hình muôn kiếp (Mt.25: 46a).”
Thiên Chúa đã phán dậy như thế, tại sao giáo chủ Gioan
Minh lại hiểu hoàn toàn trái ngược? Ta tin Chúa hay
nghe Gioan Minh?
160
Như thế lời Chúa Giêsu đáng tin, hay lời của Lm Gioan
Minh đáng tin? Vì Lm Gioan Minh chủ xướng trái
ngược là: “Án phạt gì thì phạt, cũng có thời có hạn.
Nếu đã lỡ phạm tội, bị phạt đời đời, vậy Thiên Chúa
đâu còn là tình yêu nữa! (Băng ghi âm số 12, tài liệu số
3)”. Và Lm Gioan Minh lập luận: “Ngƣời có đức lớn,
cứu đƣợc linh hồn trong hỏa ngục” và Khai Tâm Đạo
có thể “Phóng Thánh Linh mang qủi ra khỏi hỏa
ngục (Băng số 2, tài liệu 3).” Điển hình hơn, Lm Gioan
Minh tuyên bố: “Ông Lutherô cũng đã được ra khỏi hỏa
ngục rồi (Băng số 12, tài liệu số 3).”
Sau đó Lm Gioan Minh nhỏ nhẹ bằng nửa miệng: “Cứ
nghiệm sống thôi! đừng nói ra, kẻo sinh lôi thôi đấy!”
vì biết mình nói phản nghịch với tín lý và chính lời
Chúa. Đây là một tín lý, chứ đâu phải là một nghiệm
sống! Chằng lẽ Lm Gioan Minh đã từ hỏa ngục được ai
đó phóng Thánh Linh kéo ra, và tái sinh trên trần, nên
mới có cái nghiệm sống quái ghở này! Và hôm nay đang
“Tâm truyền tâm” cái quái dị này cho người khác!
Chủ trương như thế là Lm Gioan Minh chịu ảnh hưởng
qúa nặng thuyết “Luân Hồi” của Phật giáo qua cách
giảng dậy vể lục đạo! Đồng thời Lm Gioan Minh gián
tiếp chối bỏ chân lý Chúa Giêsu đã dậy không thể chối
cãi, hay bàn luận thêm về sự hiện hữu thiên thu vạn đại
của hỏa ngục, dành cho Con Mãng xa, hai con thú và
những ai the9o chúng (Kh.20:10):
+ “Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ
vào lửa không hề tắt mà đốt đi (Mt.3:12; Lk.3:17).”
161
+ Tôi nói thật cho các ông hay: “Từ phương đông
phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Abraham, Isaac và Jacob trong Nước Trời. Nhưng con
cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở
đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt.8: 11-
12).”
+ “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà
vào lửa đời đời, nơi dành sẵng cho tên Ác Qủi, và các
sứ thần của nó (Mt.25:41) và chịu cực hình muôn kiếp
(Mt.25: 46a).”
+ “Thà chột mắt mà được vào nước Thiên Chúa, còn hơn
là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ
không hề chết, và lửa không hề tắt (Mk.9:47-48;
Mt.5:22).”
+ “Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác
trong hỏa ngục (Mt,10:28).”
+ “Ma qủi, tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hổ lửa và
diêm sinh, ở đó đã có Con Thú, và tên ngôn sứ giả; và
chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp
(Kh.20:10).”
+ Các ngươi làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi
các ngươi (Mt.23:15b).”
RỬA TỘI CHO NGƢỜI CHẾT
162
Theo giáo huấn của giáo hội công giáo, người tân tòng
muốn được rửa tội, phải qua thời kỳ học hỏi, được thụ
huấn đầy đủ về đức tin, đức cậy và đức mến, hiểu biết
Thánh Kinh căn bản và có cơ hội thực hành đức tin.
Nếu không thì chưa đủ tiêu chuẩn làm con Thiên Chúa
và được “Sinh ra bởi nước và Thánh Linh (Jn.3: 5).”
Giáo huấn của giáo hội dựa vào lời Chúa Kitô: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì được hưởng sự sống đời đời (Jn.3:16;
Mk.16:15).”
Đức tin là tâm điểm của người Kitô hữu! Giáo hội của
Chúa Kitô khác với các tôn giáo vì niềm tin, chứ không
vì luân lý. Nếu chúng ta mới chỉ sờ đến khía cạnh luân
lý, thì chỉ có chung một kết luận tầm thường: “Đạo nào
cũng như đạo nấy!” Và chắc chắn là chúng ta chưa sẵn
sàng để được hưởng ơn cứu rỗi vì “Không ai có thể vào
Nước trời, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Linh
(Jn.3:5).” Chúng ta phải có niềm tin vào Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt.28:19) mà Khai
Tâm Đạo gọi là : Đại Đạo Yêu.” Chúng ta phải tin vào
mầu nhiệm nhập thể: Ngôi Lời giáng sinh (Jn.1:14), mầu
nhiệm cứu chuộc: Chúa Giêsu chết trên thập tự
(Jn.12:32) vì “Như Môisen đã giương cao con rắn trong
sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như
vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Jn.
3:14-15).”
Đông phương có cùng quan điểm với Kitô giáo khi công
nhận thuyết: “Sinh ký tử qui: sống gởi thác về”. Chung
cuộc “Tử qui” của thế nhân được nhận diện qua hai ngả:
163
lên (Jn.5:15; Lk.23:43) và xuống (Mt.25:46a) tùy theo
mức độ “Tin-Cậy-Mến” của mỗi sinh linh với Thiên
Chúa và đồng loại.
Lên là về trong yêu thương, bình an và hạnh phúc muôn
đời trong Nước Chúa hay thiên đàng (Lk.23:43) . Hướng
lên đòi tín hữu phải tu thân liên lỉ, tích đức không
ngừng, và tắm gội trong tin yêu và tha thứ (Kh.7:14).
Lên là phải biết sống sao cho nét “Chân-Thiện-Mỹ
(Jn.14:6)” công hiệu như muối ướp đời, phản chiếu như
ánh sáng trần gian (Mt.6:14-15) và chia san với tha
nhân (Mt.25:40). Lên, vì thế, là con đường thật hẹp,
nhưng đưa đến sự sống, mà ít người qua (Mt.7:13b).
Thiên Chúa sẽ, “Xem quả biết cây (Mt.6:15-20)” hay nói
theo tam triết đông phương là “Nhân qủa”, mà phân định
và thưởng công những tôi trung của Người (Mt.25:35).
Để tất cả sẽ là những bậc thần thánh trong nước trời
(Jn.10:34). Như thế, hƣớng lên trời chính là “Tin
Mừng Nườc Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng
sức mạnh mà vào (Lk.16:16).”
Xuống là đi trong hận thù, tham lạm, bất nhân, nên sẽ
phải sống kiếp tối tăm, cực hình và khổ đau trong hỏa
ngục với “Khóc lóc nghiến răng (Mt.8: 12).” Hƣớng
xuống là nếp sống buông thả, hưởng thụ, đú đỡn và
Chúa Giêsu gọi là: “Đường rộng và thênh thang” đưa
đến diệt vọng, mà nhiều người lại đi qua lối đó
(Mt.7:13). Xuống vì tâm đầy gian tà, chứng gian, vu
khống, giết người, ngoại tình (Mt.15:19), và cuộc đời
chất đầy những ghen tương, đố kị, ích kỷ, gỉa hình và
mưu hại nhân. Đó là men Biệt Phái, Chúa muốn chúng
164
ta xa tránh (Mk.8:15) nếu không chúng ta sẽ bị kết án là:
“Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho
khỏi hình phạt hỏa ngục! (Mt.23:33)”. Xuống là hành vi
qui trách do chính mỗi người tự chọn, tự chủ trương
sống, ưng ý đi theo và cố tình “Không tin thì sẽ bị kết án
(Mk.16:16b).” Chứ không phải là “Lỡ phạm tội” như
giáo chủ Gioan Minh biện minh cho thuyết không có án
phạt đời đời!
Trừ những thơ nhi chưa đủ trí hiểu và chưa có lòng tin,
nhưng được cha mẹ huyết tộc và linh tộc bảo đảm là sẽ
huấn dục, trau dồi và phát triển niềm tin, thì chúng sẽ
được lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Nhưng với giới
trường thành, giáo hội đòi buộc đương sự phải có lòng
tin đầy đủ, và sống đức tin vững chắc, thì mới được lãnh
nhận bí tích Rửa Tội.
Ngoài những tiêu chuẩn thông thường như vừa đề cập,
để lãnh bí tích thanh tẩy, giáo hội cũng đã giải lý những
trường hợp khẩn cấp và bất khả kháng, chẳng hạn trường
hợp nguy tử đột xuất. Trường hợp này đương sự chỉ cần
tin những điều căn bản như: Chúa Giêsu đã dùng bảo
huyết cứu độ, mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, và thực
tâm sám hối mọi tội trong qúa khứ. Đặc biệt là bất cứ ai
cũng có thể cử hành bí tích thanh tẩy theo công thức
ngắn gọn: “Tôi rửa anh/chị/em (tên thánh …) nhân danh
Cha, và Con và Thánh Thần.” Hay rửa tội với điều kiện,
vì không biết đương sự đã chết thật hay chưa: “Nếu
anh/chị/em còn sống, tôi rửa anh/chị/em … nhân danh
Cha, và Con, và Thánh Thần.”
165
Bên cạnh nghi thức tái sinh bằng “Nƣớc và Thần Linh
(Jn.3: 5), Giáo hội còn ưu ái thông ban ngưồn ơn cứu
độ, nhân danh Chúa Giêsu cho thế nhân qua phép rửa
bằng: Lửa là lòng ao ước đã có, nhưng chết chưa kịp
lãnh nghi thức; và máu là lòng can đảm tuyên xưng đức
tin và chết trong bách hại, dù chưa chính thức là Kitô
hữu. Tôi phải dài dòng cắt nghĩa, mong giúp qúi vị hiểu
ý nghĩa thật, hiệu qủa và nghi thức của Bí tích Thánh
Tẩy, là phương thế khôn ngoan tuyệt vời mà Thiên Chúa
dùng để cứu độ. Nhờ đó qúi vị sẽ hiểu và phân biệt ra
sự sai lầm đến rối đạo, mà Lm Gioan Minh đang thay
đổi rất khôn khéo và lý luận rất tinh vi. Qua dị giáo Khai
Tâm Đạo Lm Gioan Minh đang gieo hoang mang, tạo
rối loạn trong lòng những tín hữu có một tâm hồn rất
chất phác, và một đức tin rất đơn thành. Tội nghiệp
những linh hồn mê dại theo Gioan Minh!
Qủa thật, Thánh Phaolô đã một lần đề cập đến tập tục
mới manh nha ở giáo đoàn Côrintô là: “Rửa tội thế cho
ngƣời đã khuất! (1Cor.15:29a)”. Giáo hữu Côrintô quá
tin tưởng vào hiệu qủa thần thánh của bí tích rửa tội
“Không ai được vào Nước Trời nếu không được tái sinh
trong nước và Thần Linh (Jn.3:5)”. Do tình yêu thâm
sâu, thân thương và tự nhiên, họ đã lo lắng cho sự cứu
rỗi của các thân nhân. Tự thâm tâm, họ đã ao ước là
những người thân thương đã ra đi, nhưng chưa có phúc
được nghe Tin Mừng cứu độ, nên chưa được lãnh bí tích
rửa tội, cũng phải được hưởng ơn cứu độ. Vì thế, họ đã
có sáng kiến là “Rửa tội thế cho kẻ đã chết” để người đã
khuất cũng được sống lại (1Cor.15:29a).
166
Thông tin này có tính cách tường thuật lịch sử hơn là
một tín lý. Thánh Phaolô đã không bàn luận nhiều, hay
tranh cãi về vấn đề mới này, và cũng chẳng có lời ngăn
cấm. Thánh nhân chỉ nhấn mạnh đến sự phục sinh của
tín hữu, mà lúc đó vẫn còn một số tín hữu đang còn hồ
nghi, là điều nồng cốt của đức tin Kitô giáo “Nếu kẻ chết
không phục sinh, thì Chúa Kitô cũng đã không phục sinh
(1Cor.15:16).” Vì thế, Thánh Phaolô đã đặt câu hỏi
nhắm vào sự phục sinh, mong mọi người suy nghĩ và
đưa ra cho ngài một câu trả lời: “Nếu tuyệt nhiên kẻ chết
không phục sinh, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa
thế cho kẻ đã chết? (1Cor.15: 29b)”.
Tín điều các thánh thông công dậy rằng: “Người chết”
là những người rơi vào tình trạng “Lực bất tòng tâm!
(Gv.9:10)” Họ không còn có thể làm gì, và nói gì cho ra
nhẽ; họ cũng chẳng có thể tạo công phúc nào hiệu qủa
cho mình nữa! vì chết là đi vào tình trạng bất lực bởi
“Mùa phúc đã hết, mùa tội phải đền!” Như vậy, chúng ta
mới thường phải cầu thay nguyện giúp cho những
người đã khuất: “Vì danh Chúa nhân từ! Chúng con cậy
vì danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được lên
chốn nghỉ ngơi!” Cùng với lời cầu thay nguyện giúp,
chúng ta có thể dâng lễ, hy sinh, chay tịnh với ý chỉ
“Cứu rỗi” các linh hồn, nhân danh lòng thương xót bao
la, và vô lượng của Chúa. Đây là truyền thống rất tuyệt
vời, mà giáo hội hằng khuyến khích và thúc giục chúng
ta thi hành để cứu người đã khuất: dù có danh hay ẩn
danh, và mau chóng đưa họ ra khỏi chốn luyện hình.
Còn linh hồn trong Hỏa ngục thì vĩnh viễn hƣ mất, như
Satan, con thú và ngôn sứ gỉa: “Ma qủi, tên mê hoặc
167
chúng, bị quăng vào hổ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con
Thú, và tên ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày
đêm đời đời kiếp kiếp (Kh.20:10).”
CHƢƠNG XIII
HÌNH THỨC
PHÓNG THÁNH LINH Trái ngược với truyền thống “Cầu thay nguyện giúp
(Rm.8:26 Thánh Linh; 1Cor.1:11 thế nhân)” của giáo
hội, Lm Gioan Minh đưa ra chủ thuyết mới là: “Phóng
Thánh Linh.” Lý thuyết dị giáo Khai Tâm Đạo cho
rằng: “Thiên lực của Cha, Con và Thánh Linh ban xuống
mạnh mẽ vô cùng, và đầy ứ. Thụ nhân lập tức muốn
chia san, thông ban toàn vẹn, và mạnh mẽ hơn vũ bão,
nhanh hơn tốc độ ánh sáng và đó là thiên tốc cho các cõi.
Phóng Thánh linh có tác động vô cùng, cảm hóa vô biên,
168
hiệu qủa tuyệt vời, và chỉ có toàn thắng! Vì không biết
có tiếng nào diễn tả rõ hơn cái hiệu qủa vô cùng này,
nên đành phải dùng từ: “Phóng! (Bài sống Thánh Linh: ý
nghĩa phóng Thánh Linh)".
Quyền phóng Thánh Linh, nói theo chân lý và rất chí lý,
là quyền của Chúa Cha và Chúa Con mà thôi: “Thầy
sẽ xin Cha Thầy, và Ngƣời sẽ ban cho anh em một
Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là
Thần Linh sự thật (Jn.14:14-17a).” Phàm phu tục tử
như chúng ta, chỉ có khả năng cầu xin quyền năng
Chúa Thánh Linh tác động và thánh hóa! Chứ đâu có
chuyện cuồng ngôn hay phạm thƣợng là “Phóng
Người” đến như Chúa Cha và Chúa Con.
Để chúng ta hiểu rõ hành vi sai đến, Chúa Giêsu đã làm
sáng tỏ hơn khi dậy: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần
Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dậy
anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em (Jn.14:26).” Vì tín điều
Thiên Chúa duy nhất, do Chúa Giêsu đã truyền dậy “Ta
với Cha Ta là một (Jn.10:30),” và “Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha (Jn.14: 9b).” Bởi vậy quyền ban Thánh Linh
đến, cũng là quyền của Chúa Con: “Khi Đấng Bảo Trợ
đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa
Cha, Người là Thần Linh sự thật phát xuất từ Chúa Cha,
Người sẽ làm chứng về Thầy (Jn.15: 26).”
Chúa Thánh Linh chỉ đến thực sự, khi Chúa Con đã hoàn
thành sứ mệnh, và đã về ngự bên hữu Chúa Cha: “Nếu
Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em
169
(Jn.16:7b).” Chúng ta vì vậy phải hiểu rõ vị thế của
mình, không hơn không kém là “Thợ đáng được nuôi ăn
(Mt.10:10).” Và để có đủ thợ, Chúa Giêsu yêu cầu
chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh
em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về (Mt.9:37-38).”
Và khi làm xong việc, chúng ta không được quyền hãnh
diện, trái lại phải biết phận mình và thân thưa: “Chúng
con chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm
bổn phận đấy thôi (Lk.17:10b).”
Lúc đối diện với thử thách, khổ đau và bắt bớ, Chúa
Giêsu đã căn dặn chúng ta trước: “Tôi tớ không lớn hơn
chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh
em (Jn.15:20).” Và đến khi sắp bỏ dương gian, Chúa
Giêsu đã nâng cấp các tông đồ: “Thầy không còn gọi
anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những
gì Thầy nghe được từ nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em
biết (Jn.15:15).”
Khi sai các tồng đồ và chúng ta đi loan báo Tin Mừng,
Chúa Giêsu ủy quyền khâm sai Nƣớc Trời cho chúng
ta, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Và Người “Thổi hơi (phóng)” vào các ông và bảo:
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Jn.20:21-22).”
Đẹp nhất và đúng nhất là lời Chúa Giêsu chỉ thị và đoan
hứa: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được qủi, sẽ nói được
những tiếng mới lạ… (Mk.16:17- 19)”. Đây là chân lý
và công thức hiệu nghiệm nhất, thần thánh nhất, vì “Nếu
170
anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì
chính Thầy sẽ làm điều đó (Jn.14:14).” Xin làm ơn
nhớ lời “Chính Thầy sẽ làm điều đó (Jn.14:14)”. Tuyệt
đối không là hành vi phóng Thánh Linh của ta! Mà
chúng ta cầu, và xin Chúa hoàn thành tâm nguyện của
chúng ta.
Như thế, cách phóng Thánh Linh, sản phẩm của dị giáo
Khai Tâm Đạo còn qúa vụng về, ấu trĩ, thiếu sót, bất
toàn và phi lí! Điển hình là người trộm lành: anh ta nhìn
vào Chúa Giêsu cũng đang đau khổ và bất lực trên thập
tự như anh. Nhưng tự thâm tâm, anh ta đã tin Chúa là
Đấng quyền phép và toàn năng. Vì thế chỉ có một câu:
“Giêsu Chúa ơi! Khi vào Nước Trời, xin nhớ đến tôi,”
ngay lập tức, tiếng Chúa vang vọng bảo đảm: “Hôm
nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với tôi! (Lk.42-43).”
Thật là tuyệt vời! Gấp cả tỉ lần kiểu thế nhân phóng
Thánh Linh mù khú và vô hiệu của dị giáo Khai Tâm
Đạo do Gioan Minh sang lập!
Mẹ Maria được đầy ơn phúc vì: “Thánh Thần sẽ ngự
xuống trên Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ
bao phủ trên Mẹ (Lk.1:35)” nhưng Mẹ đã chẳng bao giờ
dám phóng Thánh Linh cho ai. Trái lại, Mẹ vẫn khiêm
tốn: “Ngợi khen Thiên Chúa” và sâu thẳm nhận biết vị
thế của Mẹ là “Phận nữ tỳ hèn mọn (Lk.1: 46,48)”. Ai
được Chúa Cha và Thánh Linh ban ơn đầy ứ và mạnh
mẽ bằng Mẹ? Thế mà trong hành động, Mẹ đã chỉ âm
thần trao ban chính Ngôi Lời (Jn.1:1), cho Gioan Tẩy
Gỉa (Lk.1: 44) và Thiên Chúa làm người cho thế nhân
(Jn.1:14). Và Mẹ đã thân thương và tin tưởng cùng con
171
mình, dâng hiến lễ đầu tiên trên thập tự, là giá rất đắt để
cứu chuộc nhân linh (Jn.19:25-27; 1Cor.6:20; 7:23).
Ngôi Lời là Đấng Thiên Sai đã đến ban Lời toàn năng
(Jn.3: 34a), và Người được “Thiên Chúa ban Thần Linh
cho” đến mức “Vô ngần vô hạn (Jn.3:34b)”, nhưng
ngoại diện của Người vẫn hiền hòa là “Chiên Thiên
Chúa, Đấng gánh tội trần gian (Jn.1:29, 36).” Lời Người
yêu cầu chúng ta rất ư thanh thoát và hướng đến toàn
thiện là “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng (Mt.11:29a)”. Ai vui sướng đi theo
và chấp nhận Người thì “Tâm hồn sẽ được nghỉ ngơi bồi
duỡng (Mt.11: 29b).” Trong thực hành, Chúa Giêsu luôn
đặt Thiên ý lên bậc ưu tiên vì: “Lương thực của Thầy là
thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công
trình của Người (Jn.4:34).” Và chung cuộc đời Chúa
Giêsu là những giờ phút nhục nhã, đau thương, và khốn
khổ đến như thất bại hoàn toàn: “Cha ơi, sao Cha bỏ
con? (Mk.15:34)” Nhờ ngoại diện đã như thất bại, Chúa
Giêsu đã hạnh phúc reo vui: “Ta kéo mọi người lên
(Jn.12:32).”
Chúa Giêsu chính hình ảnh bất diệt, và quan trọng,
nhưng khi làm người lại rất tầm thường và đơn thành
như hạt lúa gieo vào lòng đất: “Nếu chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác (Jn.12: 24b).” Chúa Giêsu không
dậy chúng ta phóng Thánh Linh bằng những hành vi phô
trương, tìm danh, tìm lợi và tìm mình, như của Lm
Gioan Minh (1Tm.6:5b). Song Chúa dậy chúng ta cách
thoát tục vì “Anh em đã lãnh nhận như không, thì cũng
phải cho như không như thế (Mt.10:8b).”
172
Hơn thế, Chúa Giêsu còn ân cần, và nhẹ nhàng nhắc nhở
chúng ta ghi lòng tạc dạ một sự thực rất phũ phàng và
đau thương: “Tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt
bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em (Jn. 15: 20a).” Và
lời mời mọc diệu huyền, và khác thương nhất, không
phải là: “Danh cao chức trọng” và “Muốn gì được nấy!”
Nhưng là “Hãy vác thập gía mà theo Thầy! (Mt.16:24)”.
Và cho đến muôn đời vác thập gía theo Thầy vẫn là một
chân lý!
CÁC PHƢƠNG THỨC PHÓNG THÁNH LINH
CỦA DI GIÁO KHAI TÂM ĐẠO
Khác với đường lối “Âm thắng dương (Jn.12:31)” hay
“Nhu thắng cương (Mt.5:1-3-12)” của Thiên Chúa đã
được Thánh Kinh trình thuật rất thâm sâu, mĩ miều và có
gía trị thiên niên vạn đại. Lm Gioan Minh lại hùng hổ,
hung hăng con bọ xít, và năng nổ giới thiệu dị giáo Khai
Tâm Đạo, bằng hình thức “Nhiều lời nghèo ý”. Lời
phàm nhân, làm sao sánh được với Thiên ngôn của Chúa
Giêsu! Trên thì Lm Gioan Minh bất tuân! Dưới thì Lm
Gioan Minh lợi dụng! Bất đồng thì Lm Gioan Minh trù
dập và hăm dọa bằng bùa chú và phù phép! Và cái nền
móng Lm Gioan đang xây trên, không là nền móng đã
đặt sẵn là Chúa Giêsu Kitô (1Cor.3: 11).
Lý do vì Lm Gioan Minh đang chơi trò “Bắt cá hai
tay!” Một đàng tin nhận Chúa, đàng khác thì “Đồng
thanh đồng khí” nghĩa là khấn cầu với “Các Đấng Đông
Phương” và “Cùng tần số” với cõi âm hồn. Một đàng thì
173
dậy: “Tất cả đều phải nhờ hội thánh hiện thế do Đức
Kitô thiết lập và ủy quyền” đàng khác lại hình thành dị
giáo Khai Tâm Đạo với những niềm tin, lý thuyết, và
thực hành phản lại giáo hội. Khi gặp trắc trở và bị bài
bác vì sự lập dị khùng điên, thì oai oái kêu than là bị
“Khổ nạn!” (Tài liệu số 1, trang 101)
Theo dị giáo Khai Tâm Đạo của Lm Gioan Minh thì các
thành viên Khai Tâm Đạo, sau khi đạt đến mức thượng
thừa, nghĩa là tâm ta đã nhận thiên lực của Cha và Con,
sẽ có quyền phóng Thánh Linh đến vô biên, để xua
trừ tà thần, tà lực, tà ám, cho linh hồn người chết, người
chưa biết Chúa, để rửa tội cho họ, và phóng cả vào cõi
“Càn khôn vũ trụ, nhân loại và giáo hội (Trang 101, tài
liệu số 1).” Thật là phi lý và phản lại sự giới hạn là cát
bụi và thấp hèn của phận thế nhân là tội lỗi ngút trời!
Thậm chí Khai Tâm Đạo Nhân có quyền phóng Thánh
Linh cho cả “Đức Mẹ, và Thánh Giuse” mà không
biết để làm gì! (Tài liệu số 2, trang 21). Bộ để rửa tội
cho Đức Mẹ và Thánh Giuse hay sao? Rồi trong lời
nguyện thực tập nghiệm, lại khiêm tốn van xin: “Với sự
hiệp thông bầu cử của Đức Mẹ, nghĩa là Đức mẹ cao
cả và vinh hiển. Qủa là một mâu thuẫn nội tại, và phí
lý, của những người hoang tưởng và thiếu trình độ,
không còn biết mình nói gì! Phóng Thánh Linh theo
Khai Tâm Đạo là lợi khí để chinh phục càn khôn vũ trụ
và thế nhân (Kh.13:13-14). Thật là ngoa ngôn! Vì làm
sao thế nhân có thề chinh phục càn khôn! Và mục đích
cuộc chinh phục càn khôn, đề làm gì?
174
Riêng về phép rửa cho sinh linh các cõi, xin mời qúi vị
bỏ ít phút hành trình vào cõi “Ngàn lẻ một đêm” với dị
giáo Khai Tâm Đạo. Theo thế nhân Gioan Minh, thì có
5 phép rửa:
Phép rửa thứ nhất: là phóng Thánh Linh rửa tội cho
người đã chết. Không cần biết là họ tin hay không tin!
Đồng thuận hay chối từ. Điển hình là trong cuốn băng
số 3, tài liệu 3, ghi âm lời Lm Gioan Minh giảng mùa
chay năm 2000: “Trong trận nội chiến ở Urganda năm
1990 giữa hai sắc tộc Toussi và Boutu, tôi (Gioan Minh)
đã rửa tội được 40,000 linh hồn người Hồi Giáo. Tôi
cũng đã rửa tội cho các linh hồn Hồi Giáo, đã qua đời
trong trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ.” Từ Việt Nam, Lm
Gioan Minh đã phóng Thánh Linh rửa tội cho các hồn
tại Organda! Chuyện mơ tưởng như Aladin và chiếc
thảm thần!
Chúa Giêsu đã không dậy như thế, nhưng Chúa muốn
thụ nhân phải đồng thuận và tự nguyện sau khi đã tin
yêu và sám hối vì: “Không ai có thể có thể vào Nước
Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần Linh
(Jn.3:5)”. Gỉa dụ thuyết “Phóng Thánh Linh” là chân lý
và phương thế vô cùng hiệu nghiệm, thì Chúa Giêsu, từ
trời cao, đã phóng Thánh Linh, và tất cả thế nhân và thụ
tạo các cõi đều đã được cứu rỗi. Chúa Giêsu, như thế,
đâu cần phải xuống trần gian (Jn.1:14), sống phận người
như một thế nhân tầm thương, chết đau thương
(Mt.27:50), lập giáo hội và sai thế nhân nhập cuộc đi rao
giảng Tin Mừng (Mk.16:15-16; Mt.28: 19).
175
Phép rửa thứ hai: Sau khi các linh hồn đã được Khai
Tâm Đạo rửa tội cho, thì những linh hồn này cũng có
khả năng phóng Thánh Linh rửa tội cho các linh hồn các
cõi ở mọi nơi. Ai sẽ là người kiểm chứng cho lời nói
hoang tưởng và mơ hồ này? Trong cuốn băng số 5, tài
liệu số 3, Lm Gioan cho hay: “Vào năm 2000, các giới
linh đã được dị giáo Khai tâm Đạo phóng Thánh Linh
rửa tội cho đã về cả rồi, và con số lên đến hàng tỉ linh
hồn.” Chuyện “Ngàn lẻ một đêm!” Và ngoài dự đoán
của chính Thiên Chúa! Bởi vậy Chúa Giêsu không bao
giờ đề cập tới!
Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Lời, quyền năng tuyệt
đối, là Đấng mà không có Người, thì không có gì được
tạo thành (Jn.1:3; Dt.1:2-3), đã không làm chuyện động
trời này! Vậy Chúa Giêsu qủa đã thua Lm Gioan Minh,
tuy là “Một người tội lỗi, bất toàn và hèn yếu (Lời minh
định)” nhưng đã tuyệt vời hơn Chúa Giêsu ở điểm
“Phóng Thánh Linh” vào cõi “Càn Khôn” tới “Đức Mẹ,
Thánh Cả Giuse”. Đây có phải là hành vi
“Cóp nhặt” tâm tình ngông cuồng và ngạo mạn của Lu-
cifer trong sấm ngốn Isaiah 14:3-5 không?
Phép rửa tội thứ ba: Các linh hồn sau khi được Khai
Tâm Đạo rửa tội cho, không những có khả năng phóng
Thánh Linh rửa tội cho các linh hồn khắp các cõi khắp
thế giới (phép rửa thứ hai), mà còn có thể rửa tội hay
giác ngộ cho các linh hồn hiện đang sống trên dương
gian. Điển hình là trong băng số 5, tài liệu số 3, Lm
Gioan Minh cả quyết là đã phóng Thánh Linh rửa tội và
đặt tên thánh cho những nhân vật nổi danh một thời như:
176
+ Gioan Phật Thích Ca.
+ Phaolô Trần Hưng Đạo.
+ Vicentê Quan Công Vân Trường.
Trong cuốn băng số 7, tài liệu số 3, Lm Gioan Minh qủa
quyết là Khai Tâm Đạo đã phóng Thánh Linh rửa tội cho
500 triệu linh hồn, và tất cả con số này đã về tham dự, và
nghe Lm Gioan Minh giảng phòng! Thật là hoang
tưởng! vì “Trong cõi âm ty … không còn hoạt động,
không còn tính toán, chẳng còn hiểu biết, chẳng còn
không ngoan (Gv.9:10).”
Đúng là cảnh: “Nhân” đã thành “Thiên Chúa!” Như vậy
là thế nhân Gioan Minh đã làm một việc: “Vô tiền
khoáng hậu!” mà theo lý thì chỉ “Duy Thiên Chúa” mới
có thể hành động như thế! Song vì những điều qúa
hoang tưởng, phi lý đến ngu xuẩn, và đi ngược với bản
tính Chúa là Chân lý, nên Chúa sẽ chẳng bao giờ hành
động vô lý như thế nhân nghĩ tưởng và hy vọng!
Ba phép rửa trên được ghi trong thủ bản Khai Tâm Đạo,
tài liệu số 1, trang 103, xin trích ra như sau: “Và các vị
tiếp tục cùng với giáo hội trần gian, phóng Thánh Linh
cho các đẳng linh, thuộc các cõi trời, khắp cả nhân loại.
Đồng thời cũng phóng Thánh Linh đặc biệt cho các đệ
tử đồng đạo, thuộc cõi linh, cũng như cõi trần, để
Thánh Linh mang theo mình và máu Đức Kitô vinh
quang, xâm nhập vào tâm thần vô hình cũng như hữu
hình, hầu biến đổi các tế bào, đổi mới tâm tư, làm rung
177
nhịp thiên khí, làm sáng ra theo ánh thiên quang, và hân
hoan sung sướng tìm về đại đạo.”
Qúi vị, đọc tới đây, nghĩ sao về Lm Gioan Minh? Thế
nhân Gioan Minh có còn là Lm chính chuyên của giáo
hội công giáo hay đã lạc đạo? Tâm trí của thế nhân
Gioan Minh bình thường hay đã lạc trí do qúa hoang
tưởng, và do hiệu qủa của: “Tẩu hỏa nhập ma?” Lời dậy
của thế nhân Gioan Minh đã không có nguồn gốc và
chẳng xuất phát từ giáo hội công giáo! vậy những tư
tưởng huyền hoặc và hoang tưởng này đến từ chân trời
nào?
Phép rửa thứ tƣ: Khai Tâm Đạo nhân đang hiện diện
trên dương trần, có quyền năng phóng Thánh Linh rửa
tội cho người đang sống. Như vậy, các linh mục sẽ nhàn
hạ, và không còn phải ban bí tích rửa tội cho ai nữa sao?
Khai Tâm Đạo nhân đã phóng Thánh Linh rửa tội xong
rồi. Thật là phi lý khi “Phàm phu tục tử của Khai Tâm
Đạo” có “Quyền lực vô biên,” và hết thảy đã trở thành
cao siêu và tuyệt vời hơn cả Chúa Thánh Linh!
Trong thủ bản KTD tài liệu số 1, trang 104, Lm Gioan
Minh viết: “Phóng Thánh Linh truyền giáo cho nhân thế
thuộc mọi thành phần, tôn giáo, ý thức hệ. Với giới
Linh, lúc sinh thời có: “Đức cao danh trọng” thì hiệu
qủa rất cấp thời và kỳ diệu. Nhưng với các linh hồn cấp
thấp, sống bê bối, độc ác thì hiệu qủa chậm chạp, cần
nhiều thời gian hơn, và cần nhiều hy sinh và lời cầu hơn.
Với những kẻ thù nghịch, bệnh tật và đau khổ, nếu kèm
theo hy sinh thì việc phóng Thánh Linh sẽ đạt kỷ lục.
178
Nhưng nếu so với giới linh thì chậm hơn nhiều do điều
kiện khác nhau về: bản thân, gia đình, môi trường, thời
gian học tập. Nói chung thì phóng Thánh Linh với
những hy sinh là phương thế truyền giáo tối hảo, phi
thương, tuyệt vời, nhanh nhất, chỉ thành công chứ không
thất bại.”
Phương thế phóng Thánh Linh toàn hảo và tuyệt vời,
đem lại hiệu qủa kỷ lục, cấp thời và kỳ diệu như thế này,
sao Thiên Chúa không nghĩ đến và chẳng bao giờ thực
hiện! Song cứ phải sai ngôn sứ, tông đồ, và Kitô hữu
đích thân ra đi loan báo, thì bao giờ mới hoàn thành!
Trong tập tài liệu số 2, trang 22-23, Lm Gioan Minh viết
về cách cầu nguyện phóng Thánh Linh cho linh hồn
các cõi như sau: “Xin Cha, nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
ban Thánh Linh tràn đầy xuống (hai bàn tay từ trên cao
phóng xuống vai phía sau) sinh linh các cõi trời thọ tạo,
các hàng dũng lực thần thiêng, các bậc quyền năng
thượng giới: Phật, Tiên, Thánh, chính thống, tin lành, ấn
giáo, Do Tháo giáo, Anh Giáo, Hồi giáo, Thần giáo, Cao
Đài, Hòa Hảo … các cõi da vàng, đỏ, trắng, đen …các
cõi thanh luyện (luyện ngục), âm phủ, các cõi quyền
năng hắc ám không trung, (cõi Luciphe: Satan.)
“Xin Thánh Linh tình yêu thiên lực, mang mình máu
Chúa Giêsu Kitô phục sinh tinh tuyền thánh hảo chúc
phúc, (hai bàn tay làm dấu + chúc lành phia sau trên hai
vai) thâm nhập vào chủ vị, làm sang lên ánh sang thiên
quang, tình yêu Agapê, rung theo nhịp thiên khí, biết tin
179
yêu Chúa Kitô, được làm con Cha, được sống bằng
Thánh Thần tình yêu vô biên.”
Với ai còn trong cõi âm khí nặng nề, ác độc thống trị
(Cõi hỏa ngục.)
Xin tình yêu sự sống, sự sáng, chân lý của Thánh Linh
tình yêu thiên lực và mình máu của Chúa Con hằng
sống thâm nhập vào cơ thể đề biến đổi chủ vị, từ tối sang
sáng, từ tội sang phúc, từ ghét sang yêu, vì gốc xưa của
chủ vị vốn là bậc tôn qúi thiêng liêng của Cha Tạo Hóa
tình yêu, ngài luôn mong chờ con lạc trở về.”
Với lời cầu nguyện này, dị giáo Khai Tâm Đạo tin: một
là các hồn đã vào cõi hỏa ngục sẽ được giải thoát, nghĩa
là có ngày ra khỏi, và lên Trời, rồi lại “Phóng Thánh
Linh để lôi qủi ra khỏi hỏa ngục”; và hai là “Người có
đức lớn, có thể phóng Thánh Linh cứu được các linh hồn
trong hỏa ngục (Băng số 2, tài liệu số 3).” Niềm tin quái
gỡ này, giáo hội công giáo không bao giờ dậy con cái!
Vì ý thức rỏ phận mình theo cảm nghiệm bản thân và tin
vào Lời Chúa: “Không một ai công chính, dẫu một
người cũng không (Gv.7:20; Rm.3:10).”
Tin như dị giáo Khai Tâm Đạo của thế nhân Gioan Minh
là lạc đạo! vì Thánh Gioan Tông đồ đã trình thuật: “Ma
qủi, tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hổ lửa và diêm
sinh, ở đó đã có Con Thú, và tên ngôn sứ giả; và chúng
sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp (Kh.20:10).”
Chính Chúa Giêsu cũng đã minh định chân lý hỏa ngục
đời đời, trong dụ ngôn ngày chung thẩm: “Quân bị
180
nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Qủi, và các sứ thần của nó
(Mt.25:41) và chịu cực hình muôn kiếp (Mt.25: 46a).”
Thế mà thế nhân Gioan Minh trong băng ghi âm số 12,
tài liệu số 3, lại chủ trương phản ngược với Chúa, biến
thành rối đạo: “Riêng với kẻ dữ bị đầy vào hỏa ngục
cùng với Satan cho hết ngàn năm (Lấy ý từ Kh 20:1-6).
Trong ngàn năm này, linh hồn các ác nhân, và Satan bị
khổ, mới suy phục Đức Giêsu Kitô, rồi cũng được vào
cõi phúc”
Thánh Gioan khi trình thuật đoạn này đã không nói như
thế, trái lại thánh nhân đã trình thuật trái ngược với lời
của thế nhân Gioan Minh: “Hết một ngàn năm ấy, Satan
Satan sẽ được thả ra khỏi ngục. Nó sẽ ra đi mê hoặc các
nuớc ở khắp bốn phương thiên hạ là Gốc và Magốc, và
tập họp chúng lại để giao chiến. Chúng tiến lên lan tràn
khắp mặt đất, bao vây doanh trại dân thánh, và thành đô
được Thiên Chúa yêu chuộng. Nhưng có lửa từ trời rơi
xuống thiêu hủy chúng! Ma qủi, tên mê hoặc chúng, bị
quăng vào hồ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú, và
tên ngôn sứ gỉả; Và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời
đời kiếp kiếp (Kh.20:7-10).” Hình ảnh này cho thấy,
hôm nay và lúc này Satan đang sai bè lũ đi hủ hóa và mê
hoặc thế nhân!
Vì đã tham dự khóa căn bản của dị giáo Khai tâm Đạo
tháng 6- 7 năm 2010, nên những người đầu tầu dị giáo
Khai tâm Đạo tại Sacramento đã yêu cầu nhóm Thánh
Linh Canh Tân Đặc Sủng “Đừng đọc kinh xua trừ qủi”
181
của Đức Cố Giáo Hoàng Lêo XIII, vì họ tin là bây giờ,
thời đại văn minh “Làm gì có qủi!” bởi vì dị giáo Khai
Tâm Đạo đã phóng Thánh Linh, giải phóng hết qủi ra
khỏi hỏa ngục rồi! Với niềm tin huyền hoặc và sai lầm
này: “Satan rất yêu và ôm hôn” tác gỉa dị giáo Khai
Tâm Đạo và những kẻ tin theo lý thuyết trên.
Những người này đã về Sacramento và vô duyên đến rồi
mù quáng đi truyền rao một chân trời mới, nghịch với
giáo lý truyền thống của giáo hội, và của Chúa là:
“Không có qủi!” Nhờ đó Satan và bè lũ tha hồ lộng
hành, thoải mái đi mê hoặc thế nhân (Kh.13:13), và tự
do công phá thế gian hơn. Điều đáng sợ là Satan đội lốt
chính họ, và dùng môi miệng họ đi hoàn tất chương
trình mê hoặc thế nhân! Khiếp sợ thay!
Lm Gioan Minh đã đọc cuốn ngụy thư “Khải thị Thánh
Phêrô”, nên đã “Đạo: tức là ăn cắp” tư tưởng của tác gỉa
ngụy thư, kẻ chủ truơng là “Ngƣời có đức lớn phóng
Thánh Linh có thể cứu đuợc các linh hồn trong hỏa
ngục, bao gồm cả Satan và các ác thần.” Giáo hội
không chấp nhận ngụy thư, vì lạc đạo! Lm Gioan Minh
tiên đoán là sẽ có ngày giáo hội phải công nhận tư
tưởng trên. Nên Lm Gioan Minh đã tình nguyện đi tiên
phong! Và khai sinh ra nó với một lý luận ngây thơ, ấu
trĩ và đối nghịch với tín lý giáo hội: “Án phạt gì thì án
cũng đều phải có thời hạn. Lỡ phạm tội để bị phạt
đời đời, Thiên Chúa nhƣ thế đâu còn phải là Chúa
của tình yêu nữa!” Có tư tưởng này vì Gioan Minh đã
sao y bản chánh tin tưởng của phái Zoroastrianism, Ba
Tư!
182
Vậy thì theo dị giáo Khai Tâm Đạo, thế nhân cứ tự do và
tha hồ phạm tội cho thật nhiều, thật lớn, thật sâu, và thật
vĩ đại mà chẳng lo sợ gì, bởi sớm muộn gì các linh hồn
trong hỏa ngục cũng sẽ được xuất trại! Vậy Chúa Giêsu,
Thiên Ngôn của Chúa Cha đã sai lầm khi dậy là có “cực
hình muôn kiếp (Mt.25: 46a)” dành cho Satan và những
kẻ theo nó (Kh.20:10) hay sao?
Nếu ai có khả năng nói “Như một con Mãng Xà!
(Kh.13:11)” họa chăng mới có thể “Cò cưa và cuồng
ngôn phạm thượng là Chúa Giêsu đã sai, khi dậy là có
chốn “cực hình muôn kiếp (Mt.25: 46a)” dành cho Sa-
tan và những kẻ theo nó (Kh.20:10). Giáo chủ Gioan
Minh đã dùng niềm tin của Zoroastianism: “Có thể
cứu đuợc các linh hồn trong hỏa ngục, bao gồm cả
Satan và các ác thần” mà khởi sinh giáo lý của dị giáo
Khai Tâm Đạo và kiêu hãnh như của mình chính tạo ra.
Thật là ngụy tín! Lạc đạo! và phế bỏ Lời Chúa. Đọc
đến đây qúi vị nghĩ sao về Gioan Minh với những lập dị
và trái nghịch như thế!
Chỉ có tên “Phản Kitô (1Jn. 2:18-19)” mới dám ngông
cuồng là sửa chân lý của sư phụ mình! Mà kẻ “Phản
Kitô” không ở đâu xa, “Nó ở trong hàng ngũ chúng
ta,” mà không “Đồng thanh đồng khí” với chúng ta.
Trái lại nó có “Cùng tân số” với thế lực chống đối Thiên
Chúa, Cha chúng ta, đang gây rối loạn và tán công dân
thánh (Kh.20:7-9)!
183
Phép rửa thứ năm: Rửa tội thế cho người đã khuất
(1Cor.15:29). Phép rửa này không phải là linh đạo thực
hành của giáo hội, và chính Lm Gioan Minh cũng chưa
bao giờ công khai đề cập tới nó. Nhưng có vài thành
phần dị giáo Khai Tâm Đạo quá khích, vì thiếu trình độ,
đọc mà không hiểu ý nghĩa và chủ tâm của Thánh
Phaolô khi viết: “Nếu tuyệt nhiên kẻ chết không phục
sinh, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ đã
chết? (1Cor.15: 29b)” nên đã ngoan cố tin là có phép rửa
thứ 5: “Rửa tội thế cho ngƣời đã khuất! (1Cor.
15:29a)”.
Kinh Thánh còn đó, như là “Sợi chỉ đỏ xuyến suốt” phú
túc của đức tin Kitô giáo! Nhưng nhiều người đã hiểu
Thánh Kinh theo tham-sân-si của mình, nên đã cố tình
bóp méo Lời Chúa, và giảng dậy sai lầm để biện minh
cho sự ngoan cố, hoang tưởng và cuồng tín của mình.
Tệ hơn là họ còn gián tiếp cho là chân lý tích tụ trong
Thánh Kinh chưa đủ, nghĩa là Chúa mặc khải còn thiếu!
Nên Gioan Minh đã phải cóp nhặt, hay hình thành
những tà thuyết mới lạ, và tôn vinh chúng như Tân
Thánh Kinh của dị giáo Khai Tâm Đạo.
Họ đã không biết, hay cố tình quên lời Thánh Phêrô
nhắn nhủ: “Anh em phải biết điều này: không ai được tự
tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong sách thánh” Lý
do vì “Lời Ngôn Sứ không bao giờ lại do ý muốn người
phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có
những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa (2Pet.1:
20-21).” Hay như Thánh Gioan Tông Đồ khi kết thức
sách Khải huyền đã viết: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì
Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai uơng mô tả
184
trong sách này! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sách
sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được
hưởng nơi cây Sự Sống và Thánh Thánh, là cây và thành
mô tả trong sách này (Kh.22: 18-19).”
Tôi đã cố gắng trình bầy, lý giải, và minh định rõ lập
trường “Rửa tội cho người chết” bằng Lời của Thiên
Chúa Hằng Sống! chương thứ mười hai, trang 192-
203. Tin hay không, tùy qúi vị!
CHƢƠNG XIV
GIÁO CHỦ SẤM NGÔN
Sấm ngôn là những lời tiên báo về những diễn biến hay
hình phạt tương lai. Sấm ngôn đem lại một hy vọng, và
thôi thúc lòng sám hối. Lời sấm ngôn chính thức không
phải là tư tưởng cá nhân của một ngôn sứ, vì ngôn sứ có
biết gì đâu, mà đưa ra lời sấm! Nhưng là sứ điệp Thiên
Chúa trao ban cho sứ ngôn để dậy dỗ, khuyến giục và
răn đe dân chúng (Xh.4:12). Thiên Chúa đã truyền đạt
185
sứ điệp cho ngôn sứ qua những hình thức khác nhau: thị
kiến, xuất thần, diện đối diện hay qua giấc mơ (Ds. 12:6-
8). Tiếp theo, Thiên Chúa tác động, thôi thúc đến ép
buộc tuyển nhân, phải nói lời, hay sứ điệp Thiên Chúa
đã trao ban.
Môisen đã nhận sứ điệp làm: “Lãnh tụ (Xh.3:10)” đưa
dân Chúa về đất hứa, dù chính ông lưỡng lự (Xh.3: 11),
thiếu quyết đoán (Xh.4:10-17) và chẳng muốn làm (Xh.
5:22-23). Môisen vâng lệnh Chúa dẫn dân đi, nhưng
chính Chúa là Tƣ Lệnh điều hành và sắp xếp mọi sự
(Xh,14:15-31;17: 4-6; 23:20-33). Và trong thế giới hôm
nay, Chúa vẫn đang hiện diện qua lịch sử đề điều hành
toàn cõi nhân gian và vũ trụ. Không sự gì xảy ra mà
Thiên Chúa không tường!
Isaiah đã sợ hãi khi nhận ra Thiên Chúa Vinh quang
(Is.6: 3) , nhưng vì biết mình bất toàn nên mặc cảm: vì
thấy rõ môi miệng ông dơ bẩn (Is.6:4). Thiên Chúa đã
dùng hòn than hồng thanh tẩy miệng ông, và ngay sau đó
ông vui mừng tự nguyện ra đi làm ngôn sứ: “Này con
đây, xin sai con đi! (Is.6:6-8). Nhưng sứ mệnh của ông
thật khắt khe và bất hạnh, “ Hãy đi nói với dân này rằng:
cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ,
nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần
độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy,
tai nó nghe, và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa
lành (Is.6:10).”
Jeremiah đã sợ hãi khi nhận ra tiếng Chúa, “Ta đặt
ngươi làm ngôn sứ các chư dân (Jer.1: 5)” “Con còn
186
nhỏ lắm, con không biết nói! (Jer.1:6)”. Chúa đã phải
bảo đảm: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu,
người cứ đi; Ta truyền vho ngươi nói gì, ngươi cứ nói!
(Jer.1:7)” Và sứ mệnh Thiên Chúa dành cho Jeremiah
là một tổng hợp liên tục của một cuộc sống khó khăn và
vất vả: “Để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để
trồng (Jer.1:10).” Sáu trạng thái đè nặng tâm hồn và thể
xác ngôn sứ Jereniah.
Hosea đã là một ngôn sứ có sứ mệnh lạ lùng nhất! Sứ
mệnh được hình thành và kết thúc bằng chính đời nhân
chứng của Hosea: yêu thương và thứ tha. Qua Hosea,
Thiên Chúa đã mặc khải cho dân Người thấy: “Chúa là
Thiên Chúa của yêu thương và tha thứ (Hos.3:1).”
Thiên Chúa lệnh cho Hosea lập gia đình với một cô gái
điếm, để sinh ra những đứa con điếm đáng và bất trung
(Hos 1:2; 3-9). Khi Gomê bỏ ông và đi ngoại tình, sống
với tình nhân, Chúa đã ra lệnh cho Hosea đi chuộc bà về
(Hos. 3:1-3).
Các đứa con được Chúa đổi tên từ “Không phải dân Ta”
thành “Con Thiên Chúa hằng sống”; từ “Không được
thương: Lo Rukhama” thành “Được thương: Rukhama”;
Từ không phải dân Ta: Lo Ammi” thanh “Dân Ta: am-
mi”
Với bốn hình ảnh và bốn sứ mệnh khác nhau của bốn
ngôn sứ, chúng ta thấy, Thiên Chúa không ngừng yêu
thương thế nhân, và sẵn sang tha thứ, mỗi khi các con
trở về (Mk.1:15).
187
Thường thì các ngôn sứ hết sức thành tâm và lo hoàn
thành sứ mệnh Thiên Chúa trao ban. Nói chung thì ngôn
sứ là „Người canh gác” và “Thay Ta báo cho chúng biết
(Ez.33:7).” Nếu ngôn sứ sợ không dám nói thì “Kẻ gian
ác phải chết vì tội nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu
nó (Ez.33:8b).” Nếu ngôn sứ đã nói mà nó “Không thay
đổi, thì nó chết vì tội, còn người sẽ cứu mạng sống mình
(Ez.33: 9b).”
Như vậy có hai hạng ngôn sứ: tốt và xấu, thánh thiện và
bất nhân, vô tư và lợi dụng. Thiên Chúa đưa ra hai tiêu
chuẩn để chúng ta, cứ thế, nhận diện ra tác phong thánh
thiện hay hủ hóa của mỗi loại ngôn sứ. Ngôn sứ tốt sẽ
thông báo sứ điệp của Thiên Chúa cho dân Chúa để họ
trở về vì “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết,
nhưng vui khi nó thay đổi và được sống (Ez.33: 11)”!
Còn ngôn sứ gỉa: “Nói lời hão huyền, thị kiến dối trá, sẽ
bị Thiên Chúa trừng phạt (Ez.13: 6, 8).” Lý do vì
“Miệng chúng phỉnh phờ, lòng chúng ham lợi
(Ez.33:31b: tìm danh và hám lợi).”
SẤM NGÔN CỦA LM GIOAN MINH.
1.Ngày 29-6-1994: Căn cứ vào “Sổ ghi chép” của một
thành viên dị giáo Khai Tâm Đạo ghi, thế nhân Gioan
Minh đã sấm ngôn: “Năm 1997, Khai Tâm Đạo sẽ đi vào
khổ nạn, nghĩa là bị bắt bớ. Đức Giáo Hoàng sẽ sang
Việt Nam tị nạn, và công nhận Khai Tâm Đạo. Những ai
đã chỉ trích, và chống đối Khai Tâm Đạo sẽ phải hối hận
188
đau thương” Thời gian đã qua, mọi sự bình thường
chẳng thấy một lời sấm ngôn nào đã xảy ra!
Điều quan trọng chúng ta nhận diện ở đây là, sấm ngôn
của thế nhân Gioan Minh chỉ nhằm củng cố Khai Tâm
Đạo, còn sấm ngôn của các ngôn sứ do Thiên Chúa
chính thức sai đi luôn kêu gọi: “Trở về, canh tân, và hòa
giải với Thiên Chúa.”
2.Ngày 16-2-1995, cũng cuốn sổ ghi chép đó tiết lộ lời
thế nhân Gioan Minh tiên đoán: “Năm 1995, Khai Tâm
Đạo đi vào khổ nạn: bị lên án. Năm 1997 Đức Giaó
Hoàng sang Viêt Nam tị nạn. Khai Tâm Đạo sẽ được
ĐGH công khai chuẩn nhận! Ai kết án Khai Tâm Đạo sẽ
phải hối hận.”
Năm 1997 đã qua, và khi viết tập sách này là năm 2012,
lời của thế nhân Gioan Minh sấm ngôn đã bay vào
không gian! Không một hiệu qủa! Và chẳng ai có thể
ngờ là lời ghi chép vô tình của một thành viên, bây giờ
lại là chứng cớ hùng hồn tự tố cáo là thế nhân Gioan
Minh đã sấm ngôn bừa bãi! và dị giáo Khai Tâm Đạo
nếu có phải khổ là do chính Thế nhân Gioan Minh tạo
ra. Nếu “sống Lời Chúa” thì Thánh Kinh là Lời Chúa,
phải là: Thủ bản, là linh đạo, là “Sợi chỉ xuyên suốt” của
mọi sinh hoạt. Trái lại lời của Gioan Minh hoàn toàn
bịa đặt, hƣ cấu và hoang tƣởng, nếu không thì là lời
của một người lạc trí!
3.Trong tài liệu mang mẫu tự E, trang 4, và trong các
DVDs, thế nhân hãnh diện sấm ngôn về tương lai hiển
189
thắng của dị giáo Khai Tâm Đạo: “Chúng ta hãy ghi nhớ
rõ lời dậy hôm nay: Rồi đây một người Viêt Nam sẽ có
hàng chục người đạo đức ở khắp thế giới đến xin theo và
học đạo! Rồi đây một trẻ nhỏ Việt Nam sẽ nhận hàng
chục bác học từ khắp nơi, đến xin làm đệ tử!” Và chỉ
tay vào các thành viên Khai Tâm Đạo, thế nhân Gioan
Minh nói: “Người Viêt Nam ấy chính là mỗi thành viên
Khai Tâm Đạo chúng ta đây! Em bé Viêt Nam ấy, chính
là con cháu của chúng ta đây! Mỗi người, vì thế, hãy tự
vấn lương tâm, và quyết sống Khai Tâm, làm sao cho đạt
đích như ý Chúa, và các Đấng muốn!” Đây là lời giáo
chủ Gioan Minh ủy quyền và sai các thành viên dị giáo
Khai Tâm Đạo ra đi và tiếp tục truyền rao dị giáo!
Như thế sấm ngôn của thế nhân Gioan Minh, chỉ nhắm
đến vấn đề nội bộ, và phát triển dị giáo Khai Tâm Đạo
chứ không liên quan gì đến thế giới đại đồng, giáo hội
hoàn vũ, và đang tạo xáo trộn cho giáo hội địa phương!
Như thế Gioan Minh là ngôn sứ thật, hay ngôn sứ gỉa,
thưa qúi vị?
4.Ngày 27-7-1994, đệ tử của đạo nhân Gioan Minh ghi
lời sấm ngôn: “Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với tôi (cha
Minh) và yêu cầu truyền đạt tới mọi người: Sẽ có 635
người đến tu tại Hồ Cốc, Bình Châu, Bà rịa.” Có ai
chứng kiến! chào đón! Họ là những thành phần nào và
ở đâu tới? Thế nhân hay các hồn?
Không hiểu các đệ tử Khai Tâm Đạo nghe riết những
sàm ngôn của đạo nhân Gioan Minh, có chán ngán và
hồ nghi không? Vì cảm nghiệm thì hoang tưởng, lý
190
thuyết thì hư cấu và cóp nhặt, hiện tại thì tạo rắc rối cho
giáo hội địa phương, phương pháp thì ma quái, tương lai
là uớc mơ hão huyền (Grandiose). Bởi vậy thế nhân
Gioan Minh đã công khai gọi cái tổ chức mà ông đã dầy
công sinh thành là “Đạo”: một tổ chức “Ăn cướp” tín
hữu, và đang lên chương trình xây cất một trung tâm
Khai Tâm Đạo tại Hồ Cốc, Bình Châu, Bà Rịa. Với ước
vọng là sẽ biến nơi này thành: “Nhà nguyện toàn cầu!”
do dị giáo Khai Tâm Đạo điều hành.
Nhưng đạo nhân Gioan Minh đã không có can đảm tự
tách khỏi lòng giáo hội Công giáo. Vì giáo chủ Gioan
Minh biết là không có giáo hội công giáo như cái dù bao
che, dị giáo Khai Tâm Đạo tử vong! Nhưng ở trong
lòng giáo hội mà dị giáo Khai Tâm Đạo lại phản loạn,
thì thật qúa quắt thay! Sự bất tuân vô tâm này tương tự
như trường hợp vua Saulê, và hiệu qủa sốt dẻo là Chúa
đã bỏ ông vì “Phản nghịch cũng có tội nhƣ bói toán;
ngoan cố là tội ác giống nhƣ thờ ngẫu tƣợng (1Sm.15:23).”
Ở đây, tôi xin trình làng một gương xua trừ di giáo Khai
Tâm Đạo một cách can đảm và sán lạn đã xẩy ra tại Giáo
xứ Vinh Sơn, Ông Tạ khoảng tháng 11 năm 2003. Sự
kiện là: “Một số thành viên Khai Tâm Đạo từ nhiều giáo
xứ lân cận, thường tụ họp tại thánh đường giáo xứ Vinh
Sơn cầu nguyện vào 9 giờ sáng. Cha xứ Giuse Trần
Trung Nghĩa, sau một thời gian quan sát, đã nhận thấy dị
giáo Khai Tâm Đạo có nhiều điều lập dị, và kỳ quái khác
với truyền thống của giáo hội. Cha Nghĩa, vì thế, đã
muốn ngăn chặn sự lạc lối qúa đáng, và đi ngược với các
191
hình thức cầu nguyện của giáo hội, nên đã rút lại lời đã
cho phép họ xử dụng nhà thờ giáo xứ Vinh Sơn. Hoan
hô cha Giuse Trần Trung Nghĩa đã có hành động dứt
khoát khi nhận ra: “Dị giáo Khai Tâm Đạo đang thao
túng và lợi dụng giáo hội Công Giáo!”
CHƢƠNG XV
HOANG TƢỞNG CỦA KTĐ
Người đến tham dự các khóa căn bản, khóa thăng tiến và
khóa Sa Mạc sẽ được nghe những chuyện hoang tưởng
được lặp đi lặp lại và rào đón trước sau. Đây là hình
thức tẩy nào, tuyên truyền nhằm ghi đậm những quan
niệm mới đầy hoang tưởng, phản nghịch lại Lời Chúa,
qúa khích và đối đầu với tín lý ch6an chính của dị giáo
Khai Tâm Đạo, vào đầu các thành viên, hầu thay đổi
niềm tin và linh đạo của họ!
192
Thánh Jeronimo, dịch gỉa Thánh Kinh từ tiếng Hy Lạp
sang Latinh đã nói một câu bất hủ và rất thời danh: “Tín
hữu chƣa biết Thánh Kinh, (đặc biệt Tân Ƣớc) thì
chƣa biết Chúa Giêsu Kitô.” Như vậy, nhiều người
trong chúng ta tuy có tiếng là người tín hữu hay Kitô
hữu nhưng qủa thật chỉ là “Hữu danh vô thực”, vì thế
mà khi luồng gió mới đến: hoang tưởng và hư cấu, thế
mà lắm kẻ đã có hành vi chối đạo! dấu chứng của ngày
cánh chung! Thánh Jeronimo dựa vào chính lời Chúa
Giêsu đã tâm tình về chân lý này: “Nếu anh em ở trong
Thầy, và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh
em cứ xin, anh em sẽ được như ý (Jn.15:7).” Nói cách
khác: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy” và hiệu quả
tuyệt thánh là “Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy. Cha
Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy (Jn.14:23).”
Thế nhân với sự hiện hữu: “Như mây nổi, như gió thổi,
như chiêm báo” nên ham chuộng danh phận, thích vinh
dự và chuộng tiếng khen phát xuất trên đầu môi chóp
lưỡi của bằng hữu, và những kẻ xu nịnh. Hình ảnh cụ
thể đã xẩy ra trong Thánh Kinh, khi một người thiếu phụ
đã khâm phục Chúa và tôn vinh: “Phúc thay người mẹ
đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Theo não trạng của
thế nhân trong cõi nhân gian, thì lời khen này rất hữu lý
và đúng lúc! Nhưng theo linh đạo trời cao, thì Chúa
Giêsu đã sửa sai và làm sáng tỏ cái phúc thật: “Đúng
hơn phải nói rằng:” “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ
Lời Thiên Chúa (Lk.11:27-28).”
Thậm chí Chúa Giêsu còn tôn vinh vẻ cao qúi và phúc
thật cho chúng ta là: “Mẹ và anh em tôi, chính là những
193
ai nghe Lời Thiên Chúa, và đem ta thực hành
(Lk.8:21).” Hiểu rõ lời và ý Chúa Giêsu, Thánh Phaolô
sau những gian truân, thử thách, trầy trụa, đầy đọa, sống
chết, tra tấn, và tù đầy vẫn cương quyết: “Tôi đã không
muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Chúa Giêsu Kitô,
mà là Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập gía
(1Cor.2:2).” Để thực thi linh đạo chính chuyên và thánh
thiện này, Thánh Phaolô, sau khi thành công, đã vui
sướng chia sẻ với chúng ta nguyên lý, động lực và cảm
nghiệm thực hành linh động của mình: “Tôi sống, nhưng
không còn là tôi, mà Chúa Giêsu Kitô sống trong tôi
(Gal.2:20)”.
Khai tâm Đạo nhân đã không có niềm tin đủ vào Chúa
Giêsu Kitô, Ngôi lời Hằng sống, và là Thiên Chúa Toàn
năng, toàn thiện, toàn mỹ (Jn.1:1). Khai Tâm Đạo nhân
cũng chẳng biết rõ và không hiểu đủ về Thánh Kinh, thủ
bản nồng cốt, căn bản và là Đạo Trời đã được mặc khải
cho nhân gian qua các ngôn sứ và chính Thánh Tử là
Thiên Chúa Ngôi Lời (Dt.1:2-3). Hiệu qủa tồi tệ, đáng
tiếc và đau thương là họ đã vồn vã, nhanh chóng thay
đổi đức tin, hồ nghi Thánh Kinh và thị hiếu tin theo
những thuyết hoang tưởng vô căn cứ, đến bỏ thời giờ, bỏ
tiền bạc như dân thánh xưa trong sa mạc (Xh.32:1-5) để
phát triển con bê thời đại: dị giáo Khai Tâm Đạo.
Những hoang tưởng này là sản phẩm tồi tệ, dị đoan, và
ma quái của trí khôn bất toàn do thế nhân hình thành, mà
chẳng hề tìm thấy trong Thánh Kinh. Chúa Giêsu đã
cảnh cáo, “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ gỉa, họ
194
đội lối chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong họ là
sói dữ tham mồi (Mt.7:15).”
Nhưng Khai Tâm Đạo nhân đã không nghe, và dấu
chứng tệ hại là sấm ngôn “Sẽ đến thời người ta không
còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục
vọng của mình mà kiếm hết thầy nọ đến thầy kia, bởi
ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe
chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường
(2Tm.4: 3-4)” đang xảy ra.
Thánh Gioan Tông Đồ theo dấu chứng của thời đại cũng
đã sấm ngôn: “Giờ đây, nhiều tên phản Kitô xuất hiện.
Do đó chúng ta biết được rằng: đây là giờ cuối cùng
(1Jn.2:18b).”
Và Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, cũng đã nhận
diện: “Trong dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ
gỉa; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những thầy dậy gỉa
hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết
dẫn tới diệt vong, vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về,
họ sẽ mau chóng chuốc lấy họa diệt vong (2Pet.2: 1).”
Những hoang tƣởng của giáo chủ Gioan Minh
Tôi xin liệt kê những hoang tưởng, thiết nghĩ là chưa bao
giờ phát xuất từ hàng ngũ linh mục thừa tác của giáo hội.
Nhưng hôm nay lại do chính giáo chủ linh mục Gioan
Minh khởi xướng và dậy dỗ trong dị giáo Khai Tâm Đạo
như sau:
195
1. Giáo chủ Gioan Minh cho rằng “Những bài huấn
đức ông có là do các đấng lương giáo từ thế giới
vô hình ban tặng, điền hình là: “Đức Mẹ, Thánh
Têrêsa Avila, Thánh Gioan Don Bosco, Thánh
Antôn, Đức Phật. Đức Không, Đức Lão, Khổng
Minh, Nguyễn Bỉnh Khiêm …” Qúi vị tin được
không?
2. Ngày 19-2-1996 trong tài liệu số 5, sổ tay số 2,
Khai Tâm Đạo nhân ghi lời Gioan Minh huấn đức
rằng: “Chúa dựng nên Adam và Heva ở một hành
tinh khác, không phải là trái đất. Sau khi phạm tội
vì ăn trái cấm, ông bà đã bị đầy xuống trái đất.
Trái đất kinh hoàng truớc sự kiện kinh khủng này,
nên đã đổi trục xoay, khiến loài khủng long bị diệt
chủng. Khi chưa phạm tội, nguyên tổ đã sinh ra
các con, những người con này, vì thế, không
vương tội tổ tông, nên rất thông minh, và là người
hành tinh. Người hành tinh thảng hoặc đã xuất
hiện trên trái đất qua các “Đĩa Bay”. Họ là con
cháu nguyên tổ đi về trái đất tìm dòng tộc! Và
trong tài liệu số 3, cuốn băng thứ 3, Gioan Minh
xác quyết: “Con cháu nguyên tổ ở hành tinh, vì
chưa phạm tội, nên bay được.” Qúi vị tin được
không?
3. Cũng ngày 19-2-1996 Gioan Minh đưa ra các chi
tiết liên quan đến đại nạn hông thủy nhu sau:
“Trong đại nạn hồng thủy, số người sống sót
không phải là 8 người như Thánh Kinh trình thuật,
song là 150 người. Vì ngoài gia đình ông Noah
196
ra, còn có các vị chân sư: là những người Việt
Nam. Sau khi nuớc rút, họ lấy đá xếp thành bàn
thờ tạ ơn Thiên Chúa. Trên bàn thờ đá này có tưới
nước hoa. Bàn thờ đá này hiện nằm sâu trong
lòng đất và khi tìm thấy, bàn thờ vẫn còn thơm!”
Qúi vị có tin được chuyện hư cấu này không? Ai
sẽ tìm thấy bàn thờ lắp ráp bằng những viên đá
này? Bàn thờ sẽ còn nguyên vẹn hay chỉ là những
thỏi đá?
4. Ông Noah là người Đại Việt. Một số con cháu
ông Noah nhiều đời sau đã di dân tới Ai Cập và
trổ tài xây “Kim Tự Tháp.” Họ dùng nội công
chặt đá mà xây. Và ông Noah đã sống vào thời
Vua Hùng Vương thứ năm. Qúi vị có thể tin chi
tiết kỳ khôi này không? Sao lịch sử nước Đại
việt, chẳng bao giờ nhắc đến chi tiết quan trọng và
kiêu hãnh này. Mà chỉ ghi đậm huyền thoại “Con
Rồng Cháu Tiên!” di hành xuống nam từ sông
Dương Tử và Động Đình Hồ!
5. Ngày 8-6-1994, trong tài liệu số 5, sổ tay số 1,
thành viên Khai Tâm Đạo ghi: “Ông Cao Lỗ, thời
An Dương Vương, là vị chân sư dậy Khai Tâm
Đạo về cái “Dũng” của thánh nhân” Qúi vị có tin
được chi tiết hư cấu và thiếu nền tảng lịch sử này
không?
6. Ngày 6-7-1994, Gioan Minh dậy về nguyên tắc
khinh công: “Khinh công tạo một màn hình máy
197
tính tuyệt tác do Chúa ban tặng, qua đó chúng ta
có thể theo dõi được số điện tử của màn hình cơ
thể, nhờ đó chúng ta có thề điều khiển cho thân
thể bay, đồng thời kiểm soát được lục phũ ngũ
tạng.”
7. Ngày 16-2-1995, Gioan Minh dậy: “Các cụ Trưng
Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo đã
được Khai Tâm Đạo phóng Thánh Linh rửa tội
cho và họ đã trở thành Con Chúa.”
8. Ngày 7-7-1995, Gioan Minh xác quyết: “Hồ cốc,
Bình Châu, Bà rịa sẽ là nhà nguyện toàn cầu, mục
đích là giúp cải thiện thế giới, cổ võ sống thánh
thiện và truyền bá ra bên ngoài. Đức cố Giáo
Hoàng Piô XII đã chủ tế thánh lễ tại Hồ Cốc, với
50 Giám Mục đồng tế, và có Đức cố TGM Phaolô
Bình, Gm Cassaigne, Tổng Lãnh thiên thần Micae
và Thánh Phaolô Tông đồ và 63,000 linh hồn tháp
tùng Đức cố Giáo Hoàng Piô XII. Qúi vị có tin
được không? Các linh hồn có thể về sinh hoạt
chung với người đang sống! Thật hoang tưởng!
vì phản tín lý “Mùa phúc đã hết, mùa tội phải đền,
hay mùa thưởng công đã đạt.”
9. Giám mục Bá Đa Lộc khen “Khai Tâm Đạo sống
yêu thương với nhau như một gia đình”; Cha
Trương Bửu Diệp nói: “Sống Sa Mạc phù hợp với
tâm nguyện của Chúa.” Các Đấng đã lên trời còn
ao ước được tham dự khoá Samạc. Đây là hình
198
thức Gioan Minh dung để khoa trương Khai Tâm
Đạo. Qúi vị có tin được không?
Điều không thể tưởng được là thế nhân Gioan Minh
dậy: “Các Đấng sẽ như các nhà khoa học thử nghiệm
chất phóng xạ. Các Đấng sẽ xịt phóng xạ vào Khai Tâm
Đạo nhân trước, để coi Khai Tâm Đạo nhân có chịu nổi
chất hoá học giết người hàng loạt được không.” Nghĩa
là Khai Tâm Đạo nhân bằng lòng hy sinh trước mọi
người! Đưa ra những hoang tưởng vì Gioan Minh chưa
hiểu cảnh “Nội bất xuất ngoại bất nhập (Lk.16:26)” giữa
hai thế giới âm dương, như lời Chúa Giêsu đáp, “Chúng
đã có Môisen và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các
vị đó (Lk.16:29).” Và nếu “Môisen và các ngôn sứ mà
họ chẳng chịu nghe, thì ngƣời chết có sống lại, họ cũng
chẳng chịu tin (Lk.16: 31).”
Điều kì dị và hư cấu khôn tả là thế nhân Gioan Minh
không là một trong các nhà khoa học, cũng chẳng là bác
sĩ, nên đã lộ cái ngẩn ngơ của mình khi hãnh diện đề cập
đến y học và khoa học: “Vào dự khóa sa mạc để kết hợp
với Thiên Chúa, và đạt truyền hệ (Gene) Thánh Linh.”
Thánh linh như thế là vật chất hay sao? Thế nhân Gioan
Minh nói tiếp: “ Gene của phàm nhân tục tử là Gene
bình thường (Gene tội lỗi); Gene của các thánh là Gene
linh nhân; Gene thượng thừa của thánh nhân là Gene
Thánh Linh, nhưng với Gene Thiên Chúa thì các qui luật
tự nhiên của nhân loại không ảnh hưởng gì tới.”
Thật là đúng với ngạn ngữ “Dốt hay nói chữ!” do lẫn
lộn giữa gene thể lý là xác thân theo truyền hệ, với thần
199
hồn và thiên linh là vô hình. Vô hình thì làm sao có
Gene! Hiện tại ngành y khoa dùng DNA để xác định và
nhận diện Gene truyền hệ: “Con đúng dòng!” Ngày xưa,
người ta nhỏ máu của cha và con vào một bát nước, nếu
hai giọt máu hoà nhập với, thì đó là đúng truyền hệ.
Còn nếu không thì là con khác hệ!
Nếu hiểu theo ý nghĩa “Đồng hình đồng dạng (R.8:29;
Phil.3:10; St.1:27)” của Thánh Kinh, thì toàn thể nhân
loại sẽ phải có Gene thiêng liêng với Chúa, là sống sao
cho đúng ngạn ngữ “Con nhà tông, chẳng giống lông
cũng giống cánh!” Thiên Chúa là tình yêu (1Jn.4:8,16) ,
chúng ta phải chiếu sáng tình yêu Chúa cho mọi người
nhận diện, như Chúa Giêsu đã dậy: “Mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh
em có lòng yêu thƣơng nhau (Jn.13:35).” Để “Họ thấy
những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt. 5:16b).” Ngoài
Gene tình yêu ra, chẳng thể co sự suy diễn huyền hoặc
như thế nhân Gioan Minh!
LỤC ĐẠO PHẬT GIÁO
Giáo chủ Gioan Minh rất thích hình thức diễn giải các
tình trạng lên xuống, thăng trầm, đổi thay, biến hóa và di
dịch nhanh chóng và kinh hồn của kiếp nhân sinh qua
“Lục Đạo” của Phật Giáo: “Linh đạo, nhân đạo, Atula
đạo, ngã qủi đạo, súc sinh đạo, và địa ngục đạo. Lục đạo
này chính là “Luân Hồi Đồ” của Phật giáo. Vì tin và
hiểu theo Luân Hồi Đồ nên giáo chủ Gioan Minh đã kết
luận rằng: “Án phạt gì thì phạt, cũng có thời hạn. Lỡ
200
phạm tội mà bị phạt đời đời, thì Thiên Chúa đâu còn là
Chúa tình yêu nữa (Băng số 12, tài liệu 3).”
Vậy các Khai Tâm Đạo Nhân hiểu thế nào khi đọc lời:
“Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng đƣợc tha
(Lk.12:10b).” Thánh Thần là chân lý (Jn.15:26), vậy ai
ngoan cố, lì lợm, dối gian, không sám hối, là phạm đến
Thánh Thần. Tội phạm đến Thánh Thần không thể biện
minh bằng tiếng “Lỡ” hay “Trót dại”, nhưng là tội chủ
ý và cố tình! Như Satan đã phạm! Mà đã cố tình và
chủ ý thì sẽ bị trầm luân muôn kiếp!
Linh đạo: Tiên, Phật, Thần, Thánh, chân sư, quân tử - là
những “Linh ư vạn vật” cao nhất và hạnh phúc nhất
trong lục đạo. Vì ở vị thế cao, nhưng vẫn có thể có thể
rơi vào tình trạng mạn tâm: ngạo mạn và kiêu kỳ. Nên có
thể bị rớt rơi trở xuống là một trong những cấp thấp
hơn.
Nhân đạo: Thế nhân cũng thuộc về dạng “Linh ư vạn
vật” nhưng còn phải tu thân, tích đức và cố gắng để
được giải thoát khỏi Tam độc là “Tham-Sân-Si.” Qua
hành vi “Làm phúc đỡ nâng một người” thế nhân sẽ gặt
hái hiệu qủa tốt.
Atula đạo: Tâm đầy ghen tương, đố kị. Luôn khiêu
chiến với cõi thiện. Bị các tiên thánh đánh bại, nên
chẳng bào giờ sống an phận, hạnh phúc và bình yên.
Súc sinh đạo: Hoàn toàn chi Tham-sân-si khống chế,
nên sống trong một quan hệ rối loạn và mâu thuẫn chằng
201
chịt. Tham lạm, trộm cắp, giết người sẽ là cố tật! Trong
tâm hồn, vì thế, tích tụ đầy những mưu mô, kèn cựa, và
đấu tranh!
Ngã qủi đạo: Là trờ thành nô lệ và bị kiềm chế bởi tam
độc “Tham-sân-si”. Luôn vì: “Danh-Lợi-dục” mà sống
trong hận thù. Do ghen tuơng và tị hiềm, nen đớn đau vì
chưa bằng người, và cơn đói khát danh-lợi-dục chẳng
bao giờ nguôi.
Địa ngục đạo: là chốn của chúng sinh bị trói buộc bởi
sân-si theo nhiều dạng khác nhau: Tám tầng nóng, và
tám tầng lạnh. Địa ngục là nơi chúng sinh đang lãnh
nhận qủa báo do các nghiệp ác đã hành động. Cha mẹ là
những người chịu mọi đau khổ của lục đạo: lên cũng
khổ, chịu cũng khổ, mà xuống cũng khồ. Bởi vậy con
cái và những ai hiểu biết nên thông cảm, từ bi và hỉ xả
với các bậc làm cha mẹ. Ai có nghiệp tốt thì con cái có
hiếu, bằng không thì chỉ là của nợ!
Lục đạo như một vòng tròn biến hóa: là lẽ sinh tồn, di
dịch không ngừng của đời thế nhân. Chính vì thế mà
giáo chủ của dị giáo Khai Tâm đạo không tin là có hình
phạt đời đời, mà chỉ có hình phạt giới hạn: trả xong, đền
bù đủ, hối hận đầy: là được ra khỏi hỏa ngục. Tệ hơn là
lời giáo chủ lý luận và chủ ý dậy sai lầm rằng: “Án phạt
gì thì phạt, cũng có thời hạn. Lỡ phạm tội mà bị phạt
đời đời, thì Thiên Chúa đâu còn là Chúa tình yêu nữa (Băng số 12, tài liệu 3).”
Vì tin như thế, nên giáo chủ đã dậy Khai Tâm Đạo nhân
phải: “Phóng Thánh Linh để lôi qủi ra khỏi hỏa
202
ngục”; và “Ngƣời có đức lớn, có thể phóng Thánh
Linh cứu đƣợc các linh hồn trong hỏa ngục (Băng số
2, tài liệu số 3).” Đến đây, hẳn qúi vị đã nhận diện ra
niềm tin lập dị qúa trớn của dị giáo Khai Tâm Đạo: Vừa
nghịch lý, vừa phản lại giáo lý đức tin của giáo hội công
giáo! Và vừa phủ nhận chân lý Chúa Giêsu đã dậy
“Chịu cực hình muôn kiếp (Mt. 25:46a)”
Lời Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Gioan Tông Đồ đã
thật trái nghịch với dị giáo KTĐ: “Ma qủi, tên mê hoặc
chúng, bị quăng vào hổ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con
Thú, và tên ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày
đêm đời đời kiếp kiếp (Kh.20:10).” Và Lời Chúa
Giêsu dậy chúng ta phải tin đã chống lại dị giáo Khai
Tâm Đạo: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt
Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Qủi, và
các sứ thần của nó (Mt.25:41) và chịu cực hình muôn
kiếp (Mt.25: 46a).”
Nếu có ai bất đồng, hạch hỏi và lý luận với Chúa Giêsu,
Người chỉ ngắn gọn và đầy đủ trả lời dứt khoát một lần:
“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng
tôi thu góp, là phân tán! (Mt.12:30)”. Ai muốn chỉ trích
và chê bai Chúa Giêsu là độc đoán thì Chúa Giêsu xác
định sự thật: “Thầy là Đường, là Chân lý, và là Sự sống!
Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy
(Jn.14:6)”
XUNG KHÍ
203
Chịu ảnh hưởng của “Luân Hồi Đồ” Giáo chủ Gioan
Minh cực lực lên án việc giết gia súc và ăn thịt gia súc.
Giáo chủ vay mượn tư tưởng “Thuyết Luân Hồi” của
Phật Giáo, chủ trương giết súc vật là bất nhân, nên
không ăn thịt các súc vật vì giáo chủ lý luận rằng: “Vật
khi bị giết sẽ đau đớn, sinh ra xung khí, thế nhân ăn thịt
sẽ lây nhiễm xung khí của súc vật.” Thế nhân, vì thế, có
những tâm tình bất nhân, bất trung, bất nghĩa , bất lý, và
bất tín, nóng giận và khùng điên.
Luận điệu của giáo chủ Gioan Minh không phù hợp với
cắt nghĩa của khoa học. Tinh hoa đất trời, hay các chất
dinh dưỡng, tích tụ trong các dạng thức: rau, trái, cao
sơn, hải vị và gia súc mà Thiên Chúa ban cho thế nhân
quyền hưởng dùng để sinh tồn. Không có gì là xấu vì
“Trong Chúa Giêsu, tôi biết, và xác tín rằng không có gì
tự nó là ô uế; có ô uế là chỉ đối với người cho nó là ô uế
(Rm.14:14).”, và mỗi thứ đều cung cấp cho con người
những chất dinh dưỡng khác nhau, và cần thiết cho sự
tăng trưởng đầy đủ của con người.
Điển hình là “Mâm thức ăn từ trời” Phêrô đã thấy trong
ba lần thị kiến (Cv.10: 16) trước khi gặp gia đình viên sĩ
quan Roma, là Cornelio. Mâm cỗ có đủ “mọi giống vật
bốn chân, rắn rết sống trên đất, và mọi thứ chim trời
(Cv.10: 12).” Nghe lệnh phải giết tất cả mà ăn, Phêrô
đã run sợ, vì theo luật Do Thái, thì đó là “Những thứ ô
uế và không thanh sạch! (Cv.10:14)” Chúa, lập tức, đã
dậy rõ để khai tâm Phêrô và nhắn nhủ chúng ta:
“Những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi
chớ bảo là ô uế (Cv. 10: 14).”
204
Như vậy xung khí thế nhân có, không do đồ ăn mà có,
song phát sinh tự tâm phản loạn, tâm ma, tâm qủi nên
đã bất lực, và đầy danh lợi dục: “Vì tự lòng phát xuất
những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà
dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống
(Mt.15:19).” Đổ tội cho đồ ăn là trốn trách nhiệm, là
không có tư cách của một chính nhan quân tử, bởi vì
không dám can đảm nhận là mình chưa tu thân và tích
đức đến nơi đến chốn.
Nhất là chưa chứng tỏ được tâm mình có đủ lòng kính
yêu Thiên Chúa, chưa tôn kính Chúa ngự trong tâm,
chưa hết tình giữ luật Chúa thiện toàn, và tuyệt đối là
mới chỉ yêu Chúa “Trên môi miệng, còn lòng chúng thì
xa Ta (Mt.15:8).” Tâm chưa thanh, lòng chưa tịnh, trí
chưa quang, lời chưa sáng, nên vẫn giữ cái cố tật của thế
nhân là: “Đổ thừa!” cho tha nhân, cho đồ ăn, cho hoàn
cảnh. Và không chịu khiêm tốn nhận là do chính bản
thân mình hư hỏng, ngoan cố, tham lạm nên trở thành
bất trung với Chúa.
HÀNH XÁC
Ăn chay là văn hóa, phong tục và thói quen vẫn có xưa
nay trong các tôn giáo, mọi sắc dân và mọi dân tộc. Đối
diện với thói quen gỉa hình và vụ hình thức, Chúa Giêsu
đã dậy rõ: “Anh em chớ làm bộ râu rĩ như bọn đạo đức
gỉa: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là
chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được
205
phần thưởng rồi! Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho
sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn
chay, ngoại trừ Cha của anh em (Mt.6:16-18).” Ăn chay
trong thế giới hôm nay rất phổ thông, không vì lý do tôn
giáo, mà vì tránh lên cân, giữ vòng eo, và bớt bệnh tật.
Rõ ràng hơn, Chúa Giêsu đã nói toạc ra trong dụ ngôn
hai ngươi lên đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái trong
tâm tình kiêu hãnh, khoe khoang, tự công chính hóa
mình, và kênh kiệu với lối “Tự kỷ ám thị” hay “mặc cảm
tự tôn” sang giá của ông, nên đã bị Chúa Giêsu chê:
“Anh ta về mà không được nên công chính, vì ai tôn
mình lên sẽ bị hạ xuống (Lk.18:14).”
Việc hành xác, đánh tội, nói chung, không bao giờ được
trình thuật trong bốn Phúc Âm. Việc cá nhân đánh tội
theo quy luật, đã thịnh hành trong các dòng tu nhiệm
nhặt từ thời trung cổ, vì nhiều người tin là hành động
như thế sẽ chắc chắn được ơn cứu độ. Họ lầm lẫn vì
tưởng là được cứu độ do việc làm, và bỏ hai yếu tố chính
là “Tin và yêu.” Sau khi hành xác, họ nghĩ là sẽ dễ dàng
kiềm chế được những cám dỗ về danh lợi dục. Tội
nghiệp cái thể xác xinh tươi, mĩ miều đang bị trù dập, và
bị qui trách hết mọi sự xấu xa vào thân! Trong khi cái
tâm tràn đầy thất tình lục dục với tâm qủi, tâm ma thì
được để yên, chiều chuộng, nhởn nhơ kệch cỡm, và vô
tội vạ! Cái nhân không diệt, mà chỉ diệt hoa trái.
Hành động như thế là bao che, buông thả, và làm hư cái
“Tâm lòng”, nguyên nhân chính phạm tội (Mt.15:19).
Thể xác chỉ là phương tiện thực hiện cái mưu đồ, cái bất
nhân, cái gian tham, và cái bất chính đã manh nha và bị
206
nung nấu tự bên trong. Vậy đánh tội chính chuyên là
phải: “Xé lòng chứ không xé áo (Joel 2:13).”
Xé lòng là kiềm chế được miệng lưỡi, là giết chết tâm
ghen tị, là hủy diệt tâm thù, là khoá miệng không nói lời
vu khống, là chẳng lắm điều, không mưu mô, ngừng xúi
giục, tránh xét đoán và tuyệt đối không tự kiêu v.v. Đó là
những cách hành hạ con người hư đốn của mình. Trước
là tâm phải quyết, sau là các bộ phận của thể xác phải
nhân danh Chúa Kitô mà vâng theo. Và đây là đường lối
Thiên Chúa ao ước: “Tử bỏ chính mình và vác thập gía
(Mt.16:24),” đồng thời đây là con đường đẹp nhất leo
lên tới đỉnh toàn thiện để, “Họ thấy nhưng công việc tốt
đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em (Mt.5:
16).”
Ai nghĩ là đánh tội sẽ làm vui lòng Thiên Chúa là chưa
đúng hẳn, vì lời Chúa đầu tiên kêu gọi là “Hãy sám hối
và đầu phục Tin Mừng (Mk.1:15).” Người được Chúa
tha thứ là “Vì chị yêu nhiều (Lk.7:47).” Kẻ được Chúa
đưa ngay lên thiên đàng là người tử tù sám hối
(Lk.23:43). Đánh tội đến thân xác phải lê lết, máu chảy,
mất sức sẽ phạm tội: “Hủy hoại thân xác” là tác phẩm
tuyệt vời Thiên Chúa tạo dựng. Thế mà giáo chủ Gioan
Minh lại cho bán các dụng cụ tra tấn, và khuyến khích
các thành viên đánh tội đền thay cho thế giới! Nếu đã
tin và đề cao thuyết “Phóng Thánh Linh” có thể cứu đời,
và cứu người các cõi, sao không phóng Thánh Linh
thay vì đánh tội? Thật là: “Tiền hậu bất nhất!
207
Tại Fatima, Đức mẹ cũng không cổ võ hành vi đánh tội,
và hành xác. Trái lại Mẹ Maria chỉ khuyến khích: “Hãy
ăn năn đền tội, hãy tôn sùng Mầu Tâm, hãy năng lần hạt
Mân Côi!” Hy vọng Khai Tâm Đạo Nhân suy nghĩ, sáng
suốt và thâm hiểu rõ chân lý hơn. Hãy vui tươi và hạnh
phúc sống “Làm muối ướp đời” và “Là ánh sáng trần
gian (Mt.5:13-14)” qua hành vi đẹp nhất là bỏ đi kiếp
làm “Chuột cống” để hòa nhập với dòng sinh mệnh của
giáo hội cùng với muôn người.
Mình công chính, mình hạnh phúc, mình là con Chúa, tại
sao phải sống kín kín hở hở và bí mật như hội “Tam
Điểm: Free mason!” Xa lánh, đổ lỗi và sợ hãi tha nhân
là hành động không ổn chứng minh rằng: “Mình vấn đề
và lập dị!” Hoặc niềm tin hay cách sống đang: “Trái
nghịch với giáo lý của giáo hội và tệ hơn là đang phản
đối lời Chúa bằng chính hành động và cách sống lập dị.”
GIÁO CHỦ PHÂN THÂN
Một điều khó hiểu, trái ngược với các thánh, và truyền
thống giáo hội là chính giáo chủ Gioan Minh công khai
khoe là có quyền năng: “Phân Thân”, nghĩa là một trật,
giáo chủ có thể hiện hữu ở hai hay ba nơi khác nhau.
Nguyên việc khoe khoang hiện tượng phân thân, đã cho
thấy giáo chủ Gioan Minh đang đi ngược truyền thống,
sự thánh thiện, và khiêm tốn của một chân sư!
Lịch sử các thánh không hề tôn vinh hiện tượng phân
thân, khi vị thánh đó còn sống. Giáo hội theo những
208
điều tra, gặp các chứng nhân sẽ tuyên phán hiện tượng
phân thân là có thật, sau khi vị thánh đó đã qua đời.
Để biện minh cho hành vi phân thân của mình, giáo chủ
Gioan Minh đã xuất bản cuốn “Kinh nguyện hằng ngày”
cho các Khai Tâm Đạo Nhân: sách dầy 96 trang. Giáo
chủ đã lồng chuyện phân thân trong số 21: “Ba kinh
nguyện rất cần thiết cho kẻ sắp qua đời” từ trang 79-87.
Sách kinh nguyện này đã không ghi ngày xuất bản, và
tên tác giả đã thu tập tài liệu và soạn thảo sách. Nhưng
sách được lưu hành trong nội bộ các nhóm Khai Tân
Đạo nhân, nên cứ tạm coi như giáo chủ Gioan Minh đã
biên soạn. Câu chuyện phân thân được khôn khéo lồng
vào, và nhân vật phân thân được nhiều người hiểu là
chính giáo chủ Gioan Minh. Linh mục phân thân đã
gặp Đức Giáo Hoàng và cầu nguyện cứu Đức Giáo
Hoàng có tên là cha Gioan! Đây là chủ đích và cốt lõi
chứng tỏ là Gioan Minh có thể phân thân, chứ không
phải là chuyện sách kinh nguyện được bầy bán đầy ở
mọi nơi.
May mắn tôi có trong tay cuốn sách kinh nhỏ 32 trang:
“Chúa Mặc Khải: kinh chìa khoá thiên đàng cho hai
thánh Elisave Nhichlin và Brigitta.” Sách đã được
ĐGM phụ tá Fx. Trần Thanh Khâm và cũng là vicar
general của tổng Giáo Phận Saigon cho phép ấn hành
ngày 13-5-1969. Với tài liệu mới này, tôi xin có lời
minh định khác với lời đã viết trong “Ưu và khuyết điểm
của Khai Tâm Đạo” xuất bản năm 2010.
209
Nội dung của sách kinh mỏng: “Chúa Mặc Khải” đã
được lồng hầu như trọn vẹn, tuy có thêm bớt chút đỉnh,
vào sách kinh nguyện hằng ngày, trong hai số 20 - 21, từ
trang 70 đến trang 87. Sách kinh: “Chúa Mặc Khải”
xuất bản năm 1969, năm mà giáo chủ Gioan Minh chƣa
có tƣ tƣởng về Khai Tâm đạo. Lý do tôi xác định như
thế, vì trong phần tóm lược quá trình sinh hoạt 48 năm
hiến tế hồng ân: 23-4 năm 1962 tới 23-4 năm 2010, linh
mục Gioan Minh chỉ đã ghi nhận là đã có “38 năm”
sống “Đại Đạo Yêu” nghĩa là từ năm 1972-2010; đã có
“15” năm sống trong “Tâm Chúa Hiển Linh” i.e từ
1995-2010. Năm nay 2012, linh mục Gioan Minh đã thọ
“80” năm phúc làm người: 1932-2010.
Vậy tác giả viết của: “Ba kinh nguyện” là Joseph J. Ma-
rianba, không phải là Gioan Minh. Linh mục đã gặp
Đức Cố Giáo Hoàng vô danh, cũng có tên thánh là
Gioan, nhưng chắc chắn không phải là Gioan Minh.
Cái “Đạo,” hay “ăn cắp” tư tưởng và hình ảnh phân
thân ở đây đã phạm một lỗi lầm rất lớn, là không ghi rõ
xuất xứ, còn cố tình hủy bỏ xuất xứ”. Vì thế hầu như
các Khai Tâm Đạo nhân đều tin là: “Lm phân thân” đã
gặp Đức cố Giáo Hoàng vô danh tại Vatican trong sách
kinh chính là Gioan Minh. Qủa là cố tật “Thấy sang
bắt quàng làm họ!” Nếu có ai thắc mắc thì dễ biện
minh đó là “Chuyện trùng tên.”
210
CHƢƠNG XVI
HIỆN TÌNH KHAI TÂM ĐẠO
Tính đến năm 2012, Giáo chủ Gioan Minh đã có trên
dưới hai thập niên: “Truyền bá lý thuyết, triển khai và
hình thành” các tổ chức của dị giáo Khai Tâm Đạo từ hạ
cấp lên đến trung ương. Đa số các Khai Tâm Đạo nhân
211
đang sống ở Việt Nam. Họ khôn khéo trà trộn, và núp
dưới bóng các hội đoàn trong các giáo xứ của các giáo
phận, thuộc Tổng giáo phận thành phố. Một thiểu số đã
định cư tại Úc, Pháp, Canada và Hiệp Chủng Quốc. Vì
những lập dị cả về lý thuyết lẫn hành động của họ sớm
bị nhận diện, các tiểu tổ dị giáo Khai Tâm Đạo tại ngoại
quốc bị theo dõi, bị chỉ trích và bị phong tỏa nên cũng
lui vào tình trạng “Kín hở!”
Hằng năm, dị giáo Khai Tâm Đạo tổ chức những khóa
tĩnh tâm, huấn luyện hay khóa cao cấp Sa mạc, hoặc tại
“Rừng thông Đà Lạt”, hoặc tại Hồ Cốc, Bình Châu, Bà
Rịa: hai cơ sở chính thức đã được tạo mãi của dị giáo
Khai Tâm Đạo. Mỗi khóa có khoảng năm hay sáu trăm
người tham dự. Và đôi khi, họ cũng đã tổ chức hành
hương đặc biệt: thăm viếng thánh địa La Vang, Quảng
Trị. Người chưa chính thức gia nhập dị giáo Khai Tâm
Đạo, hay những ai bất đồng tư tưởng với giáo thuyết của
dị giáo Khai Tâm Đạo không được tham dự.
Tổ chức của Khai Tâm Đạo được thành hình như “Một
gia đình,” điều hành rất chặt chẽ tại mỗi giáo xứ, hay
mỗi vùng. Đứng đầu là anh hay chị trưởng gia đình,
người có trách nhiệm hoạch định chương trình sinh hoạt,
điều hành buổi hội họp hay các buổi cầu nguyện, và
thông báo những dự tính. Tất cả các thành viên phải:
cẩn trọng, kín đáo và âm thần liên lạc với nhau. Vì thế
những ai không phải là thành viên, sẽ rất khó biết được
những: tính toán và hành động của nhóm.
212
Điều căn bản đầu tiên họ thường làm là chia nhau ra gia
nhập vào các hội đoàn trong giáo xứ. Họ đóng góp
không một lời than, chuyên cần hy sinh và dấn thân
phục vụ theo sự chỉ định của hội. Họ làm thế với chủ
đích là: giải tỏa những áp lực có thể có, tìm hậu thuẫn và
được bênh vực mỗi khi bị chỉ trích, vì lộ tẩy là thành
viên Khai Tâm Đạo. Chính hội đoàn đó sẽ chứng minh
là: anh hay chị đó rất thiện chí, siêng năng và hy sinh
nhiều cho hội đoàn. Thật là “Con cái đời, khôn ngoan
hơn con cái sự sáng (Lk.16:8)”
Các thành viên Khai Tâm Đạo tuyệt đối thâm tín và
trung thành với với: “Lời dậy” của giáo chủ Gioan
Minh. Ai tỏ dấu hồ nghi, thường vấn nạn lời dậy của
giáo chủ, thì lập tức bị coi là phản! Họ sẽ thu hồi các tài
liệu đã phân phối cho đương sự. Lý do vì trong lời minh
định, giáo chủ Gioan Minh đã phán: “Không nên trao tập
này cho bạn bè, hay người than theo nghĩa huyết tộc và
linh tộc. Bời vì họ chưa có tâm căn, hay chưa có cơ
duyên để tiến tới thiên duyên, nên không được chia sẻ
giáo lý Khai Tâm Đạo. Vậy cần: “Cầu nguyện, hy sinh,
phóng Thánh Linh thiên lực” đến canh tân, đổi mới tâm
tư các anh chị em đã. Khi đã biến: “Huyết tộc, linh tộc
thành thiên tộc,” rồi mới chia sẻ, và sau đó mới cho phép
ghi chép để gợi nhớ và để sống.”
Đó là lý do Khai Tâm Đạo không cho những ai đến
nghe, chưa tin, được quyền ghi chép những lời huấn đức,
những lời dậy và những cảm nghiệm riêng tư của giáo
chủ Gioan Minh. Nhưng may mắn thay là các chi tiết
được ghi lại nơi đây, hoàn toàn đáng tin, vì đã được tiếp
213
thu hay sao lại từ một thành viên trung tín của Khai Tâm
Đạo. Do vô tình hay hữu ý tôi không rõ. Nhưng hiện tại
tôi đang có trong tay, vì thế mới có thể “Nói có sách, và
mách có chứng.”
Hành xử âm thầm, kín đáo và sợ hãi như thế, phải chăng
Khai Tâm Đạo đang sinh hoạt như một “Hội kín!”
tương tự như hội “Tam Điểm – Free Mason”. Bên ngoài
thì vẫn là tín hữu “Ngoan ngoãn” của giáo hội công
giáo! Nhưng trong thâm tâm, họ đang có hướng đi,
chấp nhận lời dậy trái ngược, và có những cách thực
hành hoàn toàn trái ngược với giáo lý chân truyền của
Chúa Kitô, mà giáo hội đang thủ đắc, duy trì, bảo vệ và
phát triển. Vậy Khai Tâm Đạo: “Sống Lời Chúa” ở chỗ
nào? Vì Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa Ngôi Lời đã vạch
mặt chỉ tên: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai
không cùng tôi thu góp, là phân tán (Mt.12:30).”
Theo lời minh định, thì khởi đầu giáo chủ Gioan Minh
còn trung thành với giáo hội khi viết: “Điều tiên quyết
minh định là: Người sống đạo tâm, luôn luôn tuyệt đối
vâng phục quyền giáo huấn của hội thánh qua vị đại
diện của Chúa ở trần gian, và các vị thông hiệp với ngài
(Mt:16:18-19).” Nhưng khi đức cố TGM Phaolô Bình
không bằng lòng với sự sai trái và qúa trớn, và ngăn cản
Khai Tâm Đạo, thì Gioan Minh lồng lộn lên và bắt đức
cố TGM Phaolô Bình phải vể nói “Giờ đây con đã hiểu
việc cha làm. Chúa chỉ tỏ riêng cho cha nên con không
hiểu, đã ngăn cản.” Như thế trong hành động giáo chủ
Gioan Minh có khác chi một “Phàm phu tục tử!” đầy
những “Hỉ nộ ai cụ ái ố dục!” Hành vi này chứng minh
214
lời Chúa Giêsu dậy rất đúng khi Gioan Minh bất tuân
đức cố TGM Phaolô Bình, vị đại diện chân truyền của
Chúa Kitô tại thành phố: “Ai nghe anh em là nghe
Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai
khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy (Lk.10:16;
Mt.19:40).”
Nếu Khai Tâm Đạo qủa thực là một hình thức sống đạo
hiệu nghiệm, linh động, khởi sắc, hợp thời và truyền
thống như danh xưng mỹ miều là “Sống Lời Chúa” thì
tại sao phải “Tự ti mặc cảm” và đã bị đức cố TGM
Phaolô Bình ngăn cản? Hậu ý của giáo chủ Gioan minh
khi đưa ra lời đức cố TGM Phaolô Bình về xin lỗi (lời
dậy 1-7-1995), chỉ là hình thức củng cố dị giáo, và biện
minh với các thành viên là “Đức cố TGM Phaolô Bình
đã xin lỗi, vậy Khai Tâm Đạo đúng là từ Chúa mà đến.”
Nhưng xin qúi vị cứ “Xem qủa biết cây (Mt.7:15-20)” để
nhận diện ra mưu mô của Satan và bè lũ.
Thật là hạ cấp và vô ơn khi Gioan Minh vô tâm đi bôi
nhọ vị ân nhân đã khuất, người đã cho phép ông đi học
“Bùa Ngải” năm 1972 (lời thú ngày 23-7-1995). Nhưng
sau đó đức cố TGM Phaolô Bình đã can đảm không
“Phê chuẩn” Khai Tâm Đạo vì qúa lập dị, có nhiều sai
lầm đưa dân dẫn đến dị giáo, cuồng tín, hoang tưởng và
mê tín.
Rập khuôn với giáo chủ Gioan Minh, các thành viên
Khai Tâm Đạo mà tôi biết cũng đang có những hành
động tương tự như giáo chủ thánh của mình! Và đang
“Sao y bản chánh” động lực chính, kẻ đang xui khiến
215
Khai Tâm Đạo đi vào ngông cuồng, tự đại và hư mất:
“Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh, chẳng lẽ
ngươi đã từ trời sa xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các
dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư? Chính ngươi
đã tự nhủ: “Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta
trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi hội
ngộ, chốn bồng lai cực bắc. Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm,
sẽ nên như Đấng Tối Cao.” Nhưng ngươi lại phải nhào
xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu (Is.14:12-15;
Kh.12:7-9).”
Vâng, sẽ có ngày mọi người sẽ thấy rõ: “Phải chăng đây
là con người đã từng làm chuyển rung cõi đất, từng làm
cho các nưóc đảo điên, từng biến thế giới nên như sa
mạc, làm cho các thành thị tan hoang, không mở cửa
ngục cho kẻ bị giam cầm? (Is.14:16b-17; Kh.13-17;
17:13-14; 20:7-9)”. Nhưng hậu kết thảm tử sẽ đến là:
“Ma qủi, tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hồ lửa và
diêm sinh, ở đó đã có con thú và tên ngôn sứ giả; và
chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp (Kh.20:10).” Nghĩa là vô thời hạn!
CH Ƣ ƠNG XVII
ẢNH NGUYÊN THỦY
216
Cuối cùng, theo lời yêu cầu của nhiều người, tôi xin gời
đến qúi vị “Ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu” nguyên thủy
tuyệt đẹp, do dòng tôn kính Sacred Heart, Wisconsin,
USA in tặng các hội viên. Ảnh này cũng đang được
phong trào Cursillos thế giới trưng, và tôn kính trong các
ngày tĩnh tâm của phong trào. Họ cắt hình theo khung
và trang hoàng như Chúa đang mặc áo. Nhưng không
“Vẽ rắn thêm chân.”
Trái lại, ảnh này đã bị dị giáo Khai Tâm Đạo biến hóa,
thêm bớt, vẽ rắn thêm chân với máu chảy chan hòa, và
được phân phát tại giáo xứ Hiển Linh, trong biến cố
217
mừng 45 năm Hiến Tế Hồng Ân của Lm Gioan Minh:
23-4-1062 – 23-4-2007.
ẢNH BIẾN HÓA
Cùng với ảnh biến hóa này, Khai Tâm Đạo Nhân tại
Sacramento, CA đang trình làng và bán những ảnh
Thánh Giá Chúa, đầy máu me do một cá nhân thiên về
cảm xúc tại Nigeria, với lời ngụy biện là “Chúa hiện ra
như thế!” Những mong qúi vị giữ bản quyền, đừng tam
sao thất bản bức hình nguyên thủy! và đi vào mê hoặc
của những kẻ nhân danh tôn giáo thủ lợi (1Tm.6:5b). Và
làm nhơ danh giáo hội Công Giáo là tin nhảm nhí và
hoang đường.
218
Nhằm giúp qúi vị có một hiểu biết chính chuyên và đúng
như Chúa và Thánh Phaolô dậy, tôi xin mạn phép cắt
nghĩa và trưng dẫn Thánh Kinh như sau:
Chúa Giêsu Kitô qủa đã chết thảm thương trên thập gía
với “Máu cùng nước chảy ra (Jn.19:34)” Đồng thời với
“Máu Chúa đã đổ ra một lần thôi, Người đã vào cung
thánh và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng
ta (Dt.9:12; 28)”. Nếu chúng ta ngừng ở hình ảnh đầy
máu me và tử thương của Chúa, tức là chúng ta chưa đi
đến nguồn cứu chuộc là sự phục sinh hiển thắng, và lên
trời huy hoàng của Chúa Kitô. Sứ thần Chúa, vì thế, đã
trách các phụ nữ thẫn thờ tìm xác Chúa: “Sao các bà lại
tìm Ngƣời Sống ở giữa kẻ chết. Ngƣời không còn ở
đây nữa, nhƣng đã phục sinh rồi (Lk.24:5-6).” Và sứ
thần Chúa cũng trách và nhắc nhớ các tông đồ đang thất
thần: “Hỡi những ngƣời Galilea, sao còn đứng nhìn
trời? Chúa Giêsu vừa bỏ các ông, và đƣợc rƣớc lên
trời, cũng sẽ ngƣ giá đến nhƣ các ông đã thấy Ngƣời
lên trời (Cv.1: 11).” Tôn giáo chân chính phải hướng
tời tương lai hạnh phúc, sạch bụi trần và trong sáng như
pha lê, mới là chân lý. Ngừng ở đau khổ và khóc than
sự chết là đạo ấu trĩ, xúc động nhất thời, chưa đạt đến
mức lý tưởng và cùng đích tối hậu của đạo.
Chúa Kitô đã đạt đến mức uyên nguyên của đạo và
“Người đang ngự bên hữu Chúa Cha (Rm.8:34;
Eph.1:20; Dt.1:3; Col.3:1).” Vì “Người hằng sống để
chuyển cầu cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần
219
Thiên Chúa (Dt.7:25)” là cõi uyên nguyên của thế nhân.
Trong tương lai “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không
phải để xóa bỏ tội lỗi (với máu đổ ra nữa), mà để cứu độ
những ai trông đợi Người (Dt.9: 28b).”
Người tín hữu trưởng thành phải biết phân biệt hai biến
cố quan trọng trong đời dương gian của Chúa Giêsu, để
sống ngoai vòng xúc động nhất thời, hạn hẹp và ngắn
ngủi:
Một là “Hiện thực ơn Cứu chuộc” với máu đổ ra
(Dt.9:12,14), bằng cái chết trên thập gía (Dt.9:15), và
đây là hiến lễ đền tội duy nhất “Một lần mà có công
hiệu vĩnh viễn (Dt.9:12,28).” Nếu không như thế thì
“Ngƣời đã phải chịu khổ hình nhiều lần (hay chết
nhiều lần), từ khi thế giới được tạo thành (Dt.9:26a). Vì
thế “Ngƣời chỉ xuất hiện một lần, để tiêu diệt tội lỗi
bằng việc hiến tế chính mình (Dt.9:26b). Đây là lý do
giáo hội hôm nay không dùng những hình ảnh đầy máu
trong các nghi thức phụng vụ. Vì Chúa Kitô đã hiển
thắng vinh quang và đang ngự bên hữu Chúa Cha
(Mt.22:44; 26:64; Rm.8:34; Eph.1:20; Col.3:1; Dt.1:3;
8:1; 10:12; 12:2; 1Pet.3:22). Người không còn phải
chịu đau khổ nữa, nhưng “Người đã vào chính cõi trời,
để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu
cho chúng ta (Dt.9: 24b).”
Hai là Tƣởng nhớ ơn cứu chƣộc với hiệu qủa là qua
thập gía, “Ngài Kéo mọi người lên (Jn.12:32).” Chính vì
thế mà trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta chỉ cử hành
Lễ Tạ Ơn, với “Hiến Lễ không có máu lênh láng đổ
220
ra”, nhưng chúng ta vẫn được cùng “Uống chén máu
giao ƣớc, đã đổ ra cho muôn ngƣời đƣợc tha tội (Mt.16:28)” vì mỗi khi chúng ta “Làm việc này, là
tƣởng nhớ đến Thầy (Lk.22:19; 1Cor.11:24).” Đón
nhận Thánh Thể: Mình và máu Chúa Kitô, là chúng ta
đón nhận Chúa vinh quang, và Chúa vinh quang sẽ cho
chúng ta được “Sống muôn đời và sống lại ngày sau
hết với Ngƣời (Jn.6:54).”
Hôm nay, Chúa Giêsu đã hiển thắng trên trời, và Người
đang chờ ngày tái giáng để “Truất phế các quyền lực
thần thiêng, công khai bêu xấu chúng, và điệu chúng đi
trong đám rước khải hoàn của Người (Col.2:15).” Nơi
xác thân Vinh hiển Chúa, chỉ còn duy những dấu đinh
như Chúa đã thân thương chỉ cho Tôma, và yêu cầu ông
rờ vào các dấu thánh “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhƣng hãy
tin (Jn.20:27).”
Điều kẻ hèn này xin nhắc nhớ những ai thiện tâm thiện
chí, là đừng có “Chìm đắm trong những thị kiến của
mình, vênh váo vì những suy tưởng theo lối người phàm
(Col.2: 18b).” Vì những điều phàm nhân coi như khôn
ngoan đời “Nào là sùng đạo tự ý, nào là khiêm
nhƣờng, nào là khổ hạnh, nhưng không có gía trị gì đối
với xác thịt lăng loàn (Col.2:23).” Vậy, chớ có ai tự cao
với mớ lý thuyết rỗng tuếch của mình! nhưng hãy vâng
phục giáo hội và tin vào ơn giảng dậy của linh mục, vì
“Môi của tƣ tế chất chứa sự hiểu biết và luật dậy. Họ
là thần sứ của Chúa các đạo binh (Mal.2:7).” Nếu với
các tư tế là các linh mục của anh chị em, mà anh chị em
221
không nghe, thì sẽ luẩn quẩn với những hoang tưởng
phàm nhân và làm sao có thể “Cải tà qui chính
(Mal.2:6b).”
Nhờ vâng phục giáo hội, và lắng nghe lời các linh mục,
bởi “Môi miệng nó sẽ nói lời lẽ chân thật, và không
nói lời gian ác! Nó đi với Ta trên nẻo đƣờng bình an
và ngay thẳng (Mal.2: 6a)” và khi “Chúa Kitô nguồn
sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất
hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang
(Col.3:4).” Đây là phần thưởng tuyệt vời và qúi gía cho
những ai dám ngang nhiên như thánh Phaolô “Tôi sống,
nhưng không phải là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi
(Gal.2:20).” Bởi vì “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ
cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ
cùng hiển trị với Người (2Tm.2:11-12; Rm.6:8)).”
Cái nguy hiểm của Khai Tâm Đạo Nhân hôm nay là
“Không biết mở lòng đón nghe” và nhất định “Ngoan
cố” chống với những lời dậy, căn cứ vào cội nguồn
Thánh Kinh. Họ lì lợm như thế để bảo tồn và phát triển
Dị Giáo Khai Tâm Đạo và sống chết với giáo chủ phàm
nhân Gioan Minh của họ. Sửa Tin Mừng của Chúa
Kitô, thay đổi tín lý, và không tuân phục giáo hội là
một đại tội!
Hành động như thế là họ đang hứng chịu lời trách và
sấm ngôn của thánh Phaolô: “Những kẻ đã một lần
đƣợc chiếu sáng, đã được nếm thử ân huệ bởi trời, đã
được thông chia Thánh Thần, đã được thƣởng thức
lời tốt đẹp của Thiên Chúa, và đƣợc cảm nghiệm
222
những sức mạnh của thế giới tương lai, những kẻ ấy mà
sa ngã, thì không thể được đổi mới một lần nữa để sám
hốn ăn năn, vì họ đã tự tay đóng đinh Con Thiên
Chúa vào thập gía một lần nữa, và đã công khai sỉ
nhục Ngƣời (Dt. 6: 4-6).”
XIN CỨU CON KHỎI
NANH VUỐT SÓI DỮ (Mt.7:15)
LỜI KẾT
Ý thức rằng tôi chưa có thể “Giải mã” được hết những
độc chưởng mà giáo chủ Gioan Minh đã theo lệnh tôn
chủ của ông phóng vào thế gian và đang mê hoạc thế
nhân. Nếu có thể giải mã, thì hẳn mọi thành viên Khai
Tâm đạo sẽ thức tỉnh và giác ngộ trở về với chính lộ là:
“Thiên Chúa” qua giáo hội hữu hình của Người. Nhưng
223
tôi tin rằng: “Chính Thiên Chúa” theo lượng từ bì và
nhân ái vô biên, và trong chương trình cứu chuộc tuyệt
vời của Người, sẽ có phương thế hữu hiệu cứu con cái
của Người khỏi bến mê dị giáo Khai Tâm Đạo. Phận tôi,
tôi chỉ gióng lên tiếng nói chân chính, luận suy những lý
chứng sai lầm của Khai Tâm Đạo, giải mã theo ánh sáng
Thánh Kinh, tôn vinh Lời của Thiên Chúa, là chân lý đã,
đang và sẽ gieo vãi khắp nơi.
Nếu mọi người ý thức được tà ý của giáo chủ dị giáo
Khai Tâm Đạo Gioan Minh, xin hãy đồng tâm nhất trí
với nhau, cầu xin Chúa dẹp tan cái dị giáo nguy hiểm
này, vì phần rỗi của nhiều anh chị em tín hữu. Cũng như
ma qủi, chúng biết có Thiên Chúa, là chủ tể muôn loài,
nhưng trong cuồng loạn, chúng vẫn muốn được ngang
cơ: “Như Đấng Tối Cao (Is. 14: 13).” Thì giáo chủ
Gioan Minh tuy biết Chúa, tuy tin Chúa nhưng không
mến Chúa, đã vượt qua truyền thống, bất tuân giáo hội,
hình thành dị giáo, và giam giữ nhiều linh hồn đơn thành
bằng bùa mê và phù phép.
Giáo chủ Gioan Minh đang kìm kẹp con cái Chúa trong
những “Lý thuyết rỗng tuếch (Tit.3: 9b; 1Tm.6:20), lập
dị và phản nghịch đức tin” hầu tôn vinh mình, và cúi
đầu tôn thờ những ma lực, quỉ lực, tiên lực của các đấng
Đông Phương là giáo lý của ma qủi (1Tm.4:1). Nếu đã
có thể phóng Thánh Linh, rửa tội và đặt tên thánh
cho Phật Thích Ca là Gioan, tại sao trong thực hành,
giáo chủ Gioan Minh còn coi nhân vật đó là một trong
các Đấng, mà ông vẫn thường “Đồng thanh đồng khí”
và có “Cùng tần số?”
224
Chúng ta cùng cố gắng giải mã Khai Tâm Đạo, đồng
thời “Đồng tâm nhất chí” cầu cho Gioan Minh, và những
người đã trót dại tin theo dị giáo Khai Tâm Đạo, được
ơn nhận biết sự sai trái, cuồng tín, mê loạn và hoang
tưởng của mình, trở về với Thiên Chúa, Người Cha xót
thương, nhân hậu, từ ái vô biên. Muốn thế, chúng ta hãy
tha thiết cầu cho họ được thoát khỏi bến mê là muốn
biến tôn giáo, và sự giữ đạo “Nên nguồn lợi (1Tm.6:5b)”
cho họ.
Do đâu mà chúng ta nhận ra sự nguy hiểm này? Dựa vào
lời thánh Phaolô: “Nếu có ai dậy một giáo lý khác,
không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời của Chúa
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý
phù hợp với đạo thánh, thì người ấy lên mặt kiêu căng,
không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và
thích cãi chữ (1Tm.6:3-4).” Mục đích của “Giải mã”, vì
thế là “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận
tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm
đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng kiên nhẫn và chủ tâm dậy
đỗ (2Tm.4: 2).” Và theo lời khuyên mà thánh Phaolô
cương quyết dậy chúng ta là: “Cần phải khóa miệng họ
lại. Hạng người đó làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên
xuống dưới; vì lợi lộc thấp hèn, họ dậy những điều
không được phép (Tit.1: 11).”
Những gì tôi vừa trích dẫn, giáo chủ Gioan Minh đang
hành động thật đúng , đang dùng thủ thuật kiềm chế các
tín đồ, và đang dẫn độ nhiều người vào mê lộ hoang
tưởng. Họ đang bỏ Đấng họ đã tin yêu, hờ hững với
225
niềm tin họ đã có là “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một
Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Đó là
một con người, Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tự hiến làm
giá chuộc mọi người (1Tm.2:5-6).” Để tin theo một
hoang lộ, đầy mệ tín, dị hợm và hoang tưởng là sản
phẩm phiến diện, méo mó và sai lầm của một phàm
nhân. Lúc này họ không biết rõ là họ sẽ đi về đâu, gặp
ai và được cái gì sau cuộc đời ô trọc, trầy trụa, thử thách
và lắm đau thương này! Bởi họ đã tin vào các đấng
ngẫu tượng, ác thần và âm hồn, và không còn tin là:
“Ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có nguồn ơn cứu độ
(Cv.4:12).”
Tôi hy vọng là sau khi đọc xong cuốn sách nhỏ bé này,
các vị hữu trách nên có hành động qủa cảm và dứt khoát
với dị giáo Khai Tâm Đạo như cha xứ Giuse Trần Trung
Nghĩa, Giáo xứ Thánh Vinh Sơn, Chí Hòa, và cha phó
Giuse Phạm Công Trường, phó xứ Bắc Hà: ngăn cấm và
phiền trách những ai đang theo dị giáo Khai Tâm Đạo.
Nếu qúi vị nào đã thu thập được những tài liệu mới và
những lời dậy phản đức tin công giáo của chúng ta, mà
tôi chưa đề cập tới trong sách này liên quan đến dị giáo
Khai Tâm Đạo, xin vui lòng công khai đưa ra ánh sáng
công luận và trình bầy cho các đấng hữu trách trong giáo
phận. Hy vọng giới hữu trách sẽ thẩm định và thẩm
tường để giáo dân không còn hồ nghi và bị lung lạc
trước giông bão do dị giáo Khai Tâm Đạo đang thao
túng giáo hội tại thành phố và các giáo phận Việt Nam!
226
Chân thành cám ơn: “Người tín hữu vô danh” cho tới
hôm nay, đã cung cấp những chi tiết quan trọng, cần
thiết và qúi báu để tôi có những dữ kiện hoàn thành cuốn
sách này. Tạ ơn Chúa vì lời hứa đầy cảm động và chân
thành với ông, tôi đã hoàn tất! Nay tôi xin trân trọng
trao về ông cuốn sách hữu dụng cho nhiều người này.
Hy vọng ông sẽ hài long với cuốn sách và sẽ sớm ấn
hành sách, vì nhiều người sau khi được khai dân trí, sẽ
thoát khỏi dây trói buộc của Satan, bùa chú, phù phép
và cầu cơ đang kiềm chế họ.
Chúng ta cùng tha thiết tạ ơn Thiên Chúa, và xin Thiên
Chúa quyền năng, thực hiện những dấu chứng huy
hoàng, để giải cứu dân Người trong cơn hoạn nạn này.
Chúng ta cũng xin Mẹ Thánh Maria ngăn chặn sự tấn
công như vũ bão đang lan rộng của tà thần trên cõi thế,
qua dụng cụ của chúng là dị giáo Khai Tâm Đạo. Đang
khi viết cuốn sách này trong 12 tuần lễ, nhờ ơn Thiên
Chúa bảo vệ và hướng dẫn, tà thần đã không hãm hại
được tôi, dù chúng đã cố gắng bằng nhiều hình thức
khác nhau cả ngày lẫn đêm!
Tạ ơn Chúa! tất cả vì: “vinh danh Chúa!” cho “Nước
Chúa trị đến!” và để “Ý Cha thể hiện” bây giờ và cho
đến muôn đời. Amen.
“Trong tin yêu (Gal.5:6)” con phục vụ và hiến dâng
(Mt.20:28).
Viết xong tại San Diego, USA
Ngày 1 tháng 1 năm 2012
227
Lm Yuse Nguyễn Bình An